BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------------------------------------

PHẠM ĐỨC PHÚ

THANH KHOẢN VÀ MỨC ĐỘ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

--------------------------------------

PHẠM ĐỨC PHÚ

THANH KHOẢN VÀ MỨC ĐỘ RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Thanh khoản và mức độ rủi ro của các ngân

hàng thương mại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài dựa trên số

liệu thực tế của 20 NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2017 được công bố rộng

rãi trên thị trường. Các tài liệu tham khảo và kế thừa được trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

PHẠM ĐỨC PHÚ

MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ

TÓM TẮT ................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU .................................................................................... 2

1.1. Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................... 2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu....................................................... 3

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 3

1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 3

1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 3

1.4. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................. 4

1.5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4

1.6. Bố cục của nghiên cứu ....................................................................................... 5

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 6

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ CÁC TÀI LIỆU

NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ................................................................................... 7

2.1. Cơ sở lý thuyết.................................................................................................... 7

2.1.1. Rủi ro Ngân hàng ............................................................................................. 7

2.1.2. Rủi ro tín dụng .................................................................................................. 7

2.1.3. Thanh khoản Ngân hàng và rủi ro thanh khoản Ngân hàng ............................. 8

2.1.3.1. Định nghĩa thanh khoản Ngân hàng ............................................................ 8

2.1.3.2. Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng .............................................................. 9

2.1.3.3. Đo lường thanh khoản ngân hàng .............................................................. 11

2.2. Tổng quan về các tài liệu nghiên cứu trước đây .............................................. 12

2.2.1. Rủi ro thanh khoản và rủi ro ngân hàng ......................................................... 13

2.2.2. Quy mô ngân hàng ......................................................................................... 16

2.2.3. Khủng hoảng tài chính toàn cầu ..................................................................... 18

TÓM TẮT CHƯƠNG II ........................................................................................... 20

CHƯƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................... 22

3.1. Dữ liệu .............................................................................................................. 22

3.2. Mô hình và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 23

3.2.1. Mô hình nghiên cứu ....................................................................................... 23

3.2.2. Các đại diện rủi ro thanh khoản của ngân hàng. ............................................ 26

3.2.3. Các đại diện cho rủi ro ngân hàng .................................................................. 26

3.2.3.1. Rủi ro tín dụng ........................................................................................... 26

3.2.3.2. Rủi ro tổng thể ........................................................................................... 27

3.2.4. Phương pháp ước lượng ................................................................................. 27

3.2.4.1. Hồi quy dữ liệu bảng.................................................................................. 27

3.2.4.2. Hệ số tương quan Pearson ......................................................................... 28

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 30

CHƯƠNG 4. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ................................................ 32

4.1. Tổng quan về thị trường ngân hàng Việt Nam ................................................. 32

4.1.1. Tăng trưởng tín dụng ...................................................................................... 32

4.1.2. Tăng trưởng dịch vụ ....................................................................................... 34

4.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình ........................................................... 35

4.3. Kiểm định tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình .......................... 38

4.4. Bằng chứng thực nghiêm về mối quan hệ giữa thanh khoản và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng ......................................................................................... 40

4.5. Kiểm định tính vững ......................................................................................... 45

TÓM TẮT CHƯƠNG IV .......................................................................................... 47

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ..................................... 48

5.1. Kết luận ............................................................................................................ 48

5.2. Hàm ý chính sách ............................................................................................. 50

5.3. Hạn chế của đề tài............................................................................................. 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 52

PHỤ LỤC .................................................................................................................. 54

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Số thứ tự 1 2 3 4 5 Diễn giải Rủi ro thanh khoản Rủi ro ngân hàng Rủi ro tín dụng Thị trường tài chính Thương mại cổ phần

Chữ viết tắt RRTK RRNH RRTD TTTC TMCP

DANH MỤC BẢNG Bảng 4.1 Thống kê mô tả biến ................................................................................. 39

Bảng 4.2 Tương quan Pearson ................................................................................. 39

Bảng 4.3.Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng ..................... 40

Bảng 4.4. Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng lớn.............. 43 Bảng 4.5 Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hang trong suốt giai

đoạn khủng hoảng tài chính ...................................................................................... 44

DANH MỤC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ Hình 4.1 Tăng trưởng tính dụng qua các năm (nguồn Vietstock) ........................... 33

1

TÓM TẮT Nghiên cứu này tìm hiểu về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của Ngân

hàng sử dụng dữ dữ liệu của 20 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ 2007

đến 2017.

Kết quả thực nghiệm cho thấy các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu

hướng chấp nhận rủi ro cao hơn. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu

trước đây, theo đó các ngân hàng thu hút được một khối lượng tiền gửi lớn tương

ứng với rủi ro thanh khoản thấp thì nhà quản lý của các ngân hàng thường có xu

hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn, thể hiện qua việc giảm mạnh lãi suất cho vay để

gia tăng dư nợ tín dụng, đồng thời gia tăng lợi ích cá nhân của họ.

Tác giả cũng xem xét liệu đối với các ngân hàng có quy mô khác nhau kết quả

tương tự có xảy ra không? Kết quả thực nghiệm cung cấp các bằng chứng hỗ trợ giả

thuyết các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi

ro ít hơn.

Luận văn cũng khám phá mối liên kết giữa thanh khoản và rủi ro ngân hàng trong

giai đoạn khủng hoảng và phát hiện rằng rủi ro ngân hàng giảm trong giai đoạn

khủng hoảng ở các ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp.

Ngoài ra để kiểm định tính vững của thanh khoản và rủi ro của ngân hàng tác giả

đưa vào mô hình nghiên cứu các biến vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất

nghiệp) và biến giả quy mô tiền gửi (HL). Kết quả cho thấy mô hình đề xuất vững

và phù hợp.

Từ khóa: Rủi ro thanh khoản, rủi ro ngân hàng, thanh khoản ngân hàng, chỉ số

Z-score.

2

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh nghiên cứu

Trước sức ép cạnh tranh từ tiến trình hội nhập và đặc biệt là sau khủng hoảng kinh

tế - tài chính thế giới 2007 - 2009, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng

trước những thách thức và cơ hội rất lớn. Việc cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận là

một câu hỏi quan trọng mà mỗi ngân hàng phải quan tâm, từ đó tìm ra hướng đầu tư

mới mang lại hiệu quả cao nhất. Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam vẫn đang

trong giai đoạn non trẻ với nghiệp vụ chủ yếu là tín dụng và huy động vốn. Thu

nhập thuần từ nghiệp vụ tín dụng mang lại hiệu quả cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều

rủi ro cho ngân hàng, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải đưa ra mức chấp nhận rủi ro riêng

với hoạt động này.

Ngân hàng trong vai trò là một trung gian là người tạo thanh khoản cho thị trường,

cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản. Khi các ngân hàng không đáp ứng được tất cả

các nghĩa vụ nợ ngắn hạn thì rủi ro thanh khoản xuất hiện. Nguồn gốc chính của rủi

ro thanh khoản đến từ các sản phẩm ngân hàng yếu kém, được thể hiện bởi việc bố

trí thời gian huy động vốn ngắn hơn so với thời gian cho vay mượn. Thời gian ký

quỹ ngắn nghĩa là ngân quỹ có thể bị người gửi tiền rút ra tại bất cứ thời gian nào

cũng như khi chúng đến hạn, trong khi vốn huy động được thì vẫn còn ở trong các

hình thức tín dụng đang lưu thông trên thị trường (Diamond và Rajan, 2001). Nếu

việc rút tiền xảy ra trong một quy mô lớn còn gọi là sự kiện rút tiền hàng loạt (bank-

run), ngân hàng sẽ bị các vấn đề thanh khoản. Nếu vấn đề thanh khoản không thể

giải quyết thì ngân hàng sẽ mất thanh khoản và không còn khả năng đáp ứng việc

rút tiền hàng loạt từ người gửi tiền. Điều này có thể dẫn sự mất tin tưởng của công

chúng vào ngành ngân hàng và hiện tượng người gửi tiền rút tiền hàng loạt hay

bank-run có thể gây ra hiện tượng lây nhiễm, hay nói cách khác là một bank-run ở

ngân hàng này có thể dẫn đến một bank-run ở ngân hàng khác vì sự mất lòng tin của

công chúng vào hệ thống ngân hàng. Nếu hiệu ứng lây nhiễm này gây ra bank-run

lên tất cả các ngân hàng đang tồn tại, thì khủng hoảng tài chính sẽ có thể xảy ra.

3

Thanh khoản dồi dào có thể giúp các ngân hàng giảm rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên

theo nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, các ngân hàng có thanh khoản cao có

xu hướng tự tin quá mức và đầu tư mạo hiểm hơn. Điều này dẫn đến gia tăng tỷ lệ

nợ xấu và rủi ro cho ngân hàng, nếu nhân rộng ra là cả hệ thống tài chính.

Theo báo cáo của Vụ dự báo – Thống kê (thuộc ngân hàng Nhà nước) về xu hướng

kinh doanh quý II/2017 đối với các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước

ngoài tại Việt Nam cho thấy, trong quý I/2017, thanh khoản của hệ thống ngân hàng

tiếp tục dồi dào trong khi nợ xấu vẫn không đổi.

Để tìm hiểu mối quan hệ hệ giữa thanh khoản và mức độ rủi ro của ngân hàng tác

giả thực hiện đề tài này. Hiểu được bản chất các rủi ro ngân hàng đến từ đâu có thể

gúp các ngân hàng và các cơ quan chính phủ có những chính sách và giải pháp phù

hợp.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa thanh khoản và mức độ rủi ro của các ngân

hàng thương mại ở Việt Nam.

1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu

 Liệu các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi

ro cao hơn không?

 Các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi

ro ít hơn hay không?

 Trong giai đoạn khủng hoảng, các ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp

thì rủi ro ngân hàng sẽ tăng hay giảm?

1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2017.

Đối tượng nghiên cứu Mối liên hệ giữa thanh khoản và rủi ro của ngân hàng.

4

1.4. Dữ liệu nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã qua kiểm toán cuối

năm tài chính của 20 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ 2007 đến 2017.

Rủi ro của ngân hàng được đại diện bởi hai biến là tỷ số dự phòng rủi ro tín dụng

trên tổng tài sản (LLP) và chỉ số Z-score đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng

thông qua biến động của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA. Việc sử dụng hai

biến phụ thuộc, ngoài mục đích tính đến các phương pháp đo lường rủi ro ngân

hàng khác nhau, tác giả còn muốn kiểm định tính vững của mô hình.

Rủi ro thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông qua tỷ số giữa tiền gửi huy

động trên tổng tài sản (Deposit). Tỷ số Deposit càng cao thể hiện rủi ro thanh khoản

của ngân hàng càng thấp.

Biến kiểm soát được sử dụng trong mô hình là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản

(ROA), tỷ số dư nợ cho vay (Loan_ratio) và tỷ lệ vốn chủ sở hữu (Equity_ratio).

Để tính đến tác động theo quy mô ngân hàng và tác động của cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2007-2009, tác giả sử dụng biến giả quy mô (Big) và biến giả khủng

hoảng (GFC).

Cuối cùng để kiểm định tính vững của mô hình, tác giả đưa thêm vào mô hình các

biến vĩ mô là tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp và biến giả quy mô tiền gửi

(HL) phân loại các ngân hàng dựa trên việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao hay

thấp.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng – mô hình hồi quy gộp để xem

xét mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và mức độ rủi ro của ngân hàng.

Ba giả thuyết nghiên cứu được kiểm định qua ba mô hình sau:

Mô hình 1: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng.

Riski,t= αDepositi,t + βControlsi,t + εi,t

Mô hình 2: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng lớn.

Riski,t= α1Depositi,t*BIGi,t + α2Depositi,t + γBIGi,t + βControlsi,t + εi,t

5

Mô hình 3: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng trong

suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính.

Riski,t= α1Depositi,t*GFCi,t + α2Depositi,t + γGFCi,t + βControlsi,t + εi,t Để kiểm định tính vững của mô hình 1, tác giả sử dụng biến giả quy mô tiền gửi HL

phân loại các ngân hàng dựa trên việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao hay thấp và

các biến vĩ mô:

Mô hình 4: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có tiền

gửi cao.

Riski,t= α1Depositi,t*HLi,t + α2Depositi,t + γHLi,t + βControlsi,t + εi,t Mô hình 5: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có tính

đến tác động của các nhân tố vĩ mô.

Riski,t= αDepositi,t + βControlsi,t + µGDPt + γUnemployt + εi,t

1.6. Bố cục của nghiên cứu

Nghiên cứu gồm 5 chương:

 Chương 1: Giới thiệu chung về nghiên cứu bao gồm tầm quan trọng của đề

tài, mục tiêu, đối tượng, phạm vi, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu.

 Chương 2: Tổng quan về các tài liệu nghiên cứu trước đây.

 Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu.

 Chương 4: Bằng chứng thực nghiệm

 Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.

6

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Trong chương này luận văn trình bày tính cấp thiết của đề tài dẫn đến mục tiêu

nghiên cứu. Dựa trên thực tế và có cơ sở lý thuyết cho rằng thanh khoản dồi dào có

thể giúp các ngân hàng giảm rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên theo nhiều nghiên cứu

trong và ngoài nước, các ngân hàng có thanh khoản cao có xu hướng tự tin quá mức

và đầu tư mạo hiểm hơn. Điều này dẫn đến gia tăng tỷ lệ nợ xấu và rủi ro cho ngân

hàng, nếu nhân rộng ra là cả hệ thống tài chính. Từ đó thôi thúc tác giả thực hiện đề

tài khám phá mối quan hệ hệ giữa thanh khoản và mức độ rủi ro của các ngân hàng

thương mại Việt Nam. Hiểu được bản chất các rủi ro ngân hàng đến từ đâu có thể

gúp các ngân hàng và các cơ quan chính phủ có những chính sách và giải pháp phù

hợp.

Chương này cũng giới thiệu tổng quan về dữ liệu, phương pháp nghiên cứu và bố

cục của bài nghiên cứu.

7

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ CÁC TÀI LIỆU

NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1. Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Rủi ro ngân hàng Rủi ro ngân hàng được xem như là sự bất trắc không mong đợi trong hoạt động của các ngân hàng, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được. Trong hoạt động kinh tế

nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh

khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện

kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước

các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.

Các ngân hàng thường phải đối mặt với 6 rủi ro cơ bản sau: Rủi ro tín dụng, rủi ro

lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro ngoại hối, rủi ro nguồn vốn, rủi ro hoạt động. Do

đặc trưng hoạt động của ngân hàng nên rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản là hai

rủi ro quan trọng nhất.

