VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH HẠNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH HẠNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số

liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Minh Hạnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA

VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ

ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................... 7

1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự .................................................................................................... 7

1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................................... 21

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA

THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI

TỈNH BẮC NINH .......................................................................................... 36

2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh ........... 36

2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp

lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân .. 41

Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ

PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ ........................................................................................................ 58

3.1. Yêu cầu nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự .................................................................................... 58

3.2. Các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................... 58

KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bảng 2.1: Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung ............................... 37

Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Bắc Ninh ..... 39

Bảng 2.3: Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị .............................. 42

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam

đã ban hành nhiều Nghị quyết để đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp. Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp

đến năm 2020” đã nêu rõ nhiệm vụ: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định

bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương

tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động

trọng tâm”[05]. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử

của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân

có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế

độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân” [20]. Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua đội

ngũ Thẩm phán – là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then

chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung và thực hiện các mục tiêu của Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư

pháp đến năm 2020” nói riêng.

Thẩm phán chính là những người đại diện cho Tòa án để thực hiện các chức

năng nêu trên. Họ có vị trí, vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong các vụ án hình sự,

vai trò của Thẩm phán xét xử được thể hiện rõ nét nhất. Thẩm phán với tư cách là

người đại diện cho Nhà nước, họ được pháp luật quy định quyền ban hành các quyết

định công nhận, hướng dẫn và quyết định các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Để từ đó, qua các chứng cứ chứng

minh, sự thật khách quan của vụ án được đưa ra làm rõ. Trên cơ sở tranh tụng khách

quan, Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ áp dụng pháp luật một cách đúng đắn để đưa ra

phán quyết hợp tình, hợp lý, công minh.

Từ khi các Tòa án được hình thành và phát triển đến nay, đội ngũ Thẩm phán

nước ta đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên Nghị

1

quyết 49 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “Công tác tư pháp nước ta còn bộc lộ nhiều hạn

chế. Đội ngũ Thẩm phán xét xử còn thiếu, nhất là ở các toà án cấp huyện; một số

không ít các Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu

thận trọng, tỉ mỉ thậm chí còn cẩu thả nên dẫn đến tình trạng có nhiều sai sót trong

thực tiễn xét xử...”[05]. Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2012 TAND tối cao

cũng đã khẳng định:“Một số Thẩm phán, cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong công tác, chưa tích cực học tập để nâng cao năng lực, trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ nên nhiều vấn đề đã được quy định trong pháp luật đã được hướng

dẫn cụ thể nhưng chưa nắm được để áp dụng trong công tác xét xử”[30].

Trước tình hình trên và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới, nhất

là đang thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc

nghiên cứu địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự nói chung và trong

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý

luận và thực tiễn, không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về

hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói

riêng mà còn góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Thẩm phán và Tòa án

cũng như việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án. Việc xác

định đúng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự góp phần quan trọng

trong việc thực thi có hiệu của thủ tục tố tụng hình sự (TTHS).

Từ những phân tích trên, Học viên chọn Đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu đề tài về cải cách tư pháp và

vị trí, vai trò của đội ngũ Thẩm phán. Cụ thể có thể kể đến một số công trình khoa

học như:

- Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước độc lập, mã số:

92-98-353 do ông Nguyễn Văn Yểu làm Chủ nhiệm đề tài,1993;

- Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền do PGS.TSKH

2

Lê Cảm, và TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb ĐHQGHN, 2004;

- Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền của tập thể tác giả do

PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung chủ biên. Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.

Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan đến đội ngũ Thẩm phán

được công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật học và tại các hội thảo khoa học:

- Bài viết Tư duy về quyền tư pháp: thực trạng và tiếp tục đổi mới được đăng

trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự

nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội

– 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Trần Văn Độ.

- Bài viết “Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân

dân” của PGS. TS Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Viện

nghiên cứu lập pháp Ủy ban thường vụ Quốc hội số 20/2014.

- Bài viết “Tư duy về xét xử” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn

lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội của TS. Phạm Minh Tuyên.

- Bài viết “Tiếp tục đổi mới tư duy về tư pháp trong sự vận động và phát triển của

xã hội Việt Nam” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi

mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học

xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội – 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Nguyễn Tất Viễn.

Có thể nói, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận

án, các bài báo khoa học đã công bố ở Việt nam trong thời gian qua đã lý giải một

số vấn đề khá sâu sắc về chế định Thẩm phán, và đề ra một số giải pháp cho việc

tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm phán. Nhưng trong điều kiện thực tiễn hiện nay

đã phát sinh nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và cần được tổng kết rõ, do vậy

luận văn này nghiên cứu là không trùng lặp bởi lẽ: luận văn đi sâu nghiên cứu cơ sở

lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao hiệu

quả, hiệu lực của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố nêu trên là những tài liệu

3

tham khảo cơ bản và là cơ sở nền tảng để tác giả nghiên cứu và thực hiện luận văn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn hướng đến là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề

lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự, làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định đó trên địa bàn thành tỉnh Bắc

Ninh để đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu, làm rõ được những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm

phán trong tố tụng hình sự nói chung; phân tích các quy định của pháp luật về

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự;

- Phân tích đánh giá đúng thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh trong những năm

qua, làm rõ những ưu điểm, những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện quy định

của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở

tỉnh Bắc Ninh;

- Trên cơ sở những yêu cầu của cải cách tư pháp và từ thực tiễn để đề xuất các

giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của

Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (đi sâu chủ yếu là các quy định của Bộ luật

TTHS).

Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc thực hiện các quy định của pháp

luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh

Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019.

5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

4

Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp.

Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu tại bàn thông qua nghiên

cứu văn bản, tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê và

khảo sát thực tiễn để giải quyết những vấn đề mà Luận văn đặt ra.

6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở lý

luận và thực tiễn về hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Do đó luận văn bao hàm những ý nghĩa sau:

* Ý nghĩa lý luận:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật TTHS về

địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận để đề xuất một số vấn đề cần quan

tâm với các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 đúng với mục tiêu mà Đảng ta đã đặt ra.

* Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tế việc thực hiện quy định của

pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các

Tòa án tỉnh Bắc Ninh để đưa ra các giải pháp tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm

phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai

đoạn hiện nay, luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự của Thẩm phán tỉnh Bắc Ninh nói riêng và của ngành Tòa án nói

chung.

Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các

cán bộ đang làm công tác tại Tòa án, nhất là các Thẩm phán được phân công giải quyết

án hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng trong việc giảng dạy, nghiên

cứu tại các trường, các cơ sở có đào tạo chuyên ngành Luật Hình sự.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn chia làm

3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ

5

thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán

6

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự

1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự

1.1.1.1. Khái niệm Thẩm phán:

Hoạt động xét xử là yêu cầu khách quan, là một trong những chức năng của

Nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm

phán ra đời khá muộn (chỉ vào cuối chế độ phong kiến, đầu chế độ tư bản mới xuất

hiện Thẩm phán) khi mà quyền lực Nhà nước được chia thành 3 quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp độc lập, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự

tách biệt của Toà án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ

chuyên làm nhiệm vụ xét xử là Thẩm phán ra đời.

Theo từ điển Luật học và điều 65 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014

định nghĩa: Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật

này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử.

Thẩm phán là một chức danh tư pháp, nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam tham gia vào hoạt động xét xử. Hiện nay, quá trình TTHS Việt

Nam được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan tiến hành tố

tụng khác nhau, mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ

quan tiến hành tố tụng được xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua các chủ thể khác

nhau gọi là những người tiến hành tố tụng. TAND là một trong những cơ quan tiến

hành tố tụng có vị trí và vai trò quan trọng, là cơ quan cuối cùng kết thúc của quá

trình tố tụng. Trong TAND, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để

thực thi nhiệm vụ tố tụng của Tòa án.

Ở nước ta, từ năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND đã ghi

7

nhận Thẩm phán là một chức danh tư pháp mà trước đó về mặt pháp lý Thẩm phán

chỉ được coi là một chức vụ. Qui định này đánh dấu một bước ngoặt lớn về nhận

thức để xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt

động xét xử, nhất là xét xử các vụ án hình sự. Mặc dù chưa có văn bản pháp luật

nào của Nhà nước quy định cụ thể về khái niệm chức danh tư pháp, nhưng trên thực

tế có quan điểm cho rằng những người nào trực tiếp thực hiện quyền lực tư pháp thì

mới là chức danh tư pháp. Vì vậy có thể hiểu chức danh tư pháp bao gồm Điều tra

viên, Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm. GS. TS Võ

Khánh Vinh cho rằng chức danh tư pháp bao gồm những người thực hiện nhiệm vụ

trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ

năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng,

được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp đứng đầy đủ các tiêu chuẩn

và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [42, tr.5]. Trong các chức danh tư

pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý

nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán (hoặc cùng với Hội

thẩm) nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật

thì tất cả cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành, kể cả những cơ

quan nhà nước.

Dưới góc độ xã hội, Thẩm phán được xem như là một nghề theo sự phân công

của xã hội. Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề

nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn

cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến thức

uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho công

bằng của toàn xã hội. Tính chuyên nghiệp của Thẩm phán trong hoạt động xét xử là

một trong những đặc tính quan trọng không những thể hiện trình độ cao về nghề

nghiệp của Thẩm phán mà còn khẳng định vị thế của Thẩm phán trong bộ máy Nhà

nước và đối với xã hội. Theo đó, hoạt động xét xử của Thẩm phán có những đặc

trưng riêng:

- Thứ nhất là tính đặc thù trong áp dụng pháp luật: điều này thể hiện ở chỗ

8

Thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách

quan, thực tế, không định kiến với mục đích bảo vệ công lý. Hoạt động tranh tụng tại

phiên Toà phải đảm bảo sự bình đẳng. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự thật

khách quan của vụ án, đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với mục đích áp

dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn

trọng bằng chứng, xem xét đúng đắn các chứng cứ thực tế mà các bên tranh tụng đưa

ra trong quá trình xét xử.

- Thứ hai: hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách

quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của nhiều cơ quan, tổ chức và cá

nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và kiến thức cần

thiết nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn trên cơ sở bằng chứng thực tế và diễn

biến tại phiên tòa. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người

Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực và nhạy bén. Để không bị cám dỗ, lung lay

về ý chí trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh về tinh thần của người Thẩm

phán đòi hỏi bản thân họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối cùng

mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân dân hướng

tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của

bản án, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn

mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng dân cư. Chính vì thế hoạt động

xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc “Toà án xét xử công

khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân” chính là sự giám sát ở bên

trong phiên toà.

- Thứ ba là hoạt động này đòi hỏi Thẩm phán phải là một con người toàn diện,

bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không

những là đặc thù nghề nghiệp của người Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà

pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể có kiến thức sâu rộng

trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho sự công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng

và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng

được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã

9

hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó.

Người Thẩm phán phải bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí

trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình

ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý.

- Thứ tư là hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt

chẽ do pháp luật quy định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới sinh

mạng chính trị, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm

phán quyết đó thấu tình, đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng

chặt chẽ. Việc quy định như vậy tránh sự tuỳ tiện, lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án

dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Toà án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niệm Thẩm phán như

sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm

vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.

1.1.1.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng

của Viện kiểm sát (VKS) và được thực hiện bởi chức năng của Tòa án trên cơ sở

tranh tụng tại phiên tòa nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản

án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội, nếu bị cáo có tội thì hội đồng xét xử

(HĐXX) sẽ tuyên án và nêu hình phạt kèm theo các biện pháp tư pháp (nếu có) theo

quy định của pháp luật.

Xét xử là hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực hiện còn các cơ quan Nhà

nước khác, các tổ chức và cá nhân ngoài Tòa án không có chức năng này, chính vì

vậy bản án của Tòa án được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà

nước. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và đưa ra phán quyết một người có tội

hay không có tội, đó là tội gì, hình phạt và các biện pháp xử lý. Vì vậy có thể hiểu

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử lần đầu toàn bộ vụ án hình sự theo thẩm

quyền mà pháp luật quy định.

10

Theo pháp luật TTHS Việt Nam, thì xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác

định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án do Cơ

quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra cũng như cáo trạng của Viện

kiểm sát đều được xem xét công khai tại phiên toà, những người tham gia tố tụng

được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những vấn đề mà trước khi

vụ án được đưa ra xét xử không có điều kiện thực hiện. Như vậy có thể nói xét xử

sơ thẩm được xem là trung tâm của quyền tư pháp, là giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi

hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều phải tập trung trí

tuệ để xử lý các tình huống một cách chính xác, nhanh chóng, đúng pháp, thông qua

phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng và

những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Tại phiên Tòa HĐXX điều khiển phiên

tòa, thực hiện việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, còn Toà án thực hiện

chức năng xét xử, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án.

Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý

vụ án, sau đó Tòa án thực hiện các công việc chuẩn bị xét xử, khi có đủ điều kiện

thì Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử.

Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ

án, thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án

cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa với mục đích cuối cùng là giải

quyết triệt để một vụ án.

1.1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự

Theo từ điển Luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội thì địa vị pháp lý của

chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp

luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Là sự thể hiện thành một tổng thể

các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả

năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể

phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét

11

vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.

Từ những phân tích trên về khái niệm Thẩm phán và khái niệm xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự, ta có thể rút ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán là tổng

thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ pháp lý của

Thẩm phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy định.

Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý của Thẩm

phán trong TTHS được thể hiện và phản ánh ở những phương diện:

- Các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTHS.

- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm

của Thẩm phán trong TTHS.

1.1.2. Cơ sở xác định địa vị của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.2.1. Phương cách tổ chức bộ máy nhà nước

Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử

của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[20]. Nội dung mới

này có ý nghĩa rất quan trọng, nó nhằm mục đích phân định quyền lực của nhà nước

theo hướng: “TAND” là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo PGS.TS Trần Văn

Độ “quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết

về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan

xét xử duy nhất của Nhà nước thực hiện quyền tư pháp”[10]. Như vậy có thể hiểu

nội dung cốt lõi của quyền tư pháp là sử dụng quyền lực để xét xử các vụ việc nhằm

mục đích duy trì công lý và trật tự xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, thực hiện

quyền tư pháp chính là thực hiện quyền tư pháp hình sự, nghĩa là thực hiện chức

năng xét xử các vụ án hình sự và ở Nhà nước Việt Nam, quyền năng này được pháp

luật quy định cho Tòa án.

Theo quy định của Luật tổ chức TAND: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…; trong thực hiện

nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự Tòa án có quyền: a) Xem xét, kết luận về tính hợp

pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, KSV, Luật sư trong quá

12

trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp

ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của

các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, VKS, KSV thu thập; do

Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c) Khi xét

thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài

liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự; d) Yêu cầu Điều tra viên, KSV và những người

khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình

sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; e) Ra quyết định để thực hiện các quyền

hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự” [34]. Như vậy có thể thấy rõ,

thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ đầu tiên đặt ra đối với Tòa án

đó chính là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế

độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân” và để thực hiện nhiệm vụ này, pháp luật đã quy định trao cho Tòa

án “các quyền” mà không cơ quan, tổ chức nào có được và chỉ có Tòa án mới có

được mà thôi. Thông qua việc thực hiện các quyền này, Tòa án nhân danh Nhà nước

ra bản án kết luận bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng các biện pháp theo quy

định của pháp luật.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Đảng ta đã

ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược

Cải cách tư pháp đến năm 2020” trong đó đã đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp

trong sạch…; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có

hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Như vậy có thể nói, Tòa án được xác định là trung tâm

trong quá trình cải cách tư pháp bởi Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, phán quyết

của Tòa thể hiện kết quả cuối cùng của quá trình tố tụng. Tòa án là nơi thể hiện sâu

sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý, cũng là công cụ bảo vệ công lý, công

bằng xã hội.

1.1.2.2. Các nguyên tắc hoạt động của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự

* Nguyên tắc suy đoán vô tội

13

Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện tại Hiến pháp năm

2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật”[20, Điều 31, Khoản 1, tr.20] và tại Bộ luật TTHS: “Không ai có thể bị coi là

có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật”[20, Điều 9, tr.12].

