VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
N G U Y Ễ N V I Ế T D Ư Ơ N G
NGUYỄN VIẾT DƯƠNG
C H U Y Ê N N G À N H
:
THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I
L U Ậ T K N H T Ế
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
K H Ó A
Hà Nội, năm 2020
HÀ NỘI, năm
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VIẾT DƯƠNG
THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH, DOANH THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành:. Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Vũ Thị Hồng Vân.
Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào trước đây.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau,
tất cả đều được chỉ dẫn nguồn cụ thể và được liệt kê trong Danh mục tài liệu tham
khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước nhà trường, Hội đồng chấm Luận văn, cũng như kết quả Luận văn của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 5 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Viết Dương
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
MỤC LỤC
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI.................................................................................................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án kinh doanh thương mại .......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ
án kinh doanh thương mại ............................................................................................. 7
1.1.2. Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại ............................................................................................................. 18
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Kiểm sát viên
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại .................................................... 22
1.2. Quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
1.2.1. Các trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
xử vụ án kinh doanh, thương mại............................................................................... 27
kinh doanh, thương mại ................................................................................................... 27
1.2.2. Thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc tham gia phiên tòa sơ thẩm
xét xử vụ án kinh doanh, thương mại ....................................................................... 29
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 43
2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình về Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................................................ 43
2.1.2. Đặc điểm vể bộ máy, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
2.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội và địa lý của Thành phố Hồ Chí Minh ........................ 43
Chí Minh ............................................................................................................................ 45
2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện quy định về thẩm quyền của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại ....................................................................................................................... 47
2.2.1. Số liệu ............................................................................................................. 47
2.2.2. Đánh giá ................................................................................................................. 49
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ............................................. 56
2.3.1. Khó khăn, vướng mắc..................................................................................... 56
2.3.2. Nguyên nhân ................................................................................................... 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC THI THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN
TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI ................................. 68
3.1. Một số giải pháp .............................................................................................. 68
3.1.1. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành ....................................................... 68
3.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác kiểm sát án kinh doanh, thương
mại ............................................................................................................................ 69
3.1.3. Phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ và
3.1.4. Tăng cường quan hệ phối hợp ........................................................................ 72
3.1.5. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và chế độ, chính sách cho đội ngũ Kiểm sát
kinh nghiệm của đội ngũ Kiểm sát viên ................................................................... 71
viên ........................................................................................................................... 72
3.2. Một số kiến nghị ............................................................................................. 73
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật dân sự, tố tụng dân sự .................................. 73
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định trong ngành Kiểm sát nhân dân và
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 78
quy định liên ngành giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân .................. 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải nghĩa
BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Hội đồng xét xử HĐXX
Kinh doanh, thương mại KDTM
Kiểm sát viên KSV
Tòa án nhân dân TAND
Viện kiểm sát VKS
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là một trong những thành phố phát
triển nhất trong cả nước. Trong những năm qua, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh
tế thị trường, các quan hệ KDTM tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên sôi
động và đa dạng hơn. Tuy nhiên, các tranh chấp KDTM, vì vậy, cũng diễn ra ngày
càng phổ biến và phức tạp hơn. Khi các bên không đạt được sự đồng thuận trong
việc giải quyết tranh chấp, một trong các bên có quyền sử dụng các thiết chế khác
nhau để giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải hay yêu cầu các cơ quan
tài phán như Trọng tài thương mại và Tòa án.
BLTTDS đã mở rộng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cũng
như KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp dân sự nói chung,
phiên tòa giải quyết tranh chấp KDTM nói riêng. Theo đó, VKSND tham gia phiên
tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối
tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc
có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi và trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng. Đáng chú ý, Điều 262 BLTTDS kế thừa quy định: tại phiên
tòa sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng dân
sự trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, bổ sung nội dung KSV phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án. Quy định mới của BLTTDS một mặt khẳng định vai
trò quan trọng của VKSND và KSV trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ,
việc dân sự nói chung, kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM nói riêng. Mặt
khác, quy định này cũng tạo ra những áp lực nhất định đối với các cơ quan VKSND
và KSV được phân công công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM.
Thực tiễn công tác kiểm sát xét xử các vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm tại
VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm VKSND Thành
2
phố và VKSND 24 quận huyện) trong những năm vừa qua đã đạt được những kết
quả khả quan. Thể hiện ở chỗ VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố đã phát hiện
ra những vi phạm của TAND hai cấp về tố tụng, qua đó kịp thời thực hiện quyền
kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm; Tại các phiên tòa, hầu hết quan điểm của VKS
về việc giải quyết nội dung vụ án phù hợp, có căn cứ được Tòa án chấp nhận…
Chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM theo thủ tục
sơ thẩm của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự hoàn thiện của pháp luật về
KDTM và pháp luật tố tụng dân sự, công tác chỉ đạo, điều hành, bố trí cán bộ của
các đơn vị VKSND và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của các KSV được phân
công làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Trong đó, đặc biệt
quan trọng là yếu tố chất lượng nguồn nhân lực mà sự thể hiện rõ ràng nhất là vai
trò của KSV tại các phiên tòa giải quyết vụ án KDTM. Tuy nhiên, ở một khía cạnh
khác, nếu nhìn nhận khách quan thì công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
KDTM vẫn ít nhiều tồn tại những hạn chế nhất định. Trên thực tế, một số vi phạm
của Tòa án về mặt tố tụng chưa được KSV phát hiện để phát biểu ý kiến tại phiên
tòa; tại phiên tòa phát sinh một số tình huống đòi hỏi KSV phải có ý kiến như
đương sự vắng mặt, đương sự xin hoãn, tạm ngừng phiên tòa, đương sự bổ sung tài
liệu, chứng cứ hoặc có lời khai khác so với lời khai có trong hồ sơ vụ án nhưng vai
trò của KSV còn chưa được thể hiện rõ; một số quan điểm về việc giải quyết nội
dung vụ án của KSV chưa phù hợp nên không được Tòa án chấp nhận.
Trong bối cảnh, số lượng các vụ án tranh chấp về KDTM trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh có xu hướng gia tăng, áp lực công việc của các KSV được phân
công tham gia phiên tòa giải quyết tranh chấp KDTM ngày càng nhiều, việc nghiên
cứu các quy định pháp luật về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
KDTM, nhận diện thực trạng chất lượng tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM
của KSV, từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM của Kiểm sát viên VKSND hai cấp
trên địa bàn Thành phố là yêu cầu mang tính tất yếu và khách quan.
3
Chính vì các lí do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của
Kiểm sát viên trong phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp kinh, doanh thương
mại từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn cuối khóa.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo nhiều bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, luận văn thạc sĩ, chuyên đề tổng kết rút
kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… có liên quan đến nội dung đề tài. Có
thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự, trong hoạt động kiểm sát các vụ án
dân sự, KDTM theo thủ tục sơ thẩm như: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga – Hà Nội năm 2008; “Quy định về tham
gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và
hướng sửa đổi, bổ sung theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi – Thông tin Khoa học kiểm sát,
năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014; Luận văn thạc sĩ
luật học“Thẩm quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại” của Nguyễn Thị Hiên năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật
học “Kiểm sát giải quyết các tranh chấp kinh doanh - thương mại trên địa bàn tỉnh
Lai Châu” của tác giả Nguyễn Viết Tuấn năm 2018;…
- Nhóm thứ hai, các bài viết liên quan đến vai trò của KSV tại phiên tòa sơ
thẩm giải quyết các vụ án dân sự, KDTM như Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên tòa dân sự sơ thẩm” của Nguyễn Vĩnh Tá
năm 2012; các bài viết, chuyên đề khoa học của VKSND các địa phương có liên
quan đến nội dung “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bài phát biểu của
Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” như VKSND thành phố Hà Nội, Quảng
Ngãi, Sóc Trăng… các thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án KDTM của VKSND tối cao, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh…
4
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên, tác giả nhận thấy có
nhiều quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và
hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên
cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự hay kiểm sát
việc giải quyết các tranh chấp KDTM mà chưa đưa nhận thức toàn diện về nhiệm
vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp KDTM, đặc biệt
là tại một địa phương có nhiều án KDTM như Thành phố Hồ Chí Minh.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung, phân tích các quy định
của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
nói chung, vụ án KDTM nói riêng; khảo sát, đánh giá những ưu, nhược điểm cũng
như những hạn chế, vướng mắc trong các quy định về thẩm quyền của KSV tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án KDTM;
Luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện thẩm quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án KDTM.
3.2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận về thẩm quyền của KSV tại
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; phân tích những quy định của pháp luật
hiện hành và của Ngành Kiểm sát nhân dân về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án KDTM.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng thực thi các quy định hiện hành về thẩm
quyền của KSV của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại các
phiên tòa sơ thẩm xét xử các vụ án KDTM của trong thời gian từ ngày 01/01/2017
đến ngày 31/12/2019, qua đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn
chế cần phải khắc phục và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
5
+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng thực thi thẩm quyền của KSV tại các phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp
KDTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung, các quy định
pháp luật, quy định của Ngành Kiểm sát nhân dân, thực trạng thi hành các quy định
về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự nói chung và các
vụ án KDTM nói riêng.
4.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về thẩm quyền
của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM.
- Về không gian: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực tiễn thực thi quy
định hiện hành về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM
tại VKSND Thành phố Hồ Chí Minh và VKSND 24 quận huyện trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian khảo sát thực tiễn thi hành trong
thời gian từ 01/01/2017 đến ngày 31/12/2019.
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Về phương pháp luận: Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận văn vận
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ta.
- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng kết hợp chủ yếu các
phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử, phương pháp
nghiên cứu lý luận, phương pháp phân tích luật, tổng hợp, thống kê.
+ Phương pháp phân tích, tiếp cận lịch sử và nghiên cứu lý luận: làm rõ khái
niệm và những vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM và thẩm
quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm sơ thẩm vụ án KDTM.
6
+ Phương pháp phân tích luật và thống kê thực tiễn: để luận giải cho những
nhận định, đánh giá thực trạng thi hành các quy định về thẩm quyền của Kiểm sát
viên VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm các vụ án KDTM.
+ Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để rút ra những kết luận và giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực thi quy định về thẩm quyền của
KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử các tranh chấp KDTM.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại
Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng thực thi thẩm
quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án kinh doanh thương mại
- Thẩm quyền
Mỗi một cơ quan nhà nước có một vai trò, vị trí riêng trong bộ máy nhà
nước. Cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước là người thực thi công vụ được
nhà nước trao quyền. Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước,
nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Trách nhiệm công
vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng
như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Gắn với trách nhiệm công
vụ, cán bộ công chức có những thẩm quyền nhất định để thực thi công vụ của mình.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền như: thẩm quyền bao gồm
nhiệm vụ và quyền hạn hay thẩm quyền là phương tiện để các cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình; hoặc cho
rằng thẩm quyền bao gồm tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực
do pháp luật quy định [6, tr22-26].
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Thẩm quyền” là tổng hợp các quyền mà pháp luật
quy định cho một cơ quan nhà nước một công chức được xem xét giải quyết những
công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng
của bộ máy nhà nước [20, tr.523]. Thẩm quyền gắn liền với quyền hạn và nhiệm vụ
mà pháp luật quy định cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong các cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi cơ quan
nhà nước và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp
8
hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức năng, nhiệm
vụ của ngành đó. Thẩm quyền không chỉ thể hiện được sự khác biệt giữa các cơ
quan nhà nước, các cán bộ, công chức với nhau mà còn là thuộc tính tất yếu của các
cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước.
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được xem là một khái niệm quan
trọng. “Thẩm quyền” được hiểu là “quyền chính thức được xem xét để kết luận và
định đoạt, quyết định một vấn đề” [30, tr.701]. Thẩm quyền gắn liền với quyền và
nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm những chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường được sử
dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “cơ quan có thẩm quyền”, “người
có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”, “thẩm quyền của Toà án nhân dân”, “thẩm
quyền của Viện kiểm sát nhân dân”, thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân”... Như vậy, có thể thấy rằng, “thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ phạm
vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước
trong việc thực thi quyền lực nhà nước được pháp luật quy định”.
- Kiểm sát viên
Tại nước ta, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại nói riêng
luôn được xác định là chức năng hiến định của VKSND. VKSND thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [13, Điều 107; 14, Điều 2]. Không đề
cập đến chức năng thực hành quyền công tố vốn chỉ có trong các vụ án hình sự,
kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được
thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án
9
hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật [14, khoản 1 Điều 4].
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật; Tham gia các phiên
họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa
án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích
công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án giải quyết vụ
việc khi chưa có điều luật để áp dụng; Tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm [16, Điều 21].
VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình thông qua
các KSV. KSV là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp [14, Điều 74].
Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói
chung, kiểm sát tại phiên tòa giải quyết các vụ án KDTM nói riêng được cụ thể hóa
trong các quy định của BLTTDS, Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 31 tháng 8 năm 2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và
TAND trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ của ngành kiểm sát nhân dân như Quy chế công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, Quy định về hướng dẫn hoạt động của Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm của VKSND tối cao.
Theo các quy định nêu trên, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM,
KSV thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa, tham gia hỏi để làm rõ nội dung vụ án, thực hiện các quyền yêu cầu, đề
nghị, kiến nghị, đồng thời, đại diện VKS phát biểu quan điểm đối với việc giải
10
quyết nội dung vụ án. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến
hành tố tụng và sự chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng là quyền năng pháp lý
riêng có mà pháp luật quy định cho KSV. Đây đồng thời cũng là nghĩa vụ pháp lý
của KSV. Chỉ có KSV mới có quyền tiến hành các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM một cách trực tiếp. Cũng do
địa vị pháp lý đặc biệt này, chỉ có KSV mới có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện
pháp cần thiết như thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị để tác động trực tiếp vào
các chủ thể tham gia phiên tòa.
- Vụ án kinh doanh thương mại
Trong khoa học pháp lý, “vụ án” được hiểu là một vụ việc có dấu hiệu trái
pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được
đưa ra Tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
KDTM, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [30,
tr.860]. Hiểu theo nghĩa này, vụ án KDTM là các tranh chấp về KDTM được Tòa
án xét xử theo quy định của pháp luật. Tranh chấp KDTM là một dạng của tranh
chấp dân sự (theo nghĩa rộng bao gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
KDTM), do vậy, để có căn cứ kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM chính xác,
khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, cần nhận diện
và phân biệt vụ án KDTM với các vụ án dân sự thông thường. Sự khác nhau giữa
vụ án KDTM và vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa hẹp) thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, sự khác nhau của vụ án KDTM và vụ án dân sự là sự khác nhau về
nội dung tranh chấp. Vụ án KDTM hay vụ án dân sự đều bắt nguồn từ các mâu
thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ
pháp luật này. Các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao
gồm: Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân; Tranh chấp về
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản; Tranh chấp về giao dịch dân sự,
hợp đồng dân sự; Tranh chấp về thừa kế tài sản; Tranh chấp về bồi thường thiệt hại
11
ngoài hợp đồng; Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh
chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát
triển rừng; Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của
pháp luật về báo chí; Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu; Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự... [16, Điều 26].
Trong khi đó, những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án bao gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công
ty; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty
với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty; Các tranh chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật [16, Điều 30].
Nội dung của những tranh chấp KDTM liên quan đến những mâu thuẫn bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động KDTM. Nói cách
khác, đó là các tranh chấp, bất đồng phát sinh từ các quan hệ mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác hay các tranh chấp phát sinh từ hoạt động quản lý nội bộ của các
doanh nghiệp như tranh chấp giữa thành viên của công ty với công ty, tranh chấp
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty… Ngoài các tranh chấp kể trên, các tranh chấp khác
đương nhiên không được xác định là tranh chấp KDTM.
12
Hai là sự khác nhau về mặt chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án KDTM và
vụ án dân sự. Vì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật
KDTM là không giống nhau, do đó, chủ thể tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án giải quyết tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ dân sự hay KDTM cũng không giống nhau.
Tranh chấp dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự thông thường
thì chủ thể tham gia tranh chấp có thể là các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác và các chủ thể khác có địa vị pháp lý ngang bằng, bình đẳng với nhau. Tranh
chấp giữa các chủ thể này có thể liên quan đến các giá trị nhân thân (quan hệ nhân
thân) hoặc các giá trị vật chất (quan hệ tài sản) nhất định. Bên cạnh các tranh chấp
về quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản, các tranh chấp khác giữa các chủ
thể quan hệ pháp luật dân sự là tranh chấp liên quan đến tài sản, trong đó, các chủ
thể tham gia vào quan hệ tài sản chủ yếu vì mục đích sinh hoạt hay tiêu dùng. Trong
một số trường hợp, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự vì mục đích lợi
nhuận, nhưng họ không đăng kí kinh doanh thì tranh chấp phát sinh giữa họ cũng
không phải là tranh chấp KDTM. Ví dụ, chị A trong một lần đi du lịch ở nước ngoài
đã mua một số hàng mỹ phẩm về Việt Nam để bán lấy tiền lời. Việc mua bán mỹ
phẩm của chị A là vì mục đích lợi nhuận nhưng tranh chấp (nếu có) phát sinh từ
việc chị A bán mỹ phẩm cho người khác sẽ không được coi là tranh chấp KDTM
bởi chị A không phải là thương nhân, không tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa
vì mục đích sinh lợi một cách thường xuyên, liên tục, mang tính nghề nghiệp.
Trong khi đó, tranh chấp KDTM phát sinh từ quan hệ KDTM giữa các
thương nhân trong hoạt động KDTM vì mục đích lợi nhuận. Sẽ được coi là quan hệ
pháp luật KDTM nếu chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này đều là các thương
nhân hay ít nhất một trong các bên là thương nhân. Tức là, chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật KDTM phải có ít nhất một bên là tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh [12, khoản 1 Điều 6]. Khi quan hệ pháp luật KDTM giữa các bên phát
sinh tranh chấp và một trong các bên có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì
13
các chủ thể tham gia vụ án KDTM đương nhiên phải là chủ thể đã tham gia vào
quan hệ pháp luật KDTM trước đó. Như vậy, chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án
KDTM phải là các thương nhân hoặc phải có ít nhất một bên tham gia tố tụng là
thương nhân, trước đó, xác lập quan hệ pháp luật KDTM vì mục đích lợi nhuận.
Ba là sự khác nhau về thẩm quyền giải quyết vụ án KDTM và vụ án dân sự.
Sự khác biệt này khó có thể được nhận diện nếu như các vụ án dân sự và vụ án
KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, bởi lẽ, hầu hết tại các
TAND cấp huyện không có Tòa chuyên trách hay Thẩm phán chuyên trách giải
quyết vụ án dân sự hay vụ án KDTM, mà thông thường một Thẩm phán đảm nhiệm
việc giải quyết cả án dân sự và án KDTM. Tại các cơ quan TAND cấp huyện nếu có
các phân Tòa chuyên trách thì thẩm quyến giải quyết các tranh chấp KDTM và
tranh chấp dân sự đều thuộc về Tòa dân sự TAND cấp huyện [16, khoản 1 Điều 36].
Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự và vụ án KDTM của
TAND cấp tỉnh có sự khác biệt khá rõ ràng. Theo quy định tại Điều 38 BLTTDS,
việc giải quyết các vụ án dân sự hay vụ án KDTM thuộc thẩm quyền của TAND
cấp tỉnh sẽ do hai Tòa chuyên trách hoàn toàn khác nhau thực hiện. Tòa dân sự
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
dân sự thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
những vụ án dân sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Tòa kinh tế
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp
KDTM thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
những vụ án KDTM mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS.
Bốn là sự khác nhau về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM.
Theo quy định của BLTTDS, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo
quy định của BLDS. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng
thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra
trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được
14
hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường
hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ [16, Điều 184].
Như vậy, trong trường hợp các bên không có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện,
khi giải quyết vụ án, không đặt ra yêu cầu xác định còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
Trường hợp một trong các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, việc xác
định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và vụ án KDTM cũng có sự khác biệt.
BLDS có các quy định chung về thời hiệu [15, Điều 150 đến Điều 157], quy
định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng [15, Điều 429], quy định thời hiệu khởi kiện
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [15, Điều 588], quy định về thời hiệu khởi kiện
về thừa kế [15, Điều 623]. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện
đối với các vụ án KDTM không chỉ dựa trên các quy định của BLDS mà còn phải
dựa vào các quy định pháp luật chuyên ngành. Ví như:
- Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm,
kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm [12, Điều 319]. Thời hiệu
để khách hàng khởi kiện thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic là 09 tháng kể từ
ngày giao hàng [12, điểm e khoản 1 Điều 237].
- Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát
sinh tranh chấp [10, Điều 30].
- Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung trong hàng hải là 02 năm kể từ ngày
xảy ra tổn thất chung [17, Điều 297]. Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp [17, Điều 366].
Năm là sự khác nhau về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và vụ
án KDTM. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án dân sự và vụ án KDTM theo thủ
tục sơ thẩm là không giống nhau (trừ trường hợp các vụ án được xét xử theo thủ tục
rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài). Cụ thể như sau:
- Đối với các vụ án dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 04 tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng [16, đểm a khoản 1 Điều 203].
15
- Đối với các vụ án KDTM thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 01 tháng [16, điểm b khoản 1 Điều 203].
Sự khác biệt trong quy định của BLTTDS về thời hạn chuẩn bị xét xử đối
với vụ án KDTM và vụ án dân sự như trên, xuất phát từ sự khác nhau trong bản
chất của quan hệ pháp luật KDTM và quan hệ pháp luật dân sự. “Sở dĩ phải làm
như vậy vì đối với doanh nghiệp thời gian là tiền bạc, là cơ hội kinh doanh, là sự
phát triển của nền kinh tế của đất nước, của xã hội, không thể để doanh nghiệp phải
mất quá nhiều thời gian cho một vụ kiện” [7]. Trong khi các quan hệ dân sự mang
tính ổn định, lâu dài (như quan hệ pháp luật về thừa kế, quan hệ về quyền sở hữu tài
sản), thì các quan hệ KDTM thường mang tính “vụ việc”, được xác lập từ các hoạt
động KDTM hàng ngày của các chủ thể kinh doanh như quan hệ hợp đồng mua
bán, hợp đồng vận chuyển… Hơn thế nữa, trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, các
quan hệ KDTM có yếu tố nước ngoài ngày càng trở lên phổ biến, việc giải quyết
các tranh chấp KDTM nhanh chóng, hiệu quả theo thông lệ chung của các quốc gia
trên thế giới cũng góp phần thu hút và làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.
Sáu là sự khác biệt trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ
án. BLDS được xem là luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự, luật khác có
liên quan đến điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái
với các nguyên tắc cơ bản của BLDS [15, Điều 4]. Các quy định trong BLDS là các
quy định mang tính nền tảng, điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự hiểu theo
nghĩa rộng. Tuy nhiên, BLDS không thể bao quát hết các đặc trưng riêng của từng
loại quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, do đó, để điều chỉnh các quan hệ pháp luật
KDTM, bên cạnh BLDS được coi là “luật chung”, còn có các quy định pháp luật
“chuyên ngành” khác điều chỉnh đối với từng hoạt động KDTM cụ thể như: Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Kinh doanh
bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bảo hiểm,
16
Luật Xây dựng, Luật Quản lý ngoại thương, Luật các tổ chức tín dụng…và các văn
bản hướng dẫn thi hành các luật này. Khi giải quyết các tranh chấp KDTM, Tòa án
không chỉ căn cứ vào các quy định trong BLDS mà còn phải căn cứ vào các quy
định pháp luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực KDTM cụ thể.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định
thì áp dụng tập quán [15, Điều 5]. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán khi giải quyết
các vụ án KDTM và vụ án dân sự cũng có sự khác biệt nhất định. Tập quán hiểu
theo nghĩa chung là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp
lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một
vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự [15, khoản 1
Điều 5]. Trong khi các tập quán trong lĩnh vực dân sự (hiểu theo nghĩa hẹp) được
hình thành trong cộng đồng dân cư, phát sinh từ các quan hệ trao đổi, mua bán…
của những người dân thông thường thì tập quán thương mại là thói quen được thừa
nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực
thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại [12, khoản 4 Điều 3].
Trường hợp các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự mà các bên không
có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì
áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp
không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng [15, Điều 6].
Đối với việc áp dụng án lệ, cho tới thời điểm hiện nay, Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao đã ban hành 37 án lệ có hiệu lực để phục vụ cho công tác xét xử
các vụ án hình sự, vụ án hành chính và vụ án dân sự nói chung. Trong tổng số 37 án
lệ đã có hiệu lực, có 20 án lệ dân sự (án lệ số 02, 04, 05, 06, 07, 14, 15, 16, 22, 23,
24, 25, 26, 27, 31, 32, 33, 34, 35, 36) chủ yếu về các tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế tài sản, tranh chấp về quyền sở
hữu nhà, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp
17
đồng đặt cọc… Các án lệ KDTM gồm có 07 án lệ (án lệ số 08, 09, 11, 12, 13, 21,
37) về hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng bảo hiểm.
Cuối cùng là sự khác biệt về mức thu án phí Tòa án khi giải quyết vụ án
dân sự và vụ án KDTM. Theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mức thu án phí Tòa án đối với
tranh chấp KDTM cao hơn so với mức thu án phí Tòa án đối với tranh chấp dân sự.
Án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về dân sự không có giá ngạch là 300.000
đồng, trong khi đó, án phí sơ thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại
không có giá ngạch 3.000.0000 đồng. Đối với tranh chấp dân sự có giá ngạch, từ
6.000.000 đồng trở xuống là 300.000 đồng, trong khi đó, đối với tranh chấp KDTM
có giá ngạch, từ 60.000.000 đồng trở xuống là 3.000.000 đồng. Các mức phí tiếp
theo của án dân sự có giá ngạch với án KDTM có giá ngạch là giống nhau [28].
Như đã trình bày, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự cũng chính là các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát việc
giải quyết các vụ án KDTM.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra kết luận: Thẩm quyền của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM là tổng hợp các quyền năng pháp lý
theo quy định của pháp luật mà KSV được thực hiện để kiểm sát tính hợp pháp của
các quyết định, hành vi pháp lý của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và sự tuân
theo pháp luật của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình xét xử sơ thẩm
vụ án KDTM, nhằm đảm bảo cho việc xét xử vụ án KDTM của Tòa án được kịp
thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Nhận thức đúng đắn về thẩm quyền của KSV (KSV chỉ được thực
hiện đúng quyền hạn được trao, mọi hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều bị xem là hành vi trái pháp luật) - có mối
quan hệ chặt chẽ với kết quả thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền được
giao. Khi KSV nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ là điều
kiện cần để thực hiện đúng thẩm quyền được trao. Ngược lại, khi KSV không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng quyền hạn như sử dụng quyền hạn trái pháp luật
18
hay lẩn tránh thực hiện nghĩa vụ đều là hậu quả của một nhận thức khiếm khuyết về
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.1.2. Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các vụ án
kinh doanh thương mại
Trên thực tế, việc giải quyết một số vụ án dân sự còn chưa thực sự bảo đảm
tính khách quan, gây khiếu kiện bức xúc, kéo dài, khiếu kiện đông người làm mất
ổn định trật tự xã hội. Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự nói chung, xét xử các vụ án
KDTM nói riêng thời gian qua cho thấy, có một số bản án, quyết định của Tòa án
đã bị hủy, sửa, phải xét xử nhiều lần, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử của Tòa án, kiểm tra, giám sát các bản án, quyết định của Tòa án một
cách có hiệu quả. “Tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự còn chậm, chất tương xét
xử các vụ án dân sự còn thấp... trong đó có nguyên nhân là chưa có cơ chế giám sát
kiểm sát có hiệu quả việc giải quyết các vụ án dân sự” [1]. Vì vậy, việc xác định
đúng đắn vị trí, vai trò kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND
trong tố tụng dân sự là điều cần thiết.
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện
quyền lực Nhà nước, hoạt động này cần thiết và phải chịu sự kiểm tra, giám sát,
kiểm soát chặt chẽ của nhiều cơ chế khác nhau, đặc biệt là phải thiết lập cho được
cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Hiến pháp đã
giao cho VKSND thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp để chế ước, giám sát
quyền lực, tăng thêm tính minh bạch trong các hoạt động tư pháp, bảo vệ pháp chế
cũng như quyền lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức [3, tr.10].
Phiên tòa sơ thẩm được xem là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất của giai
đoạn xét xử sơ thẩm và quá trình tố tụng dân sự [5, tr.37]. Lí do là bởi, tại phiên tòa
sơ thẩm, Tòa án nhân dân xem xét và giải quyết tất cả các yêu cầu hợp pháp của
đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX phải xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung
vụ án, trực tiếp nghe các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trình bày
ý kiến, đánh giá tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ. Chất lượng giải quyết
tranh chấp KDTM tại Tòa án phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động xét xử tại phiên tòa
19
sơ thẩm. Chính vì vậy, để kịp thời phát hiện và khắc phục sai sót, vi phạm của Tòa
án, cần phải có sự có mặt của KSV trong phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM nói
riêng và phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) nói chung.
Hoạt động kiểm sát xét xử vụ án KDTM của VKSND là hoạt động giám sát,
kiểm sát sự tuân theo pháp luật của chủ thể tiến hành tố tụng và sự chấp hành pháp
luật các chủ thể tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS. Đây là hình thức thực
hiện quyền lực nhà nước đã được Hiến pháp và BLTTDS quy định cho VKSND.
Trên cơ sở đó, vai trò của KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
KDTM được thể hiện ở những điểm dưới đây:
- Kiểm sát sự tuân thủ pháp luật của HĐXX, Thư ký phiên tòa và việc chấp
hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, gớp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật [16, Điều 21]. Sự
tham gia của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hoạt động kiểm sát của KSV tại phiên tòa được diễn ra liên tục từ khi khai
mạc phiên tòa cho đến khi tuyên án, thể hiện bằng phương thức kiểm sát trực tiếp
[19, tr.12]. KSV kiểm sát thành phần HĐXX, Thư ký phiên tòa và tư cách tố tụng
của những người tham gia tố tụng, kiểm sát quá trình xét xử của HĐXX,… kịp thời
đưa ra các kiến nghị những người tiến hành tố tụng những vi phạm về nguyên tắc,
trình tự tiến hành tố tụng, qua đó, loại trừ các vi phạm pháp luật của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa.
Bên cạnh đó, căn cứ vào kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên
tòa và căn cứ vào các quy định pháp luật, KSV kiểm sát kết quả giải quyết vụ án
của Tòa án. Trong trường hợp phán quyết của Tòa án là chưa đúng với bản chất
thực sự của tranh chấp, việc đối chiếu kết quả nghiên cứu hồ sơ, theo dõi, ghi chép
diễn biến phiên tòa và bản án giúp cho KSV đưa ra quyết định báo cáo Lãnh đạo
20
Viện kiểm sát có thực hiện các quyền kháng nghị, kiến nghị đối với bản án, quyết
định Tòa án, đảm bảo việc giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
- Góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Sự có mặt của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
KDTM còn góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Bản chất của hoạt động kiểm sát trong phiên tòa sơ thẩm
vụ án KDTM cũng như các phiên tòa dân sự nói chung là nhằm theo dõi diễn biến
phiên tòa, qua đó xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định những yêu cầu
mà các bên đương sự đưa ra cũng như tính hợp lý, hợp pháp của các yêu cầu đó.
Bởi lẽ, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án kể từ khi nhận đơn khởi kiện
cho tới trước khi phiên tòa diễn ra, KSV chỉ kiểm sát các hành vi tố tụng và quyết
định tố tụng của Tòa án, của Thẩm phán một cách gián tiếp thông qua hồ sơ vụ án
[19, tr.11]. Kết quả của hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án trong một số trường hợp
không thể chính xác, khách quan do những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
trong một số vụ án không phản án hết thực tế tranh chấp giữa các bên.
Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM, nguyên đơn, bị đơn một lần nữa
xác định, bày tỏ chính xác, cụ thể các yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, đưa ra
các tài liệu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua
lời khai, ý kiến của những người tham gia tố tụng khác được trình bày tại phiên tòa
cũng góp phần làm sáng tỏ nội dung vụ án. Hơn thế nữa, khi tham gia phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án KDTM, KSV có thể tham gia hỏi các đương sự và những người
tham gia tố tụng khác để hiểu rõ hơn bản chất của tranh chấp giữa các bên. Trong
khi đó, những người tiến hành tố tụng kiểm tra, phân tích, đánh giá toàn diện các
yêu cầu, các tài liệu, chứng cứ, dẫn chiếu các quy định pháp luật về việc giải quyết
nội dung vụ án… Chính vì vậy, bằng việc trực tiếp xem xét, đánh giá lời khai,
những căn cứ, lập luận mà các bên đưa ra khi tham dự phiên tòa, KSV mới có cơ
hội để kiểm chứng lại một lần nữa các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó
xác định được bản chất thực sự của tranh chấp.
21
- Ý kiến phát biểu của KSV tại phiên tòa là một trong những cơ sở để HĐXX
giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV phát biểu
ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án là một trong những cơ sở để HĐXX tuyên
án. Dựa trên kết quả nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn
biến tại phiên tòa, KSV phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Nội
dung phát biểu, KSV phân tích, đánh giá, nhận định về nội dung tranh chấp và các
tình tiết của vụ án; đánh giá, nhận định về tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án; nêu
rõ căn cứ pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án; nêu rõ quan điểm về việc
chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, đề nghị của nguyên đơn, cơ
quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn; yêu cầu độc lập, đề
nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nội dung phát biểu của KSV là
một trong những cơ sở quan trọng để Tòa án đưa ra bản án khách quan, hợp tình,
hợp lý, đúng quy định của pháp luật.
- Sự có mặt của KSV tại phiên tòa còn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động lập pháp. Thông qua hoạt động kiểm sát xét xử tại các phiên tòa KDTM sơ
thẩm, KSV có thể phát hiện ra các quy định pháp luật còn bất cập, mâu thuẫn,
chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn trong quá trình áp dụng,
thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó, KSV tập hợp, báo cáo Lãnh đạo VKS, từ đó
ngành kiểm sát nhân dân tập hợp những thiếu sót, bất cập này, đề xuất, kiến nghị cơ
quan đã ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ những quy định không còn
phù hợp, ban hành các quy định mới thay thế cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Như vậy, có thể thấy rằng, sự có mặt của KSV trong phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án KDTM là để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND. Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM, KSV kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của HĐXX, Thư ký phiên tòa và sự chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng nhằm phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật của các
chủ thể; phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết nội dung vụ án của KSV
là một trong những cơ sở quan trọng để Tòa án ra bản án có căn cứ, đúng pháp luật,
góp phần đảm bảo sự công bằng, dân chủ, khách quan trong việc giải quyết nội
22
dung vụ án, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Kiểm
sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại
Việc nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của
KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM cho chúng ta hiểu rõ hơn những tác động
đến hoạt động của KSV, từ đó, có những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo đảm và nâng
cao chất lượng hoạt động thực thi công vụ của KSV tại phiên tòa KDTM sơ thẩm.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
KDTM được thực hiện bởi cá nhân KSV, tuy nhiên, chất lượng thực hiện hoạt động
này phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Cụ thể như:
Một là, yếu tố chính trị, pháp lý. Là công chức nhà nước, do vậy, việc thực
thi nhiệm vụ, quyền hạn của KSV phải gắn chặt với các quan điểm, đường lối của
Đảng và quy định pháp luật của Nhà nước. Để KSV có thể thực hiện các quyền
năng pháp lý tại phiên tòa KDTM sơ thẩm một cách đầy đủ, đòi hỏi hệ thống quy
phạm pháp luật phải đồng bộ, tránh chồng chéo, mâu thuẫn. Các quy định pháp luật
cũng cần phải hướng tới việc đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho KSV, ngăn
ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi
công vụ của KSV, đồng thời, phù hợp với nguyên tắc tập trung, thống nhất trong
Ngành kiểm sát nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND mỗi cấp
và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao đối
với toàn hệ thống. Thực tế cho thấy, một khi các quy định pháp luật tố tụng dân sự
đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho KSV thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Ngược lại, khi các quy định pháp luật tố tụng không đồng bộ,
đầy đủ sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho KSV khi thực hiện thẩm quyền.
Bên cạnh đó, sự ổn định của tình hình chính trị cũng có tác động tới việc
thực hiện thẩm quyền của KSV, đặc biệt là ảnh hưởng của các nguồn thông tin đa
chiều. Trong thời đại thông tin hiện nay, có những tranh chấp KDTM giữa các bên
đã được các phương tiện thông tin truyền thông phản ánh, đưa tin và phân tích các
23
khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh rằng, chỉ khi dư luận xã hội
phản ánh đúng đắn các tình tiết khách quan của vụ án, nhận định và bình luận một
cách công bằng, không thiên vị thì mới có thể tạo ra sự thuận lợi cho KSV cũng như
Thẩm phán trong quá trình tố tụng. Ngược lại, nếu dư luận xã hội phản ánh các tình
tiết, sự việc một cách phiến diện, hời hợt và chủ quan thì khi đưa ra ý kiến của mình
về việc giải quyết vụ án, KSV phải chịu một áp lực không nhỏ từ dư luận xã hội.
Hai là, sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKSND tối cao và Lãnh đạo của
các đơn vị VKSND. Trong mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức thì công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành luôn giữ vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố xuyên suốt quá
trình hoạt động, quyết định mức độ thành công trong việc thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch của cơ quan, tổ chức đó. Vai trò của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với một ngành theo chế độ thủ trưởng chế như
Ngành kiểm sát nhân dân.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết tranh chấp KDTM, được chỉ đạo, điều
hành thống nhất bởi Viện trưởng VKSND tối cao và được một Phó Viện trưởng
trực tiếp phụ trách. Tại các VKSND cấp tỉnh và cấp huyện, bên cạnh sự chỉ đạo,
điều hành thống nhất của Viện trưởng VKSND, luôn có một Phó Viện trưởng được
phân công trực tiếp phụ trách công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Thực tế cho thấy rằng, khi Lãnh đạo VKSND tối cao, Lãnh đạo các đơn vị VKSND
cấp tỉnh, cấp huyện thực sự quan tâm đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án dân sự, chỉ đạo tăng cường nhân lực, vật lực cho khâu công tác này thì chất
lượng kiểm sát án dân sự nói chung, án KDTM nói riêng sẽ có chuyển biến tích cực.
