VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THÙY DƯƠNG
TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH GIẢI THÍCH TRONG TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THÙY DƯƠNG
TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH GIẢI THÍCH TRONG TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành Mã số
: Ngôn ngữ học : 9229020
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VIỆT HÙNG
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Hùng Việt. Các tư liệu được sử dụng trong
luận án có xuất xứ rõ ràng. Để hoàn thành luận án này, ngoài các tài liệu tham
khảo đã liệt kê, tôi cam đoan không sao chép các công trình hoặc nghiên cứu
của người khác. Những kết quả nghiên cứu được nêu trong luận án là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hà Thùy Dương
i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi vô cùng biết ơn PGS.TS. Phạm Hùng Việt – người đã
trực tiếp dành nhiều thời gian tận tình hướng dẫn, cung cấp những thông tin
và tài liệu tham khảo quý báu giúp tôi hoàn thành Luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo Viện Từ điển học và Bách
khoa thư Việt Nam, nơi tôi đang công tác; các thầy cô giáo Khoa Ngôn ngữ
học – Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện Luận án này.
Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân cùng bạn bè
đồng nghiệp, những người luôn cổ vũ, động viên tôi hoàn thiện Luận án này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hà Thùy Dương
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ............................. 1
2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .............................. 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ....... 3
4.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 3
4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu.............................................................. 5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ......................................... 6
5.1. Đóng góp về mặt lí luận .................................................................... 6
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn ................................................................ 6
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ........................................ 6
6.1. Về mặt lí luận .................................................................................... 7
6.2. Về mặt thực tiễn ................................................................................ 7
7. Cơ cấu của luận án ......................................................................... 7
CHƯƠNG 1: .................................................................................................... 8
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .......... 8
1.1. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu ........................................ 8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới .................... 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật ở Việt Nam ................... 10 1.1.3. Tình hình nghiên cứu, biên soạn từ điển tiếng Việt ............. 16
1.2. Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt .......................................................................................... 22
1.2.1. Vấn đề định danh ......................................................................... 22
iii
1.2.2. Một số cơ sở lí thuyết về từ và ngữ .............................................. 31
1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa của từ ..................................................... 36
1.2.4. Một số vấn đề từ điển học ............................................................ 42
1.3. Khái quát về cây nông nghiệp ................................................... 48
Tiểu kết............................................................................................. 49
CHƯƠNG 2: .................................................................................................. 50
ĐẶC ĐIỂM TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT .. 50
2.1. Dẫn nhập ................................................................................... 50
2.2. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về nguồn gốc ngôn
ngữ .................................................................................................... 51
2.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về cấu tạo .......... 53
2.3.1. Cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt .... 53 2.3.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........ 60
2.4. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về đặc điểm định
danh .................................................................................................. 70
2.4.1. Những dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp70
2.4.2. Các mô hình định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........ 73 2.4.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về các bậc định danh . 80
Tiểu kết............................................................................................. 87
CHƯƠNG 3: .................................................................................................. 89
ĐỊNH NGHĨA TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TIẾNG VIỆT TRONG CÁC TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH ...................................................................... 89
3.1. Dẫn nhập ................................................................................... 89
3.2. Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt ................................................................................ 89
3.2.1. Miêu tả và phân tích định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........................................................................................................... 90
3.2.2. Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ............................................................................................................... 104
iv
3.2.3. Nhận xét về định nghĩa từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong "Từ điển tiếng Việt" .............................................................................. 107
3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển
giải thích tiếng Việt ........................................................................ 115
3.3.1. So sánh định nghĩa tên gọi cây lương thực trong các từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................................... 116
3.3.2. So sánh định nghĩa tên gọi cây ăn quả trong các từ điển giải thích tiếng Việt ..................................................................................... 123
3.3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nguyên liệu trong các từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................................... 134
3.3.4. Đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................... 142
Tiểu kết........................................................................................... 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 165
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Tên gọi
Trang
Bảng 2.1 Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
53
Bảng 2.2
Tổng hợp cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
59
Bảng 2.3 Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh
69
Bảng 2.4
Tổng hợp các đặc điểm dùng để định danh cây nông nghiệp
79
Bảng 2.5 Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
85
Bảng 3.1 Các nét nghĩa đặc trưng của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt
103
Nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng" được bổ sung vào lời định
Bảng 3.2
111
nghĩa
Bảng 3.3 Nét nghĩa "thời điểm" được bổ sung vào lời định nghĩa
114
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Việt Nam là nước thuộc vào nền văn minh nông nghiệp nên cây nông
nghiệp tự nhiên và thuần dưỡng rất phong phú và đa dạng. Tương ứng với đặc
điểm tồn tại khách quan đó, việc định danh, đặt tên cho cây nông nghiệp cũng
trở nên phong phú và đa dạng tương ứng. Ở nước ta trong số các công trình
nghiên cứu ở cấp trên và sau đại học đã có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về
thuật ngữ, về từ nghề nghiệp, còn tên gọi cây nông nghiệp là những từ, ngữ
thông thường chưa có công trình nghiên cứu tương xứng. Chưa có một công
khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống các từ ngữ là tên gọi các loại
cây nông nghiệp trong tiếng Việt về phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, đặc điểm
định danh.
1.2. Từ điển là công cụ tra cứu hữu hiệu cho người sử dụng ngôn ngữ. Trong
sự phát triển thực tiễn, từ điển học thực hành ở Việt Nam, trong đó điển hình
là từ điển giải thích ngữ văn, đã phát triển mạnh mẽ. Số lượng từ điển tiếng
Việt tăng vọt vào thời gian mấy năm trở lại đây. Đến nay, chưa có những nghiên
cứu sâu sắc và có giá trị ứng dụng về các mô hình định nghĩa, cách giải thích ý
nghĩa của các kiểu loại mục từ trong các từ điển giải thích tiếng Việt. Việc tìm
hiểu định nghĩa các mục từ là tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển giải
thích sẽ bước đầu góp phần nâng cao chất lượng định nghĩa của từ điển.
1.3. Từ hai lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt và cách giải thích trong từ điển tiếng Việt cho luận án của mình.
Luận án của chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu những đặc điểm về cấu
tạo, định danh và ngữ nghĩa của các từ ngữ là tên gọi các cây nông nghiệp trong
tiếng Việt. Trên cơ sở đó tìm hiểu định nghĩa các từ ngữ này trong từ điển giải
thích và đề xuất mô hình ngữ nghĩa để định nghĩa chính xác và thống nhất các
mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
1
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng rõ các đặc điểm về cấu tạo, về định danh các từ ngữ là tên gọi các
loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt;
- Phân tích, nhận xét định nghĩa các mục từ tên gọi các loại cây nông nghiệp
trong từ điển giải thích tiếng Việt để xác định mô hình cấu trúc nghĩa tên gọi cây
nông nghiệp;
- Đề xuất bổ sung các thông tin cần thiết vào định nghĩa và đưa ra một mô
hình định nghĩa phù hợp cho các mục từ là tên gọi cây nông nghiệp trong từ điển
giải thích tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
a. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về tên gọi về
thực vật nói chung, cây nông nghiệp nói riêng. Từ đó xác định được các nội
dung nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
b. Xác lập được một khung lí thuyết liên quan đến đối tượng nghiên cứu, nội
dung nghiên cứu của luận án. Khung lí thuyết này gồm các vấn đề: lí thuyết về định
danh ngôn ngữ, lí thuyết về từ, cấu tạo từ, cụm từ; lí thuyết về nghĩa từ; lí thuyết về
từ điển học.
c. Khảo sát, thống kê, phân loại từ ngữ là tên gọi các loại cây nông nghiệp
trong tiếng Việt từ các nguồn ngữ liệu khác nhau; tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của
chúng; xác định các đặc trưng được sử dụng để gọi tên (định danh) các loại cây
nông nghiệp, miêu tả cụ thể các phương thức định danh, mô hình định danh các
loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
d. Khảo sát nội dung ngữ nghĩa tên gọi các loại cây nông nghiệp qua các định
nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), xác định các nét nghĩa
được sử dụng để định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp và mô hình cấu trúc ngữ
nghĩa tổng quát của các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp.
e. So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong 8 cuốn từ
điển giải thích tiếng Việt. Từ đó nêu nhận xét về cách định nghĩa, bổ sung các
2
thông tin cần thiết vào định nghĩa về cây nông nghiệp và đề xuất mô hình định
nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt và định nghĩa cây nông nghiệp trong các từ điển giải thích trên cơ sở
2609 các từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt được thu thập từ các
nguồn ngữ liệu đáng tin cậy khác nhau và các mục từ tên gọi cây nông nghiệp
trong các từ điển tiếng Việt. Đó là những từ thường dùng gọi tên các loại cây
được con người trồng, chăm sóc và thu hoạch phục vụ các nhu cầu khác nhau
của con người. Một số tên gọi cây nông nghiệp đã được định nghĩa trong từ điển
tiếng Việt cho trình độ phổ thông, đại học, phân biệt với nghĩa thuật ngữ và phân
biệt với từ nghề nghiệp về phạm vi sử dụng. Như vậy, những loại cây hoang dã
không phải là đối tượng nghiên cứu của luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án gồm hai phương diện sau đây:
- Đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh của tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt.
- Ngữ nghĩa của các từ tên gọi cây nông nghiệp được thể hiện trong định
nghĩa các mục từ trong Từ điển tiếng Việt.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án này sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu của ngôn
ngữ học sau đây:
4.1.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được dùng để miêu tả đặc điểm cấu tạo tên gọi các loại
cây nông nghiệp, các phương thức định danh trong tên gọi các loại cây nông
3
nghiệp trong tiếng Việt. Từ đó nêu lên những nhận xét về những đặc trưng về
cấu tạo và định danh của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
4.1.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng để phân tích cấu tạo tên gọi các cây nông
nghiệp theo thành tố trực tiếp nhằm xác định các yếu tố cấu tạo tên gọi các loại
cây nông nghiệp. Từ đó, tìm ra được các nguyên tắc cấu tạo tên gọi cây nông
nghiệp tiếng Việt, các mô hình cấu tạo của chúng.
4.1.3. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Phương pháp này được áp dụng để phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ là tên
các loại cây nông nghiệp được định nghĩa bằng cách dùng từ bao trong từ điển
tiếng Việt thành các nét nghĩa, từ đó xác lập các đặc trưng định danh làm cơ sở
xây dựng các mô hình định danh tên cây nông nghiệp, đồng thời xác định các
đặc trưng ngữ nghĩa (được thể hiện bằng các nét nghĩa trong lời định nghĩa)
được sử dụng để định nghĩa cây nông nghiệp tiếng Việt.
4.1.4. Phương pháp lịch sử so sánh
Luận án sử dụng phương pháp lich sử so sánh để so sánh một số định nghĩa
cây nông nghiệp trong 7 quyển từ điển tiếng Việt xuất bản trong khoảng thời
gian 80 năm (Việt Nam tự điển (Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931 đến Từ
điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, tái bản năm
2012) để phân tích trúc ngữ nghĩa của mục từ tên gọi cây nông nghiệp.Từ đó xác
định các đặc trưng ngữ nghĩa (được thể hiện bằng các nét nghĩa trong lời định
nghĩa) được sử dụng để định nghĩa các loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
4.1.5. Thủ pháp thống kê, phân loại
Thủ pháp thống kê được sử dụng để xác định số lượng từ ngữ là tên gọi các
loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt, tỉ lệ phần trăm của các phương thức cấu
tạo, các mô hình định danh tên cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Các kết quả
thống kê sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức của bảng biểu giúp hình dung rõ
4
hơn các đặc điểm cấu tạo, phương thức định danh trong tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt.
4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu
Ngữ liệu nghiên cứu của luận án là các từ ngữ gọi tên các cây nông nghiệp
trong tiếng Việt, tức là những loài cây có ích cho đời sống, được con người gieo
trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
- Các mục từ là tên gọi các loại cây nông nghiệp xuất hiện trong các cuốn từ
điển: Việt Nam tự điển (Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931) [46], Tự điển
Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập biên soạn, Sài Gòn, 1951) [93], Việt Nam tân
từ điển (Thanh Nghị biên soạn, Sài Gòn, 1952) [75], Tự điển Việt Nam (Lê Văn
Đức biên soạn, Sài Gòn, 1970) [32], Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Hà
Nội, 1977) [92], Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, Hà Nội, 1999)
[136], Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nguyễn Lân biên soạn, Tp. Hồ Chí Minh,
2000) [57], Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà
Nội, 2012) [125].
- Các Thông tư Ban hành Danh mục giống cây trồng được phép sản xuất kinh
doanh ở Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Tổng hợp danh sách các giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh
tại Việt Nam đến 20/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Tổng hợp danh sách các giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh
tại Việt Nam đến 28/7/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Danh mục bổ sung giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt
Nam (Ban hành kèm theo Thông tư số: 01/2019/TT-BNNPTNT ngày 18 tháng 01
năm 2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
- Danh sách giống lúa tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số
80/2005/QĐ - BNN ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
5
- Danh sách giống khoai tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số
80/2005/QĐ - BNN ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
Thực tế khảo sát các nguồn ngữ liệu, chúng tôi chỉ có ngữ liệu về một số loại
cây nông nghiệp là: lúa, ngô, khoai lang, sắn, đậu, lạc, vừng,...; cây ăn quả: cam,
bưởi, nhãn, vải, chuối, xoài, thanh long, mận, táo, dứa, dừa, nho, ổi,...; cây trồng
phục vụ công nghiệp, lâm nghiệp: cà phê, cao su, chè, mía, bông, đay, thuốc lá,
sơn, sở, trẩu, hồ tiêu, ca cao, hồi,... Số lượng tên cây thuốc rất lớn và cũng đã có
những công trình nghiên cứu chúng. Còn các cây thực phẩm như các loại rau,
cây gia vị không có tư liệu đầy đủ. Vì vậy, luận án này chỉ khảo sát tên gọi cây
nông nghiệp chỉ giới hạn là tên gọi cây lương thực, cây trồng phục vụ công
nghiệp, lâm nghiệp và cây ăn quả. Từ các nguồn ngữ liệu khác nhau, chúng tôi
đã thu thập được 2609 tên gọi cây nông nghiệp được biểu thị bằng từ và cụm từ
của tiếng Việt.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Đóng góp về mặt lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm vào việc vận dụng lí thuyết ngôn
ngữ học (định danh ngôn ngữ, ngữ nghĩa học, từ điển học thực hành) để nghiên
cứu, xử lí từ ngữ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, chỉ rõ tính khoa học,
hiệu quả của các lí thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu thực tế nguồn ngữ liệu
tiếng Việt.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong việc làm cơ sở
đặt tên bằng tiếng Việt cho các loại cây trồng mới ở Việt Nam, cũng như vào
việc định nghĩa các mục từ này trong từ điển được chính xác, khoa học hơn.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Có thể nói, đây là luận án đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện những đặc điểm cơ bản về phương diện cấu tạo, định danh và cấu
6
trúc nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong định nghĩa của từ điển giải thích tiếng
Việt. Vì vậy, luận án sẽ có ý nghĩa như sau:
6.1. Về mặt lí luận
- Luận án sẽ làm rõ các đặc điểm được sử dụng để gọi tên (định danh) các
loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Qua đó thấy được đặc điểm trong tư duy
của người Việt trong quá trình nhận thức thế giới khách quan thường chú ý tri
giác như thế nào, lựa chọn những đặc trưng nào của sự vật, đối tượng để làm cơ
sở đặt tên (định danh) cho chúng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là minh chứng về mối quan hệ giữa nghiên
cứu lí thuyết với nghiên cứu ứng dụng trong địa hạt ngôn ngữ học, sẽ góp phần
vào việc nâng cao chất lượng, độ chính xác của các định nghĩa về tên gọi các
loại cây nông nghiệp nói riêng trong các loại từ điển tiếng Việt.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ:
- Cho phép xác định, đề xuất được các biện pháp, cách thức gọi tên (định
danh) các loại sự vật, hiện tượng mới xuất hiện dựa vào các đặc điểm riêng, nổi
bật (các đặc điểm định danh) của chúng.
- Có thể sử dụng cho việc giảng dạy từ vựng tiếng Việt và định nghĩa hệ
thống tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi các loại cây nông nghiệp nói
riêng trong tiếng Việt trong từ điển giải thích tiếng Việt.
- Sử dụng thống nhất mô hình định nghĩa mà luận án đã đề xuất vào việc định
nghĩa các mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 3
chương được bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
7
Chương 3: Định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt trong các từ điển
giải thích
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu
Vì tên gọi cây nông nghiệp nói riêng thường được coi như một phần của tên
gọi thực vật nói chung, nên để thấy được tình hình nghiên cứu về tên gọi cây
nông nghiệp, luận án trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu tên gọi thực
vật trên thế giới và tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật và tên gọi cây nông
nghiệp ở Việt Nam.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới
Trong ngôn ngữ học hiện đại, việc nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và định danh
tên gọi thực vật trong các ngôn ngữ trên thế giới còn ít được nghiên cứu. Với sự
hiểu biết hạn chế của mình, chúng tôi trình bày khái quát một số công trình nghiên
cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài luận án.
Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi dân tộc các loài thực vật (dựa trên ngữ
liệu tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Cadắc) [152] của G.I. Uiukbôva bảo vệ năm
1983 tại Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô thuộc loại
công trình nghiên cứu đầu tiên. Lựa chọn 523 tên gọi thực vật tiếng Anh, 290 tên
gọi thực vật tiếng Nga và 302 tên gọi thực vật tiếng Cadắc làm đối tượng nghiên
cứu, luận án đã miêu tả tên gọi thực vật trong ba ngôn ngữ này, xác định được 10
thuộc tính được sử dụng (tác giả gọi là "bộ lí do") để định danh thực vật trong các
ngôn ngữ Anh, Nga và Cadắc.
Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Trường nghĩa "thực vật" trong tiếng Nga [151]
của Said Aliafar bảo vệ năm 1999 tại Trường Đại học Tổng hợp Xanh Pêtecbua đã
dựa vào 800 từ là tên gọi thực vật trong tiếng Nga được định nghĩa trong Từ điển
8
tiếng Nga của S.I. Ojegov và N. Ju. Svedova để nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa
của các từ tên gọi thực vật trong tiếng Nga và cách giải thích nghĩa từ vựng của
chúng trong từ điển. Luận án cũng tìm hiểu đặc điểm định danh tên gọi các loại
cây và hoa trong tiếng Nga.
Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Các phương thức định danh thực vật trong tiếng
Nanai [147] của L.J. Zacsor bảo vệ năm 2005 tại Xanh Pêtecbua đã dựa vào 1171
tên gọi thực vật trong tiếng Nanai để miêu tả nguồn gốc hình thành và đặc điểm
phát triển lịch sử tên gọi thực vật trong tiếng Nanai. Luận án cũng đã nghiên cứu
phương thức phụ tố trong định danh thực vật, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo tên gọi
thực vật và đặc điểm định danh thực vật bằng các phương tiện hình thái, từ vựng -
ngữ nghĩa và cú pháp trong trong ngôn ngữ Nanai.
Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi các loài thực vật ngoại lai trong tiếng
Anh và tiếng Nga: Các bình diện cấu trúc - cấu tạo từ và mô típ định danh [146]
của A.V. Berestneva, bảo vệ năm 2008 tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia
Gomen (Bêlarus). Dựa vào 2.000 tên gọi tiếng Nga và hơn 2.500 tên gọi tiếng
Anh các loài thực vật ngoại lai, luận án đã phân tích cấu trúc - cấu tạo từ tên gọi
các loài thực vật ngoại lai tiếng Anh và tiếng Nga, xác định các nguyên tắc, dấu
hiệu định danh thực vật ngoại lai trong hai ngôn ngữ và xác định các loại dấu
hiệu được dùng để định danh các loài thực vật ngoại lai. Từ đó, luận án tiến hành
đối chiếu các dấu hiệu ngữ nghĩa có trong tên gọi các loài thực vật ngoại lai
trong hai ngôn ngữ để làm sáng rõ những nguyên tắc định danh mang tính phổ
quát và dân tộc.
Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi các loài dược thảo trong các ngôn ngữ có
cấu trúc khác nhau (dựa trên ngữ liệu tiếng Nga, tiếng Maria, tiếng Đức và tiếng
Latinh [150] của O.G. Rubxôva bảo vệ năm 2015 tại Trường Đại học Tổng hợp
Quốc gia Maria. Đối tượng nghiên cứu là tên gọi các loài dược thảo trong tiếng
Nga, tiếng Maria, tiếng Đức và tiếng Latin, gồm 4.000 tên gọi các loài dược thảo,
phân tích 3003 tên gọi, trong đó có 70 tên gọi Latinh, 1953 tên dược thảo tiếng
9
Nga, 383 tên dược thảo tiếng Maria và 597 tên dược thảo tiếng Đức. Luận án đã
nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản được dùng để định danh các loài dược thảo
trong các ngôn ngữ này; xác định những đặc trưng làm cơ sở định danh và những
nguyên tắc định danh các loài dược thảo. Trên cơ sở đó, luận án đã phân loại và so
sánh tên gọi các loài dược thảo được thể hiện trong bốn ngôn ngữ này.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật ở Việt Nam
Trong vốn từ vựng tiếng Việt, tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi các
loại cây nông nghiệp nói riêng được coi là một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa. Đặc
điểm sinh học của các loài thực vật ở nước ta đã được nghiên cứu chuyên sâu từ
phương diện thực vật học, sinh học, nông học. Còn về phương diện ngôn ngữ
học, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tên gọi thực vật nói chung, tên gọi
cây nông nghiệp nói riêng. Vân đài loại ngữ [29] của Lê Quý Đôn và Lịch triều
hiến chương loại chí [19] của Phan Huy Chú có thể xem là những sách có tính
bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam đề cập đến nghề nông và sử dụng
nước. Gần đây một số chuyên khảo về nghề trồng lúa, một số quyển từ điển bách
khoa chuyên ngành về nông nghiệp, về cây thuốc Việt Nam đã được biên soạn:
Từ điển Bách khoa nông nghiệp [115], Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam
[23], Từ điển cây thuốc Việt Nam (bộ mới), 2 tập [17], Văn minh lúa nước và
nghề trồng lúa Việt Nam [27].
Trong Việt ngữ học hiện đại, với tư cách là một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa,
tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi cây nông nghiệp nói riêng trong tiếng
Việt được nghiên cứu theo ba hướng: nghiên cứu từ cách tiếp cận từ vựng học
truyền thống; nghiên cứu theo hướng phong cách học và nghiên cứu theo hướng
của ngôn ngữ học tri nhận.
a. Nghiên cứu nhóm từ tên gọi thực vật theo truyền thống
Theo hướng nghiên cứu này có thể nêu ra một số bài viết, luận văn sau:
Luận văn tốt nghiệp đại học của Cao Thị Thu Đặc điểm định danh và ngữ
nghĩa trường từ vựng tên gọi thực vật trong tiếng Việt [106] bảo vệ năm 1995 tại
10
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dựa vào lời giải thích trong định nghĩa từ
điển giải thích tiếng Việt của 657 từ ngữ chỉ thực vật, tác giả luận văn sử dụng
phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân giải lời giải thích thành các nghĩa
vị khu biệt phản ánh những đặc trưng cơ bản của thực vật được biểu thị. Tác giả
đã xác định được 14 nghĩa vị khu biệt xuất hiện trong lời giải thích tên gọi thực
vật: tên chỉ loại; đặc điểm hình thức/cấu tạo; đặc điểm kích cỡ; vai trò trong đời
sống; đặc điểm màu sắc; đặc điểm vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học;
vai trò trong y học; môi trường sống; đặc điểm vị; đặc điểm mùi; đặc điểm
thuần dưỡng; đặc điểm thời gian; đặc điểm tập tính sinh sống. Trên cơ sở đó tác
giả tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa và những ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ
chỉ thực vật trong tiếng Việt.
Luận văn thạc sĩ của Trần Hạnh Nguyên Trường trường từ vựng - ngữ nghĩa
thực vật trong kho tàng ca dao người Việt [76] bảo vệ năm 2014 tại Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, đặc trưng ngữ nghĩa và giá trị
biểu trưng của tên các loài thực vật cùng những bộ phận cơ bản của chúng (hoa,
quả) xuất hiện trong kho tàng ca dao Việt Nam. Khảo sát 11825 lời ca trong Kho
tàng ca dao người Việt, tác giả luận văn xác định được có 2875 lời ca về trường
nghĩa thực vật, chiếm 24% và thống kê được 325 loại thực vật chỉ cây (tùng, cúc,
trúc, mai, tre, lúa, cây đa, rau cải, rau muống, rau răm,…). Có 2226 từ nói về
cây và rau (chiếm 49%): cây đào, cây liễu, cây trúc, cây tre, cây đa, cây lúa, cây
bèo, cỏ, rau muống, rau cải, rau răm, rau má, rau húng, gừng,...Dựa vào kết quả
thống kê, phân loại nêu trên tác giả tiến hành khảo sát, phân tích đặc điểm ngữ
nghĩa, sự chuyển trường của các từ ngữ chỉ tên thực vật trong ca dao, tìm hiểu ý
nghĩa biểu trưng của các từ thuộc trường nghĩa thực vật trong kho tàng ca dao
người Việt.
Luận án Từ ngữ chỉ động thực vật trong tiếng Việt và tiếng Anh [118] của
Nguyễn Thanh Tùng đã so sánh từ chỉ thực vật tiếng Việt và tiếng Anh trong từ
điển giải thích, trong thành ngữ và tục ngữ dựa trên cơ sở phân loại từ chỉ thực
11
vật dùng theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra
những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của hai dân tộc Việt và Anh với hai loại
hình ngôn ngữ và văn hóa khác biệt nhau.
Hồ Văn Tuyên (2005) trong Đặc điểm định danh từ vựng trong phương ngữ
Nam Bộ [119], tác giả có đề cập đến cách định danh thực vật ở Nam Bộ xét về
mặt cấu tạo, phương thức biểu thị và ngữ nghĩa. Qua cách định danh này, tác giả
cho ta thấy rõ nét văn hóa rất đặc trưng trong tư duy của người Việt nói chung và
người Nam Bộ nói riêng.
Luận văn thạc sĩ của Lê Hồng Nhiên Từ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối
chiếu giữa các phương ngữ) [77], bảo vệ năm 2012 tại Trường Đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh đã thu thập được 391 từ chỉ thực vật có tên gọi khác nhau
trong các phương ngữ của tiếng Việt qua khảo sát các từ điển thường dùng và
điền dã. Tác giả công trình này đã phân loại và miêu tả đặc điểm cấu tạo từ (từ
đơn, từ ghép, từ láy), các mô hình cấu tạo từ ghép là các loài thực vật có tên gọi
khác nhau trong các phương ngữ tiếng Việt. Luận văn đã đối chiếu từ chỉ thực
vật giữa các phương ngữ xét về mặt cấu tạo, ngữ âm - ngữ nghĩa để làm rõ cách
tri nhận, tìm hiểu các yếu tố văn hóa, địa lí có ảnh hưởng đến quy luật định danh
tên gọi thực vật trong từng phương ngữ nói riêng và trong tiếng Việt nói chung.
Thông qua đối chiếu nhóm từ chỉ thực vật giữa các phương ngữ, luận văn đã nêu
lên những đặc trưng, những nét khác biệt chủ yếu về mặt cấu tạo, ngữ âm - ngữ
nghĩa giữa các phương ngữ, có sự so sánh với ngôn ngữ toàn dân.
Luận án của Trần Thị Hường Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có
liên hệ tiếng Latinh) [50] bảo vệ năm 2020 tại Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án nghiên cứu định danh tên gọi
cây thuốc Việt Nam nhằm xác định nguồn gốc, đặc điểm cấu tạo và cơ sở đặt tên
cho cây thuốc, đồng thời khám phá đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt đối
với việc định danh cây thuốc, có sự liên hệ với tên gọi Latinh. Khảo sát 1966 tên
cây thuốc, luận án xác định được 1538 tên gọi thuần Việt, 414 tên gọi vay mượn
12
tiếng Hán và 14 tên gọi vay mượn các ngôn ngữ Ấn - Âu. Luận án đã xác định
được tên gọi cây thuốc Việt Nam có cấu tạo là từ gồm 678 đơn vị (chiếm
34,49%) và 1288 đơn vị (chiếm 65,51%) có cấu tạo là cụm từ (ngữ), miêu tả tên
gọi cây thuốc có cấu tạo là cụm từ theo các mô hình cấu tạo gồm từ 2 đến 5
thành tố. Những thành tố thu được đều là những yếu tố có nghĩa từ vựng biểu thị
một khái niệm hoặc đặc trưng của khái niệm có liên quan đến tên cây thuốc Việt
Nam. Tên gọi cây thuốc bằng tiếng Latinh gồm tên chi và tên loài cũng được
miêu tả cụ thể. Về phương diện định danh tên gọi cây thuốc Việt Nam, luận án
đã xác định được 151 tên gọi không có lí do (chiếm 7,68%) vì không giải thích
nổi vì sao gọi thế. Những tên gọi này thuộc loại định danh đơn (định danh cơ sở)
chủ yếu là những tên gọi có cấu tạo là từ đơn thuần Việt và từ vay mượn ngôn
ngữ Ấn - Âu. Còn lại1186 tên gọi cây thuốc là có lí do thuộc loại định danh phức
(chiếm 60,32%). Những tên gọi này có đặc trưng: dùng thành tố chỉ loài kết hợp
với các dấu hiệu chỉ đặc điểm để định danh. Với cây thuốc có tên khoa học tiếng
Latinh, các nhà khoa học đã dựa vào một số cơ sở sau để định danh cây thuốc: địa
danh nơi loài phát triển, hoặc nơi đầu tiên phát hiện; tên người đã khám phá, mô
tả loài đó; tên thể hiện tính chất đặc thù nào đó của loài (màu sắc, hình dạng, mùi
thơm, vùng sinh thái,…).
b. Nghiên cứu tên gọi thực vật theo hướng phong cách học
Theo hướng này, tên gọi thực vật và cây nông nghiệp trong tiếng Việt là ngữ
liệu để tìm hiểu các tín hiệu thẩm mĩ và nghĩa biểu trưng. Chỉ có một vài luận án,
luận văn, bài viết khảo sát bước đầu về trường tên gọi thực vật, chủ yếu tập trung
tìm hiểu tên loài thực vật và đặc điểm biểu trưng các loài thực vật trong thơ ca,
ca dao.
Luận án Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam [1] của
Phạm Thị Kim Anh đã tìm hiểu các từ thuộc trường nghĩa "cây" có chức năng
kiến tạo nghĩa thẩm mĩ được dùng để biểu thị các hình tượng nghệ thuật thơ. Luận
án đã miêu tả các đơn vị ngôn ngữ thuộc trường nghĩa "cây" trong thơ ca (cây tre,
13
trúc, thông, tùng, liễu, cỏ, lúa, lau, bèo, rêu). Từ đó, tìm hiểu sự biến đổi và
chuyển hóa cả về hình thức biểu đạt lẫn nội dung ý nghĩa của các từ chỉ các cây
trong thơ ca Việt Nam để chúng trở thành một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ.
Một số tác giả nghiên cứu nghĩa biểu trưng của hoa, một bộ phận của cây trong
kho tàng ca dao của người Việt như: Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa
trong ca dao của tác giả Hà Thị Quế Hương đã chỉ ra biểu trưng của các từ chỉ hoa
trong ca dao [49]. Bài viết Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao của tác
giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đề cập tới biểu tượng hoa chỉ vẻ đẹp của người
thiếu nữ, biểu tượng về tình yêu,...[28]. Trần Văn Sáng đã xác định những giá
trị biểu trưng của hoa đào qua bài viết Hoa đào, từ biểu tượng văn hóa đến
biểu trưng văn học. Theo tác giả, "Nếu trong văn chương bác học, các nhà
thơ thường liên tưởng tới cả cây đào, thân đào, hoa đào với những biểu
trưng khác nhau thì trong ca dao, các thi sĩ dân gian lại chủ yếu sử dụng thi
liệu hoa đào để nói về người con gái, tình yêu đôi lứa và mối nhân duyên”
[89, tr. 44].
c. Nghiên cứu tên gọi thực vật theo hướng ngôn ngữ học tri nhận
Ở Việt Nam trong vài thập niên gần đây, những vấn đề về ngôn ngữ học tri
nhận nói chung và lí thuyết ẩn dụ ý niệm nói riêng đã thu hút sự chú ý của giới
nghiên cứu Việt ngữ học. Trong công trình Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết
đại cương đến thực tiễn tiếng Việt [100], Lý Toàn Thắng đi sâu vào việc nghiên
cứu ngữ nghĩa của từ “cây” và sự phân loại dân dã thực vật ở người Việt. Ông
xác định từ "cây" được sử dụng với 11 ý nghĩa khác nhau. Theo ông, cách dùng
của từ "cây" trong các ngữ cảnh khác nhau và sự phân loại dân dã thực vật của
người Việt, về cơ bản, không phải là nguyên lí “phân loại sinh học” mà quan
trọng là đặc tính về tri giác và về văn hóa, trong đó chủ yếu là nguyên lí “lấy con
người làm trung tâm” (dĩ nhân vi trung).
Luận án Ẩn dụ ý niệm của phạm trù thực vật trong tiếng Việt và tiếng Anh
của Trần Thị Phương Lý [68] đã nghiên cứu các ẩn dụ ý niệm trên nguồn ngữ
14
liệu cụ thể liên quan đến ý niệm thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng
Anh) nhằm tìm ra chứng cứ củng cố cho quan điểm tri nhận về ẩn dụ, giúp làm
phong phú thêm những nghiên cứu về ẩn dụ tiếng Việt. Dựa trên ngữ liệu chỉ
thực vật trong phạm vi nguồn cứ liệu chính là Từ điển tiếng Việt, luận án đã khảo
sát ẩn dụ ý niệm, tìm hiểu phương thức thiết lập và các thành tố của mô hình
chuyển di ý niệm (từ ý niệm thực vật để nhận thức các phạm trù ý niệm khác)
trên ngữ liệu biểu thức ngôn ngữ liên quan đến thực vật trong tiếng Việt (có liên
hệ với tiếng Anh), cũng như tìm hiểu các nền tảng kinh nghiệm phổ quát cho
phép thực hiện sự nhận thức thông qua con đường chuyển di này, từ đó, phân
loại và lí giải chức năng các loại ẩn dụ ý niệm THỰC VẬT.
Cũng từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, trong bài viết Chiếu xạ miền ý niệm
thực vật và con người trong ca từ Trịnh Công Sơn [43], Nguyễn Thị Bích Hạnh đã
nghiên cứu mô hình ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT trong ca từ
Trịnh Công Sơn, lí giải quy luật chiếu xạ từ ý niệm thực vật (miền NGUỒN) lên ý
niệm con người (miền ĐÍCH), tìm hiểu cách tri nhận của nhạc sĩ về con người và
các chu kì vòng đời người dựa trên ý niệm chu kì sinh trưởng của thực vật hiện
thân trong ngôn ngữ, từ đó giải mã con người văn hóa, vô thức cá nhân và thế giới
tinh thần của nhạc sĩ. Trong một bài viết khác với nhan đề Ẩn dụ ý niệm "CON
NGƯỜI LÀ CÂY" trong thành ngữ, tục nhữ tiếng Việt [44], Nguyễn Thị Bích
Hạnh đã tìm hiểu cách tri nhận của người Việt về con người và các chu kì vòng
đời người dựa trên ý niệm về chu kì sinh trưởng của thực vật được thể hiện trong
ngôn ngữ. Căn cứ vào những liên tưởng kinh nghiệm thể hiện trong tục ngữ tiếng
Việt và những miền tri thức được chiếu từ miền nguồn sang miền đích thể hiện
qua các thành ngữ tiếng Việt, tác giả đã chỉ ra cơ chế sao phỏng giữa hai miền
không gian trong tư duy ngôn ngữ của người Việt.
Tóm lại, các tác giả đi trước đề cập đến các từ chỉ thực vật như là một nhóm
từ vựng - ngữ nghĩa và nghiên cứu chúng từ nhiều góc độ: tìm hiểu đặc trưng từ
vựng - ngữ nghĩa (đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và định danh), nghiên
15
cứu các ẩn dụ ý niệm trên nguồn ngữ liệu liên quan đến ý niệm thực vật trong
tiếng Việt, nghiên cứu nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ thực vật và nghiên
cứu đối chiếu các từ ngữ chỉ thực vật trong các ngôn ngữ khác nhau. Từ đó, có
thể khẳng định rằng chưa có công trình nào nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp
tiếng Việt về phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, định danh và định nghĩa chúng
trong từ điển giải thích.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu, biên soạn từ điển tiếng Việt
Về từ điển, có thể xem xét từ hai góc độ: nghiên cứu về từ điển - từ điển
học lí thuyết và biên soạn từ điển - từ điển học thực hành. Từ góc độ từ điển
học lí thuyết có thể xem xét sự phát triển của từ điển học qua những công
trình lí luận; từ góc độ từ điển học thực hành có thể xem xét sự phát triển
của ngành từ điển học qua những cuốn từ điển đã được biên soạn. Trong
thực tế hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau, vì một cuốn từ điển được biên
soạn thường mang đậm dấu ấn của tác giả, cả về tri thức bách khoa lẫn tri
thức ngôn ngữ học. Theo thống kê của Vũ Quang Hào, "Chỉ tính riêng
những từ điển về tiếng Việt, liên quan đến tiếng Việt, được biên soạn bằng
tiếng Việt và được dịch ra tiếng Việt được xuất bản ở Việt Nam và nước
ngoài, từ 1651 đến 1998, đã là gần 1.000 đầu từ điển" [45, tr.21]. Đó là một
con số lớn. Trong khuôn khổ đề tài, luận án chỉ trình bày khái quát một số
vấn đề lí thuyết từ đó liên hệ với tình hình biên soạn thực tế và giới thiệu
một số quyển từ điển giải thích tiếng Việt mà luận án có khảo sát định nghĩa
một số mục từ cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết từ điển học ở Việt Nam
Về phương diện nghiên cứu lí thuyết từ điển học, cho đến những thập
niên 90 của thế kỉ XX, Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm khẳng định: "Từ
điển học Việt Nam ra đời rất muộn, thậm chí có thể nói rằng nó còn chưa
thật sự hình thành, mặc dù chúng ta cũng đã có nghiên cứu và kinh nghiệm
thực tiễn nhất định" [83,tr.9]. Hai tác giả này cũng cho rằng: "Từ những năm
16
1968 - 1969, chúng ta đã bắt đầu tìm hiểu lí luận từ điển học trong điều kiện
rất thiếu tài liệu tham khảo và tìm hiểu những bài học kinh nghiệm trong
công tác từ điển học của các nước cũng như kinh nghiệm của nước ta" [83,
tr.10]. Chu Bích Thu nhận thấy rằng ý kiến trên đây "vẫn không gây phản
ứng nào trong giới ngôn ngữ học" và khẳng định: "Quả thực, cho đến nay
cũng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về từ điển một cách toàn
diện và có hệ thống" [108,tr.12]. Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận "những ý
kiến về từ điển và từ điển học đã có từ rất lâu". Thực tế đã có hàng loạt bài
viết đã trình bày những vấn đề lí thuyết từ điển học [5, 70, 78, 116, 124];
hoặc trình bày một vài vấn đề cụ thể của từ điển học [21, 60, 80, 83, 85,
124]; hoặc thông qua việc nhận xét, giới thiệu các quyển từ điển để phát
biểu về quan điểm và phương pháp biên soạn từ điển [7, 62]. Các bài viết
này "đã đặt nền móng cho một cách làm từ điển giải thích hiện đại, chấm dứt
giai đoạn làm từ điển chỉ bằng kinh nghiệm và sự cần mẫn" [108,tr.14]. Loạt
bài này đã đặt cơ sở cho việc biên soạn cuốn Từ điển tiếng Việt phổ thông
(tập 1) 1975 và sau đó là cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng phê chủ biên) năm
1988, đồng thời cũng hình thành một hệ thống những quan niệm đầu tiên
cho một nền từ điển học lí thuyết ở Việt Nam" [108,tr.12]. Đến năm 1997,
công trình Một số vấn đề từ điển học ra đời mà các tác giả của nó chính là
những người tham gia biên soạn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên,
xuất bản năm 1988 và đã tái bản nhiều lần) đã bắt tay tổng kết một số vấn đề
lí thuyết về từ điển. Ở đó, "những vấn đề muôn thuở của từ điển" như: cấu
trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô của từ điển giải thích; vấn đề thu thập và giải
thích thuật ngữ trong từ điển; hệ thống các kiểu chú giải trong từ điển; cách
chú từ loại cho mục từ; thiết kế mẫu định nghĩa các mục từ ngữ văn
chương,... đã được các tác giả "nhìn nhận dưới ánh sáng của lí thuyết từ điển
học hiện đại và ngôn ngữ học hiện đại" [108,tr.13]. Đánh giá công trình này,
Chu Bích Thu viết: "Không thể nói những gì các tác giả của tập Một số vấn
17
đề từ điển học đã đề cập là hoàn toàn mới, nhưng có thể nói đây là sự kết
hợp khá nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành khi biên soạn cũng như
đúc kết những vấn đề có tính lí thuyết của công tác từ điển trên thế giới vào
thực tế tiếng Việt. (...) Các tác giả đã cố gắng vận dụng những vấn đề tương
đối mới của ngôn ngữ học hiện đại vào việc biên soạn từ điển giải thích. (...)
Loạt bài này đồng thời đã và đang đặt nền móng cho việc tiếp tục biên soạn
một cuốn từ điển lớn hơn và tốt hơn" [108,tr.27].
Sau 1997, đáng chú ý nhất là cuốn sách Kiểm kê từ điển học Việt Nam
của Vũ Quang Hào. Với cấu trúc gồm 4 chương, cuốn sách giới thiệu đầy đủ
một số vấn đề chung về từ điển học, giới thiệu toàn cảnh về từ điển học lí
thuyết Việt Nam (1923 - 2005), toàn cảnh về từ điển học thực hành Việt
Nam (1651 - 2005) và một số vấn đề về từ điển học nước ngoài. Trong giai
đoạn này đã có khá nhiều bài viết chuyên về từ điển học của Nguyễn Văn
Thạc [94], Chu Bích Thu [105], Hồ Hải Thụy [107], Nguyễn Ngọc Trâm
[83], Lý Toàn Thắng [99], Nguyễn Tuyết Minh [70],...
Chương trình khoa học cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản về lí luận và
phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên soạn các loại từ điển
[126] do Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam triển khai trong hai
năm 2009 và 2010. Mục tiêu của chương trình là xác định các loại hình từ
điển và bách khoa thư cơ bản; xây dựng cơ sở lí luận và phương pháp biên
soạn đối với các loại hình từ điển và bách khoa thư để trên cơ sở đó, triển
khai biên soạn các loại từ điển và bách khoa thư Việt Nam. Chương trình
gồm bảy đề tài, trong đó đề tài thứ sáu: Một số vấn đề cơ bản về cơ sở lí
luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về việc biên sọan các
loại từ điển ngữ văn do Nguyễn Thanh Nga làm chủ nhiệm đã tập trung
nghiên cứu những vấn đề lí thuyết cơ bản của từ điển học: cấu trúc vĩ mô,
cấu trúc vi mô của từ điển ngữ văn; vấn đề nghĩa của từ và áp dụng phương
pháp phân tích thành tố nghĩa vào định nghĩa các mục từ của từ điển giải
18
thích; xây dựng các mẫu định nghĩa cho từ điển giải thích; các kiểu chú
trong từ điển giải thích; vai trò của ví dụ trong cấu trúc mục từ; các thông tin
bách khoa và thông tin ngôn ngữ trong định nghĩa các mục từ; nguyên tắc
chuyển chú giữa các mục từ,...