Theo đó, nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc này được hiểu:

bị can, bị cáo phải được coi là không có tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa

được chứng minh tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa xét xử theo một trình tự do pháp

luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Đồng thời, nguyên tắc này cũng yêu cầu mọi nghi ngờ phải được giải thích theo

hướng có lợi cho bị cạn, bị cáo; nếu có sự nghi ngờ mà không thể bổ sung gì hơn về

chứng cứ thì phải tuyên bị cáo là vô tội.

Chẳng hạn một người có hành vi phạm tội nhưng người này không đương

nhiên bị coi là có tội khi thời điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu

trách nhiệm hình sự. Hay trong việc miễn trách nhiệm hình sự, khi quyết định miễn

trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã phải

chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội.

Như vậy, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật mà người trực tiếp quyết định bản án kết tội này chính là Thẩm

phán. Từ nguyên tắc này, ta có thể thấy rõ vai trò của Thẩm phán trong TTHS nói

chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Thẩm phán là người đại diện cho Tòa

án khi thực hiện chức năng xét xử và chỉ có Tòa án, chứ không phải là một cơ quan

nào khác, mới có thẩm quyền để thực hiện chức năng xét xử, chỉ có Tòa án mới

được nhân danh Nhà nước để phán quyết những vấn đề liên quan khi thực hiện chức

năng xét xử.

* Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật

Nguyên tắc này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội

14

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân

can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [20]; và được quy định tại Điều

tuân theo pháp luật" [20].

23 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

Nội dung nguyên tắc này được hiểu là: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ

căn cứ vào các quy định của pháp luật, căn cứ vào các chứng cứ hợp pháp để xét xử

và tuyên bản án trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Bất cứ các cơ quan, tổ

chức, cá nhân nào cũng không được can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và

Hội thẩm khi xét xử.

Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo là có tội hay không có

tội thông qua hoạt động xét xử. Khi xét xử vụ án hình sự, HĐXX phải xem xét,

thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ

mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa,

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất ký

ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động

vào các thành viên của HĐXX để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của

mình. Mọi hành động can thiệp dưới dù bằng hình thức nào cũng bị coi là vi phạm.

Chỉ có các thành viên HĐXX cùng với kết quả điều tra tại phiên tòa mới có quyền

quyết định những vấn đề liên quan của vụ án. Từng thành viên HĐXX xét bằng khả

năng và niềm tin của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp

luật để đưa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của HĐXX được lấy theo

ý kiến đa số của thành viên. Như vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của HĐXX

có quyền độc lập suy nghĩ, đánh giá sự việc trên cơ sở pháp luật, không phụ thuộc

vào bất cứ một định kiến nào, không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác.

Từ quyết định độc lập của từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể HĐXX.

Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét

xử. Thực tế Tòa án cấp trên chỉ đạo Tòa án cấp dưới về chuyên môn, nghiệp vụ, bố

trí cấp ngân sách hoạt động hàng năm…. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc độc lập

khi xét xử, cần tách bạch rõ từng mối quan hệ trên. Sự hướng dẫn công tác xét xử

15

của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc

áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết định trước là

Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án như thế nào mà Tòa án cấp trên chỉ hướng

dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử.

Như vậy, có thể thấy, vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự là rất

quan trọng, đòi hỏi người Thẩm phán không chỉ có chuyên môn nghiệp vụ mà còn

đòi hỏi họ có một bản lĩnh vững vàng để có thể thực hiện và đảm bảo nguyên tắc

độc lập khi xét xử.

Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm bao gồm cả sự độc lập với nhau

giữa các thành viên của HĐXX trong việc xem xét kiểm tra, đánh giá chứng cứ và

quyết định những vấn đề liên quan. Các thành viên HĐXX độc lập trong việc xem

xét, đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ án tại phiên Tòa cũng

như khi nghị án, từng thành viên được độc lập đưa ra quan điểm của mình, phân

tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra quyết định của mình mà không phụ

thuộc vào các thành viên khác. Thẩm phán không có quyền áp đặt ý kiến của mình

với Hội thẩm và ngược lại Hội thẩm cũng không được áp đặt ý kiến với Thẩm phán.

Khi nghị án, Thẩm phán đưa ra từng vấn đề để Hội thẩm nhân dân thảo luận, sau đó

Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng.

Có thể thấy, thông qua nguyên tắc độc lập khi xét xử, quyền độc lập của Tòa

án được ghi nhận và thực hiện, mà trong đó Thẩm phán là người được trực tiếp độc

lập khi thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật.

1.1.2.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán Tòa án nhân dân với các chức danh tư

pháp khác trong xét xử các vụ án hình sự

Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa án,

cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Thẩm phán, cũng như Tòa

án, là người giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp, là người quyết định cuối

cùng nhằm kết thúc chặng cuối cùng của các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, nếu chỉ

một mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố tụng, mà việc tiến hành tố tụng của

Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với những người và cơ quan tiến hành tố

16

tụng khác. Do đó, vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự nói riêng được

thể hiện ở các mối quan hệ bên trong (mối quan hệ nội bộ của Tòa án) và mối quan

hệ bên ngoài (với các cơ quan tiến hành tố tụng khác) trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ của mình.

* Mối quan hệ bên trong Tòa án

Mối quan hệ bên trong là các mối quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh đạo, với

các Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ khác của Toà án. Tùy theo

với từng chủ thể khác nhau, Thẩm phán có những vị trí, vai trò khác nhau.

- Quan hệ giữa Thẩm phán với lãnh đạo Toà án:

Mối quan hệ giữa Thẩm phán và lãnh đạo Tòa án vừa thể hiện tính chất của

mối quan hệ hành chính, vừa thể hiện tính chất của mối quan hệ tố tụng.

Lãnh đạo Tòa án bao gồm Chánh án, Phó Chánh án là những người lãnh đạo,

quản lý mọi mặt của cơ quan Toà án để đảm bảo hoạt động của Tòa án với vai trò là

một cơ quan xét xử của Nhà nước. Thẩm phán là một thành viên của cơ quan, do đó

chịu sự chi phối chung của hoạt động quản lý, điều hành của Chánh án, Phó Chánh

án. Quan hệ chi phối này thể hiện trong mối quan hệ hành chính, nghĩa là lãnh đạo

Tòa án chỉ quản lý về mặt con người, còn trong lĩnh vực xét xử Thẩm phán được

độc lập về chuyên môn trong việc áp dụng pháp luật, Chánh án và Phó Chánh án

không được can thiệp vào.

Mối quan hệ tố tụng giữa lãnh đạo và Thẩm phán chỉ thể hiện trong một số

phạm vi nhất định như: Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án

hình sự; Quyết định thay đổi Thẩm phán trước khi mở phiên tòa; Ra quyết định thi

hành án, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, quyết

định xóa án tích đối với những bản án mà Thẩm phán đã xét xử... Khi Thẩm phán

được Chánh án giao hồ sơ vụ án để giải quyết, Thẩm phán phải nghiên cứu và đề

xuất những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chánh án để Chánh án giải quyết như việc

áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định chuyển vụ án nếu vụ án

không thuộc thẩm quyền giải quyết… Trong các quan hệ này, Thẩm phán buộc phải

chấp hành các quyết định của lãnh đạo Tòa án.

17

Trường hợp Thẩm phán đồng thời là Chánh án hoặc Phó Chánh án thì người

này phải thực hiện đầy đủ, rạch ròi những nhiệm vụ quyền hạn của Chánh án hay

Phó Chánh án và Thẩm phán mà pháp luật quy định. Chẳng hạn, Thẩm phán đồng

thời là Chánh án thì Quyết định đưa vụ án ra xét xử vẫn ghi người ký ban hành là

Thẩm phán, nhưng trong quyết định tạm giam thì ghi người ký là Chánh án.

- Quan hệ giữa Thẩm phán với nhau:

Mối quan hệ giữa các Thẩm phán phát sinh trong hoạt động xét xử và trong

hoạt động bình thường Tòa án. Mối quan hệ giữa các Thẩm phán Tòa án với nhau

chủ yếu là quan hệ phối hợp công tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ

được giao. Mối quan hệ tố tụng giữa các Thẩm phán thể hiện trong việc: Thẩm phán–

chủ tọa phiên tòa với Thẩm phán trong HĐXX-Thẩm phán dự khuyết trong một vụ

án hình sự. Mối quan hệ này chỉ phát sinh từ khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử

theo quy định của điều 288 Bộ Luật TTHS.

- Quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân:

Hội thẩm nhân dân là những người được bầu theo quy định của pháp luật để

làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án với mục đích đảm

bảo tính dân chủ. Hội thẩm nhân dân không đồng thời là cán bộ thuộc biên chế của

Tòa án, tuy nhiên, họ chịu sự phân công của Chánh án nơi được bầu khi tham gia

HĐXX. Trong quy định của Luật, Hội thẩm nhân dân cũng có trách nhiệm nghiên

cứu hồ sơ, tham gia xét xử. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm phát sinh từ

khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm

là mối quan hệ độc lập, thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác

và độc lập với chính những thành viên trong HĐXX. Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, … Khi xét xử Hội thẩm

ngang quyền với Thẩm phán”, tuy nhiên trong hoạt động xét xử, Thẩm phán vẫn

giữ vai trò là trung tâm. Điều này thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử Thẩm phán

luôn giữ vai trò chủ đạo điều khiển phiên toà từ phần thủ tục đến phần tuyên án.

Trong quá trình nghị án, Hội thẩm có quyền nêu ý kiến về việc giải quyết vụ án và

biểu quyết, nếu thấy Hội thẩm có ý kiến không đúng thì Thẩm phán có quyền phân

18

tích, giải thích và tiến hành biểu quyết lại bởi trên thực tế, các Hội thẩm nhân dân

được bầu có thể không phải là những người được đào tạo chuyên về pháp luật.

- Quan hệ giữa Thẩm phán và thư ký phiên tòa:

Thư ký phiên tòa là người tiến hành tố tụng, được Chánh án phân công làm thư

ký đối với từng vụ án cụ thể.

Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án được điều chỉnh bằng

pháp luật tố tụng và chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án. Thư ký Tòa

án là người giúp việc cho Thẩm phán để thực hiện những công việc trong quá

trình xét xử vụ án, do đó, trong mối quan hệ này, Thẩm phán giữ vai trò chỉ đạo

nhiệm vụ cho Thư ký, giám sát, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn Thư ký thực

hiện các công việc, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ví dụ như

để chuẩn bị phiên tòa, thư ký giúp thẩm phán làm giấy triệu tập bị can, bị cáo,

thông báo cho luật sự hoặc người bào chữa… Ở phiên tòa, Thư ký kiểm tra sự có

mặt, vắng mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa; phổ biến nội quy

phiên tòa; ghi biên bản phiên tòa… Sau phiên tòa, Thư ký giúp Thẩm phán

chuyển giao bản án cho cơ quan liên quan; thông báo kháng cáo, kháng nghị,

chuyển hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị cho cấp phúc thẩm.

* Quan hệ bên ngoài Tòa án

Hoạt động xét xử của Thẩm phán không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ nội bộ

cơ quan Tòa án mà cần phải duy trì mối quan hệ với các chủ thể khác.

- Quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên:

Mối quan hệ giữa Thẩm phán và KSV là mối quan hệ phối hợp nhưng theo

quy định của pháp luật thì có sự kiểm tra, chế ước lẫn nhau. Tại phiên tòa, nếu KSV

làm tốt vai trò công tố nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của

Thẩm phán, ngược lại, Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử đúng đắn sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho KSV thực hành quyền công tố Nhà nước và kiểm sát hoạt động

tư pháp. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và KSV không những là quan hệ phối hợp

mà còn là chế ước, nghĩa là có sự tác động qua lại giữa các chủ thể nhằm kiểm soát

lẫn nhau việc tuân thủ pháp luật, tránh việc lạm quyền. Tại phiên tòa, KSV nhân

19

danh Nhà nước thực hiện quyền công tố, HĐXX sẽ quyết định tội trạng và mức

hình phạt. Mọi hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo đúng yêu cầu của TTHS,

do đó, KSV tại phiên tòa ngoài chức năng truy tố còn có chức năng giám sát việc

tuân thủ của HĐXX tại phiên tòa cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có

thẩm quyền. Các chức năng này được KSV thực hiện thông qua hoạt động tố tụng

tại phiên toà và ngay cả sau khi phiên toà kết thúc, KSV vẫn còn phải tiếp tục kiểm

sát tính hợp pháp và có căn cứ của bản án mà HĐXX đã tuyên.

Như vậy, trong xét xử một vụ án hình sự, mối quan hệ giữa Thẩm phán và

KSV là mối quan hệ phối hợp nhưng không làm mất đi tính độc lập của nhau. Trong

đó, ở giai đoạn xét xử, Thẩm phán là người giữ vai trò chỉ đạo, quyết định quá trình

xét xử, là người giữ vai trò quan trọng nhất trong việc đưa ra bản án, cũng đồng thời

là người cuối cùng có thẩm quyền kết thúc một quá trình tố tụng.

- Quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác trong hoạt

động tố tụng:

Các chức danh bổ trợ tư pháp bao gồm có Người bào chữa, Người giám hộ,

Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Người giám định, Người phiên dịch, Người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.

Theo quy định của pháp luật người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng có thể là luật sư hoặc những người có

kiến thức về pháp luật được Tòa án chấp nhận làm người bào chữa, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo đó, hoạt động của họ không phải là

hoạt động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ tới hoạt động xét xử vụ án hình

sự. Người bào chữa giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình tố tụng, đại diện cho

bên gỡ tội đối đáp, tranh luận với KSV (bên buộc tội) tại phiên toà để làm rõ nội

dung vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các bên tham gia tố tụng có

quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh việc phạm tội của bị cáo, khi thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng giúp Thẩm phán làm rõ mọi tình tiết của vụ

án để đưa ra phán quyết khách quan và công minh. Trong mối quan hệ này Thẩm

20

phán là người giữ vị trí, vai trò trung tâm của hoạt động xét xử.

Trong mối quan hệ với Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp: mối quan hệ này chỉ

phát sinh ngay tại phiên tòa xét xử mà cụ thể là cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp làm

nhiệm vụ tại phiên tòa theo sự điều khiển của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa.

Trong mối quan hệ với các giám định viên: mối quan hệ này chỉ phát sinh

khi vụ án có yêu cầu việc giám định các tài liệu, chứng cứ liên quan. Các giám định

viên là người sử dụng kiến thức chuyên môn để đưa ra kết luận theo nội dung yêu

cầu. Từ những kết luận đó, HĐXX xem xét để áp dụng pháp luật cho đúng và đảm

bảo tính khách quan của bản án. Nếu công tác giám định không chính xác sẽ dẫn

đến phán quyết của Toà án không đảm báo tính đúng đắn, có thể gây ra oan, sai.

Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác nhau là có

sự khác nhau. Sự khác biệt này xuất phát từ vị trí tố tụng của các chức danh này. Quan

hệ giữa Thẩm phán với các chức danh trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể.

1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Quy định về vai trò của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong TTHS nói chung và trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói

riêng, Thẩm phán đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Ở nước ta, bộ máy nhà

nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp. Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là

cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền

tư pháp”[20]. Việc thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một

trong những chức năng rất quan trọng được giao cho TAND. Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến

năm 2020” phần phương hướng đã nêu rõ: “…1.2. Tổ chức các cơ quan tư pháp

và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và

điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và

xét xử là hoạt động trọng tâm”[5].

21

Hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thông qua HĐXX trong đó

Thẩm phán là nhân vật trung tâm với tư cách là người đại diện cho Nhà nước thực

thi công lý. Thẩm phán là người thay mặt Nhà nước giữ vai trò quyết định trong

việc kết thúc một quá trình tố tụng, phán quyết một hay một vài người nào đó là có

tội hay không và hậu quả pháp lý kèm theo nếu họ có tội.

