VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ MINH HẠNH
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ MINH HẠNH
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Minh Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................... 7
1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự .................................................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................................... 21
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI
TỈNH BẮC NINH .......................................................................................... 36
2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh ........... 36
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân .. 41
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ ........................................................................................................ 58
3.1. Yêu cầu nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .................................................................................... 58
3.2. Các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
HĐXX
Hội đồng xét xử
KSV Kiểm sát viên
TAND
Tòa án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bảng 2.1: Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung ............................... 37
Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Bắc Ninh ..... 39
Bảng 2.3: Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị .............................. 42
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
đã ban hành nhiều Nghị quyết để đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp. Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020” đã nêu rõ nhiệm vụ: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương
tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm”[05]. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân” [20]. Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua đội
ngũ Thẩm phán – là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then
chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung và thực hiện các mục tiêu của Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020” nói riêng.
Thẩm phán chính là những người đại diện cho Tòa án để thực hiện các chức
năng nêu trên. Họ có vị trí, vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong các vụ án hình sự,
vai trò của Thẩm phán xét xử được thể hiện rõ nét nhất. Thẩm phán với tư cách là
người đại diện cho Nhà nước, họ được pháp luật quy định quyền ban hành các quyết
định công nhận, hướng dẫn và quyết định các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Để từ đó, qua các chứng cứ chứng
minh, sự thật khách quan của vụ án được đưa ra làm rõ. Trên cơ sở tranh tụng khách
quan, Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ áp dụng pháp luật một cách đúng đắn để đưa ra
phán quyết hợp tình, hợp lý, công minh.
Từ khi các Tòa án được hình thành và phát triển đến nay, đội ngũ Thẩm phán
nước ta đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên Nghị
1
quyết 49 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “Công tác tư pháp nước ta còn bộc lộ nhiều hạn
chế. Đội ngũ Thẩm phán xét xử còn thiếu, nhất là ở các toà án cấp huyện; một số
không ít các Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu
thận trọng, tỉ mỉ thậm chí còn cẩu thả nên dẫn đến tình trạng có nhiều sai sót trong
thực tiễn xét xử...”[05]. Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2012 TAND tối cao
cũng đã khẳng định:“Một số Thẩm phán, cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công tác, chưa tích cực học tập để nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ nên nhiều vấn đề đã được quy định trong pháp luật đã được hướng
dẫn cụ thể nhưng chưa nắm được để áp dụng trong công tác xét xử”[30].
Trước tình hình trên và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới, nhất
là đang thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc
nghiên cứu địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự nói chung và trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý
luận và thực tiễn, không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về
hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói
riêng mà còn góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Thẩm phán và Tòa án
cũng như việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án. Việc xác
định đúng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự góp phần quan trọng
trong việc thực thi có hiệu của thủ tục tố tụng hình sự (TTHS).
Từ những phân tích trên, Học viên chọn Đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu đề tài về cải cách tư pháp và
vị trí, vai trò của đội ngũ Thẩm phán. Cụ thể có thể kể đến một số công trình khoa
học như:
- Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước độc lập, mã số:
92-98-353 do ông Nguyễn Văn Yểu làm Chủ nhiệm đề tài,1993;
- Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền do PGS.TSKH
2
Lê Cảm, và TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb ĐHQGHN, 2004;
- Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền của tập thể tác giả do
PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung chủ biên. Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan đến đội ngũ Thẩm phán
được công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật học và tại các hội thảo khoa học:
- Bài viết Tư duy về quyền tư pháp: thực trạng và tiếp tục đổi mới được đăng
trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội
– 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Trần Văn Độ.
- Bài viết “Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân
dân” của PGS. TS Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Viện
nghiên cứu lập pháp Ủy ban thường vụ Quốc hội số 20/2014.
- Bài viết “Tư duy về xét xử” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn
lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội của TS. Phạm Minh Tuyên.
- Bài viết “Tiếp tục đổi mới tư duy về tư pháp trong sự vận động và phát triển của
xã hội Việt Nam” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi
mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học
xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội – 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Nguyễn Tất Viễn.
Có thể nói, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận
án, các bài báo khoa học đã công bố ở Việt nam trong thời gian qua đã lý giải một
số vấn đề khá sâu sắc về chế định Thẩm phán, và đề ra một số giải pháp cho việc
tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm phán. Nhưng trong điều kiện thực tiễn hiện nay
đã phát sinh nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và cần được tổng kết rõ, do vậy
luận văn này nghiên cứu là không trùng lặp bởi lẽ: luận văn đi sâu nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao hiệu
quả, hiệu lực của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố nêu trên là những tài liệu
3
tham khảo cơ bản và là cơ sở nền tảng để tác giả nghiên cứu và thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn hướng đến là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề
lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định đó trên địa bàn thành tỉnh Bắc
Ninh để đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ được những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong tố tụng hình sự nói chung; phân tích các quy định của pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự;
- Phân tích đánh giá đúng thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh trong những năm
qua, làm rõ những ưu điểm, những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện quy định
của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
tỉnh Bắc Ninh;
- Trên cơ sở những yêu cầu của cải cách tư pháp và từ thực tiễn để đề xuất các
giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (đi sâu chủ yếu là các quy định của Bộ luật
TTHS).
Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc thực hiện các quy định của pháp
luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
4
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu tại bàn thông qua nghiên
cứu văn bản, tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê và
khảo sát thực tiễn để giải quyết những vấn đề mà Luận văn đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở lý
luận và thực tiễn về hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Do đó luận văn bao hàm những ý nghĩa sau:
* Ý nghĩa lý luận:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật TTHS về
địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận để đề xuất một số vấn đề cần quan
tâm với các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đúng với mục tiêu mà Đảng ta đã đặt ra.
* Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tế việc thực hiện quy định của
pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các
Tòa án tỉnh Bắc Ninh để đưa ra các giải pháp tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay, luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Thẩm phán tỉnh Bắc Ninh nói riêng và của ngành Tòa án nói
chung.
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
cán bộ đang làm công tác tại Tòa án, nhất là các Thẩm phán được phân công giải quyết
án hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng trong việc giảng dạy, nghiên
cứu tại các trường, các cơ sở có đào tạo chuyên ngành Luật Hình sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn chia làm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ
5
thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán
6
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
1.1.1.1. Khái niệm Thẩm phán:
Hoạt động xét xử là yêu cầu khách quan, là một trong những chức năng của
Nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm
phán ra đời khá muộn (chỉ vào cuối chế độ phong kiến, đầu chế độ tư bản mới xuất
hiện Thẩm phán) khi mà quyền lực Nhà nước được chia thành 3 quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp độc lập, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự
tách biệt của Toà án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ
chuyên làm nhiệm vụ xét xử là Thẩm phán ra đời.
Theo từ điển Luật học và điều 65 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014
định nghĩa: Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật
này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử.
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tham gia vào hoạt động xét xử. Hiện nay, quá trình TTHS Việt
Nam được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan tiến hành tố
tụng khác nhau, mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ
quan tiến hành tố tụng được xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua các chủ thể khác
nhau gọi là những người tiến hành tố tụng. TAND là một trong những cơ quan tiến
hành tố tụng có vị trí và vai trò quan trọng, là cơ quan cuối cùng kết thúc của quá
trình tố tụng. Trong TAND, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để
thực thi nhiệm vụ tố tụng của Tòa án.
Ở nước ta, từ năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND đã ghi
7
nhận Thẩm phán là một chức danh tư pháp mà trước đó về mặt pháp lý Thẩm phán
chỉ được coi là một chức vụ. Qui định này đánh dấu một bước ngoặt lớn về nhận
thức để xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt
động xét xử, nhất là xét xử các vụ án hình sự. Mặc dù chưa có văn bản pháp luật
nào của Nhà nước quy định cụ thể về khái niệm chức danh tư pháp, nhưng trên thực
tế có quan điểm cho rằng những người nào trực tiếp thực hiện quyền lực tư pháp thì
mới là chức danh tư pháp. Vì vậy có thể hiểu chức danh tư pháp bao gồm Điều tra
viên, Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm. GS. TS Võ
Khánh Vinh cho rằng chức danh tư pháp bao gồm những người thực hiện nhiệm vụ
trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ
năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng,
được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp đứng đầy đủ các tiêu chuẩn
và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [42, tr.5]. Trong các chức danh tư
pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý
nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán (hoặc cùng với Hội
thẩm) nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật
thì tất cả cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành, kể cả những cơ
quan nhà nước.
Dưới góc độ xã hội, Thẩm phán được xem như là một nghề theo sự phân công
của xã hội. Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề
nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn
cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến thức
uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho công
bằng của toàn xã hội. Tính chuyên nghiệp của Thẩm phán trong hoạt động xét xử là
một trong những đặc tính quan trọng không những thể hiện trình độ cao về nghề
nghiệp của Thẩm phán mà còn khẳng định vị thế của Thẩm phán trong bộ máy Nhà
nước và đối với xã hội. Theo đó, hoạt động xét xử của Thẩm phán có những đặc
trưng riêng:
- Thứ nhất là tính đặc thù trong áp dụng pháp luật: điều này thể hiện ở chỗ
8
Thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách
quan, thực tế, không định kiến với mục đích bảo vệ công lý. Hoạt động tranh tụng tại
phiên Toà phải đảm bảo sự bình đẳng. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự thật
khách quan của vụ án, đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với mục đích áp
dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn
trọng bằng chứng, xem xét đúng đắn các chứng cứ thực tế mà các bên tranh tụng đưa
ra trong quá trình xét xử.
- Thứ hai: hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách
quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của nhiều cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và kiến thức cần
thiết nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn trên cơ sở bằng chứng thực tế và diễn
biến tại phiên tòa. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người
Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực và nhạy bén. Để không bị cám dỗ, lung lay
về ý chí trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh về tinh thần của người Thẩm
phán đòi hỏi bản thân họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối cùng
mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân dân hướng
tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của
bản án, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn
mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng dân cư. Chính vì thế hoạt động
xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc “Toà án xét xử công
khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân” chính là sự giám sát ở bên
trong phiên toà.
- Thứ ba là hoạt động này đòi hỏi Thẩm phán phải là một con người toàn diện,
bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không
những là đặc thù nghề nghiệp của người Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà
pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể có kiến thức sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho sự công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng
và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng
được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã
9
hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó.
Người Thẩm phán phải bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí
trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình
ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý.
- Thứ tư là hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt
chẽ do pháp luật quy định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới sinh
mạng chính trị, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm
phán quyết đó thấu tình, đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng
chặt chẽ. Việc quy định như vậy tránh sự tuỳ tiện, lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án
dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Toà án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niệm Thẩm phán như
sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.
1.1.1.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng
của Viện kiểm sát (VKS) và được thực hiện bởi chức năng của Tòa án trên cơ sở
tranh tụng tại phiên tòa nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản
án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội, nếu bị cáo có tội thì hội đồng xét xử
(HĐXX) sẽ tuyên án và nêu hình phạt kèm theo các biện pháp tư pháp (nếu có) theo
quy định của pháp luật.
Xét xử là hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực hiện còn các cơ quan Nhà
nước khác, các tổ chức và cá nhân ngoài Tòa án không có chức năng này, chính vì
vậy bản án của Tòa án được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và đưa ra phán quyết một người có tội
hay không có tội, đó là tội gì, hình phạt và các biện pháp xử lý. Vì vậy có thể hiểu
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử lần đầu toàn bộ vụ án hình sự theo thẩm
quyền mà pháp luật quy định.
10
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, thì xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác
định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án do Cơ
quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra cũng như cáo trạng của Viện
kiểm sát đều được xem xét công khai tại phiên toà, những người tham gia tố tụng
được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những vấn đề mà trước khi
vụ án được đưa ra xét xử không có điều kiện thực hiện. Như vậy có thể nói xét xử
sơ thẩm được xem là trung tâm của quyền tư pháp, là giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi
hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều phải tập trung trí
tuệ để xử lý các tình huống một cách chính xác, nhanh chóng, đúng pháp, thông qua
phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Tại phiên Tòa HĐXX điều khiển phiên
tòa, thực hiện việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, còn Toà án thực hiện
chức năng xét xử, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án.
Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý
vụ án, sau đó Tòa án thực hiện các công việc chuẩn bị xét xử, khi có đủ điều kiện
thì Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ
án, thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án
cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa với mục đích cuối cùng là giải
quyết triệt để một vụ án.
1.1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Theo từ điển Luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội thì địa vị pháp lý của
chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp
luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Là sự thể hiện thành một tổng thể
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả
năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể
phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét
11
vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.
Từ những phân tích trên về khái niệm Thẩm phán và khái niệm xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, ta có thể rút ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán là tổng
thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ pháp lý của
Thẩm phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy định.
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong TTHS được thể hiện và phản ánh ở những phương diện:
- Các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTHS.
- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm
của Thẩm phán trong TTHS.
1.1.2. Cơ sở xác định địa vị của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.2.1. Phương cách tổ chức bộ máy nhà nước
Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[20]. Nội dung mới
này có ý nghĩa rất quan trọng, nó nhằm mục đích phân định quyền lực của nhà nước
theo hướng: “TAND” là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo PGS.TS Trần Văn
Độ “quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết
về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan
xét xử duy nhất của Nhà nước thực hiện quyền tư pháp”[10]. Như vậy có thể hiểu
nội dung cốt lõi của quyền tư pháp là sử dụng quyền lực để xét xử các vụ việc nhằm
mục đích duy trì công lý và trật tự xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, thực hiện
quyền tư pháp chính là thực hiện quyền tư pháp hình sự, nghĩa là thực hiện chức
năng xét xử các vụ án hình sự và ở Nhà nước Việt Nam, quyền năng này được pháp
luật quy định cho Tòa án.
Theo quy định của Luật tổ chức TAND: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…; trong thực hiện
nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự Tòa án có quyền: a) Xem xét, kết luận về tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, KSV, Luật sư trong quá
12
trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của
các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, VKS, KSV thu thập; do
Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c) Khi xét
thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài
liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự; d) Yêu cầu Điều tra viên, KSV và những người
khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình
sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; e) Ra quyết định để thực hiện các quyền
hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự” [34]. Như vậy có thể thấy rõ,
thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ đầu tiên đặt ra đối với Tòa án
đó chính là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân” và để thực hiện nhiệm vụ này, pháp luật đã quy định trao cho Tòa
án “các quyền” mà không cơ quan, tổ chức nào có được và chỉ có Tòa án mới có
được mà thôi. Thông qua việc thực hiện các quyền này, Tòa án nhân danh Nhà nước
ra bản án kết luận bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng các biện pháp theo quy
định của pháp luật.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Đảng ta đã
ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020” trong đó đã đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp
trong sạch…; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Như vậy có thể nói, Tòa án được xác định là trung tâm
trong quá trình cải cách tư pháp bởi Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, phán quyết
của Tòa thể hiện kết quả cuối cùng của quá trình tố tụng. Tòa án là nơi thể hiện sâu
sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý, cũng là công cụ bảo vệ công lý, công
bằng xã hội.
1.1.2.2. Các nguyên tắc hoạt động của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự
* Nguyên tắc suy đoán vô tội
13
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện tại Hiến pháp năm
2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”[20, Điều 31, Khoản 1, tr.20] và tại Bộ luật TTHS: “Không ai có thể bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật”[20, Điều 9, tr.12].
