VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THÙY DƯƠNG

TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH GIẢI THÍCH TRONG TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THÙY DƯƠNG

TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH GIẢI THÍCH TRONG TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành Mã số

: Ngôn ngữ học : 9229020

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VIỆT HÙNG

HÀ NỘI – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới

sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Hùng Việt. Các tư liệu được sử dụng trong

luận án có xuất xứ rõ ràng. Để hoàn thành luận án này, ngoài các tài liệu tham

khảo đã liệt kê, tôi cam đoan không sao chép các công trình hoặc nghiên cứu

của người khác. Những kết quả nghiên cứu được nêu trong luận án là trung

thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hà Thùy Dương

i

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi vô cùng biết ơn PGS.TS. Phạm Hùng Việt – người đã

trực tiếp dành nhiều thời gian tận tình hướng dẫn, cung cấp những thông tin

và tài liệu tham khảo quý báu giúp tôi hoàn thành Luận án này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo Viện Từ điển học và Bách

khoa thư Việt Nam, nơi tôi đang công tác; các thầy cô giáo Khoa Ngôn ngữ

học – Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình

thực hiện Luận án này.

Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân cùng bạn bè

đồng nghiệp, những người luôn cổ vũ, động viên tôi hoàn thiện Luận án này.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hà Thùy Dương

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................ 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ............................. 1

2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 2

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .............................. 3

3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 3

3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ....... 3

4.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 3

4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu.............................................................. 5

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ......................................... 6

5.1. Đóng góp về mặt lí luận .................................................................... 6

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn ................................................................ 6

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ........................................ 6

6.1. Về mặt lí luận .................................................................................... 7

6.2. Về mặt thực tiễn ................................................................................ 7

7. Cơ cấu của luận án ......................................................................... 7

CHƯƠNG 1: .................................................................................................... 8

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .......... 8

1.1. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu ........................................ 8

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới .................... 8

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật ở Việt Nam ................... 10 1.1.3. Tình hình nghiên cứu, biên soạn từ điển tiếng Việt ............. 16

1.2. Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt .......................................................................................... 22

1.2.1. Vấn đề định danh ......................................................................... 22

iii

1.2.2. Một số cơ sở lí thuyết về từ và ngữ .............................................. 31

1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa của từ ..................................................... 36

1.2.4. Một số vấn đề từ điển học ............................................................ 42

1.3. Khái quát về cây nông nghiệp ................................................... 48

Tiểu kết............................................................................................. 49

CHƯƠNG 2: .................................................................................................. 50

ĐẶC ĐIỂM TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT .. 50

2.1. Dẫn nhập ................................................................................... 50

2.2. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về nguồn gốc ngôn

ngữ .................................................................................................... 51

2.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về cấu tạo .......... 53

2.3.1. Cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt .... 53 2.3.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........ 60

2.4. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về đặc điểm định

danh .................................................................................................. 70

2.4.1. Những dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp70

2.4.2. Các mô hình định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........ 73 2.4.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về các bậc định danh . 80

Tiểu kết............................................................................................. 87

CHƯƠNG 3: .................................................................................................. 89

ĐỊNH NGHĨA TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TIẾNG VIỆT TRONG CÁC TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH ...................................................................... 89

3.1. Dẫn nhập ................................................................................... 89

3.2. Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt ................................................................................ 89

3.2.1. Miêu tả và phân tích định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ........................................................................................................... 90

3.2.2. Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt ............................................................................................................... 104

iv

3.2.3. Nhận xét về định nghĩa từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong "Từ điển tiếng Việt" .............................................................................. 107

3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển

giải thích tiếng Việt ........................................................................ 115

3.3.1. So sánh định nghĩa tên gọi cây lương thực trong các từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................................... 116

3.3.2. So sánh định nghĩa tên gọi cây ăn quả trong các từ điển giải thích tiếng Việt ..................................................................................... 123

3.3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nguyên liệu trong các từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................................... 134

3.3.4. Đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt ...................................................................... 142

Tiểu kết........................................................................................... 143

KẾT LUẬN .................................................................................................. 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............ 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 165

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

TT

Tên gọi

Trang

Bảng 2.1 Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

53

Bảng 2.2

Tổng hợp cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

59

Bảng 2.3 Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh

69

Bảng 2.4

Tổng hợp các đặc điểm dùng để định danh cây nông nghiệp

79

Bảng 2.5 Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

85

Bảng 3.1 Các nét nghĩa đặc trưng của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt

103

Nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng" được bổ sung vào lời định

Bảng 3.2

111

nghĩa

Bảng 3.3 Nét nghĩa "thời điểm" được bổ sung vào lời định nghĩa

114

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Việt Nam là nước thuộc vào nền văn minh nông nghiệp nên cây nông

nghiệp tự nhiên và thuần dưỡng rất phong phú và đa dạng. Tương ứng với đặc

điểm tồn tại khách quan đó, việc định danh, đặt tên cho cây nông nghiệp cũng

trở nên phong phú và đa dạng tương ứng. Ở nước ta trong số các công trình

nghiên cứu ở cấp trên và sau đại học đã có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về

thuật ngữ, về từ nghề nghiệp, còn tên gọi cây nông nghiệp là những từ, ngữ

thông thường chưa có công trình nghiên cứu tương xứng. Chưa có một công

khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống các từ ngữ là tên gọi các loại

cây nông nghiệp trong tiếng Việt về phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, đặc điểm

định danh.

1.2. Từ điển là công cụ tra cứu hữu hiệu cho người sử dụng ngôn ngữ. Trong

sự phát triển thực tiễn, từ điển học thực hành ở Việt Nam, trong đó điển hình

là từ điển giải thích ngữ văn, đã phát triển mạnh mẽ. Số lượng từ điển tiếng

Việt tăng vọt vào thời gian mấy năm trở lại đây. Đến nay, chưa có những nghiên

cứu sâu sắc và có giá trị ứng dụng về các mô hình định nghĩa, cách giải thích ý

nghĩa của các kiểu loại mục từ trong các từ điển giải thích tiếng Việt. Việc tìm

hiểu định nghĩa các mục từ là tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển giải

thích sẽ bước đầu góp phần nâng cao chất lượng định nghĩa của từ điển.

1.3. Từ hai lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt và cách giải thích trong từ điển tiếng Việt cho luận án của mình.

Luận án của chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu những đặc điểm về cấu

tạo, định danh và ngữ nghĩa của các từ ngữ là tên gọi các cây nông nghiệp trong

tiếng Việt. Trên cơ sở đó tìm hiểu định nghĩa các từ ngữ này trong từ điển giải

thích và đề xuất mô hình ngữ nghĩa để định nghĩa chính xác và thống nhất các

mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

1

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm sáng rõ các đặc điểm về cấu tạo, về định danh các từ ngữ là tên gọi các

loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt;

- Phân tích, nhận xét định nghĩa các mục từ tên gọi các loại cây nông nghiệp

trong từ điển giải thích tiếng Việt để xác định mô hình cấu trúc nghĩa tên gọi cây

nông nghiệp;

- Đề xuất bổ sung các thông tin cần thiết vào định nghĩa và đưa ra một mô

hình định nghĩa phù hợp cho các mục từ là tên gọi cây nông nghiệp trong từ điển

giải thích tiếng Việt.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

a. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về tên gọi về

thực vật nói chung, cây nông nghiệp nói riêng. Từ đó xác định được các nội

dung nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

b. Xác lập được một khung lí thuyết liên quan đến đối tượng nghiên cứu, nội

dung nghiên cứu của luận án. Khung lí thuyết này gồm các vấn đề: lí thuyết về định

danh ngôn ngữ, lí thuyết về từ, cấu tạo từ, cụm từ; lí thuyết về nghĩa từ; lí thuyết về

từ điển học.

c. Khảo sát, thống kê, phân loại từ ngữ là tên gọi các loại cây nông nghiệp

trong tiếng Việt từ các nguồn ngữ liệu khác nhau; tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của

chúng; xác định các đặc trưng được sử dụng để gọi tên (định danh) các loại cây

nông nghiệp, miêu tả cụ thể các phương thức định danh, mô hình định danh các

loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

d. Khảo sát nội dung ngữ nghĩa tên gọi các loại cây nông nghiệp qua các định

nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), xác định các nét nghĩa

được sử dụng để định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp và mô hình cấu trúc ngữ

nghĩa tổng quát của các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp.

e. So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong 8 cuốn từ

điển giải thích tiếng Việt. Từ đó nêu nhận xét về cách định nghĩa, bổ sung các

2

thông tin cần thiết vào định nghĩa về cây nông nghiệp và đề xuất mô hình định

nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt và định nghĩa cây nông nghiệp trong các từ điển giải thích trên cơ sở

2609 các từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt được thu thập từ các

nguồn ngữ liệu đáng tin cậy khác nhau và các mục từ tên gọi cây nông nghiệp

trong các từ điển tiếng Việt. Đó là những từ thường dùng gọi tên các loại cây

được con người trồng, chăm sóc và thu hoạch phục vụ các nhu cầu khác nhau

của con người. Một số tên gọi cây nông nghiệp đã được định nghĩa trong từ điển

tiếng Việt cho trình độ phổ thông, đại học, phân biệt với nghĩa thuật ngữ và phân

biệt với từ nghề nghiệp về phạm vi sử dụng. Như vậy, những loại cây hoang dã

không phải là đối tượng nghiên cứu của luận án.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án gồm hai phương diện sau đây:

- Đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh của tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt.

- Ngữ nghĩa của các từ tên gọi cây nông nghiệp được thể hiện trong định

nghĩa các mục từ trong Từ điển tiếng Việt.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án này sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu của ngôn

ngữ học sau đây:

4.1.1. Phương pháp miêu tả

Phương pháp miêu tả được dùng để miêu tả đặc điểm cấu tạo tên gọi các loại

cây nông nghiệp, các phương thức định danh trong tên gọi các loại cây nông

3

nghiệp trong tiếng Việt. Từ đó nêu lên những nhận xét về những đặc trưng về

cấu tạo và định danh của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

4.1.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp

Phương pháp này được áp dụng để phân tích cấu tạo tên gọi các cây nông

nghiệp theo thành tố trực tiếp nhằm xác định các yếu tố cấu tạo tên gọi các loại

cây nông nghiệp. Từ đó, tìm ra được các nguyên tắc cấu tạo tên gọi cây nông

nghiệp tiếng Việt, các mô hình cấu tạo của chúng.

4.1.3. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa

Phương pháp này được áp dụng để phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ là tên

các loại cây nông nghiệp được định nghĩa bằng cách dùng từ bao trong từ điển

tiếng Việt thành các nét nghĩa, từ đó xác lập các đặc trưng định danh làm cơ sở

xây dựng các mô hình định danh tên cây nông nghiệp, đồng thời xác định các

đặc trưng ngữ nghĩa (được thể hiện bằng các nét nghĩa trong lời định nghĩa)

được sử dụng để định nghĩa cây nông nghiệp tiếng Việt.

4.1.4. Phương pháp lịch sử so sánh

Luận án sử dụng phương pháp lich sử so sánh để so sánh một số định nghĩa

cây nông nghiệp trong 7 quyển từ điển tiếng Việt xuất bản trong khoảng thời

gian 80 năm (Việt Nam tự điển (Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931 đến Từ

điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, tái bản năm

2012) để phân tích trúc ngữ nghĩa của mục từ tên gọi cây nông nghiệp.Từ đó xác

định các đặc trưng ngữ nghĩa (được thể hiện bằng các nét nghĩa trong lời định

nghĩa) được sử dụng để định nghĩa các loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

4.1.5. Thủ pháp thống kê, phân loại

Thủ pháp thống kê được sử dụng để xác định số lượng từ ngữ là tên gọi các

loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt, tỉ lệ phần trăm của các phương thức cấu

tạo, các mô hình định danh tên cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Các kết quả

thống kê sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức của bảng biểu giúp hình dung rõ

4

hơn các đặc điểm cấu tạo, phương thức định danh trong tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt.

4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu

Ngữ liệu nghiên cứu của luận án là các từ ngữ gọi tên các cây nông nghiệp

trong tiếng Việt, tức là những loài cây có ích cho đời sống, được con người gieo

trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.

- Các mục từ là tên gọi các loại cây nông nghiệp xuất hiện trong các cuốn từ

điển: Việt Nam tự điển (Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931) [46], Tự điển

Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập biên soạn, Sài Gòn, 1951) [93], Việt Nam tân

từ điển (Thanh Nghị biên soạn, Sài Gòn, 1952) [75], Tự điển Việt Nam (Lê Văn

Đức biên soạn, Sài Gòn, 1970) [32], Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Hà

Nội, 1977) [92], Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, Hà Nội, 1999)

[136], Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nguyễn Lân biên soạn, Tp. Hồ Chí Minh,

2000) [57], Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà

Nội, 2012) [125].

- Các Thông tư Ban hành Danh mục giống cây trồng được phép sản xuất kinh

doanh ở Việt Nam của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Tổng hợp danh sách các giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh

tại Việt Nam đến 20/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Tổng hợp danh sách các giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh

tại Việt Nam đến 28/7/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

- Danh mục bổ sung giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt

Nam (Ban hành kèm theo Thông tư số: 01/2019/TT-BNNPTNT ngày 18 tháng 01

năm 2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

- Danh sách giống lúa tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số

80/2005/QĐ - BNN ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn.

5

- Danh sách giống khoai tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số

80/2005/QĐ - BNN ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn.

Thực tế khảo sát các nguồn ngữ liệu, chúng tôi chỉ có ngữ liệu về một số loại

cây nông nghiệp là: lúa, ngô, khoai lang, sắn, đậu, lạc, vừng,...; cây ăn quả: cam,

bưởi, nhãn, vải, chuối, xoài, thanh long, mận, táo, dứa, dừa, nho, ổi,...; cây trồng

phục vụ công nghiệp, lâm nghiệp: cà phê, cao su, chè, mía, bông, đay, thuốc lá,

sơn, sở, trẩu, hồ tiêu, ca cao, hồi,... Số lượng tên cây thuốc rất lớn và cũng đã có

những công trình nghiên cứu chúng. Còn các cây thực phẩm như các loại rau,

cây gia vị không có tư liệu đầy đủ. Vì vậy, luận án này chỉ khảo sát tên gọi cây

nông nghiệp chỉ giới hạn là tên gọi cây lương thực, cây trồng phục vụ công

nghiệp, lâm nghiệp và cây ăn quả. Từ các nguồn ngữ liệu khác nhau, chúng tôi

đã thu thập được 2609 tên gọi cây nông nghiệp được biểu thị bằng từ và cụm từ

của tiếng Việt.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

5.1. Đóng góp về mặt lí luận

Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm vào việc vận dụng lí thuyết ngôn

ngữ học (định danh ngôn ngữ, ngữ nghĩa học, từ điển học thực hành) để nghiên

cứu, xử lí từ ngữ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, chỉ rõ tính khoa học,

hiệu quả của các lí thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu thực tế nguồn ngữ liệu

tiếng Việt.

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong việc làm cơ sở

đặt tên bằng tiếng Việt cho các loại cây trồng mới ở Việt Nam, cũng như vào

việc định nghĩa các mục từ này trong từ điển được chính xác, khoa học hơn.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

Có thể nói, đây là luận án đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách hệ thống

và toàn diện những đặc điểm cơ bản về phương diện cấu tạo, định danh và cấu

6

trúc nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong định nghĩa của từ điển giải thích tiếng

Việt. Vì vậy, luận án sẽ có ý nghĩa như sau:

6.1. Về mặt lí luận

- Luận án sẽ làm rõ các đặc điểm được sử dụng để gọi tên (định danh) các

loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Qua đó thấy được đặc điểm trong tư duy

của người Việt trong quá trình nhận thức thế giới khách quan thường chú ý tri

giác như thế nào, lựa chọn những đặc trưng nào của sự vật, đối tượng để làm cơ

sở đặt tên (định danh) cho chúng.

- Kết quả nghiên cứu của luận án là minh chứng về mối quan hệ giữa nghiên

cứu lí thuyết với nghiên cứu ứng dụng trong địa hạt ngôn ngữ học, sẽ góp phần

vào việc nâng cao chất lượng, độ chính xác của các định nghĩa về tên gọi các

loại cây nông nghiệp nói riêng trong các loại từ điển tiếng Việt.

6.2. Về mặt thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ:

- Cho phép xác định, đề xuất được các biện pháp, cách thức gọi tên (định

danh) các loại sự vật, hiện tượng mới xuất hiện dựa vào các đặc điểm riêng, nổi

bật (các đặc điểm định danh) của chúng.

- Có thể sử dụng cho việc giảng dạy từ vựng tiếng Việt và định nghĩa hệ

thống tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi các loại cây nông nghiệp nói

riêng trong tiếng Việt trong từ điển giải thích tiếng Việt.

- Sử dụng thống nhất mô hình định nghĩa mà luận án đã đề xuất vào việc định

nghĩa các mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích tiếng Việt.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 3

chương được bố cục như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận

Chương 2: Đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

7

Chương 3: Định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt trong các từ điển

giải thích

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình hình nghiên cứu

Vì tên gọi cây nông nghiệp nói riêng thường được coi như một phần của tên

gọi thực vật nói chung, nên để thấy được tình hình nghiên cứu về tên gọi cây

nông nghiệp, luận án trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu tên gọi thực

vật trên thế giới và tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật và tên gọi cây nông

nghiệp ở Việt Nam.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới

Trong ngôn ngữ học hiện đại, việc nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và định danh

tên gọi thực vật trong các ngôn ngữ trên thế giới còn ít được nghiên cứu. Với sự

hiểu biết hạn chế của mình, chúng tôi trình bày khái quát một số công trình nghiên

cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài luận án.

Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi dân tộc các loài thực vật (dựa trên ngữ

liệu tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Cadắc) [152] của G.I. Uiukbôva bảo vệ năm

1983 tại Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô thuộc loại

công trình nghiên cứu đầu tiên. Lựa chọn 523 tên gọi thực vật tiếng Anh, 290 tên

gọi thực vật tiếng Nga và 302 tên gọi thực vật tiếng Cadắc làm đối tượng nghiên

cứu, luận án đã miêu tả tên gọi thực vật trong ba ngôn ngữ này, xác định được 10

thuộc tính được sử dụng (tác giả gọi là "bộ lí do") để định danh thực vật trong các

ngôn ngữ Anh, Nga và Cadắc.

Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Trường nghĩa "thực vật" trong tiếng Nga [151]

của Said Aliafar bảo vệ năm 1999 tại Trường Đại học Tổng hợp Xanh Pêtecbua đã

dựa vào 800 từ là tên gọi thực vật trong tiếng Nga được định nghĩa trong Từ điển

8

tiếng Nga của S.I. Ojegov và N. Ju. Svedova để nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa

của các từ tên gọi thực vật trong tiếng Nga và cách giải thích nghĩa từ vựng của

chúng trong từ điển. Luận án cũng tìm hiểu đặc điểm định danh tên gọi các loại

cây và hoa trong tiếng Nga.

Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Các phương thức định danh thực vật trong tiếng

Nanai [147] của L.J. Zacsor bảo vệ năm 2005 tại Xanh Pêtecbua đã dựa vào 1171

tên gọi thực vật trong tiếng Nanai để miêu tả nguồn gốc hình thành và đặc điểm

phát triển lịch sử tên gọi thực vật trong tiếng Nanai. Luận án cũng đã nghiên cứu

phương thức phụ tố trong định danh thực vật, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo tên gọi

thực vật và đặc điểm định danh thực vật bằng các phương tiện hình thái, từ vựng -

ngữ nghĩa và cú pháp trong trong ngôn ngữ Nanai.

Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi các loài thực vật ngoại lai trong tiếng

Anh và tiếng Nga: Các bình diện cấu trúc - cấu tạo từ và mô típ định danh [146]

của A.V. Berestneva, bảo vệ năm 2008 tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia

Gomen (Bêlarus). Dựa vào 2.000 tên gọi tiếng Nga và hơn 2.500 tên gọi tiếng

Anh các loài thực vật ngoại lai, luận án đã phân tích cấu trúc - cấu tạo từ tên gọi

các loài thực vật ngoại lai tiếng Anh và tiếng Nga, xác định các nguyên tắc, dấu

hiệu định danh thực vật ngoại lai trong hai ngôn ngữ và xác định các loại dấu

hiệu được dùng để định danh các loài thực vật ngoại lai. Từ đó, luận án tiến hành

đối chiếu các dấu hiệu ngữ nghĩa có trong tên gọi các loài thực vật ngoại lai

trong hai ngôn ngữ để làm sáng rõ những nguyên tắc định danh mang tính phổ

quát và dân tộc.

Luận án Phó tiến sĩ về đề tài Tên gọi các loài dược thảo trong các ngôn ngữ có

cấu trúc khác nhau (dựa trên ngữ liệu tiếng Nga, tiếng Maria, tiếng Đức và tiếng

Latinh [150] của O.G. Rubxôva bảo vệ năm 2015 tại Trường Đại học Tổng hợp

Quốc gia Maria. Đối tượng nghiên cứu là tên gọi các loài dược thảo trong tiếng

Nga, tiếng Maria, tiếng Đức và tiếng Latin, gồm 4.000 tên gọi các loài dược thảo,

phân tích 3003 tên gọi, trong đó có 70 tên gọi Latinh, 1953 tên dược thảo tiếng

9

Nga, 383 tên dược thảo tiếng Maria và 597 tên dược thảo tiếng Đức. Luận án đã

nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản được dùng để định danh các loài dược thảo

trong các ngôn ngữ này; xác định những đặc trưng làm cơ sở định danh và những

nguyên tắc định danh các loài dược thảo. Trên cơ sở đó, luận án đã phân loại và so

sánh tên gọi các loài dược thảo được thể hiện trong bốn ngôn ngữ này.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên gọi thực vật ở Việt Nam

Trong vốn từ vựng tiếng Việt, tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi các

loại cây nông nghiệp nói riêng được coi là một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa. Đặc

điểm sinh học của các loài thực vật ở nước ta đã được nghiên cứu chuyên sâu từ

phương diện thực vật học, sinh học, nông học. Còn về phương diện ngôn ngữ

học, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tên gọi thực vật nói chung, tên gọi

cây nông nghiệp nói riêng. Vân đài loại ngữ [29] của Lê Quý Đôn và Lịch triều

hiến chương loại chí [19] của Phan Huy Chú có thể xem là những sách có tính

bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam đề cập đến nghề nông và sử dụng

nước. Gần đây một số chuyên khảo về nghề trồng lúa, một số quyển từ điển bách

khoa chuyên ngành về nông nghiệp, về cây thuốc Việt Nam đã được biên soạn:

Từ điển Bách khoa nông nghiệp [115], Từ điển Bách khoa nông nghiệp Việt Nam

[23], Từ điển cây thuốc Việt Nam (bộ mới), 2 tập [17], Văn minh lúa nước và

nghề trồng lúa Việt Nam [27].

Trong Việt ngữ học hiện đại, với tư cách là một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa,

tên gọi các loài thực vật nói chung, tên gọi cây nông nghiệp nói riêng trong tiếng

Việt được nghiên cứu theo ba hướng: nghiên cứu từ cách tiếp cận từ vựng học

truyền thống; nghiên cứu theo hướng phong cách học và nghiên cứu theo hướng

của ngôn ngữ học tri nhận.

a. Nghiên cứu nhóm từ tên gọi thực vật theo truyền thống

Theo hướng nghiên cứu này có thể nêu ra một số bài viết, luận văn sau:

Luận văn tốt nghiệp đại học của Cao Thị Thu Đặc điểm định danh và ngữ

nghĩa trường từ vựng tên gọi thực vật trong tiếng Việt [106] bảo vệ năm 1995 tại

10

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dựa vào lời giải thích trong định nghĩa từ

điển giải thích tiếng Việt của 657 từ ngữ chỉ thực vật, tác giả luận văn sử dụng

phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân giải lời giải thích thành các nghĩa

vị khu biệt phản ánh những đặc trưng cơ bản của thực vật được biểu thị. Tác giả

đã xác định được 14 nghĩa vị khu biệt xuất hiện trong lời giải thích tên gọi thực

vật: tên chỉ loại; đặc điểm hình thức/cấu tạo; đặc điểm kích cỡ; vai trò trong đời

sống; đặc điểm màu sắc; đặc điểm vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học;

vai trò trong y học; môi trường sống; đặc điểm vị; đặc điểm mùi; đặc điểm

thuần dưỡng; đặc điểm thời gian; đặc điểm tập tính sinh sống. Trên cơ sở đó tác

giả tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa và những ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ

chỉ thực vật trong tiếng Việt.

Luận văn thạc sĩ của Trần Hạnh Nguyên Trường trường từ vựng - ngữ nghĩa

thực vật trong kho tàng ca dao người Việt [76] bảo vệ năm 2014 tại Trường Đại

học Sư phạm Hà Nội, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, đặc trưng ngữ nghĩa và giá trị

biểu trưng của tên các loài thực vật cùng những bộ phận cơ bản của chúng (hoa,

quả) xuất hiện trong kho tàng ca dao Việt Nam. Khảo sát 11825 lời ca trong Kho

tàng ca dao người Việt, tác giả luận văn xác định được có 2875 lời ca về trường

nghĩa thực vật, chiếm 24% và thống kê được 325 loại thực vật chỉ cây (tùng, cúc,

trúc, mai, tre, lúa, cây đa, rau cải, rau muống, rau răm,…). Có 2226 từ nói về

cây và rau (chiếm 49%): cây đào, cây liễu, cây trúc, cây tre, cây đa, cây lúa, cây

bèo, cỏ, rau muống, rau cải, rau răm, rau má, rau húng, gừng,...Dựa vào kết quả

thống kê, phân loại nêu trên tác giả tiến hành khảo sát, phân tích đặc điểm ngữ

nghĩa, sự chuyển trường của các từ ngữ chỉ tên thực vật trong ca dao, tìm hiểu ý

nghĩa biểu trưng của các từ thuộc trường nghĩa thực vật trong kho tàng ca dao

người Việt.

Luận án Từ ngữ chỉ động thực vật trong tiếng Việt và tiếng Anh [118] của

Nguyễn Thanh Tùng đã so sánh từ chỉ thực vật tiếng Việt và tiếng Anh trong từ

điển giải thích, trong thành ngữ và tục ngữ dựa trên cơ sở phân loại từ chỉ thực

11

vật dùng theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra

những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của hai dân tộc Việt và Anh với hai loại

hình ngôn ngữ và văn hóa khác biệt nhau.

Hồ Văn Tuyên (2005) trong Đặc điểm định danh từ vựng trong phương ngữ

Nam Bộ [119], tác giả có đề cập đến cách định danh thực vật ở Nam Bộ xét về

mặt cấu tạo, phương thức biểu thị và ngữ nghĩa. Qua cách định danh này, tác giả

cho ta thấy rõ nét văn hóa rất đặc trưng trong tư duy của người Việt nói chung và

người Nam Bộ nói riêng.

Luận văn thạc sĩ của Lê Hồng Nhiên Từ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối

chiếu giữa các phương ngữ) [77], bảo vệ năm 2012 tại Trường Đại học Sư phạm

TP. Hồ Chí Minh đã thu thập được 391 từ chỉ thực vật có tên gọi khác nhau

trong các phương ngữ của tiếng Việt qua khảo sát các từ điển thường dùng và

điền dã. Tác giả công trình này đã phân loại và miêu tả đặc điểm cấu tạo từ (từ

đơn, từ ghép, từ láy), các mô hình cấu tạo từ ghép là các loài thực vật có tên gọi

khác nhau trong các phương ngữ tiếng Việt. Luận văn đã đối chiếu từ chỉ thực

vật giữa các phương ngữ xét về mặt cấu tạo, ngữ âm - ngữ nghĩa để làm rõ cách

tri nhận, tìm hiểu các yếu tố văn hóa, địa lí có ảnh hưởng đến quy luật định danh

tên gọi thực vật trong từng phương ngữ nói riêng và trong tiếng Việt nói chung.

Thông qua đối chiếu nhóm từ chỉ thực vật giữa các phương ngữ, luận văn đã nêu

lên những đặc trưng, những nét khác biệt chủ yếu về mặt cấu tạo, ngữ âm - ngữ

nghĩa giữa các phương ngữ, có sự so sánh với ngôn ngữ toàn dân.

Luận án của Trần Thị Hường Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có

liên hệ tiếng Latinh) [50] bảo vệ năm 2020 tại Trường Đại học Khoa học xã hội

và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án nghiên cứu định danh tên gọi

cây thuốc Việt Nam nhằm xác định nguồn gốc, đặc điểm cấu tạo và cơ sở đặt tên

cho cây thuốc, đồng thời khám phá đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt đối

với việc định danh cây thuốc, có sự liên hệ với tên gọi Latinh. Khảo sát 1966 tên

cây thuốc, luận án xác định được 1538 tên gọi thuần Việt, 414 tên gọi vay mượn

12

tiếng Hán và 14 tên gọi vay mượn các ngôn ngữ Ấn - Âu. Luận án đã xác định

được tên gọi cây thuốc Việt Nam có cấu tạo là từ gồm 678 đơn vị (chiếm

34,49%) và 1288 đơn vị (chiếm 65,51%) có cấu tạo là cụm từ (ngữ), miêu tả tên

gọi cây thuốc có cấu tạo là cụm từ theo các mô hình cấu tạo gồm từ 2 đến 5

thành tố. Những thành tố thu được đều là những yếu tố có nghĩa từ vựng biểu thị

một khái niệm hoặc đặc trưng của khái niệm có liên quan đến tên cây thuốc Việt

Nam. Tên gọi cây thuốc bằng tiếng Latinh gồm tên chi và tên loài cũng được

miêu tả cụ thể. Về phương diện định danh tên gọi cây thuốc Việt Nam, luận án

đã xác định được 151 tên gọi không có lí do (chiếm 7,68%) vì không giải thích

nổi vì sao gọi thế. Những tên gọi này thuộc loại định danh đơn (định danh cơ sở)

chủ yếu là những tên gọi có cấu tạo là từ đơn thuần Việt và từ vay mượn ngôn

ngữ Ấn - Âu. Còn lại1186 tên gọi cây thuốc là có lí do thuộc loại định danh phức

(chiếm 60,32%). Những tên gọi này có đặc trưng: dùng thành tố chỉ loài kết hợp

với các dấu hiệu chỉ đặc điểm để định danh. Với cây thuốc có tên khoa học tiếng

Latinh, các nhà khoa học đã dựa vào một số cơ sở sau để định danh cây thuốc: địa

danh nơi loài phát triển, hoặc nơi đầu tiên phát hiện; tên người đã khám phá, mô

tả loài đó; tên thể hiện tính chất đặc thù nào đó của loài (màu sắc, hình dạng, mùi

thơm, vùng sinh thái,…).

b. Nghiên cứu tên gọi thực vật theo hướng phong cách học

Theo hướng này, tên gọi thực vật và cây nông nghiệp trong tiếng Việt là ngữ

liệu để tìm hiểu các tín hiệu thẩm mĩ và nghĩa biểu trưng. Chỉ có một vài luận án,

luận văn, bài viết khảo sát bước đầu về trường tên gọi thực vật, chủ yếu tập trung

tìm hiểu tên loài thực vật và đặc điểm biểu trưng các loài thực vật trong thơ ca,

ca dao.

Luận án Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam [1] của

Phạm Thị Kim Anh đã tìm hiểu các từ thuộc trường nghĩa "cây" có chức năng

kiến tạo nghĩa thẩm mĩ được dùng để biểu thị các hình tượng nghệ thuật thơ. Luận

án đã miêu tả các đơn vị ngôn ngữ thuộc trường nghĩa "cây" trong thơ ca (cây tre,

13

trúc, thông, tùng, liễu, cỏ, lúa, lau, bèo, rêu). Từ đó, tìm hiểu sự biến đổi và

chuyển hóa cả về hình thức biểu đạt lẫn nội dung ý nghĩa của các từ chỉ các cây

trong thơ ca Việt Nam để chúng trở thành một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ.

Một số tác giả nghiên cứu nghĩa biểu trưng của hoa, một bộ phận của cây trong

kho tàng ca dao của người Việt như: Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa

trong ca dao của tác giả Hà Thị Quế Hương đã chỉ ra biểu trưng của các từ chỉ hoa

trong ca dao [49]. Bài viết Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao của tác

giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đề cập tới biểu tượng hoa chỉ vẻ đẹp của người

thiếu nữ, biểu tượng về tình yêu,...[28]. Trần Văn Sáng đã xác định những giá

trị biểu trưng của hoa đào qua bài viết Hoa đào, từ biểu tượng văn hóa đến

biểu trưng văn học. Theo tác giả, "Nếu trong văn chương bác học, các nhà

thơ thường liên tưởng tới cả cây đào, thân đào, hoa đào với những biểu

trưng khác nhau thì trong ca dao, các thi sĩ dân gian lại chủ yếu sử dụng thi

liệu hoa đào để nói về người con gái, tình yêu đôi lứa và mối nhân duyên”

[89, tr. 44].

c. Nghiên cứu tên gọi thực vật theo hướng ngôn ngữ học tri nhận

Ở Việt Nam trong vài thập niên gần đây, những vấn đề về ngôn ngữ học tri

nhận nói chung và lí thuyết ẩn dụ ý niệm nói riêng đã thu hút sự chú ý của giới

nghiên cứu Việt ngữ học. Trong công trình Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết

đại cương đến thực tiễn tiếng Việt [100], Lý Toàn Thắng đi sâu vào việc nghiên

cứu ngữ nghĩa của từ “cây” và sự phân loại dân dã thực vật ở người Việt. Ông

xác định từ "cây" được sử dụng với 11 ý nghĩa khác nhau. Theo ông, cách dùng

của từ "cây" trong các ngữ cảnh khác nhau và sự phân loại dân dã thực vật của

người Việt, về cơ bản, không phải là nguyên lí “phân loại sinh học” mà quan

trọng là đặc tính về tri giác và về văn hóa, trong đó chủ yếu là nguyên lí “lấy con

người làm trung tâm” (dĩ nhân vi trung).

Luận án Ẩn dụ ý niệm của phạm trù thực vật trong tiếng Việt và tiếng Anh

của Trần Thị Phương Lý [68] đã nghiên cứu các ẩn dụ ý niệm trên nguồn ngữ

14

liệu cụ thể liên quan đến ý niệm thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng

Anh) nhằm tìm ra chứng cứ củng cố cho quan điểm tri nhận về ẩn dụ, giúp làm

phong phú thêm những nghiên cứu về ẩn dụ tiếng Việt. Dựa trên ngữ liệu chỉ

thực vật trong phạm vi nguồn cứ liệu chính là Từ điển tiếng Việt, luận án đã khảo

sát ẩn dụ ý niệm, tìm hiểu phương thức thiết lập và các thành tố của mô hình

chuyển di ý niệm (từ ý niệm thực vật để nhận thức các phạm trù ý niệm khác)

trên ngữ liệu biểu thức ngôn ngữ liên quan đến thực vật trong tiếng Việt (có liên

hệ với tiếng Anh), cũng như tìm hiểu các nền tảng kinh nghiệm phổ quát cho

phép thực hiện sự nhận thức thông qua con đường chuyển di này, từ đó, phân

loại và lí giải chức năng các loại ẩn dụ ý niệm THỰC VẬT.

Cũng từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, trong bài viết Chiếu xạ miền ý niệm

thực vật và con người trong ca từ Trịnh Công Sơn [43], Nguyễn Thị Bích Hạnh đã

nghiên cứu mô hình ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ THỰC VẬT trong ca từ

Trịnh Công Sơn, lí giải quy luật chiếu xạ từ ý niệm thực vật (miền NGUỒN) lên ý

niệm con người (miền ĐÍCH), tìm hiểu cách tri nhận của nhạc sĩ về con người và

các chu kì vòng đời người dựa trên ý niệm chu kì sinh trưởng của thực vật hiện

thân trong ngôn ngữ, từ đó giải mã con người văn hóa, vô thức cá nhân và thế giới

tinh thần của nhạc sĩ. Trong một bài viết khác với nhan đề Ẩn dụ ý niệm "CON

NGƯỜI LÀ CÂY" trong thành ngữ, tục nhữ tiếng Việt [44], Nguyễn Thị Bích

Hạnh đã tìm hiểu cách tri nhận của người Việt về con người và các chu kì vòng

đời người dựa trên ý niệm về chu kì sinh trưởng của thực vật được thể hiện trong

ngôn ngữ. Căn cứ vào những liên tưởng kinh nghiệm thể hiện trong tục ngữ tiếng

Việt và những miền tri thức được chiếu từ miền nguồn sang miền đích thể hiện

qua các thành ngữ tiếng Việt, tác giả đã chỉ ra cơ chế sao phỏng giữa hai miền

không gian trong tư duy ngôn ngữ của người Việt.

Tóm lại, các tác giả đi trước đề cập đến các từ chỉ thực vật như là một nhóm

từ vựng - ngữ nghĩa và nghiên cứu chúng từ nhiều góc độ: tìm hiểu đặc trưng từ

vựng - ngữ nghĩa (đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và định danh), nghiên

15

cứu các ẩn dụ ý niệm trên nguồn ngữ liệu liên quan đến ý niệm thực vật trong

tiếng Việt, nghiên cứu nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ thực vật và nghiên

cứu đối chiếu các từ ngữ chỉ thực vật trong các ngôn ngữ khác nhau. Từ đó, có

thể khẳng định rằng chưa có công trình nào nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp

tiếng Việt về phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, định danh và định nghĩa chúng

trong từ điển giải thích.

1.1.3. Tình hình nghiên cứu, biên soạn từ điển tiếng Việt

Về từ điển, có thể xem xét từ hai góc độ: nghiên cứu về từ điển - từ điển

học lí thuyết và biên soạn từ điển - từ điển học thực hành. Từ góc độ từ điển

học lí thuyết có thể xem xét sự phát triển của từ điển học qua những công

trình lí luận; từ góc độ từ điển học thực hành có thể xem xét sự phát triển

của ngành từ điển học qua những cuốn từ điển đã được biên soạn. Trong

thực tế hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau, vì một cuốn từ điển được biên

soạn thường mang đậm dấu ấn của tác giả, cả về tri thức bách khoa lẫn tri

thức ngôn ngữ học. Theo thống kê của Vũ Quang Hào, "Chỉ tính riêng

những từ điển về tiếng Việt, liên quan đến tiếng Việt, được biên soạn bằng

tiếng Việt và được dịch ra tiếng Việt được xuất bản ở Việt Nam và nước

ngoài, từ 1651 đến 1998, đã là gần 1.000 đầu từ điển" [45, tr.21]. Đó là một

con số lớn. Trong khuôn khổ đề tài, luận án chỉ trình bày khái quát một số

vấn đề lí thuyết từ đó liên hệ với tình hình biên soạn thực tế và giới thiệu

một số quyển từ điển giải thích tiếng Việt mà luận án có khảo sát định nghĩa

một số mục từ cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết từ điển học ở Việt Nam

Về phương diện nghiên cứu lí thuyết từ điển học, cho đến những thập

niên 90 của thế kỉ XX, Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm khẳng định: "Từ

điển học Việt Nam ra đời rất muộn, thậm chí có thể nói rằng nó còn chưa

thật sự hình thành, mặc dù chúng ta cũng đã có nghiên cứu và kinh nghiệm

thực tiễn nhất định" [83,tr.9]. Hai tác giả này cũng cho rằng: "Từ những năm

16

1968 - 1969, chúng ta đã bắt đầu tìm hiểu lí luận từ điển học trong điều kiện

rất thiếu tài liệu tham khảo và tìm hiểu những bài học kinh nghiệm trong

công tác từ điển học của các nước cũng như kinh nghiệm của nước ta" [83,

tr.10]. Chu Bích Thu nhận thấy rằng ý kiến trên đây "vẫn không gây phản

ứng nào trong giới ngôn ngữ học" và khẳng định: "Quả thực, cho đến nay

cũng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về từ điển một cách toàn

diện và có hệ thống" [108,tr.12]. Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận "những ý

kiến về từ điển và từ điển học đã có từ rất lâu". Thực tế đã có hàng loạt bài

viết đã trình bày những vấn đề lí thuyết từ điển học [5, 70, 78, 116, 124];

hoặc trình bày một vài vấn đề cụ thể của từ điển học [21, 60, 80, 83, 85,

124]; hoặc thông qua việc nhận xét, giới thiệu các quyển từ điển để phát

biểu về quan điểm và phương pháp biên soạn từ điển [7, 62]. Các bài viết

này "đã đặt nền móng cho một cách làm từ điển giải thích hiện đại, chấm dứt

giai đoạn làm từ điển chỉ bằng kinh nghiệm và sự cần mẫn" [108,tr.14]. Loạt

bài này đã đặt cơ sở cho việc biên soạn cuốn Từ điển tiếng Việt phổ thông

(tập 1) 1975 và sau đó là cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng phê chủ biên) năm

1988, đồng thời cũng hình thành một hệ thống những quan niệm đầu tiên

cho một nền từ điển học lí thuyết ở Việt Nam" [108,tr.12]. Đến năm 1997,

công trình Một số vấn đề từ điển học ra đời mà các tác giả của nó chính là

những người tham gia biên soạn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên,

xuất bản năm 1988 và đã tái bản nhiều lần) đã bắt tay tổng kết một số vấn đề

lí thuyết về từ điển. Ở đó, "những vấn đề muôn thuở của từ điển" như: cấu

trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô của từ điển giải thích; vấn đề thu thập và giải

thích thuật ngữ trong từ điển; hệ thống các kiểu chú giải trong từ điển; cách

chú từ loại cho mục từ; thiết kế mẫu định nghĩa các mục từ ngữ văn

chương,... đã được các tác giả "nhìn nhận dưới ánh sáng của lí thuyết từ điển

học hiện đại và ngôn ngữ học hiện đại" [108,tr.13]. Đánh giá công trình này,

Chu Bích Thu viết: "Không thể nói những gì các tác giả của tập Một số vấn

17

đề từ điển học đã đề cập là hoàn toàn mới, nhưng có thể nói đây là sự kết

hợp khá nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành khi biên soạn cũng như

đúc kết những vấn đề có tính lí thuyết của công tác từ điển trên thế giới vào

thực tế tiếng Việt. (...) Các tác giả đã cố gắng vận dụng những vấn đề tương

đối mới của ngôn ngữ học hiện đại vào việc biên soạn từ điển giải thích. (...)

Loạt bài này đồng thời đã và đang đặt nền móng cho việc tiếp tục biên soạn

một cuốn từ điển lớn hơn và tốt hơn" [108,tr.27].

Sau 1997, đáng chú ý nhất là cuốn sách Kiểm kê từ điển học Việt Nam

của Vũ Quang Hào. Với cấu trúc gồm 4 chương, cuốn sách giới thiệu đầy đủ

một số vấn đề chung về từ điển học, giới thiệu toàn cảnh về từ điển học lí

thuyết Việt Nam (1923 - 2005), toàn cảnh về từ điển học thực hành Việt

Nam (1651 - 2005) và một số vấn đề về từ điển học nước ngoài. Trong giai

đoạn này đã có khá nhiều bài viết chuyên về từ điển học của Nguyễn Văn

Thạc [94], Chu Bích Thu [105], Hồ Hải Thụy [107], Nguyễn Ngọc Trâm

[83], Lý Toàn Thắng [99], Nguyễn Tuyết Minh [70],...

Chương trình khoa học cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản về lí luận và

phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên soạn các loại từ điển

[126] do Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam triển khai trong hai

năm 2009 và 2010. Mục tiêu của chương trình là xác định các loại hình từ

điển và bách khoa thư cơ bản; xây dựng cơ sở lí luận và phương pháp biên

soạn đối với các loại hình từ điển và bách khoa thư để trên cơ sở đó, triển

khai biên soạn các loại từ điển và bách khoa thư Việt Nam. Chương trình

gồm bảy đề tài, trong đó đề tài thứ sáu: Một số vấn đề cơ bản về cơ sở lí

luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về việc biên sọan các

loại từ điển ngữ văn do Nguyễn Thanh Nga làm chủ nhiệm đã tập trung

nghiên cứu những vấn đề lí thuyết cơ bản của từ điển học: cấu trúc vĩ mô,

cấu trúc vi mô của từ điển ngữ văn; vấn đề nghĩa của từ và áp dụng phương

pháp phân tích thành tố nghĩa vào định nghĩa các mục từ của từ điển giải

18

thích; xây dựng các mẫu định nghĩa cho từ điển giải thích; các kiểu chú

trong từ điển giải thích; vai trò của ví dụ trong cấu trúc mục từ; các thông tin

bách khoa và thông tin ngôn ngữ trong định nghĩa các mục từ; nguyên tắc

chuyển chú giữa các mục từ,...

1.1.3.2. Tình hình biên soạn từ điển giải thích ở Việt Nam

Trong sự phát triển thực tiễn, từ điển học thực hành ở Việt Nam, trong đó

điển hình là từ điển giải thích ngữ văn, theo Chu Bích Thu [109,tr.194-195],

có thể chia thành ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn trước thế kỉ XIX còn lại

chủ yếu là các tập từ vựng đối chiếu Hán - Việt và bộ Từ điển An Nam -

Lusitan - Latin xuất bản ở Rome năm 1651 (thường gọi là Từ điển Việt - Bồ

- La) của tác giả A. de Rhodes, giúp các giáo sĩ Tây Ban Nha truyền giáo là

những cuốn từ điển đối dịch tiếng Việt cổ nhất. Giai đoạn cuối thế kỉ XIX -

nửa đầu thế kỉ XX, về từ điển giải thích tiếng Việt, có cuốn Đại Nam quấc

âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của xuất bản cuối thế kỉ XIX (1895). Trong

giai đoạn này còn có ba cuốn từ điển giải thích được biên soạn có khối lượng

tương đối lớn và được coi là có giá trị. Đó là các cuốn:

- Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức (khởi thảo), xuất bản năm

1931 ở Hà Nội, tái bản 1954 ở Pháp và Sài Gòn, chủ yếu lấy tự làm đơn vị

giải thích, tổng cộng có khoảng 24.500 mục từ.

- Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị, được phát hành lần đầu tiên năm

1951, gồm hai tập dày 1.774 trang với 35.000 từ (có cả tên riêng) (nhà xuất

bản Thời thế, Sài Gòn), năm 1958 tái bản và đổi tên thành Từ điển Việt Nam

cũng ở Sài Gòn, nhà xuất bản Thời thế.

- Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo xuất

bản năm 1952 ở Sài Gòn. Đây là một bộ từ điển (mặc dù tên gọi là tự điển)

dày 728 trang khổ lớn (19 x 27cm) thu thập và giải thích khoảng 37.500 mục

từ, có kèm ví dụ ca dao, tục ngữ, những câu nói thường ngày để minh họa.

19

Giai đoạn nửa sau thế kỉ XX đánh dấu sự phát triển vượt bậc về chất

lượng từ điển và đặc biệt là về số lượng từ điển. Về từ điển giải thích có thể

nêu ra những cuốn cơ bản sau đây:

- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Văn Tân chủ biên (thường gọi

tắt là Từ điển Văn Tân), xuất bản lần đầu năm 1967 ở Hà Nội, in lại ở Hà

Nội năm 1974, có chỉnh lí và bổ sung của Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm, nhà

xuất bản Khoa học xã hội tái bản năm 1994.

- Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức (thường gọi tắt là Từ điển Lê Văn

Đức), nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, năm 1970. Tự điển gồm hai tập dày

tổng cộng 2.516 trang với gần 76.000 mục từ.

- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất

bản Khoa học xã hội in lần đầu 1988, được chỉnh lí hai lần. Lần thứ nhất

năm 1992 đã sửa chữa 2.770 định nghĩa, bổ sung 2.090 mục từ, sửa chữa,

thay thế 3.510 ví dụ. Lần thứ hai năm 2000, sửa 2.903 định nghĩa, bổ sung

1.670 mục từ hoặc nghĩa mới, bỏ 41 mục từ hoặc nghĩa cũ, thay hoặc sửa

chữa 387 ví dụ. Từ điển tiếng Việt gồm 39.924 mục từ được biên soạn trên

cơ sở gần ba triệu phiếu tư liệu của Viện Ngôn ngữ học.

- Đại từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn, Nguyễn Như Ý chủ biên,

nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in lần đầu năm 1998, tái bản năm 2000,

nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Đây là cuốn từ điển cỡ lớn dày

1.892 trang khổ lớn (19 x 27cm) với hơn 74.600 mục từ. Đây là cuốn từ điển

được biên soạn công phu, có số lượng từ ngữ phong phú, có chú thêm một số

từ nguyên thông thường. Từ ngữ được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, có nhiều

thí dụ minh họa; có chú ý đến những từ ngữ địa phương của cả ba miền Bắc,

Trung, Nam; cập nhật và bổ sung nhiều mục từ phù hợp với quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.

Hồ Chí Minh xuất bản năm 2000. Cuốn từ điển này thu thập và giải thích

20

khoảng 54.000 từ ngữ tiếng Việt, có chú giải từ nguyên và trích dẫn nhiều văn

thơ minh họa.

- Từ điển tiếng Việt do tập thể biên soạn (Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh,

Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hà), nhà

xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học VIETLEX xuất bản năm 2008, tái

bản có bổ sung sửa chữa nhiều lần.

Các cuốn từ điển này được biên soạn khá công phu, mỗi cuốn đều mang hơi

thở của thời đại mình, đồng thời mang đậm dấu ấn của tác giả cũng như vùng

phương ngữ mà các tác giả của nó sống và hoạt động. Ví dụ, xuất bản gần như

đồng thời, Từ điển Văn Tân (1967) và Từ điển Lê Văn Đức (1970) lại khác rất xa

nhau về phạm vi thu thập các từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ. Theo số liệu

thống kê của Phòng Từ điển học, Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Lê Văn Đức thu

thập khá nhiều từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ. Nếu lấy Từ điển tiếng Việt của

Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) làm chuẩn để so sánh thì "Từ điển

Văn Tân hơn Từ điển tiếng Việt 9.144 đơn vị; còn Từ điển Lê Văn Đức hơn Từ

điển tiếng Việt đến 47.387 đơn vị" [109,tr.195].

Mỗi cuốn từ điển giải thích tiếng Việt nêu trên đều phản ánh trình độ khoa

học kĩ thuật của từng giai đoạn. Trong đó, "sự xuất hiện của cuốn Từ điển tiếng

Việt (gồm một tập thể 17 tác giả do Hoàng Phê chủ biên) vào cuối những năm 80

của thế kỉ XX, được nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học công nghệ năm

2005 đã đánh dấu một bước tiến mới của công việc biên soạn từ điển tiếng Việt

ngữ văn ở Việt Nam dưới ánh sáng của lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại. (...) Đây

là kết quả vận dụng thành quả nghiên cứu của Việt ngữ vào trong biên soạn từ

điển tiếng Việt" [51,tr.1]. Công trình từ điển này là một thành tựu to lớn của

ngành ngôn ngữ học Việt Nam. Nhiều vấn đề lí thuyết chung như vấn đề chuẩn

ngôn ngữ, chuẩn chính tả, quan niệm về đơn vị từ vựng và những thao tác mô tả

chúng, những phương pháp phân tích ngữ nghĩa,... đã được áp dụng trong quyển

từ điển này. Theo Nguyễn Văn Khang, điểm nổi bật trong việc vận dụng thành

21

quả nghiên cứu của Việt ngữ học vào biên soạn cuốn từ điển này là: "1. Xây

dựng bảng từ trên cơ sở quan niệm về từ trong Việt ngữ học; 2. Giải thích nghĩa

của các đơn vị từ thu thập trong từ điển theo lí thuyết phân tích ngữ nghĩa hiện

đại; 3. Chú sắc thái dùng cho các đơn vị vị từ vựng dựa vào thành quả nghiên

cứu của phong cách học tiếng Việt; 4. Chú từ loại dựa vào kết quả nghiên cứu

của ngữ pháp tiếng Việt" [51,tr.1]. Quyển từ điển này "đã vừa tiếp thu kinh

nghiệm của từ điển học Việt Nam trước đây, vừa cố gắng xây dựng một cấu trúc

vĩ mô và cấu trúc vi mô phong phú và khoa học hơn" [109,tr.197].

Từ điển là công cụ tra cứu hữu hiệu cho người sử dụng ngôn ngữ. Vì thế,

người sử dụng cần từ điển thì từ điển sẽ được biên soạn và ấn hành. Đó chính là

mối quan hệ cung cầu của thị trường từ điển. Từ điển tiếng Việt nói chung, từ

điển giải thích tiếng Việt nói riêng, cũng nằm trong quy luật đó. Số lượng từ điển

tiếng Việt tăng vọt vào thời gian mấy năm trở lại đây. Có thể nói, từ điển tiếng

Việt đang trong thời kì "trăm hoa đua nở" theo cả nghĩa tích cực lẫn tiêu cực. Sự

xuất hiện nhiều cuốn từ điển tiếng Việt phản ánh sự phát triển và vị thế của tiếng

Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia và theo đó là nhu cầu của người sử dụng

tiếng Việt ở trong nước và trên thế giới đang tăng mạnh. Tuy nhiên, sự xuất hiện

nhiều cuốn từ điển tiếng Việt lại gây không ít khó khăn cho người sử dụng vì

chất lượng biên soạn từ điển quá chênh lệch hiện nay. Với việc xuất hiện không

ít cuốn từ điển tiếng Việt "biên soạn theo kinh nghiệm chủ nghĩa và công nghệ

tin học như hiện nay chỉ thuần túy chạy theo "cung" không chỉ làm ảnh hưởng

không tốt đến người sử dụng mà còn phương hại đến sự chuẩn hóa tiếng Việt, có

nguy cơ kéo lùi việc ứng dụng lí luận ngôn ngữ học, lí luận từ điển học vào việc

biên soạn từ điển tiếng Việt" [52,tr.84].

1.2. Cơ sở lí luận của việc nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt

1.2.1. Vấn đề định danh

1.2.1.1. Tên gọi

22

Hiểu một cách đơn giản thì tên gọi là "từ hoặc nhóm từ dùng để chỉ một cá

nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại" [125,tr.1160].

K. Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lê nin khi bàn về mối quan hệ giữa khách thể và tên

gọi đã cho rằng: "Tên gọi là một cái ngẫu nhiên, chứ không biểu hiện được chính

ngay bản chất của sự vật" [69,tr.28]. Các nhà kinh điển cũng cho rằng: "Tri giác

cảm tính cho ta sự vật, tri giác lí tính cho ta tên gọi. (...) Nhưng tên gọi là cái gì?

Một phù hiệu dùng để phân biệt, một dấu hiệu đập vào mắt mà tôi đem làm

thành đặc trưng của đối tượng để hình dung đối tượng trong tính chỉnh thể của

nó" [69,tr.88]. Như vậy, chính nhu cầu nhận thức thế giới đã buộc con người

phải vượt qua giai đoạn tri giác cảm tính và tiến hành tư duy trừu tượng. Con

người không thể tư duy bằng các sự vật, hiện tượng cụ thể như chúng vốn có

trong hiện thực. Tên gọi đã tách các sự vật, hiện tượng cụ thể đó ra khỏi thế giới

hiện thực của chúng, đưa chúng vào trong lí trí của con người dưới dạng các tên

gọi như những đơn vị cơ bản của tư duy trừu tượng. Nhờ đó sự vật, hiện tượng

được hình dung một cách rõ ràng "trong tính chỉnh thể của nó". Vì vậy, trong Bút

kí triết học, V.I. Lênin cho rằng: "Tên gọi là cái gì đó phổ biến, thuộc về tư duy,

làm cho cái đa dạng trở nên đơn giản" [59,tr.264]. Nhờ đó, "tên gọi đã làm cho

các sự vật, hiện tượng trở nên có "cá tính" trong tư duy" [8,tr.95]. Để tạo ra tên

gọi người ta phải sử dụng các tín hiệu ngôn ngữ, đó là từ và tổ hợp từ. UI.V.

Rozdextvenxki đã chỉ ra cách tạo ra tên gọi: "thứ nhất, một dãy âm tố có liên hệ

với nhau tạo thành từ với mặt bên ngoài của nó, tức là vỏ âm thanh, vỏ ngữ âm

của từ, hoặc là từ ngữ âm; thứ hai, sự vật được gọi bằng từ đó; thứ ba, ý nghĩa

mà từ gây ra trong ý thức chúng ta. Tất cả ba yếu tố này gắn với nhau" [88,tr.34].

Tên gọi là sản phẩm của tư duy trừu tượng nên nhìn chung nó phải đảm bảo

các yêu cầu như có tính khái quát, tính trừu tượng và mất khả năng gợi đến

những đặc điểm, những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng. Về mặt ngữ

nghĩa, tên gọi phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn cảm tính và có tác

dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong cùng một loại hay phân

23

biệt các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Mặc dù lí tưởng phải lựa chọn được

đặc trưng bản chất, tức là là đặc trưng tiêu biểu để gọi tên, nhưng với điều kiện

đặc trưng đó phải bảo đảm giá trị khu biệt tên gọi. "Ý nghĩa phản ánh đặc tính

mà ta lấy để gọi tên toàn bộ sự vật chính là ý nghĩa làm căn cứ trong tên gọi.