Khi làm chủ toạ phiên toà, Thẩm phán là người tổ chức và điều khiển phiên

toà, xét hỏi, xem xét vật chứng, ra bản án, quyết định thay mặt HĐXX tuyên bản án

nhân danh Nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò của Thẩm phán trong

việc xét xử các vụ án Hình sự thể hiện cụ thể như sau:

- Đối với thủ tục bắt đầu phiên toà, Thẩm phán với tư cách là chủ toạ phiên

toà có vai trò quan trọng, chỉ đạo và điều hành, tiến hành những thủ tục cần thiết để

các thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án có được tiến hành tiếp hay không

và nếu được tiến hành thì các thủ tục đó được diễn ra một cách thuận lợi, đúng pháp

luật, đảm bảo cho việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội và đảm bảo pháp

chế xã hội chủ nghĩa.

- Đối với thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, vai trò của Thẩm phán được thể hiện

một cách trực tiếp nhất. Thẩm phán là người trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị thiệt

hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan..., xem xét các vật chứng, đọc biên

bản, công bố lời khai, công bố tài liệu…

- Đối với việc tranh tụng diễn ra tại phiên toà thì vai trò của Thẩm phán được

thể hiện một cách rõ nét đầy đủ nhất. Bởi vì thông qua diễn biến tranh tụng, Thẩm

phán đánh giá được đúng nội dung thực chất của vụ án, các chứng cứ, các quan

điểm lập luận của mỗi bên, trên cơ sở đó căn cứ vào quy định của pháp luật, Thẩm

phán ra các quyết định đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thông qua vai trò xét xử các vụ án hình sự, Thẩm phán đã góp phần to lớn

vào việc trừng trị kịp thời những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật tự an toàn xã hội,

bảo vệ quyền con người và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Thẩm phán

còn là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc cho công dân, tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực

đấu tranh phòng chống tội phạm.

22

Đồng thời, bằng việc xét xử tại phiên toà, Thẩm phán còn góp phần vào việc

phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật đối với người phạm tội và đối với cộng

đồng xã hội. Bên cạnh đó bằng công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử,

bằng kinh nghiệm tích luỹ trong mỗi vụ án cụ thể, Thẩm phán có thể rút ra những

kinh nghiệm quý báu trong việc kiến nghị, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.

1.2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự

Pháp luật TTHS Việt Nam đã quy định, Thẩm phán là người giữ vị trí trung

tâm và có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, là người bảo vệ

sự công bằng, công lý và dân chủ thông qua hoạt động xét xử. Khoản 1 Điều 45 Bộ

luật TTHS năm 2015 đã quy định, khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình

sự, Thẩm phán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa: Đây là một khâu rất quan

trọng trong quá trình xét xử. Để nắm được nội dung của vụ án trước khi quyết định

đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ, thông qua hoạt động này

Thẩm phán sẽ xác định đúng thẩm quyền giải quyết, từ đó có hướng giải quyết vụ

án đúng đắn và chính xác.

+ Tiến hành xét xử vụ án: Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và nắm bắt được

toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án

hình sự sẽ trực tiếp tham gia xét xử tại phiên tòa sơ thẩm và tiến hành thực hiện

đúng các chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật TTHS.

+ Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền

của HĐXX: Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự của Thẩm phán. Tại phiên tòa, Thẩm phán tiến hành các hoạt động tố tụng

từ khi bắt đầu phiên tòa cho tới khi nghị án và tuyên án. Trong quá trình nghị án,

Thẩm phán có quyền đưa ra ý kiến và biểu quyết những vấn đề liên quan đến nội

dung vụ án nhằm góp phần giải quyết vụ án được toàn diện, khách quan và đúng

pháp luật.

+ Tiến hành hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự

23

phân công của Chánh án Tòa án.

Tại khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và những

nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam;

b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;

d) Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa;

đ) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại,

thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định

giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;

e) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát

người dưới 18 tuổi phạm tội; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;

g) Qyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;

h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án

theo sự phân công của Chánh án Tòa án theo quy định của Bộ luật này”[21].

Như vậy, Thẩm phán với tư cách thực hiện chức năng xét xử, thay mặt HĐXX

tuyên án nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, quyết định một người có tội

hay vô tội, quyết định tội danh và mức hình phạt cụ thể đối với người có tội. Để thẩm

phán có thể thực hiện chức năng này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về

quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán ở mỗi trình tự xét xử vụ án hình sự:

1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự

Chuẩn bị xét xử là một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bao

gồm nhiều hoạt động tố tụng khác nhau nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm

bảo cho việc xét xử tại phiên tòa diễn ra thuận lợi, đúng quy định của pháp luật.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán phải chuẩn bị và

làm những thủ tục cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật

24

hình sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Thẩm phán được phân công

chủ tọa phiên tòa nhận được hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 277 Bộ luật

TTHS 2015. Chủ thể chính của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 45 Bộ luật TTHS năm 2015 thì “Thẩm phán

được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:

Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa...”[21].

Khoản 2, điều 278 Bộ luật TTHS quy định “...Trong thời hạn 03 ngày kể từ

ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

giải quyết vụ án”[21].

* Khi Thẩm phán được phân công là chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Để

đảm bảo cho việc xét xử đúng thẩm quyền, tránh sai sót, Thẩm phán cần phải

nghiên cứu hồ sơ vụ án trong đó có những vấn đề cần đặc biệt lưu ý như: xác định

thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định các thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố có

đảm bảo đúng Luật? tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có đầy đủ để làm rõ những

vấn đề phải chứng minh trong vụ án? trong bản cáo trạng có viện dẫn pháp luật và

định tội danh rõ ràng chưa?... Việc nghiên cứu hồ sơ sẽ giúp Thẩm phán xác định

được rõ vụ án đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử chưa? có cần trả hồ sơ điều tra bổ

sung không; có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không?... Trường hợp vụ án

đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử, Thẩm phán căn cứ vào hồ sơ để dự thảo kế hoạch xét

hỏi, bản án và làm các công tác chuẩn bị khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.

* Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy

định của Bộ luật TTHS.

Tại khoản 1, Điều 278 Bộ luật TTHS quy định: "Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm

phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn

chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam

do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”[21]. Điều này có nghĩa Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ

25

biện pháp ngăn chặn "đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo", "cấm đi khỏi nơi

cư trú" hoặc "bảo lĩnh" chứ không có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện

pháp "tạm giam".

* Đối với quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật

TTHS năm 2015 quy định:

“Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ

sung khi thuộc một trong các trường hợp:

a. Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề cần quy

định tại điều 85 của Bộ Luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

b. Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện

hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm;

c. Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện

hành vi liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

d. Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”[21].

Như vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định trả hồ sơ cho

VKS để điều tra bổ sung khi xảy ra một trong các trường hợp trên.

* Quyết định tạm đình chỉ vụ án: Theo quy định tại điểm b,c khoản 1 Điều

229, Điều 281 Bộ luật TTHS năm 2015, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ

án khi có căn cứ bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận

của Hội đồng giám định pháp y; chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị

can đang ở đâu.

* Quyết định đình chỉ vụ án: Theo Điều 282 Bộ luật TTHS năm 2015 thì khi

nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định

đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây: người đã yêu cầu khởi tố rút yêu

cầu; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm

hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ

vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội

phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ

trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; VKS rút toàn bộ quyết định truy tố

26

trước khi mở phiên tòa.

* Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét

xử khi nghiên cứu hồ sơ vụ án mà thấy vụ án có đủ chứng cứ mà không có các căn

cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Trường hợp VKS

đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ, nếu thấy không cần thiết

phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần thứ hai, hoặc trường hợp VKS không bổ sung được

những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán

cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử,

Thẩm phán quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa.

Để vụ án được đưa ra xét xử đúng quy định của Bộ luật TTHS, Thẩm phán

được phân công chủ tọa phiên tòa ngoài việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và ra các quyết

định trước khi mở phiên tòa, thì còn phải chuẩn bị các công tác khác như dự kiến

các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa; triệu tập những người đến tham dự phiên

tòa; chuẩn bị đề cương điều khiển phiên tòa (bản đề cương, ghi trình tự các việc cần

phải làm từ khi khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà Trong quá trình xét

xử, phần nào đã giải quyết thì đánh dấu lại để không bị sót cũng như không bị lặp

lại); lập kế hoạch xét hỏi (việc lập kế hoạch xét hỏi bao gồm việc xác định trình tự

xét hỏi, dự kiến các câu hỏi và thời gian xét hỏi cho mỗi đối tượng, dự kiến các tình

huống có thể xảy ra trong quá trình xét hỏi. Việc chứng minh bị cáo có tội hay không

có tội, chỉ được thể hiện trong bản án khi tuyên án); dự thảo án văn và các quyết định

khác; mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử...

Như vậy có thể khẳng định: hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

sẽ giúp cho Thẩm phán có được đường lối giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan,

công minh. Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình là tiền đề để Thẩm phán

thực hiện tốt chức năng xét xử tại phiên tòa, góp phần vào việc đưa ra một bản án

“thấu tình, đạt lý” nhưng vẫn đảm bảo được sự công bằng, chất lượng, hiệu quả của

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm

Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được xác định là một khâu đặc

27

biệt quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật TTHS quy định nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm

phán trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án hình sự là:

- Tiến hành xét xử vụ án;

- Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền

của HĐXX;

Theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật TTHS thì: “HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán

và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ

thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ

luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì

HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”[21].

Theo quy định của Bộ luật TTHS, để đảm bảo hoạt động xét xử được khách

quan, Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp:

- Thẩm phán đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người

thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo.

- Thẩm phán đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,

người giám định, người phiên dịch trong vụ án;

- Có căn cứ khác để có thể cho rằng Thẩm phán không vô tư trong khi làm nhiện vụ;

- Thẩm phán và Hội thẩm trong HĐXX là người thân thích với nhau.

- Thẩm phán đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố

tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, KSV, Thư Ký Tòa án.

Theo quy định của Bộ Luật TTHS năm 2015 thì các thành viên của HĐXX

phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc (khoản 1 điều 288) nhằm đảm bảo

cho việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói, liên tục. Tuy nhiên trong

quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử được

thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết tham gia

phiên tòa từ đầu. Trường hợp HĐXX có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên

tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên HĐXX làm chủ

28

toạ phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên HĐXX; Trường

hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ toạ

phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên tòa (khoản 2,3,

điều 288 Bộ Luật TTHS năm 2015).

Theo quy định của pháp luật TTHS năm 2015, thì tại phiên toà sơ thẩm vụ án

hình sự, Thẩm phán Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người

điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn

đề Bộ luật TTHS quy định đối với HĐXX.

Phiên toà hình sự được tiến hành theo 3 bước với những thủ tục khác nhau: Thủ

tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (bao gồm xét hỏi và tranh luận),

nghị án và tuyên án.

* Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong thủ tục bắt đầu phiên tòa:

Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 300 đến Điều 305 Bộ luật

TTHS, Thẩm phán Chủ tọa phiên toà phải tiến hành các hoạt động: công bố quyết

định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập, giải

thích quyền và nghĩa vụ, giới thiệu những người tiến hành tố tụng, giải quyết yêu

cầu của những người tham gia tố tụng... Thủ tục này vừa là nhiệm vụ, quyền hạn,

đồng thời thể hiện vai trò của người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật TTHS: chỉ giải

thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, không bình luận, đánh giá

hành vi phạm tội, không giải thích các tình tiết là yếu tố định tội, yếu tố định khung

hình phạt, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

* Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong thủ tục tranh tụng tại

phiên tòa:

Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được quy định từ Điều 306 đến Điều 325 Bộ

luật TTHS bao gồm thủ tục xét hỏi và tranh luận.

- Theo quy định của Bộ luật TTHS thì việc xét hỏi tại phiên toà tập trung chủ

yếu cho HĐXX và thể hiện như một nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc. Điều này

biểu hiện cụ thể trong quy định tại Điều 307 “HĐXX phải xác định đầy đủ những tình

29

tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người, Chủ tọa phiên tòa điều hành

việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.…”; “HĐXX phải hỏi

riêng từng bị cáo” (Điều 309); “HĐXX phải hỏi riêng từng người làm chứng và

không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó” (Điều

311). Về hoạt động xét hỏi của KSV quy định tại Điều 307 “Khi xét hỏi từng người,

chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến KSV”; Điều 309 “KSV

hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và

những tình tiết khác của vụ án”; Điều 311 “KSV, người bào chữa người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm

chứng”[21]. Theo quy định trên thì việc xét hỏi làm rõ các tình tiết của vụ án là trách

nhiệm bắt buộc của HĐXX, còn KSV khi thấy cần phải chứng minh, làm rõ thêm cho

những quan điểm trong cáo trạng “có thể” tiếp tục xét hỏi tại phiên tòa.

Theo quy định của Bộ luật TTHS, phần xét hỏi được bắt đầu bằng việc Chủ

tọa phiên tòa đề nghị KSV đọc bản cáo trạng. Để việc xét hỏi diễn ra khách quan,

công minh, hiệu quả thì HĐXX và đặc biệt là Thẩm phán phải xác định đầy đủ các

tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án để sắp xếp trình tự xét hỏi sao cho

hợp lý (Điều 307 Bộ luật TTHS). Mặc dù Bộ luật TTHS không quy định rõ việc hỏi

ai trước nhưng trên thực tế, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và là nhân vật

trung tâm của phiên tòa nên việc xét hỏi thông thường được bắt đầu từ bị cáo.

Trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, để đạt kết quả tốt, chủ tọa phiên tòa với vai trò

là người điều hành cần nắm chắc các quy định của Bộ luật TTHS, đọc kỹ hồ sơ vụ án, dự

kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và dự kiến phương án giải quyết.

Trong quá trình xét hỏi khi thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy

đủ, toàn diện thì Chủ tọa phiên tòa hỏi KSV, người bào chữa và những người tham

gia tố tụng khác xem có đề nghị hỏi thêm vấn đề gì nữa không. Trường hợp có

người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì Chủ tọa phiên tòa quyết định

tiếp tục việc xét hỏi, nhưng nếu thấy nội dung vấn đề mà người đó yêu cầu đã được

xét hỏi đầy đủ hoặc không liên quan đến vụ án thì Chủ tọa phiên tòa không chấp

nhận và giải thích cho người đó biết, sau đó Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc

30

phần xét hỏi tại phiên tòa và chuyển sang phần tranh luận.

- Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong việc điều khiển tranh

luận tại phiên tòa:

Tranh luận tại phiên tòa được quy định từ Điều 319 đến 325 Bộ luật TTHS.

Trong phần này Kiểm sát viên, Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) sẽ đưa ra các

lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. HĐXX và Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa không tham gia vào việc đối đáp mà mà chỉ đóng vai trò giống như một

người trọng tài, điều khiển việc tranh luận giữa Kiểm sát viên, Luật sư (hoặc bị cáo,

người bào chữa). Việc tranh luận tại phiên tòa không bị hạn chế thời gian nhằm tạo

điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, tuy nhiên Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa có quyền cắt bỏ những ý kiến không liên quan đến vụ án,

đồng thời có quyền đề nghị KSV phải đối đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ

án của Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) khi những ý kiến đó chưa được KSV

tranh luận. Việc điều khiển tranh luận của Chủ tọa phiên tòa phải đảm bảo bảo công

bằng, bình đẳng giữa các bên tham gia tranh luận. Nếu trong phần tranh luận thấy

có những vấn đề chưa rõ, HĐXX có thể quay lại phần xét hỏi. Trường hợp những

người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết

thúc tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng.

* Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong nghị án và tuyên án:

Nghị án và tuyên án được quy định từ Điều 326 đến điều 329 Bộ luật TTHS.

Sau khi kết thúc phần tranh luận HĐXX bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

vào phòng nghị án.

Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa là người chủ trì phần nghị án. Để việc nghị án

đầy đủ, chính xác, không bỏ sót các vấn đề cần giải quyết, Chủ tọa phiên tòa cần

chuẩn bị trước dự thảo án văn. Khi nghị án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nêu lần lượt

từng vấn đề như tội danh của bị cáo, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự của bị cáo, những vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, xử lý vật

chứng, yêu cầu cơ quan tổ chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa... để HĐXX thảo

31

luận và quyết định bằng biểu quyết.

Mặc dù Bộ luật TTHS không quy định, nhưng theo thực tiễn thì Chủ tọa

phiên tòa lập biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Khi

biểu quyết, các thành viên trong HĐXX biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu

quyết sau cùng.