Với vai trò là Vụ nghiệp vụ, Vụ Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ
việc kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp
luật (Vụ 10) đã phối hợp với Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn
nhân và gia đình (Vụ 9) tham mưu cho Viện trưởng VKSND tối cao ban hành các
Quy chế, Quy trình, Quy định kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự (như Quy
chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (Quy chế 364 ban hành
kèm theo Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017), Quy trình, kỹ năng
24
kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án (ban hành kèm theo
Quyết định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019), Quy định về hướng dẫn hoạt động
của Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà dân sự sơ thẩm (ban hành kèm theo Quyết
định số 458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019), thực hiện trả lời thỉnh thị về công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM, ban hành các các Thông báo rút kinh
nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM.
Tại VKSND cấp tỉnh ở các địa phương, với vai trò là phòng nghiệp vụ, trực
tiếp kiểm sát việc giải quyết vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm (đối với các vụ án
KDTM thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh), Phòng kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và phá sản doanh
nghiệp (Phòng 10) cũng đã thực hiện việc trả lời thỉnh thị về công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án KDTM của các VKSND cấp huyện tại địa phương mình và ban
hành các Thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án KDTM tại địa phương. Các Quy chế nghiệp vụ, văn bản trả lời thỉnh thị, Thông
báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM của
VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh được xem là những quy định, hướng dẫn nghiệp
vụ quan trọng để KSV có thể áp dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn.
Ba là, vấn đề tổ chức cán bộ. Kiểm sát việc giải quyết án dân sự nói chung,
án KDTM nói riêng là công việc đòi hỏi năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của các
KSV. Bởi lẽ, các tranh chấp KDTM hiện nay ngày càng đa dạng, phức tạp, trong
khi đó, hệ thống quy phạm pháp luật về kinh doanh thương mại lại rất rộng, bao
gồm nhiều loại văn bản pháp luật về KDTM khác nhau như Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại, Luật đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Kinh doanh bảo
hiểm... và rất nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này. Bân cạnh đó, hoạt
động kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp KDTM có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi
KSV phải có am hiểu về pháp luật KDTM quốc tế, kiến thức ngoại ngữ, công nghệ
thông tin... Do vậy, để KSV có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi
kiểm sát việc giải quyết án KDTM nói chung, thể hiện tốt vai trò của mình tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án KDTM nói riêng, đòi hỏi các đơn vị VKSND phải có các biện
25
pháp bố trí cán bộ cho phù hợp, đảm bảo tính ổn định để KSV được phân công công
tác kiểm sát án KDTM có thời gian tích luỹ kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ. Để
KSV có thể chuyên tâm với công việc, cần phải giảm bớt sự kiêm nhiệm của KSV
đối với các công việc khác. Khi bố trí cán bộ, VKSND các địa phương cần phân
công các KSV có kinh nghiệm, năng lực để kèm cặp, hướng dẫn các KSV mới được
phân công đảm nhiệm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM.
Bốn là, năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên. Về mặt chủ
quan, việc thực hiện thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM phụ
thuộc rất nhiều vào ý thức chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp
cũng như bản lĩnh của KSV.
Đạo đức lối sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tuyệt đối trung thành
với lý tưởng của Đảng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân. “Việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh sẽ giúp cho KSV có một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan cộng
sản” [18, tr.35]. Ngược lại, một khi KSV bằng lòng thỏa hiệp với các hành vi tiêu
cực như nhận hối lộ hay nể nang trong các mối quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp
hay những người thân quen nên đưa ra các yêu cầu, kiến nghị, đề xuất giải quyết vụ
án có lợi cho một bên nào đó… sẽ dẫn đến việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn một
các méo mó, biến dạng. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp và làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với các cơ quan tư pháp.
Ý thức chính trị của mỗi KSV là nhân tố thường trực nhắc nhở khi thực thi
nhiệm vụ, giúp cho KSV không rơi vào tình trạng áp dụng pháp luật một cách đơn
thuần, máy móc, tách rời quy định của pháp luật với lợi ích chung của xã hội.
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ của KSV giúp cho KSV có thể xử lý các
tình huống pháp lý trong thực tiễn một cách nhanh chóng, khách quan, kịp thời và
sáng tạo, chính xác và hiệu quả. Điều này cũng góp phần hình thành nên phong
cách làm việc đĩnh đạc, tự tin, quyết đoán, chính xác, khoa học và thuyết phục của
KSV khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM nói riêng.
26
Năm là, sự phối hợp của Kiểm sát viên. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, KSV phải thường xuyên có sự phối hợp với các đơn vị trong Ngành,
KSV thực hiện các khâu công tác khác và phối hợp với TAND cùng cấp trong quá
trình thực thi công vụ của mình. Trường hợp trong quá trình kiểm sát việc giải
quyết vụ án KDTM có khó khăn, vướng mắc, KSV có thể tranh thủ tham khảo ý
kiến của các đồng nghiệp, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo đơn vị hay đề xuất Lãnh
đạo thỉnh thị ý kiến chỉ đạo của VKSND cấp trên. Điều này giúp cho KSV có thể
đưa ra những quan điểm về việc giải quyết vụ án KDTM tại phiên tòa sơ thẩm một
cách chính xác, phù hợp. Đối với TAND, sau khi được phân công kiểm sát việc giải
quyết vụ án KDTM theo thủ tục sơ thẩm, KSV cần chủ động liên hệ với Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án để yêu cầu Thẩm phán kịp thời chuyển giao các
văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo chuyển giao hồ sơ vụ án
đúng thời hạn để KSV có đủ thời gian nghiên cứu...
Sáu là, chất lượng công tác chuẩn bị trước khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ
án KDTM của Kiểm sát viên. Hoạt động của KSV tại phiên tòa thể hiện tổng hợp cả
quá trình hoạt động kiểm sát của KSV từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đến thời điểm
trước khi HĐXX nghị án. Do vậy, chất lượng thực thi nhiệm vụ của KSV chỉ đạt
được kết quả tốt nếu chất lượng công tác chuẩn bị tham gia phiên tòa đạt hiệu quả.
Để thể hiện tốt vai trò của mình tại phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM, ngay từ
khi được phân công kiểm sát án KDTM, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm
rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập
của người cơ quyền, nghĩa vụ liên quan, những chứng cứ có trong hồ sơ và kiểm sát
chặt chẽ các văn bản tố tụng của Tòa án, nắm chắc các quy định của pháp luật tố
tụng, pháp luật nội dung. Đây là vấn đề rất quan trọng vì có nắm chắc tố tụng thì
KSV mới chủ động xử lý các tình huống phát sinh tại phiên tòa và có những nhận
xét đúng, đầy đủ, chính xác về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và
việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Việc nắm chắc các quy
định pháp luật nội dung giúp KSV đưa ra quan điểm về việc giải quyết vụ án được
chính xác, đúng pháp luật. Ngoài ra, KSV phải dự kiến trước các tình huống có thể
27
phát sinh tại phiên tòa, chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để kịp
thời ứng biến khi tại phiên tòa phát sinh những tình tiết mới không được thể hiện
trong hồ sơ vụ án...
Bên cạnh những yếu tố cơ bản nêu trên thì các yếu tố khác như cơ sở vật
chất, phương tiện làm việc, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với KSV, cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thực thi công vụ của KSV nói chung, việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM nói riêng.
1.2. Quy định về thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
xét xử vụ án kinh doanh, thương mại
1.2.1. Các trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ
án kinh doanh, thương mại
Các loại tranh chấp KDTM được Tòa án giải quyết là đa dạng, tuy nhiên,
theo quy định của BLTTDS, KSV không tham gia tất cả các phiên tòa sơ thẩm giải
quyết tranh chấp KDTM. Theo quy định tại Điều 21 BLTTDS và hướng dẫn tại
Điều 27 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC các trường hợp
VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm bao gồm:
- Vụ án KDTM do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ: Theo quy định tại
khoản 2 Điều 97 BLTTDS, trong các trường hợp do BLTTDS quy định, Tòa án có
thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ: Lấy
lời khai của đương sự, người làm chứng; Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa
đương sự với người làm chứng; Trưng cầu giám định; Định giá tài sản; Xem xét,
thẩm định tại chỗ; Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật
khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; Xác minh sự có mặt hoặc vắng
mặt của đương sự tại nơi cư trú; Các biện pháp khác theo quy định của BLTTDS.
- Vụ án KDTM có đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng:
Trong đó, tài sản công được hiểu là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự và quy định
28
khác của pháp luật; Lợi ích công cộng là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần liên
quan đến xã hội hoặc cộng đồng dân cư [27, khoản 2 Điều 27].
- Vụ án KDTM có đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở,
bao gồm: Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất hoặc ai là người có
quyền sở hữu nhà ở (Ví dụ: A và B tranh chấp với nhau về quyền sử dụng đất đối
với một thửa đất có diện tích là 500 m2 hiện do B đang quản lý, sử dụng. A khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết để buộc B phải trả lại thửa đất đó cho A. Trong
trường hợp này, đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất, thuộc trường hợp VKS
tham gia phiên tòa sơ thẩm); Tranh chấp về hợp đồng có đối tượng của hợp đồng là
quyền sử dụng đất hoặc nhà ở (gồm: tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi quyền sử
dụng đất; tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng
mua bán nhà ở; tranh chấp về hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất
hoặc hợp đồng thuê nhà ở; tranh chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất hoặc
hợp đồng tặng cho nhà ở; tranh chấp về hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất hoặc hợp đồng góp vốn bằng giá trị nhà ở…); Đối với tranh chấp về hợp
đồng có liên quan đến quyền sử dụng đất hoặc nhà ở nhưng quyền sử dụng đất hoặc
nhà ở đó không phải là đối tượng của hợp đồng thì không thuộc trường hợp VKS
phải tham gia phiên tòa sơ thẩm (Ví dụ: A vay ngân hàng B số tiền là 500 triệu
đồng, đồng thời thế chấp cho ngân hàng một ngôi nhà và quyền sử dụng đất giá trị
01 tỷ đồng. Đến thời hạn trả nợ, A không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán, Ngân
hàng đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết buộc A phải thực hiện nghĩa
vụ trả nợ. Trong vụ án dân sự này, đối tượng tranh chấp là khoản tiền A vay ngân
hàng, không phải là quyền sử dụng đất và nhà ở A dùng để thế chấp, do đó, không
thuộc trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa sơ thẩm) [27, khoản 3 Điều 27].
- Vụ án KDTM giải quyết các tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất hoặc đòi
lại nhà ở đang cho mượn, cho sử dụng nhờ;
- Vụ án KDTM giải quyết các tranh chấp trong các giao dịch KDTM khác có
đối tượng giao dịch là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở.
29
- Vụ án KDTM có đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi: Vụ án KDTM có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Sự tham gia phiên tòa sơ thẩm của VKS trong trường hợp
này có ý nghĩa về mặt xã hội vô cùng to lớn, giúp họ về cơ bản đảm bảo được các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia phiên tòa. BLDS đã đưa ra những
khái niệm tương đối rõ nét về các diện của người “yếu thế” trong xã hội, gồm:
người bị mất năng lực hành vi dân sự [15, Điều 22]; người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi [15, Điều 23] và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
[15, Điều 24]. Trong trường hợp vụ án có đương sự là người thuộc một trong các
trường hợp nêu trên thì VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm.
- Vụ án KDTM trong trường hợp Tòa án thụ lý và giải quyết khi chưa có
điều luật để áp dụng: VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm nếu vụ án thuộc trường
hợp Tòa án phải giải quyết nhưng chưa có điều luật để áp dụng [16, khoản 2 Điều
21]. Đây là quy định mới về thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý, giải quyết
tranh chấp KDTM, đồng thời, cũng là nội dung mới về thẩm quyền tham gia phiên
tòa sơ thẩm của VKSND. Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc
dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc
dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết lại chưa
có điều luật để áp dụng [15, khoản 2 Điều 4]. Do đó, trong trường hợp này, KSV
đại diện VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM nếu vụ án có tranh chấp
về quyền, nghĩa vụ dân sự.
1.2.2. Thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc tham gia phiên tòa sơ
thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc kiểm sát các hoạt động
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại
Cơ sở pháp lý để KSV thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình tại phiên
tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM là các quy định tại BLTTDS, Thông tư liên tịch số
30
02/2016/TTLT/VKSNDTC-TANDTC, Quy chế 364 và Quy định 458. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 58 BLTTDS, KSV được Viện trưởng phân công kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn tham gia phiên tòa
và phát biểu quan điểm của VKS việc giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS.
Theo quy định tại Chương XIV BLTTDS về “Phiên tòa sơ thẩm”, quy định
tại các điều 21, 22, 23, 24 Quy chế 364 và các điều từ Điều 24 đến Điều 35 Quyết
định 458, tại phiên tòa sơ thẩm, KSV kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật bảo
đảm phiên tòa sơ thẩm phải được tiến hành đúng quy định chung về phiên tòa sơ
thẩm. Thẩm quyền cụ thể của KSV tại phiên tòa dân sự sơ thẩm nói chung, phiên
tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM nói riêng, bao gồm:
- Theo dõi và ghi chép diễn biến phiên toà: Tại phiên toà, KSV theo dõi và
ghi chép những câu hỏi của đương sự, của người tham gia tố tụng khác, của Hội
đồng xét xử cũng như những câu trả lời, đối chiếu với đề cương hỏi và so sánh với
các tài liệu, chứng cứ cũng như lời khai, lời trình bày của đương sự có trong hồ sơ
vụ án để tham gia hỏi, tránh trùng lắp nội dung hỏi hoặc hỏi không đúng trọng
tâm… Tập trung ghi đầy đủ những vấn đề mới, tài liệu, chứng cứ mới, những vấn
đề đương sự khai khác với lời khai trong hồ sơ vụ án, những vấn đề có tính chất
quyết định đến quan điểm, đường lối giải quyết vụ án. Trường hợp KSV ghi âm, ghi
hình có âm thanh tại phiên tòa thì phải thông báo trước cho chủ tọa phiên tòa. Khi
chủ tọa phiên tòa tuyên án, KSV nghe và ghi chép nhanh phần nhận định, những
căn cứ pháp luật mà HĐXX căn cứ vào đó để đưa ra quyết định giải quyết vụ án, từ
đó làm cơ sở cho hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án [36, Điều 25] .
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa: KSV kiểm sát việc tuân
theo các quy định của pháp luật về phiên tòa như địa điểm tổ chức phiên tòa, hình
thức bố trí phòng xét xử, việc xét xử trực tiếp, bằng lời nói, xét xử công khai hay
xét xử xử kín…
KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật của thành viên HĐXX, Thư ký phiên
tòa xem thành viên HĐXX có đúng với Quyết định đưa vụ án ra xét xử không, họ
có thuộc trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng hay không. Đối với
31
những người tham gia tố tụng, KSV kiểm tra tư cách pháp lý của đương sự và người
tham gia tố tụng khác [16, Điều 227, 229, 230 và 231].
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa:
KSV kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa của HĐXX, Thư ký
phiên tòa và những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên toà,
bao gồm các thủ tục bắt đầu phiên tòa [16, Điều 237, Điều 239]; thủ tục thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch [16, Điều 240]; thủ tục
hỏi tại phiên tòa [16, Điều 249]; thủ tục tranh luận tại phiên tòa [16, Điều 260, Điều
263]; thủ tục nghị án, tuyên án [16, Điều 264, Điều 267], nhằm bảo đảm việc xét xử
tại phiên tòa được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; bảo
đảm quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử vụ án
được khách quan, đúng pháp luật [36, Điều 28].
- Kiểm sát việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu tại phiên tòa: KSV kiểm sát
việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa theo quy định tại Điều
244 BLTTDS. Trường hợp HĐXX chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu vượt
quá phạm vi khởi kiện thì KSV phát biểu về việc Tòa án đã vi phạm thủ tục tố tụng
nghiêm trọng. Sau khi kết thúc phiên tòa, KSV báo cáo Lãnh đạo VKS kiến nghị
hoặc kháng nghị. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu mà bị đơn không rút
yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không rút yêu cầu độc lập
thì KSV kiểm sát việc xác định lại địa vị tố tụng từng người theo quy định tại Điều
245 BLTTDS [36, Điều 27].
- Kiểm sát việc Hội đồng xét xử chấp nhận tài liệu, chứng cứ được giao nộp
tại phiên tòa; công bố tài liệu, chứng cứ: Tại phiên tòa, KSV kiểm tra các điều kiện
chấp nhận tài liệu, chứng cứ được giao nộp tại phiên tòa. Trường hợp tại phiên tòa,
đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ thì KSV kiểm sát việc HĐXX
chấp nhận những tài liệu, chứng cứ đó có đúng pháp luật không. KSV kiểm sát việc
đương sự chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Đối với tài
liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài
liệu, chứng cứ mà đương sự không biết được trong quá trình giải quyết vụ việc thì
32
đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ các điều 254,
255 và 256 BLTTDS, KSV kiểm sát việc HĐXX công bố các tài liệu, chứng cứ của
vụ án, cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, cho xem băng ghi hình, đĩa ghi hình hoặc
xem xét vật chứng…[36, Điều 28].
- Kiểm sát việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại
phiên tòa: Trường hợp các đương sự tự thỏa thuận được tại phiên tòa, KSV căn cứ
khoản 1 Điều 246 BLTTDS xác định rõ sự thỏa thuận của đương sự là hoàn toàn tự
nguyện, không bị ép buộc, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội hay không, kiểm sát việc chủ tọa phiên tòa có giải thích cho đương sự
biết hậu quả của việc tự nguyện thỏa thuận không. Trường hợp phát hiện sự thỏa
thuận của các đương sự đạt được do có sự nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc
có vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, KSV báo cáo Lãnh đạo
Viện kiểm sát cấp mình để thông báo bằng văn bản choVKS có thẩm quyền xem xét
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm [36, Điều 31].
- Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án: Khi
HĐXX quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, KSV kiểm tra
căn cứ tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 1 Điều 214 BLTTDS; căn cứ đình chỉ
theo quy định tại Điều 217 BLTTDS và phát biểu ý kiến về việc tạm đình chỉ, đình
chỉ giải quyết vụ án của Tòa án. Trường hợp phát hiện quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có vi phạm pháp luật thì KSV báo cáo ngay với
Lãnh đạo VKS để thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm theo quy định tại khoản 5
Điều 215 và khoản 4 Điều 218 BLTTDS [36, Điều 32].