1.1.3.2. Tình hình biên soạn từ điển giải thích ở Việt Nam
Trong sự phát triển thực tiễn, từ điển học thực hành ở Việt Nam, trong đó
điển hình là từ điển giải thích ngữ văn, theo Chu Bích Thu [109,tr.194-195],
có thể chia thành ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn trước thế kỉ XIX còn lại
chủ yếu là các tập từ vựng đối chiếu Hán - Việt và bộ Từ điển An Nam -
Lusitan - Latin xuất bản ở Rome năm 1651 (thường gọi là Từ điển Việt - Bồ
- La) của tác giả A. de Rhodes, giúp các giáo sĩ Tây Ban Nha truyền giáo là
những cuốn từ điển đối dịch tiếng Việt cổ nhất. Giai đoạn cuối thế kỉ XIX -
nửa đầu thế kỉ XX, về từ điển giải thích tiếng Việt, có cuốn Đại Nam quấc
âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của xuất bản cuối thế kỉ XIX (1895). Trong
giai đoạn này còn có ba cuốn từ điển giải thích được biên soạn có khối lượng
tương đối lớn và được coi là có giá trị. Đó là các cuốn:
- Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức (khởi thảo), xuất bản năm
1931 ở Hà Nội, tái bản 1954 ở Pháp và Sài Gòn, chủ yếu lấy tự làm đơn vị
giải thích, tổng cộng có khoảng 24.500 mục từ.
- Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị, được phát hành lần đầu tiên năm
1951, gồm hai tập dày 1.774 trang với 35.000 từ (có cả tên riêng) (nhà xuất
bản Thời thế, Sài Gòn), năm 1958 tái bản và đổi tên thành Từ điển Việt Nam
cũng ở Sài Gòn, nhà xuất bản Thời thế.
- Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo xuất
bản năm 1952 ở Sài Gòn. Đây là một bộ từ điển (mặc dù tên gọi là tự điển)
dày 728 trang khổ lớn (19 x 27cm) thu thập và giải thích khoảng 37.500 mục
từ, có kèm ví dụ ca dao, tục ngữ, những câu nói thường ngày để minh họa.
19
Giai đoạn nửa sau thế kỉ XX đánh dấu sự phát triển vượt bậc về chất
lượng từ điển và đặc biệt là về số lượng từ điển. Về từ điển giải thích có thể
nêu ra những cuốn cơ bản sau đây:
- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Văn Tân chủ biên (thường gọi
tắt là Từ điển Văn Tân), xuất bản lần đầu năm 1967 ở Hà Nội, in lại ở Hà
Nội năm 1974, có chỉnh lí và bổ sung của Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm, nhà
xuất bản Khoa học xã hội tái bản năm 1994.
- Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức (thường gọi tắt là Từ điển Lê Văn
Đức), nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, năm 1970. Tự điển gồm hai tập dày
tổng cộng 2.516 trang với gần 76.000 mục từ.
- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất
bản Khoa học xã hội in lần đầu 1988, được chỉnh lí hai lần. Lần thứ nhất
năm 1992 đã sửa chữa 2.770 định nghĩa, bổ sung 2.090 mục từ, sửa chữa,
thay thế 3.510 ví dụ. Lần thứ hai năm 2000, sửa 2.903 định nghĩa, bổ sung
1.670 mục từ hoặc nghĩa mới, bỏ 41 mục từ hoặc nghĩa cũ, thay hoặc sửa
chữa 387 ví dụ. Từ điển tiếng Việt gồm 39.924 mục từ được biên soạn trên
cơ sở gần ba triệu phiếu tư liệu của Viện Ngôn ngữ học.
- Đại từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Nguyễn Như Ý chủ biên,
nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in lần đầu năm 1998, tái bản năm 2000,
nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Đây là cuốn từ điển cỡ lớn dày
1.892 trang khổ lớn (19 x 27cm) với hơn 74.600 mục từ. Đây là cuốn từ điển
được biên soạn công phu, có số lượng từ ngữ phong phú, có chú thêm một số
từ nguyên thông thường. Từ ngữ được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, có nhiều
thí dụ minh họa; có chú ý đến những từ ngữ địa phương của cả ba miền Bắc,
Trung, Nam; cập nhật và bổ sung nhiều mục từ phù hợp với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.
Hồ Chí Minh xuất bản năm 2000. Cuốn từ điển này thu thập và giải thích
20
khoảng 54.000 từ ngữ tiếng Việt, có chú giải từ nguyên và trích dẫn nhiều văn
thơ minh họa.
- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn (Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh,
Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hà), nhà
xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học VIETLEX xuất bản năm 2008, tái
bản có bổ sung sửa chữa nhiều lần.
Các cuốn từ điển này được biên soạn khá công phu, mỗi cuốn đều mang hơi
thở của thời đại mình, đồng thời mang đậm dấu ấn của tác giả cũng như vùng
phương ngữ mà các tác giả của nó sống và hoạt động. Ví dụ, xuất bản gần như
đồng thời, Từ điển Văn Tân (1967) và Từ điển Lê Văn Đức (1970) lại khác rất xa
nhau về phạm vi thu thập các từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ. Theo số liệu
thống kê của Phòng Từ điển học, Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Lê Văn Đức thu
thập khá nhiều từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ. Nếu lấy Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) làm chuẩn để so sánh thì "Từ điển
Văn Tân hơn Từ điển tiếng Việt 9.144 đơn vị; còn Từ điển Lê Văn Đức hơn Từ
điển tiếng Việt đến 47.387 đơn vị" [109,tr.195].
Mỗi cuốn từ điển giải thích tiếng Việt nêu trên đều phản ánh trình độ khoa
học kĩ thuật của từng giai đoạn. Trong đó, "sự xuất hiện của cuốn Từ điển tiếng
Việt (gồm một tập thể 17 tác giả do Hoàng Phê chủ biên) vào cuối những năm 80
của thế kỉ XX, được nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học công nghệ năm
2005 đã đánh dấu một bước tiến mới của công việc biên soạn từ điển tiếng Việt
ngữ văn ở Việt Nam dưới ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại. (...) Đây
là kết quả vận dụng thành quả nghiên cứu của Việt ngữ vào trong biên soạn từ
điển tiếng Việt" [51,tr.1]. Công trình từ điển này là một thành tựu to lớn của
ngành ngôn ngữ học Việt Nam. Nhiều vấn đề lí thuyết chung như vấn đề chuẩn
ngôn ngữ, chuẩn chính tả, quan niệm về đơn vị từ vựng và những thao tác mô tả
chúng, những phương pháp phân tích ngữ nghĩa,... đã được áp dụng trong quyển
từ điển này. Theo Nguyễn Văn Khang, điểm nổi bật trong việc vận dụng thành
21
quả nghiên cứu của Việt ngữ học vào biên soạn cuốn từ điển này là: "1. Xây
dựng bảng từ trên cơ sở quan niệm về từ trong Việt ngữ học; 2. Giải thích nghĩa
của các đơn vị từ thu thập trong từ điển theo lí thuyết phân tích ngữ nghĩa hiện
đại; 3. Chú sắc thái dùng cho các đơn vị vị từ vựng dựa vào thành quả nghiên
cứu của phong cách học tiếng Việt; 4. Chú từ loại dựa vào kết quả nghiên cứu
của ngữ pháp tiếng Việt" [51,tr.1]. Quyển từ điển này "đã vừa tiếp thu kinh
nghiệm của từ điển học Việt Nam trước đây, vừa cố gắng xây dựng một cấu trúc
vĩ mô và cấu trúc vi mô phong phú và khoa học hơn" [109,tr.197].
Từ điển là công cụ tra cứu hữu hiệu cho người sử dụng ngôn ngữ. Vì thế,
người sử dụng cần từ điển thì từ điển sẽ được biên soạn và ấn hành. Đó chính là
mối quan hệ cung cầu của thị trường từ điển. Từ điển tiếng Việt nói chung, từ
điển giải thích tiếng Việt nói riêng, cũng nằm trong quy luật đó. Số lượng từ điển
tiếng Việt tăng vọt vào thời gian mấy năm trở lại đây. Có thể nói, từ điển tiếng
Việt đang trong thời kì "trăm hoa đua nở" theo cả nghĩa tích cực lẫn tiêu cực. Sự
xuất hiện nhiều cuốn từ điển tiếng Việt phản ánh sự phát triển và vị thế của tiếng
Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia và theo đó là nhu cầu của người sử dụng
tiếng Việt ở trong nước và trên thế giới đang tăng mạnh. Tuy nhiên, sự xuất hiện
nhiều cuốn từ điển tiếng Việt lại gây không ít khó khăn cho người sử dụng vì
chất lượng biên soạn từ điển quá chênh lệch hiện nay. Với việc xuất hiện không
ít cuốn từ điển tiếng Việt "biên soạn theo kinh nghiệm chủ nghĩa và công nghệ
tin học như hiện nay chỉ thuần túy chạy theo "cung" không chỉ làm ảnh hưởng
không tốt đến người sử dụng mà còn phương hại đến sự chuẩn hóa tiếng Việt, có
nguy cơ kéo lùi việc ứng dụng lí luận ngôn ngữ học, lí luận từ điển học vào việc
biên soạn từ điển tiếng Việt" [52,tr.84].
1.2. Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt
1.2.1. Vấn đề định danh
1.2.1.1. Tên gọi
22
Hiểu một cách đơn giản thì tên gọi là "từ hoặc nhóm từ dùng để chỉ một cá
nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại" [125,tr.1160].
K. Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lê nin khi bàn về mối quan hệ giữa khách thể và tên
gọi đã cho rằng: "Tên gọi là một cái ngẫu nhiên, chứ không biểu hiện được chính
ngay bản chất của sự vật" [69,tr.28]. Các nhà kinh điển cũng cho rằng: "Tri giác
cảm tính cho ta sự vật, tri giác lí tính cho ta tên gọi. (...) Nhưng tên gọi là cái gì?
Một phù hiệu dùng để phân biệt, một dấu hiệu đập vào mắt mà tôi đem làm
thành đặc trưng của đối tượng để hình dung đối tượng trong tính chỉnh thể của
nó" [69,tr.88]. Như vậy, chính nhu cầu nhận thức thế giới đã buộc con người
phải vượt qua giai đoạn tri giác cảm tính và tiến hành tư duy trừu tượng. Con
người không thể tư duy bằng các sự vật, hiện tượng cụ thể như chúng vốn có
trong hiện thực. Tên gọi đã tách các sự vật, hiện tượng cụ thể đó ra khỏi thế giới
hiện thực của chúng, đưa chúng vào trong lí trí của con người dưới dạng các tên
gọi như những đơn vị cơ bản của tư duy trừu tượng. Nhờ đó sự vật, hiện tượng
được hình dung một cách rõ ràng "trong tính chỉnh thể của nó". Vì vậy, trong Bút
kí triết học, V.I. Lênin cho rằng: "Tên gọi là cái gì đó phổ biến, thuộc về tư duy,
làm cho cái đa dạng trở nên đơn giản" [59,tr.264]. Nhờ đó, "tên gọi đã làm cho
các sự vật, hiện tượng trở nên có "cá tính" trong tư duy" [8,tr.95]. Để tạo ra tên
gọi người ta phải sử dụng các tín hiệu ngôn ngữ, đó là từ và tổ hợp từ. UI.V.
Rozdextvenxki đã chỉ ra cách tạo ra tên gọi: "thứ nhất, một dãy âm tố có liên hệ
với nhau tạo thành từ với mặt bên ngoài của nó, tức là vỏ âm thanh, vỏ ngữ âm
của từ, hoặc là từ ngữ âm; thứ hai, sự vật được gọi bằng từ đó; thứ ba, ý nghĩa
mà từ gây ra trong ý thức chúng ta. Tất cả ba yếu tố này gắn với nhau" [88,tr.34].
Tên gọi là sản phẩm của tư duy trừu tượng nên nhìn chung nó phải đảm bảo
các yêu cầu như có tính khái quát, tính trừu tượng và mất khả năng gợi đến
những đặc điểm, những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng. Về mặt ngữ
nghĩa, tên gọi phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn cảm tính và có tác
dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong cùng một loại hay phân
23
biệt các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Mặc dù lí tưởng phải lựa chọn được
đặc trưng bản chất, tức là là đặc trưng tiêu biểu để gọi tên, nhưng với điều kiện
đặc trưng đó phải bảo đảm giá trị khu biệt tên gọi. "Ý nghĩa phản ánh đặc tính
mà ta lấy để gọi tên toàn bộ sự vật chính là ý nghĩa làm căn cứ trong tên gọi.
Trong ngôn ngữ học, người ta gọi ý nghĩa ấy là ý nghĩa gốc hay hình thái bên
trong của tên gọi" [38,tr.463]. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế
khách quan tồn tại trong lí trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện
tượng khác cùng loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành
mạch sáng sủa, cho nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực
sự trở thành một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một
tên gọi trong ngôn ngữ.
1.2.1.2. Khái niệm định danh
Định danh (nomination) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latin với nghĩa là
tên gọi. Thuật ngữ này biểu thị kết quả của quá trình gọi tên của các đơn vị ngôn
ngữ. Thuật ngữ định danh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo Từ điển
Bách khoa ngôn ngữ học thì định danh là: "việc tổ chức các đơn vị ngôn ngữ
mang chức năng gọi tên, nghĩa là phục vụ cho việc gọi tên và phân chia các khúc
đoạn hiện thực và sự hình thành của những khái niệm tương ứng về chúng dưới
hình thức của các từ, các tổ hợp từ, các thành ngữ và các câu" [148,tr.336]. Do
đó, đơn vị định danh không chỉ là từ mà còn có cụm từ (ngữ), câu, tuy nhiên đối
tượng định danh của các đơn vị này là khác nhau. Nếu chức năng cơ bản của từ
là định danh và từ dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng, trạng thái, quá trình, tính
chất, thì chức năng định danh của câu lại luôn luôn tồn tại ở dạng tiềm ẩn và câu
dùng để định danh cảnh huống. Kolshansky cho rằng: "Định danh (nomination)
là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (significat) phản ánh
những đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất
và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần,
nhờ đó, các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn
từ". [dẫn theo 113,tr.161-162].
24
Như vậy, định danh là một trong những chức năng của các đơn vị từ ngữ của
ngôn ngữ. Hiểu một cách đơn giản nhất thì đây chính là chức năng gọi tên: gọi
tên những đối tượng, thuộc tính hoặc những hành động… Yêu cầu của một tên
gọi là: 1. Phải khái quát, trừu tượng, phải mất khả năng gợi đến những đặc điểm,
những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì nó là sản phẩm của tư duy trừu
tượng. Về mặt ngữ nghĩa, nó phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn cảm
tính. 2. Các tên gọi có tác dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong
cùng một loại hay phân biệt các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Sự phân biệt
này phải dứt khoát, có nghĩa là khi đã có tên gọi thì sự vật này, loại nhỏ này
cũng trở thành độc lập với nhau, riêng rẽ với nhau. Nhờ có tên gọi mà sự vật có
đời sống độc lập trong tư duy. [34, tr.190].
Tất cả các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ đều có chức năng biểu nghĩa nhưng
phải là một đơn vị cấp độ từ mới có thể định danh. Nhưng cũng chỉ có các thực
từ mới có chức năng định danh, còn các thán từ, liên từ, giới từ… không có chức
năng này. [8, tr.59]. Các tác giả công trình Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học cho rằng: Định danh là sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng dùng
để gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình
thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và
câu. [136, tr.65].
Như vậy, đối tượng của lí thuyết định danh là nghiên cứu, miêu tả những quy
luật về cách cấu tạo các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ, về sự tác động qua lại
giữa tư duy - ngôn ngữ - hiện thực khách quan. Cơ sở của sự định danh xuất phát
từ mối quan hệ giữa hiện thực - khái niệm - tên gọi. Lí thuyết định danh phải
nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác định những tiêu
chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh này với đơn vị
định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là cái biểu vật của
tên gọi, nghĩa là như toàn bộ các thuộc tính được chia tách ra trong các hành vi
định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó biểu thị. Còn tên gọi được nhận
25
thức như là một dãy âm thanh được phân đoạn ứng với một cấu trúc cụ thể của
ngôn ngữ đó. Chính mối tương quan giữa cái biểu vật và cái biểu nghĩa và xu
hướng của mối quan hệ này trong những hành vi định danh cụ thể sẽ tạo nên cấu
trúc cơ sở của sự định danh.
1.2.1.3. Đơn vị định danh
Khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh phân biệt các loại
đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa tham gia đơn vị
định danh thì có sự phân biệt:
- Định danh đơn giản (định danh tổng hợp, định danh cơ sở, định danh bậc 1,
định danh trực tiếp): được tạo bởi một đơn vị có nghĩa.
- Định danh phức hợp (định danh phân tích, định danh miêu tả, định danh bậc
2, định danh gián tiếp): được tạo bởi từ hai đơn vị có nghĩa trở lên.
Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa thì có sự phân biệt:
- Định danh gốc (định danh bậc một): được tạo bởi những đơn vị tối giản về
mặt hình thái cấu trúc, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn
vị định danh khác. Hồ Lê gọi đây là định danh phi liên kết hiện thực: “gọi tên
những mẩu nhỏ nhất trong hiện thực mà một cộng đồng ngôn ngữ quan niệm đã
chia cắt ra được và nắm bắt được từ hiện thực” [58, tr.102]. Ví dụ như: lúa, ngô,
khoai, bưởi, cam, nhãn, vải, xoài, chuối, chè,… Ở loại định danh này, mối quan
hệ giữa cái biểu hiện (vỏ âm thanh của từ) và cái được biểu hiện (ý nghĩa của từ)
là võ đoán. Từ là cái tên gọi sinh ra như một quy ước mà mọi người đều phải
tuân theo. Quả vậy, "chúng ta gọi (...) cây lúa là lúa mà không thể giải thích nổi
lí do vì sao gọi thế; có đi ngược lên tới cội nguồn xa của ngôn ngữ thì nói chung
cũng chẳng phát hiện được mối quan hệ một mặt là âm thanh được phát ra, mặt
khác là ý niệm được gợi ra, trong những từ như thế của tiếng Việt, những từ đơn,
thành một tiếng gọn, của tổ tiên chúng ta để lại thế và bây giờ chúng ta cứ thế
dùng" [117, tr.1089].
26
- Định danh phái sinh (định danh bậc hai): là những đơn vị định danh có hình
thái cấu trúc phức tạp hơn đơn vị gốc, mang nghĩa biểu trưng hóa (dưới hình
thức ẩn dụ hay hoán dụ) [43, tr.8]. Hồ Lê gọi là đây là định danh liên kết hiện
thực: “Để phản ánh hiện thực khách quan một cách đầy đủ, không chỉ gọi tên
từng mẩu hiện thực nhỏ nhất mà còn phải gọi tên những tập hợp gồm nhiều mẩu
hiện thực liên kết lại” [58, tr.102]. Ví dụ: lúa nếp, lúa tẻ, lúa nương, ngô lai, ngô
đông, nhãn lồng, cam sành, bưởi đường,...
1.2.1.4. Các nguyên tắc định danh và cơ chế định danh phức hợp
a. Nguyên tắc định danh
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong định danh là lựa chọn những đặc
trưng (thuộc tính tiêu biểu) mà người ta thường nói là "đập ngay vào mắt" để gọi
tên. Với nguyên tắc này, những đặc trưng được tri nhận để gọi tên sẽ là dấu hiệu
khu biệt, giúp người nói liên tưởng và hình dung đầu tiên đến sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, Serebrenikov (1977) cho rằng: "Việc tạo ra từ theo đặc trưng nào đó
chỉ là biện pháp thuần túy kĩ thuật ngôn ngữ. Đặc trưng được chọn chỉ để tạo ra
vỏ ngữ âm của từ. Đặc trưng được chọn để gọi tên hoàn toàn không nói hết bản
chất của đối tượng, không bộc lộ hết tất cả các đặc trưng của nó. Ngoài ra, đặc
trưng được lựa chọn để gọi tên thậm chí có thể là không căn bản, không quan
trọng về mặt thực tiễn” [dẫn theo 114, tr.32 - 33].
V.G. Gak đã đưa ra nguyên tắc định danh đó là gắn quá trình gọi tên với hành
vi phân loại. "Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X nào đó mà trong ngôn
ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra trong đối tượng
này, nó được quy vào khái niệm "A" hoặc "B" mà trong ngôn ngữ đã có cách
biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn
ra sự lắp ráp bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi một cái gì đó
khỏi sự hiểu biết ban đầu của mình, khi thì, ngược lại, bổ sung thêm một cái gì
đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy" [dẫn theo 114, tr.165]. Như vậy, quá trình định
danh một sự vật, tính chất hay quá trình gồm hai bước là quy loại khái niệm của
27
đối tượng được định danh và chọn đặc trưng nào để định danh [dẫn theo 114,
tr.166 - 167]. Việc chọn đặc trưng bản chất hay không bản chất để định danh một
khách thể cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Như vậy, định danh là cách đặt tên
cho một sự vật, hiện tượng. Hành vi định danh bao giờ cũng gắn với hành vi
phân loại. Quá trình định danh một sự vật, một tính chất hay một quá trình đều
gồm hai bước, đó là quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt. Nếu một
trong hai bước này có biến thể thì một vật hay quá trình được định danh sẽ mang
những tên gọi khác nhau. Khi định danh, trong số rất nhiều đặc trưng của một sự
vật, hiện tượng, tính chất hay quá trình, người ta chỉ chọn những đặc trưng tiêu
biểu, phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật. Bên cạnh đó, việc
chọn các đặc trưng để làm cơ sở định danh cho những đối tượng hay khái niệm
thuộc phạm vi đời sống thường nhật có thể có những trường hợp không cần chọn
đặc trưng bản chất, miễn là đặc trưng ấy có khả năng khu biệt giúp cho việc nhận
diện đối tượng hay khái niệm cần định danh.
Hiện thực thường được gọi tên theo cách tri nhận của con người. Sự gọi tên
này tạo ra các từ, các ngữ cố định, thành một hệ thống từ vựng. Định danh ở cấp
độ từ vựng rất quan trọng với con người: “Với khả năng đặt tên sự vật, con
người hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại cảm tính và cả
trong tồn tại lí tính của nó” [8, tr.194]. Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Nguyên tắc
tạo thành các tên gọi là nguyên tắc lí do nhưng nguyên tắc chi phối các tên gọi
trong hoạt động bình thường của nó là nguyên tắc không có lí do” [8, tr.166].
Cách định danh còn cho chúng ta thấy được đặc điểm của loại hình ngôn ngữ
đó: “Cấu tạo từ như thế nào, tức định danh hiện thực như thế nào, là một tiêu chí
quan trọng để phân chia các loại hình ngôn ngữ” [8,tr.125]. Thông qua định danh
thấy được dấu ấn về hiện thực khách quan. Ngôn ngữ phản ánh thế giới hiện
thực khách quan và là chiếc cầu nối với hiện thực. Hệ thống từ vựng trong ngôn
ngữ càng phong phú chứng tỏ con người nhận thức về thế giới càng sâu sắc.
28
Như vậy, dựa trên nguyên tắc định danh, khi có một đối tượng cần định danh,
người ta sẽ tiến hành các thao tác sau:
- Quy loại đối tượng mới vào nhóm đối tượng nào đó đã có tên trong ngôn ngữ;
- Vạch ra những đặc trưng vốn có của đối tượng mới rồi chọn một đặc trưng
được coi là tiêu biểu mang tính khu biệt của đối tượng mới với đối tượng khác;
- Sử dụng biện pháp cấu tạo từ theo loại hình ngôn ngữ làm phương tiện
định danh.
Định danh có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Định danh
thể hiện rõ quá trình nhận thức của con người về thế giới, vì "chỉ có con người
mới đặt tên được cho sự vật. Với khả năng đặt tên cho sự vật, con người mới
hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại cảm tính, cả trong
tồn tại lí tính của nó" [8, tr.169].
b. Cơ chế định danh phức hợp
Quá trình cấu tạo nên các đơn vị định danh phức hợp có cơ chế nhất định.
Theo Hoàng Văn Hành, muốn xác định rõ cơ chế định danh cần phải làm rõ hai
vấn đề cốt yếu là: a) Có những yếu tố nào tham gia vào cơ chế này và tư cách
của mỗi yếu tố ra sao? b) Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó như thế nào
mà khiến ta có thể coi đó là một cơ chế? [40, tr.26].
Sự phân tích cứ liệu trong các ngôn ngữ đơn lập (tiếng Việt là tiêu biểu) cho phép
nhận định rằng để có một cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh phức hợp có thể vận
hành được một cách có hiệu quả thì cần có một số điều kiện. Một là, có một hệ những
đơn vị làm yếu tố gốc (nguyên tố). Hai là, có một hệ những yếu tố có giá trị hình thái
nghĩa là có thể dùng làm phương tiện để tạo lập những đơn vị định danh phức hợp.
Ba là, để có đơn vị định danh phức hợp, điều cốt yếu là có một hệ quy tắc vận hành
để sử dụng các hình tố làm phương tiện mà tác động vào nguyên tố theo một cách
nhất định. Cơ chế vừa nêu thuộc về hệ thống của ngôn ngữ. Nó có tính chất tiềm
năng, xét về mặt lí thuyết. Những sản phẩm của cơ chế này trở thành đơn vị định
danh được ghi nhận vào vốn từ vựng của ngôn ngữ hay không còn phụ thuộc vào
29
nhân tố thứ tư nữa, một nhân tố không kém phần quan trọng, nhân tố xã hội. Đó
chính là tính đắc dụng hay không đắc dụng của các đơn vị định danh mới được sản
sinh đối với cộng đồng bản ngữ. [40, tr.26 - 28].
Theo cách hiểu như trên, để tạo ra một đơn vị định danh phức hợp, chúng ta
có hai con đường: ngữ nghĩa và hình thái cú pháp.
Bằng con đường ngữ nghĩa, ta có thể nhân khả năng định danh của đơn vị
tổng hợp lên nhiều lần. Một từ cùng với một vỏ ngữ âm phát triển ra bao nhiêu
nghĩa sẽ có bấy nhiêu đơn vị định danh. Mỗi một biến thể từ vựng - ngữ nghĩa sẽ
tương ứng với một đơn vị định danh. Ví dụ: chân trong chân tay là đơn vị định
danh gốc (bậc một) nhưng chân trong "có chân trong ban chủ nhiệm hợp tác xã"
lại là đơn vị định danh phức hợp được tạo ra bằng con đường ngữ nghĩa.
Theo con đường hình thái cú pháp, người ta có thể tạo ra hàng loạt các đơn vị
định danh phức hợp với các đặc trưng khác nhau về cấu trúc và ngữ nghĩa. Theo
cách này thường có hai quá trình:
- Thứ nhất là quá trình tạo từ với các phương thức thường gặp là: Phương
thức suy phỏng: kiểu như bóp - móp, dìm - chìm…; Phương thức láy: kiểu như
bé - be bé, nhỏ - nho nhỏ, mảnh - mảnh mai…; Phương thức ghép: trong phương
thức này có hai cách: ghép đẳng lập (hội nghĩa, hợp nghĩa) (như: khoai sắn, ngô
lúa, gieo trồng, thu hái…) và ghép chính phụ (phân nghĩa, phụ nghĩa) (như: đậu
đen, cam đường, nhãn nước, mít dai,…).
- Quá trình thứ hai để tạo các đơn vị định danh phức hợp bằng con đường cú
pháp là quá trình từ vựng hóa những tổ hợp. Đó là quá trình chuyển hóa những
tổ hợp thành những đơn vị mang thành ngữ tính. Tính thành ngữ của các đơn vị
này biểu hiện ở tính bền vững về mặt hình thái cấu trúc và tính bóng bẩy về mặt
ngữ nghĩa với những mức độ khác nhau. Có hai loại tổ hợp thường được từ vựng
hóa: tổ hợp tự do và tổ hợp cố định. [40, tr.28- 29].
Định danh phức hợp theo con đường hình thái cú pháp bằng phương thức ghép
chính phụ (phụ nghĩa) (dù là tạo từ hay từ vựng hóa tổ hợp tự do) cũng chính là
30
gắn việc khu biệt tên gọi với việc phân loại. Quá trình này gồm hai bước: quy loại
khái niệm của đối tượng được định danh và lựa chọn đặc trưng để định danh. [40,
tr.30-43].
1.2.2. Một số cơ sở lí thuyết về từ và ngữ
1.2.2.1. Quan niệm về từ
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ, từ luôn
được hiểu như một loại đơn vị cơ bản và chủ yếu trong hệ thống từ vựng nói
riêng và trong hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung. Tuy thế, từ vẫn không phải
là một đơn vị cụ thể mà nó là một loại đơn vị trừu tượng thuộc bình diện hệ
thống của ngôn ngữ. Trong lịch sử ngôn ngữ học đã có nhiều quan niệm khác
nhau về từ, xét cả ở bình diện lí luận đại cương lẫn miêu tả cụ thể. Tuy nhiên, do
chỗ mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ góc độ và mục đích nghiên cứu riêng của
mình, cho nên, đến nay các nhà nghiên cứu vẫn không thể đi đến một quan niệm,
một cách hiểu chung về từ. Nói chung, không có định nghĩa nào về từ làm mọi
người thoả mãn. Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Tuy cùng là
một loại thực thể ở trong một ngôn ngữ xác định, song người nghiên cứu lại có thể
xem xét từ từ nhiều góc độ khác nhau: từ góc độ ngữ âm, chính tả; từ góc độ ngữ
pháp; từ góc độ ngữ nghĩa; từ góc độ lô gich; từ góc độ từ điển học. Mỗi góc độ như
vậy từ được xem xét khác nhau. Song, nếu nhìn nhận một cách tổng quát có thể
thấy rằng phần lớn các nhà Việt ngữ học [11, 41, 56, 58, 96] đều cho rằng để nhận
diện từ, nhất thiết phải dựa vào ba tiêu chí: "a. Tính nhất thể về ngữ âm; b. Tính
hoàn chỉnh về ngữ nghĩa; c. Tính độc lập về cú pháp (khi hoạt động trong lời nói"
[41, tr.22]. Đỗ Hữu Châu đã xác định: "Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm
tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc
kiểu cấu tạo) cấu tạo nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định,
lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu" [11, tr.139].
1.2.2.2. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
31
Muốn tạo ra các từ phải có các yếu tố cấu tạo từ và các phương thức cấu tạo từ.
Phương thức cấu tạo từ là những cơ chế, những quá trình xử lí các nguyên liệu hình
vị để cho ra các từ của ngôn ngữ. Mỗi cơ chế hay mỗi phương thức cấu tạo đòi hỏi
những nguyên liệu - hình vị thích hợp để tạo thành từ. "Mỗi phương thức cấu tạo có
cách xử lí riêng các hình vị nguyên liệu, cho nên các từ được cấu tạo nên do mỗi
phương thức nào đấy sẽ có những đặc trưng đồng nhất, phân biệt với những từ sản
sinh theo phương thức khác" [11, tr.84]. Để tìm hiểu cấu trúc của từ và các phương
thức cấu tạo từ tiếng Việt, luận án sử dụng "cách tiếp cận động được diễn đạt theo
mô thức "yếu tố - cơ chế" [tr.11] mà các tác giả công trình [41] đã lựa chọn.
a. Đơn vị cấu tạo từ
Luận án chấp nhận quan niệm của Đỗ Hữu Châu về đơn vị cấu tạo từ trong
tiếng Việt: "các yếu tố cấu tạo từ tiếng Việt hay hình vị là những hình thức ngữ
âm cố định, bất biến, nhỏ nhất (hay tối giản) với dạng chuẩn tối thiểu là một âm
tiết, tự thân có nghĩa (nghĩa miêu tả hay nghĩa tương liên) có thể chịu tác động
của các phương thức tạo từ để tạo ra từ" [11, tr.154]. Tác giả đã lấy chức năng
ngữ nghĩa làm nguyên tắc để phân loại hình vị tiếng Việt. Theo đó, bước đầu
tiên hình vị được phân thành hình vị "sơ cấp" và hình vị "thứ cấp". "Hình vị sơ
cấp là những hình vị bình thường, tồn tại riêng rẽ, độc lập đối với nhau và là
những "nguyên liệu" đi vào các phương thức cấu tạo từ. Hình vị thứ cấp là
những hình vị được tạo ra từ các hình vị sơ cấp, là hình vị sơ cấp đã biến đổi
nhiều hay ít cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa" [11, tr.155]. "Hình vị sơ cấp có thể
một âm tiết mà cũng có thể nhiều âm tiết lại có thể phân chia thành hình vị tự do
và hình vị hạn chế, hay phân loại thành hình vị thực và hình vị hư" [tr.155].
Đồng quan điểm với Đỗ Hữu Châu, các tác giả công trình Từ tiếng Việt: Hình
thái - Cấu trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại [41] khẳng định rằng: "Khi lấy
ngữ nghĩa làm tiêu chí phân loại hình vị, các nhà nghiên cứu chú ý đến tính chất
nghĩa của hình vị. Dựa vào đó, hầu hết các nghà nghiên cứu Việt ngữ học đều
32
cho rằng tiếng Việt có ba loại hình vị. Đó là hình vị thực, hình vị hư và hình vị
hệ thống" [41, tr.34].
b. Phân loại từ tiếng Việt về mặt cấu tạo
Xem xét vấn đề cấu tạo từ trên quan điểm đồng đại, các tác giả công trình Từ
tiếng Việt: Hình thái - Cấu trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại đã khẳng định
"cấu tạo từ là một cơ chế" hoạt động trong điều kiện: "Cần có một hệ những đơn
vị làm thành tố của từ là các hình vị. (...) Cần có một hệ những yếu tố có giá trị
hình thái (gọi là hình tố) là những yếu tố thuần túy hình thức dùng làm phương
tiện để kết nối các thành tố trong quá trình tạo lập từ. (...) Cần có một hệ quy tắc
cấu tạo từ chính là sự vận dụng các hình tố tác động vào các hình vị theo những
cách khác nhau để tạo nên những kiểu từ khác nhau" [41, tr.54 - 55]. Hệ quả cuối
cùng của cơ trình cấu tạo từ là các từ được hình thành theo những mô thức nhất
định, ứng với những kiểu nghĩa nhất định.
Luận án chấp nhận quan niệm của các tác giả này, coi cấu tạo từ là một cơ chế
và nguyên tắc phân loại từ về mặt cấu tạo mà Đỗ Hữu Châu sử dụng là nguyên
tắc ngữ nghĩa. Theo đó, "sự phân loại các từ tiếng Việt, xét về mặt cấu tạo, phải
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện ra cơ chế ngữ nghĩa thống nhất trong
những từ cùng thuộc một kiểu loại" [11, tr.169]. Việc phân loại từ, theo Đỗ Hữu
Châu, được thực hiện theo ba bước.
- Bước thứ nhất, các từ sẽ được phân chia theo số lượng các hình vị tạo nên
chúng. Kết quả ở bước này sẽ cho các từ đơn và các từ phức. "Từ đơn là những
từ được cấu tạo theo phương thức từ hóa, là những từ chỉ có một hình vị" [11,
tr.169]. Ví dụ: bưởi, cam, quýt, vải, nhãn, chuối, ngô, khoai, sắn, lúa... (từ đơn
được cấu tạo từ một hình vị). "Từ đơn có thể là một âm tiết, cũng có thể nhiều
âm tiết" [11, tr.170]. Những từ đơn nhiều âm tiết có thể gốc Việt, như chôm
chôm, đu đủ,... gốc các ngôn ngữ ít người sống trên đất Việt Nam như mắc
cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu buộp,... gốc vay mượn các
thứ tiếng nước ngoài như cà phê, cao su, ca cao, mắc ca, ki uy, măng cụt,... Về
33
ngữ nghĩa, các từ đơn không lập thành hệ thống ngữ nghĩa của những kiểu cấu
tạo từ. Phần lớn chúng đều có khả năng trở thành hình vị để tạo ra hàng loạt
những từ phức dước tác động của các phương thức ghép và láy. "Từ phức là
những từ do hơn một hình vị tạo nên theo các phương thức phức hóa trong
tiếng Việt" [11, tr.169].
- Bước thứ hai, các từ phức sẽ được phân chia theo phương thức đã tạo nên
chúng. Ở bước này sẽ có các từ láy và các từ ghép.
- Bước thứ ba, lần lượt các từ láy và từ ghép được phân chia thành những kiểu
nhỏ hơn tùy theo sự đồng nhất về kiểu loại hình thức và cơ chế nghĩa chung cho
những từ trong cùng kiểu nhỏ đó.
Để phân loại từ ghép, theo Đỗ Hữu Châu, "cần sử dụng đồng thời các tiêu
chuẩn: ý nghĩa chung của đơn vị đang xét trong tương quan với ý nghĩa của cả
một kiểu nhỏ hoặc lớn; tính chất ngữ nghĩa và quan hệ (chủ yếu là quan hệ ngữ
nghĩa) của các hình vị trong từ và trong một kiểu" [11, tr.198]. Ông phân chia từ
ghép tiếng Việt thành hai loại:
a. Từ ghép phân nghĩa: Đó là "những từ ghép có một ý nghĩa chung (...) là
một loại hay nhiều loại sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất" [11, tr.198].
Các từ trong một hệ thống có chung một hình vị chỉ loại lớn. Nếu tách khỏi các
từ ghép, dùng độc lập thì hình vị loại lớn chính là tên gọi của loại đang xét; quan
hệ giữa các hình vị thường là quan hệ chính phụ. Các hình vị thứ hai có tác dụng
phân nghĩa, biệt loại hóa loại lớn thành những loại nhỏ. Một từ ghép phân nghĩa
lại có thể trở thành một hình vị (đơn vị) chỉ loại lớn để tạo ra hàng loạt các từ
ghép phân nghĩa mới. Cơ chế phân nghĩa có thể liên tục tác động vào một từ
ghép phân nghĩa cơ sở cho ra những từ ghép phân nghĩa ở các thế hệ thứ hai, thứ
ba... với hình thức mỗi lúc một dài. Khi hình thức ngữ âm quá dài, quy tắc rút
gọn phát huy tác dụng để cho những từ có hình thức tiện dùng hơn. Hình vị chỉ
loại lớn trong từ ghép phân nghĩa (gọi là thành tố thứ nhất) bao giờ cũng "biểu
thị ý nghĩa phạm trù và giữ vai trò chính, vai trò trung tâm. Còn thành tố thứ hai
34
biểu thị thuộc tính khu biệt của sự vật, quá trình hay tính chất do thành tố thứ
nhất biểu thị" [41, tr.139]. Nếu chỉ xét về mặt cấu trúc, thì thành tố thứ hai giữ
vai trò phụ. Ví dụ, trong các từ ghép phân nghĩa lúa nếp, lúa tẻ, lúa lai, lúa ngoi,
lúa nương, lúa gié, lúa mộ... thì lúa biểu thị ý nghĩa phạm trù "cây lương thực",
còn các thành tố nếp, tẻ, lai, ngoi, nương, gié, mộ biểu thị thuộc tính khu biệt, có
tác dụng biệt loại hóa từng loại lúa cụ thể. Nhưng xem xét từ góc độ ngữ nghĩa thì
thấy vai trò của thành tố thứ hai "không hề phụ" vì hệ quả ngữ nghĩa quan trọng của
nó là sự chuyên biệt hóa về nghĩa, nhờ đó mà nghĩa của toàn từ ghép phân nghĩa mới
được hình thành. Theo phương thức phân nghĩa, các từ ghép phân nghĩa mới sẽ được
tạo ra để gọi tên những sự vật, hiện tượng "loại nhỏ" trong cùng một loại lớn.
b. Từ ghép hợp nghĩa: là "những từ ghép trong đó không có hình vị chỉ loại
lớn, không có sự biệt loại hóa loại lớn thành những loại nhỏ, mà chỉ có sự hợp
nhất nghĩa của các hình vị để cho một ý nghĩa nào đó khác với ý nghĩa của từng
hình vị; giữa các hình vị có quan hệ đẳng lập" [11, tr.200].
1.2.2.3. Quan niệm về ngữ
Từ ghép là đơn vị của ngôn ngữ còn ngữ tự do thuộc đơn vị của lời nói. Trong
hoạt động giao tiếp, từ kết hợp với từ một cách có tổ chức và có ý nghĩa làm thành
những tổ hợp từ, tức là những kiến trúc lớn hơn từ. Mỗi từ trong tổ hợp từ là một
thành tố. Các tổ hợp từ được gọi chung là tổ hợp từ tự do, hay ngữ tự do (cụm từ
tự do). Diệp Quang Ban cho rằng: "Ngữ là những kiến trúc gồm hai từ trở lên kết
hợp tự do với nhau theo những quan hệ ngữ pháp hiển hiện nhất định và không
chứa kết từ ở đầu (để chỉ chức vụ ngữ pháp của kiến trúc này)" [2, tr.6]. Theo ông,
quan hệ giữa các thành tố trong tổ hợp từ, ngoài tính chất lỏng (ngữ tự do) và chặt
(ngữ cố định), còn được xét ở kiểu quan hệ. Thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập nên
ranh giới giữa từ ghép và ngữ tự do trong tiếng Việt rất khó xác định. Để phân biệt
từ ghép với ngữ tự do, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cái khác nhau cơ bản và
cũng là tiêu chí để phân biệt từ ghép và ngữ tự do là "từ ghép phải là một chỉnh
thể thống nhất không những về mặt cấu tạo mà còn cả về mặt nội dung nữa" [58,
35
tr.83]. Hồ Lê cho rằng "tính vững chắc về cấu tạo phản ánh một đặc trưng cơ bản
của từ ghép" [58, tr. 82]. Các tác giả công trình Từ tiếng Việt: Hình thái - Cấu
trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại cho rằng khi xem xét ranh giới giữa từ ghép
và ngữ tự do thì "cả hai tiêu chí ổn định về cấu trúc và hoàn chỉnh về nội dung
luôn luôn gắn bó với nhau, xoắn quyện với nhau khó mà tách rời được, trong đó
tiêu chí nội dung nổi lên hàng đầu, mang tính quyết định" [41, tr.127]. Các tác giả
khẳng định "nghĩa là tiêu chí số một để xem xét mối quan hệ giữa từ ghép và tổ
hợp tự do" [41, tr.127]. Đỗ Hữu Châu cũng cho rằng: "Ý nghĩa của ngữ là do ý
nghĩa của các từ trong đó tạo nên. Cho nên, tìm hiểu kết cấu ngữ nghĩa của các
ngữ tự do là tìm hiểu sự tổ hợp ý nghĩa các từ trong ngữ" [11, tr.220]. Muốn nắm
được ý nghĩa của ngữ, không thể không nắm ý nghĩa của các từ phụ và quan hệ
giữa chúng với từ chính, trung tâm. Như vậy, ngữ là những tổ hợp có hai tiêu
chuẩn: hình thức không chặt chẽ và có ý nghĩa của cụm từ.
Cụm từ là phương tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm
chất, ý nghĩa ngữ pháp của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các
thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng. Ngữ tự do
bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ tự
do đó; mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh
hoạt và có sức sản sinh.
1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa của từ
1.2.3.1. Khái niệm về nghĩa của từ
Nghĩa là một khái niệm trung tâm của ngôn ngữ học, dù muốn hay không,
trường phái ngôn ngữ học nào cũng phải đề cập đến vấn đề nghĩa. Do đó, trong
ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đã có rất nhiều quan
niệm khác nhau về nghĩa được đề xuất và phát triển. Chẳng hạn:
- Cho nghĩa của từ là sự vật, hiên tượng mà từ gọi tên;
- Cho nghĩa của từ là khái niệm hay biểu tượng về sự vật, hiện tượng mà
từ gọi tên;
36
- Cho nghĩa của từ là quan hệ được tạo bởi hình thức ngữ âm của từ với khái
niệm, biểu tượng về sự vật do từ gợi ra trong nhận thức của con người sử dụng
ngôn ngữ.
- Chủ nghĩa cấu trúc hiện đại và Trường phái phân bố, miêu tả Mỹ quan niệm
nghĩa của từ được tạo bởi các quan hệ đồng nhất và đối lập giữa các từ trong hệ
thống ngôn ngữ. Theo đó, sở dĩ từ này có nghĩa như thế này vì nó đồng nhất và
đối lập với một từ khác trong hệ thống;
- Khuynh hướng chức năng luận cho nghĩa của từ được tạo bởi chức năng mà
từ đó biểu thị. Từ trong hệ thống ngôn ngữ có nhiều chức năng khác nhau như:
chức năng gọi tên, chức năng miêu tả, chức năng tác động, chức năng thẩm mĩ,...