Theo đó, nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc này được hiểu:
bị can, bị cáo phải được coi là không có tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa
được chứng minh tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa xét xử theo một trình tự do pháp
luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đồng thời, nguyên tắc này cũng yêu cầu mọi nghi ngờ phải được giải thích theo
hướng có lợi cho bị cạn, bị cáo; nếu có sự nghi ngờ mà không thể bổ sung gì hơn về
chứng cứ thì phải tuyên bị cáo là vô tội.
Chẳng hạn một người có hành vi phạm tội nhưng người này không đương
nhiên bị coi là có tội khi thời điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Hay trong việc miễn trách nhiệm hình sự, khi quyết định miễn
trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã phải
chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội.
Như vậy, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mà người trực tiếp quyết định bản án kết tội này chính là Thẩm
phán. Từ nguyên tắc này, ta có thể thấy rõ vai trò của Thẩm phán trong TTHS nói
chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Thẩm phán là người đại diện cho Tòa
án khi thực hiện chức năng xét xử và chỉ có Tòa án, chứ không phải là một cơ quan
nào khác, mới có thẩm quyền để thực hiện chức năng xét xử, chỉ có Tòa án mới
được nhân danh Nhà nước để phán quyết những vấn đề liên quan khi thực hiện chức
năng xét xử.
* Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật
Nguyên tắc này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội
14
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [20]; và được quy định tại Điều
tuân theo pháp luật" [20].
23 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
Nội dung nguyên tắc này được hiểu là: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ
căn cứ vào các quy định của pháp luật, căn cứ vào các chứng cứ hợp pháp để xét xử
và tuyên bản án trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Bất cứ các cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào cũng không được can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và
Hội thẩm khi xét xử.
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo là có tội hay không có
tội thông qua hoạt động xét xử. Khi xét xử vụ án hình sự, HĐXX phải xem xét,
thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ
mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất ký
ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động
vào các thành viên của HĐXX để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của
mình. Mọi hành động can thiệp dưới dù bằng hình thức nào cũng bị coi là vi phạm.
Chỉ có các thành viên HĐXX cùng với kết quả điều tra tại phiên tòa mới có quyền
quyết định những vấn đề liên quan của vụ án. Từng thành viên HĐXX xét bằng khả
năng và niềm tin của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp
luật để đưa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của HĐXX được lấy theo
ý kiến đa số của thành viên. Như vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của HĐXX
có quyền độc lập suy nghĩ, đánh giá sự việc trên cơ sở pháp luật, không phụ thuộc
vào bất cứ một định kiến nào, không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác.
Từ quyết định độc lập của từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể HĐXX.
Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét
xử. Thực tế Tòa án cấp trên chỉ đạo Tòa án cấp dưới về chuyên môn, nghiệp vụ, bố
trí cấp ngân sách hoạt động hàng năm…. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc độc lập
khi xét xử, cần tách bạch rõ từng mối quan hệ trên. Sự hướng dẫn công tác xét xử
15
của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc
áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết định trước là
Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án như thế nào mà Tòa án cấp trên chỉ hướng
dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử.
Như vậy, có thể thấy, vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự là rất
quan trọng, đòi hỏi người Thẩm phán không chỉ có chuyên môn nghiệp vụ mà còn
đòi hỏi họ có một bản lĩnh vững vàng để có thể thực hiện và đảm bảo nguyên tắc
độc lập khi xét xử.
Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm bao gồm cả sự độc lập với nhau
giữa các thành viên của HĐXX trong việc xem xét kiểm tra, đánh giá chứng cứ và
quyết định những vấn đề liên quan. Các thành viên HĐXX độc lập trong việc xem
xét, đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ án tại phiên Tòa cũng
như khi nghị án, từng thành viên được độc lập đưa ra quan điểm của mình, phân
tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra quyết định của mình mà không phụ
thuộc vào các thành viên khác. Thẩm phán không có quyền áp đặt ý kiến của mình
với Hội thẩm và ngược lại Hội thẩm cũng không được áp đặt ý kiến với Thẩm phán.
Khi nghị án, Thẩm phán đưa ra từng vấn đề để Hội thẩm nhân dân thảo luận, sau đó
Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng.
Có thể thấy, thông qua nguyên tắc độc lập khi xét xử, quyền độc lập của Tòa
án được ghi nhận và thực hiện, mà trong đó Thẩm phán là người được trực tiếp độc
lập khi thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán Tòa án nhân dân với các chức danh tư
pháp khác trong xét xử các vụ án hình sự
Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa án,
cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm phán, cũng như Tòa
án, là người giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp, là người quyết định cuối
cùng nhằm kết thúc chặng cuối cùng của các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, nếu chỉ
một mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố tụng, mà việc tiến hành tố tụng của
Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với những người và cơ quan tiến hành tố
16
tụng khác. Do đó, vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự nói riêng được
thể hiện ở các mối quan hệ bên trong (mối quan hệ nội bộ của Tòa án) và mối quan
hệ bên ngoài (với các cơ quan tiến hành tố tụng khác) trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình.
* Mối quan hệ bên trong Tòa án
Mối quan hệ bên trong là các mối quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh đạo, với
các Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ khác của Toà án. Tùy theo
với từng chủ thể khác nhau, Thẩm phán có những vị trí, vai trò khác nhau.
- Quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh đạo Toà án:
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và lãnh đạo Tòa án vừa thể hiện tính chất của
mối quan hệ hành chính, vừa thể hiện tính chất của mối quan hệ tố tụng.
Lãnh đạo Tòa án bao gồm Chánh án, Phó Chánh án là những người lãnh đạo,
quản lý mọi mặt của cơ quan Toà án để đảm bảo hoạt động của Tòa án với vai trò là
một cơ quan xét xử của Nhà nước. Thẩm phán là một thành viên của cơ quan, do đó
chịu sự chi phối chung của hoạt động quản lý, điều hành của Chánh án, Phó Chánh
án. Quan hệ chi phối này thể hiện trong mối quan hệ hành chính, nghĩa là lãnh đạo
Tòa án chỉ quản lý về mặt con người, còn trong lĩnh vực xét xử Thẩm phán được
độc lập về chuyên môn trong việc áp dụng pháp luật, Chánh án và Phó Chánh án
không được can thiệp vào.
Mối quan hệ tố tụng giữa lãnh đạo và Thẩm phán chỉ thể hiện trong một số
phạm vi nhất định như: Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án
hình sự; Quyết định thay đổi Thẩm phán trước khi mở phiên tòa; Ra quyết định thi
hành án, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, quyết
định xóa án tích đối với những bản án mà Thẩm phán đã xét xử... Khi Thẩm phán
được Chánh án giao hồ sơ vụ án để giải quyết, Thẩm phán phải nghiên cứu và đề
xuất những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chánh án để Chánh án giải quyết như việc
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định chuyển vụ án nếu vụ án
không thuộc thẩm quyền giải quyết… Trong các quan hệ này, Thẩm phán buộc phải
chấp hành các quyết định của lãnh đạo Tòa án.
17
Trường hợp Thẩm phán đồng thời là Chánh án hoặc Phó Chánh án thì người
này phải thực hiện đầy đủ, rạch ròi những nhiệm vụ quyền hạn của Chánh án hay
Phó Chánh án và Thẩm phán mà pháp luật quy định. Chẳng hạn, Thẩm phán đồng
thời là Chánh án thì Quyết định đưa vụ án ra xét xử vẫn ghi người ký ban hành là
Thẩm phán, nhưng trong quyết định tạm giam thì ghi người ký là Chánh án.
- Quan hệ giữa Thẩm phán với nhau:
Mối quan hệ giữa các Thẩm phán phát sinh trong hoạt động xét xử và trong
hoạt động bình thường Tòa án. Mối quan hệ giữa các Thẩm phán Tòa án với nhau
chủ yếu là quan hệ phối hợp công tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Mối quan hệ tố tụng giữa các Thẩm phán thể hiện trong việc: Thẩm phán–
chủ tọa phiên tòa với Thẩm phán trong HĐXX-Thẩm phán dự khuyết trong một vụ
án hình sự. Mối quan hệ này chỉ phát sinh từ khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo quy định của điều 288 Bộ Luật TTHS.
- Quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân:
Hội thẩm nhân dân là những người được bầu theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án với mục đích đảm
bảo tính dân chủ. Hội thẩm nhân dân không đồng thời là cán bộ thuộc biên chế của
Tòa án, tuy nhiên, họ chịu sự phân công của Chánh án nơi được bầu khi tham gia
HĐXX. Trong quy định của Luật, Hội thẩm nhân dân cũng có trách nhiệm nghiên
cứu hồ sơ, tham gia xét xử. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm phát sinh từ
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm
là mối quan hệ độc lập, thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác
và độc lập với chính những thành viên trong HĐXX. Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, … Khi xét xử Hội thẩm
ngang quyền với Thẩm phán”, tuy nhiên trong hoạt động xét xử, Thẩm phán vẫn
giữ vai trò là trung tâm. Điều này thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử Thẩm phán
luôn giữ vai trò chủ đạo điều khiển phiên toà từ phần thủ tục đến phần tuyên án.
Trong quá trình nghị án, Hội thẩm có quyền nêu ý kiến về việc giải quyết vụ án và
biểu quyết, nếu thấy Hội thẩm có ý kiến không đúng thì Thẩm phán có quyền phân
18
tích, giải thích và tiến hành biểu quyết lại bởi trên thực tế, các Hội thẩm nhân dân
được bầu có thể không phải là những người được đào tạo chuyên về pháp luật.
- Quan hệ giữa Thẩm phán và thư ký phiên tòa:
Thư ký phiên tòa là người tiến hành tố tụng, được Chánh án phân công làm thư
ký đối với từng vụ án cụ thể.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án được điều chỉnh bằng
pháp luật tố tụng và chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án. Thư ký Tòa
án là người giúp việc cho Thẩm phán để thực hiện những công việc trong quá
trình xét xử vụ án, do đó, trong mối quan hệ này, Thẩm phán giữ vai trò chỉ đạo
nhiệm vụ cho Thư ký, giám sát, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn Thư ký thực
hiện các công việc, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ví dụ như
để chuẩn bị phiên tòa, thư ký giúp thẩm phán làm giấy triệu tập bị can, bị cáo,
thông báo cho luật sự hoặc người bào chữa… Ở phiên tòa, Thư ký kiểm tra sự có
mặt, vắng mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa; phổ biến nội quy
phiên tòa; ghi biên bản phiên tòa… Sau phiên tòa, Thư ký giúp Thẩm phán
chuyển giao bản án cho cơ quan liên quan; thông báo kháng cáo, kháng nghị,
chuyển hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị cho cấp phúc thẩm.
* Quan hệ bên ngoài Tòa án
Hoạt động xét xử của Thẩm phán không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ nội bộ
cơ quan Tòa án mà cần phải duy trì mối quan hệ với các chủ thể khác.
- Quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên:
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và KSV là mối quan hệ phối hợp nhưng theo
quy định của pháp luật thì có sự kiểm tra, chế ước lẫn nhau. Tại phiên tòa, nếu KSV
làm tốt vai trò công tố nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của
Thẩm phán, ngược lại, Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử đúng đắn sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho KSV thực hành quyền công tố Nhà nước và kiểm sát hoạt động
tư pháp. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và KSV không những là quan hệ phối hợp
mà còn là chế ước, nghĩa là có sự tác động qua lại giữa các chủ thể nhằm kiểm soát
lẫn nhau việc tuân thủ pháp luật, tránh việc lạm quyền. Tại phiên tòa, KSV nhân
19
danh Nhà nước thực hiện quyền công tố, HĐXX sẽ quyết định tội trạng và mức
hình phạt. Mọi hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo đúng yêu cầu của TTHS,
do đó, KSV tại phiên tòa ngoài chức năng truy tố còn có chức năng giám sát việc
tuân thủ của HĐXX tại phiên tòa cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có
thẩm quyền. Các chức năng này được KSV thực hiện thông qua hoạt động tố tụng
tại phiên toà và ngay cả sau khi phiên toà kết thúc, KSV vẫn còn phải tiếp tục kiểm
sát tính hợp pháp và có căn cứ của bản án mà HĐXX đã tuyên.
Như vậy, trong xét xử một vụ án hình sự, mối quan hệ giữa Thẩm phán và
KSV là mối quan hệ phối hợp nhưng không làm mất đi tính độc lập của nhau. Trong
đó, ở giai đoạn xét xử, Thẩm phán là người giữ vai trò chỉ đạo, quyết định quá trình
xét xử, là người giữ vai trò quan trọng nhất trong việc đưa ra bản án, cũng đồng thời
là người cuối cùng có thẩm quyền kết thúc một quá trình tố tụng.
- Quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác trong hoạt
động tố tụng:
Các chức danh bổ trợ tư pháp bao gồm có Người bào chữa, Người giám hộ,
Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Người giám định, Người phiên dịch, Người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.
Theo quy định của pháp luật người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng có thể là luật sư hoặc những người có
kiến thức về pháp luật được Tòa án chấp nhận làm người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo đó, hoạt động của họ không phải là
hoạt động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ tới hoạt động xét xử vụ án hình
sự. Người bào chữa giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình tố tụng, đại diện cho
bên gỡ tội đối đáp, tranh luận với KSV (bên buộc tội) tại phiên toà để làm rõ nội
dung vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các bên tham gia tố tụng có
quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh việc phạm tội của bị cáo, khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng giúp Thẩm phán làm rõ mọi tình tiết của vụ
án để đưa ra phán quyết khách quan và công minh. Trong mối quan hệ này Thẩm
20
phán là người giữ vị trí, vai trò trung tâm của hoạt động xét xử.
Trong mối quan hệ với Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp: mối quan hệ này chỉ
phát sinh ngay tại phiên tòa xét xử mà cụ thể là cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp làm
nhiệm vụ tại phiên tòa theo sự điều khiển của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa.
Trong mối quan hệ với các giám định viên: mối quan hệ này chỉ phát sinh
khi vụ án có yêu cầu việc giám định các tài liệu, chứng cứ liên quan. Các giám định
viên là người sử dụng kiến thức chuyên môn để đưa ra kết luận theo nội dung yêu
cầu. Từ những kết luận đó, HĐXX xem xét để áp dụng pháp luật cho đúng và đảm
bảo tính khách quan của bản án. Nếu công tác giám định không chính xác sẽ dẫn
đến phán quyết của Toà án không đảm báo tính đúng đắn, có thể gây ra oan, sai.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác nhau là có
sự khác nhau. Sự khác biệt này xuất phát từ vị trí tố tụng của các chức danh này. Quan
hệ giữa Thẩm phán với các chức danh trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể.
1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Quy định về vai trò của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong TTHS nói chung và trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói
riêng, Thẩm phán đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Ở nước ta, bộ máy nhà
nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp”[20]. Việc thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một
trong những chức năng rất quan trọng được giao cho TAND. Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020” phần phương hướng đã nêu rõ: “…1.2. Tổ chức các cơ quan tư pháp
và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và
điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm”[5].
21
Hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thông qua HĐXX trong đó
Thẩm phán là nhân vật trung tâm với tư cách là người đại diện cho Nhà nước thực
thi công lý. Thẩm phán là người thay mặt Nhà nước giữ vai trò quyết định trong
việc kết thúc một quá trình tố tụng, phán quyết một hay một vài người nào đó là có
tội hay không và hậu quả pháp lý kèm theo nếu họ có tội.