2.1.2. Rủi ro tín dụng Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM, đem lại lợi nhuận

lớn nhất nhưng cũng là loại rủi ro lớn nhất của NHTM. Rủi ro tín dụng được đề cập

ở đây là rủi ro trong hoạt động cho vay, cấp tín dụng của NHTM. Theo quan niệm

của Ủy ban Basel (2000) thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên

đối tác của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận”. Theo khái

niệm này thì rủi ro tín dụng có phạm vi khá rộng, không chỉ trong quan hệ tín dụng

giữa NH với khách hàng mà trong cả các hoạt động khác như đầu tư, phái sinh mà

ngân hàng thực hiện.

Tại Điều 3, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của NHNN nêu rõ: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động NH (sau đây gọi tắt là rủi ro) là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Khái niệm này đã được trao đổi, thảo luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách,…trong quá trình ban hành văn bản pháp quy này. Cụ thể như sau: Rủi ro tín dụng là những khoản tổn thất phát sinh trong trường hợp

8

ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.

2.1.3. Thanh khoản Ngân hàng và rủi ro thanh khoản Ngân hàng

2.1.3.1. Định nghĩa thanh khoản Ngân hàng Thanh khoản được xem như là một sự dễ dàng/ nhanh chóng một tài sản này được

chuyển đổi thành một tài sản khác thông qua giao dịch. Do đó thanh khoản có thể

cũng được diễn giải như sự dễ dàng/ nhanh chóng chuyển đổi một tài sản thành tiền

trong giao dịch.

Tài sản thanh khoản nhìn chung được sử dụng để đáp ứng các nghĩa vụ nợ ngắn

hạn. Nói một cách khác, một công ty có thanh khoản vượt mức có thể cải thiện năng

lực đáp ứng các nghĩa vụ nợ ngắn hạn, nhưng cũng cho thấy năng lực quản lý kém

trong việc thực hiện chiến dịch đầu tư để đem lại lợi ích cho nhà đầu tư (Myers và

Rajan, 1998). Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không có khả năng cung

ứng kịp thời và đầy đủ một lượng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền

cũng như để giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết, hoặc có thể cung ứng kịp thời

nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp

ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp thời các loại tài sản ra

tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh

toán.

Thanh khoản tại ngân hàng là một thước đo khả năng sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu

về tiền mặt của khách hàng. Thanh khoản có thể đến từ nắm giữ tiền mặt trực tiếp

trong thanh toán hay gửi tại ngân hàng trung ương. Phổ biến hơn nó đến từ nắm giữ

các chứng khoán mà có thể nhanh chóng bán ra với khoản lỗ tối thiểu. Đây là những

chứng khoán có mức tin cậy cao, bao gồm trái phiếu chính phủ ngắn hạn. Cụ thể

nếu thời gian đáo hạn ngắn đủ để ngân hàng có thể đợi cho chúng quay về mức vốn

khởi đầu tại ngày đáo hạn. Trong ngắn hạn, các chứng khoán rất an toàn cũng như

thường được giao dịch trong các thị trường thanh khoản, nghĩa là một khối lượng

lớn có thể được bán ra mà không làm giá biến động nhiều và với chi phí giao dịch

thấp.

9

Tuy nhiên, tình trạng thanh khoản của một ngân hàng, cụ thể trong một cuộc khủng

hoảng, sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi dự trữ tiền mặt và chứng khoán thanh khoản

cao. Ngày đáo hạn của các tài sản thanh khoản ngắn hơn cũng trở nên quan trọng vì

một số trong chúng có thể đáo hạn trước khi cuộc khủng hoảng tiền mặt đi qua, do

đó tạo ra rủi ro thanh khoản. Hoặc chúng có thể được bán, thậm chí điều này sẽ tạo

ra một tổn thất đáng kể trong một tình huống bán tháo khi ngân hàng cần phải thực

hiện thanh lý bất kể mức giá nào. Một mặt khác, ngân hàng thường có những cam

kết thanh toán tiền mặt, đặc biệt thông qua các khoản tín dụng dành cho các khách

hàng bán lẻ và doanh nghiệp. Dĩ nhiên, cam kết lớn nhất trong hầu hết các trường

hợp là yêu cầu hoàn lại tiền gửi thanh toán tại bất kỳ thời điểm nào mà người gửi

tiền mong muốn nếu chúng không đáp ứng đủ mức an toàn. Cuộc khủng hoảng tài

chính thể hiện dưới dạng cực đoan gây ra những tổn thất mà nền kinh tế phải gánh

chịu khi mà tín dụng đi xuống.

Nguồn vốn được xem là bộ đệm an toàn quan trọng nhất, vì nó cung cấp nguồn lực

để khôi phục các tổn thất đáng kể và cũng giúp ngân hàng có thể giải quyết vấn đề

niềm tin của công chúng về sự an toàn của ngân hàng. Tuy nhiên, nguyên nhân

chính của sự sụp đổ ngân hàng thường là vấn đề thanh khoản khiến cho nó không

thể tồn tại trong một cuộc “bank run” hoặc không có khả năng tiếp cận thị trường

nợ để huy động vốn mới. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra đối với một ngân hàng

có giá trị thị trường của tài sản đủ để đáp ứng các cam kết của nó, nhưng cũng có

thể đi đến phá sản nếu các tài sản này thiếu tính thanh khoản và các nghĩa vụ nợ thì

ngắn hạn.

2.1.3.2. Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng Nguyễn Ngọc Yến (2016) nhận định: “Rủi ro thanh khoản là một trong những rủi

ro đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng, bên cạnh những loại rủi ro khác

như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động… Xuất phát từ

tính liên kết hệ thống một cách chặt chẽ, một ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản sẽ

ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các ngân hàng khác, và rộng hơn là đe

dọa đến sự an toàn trong hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do đó, quản trị

10

rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại luôn là vấn đề được quan tâm đặc

biệt bởi các cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động quản lý, giám sát. Những quy

định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và biện pháp

hỗ trợ, bảo đảm thực thi những quy định này đã được ghi nhận trong các văn bản

pháp luật từ khá sớm và ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của

hệ thống ngân hàng Việt Nam”.

Ngân hàng thương mại trong vai trò là một trung gian tài chính là người tạo thanh

khoản cho thị trường, cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản. Khi đó rủi ro thanh

khoản được định nghĩa như khả năng các ngân hàng không thể đáp ứng được tất cả

các nghĩa vụ nợ ngắn hạn. Nguồn gốc chính của rủi ro thanh khoản đến từ các sản

phẩm ngân hàng yếu kém, được chỉ ra bởi thời gian phân bổ vốn huy động ngắn

hơn so với thời gian cho vay mượn. Thời gian ký quỹ ngắn đồng nghĩa với việc quỹ

có thể bị rút ra bởi người gửi tiền tại bất cứ lúc nào cũng như khi chúng đến hạn,

trong khi vốn huy động được thì vẫn còn ở trong các hình thức tín dụng đang lưu

thông trên thị trường (Diamond và Rajan, 2001). Nếu việc rút tiền xảy ra ở một quy

mô lớn còn gọi là sự kiện rút tiền hàng loạt (bank run), ngân hàng sẽ đối mặt các

vấn đề thanh khoản. Nếu vấn đề thanh khoản không thể giải quyết thì ngân hàng sẽ

mất thanh khoản và không còn khả năng đáp ứng việc rút tiền hàng loạt từ công

chúng. Điều đó gây ra sự mất tin tưởng của công chúng vào hệ thống ngân hàng và

một bank run có thể gây ra hiện tượng lây nhiễm, hay nói cách khác là một bank run

ở ngân hàng này có thể dẫn đến một bank run ở ngân hàng khác vì sự mất lòng tin

của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Nếu hiệu ứng lây nhiễm này gây ra một

bank run lên tất cả các ngân hàng đang tồn tại, thì khủng hoảng tài chính sẽ có thể

xảy ra. Khủng hoảng tài chính được định nghĩa như một sự gián đoạn đáng kể trong

dòng vốn từ người cho vay đến người đi vay. Trong đó, ngân hàng với vai trò một

người đi vay không có khả năng hoàn trả vốn cho người gửi tiền (Diamond và

Rajan, 2005). Trong thời gian khủng hoảng, các ngân hàng thiếu thanh khoản sẽ vỡ

nợ vì sự sụt giảm tài sản gây ra bởi việc cắt giảm các tài sản lớn để đáp ứng nhu cầu

thanh khoản. Fischer (1933) tuyên bố rằng sự sụt giảm tài sản tương ứng với quá

11

trình giảm phát giá trị các khoản nợ, đây là quá trình giá tài sụt giảm và sự sụt giảm

lớn giá hàng hóa và dịch vụ trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Một ngân hàng vỡ nợ là

một ngân hàng phải đối mặt với một tình huống mà ở đó giá trị các tài sản ít hơn giá

trị các nghĩa vụ nợ, do đó giá trị tài sản ròng sẽ âm. Rõ ràng rằng rủi ro thanh khoản

ngân hàng có thể dẫn đến một cuộc khủng khoảng tài chính ở một quốc gia

(Hubbard và Obrien, 2012).

Các nổ lực nhằm vượt qua rủi ro thanh khoản được thực hiện từ cuộc đại suy thoái ở

Mỹ năm 1930, với sự thành lập công ty bảo hiểm tài sản liên bang (FDIC) để đảm

bảo sự an toàn cho tiền gửi của dân chúng trong ngân hàng (Diamond và Rajan,

1983). Bảo hiểm tiền gửi nghĩa là bảo hiểm chống lại việc rút lại tiền gửi tại các

ngân hàng ở Hoa Kỳ khi các ngân hàng đang trải qua bank run hoặc phá sản. Sự

thành lập của FDIC ở Mỹ năm 1930 để khôi phục lại niểm tin của công chúng trong

ngành ngân hàng.

2.1.3.3. Đo lường thanh khoản ngân hàng Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, các đề tài nghiên cứu về rủi

ro thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường tài chính và đặc biệt là

đối với ngành ngân hàng. Theo Aspachs (2005) và Nikolau (2009), thanh khoản thị

trường không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài (như thị trường hiệu quả, số

lượng lớn người mua và người bán, đặc tính minh bạch của tài sản giao dịch, chi phí

giao dịch thấp, cơ sở hạ tầng) mà đặc biệt thanh khoản còn chịu ảnh hưởng lớn bởi

các yếu tố bên trong, cụ thể là các phản ứng của người tham gia thị trường khi đối

mặt với sự không chắc chắn và thay đổi giá trị tài sản. Cho tới nay, thế giới đã có

được một số các nghiên cứu giá trị của các tác giả như Aspachs và ctg. (2005),

Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008), tập trung vào 4 tỷ số thanh khoản như

sau:

𝐿1 = 𝑇à𝑖 𝑠ả𝑛 𝑡ℎ𝑎𝑛ℎ 𝑘ℎ𝑜ả𝑛 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛

Tỷ số này cho thấy được khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Cụ

thể hơn, nó phản ánh được tỷ trọng của các tài sản thanh khoản chiếm bao nhiêu

12

trong tổng tài sản của các ngân hàng. Tỷ số này càng cao thể hiện khả năng thanh

khoản của ngân hàng càng tốt. Trong nghiên cứu này, tác giả đo lường rủi ro thanh

khoản theo tỷ số L1 trong đó tài sản thanh khoản được đại diện bằng tổng tiền gửi.

𝐿2 = 𝑇à𝑖 𝑠ả𝑛 𝑡ℎ𝑎𝑛ℎ 𝑘ℎ𝑜ả𝑛 𝑇𝑖ề𝑛 𝑔ử𝑖 + 𝑣ố𝑛 ℎ𝑢𝑦 độ𝑛𝑔 𝑛𝑔ắ𝑛 ℎạ𝑛

Tỷ số thanh khoản L2 cũng được sử dụng để cho thấy được khả năng thanh khoản

của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, so với tỷ số thanh khoản L1 thì tỷ số này

thể hiện một cách rõ ràng và cụ thể hơn, chủ yếu tập trung vào độ nhạy cảm của

ngân hàng đối với các nhu cầu vốn tức thì. Tương tự tỷ số thanh khoản L1, tỷ số này

càng cao thể hiện khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt.

𝐿3 = 𝐾ℎ𝑜ả𝑛 𝑐ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛

Tỷ số thanh khoản L3 cho thấy tổng dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu trong tổng tài

sản của ngân hàng. Việc nới lỏng tín dụng sẽ ảnh hưởng xấu đến rủi ro thanh khoản.

Do đó, trái ngược với tỷ số thanh khoản L1 và L2, tỷ số L3 càng cao sẽ khiến cho

khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm đi.

𝐿4 = 𝐾ℎ𝑜ả𝑛 𝑐ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦 𝑇𝑖ề𝑛 𝑔ử𝑖 + 𝑛𝑔𝑢ồ𝑛 𝑣ố𝑛 𝑛𝑔ắ𝑛 ℎạ𝑛

Tỷ số thanh khoản L4 cũng tương tự L3 đều phản ánh tỷ trọng dư nợ của các ngân

hàng. Tuy nhiên, so với tỷ số thanh khoản L3 thì tỷ số này thể hiện rõ hơn cân đối

giữa việc cho vay và huy động vốn của ngân hàng. Tương tự tỷ số thanh khoản L3,

tỷ số này càng cao thể hiện khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm đi.

Các tỷ số này thông thường được sử dụng làm các biến phụ thuộc trong các công

trình nghiên cứu để xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của

các ngân hàng thương mại.

2.2. Tổng quan về các tài liệu nghiên cứu trước đây

Có nhiều nghiên cứu về thanh khoản và khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng.

Đầu tiên, Acharya và Naqui (2012) chỉ ra rằng khi các ngân hàng thu hút được một

khối lượng tiền gửi lớn tương ứng với rủi ro thanh khoản thấp thì nhà quản lý của

các ngân hàng thường có xu hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn, thể hiện qua việc

13

giảm mạnh lãi suất cho vay để gia tăng dư nợ tín dụng, đồng thời làm gia tăng tiền

thưởng của chính họ. Việc gia tăng tiền thưởng cho nhà quản lý thông qua khối

lượng tín dụng đôi khi có thể khiến các nhà quản lý nới lỏng việc cho vay, giảm các

tiêu chí cho vay, từ đó sẽ khiến các ngân hàng đối mặt với rủi ro thanh khoản nhiều

hơn. Các ngân hàng thực hiện việc kiểm toán tốn kém để xác định liệu các quyết

định của nhà quản lý liên quan đến tiêu chuẩn cho vay có làm thâm hụt thanh khoản

của ngân hàng hay không. Theo đó, nguồn tiền gửi dồi dào khiến cho các nhà quản

lý tự tin rằng các ngân hàng sẽ không phải đối mặt với rủi to thanh khoản trong

ngắn hạn và hoạt động cho vay không bị nghi vấn. Chính vì sự tự tin quá mức có

thể sẽ khiến các ngân hàng gặp phải việc thiếu hụt nguồn vốn xuất phát từ các

khoản lỗ trong việc cho vay quá mức, điều này có thể khiến các ngân hàng phá sản.