Xuất phát từ các chức năng đó mà các từ có nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn ở mức độ tổng quan, có thể đề cập đến hai khuynh hướng
quan niệm về nghĩa của từ từ các quan miện trên đây:
a. Khuynh hướng thứ nhất coi nghĩa của từ như một thực thể. Theo khuynh
hướng này, nghĩa của từ có thể được xem như là chỉ vật (referent), tồn tại ngoài
hiện thực khách quan. Nghĩa của từ cũng có thể được xem như là một thực thể
tinh thần, tồn tại trong trí não của con người.
b. Khuynh hướng thứ hai coi nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ
của từ với sự vật, hiện tượng, khái niệm hoặc chức năng,...). Theo đó, nghĩa
chính là mối quan hệ theo nhiều chiều kích khác nhau: có thể là quan hệ giữa tín
hiệu ngôn ngữ với sự vật, hiện tượng ngoài hiện thực khách quan, có thể là mối
quan hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ với người sử dụng ngôn ngữ, có thể là mối quan
hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ với các hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ,...
Luận án này coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại
trong trí óc của người bản ngữ, chứ không phải là một lớp thực thể cụ thể tồn tại
ngoài thực tế khách quan. Quan niệm nghĩa với tư cách là một thực thể tinh thần
là một quan niệm đã từng tồn tại trong quan niệm của ngữ nghĩa học cấu trúc,
ngày nay "ngữ nghĩa học thời hậu cấu trúc đã có nhiều vận dụng và thành tựu
37
đáng ghi nhận" [104, tr.189]. Quan niệm này cũng được nhiều nhà Việt ngữ học
đồng tình và phát triển, như Đỗ Hữu Châu, Lê Quang Thiêm, Đỗ Việt Hùng
[xem 12, 47, 104]. Theo quan niệm này, nghĩa được xem như là những nội dung
tinh thần mà con người khi nhận thức, phản ánh thực tế khách quan đã cố định
hóa vào trong tín hiệu ngôn ngữ. Vì vậy, nghĩa vừa là công cụ, điểm xuất phát
của quá trình nhận thức thế giới của con người, vừa là kết quả đầu ra, điểm đến
của quá trình nhận thức của con người bằng tín hiệu ngôn ngữ. Nghĩa từ chính là
nội dung tinh thần trừu tượng có trong từ. Nghĩa từ tồn tại với tư cách là một
thực thể trong hệ thống từ vựng, vừa với tư cách là một thực thể phụ thuộc vào
ngữ cảnh mà nó xuất hiện, phụ thuộc vào ý định chủ quan của chủ thể bản ngữ.
Trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu khi nghiên cứu chức năng tín
hiệu học của từ, đã cho rằng: “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần”. Theo ông,
nghĩa của từ gồm 4 thành phần tương ứng với 4 chức năng quan trọng mà từ đảm
nhận bao gồm: “a. Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. b. Ý nghĩa biểu
niệm ứng với chức năng biểu niệm. c. Ý nghĩa biểu thái tương ứng với chức
năng biểu thái. Ba thành phần ý nghĩa trên được gọi chung là ý nghĩa từ vựng”
và “d. Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp” [8, tr.97]. Trong sự phân
loại các thành phần nghĩa của từ ở trên, 3 loại ý nghĩa từ vựng a, b và c đã được
ông xác định rất rõ ràng. Theo ông, có thể nói ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh sự
vật, hiện tượng... trong thực tế và ngôn ngữ. Đó là những mẩu, những mảnh,
những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế [11, tr.108].
Hoàng Văn Hành, trong Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá,
cũng đã quan niệm khá rõ về nghĩa của từ “nghĩa của từ không phải chỉ là hệ quả
của quá trình nhận thức, mà còn là hệ quả của những quá trình có tính chất tâm
lý xã hội, có tính chất lịch sử nữa” [42, tr.315].
Trong Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005, Lê Quang
Thiêm quan niệm "nghĩa của từ về bản chất là một thực thể tinh thần được mã
hóa, được kí hiệu hóa trong từ. Nghĩa từ vựng của từ phản ánh, ánh xạ. Nghĩa
38
của từ thuộc thế giới ngôn ngữ, mà ngôn ngữ có thuộc tính dân tộc còn sự vật,
hiện tượng thuộc thế giới hiện thực, có thuộc tính thế giới" [105, tr.61]. Theo
ông, nghĩa của từ là "một tồn tại trong văn hóa tinh thần dân tộc", "được hình
thành nhờ hoạt động chức năng và bản thân các yếu tố trong hệ thống" và "là nội
dung phản ánh, ánh xạ được kí hiệu hóa, mã hóa trong từ, là kết quả của hoạt
động chức năng của từ" [105, tr.61]. Từ đó, ông kết luận: "Nghĩa của từ, cũng
như nghĩa của ngôn ngữ nói chung là một sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm lí của
con người. Nghĩa của từ về bản chất là một thực thể tinh thần. Nó là kết quả của
sự phản ánh, ánh xạ, tri nhận thực tại được tích hợp trong nội dung kí hiệu từ.
(...) Nội dung này là sự kí hiệu hóa, là việc sử dụng kí hiệu trong giao tiếp, tư
duy; đồng thời nó là kết quả của sự biểu trưng hóa, cấu trúc hóa trong vốn từ ngữ
cũng như trong đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc xác định. (...) Nghĩa là thành tố
cấu tạo ngôn ngữ, đồng thời là thành tố của văn hóa tinh thần" [105, tr.27]. Để
khảo sát nghĩa từ vựng, Lê Quang Thiêm cho rằng nhà nghiên cứu có hai con
đường tiếp cận cần phân biệt. "Đó là con đường định danh thuộc danh học và con
đường biểu đạt thuộc nghĩa học. Con đường định danh là con đường đặt tên, gọi
tên. Còn con đường biểu đạt là con đường tháo gỡ nội dung được biểu đạt, phân
tích, đào sâu vào nội dung nghĩa của đơn vị được nghiên cứu. (...) Trong đường
hướng danh học, chủ thể ngôn ngữ có ý tưởng, có sự vật, hiện tượng cần đặt tên,
nên tạo ra từ ngữ để gọi tên chúng (...) bằng cách chọn chất liệu âm thanh, chất
liệu cấu tạo từ, phương thức cấu tạo để tạo ra từ, ngữ tương ứng thay thế cho sự
vật, hiện tượng, ý tưởng đã có. (...) Đường hướng nghĩa học bắt đầu từ các từ ngữ,
các kí hiệu đã định hình, tồn tại, hoạt động trong ngôn ngữ hoặc không còn hoạt
động mà cần tìm ra nội dung được biểu đạt của nó" [105, tr.62 - 63].
1.2.3.2. Cấu trúc nghĩa của từ, nghĩa vị và nét nghĩa
Nghĩa là một thực thể tinh thần nên nhu cầu tìm hiểu nghĩa, phân tích nghĩa,
định nghĩa nghĩa, giải thích nghĩa là một nhu cầu tất yếu, thường trực, liên tục của
nhà ngôn ngữ học, đặc biệt là những nhà ngữ nghĩa học từ vựng. U.Weinreich, nhà
39
ngôn ngữ học Mỹ, cho rằng: “Mong muốn phân tích một nghĩa tổng quát ra những
thành tố và xác lập một cấp hệ (hệ thống tôn ti cấp bậc) giữa các thành tố luôn luôn
là một trong những động cơ chủ yếu của nghiên cứu ngữ nghĩa” [dẫn theo 81, tr.5
và 82, tr.9]. Ngữ nghĩa học hiện đại đã chứng minh được rằng nghĩa của từ là sự
phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức và được thể hiện ở ngôn ngữ. Sự
phản ánh đó tồn tại trong từ dưới dạng một cơ cấu, do một chùm những thành tố có
quan hệ hữu cơ với nhau, được tổ chức theo một tôn ti nhất định. Từ luận đề chung
này có thể suy ra rằng:
"1. Nghĩa của phần lớn các từ không phải là không phân tích ra được nữa;
2. Nghĩa bao hàm những đơn vị nhỏ hơn gọi là nét nghĩa. Nét nghĩa là đơn vị
cơ bản phản ánh thuộc tính hoặc quan hệ có giá trị khu biệt của hiện tượng, sự
vật trong thế giới khách quan. Nhưng nét nghĩa không phải bao giờ cũng là yếu
tố trực tiếp tạo ra nghĩa từ. Nó thường là yếu tố tạo nên những thành tố trực tiếp
của nghĩa từ;
3. Thành tố nghĩa là đơn vị trung gian giữa nét nghĩa và nghĩa từ, nó do một
hay nhiều nét nghĩa tạo nên.", theo Hoàng Văn Hành (2010). [42, tr. 33].
Vì là một thực thể tinh thần trừu tượng nên nghĩa có trong mình một đặc
trưng quan trọng là tính phi tuyến tính [37, tr.105]. Vì thế mà khi nghiên cứu về
nghĩa người ta thường hình dung nghĩa của ngôn ngữ nói chung, nghĩa của từ nói
riêng với tư cách là một cấu trúc. Vì thế, khi miêu tả, phân tích và giải thích
nghĩa, người ta thường hình dung và cố định nghĩa từ như là một cấu trúc trong
đó có những thành tố nghĩa lớn nhỏ khác nhau và những thành tố nghĩa lớn nhỏ
khác nhau này được sắp xếp theo những tôn ti xác định. Những thành tố lớn nhỏ
khác nhau này chính là các nghĩa vị (sememe) và các nét nghĩa (semantic
feature). Trong nhiều tài liệu Việt ngữ học hiện nay, một số nhà nghiên cứu đã
dùng cả thuật ngữ nét nghĩa và nghĩa vị để chỉ cùng một thực thể ngữ nghĩa là
"semantic feature"... Trong giới Việt ngữ học, việc phân tích nghĩa từ vựng của
từ ra thành nét nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu, Hoàng
40
Phê, Hoàng Văn Hành, Lê Quang Thiêm,...vận dụng vào phân tích ngữ liệu tiếng
Việt trong các công trình nghiên cứu của mình và đã thu được những thành tựu
khả quan. Sự phân tích này đã được nhóm tác giả biên soạn Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên) vận dụng thành công trong việc phân tích và miêu tả nghĩa
từ vựng của từ trong từ điển. Trong đó, phải kể đến hai nhà ngôn ngữ học Hoàng
Phê và Đỗ Hữu Châu là những tác giả có nhiều đóng góp đáng kể với những
nghiên cứu này. Trong luận án này chúng tôi kế thừa sự phân biệt của Lê Quang
Thiêm. Về đặc điểm nghĩa của từ, trong Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt -
Từ 1945 đến 2005, Lê Quang Thiêm cho rằng nghĩa (meaning) là một tồn tại
nhưng không phải là tồn tại đơn nhất. Nghĩa có thể chia ra thành các bộ phận
hợp thành, nghĩa có thể biến đổi phát triển. Bộ phận, thành tố hợp thành nên
nghĩa là các nét nghĩa của từ, nét nghĩa là yếu tố nhỏ nhất không chia cắt được
nữa. [105, tr.68 - 69].
Theo cách hiểu như vậy, luận án quan niệm nét nghĩa là một bộ phận của
nghĩa vị. Nét nghĩa là thành tố nghĩa nhỏ nhất không thể chia cắt được nữa, nó
giống như nét khu biệt của âm vị học. Nghĩa vị (thường được gọi tắt là nghĩa)
chính là những "nghĩa được thừa nhận cương vị" [105, tr.70] trong hệ thống ngữ
nghĩa của ngôn ngữ. Tập hợp các nghĩa vị (các nghĩa khác nhau của từ) được gọi
là ý nghĩa (meaning) của từ.
Cấu trúc nghĩa của từ sẽ được hình dung và cố định hóa qua hai cấp: cấp thứ
nhất là tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị (hay nghĩa cụ thể của từ); cấp
thứ hai là tập hợp các nghĩa vị (hay các nghĩa cụ thể đối với từ đa nghĩa) để tạo
thành ý nghĩa của từ. Ý nghĩa của từ trong các từ điển ngữ văn thường được hình
dung và trình bày theo những cấu trúc như vậy.
Như vậy, ý nghĩa của từ tạo thành một cấu trúc, bao gồm một hoặc một số nghĩa
vị được kết hợp với nhau theo quy tắc nhất định, chi phối và quy định lẫn nhau. Dựa
theo luận điểm này, trong bài Phân tích ngữ nghĩa, khi phân tích nghĩa của các từ
mẹ, cha, vợ, chồng, Hoàng Phê đã kết luận: “Nghĩa của từ nói chung:
a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau.
41
b. Giá trị các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp
bậc) biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng
thông báo.
c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối” [81, tr.10 - 26 ].
Theo đó, muốn xác định thành tố nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa từ vựng của từ
cần phân tích nghĩa từ thành nét nghĩa.
Tương tự, Đỗ Hữu Châu sau khi phân tích nghĩa của một số từ thành nét
nghĩa như các danh từ: bàn, búa, chân,..., các động từ: đứng, nói, đi, cắt, phấn
khởi, chán ngán,... cũng đã khẳng định: “Tập hợp một số nét nghĩa thành nghĩa
biểu niệm là một tập hợp có quy tắc”, “Chúng ta thấy có những nét nghĩa chung
cho nhiều từ và những nét nghĩa cho riêng từng từ”. [12, tr.107-108].
Luận án chọn nguồn ngữ liệu là các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt trong Từ điển tiếng Việt [125] (Hoàng Phê chủ biên) để phân tích
thành các nét nghĩa và xác định số lượng các dấu hiệu cần yếu khi định nghĩa tên
gọi cây nông nghiệp tiếng Việt.
1.2.4. Một số vấn đề từ điển học
1.2.4.1. Khái niệm về từ điển
Theo quan niệm phổ biến, "Từ điển: sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn
ngữ (thường là đơn vị từ vựng) và sắp xếp theo một thứ tự nhất định, cung cấp
một số kiến thức đối với từng đơn vị" [125, tr.1371]. Định nghĩa này tương đối
cô đọng, được thống nhất trong nhiều tài liệu của các tác giả khác nhau, tuy có
thể diễn đạt bằng ngôn từ có điểm khác hoặc diễn giải tỉ mỉ hơn. Trong cuốn
Giáo trình từ điển học, L. Zgusta đã dẫn ra định nghĩa về thuật ngữ "từ điển"
của C.C. Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất: "Một cuốn
từ điển là một danh mục được sắp xếp có hệ thống của các hình thức ngôn ngữ
đã được xã hội hóa, thu nhận từ những thói quen nói năng của một cộng đồng
ngôn ngữ nhất định và được người biên soạn chú giải sao cho người đọc có một
42
trình độ nhất định hiểu được ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và
biết được những điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ
ấy" [138, tr.245].
1.2.4.2. Cấu trúc của từ điển ngôn ngữ
Trong từ điển học, thuật ngữ cấu trúc vĩ mô (macrostructure) và cấu trúc vi
mô (microctructure) được nhà từ điển học Pháp J. Rey-Debove sử dụng lần đầu
trong tác phẩm Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng tiếng Pháp về ngôn ngữ học và
kí hiệu học [87]. Do đặc điểm của mình, mỗi quyển từ điển là một văn bản có
cấu trúc đôi: cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô.
a. Cấu trúc vĩ mô (macrostructure)
Cấu trúc vĩ mô của từ điển ngôn ngữ thường được hiểu là một hệ thống bảng
mục từ, trong đó mỗi mục từ là những chuỗi thông tin được sắp xếp theo một trật
tự nhất định về một hoặc một vài ngôn ngữ được miêu tả. Đây là quan niệm
được nhiều nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển chấp nhận. "Cấu trúc vĩ mô là
cấu trúc bao gồm toàn thể các mục từ được sắp xếp trong từ điển theo một trật tự
xác định, có quan hệ dọc (xuyên suốt cuốn từ điển); còn có thể gọi là cấu trúc
tổng thể hay cấu trúc bảng từ" [124]. "Việc quyết định các kiểu mục từ sẽ được
nhập vào trong cuốn từ điển và cách thức tổ chức viết danh sách đầu mục từ là
giải quyết vấn đề cấu trúc vĩ mô" [124]. Mỗi loại từ điển có những nhiệm vụ và
chức năng khác nhau, do đó cấu trúc vĩ mô của chúng có phần giống nhau và
phần khác nhau. Phần giống nhau là tính hệ thống trong bảng từ và sự hiện diện
của những từ cơ bản tiêu biểu cho các lớp từ vựng được lựa chọn làm đối tượng
miêu tả. Phần khác nhau do mục tiêu, nhiệm vụ và kích cỡ từ điển quy định,
phản ánh ở số lượng các mục từ và tỉ lệ tương quan giữa chúng.
b. Cấu trúc vi mô (microstructure)
Cấu trúc vi mô là "cấu trúc toàn bộ những thông tin/tri thức được trình bày
một cách hệ thống trong mỗi mục từ; có thể gọi là cấu trúc mục từ" [107, tr.76-
43
77]. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin nhất định và thông tin
này được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó.
c. Các loại thông tin trong cấu trúc vi mô
Trong từ điển giải thích, các yếu tố của cấu trúc vi mô gồm đầu mục từ và
các thông tin mọi mặt của từ đầu mục, các thông tin này tạo thành một tập hợp
đẳng nghĩa với đầu mục. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin,
được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô có
chức năng riêng và có vị trí tương đối ổn định. Theo chức năng, "thông tin về
đầu mục có những loại sau: a. Thông tin về ngữ âm; b. Thông tin về chính tả; c.
Thông tin về từ vựng; d. Thông tin về ngữ pháp; e. Thông tin về ngữ nghĩa; h.
Thông tin về ngữ dụng; i. Thông tin về từ nguyên; k. Thông tin về mối quan hệ
hệ thống của ngôn ngữ như đồng nghĩa, trái nghĩa; l. Thông tin về tần số sử
dụng;..." [107, tr.82]. Các yếu tố trong cấu trúc vi mô có thể phân loại thành: "a.
Các yếu tố mang thông tin về kí hiệu gồm các yếu tố mang thông tin ngữ âm,
chính tả, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng. (...) Các yếu tố mang thông tin về nội
dung - là bộ phận chính cấu thành lời giải thích của các từ (trong từ điển giải
thích" [103, tr.86 - 89]. Như vậy, trong từ điển giải thích, thông tin ngữ nghĩa là
quan trọng nhất, thể hiện bằng các lời giải thích (định nghĩa) của các từ. Thông
thường, trong từ điển ngôn ngữ người ta chỉ cung cấp các thông tin ngôn ngữ.
Đó là "những thông tin được đưa ra trong mục từ của từ điển, có thể thuộc các
loại thông tin lịch đại - từ nguyên, thông tin chính tả - cách viết, thông tin âm vị
học - cách phát âm, thông tin ngữ pháp - từ loại, thông tin ngữ nghĩa - định nghĩa
hay từ tương đương, thông tin ngữ dụng - cách dùng. Những thông tin này có thể
được bổ trợ bằng các phương tiện khác như tranh ảnh, tên riêng, thông tin bách
khoa... được đưa ra ngay trong mục từ hay bên ngoài mục từ" [62, tr.2].
Thông tin bách khoa (encyclopedic information) là "loại thông tin được đưa
ra trong công trình tra cứu, dựa trên tri thức mang tính dữ kiện (factual) (...) liên
quan chặt chẽ với việc miêu tả thực tế khách quan, chứ không liên quan đến mặt
44
ngôn ngữ của từ đầu mục" [62, tr.2]. Tuy nhiên, một số từ điển phổ thông cố
gắng đưa ra cả hai loại thông tin ngôn ngữ và thông tin bách khoa trong một mục
từ. Đồng thời, nhiều từ điển phổ thông lại chứa các mục từ bách khoa.
1.2.4.3.Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích
Định nghĩa là thành phần hạt nhân trong số các thông tin của cấu trúc vi mô
trong một cuốn từ điển giải thích. Giải thích từ ngữ trong từ điển là công việc
quan trọng nhất, khó khăn nhất và thường bị phê phán nhiều nhất.
Mục từ gồm có hai phần: phần thứ nhất (thường gọi là phần đề), chính cái
đơn vị từ vựng được chỉ ra ở đây; phần thứ hai (gọi là phần thuyết), chứa tất cả
những thông tin khác. Bộ phận quan trọng nhất của phần đề là từ đầu mục. Đó là
từng đơn vị từ vựng ở hình thức chính tắc của nó. Các chỉ dẫn khác của phần đề
thông báo cho người dùng được biết về lớp từ pháp (từ loại), lớp kết hợp mà từ
đầu mục ấy (tức là đơn vị từ vựng ấy) là một thành viên. Sau phần đề là phần
chính của mục từ (phần thuyết), có mục đích chính là chỉ ra ý nghĩa của đơn vị
từ vựng trong mọi khía cạnh của nó. Đây chính là lời giải thích ý nghĩa (định
nghĩa) cho từ đầu mục. "Định nghĩa từ điển, ở một mức độ nào đó, có sự chồng
lấp với định nghĩa lô gích, nhưng có một số sự khác nhau rõ rệt. Cái khác nhau
quan trọng nhất là ở chỗ: trong khi định nghĩa lô gích phải nhận diện được một
cách không lập lờ nước đôi cái đối tượng được định nghĩa sao cho nó vừa được
đặt trong sự đối lập dứt khoát với mọi thứ khác có thể định nghĩa được, vừa đặc
trưng được cho nó một cách khẳng định và không lập lờ nước đôi là một thành
viên của cái lớp gần nhất, thì định nghĩa từ điển lại chỉ kể ra những nét ngữ
nghĩa quan trọng nhất của cái đơn vị từ vựng được định nghĩa đủ để khu biệt nó
với các đơn vị khác" [138, tr.312 - 313]. Zgusta cho rằng, định nghĩa thường có
hình thức một nhóm từ hướng tâm, vì các đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ được
định nghĩa bằng chính ngôn ngữ ấy, cho nên định nghĩa thường phải chú ý đến
tình trạng ngữ pháp của đơn vị từ vựng được định nghĩa: danh từ phải được định
nghĩa bằng một cấu trúc danh ngữ; động từ ngoại động về cơ bản phải được định
45
nghĩa bằng động từ ngoại động khác hoặc bằng cấu trúc tương đương về cú
pháp, tùy theo hệ thống ngôn ngữ được xét đến. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng
tất cả các định nghĩa trong một cuốn từ điển không thể đồng nhất như nhau, vì
còn phải tùy theo ý nghĩa từ vựng của từ đầu mục. Định nghĩa từ điển phải đủ cụ
thể, nhưng đừng quá cụ thể. Theo ông, các định nghĩa quá cụ thể ngả về kiểu
định nghĩa bách khoa. Định nghĩa phải được trừu tượng hóa từ những ngữ cảnh
mà nhà từ điển học có được trong tay.
Khảo sát định nghĩa trong một số cuốn từ điển1, các tác giả của đề tài Một số
vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên
soạn các loại từ điển của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam [126] đã
chỉ ra các phương pháp định nghĩa được sử dụng trong các từ điển giải thích
tiếng Việt:
Phương pháp định nghĩa bằng phân tích (định nghĩa tự nhiên)
Đặc điểm cơ bản của lời giải thích trong từ điển là cách giải thích tự nhiên –
kiểu giải thích thường gặp trong đời sống. Giải thích tự nhiên là diễn đạt từ ngữ
A bằng từ ngữ B, trong đó B và A phải có cùng nội dung, B phải đồng nghĩa với
A. Giải thích tự nhiên có hai đặc điểm: đây là một hoạt động tự nhiên trong đời
sống xã hội khi có yêu cầu làm cho người khác hiểu mình, bằng cách sử dụng
năng lực mở rộng, triển khai của ngôn ngữ; dùng cái dễ để giải thích cái khó, cái
biết rồi để giải thích cái chưa biết. Ví dụ: định nghĩa mục từ đi trong Từ điển
tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên): "(Người, động vật) tự di
chuyển bằng những động tác liên tiếp của chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa
1 (1) Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến Đức, Sài Gòn, 1931 (2) Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Sài Gòn, 1951 (3) Việt Nam tân từ điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952 (4) Tự điển Việt Nam, Lê Văn Đức, Sài Gòn, 1970 (5) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Hà Nội, 1977 (6) Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Tp. Hồ Chí Minh, 2000 (7) Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Tp. Hồ Chí Minh, 2000 (8) Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 2000
46
trên mặt đất, vừa có chân giơ lên đặt tới chỗ khác. Trẻ đi chưa vững. Chân đi
chữ bát. Cho ngựa đi thong thả bước một" [125, tr.407].
Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ bao
Đây là phương pháp định nghĩa của logic học. Nội dung của nó là quy sự vật,
hiện tượng, khái niệm vào khái niệm cùng loại rộng hơn, rồi vạch ra những đặc
trưng khu biệt của khái niệm được giải thích. Phương pháp định nghĩa này là
một dạng đặc biệt của phương pháp định nghĩa bằng phân tích. Ví dụ: định nghĩa
mục từ hành trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "Cây thân ngầm,
hình dẹp, mang nhiều lá mọng nước xếp úp vào nhau thành một khối hình củ,
dùng làm gia vị" [125, tr.547].
Phương pháp định nghĩa bằng dùng từ đồng nghĩa
Là kiểu định nghĩa bằng cách đưa ra từ đồng nghĩa với từ đang cần định
nghĩa. Đây là kiểu giải thích phổ biến trong từ điển và cũng là kiểu giải thích từ
ngữ thường gặp trong giao tiếp. Ví dụ: định nghĩa của mục từ heo trong từ điển
Hoàng Phê: "(ph.) Lợn" [125, tr. 560].
Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ trái nghĩa
Là phương pháp định nghĩa bằng cách phủ định từ (hoặc các từ) có ý nghĩa
đối lập với từ được định nghĩa. Ví dụ: định nghĩa của mục từ ngắn trong từ điển
Hoàng Phê: "Có chiều dài dưới mức bình thường, hoặc không bằng so với các vật
khác; trái với dài. Áo may dài quá. Cắt tóc ngắn. Năm ngón tay có ngón dài ngón
ngắn (tng.)" [125, tr.865].
Phương pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn
Là phương pháp định nghĩa bằng cách đưa từ đang cần định nghĩa ra so sánh với
một đối tượng của thế giới ngoài ngôn ngữ. Đối tượng ngoài ngôn ngữ được chọn
phải là cái điển hình nhất, phổ biến nhất, có thuộc tính dễ gợi sự liên tưởng nhất tới
nghĩa của từ. Phương pháp giải thích này thường được áp dụng với những từ biểu thị
sự cảm nhận trực tiếp hiện thực như cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh. Ví dụ:
47
định nghĩa của mục từ cay trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "Có vị
như vị của ớt. Quả ớt cay. Rượu cay. Gừng cay muối mặn" [125, tr.161].
Phương pháp định nghĩa bằng cách nêu chức năng của từ ngữ
Là phương pháp dùng siêu ngôn ngữ miêu tả để nêu lên chức năng của từ được
định nghĩa. Đây là cách định nghĩa thường áp dụng cho các hư từ. Ví dụ: định nghĩa
của mục từ và trong từ điển Hoàng Phê: "Từ biểu thị quan hệ liên hợp giữa hai sự
vật, hiện tượng, quá trình, tính chất cùng loại, cùng phạm trù. Tôi và nó. Nó biết
tiếng Hán, và tiếng Nhật. Mưa to và gió lớn" [125, tr.1397].
1.3. Khái quát về cây nông nghiệp
"Nông nghiệp là hoạt động sản xuất của con người nhằm tạo ra cái ăn (lương
thực, thực phẩm...), cái mặc (bông, sợi,...), nhà ở (gỗ, nứa, lá,...). Đối tượng của
nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi với đất đai, nguồn nước là những tư liệu sản
xuất chính" [23, tr.939]. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã
hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi
làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và
một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam, đóng góp gần 22,1% GDP, gần 30% giá trị xuất khẩu và
trên 60% lực lượng lao động nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta đã tăng trưởng
cao và ổn định trong suốt thời gian dài, đạt được những thành tựu to lớn, mặc dù
thường gặp những tổn thất nặng nề trong thiên tai. Cây trồng là những loài cây
có ích trong đời sống, được con người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp. Cây trồng có những cách phân loại chủ yếu sau đây:
"a. Theo mục đích sử dụng: Cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả,
cây rau, cây gia vị; b. Theo sản phẩm sử dụng: cây ăn lá, cây ăn quả, cây lấy sợi,
cây lấy đường, cây lấy chất kích thích, cây ăn củ,...; c. Theo chu kì phát triển:
cây hàng năm (lúa, ngô, khoai lang, sắn, rau, đậu,v.v; cây lâu năm (cà phê, cao
su, chè, điều, dừa,...); cây lưu niên (trồng một lần, hàng năn cho thu hoạch): mía,
gai,... (...)" [23, tr.315].
48
Có nhiều loại cây trồng khác nhau như cây trồng cung cấp lương thực cho
con người; cây trồng cho sản phẩm dùng làm nguyên liệu cho chế biến, sản
xuất hàng tiêu dùng và cây trồng lấy sản phẩm làm thức ăn cung cấp dinh
dưỡng cho con người.
Tiểu kết
Chương này đã trình bày hai nội dung. Nội dung thứ nhất là tổng quan tình
hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới và ở Việt Nam; tình hình nghiên
cứu và biên soạn từ điển giải thích ở Việt Nam. Đây là những vấn đề có liên
quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Nội dung thứ hai là một số cơ sở lí
luận liên quan đến đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Trong phần này
luận án đã trình bày bốn nội dung sau:
- Một số vấn đề về định danh: khái niệm về định danh trong ngôn ngữ, đơn vị
định danh và các phương thức định danh;
- Một số vấn đề về khái niệm từ, đơn vị cấu tạo từ, các phương thức cấu tạo
từ của tiếng Việt, vấn đề cụm từ;
- Một số vấn đề về nghĩa của từ, cấu trúc nghĩa của từ;
- Một số vấn đề về từ điển học: khái niệm từ điển, cấu trúc của từ điển ngôn ngữ
(từ điển giải thích), các kiểu định nghĩa trong từ điển ngôn ngữ. Những cơ sở lí luận
được trình bày trong chương này đã tạo nên một khung lí thuyết phù hợp để tiến
hành khảo sát, miêu tả, phân tích các nội dung nghiên cứu của luận án.
49
CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT
2.1. Dẫn nhập
Thuộc lĩnh vực danh học, định danh là con đường đặt tên, gọi tên. Theo
đó, chủ thể ngôn ngữ có ý tưởng, có sự vật, hiện tượng cần đặt tên (trong luận án
này sự vật, hiện tượng cần đặt tên là cây nông nghiệp). Để đặt tên, chủ thể ngôn
ngữ phải tạo ra từ ngữ để đặt tên bằng cách lựa chọn chất liệu âm thanh, chất liệu
cấu tạo từ, phương thức cấu tạo từ, ngữ tương ứng thay thế cho sự vật, hiện tượng
đã có. Như vậy là, bắt đầu từ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng cần gọi tên, đặt tên
dẫn đến việc đặt tên gọi cho chúng làm cho từ ngữ xuất hiện. Việt Nam là nước
nước thuộc vào nền văn minh nông nghiệp, nên cây nông nghiệp ở đây đa dạng
về chủng loại, nhiều về số lượng và có giá trị về chất lượng. Khi đặt tên cho
những loại cây trồng này, người Việt Nam thường dựa vào một hoặc một số
thuộc tính nào đó của chúng, làm căn cứ để hiểu, phân biệt. Vì vậy, định danh có
tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc sống con người. Nghiên cứu đặc điểm cấu
tạo và định danh tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt đặt cơ sở cho việc xác định
nội dung ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng gọi tên cây nông nghiệp phục vụ cho
việc định nghĩa chúng trong từ điển giải thích tiếng Việt. Đặc trưng định danh
được biểu thị bằng từ và tham gia với tư cách là một thành tố đặc biệt vào thành
phần ý nghĩa của từ. Chương này tập trung nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, phương
thức định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
Dựa trên cơ sở lí luận về định danh, luận án tiến hành khảo sát tên gọi cây
nông nghiệp trong tiếng Việt để tìm hiểu cụ thể đặc điểm định danh của chúng.
Theo lí thuyết định danh, tên gọi của các sự vật, hiện tượng nói chung, các tên
gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt nói riêng, có thể được xem xét theo ba bình
diện sau:
- Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi;
50
- Phương thức cấu tạo của tên gọi (là từ và ngữ định danh);
- Những dấu hiệu/đặc điểm được dùng để gọi tên. Tên gọi các loại cây này sẽ
được chia thành hai loại: các tên gọi cây nông nghiệp là các đơn vị định danh
đơn giản và các tên gọi cây nông nghiệp là các đơn vị định danh phức hợp.
2.2. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về nguồn gốc ngôn ngữ
Như ta đã biết, khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh
phân biệt các loại đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa
tham gia đơn vị định danh thì có sự phân biệt: Định danh đơn giản (định danh
tổng hợp): được tạo bởi một yếu tố cấu tạo tên gọi; Định danh phức hợp (định
danh phân tích, định danh miêu tả): được tạo bởi từ hai yếu tố có nghĩa cấu tạo
tên gọi trở lên.
Theo lí thuyết định danh, tên gọi của các sự vật, hiện tượng nói chung, tên
gọi cây nông nghiệp nói riêng, có thể xem xét theo ba bình diện sau:
- Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi;
- Đặc điểm định danh xét từ góc độ cách thức biểu thị của tên gọi;
- Đặc điểm định danh xét từ góc độ những dấu hiệu được dùng để gọi tên.
Từ các nguồn ngữ liệu khác nhau, luận án đã thu thập được 2609 tên gọi cây
nông nghiệp phổ biến trong tiếng Việt.
Qua khảo sát, luận án thấy nhóm từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
có các nguồn gốc Việt (gồm các tên gọi là từ ngữ thuần Việt, từ ngữ nguồn gốc
Hán Việt), nguồn gốc từ các thứ tiếng nước ngoài và nguồn gốc từ các ngôn ngữ
dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Tên gọi cây nông nghiệp có nguồn gốc Việt chiếm số lượng rất lớn với
2443/2609 đơn vị chiếm 93,64%. Ví dụ: lúa, ngô, khoai, sắn, bông, dây, gai,
chuối, quýt, bưởi, mận, nhãn, vải, ổi, táo, vừng, lạc, đỗ, mít, dứa, xoài, dừa,
khoai lang, cam sành, quýt chum, bưởi đào, khế cơm, na dai, na bở, sắn nếp,
khoai vạc, khoai mỡ,... Có thể lí giải điều này dựa vào điều kiện sống, tập quán
của người Việt Nam. Nước ta là một nước nông nghiệp, nằm trong vùng kí hậu
51
nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho việc trồng trọt. Do đó, trồng trọt phát
triển từ rất sớm, những cuộc tiếp xúc và thuần dưỡng thực vật để thành cây trồng
phục vụ đời sống con người đã diễn ra từ hàng ngàn đời nay. Do đó, tên gọi của
các cây nông nghiệp đã ra đời.
Trong số 2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, tên gọi có nguồn gốc
vay mượn là 166/2609 đơn vị, chiếm 6,36%. Trong 166 tên gọi đó có 21 tên gọi
vay mượn từ các tiếng nước ngoài được phiên âm ra tiếng Việt, chiếm 12,65%, ví
dụ: ca cao, cao su, cà phê, mãng cầu, mắc ca, chà là, măng cụt, lê ki ma, ki uy Niu
Dilân,...;145 tên gọi vay mượn từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
chiếm 87,35%, ví dụ: mắc cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu
buộp, khẩu căm cai, khẩu cặm kị, khẩu đo rón, khẩu ma puống, ngọ klọoc, plau
sang, plề sáng lọi,... Các tên gọi này chủ yếu là tên gọi các giống lúa.
Kết quả khảo sát, miêu tả đặc điểm định danh cây nông nghiệp trong tiếng
Việt xét về mặt nguồn gốc ngôn ngữ được thể hiện tổng hợp trong bảng sau đây:
STT Nguồn gốc ngôn ngữ Số lượng Tỉ Ví dụ
lệ% tên gọi cây
nông nghiệp
lúa, sắn, khoai, chuối,
nhãn, vải, cam, quýt, lạc,
1. Nguồn gốc Việt 2443/2609 93,64 mít, đậu, dứa, củ từ, sắn
dây, củ cái, cam sành,
khoai vạc, xoài cát, vú
sữa, đay, bông, trẩu, sở,...
mắc cọoc, séng cù, blẩu
sang bua, ble blu, blin xa,
Nguồn gốc Ngôn ngữ 145/166 87,35 khẩu buộp, khẩu căm cai,
2. ngoại lai các dân tộc khẩu cặm kị, khẩu đo rón,
52
6,36% thiểu số khẩu ma puống, ngọ
(166/2609) klọoc, plau sang, plề sáng
lọi,...
ca cao, cao su, cà phê,
Tiếng 21/166 6,36 mắc ca, chà là, măng cụt,
nước ngoài lê ki ma, ki uy Niu
Dilân,...
2609 100 TỔNG SỐ
Bảng 2.1. Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
2.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về cấu tạo
2.3.1. Cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Tìm hiểu cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là xem xét tên
gọi đó được cấu tạo như thế nào, tức là chúng được tạo ra theo cách nào: tên gọi
là một khối theo tính chất tổng hợp hay có thể tách biệt ra được các thành phần
trong tên gọi mang tính chất phân tích. Kết quả thống kê cho thấy, trong 2609
tên gọi các giống cây nông nghiệp được khảo sát, tên gọi có cấu tạo là từ đơn có
260/2609 đơn vị, chiếm 9,96%; từ ghép có 503/2609 đơn vị, chiếm 19,27%, còn
lại 1846/2609 đơn vị là ngữ định danh, chiếm 70,77%.
2.3.1.1. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ đơn
Có 260/2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo là từ đơn,
do một hình vị tạo nên, trong đó có 107 tên gọi là từ đơn đơn tiết và 153 tên gọi
là từ đơn đa tiết. Toàn bộ 107 tên gọi là từ đơn đơn tiết đều có nguồn gốc ngôn
ngữ Việt. Đó là các tên gọi các loại cây nông nghiệp như: lúa, ngô, khoai, sắn,
đậu, lạc, vừng, xoài, mận, bưởi, cam, quýt, chuối, táo, lê, ổi, na, nhãn, vải, mít,
mía, sơn, trẩu, điều,... Tất cả các từ đơn này đều có ý nghĩa hết sức khái quát và
có khả năng trở thành các hình vị để tạo ra hàng loạt các từ ghép theo phương
thức ghép. Ví dụ:
53
- Lúa → lúa chiêm, lúa mùa, lúa nếp, lúa tẻ, lúa ngoi, lúa mộ, lúa nương, lúa
lai, lúa xuân, lúa gié, lúa trời,...
- Ngô → ngô nếp, ngô tẻ, ngô lai, ngô đông, ngô ngọt,...
- Nhãn → nhãn lồng, nhãn trơ, nhãn nước, nhãn tiêu, nhãn sớm, nhãn muộn,...
Khi chuyển hóa thành hình vị thì ý nghĩa của các từ đơn này càng khái quát
hơn, ít nhiều bị trừu tượng khỏi những khả năng chiếu vật cũ để trở thành đơn
thể hóa. Ví dụ, từ đơn "lúa" ở ví dụ nêu trên khi chuyển hóa thành hình vị "lúa"
trong các từ ghép: lúa tẻ, lúa nếp, lúa lai, lúa gié, lúa nương,... thì hình vị "lúa"
đã tham gia cấu tạo nên những sự vật cùng loại. Tuy nhiên, dù cho lúa nếp, lúa
tẻ, lúa mộ, lúa nương hay lúa gié vẫn là "lúa", nhưng giữa chúng đã có sự đứt
quãng để phân biệt tên gọi các loại lúa cụ thể: lúa nếp, lúa tẻ, lúa mộ, lúa
nương,... đã được tách khỏi "lúa" nói chung thành những loại độc lập, chỉ còn
quan hệ "loại - chủng" đối với nhau. Vì thế, các từ đơn đơn âm tiết là các đơn vị
định danh đơn giản, có thể coi chúng là những tên gọi được cấu tạo theo phương
thức tổng hợp. Đó là các tên gọi cơ sở để sản sinh các tên gọi cây nông nghiệp là
những đơn vị định danh phức hợp.
Các tên gọi cây nông nghiệp là từ đơn đa âm tiết (có 153 đơn vị) đều là tên
gọi vay mượn từ các tiếng nước ngoài được phiên âm sang tiếng Việt như: ca
cao, cà phê, cao su, sa bô chê, lê ki ma, mãng cầu, măng cụt, mắc ca,...và vay
mượn từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam được ghi bằng chữ Quốc ngữ
như: mắc cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu buộp, khẩu đo rón,
khẩu ma puống,... Khi tham gia tạo tên gọi mới, các từ đơn đa âm tiết vay mượn
tiếng nước ngoài hay vay mượn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng
có khả năng hình vị hóa: cà phê mít, cà phê vối, ki uy ruột vàng, ki uy lùn xanh,
khẩu buộp, khẩu đo rón, khẩu ma puống,...
2.3.1.2. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ ghép
Các tên gọi cây nông nghiệp được tạo nên theo phương thức ghép chiếm số
lượng khá lớn. Kết quả khảo sát và phân loại cho thấy, trong số 2609 tên gọi cây
54
nông nghiệp tiếng Việt, luận án thu được 503 tên gọi có cấu tạo là từ ghép, trong
đó tất cả 503 tên gọi là từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ), chiếm 20,31%,
ví dụ: lúa nương, sắn dù, cam sành, nhãn tiêu, quýt chum, lúa mộ, lúa tẻ, chuối
lá, vải thiều, ngô nếp, đậu đen, đậu xanh, đậu tương, xoài tượng,... Những tên
gọi cây nông nghiệp tiếng Việt có cấu tạo là từ ghép phân nghĩa có đặc điểm sau:
- Thứ nhất, những tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa lập thành
những hệ thống nhỏ có một ý nghĩa chung, ý nghĩa đó là một loại cây trồng.
Trong hệ thống đó, ý nghĩa của mỗi tên gọi là tên một loại cây trồng thuộc loại
nhỏ hơn độc lập với nhau và độc lập với tên gọi ở loại lớn. Ví dụ: xoài tượng,
xoài cát, xoài trứng, xoài voi, mít dai, mít hồng, mít mật, mít tố nữ,...
- Thứ hai, các tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa trong hệ thống
chung đó có một hình vị chung. Hình vị chung này thường đứng ở vị trí thứ nhất
chỉ loại lớn. Ví dụ, "quýt" là hình vị chung chỉ loại lớn trong các từ ghép: quýt
ngọt, quýt đường, quýt hôi, quýt chum, quýt hồng,... Nếu tách khỏi các từ ghép,
dùng độc lập thì hình vị loại lớn này (ví dụ, hình vị "quýt" chẳng hạn) chính là
tên gọi của loại đang xét. Hình vị chung này có khi đứng ở vị trí thứ hai khi tên
gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa gốc Hán Việt: thanh long, huyết rồng,
đại mạch, hắc mạch, tiểu mạch, khang dân, thanh trà, trang nông, cao lương,...
- Thứ ba, nghĩa của các hình vị phân nghĩa trong từ ghép phân nghĩa là tên
gọi cây nông nghiệp khác hẳn với ý nghĩa của hình vị chung chỉ loại lớn. Ví dụ:
ngô nếp, ngô lai, đậu đen, đậu tương, sắn dù, lúa nương, lúa gié, xoài cát, xoài
tượng, mít hồng, mít dai, chuối tiêu, khoai sọ, bưởi đào, quýt chum, táo giòn,
nhãn lồng, ổi trâu, cam sành, chanh dây,... Đỗ Hữu Châu gọi loại từ ghép phân
nghĩa này là từ ghép phân nghĩa dị biệt. Những hiểu biết về ý nghĩa của hình vị
phân nghĩa là cơ sở để giải thích lí do của sự hình thành tên gọi là các từ ghép
phân nghĩa, xác định các mô hình cấu tạo tên gọi (theo quan hệ giữa các hình vị ở các
thế hệ cấu tạo khác nhau), chỉ ra các quy tắc định danh (sẽ trình bày ở mục 2.4).