Khi làm chủ toạ phiên toà, Thẩm phán là người tổ chức và điều khiển phiên
toà, xét hỏi, xem xét vật chứng, ra bản án, quyết định thay mặt HĐXX tuyên bản án
nhân danh Nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò của Thẩm phán trong
việc xét xử các vụ án Hình sự thể hiện cụ thể như sau:
- Đối với thủ tục bắt đầu phiên toà, Thẩm phán với tư cách là chủ toạ phiên
toà có vai trò quan trọng, chỉ đạo và điều hành, tiến hành những thủ tục cần thiết để
các thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án có được tiến hành tiếp hay không
và nếu được tiến hành thì các thủ tục đó được diễn ra một cách thuận lợi, đúng pháp
luật, đảm bảo cho việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội và đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
- Đối với thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, vai trò của Thẩm phán được thể hiện
một cách trực tiếp nhất. Thẩm phán là người trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị thiệt
hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan..., xem xét các vật chứng, đọc biên
bản, công bố lời khai, công bố tài liệu…
- Đối với việc tranh tụng diễn ra tại phiên toà thì vai trò của Thẩm phán được
thể hiện một cách rõ nét đầy đủ nhất. Bởi vì thông qua diễn biến tranh tụng, Thẩm
phán đánh giá được đúng nội dung thực chất của vụ án, các chứng cứ, các quan
điểm lập luận của mỗi bên, trên cơ sở đó căn cứ vào quy định của pháp luật, Thẩm
phán ra các quyết định đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thông qua vai trò xét xử các vụ án hình sự, Thẩm phán đã góp phần to lớn
vào việc trừng trị kịp thời những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ quyền con người và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Thẩm phán
còn là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc cho công dân, tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực
đấu tranh phòng chống tội phạm.
22
Đồng thời, bằng việc xét xử tại phiên toà, Thẩm phán còn góp phần vào việc
phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật đối với người phạm tội và đối với cộng
đồng xã hội. Bên cạnh đó bằng công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử,
bằng kinh nghiệm tích luỹ trong mỗi vụ án cụ thể, Thẩm phán có thể rút ra những
kinh nghiệm quý báu trong việc kiến nghị, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
1.2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Pháp luật TTHS Việt Nam đã quy định, Thẩm phán là người giữ vị trí trung
tâm và có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, là người bảo vệ
sự công bằng, công lý và dân chủ thông qua hoạt động xét xử. Khoản 1 Điều 45 Bộ
luật TTHS năm 2015 đã quy định, khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình
sự, Thẩm phán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa: Đây là một khâu rất quan
trọng trong quá trình xét xử. Để nắm được nội dung của vụ án trước khi quyết định
đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ, thông qua hoạt động này
Thẩm phán sẽ xác định đúng thẩm quyền giải quyết, từ đó có hướng giải quyết vụ
án đúng đắn và chính xác.
+ Tiến hành xét xử vụ án: Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và nắm bắt được
toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án
hình sự sẽ trực tiếp tham gia xét xử tại phiên tòa sơ thẩm và tiến hành thực hiện
đúng các chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật TTHS.
+ Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của HĐXX: Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Thẩm phán. Tại phiên tòa, Thẩm phán tiến hành các hoạt động tố tụng
từ khi bắt đầu phiên tòa cho tới khi nghị án và tuyên án. Trong quá trình nghị án,
Thẩm phán có quyền đưa ra ý kiến và biểu quyết những vấn đề liên quan đến nội
dung vụ án nhằm góp phần giải quyết vụ án được toàn diện, khách quan và đúng
pháp luật.
+ Tiến hành hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự
23
phân công của Chánh án Tòa án.
Tại khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và những
nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
d) Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa;
đ) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại,
thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định
giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;
e) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát
người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
g) Qyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo sự phân công của Chánh án Tòa án theo quy định của Bộ luật này”[21].
Như vậy, Thẩm phán với tư cách thực hiện chức năng xét xử, thay mặt HĐXX
tuyên án nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, quyết định một người có tội
hay vô tội, quyết định tội danh và mức hình phạt cụ thể đối với người có tội. Để thẩm
phán có thể thực hiện chức năng này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán ở mỗi trình tự xét xử vụ án hình sự:
1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Chuẩn bị xét xử là một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bao
gồm nhiều hoạt động tố tụng khác nhau nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm
bảo cho việc xét xử tại phiên tòa diễn ra thuận lợi, đúng quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán phải chuẩn bị và
làm những thủ tục cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật
24
hình sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa nhận được hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 277 Bộ luật
TTHS 2015. Chủ thể chính của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 45 Bộ luật TTHS năm 2015 thì “Thẩm phán
được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa...”[21].
Khoản 2, điều 278 Bộ luật TTHS quy định “...Trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
giải quyết vụ án”[21].
* Khi Thẩm phán được phân công là chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Để
đảm bảo cho việc xét xử đúng thẩm quyền, tránh sai sót, Thẩm phán cần phải
nghiên cứu hồ sơ vụ án trong đó có những vấn đề cần đặc biệt lưu ý như: xác định
thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định các thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố có
đảm bảo đúng Luật? tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có đầy đủ để làm rõ những
vấn đề phải chứng minh trong vụ án? trong bản cáo trạng có viện dẫn pháp luật và
định tội danh rõ ràng chưa?... Việc nghiên cứu hồ sơ sẽ giúp Thẩm phán xác định
được rõ vụ án đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử chưa? có cần trả hồ sơ điều tra bổ
sung không; có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không?... Trường hợp vụ án
đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử, Thẩm phán căn cứ vào hồ sơ để dự thảo kế hoạch xét
hỏi, bản án và làm các công tác chuẩn bị khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
* Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy
định của Bộ luật TTHS.
Tại khoản 1, Điều 278 Bộ luật TTHS quy định: "Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm
phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam
do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”[21]. Điều này có nghĩa Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
25
biện pháp ngăn chặn "đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo", "cấm đi khỏi nơi
cư trú" hoặc "bảo lĩnh" chứ không có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp "tạm giam".
* Đối với quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật
TTHS năm 2015 quy định:
“Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ
sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a. Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề cần quy
định tại điều 85 của Bộ Luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b. Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện
hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm;
c. Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện
hành vi liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
d. Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”[21].
Như vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định trả hồ sơ cho
VKS để điều tra bổ sung khi xảy ra một trong các trường hợp trên.
* Quyết định tạm đình chỉ vụ án: Theo quy định tại điểm b,c khoản 1 Điều
229, Điều 281 Bộ luật TTHS năm 2015, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ
án khi có căn cứ bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận
của Hội đồng giám định pháp y; chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị
can đang ở đâu.
* Quyết định đình chỉ vụ án: Theo Điều 282 Bộ luật TTHS năm 2015 thì khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định
đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây: người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội
phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; VKS rút toàn bộ quyết định truy tố
26
trước khi mở phiên tòa.
* Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử khi nghiên cứu hồ sơ vụ án mà thấy vụ án có đủ chứng cứ mà không có các căn
cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Trường hợp VKS
đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ, nếu thấy không cần thiết
phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần thứ hai, hoặc trường hợp VKS không bổ sung được
những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán
cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Thẩm phán quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa.
Để vụ án được đưa ra xét xử đúng quy định của Bộ luật TTHS, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa ngoài việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và ra các quyết
định trước khi mở phiên tòa, thì còn phải chuẩn bị các công tác khác như dự kiến
các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa; triệu tập những người đến tham dự phiên
tòa; chuẩn bị đề cương điều khiển phiên tòa (bản đề cương, ghi trình tự các việc cần
phải làm từ khi khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà Trong quá trình xét
xử, phần nào đã giải quyết thì đánh dấu lại để không bị sót cũng như không bị lặp
lại); lập kế hoạch xét hỏi (việc lập kế hoạch xét hỏi bao gồm việc xác định trình tự
xét hỏi, dự kiến các câu hỏi và thời gian xét hỏi cho mỗi đối tượng, dự kiến các tình
huống có thể xảy ra trong quá trình xét hỏi. Việc chứng minh bị cáo có tội hay không
có tội, chỉ được thể hiện trong bản án khi tuyên án); dự thảo án văn và các quyết định
khác; mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử...
Như vậy có thể khẳng định: hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
sẽ giúp cho Thẩm phán có được đường lối giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan,
công minh. Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình là tiền đề để Thẩm phán
thực hiện tốt chức năng xét xử tại phiên tòa, góp phần vào việc đưa ra một bản án
“thấu tình, đạt lý” nhưng vẫn đảm bảo được sự công bằng, chất lượng, hiệu quả của
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm
Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được xác định là một khâu đặc
27
biệt quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật TTHS quy định nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm
phán trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án hình sự là:
- Tiến hành xét xử vụ án;
- Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của HĐXX;
Theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật TTHS thì: “HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán
và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ
thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ
luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì
HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”[21].
Theo quy định của Bộ luật TTHS, để đảm bảo hoạt động xét xử được khách
quan, Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp:
- Thẩm phán đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người
thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo.
- Thẩm phán đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch trong vụ án;
- Có căn cứ khác để có thể cho rằng Thẩm phán không vô tư trong khi làm nhiện vụ;
- Thẩm phán và Hội thẩm trong HĐXX là người thân thích với nhau.
- Thẩm phán đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố
tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, KSV, Thư Ký Tòa án.
Theo quy định của Bộ Luật TTHS năm 2015 thì các thành viên của HĐXX
phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc (khoản 1 điều 288) nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói, liên tục. Tuy nhiên trong
quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử được
thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết tham gia
phiên tòa từ đầu. Trường hợp HĐXX có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên HĐXX làm chủ
28
toạ phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên HĐXX; Trường
hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ toạ
phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên tòa (khoản 2,3,
điều 288 Bộ Luật TTHS năm 2015).
Theo quy định của pháp luật TTHS năm 2015, thì tại phiên toà sơ thẩm vụ án
hình sự, Thẩm phán Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người
điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn
đề Bộ luật TTHS quy định đối với HĐXX.
Phiên toà hình sự được tiến hành theo 3 bước với những thủ tục khác nhau: Thủ
tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (bao gồm xét hỏi và tranh luận),
nghị án và tuyên án.
* Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 300 đến Điều 305 Bộ luật
TTHS, Thẩm phán Chủ tọa phiên toà phải tiến hành các hoạt động: công bố quyết
định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập, giải
thích quyền và nghĩa vụ, giới thiệu những người tiến hành tố tụng, giải quyết yêu
cầu của những người tham gia tố tụng... Thủ tục này vừa là nhiệm vụ, quyền hạn,
đồng thời thể hiện vai trò của người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật TTHS: chỉ giải
thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, không bình luận, đánh giá
hành vi phạm tội, không giải thích các tình tiết là yếu tố định tội, yếu tố định khung
hình phạt, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
* Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa:
Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được quy định từ Điều 306 đến Điều 325 Bộ
luật TTHS bao gồm thủ tục xét hỏi và tranh luận.
- Theo quy định của Bộ luật TTHS thì việc xét hỏi tại phiên toà tập trung chủ
yếu cho HĐXX và thể hiện như một nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc. Điều này
biểu hiện cụ thể trong quy định tại Điều 307 “HĐXX phải xác định đầy đủ những tình
29
tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người, Chủ tọa phiên tòa điều hành
việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.…”; “HĐXX phải hỏi
riêng từng bị cáo” (Điều 309); “HĐXX phải hỏi riêng từng người làm chứng và
không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó” (Điều
311). Về hoạt động xét hỏi của KSV quy định tại Điều 307 “Khi xét hỏi từng người,
chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến KSV”; Điều 309 “KSV
hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và
những tình tiết khác của vụ án”; Điều 311 “KSV, người bào chữa người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm
chứng”[21]. Theo quy định trên thì việc xét hỏi làm rõ các tình tiết của vụ án là trách
nhiệm bắt buộc của HĐXX, còn KSV khi thấy cần phải chứng minh, làm rõ thêm cho
những quan điểm trong cáo trạng “có thể” tiếp tục xét hỏi tại phiên tòa.
Theo quy định của Bộ luật TTHS, phần xét hỏi được bắt đầu bằng việc Chủ
tọa phiên tòa đề nghị KSV đọc bản cáo trạng. Để việc xét hỏi diễn ra khách quan,
công minh, hiệu quả thì HĐXX và đặc biệt là Thẩm phán phải xác định đầy đủ các
tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án để sắp xếp trình tự xét hỏi sao cho
hợp lý (Điều 307 Bộ luật TTHS). Mặc dù Bộ luật TTHS không quy định rõ việc hỏi
ai trước nhưng trên thực tế, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và là nhân vật
trung tâm của phiên tòa nên việc xét hỏi thông thường được bắt đầu từ bị cáo.
Trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, để đạt kết quả tốt, chủ tọa phiên tòa với vai trò
là người điều hành cần nắm chắc các quy định của Bộ luật TTHS, đọc kỹ hồ sơ vụ án, dự
kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và dự kiến phương án giải quyết.
Trong quá trình xét hỏi khi thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy
đủ, toàn diện thì Chủ tọa phiên tòa hỏi KSV, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác xem có đề nghị hỏi thêm vấn đề gì nữa không. Trường hợp có
người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì Chủ tọa phiên tòa quyết định
tiếp tục việc xét hỏi, nhưng nếu thấy nội dung vấn đề mà người đó yêu cầu đã được
xét hỏi đầy đủ hoặc không liên quan đến vụ án thì Chủ tọa phiên tòa không chấp
nhận và giải thích cho người đó biết, sau đó Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc
30
phần xét hỏi tại phiên tòa và chuyển sang phần tranh luận.
- Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong việc điều khiển tranh
luận tại phiên tòa:
Tranh luận tại phiên tòa được quy định từ Điều 319 đến 325 Bộ luật TTHS.
Trong phần này Kiểm sát viên, Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) sẽ đưa ra các
lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. HĐXX và Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa không tham gia vào việc đối đáp mà mà chỉ đóng vai trò giống như một
người trọng tài, điều khiển việc tranh luận giữa Kiểm sát viên, Luật sư (hoặc bị cáo,
người bào chữa). Việc tranh luận tại phiên tòa không bị hạn chế thời gian nhằm tạo
điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, tuy nhiên Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa có quyền cắt bỏ những ý kiến không liên quan đến vụ án,
đồng thời có quyền đề nghị KSV phải đối đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ
án của Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) khi những ý kiến đó chưa được KSV
tranh luận. Việc điều khiển tranh luận của Chủ tọa phiên tòa phải đảm bảo bảo công
bằng, bình đẳng giữa các bên tham gia tranh luận. Nếu trong phần tranh luận thấy
có những vấn đề chưa rõ, HĐXX có thể quay lại phần xét hỏi. Trường hợp những
người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết
thúc tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong nghị án và tuyên án:
Nghị án và tuyên án được quy định từ Điều 326 đến điều 329 Bộ luật TTHS.
Sau khi kết thúc phần tranh luận HĐXX bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
vào phòng nghị án.
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa là người chủ trì phần nghị án. Để việc nghị án
đầy đủ, chính xác, không bỏ sót các vấn đề cần giải quyết, Chủ tọa phiên tòa cần
chuẩn bị trước dự thảo án văn. Khi nghị án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nêu lần lượt
từng vấn đề như tội danh của bị cáo, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị cáo, những vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, xử lý vật
chứng, yêu cầu cơ quan tổ chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa... để HĐXX thảo
31
luận và quyết định bằng biểu quyết.
