BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……………/………… ….…./…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN ĐOÀN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐĂK LĂK – 2017
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……………/……………. ….…./…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN ĐOÀN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN
ĐĂK LĂK – 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Bằng văn bản này, tác giả xin cam đoan rằng các nội dung được trình
bày trong Luận văn “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk” là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của tác giả..
Tác giả xin cam đoan là công trình nghiên cứu do chính tác giả thực
hiện. Các số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và được tác giả
chú thích rõ ràng.
Tác giả
Phạm Văn Đoàn
3
MỤC LỤC
trang
Lời cam đoan ................................................................................................ 3
Mục lục......................................................................................................... 4
Danh mục các chữ viết tắt........................................................................... 6
Danh mục các bảng..................................................................................... 7
MỞ ĐẦU. .......................................................................................... 8
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................8
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..............................................................10
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn..................................................12
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu..........................................................13
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.......... 13
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.........................................14
7. Kết cấu luận văn............................................................................... 15
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH .................. 16
1.1. Những khái niệm có liên quan ....................................................... 16
1.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ............................................................................................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ............................................................................................. 47
2.1. Tình hình và đặc điểm của khiếu kiện hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk từ năm 2012 đến 2016 ...................................................................... 47
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân
tỉnh Đăk Lăk trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ..................................... 49
4
2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk ....................... 72
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK ......................... 78
3.1. Tình hình khiếu kiện hành chính trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong những năm tới trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk .................................... 78
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ....................................... 81
KẾT LUẬN ..................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………100
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PLTTGQCVAH Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
QSDĐ Quyền sử dụng đất
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP Thành phố
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
TTHC Tố tụng hành chính
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1
Kết quả xử lý đơn khiếu kiện của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tỉnh Đăk Lăk 47
2.2
Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân dân trong tỉnh Đăk Lăk 51
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự ra đời của Toà Hành chính và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996, quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân chính thức được pháp
luật quy định. Trải qua 20 năm hình thành và phát triển với những sửa đổi, bổ
sung của hệ thống pháp luật, thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Toà án
nhân dân (TAND) các cấp ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện cho Tòa
phát huy vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
So với các vụ án hình sự, dân sự đã có từ lâu đời trong lịch sử tố tụng tư pháp
Việt Nam, việc giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta vẫn được coi là mới
mẻ cả về phương diện lý luận và cả về thực tiễn áp dụng pháp luật.
Trong điều kiện phát triền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, các khiếu kiện hành chính ngày càng gia tăng và trở nên
gay gắt. Trước tình hình đó, pháp luật Tố tụng hành chính (TTHC) ngày càng
hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho người dân trong việc thực
hiện quyền khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình, Vì lý do này, số lượng vụ án hành chính được
TAND các cấp thụ lý giải quyết hàng năm đều tăng nhiều về số lượng, tính
chất tranh chấp ngày càng phức tạp.
Mặc dù TAND các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác xét xử các
vụ án hành chính nhưng kết quả giải quyết còn nhiều hạn chế. Thực tiễn xét
xử của ngành Tòa án trong thời gian vừa qua cho thấy, thời hạn giải quyết các
vụ án hành chính thường bị kéo dài quá hạn pháp luật quy định, có những vụ
án giải quyết qua nhiều năm chưa kết thúc, nhiều vụ án xét xử thiếu khách
8
quan, chưa chính xác đã gây tâm lý phản cảm, giảm sút niềm tin trong một bộ
phận quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, ngày 8/12/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII,
Luật tố tụng hành chính năm 2015 được Quốc hội thông qua với nhiều quy
định đã được sửa đổi, bổ sung so với Luật TTHC năm 2010. Trong đó, có
nguyên tắc tranh tụng trong TTHC đã được quy định tại Mục 3 (Tranh tụng
trong phiên tòa) thuộc Chương XI (Phiên tòa sơ thẩm) nhằm bảo đảm tranh
tụng công khai, dân chủ giữa bên khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân và
bên bị kiện là cơ quan quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan quản lý hành chính. Những quy định này cần được
nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính (đặc biệt
là thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính) để đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp của đất nước.
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong những năm vừa
qua do tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã thúc
đẩy kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không
ngừng được nâng lên, một số công trình, nhà máy, xí nghiệp được xây dụng,
lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, vui chơi giải trí phát triển. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực đó thì tình hình khiếu kiện hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai, nhà ở, các lĩnh vực thuế, xây dụng, môi trường đô thị,
kinh doanh, dịch vụ du lịch... ngày càng phức tạp. Số lượng vụ án hành chính
được TAND tỉnh thụ lý giải quyết ngày càng tăng nhưng chất lượng giải
quyết các vụ án vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế dẫn đến việc các đương sự
kháng cáo, cơ quan có thẩm quyền kháng nghị, gây nên bức xúc trong quần
chúng nhân dân.
Thực trạng trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
cả về cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử
9
sơ thẩm vụ án hành chính dưới góc độ luật Hiến pháp và Hành chính nhằm
tìm ra những ưu điểm và những hạn chế, vướng mắc; rút ra những bài học
kinh nghiệm đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
tồn tại, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là rất cần thiết và khách quan,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo quan điểm của Đảng được thể hiện tại
các Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”. và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Vì vậy, tác
giả chọn nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” để làm Luận văn tốt nghiệp
Cao học Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Hành chính là cấp thiết,
khách quan trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để vụ án hành chính được xét xử kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, TAND đóng vai trò quyết định. Do
đó, vấn đề thẩm quyền của TAND trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
đã được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và những người hoạt động thực tiễn
quan tâm. Việc nghiên cứu đề tài này được thể hiện trong nhiều công trình
khoa học được công bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các Luận văn
Thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra các công
trình, bài viết sau đây:
Tác giả Nguyễn Đức Chính “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
theo Luật TTHC Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành “Lý luận và
Lịch sử Nhà nước và pháp luật”- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Luận
văn đã làm rõ một cách đầy đủ về cơ sở lý luận, nhận thức chung về thẩm
quyền của Tòa hành chính quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của
10
Tòa hành chính trước và sau khi có Luật TTHC năm 2010 đồng thời đánh giá
thực tiễn thi hành các quy định này trong hoạt động giải quyết vụ án hành
chính của Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện những quy định về thẩm quyền của Tòa hành chính. Luận văn chưa
cập nhật quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án theo Luật TTHC năm
2015. Luận văn đề cập đến thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính nói chung
cho nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính chỉ được tác giả nêu lên
ở mức độ hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của hoạt
động thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Sách “Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán hành chính Việt Nam”
(2008), Học việc Hành chính Quốc gia.
Tác giả Vũ Thị Hòa (2011), “ Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét
xử theo Luật tố tụng hành chính 2010”. Tạp chí kiểm sát, số 8, Hà Nội.
Bài viết phân tích làm rõ quy định của Luật TTHC năm 2010 về đối
tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nói
chung. Bài viết không đề cập đến cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử nói
chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cũng như thực tiễn
thực hiện thẩm quyền của Tòa án.
TS. Nguyễn Văn Thuân (2016), “Thẩm quyền của Tòa án theo Luật
TTHC năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Bài viết đề cập đến sự cần
thiết về việc ban hành Luật TTHC năm 2015 đồng thời nêu lên một số điểm
mới về thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết các vụ án hành chính như
theo loại việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án ... Bài viết không đề cập đến
những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính của TAND.
Nhìn chung, những công trình, tài liệu trên đây đã tập trung nghiên cứu
các quy định chung về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án theo
11
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 và
Luật TTHC năm 2010 mà chưa đề cập đến quy định của Luật TTHC năm
2015 và chưa nghiên cứu một cách hệ thống về hoạt động thực hiện thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND. Vì vậy, việc lựa chọn đề
tài “Thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả là hoàn toàn mới, chưa có một công
trình nào nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả mong muốn làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thực hiện thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk, từ đó đưa ra
những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm
quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nhằm đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện
thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính tại tỉnh Đăk
Lăk, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm
quyền của TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra và thực hiện những nhiệm vụ
như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để xác định
những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu;
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ các đặc điểm của thẩm quyền của
TAND trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính.
12
- Xây dựng một số khái niệm, nội dung của thẩm quyền của TAND
trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính;
- Khảo sát, thống kê, đánh giá thực trạng thực hiện Thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
giai đoạn năm 2012 đến năm 2016;
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo những yếu tố ảnh hưởng và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện “Thẩm quyền của TAND
trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện Thẩm quyền
của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các hoạt động thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của
TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục xét xử sơ thẩm.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, do TAND tỉnh Đắk Lắk
thực hiện.
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thục hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật Nhà nước về thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan để làm
rõ tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về thẩm quyền của
13
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Từ đó, xác định những nội
dung nào của các công trình khoa học trước chưa đề cập đến để tiếp tục
nghiên cửu, bổ sung hoàn thiện về lý luận.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để thống kê
và phân tích tài liệu, báo cáo tổng kết thực hiện thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong thực tiễn nhằm tổng hợp rút ra những
ưu điềm, hạn chế, vướng mắc.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để tiến hành nghiên
cứu, phân tích hoạt động thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính từ một số vụ án cụ thể để tìm ra những ưu điểm và
khuyết điểm, thiếu sót mang tính phổ biến. Từ đó rút ra những nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến các vi phạm của TAND khi thực hiện thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
hoàn thiện về lý luận.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia được sử dụng để tọa đàm, trao đổi
với các chuyên gia nhằm tìm hiểu các kinh nghiệm trong hoạt động thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ
tục xét xử sơ thẩm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vãn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý
chuyên ngành luật hành chính; làm rõ nội dung thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động xét xử của TAND.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thư ký tòa án. Một số giải
14
pháp của luận văn là tài liệu để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham
khảo khi sửa đổi, bổ sung Luật TTHC hiện hành của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 03 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét
xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Toàn án nhân dân tỉnh
Đăk Lăk trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Toàn
án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk.
15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng “thẩm quyền”có nghĩa là “quyền
xem xét, quyết định” [ 21].
Theo Từ điển Luật học, “thẩm quyền” là “Quyền chính thức được xem
xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề.
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho
cơ quan Nhà nước, người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ".
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu “thẩm quyền” là quyền do pháp luật
quy định một chủ thể nhất định (cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức) được xem xét, cân nhắc, quyết định một vấn đề; thẩm
quyền là khả năng được thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một
phạm vi theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động bình thường, không chồng
chéo, dẫm đạp lên nhau, mỗi cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước có một
chức năng, nhiệm vụ và những quyền hạn riêng biệt. Thẩm quyền của mỗi cơ
quan, tổ chức, cá nhân được xác định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành
chính, cấp hành chính để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của họ. Phạm
vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước được gọi là
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Thẩm quyền chính là thuộc tính tất
yếu của cơ quan quyền lực Nhà nước là tổng thể quyền và nghĩa vụ và là cơ
sở để phân biệt cơ quan Nhà nước này với cơ quan Nhà nước khác.
16
Như vậy, “thẩm quyền” là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ phạm vi,
giới hạn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của một chủ thể trong việc thực
thi quyền lực Nhà nước do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
Là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, Tòa án có chức năng,
nhiệm vụ riêng biệt. Theo Hiến pháp năm 2013, “TAND là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, Tòa án “bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [12].
Với chức năng xét xử, Tòa án có thẩm quyền và trách nhiệm xem xét
giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, nhân danh Nhà nước ra các
phán quyết nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội. Thẩm quyền xét xử là quyền
chuyên biệt được trao riêng cho cơ quan Tòa án, không phân biệt cấp Tòa án
hay vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, mỗi Tòa án lại được phân định theo cấp, theo
khu vực hành chính, theo vụ việc (ví dụ: thẩm quyền xét xử của Tòa sơ thẩm).
Vậy, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” là “quyền xem xét và quyết định
trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật” .
Thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành chính là phạm
vi thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, được pháp luật TTHC quy định để
giải quyết các tranh chấp hành chính bằng thủ tục TTHC.
1.1.3. Khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử sơ thẩm vụ án hành chính”
1.1.3.1. Khái niệm vụ án hành chính
“Vụ án” nói chung là một thuật ngữ dùng để chỉ một vụ việc hình sự,
dân sự, hành chính được đưa ra giải quyết tại Tòa án (TA) hoặc cơ quan
Trọng tài. Theo Từ điển Luật học, “vụ án” là “Một vụ việc có dấu hiệu trái
pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật
được đưa ra TA hoặc cơ quan Trọng tài giải quyết [21].
17
Theo Luật Tổ chức TAND, TA xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân - gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính và những việc
khác theo quy định của pháp luật” [ 13].
Khiếu kiện hành chính là biểu hiện của tranh chấp hành chính, phát
sinh trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước giữa một bên là cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức (được gọi là chủ
thể quản lý) và một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân (gọi là đối tượng quản lý
hành chính nhà nước) khi các chủ thể này tham gia vào quan hệ hành chính
nhà nước.
Khiếu kiện hành chính là quyền và là phương thức để bảo vệ quyền, lợi
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Khi có căn cứ cho rằng quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định xử lý kỷ luật
buộc thôi việc công chức…là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của mình thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn giữa việc
khiếu nại đến cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính có thẩm quyền đề nghị xem xét lại quyết định, hành vi đó hoặc khởi
kiện yêu cầu TA giải quyết. Nói cách khác, khiếu kiện hành chính là hành vi
tự vệ và tự định đoạt của đối tượng quản lý hành chính nhà nước khi có sự
xâm phạm của việc thực thi quyền hành pháp.
Việc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính đã làm phát sinh vụ án hành chính tại TA. Nếu việc khởi kiện
tuân thủ đúng điều kiện, đúng thủ tục do pháp luật TTHC quy định thì TA có
thẩm quyền phải có trách nhiệm thụ lý, giải quyết vụ án hành chính để đảm
bảo quyền, lợi hợp pháp của đương sự. Để làm phát sinh vụ án hành chính
phải hội đủ các điều kiện: (1) Có việc khởi kiện (theo quy định của Luật
TTHC) và (2) được TAND có thẩm quyền thụ lý vụ án.
18
Từ những vấn đề trên, có thể khái niệm vụ án hành chính là “vụ án phát
sinh tại TA có thẩm quyền do có cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để yêu
cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho mình và được TAND thụ lý để
giải quyết”.
1.1.3.2. Khái niệm xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
Theo Từ điển Luật học, “xét xử” là “hoạt động xem xét, đánh giá bản
chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”. Xét xử sơ
thẩm” là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một TA có thẩm quyền” [21].
Khiến kiện hành chính mang là hành vi tự vệ và tự định đoạt của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trước quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ
cho rằng trái pháp luật. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lê nin, khiếu nại
hành chính là mâu thuẫn cần được giải quyết để duy trì sự ổn định xã hội và là
động lực cho sự phát triển. Giải quyết khiếu kiện hành chính giúp cho cơ quan
nhà nước nhận ra và khắc phục những thiếu sót, bất cập nhằm nâng cao năng
lực quản lý của bộ máy hành chính, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy,
thẩm quyền và trách nhiệm của TAND là phải giải quyết khiếu kiện hành
chính một cách khách quan, công bằng.
Trình tự giải quyết vụ án hành chính trải qua các bước: Nhận đơn khởi
kiện, thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tổ chức đối thoại, giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp sơ thẩm, kháng cáo, kháng nghị và giải quyết vụ án theo thủ tục
phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm bảo đảm cho các bản án,
quyết định của TA được xem xét một cách thận trọng để vụ án được giải
quyết khách quan, công bằng. Trong đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục xét xử đầu
19
tiên, không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án. Bản án, quyết định hành chính sơ thẩm không phải là phán quyết cuối
cùng vì đương sự có quyền kháng cáo, VKSND có quyền kháng nghị đối với
bản án, quyết định hành chính sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu việc
giải quyết vụ án hành chính được khách quan, công bằng tại cấp sơ thẩm sẽ
củng cố lòng tin của nhân dân đối với cơ quan xét xử; việc giải quyết vụ án sẽ
không bị kéo dài do việc kháng cáo, kháng nghị, tiết kiệm được thời gian,
công sức, tiền bạc của nhà nước và của đương sự.
Vì vậy, “xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm” là thủ tục giải
quyết vụ án đầu tiên, trong đó TA áp dụng những trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định để xem xét giải quyết các yêu cầu của đương sự bằng một bản
án hoặc quyết định về việc giải quyết vụ án.
1.1.4. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính
Khi có đơn khiếu kiện hành chính hợp pháp, TA cấp sơ thẩm có thẩm
quyền có trách nhiệm thụ lý vụ án và tiến hành các biện pháp cần thiết theo
đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để giải quyết vụ án hành chính.
Dựa trên những tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và do TA thu thập
được trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán phải xem xét, đánh giá tính
căn cứ, tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính để
ra phán quyết chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự.
Như vậy, thẩm quyền của TA trong việc xét xử các vụ án hành chính là
quyền hạn và nghĩa vụ của TA trong việc thụ lý, giải quyết các vụ án hành
chính. TA có thẩm quyền nhận đơn khởi kiện, thụ lý, lập hồ sơ để giải quyết
vụ án, ra các bản án, quyết định. Trên cơ sở thực hiện những quy định của
pháp luật TTHC và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, TA được
nhân danh quyền lực của nhà nước xem xét, ra các phán quyết để giải quyết
20
vụ án hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân và nâng
cao tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước.
Khi giải quyết vụ án hành chính, TA có thẩm quyền xem xét tính tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện sau đây:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015, quyết định
hành chính bị khởi kiện là “văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành; quyết định về
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính; được áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối tượng cụ thể; quyết định này làm phát sinh, thay đổi,
hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [15].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 thì hành vi
hành chính bị khởi kiện là “hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan,
tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; hành vi đó
làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân” [15].
1.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính
Nếu hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thành lập Tòa Hành chính và
trao quyền xét xử vụ án hành chính cho Tòa Hành chính thì hệ thống pháp
luật Anh – Mỹ lại không thành lập Tòa hành chính độc lập mà việc xét xử vụ
án hành chính vẫn do TA thường (TA tư pháp giải quyết). Cùng quan điểm
với các nước theo giải pháp trung gian (Nhật Bản, Trung Quốc…), Tòa Hành
21
chính của Việt Nam nằm trong hệ thống TAND các cấp, được trao quyền xét
xử các vụ án hành chính và được phân cấp từ cấp huyện, cấp tỉnh, cấp cao và
cấp tối cao. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TA Việt Nam được xem
xét với các nội dung: Thẩm quyền theo loại việc (những khiếu kiện hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TA), thẩm quyền theo cấp TA, xác
định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khiếu kiện.