55
Tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa thể hiện tính thế hệ khá rõ.
Theo đó, một tên gọi là từ ghép phân nghĩa lại có thể trở thành một đơn vị chỉ
loại lớn để tạo ra hàng loạt các tên gọi mới là các từ ghép phân nghĩa. Ví dụ: lúa
nếp tên gọi một loại lúa, có cấu tạo là một từ ghép phân nghĩa (lúa là hình vị loại
lớn, nếp là hình vị phân loại có nghĩa biệt loại) lại có thể chuyển hóa thành một
đơn vị cơ sở để tạo ra các từ ghép phân nghĩa mới là tên gọi các giống lúa nếp
khác: lúa nếp nương, lúa nếp con giòi, lúa nếp chợ Đào, lúa nếp cái, lúa nếp
cẩm, lúa nếp vằn,... Theo cách như vậy, "cơ chế phân nghĩa có thể liên tục tác
động vào một từ ghép phân nghĩa cơ sở để tạo ra những từ ghép phân nghĩa ở
các thế hệ thứ hai, thứ ba,... với hình thức mỗi lúc một dài. Số lượng quan hệ
(tức số lần tác động của cơ chế) là cơ sở để phân biệt những từ ghép phân nghĩa
có số lượng hơn hai âm tiết thuộc thế hệ thứ nhất hay thuộc thế hệ thứ hai, thứ
ba,..." [11, tr.102]. Ví dụ, "lúa nếp" thuộc thế hệ thứ nhất vì quan hệ ở đây là
"nếp" với "lúa"; còn "lúa nếp nương" thuộc thế hệ thứ hai, vì quan hệ ở đây là
"nương" với "lúa nếp"; "lúa nếp nương con giòi" thuộc thế hệ thứ ba, vì quan hệ
ở đây là "nương" với "lúa nếp" (quan hệ bậc một) và "con giòi" với "lúa nếp
nương" (quan hệ bậc hai). Ví dụ:
Lúa nếp → lúa nếp nương, lúa nếp cẩm,...
Lúa nếp nương → lúa nếp nương con giòi, lúa nếp nương con ve,...
"Khi hình thức ngữ âm quá dài, quy tắc rút gọn lại phát huy tác dụng để cho
những từ có hình thức tiện dùng hơn" [11, tr.102]. Ví dụ, "lúa nếp nương con
giòi" được rút gọn thành "nếp con giòi". Tuy nhiên, có một thực tế không thể
phủ nhận được mà các tác giả công trình "Từ tiếng Việt..." đã khẳng định, "đối
với tiếng Việt, một ngôn ngữ âm tiết tính thì không thể không quan tâm đến tiêu
chí định lượng âm tiết cho số lượng âm tiết trong mỗi đơn vị ngôn ngữ và theo
chúng tôi nên coi đó là một trong những tiêu chí để xem xét, để tách từ ghép với
cụm từ" [41, tr.124]. Trong tri nhận của người Việt, lệ thường từ ghép tiếng Việt
chủ yếu chỉ gồm hai âm tiết, gọi là từ song tiết. Các từ ghép song tiết có số lượng
56
rất lớn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, từ ghép có ba âm tiết trở lên có số
lượng không nhiều. Còn một cụm từ (ngữ) nói chung (gồm cả cụm từ tự do và
cụm từ cố định) thì ít nhất phải có ba âm tiết trở lên là phù hợp với đặc thù của
tiếng Việt, vừa phù hợp với tri nhận của người bản ngữ. Do đó, nên coi những
tên gọi kiểu như: lúa nếp chợ Đào, lúa nếp cái hoa vàng, bưởi da xanh Bến Tre,
quýt ngọt Lai Vung, vú sữa tím Tiền Giang, chuối sừng bò, nhãn lồng Hưng Yên,
mận tam hoa Bắc Hà,... là các ngữ định danh.
2.3.1.3. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là cụm từ
Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh chiếm số lượng lớn nhất
gồm 1846/2609 đơn vị chiếm 69,72%, ví dụ: lúa cẩm vỏ vàng, lúa chiêm chanh
Phú Thọ, lúa canh nông Mĩ Tho, khoai chiêm dâu Bình Lục, khoai lang huyết dụ,
ngô nếp bạch ngọc, ngô nếp king 80, cà phê vối, bưởi da xanh, vải thiều Lục
Ngạn, xoài cát Hòa Lộc, Quýt ngọt Lai Vung,...
Những tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo chủ yếu là ngữ định danh chính
phụ. Ý nghĩa của ngữ định danh là do ý nghĩa của các từ trong đó tạo nên. Cho
nên, tìm hiểu kết cấu của các ngữ định danh chính phụ là tên gọi các loại cây
nông nghiệp là tìm hiểu sự tổ hợp ý nghĩa của các từ trong ngữ. Trong tên gọi
cây nông nghiệp là ngữ chính phụ, vai trò của từ chính là chỉ ra cái khái niệm
đang được nói tới (tức là tên gọi của loại cây cần được hiện thực hóa), còn vai
trò của các từ phụ trong cụm là hiện thực hóa chính cái dấu hiệu tường minh hay
hàm ẩn chứa trong khái niệm được biểu thị bằng từ chính. Chẳng hạn, trong các
ngữ định danh: khoai lang củ trắng, khoai lang củ tím, khoai lang vàng Nhật
Bản, khoai lang mật Hoàng Long, khoai lang Nam Vang, khoai lang Như Ngọc,
khoai lang ngắn ngày, khoai lang rau răm,... từ "khoai lang" khi ở vị trí chính
trong tên gọi cây trồng là chỉ ra khái niệm "cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu,
màu tím nhạt hay trắng, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn" [125, tr.652], còn
các từ phụ: củ, trắng, tím, vàng, Nhật Bản, mật, Hoàng Long, Nam Vang, Như
Ngọc, ngắn, ngày, rau răm có chức năng hiện thực hóa, biệt loại hóa, cụ thể hóa
57
sự vật được gọi là "khoai lang". Các từ chính và từ phụ trong tất cả tên gọi cây
nông nghiệp là ngữ chính phụ mà luận án khảo sát đều có chức năng ngữ nghĩa
như phân tích trên đây. Ví dụ: bưởi da xanh, sầu riêng hạt lép, chuối sừng bò,
chuối mỏ giang, lúa ba giăng, khoai lang củ trắng, khoai vạc gai, từ tam giác,
nho thân gỗ, nho mĩ nhân chỉ, nho không hạt,... Vì vậy, muốn nắm được ý nghĩa
của tên gọi cây nông nghiệp là ngữ chính phụ không thể không nắm ý nghĩa của
các từ phụ và quan hệ của chúng với từ chính trong ngữ.
Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ còn có một đặc điểm rất đáng lưu
ý, đó là yếu tố cấu tạo là tên riêng chỉ địa danh nguồn gốc, xuất xứ của các giống
cây nông nghiệp. Ví dụ: chè Tân Cương, chè Phú Thọ, Chè shan tuyết Hà Giang,
bưởi da xanh Bến Tre, cà phê vối Đắc Lắc, lúa tám thơm Điện Biên, nho Mĩ, ki
uy ruột vàng Niu Di Lân, nho vàng Ninh Thuận, quýt ngọt Lai Vung, cam sành
Bố Hạ, bưởi Đoan Hùng, quýt Hóa Châu,... Đây là điểm khác biệt rõ ràng nhất
trong tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ với tên gọi thực vật nói chung
trong tiếng Việt. Những cách kết hợp nêu trên đây có giá trị lớn trong cách đặt
tên các loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt, vì qua tên gọi của chúng, chúng ta
có thể biết được đặc điểm, tính chất của từng loại cây nông nghiệp và các chỉ dẫn
địa lí về các loại cây đó.
Kết quả khảo sát và miêu tả đặc điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt được chúng tôi tổng hợp lại trong bảng sau đây:
STT Cấu tạo tên Số lượng Tỉ Ví dụ
gọi cây nông lệ%
nghiệp
1. Tên gọi cây 260/2609 9, 97 lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc, vừng,
nông nghiệp xoài, mận, bưởi, cam, quýt, chuối,
có cấu tạo là táo, lê, ổi, na, nhãn, ca cao, cà phê,
từ đơn cao su, sa bô chê, lê ki ma, mãng
58
cầu, măng cụt, mắc ca, mắc cọoc,
séng cù,...
2. Tên gọi cây 503/2609 19,28 lúa nương, sắn dù, cam sành, quýt
nông nghiệp hôi, quýt chum, lúa mộ, lúa ngoi, lúa
có cấu tạo là nếp, lúa tẻ, lúa lai, lúa cẩm, lúa di,
từ ghép phân lúa dự, lúa gie, lúa gié, lúa hẻo, ngô
nghĩa đông, đậu đen, đậu xanh, đậu tương,
bưởi đường,...
3. Tên gọi cây 1846/ 70,75 bưởi da xanh, sầu riêng hạt lép,
nông nghiệp 2609 chuối sừng bò, chuối mỏ giang, lúa
có cấu tạo là ba giăng, khoai lang củ trắng, khoai
ngữ định danh lang huyết dụ, khoai su canh trắng,
khoai mài đỏ, mít tố nữ, cà phê vối,
mận tam hoa, khoai vạc gai, từ tam
giác, nho thân gỗ, nho mĩ nhân chỉ,
nho không hạt,...
2609 100 TỔNG SỐ
Bảng 2.2. Tổng hợp cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Như vậy, các từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo khá
đa dạng. Chúng có thể là những từ đơn, từ ghép, ngữ định danh. Tất cả những cách
thức cấu tạo từ nêu trên đã tạo ra hệ thống các tên gọi cây nông nghiệp khác nhau
nhằm định danh các loài cây nông nghiệp. Cách thức cấu tạo tên gọi cây nông
nghiệp trong tiếng Việt cũng thể hiện rõ đặc điểm loại hình của tiếng Việt - ngôn
ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính - chi phối trong cách cấu tạo tên gọi cây
nông nghiệp. Do đặc điểm đơn lập nên số lượng vỏ âm tiết của tiếng Việt bị hạn chế
kéo theo số lượng từ đơn cũng bị hạn chế. Để khắc phục hạn chế này tiếng Việt đã
sử dụng phương thức ghép để tạo ra số lượng lớn từ ngữ. Tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt chủ yếu sử dụng phương thức ghép các đơn vị từ vựng với nhau để
59
gọi tên đối tượng. Hầu như tên gọi cây nông nghiệp chỉ dùng phương thức ghép
phân nghĩa (ghép phụ nghĩa, ghép chính phụ), phương thức cấu tạo từ phổ biến, phù
hợp với đặc điểm loại hình phân tích tính của tiếng Việt.
2.3.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Tìm hiểu cấu tạo từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt là xem xét tên
gọi đó theo tính chất hòa kết thành một khối hay có thể tách ra được các yếu tố
trong tên gọi. Về phương diện định danh, tính chất hòa kết hay tách ra được
thành các yếu tố trong tên gọi cũng giống như tính chất "tổng hợp tính" hay
"phân tích tính" của từ xét về mặt ngữ pháp. Phân tích cấu tạo từ tên gọi cây
nông nghiệp để xác định các quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố cấu tạo nên tên
gọi, nhờ đó có thể xác định được vai trò của các yếu tố trong việc định danh cây
nông nghiệp. Kết quả thu thập và khảo sát tên gọi các cây nông nghiệp trong
tiếng Việt ở phần trên đã cho thấy rằng tên gọi các loại cây nông nghiệp trong
tiếng Việt phong phú về số lượng và đa dạng về cấu tạo. Trong tổng số 2609 tên
gọi cây nông nghiệp được thu thập và khảo sát chỉ có 260 tên gọi có cấu tạo là từ
đơn, chiếm 9,97% không thể chia cắt thành phần cấu tạo được, nên không có mô
hình cấu tạo, ví dụ: lúa, ngô, cam, đào, nhãn, vải, lạc, vừng, cà phê, cao su, mắc
ca, ki uy, mắc cọoc,... Như vậy, còn lại 2349 tên gọi có cấu tạo là từ ghép và
ngữ, luận án chỉ tập trung miêu tả mô hình cấu tạo của 2349 tên gọi này. Có 503
tên gọi là từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ) chiếm 19,28% và 1846 tên gọi
là ngữ chiếm 70,75%, có thể phân chia ra được các yếu tố cấu tạo, do đó, cần tìm
hiểu các mô hình cấu tạo để xác định quan hệ giữa các yếu tố tạo nên những tên
gọi này.
Xét về mặt ngôn ngữ học, tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt phải là từ
hay ngữ của ngôn ngữ này. Việc phân tích cấu tạo của tên gọi cây nông nghiệp
chính là việc miêu tả cấu trúc của từ và ngữ thể hiện tên gọi đó từ góc độ ngôn
ngữ học. Khi phân tích thành phần cấu tạo của các tên gọi cây nông nghiệp cần
xét đến yếu tố cơ sở để cấu tạo các tên gọi đó. Các thành phần được chia tách ra
60
trong cấu trúc của một tên gọi (được biểu hiện bằng từ hoặc cụm từ) được gọi là
yếu tố cấu tạo của tên gọi. Yếu tố cấu tạo tên gọi là bộ phận cấu thành nhỏ nhất
của tên gọi biểu thị một cách rõ ràng ý nghĩa của tên gọi đó. Như vậy, yếu tố
cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt là hình vị trong tên gọi có
cấu tạo là từ, là từ (thậm chí là tổ hợp các kí hiệu) trong tên gọi có cấu tạo là
ngữ. Chẳng hạn, lúa nếp là một tên gọi cây lương thực có cấu tạo là một từ
ghép gồm 2 yếu tố (là các hình vị): lúa và nếp. Cà phê vối TR4 là tên gọi cây
công nghiệp có cấu tạo là ngữ gồm 3 yếu tố: cà phê, vối là hai yếu tố có cấu
tạo là các từ, TR4 là một yếu tố có cấu tạo là một tổ hợp kí hiệu.
2.3.2.1. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép
Các tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là từ ghép phân nghĩa có 503/2349 đơn
vị, chiếm 21,41%, ví dụ: lúa mộ, lúa gié, ngô tẻ, cam đường, nhãn nước, khoai sọ,
dừa lửa, sắn dù, đậu xanh, táo đỏ, nho xanh, xoài cát,... Đặc điểm đầu tiên được
chú ý trong cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa là tính đánh dấu
và không đánh dấu được thể hiện trong các thành tố trở thành một quy tắc ổn định:
thành tố thứ nhất (hình vị chỉ loại lớn) là thành tố mang tính không đánh dấu biểu
thị khái niệm có tính phạm trù về loại bao giờ cũng đứng trước; thành tố thứ hai
(hình vị phân nghĩa) biểu thị nghĩa chuyên biệt bao giờ cũng đứng sau. Ví dụ: xoài
cát, xoài voi, chuối hột, quýt chum, nhãn lồng, khoai sọ, khoai mỡ, lúa chùm, ngô
ngọt, khế ngọt, bưởi chua, quýt hôi, nho vàng, táo đỏ, mít dai, chuối lùn, na bở,
cam vàng, mỡ tím, khoai tía, môn mịn, tám thơm,... Đáng chú ý là tên gọi cây nông
nghiệp biểu thị bằng kiểu từ ghép này có nguồn gốc Hán, trong đó các thành tố có
vị trí ngược lại: thành tố biểu thị chuyên biệt đứng trước, thành tố biểu thị có tính
phạm trù về loại đứng sau. Ví dụ: thanh long, thanh trà, dự hương, khang dân,
kim cương, nhị ưu, trung ưu, cương ưu, trang nông, cao lương, đại mạch, tam
giác mạch, tiểu mạch, hắc mạch,...Những tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ
ghép phân nghĩa có giá trị lớn trong khi gọi tên cây nông nghiệp, bởi vì khi gọi
tên, chúng ta thấy rõ khả năng mô tả nhờ tính đánh dấu của thành tố chính chỉ khái
61
niệm loại và tính đánh dấu của thành tố phụ biểu thị nghĩa chuyên biệt, nhờ đó
phân biệt được với các tên gọi khác. Cả hai cách kết hợp này trong cấu tạo tên gọi
cây nông nghiệp đều có chung một mô hình cấu tạo:
YT1 YT2 YT1 YT2
Quýt chum Nho vàng
(DT) (DT) (DT) (TT)
ngô đông bưởi chua
lúa nương cam ngọt
sắn dây nho đen
2.3.2.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh
Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo là ngữ định danh có số
lượng rất lớn với 1846/2349 đơn vị, chiếm 78,59%, ví dụ: mít quả dài, mít ruột
đỏ, vú sữa lò rèn, sầu riêng hạt lép, thanh long ruột đỏ, xoài bảy núi, bưởi da
xanh, nho ngón tay phù thủy, nhãn đường phèn, nhãn tiêu da bò, cam mật không
hạt, ngô tẻ răng ngựa, lúa nếp bắc giàn, lúa dự thơm đen Thái Bình, nếp con
giòi Phù Yên, nếp nương có đuôi,... Tên gọi cây nông nghiệp là ngữ gồm nhiều
yếu tố tạo thành, nên giữa các yếu tố có các quan hệ khác nhau và được phân
thành cấp bậc quan hệ giữa các dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh.
Vì vậy, mô hình cấu tạo của tên gọi cũng phong phú và đa dạng. Từ tư liệu được
khảo sát, luận án đã xác định được các mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp
sau đây.
Mô hình 1: Đây là mô hình cấu tạo đơn giản nhất của tên gọi cây nông
nghiệp là ngữ định danh chỉ gồm 2 yếu tố, trong đó yếu tố thứ nhất (YT1) chỉ
loại cây nông nghiệp, yếu tố thứ hai (YT2) là mã hiệu chỉ lô/nguồn giống cây
trồng.
62
YT1 YT2
Lúa tẻ CH3
Ví dụ: Sầu riêng S11ĐL
Xoài GL1
Ca cao TĐ14
Đây là mô hình có số lượng lớn nhất các tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo
là ngữ định danh, gồm 679 đơn vị, chiếm 36,43%. Điều này cho thấy vai trò rất
to lớn của con người trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ để lai tạo, tìm ra các loại giống cây trồng mới, cho năng xuất cao, chất
lượng dinh dưỡng tốt để phục vụ nhu cầu dân số ngày một tăng, nhu cầu sống
của con người ngày một cao.
Mô hình 2: Đây là những tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là ngữ định danh có
cấu tạo ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT2 phụ cho YT1; YT3 phụ cho cả YT1 và
YT2 Yếu tố thứ nhất (YT1), trong đó YT1 là tên gọi chỉ loại; YT2 là tên gọi chỉ
giống, còn YT3 là tên riêng các địa phương chuyên sản xuất giống cây đó.
YT1 YT2 YT3
Lúa bầu dâu Phú Thọ
Ví dụ Lúa canh nông Nghệ An
Lúa tám xoan Thái Bình
Lúa nàng thơm chợ Đào
Đây là mô hình có số lượng lớn thứ hai các tên gọi cây nông nghiệp có cấu
tạo là ngữ định danh, gồm 416 đơn vị, chiếm 22,32%. Mô hình cấu tạo này có
cấu trúc hai bậc: bậc 1: YT2 phụ cho YT1, bậc 2: YT3 phụ cho cả YT1 và YT2.
63
Tên gọi cây nông nghiệp theo mô hình cấu tạo này cho thấy vai trò quan trọng
của thổ nhưỡng (gồm đất đai, khí hậu, thời tiết trong năm) gắn với từng địa danh
các địa phương thuộc các vùng miền khác nhau của nước ta đối với các loại cây
trồng khác nhau. Đây cũng là những chỉ dẫn địa lí quan trọng cho các sản phẩm
từ cây nông nghiệp của Việt Nam.
Mô hình 3: Đây cũng là những tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh có
cấu tạo gồm ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT2 phụ cho YT1, YT3 phụ cho cả
YT1 và YT2, trong đó YT1 là tên gọi giống cây, YT2 là tên gọi một chủng thuộc
giống cây do YT1 biểu thị; YT3 là mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng.
YT1 YT2 YT3
Mía quế đường 2
Ví dụ: Dâu tằm tam bội 36
Cà phê vối TR4
Ngô đường Golden Sweeter 93
Mô hình này có sức sản sinh lớn, gồm 237 tên gọi cây nông nghiệp, chiếm
12,71% trong tổng số các tên gọi có cấu tạo là ngữ định danh. Các tên gọi này
cũng thể hiện rõ các bậc định danh liên quan đến quá trình lai tạo để cho ra
những giống cây mới.
Mô hình 4: Là tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là cụm từ gồm hai yếu tố
YT1: tên gọi cây nông nghiệp, YT2: địa phương (địa danh) trồng cây nông
nghiệp, trong đó YT2 phụ cho YT1.
YT1 YT2
Bưởi Phúc Trạch
64
Ví dụ: Na Lạng Sơn
Nhãn lồng Hưng Yên
Nếp dâu Thừa Thiên
Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình cấu tạo này gồm có 137 đơn vị,
chiếm 7,35% trong tổng số tên gọi các giống cây trồng có cấu tạo là ngữ định
danh. Đây là những giống cây trồng đặc sản của Việt Nam gắn với tên gọi các
địa phương cụ thể trên khắp đất nước ta, gồm hai yếu tố cấu tạo: YT1 chỉ tên
giống cây, YT2 là tên riêng các địa phương có giống cây đó.
Mô hình 5: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm ba yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp; YT2 là bộ phận của
cây (quả, ruột, lá,...), YT3 là đặc điểm của bộ phận của cây. Các yếu tố này có
hai bậc quan hệ: YT3 phụ cho YT2, cả YT2 và YT3 phụ cho YT1.
YT1 YT2 YT3
Sầu riêng ruột đỏ
Ví dụ: Cam lá sim
Xoài vỏ tím
Vú sữa ruột tím
Bưởi da xanh
Mô hình cấu tạo này gồm có 105 đơn vị, chiếm 5,63% trong tổng số tên
gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Hầu hết chúng đều là tên
gọi các loại cây trồng nổi tiếng của nhiều địa phương khác nhau cho những
sản phẩm có giá trị cao.
Mô hình 6: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm bốn yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp, YT2, YT3 là đặc
điểm hình thức (thân, bông, hạt,...) của cây nông nghiệp, YT4 là địa phương gieo
trồng cây nông nghiệp đó:
65
YT1 YT2 YT3 YT4
Nếp con giòi Phù Yên
Ví dụ: Nếp đuôi trâu Sơn La
Lúa tám cổ ngỗng Nam Định
Nếp cái con ong Vĩnh Phúc
Lúa tẻ tép trắng Tây Nguyên
Mô hình này gồm có 82 đơn vị, chiếm 4,40% trong tổng số các tên gọi cây
nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Đây là tên gọi các giống cây trồng đặc
sản nổi tiếng của từng vùng, từng địa phương của nước ta. Mô hình cấu tạo có
cấu trúc ba bậc: bậc 1: YT3 phụ cho YT2, bậc 2: YT2 và YT3 phụ cho YT1, bậc
3: YT4 phụ cho cả YT1, YT2 và YT3; trong đó YT1 là tên gọi giống cây nông
nghiệp, YT2 và YT3 chỉ đặc điểm về hình thức của một bộ phận (cây, bông, hạt)
của cây, YT4 là tên riêng các địa phương có trồng giống cây đó.
Mô hình 7: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm bốn yếu tố với hai bậc quan hệ. Bậc 1: YT2 phụ cho YT, YT4
phụ cho YT3; bậc 2: YT3 và YT4 phụ cho cả YT2 và YT1, trong đó YT1 là tên
gọi giống cây nông nghiệp, YT2, YT3, YT4 là những dấu hiệu đặc trưng (hình
thức của thân, củ, màu sắc của lá, vùng thổ nhưỡng) của giống cây trồng này.
YT1 YT2 YT3 YT4
Khoai sọ trứng dọc tím
66
Ví dụ: Khoai dân tộc lá tím
Khoai lang đồi trôn đỏ
Lúa nếp nương vỏ vàng
Lúa Thần Nông mặn mỏ quạ
Mô hình này gồm có 71 đơn vị, chiếm 3,81% trong tổng số các tên gọi cây
nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Đây là tên gọi các loại giống cây trồng
khác nhau được gieo trồng ở các vùng miền khác nhau của nước ta.
Mô hình 8: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm năm yếu tố: YT1 là tên gọi giống cây nông nghiệp, YT2 là số lần
lai tạo, YT3 là giống cây được chọn để lai tạo, YT4 là đặc tính của loại giống
được lai tạo, YT5 là kí hiệu mã số giống, lô giống, vụ sản xuất. Các yếu tố tạo
nên giống cây trồng trong mô hình này có bốn bậc quan hệ: bậc 1: YT3 phụ cho
YT2; bậc 2: YT2, YT3 phụ cho YT1; bậc 3: YT4 phụ cho cả YT1, YT2 và YT3;
bậc 4: YT5 phụ cho cả YT1, YT2, YT3 và YT4.
YT1 YT2 YT3 YT4 YT5
Lúa tẻ ba dòng Hương ưu 3068
Ví dụ: Lúa tẻ dòng Kinh Sở ưu ba 1588
Lúa tẻ hai dòng Phúc ưu 868
Lúa tẻ hai dòng Thanh Hương ưu 6
Mô hình này gồm có 66 đơn vị, chiếm 3,54% trong tổng số các tên gọi cây
nông nghiệp là ngữ định danh. Số lượng nhiều các yếu tố cấu tạo có trong cấu
trúc tên gọi phản ánh rõ các bước lai tạo theo các quy trình nghiên cứu khác
nhau để tạo ra những giống cây trồng mới.
67
Mô hình 9: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm năm yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp, YT2 là vỏ quả, YT3
là màu sắc của vỏ quả, YT4 là ruột quả, YT5 là màu sắc, tính chất của ruột quả.
Các yếu tố này có ba bậc quan hệ: bậc 1: YT3 phụ cho YT2, Yt5 phụ cho YT4;
bậc 2: YT2, YT3 với YT4 và YT5 có quan hệ đẳng lập với nhau; bậc 3: cả YT2,
YT3, YT4 và YT5 phụ cho YT1.
YT1 YT2 YT3 YT4 YT5
Chanh vỏ xanh ruột vàng
Ví dụ: Cam vỏ ruột vàng đỏ
Chuối vỏ ruột vàng đỏ
Mít vỏ múi đỏ xanh
Sầu riêng cơm hạt lép vàng
Mô hình này có 53 đơn vị, chiếm 2,84% trong tổng số các tên gọi cây nông
nghiệp là ngữ định danh. Đây là tên gọi thuộc các giống cây trồng đã có ở nước ta,
nhưng chúng đã trải qua quá trình lai tạo trong thời gian dài để có được giống mới
với nhiều đặc điểm nổi bật, khác biệt với cây cùng giống. Vì thế, những đặc điểm
nổi trội của giống cây trồng mới được thể hiện trong nhiều yếu tố khác nhau trong
cấu trúc của tên gọi được lai tạo.
Mô hình 10: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ
định danh gồm ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp,
YT2, YT3 biểu thị đặc điểm hình thức (quả, thân, lá, hạt,...) của cây nông nghiệp
đó.
YT1 YT2 YT3
Nho cầu vồng rực rỡ
68
Ví dụ: Nho ngọc bích xanh
Lúa nếp mèo đen
Lúa chiêm chân tía
Nhãn xuồng cơm vàng
Nhãn tiêu lá bầu
Mô hình này gồm 18 đơn vị, chiếm 0,97% trong tổng số tên gọi cây nông
nghiệp là ngữ định danh. Đây là tên gọi các giống cây trồng mới của nước ngoài
mới được nhập về trồng ở Việt Nam.
Trên đây là kết quả khảo sát, miêu tả của luận án về các mô hình cấu tạo tên
gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Luận án đã xác định được 10 mô hình cấu
tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Các mô hình này được sắp xếp theo
thứ tự từ nhiều đến ít số lượng tên gọi cây nông nghiệp trong mỗi mô hình. Các
mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp được tổng hợp trong bảng dưới đây:
STT Mô hình cấu tạo tên gọi Số lượng Tỉ lệ %
cây nông nghiệp
1. 679 36,43 Mô hình1
2. 416 22,32 Mô hình 2
3. 237 12,71 Mô hình 3
4. 137 7,35 Mô hình 4
5. 105 5,63 Mô hình 5
6. 82 4,40 Mô hình 6
7. 71 3,81 Mô hình 7
8. 66 3,54 Mô hình 8
9. 53 2,84 Mô hình 9
10. 18 0,97 Mô hình 10
Tổng số 10 Mô hình 1864 100
Bảng2.3. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh
69
Kết quả thống kê, xác lập và miêu tả các mô hình cấu tạo cây nông nghiệp là
ngữ định danh trong tiếng Việt trên đây cho thấy sự phong phú về mô hình cấu
tạo và sự đa dạng về đặc điểm của các yếu tố cấu tạo trong cấu trúc của tên gọi.
Số lượng nhiều yếu tố cấu tạo có mặt trong cấu trúc của rất nhiều tên gọi cây
nông nghiệp đã thể hiện sự phân tầng rõ rệt trong cách đặt tên cây nông nghiệp
mới được tạo ra từ thành quả nghiên cứu, tìm tòi không ngừng nghỉ của con
người để tạo ra nhiều giống cây mới có giá trị cao. Có thể khẳng định rằng tên
gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo gồm nhiều yếu tố chiếm số
lượng lớn chính là sự khác biệt lớn nhất và rõ rệt nhất giữa tên gọi cây nông
nghiệp trong tiếng Việt với tên gọi các loài thực vật nói chung trong tiếng Việt,
thể hiện rõ vai trò của con người trong việc đặt tên các giống cây trồng phục vụ
các nhu cầu khác nhau của con người. Sự phân biệt vai trò của các yếu tố cấu tạo
thành các bậc khác nhau là cơ sở chắc chắn cho phép lựa chọn nhiều dấu hiệu,
đặc điểm khác nhau để định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
2.4. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về đặc điểm định danh
2.4.1. Những dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp
Khi đặt tên một sự vật thì không gì lí tưởng hơn là chọn ra được đặc điểm
nào đó thuộc loại đặc trưng bản chất của sự vật để làm cơ sở gọi tên nó. Tuy
nhiên, cái gọi là "chất không chỉ bao gồm những yếu tố làm cho sự vật này khác
với sự vật kia, mà còn bao hàm cả những yếu tố chung, giống nhau giữa các sự
vật và hiện tượng" [105, tr.133]. "Mỗi thuộc tính là một mặt, một bộ phận của
chất (...). Có thuộc tính căn bản, có thuộc tính không căn bản" [105, tr.134]. Vì
vậy, khi định danh các đối tượng có chung những thuộc tính cơ bản nào đó trong
"chất" của mình, chỉ khác nhau ở những thuộc tính không căn bản, khi đó, người
ta sẽ không thể chọn đặc trưng cơ bản để định danh được nưa mà phải chọn các
thuộc tính không cơ bản, nhưng có giá trị khu biệt, để làm cơ sở cho tên gọi của
đối tượng. Song cái gọi là thuộc tính không cơ bản ấy khi so sánh các sự vật này
với các sự vật khác không cùng chất vẫn là các thuộc tính cơ bản, đặc trưng cho
70
"chất" của mỗi sự vật. Khi phải đặt tên cho hai đối tượng cùng thuộc "chất" lớn
thì những thuộc tính không cơ bản lại trở thành cơ bản để khu biệt chúng với
nhau. Ví dụ, khi định danh các giống lúa, những đặc điểm về môi trường sinh
trưởng, về tính chất của hạt lúa, về thời gian sinh trưởng, về màu sắc, về mùi
hương của hạt lúa,... lại trở thành cơ bản: lúa mùa, lúa chiêm, lúa ba giăng, lúa
nương, lúa rẫy, lúa lốc, lúa nổi, lúa nước, lúa sạ, lúa sớm, lúa thu, lúa xuân, lúa
nếp cẩm, lúa tám thơm,... Khi định danh (hay gọi tên) một loài cây nông nghiệp
nào đó, không phải người ta đặt cho nó một cái tên bất kì nào đó mà phải dựa
vào đặc điểm mà loài cây đó có. Tuy nhiên, người ta cũng không thể chọn hết tất
cả các đặc điểm của loài cây đó để đưa vào tên gọi của nó, mà chỉ chọn đặc điểm
có giá trị khu biệt loài cây này với loài cây khác. Chính việc chọn dấu hiệu làm
cơ sở cho tên gọi của đối tượng đã làm nên tính có lí do của tên gọi. Người ta gọi
đó là hình thái bên trong của từ. Đó là "đặc trưng định danh được biểu thị bằng
từ và tham gia với tư cách một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng
của từ" [37, tr.242]. Tính có lí do ấy có thể là lí do khách quan - nằm trong chính
bản thân đối tượng được gọi tên hoặc là lí do chủ quan - nằm ở chủ thể định
danh mà không nằm trong bản thân đối tượng.
Tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt có cấu tạo là từ đơn không thấy được lí
do của tên gọi có số lượng ít, chỉ có 260/2609 từ ngữ, chiếm 9,97%: lúa, ngô,
cam, bưởi, vải, nhãn, bơ, xoài, khoai, sắn, đậu, lạc, vừng, chuối, mía, ca cao,
cao su, cà phê, mắc ca, mãng cầu, măng cụt, lê ki ma, sa bô chê,... Các tên gọi
cây nông nghiệp có nguồn gốc từ ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có
145/2609 đơn vị, chiếm 5,56% : bèo đàng, blao blo non, blao tỏm pỉ, khẩu cẩm
panh, kháu cặm ngân,... (tên các giống lúa). Người dân tộc có thể xác định được
lí do của các tên gọi này, nhưng trong khuôn khổ của luận án chúng tôi không
tìm hiểu đặc điểm định danh các tên gọi loại này. Như vậy, việc xem xét đặc
điểm được chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp chỉ bao gồm những tên
gọi là các từ ngữ hiện nay có thể thấy rõ lí do.
71
Theo thống kê, trong số 2609 từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng
Việt có 405 tên gọi không thể giải thích được lí do (gồm 260 tên gọi là từ đơn và
145 tên gọi có nguồn gốc từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam) chiếm
15,52%; còn 2204 từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp có thể giải thích được lí do
một cách tương đối (chiếm 84,48% tổng số các từ ngữ chỉ tên gọi cây nông
nghiệp). Luận án tập trung phân tích và tìm hiệu đặc điểm định danh của 2204
tên gọi cây nông nghiệp có thể giải thích được lí do.
Các tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ ghép và ngữ định danh cho thấy
rõ lí do gọi tên. Những đơn vị định danh này là những tên gọi mà dựa vào hình
thái bên trong của từ, nghĩa là dựa vào ý nghĩa của các thành phần được tách ra
trong tên gọi người ta có thể giải thích được lí do của chúng một cách tương đối.
Ví dụ: lúa nương, lúa nếp, ngô lai, bưởi đào, bơ sáp, nho ngón tay, nhãn lồng
Hưng Yên, chuối mỏ giang, xoài tượng, sầu riêng hạt lép, thanh long ruột đỏ,
mãng cầu Xiêm,... Luận án đã xác lập được một hệ thống bao gồm 18 dấu
hiệu/đặc điểm dùng để làm cơ sở gọi tên cây nông nghiệp tiếng Việt. Đó là các
dấu hiệu/ đặc điểm:
1. mã hiệu/lô nguồn giống cây trồng;
2. giống cây cụ thể cùng loại;
3. nguồn gốc, xuất xứ của cây nông nghiệp;
4. đặc điểm hình thức của các loài thực vật khác;
5. đặc điểm hình thức động vật;
6. đặc điểm bộ phận cơ thể động vật;
7. đặc điểm hình thức của các vật thể khác;
8. đặc điểm hình thức bộ phận cơ thể người;
9. đặc điểm cấu tạo cây nông nghiệp;
10. đặc điểm màu sắc của cây nông nghiệp;
11. đặc điểm kích cỡ của cây nông nghiệp;
12. đặc điểm môi trường sống (môi trường sinh trưởng) của cây nông nghiệp;
72
13. thời gian sinh trưởng;
14. đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông nghiệp;
15. đặc điểm vị của bộ phận cây nông nghiệp;
16. đặc điểm mùi của bộ phận cây nông nghiệp;
17. tên các nhân vật lịch sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích;
18. tên người tạo ra sử dụng sản phẩm của loại cây trồng.
2.4.2. Các mô hình định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Sau đây luận án tiến hành tìm hiểu, phân tích tên gọi cây nông nghiệp theo
từng dấu hiệu/đặc điểm đã được xác định dùng để định danh cây nông nghiệp.
Những dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp được sắp
xếp theo thứ tự giảm dần của tần số xuất hiện của chúng.
Dựa vào bảng dấu hiệu/đặc điểm được chọn để định danh cây nông nghiệp
nêu trên đây, có thể cụ thể hóa mô hình định danh chung như sau:
Yếu tố chỉ loại + Đặc điểm được chọn của cây trồng
Dưới đây luận án sẽ miêu tả, tức là cụ thể hóa mô hình định danh chung.
1. Yếu tố chỉ loại + mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng
Ví dụ: Ngô lai LVN 10 là tên gọi một giống ngô gồm 2 yếu tố: ngô lai là yếu
tố chỉ loại; LVN 10 là mã hiệu lô/nguồn giống ngô lai này, phân biệt với giống
ngô lai khác, chẳng hạn: ngô lai HQ 2000.
Thuộc mô hình định danh này là các tên gọi như: ngô lai G 5449, ngô lai HQ
2000, ngô lai LVN 10, đậu tương D 140, đậu tương DN 42, đậu tương ĐT 93,
đậu xanh T 135, lạc L12, lạc LO 8, vừng V6, cà phê 01/20, cam sành CS8, cao
su LH82/158, cao su PB 260, cao su RRIM 600, chè LDP1, mía ROC 23, mía My
55-14, bưởi Năm Roi BN25, quýt tiều QT12, chôm chôm CĐN 13j, bông vải
VN20, thuốc lá C176, ...
2. Yếu tố chỉ loại + giống cây cụ thể cùng loại
73
Ví dụ: xoài bảy núi, xoài cát chu, xoài ba màu, xoài canh nông, bưởi da xanh,
bưởi lông cổ cò, bưởi đường lá cam, thanh long ruột đỏ, thanh long ruột vàng, nhãn
nước, nhãn tiêu, đào mỏ quạ, mận tam hoa, chuối tiêu hồng, chuối ngự, ...
3. Yếu tố chỉ loại + nguồn gốc/xuất xứ
Ví dụ: quýt chum Sa Đéc, thanh trà xứ Huế, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều
Thanh Hà, chè Tân Cương, măng cụt Tân Quy, ki uy ruột vàng Niu Di Lân, vú
sữa lò rèn Vĩnh Kim, chanh thơm Indo, nho Ruby Roman, dứa Cayen Chân
mộng, mía Quế Đường, lúa tám thơm Hải Hậu, khoai tây Atlantic, chè Thúy
Ngọc, chè Shan tuyết,...
4. Yếu tố chỉ loại + tên gọi loài thực vật khác
Hình thức/cấu tạo các bộ phận của cây nông nghiệp là một trong nhiều dấu
hiệu/đặc điểm thường được lựa chọn dùng để định danh cây nông nghiệp. Hình
thức thường được chú ý khi định danh dựa theo hình thức của thực vật khác.
Ví dụ: chuối lá, mía ngô, nếp hạt cau, nếp thầu dầu, khoai chuối, khoai lang
tre, khoai lang rau muống, củ từ lá quế, keo lá tràm, chanh leo hình chuối, nho
thân gỗ, cà phê vối, ổi găng, khoai chùm dâu,...
5. Yếu tố chỉ loại + tên gọi của động vật
Dùng tên gọi động vật để đặt tên cây nông nghiệp là do sự giống nhau về
hình thức, kích cỡ của bộ phận nào đó của cây trồng (quả, hạt,...) với hình thức,
kích cỡ của động vật đó.
Ví dụ: xoài voi, xoài tượng, ổi trâu, khoai chuột, lúa nếp con giòi, lúa tẻ tép,
lúa nếp con giòi Phù Yên, lúa tẻ tép Hải Dương, lúa tẻ tép Hải Phòng, lúa tẻ tép
Nghệ An,...
6. Yếu tố chỉ loại + tên gọi bộ phận cơ thể động vật
Nhiều loại cây nông nghiệp được gọi tên theo tên gọi của bộ phận cơ thể
động vật, có thể là vì loại cây đó có một bộ phận (quả, củ, lá ...) giống với hình
thức của bộ phận cơ thể động vật.
74
Ví dụ: khoai chân vịt, thông mã vĩ, keo tai tượng, ngô răng ngựa, khoai sọ
chân hổ, khoai sọ mặt quỷ, củ đầu trâu, chuối sừng bò, nếp mỏ quạ, kê đuôi
chồn, cao lương đuôi ngựa, lúa tám cổ ngỗng, bưởi đầu hổ, cam đầu hổ,...
7. Yếu tố chỉ loại + tên gọi vật thể khác
Nhiều cây trồng được định danh theo tên gọi của các vật thể khác dựa vào sự
giống nhau về hình thức của một bộ phận (vỏ, lá, củ, hạt, bông,...) với các vật thể
được dùng để gọi tên. Ví dụ: khoai đao, nếp râu, lúa chiêm râu Tây Bắc, quýt
chum Bắc Giang, quýt chum Bắc Quang, môn lựu đạn Gio Linh, nếp đinh, nếp
hạt cau, cam sành, keo lưỡi liềm, từ tam giác, củ cọc dậu, củ cọc rào, khoai lang
vồ, khoai bế em,...
8. Yếu tố chỉ loại + tên gọi bộ phận cơ thể người
Những bộ phận cơ thể con người thường được sử dụng để định danh các loại
cây nông nghiệp. Ví dụ: nho ngón tay, nho móng tay, nho mĩ nhân chỉ (nho ngón
tay mĩ nhân), nho sữa, phật thủ, nho ngón tay phù thủy,...
9. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm của bộ phận loại thực vật đó.
Ví dụ: chanh giấy, cam vỏ lụa, trám lá dài, chanh lá to, đào lộn hột, táo Thái
Lan quả dài, kiều mạch ba góc, tiêu lá bầu, chanh dây, sắn dù, thông ba lá,...
10. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm màu sắc các bộ phận của loại cây trồng đó
Các bộ phận của cây được dùng để định danh gồm:
- Quả: bưởi đào, nho đen, quýt vàng, bưởi da xanh, chanh đỏ, bơ vỏ tím, táo đỏ,
trám trắng, trám đen,...
- Hạt, ruột: đậu xanh, đậu đen, thanh long ruột đỏ, khoai lang tím, khoai quế
hường, ki uy ruột vàng, sầu riêng ruột đỏ, chanh đào, sầu riêng ruột đỏ, nho cầu
vồng rực rỡ,...
11. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm kích cỡ
- Kích cỡ của cây: lúa dự cao cây, lúa bắc giàn (giống lúa thân rất cao), lúa
dự lùn, lúa nếp lùn, chuối lùn, táo lùn, táo lùn Mĩ, táo đỏ lùn, mía de (giống mía
thân nhỏ, vỏ cứng),...
75
- Kích cỡ của quả, hạt: chuối ngốp (giống chuối có quả rất to), củ cái, nưa
khổng lồ, khoai từ lớn, khoai môn tí (giống khoai củ nhỏ nhưng rất ngon), táo đại,…
12. Yếu tố chỉ loại + môi trường sống (nơi sinh trưởng)
Môi trường sống của các loại cây nông nghiệp rất đa dang, gồm môi trường
chính là trên cạn và nước.
- Môi trường sống trên cạn: lúa mộ (giống lúa gieo hạt trực tiếp trên đất cát
pha), khoai sọ đồng, lúa mạch, lúa mì, cao lương, kiều mạch, quýt đất cát,...
- Môi trường sống trên đồi, núi: khoai sọ đồi, khoai sọ nương, khoai sọ núi,
khoai sọ rừng, xoan chịu hạn (giống lúa tám xoan có khả năng chịu hạn tốt), cam
núi, khoai đồi, lúa nương,…
- Môi trường sống dưới nước: lúa nước, lúa lốc, dừa nước, khoai nước, từ
nước, lúa ngoi (giống lúa có khả năng mọc vươn cao theo mực nước),...