Liên quan đến vấn đề này, Cheng cùng cộng sự (2015) chỉ ra rằng lý thuyết đại diện

cổ điển, các nhà quản trị rủi ro cần mức tiền thưởng cao hơn để làm việc trong các

doanh nghiệp tài chính rủi ro hơn vì họ phải đối mặt sự không chắc chắc trong thu

nhập của họ. Vì vậy, để đạt được mức tiền thưởng cao khi làm việc trong các ngân

hàng rủi ro hơn, các nhà quản lý cũng mất nhiều thời gian để theo đuổi các chiến

lượng cho vay mở rộng khi thanh khoản dồi dào.

2.2.1. Rủi ro thanh khoản và rủi ro ngân hàng

Hong et al. (2014) phát hiện rằng rủi ro thanh khoản có hệ thống là một yếu tố quan

trọng góp phần vào sự sụp đổ của các ngân hàng. Vazquez and Federico (2015) phát

hiện rằng sự ổn định tài chính càng cao được đo lường bởi tỷ số tài chính ổn định

theo hướng dẫn của Basel III, làm giảm xác suất phá sản của ngân hàng. King

(2013) nhận thấy rằng duy trì tỷ số ổn định tài chính ròng càng cao, các ngân hàng

sẽ phải chịu chi phí trả lãi cao hơn vì phải vay mượn từ các nguồn quỹ dài hạn

nhiều hơn. Bằng cách này, quy định thanh khoản có thể hạn chế khả năng sinh lợi

của các ngân hàng và gia tăng rủi ro ngân hàng mặc dù khu vực công có liên quan

được lợi ích từ việc giảm rủi ro phá sản của ngân hàng.

Bảo hiểm tiền gửi được xem xét như là một quyền chọn bán ảnh hưởng đến giá trị

tài sản ngân hàng tại một mức giá khởi điểm của mệnh giá các khoản nợ (Merton,

14

1977). Các ngân hàng có thể lấy nguồn quỹ bằng hoặc thấp hơn lãi suất phi rủi ro

bằng cách phát hành tiền gửi có bảo đảm và đầu tư vào các tài sản rủi ro. Bảo hiểm

tiền gửi có thể tạo ra nguy cơ đạo đức vì sự chấp nhận rủi ro quá mức của các ngân

hàng (Keeley, 1990). Vì vậy, các ngân hàng có tiền gửi dồi dào có thể chấp nhận rủi

ro cao hơn vì chi phí bảo hiểm tiền gửi. Diamond and Dybvig (1983) chỉ ra rằng

tiền gửi cao có thể dẫn các ngân hàng đến rủi ro thanh khoản và gây ra hiện tượng

rút tiền hàng loạt bank-run. Người gửi tiền rút tiền ngẫu nhiên và các ngân hàng

trung ương sẽ thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng nếu lượng tiền rút lớn

hơn bộ đệm thanh khoản của ngân hàng. Repullo (2005) phát triển một mô hình chỉ

ra rằng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng gia tăng nếu người cho vay cuối cùng

tính mức tiền phạt cao hơn khi vay nợ từ ngân hàng trung ương.

Rủi ro thanh khoản ngân hàng thì tương quan ngược chiều với thanh khoản thị

trường (Drehmann and Nikolaou, 2013). Các ngân hàng cần nắm giữ một tỷ lệ tiền

gửi nhất định vì dự trữ thanh khoản của chúng với ngân hàng trung ương theo hình

thức tài sản có thanh khoản chất lượng cao. Mức độ thanh khoản của các ngân hàng

biến động qua thời gian, và mức thanh khoản cao có thể dẫn đến khủng hoảng tài

chính. Trong phân tích thanh khoản ngành tài chính, Adrian and Shin (2010) cho

thấy rằng để tối ưu hóa nguồn lực dư thừa đến từ kết quả báo cáo cân đối kế toán,

các ngân hàng sẽ tìm kiếm những người đi vay tiềm năng, thậm chí ngân hàng còn

tài trợ tài chính cho những người đi vay không có khả năng để hoàn trả lại khoản

vay và từ đó khủng hoảng tài chính có thể xảy ra khi các ngân hàng có mức thanh

khoản cao hơn. Wagner (2007) đã tìm ra được mối liên quan giữa sự ổn định tình

hình hoạt động của ngân hàng với mức độ thanh khoản của các tài sản ngân hàng.

Kết quả cho thấy rằng, trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính, một sự gia tăng

tài sản thanh khoản sẽ làm giảm sự ổn định của các ngân hàng nhưng sẽ không xảy

ra ở các giai đoạn bình thường khác.

Sự gia tăng thanh khoản ở các ngân hàng có thể đến từ sự gia tăng lãi suất thông

qua thay đổi chính sách tiền tệ. Lucchetta (2007) chỉ ra rằng khi lãi suất phi rủi ro

gia tăng thì các ngân hàng thường sẽ chấp nhận rủi ro cao hơn vì đầu tư nhiều vào

15

trái phiếu phi rủi ro, điều này khiến cho thanh khoản của thị trường liên ngân hàng

gia tăng, đồng thời gia tăng việc cho vay giữa các ngân hàng với nhau. Bên cạnh đó,

các ngân hàng cũng tăng cường đẩy mạnh việc đầu tư vào các tài sản rủi ro vì mục

tiêu lợi nhuận. Vì vậy, cả tài liệu lý thuyết và thực nghiệm gợi ý rằng rủi ro thanh

khoản của ngân hàng thì tương quan gần với mức độ rủi ro của ngân hàng và giả

thuyết đầu tiên này được tác giả xây dựng bên dưới thì thống nhất với quan điểm

của Acharya and Naqvi’s (2012).

Bùi Thị Diệp và Mai Thị Phương Thúy (2018) dựa trên mô hình và các nghiên cứu

của Aspachs & cộng sự (2005), Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008),

Vodová (2011). Thông qua dữ liệu nội bộ các ngân hàng thương mại được tác giả

thu thập thủ công thông qua các báo cáo thường niên và báo cáo tài chính đã được

kiểm toán của 31 NHTM Việt Nam giai đoạn 2007 – 2016 từ cơ sở dữ liệu của

Bankscope, tác giả đã cho thấy mối quan hệ đồng biến giữa tỷ lệ nợ xấu và khả

năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Khi thanh khoản ngân

hàng tăng lên sẽ thúc đẩy các ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng hơn, từ đó làm

gia tăng nợ xấu. Và khi phát sinh nợ xấu thì các ngân hàng mới thực sự quan tâm

đến việc trung hòa nó bằng các tài sản thanh khoản. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả

đưa ra một số vấn đề khuyến nghị đến ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng

thương mại quan tâm như sau:

Thứ nhất, ngân hàng Nhà nước cần nâng cao vai trò định hướng trong quản

lý, thường xuyên phân tích thông tin thị trường để đưa ra các nhận định và dự báo

khách quan, mang tính khoa học một cách sớm nhất. Đồng thời, ngân hàng Nhà

nước phải thường xuyên theo dõi giám sát và tư vấn cho các ngân hàng thương mại

về rủi ro thanh khoản sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được

rủi ro.

Thứ hai, cần kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt động kinh doanh

của các ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.

Thứ ba, phải hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng theo

ngành dọc từ trung ương đến địa phương và sự độc lập tương đối về điều hành, hoạt

16

động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước; Ứng dụng những

nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động ngân hàng của Ủy ban Basel,

tuân thủ những nguyên tắc thận trọng trong công tác thanh tra.

Đối với các ngân hàng thương mại:

Thứ nhất, quản lý tốt các tài sản thanh khoản - tài sản có thể dễ dàng chuyển

đổi thành tiền mặt với chi phí thấp nhất. Những loại tài sản này có thể dễ dàng được

mua bán trên thị trường thứ cấp hoặc được Chính phủ chiết khấu.

Thứ hai, nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Định kỳ, các ngân hàng

cần phải đánh giá lại các nỗ lực thiết lập và duy trì các mối quan hệ với các chủ sở

hữu, duy trì tính đa dạng hóa của các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ

cổ đông.

Thứ ba, xử lý tốt nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng, từ đó, từng bước

xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi thông dòng

vốn, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ

vốn tích cực cho nền kinh tế.

 Giả thuyết H1: Các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng

chấp nhận rủi ro cao hơn.

2.2.2. Quy mô ngân hàng

Tác giả kỳ vọng rằng quy mô ngân hàng và rủi ro của ngân hàng có mối liên quan

mật thiết đến nhau. Các tài liệu nghiên cứu trước đây cho thấy rằng các ngân hàng

lớn không nhất thiết phải mạo hiểm hơn. Theo Bertay et al. (2013), quy mô ngân

hàng và rủi ro ngân hàng không tương quan được đo lường bởi chỉ số Z-score. Các

ngân hàng lớn có khả năng huy động vốn ngoài tiền gửi cao hơn hoặc nguồn vốn sỉ

(Bertay et al. 2013). Ngoài ra, Demsetz and Strahan (1997) cũng chỉ ra rằng gia

tăng tổng tài sản làm gia tăng rủi ro đặc trưng của ngân hàng và có tương quan cùng

chiều với đa dạng hóa. Quy mô ngân hàng làm gia tăng sự ổn định của ngân hàng

bằng chứng là chỉ số Z-score cao hơn, các ngân hàng lớn chấp nhận ít rủi ro hơn

(Mercieca et al., 2007; Stiroh 2004). Thực hiện theo tiêu chuẩn của Basel II khiến

các ngân hàng nhỏ hơn chấp nhận nhiều rủi ro hơn khi so sánh với các ngân hàng

17

lớn hơn vì các ngân hàng có quyền chọn giữa cách tiếp cận theo các tỷ số nội bộ và

được tiêu chuẩn hóa (Hakenes and Schnabel, 2011). Bên cạnh đó, Boyd and Runkle

(1993) cũng phát hiện rằng biến động của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản có tương

quan ngược chiều với quy mô ngân hàng. Từ đó khiến các ngân hàng lớn có biến

động tỷ suất sinh lợi trên tài sản thấp hơn sẽ có mức rủi ro thấp hơn. Hơn thế nữa,

quy mô ngân hàng cũng cho thấy một mối tương quan ngược chiều đến biến động

lợi nhuận, và trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mối quan hệ này trở nên

mạnh mẽ hơn (De Haan and Poghosyan, 2012). Do đó, các tài liệu nghiên cứu hiện

hành cho thấy rằng các ngân hàng lớn chấp nhận rủi ro thấp hơn ứng với rủi ro

thanh khoản thấp hơn.

Trương Nguyên Tường Vy và Mai Thị Phương Thùy (2018) sử dụng dữ liệu từ báo

cáo tài chính thường niên và báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán của 31 NHTM

Việt Nam giai đoạn 2007 - 2016 cũng cho thấy rằng rủi ro thanh khoản của các

ngân hàng có xu hướng giảm đi khi quy mô tổng tài sản của ngân hàng đó tăng lên.

Các ngân hàng có quy mô lớn thường là các ngân hàng có uy tín. Các ngân hàng

này có thể dễ dàng huy động được nguồn tiền gửi dồi dào, ổn định với chi phí thấp

từ các thành phần kinh tế. Mặt khác, khách hàng vay của các ngân hàng này phần

lớn là các cá nhân, doanh nghiệp có nền tảng tài chính lành mạnh. Điều đó cho thấy

rằng, với nền tảng lãi suất đầu vào thấp, các ngân hàng lớn sẽ có nhiều lựa chọn hơn

đối với các khách hàng vay của mình. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số

vấn đề khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại cũng cần quan tâm đến các chính sách

phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng cách nâng cao năng lực thẩm định tín dụng; Quản

lý chặt chẽ các khoản cho vay; Hoàn nhập kịp thời các khoản lãi dự thu đúng quy

định; Trích lập đúng và đủ các khoản dự phòng để phòng ngừa nguy cơ không thu

hồi đầy đủ các khoản cho vay; Phòng ngừa và hạn chế rủi ro đạo đức; Tăng tỷ trọng

thu nhập phi tín dụng (dịch vụ ngân hàng) và giảm tỷ trọng thu nhập từ tín dụng

trong cấu phần doanh thu của ngân hàng.

18

Thứ hai, các ngân hàng thương mại cần có những bước đi cụ thể, vững chắc

để mở rộng quy mô tổng tài sản. Khi quy mô tổng tài sản càng lớn thì vị thế thanh

khoản của ngân hàng càng cao và rủi ro thanh khoản của ngân hàng sẽ giảm xuống.

Lê Tấn Phước (2017) cho thấy rằng khi thanh khoản của các ngân hàng thương mại

trở nên lớn hơn, các ngân hàng sẽ đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn vì mục

tiêu lợi nhuận. Như vậy, khi tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng thương mại cần

chú ý đến công tác quản trị nhằm tránh tổn thất cho ngân hàng.

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số vấn đề khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, ngân hàng Nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát

tăng trưởng và chất lượng tín dụng, tránh thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong

thời gian dài. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhà nước phải định hướng để đưa dòng vốn

vào khu vực sản xuất – kinh doanh, tránh tập trung vào bất động sản dễ gây ra hiện

tượng bong bóng tài sản.

Thứ hai, bên cạnh công tác phát triển tín dụng, các ngân hàng thương mại

cũng cần đặc biệt quan tâm đến công tác xử lý nợ xấu. Hai hoạt động này được thực

hiện song song và có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau.

Thứ ba, ngoài các hoạt động kinh doanh truyền thống là phát triển tín dụng và huy

động vốn, các ngân hàng thương mại cần tiếp tục đẩy mạnh mảng dịch vụ ngân

hàng, phát triển và cung cấp các dịch vụ chất lượng cao cho người sử dụng. Các

ngân hàng thương mại cũng cần chú trọng trong việc gia tăng tỷ trọng nguồn thu

nhập từ dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đây là nguồn thu nhập bền

vững và không rủi ro cho hoạt động của các ngân hàng.

 Giả thuyết H2: Các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng

chấp nhận rủi ro ít hơn

2.2.3. Khủng hoảng tài chính toàn cầu

Delis et al. (2014) cho thấy rằng trước năm 2001 tình hình tài chính của các ngân

hàng Mỹ tương đối ổn định và sau đó rủi ro tăng mạnh trước khủng hoảng tài chính

2007 - 2008. Cornett et al. (2011) phát hiện rằng trong suốt giai đoạn khủng hoảng

tài chính 2007 - 2009 các ngân hàng nắm giữ các tài sản ít thanh khoản thì có xu

19

hướng cắt giảm các khoản vay và đồng thời gia tăng nắm giữ các tài sản thanh

khoản cao ứng với các gói khích thích thanh khoản của ngân hàng trung ương.

Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các ngân hàng Hoa Kỳ nâng cao tỷ lệ tiền

gửi (Acharya and Mora, 2015) để thay thế các ràng buộc vốn sỉ, và họ gia tăng tỷ lệ

tiền gửi vì các nhà đầu tư trở nên lưỡng lự khi thực thiện những thương vụ đầu tư

rủi ro, thay vì thích nắm giữ các tài sản thanh khoản như tiền gửi ngân hàng. Để

đảm bảo an toàn hoạt động, các ngân hàng cắt giảm các khoản vay mới đối với các

khách hàng lớn đáng kể trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính (quý bốn năm

2008) (Ivashina and Scharfstein, 2010). Vì vậy, tác giả kỳ vọng rằng trong suốt giai

đoạn khủng hoảng tài chính, các ngân hàng chấp nhận ít rủi ro tương ứng rủi ro

thanh khoản thấp hơn, thậm chí khi tiền gửi ngân hàng gia tăng thì các nhà quản lý

ngân hàng sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ và kỷ luật thị trường lớn hơn.

Phạm Văn Hà (2012) trong một nghiên cứu đánh giá về chính sách tài chính giai

đoạn hậu khủng khoảng giai đoạn 2009 - 2010 cho thấy sự sụt giảm mạnh tốc độ

tăng trưởng kinh tế có tác động tâm lý rất lớn đến hệ thống ngân hàng. Các ngân

hàng trở nên dè dặt hơn trong việc cho vay. Từ các số liệu phân tích có thể thấy

được trong quý I năm 2009, lượng vốn huy động cho nền kinh tế thông qua hệ

thống ngân hàng tăng trưởng khá thấp, đặc biệt là cho vay nền kinh tế chỉ tăng 2,7%

trong quí I, chỉ đạt xấp xỉ 1/10 tốc độ tăng trưởng của cả năm 2008. Điều này cho

thấy được các ngân hàng đang dè dặt trong việc giải ngân tín dụng, ảnh hưởng

nghiêm trọng đến tình hình kinh tế.

 Giải thuyết H3: Rủi ro ngân hàng giảm ứng trong giai đoạn khủng hoảng ở

các ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp.

20

TÓM TẮT CHƯƠNG II

Trong chương này, luận văn đã trình bày định nghĩa của các đối tượng nghiên cứu.

Thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng đáp ứng tức thời

các nhu cầu về tiền của khách hàng. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không

có khả năng cung ứng kịp thời và đầy đủ một lượng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu

của người gửi tiền cũng như để giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết, hoặc có

thể cung ứng kịp thời nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất

hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp

thời các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của

các hợp đồng thanh toán..

Mức độ biến động của thanh khoản theo các ngân hàng qua thời gian, và mức thanh

khoản cao có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Trong phân tích thanh khoản

ngành tài chính, Adrian and Shin (2010) cho thấy rằng để tận dụng nguồn lực dư

thừa, các ngân hàng sẽ tăng cường tìm kiếm những người đi vay tiềm năng, thậm

chí cả những người đi vay mà không có tài chính để hoàn trả lại khoản vay và do đó

nếu không có sự giám sát chặt chẽ thì khi mức thanh khoản của ngân hàng cao hơn

có thể sẽ gây ra khủng hoảng tài chính.

Các tài liệu nghiên cứu trước đây cũng nói lên rằng quy mô ngân hàng càng lớn sẽ

càng khiến các ngân hàng đặt cao hơn mức độ an toàn hoạt động. Tương tự, quy mô

ngân hàng gia tăng sự ổn định của ngân hàng bằng chứng là chỉ số Z-score cao hơn,

các ngân hàng lớn chấp nhận ít rủi ro hơn (Mercieca et al., 2007; Stiroh 2004). Bên

cạnh đó, Boyd and Runkle (1993) cũng phát hiện rằng biến động của tỷ suất sinh lợi

trên tổng tài sản có tương quan ngược chiều với quy mô ngân hàng. Do đó, các

ngân hàng lớn có biến động tỷ suất sinh lợi trên tài sản thấp hơn sẽ có mức rủi ro

thấp hơn. Hơn thế nữa, quy mô ngân hàng cũng cho thấy một mối tương quan

ngược chiều đến biến động lợi nhuận, và trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

mối quan hệ này trở nên mạnh mẽ hơn (De Haan and Poghosyan, 2012).

21

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giai đoạn khủng hoảng các ngân hàng nắm giữ

các tài sản ít thanh khoản thì có xu hướng cắt giảm các khoản vay và đồng thời gia

tăng nắm giữ các tài sản có thanh khoản cao ứng với các gói khích thích thanh

khoản của ngân hàng Trung ương như Cornett et al. (2011), Acharya and Mora

(2015), Ivashina and Scharfstein (2010). Vì vậy, tác giả kỳ vọng rằng trong suốt

giai đoạn khủng hoảng tài chính, các ngân hàng chấp nhận ít rủi ro tương ứng rủi ro

thanh khoản thấp hơn, thậm chí khi tiền gửi ngân hàng gia tăng vì các nhà quản lý

ngân hàng sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ và kỷ luật thị trường lớn hơn.

22

CHƯƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Dữ liệu

Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã qua kiểm toán cuối

năm tài chính của 20 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn từ 2007

đến 2017.

Rủi ro của ngân hàng được đại diện bởi hai biến là tỷ số dự phòng rủi ro tín dụng

trên tổng tài sản (LLP) và chỉ số Z-score đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng

thông qua biến động của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA. Việc sử dụng hai

biến phụ thuộc, ngoài mục đích tính đến các phương pháp đo lường rủi ro ngân

hàng khác nhau, tác giả còn muốn kiểm định tính vững của mô hình được xây dựng.

Rủi ro thanh khoản của ngân hàng được đo lường bằng tỷ số giữa tiền gửi huy động

trên tổng tài sản (Deposit). Tỷ số Deposit càng cao thể hiện rủi ro thanh của ngân

hàng càng thấp.

Biến kiểm soát được sử dụng trong mô hình là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản

(ROA), tỷ số dư nợ cho vay (Loan_ratio) và tỷ lệ vốn chủ sở hữu (Equity_ratio).

Để tính đến tác động theo quy mô ngân hàng và tác động của cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2007-2009, tác giả sử dụng biến giả quy mô (Big) và biến giả khủng

hoảng (GFC).

Cuối cùng để kiểm định tính vững của mô hình, tác giả đưa thêm vào mô hình các

biến vĩ mô là tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp và biến giả quy mô tiền gửi

(HL) phân loại các ngân hàng dựa trên việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao hay

thấp.

Bảng 3.1 Tên biến và cách xây dựng biến

Tên biến Cách đo lường

Mức độ rủi ro của ngân hàng – rủi ro của ngân hàng

𝑇ỷ 𝑠𝑢ấ𝑡 sinh 𝑙ợ𝑖 𝑡𝑟ê𝑛 𝑡ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛+(𝑣ố𝑛 𝑐ℎủ 𝑠ở ℎữ𝑢/𝑡ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛)

LLP Dự phòng rủi ro tính dụng / tổng tài sản

𝐿𝑜𝑔 (

)

Độ 𝑙ệ𝑐ℎ 𝑐ℎ𝑢ẩ𝑛 𝑐ủ𝑎 𝑡ỷ 𝑠𝑢ấ𝑡 sinh lợi trên tổng tài sản

Z-score

Rủi ro thanh khoản

23

Deposit Tổng tiền gửi/ tổng tài sản

Các biến kiểm soát

Loan Tổng nợ/ Tổng tài sản

Equity Tổng vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản

Thu nhập ròng trên tổng tài sản ROA

GDP Tăng trưởng GDP

Unemploy Tỷ lệ thất nghiệp

Các biến giả

Big Biến chỉ số bằng 1 cho các ngân hàng trong top phân vị cao theo tổng tài

sản và bằng 0 cho trường hợp ngược lại

HL Biển chỉ số bằng 1 cho ngân hàng trong top phân vị cao theo tỷ số tổng tiền

gửi trên tổng tài sản và bằng 0 cho trường hợp ngược lại.

GFC Biến chỉ số bằng 1 nếu giai đoạn nghiên cứu rơi vào năm 2007 đến 2009 và

bằng 0 cho trường hợp ngược lại.

3.2. Mô hình và phương pháp nghiên cứu

3.2.1. Mô hình nghiên cứu Để kiểm định tác động của thanh khoản ngân hàng lên mức độ rủi ro của các ngân

hàng, tác giả sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng OLS. Mô hình này được kế

thừa từ mô hình nghiên cứu của Muhammad cùng cộng sự 2017. Mô hình bao gồm

các biến kiểm soát các đặc trưng và hoạt động của ngân hàng, có thể tác động đến

mức độ rủi ro của ngân hàng.

Mô hình 1: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng.

(1) Riski,t= αDepositi,t + βControlsi,t + εi,t

Với α và β phản ánh nhân tố liên quan nào tác động đến sự thay đổi biến phụ thuộc,

và εi,t đại diện cho phần sai số ngân hàng i trong năm t.

Biến phụ thuộc, Risk là một vector của các biến rủi ro của ngân hàng khác nhau đối

với ngân hàng i trong năm t. Rủi ro ngân hàng được đo lường bằng dự phòng rủi ro

tín dụng trên tổng tài sản và logarithm của chỉ số Z-score. Tác giả lựa chọn biến đại

24

diện cho rủi ro của ngân hàng dựa trên nghiên cứu của Cebenoyan và Strahan

(2004). Gần đây, chỉ số Z-score được sử dụng bởi Houston cùng cộng sự (2010) đo

lường mức độ rủi ro ngân hàng trong một nghiên cứu đa quốc gia cho thấy rằng

quyền của trái chủ và chia sẻ thông tin thì liên quan đến việc chấp nhận rủi ro và có

tác động thực sự đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Biến độc lập, Deposit là rủi ro thoanh khoản cho ngân hàng i năm t. Biến số này đo

lường tổng tiền gửi huy động trên tổng tài theo cách tiếp cận của Acharya và Naqvi

(2012), tiền gửi quá nhiều sẽ khiến cho các nhà quản lý ngân hàng tự tin quá mức,

từ đó sẽ dẫn đến chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Các ngân hàng càng có nhiều tiền gửi

thì càng ít rủi ro bank – run (người gửi tiền đồng loạt rút tiền), và các nhà quản lý sẽ

chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì theo họ các ngân hàng có thể ít phải đối mặc với rủi

ro tài chính trong ngắn hạn.

Các biến kiểm soát là các đặc trưng cho ngân hàng i năm t. Các biến kiểm soát các

đặc trưng và hoạt động của ngân hàng được sử dụng trong nghiên cứu này được đúc

kết từ các tài liệu nghiên cứu trước đây. Phù hợp với các nghiên cứu của Rime

(2001) and Shrieves and Dahl (1992), González (2005), Laeven and Levine (2009),

Casu et al. (2011), Distinguin et al. (2013), Ramayandi et al. (2014), tác giả sử dụng

biến tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản (loan_ratio), tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài

sản (Equity_ratio) và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) như là những thành

phần có thể ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng.

Mô hình 2: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng lớn.

(2) Riski,t= α1Depositi,t*BIGi,t + α2Depositi,t + γBIGi,t + βControlsi,t + εi,t

Để tính đến tác động của rủi ro thanh khoản trong mối tương quan với quy mô ngân

hàng, tác giả đưa vào mô hình 1 biến tích Depositi,t*BIGi,t . Trong đó BIG là biến

giả quy mô nhận giá trị bằng 1 nếu ngân hàng thuộc nhóm có phân vị cao theo giá

trị tổng tài sản trong mỗi năm và bằng 0 trong trường hợp ngược lại. Đối với biến

giả BIG, tác giả sử dụng tứ phân vị để phân chia các ngân hàng theo quy mô tổng

tài sản.

25

Hệ số α1 thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng lớn tác động

như thế nào đến mức độ rủi ro của ngân hàng.

Hệ số α1 được kỳ vọng có giá trị âm, theo đó các ngân hàng lớn có rủi ro thanh

khoản thấp sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn.

Mô hình 3: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng trong

suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính.

(3) Riski,t= α1Depositi,t*GFCi,t + α2Depositi,t + γGFCi,t + βControlsi,t + εi,t

Để kiểm định giả thuyết H3 “rủi ro ngân hàng giảm trong giai đoạn khủng hoảng ở

các ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp”. Tác giả sử dụng biến tích

Depositi,t*GFCi,t. Trong đó GFC là một biến chỉ số lấy giá trị bằng 1 nếu năm

nghiên cứu rơi vào giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu từ 2007 đến 2009 và

bằng 0 trong trường hợp ngược lại.

Hệ số α1 trong mô hình 3 được kỳ vọng là có giá trị âm, theo đó trong giai đoạn

khủng hoảng các ngân hàng nắm giữ tiền gửi nhiều hay rủi ro thanh khoản thấp sẽ

có rủi ro ngân hàng thấp hơn. Điều này dựa trên thực tế rằng trong giai đoạn khủng

hoảng tài chính, các ngân hàng có các tài sản ít thanh khoản sẽ phải cắt giảm các

khoản vay và các ngân hàng đó sẽ gia tăng nắm giữ tài sản thanh khoản ứng với các

gói khích thích thanh khoản được ban hành bởi ngân hàng trung ương.

Để kiểm định tính vững của mô hình 1, tác giả đưa vào mô hình 1 biến giả quy mô

tiền gửi (HL) và các biến vĩ mô:

Mô hình 4: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có

tiền gửi cao.

(4) Riski,t= α1Depositi,t*HLi,t + α2Depositi,t + γHLi,t + βControlsi,t + εi,t

Biến giả quy mô tiền gửi (HL) nhận giá trị bằng 1 nếu ngân hàng thuộc nhóm có

phân vị cao theo quy mô tiền gửi mỗi năm và bằng 0 cho trường hợp ngược lại. Đối

với biến giả HL, tác giả sử dụng tứ phân vị để phân chia các ngân hàng theo quy mô

tổng tiền gửi.

Biến tích Depositi,t*HLi,t thể hiện rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng có quy mô

tiền gửi cao.

26

Hệ số α1 được kỳ vọng có giá trị dương, theo đó các ngân hàng có quy mô tiền gửi

cao ứng với rủi ro thanh khoản thấp sẽ có khẩu vị rủi ro cao hơn.

Mô hình 5: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có

tính đến tác động của các nhân tố vĩ mô.

(5) Riski,t= αDepositi,t + βControlsi,t + µGDPt + γUnemployt + εi,t

Trong đó GDPt là tăng trưởng kinh tế năm t được đo lường bằng phần trăm thay đổi

tổng sản phẩm quốc nội năm t so với năm t-1.

Unemployt là tỷ lệ thất nghiệp năm t.

Trong mô hình này tác giả kỳ vọng hệ số α vẫn không đổi dấu so với mô hình 1.

Theo đó hệ số α được kỳ vọng là có giá trị dương. Theo đó nếu tính đến tác động

của nhân tố vĩ mô thì các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có mức độ rủi ro

cao hơn.