Mặc dù Bộ luật TTHS không quy định, nhưng theo thực tiễn thì Chủ tọa
phiên tòa lập biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Khi
biểu quyết, các thành viên trong HĐXX biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu
quyết sau cùng.
Trước khi tuyên án, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người trong
phòng xử án phải đứng nghe Tòa tuyên án. Thẩm phán Chủ toạ tuyên án bằng cách
đọc nguyên văn bản án. Trong một số trường hợp xử kín, việc tuyên án chỉ bằng cách
đọc nguyên văn phần quyết định của bản án.
Trước khi tuyên bố kết thúc phiên tòa, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa phải
giải thích quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng biết. Đồng thời giải thích về việc chấp hành bản án như giải
thích về chế định án treo và nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong thời gian
thử thách; giải thích về việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ...
Tóm lại, trong bất cứ phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự nào cũng cần có
Thẩm phán: Thẩm phán chuẩn bị cho phiên tòa xét xử, điều hành phiên toà và là
thành viên trong HĐXX để quyết định một người có tội hay không có tội. Thẩm
phán đóng vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đên chất lượng và hiệu quả của
hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án diễn ra theo
đúng quy định của pháp luật.
Hiện nay, Bộ luật TTHS của nước ta đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về
địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đó là
căn cứ quan trọng để Thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Thẩm
phán với tư cách là đại diện cho nền công lý của quốc gia, mỗi Thẩm phán cần phải
có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình trong quá xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự để đảm bảo cho các phán quyết của HĐXX được công minh,
đúng pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, uy tín của cơ quan tư pháp nói
chung và của Toà án nói riêng.
32
1.2.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán sau phiên toà sơ thẩm
Sau phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán rà soát lại bản án, nếu có lỗi về chính tả
thì số liệu bị nhầm lẫn hoặc do tính toán sai (ví dụ như tính toán việc đền bù thiệt
hại về dân sự) thì chỉnh sửa nhưng không được làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất
lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Đồng thời việc sửa chữa, bổ
sung bản án được thể hiện bằng văn bản và giao ngay cho bị cáo, bị hại, VKS cùng
cấp, người bào chữa.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Thẩm phán phải giao bản án
cho bị cáo, bị hại, VKS cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho bị cáo bị xét xử
vắng mặt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật TTHS, VKS cấp trên
trực tiếp, Cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền,
Trại tạm giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; thông báo bằng văn bản cho
chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo
làm việc, học tập; cấp bản sao bản án hoặc trích lục bản án về những phần có liên
quan cho đương sự hoặc người đại diện của họ.
Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản
2 Điều 290 của Bộ luật TTHS thì Thẩm phán phải có trách nhiệm yêu cầu thư ký niêm
yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú cuối cùng hoặc cơ
quan, tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.
Thẩm phán giao thư ký hoặc cán bộ văn phòng gửi bản án cho cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án sơ thẩm có tuyên hình phạt
tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
1.2.3. Trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của điều 76 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thì trách
nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự bao gồm: Tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân; Độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét
xử; chấp hành quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của
Tòa án; Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật; Học
33
tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ
Tòa án; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của luật.
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự, nếu có các vi phạm pháp luật nghiêm
trọng từ phía Thẩm phán như cố ý ra bản án, quyết định trái pháp luật, cố ý làm sai
lệch hồ sơ vụ án thì Thẩm phán có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các
Điều 370 - tội ra bản án trái pháp luật; Điều 371 - tội ra quyết định trái pháp luật;
34
Điều 375 - tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (BLHS năm 1999).
Tiểu kết Chương 1
1. Trong chương 1, tác giả luận văn đã nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý
luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. Qua đó đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán là: "Tổng thể
các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ pháp lý của Thẩm
phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy định".
2. Trên cơ sở khái niệm về địa vị pháp lý của Thẩm phán, tác giả luận văn đã
phân tích, tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: vai trò của Thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự (Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự; Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm; Nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán sau phiên toà sơ thẩm); Trách nhiệm của Thẩm phán trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Từ việc phân tích, tìm hiểu trên giúp tác giả có cái nhìn khái quát, tổng
thể về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp
35
luật hiện hành.
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH BẮC NINH
2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
2.1.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Ở các TAND tỉnh Bắc Ninh, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đa số
các Thẩm phán đã nghiên cứu kỹ hồ sơ để nắm vững nội dung vụ án, đánh giá một
cách khách quan, đầy đủ cả về tính hợp pháp của các thủ tục tố tụng và các chứng
cứ chứng minh tội phạm (xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định các thủ
tục tố tụng trong điều tra, truy tố đảm bảo đúng Luật; xem xét tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ vụ án có đầy đủ để làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án?
trong bản cáo trạng có viện dẫn pháp luật và định tội danh rõ ràng chưa?). Trên cơ
sở đó, có hướng giải quyết vụ án đúng đắn và chính xác..
Trường hợp đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử, các Thẩm phán đều thực hiện
các hoạt động tố tụng tiếp theo như ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu
tập những người liên quan đến tham dự phiên tòa; chuẩn bị đề cương điều khiển
phiên tòa và đề cương xét hỏi, dự thảo án văn và các quyết định khác; chuẩn bị
những điều kiện vật chất cho việc xét xử, mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử...
Theo số liệu thống kê cho thấy, trong vòng 5 năm, ngành Tòa án tỉnh Bắc
Ninh đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung 568 vụ/903 bị cáo, trong đó số vụ được
36
Viện kiểm sát chấp nhận là 568 vụ (100%) (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung
Trả hồ sơ điều tra bổ sung
Tỉ lệ vụ Tổng số án Xét xử Năm Tổng số Được VKS án VKS giải quyết chấp chấp
nhận (Vụ) nhận Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
2015 1106 2203 1080 2152 160 307 160 100%
2016 1073 2042 1072 2041 75 205 75 100%
2017 1580 2580 1570 2561 48 131 48 100%
2018 1753 2868 1740 2812 51 185 51 100%
2019 1354 2362 1324 2278 34 75 34 100%
Tổng 6866 12055 6786 11844 568 903 568 100% cộng
Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]
2.1.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thực tiễn tại ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh những năm qua cho thấy, tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm, thành phần HĐXX đều đảm bảo các quy định của Bộ Luật
TTHS, chưa có vụ án nào phải hoãn hoặc đình chỉ do sự không vô tư, thiếu khách
quan của HĐXX hoặc do thiếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân như theo quy định
của điều 288 Bộ luật TTHS.
Các quy định của thủ tục bắt đầu phiên tòa đều được Thẩm phán – chủ tọa phiên
tòa tuân thủ nghiêm túc dưới sự giám sát chặt chẽ của KSV.
Trong phần xét hỏi, do các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đều chuẩn bị chu
đáo đề cương xét hỏi nên đa số diễn biến của các phiên tòa đều diễn ra theo những dự
37
kiến đã đặt ra. Sự thật khách quan của vụ án từng bước được làm sáng tỏ thông qua
việc xét hỏi bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các thành phần tham
gia tố tụng khác. Không có tình trạng dụ cung, mớm cung.
Thực hiện cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ tại phiên tòa mà trọng tâm là
phần tranh luận của quá trình tranh tụng nên đã cơ bản được thực hiện tương đối
đầy đủ trong thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
Đa số các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đã giữ đúng vai trò là người trọng tài điều
khiển việc tranh luận giữa VKS với Bị cáo, người bào chữa, Luật sư..., HĐXX và
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tham gia vào việc đối đáp mà chỉ lắng nghe ý
kiến, quan điểm các bên tham gia tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham
gia tranh luận trình bày hết ý kiến, tuy nhiên xét thấy có những ý kiến không liên
quan đến vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu dừng lại không tranh luận,
đồng thời Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đề nghị KSV phải đối đáp lại những ý kiến
có liên quan đến vụ án của Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) khi những ý kiến
đó chưa được KSV tranh luận.. Kết quả tranh luận được HĐXX sử dụng là một
trong những căn cứ quan trọng cho việc đưa ra các phán quyết.
Các quy định về nghị án và tuyên án được đại đa số các thẩm phán – chủ tọa
phiên tòa thực hiện nghiêm túc. Phần lớn các thẩm phán đều chuẩn bị trước nội
dung cũng như trình tự từng vấn đề đưa ra thảo luận và xem xét: tội danh của bị
cáo, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo,
những vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, yêu cầu cơ quan
tổ chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa... để HĐXX thảo luận và biểu quyết.
Qua thực tiễn xét xử từ năm 2015 đến nay, Tòa án các cấp ở tỉnh Bắc Ninh đã
thụ lý giải quyết 6866 vụ án hình sự sơ thẩm với 12055 bị cáo. Đã giải quyết 6786 vụ
với 11844 bị cáo, đạt tỷ lệ 98,83%. Kết quả cụ thể như sau:
- Năm 2015 toàn ngành thụ lý 1106 vụ - 2203 bị cáo. Đã giải quyết 1080 vụ -
2152 bị cáo. Đạt tỉ lệ 97,64% về số vụ; 97,68% về số bị cáo.
- Năm 2016 toàn ngành thụ lý 1073 vụ - 2042 bị cáo. Đã giải quyết 1072 vụ -
38
2041 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,9% về số vụ; 99,95% về số bị cáo.
- Năm 2017 toàn ngành thụ lý 1580 vụ - 2580 bị cáo. Đã giải quyết 1570 vụ -
2561 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,36% cả về số vụ, 99,26% về số bị cáo.
- Năm 2018 toàn ngành thụ lý 1753 vụ - 2868 bị cáo. Đã giải quyết 1740 vụ -
2812 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,25% về số vụ; 98,04% về số bị cáo.
- Năm 2019, toàn ngành thụ lý 1354 vụ - 2362 bị cáo. Đã giải quyết 1324 vụ
-2278 bị cáo. Đạt tỷ lệ 97,78% về số vụ; 96,44% về số bị cáo.
Nhìn vào số liệu trên có thể thấy, số án hình sự sơ thẩm của Tòa án hai cấp
tỉnh Bắc Ninh thụ lý qua các năm nhìn chung đều tăng, tuy nhiên Tòa án hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều cố gắng trong giải quyết án vì vậy tỷ lệ giải quyết của
từng năm luôn đạt trên 97% (Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Bắc Ninh
Tỉ lệ tăng, giảm so với Thụ lý Giải quyết (Đạt tỉ lệ) Năm năm trước
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
2015 1106 2203 Giảm 0,04% Giảm 23,5% 1080 2152
(97,64%) (97,68%)
2016 1073 2042 Giảm 0,3% Giảm 0,7% 1072 2041
(99,9%) (99,95%)
2017 1580 2580 Tăng 47,2% Tăng 26,3% 1570 2561
(99,36%) (99,26%)
2018 1753 2868 Tăng 10,9% Tăng 11,1% 1740 2812
(99,25%) (98,04%)
2019 1354 2362 Giảm 22,7% Giảm 17,6% 1324 2278
(97,78%) (96,44%)
Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]
Qua thực tiễn cũng như các kết quả tại biểu 1, 2 cho thấy chất lượng giải
quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của các Tòa án tỉnh Bắc Ninh ngày càng được nâng
39
cao. Các vụ án được giải quyết thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS và tinh
thần cải cách tư pháp. Phán quyết của Tòa án đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường hợp nào bị oan sai.
Theo báo cáo tổng kết năm thì từ năm 2015 đến năm 2019, số án hình sự sơ
thẩm mà Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã giải quyết là 6786 vụ/11844 bị cáo, trong
đó số vụ có kháng cáo, kháng nghị là 1.161 vụ/1703 bị cáo, chiếm tỷ lệ 17,1%. Kết
quả giải quyết phúc thẩm: đình chỉ vụ án 706 vụ (chiếm 60,8%), y án 212 vụ (chiếm
18,2%), sửa án 225 vụ (chiếm 19,3%), hủy án 18 vụ (chiếm 0,24%).
Để có được những kết quả khả quan trên là do Luật TTHS cũng như các văn
bản pháp luật TTHS khác đã quy định tương đối rõ chức năng của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với những trình tự rõ ràng, cụ thể, đáp ứng
được thực tiễn yêu cầu của hoạt động xét xử. Hơn nữa, đội ngũ Thẩm phán – chủ
thể tiến hành hoạt động xét xử đã thực hiện và phát huy đầy đủ, nghiêm túc các
chức năng của mình để đưa ra được bản án “thấu tình, đạt lý”, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, góp phần nâng cao về số lượng cũng như chất lượng giải quyết án
hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
2.1.3. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhìn chung sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đa số các Thẩm phán
đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình như: rà soát lại bản án, nếu có lỗi
về chính tả thì số liệu bị nhầm lẫn hoặc do tính toán sai thì chỉnh sửa, tuy nhiên việc
chỉnh sửa này không làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất lợi cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác. Việc làm này được thể hiện bằng văn bản và được
Thẩm phán giao ngay cho bị cáo, bị hại, VKS cùng cấp, người bào chữa.
Đa số bản án được Thẩm phán giao cho bị cáo, bị hại, VKS, người bào chữa,
cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Trại tạm
giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; thông báo bằng văn bản cho chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo làm việc, học
tập; cấp bản sao bản án hoặc trích lục bản án về những phần có liên quan cho đương
40
sự hoặc người đại diện của họ theo đúng thời hạn Luật định.
Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b
khoản 2 Điều 290 của Bộ luật TTHS thì sau phiên tòa Thẩm phán yêu cầu thư ký
niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú cuối cùng
hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.
Thẩm phán giao thư ký hoặc cán bộ văn phòng gửi bản án cho cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án sơ thẩm có tuyên hình phạt
tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân
2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong những năm qua, việc thực hiện chức năng của Thẩm phán trong xét xử
án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp tỉnh Bắc Ninh vẫn còn có những tồn tại hạn
chế, thiếu sót:
- Còn có tình trạng Thẩm phán trong quá trình giải quyết án hình sự sơ thẩm
đã chưa lượng hình một cách thấu đáo, có những trường hợp xử mức hình phạt quá
nặng hoặc quá nhẹ, cho hưởng án treo không đúng quy định;
- Một số vụ án việc tranh tụng tại phiên tòa chất lượng chưa cao.
- Còn có vụ án, thẩm phán chưa thực hiện đúng các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn sau phiên toà sơ thẩm.
Những vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết
một số án hình sự trên địa bàn tỉnh, đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến việc
41
một số bản án bị hủy, án bị cải sửa. (Bảng 2.3).
Bảng 2.3: Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị
Kết quả phúc thẩm
Số án giải quyết
Số án có KC/KN
Y án
Sửa án
Hủy án
Đình chỉ
Năm
Bị cáo Vụ
Bị cáo
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Bị cáo
Bị cáo
Bị cáo
Tỉ lệ (Vụ)
Bị cáo
Tỉ lệ (Vụ)
2015 1106 2203
223
336 125 152 39
68 55 109 24,6% 04 07 0,17%
1073 2042
217
321 137 186 39
65 38 64 17,5% 03 06 0,13%
201 6
1580 2580
174
242 120 166 28
39 22 32 12,6% 04 05 0,22%
201 7
1753 2868
302
433 178 242 51
79 67 103 22,1% 6
9
0,18%
201 8
1354 2362
245
371 146 215 55
91 43 64 17,5% 01 01 0.04%
201 9
TC 6866 12055 1.161 1703 706 961 212 342 225 372 19,3% 18 28 0,24%
Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]
2.2.1.1. Những hạn chế trong việc quy định địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, các quy định của pháp luật về quyền năng của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều bất cập
cần được xem xét. Cụ thể:
Một là, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Theo quy định tại khoản 1 Điều 280
Bộ luật TTHS năm 2015 thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra
bổ sung trong những trường hợp: “Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong
những vấn đề cần quy định tại điều 85 của Bộ Luật này mà không thể bổ sung tại
phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực
hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn
có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi liên quan đến vụ án nhưng
42
chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”[21].