Bởi quản lý nhà nước là nhằm duy trì trật tự xã hội để bảo đảm lợi ích
chung của xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Do đó, nó được
thực hiện theo một hệ thống theo thứ bậc chặt chẽ, thông suốt từ trung ương
đến địa phương. Trong đó, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện chỉ thị,
mệnh lệnh của cấp trên và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Mỗi
cư quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi trách nhiệm,
thẩm quyền được giao. Do vậy, khiếu kiện hành chính cũng phải được thực
hiện từ dưới lên trên theo thứ bậc tương ứng nhằm bảo đảm cho TA hành
chính hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thẩm quyền theo cấp TA được quy
định một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng chéo hoặc tranh chấp
thẩm quyết giữa các TA với nhau, tạo điều kiện cho TA giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn các vụ án hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ
quan xét xử. Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của TA có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết
của đội ngũ cán bộ TA. Trên cơ sở đó có kế hoạch đáp ứng nhằm bảo đảm
cho TA thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.2.1. Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Luật TTHC năm 2015 quy định những khiếu kiện hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của TA là cơ sở pháp lý để TA xác định trách nhiệm
giải quyết của mỗi cấp TA đối với từng khiếu kiện hành chính cụ thể. TA có
căn cứ thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính phát sinh trong xã hội
22
thuộc thẩm quyền của mình. Quy định này tránh được sự chồng chéo trong
việc thực hiện nhiệm vụ, tránh được việc chuyển đi chuyển lại giữa TA với
các cơ quan nhà nước làm kéo dài thời gian giải quyết. Quy định những khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của TA cũng bảo đảm cho việc thực hiện
quyền tiếp cận công lý của công dân. Từ quy định của pháp luật, đương sự có
căn cứ xác định những khiếu kiện hành chính được TA giải quyết và Tòa nào
phải giải quyết khiếu kiện để gửi đơn khởi kiện. Quy định này còn giúp
đương sự được thuận lợi trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
khi tham gia tố tụng, tiết kiệm được thời gian và chi phí không cần thiết.
Nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương “Mở rộng thẩm quyền xét xử của
Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính” đã được quán triệt tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” và để bảo đảm sự thống nhất của pháp luật (Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015); đồng thời bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật TTHC năm 2015 quy định khiếu kiện
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND gồm:
- “Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức
vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh.
- Khiếu kiện danh sách cử tri;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các
quyết định, hành vi sau đây:
+ Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo
quy định của pháp luật;
23
+ Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử
lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng và quyết định
hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức” [15].
Quy định về các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND theo phương pháp loại trừ như đã nêu trên đây là sự kế thừa và
phát triển các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
(TTGQCVAHC) năm 1996 và Luật TTHC năm 2010. Quy định này tạo sự
thuận lợi cho đương sự trong việc thực hiện quyền khiếu kiện, bảo đảm cho
TAND bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đồng thời đảm
bảo tính khả thi và tạo nên sức sống lâu bền cho Luật TTHC năm 2015.
1.2.2. Thẩm quyền theo cấp của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính
1.2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thẩm quyền của TA cấp huyện trong việc xét xử vụ án hành chính dựa
trên dấu hiệu về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện
hành vi hành chính. TA có thẩm quyền là TA có cùng phạm vi địa giới hành
chính với người bị kiện. Theo quy định tại Điều 31 Luật TTHC năm 2015,
TA cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, gồm:
“Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với TA hoặc của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính,
hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp
huyện”. Các “khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với TA đối với công chức thuộc thẩm quyền
24
quản lý của cơ quan, tổ chức đó và khiếu kiện danh sách cử tri của
cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với TA"[15].
Quy định này là cần thiết bảo đảm cho Luật TTHC phù hợp với các
quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 và bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết khiếu kiện hành chính.
1.2.2.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tính trong việc xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính
Về cơ bản, Luật TTHC năm 2015 quy định TAND cấp tỉnh có thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm đối với các khiếu kiện không thuộc thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm của TA cấp huyện, đối với những khiếu
kiện có người bị kiện ở trung ương thì TA có thẩm quyền là TA có cùng
phạm vi địa giới hành chính với người khởi kiện. Ngoài ra, TA cấp tỉnh có thể
lấy một số khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của TA
cấp huyện lên để giải quyết. Theo quy định tại Điều 32 Luật TTHC năm 2015
thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với
những khiếu kiện hành chính sau:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch
nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, TAND tối cao,
VKSND tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc TA nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính.
25
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
cấp tỉnh trở lên và quyết định hành chính, hành vi hành chính của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc TA nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND
cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới
hành chính với TA. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở
nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà
người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt
Nam thì TA có thẩm quyền là TAND Thành phố (TP) Hà Nội hoặc
TAND TP Hồ Chí Minh.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành Trung ương mà người khởi
kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc
trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với TA.
- Trường hợp cần thiết, TA cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TA cấp huyện [15].
26
Luật TTHC năm 2015 quy định cho TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện nhằm khắc phục tồn
tại, bất cập từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Đảng, Nhà
nước và nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính theo tinh
thần cải cách tư pháp, nhanh chóng lập lại trật tự trong quản lý hành chính
nhà nước, kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trên địa bàn hành chính cấp huyện.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định hợp lý về
phân cấp thẩm quyền xét xử hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Pháp lệnh
TTGQCVAHC năm 1996 và Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015 đã
khắc phục một số khó khăn, bất cập cho cơ quan Tòa án trong việc giải quyết
các vụ án hành chính. Căn cứ vào dấu hiệu về địa giới hành chính của người
bị kiện và dấu hiệu về nơi ban hành quyết định hay thực hiện hành vi bị khiếu
kiện để quy định phạm vi giải quyết các khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử
hành chính sơ thẩm của mỗi Tòa án trong cùng một cấp cũng tạo thuận lợi
cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng trong
vụ án hành chính.
1.2.2.3. Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại,
vừa có đơn khiếu kiện
“Khiếu nại hành chính” và “khởi kiện hành chính” được phát sinh trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. “Khiếu nại” và “khởi kiện hành chính”
đều là hành vi tự vệ và tự định đoạt do đối tượng quản lý hành chính nhà
nước thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại
của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm
quyền trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, “khiếu nại
hành chính” và “khởi kiện hành chính” là hai vấn đề khác biệt. “Khiếu nại
27
hành chính” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân “đề nghị” cơ quan hành chính
(hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính) xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính làm xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của họ.
‘Khởi kiện hành chính” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân đưa vụ án ra tranh
chấp tại TA, yêu cầu TA bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình khỏi sự xâm
hại của quyết định hành chính, hành vi hành chính bằng thủ tục TTHC.
Nhằm tôn trọng quyền của đương sự và tránh sự chồng chéo trong việc
thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, pháp luật TTHC
cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước được lựa chọn “khiếu nại”
hoặc “khởi kiện”đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính làm thiệt
hại đến quyền lợi hợp pháp của họ. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã
khiếu nại đến cơ quan hành chính (hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết
nhưng người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại thì họ vẫn
có quyền khởi kiện hành chính. Trường hợp họ vừa có đơn khiếu nại đến cơ
quan hành chính có thẩm quyền, vừa có đơn khởi kiện đến TA thì thẩm quyền
giải quyết theo sự lựa chọn (bằng văn bản) của người khởi kiện. Nếu người
khởi kiện lựa chọn TA giải quyết thì TA thụ lý giải quyết vụ án đồng thời làm
văn bản thông báo, yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho TA. Nếu người khởi kiện lựa chọn
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết hoặc không lựa chọn cơ
quan giải quyết thì TA trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho
người khởi kiện. Quy định trên thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự đồng thời là bước đổi mới căn
bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải
cách tư pháp, tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng.
28
1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý xét xử sơ
thẩm chuyển, nhập và tách vụ án hành chính
1.2.3.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý vụ kiện
hành chính
Thụ lý vụ án hành chính là hoạt động của TA trong việc nhận đơn khởi
kiện, vào sổ thụ lý để chính thức xác định trách nhiệm của TA trong việc giải
quyết vụ án. Đây là công việc đầu tiên và rất cần thiết nhằm đảm bảo cho vụ
án hành chính được giải quyết kịp thời và đúng pháp luật.
1.3.1.1. Nhận và xử lý đơn khởi kiện
Nếu khởi kiện vụ án hành chính là sự bắt đầu của một quá trình tố tụng
thì đơn khởi kiện là căn cứ đầu tiên để làm phát sinh vụ án hành chính. TA
chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi đương sự có đơn khởi kiện hợp
pháp, đáp ứng được những điều kiện cần thiết. Đơn khởi kiện hợp pháp phải
làm trong thời hiệu khởi kiện do pháp luật quy định và phải do người khởi
kiện viết (hoặc nhờ người khác viết), người khởi kiện phải ký tên, điểm chỉ.
Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ
người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi
kiện” trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại diện hợp pháp của cá
nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm
chỉ1. Đơn khởi kiện hợp pháp phải có đủ các nội dung quy định tại Điều 118
Luật TTHC năm 2015. Kèm theo đơn khởi kiện, phải có tài liệu, chứng cứ
chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Nếu
29
vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ các tài liệu,
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện (Trừ tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm), người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ
sung theo yêu cầu của TA trong quá trình giải quyết vụ án.
Đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại TA hoặc gửi qua dịch vụ bưu
chính hoặc gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của TA. TA nhận đơn
khởi kiện phải cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện (nếu
nhận đơn nộp trực tiếp) hoặc trả lời qua thư điện tử (nếu nhận đơn trực tuyến).
Trường hợp nhận đơn qua bưu điện thì TA phải gửi thông báo nhận đơn cho
người khởi kiện trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện,
Chánh án TA phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét
xử lý đơn kiện. Nếu đơn kiện chưa có đủ nội dung quy định tại Điều 118 Luật
TTHC, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nếu
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TA khác thì Thẩm phán phải chuyển
đơn khởi kiện cho TA có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TA khác. Nếu đơn khởi kiện thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật TTHC thì
Thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn kiện phải gửi ngay
cho người khởi kiện và VKSND để đương sự thực hiện quyền khiếu nại,
VKSND thực hiện quyền kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp
nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án TA đã
trả lại đơn khởi kiện phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết
khiếu nại, kiến nghị.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm
phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp
30
xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện VKSND
cùng cấp và đương sự có khiếu nại. Trường hợp người khởi kiện, Kiểm sát
viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Sau khi xem xét tài
liệu, chứng cứ liên quan đến việc trả lại đơn kiện, ý kiến của Kiểm sát viên và
khiếu nại của người khởi kiện tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các
quyết định: Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc nhận lại đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
1.3.1.2. Thụ lý vụ án hành chính
Việc thụ lý vụ án hành chính phải đáp ứng các điều kiện về thủ tục khởi
kiện, quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu khởi kiện, đối tượng
bị kiện, người bị kiện.
Về quyền khởi kiện: Theo quy định tại Điều 115 Luật TTHC năm 2015
[15], người có quyền khởi kiện hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong trường
hợp quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
quyết định hành chính, hành vi hành chính thì họ không có lý do để khởi kiện.
Cá nhân khởi kiện phải có đủ năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi
TTHC. Cơ quan, tổ chức khởi kiện phải thông qua người đại diện theo quy
định của pháp luật. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự thông qua người đại diện theo
pháp luật.
Về đối tượng khởi kiện: Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ,
công chức; quyết định về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Hành vi hành chính bị khiếu kiện phải
là hành vi do chủ thể quản lý hành chính tiến hành khi thực hiện nhiệm vụ
31
công vụ; quyết định hành chính bị khiếu kiện phải là quyết định trực tiếp gây
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Những quyết
định hành chính không trực tiếp gây hậu quả bất lợi cho người khởi kiện hoặc
những quyết định người khởi kiện không được quyền khởi kiện thì Tòa án
không thể thụ lý việc khởi kiện đó.
Về người bị kiện: Để xác định bên bị kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ
chức, Thẩm phán phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền ban
hành quyết định hành chính hoặc thẩm quyền thực hiện hành vi hành chính bị
khiếu kiện. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành
chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Để xác định đúng người bị kiện khi
nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào quy định của pháp
luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Trường hợp có nhiều luật cùng quy
định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính
về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định người bị kiện khi phải căn cứ vào
quy định của pháp luật chuyên ngành;
Người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 [15]
là người có chức vụ, chức danh cụ thể có thẩm quyền ra quyết định hành
chính hoặc có hành vi hành chính. Trường hợp quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính do một người cụ thể ký hoặc thực hiện theo ủy quyền của
một người có chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định hành chính,
hành vi hành chính đó vẫn là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh.
Về thẩm quyền giải quyết của TA: Để việc thụ lý vụ án có căn cứ, đúng
pháp luật, khi nhận đơn khởi kiện, TA phải xác định được thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính. Việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án căn cứ
vào quy định tại các Điều 30, 31, 32 Luật TTHC năm 2015 như đã nêu ở
phần trên.
32
Về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính quy định
tại Điều 116 Luật TTHC năm 2015, được xác định theo đối tượng khởi kiện.
Nếu đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc thì thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày nhận
được quyết định hoặc biết được hành vi hành chính. Trường hợp đương sự
khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như
sau:
+ 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định
của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết
và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại, [15].
Khi xác định đơn kiện đủ điều kiện thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án
theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ khi thụ lý vụ án, Thẩm phán phải làm văn bản thông báo thụ lý
vụ án cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết vụ án và VKSND cùng cấp đồng thời công bố trên Cổng thông tin điện
tử của TA (nếu có).
1.2.3.2. Thẩm quyền của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính
Theo Điều 130 Luật TTHC năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ
án hành chính, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước
ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
“1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
33
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ kiện quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định giải quyết vụ việc cạnh trạnh.
3. Đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án
TA có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần,
nhưng không quá 02 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1
Điều này và không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này” [15].
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công thụ lý, giải
quyết vụ án có thẩm quyền sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án hành chính
Hồ sơ vụ án hành chính bao gồm: Hồ sơ khởi kiện, các tài liệu chứng
cứ và tài liệu về áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong
đó, hồ sơ khởi kiện bao gồm đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn,
văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kiện; thụ lý vụ án và thông báo thụ lý
vụ án; văn bản ghi ý kiến của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tài liệu, chứng cứ do đương sự
cung cấp và tài liệu chứng cứ do Thẩm phán thu thập gồm: Biên bản ghi lời
khai, Quyết định thu thập chứng cứ, biên bản về việc thu thập chứng cứ, tài
liệu về kết quả thu thập chứng cứ. Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao
nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.
b) Thu thập chứng cứ
Chứng cứ trong TTHC được thu thập công khai. Đương sự có quyền
được biết, được tiếp cận, sao chép chứng cứ do TA và các đương sự khác thu
thập. Thủ tục thu thập chứng cứ được quy định cụ thể tại các Điều 83 đến
Điều 93 Luật TTHC. Đương sự có quyền áp dụng các biện pháp do pháp luật
quy định để thu thập chứng cứ hoặc làm đơn yêu cầu TA thu thập tài liệu,
chứng cứ nếu không thể thu thập được; yêu cầu TA ra quyết định trưng cầu
34
giám định, định giá tài sản... TA có thể tiến hành áp dụng một hoặc một số
biện pháp thu thập chứng cứ sau:
- Lấy lời khai đương sự: Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự
khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa rõ ràng, đầy đủ
hoặc đương sự không thể tự viết được bản khai. Thẩm phán có quyền lấy lời
khai của đương sự; có quyền tự mình hoặc để Thư ký TA giúp việc ghi lại lời
khai của đương sự vào biên bản.
- Lấy lời khai người làm chứng: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi
xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng.
Việc lấy lời khai của người làm chứng được thực hiện trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử hoặc tại phiên tòa.
- Đối chất: Là biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng nhằm giải quyết
các vấn đề mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án. Chỉ khi có yêu cầu của đương sự
hoặc xét thấy có sự mâu thuẫn trong các lời khai của các đương sự, người làm
chứng thì Thẩm phán mới tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau,
giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với
nhau. Biên bản đối chất phải thể hiện đầy đủ nội dung đối chất, có đầy đủ chữ
ký của những người tham gia đối chất.
- Xem xét, thẩm định tại chỗ: Việc xem xét, thẩm định tại chỗ do Thẩm
phán tiến hành để nắm đầy đủ, rõ ràng các vấn đề mà đương sự trình bày đồng
thời kiểm tra lại các chứng cứ trong hồ sơ, từ đó đưa ra các quyết định đúng
đắn. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải có mặt của đại diện UBND cấp xã
hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định; đương sự
được báo và được chứng kiến việc xem xét, thẩm định.
- Trưng cầu giám định: Thẩm phán thực hiện quyền này khi có yêu cầu
của đương sự hoặc khi Thẩm phán thấy cần thiết. Quyết định trưng cầu giám
định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định,
35
những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người
giám định. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc
có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm
phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
- Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: Thẩm phán ra quyết định định
giá, thẩm định giá tài sản khi đương sự có yêu cầu hoặc khi đương sự không
thỏa thuận được về giá hay lựa chọn tổ chức thẩm định giá; hoặc khi có căn
cứ cho rằng giá do đương sự thỏa thuận với tổ chức thẩm định giá là không
chính xác để mưu lợi bất chính đối với tài sản Nhà nước hoặc trốn tránh trách
nhiệm bồi thường. Hội đồng định giá tài sản gồm đại diện cơ quan tài chính là
Chủ tịch Hội đồng định giá và các thành viên là đại diện các cơ quan chuyên
môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ
các thành viên của Hội đồng. Trường hợp cần thiết, đại diện UBND cấp xã
nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến. Các đương sự được thông báo
trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu
ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc
Hội đồng định giá.
- Ủy thác thu thập chứng cứ: TA ra quyết định ủy thác cho TA khác
hoặc cơ quan có thẩm quyền thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ
án hành chính. TA được ủy thác phải thực hiện công việc cụ thể được ủy thác
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo
kết quả bằng văn bản cho TA đã ra quyết định ủy thác; trường hợp không
thực hiện được phải thông báo bằng văn bản cho TA đã ra quyết định ủy thác
và nêu rõ lý do.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ: Khi có yêu cầu
của TA, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách
nhiệm cung cấp đầy đủ, chứng cứ theo yêu cầu của TA trong thời hạn 15
36
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp
thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
- Về thời gian giao nộp chứng cứ: Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã
được giao nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Thẩm phán ấn định thời hạn
đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm. Nếu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ mà TA yêu cầu không
đúng thời hạn quy định thì phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp.
Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó TA không yêu cầu đương sự phải giao
nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình
giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp và trình
bày tại phiên tòa sơ thẩm.
c) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do TA thực hiện trước khi thụ lý
vụ án và trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nhằm giải quyết yêu cầu
cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh
gây thiệt hại không thể khắc phục được, bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc
việc thi hành án. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Thẩm phán xem xét, quyết định; tại phiên
tòa thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử.
Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ chứng minh sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu phải có văn bản thông
báo, nêu rõ lý do không chấp nhận cho người yêu cầu biết.