13. Yếu tố chỉ loại + thời gian sinh trưởng
Tên gọi cây nông nghiệp mang đặc trưng thời gian gồm có các kiểu sau:
- Thời gian sinh trưởng: lúa ba giăng, khoai lang ba tháng tím, lúa ngắn
ngày, khoai lang 2 tháng rưỡi,...
- Thời gian gieo trồng: lúa chiêm, lúa mùa, ngô đông, lúa đông xuân, từ
ngược mùa, khoai sọ muộn, lúa sớm, lúa thu, nhãn muộn, nhãn muộn Hà Tây,...
- Thời gian thu hái: nhãn chín muộn, vải chín sớm, vải chín muộn, cam chín sớm,...
14. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông nghiệp
Khá nhiều tên gọi cây nông nghiệp thể hiện các đặc điểm, tính chất của từng
loại, từng giống cây. Những đặc điểm, tính chất được lựa chọn chủ yếu liên quan
đến các bộ phận nào của cây (quả, hạt, thân, củ,...) phục vụ nhu cầu đời sống của
con người:
- Đặc điểm của hạt: lúa nếp, lúa tẻ, ngô nếp, ngô tẻ, ngô nếp lai tím dẻo, ...
- Đặc điểm, tính chất của củ, quả: mít dai, táo giòn, nhãn nước, ổi mỡ, củ
mỡ, khoai dai, xoài cát, dừa sáp, nhãn cùi, sắn bở, nho không hạt, hồng không
hạt, bưởi ngọt,...
76
15. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm mùi
Loại mùi được dùng để định danh cây nông nghiệp là dựa vào mùi của quả, của
hạt khi chín. Ví dụ: lúa nhài (giống lúa cho hạt gạo có mùi thơm của hoa nhài), lúa
tám thơm, chanh thơm Indo, quýt hôi, khoai quế (khoai củ có mùi của vỏ cây quế),
lúa nàng thơm chợ Đào, lúa bắc hương, nếp thơm Tú Lệ, nếp dầu hương, lúa tẻ
hương cốm, khoai tím thơm, khoai sọ thơm, nhãn hương chi, chanh thơm,...
16. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm vị
Đặc điểm vị được dùng để định danh cây nông nghiệp chủ yếu thể hiện vị
của bộ phận quả, củ và hạt của các loại cây trồng. Ví dụ: quýt ngọt, bưởi chua,
bưởi đường, khế ngọt, khế chua, nhãn đường phèn (giống nhãn cho quả chín có
vị ngọt thanh như đường phèn), quýt đường Cái Bè Tiền Giang, quýt đường Lai
Vung Đồng Tháp, quýt đường Thái, cam mật không hạt, cam mật Ôn Châu, táo
ngọt, táo Thiện Phiến ngọt, chanh đắng, cam bạc hà,...
17. Yếu tố chỉ loại + tên các nhân vật lịch sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích
Cây nông nghiệp là loại cây do con người gieo trồng, chăm sóc để tạo ra sản
phẩm phục vụ cuộc sống của con người. Nhiều giống cây trồng cho sản phẩm có
chất lượng rất cao, rất tốt theo đánh giá của con người. Những giống cây trồng
cho sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp như vậy thường được đặt tên theo
tên các nhân vật lịch sử hoặc trong truyện cổ tích.
Ví dụ: lúa nếp Lang Liêu, lúa tẻ nàng Hoa, lúa tẻ nàng Xuân, lúa nếp
cô Tiên, lúa nếp Hoàng hậu, khoai tây Aladin, lúa Thần Nông, đào Tây
Vương Mẫu,...
- Lúa nếp Lang Liêu: giống lúa nếp được chọn tạo từ giống lúa nếp cổ truyền
của Việt Nam cho năng suất, chất lượng cao, gạo thơm, cơm dẻo, được trồng
phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn đặc cách công nhận là giống Quốc gia tại Quyết định số 417/QĐ-TT-CLT
ngày 15/10/2010. Giống lúa nếp này được lấy tên của một vị vua Hùng - Lang
Liêu - để đặt tên.
77
18. Yếu tố chỉ loại + tên người tạo ra giống cây trồng
Nhiều giống cây trồng là sản phẩm do con người tạo ra. Để ghi nhớ, người ta
thường lấy tên người tạo ra giống cây đó để gọi tên cây. Vì vậy, có khá nhiều
loại cây được gọi tên bằng chính tên người tạo ra cây trồng. Có thể nêu ra một số
ví dụ cụ thể về cách định danh này.
- Bưởi Năm Roi: loại bưởi do lão nông Bùi Văn Tước nay đã 85 tuổi tạo ra.
Tên ông đã nổi tiếng nhưng bà con ở ấp Thuận Tân, xã Thuận An, huyện Bình
Minh, tỉnh Vĩnh Long cứ quen gọi là bác Mười Tước hay thân mật hơn là ông
Năm Roi. Hỏi về biệt danh Năm Roi, ông bảo: "Sở dĩ người ta gọi tui là ông
Năm Roi bởi vì tích xưa cách đây trên 57 năm rồi. Hồi đó, tui còn là một thanh
niên mê làm ruộng làm vườn, có lần đến nhà người bác là ông hội đồng Bùi
Quang Quy chơi, được cho ăn thứ bưởi gì ngon quá. Ông bác cho biết đây là
trái cây của cây bưởi ngoài bụi trầu và căn dặn con cháu rào kĩ, đứa nào lén hái
bưởi ăn là bị đánh 5 roi. Tui là đứa đã bị ăn 5 roi vô mông. Sau đó, con của ông
bác là ông Bùi Hà Thanh cho tui chiết 5 nhánh về trồng cho trái rất ngon".
Được biết từ đó cây bưởi có tên Năm Roi và được nhân giống trồng rộng rãi cho
tới ngày nay. Bưởi Năm Roi đã đạt giải nhất cuộc thi Trái ngon miệt vườn do
tỉnh Vĩnh Long tổ chức vào năm 1996. Một phát hiện lí thú hơn là vào năm
1966, ông Mười Tước đã nhân giống thành công giống lúa IR8 (lúa Thần Nông)
đầu tiên của Việt Nam và được tặng bằng khen Nông nghiệp Bội tinh đệ nhị
hạng của chính quyền Sài Gòn. [Lịch sử Bưởi Nam Roi, Theo Trái cây miền
Nam, ngày 28 tháng 03 năm 2014].
- Táo Antonov: loại táo có màu vỏ xanh phớt vàng, có mùi hương rất thơm,
giữ được lâu, do nhà bác học Nga Antonov tạo ra.
Kết quả miêu tả, phân tích các đặc điểm được dùng để định danh cây nông
nghiệp được tổng hợp trong bảng sau đây:
78
STT Dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh Số lượng Tỉ lệ %
1 Mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng 435 19,74
2 Giống cây cụ thể cùng loại 384 17,42
3 Nguồn gốc, xuất xứ cây nông nghiệp 281 12,75
4 Hình thức của thực vật khác 231 10,48
5 Hình thức của động vật 187 8,48
6 Hình thức bộ phận cơ thể động vật 141 6,40
7 Hình thức vật thể khác 105 4,76
8 Hình thức bộ phận cơ thể người 98 4,44
9 Đặc điểm cấu tạo 75 3,40
10 Đặc điểm màu sắc 51 2,31
11 Đặc điểm kích cỡ 46 2,08
12 Môi trường sống (nơi sinh trưởng) 41 1,86
13 Thời gian sinh trưởng 32 1,46
14 Đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông 29 1,32
nghiệp
15 Đặc điểm mùi 26 1,18
16 Đặc điểm vị 23 1,05
17 Tên các nhân vật lịch sử hoặc trong truyện cổ 15 0,68
tích
4 0,18 18 Tên người tạo ra giống cây trồng
2204 100 TỔNG SỐ
Bảng 2.4. Tổng hợp các đặc điểm dùng để định danh cây nông nghiệp
Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể thấy rằng những dấu hiệu đặc trưng được
chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp thường là những đặc trưng mang tính
khách quan, nghĩa là những thuộc tính thuộc vốn có của chính các loài cây nông
nghiệp. Đó là những những đặc trưng thuộc hình thức bên ngoài hay thuộc tính
79
bản thể của các loài cây nông nghiệp đó. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rõ
rằng, cũng thuộc thực vật nhưng cây nông nghiệp không phải là loài mọc hoang
mà là những loài cây do con người thuần hóa, lai tạo mà thành với mục đích
phục vụ cuộc sống, sự sinh tồn của con người. Do đó chúng gắn bó mật thiết với
xã hội loài người. Khi các loài cây được thuần hóa để chúng trở thành cây nông
nghiệp, con người lại áp dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ để lai tạo ra rất
nhiều giống cây nông nghiệp mới có sản lượng cao, chất lượng tốt phục vụ nhu
cầu ngày một cao của mình. Cho nên tên gọi cây nông nghiệp mang rất nhiều
những đặc điểm gắn liền với đời sống con người. Các loại cây nông nghiệp được
đặt tên đều thông qua nhận thức, hiểu biết của con người về đặc điểm của từng
loài cây đó. Các đặc điểm, thuộc tính được dùng để định danh cây nông nghiệp
đều đã được con người lựa chọn kĩ lưỡng thông qua nhận thức và hiểu biết của
mình. Vì vậy, trong tên gọi cây nông nghiệp hàm chứa các thông tin phản ánh
đặc điểm tư duy, đặc điểm văn hóa của cộng đồng người sử dụng, gieo trồng,
chăm sóc các loài cây nông nghiệp đang tồn tại và phát triển trong không gian
sinh tồn của mình. Đây chính là đặc trưng của cách định danh cây nông nghiệp
tiếng Việt, thể hiện rõ sự khác biệt với cách định danh thực vật nói chung và với
cách định danh cây nông nghiệp trong các ngôn ngữ khác.
2.4.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về các bậc định danh
Kết quả nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt về phương diện
cấu tạo và về phương diện những đặc trưng được dùng để định danh ở các mục
nêu trên có thể khẳng định rằng người Việt thường sử dụng nhiều đặc trưng để
gọi tên từng cây nông nghiệp bằng từ và ngữ định danh. Cách định danh nhiều
bậc như vậy, một mặt, đã cho phép phân biệt rất rõ ràng từng giống cây trong
cùng một họ, mặt khác, chỉ rõ những đặc điểm, tính chất, công dụng của các
phần, các bộ phận của cây được con người sử dụng với các mục đích khác nhau
trong cuộc sống. Điều này có nghĩa là, về phương diện định danh, dù là định
danh gốc hay định phái sinh, tên gọi cây nông nghiệp đều chứa đựng một số các
80
dấu hiệu/đặc điểm khác nhau dùng để định danh. Sau đây là kết quả khảo sát cụ
thể.
2.4.3.1. Tên gọi cây nông nghiệp có một dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt
được đặt tên chỉ với một đặc trưng có số lượng lớn. Đặc trưng được dùng để gọi
tên cây nông nghiệp thường đa dạng: giống, hình thức, cấu tạo, kích cỡ,... Có
1242/2204 tên gọi cây nông nghiệp sử dụng một dấu hiệu/đặc điểm để định danh
(đặt tên), chiếm 56,35%. Cụ thể như sau:
a. Đặc điểm giống cây nông nghiệp các loại: gồm 334/1242 tên gọi, chiếm
26,89%, ví dụ: xoài tứ quý, xoài hạt lép, xoài cát chu, xoài ba màu, xoài canh
nông, bưởi da xanh, bưởi đường, bưởi lông cổ cò, thanh long ruột đỏ, thanh long
ruột vàng, đào mỏ quạ, mận tam hoa, chè Shan tuyết, sầu riêng hạt lép, vú sữa lò
rèn, mít tố nữ, mít ruột đỏ, khoai sáp tím, khoai sáp vàng,...
b. Đặc điểm nguồn gốc/xuất xứ: có 279/1242 tên gọi, chiếm 22,46%, ví dụ:
bưởi Đoan Hùng, bưởi Phúc Trạch, hồng Hạc Trì, mận Bắc Hà, thanh trà xứ
Huế, cam Canh, cam Bố Hạ, dứa Đồng Giao, chè Phú Thọ, chè Tân Cương,
măng cụt Tân Quy, mãng cầu Xiêm, cam Cao Phong, chanh Tây Ban Nha, nho
Ninh Thuận, chanh Tây Ban Nha, đào Trung quốc, chanh Thái, nho Muscat -
Moscuto, nho Nam Phi, nho Ruby Roman,...
c. Đặc điểm, tính chất của củ, quả: có 140/1242 tên gọi, chiếm 11,27%, ví
dụ: mít dai, táo giòn, táo bở, nhãn nước, ổi mỡ, khoai dai, xoài cát, dừa sáp,
môn mịn, nhãn cùi, sắn bở, sắn dượng, hồng không hạt, chanh không hạt, bưởi
chua, quýt ngọt, cam đường, ngô ngọt, nhãn cùi, ngô đường, na dai, xoài cơm,...
d. Đặc điểm hình thức: có 100/1242 tên gọi, chiếm 8,05%, cụ thể là:
+ Hình thức bộ phận cơ thể động vật: có 35 tên gọi, ví dụ: khoai chân vịt,
thông mã vĩ, keo tai tượng, chuối mỏ giang, ngô răng ngựa, khoai trứng, khoai
sọ, củ gan trâu, củ đầu rồng, chuối sừng bò, nếp mỏ quạ, đào mỏ quạ, kê đuôi
chồn, cao lương đuôi ngựa,...
81
+ Hình thức bộ phận cơ thể người: có 27 tên gọi, ví dụ: nho ngón tay, nho
móng tay, nho chuỗi ngọc, nho mĩ nhân chỉ, nho sữa, phật thủ, nho ngón tay phù
thủy, khoai sọ,...
+ Hình thức vật thể khác: có 21 tên gọi, ví dụ: khoai đao, nếp râu, quýt chum,
nếp đinh, nếp hạt cau, cam sành, keo lưỡi liềm, từ tam giác, củ cọc dậu, củ cọc rào,
khoai bế em,...
e. Đặc điểm mùi, vị: có 97/1242 tên gọi, chiếm 7,81%, ví dụ: lúa nhài, quýt
hôi, khoai quế, nếp quýt, môn thơm, nếp thơm, chanh thơm, quýt ngọt, bưởi
chua, bưởi đường, khế ngọt, khế chua, chanh đắng,...
g. Đặc điểm thời gian: có 81/1242 tên gọi, chiếm 6,52%, ví dụ: lúa chiêm,
lúa mùa, ngô đông, lúa đông xuân, lúa sớm, lúa thu, nhãn muộn, lúa ngắn ngày,
khoai lang ba tháng, khoai lang hai tháng rưỡi, khoai sọ ba tháng, khoai sọ sớm,
khoai trại, lạc ngắn ngày,...
h. Đặc điểm môi trường sống: có 75/1242 tên gọi, chiếm 6,04%, ví dụ: lúa
mộ, lúa mạch, lúa mì, cao lương, lúa nước, lúa lốc, dừa nước, khoai nước, từ
nước, lúa ngoi,...
i. Đặc điểm màu sắc: có 67/1242 tên gọi, chiếm 5,40%, ví dụ: bưởi đào, nho
đen, quýt vàng, chanh đỏ, bơ vỏ tím, táo má hồng, táo đỏ, táo xanh, mía tím,
trám trắng, trám đen,...
k. Đặc điểm cấu tạo: có 52/1242 tên gọi, chiếm 4,19%, ví dụ: chanh giấy,
cam giấy, cam vỏ lụa, xoài cát, trám lá dài, cam lá to, từ gai, từ lông, tiêu lá
bầu, chanh dây, thông ba lá,...
l. Đặc điểm kích cỡ: có 17/1242 tên gọi, chiếm 1,37%, ví dụ: chuối lùn, mía
de, chuối ngốp, củ cái, táo đại,...
2.4.3.2. Tên gọi cây nông nghiệp có hai dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh
Kết quả khảo sát của luận án cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt được
đặt tên với hai đặc trưng cũng có số lượng lớn với 586/2204 tên gọi, chiếm
82
26,58%. Các loại đặc trưng được dùng để đặt tên cây nông nghiệp cũng đa dạng.
Cụ thể là:
a. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng: có
176/586 tên gọi, chiếm 30,00%, ví dụ: ngô lai LVN 10, đậu tương ĐT 93, đậu
xanh T135, cao su LH82/158, chè LDP1, mía ROC 23, bưởi Năm Roi BN25, cam
sành CS8, quýt tiều QT12, chôm chôm CĐN 13j, nhãn BT20NXCV, sầu riêng
EAKV-01, xoài CT1 Hòa Lộc, bông vải VN20, thuốc lá C176,...
b. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm màu sắc (của vỏ, hạt, hoa,
cây,...): có 137/586 tên gọi, chiếm 24,21%, ví dụ: lúa nếp cẩm, lúa nếp cái hoa
vàng, lúa chiêm chân tía, mít vỏ xanh múi đỏ, nho ngọc bích xanh, ngô nếp tím,
lúa nếp đen,...
c. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm môi trường sinh trưởng: có
105/586 tên gọi, chiếm 17,69%, ví dụ: khoai sọ đồi, khoai sọ nương, khoai sọ
núi, khoai sọ rừng, khoai sọ đồng, xoan chịu hạn, lúa tẻ nương, lúa nếp nương,
kiều mạch đất cát,...
d. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm xuất xứ: có 93/586 tên gọi,
chiếm 15,60%, ví dụ: quýt đường Cái Bè Tiền Giang, cam sành Hàm Yên, cam
mật Ôn Châu, quýt đường Lai Vung Đồng Tháp, quýt đường Thái,...
e. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với tên người: có 75/586 tên gọi, chiếm
12,50%, ví dụ: lúa nếp Lang Liêu, lúa tẻ nàng Hoa, lúa tẻ nàng Xuân, lúa nếp cô
Tiên, lúa nếp Hoàng hậu, khoai tây Aladin,...
2.4.3.3. Tên gọi cây nông nghiệp có ba đặc trưng dùng để định danh
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt
được đặt tên với ba đặc trưng có số lượng ít với 376/2204 tên gọi, chiếm
17,07%. Đặc trưng được dùng để đặt tên cây nông nghiệp cũng rất đa dạng. Cụ
thể là:
a. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm tính chất (hình dáng, màu sắc,
mùi, vị,...) và xuất xứ giống cây trồng: có 143/376 tên gọi, chiếm 38,03%, ví dụ:
83
quýt vỏ giòn Hà Giang, lúa chiêm tía chân Thái Nguyên, lúa chiêm sành Cẩm
Khê, lúa dự nghển Hòa Bình, lúa dự thơm đen Thái Bình, lúa nếp con giòi Phù
Yên, lúa nếp đuôi trâu Phù Yên, lúa nếp hạt cau Nghệ An, quýt da xanh Cái Bè,
bưởi da xanh Bến Tre,...
b. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với môi trường, thời gian sinh trưởng và đặc
điểm cấu tạo: có 128/376 tên gọi, chiếm 34,04%, ví dụ: lúa nếp nương có đuôi,
lúa nếp nương vỏ trấu vàng, khoai lang ba tháng tím, khoai lang đồi chỏm đỏ,
khoai sọ trứng dọc tím, nhãn xuồng cơm vàng sữa,...
c. Đặc điểm chỉ loại kết hợp với giống và mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng: có
105/376 tên gọi, chiếm 27,93%, ví dụ: mía quế đường 11, lúa lai nhị ưu 68, ngô
đường Golden Sweeter 93, lạc ngắn ngày GV10, lúa lai Bác ưu 253, lúa lai Trang
Nông 15, dâu tằm tam bội 36, cà phê vối TR4, cà phê chè TN1, lúa tẻ Vũ Di 3,...
Như vậy, có tất cả 18 dấu hiệu/đặc điểm được sử dụng để định danh cây
nông nghiệp trong tiếng Việt. Kết quả miêu tả, phân tích các bậc định danh cây
nông nghiệp được tổng hợp trong bảng sau đây:
STT Loại Các dấu hiệu/đặc điểm Số Tỉ lệ
tên gọi dùng để định danh lượng %
1. Đặc điểm giống cây nông nghiệp các 334 26,89
loại
Tên gọi 2. Đặc điểm nguồn gốc/xuất xứ 279 22,46
1. dùng 1 3. Đặc điểm, tính chất của củ, quả 140 11,27
đặc điểm 100 8,05 4. Đặc điểm hình thức
định danh 97 7,81 5. Đặc điểm mùi, vị
(1242/2204) 81 6,52 6. Đặc điểm thời gian
75 6,04 7. Đặc điểm môi trường sống
67 5,40 8. Đặc điểm màu sắc
52 4,19 9. Đặc điểm cấu tạo
84
10. Đặc điểm kích cỡ 17 1,37
1. Đặc điểm chỉ giống + mã hiệu 176 30,00%
Tên gọi lô/nguồn giống cây trồng
dùng 2 2. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm màu 137 24,21%
2. đặc điểm sắc
định danh 3. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm môi 105 17,69%
(586/2204) trường sinh trưởng
4. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm xuất 93 15,60%
xứ
5. Đặc điểm chỉ giống + tên người (tạo 75 12,50%
ra giống cây trồng hay các nhân vật lịch
sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích)
Tên gọi 1. Đặc điểm chỉ giống + xuất xứ + đặc 143 38,03%
dùng 3 điểm tính chất (hình dáng, màu sắc, mùi,
3. đặc điểm vị,...)
định danh 2. Đặc điểm chỉ giống + môi trường, 128 34,04%
(376/2204) thời gian sinh trưởng + đặc điểm cấu tạo
3. Đặc điểm chỉ loại + giống, cách thức 105 27,93%
lai tạo + mã hiệu lô/nguồn giống
TỔNG CỘNG 2204 100%
Bảng 2.5. Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Kết quả miêu tả, phân tích các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp nêu trên
có thể khẳng định rằng, tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, một mặt, thể
hiện được những đặc điểm của giống cây cụ thể, mặt khác, cũng thể hiện rõ vị trí,
trật tự thể hiện chức năng của những dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để đặt tên.
Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt thể hiện sự hiểu biết
kĩ càng của người Việt về vai trò, giá trị của từng loại cây nông nghiệp đối với
cuộc sống con người qua sự lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm dùng để đặt tên. Theo
85
đó, trong tổng số 2204 cây nông nghiệp được khảo sát thì những cây nông nghiệp
chỉ dùng một dấu hiệu/đặc điểm để đặt tên có số lượng nhiều nhất: 1242/2204,
chiếm 56,35%. Có 10 dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh các giống
cây trồng, trong đó hai dấu hiệu là đặc điểm giống cây trồng và đặc điểm nguồn
gốc/xuất xứ của giống cây trồng được sử dụng nhiều nhất để đặt tên cây trồng.
Điều đó cho thấy người Việt rất chú ý đến việc lựa chọn giống cây trồng và nguồn
gốc của chúng cho phù hợp với thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên từng vùng miền để
gieo trồng cho năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Những dấu hiệu/đặc điểm
về hình thức, tính chất của bộ phận của cây trồng được thu hoạch phục vụ đời
sống con người cũng là những dấu hiệu thường được dùng để đặt tên gọi cho cây
trồng. Trong trường hợp dùng một dấu hiệu/đặc điểm không đủ khả năng phân
biệt các giống cây trồng với nhau thì phải lựa chọn thêm các dấu hiệu thứ hai để
đặt tên. Khi đó những dấu hiệu/đặc điểm có khả năng phân biệt các giống cây
trồng thuộc cùng một loại sẽ được lựa chọn. Đó là năm dấu hiệu/đặc điểm: mã
hiệu lô/nguồn giống cây trồng; đặc điểm màu sắc sản phẩm của cây trồng; đặc
điểm môi trường sinh trưởng; đặc điểm xuất xứ của cây trồng và tên người tạo ra
giống cây trồng đó (dùng tên người để đặt tên giống cây trồng). Nếu hai dấu
hiệu/đặc điểm được chọn vẫn không thể biệt loại các cây trồng với nhau thì người
Việt sẽ chọn thêm một dấu hiệu nữa để gọi tên cây trồng. Khi đó sẽ có ba dấu hiệu
dược dùng để đặt tên cây trồng. Dấu hiệu thứ ba được dùng để đặt tên cây trồng
vẫn là những dấu hiệu về tính chất của sản phẩm cây trồng (mùi vị, hình dáng,
màu sắc,...); đặc điểm về môi trường sống, thời gian sinh trưởng của cây trồng hay
đặc điểm về lai tạo, nguồn giống cây trồng.
Như vậy, việc lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm để định danh cây trồng, việc sử
dụng bao nhiêu dấu hiệu/đặc điểm để đặt tên cho cây trồng đều thể hiện rõ nguyên
tắc dĩ nhân vi trung, nghĩa là cây trồng được đặt tên đều thông qua sự nhận thức,
hiểu biết sâu sắc của người Việt về từng loại cây trồng, về vai trò, giá trị sản phẩm
của từng loại cây trồng trong cuộc sống của mình.
86
Tiểu kết
Chương này tập trung nghiên cứu đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp tiếng
Việt. Luận án đã trình bày khái quát về cây nông nghiệp làm cơ sở lí thuyết để
nghiên cứu đặc điểm định danh cây nông nghiệp tiếng Việt. Dựa vào kết quả thu
thập, thống kê tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án đã tiến hành tìm hiểu
đặc điểm tên gọi các tên gọi cây nông nghiệp từ ba bình diện: nguồn gốc ngôn
ngữ của tên gọi; phương thức cấu của tên gọi và những dấu hiệu/đặc điểm được
dùng để gọi tên.
Về phương diện nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, các tên gọi cây nông
nghiệp trong tiếng Việt chủ yếu có nguồn gốc Việt. Những tên gọi có nguồn gốc
ngoại lai (vay mượn tiếng nước ngoài và vay mượn từ các ngôn ngữ dân tộc
thiểu số) không nhiều cho thấy những loại cây trồng trên thế giới nhập vào Việt
Nam không nhiều, chủ yếu là những cây trồng có đặc điểm sinh học phù hợp với
điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu nhiệt đới của nước ta. Cây nông nghiệp có tên
gọi là ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là những giống cây trồng phù
hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở vùng địa lí mà các cộng đồng dân tộc thiểu số
sinh sống.
Về đặc điểm cấu tạo, các tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có hình
thức cấu tạo đa dạng. Chúng có thể là những từ đơn, từ ghép và ngữ định danh.
Tất cả những cách thức cấu tạo từ, ngữ đó đã tạo ra hệ thống các tên gọi khác
nhau nhằm định danh hàng loạt các giống cây trồng. Cách thức cấu tạo từ, ngữ
của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt cũng thể hiện đặc điểm loại hình
ngôn ngữ của tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính điển hình.
Về phương diện dấu hiệu/đặc điểm dùng để gọi tên, luận án đã xác định được
các đặc điểm được sử dụng để định danh cây nông nghiệp và tiến hành phân loại
cây nông nghiệp theo các đặc điểm định danh đã xác định được. Đặc trưng định
danh cây nông nghiệp đã được miêu tả, phân tích cụ thể theo từng loại dấu hiệu/
đặc điểm về mặt số lượng và tỉ lệ phần trăm. Kết quả nghiên cứu cho thấy 18 dấu
87
hiệu/đặc điểm được chọn làm cơ sở định danh thường là những đặc trưng khách
quan, tức là những thuộc tính thuộc khách thể của chính các loại cây trồng. Đó là
những dấu hiệu/đặc điểm thuộc hình thức bên ngoài hay thuộc tính bản thể của
cây trồng đó. Đồng thời, khi tri giác để định danh cây nông nghiệp, người Việt
thường chú ý nhiều nhất đến những bộ phận có ích, phục vụ mọi mặt cuộc sống
của con người, như quả, củ, hạt, cùi, thân, lá, hoa. Trong bộ các dấu hiệu/đặc
điểm đã được xác lập, dễ nhận thấy là những dấu hiệu/đặc điểm có tần số xuất
hiện cao trong tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là những đặc điểm của những
bộ phận "lộ thiên" dễ thấy của cây trồng (quả, hạt, lá, hoa, thân), những bộ phận
có ích cho cuộc sống của con người (củ, hạt, cùi, rễ), những đặc trưng tác động
trục tiếp đến các giác quan của con người như: đặc điểm về hình thức, đặc điểm
về kích cỡ, đặc điểm về màu sắc và đặc điểm về mùi, vị.
Luận án đã xác định được các bậc định danh trong tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt. Theo đó, khi đặt tên cây nông nghiệp người Việt chỉ sử dụng tối
đa ba dấu hiệu/đặc điểm để định danh, trong đó, cây nông nghiệp được đặt tên
chỉ bằng một dấu hiệu/đặc điểm chiếm số lượng lớn nhất; tiếp đến là cây được
đặt tên bằng hai dấu hiệu/đặc điểm, còn cây nông nghiệp được đặt tên bằng ba
dấu hiệu/đặc điểm có số lượng ít nhất. Điều đó phản ánh sự tri nhận chính xác về
từng loại cây nông nghiệp của người Việt rồi mới lựa chọn các dấu hiệu/đặc
điểm để đặt tên cho chúng.
88
CHƯƠNG 3:
ĐỊNH NGHĨA TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TIẾNG VIỆT TRONG
CÁC TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH
3.1. Dẫn nhập
Xem xét từ với tư cách là tín hiệu ngôn ngữ thì cái biểu hiện là hình thức cấu
tạo (hình thức ngữ âm) của từ, còn cái được biểu hiện chính là nội dung ý nghĩa
của từ. Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa là cái chung cho những
từ cùng loại. Nghĩa từ là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con
người và được thể hiện bằng ngôn ngữ. Sự phân tích nghĩa từ thành các nét nghĩa
đã được áp dụng rất hiệu quả trong công tác biên soạn từ điển. Việc miêu tả ý
nghĩa của từ trong từ điển trên cấp độ cấu trúc được thực hiện chính bằng
phương pháp phân tích thành tố (componential analysis). Hầu hết các định nghĩa
trong từ điển giải thích đều thực hiện công việc phân giải nội dung ý nghĩa của
từ ra thành các nét nghĩa. Vì vậy, có thể coi các định nghĩa của từ trong từ điển
giải thích là cách diễn giải nghĩa từ thành một danh sách các nét nghĩa cần và đủ
để phân định ý nghĩa này với ý nghĩa của tất cả các đơn vị khác của ngôn ngữ.
Định nghĩa từ điển của một từ cung cấp sự hiểu biết đầy đủ, chính xác ý nghĩa
của từ. Phân tích nghĩa của các từ ngữ chỉ cây nông nghiệp trong tiếng Việt bằng
cách dựa vào lời định nghĩa từ điển của chúng, qua đó có thể thấy được người
Việt thường tri giác loại cây nông nghiệp như thế nào khi nhận thức về chúng.
Trong chương này, luận án áp dụng lí thuyết phân tích thành tố nghĩa để xác
định các nét nghĩa trong định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong Từ
điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) [125] để từ đó tìm hiểu những đặc điểm
ngữ nghĩa của các cây nông nghiệp trong tiếng Việt.
3.2. Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt
Trong số nhiều phương pháp được sử dụng trong ngữ nghĩa học hiện đại thì
phương pháp phân tích thành tố được xem là một trong những phương pháp có
89
hiệu quả nhất và được phổ biến rộng rãi nhất. Phương pháp này được sử dụng
rộng rãi để nghiên cứu các bình diện khác nhau của vốn từ vựng. Nhiều nhà ngữ
nghĩa học còn coi phương pháp này như một phổ niệm trong ngôn ngữ học. Mục
đích của phương pháp này là nghiên cứu ý nghĩa từ vựng của các đơn vị ngôn
ngữ. Phương pháp này ít nhất được đặt cơ sở trên hai giả định sau đây:
Thứ nhất, ý nghĩa của mỗi đơn vị thuộc một cấp độ nhất định của cấu trúc
ngôn ngữ (ở đây ta thường nói về từ) bao gồm một bộ các dấu hiệu ngữ nghĩa
(còn gọi là nét nghĩa, nghĩa vị, nhân tử ngữ nghĩa).
Thứ hai, toàn bộ thành phần từ vựng của ngôn ngữ có thể được miêu tả nhờ
một số lượng có hạn, tương đối không lớn lắm các đơn vị này.
Luận án ứng dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân giải những
lời định nghĩa từ điển của mục từ ngữ chỉ cây nông nghiệp trong tiếng Việt ra
thành các nét khu biệt, phản ánh những đặc trưng cơ bản của đối tượng được
biểu thị. Đối tượng được phân tích gồm 386 mục từ tên gọi cây nông nghiệp
trong Từ điển tiếng Việt. Cấu trúc lời giải thích của mỗi mục từ tên gọi cây nông
nghiệp trong tiếng Việt gồm hai phần: phần chỉ ra loại - tên gọi chỉ loại cây nông
nghiệp và phần nêu các đặc trưng khu biệt của nó. Các từ đều có cấu trúc nghĩa
W = S + v, trong đó, W là từ đầu mục, S là từ bao, đó là yếu tố chỉ loại, v là các
giá trị đặc trưng của từ đầu mục, các giá trị đặc trưng này được hiện thực hóa
thành v1, v2,..., vn, tức là các đặc trưng riêng, cụ thể được lựa chọn nêu ra trong
định nghĩa của từng tên gọi cây nông nghiệp là mục từ. Như vậy, định nghĩa các
mục từ tên gọi cây nông nghiệp có thể được hiện thực hóa theo mô hình sau:
Mục từ (W) = Thành tố nghĩa chỉ loại (S) + Thành tố nghĩa chỉ đặc
trưng được lựa chọn (v1, v2, v3..., vn)
3.2.1. Miêu tả và phân tích định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Sau khi khảo sát và phân tích 386 định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng
Việt trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), luận án nhận thấy cấu trúc
90
lời giải thích mỗi tên gọi cây nông nghiệp gồm có hai phần: nét nghĩa chỉ loại
(tên gọi chỉ loại) và các nét nghĩa chỉ đặc trưng khu biệt của các loài cây nông
nghiệp. Các nét nghĩa này được chúng tôi thống kê, sắp xếp theo trật tự giảm dần
trong lời định nghĩa từ điển của các tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt như sau:
1. Nét nghĩa chỉ loại (classification seme)
Nét nghĩa phạm trù này xuất hiện trong hầu hết các định nghĩa được phân tích
(386/386) bao gồm các từ chỉ loại như cây, cây trồng, cây ăn quả, cây lương
thực,...Ví dụ:
- Yến mạch d. Cây xứ ôn đới thuộc họ lúa, chùm hoa hình cờ, hạt dùng chủ
yếu làm thức ăn cho ngựa và gà vịt.
- Xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả hình bầu dục, thịt
màu vàng, hạt to có bao cứng.
- Ngô d. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng
chừng thân, hạt dùng để ăn.
- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa đường, dùng để kéo
mật, làm đường.
- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt
đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống.
2. Nét nghĩa đặc điểm hình thức/cấu tạo
Nét nghĩa này chiếm 31,11% (120/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc
điểm cấu tạo liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong tiếng
Việt là thân, lá, quả, củ, hạt, thường được nêu lên trong lời định nghĩa. Cụ thể
như sau:
2.1. Thân: 26,67 % (32/120). Ví dụ:
- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm,...
- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng,...
- Đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, quả
dùng để ăn hoặc để lấy nhựa làm thuốc.
91
- Hồ tiêu d. Cây thân leo cùng họ với trầu không,...
- Gấc d. Cây thân leo thuộc dòng họ bầu bí,...
2.2. Lá: 20,83% (25/120). Ví dụ:
- Cau d. Cây không phân cành, thân hình cột cao, lá hình lông chim và mọc
thành chùm ở ngọn,...
- Bông d. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, lá hình chân vịt,...
- Mận d. Cây ăn quả cùng họ với đào, lá dài, mép có răng nhỏ,...
- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm, lá màu lục bóng ở mặt trên, mặt dưới
trắng bạc,...
- Đay d. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc,...
2.3. Quả: 16,67% (20/120). Ví dụ:
- Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả
mít nhỏ,...
- Đậu d. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình bướm, quả
dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm thức ăn.
- Táo d. Tên gọi chung một số cây có quả tròn, da nhẵn, thịt mềm, ăn được,...
- Vải d. Cây ăn quả, (...), quả có vỏ sần sùi màu đỏ nâu,...
- Gấc d. Cây leo thuộc dòng họ bầu bí, quả to, hình trứng nhọn đầu, ngoài
mặt có nhiều gai mềm,...
2.4. Hoa: 15,00% (18/120). Ví dụ:
- Khoai lang d. Cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay trắng,
rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn.
- Muỗm d. Cây gỗ to cùng loại với xoài, hoa mọc thành cụm ở nách lá,...
- Đậu d. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình bướm,...
- Giâu gia xoan d. Cây nhỡ, hoa mọc thành chùm,...
- Đu đủ d. Cây thân cột, (...), hoa đực hoa cái riêng gốc,...
2.5. Củ: 12,5% (15/120). Ví dụ:
- Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, (...), rễ củ dài giống như củ sắn,
chứa nhiều bột,...
92
- Khoai sọ d. Cây cùng họ với ráy, lá to, cuống dài hình máng, củ hình cầu,
thường mang nhiều củ non, dùng để ăn.
- Khoai nước d. Cây cùng họ với ráy, trồng ở ruộng nước, củ hình trụ, dùng
để ăn.
- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ
riềng, chứa nhiều tinh bột,...
- Củ từ d. cn. khoai từ. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc, lá hình tim to,
củ hình thuôn dài, mọc thành chùm,...
2.6. Hạt: 10% (12/120). Ví dụ:
- Ngô d. Cây lương thực, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng chừng thân,..
- Kê d. Cây cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập
trung thành một bông dài, dùng để chế biến làm thức ăn.
- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính, không có bao hoa,
quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc.
- Ý dĩ d. Cây thân cỏ, hạt tròn và to,...
2.7. Cành: 1,67% (2/120). Ví dụ:
- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm,...
- Bứa d. Cây to cùng họ với măng cụt, cành ngang,...
2.8. Gốc: 1,67% (2/120). Ví dụ:
- Gai d. Cây thân thảo, gốc hóa gỗ,...
- Củ từ d. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc,...
2.9. Rễ: 1,67% (2/120). Ví dụ:
- Củ đậu d. Cây loài đậu thân leo, rễ phình thành củ to,...
- Củ cải đường d. Cây cùng họ với cây dầu giun, rễ phình to thành củ, chứa
chất đường,...
2.10. Vỏ: 1,67% (2/120). Ví dụ:
- Măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày và chát,...
- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,...
93
3. Nét nghĩa vai trò của cây nông nghiệp trong đời sống của con người
Nét nghĩa này chiếm 10,91% (42/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc tính
liên quan đến vai trò các bộ phận được sử dụng của cây nông nghiệp trong đời
sống người Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong
lời định nghĩa.
3.1. Cây, thân, lá, vỏ, rễ, nhựa cây: 64,29% (27/42) dược dùng trong các lĩnh
vực sau:
+ Dùng để lấy sợi. Ví dụ:
- Đay d. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc, quả tròn, vỏ thân có
sợi dùng làm bao tải, làm dây buộc,...
- Gai d. Cây thân thảo, gốc hóa gỗ, lá mọc cách hình trái xoan, mép có khía răng,
mặt dưới có nhiều lông trắng mềm, lá dùng làm bánh, vỏ thân dùng lấy sợi,...
+ Dùng để làm đường. Ví dụ:
- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa đường, dùng để kéo
mật, làm đường,.
+ Dùng làm thuốc:
- Lựu d. cn. thạch lựu. Cây nhỏ, lá mọc đối, hoa màu đỏ, quả chứa nhiều hạt
có vỏ mọng nước, ăn được, vỏ rễ dùng làm thuốc.
+ Trồng để lấy bóng mát và gây rừng:
- Khuynh diệp d. cn. bạch đàn. Cây to, thân thẳng, trồng để lấy bóng mát và
gây rừng.
+ Trồng để lấy gỗ:
- Xoan d. Cây to, lá kép, hoa tím, quả hình trứng to bằng ngón tay, gỗ có
chất đắng, không mọt, thường dùng để làm nhà.
- Bồ đề d. Cây to, thân thẳng, gỗ trắng nhẹ, dùng làm vỏ hộp và que diêm,
nhựa dùng làm thuốc,...
- Mỡ d. Cây to mọc ở rừng, cùng loại với vàng tâm, gỗ nhẹ màu vàng nhạt,
thường dùng trong xây dựng và công nghiệp gỗ dán.
94
+ Dùng lấy nhựa:
- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa dùng để chế
một chất cũng gọi là sơn.
- Cao su d. Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có nhiều nhựa mủ dùng để sản
xuất cao su.
- Trám d. Tên gọi chung nhiều cây to cùng họ, có nhựa thường dùng để làm
hương, một số loài ăn quả được.
+ Dùng để làm đồ uống:
- Chè d. Cây nhỡ lá răng cưa, hoa màu trắng, quả có ba múi, trồng để lấy lá,
búp, nụ pha nước uống.
- Vối d. Cây to cùng họ với sim, lá mọc đối, hoa nhỏ màu trắng, lá và nụ hoa
phơi khô làm nước uống.
+ Dùng làm gia vị, làm thuốc:
- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay, dùng
làm thuốc.
+ Dùng ép lấy dầu:
- Sả d. Cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm, dùng
chiết lấy dầu.
- Long não d. Cây to cao, lá hình trứng, vò ra có mùi thơm, lá và gỗ dùng
cất tinh dầu.
- Tràm d. Cây to cùng họ với ổi, vỏ xốp, lá hình bầu dục nhọn, có mùi thơm
dùng để cất tinh dầu, làm thuốc,...
+ Dùng làm thuốc hút:
- Thuốc lá d. Cây họ cà, hoa màu hồng nhạt, lá to, mềm và có lông, dùng
làm thuốc để hút.
+ Dùng lợp nhà, làm nón:
- Cọ d. Cây cao thuộc họ dừa, lá hình quạt, mọc thành chùm ở ngọn, dùng để
lợp nhà, làm nón.
95
- Dừa nước d. Dừa mọc dưới bùn ngập nước, lá dùng để lợp nhà.
3.2. Quả, củ, hạt: 30,95% (13/42) được dùng trong các lĩnh vực sau:
+ Làm thức ăn cho người và gia súc. Ví dụ:
- Lúa mì d. Cây lương thực chính của nhiều vùng trên thế giới, nhất là các
vùng ôn đới, bột dùng làm bánh (bánh mì) ăn hằng ngày.
- Yến mạch d. Cây xứ ôn đới thuộc họ lúa, chùm hoa hình cờ, hạt dùng chủ
yếu làm thức ăn cho ngựa và gà vịt.
- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ
riềng, chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn hoặc chế bột làm miến.
+ Để làm thuốc, gia vị. Ví dụ:
- Thảo quả d. Cây thân cỏ cùng họ với gừng, quả mọc thành cụm, khi chín
màu đỏ nâu, dùng làm thuốc hoặc gia vị.
- Táo tàu d. Cây cùng loại với táo ta, quả khi khô nhăn nhúm, màu đen,
dùng để ăn và làm thuốc.
- Hồ tiêu d. Cây leo cùng họ với trầu không, hạt có vị cay, dùng làm gia vị.
+ Làm đồ uống:
- Cacao d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mĩ, châu Phi, lá đơn mọc đối, hoa nở
quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm sôcôla hay
pha nước uống.
- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt
đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống.
+ Lấy dầu:
- Dừa d. Cây cùng họ với cau, thân cột, lá to hình lông chim, quả chứa nước
ngọt, có cùi dùng để ăn hoặc ép lấy dầu.
- Hồi d. Cây to, quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình sao, mỗi múi
chứa một hạt, có mùi thơm, dùng để cất lấy tinh dầu.
- Sở d. Cây nhỡ cùng họ với chè, lá hình trái xoan, có răng, hoa trắng, hạt ép
lấy dầu dùng trong công nghiệp và để ăn.