Quy định tại khoản 1 Điều 280 như trên là chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nhiều lúc
làm cho các Thẩm phán còn lúng túng khi áp dụng trên thực tế. Hơn nữa ngoài những
trường hợp trong quy định tại khoản 1 Điều 280 nêu trên thì trong thực tiễn vẫn còn
những lý do khác phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng Thẩm phán không biết căn cứ
vào đâu để trả hồ sơ, dẫn đến có những trường hợp Thẩm phán vẫn phải ra quyết định
trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng trong quyết định thì chỉ ghi chung chung là căn cứ
vào khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS.
Hai là, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Tại khoản 1, Điều 278 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Sau khi thụ lý vụ
án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”[21]. Theo quy định này
thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền quyết định việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn như: “cấm đi khỏi nơi cư trú”, “bảo
lãnh” hoặc “đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo”. Còn việc “áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam” thì lại do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết
định trên cơ sở đề nghị của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.
Như vậy, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay do Chánh án hoặc
Phó Chánh án quyết quyết định. Việc quy định này không phù hợp với thực tiễn xét
xử, vì Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án, từ đó
sẽ hiểu vụ án một cách cặn kẽ, Thẩm phán sẽ đánh giá được tính chất, mức độ nguy
hiểm của bị can, bị cáo nên sẽ có quyết định đúng đắn có cần phải áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo hay không. Còn theo quy
định của Luật TTHS hiện hành, trong trường hợp Thẩm phán đề nghị áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam nhưng nếu không được Chánh án hoặc Phó
43
Chánh án đồng ý thì Thẩm phán cũng phải tuân thủ theo quyết định của Chánh án
hoặc Phó Chánh án, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án của
Thẩm phán khi giải quyết, xét xử các vụ án hình sự.
Ba là, về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Điều 307 Bộ luật TTHS quy định
“HĐXX phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án
và từng người, Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước,
hỏi sau theo thứ tự hợp lý.…”; “HĐXX phải hỏi riêng từng bị cáo” (Điều 309). Về
hoạt động xét hỏi của KSV quy định tại Điều 307 “Khi xét hỏi từng người, chủ toạ
phiên toà hỏi trước rồi quyết định để các Hội thẩm, KSV, người bào chữa… thực
hiện việc hỏi”; Điều 309 “KSV hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”; Điều 311 “KSV,
người bào chữa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể
hỏi thêm người làm chứng”[21]. Quy định như trên làm cho những người tham gia
tố tụng hiểu là việc xét hỏi tại phiên toà là nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc tập
trung chủ yếu cho HĐXX. Điều này biểu hiện cụ thể trong Việc quy định Thẩm
phán hỏi trước, mà không quy định hỏi như thế nào, dẫn đến, có thể hiểu rằng,
Thẩm phán hỏi trước về toàn bộ vụ án, đối với HĐXX, việc xét hỏi làm rõ các tình
tiết của vụ án là bắt buộc còn với KSV “có thể” hỏi khi thấy cần thiết. Quy định của
BLTTHS đã khá phù hợp, đáp ứng nguyên tắc tranh tụng; nhưng cách thể hiện thiếu
rõ ràng, dẫn đến việc xét hỏi tại phiên toà của các TAND tỉnh Bắc Ninh chủ yếu vấn
diễn ra như cũ.
Mặt khác, việc Bộ luật TTHS quy định trình tự xét hỏi như hiện nay: “Khi
xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi quyết định để các Hội thẩm,
KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…hỏi”, đã đưa đến một
thực tế là, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét hỏi theo hướng làm rõ những nội dung
mà cáo trạng đã quy kết và làm cho người tham gia tố tụng lầm tưởng về việc thẩm
phán đang “bảo vệ” cáo trạng cho KSV.
2.2.1.2. Những hạn chế trong việc thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
44
Từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, bên cạnh những quy định của
pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Thẩm phán còn chưa phù hợp, chặt chẽ, thiếu
đồng bộ làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự thì còn một yếu tố cũng tác động và làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng và hiệu quả giải quyết án, yếu tố đó thuộc về chủ thể áp dụng pháp luật mà cụ
thể là đội ngũ Thẩm phán trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của mình trong hoạt động thực tiễn.
- Các sai sót, vi phạm của Thẩm phán về thủ tục tố tụng trong hoạt động xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự như:
+ Vi phạm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: vẫn còn có Thẩm phán chưa coi
trọng việc nghiên cứu hồ sơ, thậm chí có Thẩm phán còn giao hồ sơ vụ án cho Thư
ký của mình nghiên cứu và yêu cầu thư ký chuẩn bị cho mình kế hoạch xét hỏi, dự
thảo án văn, đồng thời để Thư ký thực hiện tất cả các thủ tục tố tụng trong quá trình
chuẩn bị xét xử (ban hành các quyết định, giải quyết các yêu cầu của người tham
gia tố tụng....). Việc xem nhẹ nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán như trên dẫn đến
xảy ra những sai phạm về thủ tục tố tụng cũng như về nội dung như: bị cáo là người
có nhược điểm về tâm thần nhưng khi đưa ra xét xử lại không có Luật sư hoặc
người giám hộ; Biên bản lấy lời khai của bị can, bị cáo, người làm chứng sơ sài
không chứng minh rõ được hành vi của bị can, bị cáo theo cáo trạng nhưng không
ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung..., làm ảnh hưởng lớn đến các quyết định
trong bản án, dẫn đến bản án thiếu công bằng, chính xác, thậm chí vi phạm pháp
luật phải cải sửa hoặc hủy.
* Vụ án: Nguyễn Thị Thi, Nguyễn Sỹ Cường phạm tội “mua bán trái phép
chất ma túy” (Bản án số 21/2015/HSST ngày 25/11/2015 của Tòa án nhân dân thị
xã Từ Sơn).
Qua các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và lời khai các bị cáo tại các phiên tòa sơ
thẩm, thể hiện: bị cáo Thi là mẹ đẻ của bị cáo Cường, ngày 09/3/2015, bị cáo Thi nhờ
bị cáo Cường trông nhà hộ và có ai đến mua ma túy thì lấy ma túy bán với giá
200.000đ/gói. Bị cáo Cường làm theo lời của bị cáo Thi, lấy ma túy bán cho 2 người
45
(mỗi người 01 gói có trọng lượng là 0.02gam) và bị Công an bắt quả tang, khám
người bị cáo Thi, Công an còn thu giữ tại túi áo khoác Thi đang mặc có 22 gói ma túy
nhỏ (trọng lượng của 22 gói ma túy là 1,4543165gam). Trong quá trình điều tra, Thi
có cung cấp hồ sơ bệnh án điều trị bệnh tâm thần của Thi tại Bệnh viện tâm thần Hà
Nội. Công an tỉnh đã ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với Thi, Viện
pháp y tâm thần Trung ương có Biên bản giám định pháp y kết luận Thi mắc bệnh rối
loạn cảm xúc không ổn định thực tổn do cao huyết áp…Tại thời điểm giám định Thi
bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại phiên tòa bị cáo Thi và bị
cáo Cường khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, HĐXX đã áp dụng điểm b, khoản 2
điều 194; điểm n,p khoản 1 điều 46; điều 47; điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo
Thi 4 năm 6 tháng tù; áp dụng điểm b, khoản 2 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46;
điều 47; điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Cường 7 năm tù.
Do cấp sơ thẩm đã không nghiên cứu kỹ hồ sơ nên mặc dù bị cáo Thi là
người có nhược điểm về tâm thần nhưng Tòa án đã không yêu cầu Đoàn Luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo Thi và cũng không mời người đại diện hợp pháp của bị
cáo Thi tham gia với tư cách người tham gia tố tụng nên đã vi phạm nghiêm trọng
thủ tục TTHS. Vì vậy TAND tỉnh Bắc Ninh đã hủy án sơ thẩm để điều tra, truy tố,
xét xử lại.
+ Vi phạm về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Thực tế trong phần xét hỏi ở hầu
hết các phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, mặc dù HĐXX có cả Hội thẩm, nhưng
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành xét hỏi gần như tất cả mọi vấn đề của vụ án,
từ xét hỏi bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng... Chỉ khi
nào Thẩm phán thấy mình đã “hỏi hết vấn đề” thì mới quay sang hỏi Hội thẩm “có
câu hỏi gì nữa không?”. Hơn nữa trong cách đặt câu hỏi khi xét hỏi, Thẩm phán
thường đặt các câu hỏi theo hướng nội dung mà cáo trạng đã quy kết và như vậy vô
tình Thẩm phán đã giống như người buộc tội, tự mình làm thay công việc của KSV.
+ Vi phạm về thủ tục tranh luận tại phiên tòa: có Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa khi xét xử vụ án hình sự sơ thẩm còn hạn chế thời gian trình bày của bị cáo hoặc
người bào chữa, không yêu cầu KSV đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án
46
của của bị cáo hoặc người bào chữa yêu cầu, thậm chí có thẩm phán “quên” không
yêu cầu VKS đọc bản luận tội mà hỏi luôn “Kết thúc phần xét hỏi, chuyển sang
phần tranh luận, bị cáo có ý kiến gì tranh luận với vị đại diện VKS không?”, dẫn
đến việc KSV có ý kiến yêu cầu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho KSV công bố
bản luận tội.
+ Vi phạm về thủ tục nghị án và tuyên án: Còn có Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa khi nghị án vì muốn rút ngắn thời gian đã không nêu từng vấn đề để xin ý kiến
biểu quyết của Hội thẩm mà chỉ nêu tổng thể, ví dụ bị cáo phạm 02 tội, có hình phạt
cụ thể của từng tội, nhưng Thẩm phán chỉ nêu chung là tổng hợp hình phạt là bao
nhiêu năm tù; hoặc trong việc bồi thường dân sự, đáng nhẽ cần phải thống nhất: bồi
thường tổn thất về tinh thần là bao nhiêu, bồi thường thiệt hại do mất thu nhập là bao
nhiêu, tiền viện phí là bao nhiêu, thì Thẩm phán chỉ đưa ra “bị cáo phải đền bù tiền
viện phí, bồi thường tổn thất về tinh thần và bồi thường thiệt hại do mất thu nhập cho
người bị hại tổng số tiền là ...”.
- Các sai sót, vi phạm của Thẩm phán trong việc áp dụng luật nội dung trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Do Thẩm phán chủ quan khi nghiên cứu hồ sơ đã không nghiên cứu kỹ đã
không nắm được rõ và đầy đủ các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, cũng như không
phát hiện được những thiếu sót, vi phạm của Cơ quan điều tra, VKS để kịp thời yêu
cầu khắc phục, dẫn đến có những sai sót khi áp dụng luật nội dung trong quá trình
xét xử vụ án. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến còn có bản án bị kiến nghị, kháng
nghị, cải sửa hoặc bị hủy.
* Vụ án Lê Thị Tỵ và Hà Lương Thường phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan,
tổ chức” (Bản án số 164/2019/HSST ngày 30/9/2019 của TAND thị xã Từ Sơn).
Hà Lương Thường có hộ khẩu thường trú tại thôn Lương Phú, xã Tây Lương,
huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình thuê trọ ở tại thôn Phương Cầu, xã Phương Liễu,
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ngày 17/4/2019, Thường bị Công an thị xã Từ Sơn
bắt quả tang đang bán trái phép 01 Giấy khám sức khỏe, 03 giấy ra viện chưa ghi nội
dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình tròn màu đỏ của “Bệnh viện Bạch Mai”,
47
chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn Quốc Anh” cho Nguyễn Thị Thu Thảo ở
khu phố Cẩm giang, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn. Qua khám xét tại nơi ở
cua Thường, lực lượng Công an đã thu giữ 70 Giấy khám sức khỏe, 46, giấy ra viện,
15 giấy chứng nhận nằm viện chưa ghi nội dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình
tròn màu đỏ của “Bệnh viện Bạch Mai”, chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn
Quốc Anh”, 13 giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội.
Tại cơ quan điều tra, Thường khai nhận mua toàn bộ số giấy tờ trên của Lê
Thị Tỵ (đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm 14, xã Hải Phúc, huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định), tạm trú tại Chợ Vàng, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Lực lượng Công an đã bắt quả tang và thu giữ 01 túi xách tay của Tỵ, bên trong
gồm 30 giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội, 26 giấy chứng nhận nằm
viện chưa ghi nội dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình tròn màu đỏ của “Bệnh
viện Bạch Mai”, chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn Quốc Anh”. Khám xét
tại nơi ở của Tỵ, lực lượng Công an đã thu giữ hàng chục giấy tờ tương tự trên.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 30/9/2019, Thường và Tỵ đã khai nhận
toàn bộ hành vi phạm tội, TAND thị xã Từ Sơn đã xét xử và áp dụng điểm a, khoản
3, điều 341; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 38 Bộ Luật Hình sự tuyên bố bị cáo
Thường và Tỵ phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, xử phạt bị cáo
Thường 38 tháng tù, bị cáo Tỵ 45 tháng tù.
Ngày 28/10/2019, VKS nhân dân tỉnh Bắc Ninh kháng nghị, đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm
g, khoản 1, điều 52 BLHS và tăng hình phạt đối với bị cáo Tỵ và Thường.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Tỵ đã khai nhận có bán cho bị cáo
Thường 03 lần; bị cáo Thường khai nhận mua của bị cáo tỵ 02 lần và bán cho người
khác (không nhớ số lần và số người mua).
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu và tranh tụng tại phiên tòa,
HĐXX đã chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh Bắc Ninh, sửa bản án sơ
thẩm theo hướng áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 điều 52 BLHS và
xử phạt bị cáo Tỵ 48 tháng tù, bị cáo Thường 48 tháng tù về tội “làm giả tài liệu của
48
cơ quan, tổ chức”.
+ Những sai sót trong việc quyết định hình phạt:
Còn có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi lượng hình chưa cân nhắc kỹ nên
quyết định hình phạt không tương xứng với tội phạm đã thực hiện (hoặc là hình phạt
quá nặng hoặc quá nhẹ) dẫn đến không công bằng, làm ảnh hưởng đến lòng tin của
nhân dân vào công lý. Loại sai sót này tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh không nhiều, tuy
nhiên cũng cần phải được khắc phục nhằm bảo đảm tính công bằng xã hội cũng như
đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.
* Vụ án: Vũ Văn Anh phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ” (Bản án số 16/2018/HSST ngày 28/12/2018 của TAND thị xã Từ Sơn).
Vũ Văn Anh sinh ngày 21/12/2000. Ngày 20/2/2018, Vũ Văn Anh mặc dù
không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe máy (xe Honda Wave) và chở bạn
là Nguyễn Duy Khoa đi xem bắn pháo hoa ở chùa Phật Tích. Trên đường trở về nhà,
khi đi qua đoạn đường tỉnh lộ 295 hướng từ Từ Sơn đi Yên Phong, Khoa đã cố tình
vượt qua đầu xe ô tô đi cùng chiều đang xi nhan trái sang đường (xe ô tô xi nhan trái
sang đường và đã rẽ sang gần hết phần đường), hậu quả xe mô tô đã va chạm sượt
qua đầu xe ô tô và xe mô tô lao lên vỉa hè, xe bị đổ, Vũ Văn Anh và Nguyễn Duy Khoa
bị ngã. Sau khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu, ngày 22/2/2018, Nguyễn Duy Khoa đã
tử vong. Kết quả giám định của Công an tỉnh Bắc Ninh cho thấy Nguyễn Duy Khoa tử
vong do nguyên nhân: chấn thương sọ não nặng, phù não, dập não, tụ máu não.