37
Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách
nhiệm về yêu cầu của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật. TA không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không
có lý do chính đáng hoặc áp dụng không đúng biện pháp do đương sự yêu cầu
hoặc không đúng thời hạn pháp luật quy định mà gây thiệt hại cho người yêu
cầu áp dụng hoặc thiệt hại cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Chánh án TA phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với
quyết định khẩn cấp tạm thời trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được khiếu nại, kiến nghị.
d) Quy định về thủ tục đối thoại
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, TA tiến hành đối thoại để các
đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án
không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án
xét xử theo thủ tục rút gọn. Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối
thoại được, Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.
Phiên họp được tiến hành dưới sự chủ trì của Thẩm phán chủ trì phiên
họp. Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi
kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn
khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người
khởi kiện. Nếu các đương sự không thay đổi yêu cầu khởi kiện, hoặc ý kiến
đối với yêu cầu khởi kiện thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên
tòa xét xử vụ án.
1.2.3.3 Thẩm quyền của Tòa án trong chuyển, nhập hoặc tách vụ án
hành chính
a) Chuyển vụ án cho Tòa án khác và giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền.
38
- Việc chuyển vụ án cho Tòa án khác trong trường hợp Tòa án đã thụ
lý vụ án hành chính nhưng sau đó phát hiện đây là vụ án khác hoặc thuộc
thẩm quyền của Tòa án khác đã được hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết số
02/2011/NQ-HĐTP. Các nội dung này đã được luật hóa tại các khoản 1, 2, 3,
4 và 5 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, cụ thể là:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm,
Tòa án xác định vụ án đó không phải là vụ án hành chính mà là vụ án dân sự
và việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án giải quyết
vụ án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời
thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà
có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác
thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành chính ra quyết định
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý, đồng thời
thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà
có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của
Tòa án khác thì Tòa án phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định
đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.
+ Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ án thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm
lại vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ
án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 thì Tòa án xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy bản
39
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của
pháp luật.
- Để thống nhất với các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 về cơ cấu, tổ chức và thẩm quyền của các Tòa án, khoản 7 Điều 34
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung việc giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án, cụ thể là:
+ Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương;
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau; giữa các Tòa án cấp tỉnh thuộc
phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao;
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương khác nhau, Tòa án cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ
của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau.
b) Nhập hoặc tách vụ án hành chính
Để tránh việc áp dụng tùy tiện và phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở
hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, Điều 35 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 [15] đã quy định cụ thể việc nhập hoặc tách vụ án
hành chính là:
- Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đã thụ lý riêng biệt thành
một vụ án để giải quyết bằng một vụ án hành chính khi có đủ các điều kiện
sau đây:
40
+ Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ có một người khởi kiện đối với nhiều
quyết định hành chính, hành vi hành chính đều do một cơ quan, tổ chức hoặc
một người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành, thực hiện và có
mối liên hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý riêng biệt có nhiều người
khởi kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính;
+ Việc nhập hai hay nhiều vụ án hành chính thành một vụ án hành
chính phải bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để và không
vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
- Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều
vụ án hành chính khác nhau để giải quyết trong trường hợp quyết định hành
chính bị khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ
của những người khởi kiện đó không liên quan với nhau.
Tóm lại, so với Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Những sửa đổi, bổ
sung này đã cụ thể hóa được các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công
tác giải quyết, xét xử các khiếu kiện hành chính, bảo đảm cho Tòa án thực
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm trình tự và thủ tục
tố tụng hành chính có tính khả thi, minh bạch, công khai, công bằng và thuận
lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
1.2.3.4. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau khi
kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu vụ án không thuộc trường hợp bị tạm
hoãn, tạm đình chỉ, đỉnh chỉ. Mọi hành vi tố tụng trước đó đều nhằm phục vụ
cho hoạt động xét xử nếu vụ án được đưa ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm.
41
Thẩm phán phải bảo đảm cho phiên tòa sơ thẩm được tiến hành đúng
thời gian, địa điểm ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng phải có mặt đầy đủ trừ trường hợp được vắng mặt
do pháp luật quy định. Sau khi giải quyết việc rút, thay đổi, bổ sung yêu càu
khởi kiện, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng
cứ và đối thoại, việc hỏi tại phiên toa sẽ được bắt đầu theo thứ tự: Đương sự,
người bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử. Kiểm sát
viên. Nội dung hỏi và tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ tính hợp pháp, tính
căn cứ của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trên cớ sở đó, Hội
đồng xét xử xem xét để ra phán quyết chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, bác yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính trái pháp luật; tuyên bố hành vi hành chính là đúng (hoặc trái
pháp luật), buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; buộc cơ
quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành
chính trái pháp luật gây ra…Hội đồng xét xử cũng có quyền tuyên hủy quyết
định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có) và kiến nghị cách thức xử lý
đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy. Việc bác yêu cầu khởi
kiện đồng nghĩa với việc Tòa công nhận tính hợp pháp của quyết định hành
chính (hành vi hành chính) của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu xác
định quyết định hành chính (hành vi hành chính) là trái pháp luật, Hội đồng
xét xử sẽ tuyên chấp nhận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu khởi kiện. Nếu
không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm, kết quả
phiên tòa sơ thẩm sẽ làm kết thúc việc giải quyết vụ án.
42
Quy định trên bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định hành chính của
TA được thuận lợi, việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA cũng được dễ dàng hơn.
1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân
dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng nhằm khôi phục và ổn
định trật tự xã hội và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực. Để vụ án hành chính được xét xử khách quan, công
bằng, Luật TTHC năm 2015 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 (khoản 1
Điều 9) quy định các nguyên tắc như “TA xét xử kịp thời, công bằng, công
khai”, “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”.
Trên thực tế, hoạt động xét xử của TA còn chịu sự tác động, ảnh hưởng
của các yếu tố như: Sự hoàn thiện của pháp luật; năng lực, trình độ, ý thức
của Hội đồng xét xử; ý thức của các chủ thể có liên quan và cơ sở vật chất cần
thiết đến hoạt động xét xử.
Thứ nhất, sự hoàn thiện của pháp luật
Đây là yếu tố cơ bản, quan trọng, mang tỉnh chỉ đạo, định hướng trong
hoạt động xét xử vụ án hành chính. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện
sẽ là chỗ dựa tin cậy cho hoạt động xét xử, là sự bảo đảm quan trọng cho việc
áp dụng thống nhất pháp luật; việc xét xử được khách quan, công bằng, hạn
chế được tình trạng giải quyết án kéo dài, qua nhiều cấp hoặc án bị hủy, sửa
nhiều lần. Nếu quy định của pháp luật chưa rõ ràng, đầy đủ dẫn tới việc hiểu
và áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Thứ hai, năng lực, trình độ, ý thức của Hội đồng xét xử
43
Việc giải quyết vụ án hành chính cũng chịu tác động rất lớn về năng
lực, trình độ và ý thức của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA. Nếu trong quá
trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử thực sự có trình độ, năng lực và đạo đức
nghề nghiệp thì phán quyết của Tòa sẽ thực sự khách quan, vô tư. Trường hợp
Hội đồng xét xử vì năng lực hạn chế, không làm rõ được sự thật khách quan
của vụ án, áp dụng pháp luật không chính xác, cẩu thả trong thao tác nghiệp
vụ hoặc thiên vị cho một bên đương sự dẫn tới sự sai lệch trong việc lập hồ
sơ, giải quyết vụ án không chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của
đương sự, làm mất lòng tin của nhân dân.
Thứ ba, ý thức của các chủ thể có liên quan
Các chủ thể như đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch… cũng có tác động
không nhỏ đến hoạt động xét xử vụ án hành chính. Nếu các chủ thể này thực
sự phối hợp với TA, thực hiện đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của pháp luật, cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của
Thẩm phán… thì việc giải quyết vụ án được thuận lợi góp phần bảo đảm cho
vụ án được giải quyết chính xác.
Trường hợp các chủ thể này thiếu sự phối hợp với TA trong việc giải
quyết vụ án như cố tình giấu địa chỉ, không cung cấp chứng cứ, không có mặt
theo giấy triệu tập; làm chứng gian dối, giám định không đúng sự thật hoặc
không cung cấp tài liệu vật chứng liên quan đến việc giải quyết vụ án…sẽ gây
khó khăn cho Thẩm phán trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án,
làm kéo dài thời gian giải quyết, ảnh hưởng đến sự khách quan của bản án.
Kiểm sát viên cũng là một chủ thể trong TTHC, tiến hành kiểm sát hoạt
động xét xử vụ án hành chính theo sự phân công, chỉ đạo của Viện trưởng
VKSND. Năng lực phát hiện vi phạm của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xét
xử vụ án hành chính là yếu tố quan trọng tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả
44
của hoạt động xét xử. Nếu Kiểm sát viên có năng lực và kinh nghiệm công tác
thì sẽ phát hiện kịp thời, đầy đủ những vi phạm của Thẩm phán, Thư ký TA
trong việc xét xử vụ án hành chính để yêu cầu khắc phục sữa chữa, góp phần
bảo đảm cho vụ án được giải quyết công bằng, minh bạch, đúng pháp luật.
Thứ tư, cơ sở vật chất
Cơ sơ vật chất, phương tiện, kỹ thuật tuy chỉ là những yếu tố hỗ trợ
nhưng lại có tác dụng rất lớn trong hoạt động xét xử. Hội trường xét xử khang
trang bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh và tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân đến dự phiên toà; điều kiện làm việc được trang bị khoa học công
nghệ tiên tiến, hiện đại giúp cho việc nhận đơn, quản lý án, tra cứu văn bản
pháp luật, án lệ được thuận lợi, giảm bớt thời gian, sai sót cho Thẩm phán.
Lương và các chế độ đãi ngộ bảo đảm cho Thẩm phán chuyên tâm làm việc
không bị ảnh hưởng bởi “cơm áo, gạo tiền”, không bị cảm dỗ bởi những lợi
ích vật chất từ phía đương sự, “cò chạy án” là những bảo đảm cho việc xét xử
khách quan công bằng và đúng pháp luật.
Tiễn kết Chương 1
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là phạm vi, giới hạn thực
hiện chức năng xét xử của TAND. TAND các cấp nhân danh quyền lực của
nhà nước để thụ lý, lập hồ sơ và ra các bản án, quyết định sơ thẩm hành chính
nhằm bảo vệ lợi ích của đương sự (là cơ quan, tổ chức, cá nhân) và nâng cao
tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cũng chịu sự tác động của các yếu tố mang
tính chủ quan và khách quan.
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã cố gắng làm rõ một số vấn đề
về cơ sở lý luận, làm rõ các khái niệm cũng như một số quy định của pháp
45
luật TTHC liên quan đến nội dung thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính. Tác giả cũng phân tích một số yếu tố cơ bản tác động đến thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính. Những nội dung của Chương 1 là cơ sở để tác giả
nghiên cứu, phân tích và làm rõ nội dụng Chương 2 và Chương 3 tiếp theo
của Luận văn.
46
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.1. Tình hình và đặc điểm của khiếu kiện hành chính trên địa bản
tỉnh Đăk Lăk từ năm 2012 đến năm 2016
Là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên của đất nước Việt Nam,
cách Thủ đô Hà Nội trên 1.410 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km.
Đăk Lăk có dân số trên 1.800.000 người với 47 dân tộc anh em cùng sinh
sống trên diện tích 1.312.537 ha, trong đó dân tộc Kinh chiếm gần 70 %, dân
số, phần lớn là di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến Đắk Lắk sinh cơ
lập nghiệp; các dân tộc bản địa sinh sống lâu đời và các dân tộc khác chiếm
trên 30 % dân số trong toàn tỉnh.
Trong những năm gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng
cơ học, chủ yếu là di dân tự do. Điều này đã gây nên sức ép lớn cho UBND
các cấp trong toàn tỉnh về việc giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời
sống xã hội, an ninh - trật tự và môi trường sinh thái. Để bảo đảm cho sự phát
triển ổn định trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của Đắk Lắk, Tỉnh ủy,
UBND tỉnh, và cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chính quyền tỉnh đã đề ra
nhiều quyết sách nhằm cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước cho phù hợp điều kiện thực tế ở địa phương. Tuy nhiên,
những quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước thuộc tỉnh Đắk Lắk không tránh khỏi những khiếu kiện,
thậm chí là khiếu kiện gay gắt. Trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016,
tình hình khiếu kiện hành chính ở địa phương tỉnh Đắk Lắk xảy ra khá phổ
47
biến và tính chất phức tạp ngày càng tăng, một số vụ khiếu kiện rất phức tạp
và nhạy cảm, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương. Điển
hình như vụ Công ty TNHH Bệnh viện Đa khoa Nhân An đã khởi kiện Quyết
định 2760/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đắk Lắk. Vụ án hành chính có nhiều
tình tiết rất phức tạp vì liên quan đến chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh và lĩnh vực quản lý đất đai. Cụ thể: Năm 2009, UBND tỉnh Đắk
Lắk cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 40121000079 và giao cho công ty thuê
15.936 m2 đất để triển khai dự án xây dựng bệnh viện đa khoa chất lượng cao.
Trong khi Công ty đang triển khai thực hiện dự án thì UBND tỉnh ra Công
văn số 4193/UBND-CN để chấm dứt chủ trương đối với dự án Bệnh viện Đa
khoa Nhân An; sau đó UBND tỉnh tiếp tục ra Quyết định số 2760/QĐ-UBND
về thu hồi đất Dự án để cho công ty khác thuê. Quyết định của UBND tỉnh đã
gây nên sự bất bình cho công ty Nhân An và giới doanh nghiệp, dẫn tới việc
công ty Nhân An gửi đơn khởi kiện đến Tòa án tỉnh Đắk Lắk.
Nhìn chung, các khiếu kiện hành chính trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực quản lý đất đai (chiếm trên 80 % số vụ án hành
chính thụ lý hàng năm), bao gồm các khiếu kiện quyết định giải quyết tranh
chấp đất đai, khiếu kiện hành vi cấp giấy chứng nhận QSDĐ, khiếu kiện
quyết định thu hồi đất, giải tỏa, bồi thường và chính sách tái định cư do thu
hồi đất…); khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng, lĩnh vực thuế; khiếu kiện quyết định cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính; khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về vụ
việc cạnh tranh....
Nguyên nhân chính dẫn đến việc gia tăng về số lượng các khiếu kiện
hành chính trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua chủ yếu là do:
Thứ nhất, trước năm 2003 dân di cư tự do vào Đăk Lăk tự tìm nơi ở,
khai hoang, phá rừng làm nương rẫy. Dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, dân
48
bản địa, sử dụng đất một thời gian dài không đăng ký QSDĐ, chuyển nhượng
đất đai không tuân thủ quy định của pháp luật. Từ năm 2013, trên địa bàn tỉnh
ngày càng phát sinh nhiều dự án xây dựng các cụm, khu công nghiệp dẫn đến
việc thu hồi đất của nhiều hộ dân làm phát sinh việc khiếu kiện.
Thứ hai, chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý đất đai, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư do thu hồi đất tuy đã có sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn còn bất cập, chậm được triển khai thực hiện trên thực tế. Các văn bản
hướng dẫn về Luật đất đai câu chữ còn chồng chéo, không có sự thống nhất
dẫn đến việc hiểu và vận dụng pháp luật vào thực tiễn quản lý hành chính
không thống nhất và không được sự đồng tình của nhân dân.
Thứ ba, việc quy hoạch, quản lý đất đai của cơ quan có thẩm quyền trên
địa bàn tỉnh chưa rõ ràng, không đúng pháp luật. Việc ban hành quyết định
hành chính, thực hiện hành vi hành chính của chính quyền địa phương chưa
tuân thủ trình tự, thủ tục do pháp luật quy định gây ra sự bức xúc trong quần
chúng nhân dân, dẫn tới việc khiếu kiện hành chính ngày càng gia tăng và
phức tạp.
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân
dân tỉnh Đăk Lăk trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân kết quả đạt được
trong của việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk
trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính từ năm 2012 đến năm 2016
2.2.1.1. Kết quả thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong công tác nhận,
xử lý đơn kiện và thụ lý vụ án
Trong các năm từ 2012 đến năm 2016, TAND tỉnh Đăk Lăk đã nhận
được 687 đơn khiếu kiện hành chính, bao gồm có 612 đơn thuộc thẩm quyền
giải quyết và 63 đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết. Tòa đã giải quyết
xong 677 đơn. Trong đó, thụ lý để giải quyết 612 đơn thuộc thẩm quyền; trả
49
lại 63 đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết và hướng dẫn cho đương sự
khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án dân sự tùy theo nội dung đơn (xem bảng kê
hàng năm dưới đây):
Bảng 2.1. Thống kê kết quả xử lý đơn khiếu kiện
Kết quả xử lý đơn
Ghi chú Năm Số đơn đã nhận Trả lại đơn Thụ lý vụ án
130 16 114 2012
156 6 150 2013
133 22 111 2014
129 15 112 2015
139 4 125 2016 10 đơn chuyển 2017
687 63 612 Tổng cộng
(Nguồn: TAND tỉnh Đăk Lăk năm 2017) [9].
Theo bảng kê trên, trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016, TAND
cấp sơ thẩm của tỉnh Đăk Lăk đã thụ lý 705 vụ án hành chính, trong đó có 93
vụ án cũ chuyển qua, thụ lý mới 612 vụ. Cụ thể:
- Năm 2012 Tòa sơ thẩm thụ lý 155 vụ (án cũ 41 vụ, thụ lý mới 114 vụ).
- Năm 2013, Tòa thụ lý 174 vụ (án cũ chuyển 24 vụ, thụ lý mới 150 vụ).
- Năm 2014, Tòa thụ lý 118 vụ (án cũ chuyển 7 vụ, thụ lý mới 111 vụ).
- Năm 2015, thụ lý 122 vụ (án cũ chuyển 10 vụ, thụ lý mới 112 vụ).
- Năm 2016, Tòa án thụ lý 136 vụ (án cũ 11 vụ, thụ lý mới 125 vụ).
Nhìn chung, quá trình thực hiện thẩm quyền thụ lý vụ án, TA cấp sơ
thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục nhận và xử
lý đơn kiện. Do phần lớn đơn kiện được đương sự trực tiếp nộp tại TA nên
50
sau khi nhận đơn, cán bộ TA đã cấp giấy biên nhận đầy đủ cho đương sự. Cán
bộ nhận đơn đã vào sổ và đề xuất xử lý đơn kịp thời. Theo sự phân công của
Chánh án TAND, Thẩm phán đã kịp thời xem xét, xử lý đơn khởi kiện.
Trường hợp đơn kiện chưa có đủ nội dung cần thiết theo quy định của pháp
luật (thiếu địa chỉ của người bị kiện hoặc tài liệu chứng cứ kèm theo...), Thẩm
phán đã yêu cầu đương sự bổ sung và hướng dẫn nộp tiền tạm ứng án phí để
thụ lý vụ án. Với những đơn không thuộc thẩm quyền, Thẩm phán giải thích
hướng dẫn cho đương sự và trả lại đơn khởi kiện theo đúng quy định của pháp
luật. Do văn bản trả lại đơn khởi kiện ghi rõ lý do trả lại đơn nên đa số các
đương sự bị trả lại đơn khởi kiện đều chấp nhận và không khiếu nại, VKSND
cùng cấp cũng không có kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
của TA.