Trong ngôn ngữ học, người ta gọi ý nghĩa ấy là ý nghĩa gốc hay hình thái bên

trong của tên gọi" [38,tr.463]. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế

khách quan tồn tại trong lí trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện

tượng khác cùng loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành

mạch sáng sủa, cho nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực

sự trở thành một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một

tên gọi trong ngôn ngữ.

1.2.1.2. Khái niệm định danh

Định danh (nomination) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latin với nghĩa là

tên gọi. Thuật ngữ này biểu thị kết quả của quá trình gọi tên của các đơn vị ngôn

ngữ. Thuật ngữ định danh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo Từ điển

Bách khoa ngôn ngữ học thì định danh là: "việc tổ chức các đơn vị ngôn ngữ

mang chức năng gọi tên, nghĩa là phục vụ cho việc gọi tên và phân chia các khúc

đoạn hiện thực và sự hình thành của những khái niệm tương ứng về chúng dưới

hình thức của các từ, các tổ hợp từ, các thành ngữ và các câu" [148,tr.336]. Do

đó, đơn vị định danh không chỉ là từ mà còn có cụm từ (ngữ), câu, tuy nhiên đối

tượng định danh của các đơn vị này là khác nhau. Nếu chức năng cơ bản của từ

là định danh và từ dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng, trạng thái, quá trình, tính

chất, thì chức năng định danh của câu lại luôn luôn tồn tại ở dạng tiềm ẩn và câu

dùng để định danh cảnh huống. Kolshansky cho rằng: "Định danh (nomination)

là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu niệm (significat) phản ánh

những đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) - các thuộc tính, phẩm chất

và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần,

nhờ đó, các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn

từ". [dẫn theo 113,tr.161-162].

24

Như vậy, định danh là một trong những chức năng của các đơn vị từ ngữ của

ngôn ngữ. Hiểu một cách đơn giản nhất thì đây chính là chức năng gọi tên: gọi

tên những đối tượng, thuộc tính hoặc những hành động… Yêu cầu của một tên

gọi là: 1. Phải khái quát, trừu tượng, phải mất khả năng gợi đến những đặc điểm,

những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì nó là sản phẩm của tư duy trừu

tượng. Về mặt ngữ nghĩa, nó phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn cảm

tính. 2. Các tên gọi có tác dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong

cùng một loại hay phân biệt các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Sự phân biệt

này phải dứt khoát, có nghĩa là khi đã có tên gọi thì sự vật này, loại nhỏ này

cũng trở thành độc lập với nhau, riêng rẽ với nhau. Nhờ có tên gọi mà sự vật có

đời sống độc lập trong tư duy. [34, tr.190].

Tất cả các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ đều có chức năng biểu nghĩa nhưng

phải là một đơn vị cấp độ từ mới có thể định danh. Nhưng cũng chỉ có các thực

từ mới có chức năng định danh, còn các thán từ, liên từ, giới từ… không có chức

năng này. [8, tr.59]. Các tác giả công trình Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ

học cho rằng: Định danh là sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng dùng

để gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình

thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và

câu. [136, tr.65].

Như vậy, đối tượng của lí thuyết định danh là nghiên cứu, miêu tả những quy

luật về cách cấu tạo các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ, về sự tác động qua lại

giữa tư duy - ngôn ngữ - hiện thực khách quan. Cơ sở của sự định danh xuất phát

từ mối quan hệ giữa hiện thực - khái niệm - tên gọi. Lí thuyết định danh phải

nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác định những tiêu

chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh này với đơn vị

định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là cái biểu vật của

tên gọi, nghĩa là như toàn bộ các thuộc tính được chia tách ra trong các hành vi

định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó biểu thị. Còn tên gọi được nhận

25

thức như là một dãy âm thanh được phân đoạn ứng với một cấu trúc cụ thể của

ngôn ngữ đó. Chính mối tương quan giữa cái biểu vật và cái biểu nghĩa và xu

hướng của mối quan hệ này trong những hành vi định danh cụ thể sẽ tạo nên cấu

trúc cơ sở của sự định danh.

1.2.1.3. Đơn vị định danh

Khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh phân biệt các loại

đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa tham gia đơn vị

định danh thì có sự phân biệt:

- Định danh đơn giản (định danh tổng hợp, định danh cơ sở, định danh bậc 1,

định danh trực tiếp): được tạo bởi một đơn vị có nghĩa.

- Định danh phức hợp (định danh phân tích, định danh miêu tả, định danh bậc

2, định danh gián tiếp): được tạo bởi từ hai đơn vị có nghĩa trở lên.

Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa thì có sự phân biệt:

- Định danh gốc (định danh bậc một): được tạo bởi những đơn vị tối giản về

mặt hình thái cấu trúc, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn

vị định danh khác. Hồ Lê gọi đây là định danh phi liên kết hiện thực: “gọi tên

những mẩu nhỏ nhất trong hiện thực mà một cộng đồng ngôn ngữ quan niệm đã

chia cắt ra được và nắm bắt được từ hiện thực” [58, tr.102]. Ví dụ như: lúa, ngô,

khoai, bưởi, cam, nhãn, vải, xoài, chuối, chè,… Ở loại định danh này, mối quan

hệ giữa cái biểu hiện (vỏ âm thanh của từ) và cái được biểu hiện (ý nghĩa của từ)

là võ đoán. Từ là cái tên gọi sinh ra như một quy ước mà mọi người đều phải

tuân theo. Quả vậy, "chúng ta gọi (...) cây lúa là lúa mà không thể giải thích nổi

lí do vì sao gọi thế; có đi ngược lên tới cội nguồn xa của ngôn ngữ thì nói chung

cũng chẳng phát hiện được mối quan hệ một mặt là âm thanh được phát ra, mặt

khác là ý niệm được gợi ra, trong những từ như thế của tiếng Việt, những từ đơn,

thành một tiếng gọn, của tổ tiên chúng ta để lại thế và bây giờ chúng ta cứ thế

dùng" [117, tr.1089].

26

- Định danh phái sinh (định danh bậc hai): là những đơn vị định danh có hình

thái cấu trúc phức tạp hơn đơn vị gốc, mang nghĩa biểu trưng hóa (dưới hình

thức ẩn dụ hay hoán dụ) [43, tr.8]. Hồ Lê gọi là đây là định danh liên kết hiện

thực: “Để phản ánh hiện thực khách quan một cách đầy đủ, không chỉ gọi tên

từng mẩu hiện thực nhỏ nhất mà còn phải gọi tên những tập hợp gồm nhiều mẩu

hiện thực liên kết lại” [58, tr.102]. Ví dụ: lúa nếp, lúa tẻ, lúa nương, ngô lai, ngô

đông, nhãn lồng, cam sành, bưởi đường,...

1.2.1.4. Các nguyên tắc định danh và cơ chế định danh phức hợp

a. Nguyên tắc định danh

Một trong những nguyên tắc cơ bản trong định danh là lựa chọn những đặc

trưng (thuộc tính tiêu biểu) mà người ta thường nói là "đập ngay vào mắt" để gọi

tên. Với nguyên tắc này, những đặc trưng được tri nhận để gọi tên sẽ là dấu hiệu

khu biệt, giúp người nói liên tưởng và hình dung đầu tiên đến sự vật, hiện tượng.

Tuy nhiên, Serebrenikov (1977) cho rằng: "Việc tạo ra từ theo đặc trưng nào đó

chỉ là biện pháp thuần túy kĩ thuật ngôn ngữ. Đặc trưng được chọn chỉ để tạo ra

vỏ ngữ âm của từ. Đặc trưng được chọn để gọi tên hoàn toàn không nói hết bản

chất của đối tượng, không bộc lộ hết tất cả các đặc trưng của nó. Ngoài ra, đặc

trưng được lựa chọn để gọi tên thậm chí có thể là không căn bản, không quan

trọng về mặt thực tiễn” [dẫn theo 114, tr.32 - 33].

V.G. Gak đã đưa ra nguyên tắc định danh đó là gắn quá trình gọi tên với hành

vi phân loại. "Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X nào đó mà trong ngôn

ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra trong đối tượng

này, nó được quy vào khái niệm "A" hoặc "B" mà trong ngôn ngữ đã có cách

biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn

ra sự lắp ráp bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi một cái gì đó

khỏi sự hiểu biết ban đầu của mình, khi thì, ngược lại, bổ sung thêm một cái gì

đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy" [dẫn theo 114, tr.165]. Như vậy, quá trình định

danh một sự vật, tính chất hay quá trình gồm hai bước là quy loại khái niệm của

27

đối tượng được định danh và chọn đặc trưng nào để định danh [dẫn theo 114,

tr.166 - 167]. Việc chọn đặc trưng bản chất hay không bản chất để định danh một

khách thể cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Như vậy, định danh là cách đặt tên

cho một sự vật, hiện tượng. Hành vi định danh bao giờ cũng gắn với hành vi

phân loại. Quá trình định danh một sự vật, một tính chất hay một quá trình đều

gồm hai bước, đó là quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt. Nếu một

trong hai bước này có biến thể thì một vật hay quá trình được định danh sẽ mang

những tên gọi khác nhau. Khi định danh, trong số rất nhiều đặc trưng của một sự

vật, hiện tượng, tính chất hay quá trình, người ta chỉ chọn những đặc trưng tiêu

biểu, phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật. Bên cạnh đó, việc

chọn các đặc trưng để làm cơ sở định danh cho những đối tượng hay khái niệm

thuộc phạm vi đời sống thường nhật có thể có những trường hợp không cần chọn

đặc trưng bản chất, miễn là đặc trưng ấy có khả năng khu biệt giúp cho việc nhận

diện đối tượng hay khái niệm cần định danh.

Hiện thực thường được gọi tên theo cách tri nhận của con người. Sự gọi tên

này tạo ra các từ, các ngữ cố định, thành một hệ thống từ vựng. Định danh ở cấp

độ từ vựng rất quan trọng với con người: “Với khả năng đặt tên sự vật, con

người hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại cảm tính và cả

trong tồn tại lí tính của nó” [8, tr.194]. Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Nguyên tắc

tạo thành các tên gọi là nguyên tắc lí do nhưng nguyên tắc chi phối các tên gọi

trong hoạt động bình thường của nó là nguyên tắc không có lí do” [8, tr.166].

Cách định danh còn cho chúng ta thấy được đặc điểm của loại hình ngôn ngữ

đó: “Cấu tạo từ như thế nào, tức định danh hiện thực như thế nào, là một tiêu chí

quan trọng để phân chia các loại hình ngôn ngữ” [8,tr.125]. Thông qua định danh

thấy được dấu ấn về hiện thực khách quan. Ngôn ngữ phản ánh thế giới hiện

thực khách quan và là chiếc cầu nối với hiện thực. Hệ thống từ vựng trong ngôn

ngữ càng phong phú chứng tỏ con người nhận thức về thế giới càng sâu sắc.

28

Như vậy, dựa trên nguyên tắc định danh, khi có một đối tượng cần định danh,

người ta sẽ tiến hành các thao tác sau:

- Quy loại đối tượng mới vào nhóm đối tượng nào đó đã có tên trong ngôn ngữ;

- Vạch ra những đặc trưng vốn có của đối tượng mới rồi chọn một đặc trưng

được coi là tiêu biểu mang tính khu biệt của đối tượng mới với đối tượng khác;

- Sử dụng biện pháp cấu tạo từ theo loại hình ngôn ngữ làm phương tiện

định danh.

Định danh có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Định danh

thể hiện rõ quá trình nhận thức của con người về thế giới, vì "chỉ có con người

mới đặt tên được cho sự vật. Với khả năng đặt tên cho sự vật, con người mới

hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại cảm tính, cả trong

tồn tại lí tính của nó" [8, tr.169].

b. Cơ chế định danh phức hợp

Quá trình cấu tạo nên các đơn vị định danh phức hợp có cơ chế nhất định.

Theo Hoàng Văn Hành, muốn xác định rõ cơ chế định danh cần phải làm rõ hai

vấn đề cốt yếu là: a) Có những yếu tố nào tham gia vào cơ chế này và tư cách

của mỗi yếu tố ra sao? b) Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó như thế nào

mà khiến ta có thể coi đó là một cơ chế? [40, tr.26].

Sự phân tích cứ liệu trong các ngôn ngữ đơn lập (tiếng Việt là tiêu biểu) cho phép

nhận định rằng để có một cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh phức hợp có thể vận

hành được một cách có hiệu quả thì cần có một số điều kiện. Một là, có một hệ những

đơn vị làm yếu tố gốc (nguyên tố). Hai là, có một hệ những yếu tố có giá trị hình thái

nghĩa là có thể dùng làm phương tiện để tạo lập những đơn vị định danh phức hợp.

Ba là, để có đơn vị định danh phức hợp, điều cốt yếu là có một hệ quy tắc vận hành

để sử dụng các hình tố làm phương tiện mà tác động vào nguyên tố theo một cách

nhất định. Cơ chế vừa nêu thuộc về hệ thống của ngôn ngữ. Nó có tính chất tiềm

năng, xét về mặt lí thuyết. Những sản phẩm của cơ chế này trở thành đơn vị định

danh được ghi nhận vào vốn từ vựng của ngôn ngữ hay không còn phụ thuộc vào

29

nhân tố thứ tư nữa, một nhân tố không kém phần quan trọng, nhân tố xã hội. Đó

chính là tính đắc dụng hay không đắc dụng của các đơn vị định danh mới được sản

sinh đối với cộng đồng bản ngữ. [40, tr.26 - 28].

Theo cách hiểu như trên, để tạo ra một đơn vị định danh phức hợp, chúng ta

có hai con đường: ngữ nghĩa và hình thái cú pháp.

Bằng con đường ngữ nghĩa, ta có thể nhân khả năng định danh của đơn vị

tổng hợp lên nhiều lần. Một từ cùng với một vỏ ngữ âm phát triển ra bao nhiêu

nghĩa sẽ có bấy nhiêu đơn vị định danh. Mỗi một biến thể từ vựng - ngữ nghĩa sẽ

tương ứng với một đơn vị định danh. Ví dụ: chân trong chân tay là đơn vị định

danh gốc (bậc một) nhưng chân trong "có chân trong ban chủ nhiệm hợp tác xã"

lại là đơn vị định danh phức hợp được tạo ra bằng con đường ngữ nghĩa.

Theo con đường hình thái cú pháp, người ta có thể tạo ra hàng loạt các đơn vị

định danh phức hợp với các đặc trưng khác nhau về cấu trúc và ngữ nghĩa. Theo

cách này thường có hai quá trình:

- Thứ nhất là quá trình tạo từ với các phương thức thường gặp là: Phương

thức suy phỏng: kiểu như bóp - móp, dìm - chìm…; Phương thức láy: kiểu như

bé - be bé, nhỏ - nho nhỏ, mảnh - mảnh mai…; Phương thức ghép: trong phương

thức này có hai cách: ghép đẳng lập (hội nghĩa, hợp nghĩa) (như: khoai sắn, ngô

lúa, gieo trồng, thu hái…) và ghép chính phụ (phân nghĩa, phụ nghĩa) (như: đậu

đen, cam đường, nhãn nước, mít dai,…).

- Quá trình thứ hai để tạo các đơn vị định danh phức hợp bằng con đường cú

pháp là quá trình từ vựng hóa những tổ hợp. Đó là quá trình chuyển hóa những

tổ hợp thành những đơn vị mang thành ngữ tính. Tính thành ngữ của các đơn vị

này biểu hiện ở tính bền vững về mặt hình thái cấu trúc và tính bóng bẩy về mặt

ngữ nghĩa với những mức độ khác nhau. Có hai loại tổ hợp thường được từ vựng

hóa: tổ hợp tự do và tổ hợp cố định. [40, tr.28- 29].

Định danh phức hợp theo con đường hình thái cú pháp bằng phương thức ghép

chính phụ (phụ nghĩa) (dù là tạo từ hay từ vựng hóa tổ hợp tự do) cũng chính là

30

gắn việc khu biệt tên gọi với việc phân loại. Quá trình này gồm hai bước: quy loại

khái niệm của đối tượng được định danh và lựa chọn đặc trưng để định danh. [40,

tr.30-43].

1.2.2. Một số cơ sở lí thuyết về từ và ngữ

1.2.2.1. Quan niệm về từ

Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ, từ luôn

được hiểu như một loại đơn vị cơ bản và chủ yếu trong hệ thống từ vựng nói

riêng và trong hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung. Tuy thế, từ vẫn không phải

là một đơn vị cụ thể mà nó là một loại đơn vị trừu tượng thuộc bình diện hệ

thống của ngôn ngữ. Trong lịch sử ngôn ngữ học đã có nhiều quan niệm khác

nhau về từ, xét cả ở bình diện lí luận đại cương lẫn miêu tả cụ thể. Tuy nhiên, do

chỗ mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ góc độ và mục đích nghiên cứu riêng của

mình, cho nên, đến nay các nhà nghiên cứu vẫn không thể đi đến một quan niệm,

một cách hiểu chung về từ. Nói chung, không có định nghĩa nào về từ làm mọi

người thoả mãn. Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Tuy cùng là

một loại thực thể ở trong một ngôn ngữ xác định, song người nghiên cứu lại có thể

xem xét từ từ nhiều góc độ khác nhau: từ góc độ ngữ âm, chính tả; từ góc độ ngữ

pháp; từ góc độ ngữ nghĩa; từ góc độ lô gich; từ góc độ từ điển học. Mỗi góc độ như

vậy từ được xem xét khác nhau. Song, nếu nhìn nhận một cách tổng quát có thể

thấy rằng phần lớn các nhà Việt ngữ học [11, 41, 56, 58, 96] đều cho rằng để nhận

diện từ, nhất thiết phải dựa vào ba tiêu chí: "a. Tính nhất thể về ngữ âm; b. Tính

hoàn chỉnh về ngữ nghĩa; c. Tính độc lập về cú pháp (khi hoạt động trong lời nói"

[41, tr.22]. Đỗ Hữu Châu đã xác định: "Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm

tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc

kiểu cấu tạo) cấu tạo nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định,

lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu" [11, tr.139].

1.2.2.2. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt

31

Muốn tạo ra các từ phải có các yếu tố cấu tạo từ và các phương thức cấu tạo từ.

Phương thức cấu tạo từ là những cơ chế, những quá trình xử lí các nguyên liệu hình

vị để cho ra các từ của ngôn ngữ. Mỗi cơ chế hay mỗi phương thức cấu tạo đòi hỏi

những nguyên liệu - hình vị thích hợp để tạo thành từ. "Mỗi phương thức cấu tạo có

cách xử lí riêng các hình vị nguyên liệu, cho nên các từ được cấu tạo nên do mỗi

phương thức nào đấy sẽ có những đặc trưng đồng nhất, phân biệt với những từ sản

sinh theo phương thức khác" [11, tr.84]. Để tìm hiểu cấu trúc của từ và các phương

thức cấu tạo từ tiếng Việt, luận án sử dụng "cách tiếp cận động được diễn đạt theo

mô thức "yếu tố - cơ chế" [tr.11] mà các tác giả công trình [41] đã lựa chọn.

a. Đơn vị cấu tạo từ

Luận án chấp nhận quan niệm của Đỗ Hữu Châu về đơn vị cấu tạo từ trong

tiếng Việt: "các yếu tố cấu tạo từ tiếng Việt hay hình vị là những hình thức ngữ

âm cố định, bất biến, nhỏ nhất (hay tối giản) với dạng chuẩn tối thiểu là một âm

tiết, tự thân có nghĩa (nghĩa miêu tả hay nghĩa tương liên) có thể chịu tác động

của các phương thức tạo từ để tạo ra từ" [11, tr.154]. Tác giả đã lấy chức năng

ngữ nghĩa làm nguyên tắc để phân loại hình vị tiếng Việt. Theo đó, bước đầu

tiên hình vị được phân thành hình vị "sơ cấp" và hình vị "thứ cấp". "Hình vị sơ

cấp là những hình vị bình thường, tồn tại riêng rẽ, độc lập đối với nhau và là

những "nguyên liệu" đi vào các phương thức cấu tạo từ. Hình vị thứ cấp là

những hình vị được tạo ra từ các hình vị sơ cấp, là hình vị sơ cấp đã biến đổi

nhiều hay ít cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa" [11, tr.155]. "Hình vị sơ cấp có thể

một âm tiết mà cũng có thể nhiều âm tiết lại có thể phân chia thành hình vị tự do

và hình vị hạn chế, hay phân loại thành hình vị thực và hình vị hư" [tr.155].

Đồng quan điểm với Đỗ Hữu Châu, các tác giả công trình Từ tiếng Việt: Hình

thái - Cấu trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại [41] khẳng định rằng: "Khi lấy

ngữ nghĩa làm tiêu chí phân loại hình vị, các nhà nghiên cứu chú ý đến tính chất

nghĩa của hình vị. Dựa vào đó, hầu hết các nghà nghiên cứu Việt ngữ học đều

32

cho rằng tiếng Việt có ba loại hình vị. Đó là hình vị thực, hình vị hư và hình vị

hệ thống" [41, tr.34].

b. Phân loại từ tiếng Việt về mặt cấu tạo

Xem xét vấn đề cấu tạo từ trên quan điểm đồng đại, các tác giả công trình Từ

tiếng Việt: Hình thái - Cấu trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại đã khẳng định

"cấu tạo từ là một cơ chế" hoạt động trong điều kiện: "Cần có một hệ những đơn

vị làm thành tố của từ là các hình vị. (...) Cần có một hệ những yếu tố có giá trị

hình thái (gọi là hình tố) là những yếu tố thuần túy hình thức dùng làm phương

tiện để kết nối các thành tố trong quá trình tạo lập từ. (...) Cần có một hệ quy tắc

cấu tạo từ chính là sự vận dụng các hình tố tác động vào các hình vị theo những

cách khác nhau để tạo nên những kiểu từ khác nhau" [41, tr.54 - 55]. Hệ quả cuối

cùng của cơ trình cấu tạo từ là các từ được hình thành theo những mô thức nhất

định, ứng với những kiểu nghĩa nhất định.

Luận án chấp nhận quan niệm của các tác giả này, coi cấu tạo từ là một cơ chế

và nguyên tắc phân loại từ về mặt cấu tạo mà Đỗ Hữu Châu sử dụng là nguyên

tắc ngữ nghĩa. Theo đó, "sự phân loại các từ tiếng Việt, xét về mặt cấu tạo, phải

tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện ra cơ chế ngữ nghĩa thống nhất trong

những từ cùng thuộc một kiểu loại" [11, tr.169]. Việc phân loại từ, theo Đỗ Hữu

Châu, được thực hiện theo ba bước.

- Bước thứ nhất, các từ sẽ được phân chia theo số lượng các hình vị tạo nên

chúng. Kết quả ở bước này sẽ cho các từ đơn và các từ phức. "Từ đơn là những

từ được cấu tạo theo phương thức từ hóa, là những từ chỉ có một hình vị" [11,

tr.169]. Ví dụ: bưởi, cam, quýt, vải, nhãn, chuối, ngô, khoai, sắn, lúa... (từ đơn

được cấu tạo từ một hình vị). "Từ đơn có thể là một âm tiết, cũng có thể nhiều

âm tiết" [11, tr.170]. Những từ đơn nhiều âm tiết có thể gốc Việt, như chôm

chôm, đu đủ,... gốc các ngôn ngữ ít người sống trên đất Việt Nam như mắc

cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu buộp,... gốc vay mượn các

thứ tiếng nước ngoài như cà phê, cao su, ca cao, mắc ca, ki uy, măng cụt,... Về

33

ngữ nghĩa, các từ đơn không lập thành hệ thống ngữ nghĩa của những kiểu cấu

tạo từ. Phần lớn chúng đều có khả năng trở thành hình vị để tạo ra hàng loạt

những từ phức dước tác động của các phương thức ghép và láy. "Từ phức là

những từ do hơn một hình vị tạo nên theo các phương thức phức hóa trong

tiếng Việt" [11, tr.169].

- Bước thứ hai, các từ phức sẽ được phân chia theo phương thức đã tạo nên

chúng. Ở bước này sẽ có các từ láy và các từ ghép.

- Bước thứ ba, lần lượt các từ láy và từ ghép được phân chia thành những kiểu

nhỏ hơn tùy theo sự đồng nhất về kiểu loại hình thức và cơ chế nghĩa chung cho

những từ trong cùng kiểu nhỏ đó.

Để phân loại từ ghép, theo Đỗ Hữu Châu, "cần sử dụng đồng thời các tiêu

chuẩn: ý nghĩa chung của đơn vị đang xét trong tương quan với ý nghĩa của cả

một kiểu nhỏ hoặc lớn; tính chất ngữ nghĩa và quan hệ (chủ yếu là quan hệ ngữ

nghĩa) của các hình vị trong từ và trong một kiểu" [11, tr.198]. Ông phân chia từ

ghép tiếng Việt thành hai loại:

a. Từ ghép phân nghĩa: Đó là "những từ ghép có một ý nghĩa chung (...) là

một loại hay nhiều loại sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất" [11, tr.198].

Các từ trong một hệ thống có chung một hình vị chỉ loại lớn. Nếu tách khỏi các

từ ghép, dùng độc lập thì hình vị loại lớn chính là tên gọi của loại đang xét; quan

hệ giữa các hình vị thường là quan hệ chính phụ. Các hình vị thứ hai có tác dụng

phân nghĩa, biệt loại hóa loại lớn thành những loại nhỏ. Một từ ghép phân nghĩa

lại có thể trở thành một hình vị (đơn vị) chỉ loại lớn để tạo ra hàng loạt các từ

ghép phân nghĩa mới. Cơ chế phân nghĩa có thể liên tục tác động vào một từ

ghép phân nghĩa cơ sở cho ra những từ ghép phân nghĩa ở các thế hệ thứ hai, thứ

ba... với hình thức mỗi lúc một dài. Khi hình thức ngữ âm quá dài, quy tắc rút

gọn phát huy tác dụng để cho những từ có hình thức tiện dùng hơn. Hình vị chỉ

loại lớn trong từ ghép phân nghĩa (gọi là thành tố thứ nhất) bao giờ cũng "biểu

thị ý nghĩa phạm trù và giữ vai trò chính, vai trò trung tâm. Còn thành tố thứ hai

34

biểu thị thuộc tính khu biệt của sự vật, quá trình hay tính chất do thành tố thứ

nhất biểu thị" [41, tr.139]. Nếu chỉ xét về mặt cấu trúc, thì thành tố thứ hai giữ

vai trò phụ. Ví dụ, trong các từ ghép phân nghĩa lúa nếp, lúa tẻ, lúa lai, lúa ngoi,

lúa nương, lúa gié, lúa mộ... thì lúa biểu thị ý nghĩa phạm trù "cây lương thực",

còn các thành tố nếp, tẻ, lai, ngoi, nương, gié, mộ biểu thị thuộc tính khu biệt, có

tác dụng biệt loại hóa từng loại lúa cụ thể. Nhưng xem xét từ góc độ ngữ nghĩa thì

thấy vai trò của thành tố thứ hai "không hề phụ" vì hệ quả ngữ nghĩa quan trọng của

nó là sự chuyên biệt hóa về nghĩa, nhờ đó mà nghĩa của toàn từ ghép phân nghĩa mới

được hình thành. Theo phương thức phân nghĩa, các từ ghép phân nghĩa mới sẽ được

tạo ra để gọi tên những sự vật, hiện tượng "loại nhỏ" trong cùng một loại lớn.

b. Từ ghép hợp nghĩa: là "những từ ghép trong đó không có hình vị chỉ loại

lớn, không có sự biệt loại hóa loại lớn thành những loại nhỏ, mà chỉ có sự hợp

nhất nghĩa của các hình vị để cho một ý nghĩa nào đó khác với ý nghĩa của từng

hình vị; giữa các hình vị có quan hệ đẳng lập" [11, tr.200].

1.2.2.3. Quan niệm về ngữ

Từ ghép là đơn vị của ngôn ngữ còn ngữ tự do thuộc đơn vị của lời nói. Trong

hoạt động giao tiếp, từ kết hợp với từ một cách có tổ chức và có ý nghĩa làm thành

những tổ hợp từ, tức là những kiến trúc lớn hơn từ. Mỗi từ trong tổ hợp từ là một

thành tố. Các tổ hợp từ được gọi chung là tổ hợp từ tự do, hay ngữ tự do (cụm từ

tự do). Diệp Quang Ban cho rằng: "Ngữ là những kiến trúc gồm hai từ trở lên kết

hợp tự do với nhau theo những quan hệ ngữ pháp hiển hiện nhất định và không

chứa kết từ ở đầu (để chỉ chức vụ ngữ pháp của kiến trúc này)" [2, tr.6]. Theo ông,

quan hệ giữa các thành tố trong tổ hợp từ, ngoài tính chất lỏng (ngữ tự do) và chặt

(ngữ cố định), còn được xét ở kiểu quan hệ. Thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập nên

ranh giới giữa từ ghép và ngữ tự do trong tiếng Việt rất khó xác định. Để phân biệt

từ ghép với ngữ tự do, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cái khác nhau cơ bản và

cũng là tiêu chí để phân biệt từ ghép và ngữ tự do là "từ ghép phải là một chỉnh

thể thống nhất không những về mặt cấu tạo mà còn cả về mặt nội dung nữa" [58,

35

tr.83]. Hồ Lê cho rằng "tính vững chắc về cấu tạo phản ánh một đặc trưng cơ bản

của từ ghép" [58, tr. 82]. Các tác giả công trình Từ tiếng Việt: Hình thái - Cấu

trúc - Từ láy - Từ ghép - Chuyển loại cho rằng khi xem xét ranh giới giữa từ ghép

và ngữ tự do thì "cả hai tiêu chí ổn định về cấu trúc và hoàn chỉnh về nội dung

luôn luôn gắn bó với nhau, xoắn quyện với nhau khó mà tách rời được, trong đó

tiêu chí nội dung nổi lên hàng đầu, mang tính quyết định" [41, tr.127]. Các tác giả

khẳng định "nghĩa là tiêu chí số một để xem xét mối quan hệ giữa từ ghép và tổ

hợp tự do" [41, tr.127]. Đỗ Hữu Châu cũng cho rằng: "Ý nghĩa của ngữ là do ý

nghĩa của các từ trong đó tạo nên. Cho nên, tìm hiểu kết cấu ngữ nghĩa của các

ngữ tự do là tìm hiểu sự tổ hợp ý nghĩa các từ trong ngữ" [11, tr.220]. Muốn nắm

được ý nghĩa của ngữ, không thể không nắm ý nghĩa của các từ phụ và quan hệ

giữa chúng với từ chính, trung tâm. Như vậy, ngữ là những tổ hợp có hai tiêu

chuẩn: hình thức không chặt chẽ và có ý nghĩa của cụm từ.

Cụm từ là phương tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm

chất, ý nghĩa ngữ pháp của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các

thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng. Ngữ tự do

bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ tự

do đó; mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh

hoạt và có sức sản sinh.

1.2.3. Một số vấn đề về nghĩa của từ

1.2.3.1. Khái niệm về nghĩa của từ

Nghĩa là một khái niệm trung tâm của ngôn ngữ học, dù muốn hay không,

trường phái ngôn ngữ học nào cũng phải đề cập đến vấn đề nghĩa. Do đó, trong

ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đã có rất nhiều quan

niệm khác nhau về nghĩa được đề xuất và phát triển. Chẳng hạn:

- Cho nghĩa của từ là sự vật, hiên tượng mà từ gọi tên;

- Cho nghĩa của từ là khái niệm hay biểu tượng về sự vật, hiện tượng mà

từ gọi tên;

36

- Cho nghĩa của từ là quan hệ được tạo bởi hình thức ngữ âm của từ với khái

niệm, biểu tượng về sự vật do từ gợi ra trong nhận thức của con người sử dụng

ngôn ngữ.

- Chủ nghĩa cấu trúc hiện đại và Trường phái phân bố, miêu tả Mỹ quan niệm

nghĩa của từ được tạo bởi các quan hệ đồng nhất và đối lập giữa các từ trong hệ

thống ngôn ngữ. Theo đó, sở dĩ từ này có nghĩa như thế này vì nó đồng nhất và

đối lập với một từ khác trong hệ thống;

- Khuynh hướng chức năng luận cho nghĩa của từ được tạo bởi chức năng mà

từ đó biểu thị. Từ trong hệ thống ngôn ngữ có nhiều chức năng khác nhau như:

chức năng gọi tên, chức năng miêu tả, chức năng tác động, chức năng thẩm mĩ,...

Xuất phát từ các chức năng đó mà các từ có nghĩa khác nhau.

Tuy nhiên, nhìn ở mức độ tổng quan, có thể đề cập đến hai khuynh hướng

quan niệm về nghĩa của từ từ các quan miện trên đây:

a. Khuynh hướng thứ nhất coi nghĩa của từ như một thực thể. Theo khuynh

hướng này, nghĩa của từ có thể được xem như là chỉ vật (referent), tồn tại ngoài

hiện thực khách quan. Nghĩa của từ cũng có thể được xem như là một thực thể

tinh thần, tồn tại trong trí não của con người.

b. Khuynh hướng thứ hai coi nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ

của từ với sự vật, hiện tượng, khái niệm hoặc chức năng,...). Theo đó, nghĩa

chính là mối quan hệ theo nhiều chiều kích khác nhau: có thể là quan hệ giữa tín

hiệu ngôn ngữ với sự vật, hiện tượng ngoài hiện thực khách quan, có thể là mối

quan hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ với người sử dụng ngôn ngữ, có thể là mối quan

hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ với các hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ,...

Luận án này coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại

trong trí óc của người bản ngữ, chứ không phải là một lớp thực thể cụ thể tồn tại

ngoài thực tế khách quan. Quan niệm nghĩa với tư cách là một thực thể tinh thần

là một quan niệm đã từng tồn tại trong quan niệm của ngữ nghĩa học cấu trúc,

ngày nay "ngữ nghĩa học thời hậu cấu trúc đã có nhiều vận dụng và thành tựu

37

đáng ghi nhận" [104, tr.189]. Quan niệm này cũng được nhiều nhà Việt ngữ học

đồng tình và phát triển, như Đỗ Hữu Châu, Lê Quang Thiêm, Đỗ Việt Hùng

[xem 12, 47, 104]. Theo quan niệm này, nghĩa được xem như là những nội dung

tinh thần mà con người khi nhận thức, phản ánh thực tế khách quan đã cố định

hóa vào trong tín hiệu ngôn ngữ. Vì vậy, nghĩa vừa là công cụ, điểm xuất phát

của quá trình nhận thức thế giới của con người, vừa là kết quả đầu ra, điểm đến

của quá trình nhận thức của con người bằng tín hiệu ngôn ngữ. Nghĩa từ chính là

nội dung tinh thần trừu tượng có trong từ. Nghĩa từ tồn tại với tư cách là một

thực thể trong hệ thống từ vựng, vừa với tư cách là một thực thể phụ thuộc vào

ngữ cảnh mà nó xuất hiện, phụ thuộc vào ý định chủ quan của chủ thể bản ngữ.

Trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu khi nghiên cứu chức năng tín

hiệu học của từ, đã cho rằng: “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần”. Theo ông,

nghĩa của từ gồm 4 thành phần tương ứng với 4 chức năng quan trọng mà từ đảm

nhận bao gồm: “a. Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. b. Ý nghĩa biểu

niệm ứng với chức năng biểu niệm. c. Ý nghĩa biểu thái tương ứng với chức

năng biểu thái. Ba thành phần ý nghĩa trên được gọi chung là ý nghĩa từ vựng”

và “d. Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp” [8, tr.97]. Trong sự phân

loại các thành phần nghĩa của từ ở trên, 3 loại ý nghĩa từ vựng a, b và c đã được

ông xác định rất rõ ràng. Theo ông, có thể nói ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh sự

vật, hiện tượng... trong thực tế và ngôn ngữ. Đó là những mẩu, những mảnh,

những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế [11, tr.108].

Hoàng Văn Hành, trong Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá,

cũng đã quan niệm khá rõ về nghĩa của từ “nghĩa của từ không phải chỉ là hệ quả

của quá trình nhận thức, mà còn là hệ quả của những quá trình có tính chất tâm

lý xã hội, có tính chất lịch sử nữa” [42, tr.315].

Trong Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005, Lê Quang

Thiêm quan niệm "nghĩa của từ về bản chất là một thực thể tinh thần được mã

hóa, được kí hiệu hóa trong từ. Nghĩa từ vựng của từ phản ánh, ánh xạ. Nghĩa

38

của từ thuộc thế giới ngôn ngữ, mà ngôn ngữ có thuộc tính dân tộc còn sự vật,

hiện tượng thuộc thế giới hiện thực, có thuộc tính thế giới" [105, tr.61]. Theo

ông, nghĩa của từ là "một tồn tại trong văn hóa tinh thần dân tộc", "được hình

thành nhờ hoạt động chức năng và bản thân các yếu tố trong hệ thống" và "là nội

dung phản ánh, ánh xạ được kí hiệu hóa, mã hóa trong từ, là kết quả của hoạt

động chức năng của từ" [105, tr.61]. Từ đó, ông kết luận: "Nghĩa của từ, cũng

như nghĩa của ngôn ngữ nói chung là một sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm lí của

con người. Nghĩa của từ về bản chất là một thực thể tinh thần. Nó là kết quả của

sự phản ánh, ánh xạ, tri nhận thực tại được tích hợp trong nội dung kí hiệu từ.

(...) Nội dung này là sự kí hiệu hóa, là việc sử dụng kí hiệu trong giao tiếp, tư

duy; đồng thời nó là kết quả của sự biểu trưng hóa, cấu trúc hóa trong vốn từ ngữ

cũng như trong đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc xác định. (...) Nghĩa là thành tố

cấu tạo ngôn ngữ, đồng thời là thành tố của văn hóa tinh thần" [105, tr.27]. Để

khảo sát nghĩa từ vựng, Lê Quang Thiêm cho rằng nhà nghiên cứu có hai con

đường tiếp cận cần phân biệt. "Đó là con đường định danh thuộc danh học và con

đường biểu đạt thuộc nghĩa học. Con đường định danh là con đường đặt tên, gọi

tên. Còn con đường biểu đạt là con đường tháo gỡ nội dung được biểu đạt, phân

tích, đào sâu vào nội dung nghĩa của đơn vị được nghiên cứu. (...) Trong đường

hướng danh học, chủ thể ngôn ngữ có ý tưởng, có sự vật, hiện tượng cần đặt tên,

nên tạo ra từ ngữ để gọi tên chúng (...) bằng cách chọn chất liệu âm thanh, chất

liệu cấu tạo từ, phương thức cấu tạo để tạo ra từ, ngữ tương ứng thay thế cho sự

vật, hiện tượng, ý tưởng đã có. (...) Đường hướng nghĩa học bắt đầu từ các từ ngữ,

các kí hiệu đã định hình, tồn tại, hoạt động trong ngôn ngữ hoặc không còn hoạt

động mà cần tìm ra nội dung được biểu đạt của nó" [105, tr.62 - 63].

1.2.3.2. Cấu trúc nghĩa của từ, nghĩa vị và nét nghĩa

Nghĩa là một thực thể tinh thần nên nhu cầu tìm hiểu nghĩa, phân tích nghĩa,

định nghĩa nghĩa, giải thích nghĩa là một nhu cầu tất yếu, thường trực, liên tục của

nhà ngôn ngữ học, đặc biệt là những nhà ngữ nghĩa học từ vựng. U.Weinreich, nhà

39

ngôn ngữ học Mỹ, cho rằng: “Mong muốn phân tích một nghĩa tổng quát ra những

thành tố và xác lập một cấp hệ (hệ thống tôn ti cấp bậc) giữa các thành tố luôn luôn

là một trong những động cơ chủ yếu của nghiên cứu ngữ nghĩa” [dẫn theo 81, tr.5

và 82, tr.9]. Ngữ nghĩa học hiện đại đã chứng minh được rằng nghĩa của từ là sự

phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức và được thể hiện ở ngôn ngữ. Sự

phản ánh đó tồn tại trong từ dưới dạng một cơ cấu, do một chùm những thành tố có

quan hệ hữu cơ với nhau, được tổ chức theo một tôn ti nhất định. Từ luận đề chung

này có thể suy ra rằng:

"1. Nghĩa của phần lớn các từ không phải là không phân tích ra được nữa;

2. Nghĩa bao hàm những đơn vị nhỏ hơn gọi là nét nghĩa. Nét nghĩa là đơn vị

cơ bản phản ánh thuộc tính hoặc quan hệ có giá trị khu biệt của hiện tượng, sự

vật trong thế giới khách quan. Nhưng nét nghĩa không phải bao giờ cũng là yếu

tố trực tiếp tạo ra nghĩa từ. Nó thường là yếu tố tạo nên những thành tố trực tiếp

của nghĩa từ;

3. Thành tố nghĩa là đơn vị trung gian giữa nét nghĩa và nghĩa từ, nó do một

hay nhiều nét nghĩa tạo nên.", theo Hoàng Văn Hành (2010). [42, tr. 33].

Vì là một thực thể tinh thần trừu tượng nên nghĩa có trong mình một đặc

trưng quan trọng là tính phi tuyến tính [37, tr.105]. Vì thế mà khi nghiên cứu về

nghĩa người ta thường hình dung nghĩa của ngôn ngữ nói chung, nghĩa của từ nói

riêng với tư cách là một cấu trúc. Vì thế, khi miêu tả, phân tích và giải thích

nghĩa, người ta thường hình dung và cố định nghĩa từ như là một cấu trúc trong

đó có những thành tố nghĩa lớn nhỏ khác nhau và những thành tố nghĩa lớn nhỏ

khác nhau này được sắp xếp theo những tôn ti xác định. Những thành tố lớn nhỏ

khác nhau này chính là các nghĩa vị (sememe) và các nét nghĩa (semantic

feature). Trong nhiều tài liệu Việt ngữ học hiện nay, một số nhà nghiên cứu đã

dùng cả thuật ngữ nét nghĩa và nghĩa vị để chỉ cùng một thực thể ngữ nghĩa là

"semantic feature"... Trong giới Việt ngữ học, việc phân tích nghĩa từ vựng của

từ ra thành nét nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu, Hoàng

40

Phê, Hoàng Văn Hành, Lê Quang Thiêm,...vận dụng vào phân tích ngữ liệu tiếng

Việt trong các công trình nghiên cứu của mình và đã thu được những thành tựu

khả quan. Sự phân tích này đã được nhóm tác giả biên soạn Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê chủ biên) vận dụng thành công trong việc phân tích và miêu tả nghĩa

từ vựng của từ trong từ điển. Trong đó, phải kể đến hai nhà ngôn ngữ học Hoàng

Phê và Đỗ Hữu Châu là những tác giả có nhiều đóng góp đáng kể với những

nghiên cứu này. Trong luận án này chúng tôi kế thừa sự phân biệt của Lê Quang

Thiêm. Về đặc điểm nghĩa của từ, trong Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt -

Từ 1945 đến 2005, Lê Quang Thiêm cho rằng nghĩa (meaning) là một tồn tại

nhưng không phải là tồn tại đơn nhất. Nghĩa có thể chia ra thành các bộ phận

hợp thành, nghĩa có thể biến đổi phát triển. Bộ phận, thành tố hợp thành nên

nghĩa là các nét nghĩa của từ, nét nghĩa là yếu tố nhỏ nhất không chia cắt được

nữa. [105, tr.68 - 69].

Theo cách hiểu như vậy, luận án quan niệm nét nghĩa là một bộ phận của

nghĩa vị. Nét nghĩa là thành tố nghĩa nhỏ nhất không thể chia cắt được nữa, nó

giống như nét khu biệt của âm vị học. Nghĩa vị (thường được gọi tắt là nghĩa)

chính là những "nghĩa được thừa nhận cương vị" [105, tr.70] trong hệ thống ngữ

nghĩa của ngôn ngữ. Tập hợp các nghĩa vị (các nghĩa khác nhau của từ) được gọi

là ý nghĩa (meaning) của từ.

Cấu trúc nghĩa của từ sẽ được hình dung và cố định hóa qua hai cấp: cấp thứ

nhất là tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị (hay nghĩa cụ thể của từ); cấp

thứ hai là tập hợp các nghĩa vị (hay các nghĩa cụ thể đối với từ đa nghĩa) để tạo

thành ý nghĩa của từ. Ý nghĩa của từ trong các từ điển ngữ văn thường được hình

dung và trình bày theo những cấu trúc như vậy.

Như vậy, ý nghĩa của từ tạo thành một cấu trúc, bao gồm một hoặc một số nghĩa

vị được kết hợp với nhau theo quy tắc nhất định, chi phối và quy định lẫn nhau. Dựa

theo luận điểm này, trong bài Phân tích ngữ nghĩa, khi phân tích nghĩa của các từ

mẹ, cha, vợ, chồng, Hoàng Phê đã kết luận: “Nghĩa của từ nói chung:

a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau.

41

b. Giá trị các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp

bậc) biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng

thông báo.

c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối” [81, tr.10 - 26 ].

Theo đó, muốn xác định thành tố nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa từ vựng của từ

cần phân tích nghĩa từ thành nét nghĩa.

Tương tự, Đỗ Hữu Châu sau khi phân tích nghĩa của một số từ thành nét

nghĩa như các danh từ: bàn, búa, chân,..., các động từ: đứng, nói, đi, cắt, phấn

khởi, chán ngán,... cũng đã khẳng định: “Tập hợp một số nét nghĩa thành nghĩa

biểu niệm là một tập hợp có quy tắc”, “Chúng ta thấy có những nét nghĩa chung

cho nhiều từ và những nét nghĩa cho riêng từng từ”. [12, tr.107-108].

Luận án chọn nguồn ngữ liệu là các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt trong Từ điển tiếng Việt [125] (Hoàng Phê chủ biên) để phân tích

thành các nét nghĩa và xác định số lượng các dấu hiệu cần yếu khi định nghĩa tên

gọi cây nông nghiệp tiếng Việt.

1.2.4. Một số vấn đề từ điển học

1.2.4.1. Khái niệm về từ điển

Theo quan niệm phổ biến, "Từ điển: sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn

ngữ (thường là đơn vị từ vựng) và sắp xếp theo một thứ tự nhất định, cung cấp

một số kiến thức đối với từng đơn vị" [125, tr.1371]. Định nghĩa này tương đối

cô đọng, được thống nhất trong nhiều tài liệu của các tác giả khác nhau, tuy có

thể diễn đạt bằng ngôn từ có điểm khác hoặc diễn giải tỉ mỉ hơn. Trong cuốn

Giáo trình từ điển học, L. Zgusta đã dẫn ra định nghĩa về thuật ngữ "từ điển"

của C.C. Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất: "Một cuốn

từ điển là một danh mục được sắp xếp có hệ thống của các hình thức ngôn ngữ

đã được xã hội hóa, thu nhận từ những thói quen nói năng của một cộng đồng

ngôn ngữ nhất định và được người biên soạn chú giải sao cho người đọc có một

42

trình độ nhất định hiểu được ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và

biết được những điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ

ấy" [138, tr.245].

1.2.4.2. Cấu trúc của từ điển ngôn ngữ

Trong từ điển học, thuật ngữ cấu trúc vĩ mô (macrostructure) và cấu trúc vi

mô (microctructure) được nhà từ điển học Pháp J. Rey-Debove sử dụng lần đầu

trong tác phẩm Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng tiếng Pháp về ngôn ngữ học và

kí hiệu học [87]. Do đặc điểm của mình, mỗi quyển từ điển là một văn bản có

cấu trúc đôi: cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô.

a. Cấu trúc vĩ mô (macrostructure)

Cấu trúc vĩ mô của từ điển ngôn ngữ thường được hiểu là một hệ thống bảng

mục từ, trong đó mỗi mục từ là những chuỗi thông tin được sắp xếp theo một trật

tự nhất định về một hoặc một vài ngôn ngữ được miêu tả. Đây là quan niệm

được nhiều nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển chấp nhận. "Cấu trúc vĩ mô là

cấu trúc bao gồm toàn thể các mục từ được sắp xếp trong từ điển theo một trật tự

xác định, có quan hệ dọc (xuyên suốt cuốn từ điển); còn có thể gọi là cấu trúc

tổng thể hay cấu trúc bảng từ" [124]. "Việc quyết định các kiểu mục từ sẽ được

nhập vào trong cuốn từ điển và cách thức tổ chức viết danh sách đầu mục từ là

giải quyết vấn đề cấu trúc vĩ mô" [124]. Mỗi loại từ điển có những nhiệm vụ và

chức năng khác nhau, do đó cấu trúc vĩ mô của chúng có phần giống nhau và

phần khác nhau. Phần giống nhau là tính hệ thống trong bảng từ và sự hiện diện

của những từ cơ bản tiêu biểu cho các lớp từ vựng được lựa chọn làm đối tượng

miêu tả. Phần khác nhau do mục tiêu, nhiệm vụ và kích cỡ từ điển quy định,

phản ánh ở số lượng các mục từ và tỉ lệ tương quan giữa chúng.

b. Cấu trúc vi mô (microstructure)

Cấu trúc vi mô là "cấu trúc toàn bộ những thông tin/tri thức được trình bày

một cách hệ thống trong mỗi mục từ; có thể gọi là cấu trúc mục từ" [107, tr.76-

43

77]. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin nhất định và thông tin

này được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó.

c. Các loại thông tin trong cấu trúc vi mô

Trong từ điển giải thích, các yếu tố của cấu trúc vi mô gồm đầu mục từ và

các thông tin mọi mặt của từ đầu mục, các thông tin này tạo thành một tập hợp

đẳng nghĩa với đầu mục. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin,

được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô có

chức năng riêng và có vị trí tương đối ổn định. Theo chức năng, "thông tin về

đầu mục có những loại sau: a. Thông tin về ngữ âm; b. Thông tin về chính tả; c.

Thông tin về từ vựng; d. Thông tin về ngữ pháp; e. Thông tin về ngữ nghĩa; h.

Thông tin về ngữ dụng; i. Thông tin về từ nguyên; k. Thông tin về mối quan hệ

hệ thống của ngôn ngữ như đồng nghĩa, trái nghĩa; l. Thông tin về tần số sử

dụng;..." [107, tr.82]. Các yếu tố trong cấu trúc vi mô có thể phân loại thành: "a.

Các yếu tố mang thông tin về kí hiệu gồm các yếu tố mang thông tin ngữ âm,

chính tả, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng. (...) Các yếu tố mang thông tin về nội

dung - là bộ phận chính cấu thành lời giải thích của các từ (trong từ điển giải

thích" [103, tr.86 - 89]. Như vậy, trong từ điển giải thích, thông tin ngữ nghĩa là

quan trọng nhất, thể hiện bằng các lời giải thích (định nghĩa) của các từ. Thông

thường, trong từ điển ngôn ngữ người ta chỉ cung cấp các thông tin ngôn ngữ.

Đó là "những thông tin được đưa ra trong mục từ của từ điển, có thể thuộc các

loại thông tin lịch đại - từ nguyên, thông tin chính tả - cách viết, thông tin âm vị

học - cách phát âm, thông tin ngữ pháp - từ loại, thông tin ngữ nghĩa - định nghĩa

hay từ tương đương, thông tin ngữ dụng - cách dùng. Những thông tin này có thể

được bổ trợ bằng các phương tiện khác như tranh ảnh, tên riêng, thông tin bách

khoa... được đưa ra ngay trong mục từ hay bên ngoài mục từ" [62, tr.2].

Thông tin bách khoa (encyclopedic information) là "loại thông tin được đưa

ra trong công trình tra cứu, dựa trên tri thức mang tính dữ kiện (factual) (...) liên

quan chặt chẽ với việc miêu tả thực tế khách quan, chứ không liên quan đến mặt

44

ngôn ngữ của từ đầu mục" [62, tr.2]. Tuy nhiên, một số từ điển phổ thông cố

gắng đưa ra cả hai loại thông tin ngôn ngữ và thông tin bách khoa trong một mục

từ. Đồng thời, nhiều từ điển phổ thông lại chứa các mục từ bách khoa.

1.2.4.3.Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích

Định nghĩa là thành phần hạt nhân trong số các thông tin của cấu trúc vi mô

trong một cuốn từ điển giải thích. Giải thích từ ngữ trong từ điển là công việc

quan trọng nhất, khó khăn nhất và thường bị phê phán nhiều nhất.

Mục từ gồm có hai phần: phần thứ nhất (thường gọi là phần đề), chính cái

đơn vị từ vựng được chỉ ra ở đây; phần thứ hai (gọi là phần thuyết), chứa tất cả

những thông tin khác. Bộ phận quan trọng nhất của phần đề là từ đầu mục. Đó là

từng đơn vị từ vựng ở hình thức chính tắc của nó. Các chỉ dẫn khác của phần đề

thông báo cho người dùng được biết về lớp từ pháp (từ loại), lớp kết hợp mà từ

đầu mục ấy (tức là đơn vị từ vựng ấy) là một thành viên. Sau phần đề là phần

chính của mục từ (phần thuyết), có mục đích chính là chỉ ra ý nghĩa của đơn vị

từ vựng trong mọi khía cạnh của nó. Đây chính là lời giải thích ý nghĩa (định

nghĩa) cho từ đầu mục. "Định nghĩa từ điển, ở một mức độ nào đó, có sự chồng

lấp với định nghĩa lô gích, nhưng có một số sự khác nhau rõ rệt. Cái khác nhau

quan trọng nhất là ở chỗ: trong khi định nghĩa lô gích phải nhận diện được một

cách không lập lờ nước đôi cái đối tượng được định nghĩa sao cho nó vừa được

đặt trong sự đối lập dứt khoát với mọi thứ khác có thể định nghĩa được, vừa đặc

trưng được cho nó một cách khẳng định và không lập lờ nước đôi là một thành

viên của cái lớp gần nhất, thì định nghĩa từ điển lại chỉ kể ra những nét ngữ

nghĩa quan trọng nhất của cái đơn vị từ vựng được định nghĩa đủ để khu biệt nó

với các đơn vị khác" [138, tr.312 - 313]. Zgusta cho rằng, định nghĩa thường có

hình thức một nhóm từ hướng tâm, vì các đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ được

định nghĩa bằng chính ngôn ngữ ấy, cho nên định nghĩa thường phải chú ý đến

tình trạng ngữ pháp của đơn vị từ vựng được định nghĩa: danh từ phải được định

nghĩa bằng một cấu trúc danh ngữ; động từ ngoại động về cơ bản phải được định

45

nghĩa bằng động từ ngoại động khác hoặc bằng cấu trúc tương đương về cú

pháp, tùy theo hệ thống ngôn ngữ được xét đến. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng

tất cả các định nghĩa trong một cuốn từ điển không thể đồng nhất như nhau, vì

còn phải tùy theo ý nghĩa từ vựng của từ đầu mục. Định nghĩa từ điển phải đủ cụ

thể, nhưng đừng quá cụ thể. Theo ông, các định nghĩa quá cụ thể ngả về kiểu

định nghĩa bách khoa. Định nghĩa phải được trừu tượng hóa từ những ngữ cảnh

mà nhà từ điển học có được trong tay.

Khảo sát định nghĩa trong một số cuốn từ điển1, các tác giả của đề tài Một số

vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên

soạn các loại từ điển của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam [126] đã

chỉ ra các phương pháp định nghĩa được sử dụng trong các từ điển giải thích

tiếng Việt:

 Phương pháp định nghĩa bằng phân tích (định nghĩa tự nhiên)

Đặc điểm cơ bản của lời giải thích trong từ điển là cách giải thích tự nhiên –

kiểu giải thích thường gặp trong đời sống. Giải thích tự nhiên là diễn đạt từ ngữ

A bằng từ ngữ B, trong đó B và A phải có cùng nội dung, B phải đồng nghĩa với

A. Giải thích tự nhiên có hai đặc điểm: đây là một hoạt động tự nhiên trong đời

sống xã hội khi có yêu cầu làm cho người khác hiểu mình, bằng cách sử dụng

năng lực mở rộng, triển khai của ngôn ngữ; dùng cái dễ để giải thích cái khó, cái

biết rồi để giải thích cái chưa biết. Ví dụ: định nghĩa mục từ đi trong Từ điển

tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên): "(Người, động vật) tự di

chuyển bằng những động tác liên tiếp của chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa

1 (1) Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến Đức, Sài Gòn, 1931 (2) Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Sài Gòn, 1951 (3) Việt Nam tân từ điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952 (4) Tự điển Việt Nam, Lê Văn Đức, Sài Gòn, 1970 (5) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Hà Nội, 1977 (6) Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Tp. Hồ Chí Minh, 2000 (7) Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Tp. Hồ Chí Minh, 2000 (8) Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 2000

46

trên mặt đất, vừa có chân giơ lên đặt tới chỗ khác. Trẻ đi chưa vững. Chân đi

chữ bát. Cho ngựa đi thong thả bước một" [125, tr.407].

 Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ bao

Đây là phương pháp định nghĩa của logic học. Nội dung của nó là quy sự vật,

hiện tượng, khái niệm vào khái niệm cùng loại rộng hơn, rồi vạch ra những đặc

trưng khu biệt của khái niệm được giải thích. Phương pháp định nghĩa này là

một dạng đặc biệt của phương pháp định nghĩa bằng phân tích. Ví dụ: định nghĩa

mục từ hành trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "Cây thân ngầm,

hình dẹp, mang nhiều lá mọng nước xếp úp vào nhau thành một khối hình củ,

dùng làm gia vị" [125, tr.547].

 Phương pháp định nghĩa bằng dùng từ đồng nghĩa

Là kiểu định nghĩa bằng cách đưa ra từ đồng nghĩa với từ đang cần định

nghĩa. Đây là kiểu giải thích phổ biến trong từ điển và cũng là kiểu giải thích từ

ngữ thường gặp trong giao tiếp. Ví dụ: định nghĩa của mục từ heo trong từ điển

Hoàng Phê: "(ph.) Lợn" [125, tr. 560].

 Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ trái nghĩa

Là phương pháp định nghĩa bằng cách phủ định từ (hoặc các từ) có ý nghĩa

đối lập với từ được định nghĩa. Ví dụ: định nghĩa của mục từ ngắn trong từ điển

Hoàng Phê: "Có chiều dài dưới mức bình thường, hoặc không bằng so với các vật

khác; trái với dài. Áo may dài quá. Cắt tóc ngắn. Năm ngón tay có ngón dài ngón

ngắn (tng.)" [125, tr.865].

 Phương pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn

Là phương pháp định nghĩa bằng cách đưa từ đang cần định nghĩa ra so sánh với

một đối tượng của thế giới ngoài ngôn ngữ. Đối tượng ngoài ngôn ngữ được chọn

phải là cái điển hình nhất, phổ biến nhất, có thuộc tính dễ gợi sự liên tưởng nhất tới

nghĩa của từ. Phương pháp giải thích này thường được áp dụng với những từ biểu thị

sự cảm nhận trực tiếp hiện thực như cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh. Ví dụ:

47

định nghĩa của mục từ cay trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "Có vị

như vị của ớt. Quả ớt cay. Rượu cay. Gừng cay muối mặn" [125, tr.161].

 Phương pháp định nghĩa bằng cách nêu chức năng của từ ngữ

Là phương pháp dùng siêu ngôn ngữ miêu tả để nêu lên chức năng của từ được

định nghĩa. Đây là cách định nghĩa thường áp dụng cho các hư từ. Ví dụ: định nghĩa

của mục từ và trong từ điển Hoàng Phê: "Từ biểu thị quan hệ liên hợp giữa hai sự

vật, hiện tượng, quá trình, tính chất cùng loại, cùng phạm trù. Tôi và nó. Nó biết

tiếng Hán, và tiếng Nhật. Mưa to và gió lớn" [125, tr.1397].

1.3. Khái quát về cây nông nghiệp

"Nông nghiệp là hoạt động sản xuất của con người nhằm tạo ra cái ăn (lương

thực, thực phẩm...), cái mặc (bông, sợi,...), nhà ở (gỗ, nứa, lá,...). Đối tượng của

nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi với đất đai, nguồn nước là những tư liệu sản

xuất chính" [23, tr.939]. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã

hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi

làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và

một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong

nền kinh tế Việt Nam, đóng góp gần 22,1% GDP, gần 30% giá trị xuất khẩu và

trên 60% lực lượng lao động nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta đã tăng trưởng

cao và ổn định trong suốt thời gian dài, đạt được những thành tựu to lớn, mặc dù

thường gặp những tổn thất nặng nề trong thiên tai. Cây trồng là những loài cây

có ích trong đời sống, được con người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp,

lâm nghiệp. Cây trồng có những cách phân loại chủ yếu sau đây:

"a. Theo mục đích sử dụng: Cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả,

cây rau, cây gia vị; b. Theo sản phẩm sử dụng: cây ăn lá, cây ăn quả, cây lấy sợi,

cây lấy đường, cây lấy chất kích thích, cây ăn củ,...; c. Theo chu kì phát triển:

cây hàng năm (lúa, ngô, khoai lang, sắn, rau, đậu,v.v; cây lâu năm (cà phê, cao

su, chè, điều, dừa,...); cây lưu niên (trồng một lần, hàng năn cho thu hoạch): mía,

gai,... (...)" [23, tr.315].

48

Có nhiều loại cây trồng khác nhau như cây trồng cung cấp lương thực cho

con người; cây trồng cho sản phẩm dùng làm nguyên liệu cho chế biến, sản

xuất hàng tiêu dùng và cây trồng lấy sản phẩm làm thức ăn cung cấp dinh

dưỡng cho con người.

Tiểu kết

Chương này đã trình bày hai nội dung. Nội dung thứ nhất là tổng quan tình

hình nghiên cứu tên gọi thực vật trên thế giới và ở Việt Nam; tình hình nghiên

cứu và biên soạn từ điển giải thích ở Việt Nam. Đây là những vấn đề có liên

quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Nội dung thứ hai là một số cơ sở lí

luận liên quan đến đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Trong phần này

luận án đã trình bày bốn nội dung sau:

- Một số vấn đề về định danh: khái niệm về định danh trong ngôn ngữ, đơn vị

định danh và các phương thức định danh;

- Một số vấn đề về khái niệm từ, đơn vị cấu tạo từ, các phương thức cấu tạo

từ của tiếng Việt, vấn đề cụm từ;

- Một số vấn đề về nghĩa của từ, cấu trúc nghĩa của từ;

- Một số vấn đề về từ điển học: khái niệm từ điển, cấu trúc của từ điển ngôn ngữ

(từ điển giải thích), các kiểu định nghĩa trong từ điển ngôn ngữ. Những cơ sở lí luận

được trình bày trong chương này đã tạo nên một khung lí thuyết phù hợp để tiến

hành khảo sát, miêu tả, phân tích các nội dung nghiên cứu của luận án.

49

CHƯƠNG 2:

ĐẶC ĐIỂM TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT

2.1. Dẫn nhập

Thuộc lĩnh vực danh học, định danh là con đường đặt tên, gọi tên. Theo

đó, chủ thể ngôn ngữ có ý tưởng, có sự vật, hiện tượng cần đặt tên (trong luận án

này sự vật, hiện tượng cần đặt tên là cây nông nghiệp). Để đặt tên, chủ thể ngôn

ngữ phải tạo ra từ ngữ để đặt tên bằng cách lựa chọn chất liệu âm thanh, chất liệu

cấu tạo từ, phương thức cấu tạo từ, ngữ tương ứng thay thế cho sự vật, hiện tượng

đã có. Như vậy là, bắt đầu từ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng cần gọi tên, đặt tên

dẫn đến việc đặt tên gọi cho chúng làm cho từ ngữ xuất hiện. Việt Nam là nước

nước thuộc vào nền văn minh nông nghiệp, nên cây nông nghiệp ở đây đa dạng

về chủng loại, nhiều về số lượng và có giá trị về chất lượng. Khi đặt tên cho

những loại cây trồng này, người Việt Nam thường dựa vào một hoặc một số

thuộc tính nào đó của chúng, làm căn cứ để hiểu, phân biệt. Vì vậy, định danh có

tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc sống con người. Nghiên cứu đặc điểm cấu

tạo và định danh tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt đặt cơ sở cho việc xác định

nội dung ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng gọi tên cây nông nghiệp phục vụ cho

việc định nghĩa chúng trong từ điển giải thích tiếng Việt. Đặc trưng định danh

được biểu thị bằng từ và tham gia với tư cách là một thành tố đặc biệt vào thành

phần ý nghĩa của từ. Chương này tập trung nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, phương

thức định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

Dựa trên cơ sở lí luận về định danh, luận án tiến hành khảo sát tên gọi cây

nông nghiệp trong tiếng Việt để tìm hiểu cụ thể đặc điểm định danh của chúng.

Theo lí thuyết định danh, tên gọi của các sự vật, hiện tượng nói chung, các tên

gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt nói riêng, có thể được xem xét theo ba bình

diện sau:

- Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi;

50

- Phương thức cấu tạo của tên gọi (là từ và ngữ định danh);

- Những dấu hiệu/đặc điểm được dùng để gọi tên. Tên gọi các loại cây này sẽ

được chia thành hai loại: các tên gọi cây nông nghiệp là các đơn vị định danh

đơn giản và các tên gọi cây nông nghiệp là các đơn vị định danh phức hợp.

2.2. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về nguồn gốc ngôn ngữ

Như ta đã biết, khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh

phân biệt các loại đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa

tham gia đơn vị định danh thì có sự phân biệt: Định danh đơn giản (định danh

tổng hợp): được tạo bởi một yếu tố cấu tạo tên gọi; Định danh phức hợp (định

danh phân tích, định danh miêu tả): được tạo bởi từ hai yếu tố có nghĩa cấu tạo

tên gọi trở lên.

Theo lí thuyết định danh, tên gọi của các sự vật, hiện tượng nói chung, tên

gọi cây nông nghiệp nói riêng, có thể xem xét theo ba bình diện sau:

- Đặc điểm định danh xét từ góc độ nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi;

- Đặc điểm định danh xét từ góc độ cách thức biểu thị của tên gọi;

- Đặc điểm định danh xét từ góc độ những dấu hiệu được dùng để gọi tên.

Từ các nguồn ngữ liệu khác nhau, luận án đã thu thập được 2609 tên gọi cây

nông nghiệp phổ biến trong tiếng Việt.

Qua khảo sát, luận án thấy nhóm từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

có các nguồn gốc Việt (gồm các tên gọi là từ ngữ thuần Việt, từ ngữ nguồn gốc

Hán Việt), nguồn gốc từ các thứ tiếng nước ngoài và nguồn gốc từ các ngôn ngữ

dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Tên gọi cây nông nghiệp có nguồn gốc Việt chiếm số lượng rất lớn với

2443/2609 đơn vị chiếm 93,64%. Ví dụ: lúa, ngô, khoai, sắn, bông, dây, gai,

chuối, quýt, bưởi, mận, nhãn, vải, ổi, táo, vừng, lạc, đỗ, mít, dứa, xoài, dừa,

khoai lang, cam sành, quýt chum, bưởi đào, khế cơm, na dai, na bở, sắn nếp,

khoai vạc, khoai mỡ,... Có thể lí giải điều này dựa vào điều kiện sống, tập quán

của người Việt Nam. Nước ta là một nước nông nghiệp, nằm trong vùng kí hậu

51

nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho việc trồng trọt. Do đó, trồng trọt phát

triển từ rất sớm, những cuộc tiếp xúc và thuần dưỡng thực vật để thành cây trồng

phục vụ đời sống con người đã diễn ra từ hàng ngàn đời nay. Do đó, tên gọi của

các cây nông nghiệp đã ra đời.

Trong số 2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, tên gọi có nguồn gốc

vay mượn là 166/2609 đơn vị, chiếm 6,36%. Trong 166 tên gọi đó có 21 tên gọi

vay mượn từ các tiếng nước ngoài được phiên âm ra tiếng Việt, chiếm 12,65%, ví

dụ: ca cao, cao su, cà phê, mãng cầu, mắc ca, chà là, măng cụt, lê ki ma, ki uy Niu

Dilân,...;145 tên gọi vay mượn từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam,

chiếm 87,35%, ví dụ: mắc cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu

buộp, khẩu căm cai, khẩu cặm kị, khẩu đo rón, khẩu ma puống, ngọ klọoc, plau

sang, plề sáng lọi,... Các tên gọi này chủ yếu là tên gọi các giống lúa.

Kết quả khảo sát, miêu tả đặc điểm định danh cây nông nghiệp trong tiếng

Việt xét về mặt nguồn gốc ngôn ngữ được thể hiện tổng hợp trong bảng sau đây:

STT Nguồn gốc ngôn ngữ Số lượng Tỉ Ví dụ

lệ% tên gọi cây

nông nghiệp

lúa, sắn, khoai, chuối,

nhãn, vải, cam, quýt, lạc,

1. Nguồn gốc Việt 2443/2609 93,64 mít, đậu, dứa, củ từ, sắn

dây, củ cái, cam sành,

khoai vạc, xoài cát, vú

sữa, đay, bông, trẩu, sở,...

mắc cọoc, séng cù, blẩu

sang bua, ble blu, blin xa,

Nguồn gốc Ngôn ngữ 145/166 87,35 khẩu buộp, khẩu căm cai,

2. ngoại lai các dân tộc khẩu cặm kị, khẩu đo rón,

52

6,36% thiểu số khẩu ma puống, ngọ

(166/2609) klọoc, plau sang, plề sáng

lọi,...

ca cao, cao su, cà phê,

Tiếng 21/166 6,36 mắc ca, chà là, măng cụt,

nước ngoài lê ki ma, ki uy Niu

Dilân,...

2609 100 TỔNG SỐ

Bảng 2.1. Nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

2.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về cấu tạo

2.3.1. Cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Tìm hiểu cách thức biểu thị tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là xem xét tên

gọi đó được cấu tạo như thế nào, tức là chúng được tạo ra theo cách nào: tên gọi

là một khối theo tính chất tổng hợp hay có thể tách biệt ra được các thành phần

trong tên gọi mang tính chất phân tích. Kết quả thống kê cho thấy, trong 2609

tên gọi các giống cây nông nghiệp được khảo sát, tên gọi có cấu tạo là từ đơn có

260/2609 đơn vị, chiếm 9,96%; từ ghép có 503/2609 đơn vị, chiếm 19,27%, còn

lại 1846/2609 đơn vị là ngữ định danh, chiếm 70,77%.

2.3.1.1. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ đơn

Có 260/2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo là từ đơn,

do một hình vị tạo nên, trong đó có 107 tên gọi là từ đơn đơn tiết và 153 tên gọi

là từ đơn đa tiết. Toàn bộ 107 tên gọi là từ đơn đơn tiết đều có nguồn gốc ngôn

ngữ Việt. Đó là các tên gọi các loại cây nông nghiệp như: lúa, ngô, khoai, sắn,

đậu, lạc, vừng, xoài, mận, bưởi, cam, quýt, chuối, táo, lê, ổi, na, nhãn, vải, mít,

mía, sơn, trẩu, điều,... Tất cả các từ đơn này đều có ý nghĩa hết sức khái quát và

có khả năng trở thành các hình vị để tạo ra hàng loạt các từ ghép theo phương

thức ghép. Ví dụ:

53

- Lúa → lúa chiêm, lúa mùa, lúa nếp, lúa tẻ, lúa ngoi, lúa mộ, lúa nương, lúa

lai, lúa xuân, lúa gié, lúa trời,...

- Ngô → ngô nếp, ngô tẻ, ngô lai, ngô đông, ngô ngọt,...

- Nhãn → nhãn lồng, nhãn trơ, nhãn nước, nhãn tiêu, nhãn sớm, nhãn muộn,...

Khi chuyển hóa thành hình vị thì ý nghĩa của các từ đơn này càng khái quát

hơn, ít nhiều bị trừu tượng khỏi những khả năng chiếu vật cũ để trở thành đơn

thể hóa. Ví dụ, từ đơn "lúa" ở ví dụ nêu trên khi chuyển hóa thành hình vị "lúa"

trong các từ ghép: lúa tẻ, lúa nếp, lúa lai, lúa gié, lúa nương,... thì hình vị "lúa"

đã tham gia cấu tạo nên những sự vật cùng loại. Tuy nhiên, dù cho lúa nếp, lúa

tẻ, lúa mộ, lúa nương hay lúa gié vẫn là "lúa", nhưng giữa chúng đã có sự đứt

quãng để phân biệt tên gọi các loại lúa cụ thể: lúa nếp, lúa tẻ, lúa mộ, lúa

nương,... đã được tách khỏi "lúa" nói chung thành những loại độc lập, chỉ còn

quan hệ "loại - chủng" đối với nhau. Vì thế, các từ đơn đơn âm tiết là các đơn vị

định danh đơn giản, có thể coi chúng là những tên gọi được cấu tạo theo phương

thức tổng hợp. Đó là các tên gọi cơ sở để sản sinh các tên gọi cây nông nghiệp là

những đơn vị định danh phức hợp.

Các tên gọi cây nông nghiệp là từ đơn đa âm tiết (có 153 đơn vị) đều là tên

gọi vay mượn từ các tiếng nước ngoài được phiên âm sang tiếng Việt như: ca

cao, cà phê, cao su, sa bô chê, lê ki ma, mãng cầu, măng cụt, mắc ca,...và vay

mượn từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam được ghi bằng chữ Quốc ngữ

như: mắc cọoc, séng cù, blẩu sang bua, ble blu, blin xa, khẩu buộp, khẩu đo rón,

khẩu ma puống,... Khi tham gia tạo tên gọi mới, các từ đơn đa âm tiết vay mượn

tiếng nước ngoài hay vay mượn các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng

có khả năng hình vị hóa: cà phê mít, cà phê vối, ki uy ruột vàng, ki uy lùn xanh,

khẩu buộp, khẩu đo rón, khẩu ma puống,...

2.3.1.2. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ ghép

Các tên gọi cây nông nghiệp được tạo nên theo phương thức ghép chiếm số

lượng khá lớn. Kết quả khảo sát và phân loại cho thấy, trong số 2609 tên gọi cây

54

nông nghiệp tiếng Việt, luận án thu được 503 tên gọi có cấu tạo là từ ghép, trong

đó tất cả 503 tên gọi là từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ), chiếm 20,31%,

ví dụ: lúa nương, sắn dù, cam sành, nhãn tiêu, quýt chum, lúa mộ, lúa tẻ, chuối

lá, vải thiều, ngô nếp, đậu đen, đậu xanh, đậu tương, xoài tượng,... Những tên

gọi cây nông nghiệp tiếng Việt có cấu tạo là từ ghép phân nghĩa có đặc điểm sau:

- Thứ nhất, những tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa lập thành

những hệ thống nhỏ có một ý nghĩa chung, ý nghĩa đó là một loại cây trồng.

Trong hệ thống đó, ý nghĩa của mỗi tên gọi là tên một loại cây trồng thuộc loại

nhỏ hơn độc lập với nhau và độc lập với tên gọi ở loại lớn. Ví dụ: xoài tượng,

xoài cát, xoài trứng, xoài voi, mít dai, mít hồng, mít mật, mít tố nữ,...

- Thứ hai, các tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa trong hệ thống

chung đó có một hình vị chung. Hình vị chung này thường đứng ở vị trí thứ nhất

chỉ loại lớn. Ví dụ, "quýt" là hình vị chung chỉ loại lớn trong các từ ghép: quýt

ngọt, quýt đường, quýt hôi, quýt chum, quýt hồng,... Nếu tách khỏi các từ ghép,

dùng độc lập thì hình vị loại lớn này (ví dụ, hình vị "quýt" chẳng hạn) chính là

tên gọi của loại đang xét. Hình vị chung này có khi đứng ở vị trí thứ hai khi tên

gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa gốc Hán Việt: thanh long, huyết rồng,

đại mạch, hắc mạch, tiểu mạch, khang dân, thanh trà, trang nông, cao lương,...

- Thứ ba, nghĩa của các hình vị phân nghĩa trong từ ghép phân nghĩa là tên

gọi cây nông nghiệp khác hẳn với ý nghĩa của hình vị chung chỉ loại lớn. Ví dụ:

ngô nếp, ngô lai, đậu đen, đậu tương, sắn dù, lúa nương, lúa gié, xoài cát, xoài

tượng, mít hồng, mít dai, chuối tiêu, khoai sọ, bưởi đào, quýt chum, táo giòn,

nhãn lồng, ổi trâu, cam sành, chanh dây,... Đỗ Hữu Châu gọi loại từ ghép phân

nghĩa này là từ ghép phân nghĩa dị biệt. Những hiểu biết về ý nghĩa của hình vị

phân nghĩa là cơ sở để giải thích lí do của sự hình thành tên gọi là các từ ghép

phân nghĩa, xác định các mô hình cấu tạo tên gọi (theo quan hệ giữa các hình vị ở các

thế hệ cấu tạo khác nhau), chỉ ra các quy tắc định danh (sẽ trình bày ở mục 2.4).

55

Tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa thể hiện tính thế hệ khá rõ.

Theo đó, một tên gọi là từ ghép phân nghĩa lại có thể trở thành một đơn vị chỉ

loại lớn để tạo ra hàng loạt các tên gọi mới là các từ ghép phân nghĩa. Ví dụ: lúa

nếp tên gọi một loại lúa, có cấu tạo là một từ ghép phân nghĩa (lúa là hình vị loại

lớn, nếp là hình vị phân loại có nghĩa biệt loại) lại có thể chuyển hóa thành một

đơn vị cơ sở để tạo ra các từ ghép phân nghĩa mới là tên gọi các giống lúa nếp

khác: lúa nếp nương, lúa nếp con giòi, lúa nếp chợ Đào, lúa nếp cái, lúa nếp

cẩm, lúa nếp vằn,... Theo cách như vậy, "cơ chế phân nghĩa có thể liên tục tác

động vào một từ ghép phân nghĩa cơ sở để tạo ra những từ ghép phân nghĩa ở

các thế hệ thứ hai, thứ ba,... với hình thức mỗi lúc một dài. Số lượng quan hệ

(tức số lần tác động của cơ chế) là cơ sở để phân biệt những từ ghép phân nghĩa

có số lượng hơn hai âm tiết thuộc thế hệ thứ nhất hay thuộc thế hệ thứ hai, thứ

ba,..." [11, tr.102]. Ví dụ, "lúa nếp" thuộc thế hệ thứ nhất vì quan hệ ở đây là

"nếp" với "lúa"; còn "lúa nếp nương" thuộc thế hệ thứ hai, vì quan hệ ở đây là

"nương" với "lúa nếp"; "lúa nếp nương con giòi" thuộc thế hệ thứ ba, vì quan hệ

ở đây là "nương" với "lúa nếp" (quan hệ bậc một) và "con giòi" với "lúa nếp

nương" (quan hệ bậc hai). Ví dụ:

Lúa nếp → lúa nếp nương, lúa nếp cẩm,...

Lúa nếp nương → lúa nếp nương con giòi, lúa nếp nương con ve,...

"Khi hình thức ngữ âm quá dài, quy tắc rút gọn lại phát huy tác dụng để cho

những từ có hình thức tiện dùng hơn" [11, tr.102]. Ví dụ, "lúa nếp nương con

giòi" được rút gọn thành "nếp con giòi". Tuy nhiên, có một thực tế không thể

phủ nhận được mà các tác giả công trình "Từ tiếng Việt..." đã khẳng định, "đối

với tiếng Việt, một ngôn ngữ âm tiết tính thì không thể không quan tâm đến tiêu

chí định lượng âm tiết cho số lượng âm tiết trong mỗi đơn vị ngôn ngữ và theo

chúng tôi nên coi đó là một trong những tiêu chí để xem xét, để tách từ ghép với

cụm từ" [41, tr.124]. Trong tri nhận của người Việt, lệ thường từ ghép tiếng Việt

chủ yếu chỉ gồm hai âm tiết, gọi là từ song tiết. Các từ ghép song tiết có số lượng

56

rất lớn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, từ ghép có ba âm tiết trở lên có số

lượng không nhiều. Còn một cụm từ (ngữ) nói chung (gồm cả cụm từ tự do và

cụm từ cố định) thì ít nhất phải có ba âm tiết trở lên là phù hợp với đặc thù của

tiếng Việt, vừa phù hợp với tri nhận của người bản ngữ. Do đó, nên coi những

tên gọi kiểu như: lúa nếp chợ Đào, lúa nếp cái hoa vàng, bưởi da xanh Bến Tre,

quýt ngọt Lai Vung, vú sữa tím Tiền Giang, chuối sừng bò, nhãn lồng Hưng Yên,

mận tam hoa Bắc Hà,... là các ngữ định danh.

2.3.1.3. Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là cụm từ

Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh chiếm số lượng lớn nhất

gồm 1846/2609 đơn vị chiếm 69,72%, ví dụ: lúa cẩm vỏ vàng, lúa chiêm chanh

Phú Thọ, lúa canh nông Mĩ Tho, khoai chiêm dâu Bình Lục, khoai lang huyết dụ,

ngô nếp bạch ngọc, ngô nếp king 80, cà phê vối, bưởi da xanh, vải thiều Lục

Ngạn, xoài cát Hòa Lộc, Quýt ngọt Lai Vung,...

Những tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo chủ yếu là ngữ định danh chính

phụ. Ý nghĩa của ngữ định danh là do ý nghĩa của các từ trong đó tạo nên. Cho

nên, tìm hiểu kết cấu của các ngữ định danh chính phụ là tên gọi các loại cây

nông nghiệp là tìm hiểu sự tổ hợp ý nghĩa của các từ trong ngữ. Trong tên gọi

cây nông nghiệp là ngữ chính phụ, vai trò của từ chính là chỉ ra cái khái niệm

đang được nói tới (tức là tên gọi của loại cây cần được hiện thực hóa), còn vai

trò của các từ phụ trong cụm là hiện thực hóa chính cái dấu hiệu tường minh hay

hàm ẩn chứa trong khái niệm được biểu thị bằng từ chính. Chẳng hạn, trong các

ngữ định danh: khoai lang củ trắng, khoai lang củ tím, khoai lang vàng Nhật

Bản, khoai lang mật Hoàng Long, khoai lang Nam Vang, khoai lang Như Ngọc,

khoai lang ngắn ngày, khoai lang rau răm,... từ "khoai lang" khi ở vị trí chính

trong tên gọi cây trồng là chỉ ra khái niệm "cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu,

màu tím nhạt hay trắng, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn" [125, tr.652], còn

các từ phụ: củ, trắng, tím, vàng, Nhật Bản, mật, Hoàng Long, Nam Vang, Như

Ngọc, ngắn, ngày, rau răm có chức năng hiện thực hóa, biệt loại hóa, cụ thể hóa

57

sự vật được gọi là "khoai lang". Các từ chính và từ phụ trong tất cả tên gọi cây

nông nghiệp là ngữ chính phụ mà luận án khảo sát đều có chức năng ngữ nghĩa

như phân tích trên đây. Ví dụ: bưởi da xanh, sầu riêng hạt lép, chuối sừng bò,

chuối mỏ giang, lúa ba giăng, khoai lang củ trắng, khoai vạc gai, từ tam giác,

nho thân gỗ, nho mĩ nhân chỉ, nho không hạt,... Vì vậy, muốn nắm được ý nghĩa

của tên gọi cây nông nghiệp là ngữ chính phụ không thể không nắm ý nghĩa của

các từ phụ và quan hệ của chúng với từ chính trong ngữ.

Tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ còn có một đặc điểm rất đáng lưu

ý, đó là yếu tố cấu tạo là tên riêng chỉ địa danh nguồn gốc, xuất xứ của các giống

cây nông nghiệp. Ví dụ: chè Tân Cương, chè Phú Thọ, Chè shan tuyết Hà Giang,

bưởi da xanh Bến Tre, cà phê vối Đắc Lắc, lúa tám thơm Điện Biên, nho Mĩ, ki

uy ruột vàng Niu Di Lân, nho vàng Ninh Thuận, quýt ngọt Lai Vung, cam sành

Bố Hạ, bưởi Đoan Hùng, quýt Hóa Châu,... Đây là điểm khác biệt rõ ràng nhất

trong tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ với tên gọi thực vật nói chung

trong tiếng Việt. Những cách kết hợp nêu trên đây có giá trị lớn trong cách đặt

tên các loại cây nông nghiệp trong tiếng Việt, vì qua tên gọi của chúng, chúng ta

có thể biết được đặc điểm, tính chất của từng loại cây nông nghiệp và các chỉ dẫn

địa lí về các loại cây đó.

Kết quả khảo sát và miêu tả đặc điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt được chúng tôi tổng hợp lại trong bảng sau đây:

STT Cấu tạo tên Số lượng Tỉ Ví dụ

gọi cây nông lệ%

nghiệp

1. Tên gọi cây 260/2609 9, 97 lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc, vừng,

nông nghiệp xoài, mận, bưởi, cam, quýt, chuối,

có cấu tạo là táo, lê, ổi, na, nhãn, ca cao, cà phê,

từ đơn cao su, sa bô chê, lê ki ma, mãng

58

cầu, măng cụt, mắc ca, mắc cọoc,

séng cù,...

2. Tên gọi cây 503/2609 19,28 lúa nương, sắn dù, cam sành, quýt

nông nghiệp hôi, quýt chum, lúa mộ, lúa ngoi, lúa

có cấu tạo là nếp, lúa tẻ, lúa lai, lúa cẩm, lúa di,

từ ghép phân lúa dự, lúa gie, lúa gié, lúa hẻo, ngô

nghĩa đông, đậu đen, đậu xanh, đậu tương,

bưởi đường,...

3. Tên gọi cây 1846/ 70,75 bưởi da xanh, sầu riêng hạt lép,

nông nghiệp 2609 chuối sừng bò, chuối mỏ giang, lúa

có cấu tạo là ba giăng, khoai lang củ trắng, khoai

ngữ định danh lang huyết dụ, khoai su canh trắng,

khoai mài đỏ, mít tố nữ, cà phê vối,

mận tam hoa, khoai vạc gai, từ tam

giác, nho thân gỗ, nho mĩ nhân chỉ,

nho không hạt,...

2609 100 TỔNG SỐ

Bảng 2.2. Tổng hợp cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Như vậy, các từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo khá

đa dạng. Chúng có thể là những từ đơn, từ ghép, ngữ định danh. Tất cả những cách

thức cấu tạo từ nêu trên đã tạo ra hệ thống các tên gọi cây nông nghiệp khác nhau

nhằm định danh các loài cây nông nghiệp. Cách thức cấu tạo tên gọi cây nông

nghiệp trong tiếng Việt cũng thể hiện rõ đặc điểm loại hình của tiếng Việt - ngôn

ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính - chi phối trong cách cấu tạo tên gọi cây

nông nghiệp. Do đặc điểm đơn lập nên số lượng vỏ âm tiết của tiếng Việt bị hạn chế

kéo theo số lượng từ đơn cũng bị hạn chế. Để khắc phục hạn chế này tiếng Việt đã

sử dụng phương thức ghép để tạo ra số lượng lớn từ ngữ. Tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt chủ yếu sử dụng phương thức ghép các đơn vị từ vựng với nhau để

59

gọi tên đối tượng. Hầu như tên gọi cây nông nghiệp chỉ dùng phương thức ghép

phân nghĩa (ghép phụ nghĩa, ghép chính phụ), phương thức cấu tạo từ phổ biến, phù

hợp với đặc điểm loại hình phân tích tính của tiếng Việt.

2.3.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Tìm hiểu cấu tạo từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt là xem xét tên

gọi đó theo tính chất hòa kết thành một khối hay có thể tách ra được các yếu tố

trong tên gọi. Về phương diện định danh, tính chất hòa kết hay tách ra được

thành các yếu tố trong tên gọi cũng giống như tính chất "tổng hợp tính" hay

"phân tích tính" của từ xét về mặt ngữ pháp. Phân tích cấu tạo từ tên gọi cây

nông nghiệp để xác định các quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố cấu tạo nên tên

gọi, nhờ đó có thể xác định được vai trò của các yếu tố trong việc định danh cây

nông nghiệp. Kết quả thu thập và khảo sát tên gọi các cây nông nghiệp trong

tiếng Việt ở phần trên đã cho thấy rằng tên gọi các loại cây nông nghiệp trong

tiếng Việt phong phú về số lượng và đa dạng về cấu tạo. Trong tổng số 2609 tên

gọi cây nông nghiệp được thu thập và khảo sát chỉ có 260 tên gọi có cấu tạo là từ

đơn, chiếm 9,97% không thể chia cắt thành phần cấu tạo được, nên không có mô

hình cấu tạo, ví dụ: lúa, ngô, cam, đào, nhãn, vải, lạc, vừng, cà phê, cao su, mắc

ca, ki uy, mắc cọoc,... Như vậy, còn lại 2349 tên gọi có cấu tạo là từ ghép và

ngữ, luận án chỉ tập trung miêu tả mô hình cấu tạo của 2349 tên gọi này. Có 503

tên gọi là từ ghép phân nghĩa (từ ghép chính phụ) chiếm 19,28% và 1846 tên gọi

là ngữ chiếm 70,75%, có thể phân chia ra được các yếu tố cấu tạo, do đó, cần tìm

hiểu các mô hình cấu tạo để xác định quan hệ giữa các yếu tố tạo nên những tên

gọi này.

Xét về mặt ngôn ngữ học, tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt phải là từ

hay ngữ của ngôn ngữ này. Việc phân tích cấu tạo của tên gọi cây nông nghiệp

chính là việc miêu tả cấu trúc của từ và ngữ thể hiện tên gọi đó từ góc độ ngôn

ngữ học. Khi phân tích thành phần cấu tạo của các tên gọi cây nông nghiệp cần

xét đến yếu tố cơ sở để cấu tạo các tên gọi đó. Các thành phần được chia tách ra

60

trong cấu trúc của một tên gọi (được biểu hiện bằng từ hoặc cụm từ) được gọi là

yếu tố cấu tạo của tên gọi. Yếu tố cấu tạo tên gọi là bộ phận cấu thành nhỏ nhất

của tên gọi biểu thị một cách rõ ràng ý nghĩa của tên gọi đó. Như vậy, yếu tố

cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt là hình vị trong tên gọi có

cấu tạo là từ, là từ (thậm chí là tổ hợp các kí hiệu) trong tên gọi có cấu tạo là

ngữ. Chẳng hạn, lúa nếp là một tên gọi cây lương thực có cấu tạo là một từ

ghép gồm 2 yếu tố (là các hình vị): lúa và nếp. Cà phê vối TR4 là tên gọi cây

công nghiệp có cấu tạo là ngữ gồm 3 yếu tố: cà phê, vối là hai yếu tố có cấu

tạo là các từ, TR4 là một yếu tố có cấu tạo là một tổ hợp kí hiệu.

2.3.2.1. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép

Các tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là từ ghép phân nghĩa có 503/2349 đơn

vị, chiếm 21,41%, ví dụ: lúa mộ, lúa gié, ngô tẻ, cam đường, nhãn nước, khoai sọ,

dừa lửa, sắn dù, đậu xanh, táo đỏ, nho xanh, xoài cát,... Đặc điểm đầu tiên được

chú ý trong cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là từ ghép phân nghĩa là tính đánh dấu

và không đánh dấu được thể hiện trong các thành tố trở thành một quy tắc ổn định:

thành tố thứ nhất (hình vị chỉ loại lớn) là thành tố mang tính không đánh dấu biểu

thị khái niệm có tính phạm trù về loại bao giờ cũng đứng trước; thành tố thứ hai

(hình vị phân nghĩa) biểu thị nghĩa chuyên biệt bao giờ cũng đứng sau. Ví dụ: xoài

cát, xoài voi, chuối hột, quýt chum, nhãn lồng, khoai sọ, khoai mỡ, lúa chùm, ngô

ngọt, khế ngọt, bưởi chua, quýt hôi, nho vàng, táo đỏ, mít dai, chuối lùn, na bở,

cam vàng, mỡ tím, khoai tía, môn mịn, tám thơm,... Đáng chú ý là tên gọi cây nông

nghiệp biểu thị bằng kiểu từ ghép này có nguồn gốc Hán, trong đó các thành tố có

vị trí ngược lại: thành tố biểu thị chuyên biệt đứng trước, thành tố biểu thị có tính

phạm trù về loại đứng sau. Ví dụ: thanh long, thanh trà, dự hương, khang dân,

kim cương, nhị ưu, trung ưu, cương ưu, trang nông, cao lương, đại mạch, tam

giác mạch, tiểu mạch, hắc mạch,...Những tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ

ghép phân nghĩa có giá trị lớn trong khi gọi tên cây nông nghiệp, bởi vì khi gọi

tên, chúng ta thấy rõ khả năng mô tả nhờ tính đánh dấu của thành tố chính chỉ khái

61

niệm loại và tính đánh dấu của thành tố phụ biểu thị nghĩa chuyên biệt, nhờ đó

phân biệt được với các tên gọi khác. Cả hai cách kết hợp này trong cấu tạo tên gọi

cây nông nghiệp đều có chung một mô hình cấu tạo:

YT1 YT2 YT1 YT2

Quýt chum Nho vàng

(DT) (DT) (DT) (TT)

ngô đông bưởi chua

lúa nương cam ngọt

sắn dây nho đen

2.3.2.2. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh

Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo là ngữ định danh có số

lượng rất lớn với 1846/2349 đơn vị, chiếm 78,59%, ví dụ: mít quả dài, mít ruột

đỏ, vú sữa lò rèn, sầu riêng hạt lép, thanh long ruột đỏ, xoài bảy núi, bưởi da

xanh, nho ngón tay phù thủy, nhãn đường phèn, nhãn tiêu da bò, cam mật không

hạt, ngô tẻ răng ngựa, lúa nếp bắc giàn, lúa dự thơm đen Thái Bình, nếp con

giòi Phù Yên, nếp nương có đuôi,... Tên gọi cây nông nghiệp là ngữ gồm nhiều

yếu tố tạo thành, nên giữa các yếu tố có các quan hệ khác nhau và được phân

thành cấp bậc quan hệ giữa các dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh.

Vì vậy, mô hình cấu tạo của tên gọi cũng phong phú và đa dạng. Từ tư liệu được

khảo sát, luận án đã xác định được các mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp

sau đây.

Mô hình 1: Đây là mô hình cấu tạo đơn giản nhất của tên gọi cây nông

nghiệp là ngữ định danh chỉ gồm 2 yếu tố, trong đó yếu tố thứ nhất (YT1) chỉ

loại cây nông nghiệp, yếu tố thứ hai (YT2) là mã hiệu chỉ lô/nguồn giống cây

trồng.

62

YT1 YT2

Lúa tẻ CH3

Ví dụ: Sầu riêng S11ĐL

Xoài GL1

Ca cao TĐ14

Đây là mô hình có số lượng lớn nhất các tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo

là ngữ định danh, gồm 679 đơn vị, chiếm 36,43%. Điều này cho thấy vai trò rất

to lớn của con người trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công

nghệ để lai tạo, tìm ra các loại giống cây trồng mới, cho năng xuất cao, chất

lượng dinh dưỡng tốt để phục vụ nhu cầu dân số ngày một tăng, nhu cầu sống

của con người ngày một cao.

Mô hình 2: Đây là những tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là ngữ định danh có

cấu tạo ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT2 phụ cho YT1; YT3 phụ cho cả YT1 và

YT2 Yếu tố thứ nhất (YT1), trong đó YT1 là tên gọi chỉ loại; YT2 là tên gọi chỉ

giống, còn YT3 là tên riêng các địa phương chuyên sản xuất giống cây đó.

YT1 YT2 YT3

Lúa bầu dâu Phú Thọ

Ví dụ Lúa canh nông Nghệ An

Lúa tám xoan Thái Bình

Lúa nàng thơm chợ Đào

Đây là mô hình có số lượng lớn thứ hai các tên gọi cây nông nghiệp có cấu

tạo là ngữ định danh, gồm 416 đơn vị, chiếm 22,32%. Mô hình cấu tạo này có

cấu trúc hai bậc: bậc 1: YT2 phụ cho YT1, bậc 2: YT3 phụ cho cả YT1 và YT2.

63

Tên gọi cây nông nghiệp theo mô hình cấu tạo này cho thấy vai trò quan trọng

của thổ nhưỡng (gồm đất đai, khí hậu, thời tiết trong năm) gắn với từng địa danh

các địa phương thuộc các vùng miền khác nhau của nước ta đối với các loại cây

trồng khác nhau. Đây cũng là những chỉ dẫn địa lí quan trọng cho các sản phẩm

từ cây nông nghiệp của Việt Nam.

Mô hình 3: Đây cũng là những tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh có

cấu tạo gồm ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT2 phụ cho YT1, YT3 phụ cho cả

YT1 và YT2, trong đó YT1 là tên gọi giống cây, YT2 là tên gọi một chủng thuộc

giống cây do YT1 biểu thị; YT3 là mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng.

YT1 YT2 YT3

Mía quế đường 2

Ví dụ: Dâu tằm tam bội 36

Cà phê vối TR4

Ngô đường Golden Sweeter 93

Mô hình này có sức sản sinh lớn, gồm 237 tên gọi cây nông nghiệp, chiếm

12,71% trong tổng số các tên gọi có cấu tạo là ngữ định danh. Các tên gọi này

cũng thể hiện rõ các bậc định danh liên quan đến quá trình lai tạo để cho ra

những giống cây mới.

Mô hình 4: Là tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là cụm từ gồm hai yếu tố

YT1: tên gọi cây nông nghiệp, YT2: địa phương (địa danh) trồng cây nông

nghiệp, trong đó YT2 phụ cho YT1.

YT1 YT2

Bưởi Phúc Trạch

64

Ví dụ: Na Lạng Sơn

Nhãn lồng Hưng Yên

Nếp dâu Thừa Thiên

Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình cấu tạo này gồm có 137 đơn vị,

chiếm 7,35% trong tổng số tên gọi các giống cây trồng có cấu tạo là ngữ định

danh. Đây là những giống cây trồng đặc sản của Việt Nam gắn với tên gọi các

địa phương cụ thể trên khắp đất nước ta, gồm hai yếu tố cấu tạo: YT1 chỉ tên

giống cây, YT2 là tên riêng các địa phương có giống cây đó.

Mô hình 5: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm ba yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp; YT2 là bộ phận của

cây (quả, ruột, lá,...), YT3 là đặc điểm của bộ phận của cây. Các yếu tố này có

hai bậc quan hệ: YT3 phụ cho YT2, cả YT2 và YT3 phụ cho YT1.

YT1 YT2 YT3

Sầu riêng ruột đỏ

Ví dụ: Cam lá sim

Xoài vỏ tím

Vú sữa ruột tím

Bưởi da xanh

Mô hình cấu tạo này gồm có 105 đơn vị, chiếm 5,63% trong tổng số tên

gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Hầu hết chúng đều là tên

gọi các loại cây trồng nổi tiếng của nhiều địa phương khác nhau cho những

sản phẩm có giá trị cao.

Mô hình 6: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm bốn yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp, YT2, YT3 là đặc

điểm hình thức (thân, bông, hạt,...) của cây nông nghiệp, YT4 là địa phương gieo

trồng cây nông nghiệp đó:

65

YT1 YT2 YT3 YT4

Nếp con giòi Phù Yên

Ví dụ: Nếp đuôi trâu Sơn La

Lúa tám cổ ngỗng Nam Định

Nếp cái con ong Vĩnh Phúc

Lúa tẻ tép trắng Tây Nguyên

Mô hình này gồm có 82 đơn vị, chiếm 4,40% trong tổng số các tên gọi cây

nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Đây là tên gọi các giống cây trồng đặc

sản nổi tiếng của từng vùng, từng địa phương của nước ta. Mô hình cấu tạo có

cấu trúc ba bậc: bậc 1: YT3 phụ cho YT2, bậc 2: YT2 và YT3 phụ cho YT1, bậc

3: YT4 phụ cho cả YT1, YT2 và YT3; trong đó YT1 là tên gọi giống cây nông

nghiệp, YT2 và YT3 chỉ đặc điểm về hình thức của một bộ phận (cây, bông, hạt)

của cây, YT4 là tên riêng các địa phương có trồng giống cây đó.

Mô hình 7: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm bốn yếu tố với hai bậc quan hệ. Bậc 1: YT2 phụ cho YT, YT4

phụ cho YT3; bậc 2: YT3 và YT4 phụ cho cả YT2 và YT1, trong đó YT1 là tên

gọi giống cây nông nghiệp, YT2, YT3, YT4 là những dấu hiệu đặc trưng (hình

thức của thân, củ, màu sắc của lá, vùng thổ nhưỡng) của giống cây trồng này.

YT1 YT2 YT3 YT4

Khoai sọ trứng dọc tím

66

Ví dụ: Khoai dân tộc lá tím

Khoai lang đồi trôn đỏ

Lúa nếp nương vỏ vàng

Lúa Thần Nông mặn mỏ quạ

Mô hình này gồm có 71 đơn vị, chiếm 3,81% trong tổng số các tên gọi cây

nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh. Đây là tên gọi các loại giống cây trồng

khác nhau được gieo trồng ở các vùng miền khác nhau của nước ta.

Mô hình 8: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm năm yếu tố: YT1 là tên gọi giống cây nông nghiệp, YT2 là số lần

lai tạo, YT3 là giống cây được chọn để lai tạo, YT4 là đặc tính của loại giống

được lai tạo, YT5 là kí hiệu mã số giống, lô giống, vụ sản xuất. Các yếu tố tạo

nên giống cây trồng trong mô hình này có bốn bậc quan hệ: bậc 1: YT3 phụ cho

YT2; bậc 2: YT2, YT3 phụ cho YT1; bậc 3: YT4 phụ cho cả YT1, YT2 và YT3;

bậc 4: YT5 phụ cho cả YT1, YT2, YT3 và YT4.

YT1 YT2 YT3 YT4 YT5

Lúa tẻ ba dòng Hương ưu 3068

Ví dụ: Lúa tẻ dòng Kinh Sở ưu ba 1588

Lúa tẻ hai dòng Phúc ưu 868

Lúa tẻ hai dòng Thanh Hương ưu 6

Mô hình này gồm có 66 đơn vị, chiếm 3,54% trong tổng số các tên gọi cây

nông nghiệp là ngữ định danh. Số lượng nhiều các yếu tố cấu tạo có trong cấu

trúc tên gọi phản ánh rõ các bước lai tạo theo các quy trình nghiên cứu khác

nhau để tạo ra những giống cây trồng mới.

67

Mô hình 9: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm năm yếu tố: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp, YT2 là vỏ quả, YT3

là màu sắc của vỏ quả, YT4 là ruột quả, YT5 là màu sắc, tính chất của ruột quả.

Các yếu tố này có ba bậc quan hệ: bậc 1: YT3 phụ cho YT2, Yt5 phụ cho YT4;

bậc 2: YT2, YT3 với YT4 và YT5 có quan hệ đẳng lập với nhau; bậc 3: cả YT2,

YT3, YT4 và YT5 phụ cho YT1.

YT1 YT2 YT3 YT4 YT5

Chanh vỏ xanh ruột vàng

Ví dụ: Cam vỏ ruột vàng đỏ

Chuối vỏ ruột vàng đỏ

Mít vỏ múi đỏ xanh

Sầu riêng cơm hạt lép vàng

Mô hình này có 53 đơn vị, chiếm 2,84% trong tổng số các tên gọi cây nông

nghiệp là ngữ định danh. Đây là tên gọi thuộc các giống cây trồng đã có ở nước ta,

nhưng chúng đã trải qua quá trình lai tạo trong thời gian dài để có được giống mới

với nhiều đặc điểm nổi bật, khác biệt với cây cùng giống. Vì thế, những đặc điểm

nổi trội của giống cây trồng mới được thể hiện trong nhiều yếu tố khác nhau trong

cấu trúc của tên gọi được lai tạo.

Mô hình 10: Tên gọi cây nông nghiệp thuộc mô hình này có cấu tạo là ngữ

định danh gồm ba yếu tố với hai bậc quan hệ: YT1 là tên gọi cây nông nghiệp,

YT2, YT3 biểu thị đặc điểm hình thức (quả, thân, lá, hạt,...) của cây nông nghiệp

đó.

YT1 YT2 YT3

Nho cầu vồng rực rỡ

68

Ví dụ: Nho ngọc bích xanh

Lúa nếp mèo đen

Lúa chiêm chân tía

Nhãn xuồng cơm vàng

Nhãn tiêu lá bầu

Mô hình này gồm 18 đơn vị, chiếm 0,97% trong tổng số tên gọi cây nông

nghiệp là ngữ định danh. Đây là tên gọi các giống cây trồng mới của nước ngoài

mới được nhập về trồng ở Việt Nam.

Trên đây là kết quả khảo sát, miêu tả của luận án về các mô hình cấu tạo tên

gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Luận án đã xác định được 10 mô hình cấu

tạo tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Các mô hình này được sắp xếp theo

thứ tự từ nhiều đến ít số lượng tên gọi cây nông nghiệp trong mỗi mô hình. Các

mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp được tổng hợp trong bảng dưới đây:

STT Mô hình cấu tạo tên gọi Số lượng Tỉ lệ %

cây nông nghiệp

1. 679 36,43 Mô hình1

2. 416 22,32 Mô hình 2

3. 237 12,71 Mô hình 3

4. 137 7,35 Mô hình 4

5. 105 5,63 Mô hình 5

6. 82 4,40 Mô hình 6

7. 71 3,81 Mô hình 7

8. 66 3,54 Mô hình 8

9. 53 2,84 Mô hình 9

10. 18 0,97 Mô hình 10

Tổng số 10 Mô hình 1864 100

Bảng2.3. Mô hình cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp là ngữ định danh

69

Kết quả thống kê, xác lập và miêu tả các mô hình cấu tạo cây nông nghiệp là

ngữ định danh trong tiếng Việt trên đây cho thấy sự phong phú về mô hình cấu

tạo và sự đa dạng về đặc điểm của các yếu tố cấu tạo trong cấu trúc của tên gọi.

Số lượng nhiều yếu tố cấu tạo có mặt trong cấu trúc của rất nhiều tên gọi cây

nông nghiệp đã thể hiện sự phân tầng rõ rệt trong cách đặt tên cây nông nghiệp

mới được tạo ra từ thành quả nghiên cứu, tìm tòi không ngừng nghỉ của con

người để tạo ra nhiều giống cây mới có giá trị cao. Có thể khẳng định rằng tên

gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có cấu tạo gồm nhiều yếu tố chiếm số

lượng lớn chính là sự khác biệt lớn nhất và rõ rệt nhất giữa tên gọi cây nông

nghiệp trong tiếng Việt với tên gọi các loài thực vật nói chung trong tiếng Việt,

thể hiện rõ vai trò của con người trong việc đặt tên các giống cây trồng phục vụ

các nhu cầu khác nhau của con người. Sự phân biệt vai trò của các yếu tố cấu tạo

thành các bậc khác nhau là cơ sở chắc chắn cho phép lựa chọn nhiều dấu hiệu,

đặc điểm khác nhau để định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

2.4. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về đặc điểm định danh

2.4.1. Những dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp

Khi đặt tên một sự vật thì không gì lí tưởng hơn là chọn ra được đặc điểm

nào đó thuộc loại đặc trưng bản chất của sự vật để làm cơ sở gọi tên nó. Tuy

nhiên, cái gọi là "chất không chỉ bao gồm những yếu tố làm cho sự vật này khác

với sự vật kia, mà còn bao hàm cả những yếu tố chung, giống nhau giữa các sự

vật và hiện tượng" [105, tr.133]. "Mỗi thuộc tính là một mặt, một bộ phận của

chất (...). Có thuộc tính căn bản, có thuộc tính không căn bản" [105, tr.134]. Vì

vậy, khi định danh các đối tượng có chung những thuộc tính cơ bản nào đó trong

"chất" của mình, chỉ khác nhau ở những thuộc tính không căn bản, khi đó, người

ta sẽ không thể chọn đặc trưng cơ bản để định danh được nưa mà phải chọn các

thuộc tính không cơ bản, nhưng có giá trị khu biệt, để làm cơ sở cho tên gọi của

đối tượng. Song cái gọi là thuộc tính không cơ bản ấy khi so sánh các sự vật này

với các sự vật khác không cùng chất vẫn là các thuộc tính cơ bản, đặc trưng cho

70

"chất" của mỗi sự vật. Khi phải đặt tên cho hai đối tượng cùng thuộc "chất" lớn

thì những thuộc tính không cơ bản lại trở thành cơ bản để khu biệt chúng với

nhau. Ví dụ, khi định danh các giống lúa, những đặc điểm về môi trường sinh

trưởng, về tính chất của hạt lúa, về thời gian sinh trưởng, về màu sắc, về mùi

hương của hạt lúa,... lại trở thành cơ bản: lúa mùa, lúa chiêm, lúa ba giăng, lúa

nương, lúa rẫy, lúa lốc, lúa nổi, lúa nước, lúa sạ, lúa sớm, lúa thu, lúa xuân, lúa

nếp cẩm, lúa tám thơm,... Khi định danh (hay gọi tên) một loài cây nông nghiệp

nào đó, không phải người ta đặt cho nó một cái tên bất kì nào đó mà phải dựa

vào đặc điểm mà loài cây đó có. Tuy nhiên, người ta cũng không thể chọn hết tất

cả các đặc điểm của loài cây đó để đưa vào tên gọi của nó, mà chỉ chọn đặc điểm

có giá trị khu biệt loài cây này với loài cây khác. Chính việc chọn dấu hiệu làm

cơ sở cho tên gọi của đối tượng đã làm nên tính có lí do của tên gọi. Người ta gọi

đó là hình thái bên trong của từ. Đó là "đặc trưng định danh được biểu thị bằng

từ và tham gia với tư cách một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng

của từ" [37, tr.242]. Tính có lí do ấy có thể là lí do khách quan - nằm trong chính

bản thân đối tượng được gọi tên hoặc là lí do chủ quan - nằm ở chủ thể định

danh mà không nằm trong bản thân đối tượng.

Tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt có cấu tạo là từ đơn không thấy được lí

do của tên gọi có số lượng ít, chỉ có 260/2609 từ ngữ, chiếm 9,97%: lúa, ngô,

cam, bưởi, vải, nhãn, bơ, xoài, khoai, sắn, đậu, lạc, vừng, chuối, mía, ca cao,

cao su, cà phê, mắc ca, mãng cầu, măng cụt, lê ki ma, sa bô chê,... Các tên gọi

cây nông nghiệp có nguồn gốc từ ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có

145/2609 đơn vị, chiếm 5,56% : bèo đàng, blao blo non, blao tỏm pỉ, khẩu cẩm

panh, kháu cặm ngân,... (tên các giống lúa). Người dân tộc có thể xác định được

lí do của các tên gọi này, nhưng trong khuôn khổ của luận án chúng tôi không

tìm hiểu đặc điểm định danh các tên gọi loại này. Như vậy, việc xem xét đặc

điểm được chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp chỉ bao gồm những tên

gọi là các từ ngữ hiện nay có thể thấy rõ lí do.

71

Theo thống kê, trong số 2609 từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng

Việt có 405 tên gọi không thể giải thích được lí do (gồm 260 tên gọi là từ đơn và

145 tên gọi có nguồn gốc từ các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam) chiếm

15,52%; còn 2204 từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp có thể giải thích được lí do

một cách tương đối (chiếm 84,48% tổng số các từ ngữ chỉ tên gọi cây nông

nghiệp). Luận án tập trung phân tích và tìm hiệu đặc điểm định danh của 2204

tên gọi cây nông nghiệp có thể giải thích được lí do.

Các tên gọi cây nông nghiệp có cấu tạo là từ ghép và ngữ định danh cho thấy

rõ lí do gọi tên. Những đơn vị định danh này là những tên gọi mà dựa vào hình

thái bên trong của từ, nghĩa là dựa vào ý nghĩa của các thành phần được tách ra

trong tên gọi người ta có thể giải thích được lí do của chúng một cách tương đối.

Ví dụ: lúa nương, lúa nếp, ngô lai, bưởi đào, bơ sáp, nho ngón tay, nhãn lồng

Hưng Yên, chuối mỏ giang, xoài tượng, sầu riêng hạt lép, thanh long ruột đỏ,

mãng cầu Xiêm,... Luận án đã xác lập được một hệ thống bao gồm 18 dấu

hiệu/đặc điểm dùng để làm cơ sở gọi tên cây nông nghiệp tiếng Việt. Đó là các

dấu hiệu/ đặc điểm:

1. mã hiệu/lô nguồn giống cây trồng;

2. giống cây cụ thể cùng loại;

3. nguồn gốc, xuất xứ của cây nông nghiệp;

4. đặc điểm hình thức của các loài thực vật khác;

5. đặc điểm hình thức động vật;

6. đặc điểm bộ phận cơ thể động vật;

7. đặc điểm hình thức của các vật thể khác;

8. đặc điểm hình thức bộ phận cơ thể người;

9. đặc điểm cấu tạo cây nông nghiệp;

10. đặc điểm màu sắc của cây nông nghiệp;

11. đặc điểm kích cỡ của cây nông nghiệp;

12. đặc điểm môi trường sống (môi trường sinh trưởng) của cây nông nghiệp;

72

13. thời gian sinh trưởng;

14. đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông nghiệp;

15. đặc điểm vị của bộ phận cây nông nghiệp;

16. đặc điểm mùi của bộ phận cây nông nghiệp;

17. tên các nhân vật lịch sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích;

18. tên người tạo ra sử dụng sản phẩm của loại cây trồng.