- Kiểm sát việc Hội đồng xét xử áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời tại phiên tòa: Tại phiên tòa, khi HĐXX xem xét, quyết định việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, KSV kiểm sát sự tuân theo
pháp luật trong việc HĐXX xem xét, quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời [31, Điều 33].
- Kiểm sát việc nghị án, tuyên án và kiểm tra biên bản phiên tòa: KSV kiểm
sát việc HĐXX thông báo thời gian, địa điểm tuyên án, trước khi vào nghị án; kiểm
33
sát thời gian nghị án. Trường hợp sau nghị án HĐXX trở lại việc hỏi và tranh luận,
KSV xem xét việc trở lại việc hỏi và tranh luận theo quy định tại Điều 265
BLTTDS. KSV kiểm sát việc tuyên án của HĐXX, bảo đảm tuyên án với sự có mặt
của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. KSV kiểm sát việc xét xử kín,
HĐXX chỉ tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án. Trường
hợp đương sự cần có người phiên dịch thì khi tuyên án, bảo đảm có người phiên
dịch cho họ nghe toàn bộ bản án hoặc phần mở đầu và phần quyết định của bản án
được tuyên công khai.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, KSV có quyền yêu cầu xem biên bản phiên
tòa. Biên bản phiên tòa phải được Thư ký phiên tòa ghi đúng, đầy đủ, trung thực
diễn biến phiên tòa và nội dung mà các bên đương sự trình bày tại phiên tòa. Nếu
thấy việc ghi biên bản phiên tòa không đúng như diễn biến tại phiên tòa hoặc ghi
không đầy đủ thì KSV có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
và ký xác nhận [16, khoản 4 Điều 236; 36, Điều 35].
Thứ hai, thẩm quyền của Kiểm sát viên trong việc thực hiện các quyền đề
nghị, kiến nghị, yêu cầu, hỏi và phát biểu ý kiến tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
kinh doanh, thương mại
- Thực hiện quyền đề nghị: Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên
tòa sơ thẩm, trường hợp phát hiện thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa không đúng
với quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không có thành viên dự khuyết, thì KSV có
quyền đề nghị chủ tọa hỏi đương sự về việc thay đổi người tiến hành tố tụng.
Trường hợp đương sự không đồng ý với thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa không
có trong quyết định đưa vụ án ra xét xử thì đề nghị hoãn phiên tòa, trường hợp
đương sự đồng ý thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa thì vẫn tiến hành xét xử.
Trường hợp phát hiện thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa phải từ chối tiến
hành tố tụng theo quy định tại Điều 52 BLTTDS hoặc phải thay đổi theo quy định
tại Điều 53 và Điều 54 BLTTDS, KSV đề nghị thành viên HĐXX, Thư ký phiên tòa
từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi bằng người dự khuyết, nếu không có người
dự khuyết thì đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2
34
Điều 56 và khoản 1 Điều 233 BLTTDS. Trường hợp HĐXX không chấp nhận yêu
cầu của KSV về việc đề nghị từ chối hoặc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
hoặc Thư ký phiên tòa và vẫn tiến hành xét xử thì KSV vẫn tiếp tục tham gia phiên
tòa, phát biểu ý kiến của VKS [36, Điều 26].
Trường hợp vụ án có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch mà họ
vắng mặt thì KSV có quyền đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa theo quy định, trừ những
trường hợp quy định tại Điều 228 BLTTDS. Nếu HĐXX không chấp nhận đề nghị
của KSV thì KSV vẫn tiếp tục tham gia phiên toà, phát biểu ý kiến của VKS về việc
tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp đương sự
không có mặt theo giấy triệu tập hợp lệ lần thứ hai của Tòa án, KSV kiểm tra xem
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt của đương sự, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan không.
Trường hợp tại phiên tòa, phát hiện người giám định, người phiên dịch phải
thay đổi, KSV có quyền đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch bằng
người dự khuyết, nếu không có người dự khuyết thì đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa
theo quy định tại khoản 2 Điều 84 và khoản 1 Điều 233 BLTTDS.
Khi kiểm sát việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu tại phiên tòa, trong trường
hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu và tự nguyện thì KSV có quyền đề
nghị HĐXX đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương sự
đã rút theo quy định tại khoản 2 Điều 244 BLTTDS [36, Điều 27].
Trường hợp phải công bố tài liệu, chứng cứ mà HĐXX không công bố
thì KSV đề nghị HĐXX công bố hoặc cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng
ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác lưu trữ âm thanh, hình ảnh (nếu có); xem xét
vật chứng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, nếu thấy có căn cứ tạm ngừng
phiên tòa theo điểm c khoản 1 Điều 259 BLTTDS, KSV đề nghị tạm ngừng phiên
tòa để yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. KSV phải nêu rõ những tài
liệu, chứng cứ cần xác minh, thu thập, lý do cần xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ đó. Trường hợp HĐXX không chấp nhận yêu cầu tạm ngừng phiên tòa thì KSV
35
đề nghị HĐXX nêu rõ lý do nhưng vẫn phải tiếp tục tham gia phiên tòa. Việc
HĐXX chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của KSV phải được ghi vào biên
bản phiên tòa [36, Điều 28].
- Thực hiện quyền kiến nghị: KSV kiểm sát việc HĐXX kiểm tra sự có mặt,
căn cước của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, KSV xác định những
trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 233 BLTTDS. Khi
HĐXX hỏi ý kiến của VKS về việc tạm ngừng, hoãn phiên tòa, căn cứ vào các quy
định pháp luật, KSV phát biểu ý kiến về vấn đề này. Trường hợp căn cứ hoãn phiên
tòa, tạm ngừng phiên tòa chưa đúng quy định thì KSV tổng hợp và kiến nghị Tòa án
khắc phục khi phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
- Thực hiện quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung biên bản phiên tòa: Sau khi kết
thúc phiên tòa, KSV có quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi,
bổ sung vào biên bản. Yêu cầu của KSV được thực hiện ngay và KSV ký xác nhận
những nội dung sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS.
- Thực hiện quyền hỏi tại phiên tòa: Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV tham gia
hỏi sau nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi
trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người tham gia tố tụng khác, Chủ tọa
phiên tòa và Hội thẩm nhân dân [16, khoản 1 Điều 249]. Việc đặt câu hỏi của KSV
phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm
phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng [16, khoản 2 Điều
249]. Điều này đòi hỏi trong quá trình tham gia phiên tòa, KSV phải tập trung cao
độ để theo dõi diễn biến và nội dung của phiên tòa, ghi chép đầy đủ, nắm chắc nội
dung lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, nội dung các câu hỏi và trả lời của đương sự. Trên cơ sở đó, KSV tham gia hỏi,
đặt ra các câu hỏi để củng cố lập luận, về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án,
quan hệ pháp luật tranh chấp trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án đã được đặt ra,
tránh tình trạng đặt ra câu hỏi trùng lắp với câu hỏi đã được những người tham gia
36
tố tụng, chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân đã hỏi và đã được đương sự trả lời rõ
ràng, đầy đủ. Nội dung hỏi của KSV tập trung vào các vấn đề liên quan đến tố tụng
và nội dung vụ án để củng cố và hoàn thiện văn bản phát biểu ý kiến của KSV tại
phiên tòa.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa: BLTTDS quy định: “Sau khi
những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa
và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án
cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ
án” [16, Điều 262]. Để hướng dẫn cụ thể quy định này, Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC và Quy chế 364 đã quy định rõ hơn nội dung
phát biểu của KSV tại phiên tòa, bao gồm những vấn đề sau đây:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, thư ký phiên tòa
và của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án KDTM đến trước thời
điểm HĐXX nghị án. Nội dung phát biểu của KSV cần xác định:
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Khi phát biểu quan
điểm về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử, KSV phải làm rõ
các nội dung sau:
Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Trước khi xác định tranh chấp
KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án của TAND cấp nào, địa phương nào, cần
xác định có hay không trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, bởi
theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trong trường hợp các
bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà
án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận
trọng tài không thể thực hiện được. Trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, KSV căn cứ quy định tại Điều 30, 34, các điều từ Điều 35 đến Điều 42
BLTTDS xác định Tòa án đã thụ lý, giải quyết vụ án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp KDTM theo vụ việc, theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ hay theo sự lựa chọn của
37
nguyên đơn hay không. Trong trường hợp Tòa án nhập hoặc tách vụ án thì việc
nhập, tách vụ án có đúng quy định hay không;
Về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện của Tòa án có đúng quy định hay không:
để xác định nội dung này, KSV phân tích, xác định có hay không yêu cầu của một
hoặc các bên về việc áp dụng thời hiệu khởi kiện. Trường hợp có yêu cầu áp dụng
thời hiệu khởi kiện, cần căn cứ các văn bản pháp luật chuyên ngành KDTM để phát
biểu ý kiến về việc áp dụng quy định phát luật về thời hiệu khởi kiện của Tòa án là
đúng hay sai (xem lại mục 1.1.1).
Về việc xác định tư cách của những người tham gia tố tụng: KSV phát biểu
về việc Thẩm phán đã xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố
tụng như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người làm chứng… tham gia tố tụng hay chưa. Bên cạnh đó, do đặc thù của tranh
chấp KDTM thường là tranh chấp giữa các chủ thể KDTM, mà chủ yếu là các
doanh nghiệp, KSV xác định người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng của
doanh nghiệp được Tòa án triệu tập có đúng là người đại diện theo pháp luật theo
đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty không;
Về xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ của Tòa án có đúng quy
định tại các điều từ Điều 93 đến Điều 97 BLTTDS hay không; các tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ để giải quyết vụ án hay chưa;
Trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho VKS và cho đương sự có
đúng quy định tại Điều 195, 196 BLTTDS hay không;
Về thời hạn chuẩn bị xét xử: phát biểu của KSV cần xác định có hay không
vi phạm của Tòa án trong việc chấp hành quy định phát luật về thời hạn xét xử vụ
án KDTM theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 203 BLTTDS;
Việc chuyển giao hồ sơ, gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án có
thực hiện đúng quy định tại Điều 220 BLTTDS hay không;
Đối với các vi phạm của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, KSV nêu rõ
đó là những vi phạm gì, những vi phạm có ảnh hưởng như thế nào đến việc giải
quyết vụ án theo quy định của BLTTDS.
38
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của HĐXX và Thư ký phiên tòa: Căn cứ
diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, KSV phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng của
HĐXX và Thư ký tòa án. Trường hợp, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng quy định
tại các Điều 239, 240, 241, 242, 243, 246, 247, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 255,
256, 257, 259, 260 và Điều 263 BLTTDS, thì KSV phát biểu “HĐXX, Thư ký
phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ
án”. Nếu phát hiện vi phạm, thì tùy theo mức độ, hậu quả của vi phạm, KSV phát
biểu về việc HĐXX, Thư ký không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định
của một hoặc một số điều luật nêu trên.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong
quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án:
Căn cứ quy định của BLTTDS và các quy định pháp luật liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng dân sự (nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; những người tham gia tố tụng khác) nếu tất cả
những chủ thể này đều thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của họ thì KSV phát
biểu “người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng” của họ
theo quy định của pháp luật. Nếu có người hoặc một số người tham gia tố tụng vi
phạm quyền, nghĩa vụ tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình giải quyết vụ
án, KSV phải phát biểu về tư cách tố tụng của từng người, nội dung vi phạm, quy
định ở điều luật nào; ảnh hưởng ra sao đến việc giải quyết vụ án và yêu cầu HĐXX
khắc phục hậu quả.
+ Về việc giải quyết vụ án KDTM
Khi phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết nội dụng vụ án, KSV phân
tích, đánh giá, nhận định về nội dung tranh chấp và các tình tiết của vụ án; đánh giá,
nhận định về tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án; nêu rõ căn cứ pháp luật về
KDTM được áp dụng để giải quyết vụ án hoặc tập quán thương mại, thói quen trong
KDTM của các bên, việc áp dụng tương tự pháp luật, việc áp dụng các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ án; nêu rõ quan
điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
39
cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu phản tố của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Sau khi kết thúc phiên tòa, KSV phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa
án để lưu vào hồ sơ vụ án.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp khác, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết
vụ án KDTM khi HĐXX yêu cầu KSV phát biểu ý kiến của VKS đối với một số
vấn đề cụ thể, KSV thực hiện thẩm quyền của mình theo quy định, như:
- Khi kiểm sát việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
tại phiên tòa sơ thẩm, KSV phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng
của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng… kể từ khi thụ
lý vụ án cho đến trước khi HĐXX thảo luận tại phòng nghị án và quan điểm của
VKS về sự thỏa thuận của các đương sự có phù hợp với quy định của pháp luật
không [36, Điều 31].
- Khi HĐXX yêu cầu phát biểu ý kiến về việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án tại phiên tòa, KSV phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố
tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng kể từ khi
thụ lý vụ án cho đến trước khi HĐXX thảo luận tại phòng nghị án và quan điểm của
VKS về việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án [36, Điều 32].
- Khi kiểm sát việc HĐXX áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời, nếu xét thấy việc HĐXX áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời không có căn cứ pháp luật, cần phải kiến nghị, KSV nêu rõ việc kiến nghị trong
bài phát biểu tại phiên tòa [31, Điều 33].
Tiểu kết Chương 1
Trong nội dung Chương tác giả đã lần lượt trình bày những nội dung lý luận
về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM và các quy định
về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM.
Trong nội dung Lý luận về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm KSV
tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; Vai trò của KSV tại phiên tòa sơ thẩm
40
giải quyết các vụ án KDTM; Những yếu tố ảnh hưởng đến thẩm quyền của KSV tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM.
Trong nội dung về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
kinh doanh thương mại, tác giả đã lần lượt trình bày nội dung về các trường hợp
KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; Thẩm quyền của KSV trong
việc kiểm sát các hoạt động tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM; Thẩm quyền
của KSV trong việc thực hiện các quyền đề nghị, kiến nghị, yêu cầu, hỏi và phát
biểu ý kiến tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM.
Trên thực tế, những cơ sở lý luận và pháp lý kể trên là căn cứ quan trọng để
các cán bộ, KSV có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong Luận
văn, đây là cơ sở nền tảng để tác giả có thể triển khai các nội dung có liên quan tại
Chương 2 và Chương 3.
41
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình về Viện kiểm sát nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội và địa lý của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh (thường được gọi là Sài Gòn) là một trong hai thành
phố lớn nhất Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa và giáo dục quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện nay, Thành phố Hồ
Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương được xếp loại đô thị đặc biệt của Việt
Nam, cùng với thủ đô Hà Nội.
Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54'
Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông Bắc và
Đông giáp tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu, Đông Nam giáp Biển Đông và
tỉnh Tiền Giang, Nam và Tây giáp tỉnh Long An. Nằm ở miền Nam Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm Thành
phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu
vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng
về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là
một cửa ngõ quốc tế. Với tổng diện tích hơn 2.095 km2, thành phố được phân chia
thành 19 quận và 5 huyện (24 quận huyện) với 322 phường, xã, thị trấn [2].
Với vị trí địa lý thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn trước đây) một
thời được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” đã là trung tâm thương mại. Nền
kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản,
nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Trong quá
trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trung tâm kinh tế,
tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước. Với tốc độ tăng
42
trưởng kinh tế cao, về quy mô thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số
nhưng đã đóng góp 20,2% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công
nghiệp và 44% dự án đầu tư nước ngoài.
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua
sắm, siêu thị, chợ và rất nhiều doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ đa dạng và
phong phú. Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn nhiều so với các tỉnh
khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần Thủ đô Hà Nội.
Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân trong vùng Kinh tế trọng
điểm phía Nam và trung tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là
66,1% trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đạt mức 30% trong tổng GDP
của cả khu vực Nam Bộ. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh còn là nơi hoạt
động kinh tế năng động nhất, đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Kinh tế thành phố có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi
thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước, kể từ khi Luật đầu tư được ban
hành. Số dự án đầu tư vào thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư nước
ngoài trên cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất nước. Kim
ngạch xuất nhập khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Khu vực dịch vụ tăng trưởng vượt kế hoạch, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư.
Hoạt động du lịch của Thành phố phát triển mạnh, hàng năm, Thành phố đón tiếp
khoảng 2 triệu lượt khách du lịch. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là
trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, thành phố dẫn đầu cả nước về số
lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Hoạt động tín dụng -
ngân hàng liên tục phát triển, góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất - kinh doanh [29].
Trong quá trình phát triển và hội nhập, Thành phố Hồ Chí Minh luôn khẳng
định vai trò là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là
hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng
điểm lớn nhất nước và cũng là vùng động lực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã
43
hội ở địa bàn Nam Bộ và cả nước theo chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong tương lai thành phố phát triển các ngành kinh tế chủ lực, là địa phương đầu
tiên tập trung phát triển các ngành cơ khí gia dụng, sản xuất phương tiện vận tải,
chế tạo máy, các ngành công nghệ cao… vẫn là đầu mối xuất nhập khẩu, du lịch của
cả nước với hệ thống cảng biển phát triển. Việc hình thành các hệ thống giao thông
như đường Xuyên Á, đường Đông Tây… sẽ tạo điều kiện cho kinh tế thành phố
tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành một thành phố văn minh hiện đại có tầm cỡ ở khu
vực Đông Nam Á.
2.1.2. Đặc điểm vể bộ máy, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh
VKSND hai cấp của Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm VKSND 24 quận,
huyện và VKSND Thành phố Hồ Chí Minh. Tính hết năm 2019, VKSND hai cấp
có đã có tổng số 839 biên chế ngạch công chức kiểm sát trong tổng số 884 biên chế
được giao [33].
Hàng năm, VKSND Thành phố đều thực hiện điều động, chuyển đổi vị trí
công tác, định kỳ chuyển đổi vị trí công tác công chức để kịp thời bố trí, sắp xếp lại
cho phù hợp. Các công chức có đủ thời gian công tác và năng lực chuyên môn
nghiệp vụ được cử dự thi tuyển KSV theo kế hoạch của VKSND tối cao. Việc kiểm
tra, giám sát công chức VKSND Thành phố và VKSND các quận, huyện trong việc
giữ gìn phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp được tăng cường bằng nhiều giải pháp.
Trong nhiều năm liền, VKSND Thành phố và các quận, huyện trên địa bàn
thành phố đã đạt và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu công tác theo Nghị quyết của
Quốc hội về công tác tư pháp, Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, Chỉ thị,
Nghị quyết của Thành ủy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân Thành phố.
Lãnh đạo VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố luôn chú trọng đổi mới
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công rõ người, rõ việc, ấn
định thời gian hoàn thành; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu, gương mẫu trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao; duy trì giao ban tuần, tháng, quý. Cải tiến nội
dung họp giao ban tuần, giao ban định kỳ theo hướng chú trọng công tác kiểm tra
44
tiến độ việc triển khai thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ, ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo
Viện để nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị; đồng thời, chỉ đạo các đơn
vị chủ động tổng hợp báo cáo những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, việc áp dụng pháp luật để kịp thời chỉ đạo thực hiện các giải pháp
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ.