Đối với những đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết, Thẩm phán
nghiên cứu, xem xét các căn cứ để thụ lý như: Quyền khởi kiện, thời hiệu
khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết của TA. Trong những
trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ
để có cơ sở thụ lý vụ án. Vì vậy, hầu hết các vụ án hành chính được TAND
hai cấp tỉnh Đăk Lắk thụ lý kịp thời, bảo đảm căn cứ theo quy định của pháp
luật. Đối với vụ án có đơn của đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời để bảo vệ bằng chứng hoặc ngăn chặn hậu quả nghiêm
trọng có thể xảy ra thì sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã kịp thời xem xét để
đưa ra quyết định phù hơp nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của đương sự. Do đó, trong thời gian từ năm 2012 đến
năm 2016, trên địa bàn tỉnh không có trường hợp các đương sự khiếu nại hoặc
VKSND kiến nghị về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
51
Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công đã làm văn bản thông
báo thụ lý vụ án, gửi cho VKSND và các đương sự đầy đủ, đúng thời hạn theo
quy định của pháp luật.
2.2.1.2. Kết quả thực hiện thẩm quyền lập hồ sơ vụ án hành chính và tổ
chức đối thoại
Qua thực tế công tác xét xử cho thấy, để vụ án hành chính được xét xử
đúng pháp luật, Thẩm phán cần xác định được sự thật khách quan trong vụ án.
Việc xác định sự thật khách quan trong vụ án phải dựa trên các tài liệu, chứng cứ
thu thập được trong quá trình lập hồ sơ vụ án. Quán triệt vấn đề này, sau khi thụ
lý vụ án, TA cấp sơ thẩm đã chú trọng việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ để giải
quyết vụ án.
Trên cơ sở nghiên cứu yêu cầu khởi kiện và ý kiến bên bị kiện, Thẩm
phán đã cân nhắc để áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ cần thiết theo quy
định của Luật TTHC. Những biện pháp thu thập chứng cứ do Thẩm phán áp
dụng cơ bản đã tuân thủ đúng nguyên tắc, thủ tục thu thập chứng cứ và bảo đảm
cho đương sự thực hiện quyền thu thập chứng cứ. Biện pháp đầu tiên và phổ
biến mà Thẩm phán áp dụng là yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Thẩm phán ban hành quyết định yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ có đầy đủ
các nội dung như: Những chứng cứ cần giao nộp, yêu cầu về tài liệu, chứng cứ
và thời hạn giao nộp chứng cứ (Do Thẩm phán ấn định). Khi đương sự giao nộp
tài liệu, chứng cứ cho TA đều được lập biên bản giao nhận, có đầy đủ chữ ký của
bên giao, bên nhận và lưu hồ sơ vụ án. Trường hợp đương sự giao nộp chứng cứ
không đầy đủ và không đúng thời hạn thì phải nộp biên bản giải trình ghi rõ lý
do. Trường hợp đương sự yêu cầu Thẩm phán thu thập chứng cứ đều có đơn yêu
cầu và đóng lệ phí yêu cầu trong những trường hợp cần thiết (Như lệ phí trưng
cầu giám định, lệ phí định giá tài sản). Các trường hợp Thẩm phán áp dụng các
biện pháp thu thập chứng cứ khác như: Lấy lời khai, đối chất, yêu cầu cơ quan,
52
tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu vật chứng, xem xét thẩm định tại chỗ... được
tiến hành công khai. Việc ra quyết định thu thập chứng cứ và lập biên bản thu
thập chứng cứ được tiến hành đúng trình tự theo quy định của pháp luật. Những
trường hợp Thư ký TA trực tiếp lấy lời khai của đương sự như trước đây đã được
hạn chế, khắc phục. Quá trình lập hồ sơ vụ án, Thẩm phán đã tạo điều kiện cho
đương sự được thực hiện quyền được tiếp cận, sao chép chứng cứ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đối thoại trong công tác xét xử
các vụ án hành chính, cùng với việc thu thập chứng cứ, TAND hai cấp tỉnh Đăk
Lắk cũng chú trọng tổ chức cho các bên đương sự đối thoại với nhau về vấn đề
cần giải quyết trong vụ án (Trừ những trường hợp không được đối thoại hoặc
không đối thoại được theo quy định pháp luật). Các phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại do TA tổ chức được tiến
hành đúng thành phần, đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm thực hiện nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tại phiên họp, Thẩm phán đã
tích cực, kiên trì phân tích, giải thích pháp luật, thậm chí tổ chức đối thoại
nhiều lần để các bên cân nhắc, tìm ra hướng giải quyết vụ án. Nhờ đó, một số
vụ án đã được giải quyết nhanh chóng và triệt để. Theo thống kê của TAND
tỉnh, trong 5 năm qua tại hai cấp TAND hai cấp tỉnh Đăk Lắk có 194 vụ án
hành chính được đình chỉ giải quyết do đương sự rút đơn khởi kiện (Sau khi
đối thoại). Tòa án tỉnh đã tiến hành thu thập chứng cứ để lập hồ sơ được trên
700 vụ án hành chính.
Như vậy, từ năm 2012 đến năm 2016, Tòa án tỉnh Đăk Lắk đã có nhiều
cố gắng trong việc lập hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết để bảo
đảm cho vụ án hành chính được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật.
2.2.1.3. Kết quả thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm hành chính
Trong các năm từ 2012 đến năm 2016, TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk đã
giải quyết xong 636/705 vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Trong đó:
53
Đình chỉ việc giải quyết vụ án:194 vụ; đưa vụ án ra xét xử 442 vụ (xem bảng
Thống kê kết quả xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm dưới đây) [8].
Bảng 2.2. Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND tỉnh
Đăk Lăk
Số vụ án
Kết quả giải quyết xét xử sai Năm Số vụ Còn lại
Số vụ án phải giải quyết Xét xử Đình chỉ Số BAST bị sửa Số vụ đã giải quyết Số BAST bị hủy
155 2012 131 39 92 4 2 24
174 2013 161 58 103 2 13 7
118 2014 107 29 78 7 13 7
122 2015 111 36 75 6 11 11
136 2016 126 32 94 6 5 10
705 636 194 442 25 44 59 Tổng cộng
(Nguồn: TAND tỉnh Đăk Lăk năm 2017) [9].
Cụ thể kết quả xét xử từng năm như sau:
- Năm 2012 giải quyết xong 131 vụ, đạt tỷ lệ 84,51 %. Trong đó, đình
chỉ việc giải quyết vụ án: 39 vụ; đưa vụ án ra xét xử: 92 vụ;
- Năm 2013 giải quyết xong 161 vụ, đạt tỷ lệ 92,53 %. Trong đó, đình
chỉ việc giải quyết vụ án: 58 vụ; đưa vụ án ra xét xử: 103 vụ (đình chỉ do
đương sự rút đơn tại phiên tòa 2 vụ);
- Năm 2014 Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết xong 107 vụ, đạt tỷ lệ
90,07 %. Trong đó, đình chỉ việc giải quyết vụ án 29 vụ; xét xử: 78 vụ;
- Năm 2015 giải quyết xong 111 vụ, đạt tỷ lệ 91 %. Trong đó, đình chỉ
việc giải quyết vụ án 36 vụ; xét xử: 75 vụ;
54
- Năm 2016 giải quyết xong 126 vụ án sơ thẩm, đạt tỷ lệ 91 %. Trong
đó, đình chỉ việc giải quyết vụ án 32 vụ; xét xử: 94 vụ.
Nghiên cứu số liệu thống kê nêu trên cho thấy, tỷ lệ giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại TAND tỉnh Đăk Lăk trong thời gian
qua luôn đứng ở mức cao, đạt và vượt chỉ tiêu theo do TAND tối cao đề ra.
Phần lớn các vụ án hành chính được giải quyết khách quan, đúng quy định
của pháp luật.
Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ các quy định
về gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND
nghiên cứu để tham gia phiên tòa. Các phiên tòa xét xử vụ án hành chính
được diễn ra đúng thời gian, địa điểm, đúng thành phần ghi trong quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Do Hội đồng xét xử rất chú trọng trong việc xây dựng kế
hoạch hỏi và điều khiển tốt việc tranh luận tại phiên tòa cho nên việc hỏi,
tranh luận tại phiên tòa diễn ra đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong TTHC. Các chứng cứ, tài liệu được đưa ra xem xét đầy đủ,
công khai tại phiên tòa nhằm làm rõ sự thật khách quan trong vụ án. Các
đương sự được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của
pháp luật như: Được quyền thu thập, cung cấp chứng cứ, được nghe, được
biết về chứng cứ do đương sự khác và TA thu thập, được tham gia các phiên
hop đối thoại, được trình bày ý kiến, quan điểm...
Hầu hết các phán quyết của Hội đồng xét xử đều căn cứ vào kết quả
tranh tụng và trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ
án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, chất lượng xét xử các vụ án hành
chính của TAND hai cấp tỉnh Đăk Lắk ngày càng được nâng cao.
2.2.1.4. Nguyên nhân của kết quả đạt được về thực hiện thẩm quyền
của Tòa án nhân dân trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính
55
Những kết quả đạt được nêu trên là do sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
kịp thời và sâu sát của lãnh đạo TAND tỉnh Đăk Lắk đối với hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính và sự nỗ lực cố gắng trong công tác của đội ngũ
Thẩm phán, Hội thẩm.
Với số lượng án hành chính thụ lý hàng năm là tương đối cao (trung
bình 141 vụ/năm), lãnh đạo TAND tỉnh đã có nhiều cố gắng, tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo và sự ủng hộ của TAND tối cao, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh trong việc thực hiện nhiệm vụ. TAND
tỉnh vừa tăng cường công tác chỉ đạo điều hành trong hoạt động xét xử vụ án
hành chính, vừa tập trung chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, công chức, người lao
động của TAND hai cấp thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp gắn việc
tập trung thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ công tác, đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của Tòa án và của địa phương.
Lãnh đạo TAND tỉnh và lãnh đạo các TAND cấp huyện đã chú trọng
việc xây dựng chương trình kế hoạch công tác với các chỉ tiêu sát đúng, phù
hợp yêu cầu của TAND tối cao, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán,
Hội thẩm phát huy năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ. Việc phân
công, phân nhiệm của Lãnh đạo TAND với đội ngũ Thẩm phán ngày càng sâu
sát, phù hợp năng lực, sở trường cán bộ. Việc bố trí nhân sự cũng được chú
trọng và tăng cường. Nhiều Thẩm phán có trình độ năng lực, có bản lĩnh vững
vàng và giàu kinh nghiệm được bố trí làm công tác xét xử vụ án hành chính.
Mặt khác, lãnh đạo TAND hai cấp cũng rất chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
kỹ năng, kinh nghiệm công tác cho đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng yêu cầu
công tác. Những năm gần đây, TAND tỉnh thực hiện việc phân công Thẩm
phán xét xử theo từng loại án (hành chính) để Thẩm phán có điều kiện tích
lũy và phát huy kinh nghiệm trong công tác xét xử. Việc giao ban cũng
56
thường xuyên được duy trì để lãnh đạo TAND nắm được tình hình, tiến độ
giải quyết các vụ án nhằm hỗ trợ kịp thời khi cần thiết để giải quyết khó khăn,
vướng mắc cho Thẩm phán.
Bên cạnh đó, TAND tỉnh cũng tăng cường chỉ đạo các đơn vị chú trọng
công tác kiểm tra, giám sát nghiệp vụ, tăng cường trao đổi, phối hợp, hỗ trợ
lẫn nhau trong công tác xét xử. Hàng năm TAND tỉnh đều thành lập các đoàn
kiểm tra, phối hợp với lãnh đạo TAND cấp huyện kiểm tra, hướng dẫn tháo
gỡ các vướng mắc, trả lời thỉnh thị, thông báo rút kinh nghiệm cho các TAND
cấp huyện và đúc rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề (chuyên đề về
nâng cao chất lượng công tác xét xử sơ thẩm vụ án hành chính) góp phần
nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm làm
công tác xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nghiêm túc chấp hành sự phân công,
quản lý của Chánh án TAND tỉnh, thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định của
pháp luật và quy định của Ngành. Thẩm phán chủ động nghiên cứu hồ sơ, lập
kế hoạch thu thập chứng cứ, tổ chức các phiên đối chất khi cần thiết, tổ chức
các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối
thoại. Các Thẩm phán cũng nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật
về thời hạn đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi các văn bản tố tụng (giấy triệu
tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định định chỉ, tạm đình chỉ) và
chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND nghiên cứu để tham gia phiên tòa.
Tóm lại, do nhận thức đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xét
xử sơ thẩm các vụ án hành chính, trong các năm từ 2012 đến năm 2016,
TAND hai cấp tỉnh Đăk Lắk đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện thẩm
quyền thụ lý, lập hồ sơ, xét xử các vụ án hành chính nhằm bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của đương sự và thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu xét xử theo quy định
của ngành TAND.
57
2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế, thiếu
sót trong việc thục hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk
trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện thẩm quyền xét
xử sơ thẩm các vụ án hành chính, tại TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk còn tồn tại
một số hạn chế, thiếu sót sau đây:
2.2.2.1. Những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện thẩm quyền
nhận, xử lý đơn kiện và thụ lý vụ án
Mặc dù lãnh đạo TAND tỉnh đã quán triệt và thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc nhưng tại một số TAND (cấp huyện) vẫn xảy ra tình trạng xử lý đơn
khởi kiện không đúng thời hạn pháp luật quy định; vi phạm về thời hạn thụ lý
vụ án và thời hạn gửi thông báo thụ lý vẫn xảy ra ở một số nơi; một số vụ án
được thụ lý để giải quyết không đúng thẩm quyền, xác định sai đối tượng
khởi kiện...dẫn tới việc giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật.
Có thể nêu một số dạng vi phạm điển hình như:
- Gửi thông báo thụ lý vụ án chưa kịp thời, đầy đủ: Gửi thông báo thụ
lý vụ án là trách nhiệm của TA nhằm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền
trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và VKSND cùng cấp thực hiện
quyền kiểm sát việc thụ lý vụ án. Việc TA cấp sơ thẩm không gửi (hoặc gửi
chậm) văn bản thông báo thụ lý vụ án cho VKSND cùng cấp và đương sự là
vi phạm Điều 126 Luật TTHC năm 2015. Thời gian TA chậm gửi thông bào
thụ lý phổ biến là từ 1 – 3 ngày, có trường hợp chậm đến 5 ngày.
Mặt khác, một số văn bản thông báo thụ lý vụ án chưa ghi đầy đủ và
chính xác những nội dung cần thiết. Đối tượng khởi kiện trong vụ án được ghi
chung chung là “kiện quyết định hành chính” hoặc “hành vi hành chính” mà
không ghi rõ quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính nào, trong lĩnh
vực nào. Thực tế cho thấy, trong một vụ án hành chính đương sự có thể kiện
58
một hoặc nhiều quyết định trong các quyết định do cơ quan hành chính ban
hành (Ví dụ vừa kiện quyết định thu hồi đất vừa kiện quyết định cưỡng chế
thu hồi đất). Việc TA ghi không rõ ràng đối tượng khởi kiện làm cho đương
sự khó khăn, không biết trình bày ý kiến về tính hợp pháp của quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính nào; VKSND cũng khó khăn trong kiểm
sát việc thực hiện thẩm quyền thụ lý của TA.
- Xác định đối tượng khởi kiện, người bị kiện trong vụ án chưa chính
xác: Việc xác định đối tượng khởi kiện, người bị kiện trong vụ án không đúng
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vụ án. Thực tế xét xử vụ án hành
chính tại TAND hai cấp tỉnh Đăk Lắk cho thấy nhiều vụ án bị hủy do cấp sơ
thẩm xác định sai đối tượng khởi kiện, người bị kiện trong vụ án. Như trường
hợp ông Nguyễn Văn Đoàn khởi kiện hành vi cấp giấy chứng nhận QSDĐ
của UBND huyện Krông Năng, yêu cầu TA hủy giấy chứng nhận QSDĐ mà
UBND huyện đã cấp cho ông Châu Văn Toàn. TA huyện Krông Năng xác
định đối tượng khởi kiện là “quyết định hành chính” về giải quyết khiếu nại
đối với hành vi cấp giấy chứng nhận QSDĐ và người bị kiện là Chủ tịch
UBND huyện Krông Năng là không phù hợp với yêu cầu khởi kiện.
Trên thực tế, diện tích đất được UBND huyện cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho ông Toàn có nguồn gốc là của ông Đoàn và
ông Toàn thỏa thuận nhận chuyển nhượng và sử dụng chung từ năm 1998.
Ông Toàn tự ý làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ không cho ông
Đoàn biết là trái pháp luật. Ông Đoàn đã khiếu nại và sau đó khởi kiện đối với
hành vi cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Toàn [10]. Như vậy, đối tượng
khởi kiện trong vụ án là hành vi hành chính (cấp giấy chứng nhận QSDĐ) và
người bị kiện là UBND huyện Krông Năng vì thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận QSDĐ cho cá nhân, hộ gia đình thuộc về UBND cấp huyện theo Điều
105 Luật Đất đai năm 2013.
59
- Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án không chính xác: Trong vụ kiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, người khởi kiện
là cơ sở kinh doanh Hoàng Minh Huy Hoàng (tại phường Tân An – TP Buôn
ma thuột), người bị kiện là Chi cục thuế TP Buôn ma thuột, TA cho rằng vụ
án có yếu tố nước ngoài vì người khởi kiện có liên quan đến Công ty bán
hàng đa cấp của nước ngoài cho nên xác định thẩm quyền xét xử vụ án thuộc
về TAND tỉnh Đăk Lăk. Việc chuyển vụ án này là không đúng quy định tại
các Điều 31, 32, 34 Luật TTHC năm 2015. Do đối tượng khởi kiện trong vụ
án là quyết định hành chính của Chi cục thuế cấp huyện nên thẩm quyền giải
quyết của TA TP Buôn ma thuột.
2.2.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện thẩm quyền lập hồ sơ và tổ chức
đối thoại
Thực tế xét xử các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk cho thấy
việc lập hồ sơ, thu thập chứng cứ của TA cấp sơ thẩm còn nhiều thiếu sót.
Nhiều bản án hành chính sơ thẩm bị TA cấp trên hủy án có nguyên nhân là
cấp sơ thẩm không đưa người có quyền nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng,
một số trường hợp ủy quyền tham gia tố tụng không hợp lệ nhưng vẫn được
TA chấp nhận, một số vụ án thu thập chứng cứ không đầy đủ... dẫn tới việc
giải quyết vụ án không đúng pháp luật. Điển hình là một số vụ án sau đây:
- Xác định thành phần tham gia tố tụng chưa chính xác: Trong vụ kiện
hành vi cấp giấy chứng nhận QSDĐ do ông Đoàn khởi kiện như đã nêu trên,
TA huyện Krông Năng không đưa ông Châu Văn Toàn (người được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ) và ông Nguyễn Hải Hướng (người chuyển nhượng
QSDĐ cho ông Đoàn và ông Toàn) tham gia tố tụng là thiếu sót. Bởi việc ông
Toàn không được tham gia tố tụng với tư cách người có quyền, nghĩa vụ liên
quan sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Toàn; còn việc ông
Hướng tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng sẽ góp phần làm sáng tỏ
60
sự thật khách quan trong vụ án, giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng,
thuận lợi hơn [10].