2.4.2. Các mô hình định danh cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Sau đây luận án tiến hành tìm hiểu, phân tích tên gọi cây nông nghiệp theo

từng dấu hiệu/đặc điểm đã được xác định dùng để định danh cây nông nghiệp.

Những dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp được sắp

xếp theo thứ tự giảm dần của tần số xuất hiện của chúng.

Dựa vào bảng dấu hiệu/đặc điểm được chọn để định danh cây nông nghiệp

nêu trên đây, có thể cụ thể hóa mô hình định danh chung như sau:

Yếu tố chỉ loại + Đặc điểm được chọn của cây trồng

Dưới đây luận án sẽ miêu tả, tức là cụ thể hóa mô hình định danh chung.

1. Yếu tố chỉ loại + mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng

Ví dụ: Ngô lai LVN 10 là tên gọi một giống ngô gồm 2 yếu tố: ngô lai là yếu

tố chỉ loại; LVN 10 là mã hiệu lô/nguồn giống ngô lai này, phân biệt với giống

ngô lai khác, chẳng hạn: ngô lai HQ 2000.

Thuộc mô hình định danh này là các tên gọi như: ngô lai G 5449, ngô lai HQ

2000, ngô lai LVN 10, đậu tương D 140, đậu tương DN 42, đậu tương ĐT 93,

đậu xanh T 135, lạc L12, lạc LO 8, vừng V6, cà phê 01/20, cam sành CS8, cao

su LH82/158, cao su PB 260, cao su RRIM 600, chè LDP1, mía ROC 23, mía My

55-14, bưởi Năm Roi BN25, quýt tiều QT12, chôm chôm CĐN 13j, bông vải

VN20, thuốc lá C176, ...

2. Yếu tố chỉ loại + giống cây cụ thể cùng loại

73

Ví dụ: xoài bảy núi, xoài cát chu, xoài ba màu, xoài canh nông, bưởi da xanh,

bưởi lông cổ cò, bưởi đường lá cam, thanh long ruột đỏ, thanh long ruột vàng, nhãn

nước, nhãn tiêu, đào mỏ quạ, mận tam hoa, chuối tiêu hồng, chuối ngự, ...

3. Yếu tố chỉ loại + nguồn gốc/xuất xứ

Ví dụ: quýt chum Sa Đéc, thanh trà xứ Huế, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều

Thanh Hà, chè Tân Cương, măng cụt Tân Quy, ki uy ruột vàng Niu Di Lân, vú

sữa lò rèn Vĩnh Kim, chanh thơm Indo, nho Ruby Roman, dứa Cayen Chân

mộng, mía Quế Đường, lúa tám thơm Hải Hậu, khoai tây Atlantic, chè Thúy

Ngọc, chè Shan tuyết,...

4. Yếu tố chỉ loại + tên gọi loài thực vật khác

Hình thức/cấu tạo các bộ phận của cây nông nghiệp là một trong nhiều dấu

hiệu/đặc điểm thường được lựa chọn dùng để định danh cây nông nghiệp. Hình

thức thường được chú ý khi định danh dựa theo hình thức của thực vật khác.

Ví dụ: chuối lá, mía ngô, nếp hạt cau, nếp thầu dầu, khoai chuối, khoai lang

tre, khoai lang rau muống, củ từ lá quế, keo lá tràm, chanh leo hình chuối, nho

thân gỗ, cà phê vối, ổi găng, khoai chùm dâu,...

5. Yếu tố chỉ loại + tên gọi của động vật

Dùng tên gọi động vật để đặt tên cây nông nghiệp là do sự giống nhau về

hình thức, kích cỡ của bộ phận nào đó của cây trồng (quả, hạt,...) với hình thức,

kích cỡ của động vật đó.

Ví dụ: xoài voi, xoài tượng, ổi trâu, khoai chuột, lúa nếp con giòi, lúa tẻ tép,

lúa nếp con giòi Phù Yên, lúa tẻ tép Hải Dương, lúa tẻ tép Hải Phòng, lúa tẻ tép

Nghệ An,...

6. Yếu tố chỉ loại + tên gọi bộ phận cơ thể động vật

Nhiều loại cây nông nghiệp được gọi tên theo tên gọi của bộ phận cơ thể

động vật, có thể là vì loại cây đó có một bộ phận (quả, củ, lá ...) giống với hình

thức của bộ phận cơ thể động vật.

74

Ví dụ: khoai chân vịt, thông mã vĩ, keo tai tượng, ngô răng ngựa, khoai sọ

chân hổ, khoai sọ mặt quỷ, củ đầu trâu, chuối sừng bò, nếp mỏ quạ, kê đuôi

chồn, cao lương đuôi ngựa, lúa tám cổ ngỗng, bưởi đầu hổ, cam đầu hổ,...

7. Yếu tố chỉ loại + tên gọi vật thể khác

Nhiều cây trồng được định danh theo tên gọi của các vật thể khác dựa vào sự

giống nhau về hình thức của một bộ phận (vỏ, lá, củ, hạt, bông,...) với các vật thể

được dùng để gọi tên. Ví dụ: khoai đao, nếp râu, lúa chiêm râu Tây Bắc, quýt

chum Bắc Giang, quýt chum Bắc Quang, môn lựu đạn Gio Linh, nếp đinh, nếp

hạt cau, cam sành, keo lưỡi liềm, từ tam giác, củ cọc dậu, củ cọc rào, khoai lang

vồ, khoai bế em,...

8. Yếu tố chỉ loại + tên gọi bộ phận cơ thể người

Những bộ phận cơ thể con người thường được sử dụng để định danh các loại

cây nông nghiệp. Ví dụ: nho ngón tay, nho móng tay, nho mĩ nhân chỉ (nho ngón

tay mĩ nhân), nho sữa, phật thủ, nho ngón tay phù thủy,...

9. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm của bộ phận loại thực vật đó.

Ví dụ: chanh giấy, cam vỏ lụa, trám lá dài, chanh lá to, đào lộn hột, táo Thái

Lan quả dài, kiều mạch ba góc, tiêu lá bầu, chanh dây, sắn dù, thông ba lá,...

10. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm màu sắc các bộ phận của loại cây trồng đó

Các bộ phận của cây được dùng để định danh gồm:

- Quả: bưởi đào, nho đen, quýt vàng, bưởi da xanh, chanh đỏ, bơ vỏ tím, táo đỏ,

trám trắng, trám đen,...

- Hạt, ruột: đậu xanh, đậu đen, thanh long ruột đỏ, khoai lang tím, khoai quế

hường, ki uy ruột vàng, sầu riêng ruột đỏ, chanh đào, sầu riêng ruột đỏ, nho cầu

vồng rực rỡ,...

11. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm kích cỡ

- Kích cỡ của cây: lúa dự cao cây, lúa bắc giàn (giống lúa thân rất cao), lúa

dự lùn, lúa nếp lùn, chuối lùn, táo lùn, táo lùn Mĩ, táo đỏ lùn, mía de (giống mía

thân nhỏ, vỏ cứng),...

75

- Kích cỡ của quả, hạt: chuối ngốp (giống chuối có quả rất to), củ cái, nưa

khổng lồ, khoai từ lớn, khoai môn tí (giống khoai củ nhỏ nhưng rất ngon), táo đại,…

12. Yếu tố chỉ loại + môi trường sống (nơi sinh trưởng)

Môi trường sống của các loại cây nông nghiệp rất đa dang, gồm môi trường

chính là trên cạn và nước.

- Môi trường sống trên cạn: lúa mộ (giống lúa gieo hạt trực tiếp trên đất cát

pha), khoai sọ đồng, lúa mạch, lúa mì, cao lương, kiều mạch, quýt đất cát,...

- Môi trường sống trên đồi, núi: khoai sọ đồi, khoai sọ nương, khoai sọ núi,

khoai sọ rừng, xoan chịu hạn (giống lúa tám xoan có khả năng chịu hạn tốt), cam

núi, khoai đồi, lúa nương,…

- Môi trường sống dưới nước: lúa nước, lúa lốc, dừa nước, khoai nước, từ

nước, lúa ngoi (giống lúa có khả năng mọc vươn cao theo mực nước),...

13. Yếu tố chỉ loại + thời gian sinh trưởng

Tên gọi cây nông nghiệp mang đặc trưng thời gian gồm có các kiểu sau:

- Thời gian sinh trưởng: lúa ba giăng, khoai lang ba tháng tím, lúa ngắn

ngày, khoai lang 2 tháng rưỡi,...

- Thời gian gieo trồng: lúa chiêm, lúa mùa, ngô đông, lúa đông xuân, từ

ngược mùa, khoai sọ muộn, lúa sớm, lúa thu, nhãn muộn, nhãn muộn Hà Tây,...

- Thời gian thu hái: nhãn chín muộn, vải chín sớm, vải chín muộn, cam chín sớm,...

14. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông nghiệp

Khá nhiều tên gọi cây nông nghiệp thể hiện các đặc điểm, tính chất của từng

loại, từng giống cây. Những đặc điểm, tính chất được lựa chọn chủ yếu liên quan

đến các bộ phận nào của cây (quả, hạt, thân, củ,...) phục vụ nhu cầu đời sống của

con người:

- Đặc điểm của hạt: lúa nếp, lúa tẻ, ngô nếp, ngô tẻ, ngô nếp lai tím dẻo, ...

- Đặc điểm, tính chất của củ, quả: mít dai, táo giòn, nhãn nước, ổi mỡ, củ

mỡ, khoai dai, xoài cát, dừa sáp, nhãn cùi, sắn bở, nho không hạt, hồng không

hạt, bưởi ngọt,...

76

15. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm mùi

Loại mùi được dùng để định danh cây nông nghiệp là dựa vào mùi của quả, của

hạt khi chín. Ví dụ: lúa nhài (giống lúa cho hạt gạo có mùi thơm của hoa nhài), lúa

tám thơm, chanh thơm Indo, quýt hôi, khoai quế (khoai củ có mùi của vỏ cây quế),

lúa nàng thơm chợ Đào, lúa bắc hương, nếp thơm Tú Lệ, nếp dầu hương, lúa tẻ

hương cốm, khoai tím thơm, khoai sọ thơm, nhãn hương chi, chanh thơm,...

16. Yếu tố chỉ loại + đặc điểm vị

Đặc điểm vị được dùng để định danh cây nông nghiệp chủ yếu thể hiện vị

của bộ phận quả, củ và hạt của các loại cây trồng. Ví dụ: quýt ngọt, bưởi chua,

bưởi đường, khế ngọt, khế chua, nhãn đường phèn (giống nhãn cho quả chín có

vị ngọt thanh như đường phèn), quýt đường Cái Bè Tiền Giang, quýt đường Lai

Vung Đồng Tháp, quýt đường Thái, cam mật không hạt, cam mật Ôn Châu, táo

ngọt, táo Thiện Phiến ngọt, chanh đắng, cam bạc hà,...

17. Yếu tố chỉ loại + tên các nhân vật lịch sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích

Cây nông nghiệp là loại cây do con người gieo trồng, chăm sóc để tạo ra sản

phẩm phục vụ cuộc sống của con người. Nhiều giống cây trồng cho sản phẩm có

chất lượng rất cao, rất tốt theo đánh giá của con người. Những giống cây trồng

cho sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp như vậy thường được đặt tên theo

tên các nhân vật lịch sử hoặc trong truyện cổ tích.

Ví dụ: lúa nếp Lang Liêu, lúa tẻ nàng Hoa, lúa tẻ nàng Xuân, lúa nếp

cô Tiên, lúa nếp Hoàng hậu, khoai tây Aladin, lúa Thần Nông, đào Tây

Vương Mẫu,...

- Lúa nếp Lang Liêu: giống lúa nếp được chọn tạo từ giống lúa nếp cổ truyền

của Việt Nam cho năng suất, chất lượng cao, gạo thơm, cơm dẻo, được trồng

phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn đặc cách công nhận là giống Quốc gia tại Quyết định số 417/QĐ-TT-CLT

ngày 15/10/2010. Giống lúa nếp này được lấy tên của một vị vua Hùng - Lang

Liêu - để đặt tên.

77

18. Yếu tố chỉ loại + tên người tạo ra giống cây trồng

Nhiều giống cây trồng là sản phẩm do con người tạo ra. Để ghi nhớ, người ta

thường lấy tên người tạo ra giống cây đó để gọi tên cây. Vì vậy, có khá nhiều

loại cây được gọi tên bằng chính tên người tạo ra cây trồng. Có thể nêu ra một số

ví dụ cụ thể về cách định danh này.

- Bưởi Năm Roi: loại bưởi do lão nông Bùi Văn Tước nay đã 85 tuổi tạo ra.

Tên ông đã nổi tiếng nhưng bà con ở ấp Thuận Tân, xã Thuận An, huyện Bình

Minh, tỉnh Vĩnh Long cứ quen gọi là bác Mười Tước hay thân mật hơn là ông

Năm Roi. Hỏi về biệt danh Năm Roi, ông bảo: "Sở dĩ người ta gọi tui là ông

Năm Roi bởi vì tích xưa cách đây trên 57 năm rồi. Hồi đó, tui còn là một thanh

niên mê làm ruộng làm vườn, có lần đến nhà người bác là ông hội đồng Bùi

Quang Quy chơi, được cho ăn thứ bưởi gì ngon quá. Ông bác cho biết đây là

trái cây của cây bưởi ngoài bụi trầu và căn dặn con cháu rào kĩ, đứa nào lén hái

bưởi ăn là bị đánh 5 roi. Tui là đứa đã bị ăn 5 roi vô mông. Sau đó, con của ông

bác là ông Bùi Hà Thanh cho tui chiết 5 nhánh về trồng cho trái rất ngon".

Được biết từ đó cây bưởi có tên Năm Roi và được nhân giống trồng rộng rãi cho

tới ngày nay. Bưởi Năm Roi đã đạt giải nhất cuộc thi Trái ngon miệt vườn do

tỉnh Vĩnh Long tổ chức vào năm 1996. Một phát hiện lí thú hơn là vào năm

1966, ông Mười Tước đã nhân giống thành công giống lúa IR8 (lúa Thần Nông)

đầu tiên của Việt Nam và được tặng bằng khen Nông nghiệp Bội tinh đệ nhị

hạng của chính quyền Sài Gòn. [Lịch sử Bưởi Nam Roi, Theo Trái cây miền

Nam, ngày 28 tháng 03 năm 2014].

- Táo Antonov: loại táo có màu vỏ xanh phớt vàng, có mùi hương rất thơm,

giữ được lâu, do nhà bác học Nga Antonov tạo ra.

Kết quả miêu tả, phân tích các đặc điểm được dùng để định danh cây nông

nghiệp được tổng hợp trong bảng sau đây:

78

STT Dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh Số lượng Tỉ lệ %

1 Mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng 435 19,74

2 Giống cây cụ thể cùng loại 384 17,42

3 Nguồn gốc, xuất xứ cây nông nghiệp 281 12,75

4 Hình thức của thực vật khác 231 10,48

5 Hình thức của động vật 187 8,48

6 Hình thức bộ phận cơ thể động vật 141 6,40

7 Hình thức vật thể khác 105 4,76

8 Hình thức bộ phận cơ thể người 98 4,44

9 Đặc điểm cấu tạo 75 3,40

10 Đặc điểm màu sắc 51 2,31

11 Đặc điểm kích cỡ 46 2,08

12 Môi trường sống (nơi sinh trưởng) 41 1,86

13 Thời gian sinh trưởng 32 1,46

14 Đặc điểm, tính chất của bộ phận cây nông 29 1,32

nghiệp

15 Đặc điểm mùi 26 1,18

16 Đặc điểm vị 23 1,05

17 Tên các nhân vật lịch sử hoặc trong truyện cổ 15 0,68

tích

4 0,18 18 Tên người tạo ra giống cây trồng

2204 100 TỔNG SỐ

Bảng 2.4. Tổng hợp các đặc điểm dùng để định danh cây nông nghiệp

Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể thấy rằng những dấu hiệu đặc trưng được

chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp thường là những đặc trưng mang tính

khách quan, nghĩa là những thuộc tính thuộc vốn có của chính các loài cây nông

nghiệp. Đó là những những đặc trưng thuộc hình thức bên ngoài hay thuộc tính

79

bản thể của các loài cây nông nghiệp đó. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rõ

rằng, cũng thuộc thực vật nhưng cây nông nghiệp không phải là loài mọc hoang

mà là những loài cây do con người thuần hóa, lai tạo mà thành với mục đích

phục vụ cuộc sống, sự sinh tồn của con người. Do đó chúng gắn bó mật thiết với

xã hội loài người. Khi các loài cây được thuần hóa để chúng trở thành cây nông

nghiệp, con người lại áp dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ để lai tạo ra rất

nhiều giống cây nông nghiệp mới có sản lượng cao, chất lượng tốt phục vụ nhu

cầu ngày một cao của mình. Cho nên tên gọi cây nông nghiệp mang rất nhiều

những đặc điểm gắn liền với đời sống con người. Các loại cây nông nghiệp được

đặt tên đều thông qua nhận thức, hiểu biết của con người về đặc điểm của từng

loài cây đó. Các đặc điểm, thuộc tính được dùng để định danh cây nông nghiệp

đều đã được con người lựa chọn kĩ lưỡng thông qua nhận thức và hiểu biết của

mình. Vì vậy, trong tên gọi cây nông nghiệp hàm chứa các thông tin phản ánh

đặc điểm tư duy, đặc điểm văn hóa của cộng đồng người sử dụng, gieo trồng,

chăm sóc các loài cây nông nghiệp đang tồn tại và phát triển trong không gian

sinh tồn của mình. Đây chính là đặc trưng của cách định danh cây nông nghiệp

tiếng Việt, thể hiện rõ sự khác biệt với cách định danh thực vật nói chung và với

cách định danh cây nông nghiệp trong các ngôn ngữ khác.

2.4.3. Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt xét về các bậc định danh

Kết quả nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt về phương diện

cấu tạo và về phương diện những đặc trưng được dùng để định danh ở các mục

nêu trên có thể khẳng định rằng người Việt thường sử dụng nhiều đặc trưng để

gọi tên từng cây nông nghiệp bằng từ và ngữ định danh. Cách định danh nhiều

bậc như vậy, một mặt, đã cho phép phân biệt rất rõ ràng từng giống cây trong

cùng một họ, mặt khác, chỉ rõ những đặc điểm, tính chất, công dụng của các

phần, các bộ phận của cây được con người sử dụng với các mục đích khác nhau

trong cuộc sống. Điều này có nghĩa là, về phương diện định danh, dù là định

danh gốc hay định phái sinh, tên gọi cây nông nghiệp đều chứa đựng một số các

80

dấu hiệu/đặc điểm khác nhau dùng để định danh. Sau đây là kết quả khảo sát cụ

thể.

2.4.3.1. Tên gọi cây nông nghiệp có một dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt

được đặt tên chỉ với một đặc trưng có số lượng lớn. Đặc trưng được dùng để gọi

tên cây nông nghiệp thường đa dạng: giống, hình thức, cấu tạo, kích cỡ,... Có

1242/2204 tên gọi cây nông nghiệp sử dụng một dấu hiệu/đặc điểm để định danh

(đặt tên), chiếm 56,35%. Cụ thể như sau:

a. Đặc điểm giống cây nông nghiệp các loại: gồm 334/1242 tên gọi, chiếm

26,89%, ví dụ: xoài tứ quý, xoài hạt lép, xoài cát chu, xoài ba màu, xoài canh

nông, bưởi da xanh, bưởi đường, bưởi lông cổ cò, thanh long ruột đỏ, thanh long

ruột vàng, đào mỏ quạ, mận tam hoa, chè Shan tuyết, sầu riêng hạt lép, vú sữa lò

rèn, mít tố nữ, mít ruột đỏ, khoai sáp tím, khoai sáp vàng,...

b. Đặc điểm nguồn gốc/xuất xứ: có 279/1242 tên gọi, chiếm 22,46%, ví dụ:

bưởi Đoan Hùng, bưởi Phúc Trạch, hồng Hạc Trì, mận Bắc Hà, thanh trà xứ

Huế, cam Canh, cam Bố Hạ, dứa Đồng Giao, chè Phú Thọ, chè Tân Cương,

măng cụt Tân Quy, mãng cầu Xiêm, cam Cao Phong, chanh Tây Ban Nha, nho

Ninh Thuận, chanh Tây Ban Nha, đào Trung quốc, chanh Thái, nho Muscat -

Moscuto, nho Nam Phi, nho Ruby Roman,...

c. Đặc điểm, tính chất của củ, quả: có 140/1242 tên gọi, chiếm 11,27%, ví

dụ: mít dai, táo giòn, táo bở, nhãn nước, ổi mỡ, khoai dai, xoài cát, dừa sáp,

môn mịn, nhãn cùi, sắn bở, sắn dượng, hồng không hạt, chanh không hạt, bưởi

chua, quýt ngọt, cam đường, ngô ngọt, nhãn cùi, ngô đường, na dai, xoài cơm,...

d. Đặc điểm hình thức: có 100/1242 tên gọi, chiếm 8,05%, cụ thể là:

+ Hình thức bộ phận cơ thể động vật: có 35 tên gọi, ví dụ: khoai chân vịt,

thông mã vĩ, keo tai tượng, chuối mỏ giang, ngô răng ngựa, khoai trứng, khoai

sọ, củ gan trâu, củ đầu rồng, chuối sừng bò, nếp mỏ quạ, đào mỏ quạ, kê đuôi

chồn, cao lương đuôi ngựa,...

81

+ Hình thức bộ phận cơ thể người: có 27 tên gọi, ví dụ: nho ngón tay, nho

móng tay, nho chuỗi ngọc, nho mĩ nhân chỉ, nho sữa, phật thủ, nho ngón tay phù

thủy, khoai sọ,...

+ Hình thức vật thể khác: có 21 tên gọi, ví dụ: khoai đao, nếp râu, quýt chum,

nếp đinh, nếp hạt cau, cam sành, keo lưỡi liềm, từ tam giác, củ cọc dậu, củ cọc rào,

khoai bế em,...

e. Đặc điểm mùi, vị: có 97/1242 tên gọi, chiếm 7,81%, ví dụ: lúa nhài, quýt

hôi, khoai quế, nếp quýt, môn thơm, nếp thơm, chanh thơm, quýt ngọt, bưởi

chua, bưởi đường, khế ngọt, khế chua, chanh đắng,...

g. Đặc điểm thời gian: có 81/1242 tên gọi, chiếm 6,52%, ví dụ: lúa chiêm,

lúa mùa, ngô đông, lúa đông xuân, lúa sớm, lúa thu, nhãn muộn, lúa ngắn ngày,

khoai lang ba tháng, khoai lang hai tháng rưỡi, khoai sọ ba tháng, khoai sọ sớm,

khoai trại, lạc ngắn ngày,...

h. Đặc điểm môi trường sống: có 75/1242 tên gọi, chiếm 6,04%, ví dụ: lúa

mộ, lúa mạch, lúa mì, cao lương, lúa nước, lúa lốc, dừa nước, khoai nước, từ

nước, lúa ngoi,...

i. Đặc điểm màu sắc: có 67/1242 tên gọi, chiếm 5,40%, ví dụ: bưởi đào, nho

đen, quýt vàng, chanh đỏ, bơ vỏ tím, táo má hồng, táo đỏ, táo xanh, mía tím,

trám trắng, trám đen,...

k. Đặc điểm cấu tạo: có 52/1242 tên gọi, chiếm 4,19%, ví dụ: chanh giấy,

cam giấy, cam vỏ lụa, xoài cát, trám lá dài, cam lá to, từ gai, từ lông, tiêu lá

bầu, chanh dây, thông ba lá,...

l. Đặc điểm kích cỡ: có 17/1242 tên gọi, chiếm 1,37%, ví dụ: chuối lùn, mía

de, chuối ngốp, củ cái, táo đại,...

2.4.3.2. Tên gọi cây nông nghiệp có hai dấu hiệu/đặc điểm dùng để định danh

Kết quả khảo sát của luận án cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt được

đặt tên với hai đặc trưng cũng có số lượng lớn với 586/2204 tên gọi, chiếm

82

26,58%. Các loại đặc trưng được dùng để đặt tên cây nông nghiệp cũng đa dạng.

Cụ thể là:

a. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng: có

176/586 tên gọi, chiếm 30,00%, ví dụ: ngô lai LVN 10, đậu tương ĐT 93, đậu

xanh T135, cao su LH82/158, chè LDP1, mía ROC 23, bưởi Năm Roi BN25, cam

sành CS8, quýt tiều QT12, chôm chôm CĐN 13j, nhãn BT20NXCV, sầu riêng

EAKV-01, xoài CT1 Hòa Lộc, bông vải VN20, thuốc lá C176,...

b. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm màu sắc (của vỏ, hạt, hoa,

cây,...): có 137/586 tên gọi, chiếm 24,21%, ví dụ: lúa nếp cẩm, lúa nếp cái hoa

vàng, lúa chiêm chân tía, mít vỏ xanh múi đỏ, nho ngọc bích xanh, ngô nếp tím,

lúa nếp đen,...

c. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm môi trường sinh trưởng: có

105/586 tên gọi, chiếm 17,69%, ví dụ: khoai sọ đồi, khoai sọ nương, khoai sọ

núi, khoai sọ rừng, khoai sọ đồng, xoan chịu hạn, lúa tẻ nương, lúa nếp nương,

kiều mạch đất cát,...

d. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm xuất xứ: có 93/586 tên gọi,

chiếm 15,60%, ví dụ: quýt đường Cái Bè Tiền Giang, cam sành Hàm Yên, cam

mật Ôn Châu, quýt đường Lai Vung Đồng Tháp, quýt đường Thái,...

e. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với tên người: có 75/586 tên gọi, chiếm

12,50%, ví dụ: lúa nếp Lang Liêu, lúa tẻ nàng Hoa, lúa tẻ nàng Xuân, lúa nếp cô

Tiên, lúa nếp Hoàng hậu, khoai tây Aladin,...

2.4.3.3. Tên gọi cây nông nghiệp có ba đặc trưng dùng để định danh

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy cây nông nghiệp trong tiếng Việt

được đặt tên với ba đặc trưng có số lượng ít với 376/2204 tên gọi, chiếm

17,07%. Đặc trưng được dùng để đặt tên cây nông nghiệp cũng rất đa dạng. Cụ

thể là:

a. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với đặc điểm tính chất (hình dáng, màu sắc,

mùi, vị,...) và xuất xứ giống cây trồng: có 143/376 tên gọi, chiếm 38,03%, ví dụ:

83

quýt vỏ giòn Hà Giang, lúa chiêm tía chân Thái Nguyên, lúa chiêm sành Cẩm

Khê, lúa dự nghển Hòa Bình, lúa dự thơm đen Thái Bình, lúa nếp con giòi Phù

Yên, lúa nếp đuôi trâu Phù Yên, lúa nếp hạt cau Nghệ An, quýt da xanh Cái Bè,

bưởi da xanh Bến Tre,...

b. Đặc điểm chỉ giống kết hợp với môi trường, thời gian sinh trưởng và đặc

điểm cấu tạo: có 128/376 tên gọi, chiếm 34,04%, ví dụ: lúa nếp nương có đuôi,

lúa nếp nương vỏ trấu vàng, khoai lang ba tháng tím, khoai lang đồi chỏm đỏ,

khoai sọ trứng dọc tím, nhãn xuồng cơm vàng sữa,...

c. Đặc điểm chỉ loại kết hợp với giống và mã hiệu lô/nguồn giống cây trồng: có

105/376 tên gọi, chiếm 27,93%, ví dụ: mía quế đường 11, lúa lai nhị ưu 68, ngô

đường Golden Sweeter 93, lạc ngắn ngày GV10, lúa lai Bác ưu 253, lúa lai Trang

Nông 15, dâu tằm tam bội 36, cà phê vối TR4, cà phê chè TN1, lúa tẻ Vũ Di 3,...

Như vậy, có tất cả 18 dấu hiệu/đặc điểm được sử dụng để định danh cây

nông nghiệp trong tiếng Việt. Kết quả miêu tả, phân tích các bậc định danh cây

nông nghiệp được tổng hợp trong bảng sau đây:

STT Loại Các dấu hiệu/đặc điểm Số Tỉ lệ

tên gọi dùng để định danh lượng %

1. Đặc điểm giống cây nông nghiệp các 334 26,89

loại

Tên gọi 2. Đặc điểm nguồn gốc/xuất xứ 279 22,46

1. dùng 1 3. Đặc điểm, tính chất của củ, quả 140 11,27

đặc điểm 100 8,05 4. Đặc điểm hình thức

định danh 97 7,81 5. Đặc điểm mùi, vị

(1242/2204) 81 6,52 6. Đặc điểm thời gian

75 6,04 7. Đặc điểm môi trường sống

67 5,40 8. Đặc điểm màu sắc

52 4,19 9. Đặc điểm cấu tạo

84

10. Đặc điểm kích cỡ 17 1,37

1. Đặc điểm chỉ giống + mã hiệu 176 30,00%

Tên gọi lô/nguồn giống cây trồng

dùng 2 2. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm màu 137 24,21%

2. đặc điểm sắc

định danh 3. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm môi 105 17,69%

(586/2204) trường sinh trưởng

4. Đặc điểm chỉ giống + đặc điểm xuất 93 15,60%

xứ

5. Đặc điểm chỉ giống + tên người (tạo 75 12,50%

ra giống cây trồng hay các nhân vật lịch

sử hoặc trong kho tàng truyện cổ tích)

Tên gọi 1. Đặc điểm chỉ giống + xuất xứ + đặc 143 38,03%

dùng 3 điểm tính chất (hình dáng, màu sắc, mùi,

3. đặc điểm vị,...)

định danh 2. Đặc điểm chỉ giống + môi trường, 128 34,04%

(376/2204) thời gian sinh trưởng + đặc điểm cấu tạo

3. Đặc điểm chỉ loại + giống, cách thức 105 27,93%

lai tạo + mã hiệu lô/nguồn giống

TỔNG CỘNG 2204 100%

Bảng 2.5. Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Kết quả miêu tả, phân tích các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp nêu trên

có thể khẳng định rằng, tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt, một mặt, thể

hiện được những đặc điểm của giống cây cụ thể, mặt khác, cũng thể hiện rõ vị trí,

trật tự thể hiện chức năng của những dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để đặt tên.

Các bậc định danh tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt thể hiện sự hiểu biết

kĩ càng của người Việt về vai trò, giá trị của từng loại cây nông nghiệp đối với

cuộc sống con người qua sự lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm dùng để đặt tên. Theo

85

đó, trong tổng số 2204 cây nông nghiệp được khảo sát thì những cây nông nghiệp

chỉ dùng một dấu hiệu/đặc điểm để đặt tên có số lượng nhiều nhất: 1242/2204,

chiếm 56,35%. Có 10 dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn để định danh các giống

cây trồng, trong đó hai dấu hiệu là đặc điểm giống cây trồng và đặc điểm nguồn

gốc/xuất xứ của giống cây trồng được sử dụng nhiều nhất để đặt tên cây trồng.

Điều đó cho thấy người Việt rất chú ý đến việc lựa chọn giống cây trồng và nguồn

gốc của chúng cho phù hợp với thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên từng vùng miền để

gieo trồng cho năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Những dấu hiệu/đặc điểm

về hình thức, tính chất của bộ phận của cây trồng được thu hoạch phục vụ đời

sống con người cũng là những dấu hiệu thường được dùng để đặt tên gọi cho cây

trồng. Trong trường hợp dùng một dấu hiệu/đặc điểm không đủ khả năng phân

biệt các giống cây trồng với nhau thì phải lựa chọn thêm các dấu hiệu thứ hai để

đặt tên. Khi đó những dấu hiệu/đặc điểm có khả năng phân biệt các giống cây

trồng thuộc cùng một loại sẽ được lựa chọn. Đó là năm dấu hiệu/đặc điểm: mã

hiệu lô/nguồn giống cây trồng; đặc điểm màu sắc sản phẩm của cây trồng; đặc

điểm môi trường sinh trưởng; đặc điểm xuất xứ của cây trồng và tên người tạo ra

giống cây trồng đó (dùng tên người để đặt tên giống cây trồng). Nếu hai dấu

hiệu/đặc điểm được chọn vẫn không thể biệt loại các cây trồng với nhau thì người

Việt sẽ chọn thêm một dấu hiệu nữa để gọi tên cây trồng. Khi đó sẽ có ba dấu hiệu

dược dùng để đặt tên cây trồng. Dấu hiệu thứ ba được dùng để đặt tên cây trồng

vẫn là những dấu hiệu về tính chất của sản phẩm cây trồng (mùi vị, hình dáng,

màu sắc,...); đặc điểm về môi trường sống, thời gian sinh trưởng của cây trồng hay

đặc điểm về lai tạo, nguồn giống cây trồng.

Như vậy, việc lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm để định danh cây trồng, việc sử

dụng bao nhiêu dấu hiệu/đặc điểm để đặt tên cho cây trồng đều thể hiện rõ nguyên

tắc dĩ nhân vi trung, nghĩa là cây trồng được đặt tên đều thông qua sự nhận thức,

hiểu biết sâu sắc của người Việt về từng loại cây trồng, về vai trò, giá trị sản phẩm

của từng loại cây trồng trong cuộc sống của mình.

86

Tiểu kết

Chương này tập trung nghiên cứu đặc điểm tên gọi cây nông nghiệp tiếng

Việt. Luận án đã trình bày khái quát về cây nông nghiệp làm cơ sở lí thuyết để

nghiên cứu đặc điểm định danh cây nông nghiệp tiếng Việt. Dựa vào kết quả thu

thập, thống kê tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án đã tiến hành tìm hiểu

đặc điểm tên gọi các tên gọi cây nông nghiệp từ ba bình diện: nguồn gốc ngôn

ngữ của tên gọi; phương thức cấu của tên gọi và những dấu hiệu/đặc điểm được

dùng để gọi tên.

Về phương diện nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, các tên gọi cây nông

nghiệp trong tiếng Việt chủ yếu có nguồn gốc Việt. Những tên gọi có nguồn gốc

ngoại lai (vay mượn tiếng nước ngoài và vay mượn từ các ngôn ngữ dân tộc

thiểu số) không nhiều cho thấy những loại cây trồng trên thế giới nhập vào Việt

Nam không nhiều, chủ yếu là những cây trồng có đặc điểm sinh học phù hợp với

điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu nhiệt đới của nước ta. Cây nông nghiệp có tên

gọi là ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là những giống cây trồng phù

hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở vùng địa lí mà các cộng đồng dân tộc thiểu số

sinh sống.

Về đặc điểm cấu tạo, các tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt có hình

thức cấu tạo đa dạng. Chúng có thể là những từ đơn, từ ghép và ngữ định danh.

Tất cả những cách thức cấu tạo từ, ngữ đó đã tạo ra hệ thống các tên gọi khác

nhau nhằm định danh hàng loạt các giống cây trồng. Cách thức cấu tạo từ, ngữ

của tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt cũng thể hiện đặc điểm loại hình

ngôn ngữ của tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính điển hình.

Về phương diện dấu hiệu/đặc điểm dùng để gọi tên, luận án đã xác định được

các đặc điểm được sử dụng để định danh cây nông nghiệp và tiến hành phân loại

cây nông nghiệp theo các đặc điểm định danh đã xác định được. Đặc trưng định

danh cây nông nghiệp đã được miêu tả, phân tích cụ thể theo từng loại dấu hiệu/

đặc điểm về mặt số lượng và tỉ lệ phần trăm. Kết quả nghiên cứu cho thấy 18 dấu

87

hiệu/đặc điểm được chọn làm cơ sở định danh thường là những đặc trưng khách

quan, tức là những thuộc tính thuộc khách thể của chính các loại cây trồng. Đó là

những dấu hiệu/đặc điểm thuộc hình thức bên ngoài hay thuộc tính bản thể của

cây trồng đó. Đồng thời, khi tri giác để định danh cây nông nghiệp, người Việt

thường chú ý nhiều nhất đến những bộ phận có ích, phục vụ mọi mặt cuộc sống

của con người, như quả, củ, hạt, cùi, thân, lá, hoa. Trong bộ các dấu hiệu/đặc

điểm đã được xác lập, dễ nhận thấy là những dấu hiệu/đặc điểm có tần số xuất

hiện cao trong tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là những đặc điểm của những

bộ phận "lộ thiên" dễ thấy của cây trồng (quả, hạt, lá, hoa, thân), những bộ phận

có ích cho cuộc sống của con người (củ, hạt, cùi, rễ), những đặc trưng tác động

trục tiếp đến các giác quan của con người như: đặc điểm về hình thức, đặc điểm

về kích cỡ, đặc điểm về màu sắc và đặc điểm về mùi, vị.

Luận án đã xác định được các bậc định danh trong tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt. Theo đó, khi đặt tên cây nông nghiệp người Việt chỉ sử dụng tối

đa ba dấu hiệu/đặc điểm để định danh, trong đó, cây nông nghiệp được đặt tên

chỉ bằng một dấu hiệu/đặc điểm chiếm số lượng lớn nhất; tiếp đến là cây được

đặt tên bằng hai dấu hiệu/đặc điểm, còn cây nông nghiệp được đặt tên bằng ba

dấu hiệu/đặc điểm có số lượng ít nhất. Điều đó phản ánh sự tri nhận chính xác về

từng loại cây nông nghiệp của người Việt rồi mới lựa chọn các dấu hiệu/đặc

điểm để đặt tên cho chúng.

88

CHƯƠNG 3:

ĐỊNH NGHĨA TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TIẾNG VIỆT TRONG

CÁC TỪ ĐIỂN GIẢI THÍCH

3.1. Dẫn nhập

Xem xét từ với tư cách là tín hiệu ngôn ngữ thì cái biểu hiện là hình thức cấu

tạo (hình thức ngữ âm) của từ, còn cái được biểu hiện chính là nội dung ý nghĩa

của từ. Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa là cái chung cho những

từ cùng loại. Nghĩa từ là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con

người và được thể hiện bằng ngôn ngữ. Sự phân tích nghĩa từ thành các nét nghĩa

đã được áp dụng rất hiệu quả trong công tác biên soạn từ điển. Việc miêu tả ý

nghĩa của từ trong từ điển trên cấp độ cấu trúc được thực hiện chính bằng

phương pháp phân tích thành tố (componential analysis). Hầu hết các định nghĩa

trong từ điển giải thích đều thực hiện công việc phân giải nội dung ý nghĩa của

từ ra thành các nét nghĩa. Vì vậy, có thể coi các định nghĩa của từ trong từ điển

giải thích là cách diễn giải nghĩa từ thành một danh sách các nét nghĩa cần và đủ

để phân định ý nghĩa này với ý nghĩa của tất cả các đơn vị khác của ngôn ngữ.

Định nghĩa từ điển của một từ cung cấp sự hiểu biết đầy đủ, chính xác ý nghĩa

của từ. Phân tích nghĩa của các từ ngữ chỉ cây nông nghiệp trong tiếng Việt bằng

cách dựa vào lời định nghĩa từ điển của chúng, qua đó có thể thấy được người

Việt thường tri giác loại cây nông nghiệp như thế nào khi nhận thức về chúng.

Trong chương này, luận án áp dụng lí thuyết phân tích thành tố nghĩa để xác

định các nét nghĩa trong định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong Từ

điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) [125] để từ đó tìm hiểu những đặc điểm

ngữ nghĩa của các cây nông nghiệp trong tiếng Việt.

3.2. Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt

Trong số nhiều phương pháp được sử dụng trong ngữ nghĩa học hiện đại thì

phương pháp phân tích thành tố được xem là một trong những phương pháp có

89

hiệu quả nhất và được phổ biến rộng rãi nhất. Phương pháp này được sử dụng

rộng rãi để nghiên cứu các bình diện khác nhau của vốn từ vựng. Nhiều nhà ngữ

nghĩa học còn coi phương pháp này như một phổ niệm trong ngôn ngữ học. Mục

đích của phương pháp này là nghiên cứu ý nghĩa từ vựng của các đơn vị ngôn

ngữ. Phương pháp này ít nhất được đặt cơ sở trên hai giả định sau đây:

Thứ nhất, ý nghĩa của mỗi đơn vị thuộc một cấp độ nhất định của cấu trúc

ngôn ngữ (ở đây ta thường nói về từ) bao gồm một bộ các dấu hiệu ngữ nghĩa

(còn gọi là nét nghĩa, nghĩa vị, nhân tử ngữ nghĩa).

Thứ hai, toàn bộ thành phần từ vựng của ngôn ngữ có thể được miêu tả nhờ

một số lượng có hạn, tương đối không lớn lắm các đơn vị này.

Luận án ứng dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân giải những

lời định nghĩa từ điển của mục từ ngữ chỉ cây nông nghiệp trong tiếng Việt ra

thành các nét khu biệt, phản ánh những đặc trưng cơ bản của đối tượng được

biểu thị. Đối tượng được phân tích gồm 386 mục từ tên gọi cây nông nghiệp

trong Từ điển tiếng Việt. Cấu trúc lời giải thích của mỗi mục từ tên gọi cây nông

nghiệp trong tiếng Việt gồm hai phần: phần chỉ ra loại - tên gọi chỉ loại cây nông

nghiệp và phần nêu các đặc trưng khu biệt của nó. Các từ đều có cấu trúc nghĩa

W = S + v, trong đó, W là từ đầu mục, S là từ bao, đó là yếu tố chỉ loại, v là các

giá trị đặc trưng của từ đầu mục, các giá trị đặc trưng này được hiện thực hóa

thành v1, v2,..., vn, tức là các đặc trưng riêng, cụ thể được lựa chọn nêu ra trong

định nghĩa của từng tên gọi cây nông nghiệp là mục từ. Như vậy, định nghĩa các

mục từ tên gọi cây nông nghiệp có thể được hiện thực hóa theo mô hình sau:

Mục từ (W) = Thành tố nghĩa chỉ loại (S) + Thành tố nghĩa chỉ đặc

trưng được lựa chọn (v1, v2, v3..., vn)

3.2.1. Miêu tả và phân tích định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Sau khi khảo sát và phân tích 386 định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng

Việt trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), luận án nhận thấy cấu trúc

90

lời giải thích mỗi tên gọi cây nông nghiệp gồm có hai phần: nét nghĩa chỉ loại

(tên gọi chỉ loại) và các nét nghĩa chỉ đặc trưng khu biệt của các loài cây nông

nghiệp. Các nét nghĩa này được chúng tôi thống kê, sắp xếp theo trật tự giảm dần

trong lời định nghĩa từ điển của các tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt như sau:

1. Nét nghĩa chỉ loại (classification seme)

Nét nghĩa phạm trù này xuất hiện trong hầu hết các định nghĩa được phân tích

(386/386) bao gồm các từ chỉ loại như cây, cây trồng, cây ăn quả, cây lương

thực,...Ví dụ:

- Yến mạch d. Cây xứ ôn đới thuộc họ lúa, chùm hoa hình cờ, hạt dùng chủ

yếu làm thức ăn cho ngựa và gà vịt.

- Xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả hình bầu dục, thịt

màu vàng, hạt to có bao cứng.

- Ngô d. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng

chừng thân, hạt dùng để ăn.

- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa đường, dùng để kéo

mật, làm đường.

- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt

đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống.

2. Nét nghĩa đặc điểm hình thức/cấu tạo

Nét nghĩa này chiếm 31,11% (120/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc

điểm cấu tạo liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong tiếng

Việt là thân, lá, quả, củ, hạt, thường được nêu lên trong lời định nghĩa. Cụ thể

như sau:

2.1. Thân: 26,67 % (32/120). Ví dụ:

- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm,...

- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng,...

- Đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, quả

dùng để ăn hoặc để lấy nhựa làm thuốc.

91

- Hồ tiêu d. Cây thân leo cùng họ với trầu không,...

- Gấc d. Cây thân leo thuộc dòng họ bầu bí,...

2.2. Lá: 20,83% (25/120). Ví dụ:

- Cau d. Cây không phân cành, thân hình cột cao, lá hình lông chim và mọc

thành chùm ở ngọn,...

- Bông d. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, lá hình chân vịt,...

- Mận d. Cây ăn quả cùng họ với đào, lá dài, mép có răng nhỏ,...

- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm, lá màu lục bóng ở mặt trên, mặt dưới

trắng bạc,...

- Đay d. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc,...

2.3. Quả: 16,67% (20/120). Ví dụ:

- Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả

mít nhỏ,...

- Đậu d. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình bướm, quả

dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm thức ăn.

- Táo d. Tên gọi chung một số cây có quả tròn, da nhẵn, thịt mềm, ăn được,...

- Vải d. Cây ăn quả, (...), quả có vỏ sần sùi màu đỏ nâu,...

- Gấc d. Cây leo thuộc dòng họ bầu bí, quả to, hình trứng nhọn đầu, ngoài

mặt có nhiều gai mềm,...

2.4. Hoa: 15,00% (18/120). Ví dụ:

- Khoai lang d. Cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay trắng,

rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn.

- Muỗm d. Cây gỗ to cùng loại với xoài, hoa mọc thành cụm ở nách lá,...

- Đậu d. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình bướm,...

- Giâu gia xoan d. Cây nhỡ, hoa mọc thành chùm,...

- Đu đủ d. Cây thân cột, (...), hoa đực hoa cái riêng gốc,...

2.5. Củ: 12,5% (15/120). Ví dụ:

- Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, (...), rễ củ dài giống như củ sắn,

chứa nhiều bột,...

92

- Khoai sọ d. Cây cùng họ với ráy, lá to, cuống dài hình máng, củ hình cầu,

thường mang nhiều củ non, dùng để ăn.

- Khoai nước d. Cây cùng họ với ráy, trồng ở ruộng nước, củ hình trụ, dùng

để ăn.

- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ

riềng, chứa nhiều tinh bột,...

- Củ từ d. cn. khoai từ. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc, lá hình tim to,

củ hình thuôn dài, mọc thành chùm,...

2.6. Hạt: 10% (12/120). Ví dụ:

- Ngô d. Cây lương thực, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng chừng thân,..

- Kê d. Cây cùng họ với lúa, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, tập

trung thành một bông dài, dùng để chế biến làm thức ăn.

- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính, không có bao hoa,

quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc.

- Ý dĩ d. Cây thân cỏ, hạt tròn và to,...

2.7. Cành: 1,67% (2/120). Ví dụ:

- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm,...

- Bứa d. Cây to cùng họ với măng cụt, cành ngang,...

2.8. Gốc: 1,67% (2/120). Ví dụ:

- Gai d. Cây thân thảo, gốc hóa gỗ,...

- Củ từ d. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc,...

2.9. Rễ: 1,67% (2/120). Ví dụ:

- Củ đậu d. Cây loài đậu thân leo, rễ phình thành củ to,...

- Củ cải đường d. Cây cùng họ với cây dầu giun, rễ phình to thành củ, chứa

chất đường,...

2.10. Vỏ: 1,67% (2/120). Ví dụ:

- Măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày và chát,...

- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,...

93

3. Nét nghĩa vai trò của cây nông nghiệp trong đời sống của con người

Nét nghĩa này chiếm 10,91% (42/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc tính

liên quan đến vai trò các bộ phận được sử dụng của cây nông nghiệp trong đời

sống người Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong

lời định nghĩa.

3.1. Cây, thân, lá, vỏ, rễ, nhựa cây: 64,29% (27/42) dược dùng trong các lĩnh

vực sau:

+ Dùng để lấy sợi. Ví dụ:

- Đay d. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc, quả tròn, vỏ thân có

sợi dùng làm bao tải, làm dây buộc,...

- Gai d. Cây thân thảo, gốc hóa gỗ, lá mọc cách hình trái xoan, mép có khía răng,

mặt dưới có nhiều lông trắng mềm, lá dùng làm bánh, vỏ thân dùng lấy sợi,...

+ Dùng để làm đường. Ví dụ:

- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa đường, dùng để kéo

mật, làm đường,.

+ Dùng làm thuốc:

- Lựu d. cn. thạch lựu. Cây nhỏ, lá mọc đối, hoa màu đỏ, quả chứa nhiều hạt

có vỏ mọng nước, ăn được, vỏ rễ dùng làm thuốc.

+ Trồng để lấy bóng mát và gây rừng:

- Khuynh diệp d. cn. bạch đàn. Cây to, thân thẳng, trồng để lấy bóng mát và

gây rừng.

+ Trồng để lấy gỗ:

- Xoan d. Cây to, lá kép, hoa tím, quả hình trứng to bằng ngón tay, gỗ có

chất đắng, không mọt, thường dùng để làm nhà.

- Bồ đề d. Cây to, thân thẳng, gỗ trắng nhẹ, dùng làm vỏ hộp và que diêm,

nhựa dùng làm thuốc,...

- Mỡ d. Cây to mọc ở rừng, cùng loại với vàng tâm, gỗ nhẹ màu vàng nhạt,

thường dùng trong xây dựng và công nghiệp gỗ dán.

94

+ Dùng lấy nhựa:

- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa dùng để chế

một chất cũng gọi là sơn.

- Cao su d. Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có nhiều nhựa mủ dùng để sản

xuất cao su.

- Trám d. Tên gọi chung nhiều cây to cùng họ, có nhựa thường dùng để làm

hương, một số loài ăn quả được.

+ Dùng để làm đồ uống:

- Chè d. Cây nhỡ lá răng cưa, hoa màu trắng, quả có ba múi, trồng để lấy lá,

búp, nụ pha nước uống.

- Vối d. Cây to cùng họ với sim, lá mọc đối, hoa nhỏ màu trắng, lá và nụ hoa

phơi khô làm nước uống.

+ Dùng làm gia vị, làm thuốc:

- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay, dùng

làm thuốc.

+ Dùng ép lấy dầu:

- Sả d. Cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm, dùng

chiết lấy dầu.

- Long não d. Cây to cao, lá hình trứng, vò ra có mùi thơm, lá và gỗ dùng

cất tinh dầu.

- Tràm d. Cây to cùng họ với ổi, vỏ xốp, lá hình bầu dục nhọn, có mùi thơm

dùng để cất tinh dầu, làm thuốc,...

+ Dùng làm thuốc hút:

- Thuốc lá d. Cây họ cà, hoa màu hồng nhạt, lá to, mềm và có lông, dùng

làm thuốc để hút.

+ Dùng lợp nhà, làm nón:

- Cọ d. Cây cao thuộc họ dừa, lá hình quạt, mọc thành chùm ở ngọn, dùng để

lợp nhà, làm nón.

95

- Dừa nước d. Dừa mọc dưới bùn ngập nước, lá dùng để lợp nhà.

3.2. Quả, củ, hạt: 30,95% (13/42) được dùng trong các lĩnh vực sau:

+ Làm thức ăn cho người và gia súc. Ví dụ:

- Lúa mì d. Cây lương thực chính của nhiều vùng trên thế giới, nhất là các

vùng ôn đới, bột dùng làm bánh (bánh mì) ăn hằng ngày.

- Yến mạch d. Cây xứ ôn đới thuộc họ lúa, chùm hoa hình cờ, hạt dùng chủ

yếu làm thức ăn cho ngựa và gà vịt.

- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ

riềng, chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn hoặc chế bột làm miến.

+ Để làm thuốc, gia vị. Ví dụ:

- Thảo quả d. Cây thân cỏ cùng họ với gừng, quả mọc thành cụm, khi chín

màu đỏ nâu, dùng làm thuốc hoặc gia vị.

- Táo tàu d. Cây cùng loại với táo ta, quả khi khô nhăn nhúm, màu đen,

dùng để ăn và làm thuốc.

- Hồ tiêu d. Cây leo cùng họ với trầu không, hạt có vị cay, dùng làm gia vị.

+ Làm đồ uống:

- Cacao d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mĩ, châu Phi, lá đơn mọc đối, hoa nở

quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm sôcôla hay

pha nước uống.

- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt

đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống.

+ Lấy dầu:

- Dừa d. Cây cùng họ với cau, thân cột, lá to hình lông chim, quả chứa nước

ngọt, có cùi dùng để ăn hoặc ép lấy dầu.

- Hồi d. Cây to, quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình sao, mỗi múi

chứa một hạt, có mùi thơm, dùng để cất lấy tinh dầu.

- Sở d. Cây nhỡ cùng họ với chè, lá hình trái xoan, có răng, hoa trắng, hạt ép

lấy dầu dùng trong công nghiệp và để ăn.

96

- Cọ dầu d. Cây thuộc họ cau, dừa, quả nhỏ hình trứng, vỏ quả chứa chất

dầu ăn được và dùng trong công nghiệp.

+ Làm nguyên liệu sản xuất đường. Ví dụ:

- Củ cải đường d. Cây cùng họ với cây dầu giun, rễ phình to thành củ chứa

chất đường, trồng để sản xuất đường.

3.3. Hoa: 4,77% (2/42) được dùng trong các lĩnh vực sau:

+ Để ướp chè:

- Sen d. Cây mọc ở nước, lá to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng,

hương thơm nhẹ, dùng để ướp chè.

- Sói d. Cây nhỏ, hoa nhỏ và trắng như hạt gạo, có mùi thơm, thường dùng để

ướp chè.

+ Để chế đường:

- Thốt nốt d. Cây cùng họ với dừa, thân thẳng và cao, lá hình quạt, chặt

cuống cụm hoa thì hứng được một chất nước ngọt dùng để chế đường.

4. Nét nghĩa tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng

Nét nghĩa này chiếm 10,63% (41/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc tính

liên quan đến các bộ phận được sử dụng của cây nông nghiệp trong tiếng Việt là

quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong lời định nghĩa.

4.1. Quả, múi, cùi: 31,79% (13/41). Ví dụ:

- Mít mật d. Mít quả có múi mềm nhão,...

- Khế d. Cây to, lá kép lông chim, hoa nhỏ màu tím, quả có năm múi,

mọng nước,...

- Hồng xiêm d. Cây ăn quả cùng họ với vú sữa, lá dày hình trái xoan, hoa

màu trắng vàng mọc ở nách lá, quả hình trứng hay tròn, vỏ ráp, thịt mềm,...

4.2. Củ: 24,40% (10/41). Ví dụ:

- Dong riềng d. Cây trồng, thân cỏ, lá to, màu tím nhạt, củ trông giống củ

riềng, chứa nhiều tinh bột,...

97

- Khoai lang d. Cây thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay trắng,

rễ củ chứa nhiều tinh bột,...

- Sắn d. Cây cùng họ với thầu dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo lá, lá có cuống

dài, phiến xẻ hình chân vịt, rễ củ chứa nhiều tinh bột,...

4.3. Hạt: 17,10% (7/4). Ví dụ:

- Vừng d. Cây nhỏ, hoa màu trắng, quả dài có khía, khi chín tự nứt ra, hạt

nhỏ có nhiều dầu,...

- Lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá chét, quả

mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầu.

- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt

đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,...

4.4. Thân: 14,63% (6/4). Ví dụ:

- Mía d. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa chất đường,...

- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ,...

- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa,...

4.5. Vỏ thân và vỏ quả: 12,20% (5/41). Ví dụ:

- Chuối ngự d. Chuối quả nhỏ, khi chín vỏ rất mỏng,...

- Cam sành d. Cam quả có vỏ dày, sần sùi,...

- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay,...

5. Nét nghĩa đặc điểm màu sắc

Nét nghĩa này chiếm 10,40% (40/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc

điểm màu sắc, hương vị liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông

nghiệp trong tiếng Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá thường được nêu lên trong

lời định nghĩa.

5.1. Quả, củ, hạt, ruột: 52,50% (21/40). Ví dụ:

- Chanh đào d. Chanh quả to, khi chín có ruột màu hồng.

- Cam d. Cây ăn quả, lá to, hoa màu trắng, quả (tròn, bé hơn quả bưởi, vỏ

mỏng) khi chín thường có màu vàng đỏ,...

98

- Cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, hạt

đem rang và xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,...

5.2. Hoa: 37,50% (15/40). Ví dụ:

- Đào d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ hồng,...

- Khế d. Cây to, lá kép lông chim, hoa nhỏ màu tím,...

- Bông d. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, (...), hoa màu vàng,...

5.3. Lá: 10,00% (4/40). Ví dụ:

- Nhót d. Cây nhỡ, cành dài và mềm, lá màu lục bóng ở mặt trên, mặt dưới

trắng bạc,...

- Táo ta d. Cây to, lá hình bầu dục, mặt dưới lá bạc,...

- Vú sữa d. Cây to ăn quả, mặt dưới lá có lông óng ánh màu vàng sẫm,...

6. Nét nghĩa đặc điểm kích cỡ

Nét nghĩa này chiếm 10,11% (39/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc

điểm kích cỡ liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong tiếng

Việt là thân, lá, quả, củ, hạt, thường được nêu lên trong lời định nghĩa.