VKSND Thành phố cũng có những đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán
bộ, thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ, công chức từ VKSND cấp trên xuống
VKSND cấp dưới và ngược lại, từ các đơn vị cùng cấp theo quy định của Ngành.
Đặc biệt là đổi mới trong công tác đánh giá, phân loại, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ,
chủ yếu căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm công bằng, thực chất.
Công tác tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm chức danh tư pháp, bố trí, sắp xếp, điều
động, luân chuyển vị trí công tác được tiến hành chặt chẽ, chất lượng đội ngũ KSV
được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Công tác thanh tra,
kiểm tra tiếp tục được tăng cường và hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được chấn
chỉnh; cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm công tác chuyên môn được quan tâm
thực hiện và đạt kết quả tích cực; công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố
tụng, các cơ quan hữu quan chặt chẽ, hiệu quả hơn.
VKSND Thành phố tiếp tục có nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó, có các cán bộ, công chức đảm nhiệm công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Công tác tự đào tạo được chú trọng
triển khai thực hiện với nhiều hình thức, có chất lượng, hiệu quả. Tổ chức các phiên
tòa sơ thẩm vụ án KDTM rút kinh nghiệm, hội nghị chuyên đề, thông báo rút kinh
nghiệm các vụ việc KDTM cụ thể để nâng cao chất lượng tự đào tạo tại các đơn vị.
Đặc biệt, xác định công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM là
tương đối phức tạp, đòi hỏi KSV phải có kiến thức luật sâu rộng, thậm chí, phải am
hiểu các quy định pháp luật, các tập quán thương mại quốc tế, do vậy, Lãnh đạo
VKSND Thành phố và Lãnh đạo VKSND các quận, huyện đã ưu tiên bố trí những
cán bộ, KSV có năng lực công tác và có trình độ ngoại ngữ, tin học tương đối tốt để
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM.
45
Tại VKSND Thành phố, ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của đồng chí
Viện trưởng, 01 đồng chí Phó Viện trưởng được phân công trực tiếp phụ trách công
tác của Phòng 10. Về cơ cấu nhân sự, Phòng 10 VKSND Thành phố có 01 Trưởng
phòng, 04 Phó phòng, 10 KSV trung cấp, 10 KSV sơ cấp, 01 Kiểm tra viên và 03
Chuyên viên [8]. Với số lượng cán bộ, KSV, Kiểm tra viên và chuyên viên như trên
đã đảm bảo tương đối đầy đủ nhân lực cho công tác thực hiện chức năng của Phòng,
trong đó có chức năng kiểm sát việc giải quyết án KDTM.
Tại VKSND 24 quận, huyện trên địa bàn Thành phố, thông thường, ngoài sự
Lãnh đạo thống nhất của đồng chí Viện trưởng VKS, luôn có 01 Lãnh đạo đơn vị
được phân công trực tiếp phụ trách công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân
sự và ít nhất từ 02 đồng chí KSV được phân công đảm nhiệm công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án dân sự, KDTM [9].
2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện quy định về thẩm quyền
của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM, VKSND hai cấp
tại Thành phố Hồ Chí Minh đã bố trí lực lượng cán bộ, KSV tập trung chặt chẽ
kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Tòa án, trong đó, đặc biệt chú trọng chất
lượng công tác kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết
vụ án KDTM tại phiên tòa sơ thẩm của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố, kết
quả đạt được như sau:
2.2.1. Số liệu
Trong năm 2017, số tranh chấp KDTM mà TAND hai cấp trên địa bàn
Thành phố thụ lý theo thủ tục sơ thẩm là 2.828 vụ, số vụ án Tòa án giải quyết là
2.305 vụ, số đưa ra xét xử sơ thẩm là 523 vụ. Trong đó, VKSND hai cấp trên địa
bàn Thành phố đã phân công KSV tham gia 506 phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án
KDTM (đạt tỷ lệ 96.7%) [31];
Trong năm 2018, số tranh chấp KDTM mà TAND hai cấp đã thụ lý theo thủ
tục sơ thẩm là 3.577 vụ (tăng 749 vụ), số vụ án Tòa án giải quyết là 1.885 vụ (giảm
46
420 vụ), số đưa ra xét xử sơ thẩm là 538 vụ (tăng 15 vụ). VKSND hai cấp của
Thành phố đã phân công KSV tham gia 486 phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM
(giảm 20 vụ, đạt tỷ lệ 90.3%) [32];
Trong năm 2019, số tranh chấp KDTM mà TAND hai cấp tại Thành phố Hồ
Chí Minh thụ lý theo thủ tục sơ thẩm là 3.738 vụ (tăng 161 vụ), số vụ án Tòa án giải
quyết là 1.839 vụ (giảm 46 vụ), số đưa ra xét xử sơ thẩm là 583 vụ (tăng 45 vụ).
Trong đó, VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố đã phân công KSV tham gia 538
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM (tăng 52 vụ, đạt tỷ lệ 92.3%) [33];
Tổng số vụ án Tòa án thụ lý, xét xử VKSND tham gia Năm Tỷ lệ phiên tòa sơ thẩm Thụ lý Giải quyết Xét xử
2017 2.828 2.305 523 506 96.7%
2018 3.577 1.885 538 486 90.3%
2019 3.738 1.839 583 538 92.3%
Bảng thống kê số lượng phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM VKSND hai cấp tại
Thành phố Hồ Chí Minh đã tham gia (từ năm 2017 – năm 2019)
Qua việc thống kê số liệu về hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải quyết, tham
gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM của VKSND hai cấp tại Thành phố
Hồ Chí Minh nêu trên, có thể thấy rằng, tỷ lệ sự có mặt của VKS tại các phiên tòa
sơ thẩm vụ án KDTM tỷ lệ nghịch với số lượng án mà TAND hai cấp thụ lý, xét xử.
Trong năm 2017, do số lượng án KDTM được thụ lý và giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm ít nhất trong số 03 năm được thống kê, nên tỷ lệ tham gia phiên tòa sơ
thẩm của VKSND hai cấp đạt tỷ lệ cao nhất. Sang năm 2018, do số lượng án
KDTM được thụ lý và giải quyết tăng đột biến (tăng 126,5%), do vậy, tỷ lệ tham gia
phiên tòa sơ thẩm của VKSND giảm xuống mức thấp nhất trong 03 năm. Điều này
được lý giải là bởi lẽ, một khi số lượng án cần kiểm sát việc thụ lý, giải quyết tăng
lên, áp lực về thời gian cũng tăng theo, do vậy, KSV sẽ không thể tham gia đầy đủ
các phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án KDTM.
47
Đến năm 2019, VKSND Thành phố có chỉ đạo quyết liệt đối với VKSND
các quận, huyện, yêu cầu VKSND các quận, huyện, tăng cường KSV làm công tác
kiểm sát án KDTM và phấn đấu tham gia 100% các phiên tòa sơ thẩm giải quyết án
dân sự nói chung, án KDTM nói riêng mà theo quy định của BLTTDS có sự tham
gia của VKSND. Do vậy, tỷ lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết án KDTM có
chiều hướng tăng lên, tuy nhiên, vẫn không đáp ứng yêu cầu tham gia 100% phiên
tòa sơ thẩm theo yêu cầu.
2.2.2. Đánh giá
Nhờ làm tốt khâu công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị tham gia phiên
tòa, do vậy, tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM, các KSV VKSND Thành
phố và VKSND các quận, huyện trên địa bàn Thành phố đã phát huy bản lĩnh, trình
độ nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa.
KSV được phân công tham gia các phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM nắm
vững các quy định pháp luật tố tụng dân sự, kịp thời đưa ra ý kiến kiến nghị HĐXX
khắc phục những vi phạm nhỏ như: chưa phổ biến đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng, chưa yêu cầu người làm chứng cam kết về lời khai… nên đã
kịp thời yêu cầu Tòa án thực hiện các thủ tục này theo đúng quy định của BLTTDS.
Trong phần thủ tục khai mạc phiên tòa, các KSV luôn có mặt để kịp thời
kiểm sát sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Trường hợp đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên tòa sau khi đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà không có đơn xin xét xử vắng mặt, KSV chủ động
đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 277 BLTTDS.
Trường hợp đương sự không có mặt theo giấy triệu tập hợp lệ lần thứ hai của Tòa
án, KSV kiểm tra kĩ lưỡng xem liệu có hay không đơn đề nghị xét xử vắng mặt của
đương sự, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để đưa ra đề nghị HĐXX
tiến hành xét xử hay hoãn phiên tòa cho phù hợp. Trong một số vụ án, xét thấy sự
có mặt của người làm chứng có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các tình tiết
khách quan của vụ án, sự vắng mặt của họ tại phiên tòa có thể gây khó khăn, ảnh
48
hưởng đến việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án, KSV cũng đã chủ động đề
xuất HĐXX hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 299 BLTTDS.
Trong một số phiên tòa sơ thẩm xét xử án KDTM xảy ra tình trạng thành
phần HĐXX thực tế không đúng với thành phần HĐXX trong quyết định đưa vụ án
ra xét xử (thông thường là có sự khác biệt về Hội thẩm nhân dân), để đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo nguyên tắc vô tư, khách quan
trong việc giải quyết vụ án, KSV đã đề nghị chủ tọa hỏi ý kiến của các đương sự về
việc này.
Đáng lưu ý, trong thời gian đầu khi thi hành BLTTDS, do thói quen trong
hoạt động xét xử, một số Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa đã không tiến hành hỏi
đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu trong phần thủ tục khai mạc phiên
tòa mà để tới phần hỏi tại phiên tòa theo quy định của BLTTDS cũ. Trước tình
trạng này, KSV đã kịp thời kiến nghị Thẩm phán rút kinh nghiệm để thực hiện đúng
trình tự tố tụng theo quy định mới.
Trước khi tham gia phiên tòa, các KSV đều xây dựng đề cương câu hỏi, dự
kiến các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa và dự thảo bài phát biểu theo mẫu
thống nhất của Ngành. Tại phiên tòa, KSV cập nhật đầy đủ những tình tiết, diễn
biến mới phát sinh tại phiên tòa. Tham gia hỏi đúng trọng tâm, các câu hỏi tập trung
làm rõ có hay không vi phạm của Thẩm phán trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án,
gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và góp phần làm sáng tỏ
nội dung vụ án.
Phát biểu quan điểm của VKS về việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, HĐXX, Thư ký Tòa án và sự chấp hành pháp luật của những người tham gia
tố tụng do KSV trình bày đã thể hiện đầy đủ quan điểm của VKS. Những kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm về mặt tố tụng trong quá trình thụ lý, chuẩn bị
xét xử, xét xử vụ án KDTM phù hợp với quá trình giải quyết vụ án và diễn biến tại
phiên tòa. Nội dung kiến nghị phong phú, đa dạng, có sức thuyết phục nên hầu hết
được Tòa án chấp nhận, sửa chữa, khắc phục như: kiến nghị việc Tòa án chậm gửi
thông báo thụ lý, chậm gửi bản án, quyết định tố tụng cho VKSND và những người
49
tham gia tố tụng, chậm gửi hồ sơ cho VKS, hồ sơ vụ án không có quyết định phân
công Thẩm phán thụ lý vụ án, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm...
Bản phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án do các KSV được
phân công tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM đã góp phần giúp HĐXX ban
hành bản án đúng pháp luật, nâng cao được vai trò, trách nhiệm của KSV và vị thế
của VKSND Thành phố và VKSND các quận huyện. Trong đó, bên cạnh những
tranh chấp KDTM phổ biến như tranh chấp hợp đồng mua bán, tranh chấp hợp đồng
tín dụng còn có những vụ án mang tính chất phức tạp, kéo dài, hồ sơ vụ án gốm rất
nhiều tài liệu, chứng cứ, để giải quyết nội dung vụ án đòi hỏi phải vận dụng nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, tranh
chấp hợp đồng dịch vụ, hợp đồng thuê nhà có nguồn gốc tài sản nhà nước… Tuy
nhiên, quan điểm đề xuất về việc giải quyết vụ án của VKSND được KSV trình bày
tại phiên tòa sơ thẩm đã được HĐXX chấp nhận, đương sự đồng thuận (hoặc có
kháng cáo nhưng không được Toà án cấp trên chấp thuận) như:
- Vụ án 1: Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ về quyền tác giả đối với bộ
truyện tranh Thần đồng Đất Việt do TAND quận 1 thụ lý, giải quyết kéo dài trong
vòng 12 năm có nội dung như sau: Thần đồng Đất Việt là một bộ truyện tranh thiếu
nhi nhiều tập được xuất bản tại Việt Nam. Ban đầu tác phẩm được thực hiện bởi tác
giả Lê Phong Linh (bút danh Lê Linh) và Công ty Phan Thị. Theo ghi nhận thì ông
Lê Linh đã cùng với bà Phan Thị Mỹ Hạnh (Giám đốc Công ty Phan Thị) đứng tên
đăng ký bản quyền tác giả. Từ tháng 5 năm 2002, Cục Bản quyền cấp giấy chứng
nhận bản quyền tác giả, ghi nhận quyền tác giả thuộc về đồng tác giả là ông Lê Linh
và bà Phan Thị Mỹ Hạnh, quyền tài sản (các quyền khai thác, sử dụng tác phẩm…)
thuộc về Công ty Phan Thị.
Tuy nhiên Thần đồng đất Việt phát hành đến tập thứ 78 thì họa sĩ Lê Linh
quyết định ngưng cộng tác với Phan Thị. Các tập tiếp theo của bộ truyện vẫn tiếp
tục ra đời nhưng không đề tên tác giả, họa sĩ là ai. Phía Phan Thị cho rằng mình là
chủ sở hữu có các quyền tài sản đối với tác phẩm nên tổ chức xuất bản các tập tiếp
theo mà không cần ý kiến của tác giả. Trong khi đó ông Lê Linh cũng không còn
50
làm việc tại Phan Thị. Vì vậy, công ty có quyền thuê người khác làm những tập tiếp
theo. Khi ông Lê Linh phát hiện trong hồ sơ đăng ký bản quyền, bà Mỹ Hạnh ghi
tên mình là đồng tác giả với ông. Năm 2007, ông quyết định kiện về tranh chấp
quyền sở hữu trí tuệ. Trong đơn khởi kiện, họa sĩ Phong Linh yêu cầu xác định ai là
tác giả duy nhất của bộ truyện Thần đồng đất Việt, thay vì là đồng tác giả với bà
Phan Thị Mỹ Hạnh như hồ sơ đăng ký bản quyền từ Phan Thị. Ông cũng đề nghị
Phan Thị không được phép sáng tác những biến thể của nhân vật trong bộ truyện.
Họa sĩ yêu cầu công ty Phan Thị xin lỗi nếu tòa phán quyết ông là tác giả bộ truyện.
Trong khi Tòa án chưa giải quyết xong vụ án thì vào cuối năm 2007, họa sĩ Lê Linh
quyết định sáng tác một bộ truyện tranh hoàn toàn mới lấy tên là Long Thánh với
các nhân vật chính: Long Tinh, Lưu Đại sư, Rồng Long Nhí… Tuy nhiên, phía
Công ty Phan Thị cho rằng nhân vật Long Tinh là biến thể của Trạng Tý trong khi
hình vẽ nhân vật Trạng Tý là thuộc quyền sở hữu của Công ty Phan Thị. Do đó, tác
giả Lê Linh sử dụng hình ảnh Trạng Tý mà không xin phép chủ sở hữu quyền tác
giả là vi phạm bản quyền.
Đến ngày 24/01/2019 phiên sơ thẩm vụ việc tranh chấp quyền tác giả
truyện tranh Thần đồng đất Việt đã diễn ra tại TAND quận 1. Qua các phiên xét xử
sơ thẩm vào ngày 24/01, 25/01, 01/02, 14/02/ 2019, các bên tham gia tranh luận vô
cùng căng thẳng. Sáng ngày 18/02/2019, Hội đồng xét xử đã đưa ra phán quyết
trong vụ việc này, công nhận Lê Linh là tác giả duy nhất của 4 hình tượng trong
Thần đồng đất Việt, xác nhận bà Hạnh không phải là đồng tác giả. Qua đó buộc
Phan Thị chấm dứt việc tạo ra và sử dụng 04 hình tượng nhân vật trong bộ truyện,
xin lỗi và bồi thường cho ông Lê Linh [21].
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ mà đặc biệt là quyền tác giả luôn được
xác định là một trong những loại tranh chấp phức tạp vì đối tượng tanh chấp là thứ
tài sản vô hình. Trong vụ án này, thời gian tranh chấp kéo dài, hồ sơ vụ án bao gồm
rất nhiều tài liệu, chứng cứ khác nhau, quan điểm của các bên để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình rất sắc bén, hơn thế nữa, vụ án lại thu hút sự chú ý của các
phương tiện truyền thông, các quan điểm trái chiều từ dư luận. Tuy nhiên, không bị
51
ảnh hưởng bởi quan điểm đa chiều từ dư luận, can cứ vào kết quả nghiên cứu hồ sơ
vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp giưa hai bên, VKSND
quận 1 đã đưa ra quan điểm xác định ông Lê Linh là tác giả duy nhất của nhất của
hình tượng 4 nhân vật “Trạng Tí”, “Sửu Ẹo”, “Dần Béo”, “Cả Mẹo”, đồng thời đề
nghị TAND quận 1 chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, quan
điểm này phù hợp với quyết định giải quyết vụ án của TAND quận 1 và phù hợp
với kết quả xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp nêu trên tại TAND Thành phố Hồ Chí
Minh vào ngày 03/9/2019.
- Vụ án 2: Tranh chấp hợp đồng thuê kho giữa nguyên đơn là Công ty Trách
nhiệm hữu hạn ( sau đây gọi tắt là Công ty TNHH) dược phẩm TC và bị đơn là
Công ty cổ phần TVX, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là Công ty BHBV do
TAND quận G thụ lý, giải quyết. Nội dung vụ án như sau: Năm 2011, Công ty dược
phẩm TC và Công ty cổ phần TVX có kí hợp đồng thuê kho với các nội dung chính
như: Công ty TVX cung cấp dịch vụ lưu kho đối với hàng hóa là thuốc thú y và phụ
gia thức ăn gia súc cho Công ty TC. Bên cho thuê có trách nhiệm bảo đảm diện tích
kho để bên thuê chứa hàng, bảo đảm về an toàn cháy nổ, phòng cháy chữa cháy, độ
thông thoáng trong kho theo quy định, điều kiện kỹ thuật của nhà kho và bảo đảm
không xảy ra sự cố trong điều kiện hoạt động bình thường… và chịu trách nhiệm
nhập xuất kho, bảo quản và quản lý hàng hóa trong kho cho bên thuê. Cưới năm
2012, xảy ra sự việc cháy kho, cháy toàn bộ số hàng tồn của Công ty TC. Công ty
TC có mua bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt của Công ty BHBV. Sau khi vụ cháy
xảy ra, Công ty BHBV đã cho giám định thiệt hại về tài sản do đám cháy là 28 tỷ
đồng (đã làm tròn) và chi trả tiền bảo hiểm cho Công ty TC là 15 tỷ đồng (đã làm
tròn). Do đó, Công ty TC khởi kiện Công ty TVX bồi thường thiệt hại còn lại là
khoảng 13 tỷ đồng. Tuy nhiên, phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu nêu trên vì
cho rằng, nguyên nhân cháy nổ là do sự cố khách quan, bất khả kháng về điện, phía
Công ty TVX không có lỗi, đồng thời, Công ty đã thực hiện các biện pháp cần thiết
để hạn chế thiệt hại do đám cháy.