96
- Cọ dầu d. Cây thuộc họ cau, dừa, quả nhỏ hình trứng, vỏ quả chứa chất
dầu ăn được và dùng trong công nghiệp.
+ Làm nguyên liệu sản xuất đường. Ví dụ:
- Củ cải đường d. Cây cùng họ với cây dầu giun, rễ phình to thành củ chứa
chất đường, trồng để sản xuất đường.
3.3. Hoa: 4,77% (2/42) được dùng trong các lĩnh vực sau:
+ Để ướp chè:
- Sen d. Cây mọc ở nước, lá to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng,
hương thơm nhẹ, dùng để ướp chè.
- Sói d. Cây nhỏ, hoa nhỏ và trắng như hạt gạo, có mùi thơm, thường dùng để
ướp chè.
+ Để chế đường:
- Thốt nốt d. Cây cùng họ với dừa, thân thẳng và cao, lá hình quạt, chặt
cuống cụm hoa thì hứng được một chất nước ngọt dùng để chế đường.
4. Nét nghĩa tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng
Nét nghĩa này chiếm 10,63% (41/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc tính
liên quan đến các bộ phận được sử dụng của cây nông nghiệp trong tiếng Việt là
quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong lời định nghĩa.
4.1. Quả, múi, cùi: 31,79% (13/41). Ví dụ:
- Mít mật d. Mít quả có múi mềm nhão,...
- Khế d. Cây to, lá kép lông chim, hoa nhỏ màu tím, quả có năm múi,
mọng nước,...
- Hồng xiêm d. Cây ăn quả cùng họ với vú sữa, lá dày hình trái xoan, hoa
màu trắng vàng mọc ở nách lá, quả hình trứng hay tròn, vỏ ráp, thịt mềm,...
4.2. Củ: 24,40% (10/41). Ví dụ:
- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ
riềng, chứa nhiều tinh bột,...
97
- Khoai lang d. Cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay trắng,
rễ củ chứa nhiều tinh bột,...
- Sắn d. Cây cùng họ với thầu dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo lá, lá có cuống
dài, phiến xẻ hình chân vịt, rễ củ chứa nhiều tinh bột,...
4.3. Hạt: 17,10% (7/4). Ví dụ:
- Vừng d. Cây nhỏ, hoa màu trắng, quả dài có khía, khi chín tự nứt ra, hạt
nhỏ có nhiều dầu,...
- Lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá chét, quả
mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầu.
- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt
đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,...
4.4. Thân: 14,63% (6/4). Ví dụ:
- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa chất đường,...
- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ,...
- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa,...
4.5. Vỏ thân và vỏ quả: 12,20% (5/41). Ví dụ:
- Chuối ngự d. Chuối quả nhỏ, khi chín vỏ rất mỏng,...
- Cam sành d. Cam quả có vỏ dày, sần sùi,...
- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay,...
5. Nét nghĩa đặc điểm màu sắc
Nét nghĩa này chiếm 10,40% (40/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc
điểm màu sắc, hương vị liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông
nghiệp trong tiếng Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá thường được nêu lên trong
lời định nghĩa.
5.1. Quả, củ, hạt, ruột: 52,50% (21/40). Ví dụ:
- Chanh đào d. Chanh quả to, khi chín có ruột màu hồng.
- Cam d. Cây ăn quả, lá to, hoa màu trắng, quả (tròn, bé hơn quả bưởi, vỏ
mỏng) khi chín thường có màu vàng đỏ,...
98
- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt
đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,...
5.2. Hoa: 37,50% (15/40). Ví dụ:
- Đào d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ hồng,...
- Khế d. Cây to, lá kép lông chim, hoa nhỏ màu tím,...
- Bông d. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, (...), hoa màu vàng,...
5.3. Lá: 10,00% (4/40). Ví dụ:
- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm, lá màu lục bóng ở mặt trên, mặt dưới
trắng bạc,...
- Táo ta d. Cây to, lá hình bầu dục, mặt dưới lá bạc,...
- Vú sữa d. Cây to ăn quả, mặt dưới lá có lông óng ánh màu vàng sẫm,...
6. Nét nghĩa đặc điểm kích cỡ
Nét nghĩa này chiếm 10,11% (39/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc
điểm kích cỡ liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong tiếng
Việt là thân, lá, quả, củ, hạt, thường được nêu lên trong lời định nghĩa.
6.1. Thân cây: 28,20% (11/39). Ví dụ:
- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân lớn,...
- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ,...
- Mía lau d. Mía thân gầy và có gióng dài,...
6.2. Lá: 23,10% (9/39). Ví dụ:
- Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, lá có ba lá chét rộng,...
- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, lá có bẹ to,...
- Củ từ d. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc, lá hình tim to,...
6.3. Quả: 20,51% (8/39). Ví dụ:
- Táo tây d. Cây ăn quả cùng họ với đào, lê, quả to, da nhẵn,...
- Chuối mắn d. Chuối quả nhỏ và mập,...
- Hồng bì d. Cây ăn quả cùng họ với cam, quả nhỏ, vỏ có lông,...
6.4. Củ: 17,94% (7/39). Ví dụ:
99
- Khoai nưa d. Cây cùng họ với ráy, củ rất to,...
- Củ cái d. Cây cùng họ với củ từ, củ to,...
- Củ đậu d. Cây loài đậu thân leo, rễ phình thành củ to,...
6.5. Hạt: 10,30% (4/39). Ví dụ:
- Nếp d. Loài lúa cho gạo hạt to và trắng,...
- Nếp con d. Thứ gạo nếp hạt nhỏ,...
- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn,
hạt to tròn.
7. Nét nghĩa đặc điểm hương, mùi, vị
Nét nghĩa này chiếm 8,80% (34/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm,
hương, mùi vị liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong
tiếng Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong lời
định nghĩa.
7.1. Quả, hạt, thịt, ruột: 55,90% (19/34). Ví dụ:
- Xoài voi d. Xoài quả hơi tròn, hạt to, thịt thơm ngon,...
- Thị d. Cây ăn quả, hoa màu trắng, quả khi chín mùi rất thơm,...
- Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả
mít nhỏ, vị ngọt, nồng và béo.
7.2. Thân, lá, vỏ: 32,40% (11/34). Ví dụ:
- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay,...
- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa mùi hắc,...
- Sả d. Cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm, dùng
chiết lấy dầu.
7.3. Hoa: 11,77% ( 4/34). Ví dụ:
- Sen d. Cây mọc ở nước, lá to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng,
hương thơm nhẹ,...
- Nhài d. Cây nhỡ, lá hình bầu dục dài, màu lục đậm và bóng, hoa mọc thành
cụm, màu trắng, rất thơm,..
100
8. Nét nghĩa đặc điểm phân loại cây nông nghiệp
Nét nghĩa khu biệt này chiếm 5,12% (20/386). Ví dụ:
- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn,
hạt to tròn.
- Vú sữa d. Cây to ăn quả, mặt dưới lá có lông óng ánh màu vàng sẫm, quả
tròn, có nhựa, khi chín màu tím nâu hay lục nhạt.
- Đào lộn hột d. Cây ăn quả cùng họ với sấu, quả trông như hạt đậu nằm trên
đế hoa hình quả đào.
9. Nét nghĩa đặc điểm thời gian
Nét nghĩa này xuất hiện khá nhiều trong các định nghĩa cây nông nghiệp với
4,40% (17/386), gồm có:
+ Thời gian sinh trưởng:
- Ba giăng d. Giống lúc thường cấy vụ thu, thời gian từ lúc gieo mạ đến lúc
chín chỉ khoảng ba tháng.
+ Thời gian gieo trồng:
- Khoai mùa d. Khoai lang trồng ngay sau khi gặt lúa mùa sớm và thu hoạch
vào tháng chạp, trước Tết.
- Trân châu lùn d. Lúa tẻ thấp cây, nhập nội từ Trung Quốc, trước đây được
gieo cấy trong vụ xuân ở miền Bắc Việt Nam.
+ Thời gian thu hoạch:
- Lúa nổi d. Lúa ở miền Nam Việt Nam, gieo trồng ở vùng nước ngập sâu
vào tháng năm và thu hoạch vào cuối năm hoặc vào đầu năm sau.
- Ngô đông d. Cây lương thực, gieo trồng ngay sau khi thu hoạch lúa lúa hè
- thu và thu hoạch trước khi cấy lúa đông - xuân, trong chế độ canh tác ba vụ lúa
một năm.
10. Nét nghĩa đặc điểm vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học
Nét nghĩa này chiếm 3,11% (12/386). Đây là nét nghĩa xuất hiện khá nhiều
trong các định nghĩa cây nông nghiệp. Ví dụ:
101
- Sở d. Cây nhỡ cùng họ với chè, lá hình trái xoan, có răng, hoa trắng, hạt ép
lấy dầu dùng trong công nghiệp và để ăn.
- Thanh long d. Cây cùng họ xương rồng, thân ba góc, hoa màu trắng, quả
chín màu đỏ, ăn được.
- Thanh trà d. Cây cùng họ với xoài, lá mọc đối, quả hình trứng, khi chín
màu vàng, vị chua, dùng để ăn.
11. Nét nghĩa đặc điểm môi trường sống
Nét nghĩa khu biệt này chiếm 2,61% (11/386) gồm các môi trường sau:
11.1. Nơi sống:
+ Sống ở nước:
- Củ ấu d. Cây mọc ở nước, hoa trắng, quả thường gọi là củ, màu tím đen, có
hai gai nhọn và to như sừng, bên trong chứa chất bột ăn được.
- Lúa nổi d. Lúa ở miền Nam Việt Nam, gieo trồng ở vùng nước ngập sâu
vào tháng năm, thu hoạch vào cuối năm hoặc đầu năm sau.
+ Sống ở nương rẫy:
- Lúa nương d. Lúa gieo thẳng trên nương ở miền núi.
- Lúa rẫy d. Lúa gieo thẳng trên rẫy ở Tây Nguyên.
11.2. Vùng khí hậu gắn với nơi sinh sống:
+ Vùng ôn đới:
- Lúa mạch d. Cây lương thực trồng chủ yếu ở các vùng ôn đới, hạt đã nảy
mầm dùng để chế rượu bia.
- Ô liu d. Cây to hoặc nhỡ mọc ở miền ôn đới, thân có nhiều mấu, lá hình
ngọn giáo, mặt trên lục nhạt, mặt dưới trắng nhạt, quả ăn được và cho dầu.
+ Vùng nhiệt đới:
- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm, lá có bẹ to ôm lấy nhau thành
một thân giả hình trụ, quả dài hơi cong, xếp thành buồng gồm nhiều nải.
- Đàn hương d. Cây vùng nhiệt đới, gỗ cứng, thơm, thường dùng làm hương
liệu, làm thuốc chữa bệnh.
11.3. Các châu lục, vùng miền:
102
- Ca cao d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mỹ, châu Phi, lá đơn mọc đối, hoa
nở quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm sôcôla
hay pha nước uống.
- Lúa hè-thu d. Lúa ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam, gieo cấy vào đầu mùa
mưa và thu hoạch vào giữa mùa mưa.
12. Nét nghĩa đặc điểm thuần dưỡng (được gieo trồng)
Nét nghĩa này xuất hiện không nhiều trong định nghĩa cây nông nghiệp với
2,59% (10/386), chỉ rõ đặc điểm được gieo trồng của các loại cây nông nghiệp,
phân biệt với các loài thực vật khác mọc hoang, không được gieo trồng. Ví dụ:
- Lúa lốc d. Lúa gieo trên đất khô ở vùng thiếu nước hay đồi núi.
- Lúa thu d. Lúa ngắn ngày, gieo cấy vào giữa mùa hè (tháng năm), gặt vào
mùa thu tháng tám.
Kết quả thống kê, miêu tả các nét nghĩa đặc trưng có trong định nghĩa cây
nông nghiệp trên đây được thể hiện ở bảng sau:
STT Các nét nghĩa Số lượng Tỷ lệ %
1. Phân loại 386/386 100
2. Đặc điểm hình thức/ cấu tạo 120/386 31,11
3. Vai trò đối với đời sống con người 42/386 10,91
4. Tính chất của bộ phận cây được sử dụng 41/386 10,63
5. Đặc điểm màu sắc 40/386 10,40
6. Đặc điểm kích cỡ 39/386 10,11
7. Đặc điểm mùi vị 34/386 8,81
8. Đặc điểm phân loại cây nông nghiệp 20/386 5,12
9. Đặc điểm thời gian 17/386 4,40
10. Vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học 12/386 3,11
11. Đặc điểm môi trường sống 11/386 2,61
12. Đặc điểm thuần dưỡng (được gieo trồng) 10/386 2,59
Tổng số 386 100
Bảng 3.1. Các nét nghĩa đặc trưng của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt
103
Trong số 12 nét nghĩa trên có nhiều nét nghĩa trùng với đặc trưng được lựa
chọn để định danh cây nông nghiệp. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các
dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp giống hoàn toàn với các
nét nghĩa phân tích được trong lời định nghĩa các từ ngữ gọi tên cây nông
nghiệp. Trong 12 nét nghĩa thuộc cấu trúc ngữ nghĩa có 10 nét nghĩa là những
dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn đưa vào tên gọi. Còn nét nghĩa "vị trí, quan hệ
trong phân loại sinh vật học" và nét nghĩa "đặc điểm phân loại cây nông nghiệp"
không được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp. Ngược lại, trong lời định
nghĩa từ ngữ chỉ cây nông nghiệp, còn thiếu một số dấu hiệu/đặc điểm vốn được
lấy làm cơ sở định danh thực vật như: đặc điểm thuần dưỡng (là cây trồng,
không phải cây mọc hoang), đặc điểm nguồn gốc, xuất xứ cây nông nghiệp, đặc
điểm số lượng bộ phận của cây nông nghiệp, đặc điểm mã hiệu/lô giống cây
nông nghiệp, nguồn gốc tên gọi cây nông nghiệp,... Các dấu hiệu/đặc điểm định
danh này là hết sức điển hình, đặc trưng cho cây nông nghiệp, vì vậy cần phải
được đưa vào lời định nghĩa của chúng.
3.2.2. Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
Các nét nghĩa đã tách ra được từ định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong
tiếng Việt có vai trò và chức năng khác nhau, có nét nghĩa thuộc hạt nhân (hay
trung tâm), có nét nghĩa thuộc ngoại vi trong cấu trúc ngữ nghĩa. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, ngoài nét nghĩa "tên gọi chỉ loại" thuộc về hạt nhân cấu trúc ngữ
nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt còn có các nét nghĩa "hình thức/cấu
tạo", "kích cỡ", "tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng", "màu
sắc", "mùi vị", "vai trò đối với đời sống con người", "được thuần dưỡng (gieo
trồng)". Các nét nghĩa còn lại là: "môi trường sống", "vị trí, quan hệ trong phân
loại sinh học", "phân loại cây nông nghiệp", "thời gian" thuộc ngoại cảnh có
liên quan đến cây nông nghiệp nằm ở ngoại vi trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên
gọi cây nông nghiệp. Có thể khái quát hóa 12 nét nghĩa có mặt trong các định
nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt thành ba loại thành tố nghĩa sau:
104
I. Thành tố nghĩa chỉ loại chỉ có một nét nghĩa (1. Nét nghĩa phân loại)
II. Thành tố nghĩa chỉ thuộc tính của cây nông nghiệp, gồm các nét nghĩa:
2. Hình thức/cấu tạo
3. Vai trò đối với đời sống con người
4. Tính chất của bộ phận cây được sử dụng
5. Màu sắc
6. Kích cỡ
7. Hương, mùi vị
12. Thuần dưỡng (được gieo trồng)
III. Thành tố nghĩa chỉ ngoại cảnh có liên quan đến cây nông nghiệp hay
những hiểu biết của con người về cây nông nghiệp, gồm có các nét nghĩa:
8. Phân loại cây nông nghiệp
9. Thời gian
10. Vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học
11. Môi trường sống
Có thể mô hình hóa cấu trúc ngữ nghĩa chung của tên gọi cây nông nghiệp
tiếng Việt qua cách miêu tả, phân tích những định nghĩa chúng trong Từ điển
tiếng Việt như sau:
Thành tố III (các nét T Thành tố I (nét nghĩa 1) Thành tố II (các nét
nghĩa 2, 3, 4, 5, 6, 7, nghĩa 8, 9, 10, 11)
12)
Trong mô hình này, T là tên gọi cây nông nghiệp được giải thích, tức là từ
đầu mục thuộc cấu trúc vĩ mô của từ điển; còn mỗi thành tố nghĩa (I, II, III) biểu
thị các nội dung thông tin được chứa trong lời giải thích. Thành tố nghĩa I và
thành tố nghĩa II chứa các nét nghĩa hạt nhân, còn thành tố nghĩa III chứa các nét
nghĩa ngoại vi. Trật tự các nét nghĩa được nêu phản ánh tần số xuất hiện nhiều
hay ít của mỗi nội dung thông tin trong lời định nghĩa. Như vậy, mỗi định nghĩa
105
là sự hiện thực hóa tất cả hoặc một số nét nghĩa trong mô hình ngữ nghĩa chung
của cây nông nghiệp. Ví dụ:
+ Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, lá có ba lá chét rộng, rễ củ dài
giống như củ sắn, chứa nhiều bột, dùng để ăn hay làm thuốc.
Trong định nghĩa này gồm có các nét nghĩa:
- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.
- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với đậu, đỗ.
- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Lá có ba lá chét rộng, rễ củ dài giống như
củ sắn.
- Nét nghĩa tính chất của bộ phận cây được sử dụng: Rễ củ chứa nhiều bột.
- Nét nghĩa vai trò đối với đời sống con người: Dùng để ăn hay làm thuốc.
+ Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả
mít nhỏ, vị ngọt, nồng và béo.
Trong định nghĩa này gồm có các nét nghĩa:
- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.
- Nét nghĩa phân loại cây nông nghiệp: (Cây) ăn quả.
- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với cây gạo.
- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Quả có gai to trông như quả mít nhỏ.
- Nét nghĩa hương, mùi, vị: Vị ngọt, nồng và béo.
+ Măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày
và chát, trong quả có nhiều múi, cùi trắng và ngọt.
Trong lời giải thích này gồm có các nét nghĩa:
- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.
- Nét nghĩa phân loại cây nông nghiệp: (Cây) ăn quả.
- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với bứa.
- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày và chát, trong
quả có nhiều múi.
- Nét nghĩa màu sắc: (Cùi) trắng.
106
- Nét nghĩa hương, mùi vị: Ngọt.
3.2.3. Nhận xét về định nghĩa từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong "Từ
điển tiếng Việt"
Từ kết quả miêu tả và phân tích các nét nghĩa có trong lời giải thích tên gọi
cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án rút ra nhận xét sau đây:
a. Tất cả các loại cây nông nghiệp đều thuộc loại cây trồng chứ không phải là
những cây mọc hoang. Đó là những loài cây có ích cho đời sống, được con
người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Cây trồng đã được con
người trồng trọt từ hàng nghìn năm về trước, tuy vậy, số lượng loài cây trồng chỉ
chiếm một tỉ lệ thấp trong tổng số các loài cây hiện hữu trên trái đất. Vì vậy, đặc
trưng được con người gieo trồng (cây trồng) là một đặc điểm rất quan trọng đối
với cây nông nghiệp có tác dụng phân biệt giữa cây nông nghiệp (cây được con
người gieo trồng) với tất cả các loài cây mọc hoang, không được con người gieo
trồng. Đặc trưng này cần phải trở thành một nét nghĩa quan trọng trong các định
nghĩa của từ điển về cây nông nghiệp tiếng Việt. Tất cả các định nghĩa tên gọi
cây nông nghiệp nét nghĩa "đặc điểm được gieo trồng" đều được đề cập đến
trong định nghĩa để người đọc hiểu đó là cây được con người trồng, chăm sóc,
thu hoặc phục vụ đời sống của mình chứ không phải là những loại cây mọc
hoang, không được gieo trồng. Tuy nhiên, khảo sát 386 định nghĩa cây nông
nghiệp tiếng Việt, luận án thấy nét nghĩa "đặc điểm được gieo trồng" chỉ xuất
hiện rất ít một số định nghĩa (10/386), còn hầu hết các định nghĩa đều không có
nét nghĩa này. Ví dụ:
- Cacao cv. ca cao. d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mĩ, châu Phi, lá đơn mọc
đối, hoa nở quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm
sôcôla hay pha nước uống.
- Củ dong d. Cây trồng thân cỏ, lá to, cuống lá có đốt, thân ngầm phồng
thành củ hình thon dài, màu trắng, chứa nhiều bột, dùng làm thức ăn.
107
- Dâu d. cn. dâu tằm. Cây trồng bằng cành, lá hình tim hay chia thành thùy,
dùng để nuôi tằm, quả tụ thành một khối, khi chín có màu đỏ sẫm.
Luận án cho rằng cần phải đưa nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng" vào
các định nghĩa cây nông nghiệp tiếng Việt để tăng tính chính xác, rõ ràng và khả
năng khu biệt giữa cây nông nghiệp với các loại cây khác. Như vậy, khi định
nghĩa cây nông nghiệp đặc trưng "được gieo trồng" nằm trong thế đối lập "được
trồng/ hoang dại (không được trồng)" để phân biệt cây nông nghiệp - những loại
cây đã được con người thuần hóa, gieo trồng phục vụ cuộc sống con người. Nét
nghĩa này nằm ở đầu lời định nghĩa. So sánh:
Định nghĩa được đề nghị bổ sung
Định nghĩa của Từ điển tiếng STT nét nghĩa "được gieo trồng"
Việt
1. lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân
hay thân đứng, lá kép có bốn lá bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá
chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt
dùng để ăn hay ép dầu. dùng để ăn hay ép dầu.
2. khoai sọ d. Cây cùng họ với ráy, lá khoai sọ d. Cây trồng cùng họ với
to, cuống dài hình máng, củ hình ráy, lá to, cuống dài hình máng, củ
cầu, thường mang nhiều củ non, hình cầu, thường mang nhiều củ
dùng để ăn. non, dùng để ăn.
3. khoai d. Tên gọi chung các loài cây khoai d. Tên gọi chung các loài cây
có chứa tinh bột ăn được, như trồng có chứa tinh bột ăn được,
khoai tây, khoai lang, khoai riềng, như khoai tây, khoai lang, khoai
v.v. riềng, v.v.
4. kê d. Cây cùng họ với lúa, quả rất kê d. Cây trồng cùng họ với lúa,
nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu
tập trung thành một bông dài, dùng vàng, tập trung thành một bông dài,
để chế biến làm thức ăn. dùng để chế biến làm thức ăn.
108
5. hồi d. Cây to, quả gồm tám múi hồi d. Cây trồng thân to, quả gồm
khô cứng xếp thành hình sao, mỗi tám múi khô cứng xếp thành hình
múi chứa một hạt, có mùi thơm, sao, mỗi múi chứa một hạt, có mùi
dùng để cất lấy tinh dầu. thơm, dùng để cất lấy tinh dầu.
6. đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, đu đủ d. Cây trồng thân cột, cuống
rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng
quả dùng để ăn hoặc để lấy nhựa gốc, quả dùng để ăn hoặc để lấy
làm thuốc. nhựa làm thuốc.
7. đào d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, đào d. Cây trồng ăn quả hoặc làm
cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu
hồng, quả hình tim có lông mượt. đỏ hồng, quả hình tim có lông
mượt.
8. dừa d. Cây cùng họ với cau, thân dừa d. Cây trồng cùng họ với cau,
cột, lá to hình lông chim, quả chứa thân cột, lá to hình lông chim, quả
nước ngọt, có cùi dùng để ăn hoặc chứa nước ngọt, có cùi dùng để ăn
ép lấy dầu. hoặc ép lấy dầu.
9. cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa cà phê d. Cây trồng thân nhỡ, lá
trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi
hạt đem rang và xay nhỏ thành bột chín có màu đỏ, hạt đem rang và
màu nâu sẫm, dùng để pha nước xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,
uống. dùng để pha nước uống.
10. sắn d. Cây cùng họ với thầu dầu, sắn d. Cây trồng cùng họ với thầu
thân thẳng mang nhiều sẹo lá, lá có dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo lá,
cuống dài, phiến xẻ hình chân vịt, lá có cuống dài, phiến xẻ hình chân
rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để vịt, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng
ăn. để ăn.
11. cao lương d. Cây lương thực cùng cao lương d. Cây lương thực cùng
họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn, họ với ngô, thân và lá lớn, bông
109
hạt to tròn. gồm nhiều gié ngắn, hạt to tròn.
12. caosu cv. cao su. d. Cây to cùng họ caosu cv. cao su. d. Cây trồng
với thầu dầu, thân có nhiều nhựa cùng họ với thầu dầu, thân to có
nhiều nhựa mủ. mủ.
13. chà là d. Cây thuộc loại cau, dừa, chà là d. Cây trồng thuộc họ cau,
quả to bằng quả nhót, vị ngọt, ăn dừa, quả to bằng quả nhót, vị ngọt,
ăn được. được.
14. sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép
lông chim, thân có nhựa dùng để lông chim, trồng nhiều ở Phú Thọ
chế một chất cũng gọi là sơn. và các đồi ở miền Bắc Việt Nam,
thân có nhựa dùng để chế một chất
cũng gọi là sơn.
15. xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá xoài d. Cây trồng ăn quả, thân to,
hình trái xoan dài, quả hình bầu vỏ nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả
dục, thịt màu vàng, hạt to có bao hình bầu dục, thịt màu vàng, hạt to
cứng. có bao cứng.
16. cau d. Cây không phân cành, thân cau d. Cây trồng thân hình cột cao,
hình cột cao, lá hình lông chim và không phân cành, lá hình lông chim
mọc thành chùm ở ngọn, quả dùng và mọc thành chùm ở ngọn, quả
để ăn trầu. dùng để ăn trầu.
17. củ cái d. Cây cùng họ với củ từ, củ cái d. Cây trồng cùng họ với củ
thân hình vuông, có cạnh, củ to và từ, thân hình vuông, có cạnh, củ to
hơi dẹp ở ngọn, chứa nhiều tinh và hơi dẹp ở ngọn, chứa nhiều tinh
bột, dùng để ăn. bột, dùng để ăn.
18. dâu tây d. Cây bò cùng họ với hoa dâu tây d. Cây trồng thân bò cùng
hồng, quả tụ trên một khối hình họ với hoa hồng, quả tụ trên một
nón, khi chín có màu đỏ, vị chua khối hình nón, khi chín có màu đỏ,
ngọt, ăn được. vị chua ngọt, ăn được.
110
19. đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, đu đủ d. Cây trồng thân cột, cuống
rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng
quả dùng để ăn hoặc để lấy nhựa gốc, quả dùng để ăn hoặc để lấy
làm thuốc. nhựa làm thuốc.
20. lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân
hay thân đứng, lá kép có bốn lá bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá
chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt
dùng để ăn hay ép dầu. dùng để ăn hay ép dầu.
Bảng 3.2. Nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng"được bổ sung vào lời định nghĩa
b. Mỗi loại cây nông nghiệp đều có đặc trưng về thổ nhưỡng, về thời vụ gieo
trồng khác nhau nên thời gian sinh trưởng cũng khác nhau. Mỗi loại cây nông
nghiệp chỉ có một hay vài bộ phận được con người sử dụng khi chúng đã phát
triển ở giai đoạn cuối với những biểu hiện rõ rệt (như về hình thức, màu sắc,
mùi, hương vị,...). Do đó, cần phải nêu cụ thể thời gian các bộ phận cây đã phát
triển đến giai đoạn cuối để bảo đảm tính chính xác của các định nghĩa. Một số
định nghĩa của Từ điển tiếng Việt không nêu chính xác thời gian này trong định
nghĩa, theo luchúng tôi, nên bổ sung. Ví dụ:
Định nghĩa được bổ sung
STT Định nghĩa của Từ điển tiếng thông tin
Việt
1. bưởi đường d. Bưởi có quả hình bưởi đường d. Giống bưởi có quả
giống quả lê, vị ngọt. hình giống hình quả lê, khi già tép
có vị ngọt.
2. cóc d. Cây ăn quả và làm thuốc, cóc d. Cây trồng ăn quả và làm
thuộc họ đào lộn hột, thân gỗ cao, thuốc, thuộc họ đào lộn hột, thân gỗ
quả hình bầu dục hay hình trứng, cao, quả hình bầu dục hay hình trứng,
thịt màu vàng, vị chua. khi chín thịt màu vàng, vị chua.
3. dưa hấu d. Dưa quả to, vỏ màu dưa hấu d. Giống dưa quả to, vỏ
111
xanh và bóng, thịt quả màu đỏ hay màu xanh và bóng, khi chín thịt
vàng, vị ngọt mát. quả màu đỏ hay vàng, vị ngọt mát.
4. dứa d. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dứa d. Cây trồng ăn quả, thân
dài, cứng, có gai ở mép và mọc ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và
thành cụm ở ngọn thân, quả tập hợp mọc thành cụm ở ngọn thân, quả
trên một khối nạc, có nhiều mắt, tập hợp trên một khối nạc, có nhiều
phía trên có một cụm lá. mắt, phía trên có một cụm lá, khi
chín có mùi thơm.
5. gấc d. Cây leo thuộc dòng họ bầu gấc d. Cây trồng thân leo thuộc
bí, quả to, hình trứng nhọn đầu, dòng họ bầu bí, quả to, hình trứng
ngoài mặt có nhiều gai mềm, ruột nhọn đầu, ngoài mặt có nhiều gai
đỏ, thường dùng để thổi lẫn với xôi. mềm, khi chín vỏ và ruột có màu
đỏ, thường dùng để thổi lẫn với xôi.
6. khế d. Cây to, lá kép lông chim, khế d. Cây trồng thân to, lá kép
hoa nhỏ màu tím, quả có năm múi, lông chim, hoa nhỏ màu tím, quả
mọng nước, vị chua, ăn được. có năm múi, mọng nước, vị chua
hoặc ngọt, ăn được.
7. lê d. Cây ăn quả cùng loại với táo lê d. Cây trồng ăn quả cùng loại
tây, hoa trắng, quả có nhiều nước, với táo tây, hoa trắng, quả có nhiều
vị ngọt. nước, khi chín vị ngọt.
8. măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ măng cụt d. Cây trồng ăn quả cùng
với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có
dày và chát, trong quả có nhiều vỏ dày và chát, trong quả có nhiều
múi, cùi trắng và ngọt. múi, cùi trắng, khi chín vị ngọt.
9. mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mít d. Cây trồng ăn quả thân to, có
mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai, trong nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,
chứa nhiều mùi có vị ngọt thơm. trong chứa nhiều múi khi chín vị
ngọt thơm.
112
10. tám thơm d. Thứ lúa, gạo hạt nhỏ, tám thơm d. Giống lúa, gạo hạt
thon và dài, màu trắng xanh, cơm nhỏ, thon và dài, màu trắng xanh,
có mùi thơm đặc biệt. có mùi thơm đặc biệt.
11. xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá xoài d. Cây to trồng ăn quả, vỏ
hình trái xoan dài, quả hình bầu nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả
dục, thịt màu vàng, hạt to có bao hình bầu dục, khi già, chín thịt
cứng. màu vàng, hạt to có bao cứng.
12. sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ sầu riêng d. Cây trồng ăn quả cùng
với cây gạo, quả có gai to trông họ với cây gạo, quả có gai to trông
như quả mít nhỏ, vị ngọt, nồng và như quả mít nhỏ, khi chín múi có
béo. vị ngọt, thơm nồng và béo.
13. nhãn d. Cây ăn quả, thân to, quả nhãn d. Cây trồng ăn quả, thân to,
tròn mọc thành chùm, có vỏ màu quả tròn mọc thành chùm, có vỏ
nâu nhạt, hạt thường đen, cùi trắng, màu nâu nhạt, khi chín hạt thường
vị ngọt. đen, cùi trắng, vị ngọt.
14. chuối mật d. Chuối quả có thịt đỏ chuối mật d. Giống chuối quả có
và ngọt, nhưng hơi nhão. thịt đỏ và ngọt khi chín, nhưng hơi
nhão.
15. mít mật d. Mít quả có múi mềm mít mật d. Giống mít khi chín có
nhão, vị ngọt. múi mềm nhão, vị ngọt.
16. lê d. Cây ăn quả cùng loại với táo lê d. Cây trồng ăn quả cùng loại
tây, hoa trắng, quả có nhiều nước, với táo tây, hoa trắng, quả có nhiều
nước, khi chín vị ngọt. vị ngọt.
17. mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mít d. Cây trồng ăn quả thân to, có
mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai, trong nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,
chứa nhiều múi có vị ngọt thơm. trong chứa nhiều múi, khi chín có
mùi thơm, vị ngọt.
113
18. tám d. Tên gọi chung một số thứ tám d. Tên gọi chung một số giống
lúa tẻ, gạo hạt nhỏ và dài, cơm có lúa tẻ, hạt nhỏ và dài, gạo có mùi
mùi thơm ngon. thơm.
19. vải thiều d. Vải hạt nhỏ, cùi dày và vải thiều d. Giống vải quả tròn,
ngọt. hạt nhỏ, cùi dày, khi chín có vị
ngọt.
20. sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ sầu riêng d. Cây trồng ăn quả cùng
với cây gạo, quả có gai to trông họ với cây gạo, quả trông như quả
như quả mít nhỏ, vị ngọt, nồng và mít nhỏ, có gai to, khi chín múi có
béo. vị ngọt, nồng và béo.
Bảng 3.3. Nét nghĩa "thời điểm" được bổ sung vào lời định nghĩa
c. Mỗi loại cây nông nghiệp đều có vai trò, chức năng nhất định đối với cuộc
sống của con người. Các loại cây nông nghiệp cung cấp nhiều loại sản phẩm
phục vụ các nhu cầu về ăn, mặc, ở, sinh hoạt của con người. Vì vậy, bộ phận
nào, thành phần nào của cây có tác dụng, vai trò đối với con người đều trở thành
những nét nghĩa trong định nghĩa của từ điển giải thích. Cụ thể là các bộ phận
quả, củ, hạt của cây lương thực; quả, múi, cùi, hạt của cây ăn quả; thân, lá, quả,
hạt của cây công nghiệp là những dấu hiệu thuộc tính không thể bỏ qua và luôn
hiển diện là các nét nghĩa trong lời định nghĩa. Ví dụ:
- Đậu d. Cây trồng thân nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình
bướm, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm thức ăn.
- Khoai lang d. Cây trồng thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay
trắng, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn.
- Lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá
chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầu.
- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính, không có bao hoa,
quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc.
- Ngô d. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng
chừng thân, hạt dùng để ăn.
114
d. Định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là một tập hợp gồm nhiều
nét nghĩa có quan hệ gắn bó với nhau, được sắp xếp theo trật tự nhất định nhằm
giải thích rõ, đầy đủ những đặc điểm từng loại cây nông nghiệp, đồng thời lại có
khả năng phân biệt các loài cây với nhau, kể cả những tên gọi cây cụ thể thuộc
cùng một giống cây. Ví dụ:
- Chuối d. (Cây trồng ăn quả nhiệt đới), (thân ngầm), (lá có bẹ to ôm lấy
nhau thành một thân giả hình trụ), (quả dài hơi cong, xếp thành buồng gồm
nhiều nải).
- Dứa d. (Cây trồng ăn quả), (thân ngắn), (lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc
thành cụm ở ngọn thân), (quả tập hợp trên một khối nạc, có nhiều mắt, phía trên
có một cụm lá).
- Hồi d. (Cây trồng thân to), (quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình
sao), (mỗi múi chứa một hạt), (có mùi thơm), (dùng để cất lấy tinh dầu).
- Muỗm d. (Cây trồng thân gỗ to cùng loại với xoài), (hoa mọc thành cụm ở
nách lá), (quả giống quả xoài nhưng nhỏ hơn) và (vị hơi chua), (dùng để ăn).
- Quất d. (Cây trồng thuộc họ cam quýt), (quả tròn nhỏ mọc chi chí), (vỏ mịn
màu vàng đỏ khi chín), (trồng làm cảnh và lấy quả làm mứt).
3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển giải
thích tiếng Việt
Ở mục này luận án tiến hành so sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây
nông nghiệp của 7 quyển từ điển giải thích tiếng Việt với định nghĩa của Từ điển
tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 2000). Đó là các
cuốn từ điển sau:
(1) Việt Nam tự điển - Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931
(2) Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Sài Gòn, 1951
(3) Việt Nam tân từ điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952
(4) Tự điển Việt Nam, Lê Văn Đức, Sài Gòn, 1970
(5) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Hà Nội, 1977
115
(6) Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Hà Nội, 1999
(7) Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Tp. Hồ Chí Minh, 2000
Dựa vào mô hình cấu trúc nghĩa chung của tên gọi cây nông nghiệp tiếng
Việt qua cách miêu tả, phân tích những định nghĩa chúng trong Từ điển tiếng
Việt đã nêu trên, luận án đánh giá các định nghĩa ở 7 cuốn từ điển được so sánh
về hai phương diện: các thông tin ngữ nghĩa trong lời giải thích và thông tin bách
khoa (có hay không có) trong lời giải thích các mục từ này. Luận án tiến hành so
sánh định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp thuộc ba loại: cây lương
thực (lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc); cây trồng ăn quả (bưởi, chuối, vải, cam,
quýt, nhãn, mít, na, xoài); cây trồng lấy sản phẩm phục vụ sản xuất, chế biến
hàng hóa (cao su, cà phê, chè, sơn, hồi, quế, hồ tiêu, bông, đay, mía).
3.3.1. So sánh định nghĩa tên gọi cây lương thực trong các từ điển giải thích
tiếng Việt
TT Tên từ điển Định nghĩa
lúa. dt. 1. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính,
không có bao hoa, quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc. 2.
(ph.). Thóc.
ngô. dt. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại
thành bắp ở lưng chừng thân, hạt dùng để ăn. Từ điển khoai. dt. 1. Tên gọi chung các loài cây có củ chứa tinh bột Tiếng Việt ăn được, như khoai tây, khoai lang, khoai riềng, v.v. 2. Khoai 1. (Hoàng Phê lang (nói tắt). chủ biên) sắn. dt. Cây cùng họ với thầu dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo
lá, lá có cuống dài, phiến xẻ hình chân vịt, rễ củ chứa nhiều
tinh bột, dùng để ăn.
lạc. dt. Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có
bốn lá chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép
dầu.
116
đậu. dt. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh
hình bướm, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm
thức ăn.
lúa. 1. Nói chung về loài ngũ cốc. 2. Nói riêng về thứ cây
trong ngũ-cốc, sinh ra thóc.
ngô. Một loài trong ngũ cốc, bắp nhiều hạt. Cũng gọi là bắp. Việt Nam tự
khoai. Loài cây củ có nhiều bột, ăn được. điển (Hội 2. sắn. Loài cây, củ có lõi, nhiều bột, ăn được. Khai trí -
đậu. (hay là đỗ) Loài ngũ-cốc, quả dài, có hột. Tiến Đức)
lạc. Loài cây dây bò, quả mọc cắm xuống đất như củ, hạt có
chất dầu.
lúa. 1. Chỉ chung những ngũ-cốc. 2. Cây sinh ra thóc, ra gạo,
dùng để ăn hằng ngày.
ngô. Một loài ngũ cốc thường dùng thay gạo, hạt lớn hơn hạt Tự điển
gạo nhiều (nh. Bắp). Việt Nam
khoai. Một giống cây, củ có nhiều bột, thường dùng làm đồ 3. phổ thông
ăn. (Đào Văn
sắn (thực). Thứ cây củ có lõi trắng, nhiều bột ăn được. Tập)
đậu. (h. Đỗ). Loài ngũ cốc, quả dài, có hột.
lạc. Giống cây, trái mọc dưới đất, hạt có dầu (nh. Đậu phộng).
lúa. dt. Nói riêng về thứ cây sinh ra thóc.
ngô. dt. Loại ngũ cốc, có nơi gọi là bắp. Việt Nam khoai. dt. (thực.) Loại cây có củ; ăn được. tân từ điển sắn. dt. (thực.) Loại cây, nhiều bột, có lõi, ăn được, có nơi gọi 4. (Thanh là khoai mì. Nghị) lạc. dt. (thực.) Đậu phộng.
đậu. dt. Cây nhỏ thuộc loại ngũ cốc, quả dài có hột.
Lúa. dt. 1. Loài cây thuộc họ hòa thảo, thân rỗng, hoa lưỡng 5. Từ điển
117
tính, trồng ở ruộng, hạt có vỏ trấu, gọi là hạt thóc. 2. Thóc. 3. tiếng Việt
Từ đặt trước các danh từ để chỉ chung các loài ngũ cốc. (Văn Tân)
ngô. dt. Cg Bắp, bẹ. Loài cây lương thực, cùng họ với lúa,
cao tới hai, ba mét, quả gồm nhiều hạt xếp sít nhau thành
từng hàng trên một bắp chung.
khoai. dt. Tên chung chỉ các loài cây có củ chứa nhiều tinh
bột ăn được.
sắn. dt. Loài cây có nhựa dính màu đen, dùng để sơn thuyền
và để nhuộm lưới hay bìa sách.
lạc. dt. Loài cây thuộc họ đậu, thân bò, lá kép có bốn lá con,
quả bé mọc cắm xuống đất, hạt có chất dầu.
đậu. dt. Loài cây nhỏ, quả dài chứa một dãy hạt bầu dục,
tràng hoa gồm năm cánh hình bướm.
lúa. 1. dt. (thực.). Loại ngũ cốc mọc thành bụi, lá dài nhám,
gió hoa hay trái đơm hột dày. 2. (thth). Giống cây dưới ruộng,
ưa nước, nở bụi, mọc gié, đơm bông gọi đòng đòng, sinh mủ
đục gọi ngậm sữa, đúng ngày sữa đặc và khô gọi chín, gié
oằng xuống rồi ngã rạp.
ngô. dt. (thực.) X. Bắp. Tự điển
khoai. dt. (thực.). Loại cây nhỏ hay dây bò, củ có nhiều bột Việt Nam
ăn được hoặc làm thuốc. 6. (Lê Văn
sắn. dt. (thực.) Loại dây leo, lá kép gồm ba lá phụ hình tim, Đức)
hoa tím, trái dài có nhiều hột dài lối 6m/m, mỗi dây có nhiều
củ hình tròn giẹp hoặc bong-vụ có khía cạn, vỏ dai, nạc trắng
ngọt; được dùng ăn sống hay xào nấu.
lạc. dt. X. Đậu phộng.
đậu. dt. (thực.). Loại dây leo hay cây nhỏ, phần nhiều lá kép
ba, trái dài nhiều hột, thuộc ngũ-cốc.
118
lúa. dt 1. Loài cây thuộc họ hoà thảo, thân rỗng, hoa lưỡng
tính, trồng ở ruộng, hạt có vỏ trấu gọi là thóc. 2. Như thóc.
ngô. dt (thực) Loài cây lương thực cùng họ với lúa, quả gọi
là bắp gồm nhiều hạt xếp xít nhau trên một cái lõi. Từ điển từ khoai. dt.Tên chung chỉ các loại cây có củ chứa nhiều tinh và ngữ Việt bột. 7. Nam sắn. dt (thực) Loài cây cùng họ với thầu dầu, củ có lõi, chứa (Nguyễn nhiều bột có sắc trắng. Lân) lạc. dt. Loài cây thuộc họ đậu, thân bò, lá kép, quả mọc cắm
xuống đất, hạt có chất dầu.