- Vi phạm về thủ tục ủy quyền tham gia tố tụng: Trong vụ án ông Đặng
Văn Khoái khởi kiện quyết định thu hồi đất và quyết định cưỡng chế thu hồi
đất của UBND huyện Buôn Đôn đối với hộ gia đình ông. Vụ án có sự tham
gia của người có quyền, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần thủy điện
Buôn Đôn và Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên xây
dựng 384. Mặc dù đại diện theo pháp luật của hai công ty này không có giấy
ủy quyền hợp lệ cho người tham gia tố tụng (ông Hoàng Đình Trọng đại diện
cho Công ty cổ phần thủy điện Buôn Đôn, ông Nguyễn Hữu Thư đại diện cho
Công ty TNHH một thành viên xây dựng 384) nhưng vẫn được TAND huyện
Buôn Đôn chấp nhận cho tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ
án là trái với quy định của pháp luật [10].
Trong vụ bà Nguyễn Thị Hạnh khởi kiện quyết định giải quyết khiếu
nại của Chủ tịch UBND huyện Krông Pắc, Chủ tịch UBND huyện làm văn
bản ủy quyền cho ông Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường tham gia tố
tụng (không ủy quyền cho cấp phó) là trái quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật
TTHC năm 2015 [10].
- Thu thập chứng cứ chưa đúng thủ tục pháp luật quy định và chưa đầy
đủ: Qua công tác kiểm tra nghiệp vụ hàng năm, TAND tỉnh đã phát hiện một
số trường hợp đương sự giao nộp chứng cứ không được TA lập biên bản; có
trường hợp biên bản giao nhận chứng cứ không có chữ ký của đương sự hoặc
không ghi ngày tháng giao nhận. TAND tỉnh đã rút kinh nghiệm nhưng chưa
được các TAND cấp huyện khắc phục triệt để. Mặt khác, trong quá trình lập
hồ sơ vụ án, một số trường hợp Thẩm phán thu thập chứng cứ chưa đầy đủ
dẫn tới việc giải quyết vụ án không khách quan.
61
- Chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thời hạn tố tụng: Mặc
dù Tòa án hai cấp tỉnh Đăk Lăk đã có nhiều cố gắng nhưng việc giải quyết vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm vẫn chưa kịp thời, số lượng án tồn đọng
chuyển qua các năm còn nhiều. Việc giải quyết vụ án hành chính còn chậm,
vi phạm về thời hạn đưa vụ án ra xét xử xảy ra phổ biến tại nhiều TA cấp sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh, có vụ án kéo dài trên 12 tháng chưa giải quyết xong
thủ tục sơ thẩm. Điển hình như trong vụ ông Huỳnh Ngọc Tứ và bà Nguyễn
Thị Nhựt khởi kiện UBND xã Cư Bao – Thị xã Buôn Hồ, TAND Thị xã Buôn
Hồ thụ lý ngày 11/3/2013 đến ngày 18/8/2013 (trên 5 tháng) mới đưa vụ án ra
xét xử mà không có quyết định gia hạn thời hạn xét xử. Vụ ông Huỳnh Bường
khởi kiện UBND phường Tự An - TP Ban mê thuột tại TAND TP Ban mê
thuột vào tháng 1/2013; đến tháng 1/2014 (12 tháng) TA cấp sơ thẩm mới đưa
vụ án ra xét xử. Vụ ông Đoàn khởi kiện UBND huyện Krông Năng từ ngày
14/10/2014 đến tháng 9/2015 (11 tháng) TAND huyện Krông Năng mới đưa
vụ án ra xét xử...[10].
2.2.2.3. Hạn chế trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử tại phiên tòa
Trong những năm vừa qua, chất lượng công tác xét xử vụ án hành
chính tại TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk đã từng bước được nâng lên. TAND hai
cấp đã có nhiều cố gắng để giải quyết vụ án hành chính được khách quan,
chính xác nhằm ổn định tình hình trật tự xã hội và góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên, những cố
gắng của Tòa chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, việc giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm vẫn còn thiếu sót, hạn chế. Bên cạnh
những vụ án được giải quyết thấu tình đạt lý, nhận được sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân, vẫn còn một số vụ án hành chính giải quyết chưa triệt để, chưa
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dẫn tới việc kháng cáo,
kháng nghị; tình trạng án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy án và cải sửa hàng
62
năm vẫn còn. Theo Báo cáo Tổng kết công tác của TAND tỉnh, từ năm 2012
đến năm 2016 có 25 vụ án hành chính bị cấp phúc thẩm hủy án, 59 vụ bị sửa
án sơ thẩm. Cụ thể: như sau:
- Năm 2012 số vụ án hành chính sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy án là 4
vụ, sửa án là 2 vụ;
- Năm 2013, án sơ thẩm bị hủy 2 vụ, sửa án 13 vụ;
- Năm 2014, án sơ thẩm bị hủy 7 vụ, sửa án 13 vụ.
- Năm 2015, án sơ thẩm bị hủy 6 vụ, sửa án 11 vụ.
- Năm 2016, án sơ thẩm bị hủy 6 vụ, sửa án 5 vụ.
(Nguồn: TAND tỉnh Đăk Lăk năm 2017) [9].
Nguyên nhân án bị hủy, sửa là do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết, như: Xác định đối tượng khởi
kiện chưa chính xác; chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung không đúng quy
định pháp luật, vi phạm về thủ tục ủy quyền tham gia tố tụng; thu thập chứng
cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa chính xác; sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật để giải quyết vụ án...Có thể nêu một số vụ án điển hình sau:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung không đúng quy định pháp luật:
Trong vụ ông Đặng Văn Khoái kiện quyết định thu hồi đất và quyết
định cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện Buôn Đôn, sau khi Tòa thụ lý
vụ án, ông Khoái có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện với nội dung yêu cầu TA:
“Buộc UBND huyện Buôn Đôn phải ra quyết định thu hồi diện tích đất còn
lại 4.500m2 của gia đình ông”. Yêu cầu này không phải là hành vi hành chính
bị kiện theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật TTHC và ông Khoái không có
quyền yêu cầu UBND huyện thu hồi đất của mình khi không có căn cứ pháp
luật để thu hồi đất. Do đó, TA cấp sơ thẩm thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung
của ông Khoái để giải quyết là trái quy định của pháp luật [10].
63
Sau đó tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án, ông Khoái tiếp tục bổ sung
yêu cầu TA buộc Công ty cổ phần thủy điện Buôn Đôn phải bồi thường cho
gia đình ông theo giá đất đã bồi thường cho các hộ liền kề bị thu hồi đất. Yêu
cầu này là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nhưng vẫn được TA cấp sơ
thẩm chấp nhận giải quyết. Sai phạm này là nguyên nhân dẫn tới việc TAND
tỉnh Đăk Lăk xét xử phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm của TA huyện
Buôn Đôn [10].
- Áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng: Trong vụ kiện ông
Huỳnh Ngọc Tứ và bà Nguyễn Thị Nhựt khởi kiện quyết định hành chính của
UBND xã Cư Bao về áp dụng biện pháp khác phục hậu quả do vi phạm hành
chính (Thông báo số 32/TB – UBND), quá trình TA Thị xã Buôn Hồ đang
giải quyết vụ án thì UBND xã Cư Bao ra Quyết định số 143/QĐ – UBND đê
hủy Thông báo số 32/TB – UBND. Khi đối tượng khởi kiện trong vụ án
không còn, TAND Thị xã Buôn Hồ không hỏi ý kiến người khởi kiện về việc
có rút đơn kiện hay không mà lại đưa vụ án ra xét xử và tuyên bác đơn khởi
kiện là trái với quy định tại Điều 10 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP. Vì
vậy, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án, TAND tỉnh Đăk Lăk đã tuyên hủy
bản án sơ thẩm của TA Thị xã Buôn Hồ [10].
- Đánh giá chứng cứ không chính xác: Trong vụ ông Huỳnh Bường
kiện hành vi hành chính của UBND phường Tự An - TP Buôn ma thuột vì
không xác nhận nguồn gốc đất và thời điểm sử dụng đất cho gia đình ông, Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ không chính xác.
Trên cơ sở nội dung Công văn số 120/CV-UBND của UBND phường Tự An
về từ chối xác nhận đề nghị của hộ ông Bường, TA cấp sơ thẩm nhận định:
“Thửa đất mà ông Huỳnh Bường đề nghị xác nhận có nguồn gốc là bến nước
và đường đi chung, không phải do gia đình ông Bường khai hoang. Đồng
thời, xác định hiện trạng thửa đất nằm trong hành lang bảo vệ suối, hộ ông
64
Bường không được phép sử dụng vào mục đích riêng”2. Do đó, Tòa sơ thẩm
bác đơn kiện của ông Bường [10].
Tại bản án số 14/2014/HC - PT, Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Đăk Lăk
xác định: “Việc UBND phường Tự An chỉ lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc
sử dụng đất mà không lấy ý kiến về thời điểm sử dụng đất của hộ ông Bường
là chưa đúng quy định tại Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007
của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đồng thời, UBND phường Tự An cho rằng
thửa đất mà ông Bường xin xác nhận nằm trong hành lang bảo vệ suối nên
không được sử dụng vào mục đích riêng là trái với Nghị định số 21/2005/NĐ-
CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết về thi hành một số điều
của Luật giao thông đường thủy nội địa và Quyết định số 09/2011/QĐ-UBND
ngày 24/5/2011 của UBND tỉnh Đắk Lắk. Tại các văn bản này không có quy
định đất thuộc hành lang bảo vệ đường suối thì không được sử dụng vào mục
đích riêng”. Do đó, Tòa phúc thẩm TAND tỉnh chấp nhận kháng cáo của ông
Bường, tuyên bố hành vi từ chối xác nhận vào đơn xin xác nhận nguồn gốc
đất và thời điểm sử dụng đất của ông Bường là trái pháp luật. Như vậy, TA
cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa chính xác dẫn đến việc án sơ thẩm bị
Tòa cấp trên sửa án [10].
Trong vụ ông Ngô Văn Sợi kiện quyết định thu tiền sử dụng đất của
UBND TP Buôn ma thuột, ông Sợi yêu cầu TA hủy quyết định thu tiền sử
dụng đất và hủy Công văn số 1077/UBND-VP ngày 11/6/2015 của UBND TP
Buôn ma thuột (về việc yêu cầu Chi cục thuế TP Buôn ma thuột thu tiền sử
dụng đất của gia đình ông Sợi).
65
Tại bản án sơ thẩm số 04/2016/HC-ST ngày 21/6/2016. TAND TP Buôn
ma thuột đã nhận định: Theo Kết luận số 101/KL-UBND ngày 28/9/2007 của
Chủ tịch UBND TP Buôn Ma Thuột về việc thanh tra nguồn gốc đất và việc
sử dụng đất tại Khu L4 đường Tôn Đức Thắng, phường Tân Lợi, TP Buôn ma
thuột; Công văn số 933/CV-BCHQS ngày 06/8/2007 của Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Đăk Lăk về việc xác định khuôn mẫu dấu của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Đăk Lăk; quyết định số 218/QĐ-UBND ngày 25/01/2010 của UBND tỉnh Đăk
Lăk về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Ngô Văn Sợi, Tòa xác định thửa
đất số 115 tờ bản đồ số 79 diện tích 452,2 m2 ông Sợi đang sử dụng có nguồn
gốc đất lấn chiếm từ năm 1996. Vì vậy, TAND TP Buôn ma thuột bác đơn
khởi kiện của ông Sợi đối với quyết định thu tiền sử dụng đất và yêu cầu hủy
Công văn số 1077/UBND-VP.
Tuy nhiên, tại bản án phúc thẩm số 09/2016/HC-PT, Tòa phúc thẩm
TAND tỉnh Đăk Lăk lại đánh giá: “Theo xác nhận của Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Đắk Lắk ngày 25/4/2005, ông Sợi được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh cấp đất
theo quyết định số 836/SDĐ ngày 25/12/1982. Việc ông Sợi xây nhà ở từ năm
1990 được Tổ trưởng tổ dân phố 5, Công an phường Tân Lợi và những hộ
dân sống gần đó xác nhận. Trong quá trình sử dụng đất gia đình ông Sợi
không tranh chấp với ai và cũng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế cho
nhà nước từ quý 4 năm 1992 cho đến nay. Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định
thời điểm gia đình ông Sợi sử dụng diện tích đất là trước ngày 15/10/1993
nên thuộc trường hợp được cấp giấy CNQSD đất mà không phải nộp tiền sử
dụng đất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất”. Vì lẽ
đó, Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Đăk Lăk tuyên sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Sợi. Tòa phúc thẩm cũng nhận định Công văn số
1077/UBND-VP không phải là quyết định hành chính, chỉ mang tính chất trao
66
đổi, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước vì vậy tuyên hủy một phần bản án sơ
thẩm số 04/2016/HC - ST, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của
ông Sợi về việc hủy Công văn số 1077/UBND-VP ngày 11/6/2015 của
UBND TP Buôn ma thuột [10].
Tóm lại, trong những năm vừa qua, việc thực hiện thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án hành chính của TAND tỉnh Đăk Lăk vẫn còn nhiều hạn
chế, thiếu sót, làm ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
2.2.2.4. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính của TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk xuất phát từ những
nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên và cơ bản ảnh hưởng đến kết quả công tác xét xử
là đội ngũ Thẩm phán làm công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính còn
thiếu về số lượng, yếu về năng lực công tác.
- Về biên chế: Với biên chế của Tòa Hành chính TAND tỉnh Đắk Lăk là
04 Thẩm phán, vừa làm nhiệm vụ xét xử theo thủ tục sơ thẩm những vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh, vừa xét xử theo thủ tục phúc
thẩm các vụ án có kháng cáo, kháng nghị của 17 TAND cấp huyện đã xét xử
sơ thẩm. Thêm vào đó, Luật TTHC năm 2015 còn quy định thẩm quyền xét
xử các quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện và
Chủ tịch UBND huyện được giao cho TAND cấp tỉnh dẫn đến công việc của
Tòa Hành chính TAND tỉnh thực sự rất nặng nề. Thẩm phán chỉ lo xét xử mà
không còn thời gian để nghiên cứu chuyên sâu nhằm nâng cao chất lượng
công tác. Đối với 112 Thẩm phán tại các TAND cấp huyện, bên cạnh việc xét
xử các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, họ còn đảm nhiệm cả việc xét
67
xử các vụ án dân sự, hình sự. Trong điều kiện số lượng vụ án hành chính sơ
thẩm Tòa phải thụ lý từ năm 2012 đến nay tăng cả về số lượng và tính chất
phức tạp của vụ án thì đội ngũ Thẩm phán như vậy là quá thiếu. Có thể khẳng
định, nhân lực để thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của
TAND tỉnh Đăk Lăk thực sự là thử thách đầy khó khăn.
- Về năng lực công tác: Không chỉ thiếu về số lượng, trình độ năng lực
chuyên môn của Thẩm phán làm công tác xét xử vụ án hành chính vẫn còn
hạn chế. Ngoại trừ các Thẩm phán của Tòa Hành chính TAND tỉnh, đội ngũ
Thẩm phán làm công tác xét xử của TAND cấp huyện phần lớn là không
chuyên, kinh nghiệm công tác không nhiều. Một số TAND cấp huyện còn bố
trí Thẩm phán chưa có kinh nghiệm hoặc thiếu an tâm công tác đảm nhiệm
việc xét xử. Mặc khác, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực
công tác cho Thẩm phán chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy, một số Thẩm
phán Chủ tọa phiên tòa còn lúng túng trong việc tiến hành các thủ tục tại
phiên tòa sơ thẩm. Nếu người bị kiện là những người có trình độ chuyên môn
cao trong một lĩnh vực nhất định thì một số Thẩm phán chỉ là người “ngoại
đạo”, không am hiểu nhiều lĩnh vực chuyên môn trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Do đó, trong một số vụ án, Thẩm phán chưa biết cách đặt các
câu hỏi để làm rõ tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện. Chất lượng câu hỏi nói chung còn hạn chế, nhiều câu hỏi còn
dài, bị trùng lặp và còn mang tính gợi mở làm ảnh hưởng đến việc xác định sự
thật khách quan trong vụ án.
Về kỹ năng xây dựng, soạn thảo bản án và các quyết định tố tụng, ngoài
những lỗi chính tả thì vẫn còn một số bản án, quyết định trình bày chưa theo
mẫu thống nhất do TAND tối cao ban hành. Một số bản án thiếu sự mạch lạc,
câu từ còn lủng củng, lập luận thiếu chặt chẽ, phần nhận định và quyết định
68
trong bản án không thống nhất. Những hạn chế này đã phần nào làm mất đi
sức thuyết phục của bản án, quyết định sơ thẩm của TA.
- Về ý thức trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm làm công tác
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính: Bên cạnh những Thẩm phán nhiệt tình, tận
tụy, công tâm khi thực hiện nhiệm vụ thì vẫn còn một số Thẩm phán, Hội
thẩm chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xét xử
sơ thẩm các vụ án hành chính. Trong quá trình thực hiện thẩm quyền xét xử
họ chưa thực sự cố gắng, còn có biểu hiện chủ quan, ngại khó, không đầu tư
nghiên cứu, học hỏi để tích lũy kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực công
tác. Một số Thẩm phán, Hội thẩm có tư tưởng lệch lạc, cho rằng trong vụ án
hành chính thì người dân đương nhiên phải chịu thiệt thòi (vì “con kiến kiện
củ khoai”), cho nên khi xét xử họ có biểu hiện nể nang, thiên vị cho phía cơ
quan công quyền mà coi nhẹ việc bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của các
đương sự khác.
Như vậy, nguyên nhân cơ bản làm hạn chế đến chất lượng công tác xét
xử các vụ án hành chính xuất phát từ đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm làm công
tác xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND tỉnh Đăk Lăk chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu công tác trong tình hình và nhiệm vụ mới.
Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành còn hạn chế cũng là nguyên nhân
tác động đến chất lượng công tác xét xử. Lãnh đạo TAND (chủ yếu là cấp
huyện) thực hiện việc quản lý, chỉ đạo điều hành chủ yếu nghe qua báo cáo
của Thẩm phán (kể cả khi duyệt án). Một số lãnh đạo TAND cấp huyện khoán
trắng cho Thẩm phán, thiếu sự kiểm tra, chỉ đạo kịp thời nên không nắm được
tiến độ trong công tác giải quyết án. Thậm chí, có một số trường hợp, lãnh
đạo TA không nắm được tình hình, kết quả công tác cũng như thiếu sót hạn
chế của Thẩm phán. Việc rà soát, đánh giá, quy hoạch cán bộ, cử đi đào tạo...
tại một số đơn vị TAND cấp huyện chưa thực sự khách quan, vẫn xảy ra hiện
69
tượng quy hoạch theo cảm tính. Một số đơn vị chưa thực sự chú trọng đến
việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức
để thực hiện thẩm quyền xét xử. Đây chính là nguyên nhân tác động trực tiếp
đến tư tưởng của một số Thẩm phán dẫn tới việc thiếu an tâm công tác.