Trước khi tuyên án, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người trong

phòng xử án phải đứng nghe Tòa tuyên án. Thẩm phán Chủ toạ tuyên án bằng cách

đọc nguyên văn bản án. Trong một số trường hợp xử kín, việc tuyên án chỉ bằng cách

đọc nguyên văn phần quyết định của bản án.

Trước khi tuyên bố kết thúc phiên tòa, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa phải

giải thích quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cho bị cáo và những

người tham gia tố tụng biết. Đồng thời giải thích về việc chấp hành bản án như giải

thích về chế định án treo và nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong thời gian

thử thách; giải thích về việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ...

Tóm lại, trong bất cứ phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự nào cũng cần có

Thẩm phán: Thẩm phán chuẩn bị cho phiên tòa xét xử, điều hành phiên toà và là

thành viên trong HĐXX để quyết định một người có tội hay không có tội. Thẩm

phán đóng vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đên chất lượng và hiệu quả của

hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án diễn ra theo

đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, Bộ luật TTHS của nước ta đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về

địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đó là

căn cứ quan trọng để Thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Thẩm

phán với tư cách là đại diện cho nền công lý của quốc gia, mỗi Thẩm phán cần phải

có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình trong quá xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự để đảm bảo cho các phán quyết của HĐXX được công minh,

đúng pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, uy tín của cơ quan tư pháp nói

chung và của Toà án nói riêng.

32

1.2.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán sau phiên toà sơ thẩm

Sau phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán rà soát lại bản án, nếu có lỗi về chính tả

thì số liệu bị nhầm lẫn hoặc do tính toán sai (ví dụ như tính toán việc đền bù thiệt

hại về dân sự) thì chỉnh sửa nhưng không được làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất

lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Đồng thời việc sửa chữa, bổ

sung bản án được thể hiện bằng văn bản và giao ngay cho bị cáo, bị hại, VKS cùng

cấp, người bào chữa.

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Thẩm phán phải giao bản án

cho bị cáo, bị hại, VKS cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho bị cáo bị xét xử

vắng mặt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật TTHS, VKS cấp trên

trực tiếp, Cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền,

Trại tạm giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; thông báo bằng văn bản cho

chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo

làm việc, học tập; cấp bản sao bản án hoặc trích lục bản án về những phần có liên

quan cho đương sự hoặc người đại diện của họ.

Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản

2 Điều 290 của Bộ luật TTHS thì Thẩm phán phải có trách nhiệm yêu cầu thư ký niêm

yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú cuối cùng hoặc cơ

quan, tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.

Thẩm phán giao thư ký hoặc cán bộ văn phòng gửi bản án cho cơ quan thi

hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án sơ thẩm có tuyên hình phạt

tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

1.2.3. Trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Theo quy định của điều 76 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thì trách

nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự bao gồm: Tôn trọng nhân

dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và

chịu sự giám sát của nhân dân; Độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét

xử; chấp hành quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của

Tòa án; Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật; Học

33

tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ

Tòa án; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và

các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất,

mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

định của luật.

Theo quy định của Bộ Luật Hình sự, nếu có các vi phạm pháp luật nghiêm

trọng từ phía Thẩm phán như cố ý ra bản án, quyết định trái pháp luật, cố ý làm sai

lệch hồ sơ vụ án thì Thẩm phán có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các

Điều 370 - tội ra bản án trái pháp luật; Điều 371 - tội ra quyết định trái pháp luật;

34

Điều 375 - tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (BLHS năm 1999).

Tiểu kết Chương 1

1. Trong chương 1, tác giả luận văn đã nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý

luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự. Qua đó đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán là: "Tổng thể

các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ pháp lý của Thẩm

phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy định".

2. Trên cơ sở khái niệm về địa vị pháp lý của Thẩm phán, tác giả luận văn đã

phân tích, tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Thẩm

phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: vai trò của Thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự (Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự; Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm; Nhiệm vụ,

quyền hạn của Thẩm phán sau phiên toà sơ thẩm); Trách nhiệm của Thẩm phán trong

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

3. Từ việc phân tích, tìm hiểu trên giúp tác giả có cái nhìn khái quát, tổng

thể về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp

35

luật hiện hành.

Chương 2

THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH BẮC NINH

2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm

phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh

2.1.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm

phán trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Ở các TAND tỉnh Bắc Ninh, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đa số

các Thẩm phán đã nghiên cứu kỹ hồ sơ để nắm vững nội dung vụ án, đánh giá một

cách khách quan, đầy đủ cả về tính hợp pháp của các thủ tục tố tụng và các chứng

cứ chứng minh tội phạm (xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định các thủ

tục tố tụng trong điều tra, truy tố đảm bảo đúng Luật; xem xét tài liệu, chứng cứ

trong hồ sơ vụ án có đầy đủ để làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án?

trong bản cáo trạng có viện dẫn pháp luật và định tội danh rõ ràng chưa?). Trên cơ

sở đó, có hướng giải quyết vụ án đúng đắn và chính xác..

Trường hợp đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử, các Thẩm phán đều thực hiện

các hoạt động tố tụng tiếp theo như ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu

tập những người liên quan đến tham dự phiên tòa; chuẩn bị đề cương điều khiển

phiên tòa và đề cương xét hỏi, dự thảo án văn và các quyết định khác; chuẩn bị

những điều kiện vật chất cho việc xét xử, mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử...

Theo số liệu thống kê cho thấy, trong vòng 5 năm, ngành Tòa án tỉnh Bắc

Ninh đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung 568 vụ/903 bị cáo, trong đó số vụ được

36

Viện kiểm sát chấp nhận là 568 vụ (100%) (Bảng 2.1).

Bảng 2.1: Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung

Trả hồ sơ điều tra bổ sung

Tỉ lệ vụ Tổng số án Xét xử Năm Tổng số Được VKS án VKS giải quyết chấp chấp

nhận (Vụ) nhận Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo

2015 1106 2203 1080 2152 160 307 160 100%

2016 1073 2042 1072 2041 75 205 75 100%

2017 1580 2580 1570 2561 48 131 48 100%

2018 1753 2868 1740 2812 51 185 51 100%

2019 1354 2362 1324 2278 34 75 34 100%

Tổng 6866 12055 6786 11844 568 903 568 100% cộng

Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]

2.1.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm

phán tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Thực tiễn tại ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh những năm qua cho thấy, tại phiên

tòa hình sự sơ thẩm, thành phần HĐXX đều đảm bảo các quy định của Bộ Luật

TTHS, chưa có vụ án nào phải hoãn hoặc đình chỉ do sự không vô tư, thiếu khách

quan của HĐXX hoặc do thiếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân như theo quy định

của điều 288 Bộ luật TTHS.

Các quy định của thủ tục bắt đầu phiên tòa đều được Thẩm phán – chủ tọa phiên

tòa tuân thủ nghiêm túc dưới sự giám sát chặt chẽ của KSV.

Trong phần xét hỏi, do các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đều chuẩn bị chu

đáo đề cương xét hỏi nên đa số diễn biến của các phiên tòa đều diễn ra theo những dự

37

kiến đã đặt ra. Sự thật khách quan của vụ án từng bước được làm sáng tỏ thông qua

việc xét hỏi bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các thành phần tham

gia tố tụng khác. Không có tình trạng dụ cung, mớm cung.

Thực hiện cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ tại phiên tòa mà trọng tâm là

phần tranh luận của quá trình tranh tụng nên đã cơ bản được thực hiện tương đối

đầy đủ trong thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

Đa số các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đã giữ đúng vai trò là người trọng tài điều

khiển việc tranh luận giữa VKS với Bị cáo, người bào chữa, Luật sư..., HĐXX và

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tham gia vào việc đối đáp mà chỉ lắng nghe ý

kiến, quan điểm các bên tham gia tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham

gia tranh luận trình bày hết ý kiến, tuy nhiên xét thấy có những ý kiến không liên

quan đến vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu dừng lại không tranh luận,

đồng thời Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đề nghị KSV phải đối đáp lại những ý kiến

có liên quan đến vụ án của Luật sư (hoặc bị cáo, người bào chữa) khi những ý kiến

đó chưa được KSV tranh luận.. Kết quả tranh luận được HĐXX sử dụng là một

trong những căn cứ quan trọng cho việc đưa ra các phán quyết.

Các quy định về nghị án và tuyên án được đại đa số các thẩm phán – chủ tọa

phiên tòa thực hiện nghiêm túc. Phần lớn các thẩm phán đều chuẩn bị trước nội

dung cũng như trình tự từng vấn đề đưa ra thảo luận và xem xét: tội danh của bị

cáo, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo,

những vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, yêu cầu cơ quan

tổ chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa... để HĐXX thảo luận và biểu quyết.

Qua thực tiễn xét xử từ năm 2015 đến nay, Tòa án các cấp ở tỉnh Bắc Ninh đã

thụ lý giải quyết 6866 vụ án hình sự sơ thẩm với 12055 bị cáo. Đã giải quyết 6786 vụ

với 11844 bị cáo, đạt tỷ lệ 98,83%. Kết quả cụ thể như sau:

- Năm 2015 toàn ngành thụ lý 1106 vụ - 2203 bị cáo. Đã giải quyết 1080 vụ -

2152 bị cáo. Đạt tỉ lệ 97,64% về số vụ; 97,68% về số bị cáo.

- Năm 2016 toàn ngành thụ lý 1073 vụ - 2042 bị cáo. Đã giải quyết 1072 vụ -

38

2041 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,9% về số vụ; 99,95% về số bị cáo.

- Năm 2017 toàn ngành thụ lý 1580 vụ - 2580 bị cáo. Đã giải quyết 1570 vụ -

2561 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,36% cả về số vụ, 99,26% về số bị cáo.

- Năm 2018 toàn ngành thụ lý 1753 vụ - 2868 bị cáo. Đã giải quyết 1740 vụ -

2812 bị cáo. Đạt tỉ lệ 99,25% về số vụ; 98,04% về số bị cáo.

- Năm 2019, toàn ngành thụ lý 1354 vụ - 2362 bị cáo. Đã giải quyết 1324 vụ

-2278 bị cáo. Đạt tỷ lệ 97,78% về số vụ; 96,44% về số bị cáo.

Nhìn vào số liệu trên có thể thấy, số án hình sự sơ thẩm của Tòa án hai cấp

tỉnh Bắc Ninh thụ lý qua các năm nhìn chung đều tăng, tuy nhiên Tòa án hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều cố gắng trong giải quyết án vì vậy tỷ lệ giải quyết của

từng năm luôn đạt trên 97% (Bảng 2.2).

Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Bắc Ninh

Tỉ lệ tăng, giảm so với Thụ lý Giải quyết (Đạt tỉ lệ) Năm năm trước

Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo

2015 1106 2203 Giảm 0,04% Giảm 23,5% 1080 2152

(97,64%) (97,68%)

2016 1073 2042 Giảm 0,3% Giảm 0,7% 1072 2041

(99,9%) (99,95%)

2017 1580 2580 Tăng 47,2% Tăng 26,3% 1570 2561

(99,36%) (99,26%)

2018 1753 2868 Tăng 10,9% Tăng 11,1% 1740 2812

(99,25%) (98,04%)

2019 1354 2362 Giảm 22,7% Giảm 17,6% 1324 2278

(97,78%) (96,44%)

Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]

Qua thực tiễn cũng như các kết quả tại biểu 1, 2 cho thấy chất lượng giải

quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của các Tòa án tỉnh Bắc Ninh ngày càng được nâng

39

cao. Các vụ án được giải quyết thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS và tinh

thần cải cách tư pháp. Phán quyết của Tòa án đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường hợp nào bị oan sai.

Theo báo cáo tổng kết năm thì từ năm 2015 đến năm 2019, số án hình sự sơ

thẩm mà Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã giải quyết là 6786 vụ/11844 bị cáo, trong

đó số vụ có kháng cáo, kháng nghị là 1.161 vụ/1703 bị cáo, chiếm tỷ lệ 17,1%. Kết

quả giải quyết phúc thẩm: đình chỉ vụ án 706 vụ (chiếm 60,8%), y án 212 vụ (chiếm

18,2%), sửa án 225 vụ (chiếm 19,3%), hủy án 18 vụ (chiếm 0,24%).

Để có được những kết quả khả quan trên là do Luật TTHS cũng như các văn

bản pháp luật TTHS khác đã quy định tương đối rõ chức năng của Thẩm phán trong

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với những trình tự rõ ràng, cụ thể, đáp ứng

được thực tiễn yêu cầu của hoạt động xét xử. Hơn nữa, đội ngũ Thẩm phán – chủ

thể tiến hành hoạt động xét xử đã thực hiện và phát huy đầy đủ, nghiêm túc các

chức năng của mình để đưa ra được bản án “thấu tình, đạt lý”, đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật, góp phần nâng cao về số lượng cũng như chất lượng giải quyết án

hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

2.1.3. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm

phán sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Nhìn chung sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đa số các Thẩm phán

đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình như: rà soát lại bản án, nếu có lỗi

về chính tả thì số liệu bị nhầm lẫn hoặc do tính toán sai thì chỉnh sửa, tuy nhiên việc

chỉnh sửa này không làm thay đổi bản chất vụ án hoặc bất lợi cho bị cáo và những

người tham gia tố tụng khác. Việc làm này được thể hiện bằng văn bản và được

Thẩm phán giao ngay cho bị cáo, bị hại, VKS cùng cấp, người bào chữa.

Đa số bản án được Thẩm phán giao cho bị cáo, bị hại, VKS, người bào chữa,

cơ quan điều tra cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Trại tạm

giam, Trại giam nơi đang giam giữ bị cáo; thông báo bằng văn bản cho chính quyền

xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo làm việc, học

tập; cấp bản sao bản án hoặc trích lục bản án về những phần có liên quan cho đương

40

sự hoặc người đại diện của họ theo đúng thời hạn Luật định.

Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b

khoản 2 Điều 290 của Bộ luật TTHS thì sau phiên tòa Thẩm phán yêu cầu thư ký

niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú cuối cùng

hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.

Thẩm phán giao thư ký hoặc cán bộ văn phòng gửi bản án cho cơ quan thi

hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án sơ thẩm có tuyên hình phạt

tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý

của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân

2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý

của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong những năm qua, việc thực hiện chức năng của Thẩm phán trong xét xử

án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp tỉnh Bắc Ninh vẫn còn có những tồn tại hạn

chế, thiếu sót:

- Còn có tình trạng Thẩm phán trong quá trình giải quyết án hình sự sơ thẩm

đã chưa lượng hình một cách thấu đáo, có những trường hợp xử mức hình phạt quá

nặng hoặc quá nhẹ, cho hưởng án treo không đúng quy định;

- Một số vụ án việc tranh tụng tại phiên tòa chất lượng chưa cao.

- Còn có vụ án, thẩm phán chưa thực hiện đúng các quy định về nhiệm vụ,

quyền hạn sau phiên toà sơ thẩm.

Những vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết

một số án hình sự trên địa bàn tỉnh, đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến việc

41

một số bản án bị hủy, án bị cải sửa. (Bảng 2.3).

Bảng 2.3: Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị

Kết quả phúc thẩm

Số án giải quyết

Số án có KC/KN

Y án

Sửa án

Hủy án

Đình chỉ

Năm

Bị cáo Vụ

Bị cáo

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Bị cáo

Bị cáo

Bị cáo

Tỉ lệ (Vụ)

Bị cáo

Tỉ lệ (Vụ)

2015 1106 2203

223

336 125 152 39

68 55 109 24,6% 04 07 0,17%

1073 2042

217

321 137 186 39

65 38 64 17,5% 03 06 0,13%

201 6

1580 2580

174

242 120 166 28

39 22 32 12,6% 04 05 0,22%

201 7

1753 2868

302

433 178 242 51

79 67 103 22,1% 6

9

0,18%

201 8

1354 2362

245

371 146 215 55

91 43 64 17,5% 01 01 0.04%

201 9

TC 6866 12055 1.161 1703 706 961 212 342 225 372 19,3% 18 28 0,24%

Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh [25,26,27,28,29]

2.2.1.1. Những hạn chế trong việc quy định địa vị pháp lý của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:

Qua thực tiễn xét xử cho thấy, các quy định của pháp luật về quyền năng của

Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều bất cập

cần được xem xét. Cụ thể:

Một là, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Theo quy định tại khoản 1 Điều 280

Bộ luật TTHS năm 2015 thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra

bổ sung trong những trường hợp: “Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong

những vấn đề cần quy định tại điều 85 của Bộ Luật này mà không thể bổ sung tại

phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực

hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn

có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi liên quan đến vụ án nhưng

42

chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm

nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”[21].