3.2.2. Các đại diện rủi ro thanh khoản của ngân hàng.

Acharya and Naqvi (2012) dự đoán rằng các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp

được thể hiện qua mức tiền gửi cao sẽ chấp nhận nhiều rủi ro hơn. Họ xem xét tiền

gửi như một thước đo rủi ro thanh khoản ngân hàng bởi vì tiền gửi bảo vệ các ngân

hàng khỏi rủi ro bank – run. Các ngân hàng cần duy trì một tỷ lệ tiền gửi nhất định

như những khoản dự trữ thanh khoản. Tác giả sử dụng thời hạn tiền gửi để đo lường

rủi ro thanh khoản của ngân hàng, tiền gửi dài hạn càng lớn sẽ khiến cho các ngân

hàng càng ít rủi ro bank -run trong ngắn hạn. Tiền gửi được đảm bảo và bảo hiểm

tiền gửi được thực hiện như một lựa chọn để gia tăng tài sản của ngân hàng. Vì vậy,

các ngân hàng chấp nhận rủi ro nhiều hơn để đáp ứng sự gia tăng trong tiền gửi

ngân hàng vì bảo hiểm tiền gửi tại chỗ.

3.2.3. Các đại diện cho rủi ro ngân hàng

3.2.3.1. Rủi ro tín dụng Dự phòng rủi ro tín dụng được thể hiện bằng chất lượng tài sản của ngân hàng

(Deliset al., 2014; Lee and Hsieh 2013). Nếu các khoản vay xuất hiện các dấu hiệu

rủi ro, các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng để đảm bảo cho các

khoản vay đó. Vì vậy, dự phòng rủi ro tín dụng càng cao chỉ ra rằng các ngân hàng

27

chấp nhận rủi ro cao hơn. Cebenoyan and Strahan (2004) sử dụng độ lệch chuẩn của

tỷ số dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ vay để đo lường rủi ro ngân hàng.

Shrieves and Dahl (1992) nhấn mạnh rằng dự phòng rủi ro tín dụng trong năm cho

trước phản ánh quyết định đầu tư được thực hiện trong năm tiếp theo. Vì vậy, dự

phòng rủi ro tín dụng có thể cũng phản ánh mức độ gây cấn của các quyết định cho

vay.

3.2.3.2. Rủi ro tổng thể Tác giả sử dụng chỉ số Z-score để đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng. Một giá

trị Z-score càng cao chỉ rõ mức độ ổn định của ngân hàng càng lớn. Chỉ số Z-score

bằng tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cộng với tỷ số vốn trên tổng tài sản chia cho

độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. Z-score được sử dụng phổ biến trong

tài liệu nghiên cứu gần đây để đo lường rủi ro ngân hàng (Laeven and Levine 2009,

Houston et al., 2010, Delis et al, 2014; Ramayandi et al., 2014) và được tính toán

𝑇ỷ 𝑠𝑢ấ𝑡 sinh 𝑙ợ𝑖 𝑡𝑟ê𝑛 𝑡ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛+(𝑣ố𝑛 𝑐ℎủ 𝑠ở ℎữ𝑢/𝑡ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛)

như sau:

Độ 𝑙ệ𝑐ℎ 𝑐ℎ𝑢ẩ𝑛 𝑐ủ𝑎 𝑡ỷ 𝑠𝑢ấ𝑡 sinh lợi trên tổng tài sản

) 𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒 = log (

Để ngắn gọn, tác giả sử dụng tiền gửi, tài sản có rủi ro, dự phòng rủi ro tín dụng,

khả năng tạo thanh khoản và Z-score tưng ứng với tỷ số của tiền gửi/ tổng tài sản,

tài sản có rủi ro/ tổng tài sản, dự phòng rủi ro tín dụng/ tổng tài sản, khả năng tạo

thanh khoản/ tổng tài sản và logarithm của Z-score. Sự sụt giảm trong chỉ số Z-

scores hàm ý rủi ro ngân hàng cao hơn khi đó làm gia tăng các đại diện rủi ro khác

làm cho rủi ro ngân hàng cao hơn, tác giả nhân giá trị Z-score của ngân hàng với chỉ

số -1 để tạo điều kiện giải thích nhất quán hơn so với các đại diện rủi ro khác (như

là giá trị càng cao thì chỉ ra rủi ro càng lớn ở tất cả các trường hợp).

3.2.4. Phương pháp ước lượng

3.2.4.1. Hồi quy dữ liệu bảng Khái niệm: Dữ liệu bảng là các quan sát về một chỉ tiêu nào đó sẽ bao gồm quan sát

chéo (cross-section) và quan sát theo thời gian (time series).

 Tổ chức dữ liệu bảng:

28

Unstacked: Các đơn vị chéo được sắp xếp theo thời gian một cách riêng biệt theo

từng biến.

Stacked: Các đơn vị chéo được sắp xếp theo thời gian và các đơn vị chéo này được

nhóm lại với nhau theo từng biến.

 Các loại dữ liệu bảng

Dữ liệu bảng cân bằng (balanced): khi các đơn vị chéo có cùng số quan sát theo thời

gian.

Dữ liệu bảng không cân bằng (unbalance): khi các đơn vị chéo không có cùng số

quan sát theo thời gian.

 Dạng tổng quát của mô hình dữ liệu bảng như sau:

Yit=β1 + β2 X2it + β3X3it + uit

Trong đó, i =1,…,n là các cá thể trong mẫu nghiên cứu, t=1,…,T là các khoảng thời

gian quan sát. Y_it là biến phụ thuộc cần nghiên cứu và X_it là các biến độc lập có

tác động đến Y_it theo các lý thuyết kinh tế học.

3.2.4.2. Hệ số tương quan Pearson Mục đích của kiểm định là xem xét mối quan hệ tuyết tính giữa các biến để xem các

biến được đề xuất có phù hợp để đưa vào phân tích hồi quy trong mô hình hay

không.

Hệ số tương quan Pearson (ký hiệu r) được sử dụng để đo lường mức độ tương quan

tuyến tính giữa hai biến. Phân tích tương quan Pearson đôi khi còn được gọi là phân

tích hồi quy đơn giản.

Hệ số tương quan Pearson sẽ nhận giá trị từ +1 đến –1. Nếu r > 0 cho biết tương

quan dương giữa hai biến, nghĩa là nếu giá trị của biến này tăng thì sẽ làm giá trị

của biến kia tăng và ngược lại. Nếu r < 0 cho biết tương quan âm giữa hai biến,

nghĩa là nếu giá trị của biến này tăng thì sẽ làm giá trị của biến kia giảm và ngược

lại.

Thể hiện kiểm định tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình. Số bên trên là

hệ số tương quan Pearson (r), số bên dưới in nghiêng là giá trị p–value của kiểm

định Pearson với giả thuyết H0 là không có tương quan giữa hai biến. Khi mức ý

29

nghĩa của hệ số tương quan Pearson (r) có độ tin cậy ít nhất bằng 95% (p-value nhỏ

hơn hoặc bằng 0,05), ta kết luận rằng tương quan giữa biến độc lập và biến phụ

thuộc có ý nghĩa thống kê.

30

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã qua kiểm toán cuối

năm tài chính của 20 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn từ 2007

đến 2017.

Rủi ro của ngân hàng được đại diện bởi hai biến là tỷ số dự phòng rủi ro tín dụng

trên tổng tài sản (LLP) và chỉ số Z-score đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng

thông qua biến động của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA.

Rủi ro thanh khoản của ngân hàng được đo lường bằng tỷ số giữa tiền gửi huy động

trên tổng tài sản (Deposit). Tỷ số Deposit càng cao thể hiện rủi ro thanh của ngân

hàng càng thấp.

Biến kiểm soát được sử dụng trong mô hình là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản

(ROA), tỷ số dư nợ cho vay (Loan_ratio) và tỷ lệ vốn chủ sở hữu (Equity_ratio).

Để tính đến tác động theo quy mô ngân hàng và tác động của cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2007-2009, tác giả sử dụng biến giả quy mô (Big) và biến giả khủng

hoảng (GFC).

Cuối cùng để kiểm định tính vững của mô hình, tác giả đưa thêm vào mô hình các

biến vĩ mô là tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp và biến giả quy mô tiền gửi

(HL) phân loại các ngân hàng dựa trên việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao hay

thấp.

Ba giả thuyết nghiên cứu được xây dựng trong ba mô hình sau:

Mô hình 1: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng.

Mô hình 2: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng lớn.

Mô hình 3: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng trong

suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính.

Để kiểm định tính vững của mô hình 1, tác giả sử dụng biến giả HL phân loại các

ngân hàng dựa trên việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao hay thấp và các biến vĩ

mô:

Mô hình 4: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có tiền

gửi cao.

31

Mô hình 5: Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của các ngân hàng có tính

đến tác động của các nhân tố vĩ mô.

32

CHƯƠNG 4. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM

4.1. Tổng quan về thị trường ngân hàng Việt Nam

4.1.1. Tăng trưởng tín dụng

Trước sức ép cạnh tranh từ tiến trình hội nhập và đặc biệt là sau khủng hoảng kinh

tế - tài chính thế giới 2007 - 2009, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng

trước những thách thức và cơ hội rất lớn. Việc cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận là

một câu hỏi quan trọng mà mỗi ngân hàng phải trả lời, từ đó tìm ra hướng đầu tư

mới mang lại hiệu quả cao nhất. Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam vẫn đang

trong giai đoạn non trẻ với nghiệp vụ chủ yếu là tín dụng và huy động vốn. Thu

nhập thuần từ nghiệp vụ tín dụng mang lại hiệu quả cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều

rủi ro cho ngân hàng, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải đưa ra mức chấp nhận rủi ro riêng

với hoạt động này.

Trong nhiều năm qua, tỷ lệ thu nhập lãi thuần (thu nhập từ hoạt động cho vay thông

thường) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập (tổng doanh thu) tại hệ thống

ngân hàng, tỷ lệ bình quân khoảng 75-80%. Chính vì đặc thù trên, các ngân hàng ở

Việt Nam đang chạy đua trong việc tăng trưởng tín dụng để làm tăng thu nhập lãi

thuần. Năm 2017, tăng trưởng thu nhập lãi thuần của Ngân hàng thương mại cổ

phần Quân Đội (41%), Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Triển Thành phố Hồ

Chí Minh (34%), Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (36%),…

cao hơn hẳn so với bình quân 13 ngân hàng đứng đầu là 24,04%. Các nguồn thu

nhập khác bao gồm Thu phí dịch vụ, Đầu tư chứng khoán, Kinh doanh ngoại hối,….

chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và ít có khả năng tác động đột biến đến lợi nhuận sau thuế.

Từ năm 2013 tới nay, cho vay khách hàng toàn ngành luôn tăng trưởng dương. Điều

này tác động tích cực tới các ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô liên tục có

diễn biến tốt. Bên cạnh đó, để giảm thiểu rủi ro cho hoạt động, cơ cấu tín dụng của

các ngân hàng cũng có sự thay đổi đáng kể theo hướng bền vững hơn. Cụ thể, các

khoản vay chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh (chiếm 80% tổng

dư nợ), trong khi lĩnh vực bất động sản vốn không tạo ra dòng tiền liên tục thì tốc

độ tăng trưởng đã chậm lại. Trong năm 2017, tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn

33

ngành đạt 18,17%, tuy nhiên dư nợ cho vay đối với hoạt động xây lắp tăng 9,9% và

hoạt động kinh doanh bất động sản chỉ tăng 5,9%. Cơ cấu tín dụng dịch chuyển vào

các lĩnh vực tạo ra dòng tiền, giá trị thặng dư lớn giúp dòng vốn liên tục luân

chuyển, tránh ứ đọng và hạn chế tình trạng bong bóng bất động sản, vốn là nguyên

nhân chính gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 - 2012. Bên cạnh đó, các

ngân hàng cũng đang chú trọng vào kiểm soát việc tăng trưởng quá nóng hoạt động

tín dụng và nâng cao chất lượng khoản vay.

Tăng trưởng tín dụng qua các năm

30.00%

25.00%

20.00%

18.71%

18.17%

17.29%

17.00%

14.16%

15.00%

12.51%

10.00%

5.00%

0.00%

2013

2014

2015

2016

2017

Kế hoạch 2018

Hình 4.1 Tăng trưởng tính dụng qua các năm (nguồn Vietstock)

Mặc dù đẩy mạnh cho vay tín dụng nhưng các ngân hàng vẫn rất lưu tâm đến chỉ số

thanh khoản toàn hệ thống LDR (Dư nợ cho vay/Vốn huy động) do tính chất đòn

bẩy cao và đặc thù ngành. Đi kèm với việc tăng trưởng dư nợ cho vay, các ngân

hàng luôn phải tìm cách tăng nguồn vốn huy động tương ứng. Thực trạng trong

nhiều năm qua, tăng trưởng huy động luôn thấp hơn so với tăng trưởng cho vay, dẫn

tới thanh khoản toàn hệ thống giảm sút. Thống kê trong năm 2017 tại 13 ngân hàng

lớn nhất cho thấy tốc độ tăng trưởng huy động vốn chỉ đạt 15,70% trong khi tốc độ

tăng trưởng cho vay là 21,18%.

Tuy nhiên tính đến 31/12/2017, thanh khoản bình quân toàn hệ thống vẫn được đảm

bảo với tỷ lệ xấp xỉ 85,39%. Đáng chú ý, chỉ số LDR có sự phân hóa rất mạnh.

34

Những ngân hàng có tỷ lệ LDR thấp sẽ có lợi thế/ dư địa để tăng trưởng tín dụng

(tác động đến tăng trưởng doanh thu) trong 2018.

Thị trường Việt Nam những năm trở lại đây đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ

của hoạt động cho vay tiêu dùng, đặc biệt là các sản phẩm cho vay tiêu dùng tín

chấp. Một hoạt động mang lại mức lợi nhuận thuần rất lớn cho các ngân hàng do

mức lãi suất áp dụng rất cao. Trong khi tăng trưởng toàn ngành ở mức xấp xỉ 18%

thì tín dụng tiêu dùng tăng trưởng 50,2% năm 2016 và 65% năm 2017. Việc tăng

trưởng mạnh cho vay tiêu dùng ngoài mang về lợi nhuận cao thì cho vay tiêu dùng

còn hàm chứa rất nhiều rủi ro kể cả về mặt chính sách cũng như thu hồi nợ, dẫn đến

khả năng phát sinh nợ xấu lớn.

Bên cạnh việc phát triển khách hàng, các ngân hàng cũng đặc biệt quan tâm đến vấn

đề xử lý nợ xấu. Nợ xấu không chỉ giảm ở báo cáo của các ngân hàng, mà còn giảm

mạnh ở cả số nợ xấu đã bán cho VAMC. Điều này tác động tích cực không chỉ ở

ngành ngân hàng, mà còn kích thích nền kinh tế phát triển do có thêm dòng tiền lưu

thông trong hệ thống.