Mặt khác, việc chỉ đạo, kiểm tra, sơ kết về công tác xét xử sơ thẩm sơ
thẩm vụ án hành chính còn mang nặng tính hình thức, chưa đi sâu vào trọng
tâm của công tác chuyên môn; việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu
về năng lực xét xử sơ thẩm vụ án hành chính chưa được tiến hành thường
xuyên. Mối quan hệ phối hợp giữa TAND và VKSND cùng cấp chưa kịp thời,
cơ chế phối hợp chưa chặt chẽ làm hạn chế đến việc thực hiện nhiệm vụ của
các cơ quan và làm hạn chế đến hiệu quả công tác xét xử.
Thứ hai, nguyên nhân khách quan
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật TTHC và sự tuân thủ pháp luật
của các chủ thể trong TTHC là những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng
đến việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Luật TTHC năm 2015 đã có hiệu lực thi hành và từng bước đi vào thực
tiễn nhưng nhiều quy định mới liên quan đến việc thụ lý, xét xử vụ án chưa
được hướng dẫn và quy định chi tiết. Điều này dẫn đến việc hiểu và áp dụng
quy định của pháp luật vào công tác xét xử vụ án còn khó khăn, vướng mắc.
Những quy định của Luật TTHC năm 2015 như: Quy định về phiên họp xét
khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, quy định về thụ lý, giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, quy định về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại là những quy định mới và rất
cần thiết để rút ngắn thời gian giải quyết những vụ án hành chính đơn giản, rõ
ràng đồng thời bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHC. Những quy định
này cần được hướng dẫn chi tiết để các TAND nói chung và TAND tỉnh Đăk
70
Lăk nói riêng tránh khỏi những vướng mắc và sai phạm trong việc thụ lý, giải
quyết vụ án hành chính.
Mặc khác, Luật TTHC năm 2015 đã quy định nguyên tắc tranh tụng
được thể hiện ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc xét xử; đương sự có các
quyền được biết, được tiếp cận, công khai chứng cứ và trách nhiệm giao nộp
chứng cứ trong thời hạn do Thẩm phán ấn định, được tham gia đối thoại, được
trình bày và được biết chứng cứ của nhau. Tuy nhiên, Luật TTHC năm 2015
chưa quy định trách nhiệm của đương sự trong việc gửi ý kiến về việc chấp
nhận hay không chấp nhận chứng cứ do đương sự khác hoặc do Thẩm phán
thu thập là chưa thực sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng theo Hiến pháp năm
2013. Theo tác giả, để tạo thuận lợi cho việc xác định sự thật khách quan
trong vụ án và bảo đảm quyền của đương sự trong việc thu thập chứng cứ,
Luật TTHC cần bổ sung quy định giao cho Thẩm phán quyền quy định thời
hạn đương sự gửi ý kiến bằng văn bản đối với chứng cứ do bên kia nộp.
Trường hợp đương sự không gửi ý kiến thì được xem như đã chấp nhận chứng
cứ do phía bên kia cung cấp.
Mặt khác, trong thực tế xét xử các vụ án hành chính, một số trường hợp
người bị kiện cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân gây khó khăn cho Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ để
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Đây là nguyên nhân làm kéo dài
thời gian giải quyết vụ án và ảnh hưởng đến việc đánh giá tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính. Để giải quyết triệt để nguyên nhân
này, bên cạnh việc tăng cường giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền phổ biến
pháp luật, cần quy định những chế tài nghiêm khắc về trách nhiệm, nghĩa vụ
của đương sự, của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giao nộp, cung cấp
chứng cứ theo yêu cầu của TA để giải quyết vụ án hành chính nói chung và
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm nói riêng.
71
2.3. Một số kinh nghiệm thực tiễn rút ra từ thực tiễn thực hiện
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
tỉnh Đăk Lăk
Để nâng cao chất lượng công tác xét xử, TAND tỉnh Đăk Lăk phải thực
hiện nhiều giải pháp đồng bộ, bao gồm giải pháp nâng cao năng lực công tác
của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng và giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, việc tích lũy kinh
nghiệm từ thực tiễn công tác xét xử là một biện pháp quan trọng để nâng cao
năng lực xét xử của Thẩm phán. Từ những vi phạm về thủ tục tố tụng và vi
phạm về nội dụng trong các bản án sơ thẩm bị hủy và sửa án trên địa bàn tỉnh
Đăk Lăk trong những năm vừa qua, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
để tránh những sai lầm, thiếu sót trong việc tuân thủ pháp luật tố tụng và áp
dụng pháp luật để giải quyết vụ án hành chính sau đây:
2.3.1. Kinh nghiệm trong việc thực hiện thẩm quyền thụ lý vụ án
Thực tiễn công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính tại TAND hai
cấp tỉnh Đăk Lăk trong những năm qua cho thấy, việc thực hiện đúng quy
định của pháp luật về thụ lý vụ án là cơ sở đầu tiên, quan trọng để vụ án hành
chính được xét xử đúng pháp luật.
Một vụ án hành chính được thụ lý có căn cứ, đúng thẩm quyền phải đáp
ứng được các điều kiện sau: Người khởi kiện có quyền khởi kiện, đối tượng
khởi kiện được Luật TTHC quy định và thuộc thẩm quyền giải quyết của TA
đang xem xét thụ lý, thời hiệu khởi kiện vẫn còn, người bị kiện có thẩm
quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính bị
khởi kiện.
Nghiên cứu những bản án sơ thẩm hành chính bị TA cấp phúc thẩm
hủy án, tác giả nhận thấy một phần nguyên nhân dẫn đến việc hủy án là do
Thẩm phán vi phạm nghiêm trọng quy định về thụ lý vụ án và thu thập chứng
72
cứ. Vi phạm thường gặp trong việc thực hiện thẩm quyền thụ lý của TA cấp
sơ thẩm là việc xác định không đúng đối tượng khởi kiện và người bị kiện,
thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền hoặc người khởi kiện không có quyền
khởi kiện.
Do hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật TTHC năm 2015 để quy định chi tiết cách xác định đối
tượng khởi kiện (quyết định hành chính, hành vi hành chính nào là đối tượng
khởi kiện). Vì vậy, việc xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm thực tiễn. Theo tác giả, Thẩm phán cần xem xét kỹ yêu cầu
khởi kiện và đối chiếu với quy định tại các Điều 3, 30 Luật TTHC năm 2015
đồng thời phải chú ý đến các đặc điểm của quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị kiện. Ví dụ: Quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì người bị kỷ
luật phải là công chức (giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở
xuống); quyết định hành chính không nhất thiết phải là văn bản có tiêu đề
“quyết định” mà có thể là dạng văn bản như Thông báo, Kết luận, Công văn
do cơ quan quản lý hành chính (hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
quản lý nhà nước) ban hành nhưng nhất thiết phải là quyết định cá biệt và
mang tính bắt buộc thi hành. Quyết định hành chính làm phát sinh, thay đổi,
hạn chế, chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện mói là đối
tượng khởi kiện; quyết định hành chính không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của người khởi kiện thì không phải là đối tượng khởi kiện. Thẩm phán
cũng cần chú ý về thẩm quyền theo loại việc (những quyết định hành chính
nào được khởi kiện tại Tòa án theo quy định của Luật TTHC năm 2015). Từ
việc xác định đối tượng khởi kiện như trên, Thẩm phán phải xem xét kỹ yêu
cầu khởi kiện, nếu phát hiện người khởi kiện xác định sai đối tượng thì cần
hướng dẫn, yêu cầu người khởi kiện bổ sung, thay đổi đơn khởi kiện.
73
Việc xác định người bị kiện không chính xác xảy ra tương đối phổ biến
trong thực tiễn xét xử các vụ án hành chính. Để xác định đúng người bị kiện,
Thẩm phán phải xác định được thẩm quyền ban hành quyết định hành chính
hoặc thẩm quyền thực hiện hành vi hành chính (Thẩm quyền này do pháp luât
quy định). Trong trường hợp người có thẩm quyền ban hành quyết định hành
chính hoặc thực hiện hành vi hành chính ủy quyền cho người khác ra quyết
định hoặc ủy quyền thực hiện nhiệm vụ của mình thì người ủy quyền vẫn phải
chịu trách nhiệm về việc ủy quyền và họ là người bị kiện trong vụ án.
Về quyền khởi kiện, thực tế có trường hợp người khởi kiện không có
quyền khởi kiện vẫn được TA cấp sơ thẩm thụ lý vụ án để giải quyết dẫn đén
việc hủy án. Ví dụ, trường hợp người chồng thực hiện hành vi vi phạm hành
chính và bị xử phạt (Vợ ông không liên quan đến việc vi phạm hành chính
của chồng). Trường hợp này người vợ không có quyền khởi kiện. Thẩm phán
cần xác định người có quyền khởi kiện là người bị thiệt hại trực tiếp bởi quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện. Nếu người khởi kiện không
đáp ứng được điều kiện này phải dứt khoát trả lại đơn khởi kiện.
Để TA được thuận lợi trong việc thụ lý vụ án, cơ quan có thẩm quyền
cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật TTHC năm 2015, trong
đó hướng dẫn và quy định chi tiết việc xác định đối tượng khởi kiện, người bị
kiện, thẩm quyền giải quyết cũng như quyền khởi kiện vụ án hành chính.
Quá trình thực hiện thẩm quyền thụ lý vụ án hiện nay vẫn còn một số
quyết định hành chính, hành vi hành chính không được TA thụ lý giải quyết
do không thuộc thẩm quyền theo loại việc của Tòa án. Điều này dẫn đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân chưa được bảo đảm. Vì vậy, theo tác
giả cần xem xét bổ sung vào Luật TTHC nguyên tắc “Tòa án không được từ
chối yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” và Tòa án phải
thụ lý đối với các đơn khởi kiện của đương sự.
74
2.3.2. Kinh nghiệm trong việc thực hiện thẩm quyền lập hồ sơ, thu
thập chứng cứ
Việc thu thập chứng cứ không đầy đủ hoặc không tuân thủ quy định về
việc tổ chức đối thoại trong quá trình lập hồ sơ vụ án hành chính xảy ra tương
đối phổ biến, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Để khắc phục tình
trạng này, Thẩm phán cần xác định mục đích lập hồ sơ vụ án hành chính là
nhằm đánh giá, xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành
vi hành chính bị kiện. Từ đó, việc thu thập chứng cứ cũng phải thực hiện theo
các nhóm chứng cứ: Nhóm chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện (chứng
minh được ảnh hưởng của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đối
với quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện và chứng minh việc khởi kiện
đúng pháp luật) và nhóm chứng cứ chứng minh cho việc ban hành quyết định
hành chính (hoặc thực hiện hành vi hành chính) là hợp pháp. Từ đó, xác định
các loại tài liệu, chứng cứ cần thu thập và lập kế hoạch thu thập chứng cứ
nhằm bảo đảm cho việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Quá trình lập hồ sơ vụ án hành chính, Thẩm phán phải tuân thủ đúng
trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và nguyên tắc đối thoại theo quy định của
Luật TTHC năm 2015 nhằm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh
tụng theo tính thần cải cách tư pháp. Hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa
ban hành văn bản hướng dẫn việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại nên các Thẩm phán gặp nhiều khó
khăn khi lập hồ sơ vụ án.
2.3.3. Kinh nghiệm trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính tại phiên tòa là nhiệm vụ rất khó khăn của Hội
đồng xét xử. Để có một phán quyết khách quan, công bằng, Hội đồng xét xử
phải làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án nhằm xác định sự thật khách quan
75
trong vụ án. Kinh nghiệm cho thấy, thực hiện tốt việc hỏi tại phiên tòa là công
việc quan trọng, quyết định đến chất lượng xét xử vụ án hành chính nói chung
và vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm nói riêng.
Mặc dù đối tượng khởi kiện vụ án hành chính rất rộng và chưa có một
thống kê nào xác định được có bao nhiêu loại văn bản hoặc hành vi hành
chính có thể bị khởi kiện tại TA hành chính, tuy nhiên, để giải quyết bất cứ vụ
án hành chính nào Thẩm phán cũng cần phải làm rõ tính hợp pháp hay không
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Trên cơ sở
đối tượng cần chứng minh trong vụ án, Thẩm phán phải chuẩn bị kế hoạch hỏi
các đương sự tại phiên tòa. Cần lưu ý đặc điểm của người bị kiện trong vụ án
hành chính là người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ chuyên môn cao trong
cơ quản quản lý hành chính nhà nước nên Thẩm phán phải đầu tư, chuẩn bị
chu đáo các câu hỏi để tránh sự lúng túng (do Thẩm phán không có kiến thức
chuyên ngành).
Để xác định tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính, Hội đồng xét xử dựa vào yêu cầu khởi kiện, sự phản biện của người bị
kiện và ý kiến của người có quyền, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ của
vụ án, đối chiếu với quy định của pháp luật có liên quan để làm rõ các vấn đề:
Thẩm quyền ban hành quyết định, hình thức văn bản, trình tự ban hành văn
bản, thời hạn ban hành, căn cứ và nội dung của văn bản. Trường hợp đối
tượng khởi kiện là quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn phải xem xét
thời hiệu ban hành quyết định (pháp luật quy định nếu còn thời hiệu xử lý vi
phạm hành chính thì hình thức xử phạt khác với trường hợp đã hết thời hiệu
xử lý vi phạm).
76
Tiễn kết Chương 2
Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả đã nêu và phân tích làm rõ tình
hình khiếu kiện và thực trạng thực hiện thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ án hành
chính theo thủ tục sơ thẩm tại TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk trong thời gian từ
năm 2012 đến năm 2016. Trên cơ sở phân tích làm rõ những kết quả đạt được,
những hạn chế, vướng mắc trong công tác cùng những nguyên nhân dẫn tới
thực trạng, tác giả cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm để nâng cao chất
lượng công tác xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Cùng với việc phân tích các
nguyên nhân khách quan, chủ quan của thực trạng, tác giả cũng đưa ra một số
ý kiến cá nhân để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật TTHC.
Những nội dung của Chương 2 là tiền đề, là cơ sở để tác giả đề xuất các
giải pháp tại Chương 3 của Luận văn.
77
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK
3.1. Tình hình khiếu kiện hành chính trong xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính trong những năm tới trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk
3.1.1. Cơ sở khiếu kiện
Đăk Lăk là tỉnh có những lợi thế to lớn về tự nhiên và con người, đất
đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, về hệ động thực vật đa dạng, phong phú.
Thực hiện Kết luận số 60 - KL-TW ngày 27/11/2009 của Bộ Chính trị và
Quyết định số 87/2010/ QĐ - Ttg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, Đảng
bộ và nhân dân tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu xây dựng tỉnh
Đắk Lắk trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Nguyên và
xây dựng TP Buôn Ma Thuột trở thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên và
là TP trực thuộc Trung ương trước năm 2020. Những năm qua, Đăc Lăk chủ
trương xây dựng, phát triển nền kinh tế vững mạnh và toàn diện trên mọi lĩnh
vực: Nông lâm ngư nghiệp; điện năng và ngành công nghiệp (đặc biệt là khai
thác khoáng sản) và tiểu thủ công nghiệp; thương mại - dịch vụ - du lịch.
Trong những năm tới, trong điều kiện đất nước tiếp tục đổi mới, phát
triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương chủ Đảng, Đắk
Lắk là điểm đến quan trọng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Trong khi đó, cơ chế quản lý kinh tế và cải cách hành chính của
đất nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang từng bước được hoàn
thiện, nhiều chính sách pháp luật của nhà nước về quản lý đất đai, bồi thường,
giải phóng mặt bằng, quản lý thị trường, quản lý thuế… đã được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp để đáp ứng xu thế phát triển và hội nhập của đất nước. Tuy
78
nhiên, trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội của địa phương, việc áp dụng
chính sách pháp luật của nhà nước vào điều kiện thực tế của tỉnh Đắk Lắk
không thể tránh khỏi những bất cập và những tình huống mới phát sinh dẫn
đến việc khiếu kiện hành chính. Điều này cho thấy tình hình khiếu kiện hành
chính trong những năm sắp tới trên địa bản tỉnh Đắk Lắk sẽ ngày càng nhiều
và phức tạp.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, trình độ dân trí ngày
càng được nâng lên. Người dân Tây Nguyên ngày càng hiểu biết pháp luật,
hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật để phát huy được
quyền dân chủ của công dân và tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã
hội. Bên cạnh đó, việc ban hành Luật TTHC năm 2015 đã tạo sự thuận lợi rất
lớn cho cơ quan, tổ chức, các cá nhân trong việc thực hiện quyền khởi kiện
hành chính.
Những yếu tố trên cho phép dự báo tính hình khiếu kiện hành chính
trên địa bàn tỉnh Đắk Lăk ngày càng tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp
của khiếu kiện.
3.1.2. Nội dung khiếu kiện
Trong những năm tới, tình hình khiếu kiện hành chính tại TAND hai
cấp trên địa bản tỉnh Đắk Lăk sẽ diễn ra rất phức tạp, làm gia tăng về số lượng
thụ lý vụ án hành chính tại TA. Các khiếu kiện sẽ tập trung vào một số lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước nhưng chủ yếu tập trung vào những khiếu
kiện trong lĩnh vực quản lý đất đai, lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực thuế và dịch
vụ du lịch... Trong thời đại Internet và công nghệ số, số đơn gửi qua Cổng
thông tin điện tử của Tòa án sẽ tăng nhiều. Việc xử lý đơn khởi kiện sẽ phức
tạp hơn. Người khởi kiện vụ án hành chính không chỉ là cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong nước mà còn là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sinh
sống, làm việc tại tỉnh Đăk Lăk. Người khởi kiện sẽ phong phú, đa dạng hơn
79
về sắc tộc, quốc tịch như người Kinh, người dân tộc thiểu số, người nước
ngoài... Người khởi kiện không chỉ một, hai hoặc nhiều người mà có thể
nhiều cơ quan, tổ chức.
Do điều kiện kinh tế - xã hội những năm tới phát triển hơn về mọi mặt
nên đối tượng khiếu kiện sẽ phức tạp hơn. Người khởi kiện có thể kiện nhiều
quyết định hành chính hoặc nhiều hành vi hành chính, có thể vừa kiện cả
quyết định hành chính và hành vi hành chính trong các lĩnh vực. Ví dụ: Người
khởi kiện có thể vừa kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết
định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, vừa kiện
hành vi cưỡng chế hành chính; hoặc vừa kiện quyết định thu hồi đất và quyết
định bồi thường giải phóng mặt bằng, vừa kiện hành vi cưỡng chế thu hồi đất.