52
Đây là vụ án tranh chấp KDTM có tính chất phức tạp, nguyên đơn bị thiệt
hại tài sản lớn do hỏa hoạn nên có thái độ rất gay gắt, gây nhiều áp lực đối với phía
các cơ quan tiến hành tố tụng. Để giải quyết nội dung vụ án, bên cạnh việc nghiên
cứu hợp đồng thuê kho giữa các bên, quá trình thực hiện hợp đồng của mỗi bên, các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, KSV còn cần phải nghiên cứu các kết luận
điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh để xác định
nguyên nhân vụ cháy, xác định có hay không việc miễn trách vì lí do bất khả kháng
đối với bên cho thuê kho. Sau khi nghiên cứu toàn diện, khách quan vụ án, KSV đã
đề xuất quan điểm của VKS tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án nêu trên, trong
đó, xác định theo kết quả điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố
Hồ Chí Minh nguyên nhân xảy ra cháy là do điện trở điểm tiếp xúc tăng cao, quá
trình điều tra không phát hiện thấy có sai phạm trong thiết kế, lắp đặt hệ thống điện,
không có vi phạm quy định về an toàn phòng cháy chữa cháy, an toàn sử dụng điện
và các quy định khác; vụ cháy kho không phải do lỗi của Công ty TVX nên Công ty
TVX không có trách nhiệm bồi thường cho Công ty TC. Do đó, yêu cầu của Công
ty TVX không có căn cứ để được chấp nhận. Nội dung quan điểm này phù hợp với
kết quả giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm [23].
Không đồng ý với kết quả giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên
đơn kháng cáo bản án nêu trên. Tuy nhiên, quan điểm về việc không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của guyên đơn mà KSV đại diện VKSND quận G trình bày tại phiên
tòa sơ thẩm một lần nữa được khẳng định tính đúng đắn khi Bản án phúc thẩm của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm [24].
- Vụ án 3: Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ và san lấp mặt bằng giữa
nguyên đơn là ông Hsieh Yung P và bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn C (gọi
tắt là Công ty C), nội dung vụ việc như sau: Theo các Hợp đồng và thỏa thuận giữa
hai bên, dự án Cestar Produce And Trading Co., LTD đại diện là ông Hsieh Yung P
giao cho bên Công ty C nhận thầu san lấp toàn bộ diện tích mặt bằng nhà xưởng tại
huyện Đ, tỉnh Long An và phối hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn H (gọi tắt là
53
Công ty H) cùng thực hiện hồ sơ pháp lý có liên quan đến dự án Cestar Produce
And Trading Co., LTD đến khi hoàn tất việc được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (sổ đỏ), đồng thời thực hiện các thủ tục cần thiết để triển khai dự án TAH
YANG tại cụm công nghiệp Hoàng Gia. Phía nguyên đơn đã thanh toán cho Công
ty C tiền mặt là 1.000 USD và thanh toán qua chuyển khoản số tiền là 31.400 USD
mà Công ty C vẫn không tiến hành thực hiện những cam kết trong hợp đồng và
những biên bản thỏa thuận giữa hai bên. Do vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
Công ty C phải hoàn trả 32.400 USD tiền tạm ứng hợp đồng san lấp và bồi thường
32.400 USD. Tổng cộng là 64.800 USD cùng tiền lãi của số tiền trên. Số tiền này
chỉ yêu cầu Công ty C trả, không yêu cầu Công ty H vì không có liên quan đến
khoản tiền này.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phía bị đơn thừa nhận có ký kết
hợp đồng và tiến hành các thỏa thuận nêu trên. Công ty C đồng ý trả lại số tiền đã
nhận để thực hiện việc san lấp mặt bằng là 26.400USD, tuy nhiên, số tiền theo thỏa
thuận để thực hiện hồ sơ pháp lý cho các dự án là 5.000USD, Công ty C không
đồng ý trả lại, bởi lẽ, Công ty C đã chi tiền để thực hiện các dịch vụ pháp lý và lỗi
dẫn đến việc không thể thực hiện dịch vụ pháp lý là do phía ông Công ty H và Công
ty C đã chấm dứt hợp đồng.
Xác định vụ án nêu trên là vụ án có yếu tố nước ngoài, kết quả giải quyết vụ
án ít nhiều có ảnh hưởng đến hoạt động đầu nước nước ngoài tại Việt Nam, một bản
án công tâm, khách quan khi được Tòa án ban hành có tác dụng tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên, bên cạnh đó phải đảm bảo
quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước. Chính vì vậy,
khi được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên VKSND Thành
phố Hồ Chí Minh đã chú trọng nghiên cứu hồ sơ vụ án, đưa ra đề xuất quan điểm
giải quyết vụ án nhận được sự đồng thuận từ phía TAND Thành phố. Theo đó, đối
với số tiền 26.400USD để thực hiện hợp đồng san lấp, do chưa có dự án, chưa thực
hiện được nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Đối với phần tiền
để thực hiện các thủ tục pháp lý, việc Công ty trách nhiệm hữu hạn H vi phạm nghĩa
54
vụ, không thực hiện được thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có
giấy tờ về đất, nên không có hồ sơ để Công ty trách nhiệm hữu hạn C lập thủ tục xin
cấp phép đầu tư, Công ty C đã biết rõ nhưng lại nhận tiền của ông P mà không trả
lại. Bên cạnh đó, mặc dù, Công ty C cho rằng đã sử dụng tiền để để thực hiện các
dịch vụ như đo đạc đất, có chi phí, nhưng đại diện cho Công ty C không xuất trình
được chứng cứ chứng minh có việc chi số tiền trên, nên yêu cầu của ông P buộc
Công ty C trả lại tiền cho ông P là có căn cứ [25].
Ngoài các tranh chấp điển hình nêu trên, các tranh chấp KDTM khác được
TAND hai cấp của Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết khác như tranh chấp
giữa các thành viên với nhau liên quan đến hoạt động của công ty về hợp đồng
chuyển nhượng vốn góp, tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp hợp
đồng tín dụng, tranh chấp xây dựng… Đối với các tranh chấp KDTM, có những vụ
án mà chứng cứ đã rõ ràng, quy định pháp luật đã đầy đủ hay những trường hợp vụ
án phức tạp, tranh chấp kéo dài, quy định pháp luật có sự mâu thuẫn, chồng chéo
gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án cũng như kiểm sát việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, các cán bộ, KSV Viện kiểm sát nhân dân các cấp trên địa bàn Thành phố
được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm luôn
nêu cao tinh thần tự giác, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
2.3.1. Khó khăn, vướng mắc
Thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ
án KDTM của KSV Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy công tác kiểm sát này còn có một số tồn tại, hạn chế nhất định như:
- KSV được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án KDTM không thể
tham gia đầy đủ các phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM
Như đã trình bày, tỉ lệ tham gia phiên tòa KDTM sơ thẩm của Kiểm sát viên
VKSND hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh còn hạn chế. Điều này chủ yếu xuất
phát từ nguyên nhân lượng án cần kiểm sát, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trên địa
bàn Thành phố là tương đối lớn, trong khi đó đội ngũ cán bộ, KSV được phân công
55
kiểm sát án KDTM lại tương đối mỏng. Tuy nhiên, đáng lưu ý, có trường hợp vắng
mặt của KSV tại phiên tòa không xuất phát từ nguyên nhân chủ quan từ phía KSV
hay VKS mà xuất phát từ nguyên nhân khách quan, do Tòa án bố trí lịch xét xử bị
trùng lặp. KSV được phân công kiểm sát việc giải quyết hai vụ án (một vụ án dân
sự, một vụ án KDTM) do hai Thẩm phán khác nhau thụ lý hồ sơ, tuy nhiên, cả hai
vụ án lại được đưa ra xét xử cùng ngày, giờ mà không có KSV dự khuyết. Chính vì
không thể đồng thời tham gia hai phiên tòa cùng lúc, KSV đã không thể tham gia
phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM. Bản án của Tòa án sau đó đã được VKS
kiểm sát chặt chẽ và phát hiện không có vi phạm. Mặc dù, trong trường hợp này, sự
vắng mặt của KSV không gây ra thiệt hại đến quyền lợi ích của Nhà nước, không
làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự (thể hiện ở chỗ,
bản án của Tòa án không có sai phạm để VKS phải kháng nghị và các đương sự
phải kháng cáo). Sự việc sau đó đã được VKSND Thành phố rút kinh nghiệm sâu
sắc, lãnh đạo đơn vị VKS và KSV để xảy ra tình trạng trên cũng đã bị kiểm điểm
đúng theo quy định. Tuy nhiên, sự việc này cũng cho thấy sự phối hợp còn thiếu
đồng bộ, chặt chẽ giữa VKSND và Tòa án nhân dân, giữa KSV và Thẩm phán trong
quá trình công tác.
- Chất lượng thực hiện thẩm quyền khi tham gia phiên tòa của một số Kiểm
sát viên chưa cao
Khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM, một số KSV chưa thực sự tập
trung theo dõi diễn biến phiên tòa nên khi tham gia hỏi, KSV hỏi một cách chiếu lệ,
hoặc đặt những câu hỏi trùng lặp mà các đương sự, người bảo về, quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, HĐXX đã hỏi. Trong quá trình tham gia hỏi tại phiên tòa, việc
hỏi của KSV và trả lời của những người tham gia tố tụng chưa đi vào vấn đề trọng
tâm cần giải quyết của vụ án, làm hạn chế chất lượng, hiệu quả của hoạt động giải
quyết vụ án.
Tại phiên tòa, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm
phán, HĐXX, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng còn nhiều thiếu
sót, chưa toàn diện. Một số KSV tham gia phiên tòa còn nghiên cứu chưa kỹ các hồ
56
sơ, tài liệu vụ án; chưa làm tốt công tác kiểm sát việc tuyên án, kiểm tra biên bản
phiên tòa, dẫn đến không phát hiện được vi phạm của các chủ thể tiến hành tố tụng,
tham gia tố tụng, các bản án có vi phạm bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy, sửa
nhưng KSV không phát hiện được sai lầm của Tòa án để báo cáo kháng nghị theo
thẩm quyền.
- Vụ án 4: Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng
thương mại cổ phần X (gọi tắt là Ngân hàng X) và bị đơn là Công ty cổ phần đầu
tư, thương mại, dịch vụ Y (gọi tắt là Công ty Y). Nội dung vụ án như sau: Năm
2014, Công ty Y có kí hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng X số tiền là 30 tỷ đồng.
Để đảm bảo cho khoản vay nêu trên, Công ty Y có thế chấp cho Ngân hàng X tài
sản là quyền sử dụng 15.000 m2 đất ven biển Công ty Y được nhà nước cho thuê đất
có trả tiền thuê đất hàng năm tại tỉnh Khánh Hòa. Hết thời hạn vay, do phía Công ty
Y không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nên ngày 15/03/2019, Ngân hàng
X khởi kiện yêu cầu TAND quận H buộc Công ty Y thanh toán số tiền cả gốc và lãi
theo hợp đồng tín dụng là gần 45 tỷ đồng. Trong trường hợp Công ty Y không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng X yêu cầu TAND quận H tuyên xử lý tài sản thế
chấp để đảm bảo trả nợ cho Công ty Y [23].
Bản án có hiệu lực pháp luật của TAND quận H tuyên chấp nhận toàn bộ yêu
cầu của Ngân hàng X, phía Công ty Y không có kháng cáo. Tuy nhiên, trong vụ án
này, việc TAND quận H tuyên chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng X về việc xử lý
tài sản thế chấp của Công ty Y là không đúng quy định pháp luật. Bởi lẽ, theo quy
định tại Điều 175 Luật Đất đai năm 2013, tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê
đất thu tiền thuê đất hàng năm chỉ có quyền thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam
(chứ không có quyền thế chấp quyền sử dụng đất).
Như vậy, đáng lẽ ra, khi kiểm sát việc giải quyết vụ án, KSV phải có quan
điểm xác định Hợp đồng thế chấp tài sản giữa Công ty Y và Ngân hàng X là vô hiệu
do trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi kiểm sát việc giải quyết vụ án
KSV đã không nhận thức được vấn đề này để đưa ra quan điểm giải quyết vụ án là
57
chưa nắm vững các quy định pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất được thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm.
Một số KSV ít quan tâm đến nội dung vụ án, quan hệ tranh chấp nên việc
tham gia phiên tòa còn nặng về hình thức, chưa nêu cao được trách nhiệm và chất
lượng hoàn thành nhiệm vụ. Một số KSV phát biểu quan điểm giải quyết vụ án còn
chưa thuyết phục, nội dung còn đơn giản, không sát với nội dung vụ kiện và diễn
biến tại phiên tòa để đánh giá, nhận định việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, HĐXX, việc tham gia của người tố tụng; trình bày nội dung vụ án quá dài,
trùng lặp, đề xuất quan điểm giải quyết không rõ ràng, cụ thể.
- Khó khăn khi xử lý trường hợp đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ tại
phiên tòa
Nghiên cứu quy định tại các Điều 208, 209, 210, 211 BLTTDS có thể thấy
rằng mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là một thủ
tục tố tụng hoàn toàn mới so với quy định của các BLTTDS trước đây. Mục đích
của phiên họp này là nhằm xác định chính xác yêu cầu của các đương sự; xác định
những vấn đề các bên đương sự thống nhất, chưa thống nhất được; các tài liệu,
chứng cứ mà các bên đương sự đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng
cứ cho đương sự khác, các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án thu thập được... Việc mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ còn có ý nghĩa bảo
đảm quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự, bảo đảm cho các
đương sự có điều kiện thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng.
Tuy nhiên, một phần quy định về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ của
BLTTDS đã gián tiếp làm giảm đi ý nghĩa của phiên họp này. Theo quy định,
trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương
sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng
đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng
minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó [16, Điều 97]. Tuy nhiên,
BLTTDS lại không có quy định trong trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng
58
cứ thì Tòa án phải tổ chức lại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công
khai chứng cứ hay không. Do vậy, trên thực tế, có trường hợp, đương sự cố tình để
sau khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc tại phiên tòa mới bổ sung
những tài liệu, chứng cứ quan trọng cho việc giải quyết nội dung vụ án cho Tòa án
nhưng Tòa án không tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công
khai chứng cứ đối với những tài liệu, chứng cứ đương sự mới cung cấp mà sẽ thực
hiện việc công khai tài liệu, chứng cứ này tại phiên tòa sơ thẩm khiến bên còn lại
chỉ có thể tiếp cận tài liệu này tại phiên tòa, làm ảnh hưởng đến quyền tranh tụng
của họ. Đồng thời, điều này còn khiến cho KSV bị động khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình vì KSV không có nhiều thời gian tiếp cận, làm rõ các thuộc
tính của chứng cứ để đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ.
2.3.2. Nguyên nhân
Các khó khăn, vướng mắc nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, bất cập từ các quy định của pháp luật
- Bất cập trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là KDTM hay
dân sự: Như đã trình bày, án KDTM cũng được xem là án dân sự, nếu hiểu theo
nghĩa rộng. Tuy nhiên, về cả phương diện lý luận và thực tế, việc xác định một
tranh chấp là KDTM hay dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết nội
dung vụ án, ảnh hưởng đến việc xác định tư cách chủ thể tham gia tố tụng, pháp luật
áp dụng cũng như án phí, lệ phí Tòa án. Trên thực tế, có những trường hợp giữa
TAND và VKSND có sự bất đồng trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp,
vô hình chung làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm sát phiên tòa sơ thẩm của KSV.
+ Về việc xác định chủ thể của tranh chấp KDTM: Tranh chấp phát sinh
trong hoạt động KDTM trước hết là tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận [16, khoản 1 Điều 30], tức là,
chủ thể trong tranh chấp KDTM là các bên có đăng ký kinh doanh và cùng mục
đích lợi nhuận. Bên cạnh đó, cũng được xem là tranh chấp KDTM nếu đó là tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau
và đều có mục đích lợi nhuận [16, khoản 2 Điều 30]. Trong trường hợp này, vụ án
59
giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau được xem vụ án KDTM khi các bên đều có mục đích lợi
nhuận (mà không cần điều kiện chủ thể phải có đăng ký kinh doanh). Nếu chỉ có
một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh
chấp đó là tranh chấp về dân sự [4, khoản 4 Điều 6].
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thương mại thì Luật này điều chỉnh đối
với cả hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với
thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn
áp dụng Luật Thương mại [12, khoản 3 Điều 1 LTM].
Như vậy, BLTTDS đã bỏ sót quy định về việc xác định tranh chấp giữa một
bên không phải là thương nhân trong giao dịch với thương nhân không nhằm mục
đích sinh lợi, trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi đó chọn áp dụng Luật Thương mại. Điều này dẫn đến thực tế là khi xét xử các
vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với cá nhân không
đăng ký kinh doanh, không có mục đích lợi nhuận (vay tiêu dùng), có Tòa xác định
là án KDTM, tuy nhiên, có Tòa lại xác định đây là vụ án dân sự thông thường.
Trong thực tế, trước khi Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm có hiệu lực thi hành (ngày 15/3/2019) việc
xác định lãi suất phát sinh từ hợp đồng tín dụng (kể cả trong trường hợp vay tiêu
dùng của cá nhân với tổ chức tín dụng, không có mục đích sinh lợi) đều căn cứ quy
định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành, tức là căn cứ
theo quy định của một văn bản pháp luật chuyên ngành KDTM. Tuy nhiên, xét về
mặt lý luận, nếu xác định tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và cá
nhân nêu trên là tranh chấp dân sự thông thường thì phải áp dụng quy định của
BLDS về lãi suất cho vay. Chính vì vậy, khi kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp
hợp đồng tín dụng vay tiêu dùng giữa cá nhân với tổ chức tín dụng, có KSV đưa ra
quan điểm về tính lãi suất trong hợp đồng tín dụng theo quy định của BLDS.