Quy định tại khoản 1 Điều 280 như trên là chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nhiều lúc

làm cho các Thẩm phán còn lúng túng khi áp dụng trên thực tế. Hơn nữa ngoài những

trường hợp trong quy định tại khoản 1 Điều 280 nêu trên thì trong thực tiễn vẫn còn

những lý do khác phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng Thẩm phán không biết căn cứ

vào đâu để trả hồ sơ, dẫn đến có những trường hợp Thẩm phán vẫn phải ra quyết định

trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng trong quyết định thì chỉ ghi chung chung là căn cứ

vào khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS.

Hai là, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

Tại khoản 1, Điều 278 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Sau khi thụ lý vụ

án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp

tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định”[21]. Theo quy định này

thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền quyết định việc áp

dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn như: “cấm đi khỏi nơi cư trú”, “bảo

lãnh” hoặc “đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo”. Còn việc “áp dụng, thay đổi

hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam” thì lại do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết

định trên cơ sở đề nghị của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.

Như vậy, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay do Chánh án hoặc

Phó Chánh án quyết quyết định. Việc quy định này không phù hợp với thực tiễn xét

xử, vì Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án, từ đó

sẽ hiểu vụ án một cách cặn kẽ, Thẩm phán sẽ đánh giá được tính chất, mức độ nguy

hiểm của bị can, bị cáo nên sẽ có quyết định đúng đắn có cần phải áp dụng, thay đổi

hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo hay không. Còn theo quy

định của Luật TTHS hiện hành, trong trường hợp Thẩm phán đề nghị áp dụng, thay

đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam nhưng nếu không được Chánh án hoặc Phó

43

Chánh án đồng ý thì Thẩm phán cũng phải tuân thủ theo quyết định của Chánh án

hoặc Phó Chánh án, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án của

Thẩm phán khi giải quyết, xét xử các vụ án hình sự.

Ba là, về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Điều 307 Bộ luật TTHS quy định

“HĐXX phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án

và từng người, Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước,

hỏi sau theo thứ tự hợp lý.…”; “HĐXX phải hỏi riêng từng bị cáo” (Điều 309). Về

hoạt động xét hỏi của KSV quy định tại Điều 307 “Khi xét hỏi từng người, chủ toạ

phiên toà hỏi trước rồi quyết định để các Hội thẩm, KSV, người bào chữa… thực

hiện việc hỏi”; Điều 309 “KSV hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên

quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”; Điều 311 “KSV,

người bào chữa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể

hỏi thêm người làm chứng”[21]. Quy định như trên làm cho những người tham gia

tố tụng hiểu là việc xét hỏi tại phiên toà là nhiệm vụ mang tính chất bắt buộc tập

trung chủ yếu cho HĐXX. Điều này biểu hiện cụ thể trong Việc quy định Thẩm

phán hỏi trước, mà không quy định hỏi như thế nào, dẫn đến, có thể hiểu rằng,

Thẩm phán hỏi trước về toàn bộ vụ án, đối với HĐXX, việc xét hỏi làm rõ các tình

tiết của vụ án là bắt buộc còn với KSV “có thể” hỏi khi thấy cần thiết. Quy định của

BLTTHS đã khá phù hợp, đáp ứng nguyên tắc tranh tụng; nhưng cách thể hiện thiếu

rõ ràng, dẫn đến việc xét hỏi tại phiên toà của các TAND tỉnh Bắc Ninh chủ yếu vấn

diễn ra như cũ.

Mặt khác, việc Bộ luật TTHS quy định trình tự xét hỏi như hiện nay: “Khi

xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi quyết định để các Hội thẩm,

KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…hỏi”, đã đưa đến một

thực tế là, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét hỏi theo hướng làm rõ những nội dung

mà cáo trạng đã quy kết và làm cho người tham gia tố tụng lầm tưởng về việc thẩm

phán đang “bảo vệ” cáo trạng cho KSV.

2.2.1.2. Những hạn chế trong việc thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

44

Từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, bên cạnh những quy định của

pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Thẩm phán còn chưa phù hợp, chặt chẽ, thiếu

đồng bộ làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ

án hình sự thì còn một yếu tố cũng tác động và làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng và hiệu quả giải quyết án, yếu tố đó thuộc về chủ thể áp dụng pháp luật mà cụ

thể là đội ngũ Thẩm phán trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của mình trong hoạt động thực tiễn.

- Các sai sót, vi phạm của Thẩm phán về thủ tục tố tụng trong hoạt động xét

xử sơ thẩm các vụ án hình sự như:

+ Vi phạm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: vẫn còn có Thẩm phán chưa coi

trọng việc nghiên cứu hồ sơ, thậm chí có Thẩm phán còn giao hồ sơ vụ án cho Thư

ký của mình nghiên cứu và yêu cầu thư ký chuẩn bị cho mình kế hoạch xét hỏi, dự

thảo án văn, đồng thời để Thư ký thực hiện tất cả các thủ tục tố tụng trong quá trình

chuẩn bị xét xử (ban hành các quyết định, giải quyết các yêu cầu của người tham

gia tố tụng....). Việc xem nhẹ nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán như trên dẫn đến

xảy ra những sai phạm về thủ tục tố tụng cũng như về nội dung như: bị cáo là người

có nhược điểm về tâm thần nhưng khi đưa ra xét xử lại không có Luật sư hoặc

người giám hộ; Biên bản lấy lời khai của bị can, bị cáo, người làm chứng sơ sài

không chứng minh rõ được hành vi của bị can, bị cáo theo cáo trạng nhưng không

ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung..., làm ảnh hưởng lớn đến các quyết định

trong bản án, dẫn đến bản án thiếu công bằng, chính xác, thậm chí vi phạm pháp

luật phải cải sửa hoặc hủy.

* Vụ án: Nguyễn Thị Thi, Nguyễn Sỹ Cường phạm tội “mua bán trái phép

chất ma túy” (Bản án số 21/2015/HSST ngày 25/11/2015 của Tòa án nhân dân thị

xã Từ Sơn).

Qua các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và lời khai các bị cáo tại các phiên tòa sơ

thẩm, thể hiện: bị cáo Thi là mẹ đẻ của bị cáo Cường, ngày 09/3/2015, bị cáo Thi nhờ

bị cáo Cường trông nhà hộ và có ai đến mua ma túy thì lấy ma túy bán với giá

200.000đ/gói. Bị cáo Cường làm theo lời của bị cáo Thi, lấy ma túy bán cho 2 người

45

(mỗi người 01 gói có trọng lượng là 0.02gam) và bị Công an bắt quả tang, khám

người bị cáo Thi, Công an còn thu giữ tại túi áo khoác Thi đang mặc có 22 gói ma túy

nhỏ (trọng lượng của 22 gói ma túy là 1,4543165gam). Trong quá trình điều tra, Thi

có cung cấp hồ sơ bệnh án điều trị bệnh tâm thần của Thi tại Bệnh viện tâm thần Hà

Nội. Công an tỉnh đã ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với Thi, Viện

pháp y tâm thần Trung ương có Biên bản giám định pháp y kết luận Thi mắc bệnh rối

loạn cảm xúc không ổn định thực tổn do cao huyết áp…Tại thời điểm giám định Thi

bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại phiên tòa bị cáo Thi và bị

cáo Cường khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, HĐXX đã áp dụng điểm b, khoản 2

điều 194; điểm n,p khoản 1 điều 46; điều 47; điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo

Thi 4 năm 6 tháng tù; áp dụng điểm b, khoản 2 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46;

điều 47; điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Cường 7 năm tù.

Do cấp sơ thẩm đã không nghiên cứu kỹ hồ sơ nên mặc dù bị cáo Thi là

người có nhược điểm về tâm thần nhưng Tòa án đã không yêu cầu Đoàn Luật sư cử

người bào chữa cho bị cáo Thi và cũng không mời người đại diện hợp pháp của bị

cáo Thi tham gia với tư cách người tham gia tố tụng nên đã vi phạm nghiêm trọng

thủ tục TTHS. Vì vậy TAND tỉnh Bắc Ninh đã hủy án sơ thẩm để điều tra, truy tố,

xét xử lại.

+ Vi phạm về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Thực tế trong phần xét hỏi ở hầu

hết các phiên tòa xét xử án hình sự sơ thẩm, mặc dù HĐXX có cả Hội thẩm, nhưng

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành xét hỏi gần như tất cả mọi vấn đề của vụ án,

từ xét hỏi bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng... Chỉ khi

nào Thẩm phán thấy mình đã “hỏi hết vấn đề” thì mới quay sang hỏi Hội thẩm “có

câu hỏi gì nữa không?”. Hơn nữa trong cách đặt câu hỏi khi xét hỏi, Thẩm phán

thường đặt các câu hỏi theo hướng nội dung mà cáo trạng đã quy kết và như vậy vô

tình Thẩm phán đã giống như người buộc tội, tự mình làm thay công việc của KSV.

+ Vi phạm về thủ tục tranh luận tại phiên tòa: có Thẩm phán chủ tọa phiên

tòa khi xét xử vụ án hình sự sơ thẩm còn hạn chế thời gian trình bày của bị cáo hoặc

người bào chữa, không yêu cầu KSV đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án

46

của của bị cáo hoặc người bào chữa yêu cầu, thậm chí có thẩm phán “quên” không

yêu cầu VKS đọc bản luận tội mà hỏi luôn “Kết thúc phần xét hỏi, chuyển sang

phần tranh luận, bị cáo có ý kiến gì tranh luận với vị đại diện VKS không?”, dẫn

đến việc KSV có ý kiến yêu cầu Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho KSV công bố

bản luận tội.

+ Vi phạm về thủ tục nghị án và tuyên án: Còn có Thẩm phán chủ tọa phiên

tòa khi nghị án vì muốn rút ngắn thời gian đã không nêu từng vấn đề để xin ý kiến

biểu quyết của Hội thẩm mà chỉ nêu tổng thể, ví dụ bị cáo phạm 02 tội, có hình phạt

cụ thể của từng tội, nhưng Thẩm phán chỉ nêu chung là tổng hợp hình phạt là bao

nhiêu năm tù; hoặc trong việc bồi thường dân sự, đáng nhẽ cần phải thống nhất: bồi

thường tổn thất về tinh thần là bao nhiêu, bồi thường thiệt hại do mất thu nhập là bao

nhiêu, tiền viện phí là bao nhiêu, thì Thẩm phán chỉ đưa ra “bị cáo phải đền bù tiền

viện phí, bồi thường tổn thất về tinh thần và bồi thường thiệt hại do mất thu nhập cho

người bị hại tổng số tiền là ...”.

- Các sai sót, vi phạm của Thẩm phán trong việc áp dụng luật nội dung trong

xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

Do Thẩm phán chủ quan khi nghiên cứu hồ sơ đã không nghiên cứu kỹ đã

không nắm được rõ và đầy đủ các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, cũng như không

phát hiện được những thiếu sót, vi phạm của Cơ quan điều tra, VKS để kịp thời yêu

cầu khắc phục, dẫn đến có những sai sót khi áp dụng luật nội dung trong quá trình

xét xử vụ án. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến còn có bản án bị kiến nghị, kháng

nghị, cải sửa hoặc bị hủy.

* Vụ án Lê Thị Tỵ và Hà Lương Thường phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan,

tổ chức” (Bản án số 164/2019/HSST ngày 30/9/2019 của TAND thị xã Từ Sơn).

Hà Lương Thường có hộ khẩu thường trú tại thôn Lương Phú, xã Tây Lương,

huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình thuê trọ ở tại thôn Phương Cầu, xã Phương Liễu,

huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ngày 17/4/2019, Thường bị Công an thị xã Từ Sơn

bắt quả tang đang bán trái phép 01 Giấy khám sức khỏe, 03 giấy ra viện chưa ghi nội

dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình tròn màu đỏ của “Bệnh viện Bạch Mai”,

47

chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn Quốc Anh” cho Nguyễn Thị Thu Thảo ở

khu phố Cẩm giang, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn. Qua khám xét tại nơi ở

cua Thường, lực lượng Công an đã thu giữ 70 Giấy khám sức khỏe, 46, giấy ra viện,

15 giấy chứng nhận nằm viện chưa ghi nội dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình

tròn màu đỏ của “Bệnh viện Bạch Mai”, chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn

Quốc Anh”, 13 giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội.

Tại cơ quan điều tra, Thường khai nhận mua toàn bộ số giấy tờ trên của Lê

Thị Tỵ (đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm 14, xã Hải Phúc, huyện Hải Hậu, tỉnh

Nam Định), tạm trú tại Chợ Vàng, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Lực lượng Công an đã bắt quả tang và thu giữ 01 túi xách tay của Tỵ, bên trong

gồm 30 giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội, 26 giấy chứng nhận nằm

viện chưa ghi nội dung, tất cả các giấy đều đã đóng dấu hình tròn màu đỏ của “Bệnh

viện Bạch Mai”, chữ ký và dấu chức danh “GĐ, BS Nguyễn Quốc Anh”. Khám xét

tại nơi ở của Tỵ, lực lượng Công an đã thu giữ hàng chục giấy tờ tương tự trên.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 30/9/2019, Thường và Tỵ đã khai nhận

toàn bộ hành vi phạm tội, TAND thị xã Từ Sơn đã xét xử và áp dụng điểm a, khoản

3, điều 341; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 38 Bộ Luật Hình sự tuyên bố bị cáo

Thường và Tỵ phạm tội “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, xử phạt bị cáo

Thường 38 tháng tù, bị cáo Tỵ 45 tháng tù.

Ngày 28/10/2019, VKS nhân dân tỉnh Bắc Ninh kháng nghị, đề nghị Tòa án

cấp phúc thẩm xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm

g, khoản 1, điều 52 BLHS và tăng hình phạt đối với bị cáo Tỵ và Thường.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Tỵ đã khai nhận có bán cho bị cáo

Thường 03 lần; bị cáo Thường khai nhận mua của bị cáo tỵ 02 lần và bán cho người

khác (không nhớ số lần và số người mua).

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu và tranh tụng tại phiên tòa,

HĐXX đã chấp nhận kháng nghị của VKS nhân dân tỉnh Bắc Ninh, sửa bản án sơ

thẩm theo hướng áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 điều 52 BLHS và

xử phạt bị cáo Tỵ 48 tháng tù, bị cáo Thường 48 tháng tù về tội “làm giả tài liệu của

48

cơ quan, tổ chức”.

+ Những sai sót trong việc quyết định hình phạt:

Còn có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi lượng hình chưa cân nhắc kỹ nên

quyết định hình phạt không tương xứng với tội phạm đã thực hiện (hoặc là hình phạt

quá nặng hoặc quá nhẹ) dẫn đến không công bằng, làm ảnh hưởng đến lòng tin của

nhân dân vào công lý. Loại sai sót này tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh không nhiều, tuy

nhiên cũng cần phải được khắc phục nhằm bảo đảm tính công bằng xã hội cũng như

đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.

* Vụ án: Vũ Văn Anh phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ” (Bản án số 16/2018/HSST ngày 28/12/2018 của TAND thị xã Từ Sơn).

Vũ Văn Anh sinh ngày 21/12/2000. Ngày 20/2/2018, Vũ Văn Anh mặc dù

không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe máy (xe Honda Wave) và chở bạn

là Nguyễn Duy Khoa đi xem bắn pháo hoa ở chùa Phật Tích. Trên đường trở về nhà,

khi đi qua đoạn đường tỉnh lộ 295 hướng từ Từ Sơn đi Yên Phong, Khoa đã cố tình

vượt qua đầu xe ô tô đi cùng chiều đang xi nhan trái sang đường (xe ô tô xi nhan trái

sang đường và đã rẽ sang gần hết phần đường), hậu quả xe mô tô đã va chạm sượt

qua đầu xe ô tô và xe mô tô lao lên vỉa hè, xe bị đổ, Vũ Văn Anh và Nguyễn Duy Khoa

bị ngã. Sau khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu, ngày 22/2/2018, Nguyễn Duy Khoa đã

tử vong. Kết quả giám định của Công an tỉnh Bắc Ninh cho thấy Nguyễn Duy Khoa tử

vong do nguyên nhân: chấn thương sọ não nặng, phù não, dập não, tụ máu não.