6.1. Thân cây: 28,20% (11/39). Ví dụ:

- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân lớn,...

- Mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ,...

- Mía lau d. Mía thân gầy và có gióng dài,...

6.2. Lá: 23,10% (9/39). Ví dụ:

- Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, lá có ba lá chét rộng,...

- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, lá có bẹ to,...

- Củ từ d. Cây trồng thân leo, có gai ở phần gốc, lá hình tim to,...

6.3. Quả: 20,51% (8/39). Ví dụ:

- Táo tây d. Cây ăn quả cùng họ với đào, lê, quả to, da nhẵn,...

- Chuối mắn d. Chuối quả nhỏ và mập,...

- Hồng bì d. Cây ăn quả cùng họ với cam, quả nhỏ, vỏ có lông,...

6.4. Củ: 17,94% (7/39). Ví dụ:

99

- Khoai nưa d. Cây cùng họ với ráy, củ rất to,...

- Củ cái d. Cây cùng họ với củ từ, củ to,...

- Củ đậu d. Cây loài đậu thân leo, rễ phình thành củ to,...

6.5. Hạt: 10,30% (4/39). Ví dụ:

- Nếp d. Loài lúa cho gạo hạt to và trắng,...

- Nếp con d. Thứ gạo nếp hạt nhỏ,...

- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn,

hạt to tròn.

7. Nét nghĩa đặc điểm hương, mùi, vị

Nét nghĩa này chiếm 8,80% (34/386). Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm,

hương, mùi vị liên quan đến các bộ phận sau đây của cây nông nghiệp trong

tiếng Việt là quả, củ, hạt, ruột, lá, hoa, thân, vỏ thường được nêu lên trong lời

định nghĩa.

7.1. Quả, hạt, thịt, ruột: 55,90% (19/34). Ví dụ:

- Xoài voi d. Xoài quả hơi tròn, hạt to, thịt thơm ngon,...

- Thị d. Cây ăn quả, hoa màu trắng, quả khi chín mùi rất thơm,...

- Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả

mít nhỏ, vị ngọt, nồng và béo.

7.2. Thân, lá, vỏ: 32,40% (11/34). Ví dụ:

- Quế d. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm, vị cay,...

- Sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có nhựa mùi hắc,...

- Sả d. Cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm, dùng

chiết lấy dầu.

7.3. Hoa: 11,77% ( 4/34). Ví dụ:

- Sen d. Cây mọc ở nước, lá to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng,

hương thơm nhẹ,...

- Nhài d. Cây nhỡ, lá hình bầu dục dài, màu lục đậm và bóng, hoa mọc thành

cụm, màu trắng, rất thơm,..

100

8. Nét nghĩa đặc điểm phân loại cây nông nghiệp

Nét nghĩa khu biệt này chiếm 5,12% (20/386). Ví dụ:

- Cao lương d. Cây lương thực cùng họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn,

hạt to tròn.

- Vú sữa d. Cây to ăn quả, mặt dưới lá có lông óng ánh màu vàng sẫm, quả

tròn, có nhựa, khi chín màu tím nâu hay lục nhạt.

- Đào lộn hột d. Cây ăn quả cùng họ với sấu, quả trông như hạt đậu nằm trên

đế hoa hình quả đào.

9. Nét nghĩa đặc điểm thời gian

Nét nghĩa này xuất hiện khá nhiều trong các định nghĩa cây nông nghiệp với

4,40% (17/386), gồm có:

+ Thời gian sinh trưởng:

- Ba giăng d. Giống lúc thường cấy vụ thu, thời gian từ lúc gieo mạ đến lúc

chín chỉ khoảng ba tháng.

+ Thời gian gieo trồng:

- Khoai mùa d. Khoai lang trồng ngay sau khi gặt lúa mùa sớm và thu hoạch

vào tháng chạp, trước Tết.

- Trân châu lùn d. Lúa tẻ thấp cây, nhập nội từ Trung Quốc, trước đây được

gieo cấy trong vụ xuân ở miền Bắc Việt Nam.

+ Thời gian thu hoạch:

- Lúa nổi d. Lúa ở miền Nam Việt Nam, gieo trồng ở vùng nước ngập sâu

vào tháng năm và thu hoạch vào cuối năm hoặc vào đầu năm sau.

- Ngô đông d. Cây lương thực, gieo trồng ngay sau khi thu hoạch lúa lúa hè

- thu và thu hoạch trước khi cấy lúa đông - xuân, trong chế độ canh tác ba vụ lúa

một năm.

10. Nét nghĩa đặc điểm vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học

Nét nghĩa này chiếm 3,11% (12/386). Đây là nét nghĩa xuất hiện khá nhiều

trong các định nghĩa cây nông nghiệp. Ví dụ:

101

- Sở d. Cây nhỡ cùng họ với chè, lá hình trái xoan, có răng, hoa trắng, hạt ép

lấy dầu dùng trong công nghiệp và để ăn.

- Thanh long d. Cây cùng họ xương rồng, thân ba góc, hoa màu trắng, quả

chín màu đỏ, ăn được.

- Thanh trà d. Cây cùng họ với xoài, lá mọc đối, quả hình trứng, khi chín

màu vàng, vị chua, dùng để ăn.

11. Nét nghĩa đặc điểm môi trường sống

Nét nghĩa khu biệt này chiếm 2,61% (11/386) gồm các môi trường sau:

11.1. Nơi sống:

+ Sống ở nước:

- Củ ấu d. Cây mọc ở nước, hoa trắng, quả thường gọi là củ, màu tím đen, có

hai gai nhọn và to như sừng, bên trong chứa chất bột ăn được.

- Lúa nổi d. Lúa ở miền Nam Việt Nam, gieo trồng ở vùng nước ngập sâu

vào tháng năm, thu hoạch vào cuối năm hoặc đầu năm sau.

+ Sống ở nương rẫy:

- Lúa nương d. Lúa gieo thẳng trên nương ở miền núi.

- Lúa rẫy d. Lúa gieo thẳng trên rẫy ở Tây Nguyên.

11.2. Vùng khí hậu gắn với nơi sinh sống:

+ Vùng ôn đới:

- Lúa mạch d. Cây lương thực trồng chủ yếu ở các vùng ôn đới, hạt đã nảy

mầm dùng để chế rượu bia.

- Ô liu d. Cây to hoặc nhỡ mọc ở miền ôn đới, thân có nhiều mấu, lá hình

ngọn giáo, mặt trên lục nhạt, mặt dưới trắng nhạt, quả ăn được và cho dầu.

+ Vùng nhiệt đới:

- Chuối d. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm, lá có bẹ to ôm lấy nhau thành

một thân giả hình trụ, quả dài hơi cong, xếp thành buồng gồm nhiều nải.

- Đàn hương d. Cây vùng nhiệt đới, gỗ cứng, thơm, thường dùng làm hương

liệu, làm thuốc chữa bệnh.

11.3. Các châu lục, vùng miền:

102

- Ca cao d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mỹ, châu Phi, lá đơn mọc đối, hoa

nở quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm sôcôla

hay pha nước uống.

- Lúa hè-thu d. Lúa ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam, gieo cấy vào đầu mùa

mưa và thu hoạch vào giữa mùa mưa.

12. Nét nghĩa đặc điểm thuần dưỡng (được gieo trồng)

Nét nghĩa này xuất hiện không nhiều trong định nghĩa cây nông nghiệp với

2,59% (10/386), chỉ rõ đặc điểm được gieo trồng của các loại cây nông nghiệp,

phân biệt với các loài thực vật khác mọc hoang, không được gieo trồng. Ví dụ:

- Lúa lốc d. Lúa gieo trên đất khô ở vùng thiếu nước hay đồi núi.

- Lúa thu d. Lúa ngắn ngày, gieo cấy vào giữa mùa hè (tháng năm), gặt vào

mùa thu tháng tám.

Kết quả thống kê, miêu tả các nét nghĩa đặc trưng có trong định nghĩa cây

nông nghiệp trên đây được thể hiện ở bảng sau:

STT Các nét nghĩa Số lượng Tỷ lệ %

1. Phân loại 386/386 100

2. Đặc điểm hình thức/ cấu tạo 120/386 31,11

3. Vai trò đối với đời sống con người 42/386 10,91

4. Tính chất của bộ phận cây được sử dụng 41/386 10,63

5. Đặc điểm màu sắc 40/386 10,40

6. Đặc điểm kích cỡ 39/386 10,11

7. Đặc điểm mùi vị 34/386 8,81

8. Đặc điểm phân loại cây nông nghiệp 20/386 5,12

9. Đặc điểm thời gian 17/386 4,40

10. Vị trí, quan hệ trong phân loại sinh vật học 12/386 3,11

11. Đặc điểm môi trường sống 11/386 2,61

12. Đặc điểm thuần dưỡng (được gieo trồng) 10/386 2,59

Tổng số 386 100

Bảng 3.1. Các nét nghĩa đặc trưng của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt

103

Trong số 12 nét nghĩa trên có nhiều nét nghĩa trùng với đặc trưng được lựa

chọn để định danh cây nông nghiệp. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các

dấu hiệu được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp giống hoàn toàn với các

nét nghĩa phân tích được trong lời định nghĩa các từ ngữ gọi tên cây nông

nghiệp. Trong 12 nét nghĩa thuộc cấu trúc ngữ nghĩa có 10 nét nghĩa là những

dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn đưa vào tên gọi. Còn nét nghĩa "vị trí, quan hệ

trong phân loại sinh vật học" và nét nghĩa "đặc điểm phân loại cây nông nghiệp"

không được lựa chọn để định danh cây nông nghiệp. Ngược lại, trong lời định

nghĩa từ ngữ chỉ cây nông nghiệp, còn thiếu một số dấu hiệu/đặc điểm vốn được

lấy làm cơ sở định danh thực vật như: đặc điểm thuần dưỡng (là cây trồng,

không phải cây mọc hoang), đặc điểm nguồn gốc, xuất xứ cây nông nghiệp, đặc

điểm số lượng bộ phận của cây nông nghiệp, đặc điểm mã hiệu/lô giống cây

nông nghiệp, nguồn gốc tên gọi cây nông nghiệp,... Các dấu hiệu/đặc điểm định

danh này là hết sức điển hình, đặc trưng cho cây nông nghiệp, vì vậy cần phải

được đưa vào lời định nghĩa của chúng.

3.2.2. Mô hình cấu trúc ngữ nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

Các nét nghĩa đã tách ra được từ định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong

tiếng Việt có vai trò và chức năng khác nhau, có nét nghĩa thuộc hạt nhân (hay

trung tâm), có nét nghĩa thuộc ngoại vi trong cấu trúc ngữ nghĩa. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, ngoài nét nghĩa "tên gọi chỉ loại" thuộc về hạt nhân cấu trúc ngữ

nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt còn có các nét nghĩa "hình thức/cấu

tạo", "kích cỡ", "tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng", "màu

sắc", "mùi vị", "vai trò đối với đời sống con người", "được thuần dưỡng (gieo

trồng)". Các nét nghĩa còn lại là: "môi trường sống", "vị trí, quan hệ trong phân

loại sinh học", "phân loại cây nông nghiệp", "thời gian" thuộc ngoại cảnh có

liên quan đến cây nông nghiệp nằm ở ngoại vi trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên

gọi cây nông nghiệp. Có thể khái quát hóa 12 nét nghĩa có mặt trong các định

nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt thành ba loại thành tố nghĩa sau:

104

I. Thành tố nghĩa chỉ loại chỉ có một nét nghĩa (1. Nét nghĩa phân loại)

II. Thành tố nghĩa chỉ thuộc tính của cây nông nghiệp, gồm các nét nghĩa:

2. Hình thức/cấu tạo

3. Vai trò đối với đời sống con người

4. Tính chất của bộ phận cây được sử dụng

5. Màu sắc

6. Kích cỡ

7. Hương, mùi vị

12. Thuần dưỡng (được gieo trồng)

III. Thành tố nghĩa chỉ ngoại cảnh có liên quan đến cây nông nghiệp hay

những hiểu biết của con người về cây nông nghiệp, gồm có các nét nghĩa:

8. Phân loại cây nông nghiệp

9. Thời gian

10. Vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học

11. Môi trường sống

Có thể mô hình hóa cấu trúc ngữ nghĩa chung của tên gọi cây nông nghiệp

tiếng Việt qua cách miêu tả, phân tích những định nghĩa chúng trong Từ điển

tiếng Việt như sau:

Thành tố III (các nét T Thành tố I (nét nghĩa 1) Thành tố II (các nét

nghĩa 2, 3, 4, 5, 6, 7, nghĩa 8, 9, 10, 11)

12)

Trong mô hình này, T là tên gọi cây nông nghiệp được giải thích, tức là từ

đầu mục thuộc cấu trúc vĩ mô của từ điển; còn mỗi thành tố nghĩa (I, II, III) biểu

thị các nội dung thông tin được chứa trong lời giải thích. Thành tố nghĩa I và

thành tố nghĩa II chứa các nét nghĩa hạt nhân, còn thành tố nghĩa III chứa các nét

nghĩa ngoại vi. Trật tự các nét nghĩa được nêu phản ánh tần số xuất hiện nhiều

hay ít của mỗi nội dung thông tin trong lời định nghĩa. Như vậy, mỗi định nghĩa

105

là sự hiện thực hóa tất cả hoặc một số nét nghĩa trong mô hình ngữ nghĩa chung

của cây nông nghiệp. Ví dụ:

+ Sắn dây d. Cây leo cùng họ với đậu, đỗ, lá có ba lá chét rộng, rễ củ dài

giống như củ sắn, chứa nhiều bột, dùng để ăn hay làm thuốc.

Trong định nghĩa này gồm có các nét nghĩa:

- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.

- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với đậu, đỗ.

- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Lá có ba lá chét rộng, rễ củ dài giống như

củ sắn.

- Nét nghĩa tính chất của bộ phận cây được sử dụng: Rễ củ chứa nhiều bột.

- Nét nghĩa vai trò đối với đời sống con người: Dùng để ăn hay làm thuốc.

+ Sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ với cây gạo, quả có gai to trông như quả

mít nhỏ, vị ngọt, nồng và béo.

Trong định nghĩa này gồm có các nét nghĩa:

- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.

- Nét nghĩa phân loại cây nông nghiệp: (Cây) ăn quả.

- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với cây gạo.

- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Quả có gai to trông như quả mít nhỏ.

- Nét nghĩa hương, mùi, vị: Vị ngọt, nồng và béo.

+ Măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày

và chát, trong quả có nhiều múi, cùi trắng và ngọt.

Trong lời giải thích này gồm có các nét nghĩa:

- Nét nghĩa chỉ loại: Cây.

- Nét nghĩa phân loại cây nông nghiệp: (Cây) ăn quả.

- Nét nghĩa vị trí, quan hệ trong phân loại sinh học: Cùng họ với bứa.

- Nét nghĩa hình thức/cấu tạo: Lá dài, mọc đối, quả có vỏ dày và chát, trong

quả có nhiều múi.

- Nét nghĩa màu sắc: (Cùi) trắng.

106

- Nét nghĩa hương, mùi vị: Ngọt.

3.2.3. Nhận xét về định nghĩa từ ngữ chỉ tên gọi cây nông nghiệp trong "Từ

điển tiếng Việt"

Từ kết quả miêu tả và phân tích các nét nghĩa có trong lời giải thích tên gọi

cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án rút ra nhận xét sau đây:

a. Tất cả các loại cây nông nghiệp đều thuộc loại cây trồng chứ không phải là

những cây mọc hoang. Đó là những loài cây có ích cho đời sống, được con

người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Cây trồng đã được con

người trồng trọt từ hàng nghìn năm về trước, tuy vậy, số lượng loài cây trồng chỉ

chiếm một tỉ lệ thấp trong tổng số các loài cây hiện hữu trên trái đất. Vì vậy, đặc

trưng được con người gieo trồng (cây trồng) là một đặc điểm rất quan trọng đối

với cây nông nghiệp có tác dụng phân biệt giữa cây nông nghiệp (cây được con

người gieo trồng) với tất cả các loài cây mọc hoang, không được con người gieo

trồng. Đặc trưng này cần phải trở thành một nét nghĩa quan trọng trong các định

nghĩa của từ điển về cây nông nghiệp tiếng Việt. Tất cả các định nghĩa tên gọi

cây nông nghiệp nét nghĩa "đặc điểm được gieo trồng" đều được đề cập đến

trong định nghĩa để người đọc hiểu đó là cây được con người trồng, chăm sóc,

thu hoặc phục vụ đời sống của mình chứ không phải là những loại cây mọc

hoang, không được gieo trồng. Tuy nhiên, khảo sát 386 định nghĩa cây nông

nghiệp tiếng Việt, luận án thấy nét nghĩa "đặc điểm được gieo trồng" chỉ xuất

hiện rất ít một số định nghĩa (10/386), còn hầu hết các định nghĩa đều không có

nét nghĩa này. Ví dụ:

- Cacao cv. ca cao. d. Cây nhỡ, trồng nhiều ở châu Mĩ, châu Phi, lá đơn mọc

đối, hoa nở quanh năm, quả giống hình quả dưa chuột, hạt cho thứ bột dùng làm

sôcôla hay pha nước uống.

- Củ dong d. Cây trồng thân cỏ, lá to, cuống lá có đốt, thân ngầm phồng

thành củ hình thon dài, màu trắng, chứa nhiều bột, dùng làm thức ăn.

107

- Dâu d. cn. dâu tằm. Cây trồng bằng cành, lá hình tim hay chia thành thùy,

dùng để nuôi tằm, quả tụ thành một khối, khi chín có màu đỏ sẫm.

Luận án cho rằng cần phải đưa nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng" vào

các định nghĩa cây nông nghiệp tiếng Việt để tăng tính chính xác, rõ ràng và khả

năng khu biệt giữa cây nông nghiệp với các loại cây khác. Như vậy, khi định

nghĩa cây nông nghiệp đặc trưng "được gieo trồng" nằm trong thế đối lập "được

trồng/ hoang dại (không được trồng)" để phân biệt cây nông nghiệp - những loại

cây đã được con người thuần hóa, gieo trồng phục vụ cuộc sống con người. Nét

nghĩa này nằm ở đầu lời định nghĩa. So sánh:

Định nghĩa được đề nghị bổ sung

Định nghĩa của Từ điển tiếng STT nét nghĩa "được gieo trồng"

Việt

1. lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân

hay thân đứng, lá kép có bốn lá bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá

chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt

dùng để ăn hay ép dầu. dùng để ăn hay ép dầu.

2. khoai sọ d. Cây cùng họ với ráy, lá khoai sọ d. Cây trồng cùng họ với

to, cuống dài hình máng, củ hình ráy, lá to, cuống dài hình máng, củ

cầu, thường mang nhiều củ non, hình cầu, thường mang nhiều củ

dùng để ăn. non, dùng để ăn.

3. khoai d. Tên gọi chung các loài cây khoai d. Tên gọi chung các loài cây

có chứa tinh bột ăn được, như trồng có chứa tinh bột ăn được,

khoai tây, khoai lang, khoai riềng, như khoai tây, khoai lang, khoai

v.v. riềng, v.v.

4. kê d. Cây cùng họ với lúa, quả rất kê d. Cây trồng cùng họ với lúa,

nhỏ, thường gọi là hạt, màu vàng, quả rất nhỏ, thường gọi là hạt, màu

tập trung thành một bông dài, dùng vàng, tập trung thành một bông dài,

để chế biến làm thức ăn. dùng để chế biến làm thức ăn.

108

5. hồi d. Cây to, quả gồm tám múi hồi d. Cây trồng thân to, quả gồm

khô cứng xếp thành hình sao, mỗi tám múi khô cứng xếp thành hình

múi chứa một hạt, có mùi thơm, sao, mỗi múi chứa một hạt, có mùi

dùng để cất lấy tinh dầu. thơm, dùng để cất lấy tinh dầu.

6. đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, đu đủ d. Cây trồng thân cột, cuống

rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng

quả dùng để ăn hoặc để lấy nhựa gốc, quả dùng để ăn hoặc để lấy

làm thuốc. nhựa làm thuốc.

7. đào d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, đào d. Cây trồng ăn quả hoặc làm

cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu

hồng, quả hình tim có lông mượt. đỏ hồng, quả hình tim có lông

mượt.

8. dừa d. Cây cùng họ với cau, thân dừa d. Cây trồng cùng họ với cau,

cột, lá to hình lông chim, quả chứa thân cột, lá to hình lông chim, quả

nước ngọt, có cùi dùng để ăn hoặc chứa nước ngọt, có cùi dùng để ăn

ép lấy dầu. hoặc ép lấy dầu.

9. cà phê d. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa cà phê d. Cây trồng thân nhỡ, lá

trắng, quả nhỏ, khi chín có màu đỏ, mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi

hạt đem rang và xay nhỏ thành bột chín có màu đỏ, hạt đem rang và

màu nâu sẫm, dùng để pha nước xay nhỏ thành bột màu nâu sẫm,

uống. dùng để pha nước uống.

10. sắn d. Cây cùng họ với thầu dầu, sắn d. Cây trồng cùng họ với thầu

thân thẳng mang nhiều sẹo lá, lá có dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo lá,

cuống dài, phiến xẻ hình chân vịt, lá có cuống dài, phiến xẻ hình chân

rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để vịt, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng

ăn. để ăn.

11. cao lương d. Cây lương thực cùng cao lương d. Cây lương thực cùng

họ với ngô, thân và lá lớn, gié ngắn, họ với ngô, thân và lá lớn, bông

109

hạt to tròn. gồm nhiều gié ngắn, hạt to tròn.

12. caosu cv. cao su. d. Cây to cùng họ caosu cv. cao su. d. Cây trồng

với thầu dầu, thân có nhiều nhựa cùng họ với thầu dầu, thân to có

nhiều nhựa mủ. mủ.

13. chà là d. Cây thuộc loại cau, dừa, chà là d. Cây trồng thuộc họ cau,

quả to bằng quả nhót, vị ngọt, ăn dừa, quả to bằng quả nhót, vị ngọt,

ăn được. được.

14. sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép sơn d. Cây cùng họ với xoài, lá kép

lông chim, thân có nhựa dùng để lông chim, trồng nhiều ở Phú Thọ

chế một chất cũng gọi là sơn. và các đồi ở miền Bắc Việt Nam,

thân có nhựa dùng để chế một chất

cũng gọi là sơn.

15. xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá xoài d. Cây trồng ăn quả, thân to,

hình trái xoan dài, quả hình bầu vỏ nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả

dục, thịt màu vàng, hạt to có bao hình bầu dục, thịt màu vàng, hạt to

cứng. có bao cứng.

16. cau d. Cây không phân cành, thân cau d. Cây trồng thân hình cột cao,

hình cột cao, lá hình lông chim và không phân cành, lá hình lông chim

mọc thành chùm ở ngọn, quả dùng và mọc thành chùm ở ngọn, quả

để ăn trầu. dùng để ăn trầu.

17. củ cái d. Cây cùng họ với củ từ, củ cái d. Cây trồng cùng họ với củ

thân hình vuông, có cạnh, củ to và từ, thân hình vuông, có cạnh, củ to

hơi dẹp ở ngọn, chứa nhiều tinh và hơi dẹp ở ngọn, chứa nhiều tinh

bột, dùng để ăn. bột, dùng để ăn.

18. dâu tây d. Cây bò cùng họ với hoa dâu tây d. Cây trồng thân bò cùng

hồng, quả tụ trên một khối hình họ với hoa hồng, quả tụ trên một

nón, khi chín có màu đỏ, vị chua khối hình nón, khi chín có màu đỏ,

ngọt, ăn được. vị chua ngọt, ăn được.

110

19. đu đủ d. Cây thân cột, cuống lá dài, đu đủ d. Cây trồng thân cột, cuống

rỗng, hoa đực hoa cái riêng gốc, lá dài, rỗng, hoa đực hoa cái riêng

quả dùng để ăn hoặc để lấy nhựa gốc, quả dùng để ăn hoặc để lấy

làm thuốc. nhựa làm thuốc.

20. lạc d. Cây thuộc họ đậu, thân bò lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân

hay thân đứng, lá kép có bốn lá bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá

chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt

dùng để ăn hay ép dầu. dùng để ăn hay ép dầu.

Bảng 3.2. Nét nghĩa "cây trồng/được gieo trồng"được bổ sung vào lời định nghĩa

b. Mỗi loại cây nông nghiệp đều có đặc trưng về thổ nhưỡng, về thời vụ gieo

trồng khác nhau nên thời gian sinh trưởng cũng khác nhau. Mỗi loại cây nông

nghiệp chỉ có một hay vài bộ phận được con người sử dụng khi chúng đã phát

triển ở giai đoạn cuối với những biểu hiện rõ rệt (như về hình thức, màu sắc,

mùi, hương vị,...). Do đó, cần phải nêu cụ thể thời gian các bộ phận cây đã phát

triển đến giai đoạn cuối để bảo đảm tính chính xác của các định nghĩa. Một số

định nghĩa của Từ điển tiếng Việt không nêu chính xác thời gian này trong định

nghĩa, theo luchúng tôi, nên bổ sung. Ví dụ:

Định nghĩa được bổ sung

STT Định nghĩa của Từ điển tiếng thông tin

Việt

1. bưởi đường d. Bưởi có quả hình bưởi đường d. Giống bưởi có quả

giống quả lê, vị ngọt. hình giống hình quả lê, khi già tép

có vị ngọt.

2. cóc d. Cây ăn quả và làm thuốc, cóc d. Cây trồng ăn quả và làm

thuộc họ đào lộn hột, thân gỗ cao, thuốc, thuộc họ đào lộn hột, thân gỗ

quả hình bầu dục hay hình trứng, cao, quả hình bầu dục hay hình trứng,

thịt màu vàng, vị chua. khi chín thịt màu vàng, vị chua.

3. dưa hấu d. Dưa quả to, vỏ màu dưa hấu d. Giống dưa quả to, vỏ

111

xanh và bóng, thịt quả màu đỏ hay màu xanh và bóng, khi chín thịt

vàng, vị ngọt mát. quả màu đỏ hay vàng, vị ngọt mát.

4. dứa d. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dứa d. Cây trồng ăn quả, thân

dài, cứng, có gai ở mép và mọc ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và

thành cụm ở ngọn thân, quả tập hợp mọc thành cụm ở ngọn thân, quả

trên một khối nạc, có nhiều mắt, tập hợp trên một khối nạc, có nhiều

phía trên có một cụm lá. mắt, phía trên có một cụm lá, khi

chín có mùi thơm.

5. gấc d. Cây leo thuộc dòng họ bầu gấc d. Cây trồng thân leo thuộc

bí, quả to, hình trứng nhọn đầu, dòng họ bầu bí, quả to, hình trứng

ngoài mặt có nhiều gai mềm, ruột nhọn đầu, ngoài mặt có nhiều gai

đỏ, thường dùng để thổi lẫn với xôi. mềm, khi chín vỏ và ruột có màu

đỏ, thường dùng để thổi lẫn với xôi.

6. khế d. Cây to, lá kép lông chim, khế d. Cây trồng thân to, lá kép

hoa nhỏ màu tím, quả có năm múi, lông chim, hoa nhỏ màu tím, quả

mọng nước, vị chua, ăn được. có năm múi, mọng nước, vị chua

hoặc ngọt, ăn được.

7. lê d. Cây ăn quả cùng loại với táo lê d. Cây trồng ăn quả cùng loại

tây, hoa trắng, quả có nhiều nước, với táo tây, hoa trắng, quả có nhiều

vị ngọt. nước, khi chín vị ngọt.

8. măng cụt d. Cây ăn quả cùng họ măng cụt d. Cây trồng ăn quả cùng

với bứa, lá dài, mọc đối, quả có vỏ họ với bứa, lá dài, mọc đối, quả có

dày và chát, trong quả có nhiều vỏ dày và chát, trong quả có nhiều

múi, cùi trắng và ngọt. múi, cùi trắng, khi chín vị ngọt.

9. mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mít d. Cây trồng ăn quả thân to, có

mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai, trong nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,

chứa nhiều mùi có vị ngọt thơm. trong chứa nhiều múi khi chín vị

ngọt thơm.

112

10. tám thơm d. Thứ lúa, gạo hạt nhỏ, tám thơm d. Giống lúa, gạo hạt

thon và dài, màu trắng xanh, cơm nhỏ, thon và dài, màu trắng xanh,

có mùi thơm đặc biệt. có mùi thơm đặc biệt.

11. xoài d. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá xoài d. Cây to trồng ăn quả, vỏ

hình trái xoan dài, quả hình bầu nhẵn, lá hình trái xoan dài, quả

dục, thịt màu vàng, hạt to có bao hình bầu dục, khi già, chín thịt

cứng. màu vàng, hạt to có bao cứng.

12. sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ sầu riêng d. Cây trồng ăn quả cùng

với cây gạo, quả có gai to trông họ với cây gạo, quả có gai to trông

như quả mít nhỏ, vị ngọt, nồng và như quả mít nhỏ, khi chín múi có

béo. vị ngọt, thơm nồng và béo.

13. nhãn d. Cây ăn quả, thân to, quả nhãn d. Cây trồng ăn quả, thân to,

tròn mọc thành chùm, có vỏ màu quả tròn mọc thành chùm, có vỏ

nâu nhạt, hạt thường đen, cùi trắng, màu nâu nhạt, khi chín hạt thường

vị ngọt. đen, cùi trắng, vị ngọt.

14. chuối mật d. Chuối quả có thịt đỏ chuối mật d. Giống chuối quả có

và ngọt, nhưng hơi nhão. thịt đỏ và ngọt khi chín, nhưng hơi

nhão.

15. mít mật d. Mít quả có múi mềm mít mật d. Giống mít khi chín có

nhão, vị ngọt. múi mềm nhão, vị ngọt.

16. lê d. Cây ăn quả cùng loại với táo lê d. Cây trồng ăn quả cùng loại

tây, hoa trắng, quả có nhiều nước, với táo tây, hoa trắng, quả có nhiều

nước, khi chín vị ngọt. vị ngọt.

17. mít d. Cây ăn quả thân to, có nhựa mít d. Cây trồng ăn quả thân to, có

mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai, trong nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ có gai,

chứa nhiều múi có vị ngọt thơm. trong chứa nhiều múi, khi chín có

mùi thơm, vị ngọt.

113

18. tám d. Tên gọi chung một số thứ tám d. Tên gọi chung một số giống

lúa tẻ, gạo hạt nhỏ và dài, cơm có lúa tẻ, hạt nhỏ và dài, gạo có mùi

mùi thơm ngon. thơm.

19. vải thiều d. Vải hạt nhỏ, cùi dày và vải thiều d. Giống vải quả tròn,

ngọt. hạt nhỏ, cùi dày, khi chín có vị

ngọt.

20. sầu riêng d. Cây ăn quả cùng họ sầu riêng d. Cây trồng ăn quả cùng

với cây gạo, quả có gai to trông họ với cây gạo, quả trông như quả

như quả mít nhỏ, vị ngọt, nồng và mít nhỏ, có gai to, khi chín múi có

béo. vị ngọt, nồng và béo.

Bảng 3.3. Nét nghĩa "thời điểm" được bổ sung vào lời định nghĩa

c. Mỗi loại cây nông nghiệp đều có vai trò, chức năng nhất định đối với cuộc

sống của con người. Các loại cây nông nghiệp cung cấp nhiều loại sản phẩm

phục vụ các nhu cầu về ăn, mặc, ở, sinh hoạt của con người. Vì vậy, bộ phận

nào, thành phần nào của cây có tác dụng, vai trò đối với con người đều trở thành

những nét nghĩa trong định nghĩa của từ điển giải thích. Cụ thể là các bộ phận

quả, củ, hạt của cây lương thực; quả, múi, cùi, hạt của cây ăn quả; thân, lá, quả,

hạt của cây công nghiệp là những dấu hiệu thuộc tính không thể bỏ qua và luôn

hiển diện là các nét nghĩa trong lời định nghĩa. Ví dụ:

- Đậu d. Cây trồng thân nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh hình

bướm, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm thức ăn.

- Khoai lang d. Cây trồng thân cỏ mọc bò, hoa hình phễu, màu tím nhạt hay

trắng, rễ củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn.

- Lạc d. Cây trồng thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có bốn lá

chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép dầu.

- Lúa d. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính, không có bao hoa,

quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc.

- Ngô d. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng

chừng thân, hạt dùng để ăn.

114

d. Định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt là một tập hợp gồm nhiều

nét nghĩa có quan hệ gắn bó với nhau, được sắp xếp theo trật tự nhất định nhằm

giải thích rõ, đầy đủ những đặc điểm từng loại cây nông nghiệp, đồng thời lại có

khả năng phân biệt các loài cây với nhau, kể cả những tên gọi cây cụ thể thuộc

cùng một giống cây. Ví dụ:

- Chuối d. (Cây trồng ăn quả nhiệt đới), (thân ngầm), (lá có bẹ to ôm lấy

nhau thành một thân giả hình trụ), (quả dài hơi cong, xếp thành buồng gồm

nhiều nải).

- Dứa d. (Cây trồng ăn quả), (thân ngắn), (lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc

thành cụm ở ngọn thân), (quả tập hợp trên một khối nạc, có nhiều mắt, phía trên

có một cụm lá).

- Hồi d. (Cây trồng thân to), (quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình

sao), (mỗi múi chứa một hạt), (có mùi thơm), (dùng để cất lấy tinh dầu).

- Muỗm d. (Cây trồng thân gỗ to cùng loại với xoài), (hoa mọc thành cụm ở

nách lá), (quả giống quả xoài nhưng nhỏ hơn) và (vị hơi chua), (dùng để ăn).

- Quất d. (Cây trồng thuộc họ cam quýt), (quả tròn nhỏ mọc chi chí), (vỏ mịn

màu vàng đỏ khi chín), (trồng làm cảnh và lấy quả làm mứt).

3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp trong các từ điển giải

thích tiếng Việt

Ở mục này luận án tiến hành so sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây

nông nghiệp của 7 quyển từ điển giải thích tiếng Việt với định nghĩa của Từ điển

tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 2000). Đó là các

cuốn từ điển sau:

(1) Việt Nam tự điển - Hội Khai trí - Tiến Đức, Sài Gòn, 1931

(2) Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Sài Gòn, 1951

(3) Việt Nam tân từ điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952

(4) Tự điển Việt Nam, Lê Văn Đức, Sài Gòn, 1970

(5) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Hà Nội, 1977

115

(6) Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Hà Nội, 1999

(7) Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân, Tp. Hồ Chí Minh, 2000

Dựa vào mô hình cấu trúc nghĩa chung của tên gọi cây nông nghiệp tiếng

Việt qua cách miêu tả, phân tích những định nghĩa chúng trong Từ điển tiếng

Việt đã nêu trên, luận án đánh giá các định nghĩa ở 7 cuốn từ điển được so sánh

về hai phương diện: các thông tin ngữ nghĩa trong lời giải thích và thông tin bách

khoa (có hay không có) trong lời giải thích các mục từ này. Luận án tiến hành so

sánh định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp thuộc ba loại: cây lương

thực (lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc); cây trồng ăn quả (bưởi, chuối, vải, cam,

quýt, nhãn, mít, na, xoài); cây trồng lấy sản phẩm phục vụ sản xuất, chế biến

hàng hóa (cao su, cà phê, chè, sơn, hồi, quế, hồ tiêu, bông, đay, mía).

3.3.1. So sánh định nghĩa tên gọi cây lương thực trong các từ điển giải thích

tiếng Việt

TT Tên từ điển Định nghĩa

lúa. dt. 1. Cây lương thực, thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính,

không có bao hoa, quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc. 2.

(ph.). Thóc.

ngô. dt. Cây lương thực, thân thẳng, quả có dạng hạt tụ lại

thành bắp ở lưng chừng thân, hạt dùng để ăn. Từ điển khoai. dt. 1. Tên gọi chung các loài cây có củ chứa tinh bột Tiếng Việt ăn được, như khoai tây, khoai lang, khoai riềng, v.v. 2. Khoai 1. (Hoàng Phê lang (nói tắt). chủ biên) sắn. dt. Cây cùng họ với thầu dầu, thân thẳng mang nhiều sẹo

lá, lá có cuống dài, phiến xẻ hình chân vịt, rễ củ chứa nhiều

tinh bột, dùng để ăn.

lạc. dt. Cây thuộc họ đậu, thân bò hay thân đứng, lá kép có

bốn lá chét, quả mọc cắm xuống đất, hạt dùng để ăn hay ép

dầu.

116

đậu. dt. Cây nhỏ, có nhiều loài, tràng hoa gồm năm cánh

hình bướm, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt dùng làm

thức ăn.

lúa. 1. Nói chung về loài ngũ cốc. 2. Nói riêng về thứ cây

trong ngũ-cốc, sinh ra thóc.

ngô. Một loài trong ngũ cốc, bắp nhiều hạt. Cũng gọi là bắp. Việt Nam tự

khoai. Loài cây củ có nhiều bột, ăn được. điển (Hội 2. sắn. Loài cây, củ có lõi, nhiều bột, ăn được. Khai trí -

đậu. (hay là đỗ) Loài ngũ-cốc, quả dài, có hột. Tiến Đức)

lạc. Loài cây dây bò, quả mọc cắm xuống đất như củ, hạt có

chất dầu.

lúa. 1. Chỉ chung những ngũ-cốc. 2. Cây sinh ra thóc, ra gạo,

dùng để ăn hằng ngày.

ngô. Một loài ngũ cốc thường dùng thay gạo, hạt lớn hơn hạt Tự điển

gạo nhiều (nh. Bắp). Việt Nam

khoai. Một giống cây, củ có nhiều bột, thường dùng làm đồ 3. phổ thông

ăn. (Đào Văn

sắn (thực). Thứ cây củ có lõi trắng, nhiều bột ăn được. Tập)

đậu. (h. Đỗ). Loài ngũ cốc, quả dài, có hột.

lạc. Giống cây, trái mọc dưới đất, hạt có dầu (nh. Đậu phộng).

lúa. dt. Nói riêng về thứ cây sinh ra thóc.

ngô. dt. Loại ngũ cốc, có nơi gọi là bắp. Việt Nam khoai. dt. (thực.) Loại cây có củ; ăn được. tân từ điển sắn. dt. (thực.) Loại cây, nhiều bột, có lõi, ăn được, có nơi gọi 4. (Thanh là khoai mì. Nghị) lạc. dt. (thực.) Đậu phộng.

đậu. dt. Cây nhỏ thuộc loại ngũ cốc, quả dài có hột.

Lúa. dt. 1. Loài cây thuộc họ hòa thảo, thân rỗng, hoa lưỡng 5. Từ điển

117

tính, trồng ở ruộng, hạt có vỏ trấu, gọi là hạt thóc. 2. Thóc. 3. tiếng Việt

Từ đặt trước các danh từ để chỉ chung các loài ngũ cốc. (Văn Tân)

ngô. dt. Cg Bắp, bẹ. Loài cây lương thực, cùng họ với lúa,

cao tới hai, ba mét, quả gồm nhiều hạt xếp sít nhau thành

từng hàng trên một bắp chung.

khoai. dt. Tên chung chỉ các loài cây có củ chứa nhiều tinh

bột ăn được.

sắn. dt. Loài cây có nhựa dính màu đen, dùng để sơn thuyền

và để nhuộm lưới hay bìa sách.

lạc. dt. Loài cây thuộc họ đậu, thân bò, lá kép có bốn lá con,

quả bé mọc cắm xuống đất, hạt có chất dầu.

đậu. dt. Loài cây nhỏ, quả dài chứa một dãy hạt bầu dục,

tràng hoa gồm năm cánh hình bướm.

lúa. 1. dt. (thực.). Loại ngũ cốc mọc thành bụi, lá dài nhám,

gió hoa hay trái đơm hột dày. 2. (thth). Giống cây dưới ruộng,

ưa nước, nở bụi, mọc gié, đơm bông gọi đòng đòng, sinh mủ

đục gọi ngậm sữa, đúng ngày sữa đặc và khô gọi chín, gié

oằng xuống rồi ngã rạp.

ngô. dt. (thực.) X. Bắp. Tự điển

khoai. dt. (thực.). Loại cây nhỏ hay dây bò, củ có nhiều bột Việt Nam

ăn được hoặc làm thuốc. 6. (Lê Văn

sắn. dt. (thực.) Loại dây leo, lá kép gồm ba lá phụ hình tim, Đức)

hoa tím, trái dài có nhiều hột dài lối 6m/m, mỗi dây có nhiều

củ hình tròn giẹp hoặc bong-vụ có khía cạn, vỏ dai, nạc trắng

ngọt; được dùng ăn sống hay xào nấu.

lạc. dt. X. Đậu phộng.

đậu. dt. (thực.). Loại dây leo hay cây nhỏ, phần nhiều lá kép

ba, trái dài nhiều hột, thuộc ngũ-cốc.

118

lúa. dt 1. Loài cây thuộc họ hoà thảo, thân rỗng, hoa lưỡng

tính, trồng ở ruộng, hạt có vỏ trấu gọi là thóc. 2. Như thóc.

ngô. dt (thực) Loài cây lương thực cùng họ với lúa, quả gọi

là bắp gồm nhiều hạt xếp xít nhau trên một cái lõi. Từ điển từ khoai. dt.Tên chung chỉ các loại cây có củ chứa nhiều tinh và ngữ Việt bột. 7. Nam sắn. dt (thực) Loài cây cùng họ với thầu dầu, củ có lõi, chứa (Nguyễn nhiều bột có sắc trắng. Lân) lạc. dt. Loài cây thuộc họ đậu, thân bò, lá kép, quả mọc cắm

xuống đất, hạt có chất dầu.

đậu. dt. Loài cây nhỏ, quả dài chứa một dãy hạt bầu dục, hoa

có năm cánh hình bướm.

lúa. dt. 1. Cây lương thực, thân thảo rỗng, quả có vỏ trấu (còn

gọi là hạt thóc). 2. Thóc. 3. Tên gọi chung các loại ngũ cốc.

ngô. dt. 1. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi lấy hạt làm lương

thực; sống hàng năm, thân thẳng, đơn độc, đặc nhẵn, cao tới

2m, các đốt ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, cụm

hoa đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa cái lá bông dày ở nách Đại từ điển lá, bắp có áo bọc, hạt xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc tiếng Việt màu vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có nhiều râu; dùng ăn hoặc 8. (Nguyễn nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá), nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi Như Ý chủ tiểu (râu). 2. Hạt ngô và sản phẩm làm từ loại hạt này. biên) khoai. dt. 1. Các loại cây có củ chứa nhiều tinh bột nói

chung. 2. Khoai lang, nói tắt.

sắn. dt. 1. Cây có thân thẳng, mang nhiều sẹo lá, lá có cuống

dài, rễ củ chứa nhiều bột, dùng để ăn. 2. Củ sắn và các sản

phẩm chế từ củ sắn.

lạc. dt. 1. Cây trồng thân phân nhánh từ gốc có các cành tản

119

ra, đâm rễ ở mấu, lá hình trái xoan ngược mọc bốn cái trên

một cuống, hoa nhỏ vàng, cả hình trụ thuôn, thon lại ở giữa

các hạt, có vân mạng, chứa 1-3 hạt, dùng ăn và ép dầu; còn

gọi là đậu phụng. 2. Củ của cây lạc.

đậu. dt. 1. Cây nhỏ, quả dài, chứa một dãy hạt, quả hay hạt

dùng làm thức ăn. 2. Quả, hạt đậu.

Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:

- Cũng như định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), tất cả

các định nghĩa tên gọi các cây lương thực nêu trên trong 7 quyển từ điển đều nêu

rõ yếu tố chỉ loại (là các từ bao). Chẳng hạn, định nghĩa mục từ lúa: là "cây

lương thực" (Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), "thứ cây ngũ cốc sinh ra

thóc" (Từ điển Khai Trí), "cây sinh ra thóc ra gạo" (Từ điển Đào Văn Tập), "loài

cây thuộc họ hòa thảo" (Từ điển Văn Tân), "loại ngũ cốc mọc thành bụi" (Từ

điển Lê Văn Đức), "loài cây thuộc họ hòa thảo" (Từ điển Nguyễn Lân), "thứ cây

sinh ra thóc" (Từ điển Thanh Nghị), "cây lương thực" (Đại từ điển tiếng Việt).

- Sự khác nhau chủ yếu giữa các định nghĩa là ở chỗ, một mặt, số lượng các

đặc trưng được lựa chọn nêu ra trong các định nghĩa là không giống nhau, mặt

khác, mức độ của các nội dung thông tin thể hiện trong các đặc trưng nêu ra. Ba

cuốn Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập đều không

đưa ra bất kì đặc trưng nào để miêu tả về loại cây này, chỉ nêu ra một công dụng

(sinh ra thóc, gạo) của loài cây này. Định nghĩa như vậy là quá đơn giản, không

cung cấp được các thông tin cần và đủ về từ đầu mục nên người sử dụng từ điển

hiểu không đầy đủ, cụ thể và chính xác về mục từ. Bốn cuốn Từ điển Văn Tân,

Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như

Ý chủ biên) đều đã nêu ra một số đặc trưng cụ thể để cung cấp thông tin đầy đủ

về mục từ giống như trong định nghĩa mục từ này của Từ điển tiếng Việt (Hoàng

Phê chủ biên). Tuy nhiên, những đặc trưng nêu ra có sự khác biệt khá rõ giữa các

120

từ điển này. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Từ điển Văn Tân, Từ điển

Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt chỉ nêu ra các đặc trưng miêu tả hình thức

cây lúa, đặc điểm về hoa, hạt của loài thực vật này. Thông tin về công dụng của

hạt cây lương thực này không được đưa ra trong tất cả các định nghĩa mục từ lúa

ở 8 từ điển được luận án khảo sát. Tất cả các định nghĩa mục từ lúa trong 8 từ

điển chỉ nêu các thông tin ngôn ngữ, không có thông tin bách khoa về mục từ.

Trong khi đó, mục từ ngô lại được định nghĩa có những khác biệt rõ rệt. Nếu ba

quyển Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh Nghị định nghĩa

rất sơ sài chỉ nêu thông tin về yếu tố chỉ loại, không nêu các đặc trưng riêng, cụ

thể về loài thực vật này, thì ba cuốn Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển Văn Tân, Từ

điển Nguyễn Lân đều nêu ra các đặc trưng riêng, cụ thể của giống cây trồng này

giống như định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): "thân thẳng,

quả có dạng hạt tụ lại thành bắp ở lưng chừng thân, hạt dùng để ăn", "cùng họ

với lúa, cao tới hai, ba mét, quả gồm nhiều hạt xếp sít nhau thành từng hàng

trên một bắp chung" (Từ điển Văn Tân), "cùng họ với lúa, quả gọi là bắp gồm

nhiều hạt xếp xít nhau trên một cái lõi" (Từ điển Nguyễn Lân). Riêng Đại từ điển

tiếng Việt lại nêu ra nhiều đặc trưng để miêu tả chi tiết, cụ thể về hình thức cây

ngô từ thân, rễ, lá, hoa, bắp, hạt: "sống hàng năm, thân thẳng, đơn độc, đặc

nhẵn, cao tới 2m, các đốt ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, cụm hoa

đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa cái lá bông dày ở nách lá, bắp có áo bọc, hạt

xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc màu vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có

nhiều râu" và cả những thông tin bách khoa về cây lương thực này: "dùng ăn

hoặc nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá), nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi tiểu (râu)".

Đại từ điển tiếng Việt thuộc cỡ lớn gồm 120.000 mục từ gấp nhiều lần so với 7

quyển từ điển còn lại, nên các tác giả từ điển đã nêu ra nhiều đặc trưng riêng, cụ

thể kèm theo những thông tin bách khoa về từ đầu mục trong định nghĩa các mục

từ nói chung, mục từ cây nông nghiệp nói riêng. Mặt khác, việc đưa kết hợp cả

thông tin về từ, lẫn những thông tin mang tính bách khoa (những thông tin mở

121

rộng ở một mức độ nào đó về sự vật mà từ gọi tên) trong lời định nghĩa của Đại

từ điển tiếng Việt thể hiện quan điểm của các tác giả theo xu hướng biên soạn từ

điển hiện nay: xu hướng biên soạn những từ điển tổng hợp (đa năng) kết hợp

giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.

- Cùng với thời gian, công tác nghiên cứu và biên soạn từ điển giải thích tiếng

Việt cũng không ngừng được nâng cao và phát triển. Những từ điển giải thích

tiếng Việt được biên soạn trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX (từ những thập niên

50 trở về trước) như Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập

thường định nghĩa rất sơ sài, nên thiếu nhiều thông tin trong định nghĩa. Thời kì

này việc nghiên cứu lí thuyết về từ điển học ở nước ta chưa phát triển, không áp

dụng được những thành tựu nghiên cứu, biên soạn từ điển của thế giới. Việc biên

soạn từ điển chủ yếu là công việc của từng cá nhân (Từ điển Khai Trí tuy mang

danh hội nhưng cũng do một số cá nhân biên soạn) dựa vào hiểu biết của mình và

phát huy khả năng ngoại ngữ để tham khảo các từ điển trên thế giới, chủ yếu bằng

tiếng Pháp. Vì thế, các định nghĩa còn đơn giản, chất lượng không cao. Những từ

điển giải thích tiếng Việt được biên soạn từ nửa sau thế kỉ XX (từ những thập niên

70 trở đi) (như Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn Đức, Từ điển tiếng Việt (Hoàng

Phê chủ biên), Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng Việt) đã có chất lượng tốt

hơn rất nhiều do trình độ các soạn giả đã được nâng cao cùng với sự phát triển

mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ trên toàn cầu. Đồng thời, nhiều soạn

giả đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ học, từ điển học trên thế giới

vào việc biên soạn từ điển tiếng Việt. Rõ rệt nhất là Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê

chủ biên) đã ứng dụng thành tựu nghiên cứu ngữ nghĩa học cấu trúc trên thế giới

về cấu trúc nghĩa của từ và phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân tích

nghĩa của các thể từ, thuộc từ một các chính xác, rõ ràng nên đã cung cấp đầy đủ

các thông tin ngữ nghĩa của các mục từ. Vì thế, chất lượng quyển từ điển này đã

được nâng cao rõ rệt, trở thành một quyển từ điển có định nghĩa chính xác và đáng

tin cậy nhất hiện nay ở Việt Nam.

122

3.3.2. So sánh định nghĩa tên gọi cây ăn quả trong các từ điển giải thích

tiếng Việt

STT Tên từ điển Định nghĩa

bưởi dt. Cây ăn quả, cuống lá có cánh rộng, hoa màu trắng

thơm, quả tròn và to, gồm nhiều múi có tép mọng nước, vị

chua hoặc ngọt.

chuối dt. Cây ăn quả nhiệt đới, thân ngầm, lá to, có bẹ ôm

lấy nhau thành một thân giả hình trụ, quả dài hơi cong, xếp

thành buồng gồm nhiều nải.

cam dt. Cây ăn quả, lá to, hoa màu trắng, quả tròn, bé hơn

quả bưởi, vỏ mỏng, khi chín thường có màu vàng đỏ, vị

ngọt hoặc chua.

quýt dt. Cây ăn quả cùng họ với cam, lá nhỏ, quả tròn dẹt, TĐ Tiếng vỏ dễ bóc. Việt (Hoàng vải dt. Cây ăn quả, lá kép lông chim, quả có vỏ sần sùi 1. Phê chủ màu đỏ nâu, hạt có cùi màu trắng, nhiều nước. biên) nhãn dt. Cây ăn quả, thân to, quả tròn mọc thành chùm, có

vỏ màu nâu nhạt, hạt thường đen, cùi trắng, vị ngọt.

mít dt. Cây ăn quả thân to, có nhựa mủ, quả lớn, ngoài vỏ

có gai, trong chứa nhiều múi có vị ngọt thơm.

na dt. Cây ăn quả, vỏ quả có nhiều mắt, thịt quả trắng,

mềm, ngọt, hạt màu đen.

xoài dt. Cây ăn quả to, vỏ nhẵn, lá to hình trái xoan dài,

quả hình bầu dục, thịt màu vàng, hạt to có bao cứng.

dứa dt. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép

và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả tập hợp trên một khối

nạc, có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá.

2. Việt Nam tự bưởi. Tên một thứ cây về loài cam, có quả ăn được.

123

chuối. Loài cây, thân có bẹ, lá thành tàu, quả thành buồng. điển (Hội

cam. Tên một thứ cây về loài bưởi, loài chanh, có quả ăn Khai trí -

được. Tiến Đức)

vải. Thứ cây thuộc loài nhãn, quả chín thì vỏ đỏ, vị ngọt.

nhãn. Thứ cây to, quả mọc từng chùm, cùi trắng và ngọt.

mít. Thứ cây quả có gai, có sơ, có múi.

na. Thứ cây, quả có mắt, trong có múi trắng, hạt đen, vị

ngọt.

xoài. Thứ cây thuộc loài muỗm, quả có nhiều thịt, sắc

vàng, vị thơm và ngọt, hột to.

dứa. Một loài cây thấp, lá nhọn có gai, hoa thơm, quả

thơm và có mắt.

bưởi. Giống cây loài cam quít, trái lớn có nước nhiều

nhưng thường chua.

chuối. Giống cây nhỏ có trái mọc thành từng buồng. Tự điển cam. Giống cây loài chanh, trái thường có nước ngọt. Việt Nam vải. Giống cây loài nhãn, trái lớn. 3. phổ thông nhãn. Cây có trái nhỏ, hột đen, cùi trắng có nhiều nước. (Đào Văn mít. Một giống cây, trái có gai, múi ăn ngọt. Tập) na. Giống cây, trái có mắt, trong có nhiều múi trắng nhỏ,

ăn ngọt

xoài. (thực.) Giống cây có trái lớn, thịt vàng, thơm ngon.

bưởi. dt. (thực.). Loại cây có trái hình như trái cam nhưng

lớn gấp ba, gấp bốn, ruột có múi ăn ngon. Việt Nam

chuối. bt. (thực.) 1. Cây có thân thẳng hợp từng bẹ mềm, tân từ điển 4. có lá thành tàu, quả thành buồng, chín ăn rất ngon. 2. Quả, (Thanh

trái chuối. Nghị)

cam. dt. (thực.) Cây về loại bưởi, loại chanh có trái ruột

124

nhiều múi, nước nhiều, ăn được.

vải. dt (thực.) Thứ cây thuộc loại nhãn, quả có mắt nho

nhỏ, chín thì vỏ đỏ, vị ngon ngọt.

nhãn. dt. (thực.) 1. Loại cây to, có quả mọc từng chùm,

khi chín ăn vị ngọt, ngon. 2. Trái, quả nhãn.

mít. dt. (thực.) Thứ cây quả có gai, ở trong múi, ăn được.

na. dt. (thực.) 1. Mảng-cầu. 2. Quả na.

xoài. dt. (thực.) Thứ cây có trái hình quả tim, nhiều cơm,

vị thơm ngon.

dứa. dt. Cũng gọi là thơm.

bưởi dt. Loài cây to, cùng họ với cam, hoa trắng và thơm,

cuống lá có cánh, quả to gồm nhiều múi có tép chứa một

chất nước vừa chua vừa ngọt.

chuối dt. Loài cây đơn tử diệp, thân ngầm, lá có bẹ to ôm

lấy nhau thành một thứ thân giả, quả hình tròn và dài, xếp

thành buồng.

cam dt. Loài cây cùng họ với bưởi, quả tròn, bé hơn quả

bưởi, cùi mỏng. Từ điển vải dt. Loại cây to, thuộc họ bồ hòn, quả có vỏ mỏng màu 5. tiếng Việt đỏ nâu, mặt ngoài sần sùi, hạt có cùi màu trắng, nhiều (Văn Tân) nước, ăn được.

nhãn dt. Loài cây to, cùng họ với vải, quả tròn, mọc thành

chùm, vỏ vàng nâu, hạt thường đen, cùi trắng và ngọt.

mít dt. Loài cây cùng họ với dâu tằm, thân có nhựa mủ,

quả kép lớn có gai và chứa nhiều múi, vị ngọt và thơm.

na dt. Loài cây song tử diệp, quả to bằng nắm tay, màu lục

nhạt, ngoài mặt có mắt tròn, phía trong có múi trắng, mềm

và ngọt, mỗi múi chứa một hạt màu đen.