60
+ Việc xác định mục đích lợi nhuận: Về mặt pháp lý, mục đích lợi nhuận của
cá nhân, tổ chức trong hoạt động KDTM được hiểu là mong muốn của cá nhân, tổ
chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi
nhuận từ hoạt động KDTM đó [4, khoản 2 Điều 6]. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác
định thế nào là có mục đích lợi nhuận cũng đang có ý kiến trái ngược nhau, đặc biệt
là đối với hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng phát
triển Việt Nam là thực hiện hỗ trợ vốn, cho vay đối với các đối tượng chính sách
theo kế hoạch, dự án của Chính phủ. Hoạt động của 02 Ngân hàng này đều được
xác định trong quyết định thành lập là không vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc xác định hoạt động của 02 Ngân hàng nêu trên là vì mục đích lợi nhuận
hay không vì mục đích lợi nhuận cũng có những ý kiến khác nhau, dẫn đến, quan
điểm giải quyết các tranh chấp hợp đồng cho vay giữa 02 Ngân hàng trên với người
vay vốn, vẫn còn quan điểm khác nhau, cụ thể:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng: Các Ngân hàng này cho các đối tượng chính sách
vay có lãi suất. Người vay là những người nghèo, cận nghèo sử dụng vốn vay để cải
thiện đời sống (bán vé số, chăn nuôi, cải tạo vườn…) cũng là những hoạt động sản
xuất, kinh doanh và có mục đích lợi nhuận. Căn cứ vào hướng dẫn của ngành Tòa
án xác định chủ thể không cần có đăng ký kinh doanh và các bên đều có mục đích
lợi nhuận nên những vụ kiện của 02 Ngân hàng trên đối với những hộ vay vốn xóa
đói giảm nghèo, chăn nuôi đều được Tòa án thụ lý theo vụ án KDTM.
- Ý kiến thứ hai cho rằng: Xác định những tranh chấp này là dân sự vì một
bên không có đăng ký kinh doanh, và mục tiêu của Ngân hàng được xác định là
không vì mục tiêu lợi nhuận. Lãi suất cho vay chỉ là hoạt động bảo toàn vốn của
Ngân hàng, trong khi đó, mục đích vay vốn của người dân trước tiên là để phát triển
sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống chứ không phải vì mục đích lợi nhuận [34].
Hệ quả của hai quan điểm trái ngược này dẫn đến sự khác biệt về mức án phí
sơ thẩm. Ví dụ, trường hợp vụ án có giá trị tranh chấp 4.000.000 đồng, nếu xác định
là vụ án KDTM thì án phí sơ thẩm là 3.000.000 đồng, trong khi đó, nếu xác định
đây là vụ án dân sự thì án phí sơ thẩm chỉ là 300.000 đồng.
61
- Bất cập trong quy định về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ và hoạt
động thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát: Như đã trình bày, theo quy định, khi xét
thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc
dân sự nói chung, vụ án KDTM nói riêng kịp thời, đúng pháp luật, tại phiên tòa,
KSV có quyền yêu cầu Tòa án tạm ngừng phiên tòa để thu thập chứng cứ bổ sung.
Tuy nhiên, việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu tạm ngừng phiên tòa để
thu thập chứng cứ của KSV ít nhiều phụ thuộc vào nhận định, đánh giá chủ quan
của HĐXX. Trong trường hợp HĐXX quyết định không chấp nhận yêu cầu của
KSV về việc tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm chứng cứ thì KSV vẫn phải tiếp
tục tham gia phiên tòa.
Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của KSV, tạm ngừng phiên tòa để,
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thì vấn đề đặt ra là Thẩm phán có phải tổ
chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai tài liệu, chứng cứ hay
không? Mặc dù BLTTDS có quy định mọi chứng cứ đều cần được công bố công
khai và đảm bảo cho tất cả các đương sự quyền tiếp cận và nghiên cứu tài liệu,
chứng cứ. Tuy nhiên, vì chưa có quy định cụ thể về số lượng, thời điểm tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, do đó, thực tế
việc áp dụng quy định này của các Tòa án khác nhau là không giống nhau.
Thực tiễn kiểm sát xét xử vụ án KDTM cho thấy, thông thường, sau thời
gian tạm ngừng phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ thay mặt HĐXX công
khai chứng cứ mới thu thập. Tuy nhiên, cũng như việc đương sự bổ sung tài liệu,
chứng cứ tại phiên tòa, việc Tòa án chỉ công khai chứng cứ mới thu thập tại phiên
tòa có thể khiến cho KSV bị động khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình vì
KSV không có nhiều thời gian tiếp cận, làm rõ các thuộc tính của chứng cứ để đánh
giá giá trị chứng minh của chứng cứ.
- Bất cập trong quy định về việc gửi bài phát biểu của KSV: Mặc dù trước
khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án KDTM, KSV đã xây dựng Dự thảo bài phát
biểu của KSV tại phiên tòa, tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại phiên tòa giải quyết vụ
án KDTM các đương sự thường có nhiều ý kiến bổ sung, thay đổi hoặc rút bớt nội
62
dung khởi kiện, thay đổi, bổ sung lời khai… nên KSV phải có thời gian chỉnh sửa
bổ sung bài phát biểu quan điểm của VKSND đối với việc giải quyết vụ án để gửi
cho Tòa án. Do vậy, quy định KSV phải gửi ngay văn bản phát biểu ý kiến của
VKS cho Tòa án ngay sau khi kết thúc phiên tòa gây khó khăn cho KSV trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, do công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành chưa thực sự chú trọng đến
khâu công tác kiểm sát dân sự
Công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự ở một số đơn vị VKSND
chưa được lãnh đạo đơn vị quan tâm đúng mức dẫn đến việc chỉ đạo còn thiếu sát
sao; việc bố trí cán bộ, KSV đôi lúc chưa phù hợp, cộng kiêm nhiệm nhiều và thiếu
sự ổn định nên trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của BLTTDS còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự không đảm bảo.
Đối với việc chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn thiện bài phát biểu quan
điểm của VKS tại phiên tòa, phiên họp chưa được quan tâm nên chất lượng chưa
bảo đảm, cụ thể là: khi duyệt báo cáo đề xuất của KSV xem nhẹ phần tố tụng, chỉ
chú trọng phần nội dung giải quyết như thế nào; một số nơi Lãnh đạo không duyệt
kỹ, không sát sao nội dung báo cáo đề xuất quan điểm giải quyết vụ việc, không chú
trọng việc đánh giá chứng cứ của người đề xuất; đặc biệt có những nơi báo cáo đề
xuất của KSV không có chữ ký của Lãnh đạo, hoặc lãnh đạo có ghi “đồng ý đề
xuất” và ký nhưng thực chất phó mặc cho KSV, không có yêu cầu hoặc chỉ đạo cụ
thể về những vấn đề báo cáo...
Thứ ba, do tổ chức bộ máy làm công tác kiểm sát dân sự chưa đủ mạnh
Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng các tranh chấp KDTM khởi
kiện ra TAND tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng và có tính chất phức tạp
hơn. Các tranh chấp bị khởi kiện đa phần về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư...
trong khi công tác quản lý trên lĩnh vực này tại địa phương chưa thực sự tốt. Lĩnh
vực KDTM lại là lĩnh vực rộng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp
luật, liên quan nhiều chuyên ngành phát khác nhau. Trong khi đó, số lượng KSV
63
làm công tác kiểm sát giải quyết án tranh chấp KDTM còn mỏng, đặc biệt ở cấp
quận huyện lại phải kiêm nhiệm các khâu công tác khác như kiểm sát án dân sự, lao
động nên chất lượng công tác kiểm sát chưa cao. Việc tổ chức các cán bộ kiểm sát
làm công tác kiểm sát dân sự chưa hợp lý, chưa đưa nhiều những KSV có trình độ,
năng lực về làm công tác này kiểm sát dân sự này.
Thứ tư, do ý thức trách nhiệm, năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ KSV
- Ý thức trách nhiệm của KSV: Một số KSV chưa phát huy hết tinh thần trách
nhiệm khi được phân công kiểm sát giải quyết án KDTM. Một số KSV còn có tâm
lý xem nhẹ công tác này, chưa thật sự tự giác nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật
liên quan đến giải quyết án; có những sai sót về chuyên môn đã được thông báo rút
kinh nghiệm, tập huấn nhắc nhở nhưng vẫn còn vi phạm; dễ dàng chấp thuận hoặc
đồng ý với quan điểm giải quyết của Tòa án; khi phát hiện vi phạm nhưng không
kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ (yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị) theo luật
định mà mới chỉ dừng lại ở việc trao đổi, góp ý. Một số KSV chưa chịu khó tìm tòi,
học hỏi, cập nhật, nghiên cứu các quy định mới của pháp luật để ứng dụng vào công
việc; thiếu sắc bén, tinh thông về nghiệp vụ, việc nghiên cứu hồ sơ không kỹ nên
kiểm sát xét xử sơ thẩm tại phiên tòa thiếu chủ động, sáng tạo, có trường hợp không
tránh khỏi lúng túng do chưa nắm vững luật nên trước và tại phiên tòa không phát
hiện được những vi phạm pháp luật và đương nhiên sẽ không thể thực hiện bài phát
biểu quan điểm của VKS tại phiên tòa được chính xác và có căn cứ.
- Năng lực của một số KSV còn hạn chế, không đồng đều; việc nghiên cứu hồ
sơ, bản án, quyết định sơ thẩm và các căn cứ pháp luật còn sơ sài, chủ quan, mang
tính đối phó, hình thức cho xong việc, chưa thực sự thấy hết được trách nhiệm của
bản thân và chức năng, nhiệm vụ của ngành, do đó số án bị cấp phúc thẩm, giám
đốc thẩm hủy, sửa án chủ yếu là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà cán bộ,
KSV không phát hiện; một số KSV chưa tự mình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng phân tích, tổng hợp và vấn đề
pháp lý, đánh giá chứng cứ, nên chất lượng bài phát biểu chưa cao. Một số KSV
còn có hạn chế trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát
64
việc giải quyết các vụ án KDTM. Một số KSV chưa có kinh nghiệm, chưa biết tích
lũy kinh nghiệm nhưng VKS các cấp chưa có kế hoạch tận dụng nguồn lực tại chỗ
để giúp đỡ cho các KSV.
Thứ năm, sự phối hợp trong công tác chưa thực sự hiệu quả
- Sự phối hợp giữa hai ngành kiểm sát và tòa án: Công tác phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong một số vụ việc còn thiếu chặt chẽ và chưa được chú
trọng, còn mang nặng tư tưởng “Quyền tôi, quyền anh”. Trong một số trường hợp
quan hệ các bên chưa kịp thời thông tin tình hình công tác cùng những khó khăn,
vướng mắt để phối hợp giải quyết; việc chuyển hồ sơ vụ việc để VKS nghiên cứu
còn chậm dẫn đến không đủ thời gian để KSV nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị bài phát
biểu của VKS; có những vụ việc Thẩm phán thu thập chứng cứ bổ sung nhưng
không cung cấp cho VKS trước khi mở phiên tòa gây ảnh hưởng không nhỏ đến
việc đánh giá chứng cứ và đề xuất đường lối giải quyết vụ việc hoặc Tòa án có nhận
được phát biểu kiến nghị, yêu cầu của VKS nhưng chậm thay đổi hoặc bảo thủ.
- Sự phối hợp trong ngành Kiểm sát: Quan hệ phối hợp giữa VKSND cấp
trên và cấp dưới còn hạn chế. Có trường hợp VKSND cấp huyện phát hiện được
những vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, của HĐXX nhưng vì nhiều lý do không
kháng nghị phúc thẩm hoặc không kịp thời ban hành văn bản đề nghị VKS cấp trên
xem xét kháng nghị theo luật định.
Thứ sáu, do cơ sở vật chất phục vụ công tác chưa được thực sự chú trọng
Do Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có mặt bằng mức sống dân cư
cao, do vậy, đời sống của một bộ phận cán bộ, KSV còn khó khăn nên có một bộ
phận cán bộ, KSV chưa thực sự chuyên tâm công tác. Cụ thể: Trang thiết bị phục vụ
công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là
trong tình hình hiện nay các tranh chấp mà Tòa án thụ lý giải quyết ngày càng tăng
cả về số lượng và tính chất, mức độ phức tạp của các vụ việc. Chế độ đãi ngộ đối
với ngành kiểm sát nói chung và VKSND Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn
hạn chế, trong những năm gần đây đời sống vật chất ngày càng được nâng cao
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho
65
một số KSV chưa thực sư đầu tư thời gian, trí lực vào công tác kiểm sát dân sự, đầu
tư để nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị các điều kiện cần thiết khi tham gia phiên tòa
(chuẩn bị bài phát biểu tại phiên tòa, dự thảo đề cương hỏi chưa đáp ứng yêu cầu),
thậm chí có cán bộ, KSV có nguyện vọng xin chuyển ngành và không yên tâm công
tác, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm sát.
Tiểu kết Chương 2
Song song với sự phát triển sôi động của nền kinh tế, hiện nay các tranh chấp
KDTM trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng ngày càng gia tăng. Mặc dù, loại
vụ việc về tranh chấp KDTM tuy chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng số các loại vụ
án mà Tòa án các cấp đang thụ lý, giải quyết, nhưng tính chất lại rất đa dạng, phức
tạp và số lượng ngày càng tăng qua các năm.
Trong thời gian qua, công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án KDTM tại phiên
tòa sơ thẩm của VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố còn tồn tại một số hạn chế
nhất định. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, dưới sự chỉ đạo, điều hành hợp lý, đồng bộ
của Lãnh đạo VKSND Thành phố, Lãnh đạo Phòng 10 và Lãnh đạo VKSND các
quận, huyện, chất lượng, hiệu quả thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của các KSV trong
công tác này đã đạt được những kết quả tích cực. Chất lượng, hiệu quả của công tác
kiểm sát việc giải quyết vụ án KDTM tại phiên tòa sơ thẩm của các KSV các
VKSND cấp quận huyện và VKSND Thành phố đã góp phần nâng cao vị thế, vai
trò của VKSND trong hoạt động tố tụng dân sự, góp phần làm cho việc thụ lý, giải
quyết các vụ án KDTM đặt kết quả cao, tạo thêm niềm tin của Nhân dân đối với các
cơ quan tư pháp. Đồng thời, người dân ngày một hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò của
VKSND trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Đội ngũ KSV làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói
chung, vụ án KDTM nói riêng đã ngày càng trưởng thành hơn về nhiều mặt, có bản
lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng
nâng cao, đại bộ phận KSV thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá
trình tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án KDTM.
66
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI
THẨM QUYỀN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
3.1. Một số giải pháp
3.1.1. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành
Trong những năm qua, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh luôn xác định công
tác quản lý, chỉ đạo, điều hành là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, tạo tiền đề cho sự
thành công, bảo đảm sự hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ một cách có hiệu quả, thiết
thực. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án
KDTM nói chung, chất lượng thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên tòa
sơ thẩm nói riêng, VKSND Thành phố và VKSND các quận huyện các quận, huyện
cần phải tiếp tục phát huy những thành quả đã được được, đồng thời tăng cường
hoàn thiện, đổi mới một số nội dung công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành như:
- Thường xuyên quan tâm, chỉ đạo kịp thời đối với khâu công tác kiểm sát
giải quyết án KDTM theo dõi các báo cáo nghiệp vụ về kết quả nghiên cứu hồ sơ.
Chỉ đạo bám sát các vụ việc phức tạp, thường xuyên tổ chức cử cán bộ, KSV là
công tác kiểm sát án KDTM đi bồi dưỡng, tập huấn, tăng cường công tác rút kinh
nghiệm trong công tác kiểm sát án KDTM.
- Lãnh đạo Phòng 10 VKSND Thành phố và lãnh đạo Viện kiểm sát nhân
dân các quận, huyện cần thường xuyên quan tâm, chỉ đạo kịp thời đối với khâu công
tác kiểm sát giải quyết án KDTM; theo dõi sát sao các báo cáo nghiệp vụ về kết quả
nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát quy trình tố tụng giải quyết các vụ án KDTM. Lãnh đạo
các đơn vị cần chủ động nắm tình hình, diễn biến cũng như những khó khăn, vướng
mắc trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM để kịp thời chỉ đạo
hoặc có những biện pháp hỗ trợ, tránh tình trạng giao toàn bộ cho cán bộ, KSV tự
nghiên cứu, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.
- Tăng cường công tác thanh tra nghiệp vụ, ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương
và trật tự nội vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của KSV. Phòng 10 VKSND
67
Thành phố cần tăng cường kiểm tra công tác giải quyết án KDTM của các VKSND
các quận, huyện, tập trung vào những đơn vị còn hạn chế, thiếu sót, để xảy ra
trường hợp bị hủy, sửa án KDTM có trách nhiệm của VKS. Bên cạnh đó, cần kịp
thời ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với các vụ án dân sự bị hủy, sửa để
cán bộ và KSV cấp dưới nghiên cứu, rút kinh nghiệm và khắc phục trong quá trình
kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM về sau.
3.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác kiểm sát án kinh doanh,
thương mại
VKSND Thành phố và VKSND các quận, huyện cần kiện toàn bộ máy tổ
chức của VKS theo hướng phân công, bố trí cán bộ, KSV cho phù hợp trình độ,
năng lực, kinh nghiệm, sở trường của từng người nhằm phát huy hết vai trò, khả
năng của từng cán bộ, KSV trong quá trình công tác. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
KSV đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, ổn định lâu dài, phù hợp với tinh thần
Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.
VKSND Thành phố Hồ Chí Minh và VKSND các quận, huyện cần tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đào tạo tại chỗ để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV. Lãnh đạo các đơn vị VKSND cần phân công các
KSV có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn cho các KSV
mới được bổ nhiệm, tuyển dụng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng và bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ trẻ.
Lãnh đạo VKSND hai cấp của Thành phố cần tạo điều kiện để các cán bộ,
KSV tham gia những lớp tập huấn ngắn ngày theo từng chuyên đề vừa mang tính lý
luận, vừa mang tính thực tiễn, kịp thời tập huấn, bồi dưỡng các Bộ luật, Luật, Pháp
lệnh mới ban hành, các Thông tư liên tịch, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC...
VKSND Thành phố và VKSND các quận, huyện cần có cơ chế khen thưởng,
kịp thời động viên cán bộ, KSV có những thành tích tốt trong công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án KDTM nhằm tạo động lực, hứng khởi trong công việc, phát
huy năng lực sở trường công tác. Cùng với đó thường xuyên tổ chức họp, kiểm tra
68
nhằm rà soát, đánh giá rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc đối với những thiếu
sót của cán bộ, KSV trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã không phát hiện ra
những thiếu sót, vi phạm của Tòa án để kiến nghị, kháng nghị kịp thời theo quy
định nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, KSV khi thực hiện nhiệm vụ.
Quan tâm giáo dục ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho cán bộ, Kiểm
sát viên và coi đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục. Vì vậy, để nâng
cao chất lượng trước hết cán bộ, KSV, phải thực hiện tốt Chỉ thị 03-CT/TW ngày
14/5/2011 của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh và Kế hoạch thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ,
KSV “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và
bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” do VKSND tối cao phát động, triển khai thực
hiện nhằm làm cho KSV nhận thức sâu sắc về tư tưởng, tấm gương, đạo đức và
phong cách của Bác; thấy rõ được vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, KSV trong
thời kỳ mới, từ đó ra sức phấn đấu, học tập và rèn luyện để khắc phục những hạn
chế, yếu kém; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm
trách nhiệm và đề cao kỷ cương, kỷ luật trong công tác.