Lĩnh vực khởi kiện sẽ rất đa dạng, từ quản lý đất đai, quản lý thuế, quản lý thị
trường, lĩnh vực xây dựng, khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực cạnh tranh, khiếu kiện việc lập danh sách cử tri... Do người khởi kiện
ngày càng nắm vững quy định pháp luật nên mâu thuẫn trong tranh chấp hành
chính ngày càng gay gắt, phức tạp đòi hỏi Hội đồng xét xử phải không ngững
nâng cao năng lực bà bản lĩnh nghề nghiệp.
Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, khiếu kiện đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND
cấp huyện thuộc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. Hiện tại số
lượng thụ lý vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh đã tăng nhiều và sẽ tăng
mạnh hơn trong những năm tới, số lượng thụ lý vụ án hành chính của Tòa án
cấp tỉnh sẽ tăng mạnh hơn do nhu cầu quản lý hành chính, kinh tế, xã hội trên
địa bản không ngừng tăng lên.
Trên đây là những dự báo về tình hình khiếu kiện hành chính trên địa
bản tỉnh Đăk Lăk trong những năm tới. Dự báo này cho thấy trách nhiệm của
TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong
80
những năm tới rất nặng nề và khó khăn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính trong những năm tới, TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần
có sự chuẩn bị đầy đủ về các yếu tố như năng lực của đội ngũ Thẩm phán,
năng lực quản lý chỉ đạo, điều hành, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
công tác. Đây chính là các yếu tố nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét
xử của Tòa án.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
3.2.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công
tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính
Trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử vụ án hành chính nói riêng,
Hội đồng xét xử (với vai trò trung tâm là Thẩm phán) có quyền “cầm cân, nảy
mực”, nhân danh Nhà nước ra phán quyết về một vụ án, phán quyết này được
Nhà nước bảo đảm thi hành. Để nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án
hành chính, bảo đảm cho phán quyết khách quan, công bằng, Hội đồng xét xử
phải nhận thức được rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác này, từ đó xác
định trách nhiệm của mình khi giải quyết các khiếu kiện hành chính.
Khiếu kiện hành chính phát sinh một cách khách quan trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, do cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện khi nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị thiệt hại bởi
các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử phải làm
rõ tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, những vi
phạm, thiếu sót của cơ quan quản lý được phát hiện, chấn chính để củng cố
nhằm khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện. Như vậy, việc giải quyết vụ án hành chính
vừa mang ý nghĩa khắc phục những sai phạm, yếu kém trong công tác quản lý
81
hành chính, vừa nhằm mục đích nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy hành
chính, góp phần ổn định và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Do đối tượng khiếu kiện hành chính là quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước cho nên một số Thẩm phán có
tâm lý nể nang, thiên vị cho phía bị kiện dẫn tới việc xét xử thiếu khách quan.
Hậu quả của phán quyết sai lầm không chỉ làm thiệt hại đến quyền lợi hợp
pháp của đương sự mà điều quan trọng là sai phạm, thiếu sót của cơ quan
hành chính Nhà nước không được khắc phục, ảnh hưởng đến trật tự xã hội,
làm mất lòng tin của nhân dân với cơ quan quyền lực Nhà nước.
Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm cần nhận thức rõ ràng, đầy đủ mục
đích, ý nghĩa của công tác xét xử các vụ án hành chính, thấy được xét xử các
vụ án hành chính là nhiệm vụ, quyền hạn là trách nhiệm thiêng liêng, cao cả
để bảo vệ công lý, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ nhân dân.
Để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét
xử các vụ án hành chính, TAND tối cao với trách nhiệm quản lý các TAND
về mặt tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm3, cần
tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường giáo dục đạo đức, ý thức trách
nhiệm cho Thẩm phán và Hội thẩm, như tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng,
tập huấn giáo dục, vận động viết bài trên website của TAND tỉnh Đăk Lăk, tổ
chức các cuộc vận động học tập và làm theo tấm dương đạo đức và những lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành TAND... giúp cho Thẩm phán, Hội
thẩm nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Ngành cũng như ý nghĩa,
tầm quan trọng của công tác xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm cũng cần nỗ lực
82
học hỏi, kịp thời nắm bắt những quy định được sửa đổi, bổ sung hoặc mới ban
hành. Từ đó, Thẩm phán, Hội thẩm nhận thức đầy đủ về giới hạn, phạm vi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của minh và thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật trong quá trình xét xử các vụ án hành chính.
Về phía các đương sự, việc nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng
của công tác xét xử các vụ án hành chính giúp cho họ thực hiện nghiêm chỉnh,
các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Đương sự chấp hành giấy triệu tập, cung cấp
đầy đủ chứng cứ... sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của TA, góp phần
làm rõ sự thật khách quan của vụ án để các phán quyết của TA được khách
quan, kịp thời. Để đương sự nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của
công tác xét xử các vụ án hành chính, Thẩm phán có trách nhiệm giải thích
đồng thời phổ biến, hướng dẫn cho đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của họ trong các giai đoạn tố tụng.
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra,
giám sát của Tòa án nhân dân cấp trên đối với Tòa án nhân dân cấp dưới
Để nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính, đòi hỏi TAND các cấp nói chung và TAND tỉnh Đăk Lăk phải
tăng cường hơn nữa công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, tăng cường sự kiểm
tra giám sát của TAND cấp trên với TAND cấp dưới trong công tác xét xử vụ
án hành chính.
Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014, TAND được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc “độc lập theo thẩm quyền xét xử”; TAND tối cao có
nhiệm vụ “Giám đốc việc xét xử của các TA khác, tổng kết thực tiễn xét xử
của các TA, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Quản lý các
TAND và TA quân sự về tổ chức; Tổ chức công tác đào tạo; bồi dưỡng Thẩm
phán, Hội thẩm và các chức danh khác của TAND” . Tại các Tòa án, Chánh
án có nhiệm vụ “Tổ chức công tác xét xử của Tòa án nhân dân; chịu trách
83
nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” ; Chánh án TAND cấp tỉnh phải: “Tổ chức bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của TA tỉnh và
TAND cấp huyện” [14]. Vì vậy, việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành và tăng cường kiểm tra giám sát của TAND cấp trên đối với TAND
cấp dưới có vai trò, ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng,
hiệu quả công tác xét xử nói chung và công tác xét xử các vụ án hành chính
nới riệng. Việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra
giám sát trong nội bộ TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk được thực hiện qua một số
nội dung sau đây:
Thứ nhất, bố trí đủ biên chế cho Tòa hành chính TAND tỉnh và các
TAND cấp huyện; tăng cường những Thẩm phán có tinh thần trách nhiệm, có
trình độ năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm làm công tác xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính.
Trong điều kiện các vụ án nói chung và các vụ án hành chính nói riêng
được thụ lý ngày càng nhiều và càng phức tạp, biên chế của TAND các cấp còn
hạn chế; tình trạng Thẩm phán phải làm việc quá tải đang xảy ra tại nhiều
TAND địa phương. Điều này dẫn tới hệ lụy là Thẩm phán không có nhiều thời
gian nghiên cứu hồ sơ vụ án để nâng cao chất lượng xét xử. Việc bố trí đủ biên
chế giúp chia sẻ bớt áp lực, căng thẳng về công việc của Thẩm phán, tạo điều
kiện cho họ nghiên cứu, chuẩn bị kỹ càng trước khi đưa vụ án ra xét xử
Thứ hai, mặc dù Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử nhưng vẫn
phải chịu sự quản lý của Chánh án TAND cấp mình và chịu sự quản lý về tổ
chức của TAND tối cao, do đó, TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần thực hiện
đúng Chỉ thị, Kế hoạch chương trình công tác hàng năm của TAND tối cao.
Trên cơ sở chỉ tiêu nghiệp vụ của Chương trình công tác và điều kiện thực tế
của đơn vị mình, các TAND cấp huyện đề ra những biện pháp phù hợp, sát
84
đúng nhằm thực hiện nhiệm vụ mà TAND cấp tỉnh đặt ra. Các TAND phải
thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong
toàn Ngành.
Thứ ba, Chánh án TAND (đặc biệt là cấp huyện) phải có sự phân công,
phân nhiệm rõ ràng, đầy đủ theo yêu cầu công tác. Căn cứ vào tính chất của
vụ án, năng lực, sở trường, trình độ của Thẩm phán yêu cầu phục vụ nhiệm vụ
chính trị của địa phương, Chánh án TAND phân công việc thụ lý giải quyết
vụ án, bảo đảm thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, bảo
đảm cho vụ án được giải quyết kịp thời, khách quan, công bằng. Việc lãnh
đạo, chỉ đạo phải sâu sát, trực tiếp (nghe báo cáo và trực tiếp nghiên cứu hồ
sơ) để nắm được tình hình, diễn biến cũng những khó khăn, vướng mắc trong
công tác để kịp thời chỉ đạo hoặc có biện pháp hỗ trợ.
Chánh án TAND các cấp cần duy trì việc tổ chức giao ban định kỳ hoặc
đột xuất nhằm phân tích đánh giá những kết quả đạt được, giải quyết những
tồn tại, vướng mắc trong công tác và đề ra biện pháp chấn chỉnh những tồn
tại, yếu kém làm hạn chế đến chất lượng công tác để từ đó tổng kết rút kinh
nghiệm trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành nhằm nâng cao hiệu quả
công tác.
Thứ tư, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử nhưng vẫn phải chịu
sự quản lý của Chánh án TAND cấp mình và chịu sự quản lý về tổ chức của
TAND tối cao.. Do vậy, ở mỗi cấp TAND, các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm
tra viên, Thư ký TA phải quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Ngành, tuân thủ sự quản lý, chỉ đạo của Chánh án TAND
địa phương.
Thứ năm, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014, TAND cấp
dưới phải chịu sự kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ của TAND cấp trên. Quy
định này không làm mất đi sự độc lập trong xét xử của Thẩm phán và Hội
85
thẩm mà còn bảo đảm cho vụ án hành chính được xét xử kịp thời, xét xử đúng
quy định pháp luật, hạn chế việc hủy, sửa, cải án kéo dàu thời gian giải quyết,
ảnh hưởng đến uy tín của TA và quyền lợi hợp pháp của đương sự. Sự kiểm
tra, giám sát của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới thể hiện qua việc
nắm tình hình số liệu thụ lý, tiến độ và kết quả xét xử, kiểm tra việc lập hồ sơ,
thủ tục giải quyết, giải đáp, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho TAND
cấp dưới.
Thực tế cho thấy, công tác kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ
của TAND tỉnh Đăk Lăk đối với các TAND cấp huyện đã mang lại những
hiệu quả tích cực. Thông qua việc kiểm tra, giám sát, Thẩm phán nhận ra
những thiếu sót, sai phạm của mình để khắc phục nên chất lượng công tác xét
xử được nâng lên, Thẩm phán sẽ rút được những bài học kinh nghiệm về
nghiệp vụ và có ý thức nâng cao trách nhiệm của bản thân trong công tác xét
xử các vụ án hành chính.
Vì vậy, tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ của
TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới là yếu tố quan trong để nâng cao chất
lượng xét xử vụ án hành chính. Lãnh đạo TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk cần
chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thông tin báo cáo, thỉnh thị ý kiến của TAND
cấp trên về nghiệp vụ xét xử. Lãnh đạo TAND cấp trên cần tăng cường hơn
nữa công tác kiểm tra, giám sát nghiệp vụ của TAND cấp dưới nhằm phát
hiện những tồn tại, thiếu sót để kịp thời khắc phục, sửa chữa; đồng thời tăng
cường hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường thông báo rút kinh
nghiệm cho các TAND trong công tác xét xử.
3.2.3. Nâng cao năng lực, trình độ, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp,
kinh nghiệm và bản lĩnh công tác của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm
Làm thay đổi nhận thức của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm về công tác
xét xử vụ án hành chính, nâng cao trình độ và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp,
86
kinh nghiệm, bản lĩnh trong công tác cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm là
giải pháp quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng xét xử.
Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy của pháp luật
và được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm là người có phẩm chất
đạo đức, có lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín, có kiến thức pháp luật và hiểu
biết xã hội được bầu để tham gia xét xử theo sự phân công của Chánh án.
Thực tế cho thấy, mặc dù việc bổ nhiệm Thẩm phán hoặc bầu Hội thẩm được
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục và điều kiện do pháp luật quy định nhưng
vẫn còn tình trạng một số Thẩm phán thiếu năng lực và kinh nghiệm công tác,
một số Hội thẩm không am hiểu pháp luật hoặc nể nang, thiếu kiên quyết
trong việc bảo vệ công lý dẫn tới vụ án được giải quyết thiếu khách quan.
Nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm cần được TAND các
cấp và TAND tỉnh Đăk Lăk tiến hành và duy trì thường xuyên với một số nội
dung sau đây:
Thứ nhất, việc bổ nhiệm Thẩm phán, bầu Hội thẩm phải tuân thủ đúng
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những người dự tuyển ký thi tuyển
chọn Thẩm phán phải có đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại các Điều 67 và
68 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán là kỳ thi
quốc gia rất quan trọng và cần thiết nên cần phải tổ chức nghiêm trang, công
bằng. Từ khâu xét tuyển hồ sơ đến việc thi tuyển đều phải nghiêm túc, cần
nghiêm khắc loại bỏ tình trạng “nể nang”, “châm chước” dẫn tới hậu quả
Thẩm phán được bổ nhiệm không có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ.
Việc chọn, bầu Hội thẩm cũng cần phải thực hiện nghiêm túc, tuân thủ
đúng điều kiện, thủ tục do Luật Tổ chức TAND quy định, tránh tình trạng
chọn người thân quen không đủ điều kiện hoặc bầu theo cảm tính nhằm bảo
đảm khách quan và tuyển được người có năng lực hơn.
87
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật;
rèn luyện đạo đức và lối sống đúng đắn, trong sạch cho Thẩm phán, Hội thẩm
Quán triệt và động viên Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện tốt các văn kiện của
Đảng như Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc “học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, kết hợp với thực
hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức TAND” gắn với phong trào
thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “Gần dân,
hiểu dân, giúp dân, học dân” và “Tất cả để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân” nhằm xây dựng đội ngũ Thẩm phán "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp
vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm".
Ngoài việc trau dồi đạo đức của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Chánh
án TAND phải quan tâm, động viên đúng mức để đội ngũ Thẩm phán, Hội
thẩm duy trì và phát huy tinh thần tận tụy, yêu ngành yêu nghề, tinh thần hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Thứ ba, nhằm bảo đảm cho đội ngũ Thẩm phán có đủ năng lực, trình
độ, kỹ năng công tác, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện
nay, Chánh án TAND tỉnh Đăk Lăk cần thực hiện tốt Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ quy định về công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc cử cán bộ đi đào tạo cơ bản, cử tham gia
các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phải được cân nhắc tính đến yếu tố
công bằng, tránh để tình trạng người làm được việc thì cứ làm mãi, không có
cơ hội đi học; còn người yếu kém làm không được việc, thì cứ đi học mãi.
Mặt khác, TAND tỉnh cũng cần rà soát, kiểm tra, đánh giá năng lực của Thẩm
phán nhằm phát hiện những điểm thiếu sót, hạn chế của họ để có kế hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng. Ví dụ: Thường xuyên tổ chức những phiên tòa rút kinh
nghiệm hoặc yêu cầu nhận xét, đánh giá việc giải quyết những vụ án hành
88
chính phức tạp do Thẩm phán khác hoặc Tòa án khác đã xét xử;... để kiểm tra
năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm. Trên cơ sở đó lập kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đúng trọng tâm để thiết thực nâng cao năng lực, kinh nghiệm công tác
của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm.
Đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cũng cần lưu ý đến chất lượng, tính
thiết thực của chương trình, nội dung, phương pháp truyền đạt, đội ngũ giáo
viên, cũng như chất lượng thực chất của việc dạy và học; không nên chạy theo
điểm số, thành tích và càng không được phép thương mại hóa bằng cấp,
chứng chỉ. Hậu quả sẽ tai hại hơn rất nhiều nếu đào tạo cho ra sản phẩm là
những người đã được bằng cấp hóa mà năng lực chuyên môn vẫn yếu. Nhưng
trong lĩnh vực hoạt động tư pháp thì ảnh hưởng tiêu cực của nó sẽ rất tai hại.
Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng: Để nâng cao nâng lực xét xử của
Thẩm phán, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải thiết thực, phù hợp với việc
thực hiện chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán, Hội thẩm. Trong điều kiện đất
nước ngày cảng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng các vụ
án hành chính phức tạp và có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, đội ngũ
Thẩm phán không chỉ cần bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử
mà còn cần chú trọng nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ
trợ khác như kỹ năng sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại phục vụ cho
hoạt động xét xử.
Bên cạnh việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, TAND tỉnh cũng cần tổ
chức những cuộc duy trì tổ chức các đợt tập huấn, các cuộc họp, sinh hoạt
chuyên môn thường xuyên trong cơ quan nhằm nhắc nhở, chấn chỉnh, rút kinh
nghiệm công tác xét xử.
Ngoài ra, TANDTC cần thực hiện chính sách khuyến khích tự đào tạo
và có kế hoạch về việc đào tạo chuyên sâu thêm cho đội ngũ Thẩm phán, kể
89
cả hỗ trợ đi đào tạo ở nước ngoài. Đồng thời, có thể tăng cường hợp tác quốc
tế để tổ chức các lớp học tại chỗ mời chuyên gia về truyền đạt kiến thức mới.
3.2.4 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính
Thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng đặc biệt là tại phiên tòa sơ thẩm
không chỉ góp phần để Hội đồng xét xử xét xử vụ án khách quan, đúng pháp
luật mà còn kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của TA trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính. Chính vì vậy phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong TTHC đặc biệt là tại phiên tòa sơ thẩm. Thực hiện quan điểm chỉ đạo về
cải cách tư pháp của Đảng về “đẩy mạnh tranh tụng tại phiên tòa”, thể chế
hóa quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 về “nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Tuy nhiên, đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng không đồng nhất với việc thay thế hoàn toàn mô hình xét hỏi sang mô
hình tranh tụng mà cần phải tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của
mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong
thủ tục TTHC, thì nguyên tắc tranh tụng được thể hiện ngay từ khi thụ lý đến
khi kết thúc việc xét xử. Để duy trì những nội dung hợp lý của mô hình
TTHC, cần xác định rõ trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự (bao gồm
người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), TA
chỉ có nghĩa vụ xác minh thu thập chứng cứ và xét hỏi khi cần thiết. Thủ tục
TTHC cần phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh tụng như:
Quy định chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, thủ tục cung cấp chứng cứ, chứng
minh; coi trách nhiệm thu thập chứng cứ của đương sự là nội dung trọng tâm.
Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự do thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc ấn định, nhưng phải trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
ở cấp sơ thẩm, trừ trường hợp có trở ngại khách quan mà không thể giao nộp
chứng cứ đúng thời hạn. Chứng cứ do đương sự giao nộp phải được đương sự
90
chụp, sao thành nhiều bản. Khi nhận được chứng cứ, TA thông báo cho phía
bên kia biết chứng cứ do đương sự nộp. Nếu phía bên kia yêu cầu được
chuyển giao chứng cứ thì yêu cầu các bên giao nhận cho nhau, việc giao nhận
phải lập thành văn bản. Việc chuyển chứng cứ cũng có thể do TA chuyển bản
sao, bản chụp cho phía bên kia, kèm theo yêu cầu đương sự đưa ra ý kiến về
việc chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ đó, đồng thời gửi bản sao tài
liệu này đến VKSND cùng cấp đối với những trường hợp VKS tham gia
phiên tòa hoặc có yêu cầu. Thẩm phán quy định thời hạn nhất định yêu cầu
đương sự phải có ý kiến bằng văn bản đối với chứng cứ do bên kia nộp.
Trường hợp đương sự không có ý kiến thì được xem như đã chấp nhận chứng
cứ do phía bên kia cung cấp. Trong trường hợp cần phải thẩm tra lại chứng cứ
mà đương sự cung cấp thì TA có thể hoãn phiên tòa.
Phiên họp xem xét chứng cứ để đảm bảo việc thụ lý vụ việc được công
khai, minh bạch, đúng pháp luật, các bên được trình bày, được biết chứng cứ
của nhau cũng như đảm bảo tính có căn cứ, sự tồn tại của quyền, lợi ích cần
được bảo vệ. Phiên họp để công khai công bố các chứng cứ và xem xét các
chứng cứ các bên đưa và cung cấp cho TA; tại phiên họp, đương sự phải có
nghĩa vụ cam đoan đã cung cấp đầy đủ chứng cứ mà mình có đến thời điểm
mở phiên họp để bảo vệ yêu cầu của mình. Tại phiên họp các bên đương sự
trao đổi về căn cứ pháp lý giải quyết sự việc. Đây cũng là nội hàm của “Đối
thoại” đã được quy định trong Luật TTHC. Đương sự có quyền cung cấp bổ
sung chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi kết thúc việc xét
xử sơ thẩm.
3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật trong quần chúng nhân dân và các cá nhân, tổ chức có liên quan
Từ năm 1996, TA hành chính được thành lập với nhiệm vụ thụ lý giải
quyết các khiếu kiện hành chính. Khái niệm “xét xử vụ án hành chính” tuy
91
không còn xa lạ với người dân Việt Nam nhưng không it người dân vẫn chưa
nhận thức đúng và đầy đủ về khái niệm này. Trong những năm gần đây, tình
trạng khiếu nại và khởi kiện hành chính ngày càng tăng nhưng một số cơ
quan, tổ chức, cá nhân vẫn có quan niệm vụ án hành chính là vụ án “kiện
quan”. Việc giải quyết vụ án hành chính chỉ luôn nhằm bảo vệ cho “quan” với
tư cách là cơ quan nắm quyền, người dân chỉ là những “con kiến” không được
quan tâm, bảo vệ. Vì lý do này mà tranh chấp hành chính tuy rất phổ biến
nhưng người dân không mặn mà với việc khởi kiện tại TA. Nếu quá trình TA
giải quyết vụ án có yêu cầu họ giúp đỡ, hỗ trợ (như cung cấp tài liệu vật
chứng liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc ra làm chứng tại TA...) thì
không được họ tích cực ủng hộ, dẫn tới việc giải quyết vụ án không thuận lợi,
thời gian giải quyết vụ án kéo dài, việc xác định sự thật khách quan trong vụ
án gặp khó khăn. Do đó, làm thay đổi nhận thức và giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho người dân có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết trong việc xét
xử các vụ án hành chính. Đây là nhiệm vụ không kém phần khó khăn mà
TAND hai cấp tỉnh Đăk Lăk phải thực hiện.
Để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đối với công tác
xét xử các vụ án hành chính, TAND tỉnh cần phải áp dụng đồng bộ nhiều biện
pháp, như phổi hợp với các cơ quan tổ chức xây dựng kế hoạch tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về TTHC, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại phiên tòa, tổ
chức các phiên tòa hành chính lưu động...
Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại các phiên tòa là một trong
những chức năng, nhiệm vụ của TA. Thông qua việc xét xử công khai các vụ
án hành chính, người dân theo dõi, quan sát, đánh giá các hoạt động của Hội
đồng xét xử, nắm được trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết vụ án
qua việc hỏi, trả lời, tranh luận tại phiên tòa. Từ đó, nâng cao nhận thức pháp
luật cho người dân. Việc TA đưa ra xét xử kịp thời, đúng pháp luật các vụ án
92
hành chính sẽ góp phần tạo ra sự thay đổi lớn lao trong nhận thức của người
dân, tạo lòng tin của dân với TA. Đặc biệt, việc xét xử lưu động các vụ án
hành chính sẽ làm cho nhiều người dân có điều kiện được theo dõi phiên tòa,
làm cho họ thấy gần gũi, hiểu biết pháp luật hơn; họ có thể thực hiện đúng
những quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng kế hoach tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về TTHC cũng là một biện pháp TAND các cấp cần thực
hiện để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người dân. Hình thức truyên
truyền, giáo dục pháp luật được thực hiện rất phong phú, như: Tổ chức các
cuộc vận động nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và các cuộc thi tìm
hiểu về pháp luật TTHC, tổ chức các buổi nói chuyện, viết các bài đăng tải
trên phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng mạng lưới tuyên truyền giáo
dục pháp luật sâu rộng đến tận thôn, xóm, ấp, bản, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc ít người v.v.. Thông qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá
nhân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xét xử vụ án hành chính;
hiểu được trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải
quyết vụ án hành chính.
3.2.6. Bảo đảm cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm
Trang bị đầy đủ và đồng bộ cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật cho
các chủ thể làm công tác xét xử; quan tâm hơn nữa các chế độ ưu đãi và tôn
vinh những người làm công tác xét xử là một trong những yếu tố quan trọng
để nâng cao chất lượng công tác xét xử vụ án hành chính.
Cơ sơ vật chất, phương tiện, kỹ thuật có tác động rất lớn hoạt động xét
xử nói chung và xét xử các vụ án hành chính nói riêng. Nếu điều kiện làm
việc: Phòng làm việc, trang thiết bị, dụng cụ cần thiết cho thao tác nghiệp vụ
của thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm... được bố trí đầy đủ, hiện đại không
93
chỉ đáp ứng được yêu cầu công tác mà còn tạo ra không khí thoải mái, tự tin,
yên tâm cống hiến, phục vụ nhân dân. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
(như phần mềm nhận, xử lý đơn khởi kiện, quản lý án) giúp cho hoạt động xét
xử được nhanh chóng, thuận tiện và khoa học. Chánh án TAND không phải
khó khăn, vất vả trong việc quản lý toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành
chính: Những đơn khởi kiện nào chưa đủ điều kiện thụ lý hoặc phải chuyển
cho tòa án khác, những vụ án nào được đưa ra xét xử, vụ án nào quá hạn chưa
được xử lý, bản án nào bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị... Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân thuận tiện tra cứu văn bản pháp luật, án lệ, tham khảo khinh
nghiệm trong công tác xét xử các vụ án. Mặt khác, nếu hội trường xét xử
được trang bị hiện đại có thể truyền đi kịp thời những diễn biến tại phiên tòa
để góp phần phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân
dân, giúp họ hiểu đúng và làm đúng quy định của pháp luật. Như vậy, cơ sở
vật chất, trang thiết bị làm việc hiện đại có vai trò rất lớn cho công tác xét xử.
Với cơ quan TAND tỉnh Đăk Lăk trong điều kiện hiện nay, cơ sở vật
chất còn quá thiếu thốn. Thậm chí trụ sở, các trang thiết bị văn phòng, phương
tiện đi lại còn quá khó khăn, chưa đảm bảo đáp ứng được yêu cầu công tác.
TAND các cấp trên địa bản tỉnh cần được trang bị thêm các phương tiện kỹ
thuật hiện đại giúp cho việc nhận đơn, thụ lý vụ án, xác minh, thu thập chứng
cứ được nhanh chóng, chính xác. Nhiệm vụ đặt ra cho UBND và TAND tỉnh
Đăk Lăk hiện nay không chỉ là hiện đại hóa trang thiết bị để nâng cao chất
lượng xét xử (các vụ án nói chung và xét xử vụ án hành chính nói riêng), mà
nhiều TAND cấp huyện còn phải đặc biệt chú ý sửa, nâng cấp trụ sở làm việc
nhằm đảm bảo tính tôn nghiêm của các cơ quan nhân danh quyền lực nhà
nước. Vì vây, UBND, TAND tỉnh Đăk Lăk cần quan tâm, trang bị kịp thời,
đầy đủ trang thiết bị và các phương tiện hiện đại để phục vụ công tác, như các
phần mềm quản lý án, máy tính xách tay, máy ghi âm, ghi hình, phương tiện
94
thông tin, phương tiện liên lạc... Ngoài ra, cũng cần bồi dưỡng kiến thức và
kỹ năng áp dụng công nghệ thông tin vào công tác xét xử. Thực tế cho thấy,
khi công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả tích
cực trong việc quản lý hồ sơ, giải quyết các vụ án đã giúp cho Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử vụ án được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. TAND
tỉnh Đăk Lăk cũng cần cập nhật những kỹ thuật tiên tiến, tương ứng với trình
độ phát triển của xã hội và yêu cầu của công tác xét xử để đáp ứng được yêu
cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm.
Về tiền lương và chế độ ưu đãi đối với Thẩm phán, Hội thẩm cũng như
Thaamt tra viên, Thư ký TA, TAND tối cao cần phải quan tâm đặc biệt đối
với những người làm công tác xét xử. Trước hết, do đặc thù công việc của họ
quá vất vả và chịu nhiều áp lực nên cần có sự ưu đãi. Khi đồng lương cán bộ
làm công tác xét xử còn quá thấp, không đảm bảo cuộc sống, trong khi công
việc lại thường xuyên bị cảm dỗ bởi những lợi ích vật chất được đưa đến từ
phía các đương sự sẽ không tránh khỏi những băn khoăn. Vì vậy, muốn khắc
phục một cách cơ bản tình trạng cán bộ bị đồng tiền thao túng, thì việc cải
thiện tiền lương và các chế độ trợ cấp cho những cán bộ làm công tác tư pháp
là một trong những giải pháp rất cơ bản. Làm sao để mỗi cán bộ đều toàn tâm,
toàn ý phục vụ công tác, không phải lo lắng nhiều đến việc kiếm sống, lúc ấy
tình trạng xét xử sai lệch, thiếu công bằng chắc chắn sẽ được đẩy lùi một
bước cơ bản.
Đảng, Nhà nước và mọi người dân đều tin tưởng vào sự khách quan,
trung thực, chí công, vô tư của Hội đồng xét xử. Ngành TAND tỉnh Đăk Lăk
cần đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, thực hiện
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cán bộ ngành Tòa án: “Phụng công thủ
pháp, chí công, vô tư”. Thẩm phán và Hội thẩm là những người phải gánh vác
trách nhiệm vô cùng lớn lao, nhân danh Nhà nước để bảo vệ công lý, bảo vệ
95
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của mọi
người dân nên Nhà nước và xã hội yêu cầu họ phải luôn gương mẫu.
Để bảo đảm trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật cho hoạt động xét xử,
bên cạnh việc đầu tư nâng cấp thiết bị, trang bị thêm những máy móc, phương
tiện kỹ thuật cần thiết, UBND, TAND tỉnh Đăk Lăk có thể khuyến khích sự
giúp đỡ vô tư về trang thiết bị, về kỹ thuật tiên tiến từ các tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài (không nhằm mục đích can thiệp vào quá trình giải
quyết công tác chuyên môn của Tòa án).
3.2.7 Giải pháp đối với các cơ quan quản lý hành chính địa phương
Kiến nghị các cơ quan quản lý hành chính nhất là chính quyền địa
phương thuộc UBND cấp huyện khi thực hiện nhiệm vụ thẩm quyền thẩm
quyền của mình cần áp dụng đúng các quy định của pháp luật.
Việc giải quyết khiếu nại tố cáo cần giải quyết dứt điểm.
Để hạn chế đến mức thấp nhất những khiếu kiện, Uỷ ban nhân dân cấp
huyện phải làm tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ đồng thời không ngừng tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, thực
hiện tốt công tác dân vận, có như vậy mới thực sự gần dân. Khi có khiếu nại,
tố cáo phát sinh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải giải quyết kịp thời, đúng
pháp luật sẽ sớm chấm dứt vụ việc, ngược lại nếu không giải quyết ngay, hoặc
giải quyết không đúng thì vụ việc sẽ trở lên phức tạp, tiếp khiếu lên cấp trên
hoặc phát sinh thành điểm nóng, gây mất ổn định, ảnh hưởng xấu đến sự đoàn
kết của cộng đồng dân cư, bỏ lọt tội phạm, thiệt hại về tính mạng, tài sản,
danh dự, uy tín… của công dân và Nhà nước. Chính vì vậy mà Uỷ ban nhân
dân cấp huyện cần hết sức coi trọng và làm tốt công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo ở cơ sở thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Ngoài ra, thực hiện tốt
công tác này còn giúp các cơ quan Nhà nước kịp thời phát hiện những sai
lầm, hạn chế trong hoạt động của mình để uốn nắn, sửa chữa nhằm nâng cao
96
hiệu quả quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, để hạn chế những khiếu kiện, cấp cơ
sở cũng cần thường xuyên kiểm tra, xem xét những hoạt động quản lý của
mình.
Tiễn kết Chương 3
Xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
bộ máy hành chính Nhà nước. Để nâng cao chất lượng công tác xét xử, cần
phải dự báo chính xác về tình hình thụ lý cũng như tính chất mức độ của các
khiếu kiện hành chính trong những năm tới để có sự chuẩn bị đầy đủ. Trong
Chương 3 của luận văn, tác giả đã làm rõ cơ sở và nội dung của dự báo về
tình hình thụ lý và tính chất mức độ của các khiếu kiện hành chính trong
những năm tới trên địa bản tỉnh Đăc Lăk, đồng thời làm rõ những giải pháp để
nâng cao chất lượng công tác xét xử vụ án hành chính. Tại Tòa án nhân dân
tỉnh Đăc Lăk. Đây là những vấn đề tác giả rút ra quan nghiên cứu thực trạng
của công tác xét xử vụ án hành chính trên địa bản tỉnh Đăc Lăk trong những
năm gần đây.
97
KẾT LUẬN
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là cấp xét xử đầu tiên và có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hành chính, Việc xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính được khách quan, chính xác sẽ giảm thiểu được việc kháng
cáo, kháng nghị, rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án và củng cố lòng tin
của nhân dân với cơ quan xét xử.
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là chức năng, nhiệm vụ của TAND
theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. Trong quá trình này,
TA cấp sơ thẩm thực hiện những quyền hạn của mình để xem xét, đánh giá
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện và
nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyến khách quan, công bằng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước.
Cùng với sự phát triển của đất nước và sự hoàn thiện của hệ thống pháp
luật TTHC, những năm qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án hành chính của TAND tỉnh Đăk Lăk đã có những kết quả đáng khích lệ:
Tỷ lệ án giải quyết luôn đạt và vượt chỉ tiêu giải quyết theo quy định của
Ngành, chất lượng xét xử các vụ án hành chính ngày càng được cải thiện,
không có bản án nào tuyên không rõ dẫn đến khó thi hành, tỷ lệ án sơ thẩm bị
hủy và sửa án đã từng bước được khống chế... Tuy nhiên, cũng như các
TAND địa phương khác, công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính tại
TAND tỉnh Đăk Lăk không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế làm ảnh
hưởng đến uy tín của ngành TAND.
Để góp phần nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của TAND
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính, luận văn đã tập trung nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính và
98
những quy định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của TAND trong xét
xử sơ thẩm các vụ án hành chính. Luận văn cũng làm rõ thực trạng thực hiện
thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk thông qua các phương pháp khảo sát thực tế, phân tích tổng
hợp, phỏng vấn các Thẩm phán, Hội thẩm có nhiều kinh nghiệm trong công
tác xét xử vụ án hành chính. Trên cớ sở phản ảnh trung thực những kết quả
đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác, Luận văn đã phân tích, đánh
giá làm rõ những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến thực trạng thực
hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Từ đó,
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng thực hiện thẩm
quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính.
Những kết quả đạt được trong luận văn thể hiện nỗ lực, cố gắng của tác
giả, sự giúp đỡ nhiệt tình và có trách nhiệm của các thầy cô, các nhà khoa
học, các đồng chí đồng nghiệp là Thẩm phán Tòa Hành chính TAND tỉnh
Đăk Lăk, các Thẩm phán TAND các địa phương trong tỉnh và đặc biệt là thầy
giáo hướng dẫn khoa học luận văn này.
Do điều kiện công tác bận rộn và khả năng nghiên cứu của tác giả còn
hạn chế, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định.
Tác giả luận văn rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến chân thành
của các nhà khoa học và các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ chính trị, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới ”.
2. Bộ chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “ Về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020”.
3. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ”.
4. Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 230-TB/TW ngày 26.3.2009 về
sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5. Bộ Chính trị, Kết luận số 60 - KL-TW ngày 27/11/2009, Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Chính “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo
Luật TTHC Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành “Lý luận và Lịch sử
Nhà nước và pháp luật”- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
7. Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Luật Hành chính và Tài
phán hành chính Việt Nam (2008); Nhà xuất bản Chính trị, năm 2008, Hà Nội.
8. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012 – 2016), Báo cáo Tổng kết công
tác các năm.
9. Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lăk (2012 - 2016) Các Bản án
hành chính sơ thẩm, phúc thẩm, các quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án
hành chính.
10. Phòng 10-Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012 – 2016), Báo
cáo Tổng kết công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, Kinh
doanh thương mại, Lao động.
100
11. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lăk, Một số Thông báo rút kinh
nghiệm của trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính,
Kinh doanh thương mại, Lao động.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp
năm 2013; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2013, Hà Nội.
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2014; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2014, Hà Nội.
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật
Tố tụng hành chính năm 2010; Nhà xuất bản Chính trị, năm 2010, Hà Nội.
15. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tố tụng
hành chính năm 2015; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà nội- năm 2015
16. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính năm 1996;
17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 87/2010/QĐ - Ttg về phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020.
18. Trung tâm Thông tin khoa học – Viện Nghiên cứu lập pháp của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội – 2010, Pháp luật về Tố tụng hành chính một số
nước và kinh nghiệm tham khảo đối với Việt Nam
19. Nguyễn Văn Thuân (2016), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12
trang 28, Thẩm quyền của Tòa án theo Luật TTHC năm 2015, Hà Nội.
20. Từ điển tiếng Việt thông dụng, (1996), NXB Giáo dục, Hà Nội
21. Từ điển Luật học, (2006), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
22. Vũ Thị Hòa (2011), “ Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử
theo Luật tố tụng hành chính 2010” Tạp chí kiểm sát, số 8, Hà Nội.
101