125

xoài dt. Loài cây ăn quả cùng họ với cây sấu, quả hình

thận, thịt ngọt màu vàng, hột to có bao cứng.

dứa dt. Cg. Thơm, khóm gai. Loài cây thấp, lá có gai xếp

theo hình hoa thị ở đầu thân, quả là một quả giả có vị ngọt,

hình đầu do trục hoa phồng lên mà thành.

bưởi dt. (thực.). Loại cây ăn trái, thân và nhánh có gai

nhọn dài 3, 4cm., lá dày láng có đốt ở cuống, hoa trắng

thật thơm, trái to, tròn hoặc có nuốm, vỏ dày mềm, nhiều

múi, mỗi múi có nhiều tép trong, nước ngọt, ngon hoặc

chua, the; trái non xẻ hai phơi khô là vị chỉ (Citrus

grandis).

chuối dt. (thực.). Loại cây thân mềm do bẹ lá kết hợp, giữa

có lõi trắng, đúng hạn trổ bắp, bắp giải thành buồng, mỗi

buồng có nhiều nải, mỗi nải nhiều trái, vỏ mềm, ruột mềm

ngon ngọt, củ chuối sinh con. Tự điển

cam dt. (thực.). Loại cây ăn trái, thân và cành có gai nhọn Việt Nam

cứng, lá có đốt gần cuống, hoa trắng thơm, trái tròn vỏ dày 6. (Lê Văn

có nhiều múi, múi có nhiều tép trong, ngon ngọt, nhiều Đức)

sinh tố (Citrus sinensis).

quýt dt. (thực.): C/g. Quất, loại cây ăn trái, cao lối 4m, lá

có cánh ở cuống, hoa trắng, cành nhỏ, trái mỏng vỏ và

tróc, nhiều múi; vỏ có nước the, phơi khô là vị trần bì

(Đy), múi có nhiều tép ngọt hoặc chua.

vải dt. (thực.): C/g. Lệ chi hay Đơn lệ, loại cây có trái mọc

từng chùm, tròn hoặc tròn nhọn bằng ngón chân cái, vỏ có

mụt nhỏ mọc dày, cơm trắng đục có vị ngọt chua, có tánh

điều hoà khí lực và thông thần.

mít dt. (thực.): C/g. Ba-la-mật, sách thuốc gọi Nẵng-gia-

126

kiết, loại cây to gỗ vàng, lá đơn láng, rậm, phát hoa gọi

dái, đực cái riêng, trái to tròn dài, vỏ có nhiều gai; có

nhiều múi và xơ, mỗi múi có hột đựng trong một bọc cứng

giòn, cơm ngọt, thơm, nhiều mật, hột bùi nhiều bột có tính

ích khí, giải phiền (Arto-carpus heterophyllus).

na dt. (thực.) X. Mảng cầu (trừ mảng cầu Xiêm)

xoài dt. (thực.) Sách thuốc gọi Hương-cái, vua Thiệu-trị

đặt là Móng, loại cây cao, tàn rậm lá đơn giòn, đọt ăn chua

chua chát chát; hoa nhỏ vàng trổ thành chùm ở chót nhánh;

trái no tròn ở gần cuống, hơi nhọn và quéo ở chót, khi

chín, cơm vàng ngon, ngọt; hột giẹp có xơ; trái có nhiều

caroten, sinh-tố B1 và sinh-tố C; vỏ cây và hột có nhiều

tanin được dùng trị tiết-tả; mủ cây trị ghẻ

bưởi dt. (thực) Loài cây to, cùng họ với cam, hoa trắng và

thơm, quả to gồm nhiều múi.

chuối dt. (thực) Loài cây đơn tử diệp, thân mềm, lá có bẹ,

quả xếp thành nải và thành buồng.

cam dt. (thực) Loài cây cùng họ với bưởi, quả bé hơn quả

bưởi, vỏ mỏng, khi chín thường có màu hồng nhạt, múi có Từ điển từ

tôm thường mọng nước, ngọt hoặc hơi chua. và ngữ Việt

vải dt. Loài cây to quả có vỏ sần sùi màu đỏ nâu khi chín, 7. Nam

hạt có cùi màu trắng, nhiều nước, ăn được. (Nguyễn

nhãn dt. (thực) Loài cây to cùng họ với vải, quả tròn, mọc Lân)

thành chùm, hạt đen, cùi trong và ngọt.

mít dt. Loài cây ăn quả, thân có nhựa mủ, quả có gai, chứa

nhiều múi và sơ, có vị ngọt và thơm.

na dt. Cây song tử diệp, quả có nhiều mắt, trong có múi

trắng mềm và ngọt, múi có hạt màu đen.

127

xoài dt. (thực) Loài cây ăn quả cùng họ với cây sấu, quả

hình bầu dục, hạt to thịt ngọt khi thực chín.

dứa dt. (cn. thơm) Loài cây thấp, lá dày, có gai, quả có

nhiều mắt, có thứ ăn ngọt, có thứ ăn chua.

bưởi dt. 1. Cây trồng nhiều ở Việt Nam, cao 10-13m, cành

có gai nhỏ mọc đứng ở kẽ lá, lá hình trái xoan tù hai đầu,

dai, cuống có cánh dài, hoa trắng to rất thơm mọc thành

chùm 6-10 chiếc, quả hình cầu to, cùi dày, màu thay đổi

tùy loại, chứa thường là 12 múi, tép mọng nước có vị

chua, ăn ngon, hạt dùng ép dầu, gỗ rắn, vàng. 2. Quả bưởi.

chuối dt. 1. Cây ăn quả, có ở vùng nhiệt đới, được trồng

hoặc tự mọc, thân được tạo từ các lớp bẹ ôm lấy nhau, lá

vươn từ thân, cuống lá cứng to, hơi cong, quả dài hơi

cong, xếp thành nải, nhiều nải thành buồng, chín vàng, thịt Đại từ điển mềm ngọt. 2. Quả chuối và những sản phẩm làm từ loại tiếng Việt quả này. 8. (Nguyễn cam dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, thân nhỏ, không gai Như Ý chủ hoặc ít gai, lá hình trái xoan hơi khía tai bèo ở phía trên, hoa biên) trắng mọc thành chùm 6-8 cái ở kẽ lá, quả hình cầu, có vỏ

chín vàng, khó bóc, ruột có vị chua ngọt, là loại quả quý. 2.

Quả cam và những sản phẩm làm từ loại quả này.

quýt dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, cao 5-8m,

không gai hoặc có gai ngắn thẳng, lá hình trái xoan, mép

hơi khía tai, hoa trắng mọc riêng lẻ, quả gần hình cầu màu

da cam, dẹt hai đầu, vỏ lồi lõm nhưng không sần sùi, dễ

bóc, ruột quả ngọt dịu, thơm, vỏ được dùng làm thuốc. 2.

Quả quýt.

vải dt. 1. Cây trồng nhiều ở miền bắc Việt Nam lấy quả

128

ăn, cao đến 10m, cành tròn màu gụ, tán lá xòe rộng, lá

mọc 2- 4 đôi trên một cuống, cứng dai, mặt trên sáng mặt

dưới thâm, quả hình trứng, chín đỏ, hạt to nâu, cùi dày

trắng mọng, nước có vị hơi chua, hạt, hoa và rễ có thể

dùng làm thuốc. 2. Quả vải.

nhãn dt. 1. Cây ăn quả, thân to, quả tròn, mọc thành chùm, vỏ

quả màu nâu nhạt, hạt đen, cùi trắng, mọng nước, có vị ngọt.

2. Quả nhãn và các sản phẩm từ quả nhãn.

mít dt. Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi, thân gỗ,

cao đến 20 m, lá hình trái xoan rộng hay trứng ngược, dày,

bóng, màu lục đậm, quả to, vỏ nhiều gai nhọn có nhiều

múi thịt mềm thơm và ngọt, gỗ vàng mịn, dùng khắc dấu,

tiện và tạc tượng. 2. Quả mít.

na dt. 1. Cây trồng lấy quả ăn, cao 2-8m, phân cành nhiều,

lá hình mác, cuống mảnh, hoa vàng mọc rủ xuống, quả

hình cầu, vỏ xanh nhạt, có nhiều mắt, thịt trắng, mềm,

thơm và ngọt, hạt nhỏ đen nhánh; còn gọi là mãng cầu. 2.

Quả na.

xoài dt. 1. Cây trồng chủ yếu ở miền Nam Việt Nam để

lấy quả ăn, cao l0-25m, lá mọc cách hình thuôn mũi mác,

hoa họp thành chùm kép ở ngọn cành, quả hạch hơi hình

thận, vỏ ngoài dai, khi chín màu vàng xanh, thịt mọng

nước thơm ngọt chứa nhiều vi-ta-min, vỏ quả dùng chữa

bệnh kiết lị, bệnh hoại huyết. 2. Quả xoài và những sản

phẩm làm từ loại quả này.

dứa dt. 1. Cây ăn quả, thân ngắn, lá dài, cứng, có gai mọc

ở mép, quả có nhiều mắt, phía trên có cụm lá. 2. Quả dứa

và các sản phẩm làm từ loại quả này.

129

Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:

- Giống như các định nghĩa mục từ cây lương thực trong Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê chủ biên), tất cả các định nghĩa tên gọi một số cây ăn quả nêu trên

trong 7 quyển từ điển được so sánh đều nêu ra nét nghĩa khái quát - nét nghĩa chỉ

loại. Tuy nhiên, nét nghĩa này thể hiện bằng các từ bao thuộc các bậc khác nhau:

cây, loại cây, loài cây, thứ cây, cây trồng, cây ăn quả. Trong các định nghĩa nêu

trên chỉ có các định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) lựa

chọn từ bao chính xác nhất, trực tiếp chỉ rõ cây nông nghiệp này là "cây ăn quả";

tiếp theo là các định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt chọn từ bao là "cây

trồng". Còn các định nghĩa trong Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ

điển Văn Tân, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Nguyễn Lân chọn từ bao ở bậc cao

hơn là "cây, loại cây, loài cây, thứ cây". Việc sử dụng các từ, ngữ để thể hiện nét

nghĩa chỉ loại tốt nhất phải thể hiện được hệ thống phân cấp có tôn ti trật tự theo

quan hệ bao và được bao. Tức là, phải lựa chọn cấp độ trực tiếp là "nút" để cho

các "cành nhỏ mọc ra", vừa là điểm cuối cùng cho các "lá" hội tụ. Cái nút cuối

cùng mà các "lá" hội tụ chính là cấp độ xác định để lựa chọn từ bao" [64, tr.4].

Theo đó, khi định nghĩa một số mục từ cây ăn quả nêu trên thì cái nút cuối cùng

chính là "cây ăn quả". Việc xác định chính xác cấp độ để lựa chọn từ bao sẽ giúp

cho việc phân tích nghĩa của từ được hiệu quả hơn qua việc lựa chọn các đặc

trưng riêng, cụ thể của từng từ đầu mục cần được giải thích.

- Việc lựa chọn không chính xác từ bao có ảnh hưởng đến độ chính xác trong

việc lựa chọn các dấu hiệu/đặc điểm cụ thể, riêng biệt của tên gọi cây trồng ở từ

đầu mục để có thể phân biệt nghĩa từ đầu mục này với các từ đầu mục khác đều

thuộc mục từ cây ăn quả có cùng một cấu trúc ngữ nghĩa. Thành tố nghĩa chỉ đặc

trưng được lựa chọn của cây ăn quả gồm nhiều nét nghĩa khác nhau. Các từ điển

nêu trên đều đã nêu ra nhiều dấu hiệu/đặc điểm về hình thức của cây, của cành,

lá, hoa, quả, vỏ, đặc điểm về màu sắc, mùi, vị, kích cỡ, công dụng của hoa, quả,

hạt. Điểm khác biệt chỉ là số lượng các dấu hiệu/đặc điểm được lựa chọn được

130

nêu ra trong định nghĩa: Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh

Nghị nêu ra ít các đặc trưng nhất, nên định nghĩa thường đơn giản, sơ sài, không

đủ để phân biệt rõ một số cây ăn quả với nhau. Một số dấu hiệu/đặc điểm được

lựa chọn không chính xác, không có tính bao quát. Ví dụ:

+ Từ điển Khai Trí:

bưởi. Tên một thứ cây về loài cam, có quả ăn được. (định nghĩa này không

phân biệt được bưởi, cam, quýt, chanh).

cam. Tên một thứ cây về loài bưởi, loài chanh, có quả ăn được.

mít. Thứ cây quả có gai, có sơ, có múi. (định nghĩa thế này thì cũng có thể là

cây sầu riêng).

dứa. Một loài cây thấp, lá nhọn có gai, hoa thơm, quả thơm và có mắt (hoa

dứa không có mùi thơm, quả dứa chỉ chín mới có mùi thơm).

+ Từ điển Đào Văn Tập:

bưởi. Giống cây loài cam quít, trái lớn có nước nhiều nhưng thường chua.

(không phải tất cả các giống bưởi đều chua, nhiều giống bưởi có múi rất ngọt).

mít. dt Loài cây ăn quả, thân có nhựa mủ, quả có gai, chứa nhiều múi và sơ,

có vị ngọt và thơm. (chỉ khi chín quả mít, múi mít mới có mùi thơm).

+ Từ điển Thanh Nghị:

mít. dt. (thực.) Thứ cây quả có gai, ở trong múi, ăn được. (định nghĩa thế

này thì cũng có thể là cây sầu riêng).

...

- Một số định nghĩa mục từ cây ăn quả đưa nhiều dấu hiệu/đặc điểm quá cụ

thể, chi tiết. Đồng thời, bên cạnh những thông tin ngôn ngữ, còn nêu cả những

thông tin bách khoa nên lời định nghĩa thường dài hơn, chi tiết hơn so với định

nghĩa của các từ điển khác. Ví dụ, các định nghĩa mục từ bưởi, cam, quýt, vải,

mít, xoài trong Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên); các định nghĩa

mục từ bưởi, mít, xoài trong Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức. Đây là hai

quyển từ điển cỡ lớn có số lượng mục từ rất lớn (từ 75.000 đến 120.000 mục từ).

131

Việc vừa đưa nhiều dấu hiệu/đặc điểm để miêu tả cụ thể, rõ ràng tên gọi cây

trồng lại vừa cung cấp những thông tin bách khoa trong lời định nghĩa cây nông

nghiệp chỉ có trong định nghĩa của các từ điển cỡ lớn. Định nghĩa tên gọi cây

nông nghiệp trong các từ điển cỡ trung (khoảng từ 45.000 đến 60.000 mục từ)

chỉ lựa chọn những dấu hiệu/đặc điểm cần và đủ để vừa phân biệt được các loài

cây với nhau vừa chỉ rõ những đặc trưng riêng biệt của từng loại cây trồng. So

sánh một số định nghĩa cây nông nghiệp sau đây:

Định nghĩa trong Đại từ điển tiếng Việt Định nghĩa trong Từ

điển tiếng Việt (Hoàng STT (Nguyễn Như Ý chủ biên)

Phê chủ biên)

ngô dt. 1. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi lấy ngô d. Cây lương thực,

hạt làm lương thực; sống hàng năm, thân thân thẳng, quả có dạng

thẳng, đơn độc, đặc nhẵn, cao tới 2m, các đốt hạt tụ lại thành bắp ở lưng

ở gốc mang rễ, lá hình mũi mác rộng, ráp, chừng thân, hạt dùng để

cụm hoa đực lá chùng ở ngọn cây, cụm hoa ăn. Ngô nếp. Ngô tẻ.

cái lá bông dày ở nắp lá, bắp có áo bọc, hạt Chuyện nở như ngô rang. 1. xếp xít nhau thành dãy, màu trắng hoặc màu

vàng đôi khi nâu đỏ, đầu bắp có nhiều râu;

dùng ăn hoặc nấu rượu (hạt), lợp nhà (lá),

nuôi súc vật (thân), làm thuốc lợi tiểu (râu). 2.

Hạt ngô và sản phẩm từ loại hạt này: ngô

hầm, ngô rang.

khoai lang dt. 1. Cây trồng ở nhiều nơi, để khoai lang d. Cây thân cỏ

lấy củ, sống dai, mọc bò, lá hình tim có mũi mọc bò, hoa hình phễu,

nhọn, củ đỏ hoặc trắng dùng làm lương thực, màu tím nhạt hay trắng, rễ 2. có tính chất nhuận tràng: trồng mấy luống củ chứa nhiều tinh bột,

khoai lang. 2. Củ cây khoai lang, dùng làm dùng để ăn. Củ khoai

lương thực. lang.

132

cam dt. 1. Cây trồng lấy quả ở nhiều nơi, thân cam d. Cây ăn quả, lá to,

nhỏ, không gai hoặc ít gai, lá hình trái xoan hoa màu trắng, quả tròn,

hơi khía tai bèo ở phía trên, hoa trắng mọc bé hơn quả bưởi, vỏ

thành chùm 6-8 cái ở kẽ lá, quả hình cầu, có mỏng, khi chín thường có 3. vỏ chín vàng, khó bóc, ruột có vị chua ngọt, màu vàng đỏ, vị ngọt

là loại quả quý: trồng cam. 2. Quả cam và hoặc chua. Màu da cam.

những sản phẩm làm từ loại quả này. Rượu cam (chế bằng tinh

dầu cam).

hồ tiêu dt. 1. Cây trồng nhiều ở Nam Bộ và hồ tiêu d. Cây leo cùng

Trung Bộ, lấy quả làm gia vị, thân leo, lá hình họ với trầu không, hạt có

trứng bầu dục hay hình bầu dục nhọn đỉnh, vị cay, dùng làm gia vị. 4. quả mọng hình cầu, màu đỏ lúc tươi, đen khi

khô, vị thơm cay. 2. Loại gia vị dạng bột,

màu xám, vị cay nồng lấy từ hạt hồ tiêu.

xoài dt. Cây trồng chủ yểu ở miền Nam Việt xoài d. Cây ăn quả to, vỏ

Nam để lấy quả ăn, cao 10-25m, lá mọc cách nhẵn, lá hình trái xoan

hình thuôn mũi mác, hoa họp thành chùm kép dài, quả hình bầu dục, thịt

ở ngọn cành, quả hạch hơi hình thận, vỏ màu vàng, hạt to có bao

ngoài dai, khi chín màu vàng xanh, thịt mọng cứng. 5. nước thơm ngọt chứa nhiều vi-ta-min, vỏ quả

dùng chữa kiết lị, bệnh hoại huyết: Vườn xoài

đang mùa hoa. 2. Quả xoài và những sản

phẩm làm từ loại quả này: ăn xoài, mua mấy

cân xoài.

- Về cách diễn đạt trong lời định nghĩa, vẫn còn một số định nghĩa nêu các

đặc trưng của từ đầu mục không chính xác. Chẳng hạn, khi nêu đặc trưng vị của

quả, (trừ định nghĩa mục từ chuối trong Từ điển Thanh Nghị, mục từ xoài trong

133

Từ điển Lê Văn Đức nêu rõ quả của hai loài cây này khi chín có vị ngọt), tất cả

các định nghĩa còn lại đều chỉ nêu chung chung là vị chua hay ngọt, mùi thơm

của quả, múi. Thật ra, tất cả các loại quả chỉ khi chín mới có mùi thơm, vị ngọt,

hay chua một cách rõ ràng, nên để chính xác phải thêm cụm từ "khi chín" vào

trước đặc trưng mùi, vị.

3.3.3. So sánh định nghĩa tên gọi cây nguyên liệu trong các từ điển giải thích

tiếng Việt

STT Tên từ điển Định nghĩa

caosu cv. cao su. dt. Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có 1. Từ điển

nhiều nhựa mủ. tiếng Việt

cà phê dt. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ, khi (Hoàng Phê

chín có màu đỏ, hạt đem rang và xay nhỏ thành bột màu chủ biên)

nâu sẫm, dùng để pha nước uống.

chè dt. Cây nhỡ lá răng cưa, hoa màu trắng, quả có ba múi,

trồng để lấy lá, búp, nụ pha nước uống.

sơn dt. Cây cùng họ với xoài, lá kép lông chim, thân có

nhựa dùng để chế một chất cũng gọi là sơn.

hồi dt. Cây to, quả gồm tám múi khô cứng xếp thành hình

sao, mỗi múi chứa một hạt, có mùi thơm, dùng để cất lấy

tinh dầu.

quế dt. Cây lớn thuộc họ long não, lá to, vỏ có mùi thơm,

vị cay, dùng làm thuốc.

hồ tiêu dt. Cây leo cùng họ với trầu không, hạt có vị cay,

dùng làm gia vị.

bông dt. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, lá hình chân vịt, hoa

màu vàng, quả già chứa xơ trắng, dùng để kéo thành sợi

vải.

đay dt. Cây trồng thân cỏ, lá dài có hai ria ở phía gốc, quả

134

tròn, vỏ thân có sợi dùng làm bao tải, làm dây buộc.

mía dt. Cây trồng thuộc họ lúa, thân đặc có đốt, chứa chất

đường, dùng để kéo mật, làm đường.

chè Thứ cây người ta trồng để lấy lá nấu nước uống. 2. Việt Nam tự

sơn Nhựa một thứ cây dùng để gắn hay quét ở ngoài đồ gỗ điển (Hội

cho bền, cho đẹp. Khai trí -

hồi Loài cây có quả dùng làm dầu. Tiến Đức)

quế Thứ cây quí, vỏ thơm cay, dùng làm thuốc.

hồ-tiêu Thứ hột có chất cay, dùng làm đồ gia-vị.

bông Một thứ tơ trắng ở trong quả.

đay Loài cây có vỏ dùng làm sợi.

mía Thứ cây thuộc về loài sậy, có chất ngọt để làm mật,

làm đường.

cà-phê (Pháp: Café) Trái của một thứ cây trồng ở xứ 3. Tự điển

nóng, rang cháy lên rồi xay nhỏ ra để pha nước uống. Việt Nam

chè (h. trà) Giống cây có lá dùng để pha hay nấu nước phổ thông

uống. (Đào Văn

cao-su (Pháp) Chất có tính chun (thun) lấy ở nhiều giống Tập)

cây có nhựa trồng ở xứ nóng.

cao-su dt. (thực) Loại cây trong thân có mủ, đặc lại thì dẽo 4. Việt Nam

và dãn. tân từ điển

cà-phê dt. (thực) Trái nhỏ của cây cà-phê trong trái có hột, (Thanh

phơi ran làm ra bột dùng khuấy với nước đường, uống Nghị)

ngon. Café.

chè dt. Loại cây thường trồng để lấy lá nấu nước uống.

sơn dt. Nhựa một thứ cây để gắn hay phết ngoài đồ gỗ cho

bền cho đẹp.

135

quế dt. (thực) Vỏ thơm cay của cây quế dùng làm thuốc

rất hay

hồ-tiêu dt. Hạt tiêu.

bông dt. Thứ tơ trắng lấy trong quả cây bông vải, bông

gòn, bông gạo dùng làm vải, đồ lót, nệm v.v...

đay dt. (thực) Loại cây có vỏ dùng làm sợi dệt vải.

mía dt. (thực) Cây thuộc về loài sậy vỏ cứng, có đốt dài,

đặc ở trong, có nhiều chất nước ngọt dùng làm mật, làm

đường.

cao-su dt. Cây cùng họ với thầu dầu, mọc ở những vùng 5. Từ điển

nhiệt đới, vỏ rạch ra thì có một chất nhựa mủ dùng để chế tiếng Việt

cao-su. (Văn Tân)

cà-phê dt. Loài cây lá mọc đối, hoa trắng, quả hình trứng,

khi chín thì đỏ, chứa hai hạt.

chè dt. Loài cây nhỡ, lá có răng, hoa trắng, trồng lấy búp,

lá, nụ để pha nước uống.

sơn dt. Loài cây cùng họ với xoài, trám, lá kép, vỏ có nhựa

cũng gọi là sơn.

hồi dt. Loài cây song tử diệp, cao độ tám mét, quả gồm

tám khía xếp thành hình sao, chứa một thứ dầu thơm dùng

để chế rượu, làm gia vị, làm thuốc.

quế dt. Loài cây cùng họ với long não, lá to có ba đường

gân rõ rệt, vỏ thơm và cay, dùng làm thuốc.

hồ tiêu dt. Cây nhiệt đới, hột có vị cay và dùng làm gia vị.

bông dt. Cây cùng họ với râm bụt, trồng lấy quả kéo sợi

dệt thành vải.

đay dt. Loài cây nhỏ, lá to và dai, vỏ có sợi thô, dùng để

làm dây, dệt bao tải, đan võng...

136

mía dt. Loài cây thuộc họ hòa thảo, thân đặc chứa đường,

dùng để kéo mật làm đường.

cao-su dt. (thực). Loại cây to, cao đến 7 m., lá kép do ba lá 6. Tự điển

phụ nhập lại; chùm tụ-tán hoa vàng nhỏ không cánh, đài Việt Nam

dính thành dĩa năm răng, noãn-sào lép, có từ năm đến (Lê Văn

mười tiểu-nhị, trái có ba hột láng-nhiều dầu mủ cây trắng Đức)

đục, cần-thiết cho kỹ-nghệ (Heve).

cà-phê dt. (thực). Loại cây trồng, lá cứng dà màu sậm, hoa

nhỏ trắng, đơm thành chùm, thơm; trái tròn dài chín đỏ,

hột có chất tanin tức acit Cafêtannin do hai chất acit

coffalie và chlorôgênie hỗn-hợp và hai chất alcalôite:

cafêin và trigônellin (Coffea).

chè dt. (thực): C/g. Trà, loại cây trồng, có thể cao đến

10m., lá có răng cưa mịn, mọc xen, hoa cô-độc trắng,

nhiều tiểu-nhị, đọt có chất chánh là trimêthylxanthin gọi là

caféin và chất phụ là théophyllin, ngoài ra còn có glucôsit,

tanin và nhiếu-tố théas, trong lá xanh có sinh-tố C; do chất

caféin, trà tăng-cường các bộ hô-hấp, tuần-hoàn và gây

cảm-giác khoan-khoái (thêin); Camellia Thea sinensis).

sơn dt. (thực) Tên thứ cây có mủ (nhựa) dùng tô, phết cho

bền, cho đẹp.

hồi dt. (thực) Loại cây cao lối 7 m., lá như tơ, hoa vàng,

trái có nhiều dầu.

quế dt. (thực): C/g. Mộc-tê, loại cây rừng to, vỏ thơm, vị

cay ngọt, tánh ôn.

hồ-tiêu dt. (thực) X. Tiêu.

đay dt. (thực) X. Đại-ma.

mía dt. (thực): C/g. Cam-giá, loại cỏ cao từ 2 tới 6 m.,

137

thân trơn vỏ cứng, có đốt dài từ 10 tới 20 cm, lá dài nhám,

gân chánh trắng, lá mọc hai hàng tại mỗi mắt có bẹ ôm

thân, chùm tụ-tán (cờ) ở đọt có nhiều lông mịn; thân mía

có nước ngọt, dùng nấu đường hay ăn sống.

cao-su dt. (Pháp: caoutchouc) 1. Cây cùng họ với thầu 7. Từ điển từ

dầu, mọc ở vùng nhiệt đới có chất nhựa mủ rất cần cho và ngữ Việt

công nghiệp. Nam

cà phê dt. (Pháp: café) 1. Cây nhỡ, lá mọc đối, hoa trắng, (Nguyễn

quả hình trứng gà, khi chín thì đỏ. Lân)

chè dt. Loài cây lá có răng cưa, hoa trắng, trồng để lấy

búp, lá, nụ pha nước uống.

sơn dt. (thực) Loài cây cùng họ với xoài, lá kép, vỏ có

nhựa.

hồi dt. Loài cây song tử diệp, quả gồm tám khía xếp thành

hình sao, chứa một chất dầu thơm.

quế dt. (thực) Loài cây cùng họ với long não, lá to, có ba

đường gân rõ rệt, vỏ thơm và cay, dùng làm thuốc.

hồ tiêu dt. Cây leo vùng nhiệt đới có hột dùng làm gia vị.

bông dt. (thực) Cây cùng họ với râm bụt, lá hình chân vịt,

hoa màu vàng, quả có sợi trắng dùng để dệt vải.

đay dt. (thực) Loài cây thân cỏ, lá khá to vỏ thân có sợi

dùng để dệt bao tải, bện võng, làm dây.

mía dt. (thực) Loài cây thuộc họ hoà thảo, thân đặc chứa

đường, dùng để kéo mật làm đường.

cao su (caoutchouc) dt. Cây to, mọc thành rừng nhiều mủ, 8. Đại từ điển

dùng để chế tạo các chất có tính đàn hồi. tiếng Việt

cà phê (café) dt. Cây trồng ở nhiều vùng Việt Nam, nhiều (Nguyễn

nhất là Tây Nguyên, thân nhỡ, cành có cạnh nâu đen, tròn, Như Ý chủ

138

màu xám, lá hình trái xoan, mặt trên màu lục bóng, mặt biên)

dưới nhạt, hoa trắng, quả nạc, hạt rang xay pha để uống có

vị thơm ngon.

chè dt. Cây nhỡ, lá răng cưa, hoa màu trắng, trồng lấy lá,

búp để làm đồ uống.

sơn dt. Cây trồng nhiều ở Phú Thọ và các đồi miền bắc

Việt Nam, để chích lấy sơn hoặc mọc dại trong rừng, cây

nhỡ, lá hình thuôn mũi mác nhọn đầu mỏng nhẵn, mặt

dưới xanh nhạt, quả hạch hơi dẹt.

hồi dt. Cây to, quả có tám múi khô cứng xếp thành hình

sao, trong đó có nhiều hạt, dùng để cất tinh dầu.

quế dt. Cây mọc trong rừng, có kích thước trung bình, lá

thuôn dài, mặt trên sáng bóng và nhẵn, mặt dưới màu lục

và hơi có lông, hoa hợp thành chùy ở nách nhưng lá phía

trên, vỏ nâu sẫm chứa dầu dùng làm thuốc chữa bệnh đau

bụng, trị chứng khó tiêu hóa và dùng chế dầu quế, kem

quế, còn gọi là quế bì, quế đơn.

hồ tiêu dt. Cây trồng nhiều ở Nam Bộ và Trung Bộ, lấy

quả làm gia vị, thân leo, lá hình trứng bầu dục hay hình

bầu dục nhọn đầu, quả mọng hình cầu, màu đỏ lúc tươi,

đen khi khô, vị thơm cay.

bông dt. Cây thân cỏ, lá hình chân vịt, hoa vàng, xơ trắng

bám quanh hạt, dùng để làm sợi.

đay dt. Cây mọc hoang và được trồng để lấy vỏ, thân làm

sợi dệt, ngọn non làm rau ăn, cây thảo mọc hàng năm, cao

l-3m, lá bầu dục hẹp, đầu nhọn, mép có răng cưa, hoa

vàng, quả nang gần hình cầu có 10 rãnh dọc rõ, hạt độc;

còn gọi rau đay, bố đay, đay quả tròn .

139

mía dt. Cây trồng phổ biến ở nhiều nơi, sống hằng năm,

thân cao 2-8 m, thẳng đứng, ruột đặc, phân đốt đều đặn, lá

cứng thẳng, hình dải nhọn, đầu kéo dài buông thõng, mép

và mặt dưới ráp, dùng ép để chế đường (thân) và lợp nhà

(lá).

Từ các định nghĩa nêu trên có thể nêu ra những nhận xét sau đây:

- Trừ định nghĩa các mục từ: sơn, hồ tiêu, bông trong Từ điển Khai Trí; cao su,

cà phê trong Từ điển Lê Văn Đức; cà phê, sơn, bông trong Từ điển Thanh Nghị

không nêu tên cây, các định nghĩa tên gọi một số cây nêu trên trong các cuốn từ

điển còn lại đều nêu ra nét nghĩa khái quát - nét nghĩa chỉ loại bằng các từ bao

thuộc các bậc khác nhau: cây, loại cây, loài cây, thứ cây, cây trồng. Tuy nhiên,

nếu theo cách phân loại ngữ nghĩa thì chính xác nhất nên chọn từ bao là "cây

trồng", vì từ này vừa thể hiện được cấp độ phân loại, đồng thời lại chỉ rõ tính chất

của các loại cây này là được con người gieo trồng, chứ không phải là những loại

cây mọc hoang dã (dù rằng từ xa xưa tất cả các loại cây đều mọc hoang, rồi một số

trong chúng được con người thuần hóa, gieo trồng phục vụ cuộc sống của mình).

Theo cách hiểu như vậy thì Đại từ điển tiếng Việt đã chọn từ bao phù hợp và

chính xác nhất.

- Về việc lựa chọn, xác định những đặc trưng của từng loại cây nguyên liệu

đưa vào trong định nghĩa, cho thấy các từ điển được biên soạn giai đoạn nửa đầu

thế kỉ XX (Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh Nghị, Từ điển Đào Văn Tập) đã lựa

chọn rất ít đặc trưng nên định nghĩa rất sơ sài, các nội dung thông tin trong định

nghĩa không đủ khả năng phân biệt được rõ các giống cây khác nhau. Chẳng hạn,

định nghĩa mục từ chè, sơn, hồi, quế trong Từ điển Khai Trí; mục từ cà phê, chè,

hồi, đay trong Từ điển Đào Văn Tập; mục từ chè, đay trong Từ điển Thanh Nghị

là những định nghĩa không có tác dụng phân biệt vì chúng có thể chỉ một số loại

cây khác (như trẩu, sở, lanh, gai, thảo quả, sả, tràm,...).

140

- Từ điển Lê Văn Đức và Đại từ điển tiếng Việt, thuộc cỡ lớn và có thể do

quan điểm của các tác giả biên soạn, thường nêu ra nhiều các đặc điểm trong lời

định nghĩa về cây ghi ở từ đầu mục, đồng thời còn cung cấp cả những thông tin

bách khoa (về thành phần hóa học, công dụng, tác dụng trong công nghiệp, y

học,...) nên các định nghĩa thường dài hơn, cụ thể và chi tiết hơn so với định

nghĩa cùng loại cây ở các từ điển khác. Mặc dù hiện nay định nghĩa trong từ điển

phổ thông có xu hướng đưa cả thông tin bách khoa bên cạnh các thông tin ngôn

ngữ, nhưng luận án cho rằng cũng nên có chọn lọc, chỉ nên đưa thông tin bách

khoa nào cần thiết đông đảo người sử dụng ngôn ngữ ở trình độ phổ thông có thể

hiểu được. Không nên quá lạm dụng các thông tin bách khoa trong từ điển ngôn

ngữ vì " (...) đối với cuốn từ điển đòi hỏi quá nhiều kiến thức mới hiểu được, thì

cũng chẳng có lợi gì cho người lao động thông thường" [106, tr.7]

Từ việc so sánh một số mục từ tên gọi một số cây nông nghiệp trong tiếng

Việt luận án nhận thấy rằng cùng với thời gian, công tác nghiên cứu và biên soạn

từ điển giải thích tiếng Việt cũng không ngừng được nâng cao và phát triển.

Những từ điển giải thích tiếng Việt được biên soạn trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ

XX (từ những thập niên 50 trở về trước) như Từ điển Khai Trí, Từ điển Thanh

Nghị, Từ điển Đào Văn Tập thường định nghĩa rất sơ sài, nên thiếu nhiều thông tin

trong định nghĩa. Thời kì này việc nghiên cứu lí thuyết về từ điển học ở nước ta

chưa phát triển, không áp dụng được những thành tựu nghiên cứu, biên soạn từ

điển của thế giới. Việc biên soạn từ điển chủ yếu là công việc của từng cá nhân

(Từ điển Khai Trí tuy mang danh hội nhưng cũng do một số cá nhân biên soạn)

dựa vào hiểu biết của mình và phát huy khả năng ngoại ngữ để tham khảo các từ

điển trên thế giới, chủ yều bằng tiếng Pháp. Vì thế, các định nghĩa còn đơn giản,

chất lượng không cao. Những từ điển giải thích tiếng Việt được biên soạn từ nửa

sau thế kỉ XX (từ những thập niên 70 trở đi như: Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn

Đức, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển

tiếng Việt) đã có chất lượng tốt hơn rất nhiều do trình độ các soạn giả đã được

141

nâng cao cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật và công nghệ trên

toàn cầu. Đồng thời, nhiều soạn giả đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu ngôn

ngữ học, từ điển học trên thế giới vào việc biên soạn từ điển tiếng Việt. Rõ rệt

nhất là Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). Chủ biên và các soạn giả của

quyển từ điển này đã ứng dụng thành tựu nghiên cứu ngữ nghĩa học cấu trúc trên

thế giới về cấu trúc nghĩa của từ và phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân

tích nghĩa của các thể từ, thuộc từ một cách chính xác, rõ ràng nên đã cung cấp

đầy đủ các thông tin ngữ nghĩa của các mục từ. Vì thế chất lượng quyển từ điển

này đã được nâng cao rõ rệt, trở thành một quyển từ điển có định nghĩa chính xác

và đáng tin cậy nhất hiện nay ở Việt Nam.

3.3.4. Đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển

giải thích tiếng Việt

Khi định nghĩa các mục từ trong từ điển giải thích tiếng Việt, các nhà từ điển

học, như đã trình bày ở chương 1 của luận án, đã sử dụng 6 phương pháp định

nghĩa khác nhau. Khi một từ được định nghĩa theo cấu trúc nghĩa W = S + v,

trong đó, S là một từ có cùng phạm trù với W nhưng rộng hơn W, tức là S có

khái niệm bao hàm khái niệm của W (từ đầu mục) thì đó là một định nghĩa bằng

phương pháp dùng từ bao, nên S chính là từ bao. Khảo sát các định nghĩa mục từ

cây nông nghiệp trong 8 cuốn từ điển giải thích tiếng Việt, luận án thấy các mục

từ này đều sử dụng phương pháp dùng từ bao trong định nghĩa. Có thể khái quát

hóa mô hình định nghĩa bằng phương pháp dùng từ bao như sau:

M (là) B + đ1, đ2, đ3,..., đn.

Trong đó: M là từ đầu mục; B là từ bao, đ1, đ2, đ3, đn là những đặc trưng

riêng của M có tác dụng phân biệt từ đầu mục này với các từ đầu mục khác thuộc

mục từ cây nông nghiệp. Từ bao (B) trong mô hình này phải là từ ở "nút" cuối

cùng mà các "lá" (từ đầu mục M) hội tụ. Ví dụ:

M (ngô) = B (cây lương thực) + đ1 (có cấu tạo: thân thẳng, quả có hạt tụ

thành bắp ở lưng chừng thân) + đ2 (dùng để làm gì: hạt dùng để ăn).

142

M (lúa) = B (cây lương thực) + đ1 (có cấu tạo: thân cỏ rỗng, hoa lưỡng tính,

không có bao hoa, quả có vỏ trấu bao ngoài gọi là hạt thóc).

M (khoai lang) = B (cây thân cỏ mọc bò) + đ1 (có cấu tạo: hoa hình phễu, màu

tím nhạt hay trắng) + đ2 (dùng để làm gì: rễ củ chứa nhiều tinh bột dùng để ăn).

M (cà phê) = B (Cây nhỡ) + đ1 (có cấu tạo: lá mọc đối, hoa trắng, quả nhỏ,

khi chín có màu đỏ) + đ2 (dùng để làm gì: hạt đem rang và xay nhỏ thành bột

màu nâu sẫm, dùng để pha nước uống).

Mô hình định nghĩa khái quát này có thể áp dụng thống nhất cho định nghĩa các

mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải thích, đảm bảo tính nhất quán của các

định nghĩa.

Tiểu kết

Chương này tập trung tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của các tên gọi cây nông

nghiệp trong tiếng Việt. Luận án áp dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa

vào phân tích lời định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt trong Từ điển

tiếng Việt ra thành các nét nghĩa khu biệt, phản ánh những đặc trưng cơ bản của

cây nông nghiệp được biểu thị trong tiếng Việt. Đối tượng phân tích là 386 tên gọi

cây nông nghiệp được giải thích trong từ điển.

Cấu trúc lời giải thích của mỗi tên gọi cây nông nghiệp gồm có các nét nghĩa

chỉ loại là tên gọi chỉ loại cây nông nghiệp và các nét nghĩa biểu thị các đặc

trưng khu biệt của nó. Từ kết quả phân tích cấu trúc nghĩa trong các định nghĩa

tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, luận án đã phân xuất được các thành tố nghĩa

chỉ loại và thành tố nghĩa chỉ đặc trưng của cây nông nghiệp. Thành tố nghĩa chỉ

loại chỉ có một nét nghĩa chỉ loại là nét nghĩa phạm trù xuất hiện trong tất cả các

lời định nghĩa, còn thành tố nghĩa chỉ đặc trưng gồm nhiều nét nghĩa. Luận án đã

xác định được 12 nét nghĩa khu biệt xuất hiện trong các định nghĩa tên gọi cây

nông nghiệp: đặc điểm hình thức/cấu tạo; vai trò của cây nông nghiệp trong đời

sống con người; đặc điểm tính chất của bộ phận cây nông nghiệp được sử dụng;

đặc điểm màu sắc; đặc điểm kích cỡ; đặc điểm hương, mùi vị; đặc điểm phân

143

loại cây nông nghiệp; đặc điểm thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật

học; môi trường sống; đặc điểm thuần dưỡng. Các nét nghĩa biểu thị dấu

hiệu/đặc trưng khu biệt tên gọi cây nông nghiệp đã được phân loại, miêu tả cụ

thể, rõ ràng về số lượng và tần số xuất hiện trong các định nghĩa và được sắp xếp

theo trình tự giảm dần của tần số xuất hiện của chúng trong các định nghĩa. Luận

án đã nêu những nhận xét về đặc điểm ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp

tiếng Việt qua các định nghĩa của từ điển. Nhiều định nghĩa còn thiếu một số

đặc trưng vốn được lấy làm cơ sở định danh tên cây nông nghiệp, như: đặc trưng

nguồn gốc, đặc trưng số lượng bộ phận của cây, đặc trưng thuần dưỡng. Các đặc

trưng này là những đặc trưng điển hình cho thực vật nói chung, cho cây nông

nghiệp nói riêng, vì vậy cần phải được đưa vào lời định nghĩa.

Kết quả xác định và phân tích các nét nghĩa trong các định nghĩa cho thấy khi

định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, các nét nghĩa: hình thức/cấu tạo; vai

trò của cây nông nghiệp trong đời sống con người; tính chất của bộ phận cây nông

nghiệp được sử dụng; màu sắc, kích cỡ; hương, mùi vị được sử dụng nhiều nhất để

nêu đặc điểm cây nông nghiệp, sau đó mới đến các nét nghĩa khác như: phân loại

cây nông nghiệp; thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật học; môi trường

sống; thuần dưỡng.

Từ kết quả nghiên cứu, luận án đã khái quát hóa 12 nét nghĩa có trong lời

định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt thành ba loại thành tố: thành tố chỉ

loại (nét nghĩa 1); thành tố chỉ thuộc tính của cây nông nghiệp (gồm có các nét

nghĩa 2, 3, 4, 5, 6, 7, 12); thành tố chỉ ngoại cảnh có liên quan đến cây nông

nghiệp hay những hiểu biết của con người về cây nông nghiệp (các nét nghĩa 8,

9, 10, 11). Đồng thời, luận án đã mô hình hóa cấu trúc ngữ nghĩa chung của các

từ là tên gọi cây nông nghiệp qua việc phân tích định nghĩa chúng trong từ điển.

So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

trong 8 quyển từ điển giải thích, luận án đã nêu ra một số nhận xét, đánh giá về

những ưu điểm và hạn chế của các định nghĩa này trong từng quyển từ điển, để

144

từ đó, đề xuất mô hình định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong từ điển giải

thích tiếng Việt.

145

KẾT LUẬN

Nghiên cứu Tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt và cách giải thích

trong từ điển tiếng Việt luận án đã đi tới những kết luận sau đây:

1. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai

để trồng trọt, chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu, nguyên liệu

lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho

công nghiệp. Cây nông nghiệp là loại cây trồng có ích cho đời sống, được con

người gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp từ hàng nghìn năm về

trước. Tuy vậy số lượng loại cây nông nghiệp chỉ chiếm một tỉ lệ thấp trong tổng

số các loài cây hiện hữu trên trái đất. Từ nhiều nguồn ngữ liệu khác nhau luận án

đã thu thập được 2609 tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt làm đối tượng

khảo sát, nghiên cứu.

2. Nghiên cứu tên gọi cây nông nghiệp tức là tìm hiểu cách thức định danh,

con đường đặt tên, gọi tên. Theo đó, chủ thể ngôn ngữ có sự vật, hiện tượng cần

đặt tên, nên tạo ra từ ngữ để gọi tên chúng bằng cách chọn chất liệu từ, ngữ, chất

liệu cấu tạo từ, phương thức cấu tạo để tạo ra tên gọi thay thế cho sự vật, hiện

tượng đã có. Dựa vào lí thuyết định danh, luận án đã xem xét tên gọi cây nông

nghiệp theo ba bình diện: nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, phương thức cấu tạo

tên gọi và những đặc trưng được dùng để gọi tên.

Về nguồn gốc ngôn ngữ của tên gọi, trong số 2609 tên gọi cây nông nghiệp

tiếng Việt được khảo sát, tên gọi cây nông nghiệp có nguồn gốc Việt chiếm đại

đa số với 2404/2609 đơn vị chiếm 92,14%; tên gọi có nguồn gốc vay mượn các

ngôn ngữ khác có số lượng rất ít với 166/2609 đơn vị, chiếm 6,36%. Trong 166

tên gọi có nguồn gốc vay mượn chỉ có 21 tên gọi vay mượn tiếng nước ngoài,

còn 145 tên gọi có nguồn gốc các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những

con số này nói lên rằng, hầu hết cây nông nghiệp của nước ta đều có nguồn gốc

bản địa, được người Việt cùng cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam gieo

146

trồng từ lâu đời nay để phục vụ cuộc sống của mình. Những giống cây ngoại

nhập không nhiều do phải có sự chọn lọc, lai tạo để phù hợp với điều kiện khí

hậu và thổ nhưỡng của nước ta.

Về phương thức cấu tạo, kết quả thống kê cho thấy tên gọi cây nông nghiệp có

cấu tạo chủ yếu bằng từ và ngữ định danh. Trong 2609 tên gọi cây nông nghiệp

được khảo sát, tên gọi có cấu tạo là từ có 763 đơn vị, chiếm 28,24%. Trong 763

tên gọi có cấu tạo là từ, có 260 tên cây là từ đơn, chiếm 9,97%. Đây là các đơn vị

định danh đơn giản, là các tên gọi cơ sở để sản sinh các tên gọi cây nông nghiệp là

những đơn vị định danh phức hợp. Tên gọi có cấu tạo là từ ghép phân nghĩa (từ

ghép chính phụ) có 503/2609 đơn vị, chiếm 19,28%. Số lượng lớn tên gọi cây

nông nghiệp có cấu tạo là ngữ định danh gồm 1972 đơn vị chiếm 75,59%. Đặc

điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp đã thể hiện rõ: định danh phức hợp gồm

nhiều đơn vị định danh là phương thức định danh cơ bản và chủ yếu của tên gọi

cây nông nghiệp trong tiếng Việt. Có thể khẳng định rằng tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt có cấu tạo gồm nhiều yếu tố chiếm số lượng lớn chính là sự khác

biệt lớn nhất và rõ rệt nhất giữa tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt với tên

gọi các loài thực vật nói chung trong tiếng Việt, thể hiện rõ vai trò của con người

trong việc đặt tên các giống cây trồng phục vụ các nhu cầu khác nhau của con

người. Nhờ phương thức định danh này các tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng

Việt có tính biệt loại cao, có tác dụng phân loại rõ rệt các giống cây khác nhau

trong cùng một loài cây.

Về những đặc trưng được dùng để gọi tên cây nông nghiệp, qua khảo sát

2609 tên gọi, luận án đã tiến hành trích xuất được 18 dấu hiệu/đặc trưng được

chọn làm cơ sở định danh cây nông nghiệp. Những đặc trưng dùng để định danh

đều mang tính khách quan, là những thuộc tính bản thể vốn có của chính các loài

cây nông nghiệp. Các dấu hiệu dùng để định danh cây nông nghiệp cho thấy tính

chất nhân tạo đã thể hiện rõ trong tên gọi cây nông nghiệp: chúng không phải là

loài cây mọc hoang mà là những loài do con người thuần hóa, lai tạo mà thành

147

với mục đích phục vụ cuộc sống, sự sinh tồn của con người. Do đó chúng gắn bó

mật thiết với xã hội loài người. Số lượng lớn các đặc trưng được lựa chọn để gọi

tên cây nông nghiệp cũng cho thấy tên gọi cây nông nghiệp được định danh theo

nhiều bậc khác nhau, mỗi tên gọi thường gồm một tập hợp các đặc trưng, nên tên

gọi có tính định danh rất cao, thể hiện rõ từng giống cây trong cùng một loại.

3. Nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa từ vựng của tên gọi cây nông nghiệp là theo

đường hướng nghĩa học bắt đầu từ các từ ngữ là tên gọi cây nông nghiệp đã được

định hình trong tiếng Việt để tìm ra nội dung được biểu đạt của chúng. Dựa vào

định nghĩa các mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong Từ điển tiếng Việt, luận án đã

xác định được cấu trúc nghĩa khái quát gồm: Thành tố nghĩa chỉ loại (S) + Thành

tố nghĩa chỉ đặc trưng được lựa chọn (v1, v2, v3..., vn). Luận án đã xác định được 12

nét nghĩa (gồm 1 nét nghĩa chỉ loại và 11 nét nghĩa chỉ đặc trưng) xuất hiện trong

các định nghĩa tên gọi cây nông nghiệp: đặc điểm hình thức/cấu tạo; vai trò của

cây nông nghiệp trong đời sống con người; đặc điểm tính chất của bộ phận cây

nông nghiệp được sử dụng; đặc điểm màu sắc; đặc điểm kích cỡ; đặc điểm hương,

mùi vị; đặc điểm phân loại cây nông nghiệp; đặc điểm thời gian; vị trí/quan hệ

trong phân loại sinh vật học; môi trường sống; đặc điểm thuần dưỡng. Kết quả

xác định và phân tích các nét nghĩa trong lời định nghĩa cho thấy khi định nghĩa

tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt, các nét nghĩa: hình thức/cấu tạo; vai trò của

cây nông nghiệp trong đời sống con người; tính chất của bộ phận cây nông nghiệp

được sử dụng; màu sắc, kích cỡ; hương, mùi vị được sử dụng nhiều nhất để nêu

đặc điểm cây nông nghiệp, sau đó mới đến các nét nghĩa khác như: phân loại cây

nông nghiệp; thời gian; vị trí/quan hệ trong phân loại sinh vật học; môi trường

sống; thuần dưỡng.

4. So sánh định nghĩa một số mục từ tên gọi cây nông nghiệp trong tiếng Việt

trong 7 quyển từ điển giải thích với định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng

Phê chủ biên), luận án đã nêu ra một số nhận xét, đánh giá về những ưu điểm và

hạn chế của các định nghĩa này trong từng quyển từ điển. Có thể khẳng định rằng

148

tất cả các định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong 7 quyển từ điển được khảo

sát đều định nghĩa theo mô hình S+v mà định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê chủ biên) đã sử dụng. Tuy nhiên, có sự khác biệt khá rõ về chất

lượng định nghĩa trong 7 từ điển và khác biệt rõ ràng về các nét nghĩa biểu thị

những đặc trưng được lựa chọn để phân biệt cây nông nghiệp với nhau so với

định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt. Định nghĩa các mục từ cây nông nghiệp

trong một số quyển từ điển được biên soạn vào những thập niên nửa đầu thế kỉ

XX (Từ điển Khai Trí, Từ điển Đào Văn Tập, Từ điển Thanh Nghị) thường rất

đơn giản, sơ sài, đưa ít các nét nghĩa biểu thị những đặc trưng có tính chất khu

biệt, nên không có tác dụng phân biệt các loại cây thuộc cùng một họ. Một số

định nghĩa còn nêu ra những đặc trưng không cần yếu cho giống cây đó. Các

định nghĩa trong những quyển từ điển được biên soạn vào những thập niên cuối

nửa sau thế kỉ XX (Từ điển Văn Tân, Từ điển Nguyễn Lân, Đại từ điển tiếng

Việt) có chất lượng tốt hơn, do đã tiếp thu và áp dụng có hiệu quả những thành

tựu nghiên cứu nghĩa của từ, cách phân tích nghĩa từ ra các nét nghĩa. Nhờ đó đã

phân tích nghĩa của các mục từ được chính xác, trích xuất ra được các nét nghĩa

cụ thể, nên định nghĩa nhìn chung là chuẩn xác, giải thích nghĩa của mục từ được

rõ ràng, chính xác. Tuy vậy, trong khá nhiều định nghĩa, việc xác định cấp độ

của từ bao (thể hiện bằng nét nghĩa chỉ loại) không chính xác, nên đã không thể

hiện được một thông tin quan trọng trong định nghĩa: tính chất nhân tạo (được

con người gieo trồng) hàm chứa trong tên gọi cây nông nghiệp. Những quyển từ

điển biên soạn ở giai đoạn nửa sau thế kỉ XX (Từ điển Văn Tân, Từ điển Lê Văn

Đức, Đại từ điển tiếng Việt) đã đưa vào định nghĩa ngoài thông tin về từ, đồng

thời còn cung cấp những thông tin mang tính bách khoa (về tính chất hóa học,

các nguyên tố hóa học, công dụng trong y học,...) bằng nhiều các dấu hiệu đặc

trưng của cây nông nghiệp, làm cho lời định nghĩa trở nên dài hơn so với định

nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). Cách định nghĩa như vậy

thể hiện rõ quan điểm của các tác giả biên soạn ba cuốn từ điển này theo xu

149

hướng biên soạn từ điển tổng hợp: xu hướng kết hợp có chủ hướng trong một

mục từ những thông tin cả về từ lẫn về thực thể đứng sau từ đó là những thông

tin mang tính bách khoa (những thông tin mở rộng ở một mức độ nào đó về sự

Qua so sánh định nghĩa mục từ cây nông nghiệp trong 7 cuốn từ điển với định

nghĩa trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) có thể khẳng định rằng, Từ điển

tiếng Việt là cuốn từ điển áp dụng thành công nhất phương pháp phân tích thành tố

nghĩa của ngữ nghĩa học hiện đại vào định nghĩa các mục từ nói chung, các mục từ cây

nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, ngay trong quyển từ điển này, một quyển từ điển

giải thích tiếng Việt được coi là tốt nhất hiện nay, thì trong một số định nghĩa mục từ

cây nông nghiệp vẫn còn có hạn chế, cần bổ sung thông tin để định nghĩa được chính

xác hơn (như đã trình bày trong luận án).

vật mà từ gọi tên).

5. Với đề tài này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục triển khai thu

thập toàn bộ tên gọi những cây nông nghiệp chưa được xem xét (cây ăn lá, cây

rau, cây gia vị, cây làm thuốc,...), khảo sát chúng theo hai hướng: danh học (tìm

hiểu nguồn gốc, cách thức cấu tạo tên gọi, đặc trưng dùng để gọi tên) và nghĩa

học (tìm hiểu cấu trúc nghĩa các từ là tên gọi các loài cây trên được con người

gieo trồng, định nghĩa các tên gọi này trong từ điển) để xác định mô hình định

nghĩa chung, thống nhất cho loại mục từ này. Đồng thời thu thập thêm các mục

từ cây nông nghiệp theo hướng sâu hơn (các giống cây trong từng loài cây), tiến

hành biên soạn theo mô hình định nghĩa chung để phục vụ việc biên soạn từ điển

tiếng Việt cỡ lớn và từ điển tên gọi cây nông nghiệp tiếng Việt.

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Hà Thùy Dương (2019), “Đặc điểm định danh cây nông nghiệp tiếng

Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 12 (292).

2. Hà Thùy Dương (2020), “Ngữ nghĩa của tên gọi cây nông nghiệp tiếng

Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 3 (295).

3. Hà Thùy Dương (2020), “Đặc điểm cấu tạo tên gọi cây nông nghiệp

trong tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 4 (66).

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Phạm Thị Kim Anh (2005), Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

3. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ,

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

4. Chafe, Wallce L. (1999), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

5. Đỗ Hữu Châu (1969), “Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong Từ

điển tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 43-50.

6. Đỗ Hữu Châu (1973), "Khái niệm "trường" và việc nghiên cứu hệ thống từ

vựng", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 46-55.

7. Đỗ Hữu Châu (1977), "Đọc "Từ điển tiếng Việt phổ thông" tập 1", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 3, tr. 61-71.

8. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

9. Đỗ Hữu Châu (1982), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động",

Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 18-33. Phần 1.

10. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt

động", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr. 12-26.

11. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

12. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

13. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu tuyển tập (T1, T2), Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

14. Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

152

15. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học (Ngữ dụng học), tập 2, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

16. Võ Văn Chi (2003), Từ điển thực vật thông dụng, tập 1, 2, Nxb. Khoa học và

Kỹ thuật, Hà Nội.

17. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), 2 tập, Nxb. Y

học, Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

20. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1990), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

21. Hồng Dân (1971), "Vấn đề miêu tả từ hư trong việc biên soạn từ điển giải

thích", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 1-11.