Cụ thể, tính đến hết quý 4/2017, có 4 ngân hàng công bố báo cáo tài chính cho thấy

đã trích lập dự phòng nợ xấu xong đối với khoản nợ của VAMC gồm Ngân hàng

thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt

Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội và Ngân hàng thương mại cổ phần

Kỹ Thương Việt Nam. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt

Nam cũng duy trì tỷ lệ nợ xấu khá tốt, nhiều khả năng sẽ trích lập dự phòng hết

trong năm 2018.

Giảm mạnh nợ xấu mang lại hai tín hiệu tích cực cho các ngân hàng, gồm giảm

trích lập dự phòng nợ xấu hàng năm, tăng lợi nhuận sau thuế và bổ sung được

nguồn vốn, tiếp tục tăng trưởng tín dụng.

4.1.2. Tăng trưởng dịch vụ

Trong xã hội hiện đại ngày nay, một hướng đi mới mang lại hiệu quả cao nhưng tối

thiểu rủi ro cho ngân hàng là phát triển dịch vụ phi tín dụng. Trong đề án cơ cấu lại

hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015 được Thủ tướng Chính phủ thông qua

35

theo Quyết định số 254/QĐ-TTg, ngày 01/03/2012 xác định rõ “Từng bước chuyển

dịch mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo hướng giảm bớt sự

phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín

dụng”. Điều đó cho thấy rằng Chính phủ và hệ thống ngân hàng đã nhận thấy được

tầm ảnh hưởng của dịch vụ phi tín dụng trong việc mang lại nguồn thu ổn định, an

toàn hơn cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời, sự phát triển dịch vụ phi tín

dụng có vai trò rất quan trọng, quyết định sự tồn tại của một ngân hàng trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Mặc dù được quan tâm phát triển nhưng cho đến nay mảng dịch vụ phi tín dụng tại

các ngân hàng vẫn còn đơn điệu về hình thức, chất lượng chưa cao, quy mô dịch vụ

nhỏ, sức cạnh tranh còn hạn chế, trong khi đó hoạt động marketing chưa thực sự

hiệu quả nên tỷ lệ khách hàng cá nhân tham gia vào hoạt động phi tín dụng tại các

ngân hàng còn hạn chế, việc xây dựng chiến lược rõ ràng cho phát triển dịch vụ phi

tín dụng chưa được chú trọng, mà thường được bao hàm vào trong các chiến lược

phát triển chung của ngân hàng, các ngân hàng chưa chú trong trong việc nâng cao

trình độ công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho các

dịch vụ phi tín dụng ứng dụng công nghệ cao như: ngân hàng điện tử, ủy thác, giao

dịch các công cụ phái sinh,... còn chưa được phát huy tối đa để đem lại hiệu quả

tương xứng với năng lực và lợi thế; bên cạnh đó thói quen sử dụng tiền mặt của

người Việt Nam cũng khiến các ngân hàng thương mại găp khó khăn trong việc

phát triển mạng lưới thẻ nói riêng và dịch vụ phi tín dụng nói chung. Kết quả là

nguồn thu từ hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng trong những năm gần đây dù

đã được cải thiện nhưng vẫn còn khiêm tốn.

4.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Thống kê mô tả các biến trong mô hình được trình bày trong bảng 4.1.

Chỉ số Z-score để đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng. Một giá trị Z-score càng

cao chỉ ra mức độ ổn định của ngân hàng càng lớn. Chỉ số Z-score trung bình của

các ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 4.42, giao động từ 2.05 đến

11.97. Mức độ biến động của chỉ số Z-score giữa các ngân hàng là khoảng 1.45.

36

Biến này có phân phối lệnh phải (độ lệch bằng 1.45 > 0) và nhọn hơn so với phân

phối chuẩn (độ nhọn 6.90 > 3). Kiểm định Jarque-Bera cũng bác bỏ giả thuyết H0

“biến Z-score tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=0%).

Chỉ số LLP là chỉ số dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng tài sản. Các ngân hàng sẽ

trích lập dự phòng cho các khoản vay tùy thuộc vào mức độ rủi ro của nó. Rủi ro

càng cao trích lập càng nhiều. Ngược lại với chỉ số Z-score , chỉ số LLP càng cao

cho thấy ngân hàng đang chấp nhận rủi ro cao hơn. Chỉ số LLP trung bình của các

ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 0.68%, giao động từ 0.06% đến

2.11%. Mức độ biến động của chỉ số LLP giữa các ngân hàng là khoảng 0.35%

tương đối cao. Biến này có phân phối lệnh phải (độ lệch bằng 1.27 > 0) và nhọn hơn

so với phân phối chuẩn (độ nhọn 5.15 > 3). Kiểm định Jarque-Bera cũng bác bỏ giả

thuyết H0 “biến LLP tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=0%).

Chỉ số Deposit được đo lường bằng tổng tiền gửi trên tổng tài sản. Chỉ số này càng

cao cho thấy, ngân hàng đang nắm giữ tiền mặt hay tài sản thanh khoản cao, đây là

dấu hiệu cho thấy ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp. Chỉ số Deposit trung bình

của các ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 0.62, giao động từ 0.23 đến

0.89. Mức độ biến động của chỉ số Deposit giữa các ngân hàng là khoảng 0.128.

Biến này có phân phối lệnh trái (độ lệch bằng -0.45 < 0) và hơi nhọn hơn so với

phân phối chuẩn (độ nhọn 3.15 > 3). Kiểm định Jarque-Bera cũng bác bỏ giả thuyết

H0 “biến Deposit tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=2%).

Chỉ số Loan ratio được đo lường bằng tổng nợ trên tổng tài sản. Đây là một trong

các biến kiểm soát trong mô hình. Chỉ số Loan ratio trung bình của các ngân hàng

Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 0.53, giao động từ 0.19 đến 0.84. Mức độ biến

động của chỉ số Loan ratio giữa các ngân hàng là khoảng 0.13. Biến này có phân

phối lệnh trái (độ lệch bằng -0.26 < 0) và bè hơn so với phân phối chuẩn (độ nhọn

2.41 < 3). Kiểm định Jarque-Bera cho thấy biến Loan ratio có phân phối gần với

phân phối chuẩn thể hiện ở giả thuyết H0 “biến Loan ratio tuân theo phân phối

chuẩn” được chấp nhận với p-value bằng 5.59%.

37

Chỉ số ROA được đo lường bằng lợi nhuận trên tổng tài sản. Đây là một trong các

biến kiểm soát trong mô hình. Chỉ số này càng cao cho thấy, ngân hàng hoạt động

hiệu quả. Chỉ số ROA trung bình của các ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên

cứu là 0.88%, giao động từ 0.01% đến 4.72%. Mức độ biến động của chỉ số ROA

giữa các ngân hàng là khoảng 0.006. Biến này có phân phối lệnh phải (độ lệch bằng

1.42 > 0) và hơi nhọn hơn so với phân phối chuẩn (độ nhọn 9.34 > 3). Kiểm định

Jarque-Bera cũng bác bỏ giả thuyết H0 “biến ROA tuân theo phân phối chuẩn” (p-

value=0%).

Chỉ số Equity ratio được đo lường bằng tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Chỉ

số này càng cao cho thấy, ngân hàng đang nắm giữ một lượng vốn lớn, đây là dấu

hiệu cho thấy ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp. Chỉ số Equity ratio trung bình

của các ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 0.098, giao động từ 0.034 đến

0.29. Mức độ biến động của chỉ số Equity ratio giữa các ngân hàng là khoảng 0.045.

Biến này có phân phối lệnh phải (độ lệch bằng 1.47 > 0) và hơi nhọn hơn so với

phân phối chuẩn (độ nhọn 5.26 > 3). Kiểm định Jarque-Bera cũng bác bỏ giả thuyết

H0 “biến Equity ratio tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=0%).

Chỉ số GDP được đo lường bằng tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội. Chỉ số

này càng cao cho thấy mức thu nhập cũng như đời sống người dân tăng qua các

năm. Chỉ số GDP trung bình của các ngân hàng Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là

6.27%, giao động từ 5.25% đến 8.48%. Mức độ biến động của chỉ số GDP giữa các

ngân hàng là khoảng 0.88. Biến này có phân phối lệnh phải (độ lệch bằng 1.13 > 0)

và hơi nhọn hơn so với phân phối chuẩn (độ nhọn 4 > 3). Kiểm định Jarque-Bera

cũng bác bỏ giả thuyết H0 “biến GDP tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=0%).

Chỉ số Unemp được đo lường bằng tỷ lệ thất nghiệp qua các năm. Chỉ số này càng

thấp sẽ càng giúp cho một quốc gia ổn định tình hình kinh tế xã hội. Chỉ số Unemp

trung bình của Việt Nam trong mẫu nghiên cứu là 2.94, giao động từ 1.8 đến 4.1.

Mức độ biến động của chỉ số Unemp giữa các ngân hàng là khoảng 0.71. Biến này

có phân phối lệnh trái (độ lệch bằng -0.36 < 0) và hơi bè hơn so với phân phối

38

chuẩn (độ nhọn 1.98 < 3). Kiểm định Jarque-Bera cũng bác bỏ giả thuyết H0 “biến

Unemp tuân theo phân phối chuẩn” (p-value=0%).

4.3. Kiểm định tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình

Mục đích chạy tương quan Pearson nhằm kiểm tra mối tương quan tuyến tính chặt

chẽ giữa biến phụ thuộc với các biến độc lập, vì điều kiện để hồi quy là trước nhất

phải tương quan.

Ngoài ra cần nhận diện vấn đề đa cộng tuyến khi các biến độc lập cũng có tương

quan mạnh với nhau. Nếu các biến có giá trị tương quan Pearson nhỏ hơn 0.88 và p-

value nhỏ hơn 0.05 thì vẫn đảm bảo giá trị phân biệt và có thể đưa vào mô hình hồi

quy.

Hệ số tương quan Pearson nhận giá trị từ -1 cho đến 1. Dấu âm thể hiện mối tương

quan ngược chiều và dấu tương thể hiện mối tương quan cùng chiều. Giá trị tuyệt

của tương quan Pearson càng gần 1 thì mức độ tương quan giữa hai biến càng lớn.

Bảng 4.2 trình bày hệ số tương quan Pearson của các biến trong mô hình. Ngoại trừ

tương quan của 2 biến phụ thuộc là LLP và Z-score, các biến giải thích và kiểm soát

trong mô hình có tương quan rất thấp với nhau, nên vẫn đảm bảo giá trị phân biệt để

đưa vào phân tích hồi quy.

39

Z-SCORE 4.4238 4.1435 11.978

DEPOSIT 0.6207 0.6335 0.8921

LOAN_RATIO 0.5301 0.5469 0.8447

ROA 0.0088 0.0079 0.0472

EQUITY_RATIO 0.0981 0.0867 0.2931

GDP 6.2727 6.1800 8.4800

UNEMP 2.9436 3.1800 4.1000

LLP 0.0068 0.0063 0.0211

2.0555

0.2267

0.1910

0.0001

0.0349

5.2500

1.8000

0.0006

1.3535 1.4532 6.9042 217.16 0.0000 220

0.1281 -0.4550 3.1581 7.8208 0.0200 220

0.1300 -0.2659 2.4116 5.7661 0.0559 220

0.0060 1.4258 9.3430 443.3572 0.0000 220

0.0451 1.4710 5.2662 126.4235 0.0000 220

0.8815 1.1317 4.0088 56.2948 0.0000 220

0.7182 -0.3602 1.9814 14.2686 0.0007 220

0.0035 1.2748 5.1522 102.0555 0.0000 220

Trung bình Trung vị Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất Độ lệch chuẩn Độ lệch Độ nhọn Jarque-Bera P-value Số quan sát

Bảng 4.1 Thống kê mô tả biến

Probability

Z-SCORE

DEPOSIT

LOAN_RATIO ROA

EQUITY_RATIO GDP

UNEMP

LLP

Z-SCORE

1

DEPOSIT

0.228***

1

LOAN_RATIO

-0.033

0.516***

1

ROA

-0.263***

-0.204***

0.095

1

EQUITY_RATIO -0.082

-0.186***

0.087

0.285***

1

GDP

-0.016

-0.067

0.062

0.124*

-0.013

1

UNEMP

0.061

0.115*

0.139**

0.056

0.037

0.671***

1

LLP

-0.049

0.018

0.372***

0.424***

-0.139**

-0.212***

-0.217***

1

Bảng 4.2 Tương quan Pearson

40

4.4. Bằng chứng thực nghiêm về mối quan hệ giữa thanh khoản và mức độ

chấp nhận rủi ro của ngân hàng

LLP

-Z-SCORE

Biến phụ thuộc

Hệ số

P-value

Hệ số

P-value

Biến độc lập

-0.000413

0.7548

3.772411

0.0000

Hằng số

DEPOSIT

Bảng 4.3.Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng

0.0147

0.005133

2.934404

0.0006

0.0000

0.009262

-1.674934

0.0406

LOAN_RATIO

0.0165

-0.012225

1.232524

0.5481

EQUITY_RATIO

0.2899

0.040487

-45.57425

0.0035

ROA

0.233757

0.119135

R2

0.219501

0.102747

R2 hiệu chỉnh

16.39742

7.269584

F-statistic

0.0000

0.000017

Prob(F-statistic)

1.71383

Durbin-Watson stat

Bảng 4.3 trình bày kết quả hồi quy của biến phụ thuộc đo lường rủi ro ngân hàng gồm

biến LLP và Z-score và biến độc lập là rủi ro thanh khoản đo lường bằng chỉ số tiền

gửi huy động trên tổng tài sản (Deposit). Ngoài ra mô hình có đưa vào các biến kiểm

soát liên quan đến đặc trưng của ngân hàng tỷ số nợ trên tổng tài sản (Loan ratio), vốn

chủ sở hữu trên tổng tài sản (Equity ratio) và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA).

Hệ số hồi quy của biến rủi ro thanh khoản (Deposit) là dương và có ý nghĩa thống kê

ở cả hai mô hình với biến phụ thuộc là LLP và –Z-score, tương ứng là α=0.005133,

pvalue = 1.47% và α= 2.934404, pvalue = 0.06%. Như vậy chỉ số tiền gửi ngân hàng

trên tổng tài sản (Deposit) gia tăng tương ứng với rủi ro thanh khoản thấp thì rủi ro

ngân hàng cũng gia tăng. Cần chú ý rằng chúng ra nhân chỉ số Z-score với trừ 1 để

thuận tiện trong việc xem xét trong mô hình, cụ thể chỉ số LLP và –Z-score gia tăng

đồng nghĩa với việc ngân hàng có nhiều khoản vay rủi ro hơn và mức độ ổn định thấp

hơn do vậy rủi ro của ngân hàng sẽ cao hơn.

Với kết quả này chúng ta chấp nhận giả thuyết H1 được đề xuất trong mục tiêu nghiên

cứu “Các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi ro hơn”.