Ngày 28/12/2018, TAND thị xã Từ Sơn mở phiên tòa xét xử bị cáo Vũ Văn
Anh về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a,
khoản 2 điều 260 Bộ Luật Hình sự. Tại phiên tòa Vũ Văn Anh đã thành khẩn khai
nhận toàn bộ hành vi phạm tội và cho biết gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường
cho thân nhân gia đình nạn nhân Khoa số tiền 100.000.000đ. HĐXX sau khi xét xử
đã áp dụng điểm a, khoản 2 điều 260; điểm b,s khoản 1, 2 điều 51; điều 54; điều 91;
điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn Anh 24 tháng tù.
Sau phiên tòa sơ thẩm, Vũ Văn Anh có đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm
tỉnh Bắc Ninh vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt quá nặng (phạt
49
24 tháng tù) và đề nghị cho hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận thấy bị cáo mặc dù phạm tội thuộc
trường hợp rất nghiêm trọng, tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là
người chưa thành niên (mới 17 tuổi 2 tháng). Trong quá trình điều tra xũng như xét
xử, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi
thường cho gia đình nạn nhân và được gia đình bị hại làm đơn đề nghị Tòa án cho bị
cáo hưởng án treo. Mặt khác, HĐXX thấy bị cáo đang là học sinh lớp 12, hiệu trưởng
nhà trường nơi bị cáo học cũng đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo để bị
cáo tiếp tục được học tập, rèn luyện. HĐXX thấy rằng không cần thiết buộc bị cáo
cách ly khỏi xã hội, do vậy đã chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Văn Anh, sửa bản án
sơ thẩm, xử phạt bị cáo Vũ Văn Anh 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
* Vụ án: Chu Bá Phương phạm tội “Cố ý gây thương tích”, (Bản án số
82/2018/HSST ngày 19/4/2018 của TAND thị xã Từ Sơn).
Chu Bá Phương do cãi nhau với vợ chồng anh Tấn chị Tuyết về việc đỗ xe
máy trước cửa hàng nhà anh Tấn chị Tuyết, Phương đã ngay lập tức đi xe máy về
lấy 02 con dao nhọn quay trở lại cửa hàng của anh Tấn và dùng 1 con dao nhọn đâm
trọng thương anh Tấn, sau khi được mọi người can ngăn và đưa anh Tấn đi cấp cứu
tại bệnh viện, Phương đã tự đi xe máy đến cơ quan công an đầu thú. Tại Bản kết
luận giám định pháp y đã kết luận: tỷ lệ thương tích trên cơ thể anh Tấn tại thời
điểm giám định là 30%.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TAND thị xã Từ Sơn đã áp dụng điểm đ,
khoản 2, điều 134; điểm b,s khoản 1, 2 điều 51, điều 38 Bộ Luật Hình sự tuyên phạt
bị cáo Chu Bá Phương 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Sau phiên tòa sơ thẩm, Chu Bá Phương có đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm
tỉnh Bắc Ninh vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt quá nặng (phạt
36 tháng tù) và đề nghị cho hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận thấy bị cáo tuy phạm tội lần đầu
nhưng gây ra thương tích cho người bị hại cao (30%) nên hành vi bị cáo là tội
nghiêm trọng, do vậy không có căn cứ để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
50
Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, sau khi sự việc
xảy ra bị cáo đã ngay lập tức ra đầu thú, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị
hại. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải. Bị cáo được hưởng 03
tình tiết giảm nhẹ tại điểm b,s khoản 1, 2 điều 51 Bộ Luật Hình sự như cấp sơ thẩm
đã xem xét là phù hợp, xong mức án 36 tháng tù đối với bị cáo có phần nghiêm
khắc, vì vậy cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và sửa bản
án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Phương xuống còn 02 năm tù.
- Ngoài ra còn có một số sai sót khác như:
+ Có bản án đã có hiệu lực pháp luật, song Thẩm phán chậm gửi bản án cho
những người tham gia tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án,
thậm chí thời gian gửi chậm quá thời hạn luật định, dẫn đến bị VKS kiến nghị.
+ Một số bản án áp dụng thiếu điều luật về xử lý vật chứng (bản án án số
82/2016/HSST ngày 20/9/2016 của TAND thị xã Từ Sơn, bản án tuyên tịch thu
chiếc điện thoại Sam Sung S3 là công cụ, phương tiện phạm tội, nhưng không viện
dẫn điều luật), hoặc trong bản án lại không xử lý vật chứng là phương tiện phạm tội
(Trong vụ án “trộm cắp tái sản”, bị cáo đã sử dụng điện thoại để rủ bị cáo khác đi
trộm cắp xe máy, tuy nhiên trong bản án số 112/2016/HSST ngày 24/11/2016 của
TAND thị xã Từ Sơn lại không xử lý xử lý vật chứng là chiếc điện thoại đó).
+ Một số vụ án xác định người tham gia tố tụng không đúng dẫn đến việc
giải quyết vụ án không đúng.
*Vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ” (bản án án số
02/2018/HSST ngày 03/01/2018 của TAND tỉnh Bắc Ninh).
Trong vụ án này, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Tiến Đại – nguyên
trưởng thôn, Nguyễn Văn Vui – nguyên bí thư chi bộ đã thừa nhận hành vi bán trái
thẩm quyền 55 lô đất nhằm mục đích lấy tiền nộp thuế đất ở của 56 lô đất khác đã
được phê duyệt quy hoạch và lấy tiền xây dựng đường giao thông và kênh mương
cứng nội đồng của thôn. Tuy nhiên Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui cũng khai
nhận, việc bán đất đã được họp dân bàn bạc công khai, có đại diện lãnh đạo UBND
là ông Nguyễn Tiến Nghĩa – Chủ tịch dự họp, đồng thời có báo cáo cho bí thư Đảng
51
ủy xã là ông Nguyễn Hồng Thắng và được ông Thắng và ông Nghĩa đồng ý. HĐXX
đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui phạm tội “Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”, áp dụng khoản 3,4 điều 281; điểm s, p
khoản 1, 2 điều 46, điều 47; điều 33 Bộ Luật Hình sự 1999 (khoản 3 điều 356; các
điểm v,s khoản 1,2 điều 51; điều 54; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015). Xử phạt bị
cáo Nguyễn Tiến Đại 5 năm tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Vui 5 năm tù.
Ngày 11/01/2018, bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui kháng cáo. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui cho rằng bị oan về
tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”, việc các bị cáo làm đều do
chủ trương và có sự đồng ý của cấp trên (tức là có sự đồng ý của ông Nguyễn Tiến
Nghĩa – Chủ tịch UBND xã, ông Nguyễn Hồng Thắng bí thư Đảng ủy xã). HĐXX
trên cơ sở xem xét hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác tại phiên tòa, ý kiến tranh tụng của các bên đã nhận định: Tòa án cấp sơ
thẩm áp dụng Điều 281 Bộ Luật Hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến
Đại và Nguyễn Văn Vui phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công
vụ” là đúng pháp luật, tuy nhiên vụ án có dấu hiệu nhiều đối tượng đồng phạm có vị
trí, vai trò quyết định quan trọng trong vụ án (Nguyễn Tiến Nghĩa – nguyên Chủ tịch
UBND xã, Nguyễn Hồng Thắng – nguyên bí thư Đảng ủy xã, Hoàng Phan Vi –
nguyên cán bộ địa chính xã) nhưng chưa được cơ quan tiến hành tố tụng xem xét là
chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 117 Bộ luật TTHS năm 1999 (tương ứng
với khoản 2 điều 170 Bộ luật TTHS năm 2015). Vì vậy TAND cấp cao tại Hà Nội đã
căn cứ điểm a,b,c khoản 1 điều 358 Bộ luật TTHS tuyên: Hủy bản án sơ thẩm số
02/2018/HSST ngày 03/01/2018 của TAND tỉnh Bắc Ninh.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
2.2.2.1. Những bất cập trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những bước tiến mới trong việc hoàn thiện
các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
nói chung và của Thẩm phán nói riêng. Tinh thần mới này còn được quy định cụ thể
ở các điều luật thuộc các giai đoạn tố tụng cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án
52
hình sự. Tuy nhiên, qua hoạt động thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh đã cho thấy có những
hạn chế, bất cập trong các quy định trên, điều đó được biểu hiện qua những nội
dung sau:
Một là: Một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS quy định liên quan đến vị
trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử không phù hợp, trái chức năng tố
tụng của Tòa án, như nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án" (Điều 15 Bộ luật
TTHS), nguyên tắc "trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự" (Điều 18 Bộ luật
TTHS).
Theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp thì phải “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”; và “tranh tụng tại phiên
tòa phải được coi là khâu đột phá”. Tuy nhiên trong Luật TTHS quy định Tòa án,
Thẩm phán có nghĩa vụ chứng minh vụ án, có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự,
quy định này làm cho việc giải quyết vụ án không khách quan vì khi Thẩm phán có
nghĩa vụ thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá để chứng minh vụ án thì Thẩm phán
sẽ có thiên hướng nghiêng về những chứng cứ buộc tội của VKS cũng như bị ảnh
hưởng bởi cáo trạng của VKS, Thẩm phán sẽ không chú trọng việc thu thập đánh
giá những chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Đây chính là lý do xảy ra án oan, sai trong TTHS. Đồng thời làm ảnh hưởng tới việc
tranh tụng tại phiên tòa, một nội dung quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp đã
đề ra do Thẩm phán là một trong những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chứ không
đơn thuần là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Hai là: một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa phù hợp, thiếu chặt
chẽ, chưa phù hợp với các chức năng tố tụng hình sự; chưa bảo đảm quyền hạn độc
lập của Thẩm phán trong xét xử (quy định việc Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ
sung khi phát hiện tội phạm mới, người phạm tội mới; quy định Thẩm phán không
có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam...)
Ba là: Bộ luật TTHS chưa quy định thật rõ ràng nội dung nguyên tắc tranh
53
tụng. Quy định về thủ tục xét xử nói chung, thủ tục phiên toà nói riêng, đặc biệt là
quy định về trình tự xét hỏi, chưa thể hiện tốt nguyên tắc này. Đây là một vấn đề
cần được hoàn thiện để xác định sự thật vụ án. Tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ
thẩm được thực hiện giữa đại diện VKS, người bào chữa, bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác (dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) nhằm
bảo vệ quan điểm, lợi ích của các bên, đồng thời giúp HĐXX xem xét, đánh giá các
chứng cứ, tài liệu được công khai tại phiên tòa xét xử vụ án, từ đó làm căn cứ để
quyết định một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Việc chưa quy định rõ ràng nội dung nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật
TTHS làm cho quá trình giải quyết vụ án và những phán quyết của HĐXX rất dễ rơi
vào chủ quan duy ý chí.
2.2.2.2. Các nguyên nhân khác
- Năng lực của một số Thẩm phán còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
công tác xét xử hiện nay
Qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy vẫn còn một số lượng nhất
định án bị hủy, cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Điều này phần nào đã phản
ánh trình độ năng lực thực tế của Thẩm phán hiện nay. Bác Hồ của chúng ta đã nói:
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hoặc kém”, soi vào hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự ta thấy: chất
lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm ra sao phụ thuộc
rất lớn vào người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Bởi lẽ, Tòa án là cơ quan duy nhất
có chức năng xét xử, là nơi người dân đặt niềm tin vào công lý. Nhưng công lý đạt
được hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố “con người”, cụ thể ở đây là phụ
thuộc vào Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vậy nên dù pháp luật TTHS có hoàn thiện
về trình tự thủ tục tố tụng, về địa vị pháp lý của Thẩm phán nhưng Thẩm phán lại
yếu về năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp thì chất lượng xét xử
vụ án hình sự đạt kết quả tốt là rất khó đạt được.
Trong những năm qua, trình độ và năng lực của Thẩm phán hai cấp Tòa án
tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Đội ngũ Thẩm phán
54
đều có trình độ đạt tiêu chuẩn theo quy định, tức là đều đã tốt nghiệp đại học luật,
35% thẩm phán có trình độ thạc sỹ, 100% Chánh án và các phó chánh án đều có
trình độ cao cấp Lý luận chính trị. Tuy nhiên vẫn có một số Thẩm phán trẻ tuổi,
thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên trong quá trình giải quyết, xét xử án hình sự sơ
thẩm còn có những sai sót.
Hiện nay số lượng Thẩm phán ở các Tòa án tỉnh Bắc Ninh còn ít, trong khi
số lượng án và việc ngày càng nhiều. Một số Tòa án cấp huyện hàng năm thụ lý số
lượng án và việc rất lớn dẫn đến còn có án tồn đọng và Thẩm phán khi bị áp lực giải
quyết quá nhiều án dẫn đến có những sai sót không đáng có về nghiệp vụ.
- Chế độ, chính sách đối với Thẩm phán chưa đảm bảo, chưa tương xứng.
Hiện nay, chế độ tiền lương, trang thiết bị làm việc... dành cho Thẩm phán còn
nhiều bất cập, chưa tương xứng với chức trách, nhiệm vụ được giao cũng như chưa
phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất lao động phức tạp, nặng nhọc và đặc thù của
ngành Toà án. Lương của Thẩm phán cũng như các chế độ đãi ngộ khác vẫn giống
như các cán bộ, công chức khu vực cơ quan hành chính nhà nước (theo quy định của
pháp luật hiện hành, Thẩm phán được áp dụng 1 trong 5 bảng lương đối với Ngành
Tòa án, đó là: Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát
ban hành kèm theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/09/2004 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, hệ thống thang bảng lương này không khác với hệ
tính đặc thù của hoạt động xét xử và chưa khuyến khích, động viên được đội
ngũ Thẩm phán yên tâm công tác. Điều này đã và là nguyên nhân làm ảnh hưởng
thống thang bảng lương khu vực cơ quan hành chính nhà nước) vì vậy làm mất đi
đến chất lượng xét xử của Thẩm phán.
- Các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và nhiệm kỳ của Thẩm
phán không phù hợp.
Thực hiện Luật tổ chức TAND năm 2014, Nghị quyết số 81 của Quốc hội về
việc thi hành Luật tổ chức TAND, TANDTC đã khẩn trương triển khai mô hình Tòa
án 4 cấp, sắp xếp lại đội ngũ Thẩm phán, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và thi tuyển,
bổ nhiệm các ngạch Thẩm phán,… Tuy nhiên theo Chánh án TANDTC Nguyễn
55
Hòa Bình thì việc thực hiện quy định theo Luật hiện hành đã gặp phải những bất
cập, điển hình như trong việc bổ nhiệm thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Theo quy định của Luật, Hội đồng Thẩm phán TANDTC có 17 thành viên, bao
gồm: Chánh án, các Phó Chánh án và các Thẩm phán TANDTC. Thẩm phán
TANDTC do Quốc hội phê chuẩn phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy
định của Luật; trong đó, phải có tối thiểu 05 năm là Thẩm phán cao cấp (quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 69 Luật tổ chức TAND năm 2014). Trong khi đó, Thẩm
phán cao cấp là ngạch Thẩm phán mới được quy định từ năm 2015 sau khi Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành. Số lượng Thẩm phán
TANDTC theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2002 gồm 120 người. Tuy
nhiêm trong quá trình hoạt động từ năm 2015 đến nay, có những Thẩm phán trong
số này đã nghỉ hưu, một số chuẩn bị nghỉ hưu, một số không đủ các tiêu chuẩn, điều
kiện khác để bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, như: trình độ, năng lực, tín nhiệm,
một số không trong quy hoạch lãnh đạo giai đoạn 2016 – 2021… vì vậy việc nguồn
Hơn nữa theo quy định hiện hành thì nhiệm kỳ của Thẩm phán (5 năm)
là ngắn và chưa phù hợp, tạo tâm lý không yên tâm làm việc của Thẩm phán
vì vậy rất dễ làm ảnh hưởng đến kết quả công tác xét xử và giải quyết vụ án
của Thẩm phán
56
để bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC gặp khó khăn.