Ngày 28/12/2018, TAND thị xã Từ Sơn mở phiên tòa xét xử bị cáo Vũ Văn

Anh về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a,

khoản 2 điều 260 Bộ Luật Hình sự. Tại phiên tòa Vũ Văn Anh đã thành khẩn khai

nhận toàn bộ hành vi phạm tội và cho biết gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường

cho thân nhân gia đình nạn nhân Khoa số tiền 100.000.000đ. HĐXX sau khi xét xử

đã áp dụng điểm a, khoản 2 điều 260; điểm b,s khoản 1, 2 điều 51; điều 54; điều 91;

điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn Anh 24 tháng tù.

Sau phiên tòa sơ thẩm, Vũ Văn Anh có đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm

tỉnh Bắc Ninh vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt quá nặng (phạt

49

24 tháng tù) và đề nghị cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận thấy bị cáo mặc dù phạm tội thuộc

trường hợp rất nghiêm trọng, tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là

người chưa thành niên (mới 17 tuổi 2 tháng). Trong quá trình điều tra xũng như xét

xử, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi

thường cho gia đình nạn nhân và được gia đình bị hại làm đơn đề nghị Tòa án cho bị

cáo hưởng án treo. Mặt khác, HĐXX thấy bị cáo đang là học sinh lớp 12, hiệu trưởng

nhà trường nơi bị cáo học cũng đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo để bị

cáo tiếp tục được học tập, rèn luyện. HĐXX thấy rằng không cần thiết buộc bị cáo

cách ly khỏi xã hội, do vậy đã chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Văn Anh, sửa bản án

sơ thẩm, xử phạt bị cáo Vũ Văn Anh 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

* Vụ án: Chu Bá Phương phạm tội “Cố ý gây thương tích”, (Bản án số

82/2018/HSST ngày 19/4/2018 của TAND thị xã Từ Sơn).

Chu Bá Phương do cãi nhau với vợ chồng anh Tấn chị Tuyết về việc đỗ xe

máy trước cửa hàng nhà anh Tấn chị Tuyết, Phương đã ngay lập tức đi xe máy về

lấy 02 con dao nhọn quay trở lại cửa hàng của anh Tấn và dùng 1 con dao nhọn đâm

trọng thương anh Tấn, sau khi được mọi người can ngăn và đưa anh Tấn đi cấp cứu

tại bệnh viện, Phương đã tự đi xe máy đến cơ quan công an đầu thú. Tại Bản kết

luận giám định pháp y đã kết luận: tỷ lệ thương tích trên cơ thể anh Tấn tại thời

điểm giám định là 30%.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TAND thị xã Từ Sơn đã áp dụng điểm đ,

khoản 2, điều 134; điểm b,s khoản 1, 2 điều 51, điều 38 Bộ Luật Hình sự tuyên phạt

bị cáo Chu Bá Phương 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Sau phiên tòa sơ thẩm, Chu Bá Phương có đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm

tỉnh Bắc Ninh vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt quá nặng (phạt

36 tháng tù) và đề nghị cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận thấy bị cáo tuy phạm tội lần đầu

nhưng gây ra thương tích cho người bị hại cao (30%) nên hành vi bị cáo là tội

nghiêm trọng, do vậy không có căn cứ để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

50

Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, sau khi sự việc

xảy ra bị cáo đã ngay lập tức ra đầu thú, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị

hại. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải. Bị cáo được hưởng 03

tình tiết giảm nhẹ tại điểm b,s khoản 1, 2 điều 51 Bộ Luật Hình sự như cấp sơ thẩm

đã xem xét là phù hợp, xong mức án 36 tháng tù đối với bị cáo có phần nghiêm

khắc, vì vậy cấp phúc thẩm đã chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và sửa bản

án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Phương xuống còn 02 năm tù.

- Ngoài ra còn có một số sai sót khác như:

+ Có bản án đã có hiệu lực pháp luật, song Thẩm phán chậm gửi bản án cho

những người tham gia tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án,

thậm chí thời gian gửi chậm quá thời hạn luật định, dẫn đến bị VKS kiến nghị.

+ Một số bản án áp dụng thiếu điều luật về xử lý vật chứng (bản án án số

82/2016/HSST ngày 20/9/2016 của TAND thị xã Từ Sơn, bản án tuyên tịch thu

chiếc điện thoại Sam Sung S3 là công cụ, phương tiện phạm tội, nhưng không viện

dẫn điều luật), hoặc trong bản án lại không xử lý vật chứng là phương tiện phạm tội

(Trong vụ án “trộm cắp tái sản”, bị cáo đã sử dụng điện thoại để rủ bị cáo khác đi

trộm cắp xe máy, tuy nhiên trong bản án số 112/2016/HSST ngày 24/11/2016 của

TAND thị xã Từ Sơn lại không xử lý xử lý vật chứng là chiếc điện thoại đó).

+ Một số vụ án xác định người tham gia tố tụng không đúng dẫn đến việc

giải quyết vụ án không đúng.

*Vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ” (bản án án số

02/2018/HSST ngày 03/01/2018 của TAND tỉnh Bắc Ninh).

Trong vụ án này, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Tiến Đại – nguyên

trưởng thôn, Nguyễn Văn Vui – nguyên bí thư chi bộ đã thừa nhận hành vi bán trái

thẩm quyền 55 lô đất nhằm mục đích lấy tiền nộp thuế đất ở của 56 lô đất khác đã

được phê duyệt quy hoạch và lấy tiền xây dựng đường giao thông và kênh mương

cứng nội đồng của thôn. Tuy nhiên Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui cũng khai

nhận, việc bán đất đã được họp dân bàn bạc công khai, có đại diện lãnh đạo UBND

là ông Nguyễn Tiến Nghĩa – Chủ tịch dự họp, đồng thời có báo cáo cho bí thư Đảng

51

ủy xã là ông Nguyễn Hồng Thắng và được ông Thắng và ông Nghĩa đồng ý. HĐXX

đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui phạm tội “Lợi dụng

chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”, áp dụng khoản 3,4 điều 281; điểm s, p

khoản 1, 2 điều 46, điều 47; điều 33 Bộ Luật Hình sự 1999 (khoản 3 điều 356; các

điểm v,s khoản 1,2 điều 51; điều 54; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015). Xử phạt bị

cáo Nguyễn Tiến Đại 5 năm tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Vui 5 năm tù.

Ngày 11/01/2018, bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui kháng cáo. Tại

phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tiến Đại và Nguyễn Văn Vui cho rằng bị oan về

tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ”, việc các bị cáo làm đều do

chủ trương và có sự đồng ý của cấp trên (tức là có sự đồng ý của ông Nguyễn Tiến

Nghĩa – Chủ tịch UBND xã, ông Nguyễn Hồng Thắng bí thư Đảng ủy xã). HĐXX

trên cơ sở xem xét hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố

tụng khác tại phiên tòa, ý kiến tranh tụng của các bên đã nhận định: Tòa án cấp sơ

thẩm áp dụng Điều 281 Bộ Luật Hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến

Đại và Nguyễn Văn Vui phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công

vụ” là đúng pháp luật, tuy nhiên vụ án có dấu hiệu nhiều đối tượng đồng phạm có vị

trí, vai trò quyết định quan trọng trong vụ án (Nguyễn Tiến Nghĩa – nguyên Chủ tịch

UBND xã, Nguyễn Hồng Thắng – nguyên bí thư Đảng ủy xã, Hoàng Phan Vi –

nguyên cán bộ địa chính xã) nhưng chưa được cơ quan tiến hành tố tụng xem xét là

chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 117 Bộ luật TTHS năm 1999 (tương ứng

với khoản 2 điều 170 Bộ luật TTHS năm 2015). Vì vậy TAND cấp cao tại Hà Nội đã

căn cứ điểm a,b,c khoản 1 điều 358 Bộ luật TTHS tuyên: Hủy bản án sơ thẩm số

02/2018/HSST ngày 03/01/2018 của TAND tỉnh Bắc Ninh.

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

2.2.2.1. Những bất cập trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về địa vị

pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những bước tiến mới trong việc hoàn thiện

các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

nói chung và của Thẩm phán nói riêng. Tinh thần mới này còn được quy định cụ thể

ở các điều luật thuộc các giai đoạn tố tụng cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án

52

hình sự. Tuy nhiên, qua hoạt động thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh đã cho thấy có những

hạn chế, bất cập trong các quy định trên, điều đó được biểu hiện qua những nội

dung sau:

Một là: Một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS quy định liên quan đến vị

trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử không phù hợp, trái chức năng tố

tụng của Tòa án, như nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án" (Điều 15 Bộ luật

TTHS), nguyên tắc "trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự" (Điều 18 Bộ luật

TTHS).

Theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp thì phải “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”; và “tranh tụng tại phiên

tòa phải được coi là khâu đột phá”. Tuy nhiên trong Luật TTHS quy định Tòa án,

Thẩm phán có nghĩa vụ chứng minh vụ án, có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự,

quy định này làm cho việc giải quyết vụ án không khách quan vì khi Thẩm phán có

nghĩa vụ thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá để chứng minh vụ án thì Thẩm phán

sẽ có thiên hướng nghiêng về những chứng cứ buộc tội của VKS cũng như bị ảnh

hưởng bởi cáo trạng của VKS, Thẩm phán sẽ không chú trọng việc thu thập đánh

giá những chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Đây chính là lý do xảy ra án oan, sai trong TTHS. Đồng thời làm ảnh hưởng tới việc

tranh tụng tại phiên tòa, một nội dung quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp đã

đề ra do Thẩm phán là một trong những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chứ không

đơn thuần là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Hai là: một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của

Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa phù hợp, thiếu chặt

chẽ, chưa phù hợp với các chức năng tố tụng hình sự; chưa bảo đảm quyền hạn độc

lập của Thẩm phán trong xét xử (quy định việc Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ

sung khi phát hiện tội phạm mới, người phạm tội mới; quy định Thẩm phán không

có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam...)

Ba là: Bộ luật TTHS chưa quy định thật rõ ràng nội dung nguyên tắc tranh

53

tụng. Quy định về thủ tục xét xử nói chung, thủ tục phiên toà nói riêng, đặc biệt là

quy định về trình tự xét hỏi, chưa thể hiện tốt nguyên tắc này. Đây là một vấn đề

cần được hoàn thiện để xác định sự thật vụ án. Tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ

thẩm được thực hiện giữa đại diện VKS, người bào chữa, bị cáo và những người

tham gia tố tụng khác (dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) nhằm

bảo vệ quan điểm, lợi ích của các bên, đồng thời giúp HĐXX xem xét, đánh giá các

chứng cứ, tài liệu được công khai tại phiên tòa xét xử vụ án, từ đó làm căn cứ để

quyết định một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Việc chưa quy định rõ ràng nội dung nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật

TTHS làm cho quá trình giải quyết vụ án và những phán quyết của HĐXX rất dễ rơi

vào chủ quan duy ý chí.

2.2.2.2. Các nguyên nhân khác

- Năng lực của một số Thẩm phán còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu

công tác xét xử hiện nay

Qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy vẫn còn một số lượng nhất

định án bị hủy, cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Điều này phần nào đã phản

ánh trình độ năng lực thực tế của Thẩm phán hiện nay. Bác Hồ của chúng ta đã nói:

“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do

cán bộ tốt hoặc kém”, soi vào hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự ta thấy: chất

lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm ra sao phụ thuộc

rất lớn vào người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Bởi lẽ, Tòa án là cơ quan duy nhất

có chức năng xét xử, là nơi người dân đặt niềm tin vào công lý. Nhưng công lý đạt

được hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố “con người”, cụ thể ở đây là phụ

thuộc vào Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vậy nên dù pháp luật TTHS có hoàn thiện

về trình tự thủ tục tố tụng, về địa vị pháp lý của Thẩm phán nhưng Thẩm phán lại

yếu về năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp thì chất lượng xét xử

vụ án hình sự đạt kết quả tốt là rất khó đạt được.

Trong những năm qua, trình độ và năng lực của Thẩm phán hai cấp Tòa án

tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Đội ngũ Thẩm phán

54

đều có trình độ đạt tiêu chuẩn theo quy định, tức là đều đã tốt nghiệp đại học luật,

35% thẩm phán có trình độ thạc sỹ, 100% Chánh án và các phó chánh án đều có

trình độ cao cấp Lý luận chính trị. Tuy nhiên vẫn có một số Thẩm phán trẻ tuổi,

thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên trong quá trình giải quyết, xét xử án hình sự sơ

thẩm còn có những sai sót.

Hiện nay số lượng Thẩm phán ở các Tòa án tỉnh Bắc Ninh còn ít, trong khi

số lượng án và việc ngày càng nhiều. Một số Tòa án cấp huyện hàng năm thụ lý số

lượng án và việc rất lớn dẫn đến còn có án tồn đọng và Thẩm phán khi bị áp lực giải

quyết quá nhiều án dẫn đến có những sai sót không đáng có về nghiệp vụ.

- Chế độ, chính sách đối với Thẩm phán chưa đảm bảo, chưa tương xứng.

Hiện nay, chế độ tiền lương, trang thiết bị làm việc... dành cho Thẩm phán còn

nhiều bất cập, chưa tương xứng với chức trách, nhiệm vụ được giao cũng như chưa

phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất lao động phức tạp, nặng nhọc và đặc thù của

ngành Toà án. Lương của Thẩm phán cũng như các chế độ đãi ngộ khác vẫn giống

như các cán bộ, công chức khu vực cơ quan hành chính nhà nước (theo quy định của

pháp luật hiện hành, Thẩm phán được áp dụng 1 trong 5 bảng lương đối với Ngành

Tòa án, đó là: Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát

ban hành kèm theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/09/2004 của

Ủy ban thường vụ Quốc hội, hệ thống thang bảng lương này không khác với hệ

tính đặc thù của hoạt động xét xử và chưa khuyến khích, động viên được đội

ngũ Thẩm phán yên tâm công tác. Điều này đã và là nguyên nhân làm ảnh hưởng

thống thang bảng lương khu vực cơ quan hành chính nhà nước) vì vậy làm mất đi

đến chất lượng xét xử của Thẩm phán.

- Các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và nhiệm kỳ của Thẩm

phán không phù hợp.

Thực hiện Luật tổ chức TAND năm 2014, Nghị quyết số 81 của Quốc hội về

việc thi hành Luật tổ chức TAND, TANDTC đã khẩn trương triển khai mô hình Tòa

án 4 cấp, sắp xếp lại đội ngũ Thẩm phán, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và thi tuyển,

bổ nhiệm các ngạch Thẩm phán,… Tuy nhiên theo Chánh án TANDTC Nguyễn

55

Hòa Bình thì việc thực hiện quy định theo Luật hiện hành đã gặp phải những bất

cập, điển hình như trong việc bổ nhiệm thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Theo quy định của Luật, Hội đồng Thẩm phán TANDTC có 17 thành viên, bao

gồm: Chánh án, các Phó Chánh án và các Thẩm phán TANDTC. Thẩm phán

TANDTC do Quốc hội phê chuẩn phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy

định của Luật; trong đó, phải có tối thiểu 05 năm là Thẩm phán cao cấp (quy định

tại điểm a khoản 1 Điều 69 Luật tổ chức TAND năm 2014). Trong khi đó, Thẩm

phán cao cấp là ngạch Thẩm phán mới được quy định từ năm 2015 sau khi Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành. Số lượng Thẩm phán

TANDTC theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2002 gồm 120 người. Tuy

nhiêm trong quá trình hoạt động từ năm 2015 đến nay, có những Thẩm phán trong

số này đã nghỉ hưu, một số chuẩn bị nghỉ hưu, một số không đủ các tiêu chuẩn, điều

kiện khác để bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, như: trình độ, năng lực, tín nhiệm,

một số không trong quy hoạch lãnh đạo giai đoạn 2016 – 2021… vì vậy việc nguồn

Hơn nữa theo quy định hiện hành thì nhiệm kỳ của Thẩm phán (5 năm)

là ngắn và chưa phù hợp, tạo tâm lý không yên tâm làm việc của Thẩm phán

vì vậy rất dễ làm ảnh hưởng đến kết quả công tác xét xử và giải quyết vụ án

của Thẩm phán

56

để bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC gặp khó khăn.