Kết quả này thì phù hợp với quan điểm của Acharya and Naqvi’s (2012) theo đó khi

41

các ngân hàng thu hút được một lượng tiền gửi lớn, tương ứng với rủi ro thanh khoản

thấp thì các nhà quản lý của các ngân hàng có xu hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn

thông qua việc cắt giảm lãi suất cho vay để gia tăng dư nợ tín dụng, đồng thời gia tăng

lợi ích cá nhân của họ, cụ thể là tiền thưởng. Các điều kiện, tiêu chuẩn cho vay sẽ

được các nhà quản lý nới lỏng hoặc không được kiểm soát chặt chẽ để gia tăng khối

lượng cho vay, vì tiền thưởng của nhà quản lý ngân hàng có thể một phần dựa trên

khối lượng cho vay, điều này được sử dụng như thang đo chuẩn cho hiệu quả quản lý.

Mặt khác, tiền gửi dồi dào khiến cho các nhà quản lý ngân hàng quá tự tin về việc các

ngân hàng sẽ không gặp phải các rủi ro thanh khoản trong ngắn hạn và hoạt động cho

vay không bị nghi vấn. Việc thiếu hụt các nguồn vốn xuất phát từ việc cho vay quá

mức có thể khiến các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Liên quan đến vấn đề

này, Cheng cùng cộng sự (2015) chỉ ra rằng lý thuyết đại diện cổ điển, các nhà quản

trị rủi ro cần mức tiền thưởng cao hơn để làm việc trong các doanh nghiệp tài chính

rủi ro hơn vì họ phải đối mặt sự không chắc chắn trong thu nhập của họ. Vì vậy, để

đạt được mức tiền thưởng cao khi làm việc trong các ngân hàng rủi ro hơn, các nhà

quản lý cũng mất nhiều thời gian để theo đuổi các chiến lược cho vay mở rộng khi

thanh khoản dồi dào. Mai Thị Phương Thúy và Bùi Thị Diệp (2018) thực hiện nghiên

cứu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ 2007 đến 2016 cũng cho ra

kết quả tương tự khi thanh khoản ngân hàng tăng lên sẽ thúc đẩy các ngân hàng cho

vay nhiều hơn, từ đó làm gia tăng nợ xấu. Nghiên cứu của Lê Tấn Phước (2017) cho

thấy các ngân hàng thương mại có tỷ lệ tài sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tăng

trưởng tín dụng cao vì mục tiêu lợi nhuận, từ đó làm gia tăng rủi ro tín dụng. Như vậy,

khi tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng thương mại cần chú ý đến công tác quản trị

nhằm tránh tổn thất cho ngân hàng.

Bằng chứng thực nghiệm chỉ ra rằng các ngân hàng có thanh khoản dồi dào thường

chấp nhận rủi ro cao hơn có thể vì sự tư tin quá mức hoặc do vấn đề đại diện mâu

thuẫn lợi ích giữa nhà quản lý và ngân hàng gây ra. Câu hỏi đặt ra là đối với các ngân

hàng lớn điều này có xảy ra không. Bảng 4.4 trình bày kết quả hồi quy ở hai phương

trình với hai biến phụ thuộc tương ứng với hai cách đo lường rủi ro ngân hàng. LLP là

chỉ số của dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng tài sản, LLP càng cao thể hiện rủi ro của

ngân hàng càng lớn. Ngược lại, Z-score đo lường rủi ro tổng thể của ngân hàng, Z-

42

score càng lớn thì ngân hàng càng ít rủi ro. Vì vậy, tác giả nhân chỉ số Z-score với -1

để đồng nhất về dấu và chiều phân tích, tức khi LLP và Z-score tăng thì rủi ro của

ngân hàng cũng gia tăng. Mối liên hệ giữa rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng lớn

được thể hiện bằng biến tích Deposit*BIG. Trong đó, Deposit là chỉ số tiền gửi trên

tổng tài sản và BIG là biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu tổng tài sản của ngân hàng nằm

trong nhóm có phân vị cao và bằng 0 cho trường hợp ngược lại. Đối với biến giả BIG,

tác giả sử dụng tứ phân vị để phân chia các ngân hàng theo quy mô tổng tài sản. Ngoài

ra mô hình có đưa vào các biến kiểm soát liên quan đến đặc trưng của ngân hàng là tỷ

số nợ trên tổng tài sản (Loan ratio), vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Equity Ratio) và

tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA).

Kết quả hồi quy cho thấy ở mô hình với biến phụ thuộc là LLP hệ số của biến tích

Deposit*BIG không có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên ở mô hình với biến phụ thuộc là –

Z-score hệ số hồi quy bằng -3.501995 và có ý nghĩa thống kê với giá trị p-value là

6.39%. Có thể diễn giải kết quả này như sau ở các ngân hàng lớn với tiền gửi dồi dào

hay rủi ro thanh khoản thấp thì có rủi ro ngân hàng thấp hơn. Như vậy giả thuyết H2

“Các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi ro ít

hơn” đã có đủ bằng chứng thực nghiệm để chấp nhận. Đây cũng là phát hiện trong

nghiên cứu của Bertay et al. (2013) các ngân hàng lớn không nhất thiết phải mạo hiểm

hơn, quy mô ngân hàng không tương quan đến rủi ro ngân hàng được đo lường bởi chỉ

số Z-score. Các ngân hàng lớn có khả năng huy động vốn ngoài tiền gửi cao hơn hoặc

nguồn vốn sỉ (Bertay et al. 2013). Demsetz and Strahan (1997) cũng chỉ ra rằng gia

tăng tổng tài sản làm giảm rủi ro đặc trưng của ngân hàng và có tương quan cùng

chiều với đa dạng hóa. Tương tự, quy mô ngân hàng gia tăng sự ổn định của ngân

hàng bằng chứng là chỉ số Z-score cao hơn, các ngân hàng lớn chấp nhận ít rủi ro hơn

(Mercieca et al., 2007; Stiroh 2004). Bên cạnh đó, Boyd and Runkle (1993) cũng phát

hiện rằng biến động của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản có tương quan ngược chiều

với quy mô ngân hàng. Do đó, các ngân hàng lớn có biến động tỷ suất sinh lợi trên tài

sản thấp hơn sẽ có mức rủi ro thấp hơn. Hơn thế nữa, quy mô ngân hàng cũng cho

thấy một mối tương quan ngược chiều đến biến động lợi nhuận, và trong cuộc khủng

hoảng tài chính toàn cầu mối quan hệ này trở nên mạnh mẽ hơn (De Haan and

43

Poghosyan, 2012). Do đó, các tài liệu nghiên cứu hiện hành cho thấy rằng các ngân

hàng lớn chấp nhận rủi ro thấp hơn ứng với rủi ro thanh khoản thấp hơn.

LLP

-Z-SCORE

Biến phụ thuộc

Hệ số

P-value

Hệ số

P-value

Biến độc lập

-0.000315

0.8189

3.398881

0.0000

Hằng số

DEPOSIT*BIG

Bảng 4.4. Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng lớn

-0.002400

0.6001

-3.501995

0.0639

0.004892

0.0290

3.643490

0.0001

DEPOSIT

0.003475

0.2719

2.216085

0.0891

BIG

0.007509

0.0003

-1.666601

0.0484

LOAN_RATIO

-0.004433

0.4215

1.057552

0.6409

EQUITY_RATIO

0.013191

0.7317

-46.52475

0.0036

ROA

0.270602

0.135112

R2

0.250056

0.110749

R2 hiệu chỉnh

13.17027

5.545783

F-statistic

0.000000

0.000023

Prob(F-statistic)

0.673285

1.732228

Durbin-Watson stat

Trong các giai đoạn khủng hoảng tài chính các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp

có làm giảm rủi ro của ngân hàng không? Nội dung của giả thuyết H3 này được trình

bày trong bảng 4.5. Cũng tương tự như các mô hình hồi quy trên, tác giả cũng chạy

hai mô hình tương ứng với hai biến phụ thuộc đo lường rủi ro ngân hàng. Theo đó

LLP và –Z-score càng cao thì rủi ro của ngân hàng càng lớn. Biến tích Deposit*GFC

được sử dụng để thể hiện rủi ro thanh khoản của ngân hàng trong giai đoạn khủng

hoảng. Deposit là chỉ số tiền gửi trên tổng tài sản, chỉ số này càng cao cho thấy ngân

hàng có nguồn tiền gửi dồi dào và rủi ro thanh khoản thấp. Biến khủng khoảng GFC là

biến giả nhận giá trị 1 nếu giai đoạn nghiên cứu rơi vào thời gian diễn ra cuộc khủng

khoảng tài chính toàn cầu năm 2007, 2008 và 2009. Ngoài ra mô hình có đưa vào các

biến kiểm soát liên quan đến đặc trưng của ngân hàng là tỷ số nợ trên tổng tài sản

(Loan ratio), vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Equity ratio) và tỷ suất sinh lợi trên

tổng tài sản (ROA).

44

Phân tích kết quả hồi quy trong bảng 4.5 chúng ta thấy biến tích hệ số hồi quy

Deposit*GFC mang dấu âm ở cả 2 mô hình nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê trong mô

hình với biến phụ thuộc là LLP. Cụ thể hệ số hồi quy của Deposit*GFC trong mô hình

LLP là -0.010179 ứng với mức ý nghĩa thống kê là 1.18%. Điều này có ý nghĩa là

thanh khoản của ngân hàng giúp các ngân hàng giảm được rủi ro trong giai đoạn

khủng khoảng. Nếu nhìn và hệ số của biến giả khủng hoảng GFC (0.007125, p-value

= 0.3%), chúng ta có thể thấy khủng hoảng tài chính có tác động cùng chiều đến rủi ro

ngân hàng, hàm ý rằng rủi ro của ngân hàng gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng tài

chính. Tuy nhiên các ngân hàng có tiền gửi cao, rủi ro thanh khoản thấp sẽ có rủi ro

thấp hơn. Kết quả này phù hợp với các phát hiện trong nghiên cứu của Cornett et al.

(2011) và (Acharya and Mora, 2015). Các tác giả chỉ ra rằng trong suốt giai đoạn

khủng hoảng tài chính 2007 – 2009, các ngân hàng ở Hoa Kỳ với danh mục tài sản ít

thanh khoản phải cắt giảm các khoản vay và các ngân hàng đó gia tăng nắm giữ tài

sản thanh khoản ứng với các gói khích thích thanh khoản được nắm giữ bởi Cục dự

trữ liên bang. Họ gia tăng tỷ lệ tiền gửi vì các nhà đầu tư trở nên lưỡng lự khi thực

hiện những thương vụ đầu tư rủi ro, thay vào đó họ thích nắm giữ các tài sản thanh

khoản như tiền gửi ngân hàng.

Bảng 4.5 Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hang trong suốt giai

Biến phụ thuộc

LLP

-Z-SCORE

Biến độc lập

Hệ số

P-value

Hệ số

P-value

0.001801

0.2251

3.472715

0.0000

Hằng số

DEPOSIT*GFC

đoạn khủng hoảng tài chính

0.0118

-0.010179

-2.537918

0.1240

GFC

0.0030

0.007125

1.046142

0.2844

DEPOSIT

0.5590

0.001383

3.362524

0.0006

EQUITY_RATIO

0.0590

-0.009505

1.507512

0.4638

LOAN_RATIO

0.0000

0.009738

-1.698533

0.0364

ROA

0.3635

0.036270

-31.21797

0.0574

0.275376

0.145061

R2

0.254964

0.120978

R2 hiệu chỉnh

13.49095

6.023438

F-statistic

0.000000

0.000008

Prob(F-statistic)

Durbin-Watson stat

0.727530

1.703404

45

4.5. Kiểm định tính vững

Bảng 4.6 Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng có tính đến các

LLP

-Z-SCORE

Biến phụ thuộc

Hệ số

P-value

Hệ số

P-value

Biến độc lập

0.004207

0.0371

3.560546

0.0000

Hằng số

DEPOSIT

yếu tố vĩ mô

0.0072

0.005490

0.0011

2.857842

0.0000

0.010075

0.0363

-1.725684

LOAN_RATIO

0.0131

-0.012093

0.5797

1.149146

EQUITY_RATIO

0.1421

0.053539

0.0033

-46.25973

ROA

0.3609

-0.000293

0.9218

-0.013501

GDP

0.0023

-0.001210

0.4374

0.130870

UNEMP

0.319316

0.123091

R2

0.300142

0.098390

R2 hiệu chỉnh

16.65342

4.983123

F-statistic

0.000000

0.000085

Prob(F-statistic)

0.711153

1.715011

Durbin-Watson stat

Biến phụ thuộc

LLP

-Z-SCORE

Biến độc lập

Hệ số

P-value

Hệ số

P-value

-0.001349

0.3597

3.312767

0.0000

Hằng số

DEPOSIT*HL

Bảng 4.7 Thanh khoản và rủi ro ngân hàng cho tất cả các ngân hàng có tiền gửi cao.

0.0107

0.011242

3.128703

0.0807

0.0085

0.008134

2.028253

0.1064

HL

0.0042

0.007446

4.000683

0.0002

DEPOSIT

0.0088

-0.013259

0.950193

0.6432

EQUITY_RATIO

0.0000

0.008726

-1.880595

0.0225

LOAN_RATIO

0.4798

0.027218

-46.44253

0.0035

ROA

0.258450

0.133006

R2

0.237561

0.108584

R2 hiệu chỉnh

12.37267

5.446068

F-statistic

0.000000

0.000029

Prob(F-statistic)

0.739838

Durbin-Watson stat

1.730841

46

Để kiểm định tính vững của thanh khoản và rủi ro của ngân hàng tác giả đưa vào

phương trình (1) các biến vĩ mô gồm tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp

được trình bày trong bảng 4.6 và biến giả quy mô tiền gửi HL nhận giá trị bằng 1 nếu

ngân hàng trong top phân vị theo tỷ số tổng tiền gửi trên tổng tài sản và bằng 0 cho trường hợp ngược lại được trình bày trong bảng 4.7.

Kết quả cho thấy hệ số Deposit và Deposit*HL ở tất cả các mô hình đếu mang dấu

dương và có ý nghĩa thống kê. Hàm ý rằng các ngân hàng có mức tiền gửi cao chấp nhận rủi ro cao hơn phù hợp với các kết luận đặt ra ở giả thuyết H1 và mô hình kiểm chứng nó.

47

TÓM TẮT CHƯƠNG IV Thống kê mô tả các biến trong mô hình cho thấy các biến trong mô hình không tuân

theo phân phối chuẩn.

Ngoại trừ tương quan của 2 biến phụ thuộc là LLP và Z-score, các biến giải thích và

kiểm soát trong mô hình có tương quan rất thấp với nhau, nên vẫn đảm bảo giá trị phân biệt để đưa vào phân tích hồi quy.

Bằng chứng thực nghiệm từ các mô hình chấp nhận ba giả thuyết nghiên cứu:

 Giả thuyết H1: Các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp

nhận rủi ro cao hơn.

 Giả thuyết H2: Các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng

chấp nhận rủi ro ít hơn.

 Giả thuyết H3: Rủi ro ngân hàng giảm trong giai đoạn khủng hoảng ở các ngân

hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp.