Tiểu kết Chương 2
1. Tại Chương 2, tác giả Luận văn đề cập đến thực trạng thực hiện địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh. Qua đó, tác giả chỉ ra rằng, các quy định của pháp luật TTHS về quyền và
nghĩa vụ của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã tạo ra
một hành lang pháp lý giúp cho các Thẩm phán trong quá trình giải quyết, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đạt chất lượng và hiệu quả cao. Các loại tội phạm được đưa ra
xét xử kịp thời, xử lý nghiêm minh, góp phần vào việc giữ vững an ninh - chính trị,
trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
2. Bên cạnh những ưu điểm như trên, tác giả luận văn cũng đã nêu ra những
điểm hạn chế, bất cập trong việc quy định của pháp luật TTHS về quyền và nghĩa
vụ của Thẩm phán thông qua thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc
Ninh. Đồng thời cũng từ thực tiễn xét xử tại địa phương, tác giả cũng đã nêu ra
những điểm hạn chế, thiếu sót của đội ngũ Thẩm phán trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình khi tiến hành xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng như tìm
ra các nguyên nhân của những hạn chế bất cập, để từ đó đề ra các giải pháp hoàn
57
thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán về mặt pháp luật cũng như trên thực tiễn.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM
PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
3.1.1. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân”[3].
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó nguyên tắc pháp luật giữ địa vị
tối cao được tuân thủ tuyệt đối. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng các quyền
thiêng liêng của con người, nhằm bảo vệ các quyền đó và luôn giữ địa vị tối cao
trong toàn bộ đời sống xã hội. Tuy nhiên, đó phải là pháp luật có chất lượng tốt,
phản ánh xu thế phát triển tiến bộ chung của xã hội, phù hợp với hiện thực khách
quan, thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân và nhờ vậy, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ
xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân, do dân và vì dân” đặt ra
yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao năng
lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước, đó không chỉ là đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của cơ quan lập pháp (Quốc hội), bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ,
kịp thời các chức năng do Hiến pháp, pháp luật quy định; cải cách nền hành chính
tư pháp theo hướng vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa mà còn phải xây dựng
đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, có đủ phẩm
chất, năng lực, thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phát triển đất nước và xu
hướng hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó phụ thuộc rất lớn vào yếu tố “con
người” mà cụ thể ở đây là đội ngũ Thẩm phán Tòa án – người được thực hiện thẩm
quyền xét xử và phán quyết hình sự. Từ đó vấn đề đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp (trong đó có đội ngũ Thẩm phán) đủ mạnh từ trung ương đến cơ sở, đủ
58
về số lượng, hợp lý về cơ cấu, bảo đảm về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; hình thành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
cán bộ tư pháp, xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, cũng như các điều
kiện bảo đảm cho việc thực hiện các quyền; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp.
3.1.2. Yêu cầu Cải cách tư pháp
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể, trong những nhiệm vụ đó,
nhiệm vụ xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cơ quan tư pháp; xây dựng
đội ngũ tư pháp (trong đó chủ yếu là Thẩm phán) là rất quan trọng trong việc góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án.
Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp, chỉ ra những hạn chế, tồn tại
của việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp những năm qua, đồng thời xác định
các biện pháp mang tính định hướng hoạt động giai đoạn tiếp theo. Văn kiện Đại hội
XI nhấn mạnh: “Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ, đặt trong yếu kém chung
của 10 năm qua là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp
yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý nhà nước, năng lực xây dựng thể chế, quản lý,
điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu”[7]. Tại Đại hội XII, Đảng chỉ ra hai hạn
chế rõ nét nhất của công cuộc cải cách tư pháp là: “Việc triển khai một số nhiệm vụ cải
cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội
phạm”[8].
Đại hội XII đã chỉ ra nguyên nhân của hạn chế đó là “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh
đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung
chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp
còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa
nghiêm”[8]. Do đó, Đại hội XII đã đề ra những biện pháp mạnh mẽ nhằm bảo đảm
59
về cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp. Cụ thể:
- Về mục đích và lộ trình thực hiện, “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến
lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý
hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ
quan tư pháp”[8].
- Đối với Tòa án: “Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm
quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”[8].
3.1.3. Yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Toà án
Theo yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải
cách tư pháp đến năm 2020, trong bộ máy Nhà nước ta, TAND có vị trí, vai trò hết
sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, hệ thống
Toà án đã chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; đề ra nhiều chủ trương với
những giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng xét xử và hiệu quả cải cách tư
pháp. Kết quả thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong hệ thống Tòa án đã có
những bước phát triển mới, đạt được những thành tích quan trọng như: Quốc hội đã
ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND, cùng một số luật liên quan…
với nội dung về cơ bản đã thể chế hóa được các định hướng mà Nghị quyết số 49 đề
ra. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của TAND đã được đổi mới, hoàn thiện,
trong đó đã khẳng định TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; xây dựng hệ
60
thống Tòa án 4 cấp; đổi mới cách thức tổ chức phiên tòa theo hướng tiếp thu hạt
nhân hợp lý của mô hình tranh tụng; đổi mới hình thức phòng xử án. Mặt khác, đội
ngũ chức danh tư pháp trong TAND được đổi mới, củng cố, tăng cường cả về số
lượng và chất lượng; Uy tín và địa vị của Tòa án Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng cao….
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, nền tư pháp nước ta
vẫn còn một số tồn tại như: Chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mong muốn của người
dân; Còn lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới; Niềm tin của người dân vào
nền tư pháp chưa cao; Chưa có cơ chế hữu hiệu để tăng cường khả năng tự quyết
định, khả năng đoán định tư pháp của người dân;…
Vì vậy vấn đề đặt ra là Tòa án phải có một đội ngũ Thẩm phán giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức công vụ , có như vậy mới đáp ứng
được yêu cầu xét xử của cải cách Tư pháp đối với ngành Tòa án.
3.1.4. Yêu cầu xét xử công bằng, bảo vệ quyền con người.
Một trong những điểm nổi bật của BLTTHS năm 2015 là những quy định về
bảo đảm quyền con người trong TTHS:
Trong số 27 nguyên tắc cơ bản được quy định ở Bộ luật TTHS năm 2015 (từ
Điều 7 đến Điều 33) với những cấp độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ
quyền con người trên hai bình diện theo những tiêu chí của Luật quốc tế về quyền
con người, đó là: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của người bị giữ
khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người
tham gia tố tụng khác; Quyền được xét xử công bằng. Các nguyên tắc này đưa ra
định hướng bảo vệ quyền con người trong TTHS, đó là các quyền bảo đảm an toàn,
an ninh tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm con người và quyền được
xét xử công bằng, công khai, dân chủ. Những nguyên tắc phù hợp với các tiêu chí
quốc tế về quyền con người được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền
chính trị, dân sự của Liên hợp quốc năm 1966 mà Việt Nam là thành viên.
Những nguyên tắc bảo đảm cho việc quyền được xét xử công bằng là những
nguyên tắc định hướng cho hoạt động xét xử được quy định từ Điều 22 đến Điều 30.
61
Xét xử là hoạt động trung tâm của TTHS, mọi hoạt động tố tụng khác đều xoay
quanh hoặc phục vụ cho xét xử; do đó, định hình việc xét xử theo cách thức nào có ý
nghĩa thu hút, lan tỏa, đồng thời phản ánh tính chất của mô hình TTHS. Với hệ thống
các nguyên tắc định hướng cho hoạt động xét xử của Bộ luật TTHS 2015, nhất là với
sự xuất hiện lần đầu tiên nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều
26) tính chất tranh tụng của mô hình TTHS Việt Nam bước đầu đã được định hình là
nền tảng cho việc bảo đảm cho quyền được xét xử công bằng. Bộ luật TTHS năm
2015 quy định việc tranh tụng tại phiên tòa và lấy kết quả tranh tụng làm căn cứ để ra
bản án và quyết định hình phạt đối với bị cáo, đồng thời TAND Tối cao, VKS nhân
dân tối cao đã có hướng dẫn chi tiết thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Những nguyên
tắc của nhóm này đã bảo đảm được tính công khai, dân chủ của TTHS, bảo đảm các
phán quyết của Tòa án được công bằng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người trong TTHS.
Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện
bản chất của nền tư pháp quốc gia nên việc xét xử công bằng, bảo vệ quyền con
người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án (thông qua
các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa).
Quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn đòi hỏi sự khách quan công bằng thể
hiện chính sách đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà nước ta: Mọi tội
phạm đều bị phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt
tội phạm và làm oan người vô tội.
3.2. Các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
3.2.1. Đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS
Vấn đề nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS đóng vai trò
quan trọng, quyết định địa vị pháp lý của Thẩm phán trên thực tiễn. Bởi vì có nhận
thức sâu sắc về địa vị pháp lý của Thẩm phán mới nhận thức được vị trí, vai trò,
nghĩa vụ, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán. Tuy nhiên nếu chỉ có
“nhận thức” không thôi thì chưa đủ mà “nhận thức” này phải được chuyển hóa bằng
62
hành động cụ thể, điều đó có nghĩa phải được “Luật hóa” trong Bộ Luật TTHS.
Nâng cao nhận thức là cơ sở lý luận, cơ sở tư tưởng để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử nói chung, trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Thực tiễn trong thời gian qua, vấn đề đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của
Thẩm phán đã được cụ thể hóa trong một số điều luật của Bộ luật TTHS (Điều 45;
khoản 1, Điều 278; khoản 1 Điều 280…) tuy nhiên vẫn còn một số bất cập cần phải
thay đổi như: quy định trách nhiệm khởi tố vụ án (điều 18), quy định nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án (điều 15)... Do đó cần phải đổi mới nhận thức một cách toàn
diện về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS, có như vậy mới đáp ứng được tinh
thần của cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị năm 2005.
3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về Thẩm phán và địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự
3.2.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến vị trí, vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
* Hoàn thiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và trách nhiệm khởi tố
vụ án hình sự
Để thực hiện chức năng xét xử, pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cho
Thẩm phán trong các văn bản quy phạm như: Bộ luật TTHS, Luật tổ chức TAND,
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, … Các quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho
thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Khác với Điều tra viên, KSV,
Thẩm phán khi thực hiện chức năng xét xử chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những hành vi, quyết định của mình. Khi thực hiện chức năng xét xử nghĩa là Thẩm
phán đang thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhân danh công lý và được đảm bảo thực hiện
bởi tính “cưỡng chế”.
Theo quy định tại điều 15 Bộ luật TTHS, nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án có hai nội dung quan trọng là: 1. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải áp dụng
63
mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không
có tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo; 2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội
Nội dung thứ nhất của điều luật, đã mang tính liệt kê các vấn đề cần chứng
minh trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, so sánh với điều 85 Bộ luật TTHS về đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự thì quy định của điều 15 Bộ luật TTHS còn
chưa đầy đủ. Sự thật của vụ án hình sự được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau
như: các chứng cứ có tội hay không có tội, chứng cứ về các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết thuộc nhân thân bị cáo, nguyên nhân,
điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội…
Vì vậy, nguyên tắc chỉ cần xác định trách nhiệm, xác định sự thật khách quan, toàn
diện, đầy đủ; còn các tình tiết cụ thể thì quy định trong các quy định về đối tượng
chứng minh.
Nội dung thứ hai của điều luật được hiểu là Tòa án cùng với Cơ quan điều
tra, VKS có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị đã đề ra nhiệm vụ của cải cách tư pháp là “xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư
pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân”[5] căn cứ vào nội dung này của Nghị quyết thì việc quy định Tòa án có trách
nhiệm chứng minh tội phạm là không phù hợp. Điều 15 quy định như vậy làm cho
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án không rõ ràng và phần nào làm thay chức năng của
Viện kiểm sát. Đồng thời việc quy định Thẩm phán có nghĩa vụ chứng minh vụ án
sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án không khách quan do khi Thẩm phán có nghĩa vụ
thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá để chứng minh vụ án thì Thẩm phán sẽ có
thiên hướng nghiêng về những chứng cứ buộc tội của VKS cũng như bị ảnh hưởng
bởi cáo trạng của VKS, Thẩm phán sẽ không chú trọng việc thu thập đánh giá
64
những chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự
còn xảy ra và việc quy định này đã ảnh hưởng tới chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa do Thẩm phán là một trong những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chứ không
đơn thuần là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, Thẩm phán có
thể làm tốt chức năng của người "trọng tài" tại phiên tòa, đưa ra những phán quyết
khách quan, đảm bảo công bằng theo tinh thần cải cách tư pháp, cần hoàn thiện
Điều 15 Bộ luật TTHS như sau:
“Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
1. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án trong phạm vi chức năng của mình có
trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ;
2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, VKS. Toà án
có trách nhiệm chứng minh cho phán quyết của mình. Người bị buộc tội có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
Tương tự điều 15, để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa
án thì Bộ luật TTHS năm 2015 cũng nên bỏ quy định Tòa án trách nhiệm khởi tố vụ
án tại Điều 18, đồng thời bỏ qui định HĐXX có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
trong một số trường hợp qui định tại Điều 153 Bộ luật TTHS năm 2015.
Như vậy nghiên cứu, xem xét lại chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm
phán theo hướng tập trung vào hoạt động xét xử đảm bảo tranh tụng dân chủ công
khai tại phiên toà là việc làm cần thiết để nâng cao địa vị của Thẩm phán cũng như
hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp.
* Nâng cao chất lượng tranh tụng trong TTHS. Tranh tụng là một trong những
nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp được xác định trong nhiểu
Nghị quyết của Đảng.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đặt ra yêu cầu: …Việc phán quyết
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét,
65
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, người làm
chứng, nguyên đơn, bị đơn, người người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật…”
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị
trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo
hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[5]. Như vậy
tranh tụng không chỉ được thực hiện trong thực tiễn xét xử các vụ án, mà tranh tụng phải
được thực hiện ngay trong quá trình lập pháp, phải được đưa thành các quy định của
pháp luật...
Phải nói rằng, tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong TTHS, mang tính
quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng tại phiên tòa
sẽ giúp HĐXX thẩm định, đánh giá các chứng cứ, tài liệu của vụ án để khẳng định độ
tin cậy, tính khách quan, toàn diện và đầy đủ của vụ án. Tranh tụng được thực hiện
giữa bên buộc tội (đại diện VKS) và bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo) và những
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nhằm bảo vệ quan điểm,
lợi ích của các bên, dưới sự điều khiển, quyết định của HĐXX. Thông qua việc tranh
tụng trực tiếp, công khai, HĐXX sẽ lắng nghe ý kiến và đề xuất của các bên tham gia
tố tụng, trên cơ sở đó HĐXX phân tích, xác định sự thật khách quan của vụ án và ra
các phán quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật.