Tiểu kết Chương 2

1. Tại Chương 2, tác giả Luận văn đề cập đến thực trạng thực hiện địa vị

pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc

Ninh. Qua đó, tác giả chỉ ra rằng, các quy định của pháp luật TTHS về quyền và

nghĩa vụ của Thẩm phán trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã tạo ra

một hành lang pháp lý giúp cho các Thẩm phán trong quá trình giải quyết, xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự đạt chất lượng và hiệu quả cao. Các loại tội phạm được đưa ra

xét xử kịp thời, xử lý nghiêm minh, góp phần vào việc giữ vững an ninh - chính trị,

trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

2. Bên cạnh những ưu điểm như trên, tác giả luận văn cũng đã nêu ra những

điểm hạn chế, bất cập trong việc quy định của pháp luật TTHS về quyền và nghĩa

vụ của Thẩm phán thông qua thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc

Ninh. Đồng thời cũng từ thực tiễn xét xử tại địa phương, tác giả cũng đã nêu ra

những điểm hạn chế, thiếu sót của đội ngũ Thẩm phán trong việc thực hiện quyền

và nghĩa vụ của mình khi tiến hành xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng như tìm

ra các nguyên nhân của những hạn chế bất cập, để từ đó đề ra các giải pháp hoàn

57

thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán về mặt pháp luật cũng như trên thực tiễn.

Chương 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM

PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Yêu cầu nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự

3.1.1. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Nhà

nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước

pháp quyền của dân, do dân, vì dân”[3].

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó nguyên tắc pháp luật giữ địa vị

tối cao được tuân thủ tuyệt đối. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng các quyền

thiêng liêng của con người, nhằm bảo vệ các quyền đó và luôn giữ địa vị tối cao

trong toàn bộ đời sống xã hội. Tuy nhiên, đó phải là pháp luật có chất lượng tốt,

phản ánh xu thế phát triển tiến bộ chung của xã hội, phù hợp với hiện thực khách

quan, thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân và nhờ vậy, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ

xã hội.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân, do dân và vì dân” đặt ra

yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao năng

lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước, đó không chỉ là đổi mới tổ chức và phương

thức hoạt động của cơ quan lập pháp (Quốc hội), bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ,

kịp thời các chức năng do Hiến pháp, pháp luật quy định; cải cách nền hành chính

tư pháp theo hướng vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa mà còn phải xây dựng

đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, có đủ phẩm

chất, năng lực, thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phát triển đất nước và xu

hướng hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó phụ thuộc rất lớn vào yếu tố “con

người” mà cụ thể ở đây là đội ngũ Thẩm phán Tòa án – người được thực hiện thẩm

quyền xét xử và phán quyết hình sự. Từ đó vấn đề đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán

bộ tư pháp (trong đó có đội ngũ Thẩm phán) đủ mạnh từ trung ương đến cơ sở, đủ

58

về số lượng, hợp lý về cơ cấu, bảo đảm về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,

giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; hình thành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của

cán bộ tư pháp, xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, cũng như các điều

kiện bảo đảm cho việc thực hiện các quyền; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để

thực hiện chiến lược cải cách tư pháp.

3.1.2. Yêu cầu Cải cách tư pháp

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể, trong những nhiệm vụ đó,

nhiệm vụ xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cơ quan tư pháp; xây dựng

đội ngũ tư pháp (trong đó chủ yếu là Thẩm phán) là rất quan trọng trong việc góp

phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án.

Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã nhấn

mạnh tầm quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp, chỉ ra những hạn chế, tồn tại

của việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp những năm qua, đồng thời xác định

các biện pháp mang tính định hướng hoạt động giai đoạn tiếp theo. Văn kiện Đại hội

XI nhấn mạnh: “Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ, đặt trong yếu kém chung

của 10 năm qua là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp

yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý nhà nước, năng lực xây dựng thể chế, quản lý,

điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu”[7]. Tại Đại hội XII, Đảng chỉ ra hai hạn

chế rõ nét nhất của công cuộc cải cách tư pháp là: “Việc triển khai một số nhiệm vụ cải

cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội

phạm”[8].

Đại hội XII đã chỉ ra nguyên nhân của hạn chế đó là “Xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh

đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung

chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp

còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước

pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa

nghiêm”[8]. Do đó, Đại hội XII đã đề ra những biện pháp mạnh mẽ nhằm bảo đảm

59

về cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp. Cụ thể:

- Về mục đích và lộ trình thực hiện, “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến

lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý

hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ

quan tư pháp”[8].

- Đối với Tòa án: “Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng,

nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm

quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo

đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”[8].

3.1.3. Yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Toà án

Theo yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải

cách tư pháp đến năm 2020, trong bộ máy Nhà nước ta, TAND có vị trí, vai trò hết

sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt

động trọng tâm.

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, hệ thống

Toà án đã chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; đề ra nhiều chủ trương với

những giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng xét xử và hiệu quả cải cách tư

pháp. Kết quả thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong hệ thống Tòa án đã có

những bước phát triển mới, đạt được những thành tích quan trọng như: Quốc hội đã

ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND, cùng một số luật liên quan…

với nội dung về cơ bản đã thể chế hóa được các định hướng mà Nghị quyết số 49 đề

ra. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của TAND đã được đổi mới, hoàn thiện,

trong đó đã khẳng định TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; xây dựng hệ

60

thống Tòa án 4 cấp; đổi mới cách thức tổ chức phiên tòa theo hướng tiếp thu hạt

nhân hợp lý của mô hình tranh tụng; đổi mới hình thức phòng xử án. Mặt khác, đội

ngũ chức danh tư pháp trong TAND được đổi mới, củng cố, tăng cường cả về số

lượng và chất lượng; Uy tín và địa vị của Tòa án Việt Nam trên trường quốc tế ngày

càng cao….

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, nền tư pháp nước ta

vẫn còn một số tồn tại như: Chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mong muốn của người

dân; Còn lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới; Niềm tin của người dân vào

nền tư pháp chưa cao; Chưa có cơ chế hữu hiệu để tăng cường khả năng tự quyết

định, khả năng đoán định tư pháp của người dân;…

Vì vậy vấn đề đặt ra là Tòa án phải có một đội ngũ Thẩm phán giỏi về

chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức công vụ , có như vậy mới đáp ứng

được yêu cầu xét xử của cải cách Tư pháp đối với ngành Tòa án.

3.1.4. Yêu cầu xét xử công bằng, bảo vệ quyền con người.

Một trong những điểm nổi bật của BLTTHS năm 2015 là những quy định về

bảo đảm quyền con người trong TTHS:

Trong số 27 nguyên tắc cơ bản được quy định ở Bộ luật TTHS năm 2015 (từ

Điều 7 đến Điều 33) với những cấp độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ

quyền con người trên hai bình diện theo những tiêu chí của Luật quốc tế về quyền

con người, đó là: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của người bị giữ

khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người

tham gia tố tụng khác; Quyền được xét xử công bằng. Các nguyên tắc này đưa ra

định hướng bảo vệ quyền con người trong TTHS, đó là các quyền bảo đảm an toàn,

an ninh tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm con người và quyền được

xét xử công bằng, công khai, dân chủ. Những nguyên tắc phù hợp với các tiêu chí

quốc tế về quyền con người được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền

chính trị, dân sự của Liên hợp quốc năm 1966 mà Việt Nam là thành viên.

Những nguyên tắc bảo đảm cho việc quyền được xét xử công bằng là những

nguyên tắc định hướng cho hoạt động xét xử được quy định từ Điều 22 đến Điều 30.

61

Xét xử là hoạt động trung tâm của TTHS, mọi hoạt động tố tụng khác đều xoay

quanh hoặc phục vụ cho xét xử; do đó, định hình việc xét xử theo cách thức nào có ý

nghĩa thu hút, lan tỏa, đồng thời phản ánh tính chất của mô hình TTHS. Với hệ thống

các nguyên tắc định hướng cho hoạt động xét xử của Bộ luật TTHS 2015, nhất là với

sự xuất hiện lần đầu tiên nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều

26) tính chất tranh tụng của mô hình TTHS Việt Nam bước đầu đã được định hình là

nền tảng cho việc bảo đảm cho quyền được xét xử công bằng. Bộ luật TTHS năm

2015 quy định việc tranh tụng tại phiên tòa và lấy kết quả tranh tụng làm căn cứ để ra

bản án và quyết định hình phạt đối với bị cáo, đồng thời TAND Tối cao, VKS nhân

dân tối cao đã có hướng dẫn chi tiết thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Những nguyên

tắc của nhóm này đã bảo đảm được tính công khai, dân chủ của TTHS, bảo đảm các

phán quyết của Tòa án được công bằng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người trong TTHS.

Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện

bản chất của nền tư pháp quốc gia nên việc xét xử công bằng, bảo vệ quyền con

người được thể hiện tập trung nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án (thông qua

các Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa).

Quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn đòi hỏi sự khách quan công bằng thể

hiện chính sách đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà nước ta: Mọi tội

phạm đều bị phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt

tội phạm và làm oan người vô tội.

3.2. Các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự

3.2.1. Đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS

Vấn đề nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS đóng vai trò

quan trọng, quyết định địa vị pháp lý của Thẩm phán trên thực tiễn. Bởi vì có nhận

thức sâu sắc về địa vị pháp lý của Thẩm phán mới nhận thức được vị trí, vai trò,

nghĩa vụ, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán. Tuy nhiên nếu chỉ có

“nhận thức” không thôi thì chưa đủ mà “nhận thức” này phải được chuyển hóa bằng

62

hành động cụ thể, điều đó có nghĩa phải được “Luật hóa” trong Bộ Luật TTHS.

Nâng cao nhận thức là cơ sở lý luận, cơ sở tư tưởng để xác định đúng đắn nhiệm vụ,

quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử nói chung, trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự nói riêng.

Thực tiễn trong thời gian qua, vấn đề đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của

Thẩm phán đã được cụ thể hóa trong một số điều luật của Bộ luật TTHS (Điều 45;

khoản 1, Điều 278; khoản 1 Điều 280…) tuy nhiên vẫn còn một số bất cập cần phải

thay đổi như: quy định trách nhiệm khởi tố vụ án (điều 18), quy định nguyên tắc xác

định sự thật của vụ án (điều 15)... Do đó cần phải đổi mới nhận thức một cách toàn

diện về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS, có như vậy mới đáp ứng được tinh

thần của cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị năm 2005.

3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về Thẩm phán và địa vị

pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự

3.2.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến vị trí, vai

trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử

* Hoàn thiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và trách nhiệm khởi tố

vụ án hình sự

Để thực hiện chức năng xét xử, pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cho

Thẩm phán trong các văn bản quy phạm như: Bộ luật TTHS, Luật tổ chức TAND,

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, … Các quy định của pháp luật

về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho

thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Khác với Điều tra viên, KSV,

Thẩm phán khi thực hiện chức năng xét xử chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về

những hành vi, quyết định của mình. Khi thực hiện chức năng xét xử nghĩa là Thẩm

phán đang thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhân danh công lý và được đảm bảo thực hiện

bởi tính “cưỡng chế”.

Theo quy định tại điều 15 Bộ luật TTHS, nguyên tắc xác định sự thật của vụ

án có hai nội dung quan trọng là: 1. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải áp dụng

63

mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn

diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không

có tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

của bị can, bị cáo; 2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến

hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình

vô tội

Nội dung thứ nhất của điều luật, đã mang tính liệt kê các vấn đề cần chứng

minh trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, so sánh với điều 85 Bộ luật TTHS về đối

tượng chứng minh trong vụ án hình sự thì quy định của điều 15 Bộ luật TTHS còn

chưa đầy đủ. Sự thật của vụ án hình sự được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau

như: các chứng cứ có tội hay không có tội, chứng cứ về các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết thuộc nhân thân bị cáo, nguyên nhân,

điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội…

Vì vậy, nguyên tắc chỉ cần xác định trách nhiệm, xác định sự thật khách quan, toàn

diện, đầy đủ; còn các tình tiết cụ thể thì quy định trong các quy định về đối tượng

chứng minh.

Nội dung thứ hai của điều luật được hiểu là Tòa án cùng với Cơ quan điều

tra, VKS có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ chính trị đã đề ra nhiệm vụ của cải cách tư pháp là “xác định rõ

chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư

pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân”[5] căn cứ vào nội dung này của Nghị quyết thì việc quy định Tòa án có trách

nhiệm chứng minh tội phạm là không phù hợp. Điều 15 quy định như vậy làm cho

chức năng, nhiệm vụ của Tòa án không rõ ràng và phần nào làm thay chức năng của

Viện kiểm sát. Đồng thời việc quy định Thẩm phán có nghĩa vụ chứng minh vụ án

sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án không khách quan do khi Thẩm phán có nghĩa vụ

thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá để chứng minh vụ án thì Thẩm phán sẽ có

thiên hướng nghiêng về những chứng cứ buộc tội của VKS cũng như bị ảnh hưởng

bởi cáo trạng của VKS, Thẩm phán sẽ không chú trọng việc thu thập đánh giá

64

những chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đây

là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự

còn xảy ra và việc quy định này đã ảnh hưởng tới chất lượng tranh tụng tại phiên

tòa do Thẩm phán là một trong những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chứ không

đơn thuần là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, Thẩm phán có

thể làm tốt chức năng của người "trọng tài" tại phiên tòa, đưa ra những phán quyết

khách quan, đảm bảo công bằng theo tinh thần cải cách tư pháp, cần hoàn thiện

Điều 15 Bộ luật TTHS như sau:

“Điều 15. Xác định sự thật của vụ án

1. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án trong phạm vi chức năng của mình có

trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ;

2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, VKS. Toà án

có trách nhiệm chứng minh cho phán quyết của mình. Người bị buộc tội có quyền

nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

Tương tự điều 15, để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa

án thì Bộ luật TTHS năm 2015 cũng nên bỏ quy định Tòa án trách nhiệm khởi tố vụ

án tại Điều 18, đồng thời bỏ qui định HĐXX có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

trong một số trường hợp qui định tại Điều 153 Bộ luật TTHS năm 2015.

Như vậy nghiên cứu, xem xét lại chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm

phán theo hướng tập trung vào hoạt động xét xử đảm bảo tranh tụng dân chủ công

khai tại phiên toà là việc làm cần thiết để nâng cao địa vị của Thẩm phán cũng như

hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp.

* Nâng cao chất lượng tranh tụng trong TTHS. Tranh tụng là một trong những

nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp được xác định trong nhiểu

Nghị quyết của Đảng.

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ

trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đặt ra yêu cầu: …Việc phán quyết

của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét,

65

đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, người làm

chứng, nguyên đơn, bị đơn, người người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,

quyết định đúng pháp luật…”

Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020” đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị

trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo

hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng

tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[5]. Như vậy

tranh tụng không chỉ được thực hiện trong thực tiễn xét xử các vụ án, mà tranh tụng phải

được thực hiện ngay trong quá trình lập pháp, phải được đưa thành các quy định của

pháp luật...

Phải nói rằng, tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong TTHS, mang tính

quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng tại phiên tòa

sẽ giúp HĐXX thẩm định, đánh giá các chứng cứ, tài liệu của vụ án để khẳng định độ

tin cậy, tính khách quan, toàn diện và đầy đủ của vụ án. Tranh tụng được thực hiện

giữa bên buộc tội (đại diện VKS) và bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo) và những

người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nhằm bảo vệ quan điểm,

lợi ích của các bên, dưới sự điều khiển, quyết định của HĐXX. Thông qua việc tranh

tụng trực tiếp, công khai, HĐXX sẽ lắng nghe ý kiến và đề xuất của các bên tham gia

tố tụng, trên cơ sở đó HĐXX phân tích, xác định sự thật khách quan của vụ án và ra

các phán quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan và đúng pháp luật.