đậu. dt. Loài cây nhỏ, quả dài chứa một dãy hạt bầu dục, hoa
có năm cánh hình bướm.
lúa. dt. 1. Cây lương thực, thân thảo rỗng, quả có vỏ trấu (còn
gọi là hạt thóc). 2. Thóc. 3. Tên gọi chung các loại ngũ cốc.
ngô. dt. 1. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi lấy hạt làm lương
thực; sống hàng năm, thân thẳng, đơn độc, đặc nhẵn, cao tới
2m, các đốt ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, cụm
hoa đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa cái lá bông dày ở nách Đại từ điển lá, bắp có áo bọc, hạt xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc tiếng Việt màu vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có nhiều râu; dùng ăn hoặc 8. (Nguyễn nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá), nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi Như Ý chủ tiểu (râu). 2. Hạt ngô và sản phẩm làm từ loại hạt này. biên) khoai. dt. 1. Các loại cây có củ chứa nhiều tinh bột nói
chung. 2. Khoai lang, nói tắt.
sắn. dt. 1. Cây có thân thẳng, mang nhiều sẹo lá, lá có cuống
dài, rễ củ chứa nhiều bột, dùng để ăn. 2. Củ sắn và các sản
phẩm chế từ củ sắn.
lạc. dt. 1. Cây trồng thân phân nhánh từ gốc có các cành tản
119
ra, đâm rễ ở mấu, lá hình trái xoan ngược mọc bốn cái trên
một cuống, hoa nhỏ vàng, cả hình trụ thuôn, thon lại ở giữa
các hạt, có vân mạng, chứa 1-3 hạt, dùng ăn và ép dầu; còn
gọi là đậu phụng. 2. Củ của cây lạc.
đậu. dt. 1. Cây nhỏ, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt
dùng làm thức ăn. 2. Quả, hạt đậu.
Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:
- Cũng như định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), tất cả
các định nghĩa tên gọi các cây lương thực nêu trên trong 7 quyển từ điển đều nêu
rõ yếu tố chỉ loại (là các từ bao). Chẳng hạn, định nghĩa mục từ lúa: là "cây
lương thực" (Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), "thứ cây ngũ cốc sinh ra
thóc" (Từ điển Khai Trí), "cây sinh ra thóc ra gạo" (Từ điển Đào Văn Tập), "loài
cây thuộc họ hòa thảo" (Từ điển Văn Tân), "loại ngũ cốc mọc thành bụi" (Từ
điển Lê Văn Đức), "loài cây thuộc họ hòa thảo" (Từ điển Nguyễn Lân), "thứ cây
sinh ra thóc" (Từ điển Thanh Nghị), "cây lương thực" (Đại từ điển tiếng Việt).
- Sự khác nhau chủ yếu giữa các định nghĩa là ở chỗ, một mặt, số lượng các
đặc trưng được lựa chọn nêu ra trong các định nghĩa là không giống nhau, mặt
khác, mức độ của các nội dung thông tin thể hiện trong các đặc trưng nêu ra. Ba
cuốn Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập đều không
đưa ra bất kì đặc trưng nào để miêu tả về loại cây này, chỉ nêu ra một công dụng
(sinh ra thóc, gạo) của loài cây này. Định nghĩa như vậy là quá đơn giản, không
cung cấp được các thông tin cần và đủ về từ đầu mục nên người sử dụng từ điển
hiểu không đầy đủ, cụ thể và chính xác về mục từ. Bốn cuốn Từ điển Văn Tân,
Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như
Ý chủ biên) đều đã nêu ra một số đặc trưng cụ thể để cung cấp thông tin đầy đủ
về mục từ giống như trong định nghĩa mục từ này của Từ điển tiếng Việt (Hoàng
Phê chủ biên). Tuy nhiên, những đặc trưng nêu ra có sự khác biệt khá rõ giữa các
120
từ điển này. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Từ điển Văn Tân, Từ điển
Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt chỉ nêu ra các đặc trưng miêu tả hình thức
cây lúa, đặc điểm về hoa, hạt của loài thực vật này. Thông tin về công dụng của
hạt cây lương thực này không được đưa ra trong tất cả các định nghĩa mục từ lúa
ở 8 từ điển được luận án khảo sát. Tất cả các định nghĩa mục từ lúa trong 8 từ
điển chỉ nêu các thông tin ngôn ngữ, không có thông tin bách khoa về mục từ.
Trong khi đó, mục từ ngô lại được định nghĩa có những khác biệt rõ rệt. Nếu ba
quyển Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh Nghị định nghĩa
rất sơ sài chỉ nêu thông tin về yếu tố chỉ loại, không nêu các đặc trưng riêng, cụ
thể về loài thực vật này, thì ba cuốn Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển Văn Tân, Từ
điển Nguyễn Lân đều nêu ra các đặc trưng riêng, cụ thể của giống cây trồng này
giống như định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "thân thẳng,
quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng chừng thân, hạt dùng để ăn", "cùng họ
với lúa, cao tới hai, ba mét, quả gồm nhiều hạt xếp sít nhau thành từng hàng
trên một bắp chung" (Từ điển Văn Tân), "cùng họ với lúa, quả gọi là bắp gồm
nhiều hạt xếp xít nhau trên một cái lõi" (Từ điển Nguyễn Lân). Riêng Đại từ điển
tiếng Việt lại nêu ra nhiều đặc trưng để miêu tả chi tiết, cụ thể về hình thức cây
ngô từ thân, rễ, lá, hoa, bắp, hạt: "sống hàng năm, thân thẳng, đơn độc, đặc
nhẵn, cao tới 2m, các đốt ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, cụm hoa
đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa cái lá bông dày ở nách lá, bắp có áo bọc, hạt
xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc màu vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có
nhiều râu" và cả những thông tin bách khoa về cây lương thực này: "dùng ăn
hoặc nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá), nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi tiểu (râu)".
Đại từ điển tiếng Việt thuộc cỡ lớn gồm 120.000 mục từ gấp nhiều lần so với 7
quyển từ điển còn lại, nên các tác giả từ điển đã nêu ra nhiều đặc trưng riêng, cụ
thể kèm theo những thông tin bách khoa về từ đầu mục trong định nghĩa các mục
từ nói chung, mục từ cây nông nghiệp nói riêng. Mặt khác, việc đưa kết hợp cả
thông tin về từ, lẫn những thông tin mang tính bách khoa (những thông tin mở
121
rộng ở một mức độ nào đó về sự vật mà từ gọi tên) trong lời định nghĩa của Đại
từ điển tiếng Việt thể hiện quan điểm của các tác giả theo xu hướng biên soạn từ
điển hiện nay: xu hướng biên soạn những từ điển tổng hợp (đa năng) kết hợp
giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.
- Cùng với thời gian, công tác nghiên cứu và biên soạn từ điển giải thích tiếng
Việt cũng không ngừng được nâng cao và phát triển. Những từ điển giải thích
tiếng Việt được biên soạn trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX (từ những thập niên
50 trở về trước) như Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập
thường định nghĩa rất sơ sài, nên thiếu nhiều thông tin trong định nghĩa. Thời kì
này việc nghiên cứu lí thuyết về từ điển học ở nước ta chưa phát triển, không áp
dụng được những thành tựu nghiên cứu, biên soạn từ điển của thế giới. Việc biên
soạn từ điển chủ yếu là công việc của từng cá nhân (Từ điển Khai Trí tuy mang
danh hội nhưng cũng do một số cá nhân biên soạn) dựa vào hiểu biết của mình và
phát huy khả năng ngoại ngữ để tham khảo các từ điển trên thế giới, chủ yếu bằng
tiếng Pháp. Vì thế, các định nghĩa còn đơn giản, chất lượng không cao. Những từ
điển giải thích tiếng Việt được biên soạn từ nửa sau thế kỉ XX (từ những thập niên
70 trở đi) (như Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển tiếng Việt (Hoàng
Phê chủ biên), Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt) đã có chất lượng tốt
hơn rất nhiều do trình độ các soạn giả đã được nâng cao cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ trên toàn cầu. Đồng thời, nhiều soạn
giả đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ học, từ điển học trên thế giới
vào việc biên soạn từ điển tiếng Việt. Rõ rệt nhất là Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê
chủ biên) đã ứng dụng thành tựu nghiên cứu ngữ nghĩa học cấu trúc trên thế giới
về cấu trúc nghĩa của từ và phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân tích
nghĩa của các thể từ, thuộc từ một các chính xác, rõ ràng nên đã cung cấp đầy đủ
các thông tin ngữ nghĩa của các mục từ. Vì thế, chất lượng quyển từ điển này đã
được nâng cao rõ rệt, trở thành một quyển từ điển có định nghĩa chính xác và đáng
tin cậy nhất hiện nay ở Việt Nam.
122
3.3.2. So sánh định nghĩa tên gọi cây ăn quả trong các từ điển giải thích
tiếng Việt
STT Tên từ điển Định nghĩa
bưởi dt. Cây ăn quả, cuống lá có cánh rộng, hoa màu trắng
thơm, quả tròn và to, gồm nhiều múi có tép mọng nước, vị
chua hoặc ngọt.
chuối dt. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm, lá to, có bẹ ôm
lấy nhau thành một thân giả hình trụ, quả dài hơi cong, xếp
thành buồng gồm nhiều nải.
cam dt. Cây ăn quả, lá to, hoa màu trắng, quả tròn, bé hơn
quả bưởi, vỏ mỏng, khi chín thường có màu vàng đỏ, vị
ngọt hoặc chua.
quýt dt. Cây ăn quả cùng họ với cam, lá nhỏ, quả tròn dẹt, TĐ Tiếng vỏ dễ bóc. Việt (Hoàng vải dt. Cây ăn quả, lá kép lông chim, quả có vỏ sần sùi 1. Phê chủ màu đỏ nâu, hạt có cùi màu trắng, nhiều nước. biên) nhãn dt. Cây ăn quả, thân to, quả tròn mọc thành chùm, có
vỏ màu nâu nhạt, hạt thường đen, cùi trắng, vị ngọt.
mít dt. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ
có gai, trong chứa nhiều múi có vị ngọt thơm.
na dt. Cây ăn quả, vỏ quả có nhiều mắt, thịt quả trắng,
mềm, ngọt, hạt màu đen.
xoài dt. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá to hình trái xoan dài,
quả hình bầu dục, thịt màu vàng, hạt to có bao cứng.
dứa dt. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép
và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả tập hợp trên một khối
nạc, có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá.
2. Việt Nam tự bưởi. Tên một thứ cây về loài cam, có quả ăn được.
123
chuối. Loài cây, thân có bẹ, lá thành tàu, quả thành buồng. điển (Hội
cam. Tên một thứ cây về loài bưởi, loài chanh, có quả ăn Khai trí -
được. Tiến Đức)
vải. Thứ cây thuộc loài nhãn, quả chín thì vỏ đỏ, vị ngọt.
nhãn. Thứ cây to, quả mọc từng chùm, cùi trắng và ngọt.
mít. Thứ cây quả có gai, có sơ, có múi.
na. Thứ cây, quả có mắt, trong có múi trắng, hạt đen, vị
ngọt.
xoài. Thứ cây thuộc loài muỗm, quả có nhiều thịt, sắc
vàng, vị thơm và ngọt, hột to.
dứa. Một loài cây thấp, lá nhọn có gai, hoa thơm, quả
thơm và có mắt.
bưởi. Giống cây loài cam quít, trái lớn có nước nhiều
nhưng thường chua.
chuối. Giống cây nhỏ có trái mọc thành từng buồng. Tự điển cam. Giống cây loài chanh, trái thường có nước ngọt. Việt Nam vải. Giống cây loài nhãn, trái lớn. 3. phổ thông nhãn. Cây có trái nhỏ, hột đen, cùi trắng có nhiều nước. (Đào Văn mít. Một giống cây, trái có gai, múi ăn ngọt. Tập) na. Giống cây, trái có mắt, trong có nhiều múi trắng nhỏ,
ăn ngọt
xoài. (thực.) Giống cây có trái lớn, thịt vàng, thơm ngon.
bưởi. dt. (thực.). Loại cây có trái hình như trái cam nhưng
lớn gấp ba, gấp bốn, ruột có múi ăn ngon. Việt Nam
chuối. bt. (thực.) 1. Cây có thân thẳng hợp từng bẹ mềm, tân từ điển 4. có lá thành tàu, quả thành buồng, chín ăn rất ngon. 2. Quả, (Thanh
trái chuối. Nghị)
cam. dt. (thực.) Cây về loại bưởi, loại chanh có trái ruột
124
nhiều múi, nước nhiều, ăn được.
vải. dt (thực.) Thứ cây thuộc loại nhãn, quả có mắt nho
nhỏ, chín thì vỏ đỏ, vị ngon ngọt.
nhãn. dt. (thực.) 1. Loại cây to, có quả mọc từng chùm,
khi chín ăn vị ngọt, ngon. 2. Trái, quả nhãn.
mít. dt. (thực.) Thứ cây quả có gai, ở trong múi, ăn được.
na. dt. (thực.) 1. Mảng-cầu. 2. Quả na.
xoài. dt. (thực.) Thứ cây có trái hình quả tim, nhiều cơm,
vị thơm ngon.
dứa. dt. Cũng gọi là thơm.
bưởi dt. Loài cây to, cùng họ với cam, hoa trắng và thơm,
cuống lá có cánh, quả to gồm nhiều múi có tép chứa một
chất nước vừa chua vừa ngọt.
chuối dt. Loài cây đơn tử diệp, thân ngầm, lá có bẹ to ôm
lấy nhau thành một thứ thân giả, quả hình tròn và dài, xếp
thành buồng.
cam dt. Loài cây cùng họ với bưởi, quả tròn, bé hơn quả
bưởi, cùi mỏng. Từ điển vải dt. Loại cây to, thuộc họ bồ hòn, quả có vỏ mỏng màu 5. tiếng Việt đỏ nâu, mặt ngoài sần sùi, hạt có cùi màu trắng, nhiều (Văn Tân) nước, ăn được.
nhãn dt. Loài cây to, cùng họ với vải, quả tròn, mọc thành
chùm, vỏ vàng nâu, hạt thường đen, cùi trắng và ngọt.
mít dt. Loài cây cùng họ với dâu tằm, thân có nhựa mủ,
quả kép lớn có gai và chứa nhiều múi, vị ngọt và thơm.
na dt. Loài cây song tử diệp, quả to bằng nắm tay, màu lục
nhạt, ngoài mặt có mắt tròn, phía trong có múi trắng, mềm
và ngọt, mỗi múi chứa một hạt màu đen.
125
xoài dt. Loài cây ăn quả cùng họ với cây sấu, quả hình
thận, thịt ngọt màu vàng, hột to có bao cứng.
dứa dt. Cg. Thơm, khóm gai. Loài cây thấp, lá có gai xếp
theo hình hoa thị ở đầu thân, quả là một quả giả có vị ngọt,
hình đầu do trục hoa phồng lên mà thành.
bưởi dt. (thực.). Loại cây ăn trái, thân và nhánh có gai
nhọn dài 3, 4cm., lá dày láng có đốt ở cuống, hoa trắng
thật thơm, trái to, tròn hoặc có nuốm, vỏ dày mềm, nhiều
múi, mỗi múi có nhiều tép trong, nước ngọt, ngon hoặc
chua, the; trái non xẻ hai phơi khô là vị chỉ (Citrus
grandis).
chuối dt. (thực.). Loại cây thân mềm do bẹ lá kết hợp, giữa
có lõi trắng, đúng hạn trổ bắp, bắp giải thành buồng, mỗi
buồng có nhiều nải, mỗi nải nhiều trái, vỏ mềm, ruột mềm
ngon ngọt, củ chuối sinh con. Tự điển
cam dt. (thực.). Loại cây ăn trái, thân và cành có gai nhọn Việt Nam
cứng, lá có đốt gần cuống, hoa trắng thơm, trái tròn vỏ dày 6. (Lê Văn
có nhiều múi, múi có nhiều tép trong, ngon ngọt, nhiều Đức)
sinh tố (Citrus sinensis).
quýt dt. (thực.): C/g. Quất, loại cây ăn trái, cao lối 4m, lá
có cánh ở cuống, hoa trắng, cành nhỏ, trái mỏng vỏ và
tróc, nhiều múi; vỏ có nước the, phơi khô là vị trần bì
(Đy), múi có nhiều tép ngọt hoặc chua.
vải dt. (thực.): C/g. Lệ chi hay Đơn lệ, loại cây có trái mọc
từng chùm, tròn hoặc tròn nhọn bằng ngón chân cái, vỏ có
mụt nhỏ mọc dày, cơm trắng đục có vị ngọt chua, có tánh
điều hoà khí lực và thông thần.
mít dt. (thực.): C/g. Ba-la-mật, sách thuốc gọi Nẵng-gia-
126
kiết, loại cây to gỗ vàng, lá đơn láng, rậm, phát hoa gọi
dái, đực cái riêng, trái to tròn dài, vỏ có nhiều gai; có
nhiều múi và xơ, mỗi múi có hột đựng trong một bọc cứng
giòn, cơm ngọt, thơm, nhiều mật, hột bùi nhiều bột có tính
ích khí, giải phiền (Arto-carpus heterophyllus).
na dt. (thực.) X. Mảng cầu (trừ mảng cầu Xiêm)
xoài dt. (thực.) Sách thuốc gọi Hương-cái, vua Thiệu-trị
đặt là Móng, loại cây cao, tàn rậm lá đơn giòn, đọt ăn chua
chua chát chát; hoa nhỏ vàng trổ thành chùm ở chót nhánh;
trái no tròn ở gần cuống, hơi nhọn và quéo ở chót, khi
chín, cơm vàng ngon, ngọt; hột giẹp có xơ; trái có nhiều
caroten, sinh-tố B1 và sinh-tố C; vỏ cây và hột có nhiều
tanin được dùng trị tiết-tả; mủ cây trị ghẻ
bưởi dt. (thực) Loài cây to, cùng họ với cam, hoa trắng và
thơm, quả to gồm nhiều múi.
chuối dt. (thực) Loài cây đơn tử diệp, thân mềm, lá có bẹ,
quả xếp thành nải và thành buồng.
cam dt. (thực) Loài cây cùng họ với bưởi, quả bé hơn quả
bưởi, vỏ mỏng, khi chín thường có màu hồng nhạt, múi có Từ điển từ
tôm thường mọng nước, ngọt hoặc hơi chua. và ngữ Việt
vải dt. Loài cây to quả có vỏ sần sùi màu đỏ nâu khi chín, 7. Nam
hạt có cùi màu trắng, nhiều nước, ăn được. (Nguyễn
nhãn dt. (thực) Loài cây to cùng họ với vải, quả tròn, mọc Lân)
thành chùm, hạt đen, cùi trong và ngọt.
mít dt. Loài cây ăn quả, thân có nhựa mủ, quả có gai, chứa
nhiều múi và sơ, có vị ngọt và thơm.
na dt. Cây song tử diệp, quả có nhiều mắt, trong có múi
trắng mềm và ngọt, múi có hạt màu đen.
127
xoài dt. (thực) Loài cây ăn quả cùng họ với cây sấu, quả
hình bầu dục, hạt to thịt ngọt khi thực chín.
dứa dt. (cn. thơm) Loài cây thấp, lá dày, có gai, quả có
nhiều mắt, có thứ ăn ngọt, có thứ ăn chua.
bưởi dt. 1. Cây trồng nhiều ở Việt Nam, cao 10-13m, cành
có gai nhỏ mọc đứng ở kẽ lá, lá hình trái xoan tù hai đầu,
dai, cuống có cánh dài, hoa trắng to rất thơm mọc thành
chùm 6-10 chiếc, quả hình cầu to, cùi dày, màu thay đổi
tùy loại, chứa thường là 12 múi, tép mọng nước có vị
chua, ăn ngon, hạt dùng ép dầu, gỗ rắn, vàng. 2. Quả bưởi.
chuối dt. 1. Cây ăn quả, có ở vùng nhiệt đới, được trồng
hoặc tự mọc, thân được tạo từ các lớp bẹ ôm lấy nhau, lá
vươn từ thân, cuống lá cứng to, hơi cong, quả dài hơi
cong, xếp thành nải, nhiều nải thành buồng, chín vàng, thịt Đại từ điển mềm ngọt. 2. Quả chuối và những sản phẩm làm từ loại tiếng Việt quả này. 8. (Nguyễn cam dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, thân nhỏ, không gai Như Ý chủ hoặc ít gai, lá hình trái xoan hơi khía tai bèo ở phía trên, hoa biên) trắng mọc thành chùm 6-8 cái ở kẽ lá, quả hình cầu, có vỏ
chín vàng, khó bóc, ruột có vị chua ngọt, là loại quả quý. 2.
Quả cam và những sản phẩm làm từ loại quả này.
quýt dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, cao 5-8m,
không gai hoặc có gai ngắn thẳng, lá hình trái xoan, mép
hơi khía tai, hoa trắng mọc riêng lẻ, quả gần hình cầu màu
da cam, dẹt hai đầu, vỏ lồi lõm nhưng không sần sùi, dễ
bóc, ruột quả ngọt dịu, thơm, vỏ được dùng làm thuốc. 2.
Quả quýt.
vải dt. 1. Cây trồng nhiều ở miền bắc Việt Nam lấy quả
128
ăn, cao đến 10m, cành tròn màu gụ, tán lá xòe rộng, lá
mọc 2- 4 đôi trên một cuống, cứng dai, mặt trên sáng mặt
dưới thâm, quả hình trứng, chín đỏ, hạt to nâu, cùi dày
trắng mọng, nước có vị hơi chua, hạt, hoa và rễ có thể
dùng làm thuốc. 2. Quả vải.
nhãn dt. 1. Cây ăn quả, thân to, quả tròn, mọc thành chùm, vỏ
quả màu nâu nhạt, hạt đen, cùi trắng, mọng nước, có vị ngọt.
2. Quả nhãn và các sản phẩm từ quả nhãn.
mít dt. Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi, thân gỗ,
cao đến 20 m, lá hình trái xoan rộng hay trứng ngược, dày,
bóng, màu lục đậm, quả to, vỏ nhiều gai nhọn có nhiều
múi thịt mềm thơm và ngọt, gỗ vàng mịn, dùng khắc dấu,
tiện và tạc tượng. 2. Quả mít.
na dt. 1. Cây trồng lấy quả ăn, cao 2-8m, phân cành nhiều,
lá hình mác, cuống mảnh, hoa vàng mọc rủ xuống, quả
hình cầu, vỏ xanh nhạt, có nhiều mắt, thịt trắng, mềm,
thơm và ngọt, hạt nhỏ đen nhánh; còn gọi là mãng cầu. 2.
Quả na.
xoài dt. 1. Cây trồng chủ yếu ở miền Nam Việt Nam để
lấy quả ăn, cao l0-25m, lá mọc cách hình thuôn mũi mác,
hoa họp thành chùm kép ở ngọn cành, quả hạch hơi hình
thận, vỏ ngoài dai, khi chín màu vàng xanh, thịt mọng
nước thơm ngọt chứa nhiều vi-ta-min, vỏ quả dùng chữa
bệnh kiết lị, bệnh hoại huyết. 2. Quả xoài và những sản
phẩm làm từ loại quả này.
dứa dt. 1. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dài, cứng, có gai mọc
ở mép, quả có nhiều mắt, phía trên có cụm lá. 2. Quả dứa
và các sản phẩm làm từ loại quả này.
129
Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:
- Giống như các định nghĩa mục từ cây lương thực trong Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên), tất cả các định nghĩa tên gọi một số cây ăn quả nêu trên
trong 7 quyển từ điển được so sánh đều nêu ra nét nghĩa khái quát - nét nghĩa chỉ
loại. Tuy nhiên, nét nghĩa này thể hiện bằng các từ bao thuộc các bậc khác nhau:
cây, loại cây, loài cây, thứ cây, cây trồng, cây ăn quả. Trong các định nghĩa nêu
trên chỉ có các định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) lựa
chọn từ bao chính xác nhất, trực tiếp chỉ rõ cây nông nghiệp này là "cây ăn quả";
tiếp theo là các định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt chọn từ bao là "cây
trồng". Còn các định nghĩa trong Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ
điển Văn Tân, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Nguyễn Lân chọn từ bao ở bậc cao
hơn là "cây, loại cây, loài cây, thứ cây". Việc sử dụng các từ, ngữ để thể hiện nét
nghĩa chỉ loại tốt nhất phải thể hiện được hệ thống phân cấp có tôn ti trật tự theo
quan hệ bao và được bao. Tức là, phải lựa chọn cấp độ trực tiếp là "nút" để cho
các "cành nhỏ mọc ra", vừa là điểm cuối cùng cho các "lá" hội tụ. Cái nút cuối
cùng mà các "lá" hội tụ chính là cấp độ xác định để lựa chọn từ bao" [64, tr.4].
Theo đó, khi định nghĩa một số mục từ cây ăn quả nêu trên thì cái nút cuối cùng
chính là "cây ăn quả". Việc xác định chính xác cấp độ để lựa chọn từ bao sẽ giúp
cho việc phân tích nghĩa của từ được hiệu quả hơn qua việc lựa chọn các đặc
trưng riêng, cụ thể của từng từ đầu mục cần được giải thích.
- Việc lựa chọn không chính xác từ bao có ảnh hưởng đến độ chính xác trong
việc lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm cụ thể, riêng biệt của tên gọi cây trồng ở từ
đầu mục để có thể phân biệt nghĩa từ đầu mục này với các từ đầu mục khác đều
thuộc mục từ cây ăn quả có cùng một cấu trúc ngữ nghĩa. Thành tố nghĩa chỉ đặc
trưng được lựa chọn của cây ăn quả gồm nhiều nét nghĩa khác nhau. Các từ điển
nêu trên đều đã nêu ra nhiều dấu hiệu/đặc điểm về hình thức của cây, của cành,
lá, hoa, quả, vỏ, đặc điểm về màu sắc, mùi, vị, kích cỡ, công dụng của hoa, quả,
hạt. Điểm khác biệt chỉ là số lượng các dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn được
130
nêu ra trong định nghĩa: Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh
Nghị nêu ra ít các đặc trưng nhất, nên định nghĩa thường đơn giản, sơ sài, không
đủ để phân biệt rõ một số cây ăn quả với nhau. Một số dấu hiệu/đặc điểm được
lựa chọn không chính xác, không có tính bao quát. Ví dụ:
+ Từ điển Khai Trí:
bưởi. Tên một thứ cây về loài cam, có quả ăn được. (định nghĩa này không
phân biệt được bưởi, cam, quýt, chanh).
cam. Tên một thứ cây về loài bưởi, loài chanh, có quả ăn được.
mít. Thứ cây quả có gai, có sơ, có múi. (định nghĩa thế này thì cũng có thể là
cây sầu riêng).
dứa. Một loài cây thấp, lá nhọn có gai, hoa thơm, quả thơm và có mắt (hoa
dứa không có mùi thơm, quả dứa chỉ chín mới có mùi thơm).
+ Từ điển Đào Văn Tập:
bưởi. Giống cây loài cam quít, trái lớn có nước nhiều nhưng thường chua.
(không phải tất cả các giống bưởi đều chua, nhiều giống bưởi có múi rất ngọt).
mít. dt Loài cây ăn quả, thân có nhựa mủ, quả có gai, chứa nhiều múi và sơ,
có vị ngọt và thơm. (chỉ khi chín quả mít, múi mít mới có mùi thơm).
+ Từ điển Thanh Nghị:
mít. dt. (thực.) Thứ cây quả có gai, ở trong múi, ăn được. (định nghĩa thế
này thì cũng có thể là cây sầu riêng).
...
- Một số định nghĩa mục từ cây ăn quả đưa nhiều dấu hiệu/đặc điểm quá cụ
thể, chi tiết. Đồng thời, bên cạnh những thông tin ngôn ngữ, còn nêu cả những
thông tin bách khoa nên lời định nghĩa thường dài hơn, chi tiết hơn so với định
nghĩa của các từ điển khác. Ví dụ, các định nghĩa mục từ bưởi, cam, quýt, vải,
mít, xoài trong Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên); các định nghĩa
mục từ bưởi, mít, xoài trong Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức. Đây là hai
quyển từ điển cỡ lớn có số lượng mục từ rất lớn (từ 75.000 đến 120.000 mục từ).
131
Việc vừa đưa nhiều dấu hiệu/đặc điểm để miêu tả cụ thể, rõ ràng tên gọi cây
trồng lại vừa cung cấp những thông tin bách khoa trong lời định nghĩa cây nông
nghiệp chỉ có trong định nghĩa của các từ điển cỡ lớn. Định nghĩa tên gọi cây
nông nghiệp trong các từ điển cỡ trung (khoảng từ 45.000 đến 60.000 mục từ)
chỉ lựa chọn những dấu hiệu/đặc điểm cần và đủ để vừa phân biệt được các loài
cây với nhau vừa chỉ rõ những đặc trưng riêng biệt của từng loại cây trồng. So
sánh một số định nghĩa cây nông nghiệp sau đây:
Định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt Định nghĩa trong Từ
điển tiếng Việt (Hoàng STT (Nguyễn Như Ý chủ biên)
Phê chủ biên)
ngô dt. 1. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi lấy ngô d. Cây lương thực,
hạt làm lương thực; sống hàng năm, thân thân thẳng, quả có dạng
thẳng, đơn độc, đặc nhẵn, cao tới 2m, các đốt hạt tụ lại thành bắp ở lưng
ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, chừng thân, hạt dùng để
cụm hoa đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa ăn. Ngô nếp. Ngô tẻ.
cái lá bông dày ở nắp lá, bắp có áo bọc, hạt Chuyện nở như ngô rang. 1. xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc màu
vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có nhiều râu;
dùng ăn hoặc nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá),
nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi tiểu (râu). 2.
Hạt ngô và sản phẩm từ loại hạt này: ngô
hầm, ngô rang.
khoai lang dt. 1. Cây trồng ở nhiều nơi, để khoai lang d. Cây thân cỏ
lấy củ, sống dai, mọc bò, lá hình tim có mũi mọc bò, hoa hình phễu,
nhọn, củ đỏ hoặc trắng dùng làm lương thực, màu tím nhạt hay trắng, rễ 2. có tính chất nhuận tràng: trồng mấy luống củ chứa nhiều tinh bột,
khoai lang. 2. Củ cây khoai lang, dùng làm dùng để ăn. Củ khoai
lương thực. lang.
132
cam dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, thân cam d. Cây ăn quả, lá to,
nhỏ, không gai hoặc ít gai, lá hình trái xoan hoa màu trắng, quả tròn,
hơi khía tai bèo ở phía trên, hoa trắng mọc bé hơn quả bưởi, vỏ
thành chùm 6-8 cái ở kẽ lá, quả hình cầu, có mỏng, khi chín thường có 3. vỏ chín vàng, khó bóc, ruột có vị chua ngọt, màu vàng đỏ, vị ngọt
là loại quả quý: trồng cam. 2. Quả cam và hoặc chua. Màu da cam.
những sản phẩm làm từ loại quả này. Rượu cam (chế bằng tinh
dầu cam).
hồ tiêu dt. 1. Cây trồng nhiều ở Nam Bộ và hồ tiêu d. Cây leo cùng
Trung Bộ, lấy quả làm gia vị, thân leo, lá hình họ với trầu không, hạt có
trứng bầu dục hay hình bầu dục nhọn đỉnh, vị cay, dùng làm gia vị. 4. quả mọng hình cầu, màu đỏ lúc tươi, đen khi
khô, vị thơm cay. 2. Loại gia vị dạng bột,
màu xám, vị cay nồng lấy từ hạt hồ tiêu.
xoài dt. Cây trồng chủ yểu ở miền Nam Việt xoài d. Cây ăn quả to, vỏ
Nam để lấy quả ăn, cao 10-25m, lá mọc cách nhẵn, lá hình trái xoan
hình thuôn mũi mác, hoa họp thành chùm kép dài, quả hình bầu dục, thịt
ở ngọn cành, quả hạch hơi hình thận, vỏ màu vàng, hạt to có bao
ngoài dai, khi chín màu vàng xanh, thịt mọng cứng. 5. nước thơm ngọt chứa nhiều vi-ta-min, vỏ quả
dùng chữa kiết lị, bệnh hoại huyết: Vườn xoài
đang mùa hoa. 2. Quả xoài và những sản
phẩm làm từ loại quả này: ăn xoài, mua mấy
cân xoài.
- Về cách diễn đạt trong lời định nghĩa, vẫn còn một số định nghĩa nêu các
đặc trưng của từ đầu mục không chính xác. Chẳng hạn, khi nêu đặc trưng vị của
quả, (trừ định nghĩa mục từ chuối trong Từ điển Thanh Nghị, mục từ xoài trong
133
Từ điển Lê Văn Đức nêu rõ quả của hai loài cây này khi chín có vị ngọt), tất cả
các định nghĩa còn lại đều chỉ nêu chung chung là vị chua hay ngọt, mùi thơm
của quả, múi. Thật ra, tất cả các loại quả chỉ khi chín mới có mùi thơm, vị ngọt,
hay chua một cách rõ ràng, nên để chính xác phải thêm cụm từ "khi chín" vào
trước đặc trưng mùi, vị.
3.3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nguyên liệu trong các từ điển giải thích
tiếng Việt
STT Tên từ điển Định nghĩa
caosu cv. cao su. dt. Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có 1. Từ điển
nhiều nhựa mủ. tiếng Việt
cà phê dt. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi (Hoàng Phê
chín có màu đỏ, hạt đem rang và xay nhỏ thành bột màu chủ biên)
nâu sẫm, dùng để pha nước uống.
chè dt. Cây nhỡ lá răng cưa, hoa màu trắng, quả có ba múi,
trồng để lấy lá, búp, nụ pha nước uống.
sơn dt. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có
nhựa dùng để chế một chất cũng gọi là sơn.
hồi dt. Cây to, quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình
sao, mỗi múi chứa một hạt, có mùi thơm, dùng để cất lấy
tinh dầu.
quế dt. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm,
vị cay, dùng làm thuốc.
hồ tiêu dt. Cây leo cùng họ với trầu không, hạt có vị cay,
dùng làm gia vị.
bông dt. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, lá hình chân vịt, hoa
màu vàng, quả già chứa xơ trắng, dùng để kéo thành sợi
vải.
đay dt. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc, quả
134
tròn, vỏ thân có sợi dùng làm bao tải, làm dây buộc.
mía dt. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa chất
đường, dùng để kéo mật, làm đường.
chè Thứ cây người ta trồng để lấy lá nấu nước uống. 2. Việt Nam tự
sơn Nhựa một thứ cây dùng để gắn hay quét ở ngoài đồ gỗ điển (Hội
cho bền, cho đẹp. Khai trí -
hồi Loài cây có quả dùng làm dầu. Tiến Đức)
quế Thứ cây quí, vỏ thơm cay, dùng làm thuốc.
hồ-tiêu Thứ hột có chất cay, dùng làm đồ gia-vị.
bông Một thứ tơ trắng ở trong quả.
đay Loài cây có vỏ dùng làm sợi.
mía Thứ cây thuộc về loài sậy, có chất ngọt để làm mật,
làm đường.
cà-phê (Pháp: Café) Trái của một thứ cây trồng ở xứ 3. Tự điển
nóng, rang cháy lên rồi xay nhỏ ra để pha nước uống. Việt Nam
chè (h. trà) Giống cây có lá dùng để pha hay nấu nước phổ thông
uống. (Đào Văn
cao-su (Pháp) Chất có tính chun (thun) lấy ở nhiều giống Tập)
cây có nhựa trồng ở xứ nóng.
cao-su dt. (thực) Loại cây trong thân có mủ, đặc lại thì dẽo 4. Việt Nam
và dãn. tân từ điển
cà-phê dt. (thực) Trái nhỏ của cây cà-phê trong trái có hột, (Thanh
phơi ran làm ra bột dùng khuấy với nước đường, uống Nghị)
ngon. Café.
chè dt. Loại cây thường trồng để lấy lá nấu nước uống.
sơn dt. Nhựa một thứ cây để gắn hay phết ngoài đồ gỗ cho
bền cho đẹp.
135
quế dt. (thực) Vỏ thơm cay của cây quế dùng làm thuốc
rất hay
hồ-tiêu dt. Hạt tiêu.
bông dt. Thứ tơ trắng lấy trong quả cây bông vải, bông
gòn, bông gạo dùng làm vải, đồ lót, nệm v.v...
đay dt. (thực) Loại cây có vỏ dùng làm sợi dệt vải.
mía dt. (thực) Cây thuộc về loài sậy vỏ cứng, có đốt dài,
đặc ở trong, có nhiều chất nước ngọt dùng làm mật, làm
đường.
cao-su dt. Cây cùng họ với thầu dầu, mọc ở những vùng 5. Từ điển
nhiệt đới, vỏ rạch ra thì có một chất nhựa mủ dùng để chế tiếng Việt
cao-su. (Văn Tân)
cà-phê dt. Loài cây lá mọc đối, hoa trắng, quả hình trứng,
khi chín thì đỏ, chứa hai hạt.
chè dt. Loài cây nhỡ, lá có răng, hoa trắng, trồng lấy búp,
lá, nụ để pha nước uống.
sơn dt. Loài cây cùng họ với xoài, trám, lá kép, vỏ có nhựa
cũng gọi là sơn.
hồi dt. Loài cây song tử diệp, cao độ tám mét, quả gồm
tám khía xếp thành hình sao, chứa một thứ dầu thơm dùng
để chế rượu, làm gia vị, làm thuốc.
quế dt. Loài cây cùng họ với long não, lá to có ba đường
gân rõ rệt, vỏ thơm và cay, dùng làm thuốc.
hồ tiêu dt. Cây nhiệt đới, hột có vị cay và dùng làm gia vị.
bông dt. Cây cùng họ với râm bụt, trồng lấy quả kéo sợi
dệt thành vải.
đay dt. Loài cây nhỏ, lá to và dai, vỏ có sợi thô, dùng để
làm dây, dệt bao tải, đan võng...
136
mía dt. Loài cây thuộc họ hòa thảo, thân đặc chứa đường,
dùng để kéo mật làm đường.
cao-su dt. (thực). Loại cây to, cao đến 7 m., lá kép do ba lá 6. Tự điển
phụ nhập lại; chùm tụ-tán hoa vàng nhỏ không cánh, đài Việt Nam
dính thành dĩa năm răng, noãn-sào lép, có từ năm đến (Lê Văn
mười tiểu-nhị, trái có ba hột láng-nhiều dầu mủ cây trắng Đức)
đục, cần-thiết cho kỹ-nghệ (Heve).
cà-phê dt. (thực). Loại cây trồng, lá cứng dà màu sậm, hoa
nhỏ trắng, đơm thành chùm, thơm; trái tròn dài chín đỏ,
hột có chất tanin tức acit Cafêtannin do hai chất acit
coffalie và chlorôgênie hỗn-hợp và hai chất alcalôite:
cafêin và trigônellin (Coffea).
chè dt. (thực): C/g. Trà, loại cây trồng, có thể cao đến
10m., lá có răng cưa mịn, mọc xen, hoa cô-độc trắng,
nhiều tiểu-nhị, đọt có chất chánh là trimêthylxanthin gọi là
caféin và chất phụ là théophyllin, ngoài ra còn có glucôsit,
tanin và nhiếu-tố théas, trong lá xanh có sinh-tố C; do chất
caféin, trà tăng-cường các bộ hô-hấp, tuần-hoàn và gây
cảm-giác khoan-khoái (thêin); Camellia Thea sinensis).
sơn dt. (thực) Tên thứ cây có mủ (nhựa) dùng tô, phết cho
bền, cho đẹp.
hồi dt. (thực) Loại cây cao lối 7 m., lá như tơ, hoa vàng,
trái có nhiều dầu.
quế dt. (thực): C/g. Mộc-tê, loại cây rừng to, vỏ thơm, vị
cay ngọt, tánh ôn.
hồ-tiêu dt. (thực) X. Tiêu.
đay dt. (thực) X. Đại-ma.
mía dt. (thực): C/g. Cam-giá, loại cỏ cao từ 2 tới 6 m.,
137
thân trơn vỏ cứng, có đốt dài từ 10 tới 20 cm, lá dài nhám,
gân chánh trắng, lá mọc hai hàng tại mỗi mắt có bẹ ôm
thân, chùm tụ-tán (cờ) ở đọt có nhiều lông mịn; thân mía
có nước ngọt, dùng nấu đường hay ăn sống.
cao-su dt. (Pháp: caoutchouc) 1. Cây cùng họ với thầu 7. Từ điển từ
dầu, mọc ở vùng nhiệt đới có chất nhựa mủ rất cần cho và ngữ Việt
công nghiệp. Nam
cà phê dt. (Pháp: café) 1. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, (Nguyễn
quả hình trứng gà, khi chín thì đỏ. Lân)
chè dt. Loài cây lá có răng cưa, hoa trắng, trồng để lấy
búp, lá, nụ pha nước uống.
sơn dt. (thực) Loài cây cùng họ với xoài, lá kép, vỏ có
nhựa.
hồi dt. Loài cây song tử diệp, quả gồm tám khía xếp thành
hình sao, chứa một chất dầu thơm.
quế dt. (thực) Loài cây cùng họ với long não, lá to, có ba
đường gân rõ rệt, vỏ thơm và cay, dùng làm thuốc.
hồ tiêu dt. Cây leo vùng nhiệt đới có hột dùng làm gia vị.
bông dt. (thực) Cây cùng họ với râm bụt, lá hình chân vịt,
hoa màu vàng, quả có sợi trắng dùng để dệt vải.
đay dt. (thực) Loài cây thân cỏ, lá khá to vỏ thân có sợi
dùng để dệt bao tải, bện võng, làm dây.
mía dt. (thực) Loài cây thuộc họ hoà thảo, thân đặc chứa
đường, dùng để kéo mật làm đường.
cao su (caoutchouc) dt. Cây to, mọc thành rừng nhiều mủ, 8. Đại từ điển
dùng để chế tạo các chất có tính đàn hồi. tiếng Việt
cà phê (café) dt. Cây trồng ở nhiều vùng Việt Nam, nhiều (Nguyễn
nhất là Tây Nguyên, thân nhỡ, cành có cạnh nâu đen, tròn, Như Ý chủ
138
màu xám, lá hình trái xoan, mặt trên màu lục bóng, mặt biên)
dưới nhạt, hoa trắng, quả nạc, hạt rang xay pha để uống có
vị thơm ngon.
chè dt. Cây nhỡ, lá răng cưa, hoa màu trắng, trồng lấy lá,
búp để làm đồ uống.
sơn dt. Cây trồng nhiều ở Phú Thọ và các đồi miền bắc
Việt Nam, để chích lấy sơn hoặc mọc dại trong rừng, cây
nhỡ, lá hình thuôn mũi mác nhọn đầu mỏng nhẵn, mặt
dưới xanh nhạt, quả hạch hơi dẹt.
hồi dt. Cây to, quả có tám múi khô cứng xếp thành hình
sao, trong đó có nhiều hạt, dùng để cất tinh dầu.
quế dt. Cây mọc trong rừng, có kích thước trung bình, lá
thuôn dài, mặt trên sáng bóng và nhẵn, mặt dưới màu lục
và hơi có lông, hoa hợp thành chùy ở nách nhưng lá phía
trên, vỏ nâu sẫm chứa dầu dùng làm thuốc chữa bệnh đau
bụng, trị chứng khó tiêu hóa và dùng chế dầu quế, kem
quế, còn gọi là quế bì, quế đơn.
hồ tiêu dt. Cây trồng nhiều ở Nam Bộ và Trung Bộ, lấy
quả làm gia vị, thân leo, lá hình trứng bầu dục hay hình
bầu dục nhọn đầu, quả mọng hình cầu, màu đỏ lúc tươi,
đen khi khô, vị thơm cay.
bông dt. Cây thân cỏ, lá hình chân vịt, hoa vàng, xơ trắng
bám quanh hạt, dùng để làm sợi.
đay dt. Cây mọc hoang và được trồng để lấy vỏ, thân làm
sợi dệt, ngọn non làm rau ăn, cây thảo mọc hàng năm, cao
l-3m, lá bầu dục hẹp, đầu nhọn, mép có răng cưa, hoa
vàng, quả nang gần hình cầu có 10 rãnh dọc rõ, hạt độc;
còn gọi rau đay, bố đay, đay quả tròn .
139
mía dt. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi, sống hằng năm,
thân cao 2-8 m, thẳng đứng, ruột đặc, phân đốt đều đặn, lá
cứng thẳng, hình dải nhọn, đầu kéo dài buông thõng, mép
và mặt dưới ráp, dùng ép để chế đường (thân) và lợp nhà
(lá).
Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:
- Trừ định nghĩa các mục từ: sơn, hồ tiêu, bông trong Từ điển Khai Trí; cao su,
cà phê trong Từ điển Lê Văn Đức; cà phê, sơn, bông trong Từ điển Thanh Nghị
không nêu tên cây, các định nghĩa tên gọi một số cây nêu trên trong các cuốn từ
điển còn lại đều nêu ra nét nghĩa khái quát - nét nghĩa chỉ loại bằng các từ bao
thuộc các bậc khác nhau: cây, loại cây, loài cây, thứ cây, cây trồng. Tuy nhiên,
nếu theo cách phân loại ngữ nghĩa thì chính xác nhất nên chọn từ bao là "cây
trồng", vì từ này vừa thể hiện được cấp độ phân loại, đồng thời lại chỉ rõ tính chất
của các loại cây này là được con người gieo trồng, chứ không phải là những loại
cây mọc hoang dã (dù rằng từ xa xưa tất cả các loại cây đều mọc hoang, rồi một số
trong chúng được con người thuần hóa, gieo trồng phục vụ cuộc sống của mình).
Theo cách hiểu như vậy thì Đại từ điển tiếng Việt đã chọn từ bao phù hợp và
chính xác nhất.
- Về việc lựa chọn, xác định những đặc trưng của từng loại cây nguyên liệu
đưa vào trong định nghĩa, cho thấy các từ điển được biên soạn giai đoạn nửa đầu
thế kỉ XX (Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập) đã lựa
chọn rất ít đặc trưng nên định nghĩa rất sơ sài, các nội dung thông tin trong định
nghĩa không đủ khả năng phân biệt được rõ các giống cây khác nhau. Chẳng hạn,
định nghĩa mục từ chè, sơn, hồi, quế trong Từ điển Khai Trí; mục từ cà phê, chè,
hồi, đay trong Từ điển Đào Văn Tập; mục từ chè, đay trong Từ điển Thanh Nghị
là những định nghĩa không có tác dụng phân biệt vì chúng có thể chỉ một số loại
cây khác (như trẩu, sở, lanh, gai, thảo quả, sả, tràm,...).
140
- Từ điển Lê Văn Đức và Đại từ điển tiếng Việt, thuộc cỡ lớn và có thể do
quan điểm của các tác giả biên soạn, thường nêu ra nhiều các đặc điểm trong lời
định nghĩa về cây ghi ở từ đầu mục, đồng thời còn cung cấp cả những thông tin
bách khoa (về thành phần hóa học, công dụng, tác dụng trong công nghiệp, y
học,...) nên các định nghĩa thường dài hơn, cụ thể và chi tiết hơn so với định
nghĩa cùng loại cây ở các từ điển khác. Mặc dù hiện nay định nghĩa trong từ điển
phổ thông có xu hướng đưa cả thông tin bách khoa bên cạnh các thông tin ngôn
ngữ, nhưng luận án cho rằng cũng nên có chọn lọc, chỉ nên đưa thông tin bách
khoa nào cần thiết đông đảo người sử dụng ngôn ngữ ở trình độ phổ thông có thể
hiểu được. Không nên quá lạm dụng các thông tin bách khoa trong từ điển ngôn
ngữ vì " (...) đối với cuốn từ điển đòi hỏi quá nhiều kiến thức mới hiểu được, thì
cũng chẳng có lợi gì cho người lao động thông thường" [106, tr.7]
Từ việc so sánh một số mục từ tên gọi một số cây nông nghiệp trong tiếng
Việt luận án nhận thấy rằng cùng với thời gian, công tác nghiên cứu và biên soạn
từ điển giải thích tiếng Việt cũng không ngừng được nâng cao và phát triển.
Những từ điển giải thích tiếng Việt được biên soạn trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ
XX (từ những thập niên 50 trở về trước) như Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh
Nghị, Từ điển Đào Văn Tập thường định nghĩa rất sơ sài, nên thiếu nhiều thông tin
trong định nghĩa. Thời kì này việc nghiên cứu lí thuyết về từ điển học ở nước ta
chưa phát triển, không áp dụng được những thành tựu nghiên cứu, biên soạn từ
điển của thế giới. Việc biên soạn từ điển chủ yếu là công việc của từng cá nhân
(Từ điển Khai Trí tuy mang danh hội nhưng cũng do một số cá nhân biên soạn)
dựa vào hiểu biết của mình và phát huy khả năng ngoại ngữ để tham khảo các từ
điển trên thế giới, chủ yều bằng tiếng Pháp. Vì thế, các định nghĩa còn đơn giản,
chất lượng không cao. Những từ điển giải thích tiếng Việt được biên soạn từ nửa
sau thế kỉ XX (từ những thập niên 70 trở đi như: Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn
Đức, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển
tiếng Việt) đã có chất lượng tốt hơn rất nhiều do trình độ các soạn giả đã được
141
nâng cao cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ trên
toàn cầu. Đồng thời, nhiều soạn giả đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu ngôn
ngữ học, từ điển học trên thế giới vào việc biên soạn từ điển tiếng Việt. Rõ rệt
nhất là Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). Chủ biên và các soạn giả của
quyển từ điển này đã ứng dụng thành tựu nghiên cứu ngữ nghĩa học cấu trúc trên
thế giới về cấu trúc nghĩa của từ và phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân
tích nghĩa của các thể từ, thuộc từ một cách chính xác, rõ ràng nên đã cung cấp
đầy đủ các thông tin ngữ nghĩa của các mục từ. Vì thế chất lượng quyển từ điển
này đã được nâng cao rõ rệt, trở thành một quyển từ điển có định nghĩa chính xác
và đáng tin cậy nhất hiện nay ở Việt Nam.
3.3.4. Đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển
giải thích tiếng Việt
Khi định nghĩa các mục từ trong từ điển giải thích tiếng Việt, các nhà từ điển
học, như đã trình bày ở chương 1 của luận án, đã sử dụng 6 phương pháp định
nghĩa khác nhau. Khi một từ được định nghĩa theo cấu trúc nghĩa W = S + v,
trong đó, S là một từ có cùng phạm trù với W nhưng rộng hơn W, tức là S có
khái niệm bao hàm khái niệm của W (từ đầu mục) thì đó là một định nghĩa bằng
phương pháp dùng từ bao, nên S chính là từ bao. Khảo sát các định nghĩa mục từ
cây nông nghiệp trong 8 cuốn từ điển giải thích tiếng Việt, luận án thấy các mục
từ này đều sử dụng phương pháp dùng từ bao trong định nghĩa. Có thể khái quát
hóa mô hình định nghĩa bằng phương pháp dùng từ bao như sau:
M (là) B + đ1, đ2, đ3,..., đn.
Trong đó: M là từ đầu mục; B là từ bao, đ1, đ2, đ3, đn là những đặc trưng
riêng của M có tác dụng phân biệt từ đầu mục này với các từ đầu mục khác thuộc
mục từ cây nông nghiệp. Từ bao (B) trong mô hình này phải là từ ở "nút" cuối
cùng mà các "lá" (từ đầu mục M) hội tụ. Ví dụ:
M (ngô) = B (cây lương thực) + đ1 (có cấu tạo: thân thẳng, quả có hạt tụ
thành bắp ở lưng chừng thân) + đ2 (dùng để làm gì: hạt dùng để ăn).
142
M (lúa) = B (cây lương thực) + đ1 (có cấu tạo: thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính,
không có bao hoa, quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc).
M (khoai lang) = B (cây thân cỏ mọc bò) + đ1 (có cấu tạo: hoa hình phễu, màu
tím nhạt hay trắng) + đ2 (dùng để làm gì: rễ củ chứa nhiều tinh bột dùng để ăn).
M (cà phê) = B (Cây nhỡ) + đ1 (có cấu tạo: lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ,
khi chín có màu đỏ) + đ2 (dùng để làm gì: hạt đem rang và xay nhỏ thành bột
màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống).
Mô hình định nghĩa khái quát này có thể áp dụng thống nhất cho định nghĩa các
mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích, đảm bảo tính nhất quán của các
định nghĩa.
Tiểu kết
Chương này tập trung tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của các tên gọi cây nông
nghiệp trong tiếng Việt. Luận án áp dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa
vào phân tích lời định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt trong Từ điển
tiếng Việt ra thành các nét nghĩa khu biệt, phản ánh những đặc trưng cơ bản của
cây nông nghiệp được biểu thị trong tiếng Việt. Đối tượng phân tích là 386 tên gọi
cây nông nghiệp được giải thích trong từ điển.
Cấu trúc lời giải thích của mỗi tên gọi cây nông nghiệp gồm có các nét nghĩa
chỉ loại là tên gọi chỉ loại cây nông nghiệp và các nét nghĩa biểu thị các đặc
trưng khu biệt của nó. Từ kết quả phân tích cấu trúc nghĩa trong các định nghĩa
tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án đã phân xuất được các thành tố nghĩa
chỉ loại và thành tố nghĩa chỉ đặc trưng của cây nông nghiệp. Thành tố nghĩa chỉ
loại chỉ có một nét nghĩa chỉ loại là nét nghĩa phạm trù xuất hiện trong tất cả các
lời định nghĩa, còn thành tố nghĩa chỉ đặc trưng gồm nhiều nét nghĩa. Luận án đã
xác định được 12 nét nghĩa khu biệt xuất hiện trong các định nghĩa tên gọi cây
nông nghiệp: đặc điểm hình thức/cấu tạo; vai trò của cây nông nghiệp trong đời
sống con người; đặc điểm tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng;
đặc điểm màu sắc; đặc điểm kích cỡ; đặc điểm hương, mùi vị; đặc điểm phân
143
loại cây nông nghiệp; đặc điểm thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật
học; môi trường sống; đặc điểm thuần dưỡng. Các nét nghĩa biểu thị dấu
hiệu/đặc trưng khu biệt tên gọi cây nông nghiệp đã được phân loại, miêu tả cụ
thể, rõ ràng về số lượng và tần số xuất hiện trong các định nghĩa và được sắp xếp
theo trình tự giảm dần của tần số xuất hiện của chúng trong các định nghĩa. Luận
án đã nêu những nhận xét về đặc điểm ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp
tiếng Việt qua các định nghĩa của từ điển. Nhiều định nghĩa còn thiếu một số
đặc trưng vốn được lấy làm cơ sở định danh tên cây nông nghiệp, như: đặc trưng
nguồn gốc, đặc trưng số lượng bộ phận của cây, đặc trưng thuần dưỡng. Các đặc
trưng này là những đặc trưng điển hình cho thực vật nói chung, cho cây nông
nghiệp nói riêng, vì vậy cần phải được đưa vào lời định nghĩa.
Kết quả xác định và phân tích các nét nghĩa trong các định nghĩa cho thấy khi
định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, các nét nghĩa: hình thức/cấu tạo; vai
trò của cây nông nghiệp trong đời sống con người; tính chất của bộ phận cây nông
nghiệp được sử dụng; màu sắc, kích cỡ; hương, mùi vị được sử dụng nhiều nhất để
nêu đặc điểm cây nông nghiệp, sau đó mới đến các nét nghĩa khác như: phân loại
cây nông nghiệp; thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật học; môi trường
sống; thuần dưỡng.
Từ kết quả nghiên cứu, luận án đã khái quát hóa 12 nét nghĩa có trong lời
định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt thành ba loại thành tố: thành tố chỉ
loại (nét nghĩa 1); thành tố chỉ thuộc tính của cây nông nghiệp (gồm có các nét
nghĩa 2, 3, 4, 5, 6, 7, 12); thành tố chỉ ngoại cảnh có liên quan đến cây nông
nghiệp hay những hiểu biết của con người về cây nông nghiệp (các nét nghĩa 8,
9, 10, 11). Đồng thời, luận án đã mô hình hóa cấu trúc ngữ nghĩa chung của các
từ là tên gọi cây nông nghiệp qua việc phân tích định nghĩa chúng trong từ điển.
So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
trong 8 quyển từ điển giải thích, luận án đã nêu ra một số nhận xét, đánh giá về
những ưu điểm và hạn chế của các định nghĩa này trong từng quyển từ điển, để
144
từ đó, đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải
thích tiếng Việt.
145
KẾT LUẬN
Nghiên cứu Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt và cách giải thích
trong từ điển tiếng Việt luận án đã đi tới những kết luận sau đây:
1. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai
để trồng trọt, chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu, nguyên liệu
lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho
công nghiệp. Cây nông nghiệp là loại cây trồng có ích cho đời sống, được con
người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp từ hàng nghìn năm về
trước. Tuy vậy số lượng loại cây nông nghiệp chỉ chiếm một tỉ lệ thấp trong tổng
số các loài cây hiện hữu trên trái đất. Từ nhiều nguồn ngữ liệu khác nhau luận án
đã thu thập được 2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt làm đối tượng
khảo sát, nghiên cứu.
2. Nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp tức là tìm hiểu cách thức định danh,
con đường đặt tên, gọi tên. Theo đó, chủ thể ngôn ngữ có sự vật, hiện tượng cần
đặt tên, nên tạo ra từ ngữ để gọi tên chúng bằng cách chọn chất liệu từ, ngữ, chất
liệu cấu tạo từ, phương thức cấu tạo để tạo ra tên gọi thay thế cho sự vật, hiện
tượng đã có. Dựa vào lí thuyết định danh, luận án đã xem xét tên gọi cây nông
nghiệp theo ba bình diện: nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, phương thức cấu tạo
tên gọi và những đặc trưng được dùng để gọi tên.
Về nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, trong số 2609 tên gọi cây nông nghiệp
tiếng Việt được khảo sát, tên gọi cây nông nghiệp có nguồn gốc Việt chiếm đại
đa số với 2404/2609 đơn vị chiếm 92,14%; tên gọi có nguồn gốc vay mượn các
ngôn ngữ khác có số lượng rất ít với 166/2609 đơn vị, chiếm 6,36%. Trong 166
tên gọi có nguồn gốc vay mượn chỉ có 21 tên gọi vay mượn tiếng nước ngoài,
còn 145 tên gọi có nguồn gốc các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những
con số này nói lên rằng, hầu hết cây nông nghiệp của nước ta đều có nguồn gốc
bản địa, được người Việt cùng cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam gieo
146
trồng từ lâu đời nay để phục vụ cuộc sống của mình. Những giống cây ngoại
nhập không nhiều do phải có sự chọn lọc, lai tạo để phù hợp với điều kiện khí
hậu và thổ nhưỡng của nước ta.
Về phương thức cấu tạo, kết quả thống kê cho thấy tên gọi cây nông nghiệp có
cấu tạo chủ yếu bằng từ và ngữ định danh. Trong 2609 tên gọi cây nông nghiệp
được khảo sát, tên gọi có cấu tạo là từ có 763 đơn vị, chiếm 28,24%. Trong 763
tên gọi có cấu tạo là từ, có 260 tên cây là từ đơn, chiếm 9,97%. Đây là các đơn vị
định danh đơn giản, là các tên gọi cơ sở để sản sinh các tên gọi cây nông nghiệp là
những đơn vị định danh phức hợp. Tên gọi có cấu tạo là từ ghép phân nghĩa (từ
ghép chính phụ) có 503/2609 đơn vị, chiếm 19,28%. Số lượng lớn tên gọi cây
nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh gồm 1972 đơn vị chiếm 75,59%. Đặc
điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp đã thể hiện rõ: định danh phức hợp gồm
nhiều đơn vị định danh là phương thức định danh cơ bản và chủ yếu của tên gọi
cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Có thể khẳng định rằng tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt có cấu tạo gồm nhiều yếu tố chiếm số lượng lớn chính là sự khác
biệt lớn nhất và rõ rệt nhất giữa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt với tên
gọi các loài thực vật nói chung trong tiếng Việt, thể hiện rõ vai trò của con người
trong việc đặt tên các giống cây trồng phục vụ các nhu cầu khác nhau của con
người. Nhờ phương thức định danh này các tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng
Việt có tính biệt loại cao, có tác dụng phân loại rõ rệt các giống cây khác nhau
trong cùng một loài cây.
Về những đặc trưng được dùng để gọi tên cây nông nghiệp, qua khảo sát
2609 tên gọi, luận án đã tiến hành trích xuất được 18 dấu hiệu/đặc trưng được
chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp. Những đặc trưng dùng để định danh
đều mang tính khách quan, là những thuộc tính bản thể vốn có của chính các loài
cây nông nghiệp. Các dấu hiệu dùng để định danh cây nông nghiệp cho thấy tính
chất nhân tạo đã thể hiện rõ trong tên gọi cây nông nghiệp: chúng không phải là
loài cây mọc hoang mà là những loài do con người thuần hóa, lai tạo mà thành
147
với mục đích phục vụ cuộc sống, sự sinh tồn của con người. Do đó chúng gắn bó
mật thiết với xã hội loài người. Số lượng lớn các đặc trưng được lựa chọn để gọi
tên cây nông nghiệp cũng cho thấy tên gọi cây nông nghiệp được định danh theo
nhiều bậc khác nhau, mỗi tên gọi thường gồm một tập hợp các đặc trưng, nên tên
gọi có tính định danh rất cao, thể hiện rõ từng giống cây trong cùng một loại.
3. Nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa từ vựng của tên gọi cây nông nghiệp là theo
đường hướng nghĩa học bắt đầu từ các từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp đã được
định hình trong tiếng Việt để tìm ra nội dung được biểu đạt của chúng. Dựa vào
định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong Từ điển tiếng Việt, luận án đã
xác định được cấu trúc nghĩa khái quát gồm: Thành tố nghĩa chỉ loại (S) + Thành
tố nghĩa chỉ đặc trưng được lựa chọn (v1, v2, v3..., vn). Luận án đã xác định được 12
nét nghĩa (gồm 1 nét nghĩa chỉ loại và 11 nét nghĩa chỉ đặc trưng) xuất hiện trong
các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp: đặc điểm hình thức/cấu tạo; vai trò của
cây nông nghiệp trong đời sống con người; đặc điểm tính chất của bộ phận cây
nông nghiệp được sử dụng; đặc điểm màu sắc; đặc điểm kích cỡ; đặc điểm hương,
mùi vị; đặc điểm phân loại cây nông nghiệp; đặc điểm thời gian; vị trí/quan hệ
trong phân loại sinh vật học; môi trường sống; đặc điểm thuần dưỡng. Kết quả
xác định và phân tích các nét nghĩa trong lời định nghĩa cho thấy khi định nghĩa
tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, các nét nghĩa: hình thức/cấu tạo; vai trò của
cây nông nghiệp trong đời sống con người; tính chất của bộ phận cây nông nghiệp
được sử dụng; màu sắc, kích cỡ; hương, mùi vị được sử dụng nhiều nhất để nêu
đặc điểm cây nông nghiệp, sau đó mới đến các nét nghĩa khác như: phân loại cây
nông nghiệp; thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật học; môi trường
sống; thuần dưỡng.
4. So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt
trong 7 quyển từ điển giải thích với định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng
Phê chủ biên), luận án đã nêu ra một số nhận xét, đánh giá về những ưu điểm và
hạn chế của các định nghĩa này trong từng quyển từ điển. Có thể khẳng định rằng
148
tất cả các định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong 7 quyển từ điển được khảo
sát đều định nghĩa theo mô hình S+v mà định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên) đã sử dụng. Tuy nhiên, có sự khác biệt khá rõ về chất
lượng định nghĩa trong 7 từ điển và khác biệt rõ ràng về các nét nghĩa biểu thị
những đặc trưng được lựa chọn để phân biệt cây nông nghiệp với nhau so với
định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt. Định nghĩa các mục từ cây nông nghiệp
trong một số quyển từ điển được biên soạn vào những thập niên nửa đầu thế kỉ
XX (Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh Nghị) thường rất
đơn giản, sơ sài, đưa ít các nét nghĩa biểu thị những đặc trưng có tính chất khu
biệt, nên không có tác dụng phân biệt các loại cây thuộc cùng một họ. Một số
định nghĩa còn nêu ra những đặc trưng không cần yếu cho giống cây đó. Các
định nghĩa trong những quyển từ điển được biên soạn vào những thập niên cuối
nửa sau thế kỉ XX (Từ điển Văn Tân, Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng
Việt) có chất lượng tốt hơn, do đã tiếp thu và áp dụng có hiệu quả những thành
tựu nghiên cứu nghĩa của từ, cách phân tích nghĩa từ ra các nét nghĩa. Nhờ đó đã
phân tích nghĩa của các mục từ được chính xác, trích xuất ra được các nét nghĩa
cụ thể, nên định nghĩa nhìn chung là chuẩn xác, giải thích nghĩa của mục từ được
rõ ràng, chính xác. Tuy vậy, trong khá nhiều định nghĩa, việc xác định cấp độ
của từ bao (thể hiện bằng nét nghĩa chỉ loại) không chính xác, nên đã không thể
hiện được một thông tin quan trọng trong định nghĩa: tính chất nhân tạo (được
con người gieo trồng) hàm chứa trong tên gọi cây nông nghiệp. Những quyển từ
điển biên soạn ở giai đoạn nửa sau thế kỉ XX (Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn
Đức, Đại từ điển tiếng Việt) đã đưa vào định nghĩa ngoài thông tin về từ, đồng
thời còn cung cấp những thông tin mang tính bách khoa (về tính chất hóa học,
các nguyên tố hóa học, công dụng trong y học,...) bằng nhiều các dấu hiệu đặc
trưng của cây nông nghiệp, làm cho lời định nghĩa trở nên dài hơn so với định
nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). Cách định nghĩa như vậy
thể hiện rõ quan điểm của các tác giả biên soạn ba cuốn từ điển này theo xu
149
hướng biên soạn từ điển tổng hợp: xu hướng kết hợp có chủ hướng trong một
mục từ những thông tin cả về từ lẫn về thực thể đứng sau từ đó là những thông
tin mang tính bách khoa (những thông tin mở rộng ở một mức độ nào đó về sự
Qua so sánh định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong 7 cuốn từ điển với định
nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) có thể khẳng định rằng, Từ điển
tiếng Việt là cuốn từ điển áp dụng thành công nhất phương pháp phân tích thành tố
nghĩa của ngữ nghĩa học hiện đại vào định nghĩa các mục từ nói chung, các mục từ cây
nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, ngay trong quyển từ điển này, một quyển từ điển
giải thích tiếng Việt được coi là tốt nhất hiện nay, thì trong một số định nghĩa mục từ
cây nông nghiệp vẫn còn có hạn chế, cần bổ sung thông tin để định nghĩa được chính
xác hơn (như đã trình bày trong luận án).
vật mà từ gọi tên).
5. Với đề tài này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục triển khai thu
thập toàn bộ tên gọi những cây nông nghiệp chưa được xem xét (cây ăn lá, cây
rau, cây gia vị, cây làm thuốc,...), khảo sát chúng theo hai hướng: danh học (tìm
hiểu nguồn gốc, cách thức cấu tạo tên gọi, đặc trưng dùng để gọi tên) và nghĩa
học (tìm hiểu cấu trúc nghĩa các từ là tên gọi các loài cây trên được con người
gieo trồng, định nghĩa các tên gọi này trong từ điển) để xác định mô hình định
nghĩa chung, thống nhất cho loại mục từ này. Đồng thời thu thập thêm các mục
từ cây nông nghiệp theo hướng sâu hơn (các giống cây trong từng loài cây), tiến
hành biên soạn theo mô hình định nghĩa chung để phục vụ việc biên soạn từ điển
tiếng Việt cỡ lớn và từ điển tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Hà Thùy Dương (2019), “Đặc điểm định danh cây nông nghiệp tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 12 (292).
2. Hà Thùy Dương (2020), “Ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 3 (295).
3. Hà Thùy Dương (2020), “Đặc điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp
trong tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 4 (66).
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Phạm Thị Kim Anh (2005), Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Chafe, Wallce L. (1999), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1969), “Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong Từ
điển tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 43-50.
6. Đỗ Hữu Châu (1973), "Khái niệm "trường" và việc nghiên cứu hệ thống từ
vựng", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 46-55.
7. Đỗ Hữu Châu (1977), "Đọc "Từ điển tiếng Việt phổ thông" tập 1", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 3, tr. 61-71.
8. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (1982), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động",
Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 18-33. Phần 1.
10. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt
động", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr. 12-26.
11. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
12. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
13. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (T1, T2), Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
14. Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
152
15. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học (Ngữ dụng học), tập 2, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
16. Võ Văn Chi (2003), Từ điển thực vật thông dụng, tập 1, 2, Nxb. Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), 2 tập, Nxb. Y
học, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
20. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
21. Hồng Dân (1971), "Vấn đề miêu tả từ hư trong việc biên soạn từ điển giải
thích", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 1-11.
22. Nguyễn Đức Dân (1984), Ngôn ngữ học thống kê, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
23. Đường Hồng Dật (chủ biên) (2011), Từ điển bách khoa nông nghiệp Việt
Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Dinh (2013), Trường Từ vựng - Ngữ nghĩa tiếng Việt về lúa và
các sản phẩm làm từ cây lúa (trên tư liệu kho tàng ca dao người Việt), Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.
25. Dirk Geeraerts (2015), Các lý thuyết ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội (Phạm Văn Lam dịch).
26. Djemukhatz, K.M. (1981), Cây chè miền Bắc Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp,
Hà Nội (Nguyễn Ngọc Kính dịch).
27. Bùi Huy Đáp (1980), Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa ở Việt Nam,
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003), "Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca
dao", Tạp chí Nguồn sáng, số 4, tr. 46-52.
153
29. Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
30. Dương Kì Đức (1993), Các đơn vị định danh đa thành tố, một cách tiếp cận từ
điển học tương phản (qua tư liệu các phần ngôn ngữ quân sự, chính trị - xã hội,
khoa học), Luận án PTS. Khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
31. Đinh Văn Đức (1996), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
32. Lê Văn Đức (1970), Tự điển Việt Nam, Sài Gòn.
33. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
34. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
36. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
37. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Từ và từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb. Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
39. Hoàng Văn Hành (1977), "Về tính hệ thống của vốn từ tiếng Việt", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2, tr. 26-40.
40. Hoàng Văn Hành (1988), "Về cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh bậc hai trong
các ngôn ngữ đơn lập"// "Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam và
khu vực Đông Nam Á", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang (2008), Từ tiếng
Việt: hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại, Nxb. Văn hoá Sài
Gòn (tái bản lần thứ nhất).
42. Hoàng Văn Hành (2010), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
154
43. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2015), "Chiếu xạ qua miền ý niệm thực vật và con
người trong ca từ Trịnh Công Sơn", Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 2
(21), tr.68-82.
44. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2018), "CONCEPTUAL METAPHOR “PEOPLE
ARE TREES” IN VIETNAMESE IDIOMS AND PROVERBS (Ẩn dụ ý
niệm "Con người là cây" trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt)”, Tạp chí
Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 12, tr.20-31
45. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
46. Hội Khai Trí - Tiến Đức (1931), Việt Nam tự điển, Sài Gòn.
47. Đỗ Việt Hùng (2010), “Một số khía cạnh ứng dụng trường nghĩa trong hoạt
động giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.10-13.
48. Đỗ Việt Hùng (2012), "Nhận thức cộng đồng người Việt về thế giới (thông
qua phương thức định danh sự vật, hiện tượng của từ ghép chính phụ", Tạp
chí Ngôn ngữ, số 12.
49. Hà Thị Quế Hương (2002), "Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa
trong ca dao", Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3.
50. Trần Thị Hường (2020), Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có
liên hệ tiếng Latinh), Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Khang (2007), "Một số vấn đề về từ điển tiếng Việt trong mối quan
hệ với Việt ngữ học", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (141), tr. 1-8.
52. Nguyễn Văn Khang (2012), "Khái niệm "thị trường ngôn ngữ" với một số
vấn đề về thị trường Từ điên tiếng Việt hiện nay", Tạp chí Từ điển học &
Bách khoa thư, số 5 (19), tr. 77-84.
53. Nguyễn Thuý Khanh (1994), "Đặc điểm định danh của trường tên gọi động
vật trong tiếng Việt", Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1, tr.12-17.
155
54. Nguyễn Thuý Khanh (1994), "Đặc điểm định danh của trường tên gọi động
vật tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt", Tạp chí Văn hoá dân gian,
số 2, tr.76-81.
55. Nguyễn Thuý Khanh (1996), Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi
động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga), Luận án PTS. khoa
học ngữ văn, Hà Nội.
56. Lưu Vân Lăng (1991), "Áp dụng lí luận tín hiệu điển hình với nghĩa hạt nhân
vào từ điển tường giải", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 32-39.
57. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ
chí Minh.
58. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
59. Lê nin, V.I. (2004), Bút kí triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Đặng Chấn Liêu (1977), "Vài kinh nghiệm làm từ điển hai thứ tiếng", Tạp
chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 53-60.
61. Hoàng Tuyền Linh (2002), Một số vấn đề về thông tin ngữ nghĩa trong
từ điển giải thích tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ
học, Hà Nội.
62. Vương Lộc (1969), "Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2, tr. 19-26.
63. Nguyễn Văn Lợi (2013), "Từ điển học và Bách khoa thư học (phạm vi, đối
tượng và quan hệ)", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3 (23), 5-
2013, tr. 1-9.
64. Vũ Xuân Lương (2012), "Xác định dãy từ đồng nghĩa khi xây dựng Wordnet
tiếng Việt", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3 (17), tr.
65. Vũ Xuân Lương (2012), "Xây dựng mô hình ngữ nghĩa áp dụng cho việc
biên soạn từ điển giải thích"// www vietlex.com/xu-li-ngon-ngu/151.
156
66. Vũ Xuân Lương (2012), "Xây dựng kho ngữ liêu áp dụng cho phân tích, xử
lí ngôn ngữ và biên doạn từ điển"// www vietlex.com/xu-li-ngon-ngu/151.
67. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. (Người
dịch: Nguyễn Văn Hiệp).
68. Trần Thị Phương Lý (2012), Ẩn dụ ý niệm của phạm trù thực vật trong tiếng
Việt và tiếng Anh, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
69. Mác, Ăng ghen, Lê nin bàn về ngôn ngữ (1962), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
70. Nguyễn Tuyết Minh (2012), "Từ điển học như một chuyên ngành khoa
học về ngôn ngữ", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 6 (11.2012),
tr. 40-49.
71. Bùi Đình Mỹ (1991), "Vấn đề lượng thông tin của từ điển ngữ văn", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2, tr. 40-42.
72. Hà Quang Năng (chủ biên) (2009), Sự phát triển của tiếng Việt nửa sau thế
kỉ XX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Hà Quang Năng (2013), "Đặc điểm định danh thuật ngữ", Tạp chí Từ điển
học và Bách khoa thư, số 4.
74. Hà Quang Năng (chủ biên) (2013), Thuật ngữ học - Những vấn đề lí luận và
thực tiễn, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
75. Thanh Nghị (1952), Việt Nam tân từ điển, Sài Gòn, 1952.
76. Trần Hạnh Nguyên (2014), Trường trường từ vựng - ngữ nghĩa thực vật
trong kho tàng ca dao người Việt, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
77. Lê Hồng Nhiên (2012), Từ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các
phương ngữ), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh.
78. Đái Xuân Ninh (1976), "Tiến tới một cuốn từ điển tiếng Việt theo hệ thống
khái niệm", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 26-33.
157
79. Paul Siblot (2001), "Từ định danh đến đặt tên - Tính năng động trong việc
biểu hiện nghĩa và tính đặc thù của danh từ", Tạp chí Praxe'matique, số 36,
tr. 189-214 (Bản dịch của Trần Thị Hường).
80. Hoàng Phê (1969), "Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt mới",
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 3-18.
81. Hoàng Phê (1975), "Phân tích ngữ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 10-26.
82. Hoàng Phê (1989), Lôgich ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
83. Hoàng Phê, Nguyễn Ngọc Trâm (1993), "Một số vấn đề về từ điển học (qua
việc biên soạn quyển Từ điển tiếng Việt)", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 18-24.
84. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học và Trung
tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng.
85. Nguyễn Quang (1971), "Việc chọn và giải thích từ ngữ miền Nam trong
một quyển từ điển tiếng Việt loại phổ thông", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4,
tr. 28-33,65.
86. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt Nam, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
87. Rey Debove (1971), Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng tiếng Pháp về ngôn
ngữ học và kí hiệu học, Nxb. Academia, Praha, (Bản dịch của Viện Ngôn
ngữ học, Nguyễn Trọng Định dịch).
88. Rozdextvenxki, IU.V. (1997), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
89. Trần Văn Sáng (2012), "Hoa đào, từ biểu tượng văn hóa đến biểu trưng
văn học", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 1.
90. Saussure, F. de (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
91. Đặng Thị Hảo Tâm (2013), "Trường từ vựng - ngữ nghĩa món ăn và ý niệm
CON NGƯỜI”, Tạp chí Ngôn ngữ, số
158
92. Văn Tân (chủ biên) (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
93. Đào Văn Tập (1951), Tự điển Việt Nam phổ thông, Sài Gòn, 1951.
94. Nguyễn Văn Thạc (2004), "Tiếp xúc học và từ điển học", Tạp chí Ngôn ngữ,
số 4, tr. 1-10.
95. Đào Thản (1999), "Cây lúa, tiếng Việt và nét đẹp văn hoá, tâm hồn người
Việt Nam", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, tr. 43-48.
96. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
97. Nguyễn Văn Thạo (2015), Trường nghĩa "lửa" và "nước" trong tiếng Việt,
Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Lý Toàn Thắng (1983), “Vấn đề ngôn ngữ và tư duy”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
99. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại
cương, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết đại cương
đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb. Phương Đông.
101. Lý Toàn Thắng (2011), "Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu",
Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 1 (1.2011), tr. IV - XII.
102. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh.
103. Trần Ngọc Thêm (1999), “Vai trò của thực vật trong đời sống văn hóa
Việt Nam và Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
104. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
105. Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945
đến 2005, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
106. Cao Thị Thu (1995), Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa trường từ vựng
tên gọi thực vật trong tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Tổng
hợp Hà Nội.
159
107. Chu Bích Thu (1997), "Một số nét khái quát về cấu trúc vi mô của từ điển
giải thích" //In trong: "Một số vấn đề từ điển học", Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997, tr. 75-112.
108. Chu Bích Thu (2001), "Giới thiệu sơ lược về từ điển và từ điển học Việt
Nam", Tạp chí Ngôn ngữ, số 14, tr. 12-26.
109. Chu Bích Thu (2005), Từ điển học và từ điển học Việt Nam // In trong:
"Lược sử Việt ngữ học", Nxb. Giáo dục, tr. 186-215.
110. Hồ Hải Thụy (2012), "Hai cuốn sách mới dạy các làm từ điển", Tạp chí Từ
điển học & Bách khoa thư, số 4 (7. 2010), tr. 2 - 10.
111. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
112. Bùi Minh Toán (2014), "Từ ngữ chỉ mùi vị trong Truyện Kiều", Tạp chí Từ điển
học & Bách khoa thư, số 1.
113. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
114. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng Văn hóa - Dân tộc của Ngôn ngữ và
Tư duy, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
115. Nguyễn Văn Trương, Trịnh Văn Thịnh (1991), Từ điển Bách khoa nông
nghiệp, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
116. Nguyễn Văn Tu (1969), "Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong từ điển
tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 51-53.
117. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh.
118. Nguyễn Thanh Tùng (2003), Từ ngữ chỉ động thực vật trong tiếng Việt và
tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
119. Hồ Văn Tuyên (2005), Đặc điểm định danh từ vựng trong phương ngữ Nam
Bộ, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
160
120. Hồ Xuân Tuyên (2008), “Một số phương thức định danh trong phương ngữ
Nam Bộ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 9.
121. Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập: tập 1 tái bản năm 2007; tập 2: 2002;
tập 3: 2003; tập 4: 2005), Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
122. Ullmann, S. (1975), Nguyên lí ngữ nghĩa học, Tài liệu dịch của Viện Ngôn
ngữ học, (Phan Ngọc dịch).
123. Ủy ban Khoa học xã hội (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
124. Viện Ngôn ngữ học (1997), Một số vấn đề từ điển học, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
125. Viện Ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb.
Từ điển Bách khoa, Hà Nội
126. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2009), Một số vấn đề cơ
bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên soạn
các loại từ điển. Đề tài cấp Bộ 2009 - 2010.
127. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2015), Biên soạn Bách khoa
thư ngôn ngữ học. Đề tài cấp Bộ 2015 - 2016.
128. Bùi Khắc Việt (1969), "Một số kinh nghiệm biên soạn từ điển ngôn ngữ ở
các nước xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 27-31.
129. Bùi Khắc Việt (1970), "Về vấn đề thu thập và định nghĩa thuật ngữ trong
quyển "Từ điển tiếng Việt phổ thông", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 16-25, 48.
130. Bùi Khắc Việt (1970), "Về quyển "Việt Nam tự điển" xuất bản ở Sài Gòn",
Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 34-41.
131. Phạm Hùng Việt (2017), "Thông tin bách khoa và việc đưa thông tin bách
khoa vào từ điển giải thích tiếng Việt", Báo cáo khoa học Hội thảo Ngôn ngữ
học Quốc tế, Viện Ngôn ngữ học, 2017.
132. Xôn xép, V.M. (1980), "Một số vấn đề về lí thuyết nghĩa (hay ngữ nghĩa)",
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 33-42.
161
133. Xôn xép, V.M. (1986), "Những thuộc tính về mặt loại hình của các ngôn
ngữ đơn lập (trên cứ liệu tiếng Hán và tiếng Việt)", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3,
tr. 60-67.
134. Xôn xép, V.M. (2001), Một số vấn đề ngôn ngữ học, Nxb. Sáng tạo,
Maxcơva, Nguyễn Tuyết Minh và Trần Văn Cơ dịch.
135. Xtepanov, Ju.X. (1977), Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb.
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
136. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ thuật ngữ
ngôn ngữ học. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
137. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2000), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Tổng hợp
Tp. Hồ Chí Minh.
138. Zgusta, L. (1971), Giáo trình từ điển học (Manual of lexicography, Praha,
Viện hàn lâm khoa học Tiệp Khắc, 1971). (Bản dịch của Phòng thông tin - tư
liệu, Viện Ngôn ngữ học, 1987. Người dịch: Hồ Hải Thụy, Vũ Ngọc Bảo).
139. Zgusta, L. (1992), Từ điển học thế kỉ XXI. Hội nghị Quốc tế từ điển học
châu Á lần thứ nhất. Manila, Philippin (Bản dịch Phòng Từ điển học, Viện
Ngôn ngữ học).
II. Tiếng nước ngoài
140. Austin, J. (1963), The meaning of a word, Mind, L. XII, Cambridge,
Harvard University Press
141. Cruse, A. (2004), Meaning in Language: an introduction to Semantics and
Pragmatigs. New York: Oxford University Press.
142. Goddard, C. (1998), Sematic Analysis, A Practical Introduction. Oxford
University Press.
143. Jackendoff Ra, S. (1990), Semantics Structures. Cambridge, MA: MIT Pres.
144. Sue Atkins, B.T and Micheal Rundell, The Oxford guide to Practical
Lexicography, Oxford University Prees.
162
145. Ахметова, Э. Р (2012), Названия овóщей и фруктов в татарском
языке, Автореферат диссертации на соискание ученой степени
кандидата филологических наук, Казань.
146. Берестнева, А. V (2008), Названия экзотических растений в
английском и русском языках: структурно - словообразовательный и
номинанативно - мотивационный аспекты, Автореферат диссертации
на соискание ученой степени кандидаата филологических наук,
Белгород.
147. Заксор, Л.Ж (2005), Способы номинации растений в нанайском языке,
Автореферат диссертации на соискание ученой степени кандидата
филологических наук, Санкт - Петербург.
148. Лингвистический энциклопедический словарь (1990). Главный
редактор В. Н. ЯРЦЕВА, Москва, "Советская энциклопедия".
149. Омашева Ж. М (2017), Названия лекарственных травянистых
растений в русском и казахском языках: мотивационно-
словообразовательный и лингвокультурный аспекты, Автореферат
диссертации на соискание ученой степени кандидата филологических
наук, Екатеринбург.
150. Рубцова, О. Г (2015), Названия лекаррственных в разноструктурных
языках (на метериале русского, марийского, немецкого и латинского
языков), Автореферат диссертации на соискание ученой степени
кандидата филологических наук, Чебоксары.
151. Саид Альяффар (1999), Семантическое поле "растения" в русском
языке, Автореферат диссертации на соискание ученой степени
кандидата филологических наук, Санкт - Петербург.
152. Уюкбова Г.И (1983), Народные наименования растений (на
материале английского, русского и казахского языков, Автореферат
163
диссертации на соискание ученой степени кандидата филологических
наук, Москва.
153. Шкурдова Т.А (2015), Некоторые названия растений в русском языке
(происхождение и функционирование), Кусовая работа, Гомель.
154. Щерба, Л.В. (1940), Опыт общей теориu лексикографии.
Лексикографический сбoрник, N.3, c. 89-117.
155. Языковая номинация: Виды наименований (1977), Москва, Наука.
156. Языковая номинация: Общие вопросы (1977), Москва, Наука.
164
PHỤ LỤC TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT
Tên gọi
STT
Bạch đàn
1.
Bầu hồ lô F1
2.
Bầu lai F1
3.
Bầu sao
4.
Bí chanh
5.
Bí bộp
6.
Bí đá
7.
Bí đao
8.
Bí đao bắc
9.
Bí đao chanh
10.
Bí đao xanh
11.
Bí đĩa bay
12.
Bí đỏ
13.
Bí đỏ hạt đậu
14.
Bí đỏ hồ lô
15.
Bí ngòi xanh
16.
Bí ngô
17.
Bí ngồi
18.
Bí ngồi xanh
19.
Bí ngồi vàng
20.
Bí Nhật
21.
Bí sặt cao sản
22.
Bí xanh
23.
Bòn bon
24.
Bồ đề
25.
165
Bồ quân
26.
Bông VN04-3
27.
Bông VN04-4
28.
Bông lai VN35KS
29.
Bông vải AK 235
30.
Bông vải C118
31.
Bông vải D16-2
32.
Bông vải L 18
33.
Bông vải M 456-10
34.
Bông vải MCU - 9
35.
Bông vải TH 2
36.
Bông vải TM 1
37.
Bông vải VN 01-2
38.
Bông vải VN 15
39.
Bông vải VN20
40.
Bông vải VN 35
41.
Bơ 034
42.
Bơ Booth
43.
Bơ Booth7
44.
Bơ CĐD-BO-41.01
45.
Bơ CĐD-BO-41.02
46.
Bơ CĐD-BO-41.03
47.
Bơ CĐD-BO-41.04
48.
Bơ CĐD-BO-41.05
49.
Bơ dài 034
50.
Bơ EST4
51.
Bơ Ettinger
52.
Bơ Fuerte
53.
166
Bơ HA
54.
Bơ Hass
55.
Bơ HTS1
56.
Bơ Lamb Hass
57.
Bơ Maluma Hass
58.
Bơ mỡ
59.
Bơ Reed
60.
Bơ S2V1BDT
61.
Bơ sáp
62.
Bơ SDH
63.
Bơ Sharwil
64.
Bơ TA1
65.
Bơ Tứ Quý
66.
Bơ VĐ1
67.
Bơ vỏ tím
68.
Bứa
69.
Bưởi Biên Hòa
70.
Bưởi chín sớm
71.
Bưởi chua
72.
Bưởi chùm
73.
Bưởi da láng
74.
Bưởi da xanh
75.
Bưởi da xanh Bến Tre
76.
Bưởi Diễn
77.
Bưởi đầu hổ
78.
Bưởi đỏ
79.
Bưởi đỏ Luận Văn
80.
Bưởi đỏ Phúc Kiến
81.
167
Bưởi đỏ Tân Lạc
82.
Bưởi Đoan Hùng
83.
Bưởi đường da láng
84.
Bưởi đường đặc sản Hương Sơn
85.
Bưởi đường lá
86.
Bưởi đường lá cam
87.
Bưởi đường lá cam BC 12
88.
Bưởi Hoàng
89.
Bưởi hồng Quang Tiến
90.
Bưởi hương Thái Lan
91.
Bưởi luận văn
92.
Bưởi Lã Thiên Hương
93.
Bưởi lông cổ cò
94.
Bưởi lùn Tứ Xuyên
95.
Bưởi năm roi
96.
Bưởi năm roi BN 25
97.
Bưởi Phú Diễn
98.
Bưởi Phúc Trạch