Hiện nay, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm”. Việc “Hiến định” nguyên tắc tranh tụng chính là đã thể
chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp (Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội yêu cầu: “KSV
phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự …
TAND tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại các phiên
tòa”). Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã quy định nguyên tắc tranh tụng và có các quy
66
định chứa đựng nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
nguyên tắc pháp chế XHCN; các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên
Bộ luật TTHS cần được hoàn thiện các quy định cụ thể về chức năng tố tụng, về thủ
tục tố tụng nói chung, tại phiên tòa nói riêng… để phù hợp với nguyên tắc này trong
hệ thống pháp luật TTHS nước ta.
3.2.2.2. Hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã chỉ ra những điểm
còn hạn chế, bất cập trong việc quy định quyền của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thực sự đem lại
hiệu quả và hiệu lực trong thực tiễn thì pháp luật TTHS cần phải hoàn thiện những
vấn đề sau:
Một là, sửa đổi Điều 278 Bộ luật TTHS theo hướng Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ tất cả các
biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam, vì khi Thẩm phán được phân công
xét xử vụ an sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án, từ đó sẽ hiểu vụ án một cách cặn kỹ, Thẩm
phán sẽ đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của bị can, bị cáo nên sẽ có
quyết định đúng đắn có cấn phải áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
đối với bị can, bị cáo hay không. Việc “trao quyền” cho Thẩm phán áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ tất cả các biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam cũng
đồng thời “nâng cao trách nhiệm” của Thẩm phán đối với việc xét xử và giải quyết
các vụ án hình sự được phân công. Quy định như vậy cũng phù hợp với Nghị quyết
só 49-NQ/TW: “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và tách
nhiệm cho Điều tra viên, KSV và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm
vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và
quyết định tố tụng của mình”[5].
Hai là, để khắc phục tình trạng trả hồ sơ như ở phần hạn chế đã phân tích,
67
đồng thời đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên toà, tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật
TTHS, ngoài 04 căn cứ Thẩm phán trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, thì cần
bổ sung thêm căn cứ thứ năm: đ) Khi có những lý do khác mà Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa xét thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đồng
thời, phải chăng chỉ nên quy định Toà án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại
phiên toà, sau khi đã xét hỏi, điều tra chính thức, tranh tụng tại phiên toà mà có đủ
căn cứ quy định.
Ba là, hoàn thiện Điều 307 Bộ luật TTHS theo hướng quy định cụ thể hơn
trình tự và nội dung xét hỏi tại phiên toà. Thẩm phán là người hỏi đầu tiên, nhưng
chỉ hạn chế phạm vi hỏi để làm cơ sở cho việc “quyết định một trình tự xét hỏi
hợp lý” cho người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác. Thẩm phán
không hỏi về toàn bộ vụ án khi các bên buộc tội, gỡ tội chưa thực hiện việc hỏi.
Thẩm phán và Hội thẩm chỉ hỏi để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà các bên
buộc tội, gỡ tội chưa được xác định rõ ràng.
3.2.3. Hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy
định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau: Hiến pháp, Luật TTHS, Luật
tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, các văn bản của
Tòa án Tối cao... Vì vậy để các Thẩm phán nắm rõ để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, Tòa án tối cao cần có Nghị quyết hoặc Thông
tư, tổ chức tập huấn hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Việc hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán có thể được thực
hiện thông qua văn bản (Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán, Thông tư của Chánh
án...), thông qua các hội nghị trực tuyến trong toàn ngành để các thẩm phán, thư ký,
cán bộ Tòa án đều được học tập và nắm chắc các quy định về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để thực hiện nghiêm túc, đồng bộ.
68
3.2.4. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập của Thẩm phán trong xét xử
Sự độc lập của Thẩm phán được thể hiện trong mối quan hệ với các cơ quan
bên ngoài, giữa cấp trên và cấp dưới và giữa những thành viên trong hội đồng xét xử.
Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án trong thời gian qua cho thấy, còn có
tình trạng Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn còn tồn tại việc
lãnh đạo nghe báo cáo, định hướng đường lối xét xử, hoặc bị chi phối bởi các cơ
quan khác như Đảng, chính quyền bởi vì các cơ quan này ít nhiều vẫn có quyền ảnh
hưởng đến việc bổ nhiệm thẩm phán, quyết định ngân sách và hỗ trợ các cơ sở vật
chất duy trì hoạt động của Tòa án, những vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến nguyên
tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Do đó cần phải:
- Đối mới trong mối quan hệ giữa Tòa án với cấp ủy địa phương. Cấp ủy Đảng
chỉ lãnh đạo thông qua công tác giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn, điều kiện bổ
nhiệm chức danh Thẩm phán cũng như các chức danh chủ chốt khác của Tòa án. Cấp
ủy địa phương chỉ giám sát đảng viên thực hiện điều lệ đảng. Không nên can thiệp
vào công tác chuyên môn và hoạt động xét xử của Tòa án.
- Đối với mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới: cần phân biệt cụ thể khi
nào là quan hệ tố tụng, khi nào là quan hệ hành chính. Cần phân biệt rõ mối quan hệ
giữa Chánh án và Thẩm phán trong cùng Tòa án. Chánh án khi tham gia chức năng
quản lý hành chính có trách nhiệm phân công xét xử một cách hợp lý, tạo điều kiện
để Thẩm phán độc lập xét xử vụ án của mình. Chánh án không được can thiệp chỉ
đạo Thẩm phán, HĐXX về nội dung, đường lối xét xử, áp dụng pháp luật của từng
vụ án cụ thể.
3.2.5. Các giải pháp khác.
3.2.5.1. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử cũng như
đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm phán.
Thẩm phán là người có vị trí đặc biệt quan trọng của quá trình giải quyết sơ
thẩm các vụ án hình sự, có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Do vậy, kết
quả của hoạt động xét xử phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
69
tư cách đạo đức và ý thức trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết,
xét xử vụ án. Chất lượng của Thẩm phán không những là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến hiệu quả xét xử mà còn là yếu tố ảnh hưởng đến địa vị của Thẩm phán.
Do đó, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động xét xử cũng như củng cố địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cần có những giải pháp nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nhận thức của Thẩm phán như:
Việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán phải thực sự dân chủ, khách quan và
công bằng. Phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán thông qua hình thức thi
tuyển sẽ bảo đảm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực từ bên ngoài vào hoạt
động xét xử của Thẩm phán. Tuy nhiên để đảm bảo được chất lượng của Thẩm
phán thì khi tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, Hội đồng, người có quyền tuyển
chọn phải thực sự khách quan, công tâm để cuộc thi diễn ra công bằng thực sự,
tránh trường hợp nể nang hoặc bị tác động bởi các yếu tố vật chất khác.. Có như
vậy, những người có năng lực thực sự mới có điều kiện trở thành những Thẩm phán
và là những đại diện thực hiện quyền lực tư pháp Nhà nước.
Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực,
trình độ cho Thẩm phán trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công việc này cần được
tiến hành thường xuyên. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử chuyên sâu cho Thẩm phán đối
với các vụ án trong các lĩnh vực tham nhũng, chứng khoán, công nghệ thông tin, tài
chính ngân hàng... Đồng thời nhanh chóng bồi dưỡng trình độ về ngoại ngữ, tin học
để Thẩm phán tiếp cận được với kiến thức khoa học, áp dụng công nghệ thông tin vào
việc tra cứu tài liệu, văn bản nhằm giải quyết công việc một cách thuận lợi.
Nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán cũng là nhiệm vụ vô
cùng quan trọng. Cần chú ý đến văn hóa ứng xử của Thẩm phán trong quá trình tố
tụng tại phiên tòa. Vấn đề này tuy không được điều chỉnh bởi pháp luật nhưng nó
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của phiên tòa cũng như uy tín, vị thế của Thẩm
phán cũng như của ngành Tòa án Việt Nam.
70
3.2.5.2. Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ, chính sách phù hợp đối với Thẩm phán
Để hoạt động xét xử của Thẩm phán có chất lượng và hiệu quả, cần phải đảm
bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết, chế độ về tiền lương, trụ sở, trang thiết bị làm việc,
phương tiện kỹ thuật... Mặc dù lương và chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán hiện nay
đã phần nào được cải thiện, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tế (chưa đủ để Thẩm phán nuôi con và gia đình), chưa tương xứng với tính chất đặc
thù công việc và trách nhiệm ngày càng cao của Thẩm phán; Các trang thiết bị,
phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công việc của Thẩm phán cũng còn hết sức nghèo
nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc… Những vấn đề này làm hạn chế về
động lực để đội ngũ Thẩm phán phấn đấu vươn lên.
Để khắc phục tình trạng trên cần nghiên cứu sửa đổi một cách tổng thể chế
độ chính sách đãi ngộ của Thẩm phán cũng như quan tâm đầu tư các trang thiết bị
phục vụ cho công việc của Thẩm phán. Cần quan tâm điều chỉnh một cách căn bản
tiền lương và nên có chế độ vật chất ưu tiên đủ mạnh để thu hút Thẩm phán về các
đơn vị tòa án cấp huyện, vùng sâu, vùng xa... như sửa đổi nâng cao chế độ phụ cấp
khu vực, phụ cấp đặc biệt…tạo điều kiện cho Thẩm phán yên tâm công tác lâu dài.
3.2.5.3. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cần tập trung làm tốt công tác
giám sát phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó
kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông
tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp.
Trong một nền tư pháp của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về
hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các Thẩm phán. Thực hiện công khai hóa
bản án của Tòa án. Việc công bố bản án là hình thức công khai, minh bạch hóa
chính sách và pháp luật, việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu
hiệu để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội
nhập quốc tế, trong đó người dân thực sự được làm chủ xã hội thông qua việc được
71
biết, được bàn, được kiểm tra việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp, của Tòa
án. Cũng chính vì thế mà bản thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên
môn để làm sao tuyên bản án được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng
72
pháp luật được xã hội thừa nhận [11].
Tiểu kết Chương 3
Tại Chương 3, Luận văn đã trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1. Để nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự thì cần phải đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS;
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến vị trí, vai trò của Thẩm
phán trong hoạt động xét xử cũng như hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách
nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Đổi mới nhận thức về địa
vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS; Hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc
lập của Thẩm phán trong xét xử.
2. Bên cạnh đó cũng cần phải có các giải pháp khác như nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử cũng như đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm
phán; đảm bảo về cơ sở vật chất và chế độ, chính sách phù hợp đối với Thẩm phán
nhằm giải quyết công việc thuận lợi hơn và để Thẩm phán yên tâm công tác; đồng
thời tăng cường công tác giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và của
73
nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán.
KẾT LUẬN
1. Trong công cuộc cải cách tư pháp, Đảng ta đã xác định: lấy tổ chức Toà án
là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm[5], điều đó đã chứng minh sự ghi nhận
của Đảng đối với tầm quan trọng của Tòa án trong bộ máy Nhà nước. Tòa án chính là
cơ quan thực thi công lý của một chế độ Nhà nước, giữ vị trí trung tâm trong các cơ
quan tư pháp, trong đó Thẩm phán là người thay mặt Tòa án, nhân danh nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam được giao nhiệm vụ xét xử, giữ vai trò quyết định trong việc
kết thúc một quá trình tố tụng, phán quyết một hay một vài người nào đó là có tội hay
không và hậu quả pháp lý kèm theo nếu họ có tội. Chỉ có Thẩm phán mới được vinh
dự để pháp luật trao cho nhiệm vụ quan trọng này, thông qua đó thấy được vị trí của
Thẩm phán trong xã hội cũng như trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
Qua những phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn xét xử, có thể nói Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở thực tiễn số liệu cụ thể ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh,
cho thấy phần lớn các Thẩm phán hiện nay đã và đang thực hiện đúng và đầy đủ
những nhiệm vụ, quyền hạn được giao, trừng trị kịp thời, có hiệu quả những kẻ
phạm tội, nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền con người, đồng thời,
thông qua việc xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán góp phần quan trọng trong công
tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội.
2. Luận văn đã trình bày về những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Qua đó làm rõ khái niệm địa
vị pháp lý của Thẩm phán, vị trí, vai trò của Thẩm phán cũng như nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Thẩm phán nói chung và trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nói riêng.
3. Luận văn đã làm rõ thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án 2 cấp tỉnh Bắc Ninh. Qua đó đề ra
các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong pháp luật cũng như
74
trên thực tiễn.
4. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc
tế, việc cải cách tư pháp mà trọng tâm là “Tòa án”, trong đó có việc nâng cao địa vị
pháp lý của Thẩm phán là đòi hỏi khách quan, đặc biệt cần thiết. Vì vậy với kết quả
nghiên cứu của Luận văn, tác giả hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào quá trình
hoàn thiện các quy định của pháp luật về nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán
75
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cả về mặt lý luận và thực tiễn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2003), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2 Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền,
Nxb Tư pháp.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết
48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII.
9 Trần Văn Độ (2018), Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Bình luận
Hiến pháp 2013, Chủ biên Hoàng Thế Liên, NXB Chính trị quốc gia sự
thật (trang 746 – 773).
10 Trần Văn Độ (2019), Tư duy về quyền tư pháp: thực trạng và tiếp tục đổi
mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ
sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội – 09 – 8 – 2019; trang 257 -269.
11 Trần Thu Hạnh (2009), Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm
phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
12 Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
76
13 Học viện tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng giải quyết án hình sự, Nxb Lao
động, Hà Nội.
14 Đinh Văn Quế (2004), Vai trò của HĐXX trong việc tranh tụng tại phiên
tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân.
15 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 13/SL về tổ
chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán, Hà Nội.
16 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 51/SL ngày
17 tháng 4, Hà Nội.
17 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2000), Bộ luật tố tụng hình sự Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Hiến pháp Nước Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
19 Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20 Quốc hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21 Quốc hội (2016), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22 Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012 QH13 ngày 23/11/2012 về công tác
phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKS nhân dân, của
Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013.
23 Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực
tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học.
24 Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm
phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân.
25 TAND tỉnh Bắc Ninh (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, Bắc
77
Ninh.
26 TAND tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016, Bắc
Ninh.
27 TAND tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017, Bắc
Ninh.
28 TAND tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, Bắc
Ninh.
29 TAND tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019, Bắc
Ninh.
30 TAND tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, Tối cao.
31 Từ điển Luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội
32 Phạm Minh Tuyên (2019), Tư duy về xét xử, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”,
Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 09 – 8 – 2019
33 Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân.
34 Ủy ban thường vụ Quốc hội (2014) Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
35 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2017) Báo cáo tình hình kết quả công tác
đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2017.
36 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018) Báo cáo tình hình kết quả công tác
đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2018.
37 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019) Báo cáo tình hình kết quả công tác
đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2019.
38 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo tình hình KT-XH năm
2019, Bắc Ninh.
39 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo kết quả công tác
năm 2017.
40 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả công tác
năm 2018.
78
41 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo kết quả công tác
năm 2019
42 Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta”
43 Nguyễn Tất Viễn (2019), Tiếp tục đổi mới tư duy về tư pháp trong sự vận
động và phát triển của xã hội Viện Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp
tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện
hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 09 – 8 – 2019
Trang Web
www.moj.gov.vn 44
http://toaan.gov.vn. 45
79
www.tapchicongsan.org.vn 46