22. Nguyễn Đức Dân (1984), Ngôn ngữ học thống kê, Nxb. Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

23. Đường Hồng Dật (chủ biên) (2011), Từ điển bách khoa nông nghiệp Việt

Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

24. Nguyễn Thị Dinh (2013), Trường Từ vựng - Ngữ nghĩa tiếng Việt về lúa và

các sản phẩm làm từ cây lúa (trên tư liệu kho tàng ca dao người Việt), Luận

văn thạc sĩ, Trường Đại học Hải Phòng.

25. Dirk Geeraerts (2015), Các lý thuyết ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Đại học

Quốc gia Hà Nội (Phạm Văn Lam dịch).

26. Djemukhatz, K.M. (1981), Cây chè miền Bắc Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp,

Hà Nội (Nguyễn Ngọc Kính dịch).

27. Bùi Huy Đáp (1980), Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa ở Việt Nam,

Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

28. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003), "Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca

dao", Tạp chí Nguồn sáng, số 4, tr. 46-52.

153

29. Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

30. Dương Kì Đức (1993), Các đơn vị định danh đa thành tố, một cách tiếp cận từ

điển học tương phản (qua tư liệu các phần ngôn ngữ quân sự, chính trị - xã hội,

khoa học), Luận án PTS. Khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

31. Đinh Văn Đức (1996), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb. Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

32. Lê Văn Đức (1970), Tự điển Việt Nam, Sài Gòn.

33. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

34. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

35. Nguyễn Thiện Giáp (2010), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

36. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, Nxb. Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

37. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Từ và từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb. Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

39. Hoàng Văn Hành (1977), "Về tính hệ thống của vốn từ tiếng Việt", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 2, tr. 26-40.

40. Hoàng Văn Hành (1988), "Về cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh bậc hai trong

các ngôn ngữ đơn lập"// "Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam và

khu vực Đông Nam Á", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Hoàng Văn Hành, Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang (2008), Từ tiếng

Việt: hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại, Nxb. Văn hoá Sài

Gòn (tái bản lần thứ nhất).

42. Hoàng Văn Hành (2010), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

154

43. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2015), "Chiếu xạ qua miền ý niệm thực vật và con

người trong ca từ Trịnh Công Sơn", Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 2

(21), tr.68-82.

44. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2018), "CONCEPTUAL METAPHOR “PEOPLE

ARE TREES” IN VIETNAMESE IDIOMS AND PROVERBS (Ẩn dụ ý

niệm "Con người là cây" trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt)”, Tạp chí

Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 12, tr.20-31

45. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

46. Hội Khai Trí - Tiến Đức (1931), Việt Nam tự điển, Sài Gòn.

47. Đỗ Việt Hùng (2010), “Một số khía cạnh ứng dụng trường nghĩa trong hoạt

động giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.10-13.

48. Đỗ Việt Hùng (2012), "Nhận thức cộng đồng người Việt về thế giới (thông

qua phương thức định danh sự vật, hiện tượng của từ ghép chính phụ", Tạp

chí Ngôn ngữ, số 12.

49. Hà Thị Quế Hương (2002), "Hàm ý biểu trưng của từ chỉ hoa và tên hoa

trong ca dao", Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3.

50. Trần Thị Hường (2020), Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có

liên hệ tiếng Latinh), Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

51. Nguyễn Văn Khang (2007), "Một số vấn đề về từ điển tiếng Việt trong mối quan

hệ với Việt ngữ học", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (141), tr. 1-8.

52. Nguyễn Văn Khang (2012), "Khái niệm "thị trường ngôn ngữ" với một số

vấn đề về thị trường Từ điên tiếng Việt hiện nay", Tạp chí Từ điển học &

Bách khoa thư, số 5 (19), tr. 77-84.

53. Nguyễn Thuý Khanh (1994), "Đặc điểm định danh của trường tên gọi động

vật trong tiếng Việt", Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1, tr.12-17.

155

54. Nguyễn Thuý Khanh (1994), "Đặc điểm định danh của trường tên gọi động

vật tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt", Tạp chí Văn hoá dân gian,

số 2, tr.76-81.

55. Nguyễn Thuý Khanh (1996), Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi

động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga), Luận án PTS. khoa

học ngữ văn, Hà Nội.

56. Lưu Vân Lăng (1991), "Áp dụng lí luận tín hiệu điển hình với nghĩa hạt nhân

vào từ điển tường giải", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 32-39.

57. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ

chí Minh.

58. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

59. Lê nin, V.I. (2004), Bút kí triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

60. Đặng Chấn Liêu (1977), "Vài kinh nghiệm làm từ điển hai thứ tiếng", Tạp

chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 53-60.

61. Hoàng Tuyền Linh (2002), Một số vấn đề về thông tin ngữ nghĩa trong

từ điển giải thích tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ

học, Hà Nội.

62. Vương Lộc (1969), "Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 2, tr. 19-26.

63. Nguyễn Văn Lợi (2013), "Từ điển học và Bách khoa thư học (phạm vi, đối

tượng và quan hệ)", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3 (23), 5-

2013, tr. 1-9.

64. Vũ Xuân Lương (2012), "Xác định dãy từ đồng nghĩa khi xây dựng Wordnet

tiếng Việt", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 3 (17), tr.

65. Vũ Xuân Lương (2012), "Xây dựng mô hình ngữ nghĩa áp dụng cho việc

biên soạn từ điển giải thích"// www vietlex.com/xu-li-ngon-ngu/151.

156

66. Vũ Xuân Lương (2012), "Xây dựng kho ngữ liêu áp dụng cho phân tích, xử

lí ngôn ngữ và biên doạn từ điển"// www vietlex.com/xu-li-ngon-ngu/151.

67. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. (Người

dịch: Nguyễn Văn Hiệp).

68. Trần Thị Phương Lý (2012), Ẩn dụ ý niệm của phạm trù thực vật trong tiếng

Việt và tiếng Anh, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội,

Hà Nội.

69. Mác, Ăng ghen, Lê nin bàn về ngôn ngữ (1962), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

70. Nguyễn Tuyết Minh (2012), "Từ điển học như một chuyên ngành khoa

học về ngôn ngữ", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 6 (11.2012),

tr. 40-49.

71. Bùi Đình Mỹ (1991), "Vấn đề lượng thông tin của từ điển ngữ văn", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 2, tr. 40-42.

72. Hà Quang Năng (chủ biên) (2009), Sự phát triển của tiếng Việt nửa sau thế

kỉ XX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Hà Quang Năng (2013), "Đặc điểm định danh thuật ngữ", Tạp chí Từ điển

học và Bách khoa thư, số 4.

74. Hà Quang Năng (chủ biên) (2013), Thuật ngữ học - Những vấn đề lí luận và

thực tiễn, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

75. Thanh Nghị (1952), Việt Nam tân từ điển, Sài Gòn, 1952.

76. Trần Hạnh Nguyên (2014), Trường trường từ vựng - ngữ nghĩa thực vật

trong kho tàng ca dao người Việt, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội.

77. Lê Hồng Nhiên (2012), Từ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các

phương ngữ), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ

Chí Minh.

78. Đái Xuân Ninh (1976), "Tiến tới một cuốn từ điển tiếng Việt theo hệ thống

khái niệm", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 26-33.

157

79. Paul Siblot (2001), "Từ định danh đến đặt tên - Tính năng động trong việc

biểu hiện nghĩa và tính đặc thù của danh từ", Tạp chí Praxe'matique, số 36,

tr. 189-214 (Bản dịch của Trần Thị Hường).

80. Hoàng Phê (1969), "Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt mới",

Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 3-18.

81. Hoàng Phê (1975), "Phân tích ngữ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 10-26.

82. Hoàng Phê (1989), Lôgich ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

83. Hoàng Phê, Nguyễn Ngọc Trâm (1993), "Một số vấn đề về từ điển học (qua

việc biên soạn quyển Từ điển tiếng Việt)", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 18-24.

84. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học và Trung

tâm Từ điển học, Nxb. Đà Nẵng.

85. Nguyễn Quang (1971), "Việc chọn và giải thích từ ngữ miền Nam trong

một quyển từ điển tiếng Việt loại phổ thông", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4,

tr. 28-33,65.

86. Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt Nam, Nxb. Nông

nghiệp, Hà Nội.

87. Rey Debove (1971), Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng tiếng Pháp về ngôn

ngữ học và kí hiệu học, Nxb. Academia, Praha, (Bản dịch của Viện Ngôn

ngữ học, Nguyễn Trọng Định dịch).

88. Rozdextvenxki, IU.V. (1997), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

89. Trần Văn Sáng (2012), "Hoa đào, từ biểu tượng văn hóa đến biểu trưng

văn học", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 1.

90. Saussure, F. de (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

91. Đặng Thị Hảo Tâm (2013), "Trường từ vựng - ngữ nghĩa món ăn và ý niệm

CON NGƯỜI”, Tạp chí Ngôn ngữ, số

158

92. Văn Tân (chủ biên) (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

93. Đào Văn Tập (1951), Tự điển Việt Nam phổ thông, Sài Gòn, 1951.

94. Nguyễn Văn Thạc (2004), "Tiếp xúc học và từ điển học", Tạp chí Ngôn ngữ,

số 4, tr. 1-10.

95. Đào Thản (1999), "Cây lúa, tiếng Việt và nét đẹp văn hoá, tâm hồn người

Việt Nam", Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, tr. 43-48.

96. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

97. Nguyễn Văn Thạo (2015), Trường nghĩa "lửa" và "nước" trong tiếng Việt,

Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

98. Lý Toàn Thắng (1983), “Vấn đề ngôn ngữ và tư duy”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.

99. Lý Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại

cương, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

100. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết đại cương

đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb. Phương Đông.

101. Lý Toàn Thắng (2011), "Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu",

Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 1 (1.2011), tr. IV - XII.

102. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ

Chí Minh.

103. Trần Ngọc Thêm (1999), “Vai trò của thực vật trong đời sống văn hóa

Việt Nam và Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.

104. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

105. Lê Quang Thiêm (2018), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945

đến 2005, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

106. Cao Thị Thu (1995), Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa trường từ vựng

tên gọi thực vật trong tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Tổng

hợp Hà Nội.

159

107. Chu Bích Thu (1997), "Một số nét khái quát về cấu trúc vi mô của từ điển

giải thích" //In trong: "Một số vấn đề từ điển học", Nxb. Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1997, tr. 75-112.

108. Chu Bích Thu (2001), "Giới thiệu sơ lược về từ điển và từ điển học Việt

Nam", Tạp chí Ngôn ngữ, số 14, tr. 12-26.

109. Chu Bích Thu (2005), Từ điển học và từ điển học Việt Nam // In trong:

"Lược sử Việt ngữ học", Nxb. Giáo dục, tr. 186-215.

110. Hồ Hải Thụy (2012), "Hai cuốn sách mới dạy các làm từ điển", Tạp chí Từ

điển học & Bách khoa thư, số 4 (7. 2010), tr. 2 - 10.

111. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

112. Bùi Minh Toán (2014), "Từ ngữ chỉ mùi vị trong Truyện Kiều", Tạp chí Từ điển

học & Bách khoa thư, số 1.

113. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn

ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb.

Đại học Quốc gia Hà Nội.

114. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng Văn hóa - Dân tộc của Ngôn ngữ và

Tư duy, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

115. Nguyễn Văn Trương, Trịnh Văn Thịnh (1991), Từ điển Bách khoa nông

nghiệp, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

116. Nguyễn Văn Tu (1969), "Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong từ điển

tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 51-53.

117. Hoàng Tuệ (2001), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ

Chí Minh.

118. Nguyễn Thanh Tùng (2003), Từ ngữ chỉ động thực vật trong tiếng Việt và

tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội

& Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

119. Hồ Văn Tuyên (2005), Đặc điểm định danh từ vựng trong phương ngữ Nam

Bộ, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

160

120. Hồ Xuân Tuyên (2008), “Một số phương thức định danh trong phương ngữ

Nam Bộ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 9.

121. Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập: tập 1 tái bản năm 2007; tập 2: 2002;

tập 3: 2003; tập 4: 2005), Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.

122. Ullmann, S. (1975), Nguyên lí ngữ nghĩa học, Tài liệu dịch của Viện Ngôn

ngữ học, (Phan Ngọc dịch).

123. Ủy ban Khoa học xã hội (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

124. Viện Ngôn ngữ học (1997), Một số vấn đề từ điển học, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

125. Viện Ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb.

Từ điển Bách khoa, Hà Nội

126. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2009), Một số vấn đề cơ

bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt Nam về biên soạn

các loại từ điển. Đề tài cấp Bộ 2009 - 2010.

127. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2015), Biên soạn Bách khoa

thư ngôn ngữ học. Đề tài cấp Bộ 2015 - 2016.

128. Bùi Khắc Việt (1969), "Một số kinh nghiệm biên soạn từ điển ngôn ngữ ở

các nước xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 27-31.

129. Bùi Khắc Việt (1970), "Về vấn đề thu thập và định nghĩa thuật ngữ trong

quyển "Từ điển tiếng Việt phổ thông", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 16-25, 48.

130. Bùi Khắc Việt (1970), "Về quyển "Việt Nam tự điển" xuất bản ở Sài Gòn",

Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 34-41.

131. Phạm Hùng Việt (2017), "Thông tin bách khoa và việc đưa thông tin bách

khoa vào từ điển giải thích tiếng Việt", Báo cáo khoa học Hội thảo Ngôn ngữ

học Quốc tế, Viện Ngôn ngữ học, 2017.

132. Xôn xép, V.M. (1980), "Một số vấn đề về lí thuyết nghĩa (hay ngữ nghĩa)",

Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 33-42.

161

133. Xôn xép, V.M. (1986), "Những thuộc tính về mặt loại hình của các ngôn

ngữ đơn lập (trên cứ liệu tiếng Hán và tiếng Việt)", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3,

tr. 60-67.

134. Xôn xép, V.M. (2001), Một số vấn đề ngôn ngữ học, Nxb. Sáng tạo,

Maxcơva, Nguyễn Tuyết Minh và Trần Văn Cơ dịch.

135. Xtepanov, Ju.X. (1977), Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb.

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

136. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ thuật ngữ

ngôn ngữ học. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

137. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2000), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Tổng hợp

Tp. Hồ Chí Minh.

138. Zgusta, L. (1971), Giáo trình từ điển học (Manual of lexicography, Praha,

Viện hàn lâm khoa học Tiệp Khắc, 1971). (Bản dịch của Phòng thông tin - tư

liệu, Viện Ngôn ngữ học, 1987. Người dịch: Hồ Hải Thụy, Vũ Ngọc Bảo).

139. Zgusta, L. (1992), Từ điển học thế kỉ XXI. Hội nghị Quốc tế từ điển học

châu Á lần thứ nhất. Manila, Philippin (Bản dịch Phòng Từ điển học, Viện

Ngôn ngữ học).

II. Tiếng nước ngoài

140. Austin, J. (1963), The meaning of a word, Mind, L. XII, Cambridge,

Harvard University Press

141. Cruse, A. (2004), Meaning in Language: an introduction to Semantics and

Pragmatigs. New York: Oxford University Press.

142. Goddard, C. (1998), Sematic Analysis, A Practical Introduction. Oxford

University Press.

143. Jackendoff Ra, S. (1990), Semantics Structures. Cambridge, MA: MIT Pres.

144. Sue Atkins, B.T and Micheal Rundell, The Oxford guide to Practical

Lexicography, Oxford University Prees.

162

145. Ахметова, Э. Р (2012), Названия овóщей и фруктов в татарском

языке, Автореферат диссертации на соискание ученой степени

кандидата филологических наук, Казань.

146. Берестнева, А. V (2008), Названия экзотических растений в

английском и русском языках: структурно - словообразовательный и

номинанативно - мотивационный аспекты, Автореферат диссертации

на соискание ученой степени кандидаата филологических наук,

Белгород.

147. Заксор, Л.Ж (2005), Способы номинации растений в нанайском языке,

Автореферат диссертации на соискание ученой степени кандидата

филологических наук, Санкт - Петербург.

148. Лингвистический энциклопедический словарь (1990). Главный

редактор В. Н. ЯРЦЕВА, Москва, "Советская энциклопедия".

149. Омашева Ж. М (2017), Названия лекарственных травянистых

растений в русском и казахском языках: мотивационно-

словообразовательный и лингвокультурный аспекты, Автореферат

диссертации на соискание ученой степени кандидата филологических

наук, Екатеринбург.

150. Рубцова, О. Г (2015), Названия лекаррственных в разноструктурных

языках (на метериале русского, марийского, немецкого и латинского

языков), Автореферат диссертации на соискание ученой степени

кандидата филологических наук, Чебоксары.

151. Саид Альяффар (1999), Семантическое поле "растения" в русском

языке, Автореферат диссертации на соискание ученой степени

кандидата филологических наук, Санкт - Петербург.

152. Уюкбова Г.И (1983), Народные наименования растений (на

материале английского, русского и казахского языков, Автореферат

163

диссертации на соискание ученой степени кандидата филологических

наук, Москва.

153. Шкурдова Т.А (2015), Некоторые названия растений в русском языке

(происхождение и функционирование), Кусовая работа, Гомель.

154. Щерба, Л.В. (1940), Опыт общей теориu лексикографии.

Лексикографический сбoрник, N.3, c. 89-117.

155. Языковая номинация: Виды наименований (1977), Москва, Наука.

156. Языковая номинация: Общие вопросы (1977), Москва, Наука.

164

PHỤ LỤC TÊN GỌI CÂY NÔNG NGHIỆP TRONG TIẾNG VIỆT

Tên gọi

STT

Bạch đàn

1.

Bầu hồ lô F1

2.

Bầu lai F1

3.

Bầu sao

4.

Bí chanh

5.

Bí bộp

6.

Bí đá

7.

Bí đao

8.

Bí đao bắc

9.

Bí đao chanh

10.

Bí đao xanh

11.

Bí đĩa bay

12.

Bí đỏ

13.

Bí đỏ hạt đậu

14.

Bí đỏ hồ lô

15.

Bí ngòi xanh

16.

Bí ngô

17.

Bí ngồi

18.

Bí ngồi xanh

19.

Bí ngồi vàng

20.

Bí Nhật

21.

Bí sặt cao sản

22.

Bí xanh

23.

Bòn bon

24.

Bồ đề

25.

165

Bồ quân

26.

Bông VN04-3

27.

Bông VN04-4

28.

Bông lai VN35KS

29.

Bông vải AK 235

30.

Bông vải C118

31.

Bông vải D16-2

32.

Bông vải L 18

33.

Bông vải M 456-10

34.

Bông vải MCU - 9

35.

Bông vải TH 2

36.

Bông vải TM 1

37.

Bông vải VN 01-2

38.

Bông vải VN 15

39.

Bông vải VN20

40.

Bông vải VN 35

41.

Bơ 034

42.

Bơ Booth

43.

Bơ Booth7

44.

Bơ CĐD-BO-41.01

45.

Bơ CĐD-BO-41.02

46.

Bơ CĐD-BO-41.03

47.

Bơ CĐD-BO-41.04

48.

Bơ CĐD-BO-41.05

49.

Bơ dài 034

50.

Bơ EST4

51.

Bơ Ettinger

52.

Bơ Fuerte

53.

166

Bơ HA

54.

Bơ Hass

55.

Bơ HTS1

56.

Bơ Lamb Hass

57.

Bơ Maluma Hass

58.

Bơ mỡ

59.

Bơ Reed

60.

Bơ S2V1BDT

61.

Bơ sáp

62.

Bơ SDH

63.

Bơ Sharwil

64.

Bơ TA1

65.

Bơ Tứ Quý

66.

Bơ VĐ1

67.

Bơ vỏ tím

68.

Bứa

69.

Bưởi Biên Hòa

70.

Bưởi chín sớm

71.

Bưởi chua

72.

Bưởi chùm

73.

Bưởi da láng

74.

Bưởi da xanh

75.

Bưởi da xanh Bến Tre

76.

Bưởi Diễn

77.

Bưởi đầu hổ

78.

Bưởi đỏ

79.

Bưởi đỏ Luận Văn

80.

Bưởi đỏ Phúc Kiến

81.

167

Bưởi đỏ Tân Lạc

82.

Bưởi Đoan Hùng

83.

Bưởi đường da láng

84.

Bưởi đường đặc sản Hương Sơn

85.

Bưởi đường lá

86.

Bưởi đường lá cam

87.

Bưởi đường lá cam BC 12

88.

Bưởi Hoàng

89.

Bưởi hồng Quang Tiến

90.

Bưởi hương Thái Lan

91.

Bưởi luận văn

92.

Bưởi Lã Thiên Hương

93.

Bưởi lông cổ cò

94.

Bưởi lùn Tứ Xuyên

95.

Bưởi năm roi

96.

Bưởi năm roi BN 25

97.

Bưởi Phú Diễn

98.

Bưởi Phúc Trạch

99.

100.

Bưởi Quế Dương

101.

Bưởi siêu ngọt

102.

Bưởi Thanh Hà

103.

Bưởi Thanh Trà

104.

Bưởi Thanh Trà Huế

105.

Bưởi Tứ Xuyên

106.

Bưởi ruby Thái Lan

107.

Ca cao TĐ1

108.

Ca cao TĐ2

109.

Ca cao TĐ3

168

110.

Ca cao TĐ5

111.

Ca cao TĐ6

112.

Ca cao TĐ8

113.

Ca cao TĐ10

114.

Ca cao TĐ14

115.

Cà chua bi

116.

Cà chua chuỗi ngọc

117.

Cà chua cỡ đại

118.

Cà chua đen

119.

Cà chua HP5

120.

Cà chua leo giàn

121.

Cà chua lê

122.

Cà chua mận

123.

Cà chua MV1

124.

Cà chua Nhật sakata

125.

Cà chua trái tim

126.

Cà chua Voyage

127.

Cà dái dê

128.

Cà dừa

129.

Cà na

130.

Cà pháo

131.

Cà phê Catimor

132.

Cà phê chè TN1

133.

Cà phê chè TN2

134.

Cà phê giống 01/20

135.

Cà phê giống 04/55

136.

Cà phê giống 16/21

137.

Cà phê vối

169

138.

Cà phê vối Đắc Lắc

139.

Cà phê vối lai TRS1

140.

Cà phê vối TR4

141.

Cà phê vối TR5

142.

Cà phê vối TR6

143.

Cà phê vối TR7

144.

Cà phê vối TR8

145.

Cà phê vối TR9

146.

Cà phê vối TR11

147.

Cà phê vối TR12

148.

Cà phê vối TR13

149.

Cà tím

150.

Cam ba lá

151.

Cam BH

152.

Cam Bố Hạ

153.

Cam bù

154.

Cam bù Hà Tĩnh

155.

Cam Canh

156.

Cam Cao Phong

157.

Cam cara ruột đỏ

158.

Cam chín muộn V2

159.

Cam chín sớm CS1

160.

Cam đầu hổ

161.

Cam đường Canh

162.

Cam Ham Lim

163.

Cam hôi

164.

Cam Khe Mây

165.

Cam lá sim

170

166.

Cam máu

167.

Cam mật

168.

Cam mật không hạt

169.

Cam mật Ôn Châu

170.

Cam ngọt

171.

Cam núi

172.

Cam sành

173.

Cam sành CS 8

174.

Cam Sông Con

175.

Cam sớm

176.

Cam Úc

177.

Cam Unip

178.

Cam xã Đoài

179.

Cam V2

180.

Cam valencia

181.

Cam vàng Mỹ

182.

Cam Vân Du

183.

Cam Vinh

184.

Cam vỏ lụa

185.

Cam xoàn

186.

Cam Yuzu

187.

Cao lương CFSH 30

188.

Cao lương CSSH 45

189.

Cao lương CFPM 101

190.

Cao lương đỏ

191.

Cao lương đuôi ngựa

192.

Cao lương Latte

193.

Cao lương Superdan

171

194.

Cao lương Sweet Jumbo

195.

Cao lương ESV1

196.

Cao su GT 1

197.

Cao su PB 235

198.

Cao su LH82/156

199.

Cao su LH82/158

200.

Cao su LH82/182

201.

Cao su PB 255

202.

Cao su PB 260

203.

Cao su PB 311

204.

Cao su RRIC 110

205.

Cao su RRIC121

206.

Cao su RRIM 600

207.

Cao su RRIM 712

208.

Cao su RRIV 4

209.

Cao su VM 515

210.

Cao su VNg 77-2

211.

Cao su VNg 77-4

212.

Cau

213.

Chà là Ajwa

214.

Chà là Deglet

215.

Chà là Kabkab

216.

Chà là Mabroom

217.

Chà là Mazafati

218.

Chà là Mebjool

219.

Chà là Piarom

220.

Chà là Safawi

221.

Chà là Sayer

172

222.

Chà là Rabbi

223.

Chà là Thái Lan

224.

Chà là Zahidi

225.

Chanh Cẩm Thạch

226.

Chanh chùm Hàm Yên

227.

Chanh dây

228.

Chanh đào

229.

Chanh đắng

230.

Chanh đỏ

231.

Chanh giấy

232.

Chanh Hương Viên

233.

Chanh không hạt

234.

Chanh lá to

235.

Chanh leo

236.

Chanh leo Colombia

237.

Chanh leo Đài Loan

238.

Chanh leo hình chuối

239.

Chanh máu

240.

Chanh não người

241.

Chanh nếp nhăn não người

242.

Chanh quả dài

243.

Chanh ngón tay

244.

Chanh núm

245.

Chanh Sunrise

246.

Chanh Tây Ban Nha

247.

Chanh Thái

248.

Chanh thịt hồng

249.

Chanh thịt trắng

173

250.

Chanh thơm Indo

251.

Chanh tứ quý

252.

Chanh vàng Eureka

253.

Chanh vàng Mỹ

254.

Chanh vỏ thô

255.

Chanh vỏ xanh ruột vàng

256.

Chanh yên

257.

Chay

258.

Chè 1A

259.

Chè 1A biến chủng

260.

Chè An Huy thuần lục

261.

Chè Assam lá nhỏ

262.

Chè Assam lá to

263.

Chè Bá Thước

264.

Chè bản địa

265.

Chè Bách Hợp

266.

Chè Bạch Ngọc

267.

Chè Bát Tiên

268.

Chè cành

269.

Chè cành lai

270.

Chè cành lai 777

271.

Chè chọn lọc LĐ97

272.

Chè cổ thụ

273.

Chè con

274.

Chè công nghiệp

275.

Chè CTC

276.

Chè DBT

277.

Chè DT1

174

278.

Chè DTB

279.

Chè Đại Bạch (cành)

280.

Chè Đại Bạch (hạt)

281.

Chè Đại Bạch trung du

282.

Chè đen BPS

283.

Chè đen công nghệ truyền thống OTD

284.

Chè đen D4

285.

Chè đen FBOP

286.

Chè đen OP

287.

Chè đen P

288.

Chè đen POA

289.

Chè đen PS

290.

Chè Gay

291.

Chè Ghorialli

292.

Chè già cỗi

293.

Chè Grudia 1 (hạt)

294.

Chè Grudia 2 (hạt)

295.

Chè Grudia 5 (hạt)

296.

Chè hai tuổi

297.

Chè hạt

298.

Chè hoang

299.

Chè Hoàng đại

300.

Chè Hoàng tiểu

301.

Chè Hóc Môn

302.

Chè hom

303.

Chè Hùng Đỉnh Bạch

304.

Chè Hương Khê

305.

Chè hữu cơ

175

306.

Chè Jetinga

307.

Chè Kacharigou

308.

Chè Keo Am Tích

309.

Chè kiến thiết cơ bản

310.

Chè Kim Tuyên

311.

Chè kinh doanh

312.

Chè Kỳ Môn

313.

Chè lá nhỏ Biển Hồ

314.

Chè lá to Biển Hồ

315.

Chè lai DBTXPH-1

316.

Chè lai LCT1

317.

Chè lai TB-11

318.

Chè lai TB-14

319.

Chè LDP

320.

Chè LDP 1

321.

Chè LDP 2

322.

Chè lửng LDP1

323.

Chè Macomen

324.

Chè Manipur lá vàng

325.

Chè Manipur Đăng-ri

326.

Chè Manipur Messai

327.

Chè một tuổi

328.

Chè mới

329.

Chè NDP1 cành lai

330.

Chè PH 1

331.

Chè PH 1 cành

332.

Chè PH 1 hạt

333.

Chè PH 8

176

334.

Chè PH 9

335.

Chè Phú Thọ

336.

Chè Phúc Vân Tiên

337.

Chè PT95

338.

Chè Quảng Tây

339.

Chè Quỳ Hợp

340.

Chè rừng

341.

Chè Shan Ba Vì

342.

Chè Shan Bản Bang

343.

Chè Shan Bắc Hà

344.

Chè Shan Chất Tiền

345.

Chè Shan cóc tía

346.

Chè Shan công nghiệp

347.

Chè Shan công nghiệp 44

348.

Chè Shan Cù Dề Phùng

349.

Chè Shan Gia Vài

350.

Chè Shan gieo hạt thẳng

351.

Chè Shan Khau Mút

352.

Chè Shan Lao Chảy

353.

Chè Shan LD97

354.

Chè Shan Nậm Ngặt

355.

Chè Shan Nậm Tẹ

356.

Chè Shan Pousang già

357.

Chè Shan Pousang non

358.

Chè Shan rừng

359.

Chè Shan Suối Giàng

360.

Chè Shan Tân Chi

361.

Chè Shan TB14

177

362.

Chè Shan Tham Vè

363.

Chè Shan tuyết Hà Giang

364.

Chè Shan Trấn Ninh

365.

Chè Shan Ypang

366.

Chè suy thoái

367.

Chè Swing Laybury

368.

Chè Tân Cương

369.

Chè TB11

370.

Chè TB14

371.

Chè TD

372.

Chè TH3

373.

Chè thu hoạch nhỡ lứa

374.

Chè Thuý Ngọc

375.

Chè Thủy Tổ

376.

Chè TRI-777

377.

Chè TRI-2023

378.

Chè TRI-2025

379.

Chè trung du cổ truyền

380.

Chè trung du gieo hạt thẳng

381.

Chè trung du tím

382.

Chè trung du vàng

383.

Chè trung du xanh

384.

Chè Trung Quốc lá nhỏ

385.

Chè Trung Quốc lá to

386.

Chè trưởng thành

387.

Chè Tước Thiệt TC5

388.

Chè ưu trội

389.

Chè vườn hộ gia đình

178

390.

Chè xanh BP

391.

Chè xanh BPS

392.

Chè xanh F

393.

Chè xanh nội tiêu (Bảo Lộc, Lâm Đồng)

394.

Chè xanh OP

395.

Chè xanh P

396.

Chè xanh sao chảo Trung Quốc

397.

Cherry anh đào

398.

Cherry Brazil

399.

Chùm ruột

400.

Chuối bom

401.

Chuối bột

402.

Chuối cao nguyên Đông Phi

403.

Chuối cau mẫn

404.

Chuối cau tây

405.

Chuối cau trắng

406.

Chuối cẩm thạch

407.

Chuối cơm chua

408.

Chuối cơm lửa

409.

Chuối Dacca (Úc)

410.

Chuối đỏ

411.

Chuối già hương

412.

Chuối goòng

413.

Chuối hột

414.

Chuối lá

415.

Chuối Laba

416.

Chuối mắn

417.

Chuối mít

179

418.

Chuối mỏ giang

419.

Chuối mốc

420.

Chuối mốc lùn

421.

Chuối mướp

422.

Chuối Nam Mỹ

423.

Chuối ngự

424.

Chuối ngự thóc

425.

Chuối sứ

426.

Chuối sừng bò

427.

Chuối tay bụt

428.

Chuối tây

429.

Chuối tây Thái Lan

430.

Chuối tây Thái lùn

431.

Chuối tiêu cao

432.

Chuối tiêu cao hồng

433.

Chuối tiêu hồng

434.

Chuối tiêu lùn

435.

Chuối tiêu nhỡ

436.

Chuối tiêu vừa

437.

Chuối tiêu vừa Phú Thọ

438.

Chuối tiêu xanh

439.

Chuối trứng

440.

Chuối vỏ đỏ ruột vàng

441.

Chuối voi

442.

Chuối xiêm

443.

Chôm chôm CĐN 9J

444.

Chôm chôm CĐN 13J

445.

Chôm chôm dính

180

446.

Chôm chôm DONA

447.

Chôm chôm Giava

448.

Chôm chôm nhãn

449.

Chôm chôm Thái

450.

Chôm chôm Tiến Cường

451.

Cọ

452.

Cọ dầu

453.

Cóc

454.

Cói

455.

Củ ấu

456.

Củ cải đường

457.

Củ chân tượng

458.

Củ cọc dậu

459.

Củ cọc rào

460.

Củ dong

461.

Củ đầu rồng

462.

Củ đầu trâu

463.

Củ đậu

464.

Củ gan trâu

465.

Củ mỡ

466.

Củ mỡ bò

467.

Củ mỡ tím

468.

Củ mỡ trắng

469.

Củ nần

470.

Củ nần nghệ

471.

Củ nâu

472.

Củ nâu trắng

473.

Củ ngà

181

474.

Củ nhà

475.

Củ nổi

476.

Củ tháng 8

477.

Củ thơm

478.

Củ tím

479.

Củ từ

480.

Củ từ ba

481.

Củ từ bon

482.

Củ từ bơn

483.

Củ từ cam bốt

484.

Củ từ canh

485.

Củ từ cẩm

486.

Củ từ ching

487.

Củ từ Craib

488.

Củ từ cùi

489.

Củ từ dấu

490.

Củ từ hemsley

491.

Củ từ Kamoon

492.

Củ từ gai

493.

Củ từ lá quế

494.

Củ từ lá xá lị

495.

Củ từ lông

496.

Củ từ lốt

497.

Củ từ lưỡng

498.

Củ từ mỏng

499.

Củ từ ngầm

500.

Củ từ nghèo

501.

Củ từ ngược

182

502.

Củ từ ngược mùa

503.

Củ từ nhám

504.

Củ từ nước

505.

Củ từ Phố Lu

506.

Củ từ poilane

507.

Củ từ petelot

508.

Củ từ rắn

509.

Củ từ scortechin

510.

Củ từ ta

511.

Củ từ tam giác

512.

Củ từ tăng sản

513.

Củ từ tía

514.

Củ từ trắng

515.

Củ từ tròn

516.

Củ từ trơn

517.

Dâu da đất (Bòn bon)

518.

Dâu da xoan

519.

Dâu lai F1 - VH15

520.

Dâu quả dài Đài Loan

521.

Dâu tằm Lai VH13

522.

Dâu tằm Tam bội 28

523.

Dâu tằm Tam bội 36

524.

Dâu tằm VH 9

525.

Dâu tây

526.

Dây tây Nhật Bản

527.

Dẻ

528.

Dong riềng

529.

Dong riềng DR1

183

530.

Dưa bở

531.

Dưa chuột bao tử

532.

Dưa chuột Baby F1

533.

Dưa chuột CN516

534.

Dưa chuột H1

535.

Dưa chuột nếp ta

536.

Dưa chuột Phú Thịnh

537.

Dưa chuột Sao xanh

538.

Dưa chuột Thái F1

539.

Dưa chuột thơm TN126

540.

Dưa gang

541.

Dưa hấu đen Densuke

542.

Dưa hấu chuột

543.

Dưa hấu hắc mỹ nhân

544.

Dưa hấu ruột trắng

545.

Dưa hấu thường

546.

Dưa hấu tí hon (mi ni)

547.

Dưa hấu vỏ vàng ruột đỏ

548.

Dưa kim cô nương

549.

Dưa lê Hàn Quốc

550.

Dưa lê kim hoàng hậu

551.

Dưa lê mật ong

552.

Dưa lê siêu ngọt

553.

Dưa lucky cô nương

554.

Dưa lưới oval (lõi vàng)

555.

Dưa lướt quả dài

556.

Dưa lưới quả tròn lõi xanh

557.

Dừa dâu

184

558.

Dừa dứa

559.

Dừa ẻo

560.

Dừa lửa

561.

Dừa sáp

562.

Dừa ta

563.

Dừa xiêm

564.

Dừa xiêm dây

565.

Dừa xiêm lùn

566.

Dứa Cayen

567.

Dứa Cayen Chân mộng

568.

Dứa Cayen Long Định 2

569.

Dứa Đồng Giao

570.

Dứa gai

571.

Dứa hoa Phú Thọ

572.

Dứa không gai

573.

Dứa mật

574.

Dứa Na hoa

575.

Dứa ta

576.

Dứa tây

577.

Dứa vàng

578.

Đại mạch DM.36

579.

Đại mạch DM.40

580.

Đàn hương

581.

Đào ĐMN1

582.

Đào Đồng Văn

583.

Đào lộn hột (điều)

584.

Đào Mẫu Sơn

585.

Đào nhẵn chín sớm (Sunwringt)

185

586.

Đào Pháp ĐA1

587.

Đào Pháp ĐA2

588.

Đào Tây Vương Mẫu

589.

Đào tiên chịu nhiệt

590.

Đào Trung Quốc

591.

Đào tuyết

592.

Đào tuyết chín sớm ĐCS1 (Early grande)

593.

Đào Vân Nam chín muộn

594.

Đào Vân Nam chín sớm

595.

Đay

596.

Đậu

597.

Đậu bắp

598.

Đậu cove

599.

Đậu cove vàng

600.

Đậu đen

601.

Đậu đỏ

602.

Đậu đũa

603.

Đậu Hà Lan

604.

Đậu lăng

605.

Đậu leo

606.

Đậu que

607.

Đậu rồng

608.

Đậu trạch

609.

Đậu trắng

610.

Đậu tương AK 02

611.

Đậu tương AK 03

612.

Đậu tương AK 05

613.

Đậu tương AK 06

186

614.

Đậu tương D 140

615.

Đậu tương DN 42

616.

Đậu tương DT 90

617.

Đậu tương DT 96

618.

Đậu tương DT 2001

619.

Đậu tương DT 2008

620.

Đậu tương Đ 8

621.

Đậu tương Đ 9

622.

Đậu tương Đ 2101

623.

Đậu tương Đ 96-02

624.

Đậu tương Đ 9804

625.

Đậu tương ĐT 12

626.

Đậu tương ĐT 22

627.

Đậu tương ĐT 26

628.

Đậu tương ĐT 51

629.

Đậu tương ĐT 80

630.

Đậu tương ĐT 84

631.

Đậu tương ĐT 92

632.

Đậu tương ĐT 93

633.

Đậu tương ĐT 2000

634.

Đậu tương ĐVN5

635.

Đậu tương ĐVN-6

636.

Đậu tương ĐVN-9

637.

Đậu tương HL 2

638.

Đậu tương HL 92

639.

Đậu tương HL 203

640.

Đậu tương M 103

641.

Đậu tương rau

187

642.

Đậu tương TL 57

643.

Đậu tương V74

644.

Đậu tương VX 9-2

645.

Đậu tương VX 9-3

646.

Đậu ván

647.

Đậu xanh 044

648.

Đậu xanh ĐX 11

649.

Đậu xanh ĐX 14

650.

Đậu xanh HL 2

651.

Đậu xanh HL 89-E3

652.

Đậu xanh KP 11

653.

Đậu xanh số 9

654.

Đậu xanh T 135

655.

Đậu xanh V 123

656.

Đậu xanh VN 93-1

657.

Đậu xanh VN 99-3

658.

Đu đủ Đài Loan

659.

Đu đủ Đài Loan ruột đỏ

660.

Đu đủ đỏ

661.

Đu đủ Eksotika

662.

Đu đủ Hong Kong da bông

663.

Đu đủ Hồng Phi

664.

Đu đủ Hồng Phi Đài Loan

665.

Đu đủ lùn Thái

666.

Đu đủ quả dài

667.

Đu đủ ruột vàng Carinosa

668.

Đu đủ Solo

669.

Đu đủ Thái Lan

188

670.

Đu đủ thịt đỏ nội địa

671.

Đu đủ thịt vàng nội địa

672.

Đu đủ thịt vàng cam nội địa

673.

Đu đủ vàng lùn

674.

Gai

675.

Gai xanh

676.

Gấc bóng

677.

Gấc chôm chôm

678.

Gấc da gai

679.

Gấc da trơn

680.

Gấc Diễn

681.

Gấc đen

682.

Gấc nếp

683.

Gấc tẻ

684.

Hồi

685.

Hồng đỏ

686.

Hồng giòn

687.

Hồng giòn Nhật Bản

688.

Hồng Hạc Trì

689.

Hồng không hạt

690.

Hồng Lạng Sơn

691.

Hồng MC1

692.

Hồng ngâm

693.

Hồng nhân hậu

694.

Hồng nước

695.

Hồng xiêm Thanh Hà

696.

Hồng xiêm ruột đỏ

697.

Hồng xiêm xoài

189

698.

Hồng xiêm xoài Thái Lan

699.

Hồng xiêm Xuân Đỉnh

700.

Hướng dương

701.

Keo BV33

702.

Keo BV71

703.

Keo BV73

704.

Keo BV75

705.

Keo lá tràm

706.

Keo lai AH7

707.

Keo lai BV10

708.

Keo lưỡi liềm

709.

Keo CLT7

710.

Keo MA1

711.

Keo MA2

712.

Keo tai tượng

713.

Keo TB03

714.

Keo TB05

715.

Keo TB06

716.

Keo TB1

717.

Keo TB7

718.

Keo TB12

719.

Keo TB11

720.

Keo BVlt25

721.

Keo BVlt83

722.

Keo BVlt84

723.

Keo BVlt85

724.

Kê đuôi cáo

725.

Kê đuôi chồn

190

726.

Kê nếp

727.

Kê tẻ

728.

Kê trân châu

729.

Kê vàng

730.

Khế chua

731.

Khế cơm

732.

Khế Đài Loan

733.

Khế ngọt

734.

Khoai bị

735.

Khoai bị hơng

736.

Khoai bế em

737.

Khoai bỏi

738.

Khoai bòi hỏm

739.

Khoai bộp

740.

Khoai bướm bay

741.

Khoai bướm trắng

742.

Khoai chân chó

743.

Khoai chân vịt 1

744.

Khoai chân vịt 2

745.

Khoai choái

746.

Khoai chúc voi

747.

Khoai chuột

748.

Khoai chút

749.

Khoai chùm dâu

750.

Khoai chuối

751.

Khoai dai

752.

Khoai đao

753.

Khoai gà trắng

191

754.

Khoai hương

755.

Khoai lang 143

756.

Khoai lang 2 tháng rưỡi

757.

Khoai lang 3 tháng

758.

Khoai lang 3 tháng tím

759.

Khoai lang 5 tấn

760.

Khoai lang ba tài

761.

Khoai lang bầu đờ

762.

Khoai lang bí

763.

Khoai lang bí đường

764.

Khoai lang biển

765.

Khoai lang bướm bay 4

766.

Khoai lang bướm trắng

767.

Khoai lang Cái Rồng

768.

Khoai lang canh nông

769.

Khoai lang chân vịt 1

770.

Khoai lang chân vịt 2

771.

Khoai lang chết đói Cam Lộ

772.

Khoai lang chiêm dâu

773.

Khoai lang chiêm dâu Bình Lục

774.

Khoai lang chiêm tĩnh

775.

Khoai lang chim nồi rang

776.

Khoai lang chúc voi

777.

Khoai lang chùm dâu

778.

Khoai lang CN 67.3

779.

Khoai lang CN 76.2

780.

Khoai lang CN 84

781.

Khoai lang cù lần

192

782.

Khoai lang cù lầu gạo

783.

Khoai lang củ trắng

784.

Khoai lang D 59

785.

Khoai lang dân tộc lá tím

786.

Khoai lang dâu 2

787.

Khoai lang Dòng Số 8

788.

Khoai lang Dương Ngọc

789.

Khoai lang Dương Ngọc 1

790.

Khoai lang Dương Ngọc - Hậu Giang

791.

Khoai lang Đà Nẵng

792.

Khoai lang đặc lý 2

793.

Khoai lang đặc lý 5

794.

Khoai lang đậu xanh

795.

Khoai lang đỏ

796.

Khoai lang đỏ đọt Kim Long

797.

Khoai lang đỏ đốt

798.

Khoai lang đỏ lá tròn

799.

Khoai lang đỗ

800.

Khoai lang Đồng Nai 5

801.

Khoai lang Đồng Nai 10

802.

Khoai lang Đồng Nai 11

803.

Khoai lang EKMATS 7

804.

Khoai lang EKMATS 8-1

805.

Khoai lang EKMATS 8-2

806.

Khoai lang EKMATS 16

807.

Khoai lang EKMATS 25

808.

Khoai lang EKMATS 45

809.

Khoai lang gạo

193

810.

Khoai lang gạo 4

811.

Khoai lang Gò Vấp 2

812.

Khoai lang Hà lam đỏ

813.

Khoai lang Hà lam ngọn trắng

814.

Khoai lang Hoàng Anh

815.

Khoai lang Hoàng Long

816.

Khoai lang Hồng quảng

817.

Khoai lang Hồng Thanh

818.

Khoai lang HL4

819.

Khoai lang huyết dụ

820.

Khoai lang K4

821.

Khoai lang K51

822.

Khoai lang KB1

823.

Khoai lang KL5

824.

Khoai lang Lào 1

825.

Khoai lang lẽo

826.

Khoai lang Lệ cần

827.

Khoai lang lim

828.

Khoai lang lim 3

829.

Khoai lang lim Bắc Thái

830.

Khoai lang lim Quảng Ninh

831.

Khoai lang lông gà

832.

Khoai lang Long Khánh 7

833.

Khoai lang mằm bưng vàng

834.

Khoai lang mắn Nghĩa Bình

835.

Khoai lang mật

836.

Khoai lang mây

837.

Khoai lang muống

194

838.

Khoai lang muống đỏ

839.

Khoai lang muống tím ngọn lá lớn

840.

Khoai lang muống trắng 2

841.

Khoai lang mướp trắng 1

842.

Khoai lang nạ

843.

Khoai lang Nam Vang

844.

Khoai lang ngắn ngày

845.

Khoai lang Nhật vàng

846.

Khoai lang Như Ngọc

847.

Khoai lang No 44

848.

Khoai lang No 925.2

849.

Khoai lang Núi 1

850.

Khoai lang Núi 2

851.

Khoai lang Ong ngọc 2

852.

Khoai lang Ông Cố

853.

Khoai lang pói vàng

854.

Khoai lang Quế Hường

855.

Khoai lang rau răm

856.

Khoai lang sen

857.

Khoai lang sơn chu

858.

Khoai lang su canh đỏ

859.

Khoai lang su canh trắng

860.

Khoai lang sucuza (Nhật Bản)

861.

Khoai lang tai voi 2

862.

Khoai lang Tây Nguyên

863.

Khoai lang Thái Bình

864.

Khoai lang Thống nhất 1

865.

Khoai lang Thống nhất 5

195

866.

Khoai lang Thống nhất 14

867.

Khoai lang Thống nhất 17

868.

Khoai lang tím bộ đội

869.

Khoai lang TN 67

870.

Khoai lang trắng

871.

Khoai lang tre

872.

Khoai lang trôm

873.

Khoai lang trùi sa đỏ (Quảng Nam)

874.

Khoai lang trùi sa trắng (Quảng Nam)

875.

Khoai lang tứ quý Đà Nẵng

876.

Khoai lang tửu thái

877.

Khoai lang vồ

878.

Khoai lang VX 37

879.

Khoai làng

880.

Khoai lông gà

881.

Khoai mài đỏ

882.

Khoai mán

883.

Khoai mán vàng

884.

Khoai mật

885.

Khoai mía

886.

Khoai mọi

887.

Khoai môn

888.

Khoai môn ađơ

889.

Khoai môn bạc hà

890.

Khoai môn đỏ

891.

Khoai môn lựu đạn

892.

Khoai môn lựu đạn Gio Linh

893.

Khoai môn mịn

196

894.

Khoai môn Nghệ An

895.

Khoai môn rụi Mộ Đức

896.

Khoai môn sáp

897.

Khoai môn sáp đen

898.

Khoai môn sen

899.

Khoai môn sọ

900.

Khoai môn sọ Gia Lai

901.

Khoai môn Sơn La

902.

Khoai môn Tàu

903.

Khoai môn tầng 6 tháng

904.

Khoai môn thơm

905.

Khoai môn tí

906.

Khoai môn tía

907.

Khoai môn tím

908.

Khoai môn trắng

909.

Khoai môn trắng Đồng Nai

910.

Khoai môn trốn

911.

Khoai môn trứng

912.

Khoai môn voi Cam Lộ

913.

Khoai môn xanh

914.

Khoai mỡ

915.

Khoai mỡ tía

916.

Khoai mỡ tím bông lau

917.

Khoai mỡ tím Đà Lạt

918.

Khoai mỡ trắng

919.

Khoai mỡ trắng nhẵn

920.

Khoai mùng

921.

Khoai mùng dọc xanh

197

922.

Khoai mùng tía

923.

Khoai muộn

924.

Khoai ngà ngóc

925.

Khoai ngọt

926.

Khoai nước núi

927.

Khoai nương

928.

Khoai ong ngọc

929.

Khoai rau răm

930.

Khoai riềng quảng

931.

Khoai sáp tím

932.

Khoai sáp vàng

933.

Khoai sọ

934.

Khoai sọ ba tháng

935.

Khoai sọ chân chó

936.

Khoai sọ chân hổ

937.

Khoai sọ chân trắng

938.

Khoai sọ Chợ Đồn

939.

Khoai sọ cù tang Thuận Châu

940.

Khoai sọ dò

941.

Khoai sọ dọc tía

942.

Khoai sọ dọc tím

943.

Khoai sọ dọc trắng

944.

Khoai sọ dọc xanh

945.

Khoai sọ đỏ

946.

Khoai sọ đồi

947.

Khoai sọ đồi chỏm đỏ

948.

Khoai sọ đồi chỏm tím

949.

Khoai sọ đồng

198

950.

Khoai sọ Hà Bắc

951.

Khoai sọ hao

952.

Khoai sọ Lục Yên

953.

Khoai sọ lủi

954.

Khoai sọ mặt quỷ

955.

Khoai sọ mặt trắng

956.

Khoai sọ mèo

957.

Khoai sọ muộn

958.

Khoai sọ Nam Đàn

959.

Khoai sọ nghệ

960.

Khoai sọ núi

961.

Khoai sọ nương

962.

Khoai sọ ruột vàng

963.

Khoai sọ ruột vàng Tây Ninh

964.

Khoai sọ rừng

965.

Khoai sọ sớm

966.

Khoai sọ Tây Ninh

967.

Khoai sọ thơm

968.

Khoai sọ tía

969.

Khoai sọ tím

970.

Khoai sọ TN

971.

Khoai sọ trắng

972.

Khoai sọ trứng

973.

Khoai sọ trứng dọc tím

974.

Khoai sọ vua

975.

Khoai su canh trắng

976.

Khoai sượng

977.

Khoai tai voi

199

978.

Khoai Tam Đảo

979.

Khoai tăng sản

980.

Khoai tầng Đà Bắc

981.

Khoai tây 38-6

982.

Khoai tây Ackersengen

983.

Khoai tây Aladin

984.

Khoai tây Atlantic

985.

Khoai tây Diamant

986.

Khoai tây Diamond

987.

Khoai tây Esprit

988.

Khoai tây FL2027

989.

Khoai tây Hồng Hà 2

990.

Khoai tây Hồng Hà 7

991.

Khoai tây Karsta

992.

Khoai tây KT2

993.

Khoai tây KT3

994.

Khoai tây Líp si

995.

Khoai tây Marabel

996.

Khoai tây Mariella

997.

Khoai tây Nicola

998.

Khoai tây P 3

999.