Các đơn vị VKSND trên địa bàn Thành phố cần chú trọng công tác tự đào
tạo tại chỗ trong nội bộ đơn vị. Thực tiễn cho thấy, các KSV sẽ có thể phát huy
năng lực chuyên môn và rút kinh nghiệm công tác rất nhiều nhờ vào sự hướng dẫn,
chỉ bảo của các đồng nghiệp có kinh nghiệm đi trước. Chính vì vậy, tại các đơn vị
VKSND, các KSV có kinh nghiệp lâu năm có thể hướng dẫn cho các KSV mới
được phân công công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Đặc biệt, cần
nhân rộng và phát huy hơn nữa hiệu quả từ các phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án
KDTM sơ thẩm cho KSV. Bởi lẽ, khi nhận được sự góp ý trực tiếp, kịp thời và đa
chiều từ phía lãnh đạo VKSND Thành phố, các đồng nghiệp trong cơ quan và đồng
nghiệp từ các VKSND trong cụm thi đua, sẽ giúp cho KSV nhanh chóng trưởng
thành và phát triển năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp.
Phòng 10 VKSND Thành phố nên thực hiện các chuyên đề khoa học về nâng
cao chất lượng hoạt động kiểm sát như hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia
69
phiên tòa sơ thẩm… ban hành các thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ án KDTM để các cán bộ, KSV được phân công công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM lưu ý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình.
3.1.3. Phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, trình độ nghiệp
vụ và kinh nghiệm của đội ngũ Kiểm sát viên
Hoạt động tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án KDTM được thực hiện trực tiếp
bởi các KSV được phân công đảm nhận công tác này. Do vậy, phát huy vai trò,
trách nhiệm của của từng KSV là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án KDTM. Để nâng cao chất lượng thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn của KSV trong công tác kiểm sát án KDTM nói chung, chất lượng
thực thi nhiệm vụ, quyền hạn tại phiên tòa sơ thẩm nói riêng, các cán bộ, KSV được
phân công cần phải luôn luôn hoàn thiện mình trong từng khâu công tác.
Khi được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án KDTM phải thật sự nhiệt
tình với công việc, có ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, nghiên cứu
nắm thật chắc hồ sơ vụ án. Các KSV phải thực sự nắm vững các quy định của
BLTTDS, các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan đến từng tranh chấp
KDTM cụ thể và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, quy chế công tác của Ngành.
Nắm chắc được các nội dung này sẽ là một công cụ đắc lực giúp cho KSV thực hiện
tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc tích lũy, đúc rút những kinh nghiệm, rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của KSV cũng đóng
một vai trò không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát.
Khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án KDTM, KSV phải chuẩn bị đầy đủ tài
liệu hồ sơ, dự liệu trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, nắm vững các
quy định pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật nội dung về KDTM cần thiết, có liên
quan đến việc giải quyết các vụ án dân sự để chủ động thực hiện tốt chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án
KDTM. Đối với những vụ án phức tạp, KSV trực tiếp nghiên cứu cần chủ động báo
cáo bằng văn bản để Lãnh đạo Viện kiểm sát có hướng dẫn, chỉ đạo hướng xử lý.
70
3.1.4. Tăng cường quan hệ phối hợp
Tăng cường mối quan hệ phối hợp với cơ quan Tòa án, cần xây dựng và ban
hành quy chế phối hợp giữa Viện KSND và TAND cùng cấp, đây là giải pháp cần
thiết cho công tác kiểm sát giải quyết các vụ án KDTM trong giai đoạn hiện nay khi
mà BLTTDS mới ban hành tăng thêm thẩm quyền cho VKS. Mối quan hệ này được
chú trọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện, gửi bài phát biểu
của VKS; đồng thời giúp giải quyết được những khó khăn trong việc chuyển hồ sơ,
bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác; đảm bảo cho việc thực hiện các
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị trong tố tụng dân sự. Thực tế cho thấy, để xây
dựng bài phát biểu của VKS cần phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ, tránh được tình
trạng Thẩm phán khi thấy VKS có văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ thường kéo dài
thời gian. Vì vậy, cần phải xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa VKSND và
TAND cùng cấp để thực hiện tốt công tác kiểm sát, đảm bảo mọi vi phạm đều được
phát hiện và xử lý kịp thời; bên cạnh đó, hai ngành cần phối hợp tổ chức các phiên
tòa rút kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng cho KSV và Thẩm phán...
Bên cạnh đó, tăng cường trao đổi nghiệp vụ với cấp trên; tham khảo, tập hợp
những kinh nghiệm, sáng kiến hay của các đơn vị VKS khác để vận dụng phù hợp
vào những trường hợp cụ thể của đơn vị. VKS cấp dưới thường xuyên trao đổi, kịp
thời xin ý kiến thỉnh thị VKS cấp trên để có hướng giải quyết vụ án KDTM đúng
quy luật, phù hợp với thực tiễn; VKS cấp trên cần tăng cường hướng dẫn, trả lời
thỉnh thị đối với với VKS cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án KDTM, đặc biệt
trong việc thỉnh thị đường lối giải quyết vụ việc. Tăng cường trao đổi, tham khảo
kinh nghiệm với các đơn vị đã làm tốt, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm và đạt hiệu
quả cao trong việc xây dựng bài phát biểu của VKS, qua đó nhân rộng điển hình...
3.1.5. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và chế độ, chính sách cho đội ngũ
Kiểm sát viên
Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước và Ngành kiểm sát đã chú trọng
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho VKSND các địa phương, trong đó,
có VKSND hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, trang thiết bị tại một số
71
VKSND cấp huyện trên địa bàn Thành phố như VKSND huyện Củ Chi, VKSND
huyện Nhà Bè, VKSND huyện Cần Giờ còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng tốt nhu
cầu thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, trong thời gian tới, VKSND Thành phố cần tiếp tục
đề nghị VKSND tối cao phê duyệt cho xây dưng, cải tạo trụ sở làm việc, đầu tư
trang thiết bị để cán bộ, KSV có trụ sở làm việc ổn định, máy tính hiện đại phục vụ
công tác của Ngành tại địa phương.
Trong thời gian qua, các chính sách, chế đội đãi ngộ đối với KSV mặc dù đã
được quan tâm, song còn chưa thỏa đáng. Tại địa phương vẫn có tình trạng, KSV
xin thôi việc với lý do thu nhập không đảm bảo cuộc sống. Chính vì vậy, VKSND
Thành phố cần tiếp tục đề nghị VKSND tối cao có tác động các cơ quan có thẩm
quyền của Trung ương và Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm đến chế độ chính sách,
thu nhập tăng thêm cho công chức VKSND hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh
được công bằng như các công chức khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đang
được hưởng.
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật dân sự, tố tụng dân sự
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử vụ án KDTM, đảm bảo các
bản án, quyết định của Tòa án được chính xác, rõ ràng, đúng quy định của pháp luật
thì trước tiên phải hoàn thiện những bấp cập trong hệ thống pháp luật như: Bộ Luật
Tố tụng dân sự, Luật Thương mại… đối với những văn bản pháp luật còn có sự
chồng chéo thì phải kịp thời bãi bỏ, thay thế; đối với những quy định còn vướng
mắc thì phải có hướng dẫn cụ thể. Đây là khâu quan trọng bởi lẽ khi có hệ thống
pháp luật đầy đủ, cụ thể, rõ ràng và đồng bộ sẽ là hành lang pháp lý để các cơ quan
tư pháp áp dụng pháp luật thống nhất và có hiệu quả, tránh được tình trạng tùy tiện
trong việc áp dụng pháp luật. Hoàn thiện các quy định pháp luật về KDTM, tố tụng
dân sự không chỉ giúp cho công tác xét xử, kiểm sát xét xử các vụ án dân sự nói
chung, kiểm sát xét xử các vụ án KDTM nói riêng được tiến hành thuận lợi mà còn
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
72
Để tạo thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án KDTM, pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung các quy định rõ
ràng, cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV và trách nhiệm của TAND, VKSND
để KSV và các cơ quan này có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật kinh doanh, thương mại
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về KDTM bên cạnh chức năng điều
chỉnh các hoạt động KDTM diễn ra theo trật tự còn có vai trò là cơ sở để giải quyết
các tranh chấp KDTM. Vì vậy, yêu cầu hoàn thiện pháp luật KDTM là yêu cần cấp
bách, cần thiết, tuy nhiên, đề tài không đi sâu vào việc phân tích các nội dung cần
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật KDTM mà chỉ đề xuất một số kiến
nghị có tính phổ quát trong việc hoàn thiện pháp luật KDTM.
Trước mắt, Chính phủ cần hệ thống hóa các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật thương mại và các Luật chuyên ngành trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
loại bỏ các văn bản đã hết hiệu lực; ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định cho
phù hợp với thực tế hiện nay để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong quá trình giải
quyết các vụ án KDTM.
Về lâu dài, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần bổ sung, điều
chỉnh kịp thời Luật Thương mại và các Luật chuyên ngàng trong từng lĩnh vực
KDTM cụ thể và các văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp; sớm ban
hành quy định và các hướng dẫn thực hiện pháp luật để cán bộ làm công tác pháp
luật không bị lúng túng, vướng mắc làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng
xét xử, kiểm sát xét xử xcá vụ án KDTM. Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định
của pháp luật nội dung như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, trong đó giải
thích rõ hơn khái niệm “chủ thể kinh doanh”, khái niệm “mục đích lợi nhuận”. Việc
làm này góp phần giúp Tòa án, KSV có căn cứ cụ thể, rõ ràng hơn khi xác định
quan hệ pháp luật tranh chấp, hạn chế những bất đồng quan điểm không đáng có.
Ngoài ra, với tư cách là một trong số đạo luật quan trọng điều chỉnh hoạt
động KDTM, sau 15 năm có hiệu lực thi hành, Luật Thương mại năm 2005 đã bộc
lộ nhiều hạn chế, bất cập, có nhiều quy định không còn phù hợp như khái niệm
73
thương nhân, các quy định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa, quy định về
hoạt động trung gian thương mại... Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra trong tương lai
gần là phải sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại cho phù hợp với tình hình mới.
- Bổ sung quy định pháp luật tố tụng dân sự
+ Bổ sung quy định tại Điều 186 BLTTDS: Để thống nhất trong việc xác
định thời điểm nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình,
BLTTDS cần phải có quy định rõ ràng đối với nội dung này. Do vậy, tác giả kiến
nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 186 BLTTDS như sau: “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án chỉ chấp nhận
việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung
được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải.
Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi
kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu”.
+ Bổ sung quy định tại Điều 208 BLTTDS: BLTTDS cần phải có quy định
rõ ràng về trách nhiệm của Tòa án trong việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ trong trường hợp đương sự cung cấp tài liệu,
chứng cứ sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và trong trường hợp Tòa án thu
thập thêm tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của VKS. Kiến nghị bổ sung khoản 4
Điều 208 BLTTDS với nội dung sau:
“Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà đương sự mới
cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này và
trường hợp Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát thì
trước phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với các tài liệu, chứng cứ này”.
74
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định trong ngành Kiểm sát nhân
dân và quy định liên ngành giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Trong thời gian quan, VKSND tối cao đã ban hành các văn bản hướng dẫn
nghiệp vụ, Quy chế công tác kiểm sát để hướng dẫn cách thức, quy trình thực hiện
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động. Đây là những cẩm nang công tác quan trọng cho các cán
bộ, KSV khi được phân công thực hiện khâu công tác này. Trong thời gian tới,
VKSND tối cao cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế nghiệp vụ ngành, đồng thời ban
hành thêm nhiều các Thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án KDTM để các KSV rút kinh nghiệm khi thực thi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.
Đối với liên ngành TAND và VKSND, trong thời gian tới, TAND tối cao
và VKSND tối cao cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành Thông tư liên tịch quy định
phối hợp liên ngành trong việc thi hành quy định của BLTTDS như: quy định về
trách nhiệm của Tòa án, của Thẩm phán được phân công thụ lý và giải quyết vụ án
dân sự trong việc chậm gửi hồ sơ vụ án, các văn bản tố tụng mà theo quy định phải
gửi cho VKS; quy định về trách nhiệm của Tòa án trọng việc thực hiện yêu cầu, trả
lời kiến nghị của VKS…
Lãnh đạo hai ngành TAND và VKSND cần tăng cường hơn nữa mối quan
hệ phối hợp, thường xuyên tổ chức họp liên ngành đối với những vụ án có tính chất
phức tạp để bàn biện pháp giải quyết, đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án đúng quy
định của pháp luật. Đối với những vụ án phức tạp, Thẩm phán và KSV cần có sự
phối hợp trong việc đánh giá tài liệu chứng cứ và quan điểm gairi quyết vụ án. Sự
phối hợp tốt giữa VKSND và TAND tạo điều kiện thuận lợi cho KSV và Thẩm
phán trao đổi về những thủ tục tố tụng và nội dung vụ án; chỉ ra những sai sót nhỏ
trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán để khắc phục mà không cần phải
kiến nghị. Mối quan hệ giữa TAND và VKSND, giữa Thẩm phán và KSV phải dựa
trên nguyên tắc bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
75
Tiểu kết chương 3
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước mở cửa, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối quan hệ về kinh tế vốn đã phức tạp nay càng phức tạp hơn nữa dẫn đến các phát sinh tranh chấp về kinh doanh thương mại yêu cầu Tòa án giải quyết ngày một gia tăng.
Để việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại của Tòa án được xử lý, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, đảm bảo quyền của các bên tham gia tố tụng, đòi hỏi KSV áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phải đồng bộ, chính xác, khách quan và toàn diện.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại Từ đó tác giả đã phân tích, đánh giá những nguyên nhân của những hạn chế, những vướng mắc, bất cập của pháp luật về thẩm quyền của KSV tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại; đề xuất phương hướng và một số giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của KSV ở giai đoạn sơ thẩm. Nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung, cũng như các tranh chấp kinh doanh thương mại của KSV ở giai đoạn sơ thẩm nói riêng. Góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia các tranh chấp kinh doanh thương mại
KẾT LUẬN
Thành phố Hồ Chí Minh luôn được đánh giá là thành phố có nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ và năng động nhất trong cả nước ta. Tuy nhiên, đi cùng với sự
phát triển, thực tiễn, các tranh chấp hoạt động KDTM tại Thành phố ngày càng phát
sinh nhiều vụ việc phức tạp và theo hướng gia tăng về số lượng.
Trong thời gian qua, công tác thực thi nhiệm vụ, quyền hạn tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án kinh doanh thương mại của Kiểm sát viên của VKSND hai cấp trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng. Thông qua
76
hoạt động kiểm sát xét xử của KSV tại phiên tòa sơ thẩm, VKSND Thành phố và
VKSND các quận, huyện đã kịp thời phát hiện các vi phạm của TAND để thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, đảm bảo việc giải quyết các vụ án kinh
doanh, thương mại được kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền, nghĩa vụ hợp pháp của các bên trong tranh chấp KDTM. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, việc
thực hiện thẩm quyền của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh,
thương mại cũng còn bộc lộ một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định, xuất
phát từ những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, trong công tác quản lý,
chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân và ý thức, trách nhiệm
cũng như năng lực chuyên môn của các Kiểm sát viên. Thực trạng nêu trên đòi hỏi
VKSND hai cấp trên địa bàn Thành phố và bản thân các cán bộ, KSV được phân
công công tác kiểm sát xét xử vụ án KDTM phải không ngừng đổi mới nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác. Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra là cần phải sớm sửa đổi,
bổ sung các quy định pháp luật về tố tụng và nội dung cho phù hợp với thực tiễn.
Công tác kiểm sát xét xử các vụ án dân sự nói chung, các vụ án KDTM nói
riêng là một trong những chức năng quan trọng của Ngành kiểm sát nhân dân. Nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự vừa là để bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững kỷ cương pháp luật, đồng thời, tạo
sự tin tưởng cho Nhân dân và nâng cao vị thế, khẳng định vị trí quan trọng của
VKSND trong bộ máy nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2008), Thông báo số 230-TB/TW kết luận của Bộ Chính trị
về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
2. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2011), “Trung tâm kinh tế thương
mại”,
3. Phùng Thanh Hà (2014, Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số
03/2012/ NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất
"Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
5. Bùi Thị Huyền (2011), Phiên tòa dân sự sơ thẩm – Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Hữu Luận (2016), Về nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, công
chức trong thực thi công vụ, Tạp chí quản lý nhà nước, số 247 (8/2016), Hà Nội.
7. Tưởng Duy Lượng (2015), “Một vài suy nghĩ về sửa đổi Bộ luật Tố tụng
dân sự”, YKienID=567>, (10/3/2019). 8. Phòng 10 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Thống kê số liệu cán bộ, công chức Phòng 10, Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Phòng 10 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Báo cáo công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính – kinh doanh thương mại – lao động và chấp hành pháp luật trong hoạt động tư pháp năm 2019, Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Quốc hội (2000, 2010), Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010 (gọi tắt là Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2000), Hà Nội. 11. Quốc hội (2004, 2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (gọi tắt là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hà Nội. 12. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội. 13. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 14. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 15. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội. 16. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội. 17. Quốc hội (2015), Bộ luật Hàng hải, Hà Nội. 18. Trần Văn Quý (2010), “Những yếu tố ảnh hưởng đển hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (176), 19. Nguyễn Vĩnh Tá (2012), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên Hà Nội. tòa dân sự sơ thẩm, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 20. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Tòa án nhân dân quận 1 (2019), Bản án số 09/2019//KDTM-ST, ngày 18/01/2017 về việc tranh chấp quyền tác giả, Thành phố Hồ Chí Minh. 22. Tòa án nhân dân quận G (2017), Bản án số 09/2017/KDTM-ST, ngày 18/01/2017 về việc tranh chấp hợp đồng thuê kho, Thành phố Hồ Chí Minh. 23. Tòa án nhân dân quận H (2019), Bản án số 20/2019/KDTM-ST, ngày 18/05/2019 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, Thành phố Hồ Chí Minh. 24. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Bản án số 854/2017/KDTM-ST, ngày 18/9/2017 về việc tranh chấp hợp đồng thuê kho, Thành phố Hồ Chí Minh. 25. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Bản án số 1207/2018/KDTM-PT ngày 04/9/2018 về việc tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ và san lấp mặt bằng, Thành phố Hồ Chí Minh. 26. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Tờ trình số 03/TTr-TANDTC về dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), ngày 09/4/2015, Hà Nội. 27. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên tịch số 02/2016/ TTLT-VKSNDTC-TANDTC của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa viện kiểm sát nhân dân và tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội. 28. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hà Nội. 29. Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, “Giới thiệu về Thành phố”, thanh-pho.aspx>, (02/01/2020). 30. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa – Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 31. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2017 (số liệu từ ngày 01/12/2016 đến ngày 30/11/2017), Thành phố Hồ Chí Minh. 32. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2018 (số liệu từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/11/2018), Thành phố Hồ Chí Minh. 33. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2019 (số liệu từ ngày 01/12/2018 đến ngày 30/11/2019), Thành phố Hồ Chí Minh. 34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), “Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại và lao động”, https://vksndtc.gov.vn/tin-chi- tiet-5365, (10/3/2020). 35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quyết định 364/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy chế về việc ban hành Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, Hà Nội. 36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Quyết định 458/QĐ-VKSTC ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy định về việc hướng dẫn hoạt động của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm, Hà Nội.