Hiện nay, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm”. Việc “Hiến định” nguyên tắc tranh tụng chính là đã thể

chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp (Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”, Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội yêu cầu: “KSV

phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự …

TAND tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại các phiên

tòa”). Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã quy định nguyên tắc tranh tụng và có các quy

66

định chứa đựng nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,

nguyên tắc pháp chế XHCN; các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành

tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên

Bộ luật TTHS cần được hoàn thiện các quy định cụ thể về chức năng tố tụng, về thủ

tục tố tụng nói chung, tại phiên tòa nói riêng… để phù hợp với nguyên tắc này trong

hệ thống pháp luật TTHS nước ta.

3.2.2.2. Hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã chỉ ra những điểm

còn hạn chế, bất cập trong việc quy định quyền của Thẩm phán trong hoạt động xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thực sự đem lại

hiệu quả và hiệu lực trong thực tiễn thì pháp luật TTHS cần phải hoàn thiện những

vấn đề sau:

Một là, sửa đổi Điều 278 Bộ luật TTHS theo hướng Thẩm phán được phân

công chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ tất cả các

biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam, vì khi Thẩm phán được phân công

xét xử vụ an sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án, từ đó sẽ hiểu vụ án một cách cặn kỹ, Thẩm

phán sẽ đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của bị can, bị cáo nên sẽ có

quyết định đúng đắn có cấn phải áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam

đối với bị can, bị cáo hay không. Việc “trao quyền” cho Thẩm phán áp dụng, thay

đổi hoặc hủy bỏ tất cả các biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp tạm giam cũng

đồng thời “nâng cao trách nhiệm” của Thẩm phán đối với việc xét xử và giải quyết

các vụ án hình sự được phân công. Quy định như vậy cũng phù hợp với Nghị quyết

só 49-NQ/TW: “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,

quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và tách

nhiệm cho Điều tra viên, KSV và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm

vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và

quyết định tố tụng của mình”[5].

Hai là, để khắc phục tình trạng trả hồ sơ như ở phần hạn chế đã phân tích,

67

đồng thời đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên toà, tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật

TTHS, ngoài 04 căn cứ Thẩm phán trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, thì cần

bổ sung thêm căn cứ thứ năm: đ) Khi có những lý do khác mà Thẩm phán được

phân công chủ tọa phiên tòa xét thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đồng

thời, phải chăng chỉ nên quy định Toà án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại

phiên toà, sau khi đã xét hỏi, điều tra chính thức, tranh tụng tại phiên toà mà có đủ

căn cứ quy định.

Ba là, hoàn thiện Điều 307 Bộ luật TTHS theo hướng quy định cụ thể hơn

trình tự và nội dung xét hỏi tại phiên toà. Thẩm phán là người hỏi đầu tiên, nhưng

chỉ hạn chế phạm vi hỏi để làm cơ sở cho việc “quyết định một trình tự xét hỏi

hợp lý” cho người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác. Thẩm phán

không hỏi về toàn bộ vụ án khi các bên buộc tội, gỡ tội chưa thực hiện việc hỏi.

Thẩm phán và Hội thẩm chỉ hỏi để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà các bên

buộc tội, gỡ tội chưa được xác định rõ ràng.

3.2.3. Hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự

Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy

định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau: Hiến pháp, Luật TTHS, Luật

tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, các văn bản của

Tòa án Tối cao... Vì vậy để các Thẩm phán nắm rõ để thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, Tòa án tối cao cần có Nghị quyết hoặc Thông

tư, tổ chức tập huấn hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn,

trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Việc hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán có thể được thực

hiện thông qua văn bản (Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán, Thông tư của Chánh

án...), thông qua các hội nghị trực tuyến trong toàn ngành để các thẩm phán, thư ký,

cán bộ Tòa án đều được học tập và nắm chắc các quy định về địa vị pháp lý của

Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để thực hiện nghiêm túc, đồng bộ.

68

3.2.4. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập của Thẩm phán trong xét xử

Sự độc lập của Thẩm phán được thể hiện trong mối quan hệ với các cơ quan

bên ngoài, giữa cấp trên và cấp dưới và giữa những thành viên trong hội đồng xét xử.

Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án trong thời gian qua cho thấy, còn có

tình trạng Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn còn tồn tại việc

lãnh đạo nghe báo cáo, định hướng đường lối xét xử, hoặc bị chi phối bởi các cơ

quan khác như Đảng, chính quyền bởi vì các cơ quan này ít nhiều vẫn có quyền ảnh

hưởng đến việc bổ nhiệm thẩm phán, quyết định ngân sách và hỗ trợ các cơ sở vật

chất duy trì hoạt động của Tòa án, những vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến nguyên

tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Do đó cần phải:

- Đối mới trong mối quan hệ giữa Tòa án với cấp ủy địa phương. Cấp ủy Đảng

chỉ lãnh đạo thông qua công tác giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn, điều kiện bổ

nhiệm chức danh Thẩm phán cũng như các chức danh chủ chốt khác của Tòa án. Cấp

ủy địa phương chỉ giám sát đảng viên thực hiện điều lệ đảng. Không nên can thiệp

vào công tác chuyên môn và hoạt động xét xử của Tòa án.

- Đối với mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới: cần phân biệt cụ thể khi

nào là quan hệ tố tụng, khi nào là quan hệ hành chính. Cần phân biệt rõ mối quan hệ

giữa Chánh án và Thẩm phán trong cùng Tòa án. Chánh án khi tham gia chức năng

quản lý hành chính có trách nhiệm phân công xét xử một cách hợp lý, tạo điều kiện

để Thẩm phán độc lập xét xử vụ án của mình. Chánh án không được can thiệp chỉ

đạo Thẩm phán, HĐXX về nội dung, đường lối xét xử, áp dụng pháp luật của từng

vụ án cụ thể.

3.2.5. Các giải pháp khác.

3.2.5.1. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử cũng như

đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm phán.

Thẩm phán là người có vị trí đặc biệt quan trọng của quá trình giải quyết sơ

thẩm các vụ án hình sự, có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Do vậy, kết

quả của hoạt động xét xử phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

69

tư cách đạo đức và ý thức trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết,

xét xử vụ án. Chất lượng của Thẩm phán không những là yếu tố quan trọng ảnh

hưởng đến hiệu quả xét xử mà còn là yếu tố ảnh hưởng đến địa vị của Thẩm phán.

Do đó, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động xét xử cũng như củng cố địa vị pháp lý

của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cần có những giải pháp nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nhận thức của Thẩm phán như:

Việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán phải thực sự dân chủ, khách quan và

công bằng. Phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán thông qua hình thức thi

tuyển sẽ bảo đảm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực từ bên ngoài vào hoạt

động xét xử của Thẩm phán. Tuy nhiên để đảm bảo được chất lượng của Thẩm

phán thì khi tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, Hội đồng, người có quyền tuyển

chọn phải thực sự khách quan, công tâm để cuộc thi diễn ra công bằng thực sự,

tránh trường hợp nể nang hoặc bị tác động bởi các yếu tố vật chất khác.. Có như

vậy, những người có năng lực thực sự mới có điều kiện trở thành những Thẩm phán

và là những đại diện thực hiện quyền lực tư pháp Nhà nước.

Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực,

trình độ cho Thẩm phán trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công việc này cần được

tiến hành thường xuyên. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị

trường cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử chuyên sâu cho Thẩm phán đối

với các vụ án trong các lĩnh vực tham nhũng, chứng khoán, công nghệ thông tin, tài

chính ngân hàng... Đồng thời nhanh chóng bồi dưỡng trình độ về ngoại ngữ, tin học

để Thẩm phán tiếp cận được với kiến thức khoa học, áp dụng công nghệ thông tin vào

việc tra cứu tài liệu, văn bản nhằm giải quyết công việc một cách thuận lợi.

Nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán cũng là nhiệm vụ vô

cùng quan trọng. Cần chú ý đến văn hóa ứng xử của Thẩm phán trong quá trình tố

tụng tại phiên tòa. Vấn đề này tuy không được điều chỉnh bởi pháp luật nhưng nó

ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của phiên tòa cũng như uy tín, vị thế của Thẩm

phán cũng như của ngành Tòa án Việt Nam.

70

3.2.5.2. Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ, chính sách phù hợp đối với Thẩm phán

Để hoạt động xét xử của Thẩm phán có chất lượng và hiệu quả, cần phải đảm

bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết, chế độ về tiền lương, trụ sở, trang thiết bị làm việc,

phương tiện kỹ thuật... Mặc dù lương và chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán hiện nay

đã phần nào được cải thiện, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực

tế (chưa đủ để Thẩm phán nuôi con và gia đình), chưa tương xứng với tính chất đặc

thù công việc và trách nhiệm ngày càng cao của Thẩm phán; Các trang thiết bị,

phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công việc của Thẩm phán cũng còn hết sức nghèo

nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc… Những vấn đề này làm hạn chế về

động lực để đội ngũ Thẩm phán phấn đấu vươn lên.

Để khắc phục tình trạng trên cần nghiên cứu sửa đổi một cách tổng thể chế

độ chính sách đãi ngộ của Thẩm phán cũng như quan tâm đầu tư các trang thiết bị

phục vụ cho công việc của Thẩm phán. Cần quan tâm điều chỉnh một cách căn bản

tiền lương và nên có chế độ vật chất ưu tiên đủ mạnh để thu hút Thẩm phán về các

đơn vị tòa án cấp huyện, vùng sâu, vùng xa... như sửa đổi nâng cao chế độ phụ cấp

khu vực, phụ cấp đặc biệt…tạo điều kiện cho Thẩm phán yên tâm công tác lâu dài.

3.2.5.3. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan Nhà nước, tổ chức

xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, Hội đồng

nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cần tập trung làm tốt công tác

giám sát phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó

kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông

tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp.

Trong một nền tư pháp của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về

hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các Thẩm phán. Thực hiện công khai hóa

bản án của Tòa án. Việc công bố bản án là hình thức công khai, minh bạch hóa

chính sách và pháp luật, việc làm này được coi là một trong những biện pháp hữu

hiệu để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội

nhập quốc tế, trong đó người dân thực sự được làm chủ xã hội thông qua việc được

71

biết, được bàn, được kiểm tra việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp, của Tòa

án. Cũng chính vì thế mà bản thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên

môn để làm sao tuyên bản án được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng

72

pháp luật được xã hội thừa nhận [11].

Tiểu kết Chương 3

Tại Chương 3, Luận văn đã trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị

pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1. Để nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự thì cần phải đổi mới nhận thức về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS;

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến vị trí, vai trò của Thẩm

phán trong hoạt động xét xử cũng như hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách

nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Đổi mới nhận thức về địa

vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS; Hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của

Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc

lập của Thẩm phán trong xét xử.

2. Bên cạnh đó cũng cần phải có các giải pháp khác như nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử cũng như đạo đức nghề nghiệp cho Thẩm

phán; đảm bảo về cơ sở vật chất và chế độ, chính sách phù hợp đối với Thẩm phán

nhằm giải quyết công việc thuận lợi hơn và để Thẩm phán yên tâm công tác; đồng

thời tăng cường công tác giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và của

73

nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán.

KẾT LUẬN

1. Trong công cuộc cải cách tư pháp, Đảng ta đã xác định: lấy tổ chức Toà án

là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm[5], điều đó đã chứng minh sự ghi nhận

của Đảng đối với tầm quan trọng của Tòa án trong bộ máy Nhà nước. Tòa án chính là

cơ quan thực thi công lý của một chế độ Nhà nước, giữ vị trí trung tâm trong các cơ

quan tư pháp, trong đó Thẩm phán là người thay mặt Tòa án, nhân danh nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam được giao nhiệm vụ xét xử, giữ vai trò quyết định trong việc

kết thúc một quá trình tố tụng, phán quyết một hay một vài người nào đó là có tội hay

không và hậu quả pháp lý kèm theo nếu họ có tội. Chỉ có Thẩm phán mới được vinh

dự để pháp luật trao cho nhiệm vụ quan trọng này, thông qua đó thấy được vị trí của

Thẩm phán trong xã hội cũng như trong các cơ quan tiến hành tố tụng.

Qua những phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực

tiễn xét xử, có thể nói Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng trong xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở thực tiễn số liệu cụ thể ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh,

cho thấy phần lớn các Thẩm phán hiện nay đã và đang thực hiện đúng và đầy đủ

những nhiệm vụ, quyền hạn được giao, trừng trị kịp thời, có hiệu quả những kẻ

phạm tội, nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền con người, đồng thời,

thông qua việc xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán góp phần quan trọng trong công

tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội.

2. Luận văn đã trình bày về những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp

lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Qua đó làm rõ khái niệm địa

vị pháp lý của Thẩm phán, vị trí, vai trò của Thẩm phán cũng như nhiệm vụ, quyền

hạn và trách nhiệm của Thẩm phán nói chung và trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự nói riêng.

3. Luận văn đã làm rõ thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án 2 cấp tỉnh Bắc Ninh. Qua đó đề ra

các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong pháp luật cũng như

74

trên thực tiễn.

4. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc

tế, việc cải cách tư pháp mà trọng tâm là “Tòa án”, trong đó có việc nâng cao địa vị

pháp lý của Thẩm phán là đòi hỏi khách quan, đặc biệt cần thiết. Vì vậy với kết quả

nghiên cứu của Luận văn, tác giả hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào quá trình

hoàn thiện các quy định của pháp luật về nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán

75

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cả về mặt lý luận và thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2003), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai

đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

2 Nguyễn Đăng Dung (2005), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền,

Nxb Tư pháp.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết

48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị, Hà Nội.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết

49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Hà Nội.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ X.

7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI.

8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII.

9 Trần Văn Độ (2018), Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Bình luận

Hiến pháp 2013, Chủ biên Hoàng Thế Liên, NXB Chính trị quốc gia sự

thật (trang 746 – 773).

10 Trần Văn Độ (2019), Tư duy về quyền tư pháp: thực trạng và tiếp tục đổi

mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ

sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà

Nội – 09 – 8 – 2019; trang 257 -269.

11 Trần Thu Hạnh (2009), Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm

phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

12 Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn

thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.

76

13 Học viện tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng giải quyết án hình sự, Nxb Lao

động, Hà Nội.

14 Đinh Văn Quế (2004), Vai trò của HĐXX trong việc tranh tụng tại phiên

tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân.

15 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 13/SL về tổ

chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán, Hà Nội.

16 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 51/SL ngày

17 tháng 4, Hà Nội.

17 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2000), Bộ luật tố tụng hình sự Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Hiến pháp Nước Cộng

hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết

về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

19 Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20 Quốc hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21 Quốc hội (2016), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22 Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012 QH13 ngày 23/11/2012 về công tác

phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKS nhân dân, của

Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013.

23 Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

về quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực

tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học.

24 Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm

phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân.

25 TAND tỉnh Bắc Ninh (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, Bắc

77

Ninh.

26 TAND tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016, Bắc

Ninh.

27 TAND tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017, Bắc

Ninh.

28 TAND tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, Bắc

Ninh.

29 TAND tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019, Bắc

Ninh.

30 TAND tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, Tối cao.

31 Từ điển Luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội

32 Phạm Minh Tuyên (2019), Tư duy về xét xử, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”,

Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 09 – 8 – 2019

33 Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân.

34 Ủy ban thường vụ Quốc hội (2014) Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

35 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2017) Báo cáo tình hình kết quả công tác

đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2017.

36 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018) Báo cáo tình hình kết quả công tác

đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2018.

37 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019) Báo cáo tình hình kết quả công tác

đảm bảo ANCT, TTATXH năm 2019.

38 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo tình hình KT-XH năm

2019, Bắc Ninh.

39 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2017), Báo cáo kết quả công tác

năm 2017.

40 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2018), Báo cáo kết quả công tác

năm 2018.

78

41 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2019), Báo cáo kết quả công tác

năm 2019

42 Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta”

43 Nguyễn Tất Viễn (2019), Tiếp tục đổi mới tư duy về tư pháp trong sự vận

động và phát triển của xã hội Viện Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp

tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện

hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội – 09 – 8 – 2019

Trang Web

www.moj.gov.vn 44

http://toaan.gov.vn. 45

79

www.tapchicongsan.org.vn 46