Khoai tây PO3

1000. Khoai tây Sinora

1001. Khoai tây Solara

1002. Khoai tây Thường tín

1003. Khoai tây VT 2

1004. Khoai tía

1005. Khoai tím

200

1006. Khoai tím thơm

1007. Khoai trại

1008. Khoai trắng

1009. Khoai trò mịn

1010. Khoai tròn

1011. Khoai trứng

1012. Khoai từ

1013. Khoai vạc

1014. Khoai vạc gai

1015. Khoai vạc ngà

1016. Khoai vạc vồng

1017. Khoai vảy

1018. Khoai xá xanh

1019. Khoai xẻ chân chim

1020. Khuynh diệp

1021. Kiệu

1022. Kiwi lùn xanh

1023. Kiwi Niu Dilân

1024. Kiwi ruột vàng

1025. Lạc 1660

1026. Lạc 4329

1027. Lạc BG 78

1028. Lạc Giấy

1029. Lạc HL 25

1030. Lạc Khía

1031. Lạc L 12

1032. Lạc L 14

1033. Lạc L 17

201

1034. Lạc L 18

1035. Lạc L 20

1036. Lạc L 23

1037. Lạc L 26

1038. Lạc L 27

1039. Lạc LO 8

1040. Lạc LO 2

1041. Lạc LO 5

1042. Lạc LVT

1043. Lạc Lỳ

1044. Lạc MD 7

1045. Lạc MD 9

1046. Lạc S Tuyển

1047. Lạc Sen lai 75/23

1048. Lạc TB 25

1049. Lạc Trạm Xuyên

1050. Lạc V 79

1051. Lạc VD 1

1052. Lạc VD 2

1053. Lanh

1054. Lê BV1

1055. Lê DL 18-19

1056. Lê DL 20

1057. Lê DL 21

1058. Lê Đại hồng

1059. Lê đen Cao Bằng

1060. Lê ki ma (trứng gà)

1061. Lê lá xanh

202

1062. Lê lá vàng

1063. Lê LMN1

1064. Lê nâu

1065. Lê nước

1066. Lê Sali Hà Giang

1067. Lê VH6

1068. Lê xanh

1069. Long não

1070. Lúa a cuốc

1071. Lúa ba giăng

1072. Lúa ba lá Nghệ An

1073. Lúa ba tháng nước Nghệ An

1074. Lúa bake

1075. Lúa balo

1076. Lúa bắc hương

1077. Lúa bằng muộn Nghệ An

1078. Lúa bầu dâu Phú Thọ

1079. Lúa bầu đỏ Hải Phòng

1080. Lúa bầu đỏ Thái Bình

1081. Lúa bầu Hà Đông

1082. Lúa bầu Hải Dương

1083. Lúa bầu hương Hải Dương

1084. Lúa bầu quái

1085. Láu bầu quảng Phú Thọ

1086. Lúa bầu Thái Bình

1087. Lúa bầu Thái Bình trắng

1088. Lúa bầu Thanh Hóa

1089. Lúa bầu Vĩnh Phúc

203

1090. Lúa bầu Yên Sơn

1091. Lúa beo cại nác

1092. Lúa bèo cú

1093. Lúa bèo đàng

1094. Lúa bèo mù cú

1095. Lúa blao blo non

1096. Lúa blao co cẩm

1097. Lúa blao diến

1098. Lúa blao hung

1099. Lúa blao pe ngoon

1100. Lúa blao tỏm pỉ

1101. Lúa blau cẩm (nếp cẩm)

1102. Lúa blau hung

1103. Lúa blầu mặc

1104. Lúa ble blu

1105. Lúa blin xa

1106. Lúa canh nông Bắc Giang

1107. Lúa canh nông Bắc Ninh

1108. Lúa canh nông Mỹ Tho

1109. Lúa canh nông Nghệ An

1110. Lúa canh nông Tuyên Quang

1111. Lúa cẩm

1112. Lúa cẩm panh

1113. Lúa cẩm vỏ vàng

1114. Lúa câu Phú Xuyên

1115. Lúa câu Thái Bình

1116. Lúa chanh Phú Thọ

1117. Lúa chanh Sơn Tây

204

1118. Lúa chăm lai Tây Bắc

1119. Lúa chăm lượng

1120. Lúa chế biến 3988

1121. Lúa chiêm

1122. Lúa chiêm bắc

1123. Lúa chiêm bò

1124. Lúa chiêm chanh

1125. Lúa chiêm chanh 198A

1126. Lúa chiêm chanh Phú Thọ

1127. Lúa chiêm chớ

1128. Lúa chiêm cò Nghệ An

1129. Lúa chiêm cường

1130. Lúa chiêm dâu Bình Lục

1131. Lúa chiêm di đông

1132. Lúa chiêm đỏ dạng 1

1133. Lúa chiêm đỏ dạng 2

1134. Lúa chiêm khẩn lo

1135. Lúa chiêm lốc Nghệ An

1136. Lúa chiêm nam 2

1137. Lúa chiêm Nam Ninh tràng đá

1138. Lúa chiêm ngân

1139. Lúa chiêm Ngân Sơn

1140. Lúa chiêm ngâu

1141. Lúa chiêm Nghệ An

1142. Lúa chiêm ngù Nghệ An

1143. Lúa chiêm nhỡ Bắc Ninh 1

1144. Lúa chiêm Phú Xuyên

1145. Lúa chiêm quáo Nghệ An

205

1146. Lúa chiêm râu

1147. Lúa chiêm râu Tây Bắc

1148. Lúa chiêm sách

1149. Lúa chiêm sành Cẩm Khê

1150. Lúa chiêm số 1 Thanh Hóa

1151. Lúa chiêm tăng sản

1152. Lúa chiêm tây

1153. Lúa chiêm thanh

1154. Lúa chiêm thống nhất

1155. Lúa chiêm Thừa Thiên

1156. Lúa chiêm tía chân

1157. Lúa chiêm tía chân Thái Nguyên

1158. Lúa chiêm trắng

1159. Lúa chiêm trắng chân

1160. Lúa chiêm trắng vỏ

1161. Lúa chiêm trắng vỏ Hải Phòng

1162. Lúa chiêm tứ thời

1163. Lúa chiêm viên

1164. Lúa chiêm xiên

1165. Lúa chua tan

1166. Lúa chùm

1167. Lúa cút Hải Dương

1168. Lúa cút Hải Phòng

1169. Lúa cút hương

1170. Lúa da dư

1171. Lúa den

1172. Lúa di

1173. Lúa di càng Nam Định

206

1174. Lúa di cao cổ Kiến An

1175. Lúa di đỏ Hải Phòng

1176. Lúa di đỏ Hòa Bình

1177. Lúa di đông Nam Định

1178. Lúa di hương Hải Dương

1179. Lúa di hương Hải Phòng

1180. Lúa di hương Kiến An

1181. Lúa di thau ton

1182. Lúa di trắng Hải Dương

1183. Lúa di trắng Hải Phòng

1184. Lúa di trắng Hòa Bình

1185. Lúa di trắng Nam Định

1186. Lúa di trắng Sơn Tây

1187. Lúa di vàng Hải Dương

1188. Lúa diêu tu

1189. Lúa dong trắng

1190. Lúa dự

1191. Lúa dự báo Hòa Bình

1192. Lúa dự cao cây

1193. Lúa dự chiêm

1194. Lúa dự day blat

1195. Lúa dự đen Thái Bình

1196. Lúa dự Hải Dương

1197. Lúa dự hương Hải Phòng

1198. Lúa dự hương Nam Định

1199. Lúa dự lùn Hải Dương

1200. Lúa dự lùn Nam Định

1201. Lúa dự lùn Thái Bình

207

1202. Lúa dự lùn thơm

1203. Lúa dự lùn thơm Thái Bình

1204. Lúa dự nghển

1205. Lúa dự nghển Hòa Bình

1206. Lúa dự Ninh Bình

1207. Lúa dự sớm Nam Định

1208. Lúa dự Thanh Hóa

1209. Lúa dự thơm

1210. Lúa dự thơm đen Thái Bình

1211. Lúa dự thơm Hải Dương

1212. Lúa dự thơm Hải Phòng

1213. Lúa dự thơm Ninh Bình

1214. Lúa dự thơm Thái Bình

1215. Lúa dự trắng Nam Định

1216. Lúa dự trục Nam Định

1217. Lúa dự vàng Nam Định

1218. Lúa đài trung 65

1219. Lúa đốc phụng

1220. Lúa đồi

1221. Lúa đúc

1222. Lúa gie

1223. Lúa gié

1224. Lúa gié hoa Hà Tĩnh

1225. Lúa gié hoa Vĩnh Phúc

1226. Lúa gié lài

1227. Lúa gié nước Vĩnh Phúc

1228. Lúa gié rõ

1229. Lúa gié thanh 172

208

1230. Lúa ghê nưnh

1231. Lúa gin plat

1232. Lúa hạnh phúc 1

1233. Lúa hẻo

1234. Lúa hiên đỏ Kiến An

1235. Lúa hoa vàng Thái Bình

1236. Lúa hom Bình Lục

1237. Lúa hom Nam Định

1238. Lúa hom Hà Nam

1239. Lúa hom trụ

1240. Lúa hưng sớm Thanh Hóa

1241. Lúa kén trắng

1242. Lúa kén vàng

1243. Lúa kháu cặm cai

1244. Lúa kháu cặm cỏ

1245. Lúa kháu cặm kỵ

1246. Lúa kháu cặm ngân

1247. Lúa kháu cẩm pạnh

1248. Lúa kháu cẩm pị

1249. Lúa kháu cẩm pưng

1250. Lúa kháu điển lư

1251. Lúa kháu phách

1252. Lúa kháu rẫy

1253. Lúa khẩu ba tràng

1254. Lúa khẩu bai

1255. Lúa khẩu buộp

1256. Lúa khẩu cảng (nếp cẩm)

1257. Lúa khẩu cáy

209

1258. Lúa khẩu cẩm

1259. Lúa khẩu cẩm panh

1260. Lúa khẩu chiến

1261. Lúa khẩu dòi

1262. Lúa khẩu đanh đanh

1263. Lúa khẩu đo rón

1264. Lúa khẩu lang

1265. Lúa khẩu lao

1266. Lúa khẩu lói

1267. Lúa khẩu ma

1268. Lúa khẩu ma puống

1269. Lúa khẩu mang

1270. Lúa khẩu mắc vài

1271. Lúa khẩu mèo

1272. Lúa khẩu mua khao

1273. Lúa khẩu nậm cưn

1274. Lúa khẩu nậm xít

1275. Lúa khẩu nghĩa cạn

1276. Lúa khẩu nguyệt

1277. Lúa khẩu nông hay

1278. Lúa khẩu nồng đăm

1279. Lúa khẩu nua chia

1280. Lúa khẩu nua khao

1281. Lúa khẩu nua moong

1282. Lúa khẩu nua tẩu

1283. Lúa khẩu pai lả

1284. Lúa khẩu panh

1285. Lúa khẩu pe đanh

210

1286. Lúa khẩu pe lanh mùa

1287. Lúa khẩu ruốc

1288. Lúa khẩu tan đanh

1289. Lúa khẩu tan Hang

1290. Lúa khẩu tan lương

1291. Lúa khẩu tan Pỏm

1292. Lúa khẩu tan vang

1293. Lúa khẩu tắc tó

1294. Lúa khẩu tiệp

1295. Lúa khẩu tum muôi

1296. Lúa khẩu vai

1297. Lúa khẩu xẹp

1298. Lúa lai ba dòng HKT99

1299. Lúa lai ba dòng Hương ưu 98

1300. Lúa lai ba dòng Hương ưu 3068

1301. Lúa lai ba dòng Kim ưu 18

1302. Lúa lai ba dòng Kinh sở ưu 1588

1303. Lúa lai ba dòng Nam ưu 209

1304. Lúa lai ba dòng S9368

1305. Lúa lai ba dòng Thanh hương ưu 6 (Thanh Hoa 1)

1306. Lúa lai ba dòng TEJ vàng

1307. Lúa lai Bác ưu 64

1308. Lúa lai Bác ưu 253

1309. Lúa lai Bác ưu 903

1310. Lúa lai Bác ưu 903 KBL

1311. Lúa lai Bio 404

1312. Lúa lai Bồi tạp 49

1313. Lúa lai Bồi tạp 77

211

1314. Lúa lai Bồi tạp Sơn thanh

1315. Lúa lai B-TE1

1316. Lúa lai C ưu đa hệ số 1

1317. Lúa lai CNR 02

1318. Lúa lai CNR 36

1319. Lúa lai CNR 5104

1320. Lúa lai Cương ưu 22

1321. Lúa lai Cương ưu 725

1322. Lúa lai CT 16

1323. Lúa lai D ưu 527

1324. Lúa lai D ưu 725

1325. Lúa lai D ưu 6511

1326. Lúa lai Du ưu 600

1327. Lúa lai Dương quang 18

1328. Lúa lai Đại Dương 1

1329. Lúa lai Đại dương 8

1330. Lúa lai Đắc ưu 11

1331. Lúa lai hai dòng HQ19

1332. Lúa lai hai dòng HYT108

1333. Lúa lai hai dòng Phúc ưu 868

1334. Lúa lai hai dòng TH3-7

1335. Lúa lai hai dòng TH7-2

1336. Lúa lai hai dòng Thanh ưu 4

1337. Lúa lai Hoa ưu 108

1338. Lúa lai Hoa ưu số 2

1339. Lúa lai Hương ưu 3068

1340. Lúa lai HR182

1341. Lúa lai HYT 83

212

1342. Lúa lai HYT 100

1343. Lúa lai HYT 108

1344. Lúa lai Khải Phong số 1

1345. Lúa lai Kim ưu 725

1346. Lúa lai LC 25

1347. Lúa lai LC 212

1348. Lúa lai LC 270

1349. Lúa lai LS1

1350. Lúa lai MB69

1351. Lúa lai N. ưu 69

1352. Lúa lai N. ưu 89

1353. Lúa lai Nam Dương 99

1354. Lúa lai Nam ưu 603

1355. Lúa lai Nam ưu 604

1356. Lúa lai Nghi Hương 305

1357. Lúa lai Nhị ưu 63

1358. Lúa lai Nhị ưu 69

1359. Lúa lai Nhị ưu 725

1360. Lúa lai Nhị ưu 86B

1361. Lúa lai Nhị ưu 838

1362. Lúa lai Nhị ưu 986

1363. Lúa lai Nhị ưu số 7

1364. Lúa lai Nông ưu 28 (CV1)

1365. Lúa lai PAC 807

1366. Lúa lai PHB71

1367. Lúa lai Phú ưu 978

1368. Lúa lai Phú ưu số 1

1369. Lúa lai Pioneer brand 27P31

213

1370. Lúa lai Q.ưu số 6

1371. Lúa lai Sán ưu 63

1372. Lúa lai Sán ưu quế 99 (Tạp giao 5)

1373. Lúa lai SL8H- GS9

1374. Lúa lai TH3-4

1375. Lúa lai TH3-5

1376. Lúa lai TH7-2

1377. Lúa lai Thái Xuyên 111

1378. Lúa lai Thanh ưu 3

1379. Lúa lai Thiên nguyên ưu 9

1380. Lúa lai Thiên nguyên ưu 16

1381. Lúa lai Thịnh dụ 11

1382. Lúa lai Thục Hưng 6

1383. Lúa lai Trang Nông 15

1384. Lúa lai Vân Quang 14 (VQ14)

1385. Lúa lai Việt lai 20

1386. Lúa lai Việt lai 24

1387. Lúa lai VT 404

1388. Lúa lai VT 505

1389. Lúa lai XL94017

1390. Lúa lai Xuyên hương 178 (XH 178)

1391. Lúa lào đinh

1392. Lúa lốc nếp cẩm

1393. Lúa lốc nếp Mộc Châu

1394. Lúa lốc nước

1395. Lúa lốc Vĩnh Phú

1396. Lúa mác đươi

1397. Lúa mạch

214

1398. Lúa mắc coọc

1399. Lúa mẻ

1400. Lúa mì (tiểu mạch)

1401. Lúa mố trắng Vĩnh Phúc

1402. Lúa mộ

1403. Lúa mùa

1404. Lúa cóc

1405. Lúa nàng hương

1406. Lúa nàng hương Bình Chánh

1407. Lúa nàng phệt

1408. Lúa nàng thơm

1409. Lúa nàng thướt

1410. Lúa nàng thơm chợ Đào

1411. Lúa nanh chồn

1412. Lúa ne diêm

1413. Lúa nếp 415

1414. Lúa nếp a đóa

1415. Lúa nếp a tụt

1416. Lúa nếp áo dài

1417. Lúa nếp bã trầu

1418. Lúa nếp bắc giàn

1419. Lúa nếp bè

1420. Lúa nếp BM 9602

1421. Lúa nếp bồ hóng Hải Dương

1422. Lúa nếp brau

1423. Lúa nếp cái chiêm

1424. Lúa nếp cái dóc

1425. Lúa nếp cái Hải Dương

215

1426. Lúa nếp cái hoa vàng

1427. Lúa nếp cái hoa vàng Hải Hậu

1428. Lúa nếp cái hoa vàng Hải Phòng

1429. Lúa nếp cái mùa

1430. Lúa nếp cái nương

1431. Lúa nếp cái trắng

1432. Lúa nếp cao cây

1433. Lúa nếp cau

1434. Lúa nếp cặm

1435. Lúa nếp cẩm

1436. Lúa nếp cẩm có râu

1437. Lúa nếp cẩm đen

1438. Lúa nếp cẩm nương

1439. Lúa nếp cẩm riệu

1440. Lúa nếp chạo

1441. Lúa nếp chân

1442. Lúa nếp chiêm Phú Thọ

1443. Lúa nếp con

1444. Lúa nếp con giòi Phù Yên

1445. Lúa nếp Cô Tiên

1446. Lúa nếp dài

1447. Lúa nếp dâu Thừa Thiên

1448. Lúa nếp dầu hương

1449. Lúa nếp DT 22

1450. Lúa nếp đen Hưng Yên

1451. Lúa nếp đinh

1452. Lúa nếp ĐN 20

1453. Lúa nếp đỏ

216

1454. Lúa nếp đuôi trâu Phù Yên

1455. Lúa nếp ĐT 52

1456. Lúa nếp Đùm

1457. Lúa nếp Hải Hậu

1458. Lúa nếp hạt cau

1459. Lúa nếp hạt cau Nghệ An

1460. Lúa nếp hạt tròn

1461. Lúa nếp héo

1462. Lúa nếp hoa vàng

1463. Lúa nếp hoa vàng Thanh Hóa

1464. Lúa nếp hoa vàng Vĩnh Phúc

1465. Lúa nếp huyết rồng

1466. Lúa nếp hương Hải Phòng

1467. Lúa nếp IR 352

1468. Lúa nếp Lang Liêu

1469. Lúa nếp lùn

1470. Lúa nếp Lý

1471. Lúa nếp LV1

1472. Lúa nếp Mao Breng

1473. Lúa nếp mây

1474. Lúa nếp mèo đen

1475. Lúa nếp mỏ quạ

1476. Lúa nếp Mộc Châu

1477. Lúa nếp mỡ

1478. Lúa nếp N97

1479. Lúa nếp ngo

1480. Lúa nếp nhung

1481. Lúa nếp nồng đỏ

217

1482. Lúa nếp nương

1483. Lúa nếp nương có đuôi

1484. Lúa nếp nương vỏ trấu vàng

1485. Lúa nếp ốc

1486. Lúa nếp pai

1487. Lúa nếp pâng

1488. Lúa nếp PD2

1489. Lúa nếp Prao ôn

1490. Lúa nếp Quảng Nam

1491. Lúa nếp quýt

1492. Lúa nếp quýt Hải Phòng

1493. Lúa nếp rằn

1494. Lúa nếp râu

1495. Lúa nếp râu Thừa Thiên B

1496. Lúa nếp ròng Nghệ An 2

1497. Lúa nếp ruộng

1498. Lúa nếp ruộng nương

1499. Lúa nếp sấp

1500. Lúa nếp tan

1501. Lúa nếp tan Mường Chanh Mai Sơn

1502. Lúa nếp tan Ngọc Chiến Mường La

1503. Lúa nếp tẻ lau

1504. Lúa nếp than

1505. Lúa nếp than Lâm Đồng

1506. Lúa nếp thầu dầu

1507. Lúa nếp thơm Hưng Yên

1508. Lúa nếp tí lau

1509. Lúa nếp tróc

218

1510. Lúa nếp vải

1511. Lúa nếp vàng

1512. Lúa nếp vàng ong

1513. Lúa nếp vằn

1514. Lúa nếp vỏ đen

1515. Lúa nếp voong

1516. Lúa nếp xấp

1517. Lúa nếp xoắn Hải Phòng

1518. Lúa nếp ngo hieng

1519. Lúa nếp ngo lai

1520. Lúa nếp ngo oạch

1521. Lúa nếp ngọ hiêng

1522. Lúa ngọ klọoc

1523. Lúa nếp ngọn thiềng

1524. Lúa nếp Nha Trang

1525. Lúa nếp nhen plút

1526. Lúa nếp nhỏ đỏ

1527. Lúa nếp nhỏ sớm

1528. Lúa nếp nhông trắng Hải Phòng

1529. Lúa nhum

1530. Lúa nông nghiệp 1

1531. Lúa nương

1532. Lúa pau cẩm

1533. Lúa pàu đằng quại

1534. Lúa pê xa

1535. Lúa plao cô cắm

1536. Lúa plau la

1537. Lúa plau sang

219

1538. Lúa plẩu tăng

1539. Lúa plề lẩu xám

1540. Lúa plề plậu xá

1541. Lúa plề sáng lọi

1542. Lúa po le po lau xi

1543. Lúa râu Ấn Độ

1544. Lúa ré Bắc Ninh

1545. Lúa ré bằng Hà Đông

1546. Lúa ré bầu

1547. Lúa ré chanh

1548. Lúa ré nam 64

1549. Lúa ré nước Thanh Hóa

1550. Lúa ré quảng Hà Tĩnh

1551. Lúa ré Thái Nguyên

1552. Lúa ré thanh

1553. Lúa ré thanh Hà Đông

1554. Lúa ré thơm Hà Đông

1555. Lúa sài đường

1556. Lúa sài đường Hà Nam

1557. Lúa sài đường Hải Dương

1558. Lúa sài đường Kiến An

1559. Lúa sài đường Thái Nguyên

1560. Lúa sài đường Thanh Hóa

1561. Lúa sài đường Tuyên Quang

1562. Lúa sài đường Vĩnh Phúc

1563. Lúa Sài Gòn

1564. Lúa Sài Gòn sớm Hà Nam

1565. Lúa sài Hải Dương

220

1566. Lúa san pa toong

1567. Lúa séng cù

1568. Lúa sòi Hải Phòng

1569. Lúa sòi Nam Định

1570. Lúa soid trắng gạo Hải Dương

1571. Lúa số mà khừa

1572. Lúa sớm cánh Bắc Giang

1573. Lúa sớm câu 70A

1574. Lúa tám

1575. Lúa tám áp bẹ

1576. Lúa tám áp bẹ Ninh Bình

1577. Lúa tám áp bẹ Thái Bình

1578. Lúa tám bắc Hải Dương

1579. Lúa tám bèo Bắc Ninh

1580. Lúa tám canh nông Vĩnh Phúc

1581. Lúa tám cao Bắc Ninh

1582. Lúa tám cao cây

1583. Lúa tám cao Sơn Tây

1584. Lúa tám cao Vĩnh Phúc

1585. Lúa tám cau

1586. Lúa tám cha

1587. Lúa tám chiêm Hà Nam

1588. Lúa tám chòng Vĩnh Phúc

1589. Lúa tám con

1590. Lúa tám cổ ngỗng Hà Nam

1591. Lúa tám cổ ngỗng Nam Định

1592. Lúa tám cổ rụt

1593. Lúa tám dâu Kiến An

221

1594. Lúa tám dâu Thái Bình

1595. Lúa tám di Bắc Ninh

1596. Lúa tám ĐC M90

1597. Lúa tám đen

1598. Lúa tám đen 516A

1599. Lúa tám đen Bắc Ninh

1600. Lúa tám đen Hà Đông

1601. Lúa tám đen Hải Dương

1602. Lúa tám đen Hải Phòng

1603. Lúa tám đen Sơn Tây

1604. Lúa tám đen Vĩnh Phúc

1605. Lúa tám đỏ

1606. Lúa tám đỏ Hà Đông

1607. Lúa tám đỏ Sơn Tây

1608. Lúa tám đỏ Thanh Hóa

1609. Lúa tám đột biến

1610. Lúa tám đứng Hải Dương

1611. Lúa tám giả Hải Phòng

1612. Lúa tám Hải Dương

1613. Lúa tám Hải Giang

1614. Lúa tám hoa vàng Bắc Ninh

1615. Lúa tám không thơm Thái Bình

1616. Lúa tám lấp Hải Dương

1617. Lúa tám lấp Hải Phòng

1618. Lúa tám lấp Kiến An

1619. Lúa tám lúc Tây Bắc

1620. Lúa tám lùn Hà Đông

1621. Lúa tám lùn Hòa Bình

222

1622. Lúa tám lùn Kiến An

1623. Lúa tám lùn Vĩnh Phúc

1624. Lúa tám mê Lai Châu

1625. Lúa tám muộn Bắc Ninh

1626. Lúa tám muộn Vĩnh Phúc

1627. Lúa tám nghệ Hải Dương

1628. Lúa tám nghệ hạt đỏ

1629. Lúa tám nghệ Thái Bình

1630. Lúa tám nghệ Vĩnh Phúc

1631. Lúa tám nghển

1632. Lúa tám Nghĩa Hồng

1633. Lúa tám Nghĩa Lạc

1634. Lúa tám Nghĩa Sơn

1635. Lúa tám Ngọc Vạch

1636. Lúa tám nhe Tây Bắc

1637. Lúa tám nhỡ Bắc Ninh

1638. Lúa tám nhỡ Thái Bình

1639. Lúa tám nhỡ Vĩnh Phúc

1640. Lúa tám nòi Hà Đông

1641. Lúa tám nòi Sơn Tây

1642. Lúa tám quạt

1643. Lúa tám râu Bắc Giang

1644. Lúa tám râu Bắc Ninh

1645. Lúa tám râu Hòa Bình

1646. Lúa tám râu Hồng Quảng

1647. Lúa tám râu Kiến An

1648. Lúa tám rúc Vĩnh Phúc

1649. Lúa tám ruối Hải Phòng

223

1650. Lúa tám son Nam Định

1651. Lúa tám sớm Bắc Ninh

1652. Lúa tám sớm Hải Dương

1653. Lúa tám tây Bắc Ninh

1654. Lúa tám tây Sơn Tây

1655. Lúa tám tẻ Vĩnh Phúc

1656. Lúa tám thơm

1657. Lúa tám thơm áp bẹ

1658. Lúa tám thơm Bắc Giang

1659. Lúa tám thơm Điện Biên

1660. Lúa tám thơm đột biến

1661. Lúa tám thơm Hà Đông

1662. Lúa tám thơm Hải Dương

1663. Lúa tám thơm Hòa Bình

1664. Lúa tám thơm Hồng Quảng

1665. Lúa tám thơm Ninh Bình

1666. Lúa tám thơm Thái Bình

1667. Lúa tám thơm Thanh Hóa

1668. Lúa tám thơm Trung Quốc

1669. Lúa tám thơm vay

1670. Lúa tám thơm Vĩnh Phúc

1671. Lúa tám tiêu

1672. Lúa tám trắng Bắc Giang

1673. Lúa tám trắng Vĩnh Phúc

1674. Lúa tám trâu Hải Dương

1675. Lúa tám trâu Kiến An

1676. Lúa tám trâu Sơn Tây

1677. Lúa tám trâu Vĩnh Phúc

224

1678. Lúa tám tròn

1679. Lúa tám tròn Hải Dương

1680. Lúa tám vuốt

1681. Lúa tám xoan

1682. Lúa tám xoan Bắc Ninh

1683. Lúa tám xoan có râu Hải Dương

1684. Lúa tám xoan Hà Nam

1685. Lúa tám xoan Hải Dương

1686. Lúa tám xoan Hải Hậu

1687. Lúa tám xoan Hải Phòng

1688. Lúa tám xoan Sơn Tây

1689. Lúa tám xoan Thái Bình

1690. Lúa tám xoan Vĩnh Phúc

1691. Lúa tám xoan Thái Bình

1692. Lúa tám Xuân Bắc

1693. Lúa tám Xuân Đài

1694. Lúa tám Xuân Hồng

1695. Lúa tám tan lanh

1696. Lúa tám tan lương

1697. Lúa tám tan nọi

1698. Lúa tám tàu hương

1699. Lúa tẻ 79-1

1700. Lúa tẻ ải 32

1701. Lúa tẻ A 20

1702. Lúa tẻ AC5

1703. Lúa tẻ AS996

1704. Lúa tẻ AYT 77

1705. Lúa tẻ Bao thai

225

1706. Lúa tẻ Bắc thơm 7

1707. Lúa tẻ BC 15

1708. Lúa tẻ BM 9603

1709. Lúa tẻ BM 9820

1710. Lúa tẻ BM 9855

1711. Lúa tẻ BoA - 84

1712. Lúa tẻ C 10

1713. Lúa tẻ C 15

1714. Lúa tẻ C 180

1715. Lúa tẻ C 37

1716. Lúa tẻ C 70

1717. Lúa tẻ C 71

1718. Lúa tẻ cây Hòa Bình

1719. Lúa tẻ CH 133

1720. Lúa tẻ CH 2

1721. Lúa tẻ CH 3

1722. Lúa tẻ CH 5

1723. Lúa tẻ chảo

1724. Lúa tẻ CL 8

1725. Lúa tẻ CL 9

1726. Lúa tẻ CM 1

1727. Lúa tẻ CN 2

1728. Lúa tẻ CR 203

1729. Lúa tẻ CR 84-1

1730. Lúa tẻ CRÔ 1

1731. Lúa tẻ D 271

1732. Lúa tẻ dai nương

1733. Lúa tẻ DR 2

226

1734. Lúa tẻ DT 10

1735. Lúa tẻ DT 11

1736. Lúa tẻ DT 13

1737. Lúa tẻ DT 16

1738. Lúa tẻ DT 21

1739. Lúa tẻ DT 33

1740. Lúa tẻ DT 37

1741. Lúa tẻ DT 122

1742. Lúa tẻ Dự số 2

1743. Lúa tẻ Dự thơm

1744. Lúa tẻ ĐB5

1745. Lúa tẻ ĐB6

1746. Lúa tẻ ĐH 60

1747. Lúa tẻ ĐT 34

1748. Lúa tẻ ĐS1

1749. Lúa tẻ ĐV 108

1750. Lúa tẻ FRG 67

1751. Lúa tẻ hoa cà

1752. Lúa tẻ hoa khôi

1753. Lúa tẻ Hoa ưu 109

1754. Lúa tẻ Hồng Công 1

1755. Lúa tẻ Hương chiêm

1756. Lúa tẻ Hương cốm

1757. Lúa tẻ Hương thơm 1

1758. Lúa tẻ IR 38

1759. Lúa tẻ IR 50

1760. Lúa tẻ IR 64

1761. Lúa tẻ IR 66

227

1762. Lúa tẻ IR 64A

1763. Lúa tẻ IR 1548

1764. Lúa tẻ IR 1561-1-2

1765. Lúa tẻ IR 1820

1766. Lúa tẻ IR 9729

1767. Lúa tẻ IR 17494

1768. Lúa tẻ IR 19660

1769. Lúa tẻ IR 29723

1770. Lúa tẻ IR 35366

1771. Lúa tẻ IR 35546

1772. Lúa tẻ IR 44595

1773. Lúa tẻ IR 49517-23

1774. Lúa tẻ IR 50404

1775. Lúa tẻ IR 56279

1776. Lúa tẻ IR 56381

1777. Lúa tẻ IR 59606

1778. Lúa tẻ IR 62032

1779. Lúa tẻ IRR13240-39-3

1780. Lúa tẻ Jasmine 85

1781. Lúa tẻ Khâm dục

1782. Lúa tẻ Khang dân 18

1783. Lúa tẻ Khang dân đột biến

1784. Lúa tẻ Khaodawkmali

1785. Lúa tẻ Khaodawkmali 105

1786. Lúa tẻ Kim Cương 90

1787. Lúa tẻ KSB 218-9-33

1788. Lúa tẻ KSB 54

1789. Lúa tẻ LĐ 2161

228

1790. Lúa tẻ LC 88-66

1791. Lúa tẻ LC 88-67-1

1792. Lúa tẻ LC 90-4

1793. Lúa tẻ LC 90-5

1794. Lúa tẻ LC 93-1

1795. Lúa tẻ Lưỡng Quảng 164

1796. Lúa tẻ M6

1797. Lúa tẻ M90

1798. Lúa tẻ MĐ1

1799. Lúa tẻ mèo Mộc Châu

1800. Lúa tẻ Mộc Hương

1801. Lúa tẻ Mộc tuyền

1802. Lúa tẻ ML 202

1803. Lúa tẻ ML 49

1804. Lúa tẻ ML 4

1805. Lúa tẻ MT 131

1806. Lúa tẻ MT 163

1807. Lúa tẻ MT 6

1808. Lúa tẻ MTL 110

1809. Lúa tẻ MTL 119

1810. Lúa tẻ MTL 141

1811. Lúa tẻ MTL 15

1812. Lúa tẻ MTL 233

1813. Lúa tẻ MTL 250

1814. Lúa tẻ MTL 98

1815. Lúa tẻ MTL 99

1816. Lúa tẻ N 13

1817. Lúa tẻ N 28

229

1818. Lúa tẻ N 29

1819. Lúa tẻ Nam Định 1

1820. Lúa tẻ Nam Định 5

1821. Lúa tẻ Nàng hoa 9

1822. Lúa tẻ Nàng hương số 2

1823. Lúa tẻ Nàng thơm chợ đào

1824. Lúa tẻ Nàng Xuân

1825. Lúa tẻ NN 4B

1826. Lúa tẻ NN 5B

1827. Lúa tẻ NN 75-1 (184)

1828. Lúa tẻ NN 9A

1829. Lúa tẻ NR 11

1830. Lúa tẻ nương

1831. Lúa tẻ NX30

1832. Lúa tẻ OM 576

1833. Lúa tẻ OM 1348-9

1834. Lúa tẻ OM 1490

1835. Lúa tẻ OM 1576-18

1836. Lúa tẻ OM 1589-1

1837. Lúa tẻ OM 1633

1838. Lúa tẻ OM 1706

1839. Lúa tẻ OM 1723

1840. Lúa tẻ OM 2031

1841. Lúa tẻ OM 2395

1842. Lúa tẻ OM 2514-314

1843. Lúa tẻ OM 2517

1844. Lúa tẻ OM 2518

1845. Lúa tẻ OM 269-65

230

1846. Lúa tẻ OM 2717

1847. Lúa tẻ OM 2718

1848. Lúa tẻ OM 2822

1849. Lúa tẻ OM 3007-16-27

1850. Lúa tẻ OM 3536

1851. Lúa tẻ OM 4059

1852. Lúa tẻ OM 4088

1853. Lúa tẻ OM 4218

1854. Lúa tẻ OM 4498

1855. Lúa tẻ OM 4900

1856. Lúa tẻ OM 5199-1

1857. Lúa tẻ OM 5451

1858. Lúa tẻ OM 5464

1859. Lúa tẻ OM 5472

1860. Lúa tẻ OM 5629

1861. Lúa tẻ OM 57618

1862. Lúa tẻ OM 597

1863. Lúa tẻ OM 5930

1864. Lúa tẻ OM 5954

1865. Lúa tẻ OM 5981

1866. Lúa tẻ OM 6071

1867. Lúa tẻ OM 6073

1868. Lúa tẻ OM 6161 (HG 2)

1869. Lúa tẻ OM 6162

1870. Lúa tẻ OM 6377 (AG1)

1871. Lúa tẻ OM 6561-12

1872. Lúa tẻ OM 6600

1873. Lúa tẻ OM 6976

231

1874. Lúa tẻ OM 723-7

1875. Lúa tẻ OM 7347

1876. Lúa tẻ OM 80

1877. Lúa tẻ OM 86-9

1878. Lúa tẻ OM 8923

1879. Lúa tẻ OM 90-2

1880. Lúa tẻ OM 90-9

1881. Lúa tẻ OM 997-6

1882. Lúa tẻ OM 4498

1883. Lúa tẻ OMCS 2009 (OM7920)

1884. Lúa tẻ OMĐS 20

1885. Lúa tẻ OM3536

1886. Lúa tẻ OMCS 2000

1887. Lúa tẻ OMCS 94

1888. Lúa tẻ OMCS 95-5

1889. Lúa tẻ OMCS 96

1890. Lúa tẻ OMFi -1

1891. Lúa tẻ P 1

1892. Lúa tẻ P 4

1893. Lúa tẻ P 6

1894. Lúa tẻ P 376

1895. Lúa tẻ PC6

1896. Lúa tẻ Q 5

1897. Lúa tẻ Q.Nam 1

1898. Lúa tẻ QR1

1899. Lúa tẻ quế

1900. Lúa tẻ Quế 99-46

1901. Lúa tẻ RVT

232

1902. Lúa tẻ ST 3

1903. Lúa tẻ T92-1

1904. Lúa tẻ Tám số 1

1905. Lúa tẻ Tám số 5

1906. Lúa tẻ Tám thơm đột biến

1907. Lúa tẻ Tám xoan Thái Bình

1908. Lúa tẻ TBR-1

1909. Lúa tẻ TBR 36

1910. Lúa tẻ TBR 45 (NC3)

1911. Lúa tẻ tép

1912. Lúa tẻ tép 1

1913. Lúa tẻ tép 2

1914. Lúa tẻ tép 4

1915. Lúa tẻ tép 6

1916. Lúa tẻ tép 62

1917. Lúa tẻ tép dong

1918. Lúa tẻ tép Hải Dương

1919. Lúa tẻ tép Hải Phòng

1920. Lúa tẻ tép hành

1921. Lúa tẻ tép lai

1922. Lúa tẻ tép lai 60

1923. Lúa tẻ tép lai Hải Phòng

1924. Lúa tẻ tép Nghệ An

1925. Lúa tẻ tép Thái Bình

1926. Lúa tẻ tép trắng

1927. Lúa tẻ tép trắng Thái Nguyên

1928. Lúa tẻ TH 5

1929. Lúa tẻ TH 205

233

1930. Lúa tẻ TH 6

1931. Lúa tẻ TH 85

1932. Lúa tẻ đỏ

1933. Lúa tẻ nương Mộc Châu

1934. Lúa tẻ TN 108 (NN10)

1935. Lúa tẻ TNĐB - 100

1936. Lúa tẻ Trắc 64-5

1937. Lúa tẻ Trắng tép

1938. Lúa tẻ U 14

1939. Lúa tẻ U 17

1940. Lúa tẻ U20

1941. Lúa tẻ V 14

1942. Lúa tẻ V 15

1943. Lúa tẻ V 18

1944. Lúa tẻ Vật tư NA1

1945. Lúa tẻ Vật tư NA2

1946. Lúa tẻ Việt Đài 20

1947. Lúa tẻ Việt Hương Chiếm

1948. Lúa tẻ VN 10 (NN75-3)

1949. Lúa tẻ VN 86

1950. Lúa tẻ VND 95-19

1951. Lúa tẻ VND 95-20

1952. Lúa tẻ VNĐ 99-3

1953. Lúa tẻ VNN 97-6

1954. Lúa tẻ VS1

1955. Lúa tẻ Vũ Di 3 (VD3)

1956. Lúa tẻ VX 83

1957. Lúa tẻ X 19

234

1958. Lúa tẻ X 20

1959. Lúa tẻ X 21

1960. Lúa tẻ Xi 12

1961. Lúa tẻ Xi 23

1962. Lúa tẻ XT 27

1963. Lúa tẻ Xuân Mai

1964. Lúa tẻ Xuân số 2

1965. Lúa tẻ Xuân số 5

1966. Lúa thuần Bắc Thịnh

1967. Lúa thuần Bắc thơm 9

1968. Lúa thuần DT39 Quế Lâm

1969. Lúa thuần DT45

1970. Lúa thuần Đài thơm 8

1971. Lúa thuần ĐD2

1972. Lúa thuần ĐT37

1973. Lúa thuần Gia Lộc 105

1974. Lúa thuần HN6

1975. Lúa thuần Hồng Đức 9

1976. Lúa thuần Hương Biển 3

1977. Lúa thuần Hương cốm 4

1978. Lúa thuần HT18

1979. Lúa thuần KR1

1980. Lúa thuần LH12

1981. Lúa thuần Lộc trời 1

1982. Lúa thuần M1-NĐ

1983. Lúa thuần MĐ1

1984. Lúa thuần MT10

1985. Lúa thuần N25

235

1986. Lúa thuần N91

1987. Lúa thuần Nếp thơm Hưng Yên

1988. Lúa thuần OM5953

1989. Lúa thuần OM8017

1990. Lúa thuần P9

1991. Lúa thuần P376

1992. Lúa thuần PĐ211

1993. Lúa thuần RVT

1994. Lúa thuần Sơn Lâm 1

1995. Lúa thuần Sơn Lâm 2

1996. Lúa thuần SV181

1997. Lúa thuần TBJ3

1998. Lúa thuần TBR225

1999. Lúa thuần Thiên ưu 8

2000. Lúa thuần thuần Việt 1

2001. Lúa thuần VN121

2002. Lúa thuần VRT

2003. Lúa tiền miên

2004. Lúa tiêu đôi

2005. Lúa trâu đỏ Hòa Bình

2006. Lúa trì (Quảng Nam)

2007. Lúa ven lụa Nghệ An

2008. Lúa ven lùn Thanh Hóa

2009. Lúa ven Nghệ An

2010. Lúa ven thương Nghệ An

2011. Lúa xê nương Tây Bắc

2012. Lúa xương gà đen

2013. Lúa xương gà trắng

236

2014. Lựu lùn Ấn Độ

2015. Lựu lùn đỏ Ai Cập

2016. Mãng cầu gai

2017. Mãng cầu xiêm

2018. Mắc ca 246

2019. Mắc ca 344 (Kau)

2020. Mắc ca 508

2021. Mắc ca 660 (Keaau)

2022. Mắc ca 695 (Beaumont)

2023. Mắc ca 741

2024. Mắc ca 781

2025. Mắc ca 788

2026. Mắc ca 800

2027. Mắc ca 814

2028. Mắc ca 816

2029. Mắc ca 842

2030. Mắc ca 849

2031. Mắc ca A4

2032. Mắc ca A16

2033. Mắc ca A38

2034. Mắc ca A203

2035. Mắc ca A246 (Keauhou)

2036. Mắc ca A268

2037. Mắc ca Dadow

2038. Mắc ca H2

2039. Mắc ca OC (Own choice)

2040. Mắc ca QN1

2041. Măng cụt Huế

237

2042. Măng cụt miền Tây

2043. Măng cụt Tân Quy

2044. Măng cụt Thái

2045. Măng tây xanh F1

2046. Mận đen Úc

2047. Mận hậu

2048. Mận tam hoa

2049. Mận tam hoa Bắc Hà

2050. Me

2051. Mía Co 775

2052. Mía F 156

2053. Mía F 157

2054. Mía HB1

2055. Mía K 84-200

2056. Mía K 95-156

2057. Mía KU60-3

2058. Mía lau

2059. Mía Liễu Thành 03-182

2060. Mía My 55-14

2061. Mía QĐ11

2062. Mía QĐ15

2063. Mía QĐ94-119

2064. Mía QĐg86-368

2065. Mía Quế Đường 11

2066. Mía Quế Đường 21

2067. Mía Quế Đường 24

2068. Mía R 570

2069. Mía R 579

238

2070. Mía ROC1

2071. Mía ROC2

2072. Mía ROC3

2073. Mía ROC4

2074. Mía ROC5

2075. Mía ROC6

2076. Mía ROC7

2077. Mía ROC8

2078. Mía ROC9

2079. Mía ROC10

2080. Mía ROC11

2081. Mía ROC12

2082. Mía ROC13

2083. Mía ROC14

2084. Mía ROC15

2085. Mía ROC16

2086. Mía ROC17

2087. Mía ROC18

2088. Mía ROC19

2089. Mía ROC20

2090. Mía ROC21

2091. Mía ROC22

2092. Mía ROC23

2093. Mía ROC26

2094. Mía Suphanburi 7

2095. Mía tím

2096. Mía VĐ79-177

2097. Mía Viên Lâm 6

239

2098. Mía VN 84-422

2099. Mía VN 84-1437

2100. Mía VN 85-1427

2101. Mía VN 93-159

2102. Mít cổ truyền

2103. Mít dai

2104. Mít hồng

2105. Mít không hạt

2106. Mít Malai

2107. Mít mật

2108. Mít múi đỏ

2109. Mít na

2110. Mít nghệ

2111. Mít nghệ cao sản

2112. Mít ngọc trai

2113. Mít quả dài

2114. Mít ruột đỏ

2115. Mít ta

2116. Mít Thái Changai

2117. Mít Thái da vàng

2118. Mít Thái lá bàng

2119. Mít tố nữ

2120. Mít tứ quý

2121. Mít trái dài

2122. Mít Viên Linh

2123. Mít vỏ xanh múi đỏ

2124. Mơ bồ hóng

2125. Mơ chấm son

240

2126. Mơ chua

2127. Mơ đào

2128. Mơ nứa

2129. Mơ Song Mai

2130. Mơ Vân Nam

2131. Mỡ

2132. Muỗm

2133. Na bở

2134. Na bở Đài Loan

2135. Na dai

2136. Na Đài Loan

2137. Na đỏ Úc

2138. Na Lạng Sơn

2139. Na Nữ hoàng

2140. Na Thái Lan

2141. Na tím

2142. Na vàng

2143. Nấm Linh chi

2144. Nấm mộc nhĩ chủng Au1

2145. Nấm mỡ

2146. Nấm rơm V115

2147. Nấm sò

2148. Nấm sò chủng F

2149. Nê

2150. Ngâu

2151. Ngô đông

2152. Ngô đường Golden Cob

2153. Ngô đường Golden Sweeter 93

241

2154. Ngô đường lai 20

2155. Ngô đường lai SW1011

2156. Ngô đường Sugar 75

2157. Ngô đường Sugar 77

2158. Ngô lai 2 A

2159. Ngô lai 2 B

2160. Ngô lai 8639C

2161. Ngô lai AVA3668

2162. Ngô lai B.21

2163. Ngô lai B265

2164. Ngô lai B528

2165. Ngô lai B9999

2166. Ngô lai B9034

2167. Ngô lai B9698

2168. Ngô lai Bioseed 06 (B06)

2169. Ngô lai Bioseed.9681

2170. Ngô lai Bioseed.9797

2171. Ngô lai C 919

2172. Ngô lai CP 333

2173. Ngô lai CP 501

2174. Ngô lai CP 511

2175. Ngô lai CP 555

2176. Ngô lai CP 989

2177. Ngô lai CPA88

2178. Ngô lai CP-DK 888

2179. Ngô lai CP-DK 999

2180. Ngô lai DEKALB 171

2181. Ngô lai DEKALB 5252

242

2182. Ngô lai Dekalb 414 (DK414)

2183. Ngô lai Dekalb Gold (DK Gold)

2184. Ngô lai DK 6919

2185. Ngô lai DK 8868

2186. Ngô lai DK 9901

2187. Ngô lai DK 9955

2188. Ngô lai G 5449

2189. Ngô lai GS 9989

2190. Ngô lai HK4

2191. Ngô lai HQ 2000

2192. Ngô lai LCH9

2193. Ngô lai LNS 222

2194. Ngô lai LVN 4

2195. Ngô lai LVN 5

2196. Ngô lai LVN 9

2197. Ngô lai LVN 10

2198. Ngô lai LVN 14

2199. Ngô lai LVN 17

2200. Ngô lai LVN 20

2201. Ngô lai LVN 22

2202. Ngô lai LVN 23

2203. Ngô lai LVN 25

2204. Ngô lai LVN 45

2205. Ngô lai LVN 61

2206. Ngô lai LVN 66

2207. Ngô lai LVN 98

2208. Ngô lai LVN 99

2209. Ngô lai LVN 145

243

2210. Ngô lai LVN 146

2211. Ngô lai LVN 152

2212. Ngô lai LVN 885

2213. Ngô lai MN-1

2214. Ngô lai NK 54

2215. Ngô lai NK 66

2216. Ngô lai NK 67

2217. Ngô lai NK 72

2218. Ngô lai NK 4300

2219. Ngô lai NK 6101

2220. Ngô lai NK 6639

2221. Ngô lai NK 7328

2222. Ngô lai MNH 1242

2223. Ngô lai P 3011

2224. Ngô lai P 3012

2225. Ngô lai P2P

2226. Ngô lai PAC558

2227. Ngô lai PAC669

2228. Ngô lai Pacific 11

2229. Ngô lai Pacific 60

2230. Ngô lai Pacific 848

2231. Ngô lai Pacific 963 (PAC 963)

2232. Ngô lai Pioneer Brand 30B80

2233. Ngô lai Pioneer brand 30D55

2234. Ngô lai Pioneer Brand 30N34

2235. Ngô lai Pioneer brand 30T60

2236. Ngô lai Pioneer brand 30Y87

2237. Ngô lai Pioneer brand P4181

244

2238. Ngô lai Pioneer brand P4296

2239. Ngô lai Pioneer brand P4311

2240. Ngô lai PSC-102

2241. Ngô lai PSC-747

2242. Ngô lai SB009

2243. Ngô lai SK100

2244. Ngô lai số 2

2245. Ngô lai số 6

2246. Ngô lai SSC 131

2247. Ngô lai SSC 557

2248. Ngô lai SSC 586

2249. Ngô lai SSC 2095

2250. Ngô lai SSC 7830

2251. Ngô lai T 6

2252. Ngô lai Thịnh ngô số 10

2253. Ngô lai TF222

2254. Ngô lai V 98-1

2255. Ngô lai V-118

2256. Ngô lai V-2002

2257. Ngô lai VN 25 - 99

2258. Ngô lai VN 5885

2259. Ngô lai VN 8960

2260. Ngô nếp Bạch ngọc

2261. Ngô nếp King 80

2262. Ngô nếp lai Bạch Long

2263. Ngô nếp lai CX247

2264. Ngô nếp lai Fancy 111

2265. Ngô nếp lai Fancy 172

245

2266. Ngô nếp lai HN 68

2267. Ngô nếp lai HN 88

2268. Ngô nếp lai HN 90

2269. Ngô nếp lai tím ngọt 099

2270. Ngô nếp lai Max one

2271. Ngô nếp lai Pioneer brand P3110 WE

2272. Ngô nếp lai SD 268

2273. Ngô nếp lai số 9

2274. Ngô nếp lai tím dẻo

2275. Ngô nếp lai Victory 924

2276. Ngô nếp lai Wax 50

2277. Ngô nếp Milky 36

2278. Ngô nếp MX2

2279. Ngô nếp MX4

2280. Ngô nếp MX6

2281. Ngô nếp MX10

2282. Ngô nếp nù

2283. Ngô nếp nù N-1

2284. Ngô nếp S2

2285. Ngô nếp VN2

2286. Ngô nếp VN6

2287. Ngô nếp WAX 44

2288. Ngô nếp Wax 48

2289. Ngô rau TSB 3

2290. Ngô răng ngựa

2291. Ngô tẻ răng ngựa

2292. Ngô thuần

2293. Ngô TPTD CV 1

246

2294. Ngô TPTD DT 6

2295. Ngô TPTD HLS

2296. Ngô TPTD HSB 1

2297. Ngô TPTD MSB 26-49

2298. Ngô TPTD MSB 49

2299. Ngô TPTD Q 2

2300. Ngô TPTD VN1

2301. Nhài

2302. Nhãn BT9NTLBa

2303. Nhãn BT20NXCV

2304. Nhãn chín muộn HTM-2

2305. Nhãn cùi

2306. Nhãn da bò

2307. Nhãn đường phèn

2308. Nhãn hạt lép

2309. Nhãn Hương Chi

2310. Nhãn HTM -1

2311. Nhãn không hạt

2312. Nhãn lồng

2313. Nhãn lồng Hưng Yên

2314. Nhãn miền thiết

2315. Nhãn muộn

2316. Nhãn muộn Hà Tây

2317. Nhãn muộn Hưng Yên

2318. Nhãn muộn Miền Thiết

2319. Nhãn nước

2320. Nhãn siêu ngọt

2321. Nhãn sớm Hưng Yên

247

2322. Nhãn super

2323. Nhãn T6 Hà Tây

2324. Nhãn tiêu da bò

2325. Nhãn tiêu da bò lá bầu

2326. Nhãn tiêu đường

2327. Nhãn tiêu Huế

2328. Nhãn tiêu lá bầu

2329. Nhãn tiêu lá bầu BT9NTLBa

2330. Nhãn tím

2331. Nhãn vỏ xanh u hồng

2332. Nhãn xuồng

2333. Nhãn xuồng cơm vàng

2334. Nhãn xuồng cơm vàng VT20NXCV

2335. Nho cầu vồng rực rỡ

2336. Nho Châu Á hồng

2337. Nho chuỗi ngọc tím

2338. Nho đen

2339. Nho đen không hạt

2340. Nho đen móng tay

2341. Nho đen trái dài Úc

2342. Nho đỏ Ninh Thuận

2343. Nho đỏ ngón tay

2344. Nho Muscat - Moscuto

2345. Nho Mỹ

2346. Nho mỹ nhân chỉ

2347. Nho móng tay mỹ nữ

2348. Nho Nam Phi

2349. Nho ngọc bích xanh

248

2350. Nho ngón tay

2351. Nho ngón tay mỹ nữ

2352. Nho ngón tay phù thủy

2353. Nho Ninh Thuận

2354. Nho Peru

2355. Nho Pháp

2356. Nho Ruby Roman

2357. Nho sữa

2358. Nho thân gỗ

2359. Nho Úc

2360. Nho vàng

2361. Nho vàng Ninh Thuận

2362. Nho vỏ đỏ

2363. Nho vỏ xanh

2364. Nho xanh

2365. Nho Muscat - Moscuto

2366. Nhót Mỹ

2367. Nhót ngọt

2368. Nưa ba lá

2369. Nưa Bắc bộ

2370. Nưa Cửu Long

2371. Nưa gián đoạn

2372. Nưa khổng lồ

2373. Nưa Thái

2374. Óc chó

2375. Ô lưu

2376. Ổi Cẩm Thạch

2377. Ổi dứa

249

2378. Ổi Đài Loan

2379. Ổi đào

2380. Ổi Đông Dư

2381. Ổi găng

2382. Ổi không hạt

2383. Ổi lê Đài Loan

2384. Ổi mỡ

2385. Ổi nữ hoàng

2386. Ổi nữ hoàng Thái

2387. Ổi ruột đỏ Bến Cát

2388. Ổi ruột đỏ không hạt

2389. Ổi tím

2390. Ổi tím Malaysia

2391. Ổi trâu

2392. Phật thủ

2393. Quất hồng bì

2394. Quất ngọt

2395. Quế

2396. Quýt chum

2397. Quýt chum Bắc Giang

2398. Quýt chum Bắc Quang

2399. Quýt chum Hà Giang

2400. Quýt da xanh

2401. Quýt da xanh Cái Bè

2402. Quýt da xanh Long Trị

2403. Quýt đất cát

2404. Quýt đỏ Bắc Giang

2405. Quýt đỏ Bắc Quang

250

2406. Quýt đường

2407. Quýt đường Canh

2408. Quýt đường Thái Lan

2409. Quýt Hà Giang

2410. Quýt Hóa Châu

2411. Quýt hôi

2412. Quýt hồng Bắc Kạn

2413. Quýt hương

2414. Quýt Hương Cần

2415. Quýt ngọt

2416. Quýt PQ1

2417. Quýt Sài Gòn

2418. Quýt sen

2419. Quýt sen Hà Giang

2420. Quýt ta

2421. Quýt Tangelo Orlando

2422. Quýt Tiều QT 12

2423. Quýt vàng Bắc Giang

2424. Quýt vàng Bắc Sơn

2425. Quýt Văn Đán

2426. Quýt vỏ giòn Hà Giang

2427. Quýt vỏ xanh

2428. Roi Thái đỏ

2429. Sa bô chê

2430. Sa kê

2431. Sả

2432. Sắn dây

2433. Sắn dù

251

2434. Sắn KM 60

2435. Sắn KM 94

2436. Sắn KM 98-7

2437. Sắn KM 140

2438. Sắn lùn

2439. Sắn NA1

2440. Sắn nếp

2441. Sắn SA06

2442. Sắn SA21-12

2443. Sắn KS 4

2444. Sầu riêng Cái Mơn

2445. Sầu riêng chuồng bò

2446. Sầu riêng cơm vàng hạt lép

2447. Sầu riêng cơm vàng sữa hạt lép Chín Hoá

2448. Sầu riêng DONA

2449. Sầu riêng EAKV - 01

2450. Sầu riêng khổ qua

2451. Sầu riêng Mon thong Thái Lan

2452. Sầu riêng Musaking

2453. Sầu riêng Ri 6

2454. Sầu riêng ruột đỏ

2455. Sầu riêng S1BL

2456. Sầu riêng S2BL

2457. Sầu riêng S2TL

2458. Sầu riêng S11ĐL

2459. Sầu riêng SDN 01 L

2460. Sấu

2461. Sen

252

2462. Sói

2463. Sơ ri chua

2464. Sơ ri ngọt

2465. Sơ ri Thái

2466. Sở

2467. Sơn

2468. Sơn trà

2469. Sung Mỹ (sung ngọt)

2470. Tam giác mạch (mạch ba góc)

2471. Táo bở

2472. Táo chua Gia Lộc

2473. Táo D28

2474. Táo dai

2475. Táo Đài Loan

2476. Táo đại

2477. Táo đào vàng

2478. Táo đỏ

2479. Táo đỏ lùn

2480. Táo đỏ Mỹ

2481. Táo lai lê

2482. Táo lùn Mỹ

2483. Táo má hồng

2484. Táo mèo

2485. Táo ngọt H12

2486. Táo siêu quả

2487. Táo ta Gia Lộc

2488. Táo Tàu

2489. Táo tây ruột đỏ

253

2490. Táo Thái Lan quả dài

2491. Táo Thái Lan quả tròn

2492. Táo Thiện Phiến chua

2493. Táo Thiện Phiến ngọt

2494. Táo tím

2495. Táo Úc

2496. Táo vàng

2497. Táo xuân 21

2498. Thanh long Đ-ĐL

2499. Thanh long Đ-TQ

2500. Thanh Long Long Định 1

2501. Thanh long ruột đỏ

2502. Thanh long ruột đỏ Đài Loan

2503. Thanh long ruột đỏ LĐ1

2504. Thanh long ruột đỏ TL4

2505. Thanh long ruột đỏ TL5

2506. Thanh long ruột hồng

2507. Thanh long ruột tím hồng LĐ5

2508. Thanh long ruột trắng

2509. Thanh long ruột vàng

2510. Thanh long T-TQ

2511. Thanh long vỏ vàng

2512. Thảo quả đỏ

2513. Thảo quả xanh

2514. Thầu dầu

2515. Thị

2516. Thông ba lá

2517. Thông Caribe

254

2518. Thông Đà Lạt

2519. Thông mã vĩ

2520. Thông năm lá

2521. Thốt nốt

2522. Thuốc lá A7

2523. Thuốc lá BS2

2524. Thuốc lá C7-1

2525. Thuốc lá C9-1

2526. Thuốc lá CSC07

2527. Thuốc lá GL2

2528. Thuốc lá K149

2529. Thuốc lá K326

2530. Thuốc lá Nâu Narrow Leaf Madole

2531. Thuốc lá TL16

2532. Thuốc lá VTL5H

2533. Thuốc lá VTL81

2534. Tiêu Ấn Độ

2535. Tiêu Lada

2536. Tiêu sẻ đất đỏ Bìa Rịa

2537. Tiêu sẻ Lộc Ninh

2538. Tiêu sẻ mỡ Đăk Lăk

2539. Tiêu Phú Quốc

2540. Tiêu Sri Lanka

2541. Tiêu trâu

2542. Tiêu Vĩnh Linh

2543. Trám đen

2544. Trám lá dài

2545. Trám trắng

255

2546. Trẩu

2547. Vả

2548. Vải Bình Khê

2549. Vải chín sớm Phúc Hòa

2550. Vải Hắc Diệp

2551. Vải Hùng Long

2552. Vải không hạt

2553. Vải lai Bình Khê

2554. Vải lai Yên Hưng

2555. Vải Phú Hộ

2556. Vải Thanh Hà

2557. Vải thiều Thanh Hà

2558. Vải u hồng

2559. Vải Yên Hưng

2560. Vải Yên Phú

2561. Việt quất

2562. Vối

2563. Vú sữa Bảy Núi

2564. Vú sữa bơ Đồng Tháp

2565. Vú sữa bơ hồng

2566. Vú sữa Hoàng Kim

2567. Vú sữa Lò Rèn

2568. Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim

2569. Vú sữa nâu

2570. Vú sữa ruột tím

2571. Vú sữa tím

2572. Vú sữa tím Bắc Thảo

2573. Vú sữa vàng

256

2574. Vừng ĐH-1

2575. Vừng đen

2576. Vừng trắng

2577. Vừng V6

2578. Vừng vàng

2579. Xoài ba màu

2580. Xoài bảy núi

2581. Xoài Cam Lâm

2582. Xoài canh nông

2583. Xoài cát

2584. Xoài cát C6 Hoà Lộc

2585. Xoài cát chu

2586. Xoài cát chu CD

2587. Xoài cát Hòa Lộc

2588. Xoài CT1 Hoà Lộc

2589. Xoài Đài Loan

2590. Xoài ghép (xoài bưởi)

2591. Xoài GL 1

2592. Xoài GL 2

2593. Xoài GL 6

2594. Xoài hạt lép

2595. Xoài hồng

2596. Xoài keo

2597. Xoài bảy núi

2598. Xoài núi

2599. Xoài Thái

2600. Xoài thái can

2601. Xoài Thanh ca

257

2602. Xoài tím

2603. Xoài tứ quý

2604. Xoài tượng

2605. Xoài trứng Yên Châu

2606. Xoài Úc

2607. Xoài voi

2608. Xoan

2609. Yến mạch

258