Kết quả kiểm định tính vững của mô hình được đề xuất cho thấy hệ số biến thanh

khoản Deposit và Deposit*HL ở tất cả các mô hình đếu mang dấu dương và có ý

nghĩa thống kê. Hàm ý rằng các ngân hàng có mức tiền gửi cao chấp nhận rủi ro

cao hơn phù hợp với mô hình 1.

48

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.1. Kết luận Trước sức ép cạnh tranh từ tiến trình hội nhập và đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế -

tài chính thế giới 2007 - 2009, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng trước

những thách thức và cơ hội rất lớn. Việc cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận là một câu

hỏi quan trọng mà mỗi ngân hàng phải trả lời, từ đó tìm ra hướng đầu tư mới mang lại

hiệu quả cao nhất. Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn

non trẻ với nghiệp vụ chủ yếu là tín dụng và huy động vốn. Thu nhập thuần từ nghiệp

vụ tín dụng mang lại hiệu quả cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng, đòi

hỏi mỗi ngân hàng phải đưa ra mức chấp nhận rủi ro riêng với hoạt động này.

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 20 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam giai

đoạn từ 2007 đến 2017. Mô hình được sử dụng là mô hình hồi quy gộp. Nghiên cứu

tìm hiểu về mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro của ngân hàng. Để trả lời

cho mục tiêu này, dựa trên các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước tác giả xây

dựng ba giả thuyết nghiên cứu:

 Giả thuyết H1: Các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp

nhận rủi ro cao hơn.

 Giả thuyết H2: Các ngân hàng lớn có rủi ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng

chấp nhận rủi ro ít hơn.

 Giả thuyết H3: Rủi ro ngân hàng giảm trong giai đoạn khủng hoảng ở các ngân

hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp.

Rủi ro thanh khoản được đo lường bằng tỷ trọng tiền gửi huy động trên tổng tài sản.

Tác giả xem các ngân hàng với tỷ lệ tiền gửi cao có rủi ro thanh khoản thấp vì tiền gửi

giúp các ngân hàng thoát khỏi rủi ro bank-run (người gửi tiền rút tiền đồng loạt). Rủi

ro ngân hàng hay mức độ rủi ro của ngân hàng được đại diện bởi hai biến LLP được

đo lường tỷ lệ dự phòng rủi tín dụng trên tổng tài sản và Z-score đại diện cho rủi ro

tổng thể của ngân hàng thể hiện biến động của lợi nhuận. Theo đó các ngân hàng có tỷ

số LLP càng cao thì rủi ro hoạt động tín dụng càng lớn do. Hệ số Z-score càng cao thì

mức độ ổn định của ngân hàng càng cao và rủi ro của ngân hàng càng thấp. Vì vậy tác

giả nhân chỉ số Z-score với -1 để đồng nhất về dấu và chiều phân tích, tức khi LLP và

Z-score tăng thì rủi ro của ngân hàng cũng gia tăng. Ngoài ra mô hình có đưa vào các

49

biến kiểm soát liên quan đến đặc trưng của ngân hàng tỷ số nợ trên tổng tài sản (Loan

ratio), vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (Equity ratio) và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài

sản (ROA).

Kết quả thực nghiệm cho thấy giả thuyết H1 được chấp nhận tức các ngân hàng có rủi

ro thanh khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn. Kết quả này cũng phù

hợp với nghiên cứu của Acharya and Naqvi’s (2012) và Cheng cùng cộng sự (2015)

Mai Thị Phương Thúy và Bùi Thị Diệp (2018), Lê Tấn Phước (2017). Như vậy, khi

tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng thương mại cần chú ý đến công tác quản trị nhằm

tránh tổn thất cho ngân hàng. Theo đó khi các ngân hàng có rủi ro thanh khoản thấp

do có khối lượng tiền gửi lớn, quản lý của các ngân hàng có xu hướng chấp nhận rủi

ro nhiều hơn bằng cách giảm mạnh lãi suất cho vay để gia tăng khối lượng tín dụng,

đồng thời gia tăng lợi ích cá nhân của họ, cụ thể là tiền thưởng.

Liệu đối với các ngân hàng có quy mô khác nhau kết quả tương tự có xảy ra không?

Tác giả xây dựng giả thuyết H2 với nội dung là các ngân hàng lớn có rủi ro thanh

khoản thấp sẽ có xu hướng chấp nhận rủi ro ít hơn. Kết quả thực nghiệm cung cấp các

bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết này. Đây cũng là phát hiện trong nghiên cứu của

Bertay et al. (2013) các ngân hàng lớn không nhất thiết phải mạo hiểm hơn, quy mô

ngân hàng không tương quan đến rủi ro ngân hàng, ngược lại các ngân hàng lớn có

khả năng huy động vốn ngoài tiền gửi cao hơn hoặc nguồn vốn sỉ. Demsetz and

Strahan (1997) cũng chỉ ra rằng gia tăng tổng tài sản làm giảm rủi ro đặc trưng của

ngân hàng và có tương quan cùng chiều với đa dạng hóa. Tương tự, các ngân hàng lớn

chấp nhận ít rủi ro hơn vì quy mô ngân hàng gia tăng sự ổn định của ngân hàng bằng

chứng là chỉ số Z-score cao hơn (Mercieca et al., 2007; Stiroh 2004) và Boyd and

Runkle (1993).

Tiếp theo chúng ta xem xét mối liên kết giữa thanh khoản và rủi ro ngân hàng trong

giai đoạn khủng hoảng. Đây là nội dung của giả thuyết H3 “Rủi ro ngân hàng giảm

trong giai đoạn khủng hoảng ở các ngân hàng có mức rủi ro thanh khoản thấp”. Giả

thuyết H3 được chấp nhận trong nghiên cứu này. Đây cũng là các phát hiện trong

nghiên cứu của Cornett et al. (2011) và (Acharya and Mora, 2015). Các tác giả chỉ ra

rằng trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính 2007-2009 các ngân hàng ở Hoa Kỳ

50

với có xu hướng gia tăng nắm giữ các tài sản thanh khoản, cắt giảm các khoản vay hay

những thương vụ đầu tư mạo hiểm.

Ngoài ra để kiểm định tính vững của thanh khoản và rủi ro của ngân hàng tác giả đưa

vào mô hình nghiên cứu các biến vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp)

và biến giả quy mô tiền gửi HL phân loại các nhóm các ngân hàng có thanh khoản cao và thấp. Kết quả cho thấy mô hình đề xuất vững và phù hợp.

5.2. Hàm ý chính sách Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các ngân hàng có nguồn tiền gửi dồi dào hay thanh

khoản cao sẽ có xu hướng tự tin quá mức và các vấn đề đại diện phát sinh làm gia tăng

rủi ro của ngân hàng. Để làm giảm rủi ro tín dụng hay lớn hơn là rủi ro ngân hàng các

ngân hàng thương mại phải ý thức được việc tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà

nước, thường xuyên cập nhật để có thể nắm bắt kịp thời các thay đổi trong quy định,

thường xuyên theo dõi tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng. Bên cạnh việc tuân thủ quy

định pháp luật, các ngân hàng cần quan tâm đến vấn đề đạo đức trong kinh doanh,

không chạy theo lợi nhuận bất kể rủi ro.

Một vấn đề nữa trong quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại là

phải cân đối danh mục tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Nói cụ thể hơn, đó là việc

cơ cấu nguồn cho vay và nguồn huy động vốn sao cho phù hợp, tránh tình trạng mất

cân đối quá nhiều sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Bên cạnh đó, việc cơ cấu lại dư nợ

cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn cũng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả

năng thanh khoản cho ngân hàng.

Thực hiện điều chuyển dòng vốn tín dụng giữa các lĩnh vực cũng cần được quan tâm

lưu ý. Các ngân hàng cần theo sát tình hình diễn biến thị trường, tránh cho vay quá

nhiều vào các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro nhiều như chứng khoán, tiêu dùng và bất

động sản. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thương mại

phải luôn duy trì một lượng tiền mặt dự trữ, tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các

tài sản có tính thanh khoản cao khác để đối phó với tình trạng bank – run. Việc kết

hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân hàng chủ động vừa đối phó với

rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý.

Tại thị trường Việt Nam, một nguồn tiền lớn vẫn còn nằm trong khu vực dân cư. Do

đó, các ngân hàng thương mại cần tích cực huy động vốn từ khu vực này, một mặt để

51

bổ sung nguồn vốn dồi dào cho hoạt động tín dụng, mặt khác sẽ gia tăng thanh khoản

cho ngân hàng.

Mỗi ngân hàng cần tự hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động vốn và cho vay

của riêng mình theo tình hình thị trường từng thời kỳ. Tránh để xảy ra tình trạng

khách hàng rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ

khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Thời gian gần đây, thị trường Việt

Nam xuất hiện một số doanh nghiệp vay vốn ngân hàng nhưng không chịu thanh toán

khi đến hạn, vì họ lo lắng ngân hàng sẽ không cho lại sau khi họ tất toán. Họ sẵn sàng

chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng, vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi

suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản

của ngân hàng.

Thực hiện việc quản lý rủi ro kỳ hạn: Việc không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và

tài sản có cũng gây ra những rủi ro cho thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng thực

hiện huy động nguồn vốn ngắn hạn nhưng lại sử dụng để cho vay trung, dài hạn sẽ

dẫn ngân hàng đến tình trạng mất thanh khoản nếu không có sự điều chỉnh hợp lý.

5.3. Hạn chế của đề tài Do hạn chế về dữ liệu được công bố nên đề tài chỉ thu thập được dữ liệu báo cáo tài

chính đầy đủ của 20 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007 đến 2017.

Do hạn chế về kích thước mẫu nên việc sử dụng tứ phân vị trong phân loại quy mô

của ngân hàng sẽ làm giảm số quan sát trong các phân vị, từ đó ảnh hưởng đến mức

độ tin cậy của nghiên cứu.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy đơn giản OLS chưa tính đến các mối quan

hệ phi tuyến tính của các biến trong mô hình.

52

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu quốc tế [1] Acharya, V., Mora, N., 2015. A crisis of banks as liquidity providers. J. Finance

70, 1–43.

[2] Adrian, T., Shin, H.S., 2010. Liquidity and leverage. J. Financ. Intermediation

19,418–437

[3] Bertay, A.C., Demirgüç-Kunt, A., Huizinga, H., 2013. Do we need big banks? Evidence on performance, strategy and market discipline. J. Financ. Intermediation 22, 532–558.

[4] Boyd, J.H., Runkle, D.E., 1993. Size and performance of banking firms: testing

the predictions of theory. J. Monet. Econ. 31, 47–67.

[5] Cheng, I.-H., Hong, H., Scheinkman, J.A., 2015. Yesterday’s heroes:

compensation and risk at financial firms. J. Finance 70, 839–879.

[6] De Haan, J., Poghosyan, T., 2012. Bank size, market concentration, and bank earnings volatility in the US. J. Int. Financ. Markets Inst. Money 22, 35–54. [7] Delis, M.D., Hasan, I., Tsionas, E.G., 2014. The risk of financial intermediaries.

J. Bank. Finance 44, 1–12.

[8] Demsetz, R.S., Strahan, P.E., 1997. Diversification, size, and risk at bank

holding companies. J. Money Credit Bank. 29, 300–313

[9] Diamond, D.W., Dybvig, P.H., 1983. Bank runs, deposit insurance, and

liquidity. J.Polit. Econ. 91, 401–419

[10] Diamond, D.W., Dybvig, P.H., 1983. Bank runs, deposit insurance, and

liquidity. J.Polit. Econ. 91, 401–419

[11] Dimaond, R. (2001) Liquidity Risk, Liquidity Creation and Financial Fragility:

A Theory of Banking. Journal of Political Economy, 109, 287-327.

[12] Drehmann, M., Nikolaou, K., 2013. Funding liquidity risk: definition and

measurement. J. Bank. Finance 37, 2173–2182.

[13] Hakenes, H., Schnabel, I., 2011. Bank size and risk-taking under Basel II. J.

Bank. Finance 35, 1436–1449

[14] Hong, H., Huang, J.-Z., Wu, D., 2014. The information content of Basel III

liquidity risk measures. J. Financ. Stab. 15, 91–111

[15] Imbierowicz, B., Rauch, C., 2014. The relationship between liquidity risk and

credit risk in banks. J. Bank. Finance 40, 242–256.

53

[16] "Ivashina, V., Scharfstein, D., 2010. Bank lending during the financial crisis of

2008. J. Financ. Econ. 97, 319–338."

[17] Keeley, M.C., 1990. Deposit insurance, risk, and market power in banking. Am.

Econ. Rev. 80, 1183–1200

[18] King, M.R., 2013. The Basel III net stable funding ratio and bank net interest

margins. J. Bank. Finance 37, 4144–4156

[19] Lucchetta, M., 2007. What do data say about monetary policy, bank liquidity and

bank risk taking? Econ. Notes 36, 189–203.

[20] Mercieca, S., Schaeck, K., Wolfe, S., 2007. Small European banks: benefits from

diversification? J. Bank. Finance 31, 1975–1998

[21] Merton, R.C., 1977. An analytic derivation of the cost of deposit insurance and loan guarantees an application of modern option pricing theory. J. Bank. Finance 1, 3–11

[22] Muhammad Saifuddin Khana, Harald Scheulea, Eliza Wub (2017),Funding

liquidity and bank risk taking, Journal of Banking and Finance, 203-216

[23] Repullo, R., 2005, Liquidity, risk-taking and the lender of last resort, Centre for

Economic Policy Research Discussion Paper, No. 4967

[24] Stiroh, K.J., 2004. Diversification in Banking: is noninterest income the answer?

J.Money Credit Bank. 36, 853–882

[25] Vazquez, F., Federico, P., 2015. Bank funding structures and risk: evidence from

the global financial crisis. J. Bank. Finance 61, 1–14.

[26] Wagner, W., 2007. The liquidity of bank assets and banking stability. J. Bank.

Finance 31, 121–139

Tài liệu trong nước [1] Lê Phước Tấn (2017), Một số yếu tố tác động đến tăng trưởng tín dụng ngân

hàng thương mại Việt Nam, tạp chí tài chính online ngày 14/01/2017.

[2] Mai Phương Thúy và Bùi Thị Điệp (2018), Yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tạp chí tài chính online ngày 26/08/2018.

[3] Nguyễn Ngọc Yến (2016), Vấn đề quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tạp chí Luật Tài chính – Ngân hàng ngày 29/11/2016. [4] Phạm Văn Hà (2012), Chính sách tài chính giai đoạn hậu khủng hoảng, tạp chí

tài chính online ngày 07/04/2012.

[5] Trương Nguyễn Tường Vy và Mai Phương Thúy (2018), Cấu trúc sở hữu và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, tạp chí tài chính online ngày 03/09/2018.

PHỤ LỤC

t-Statistic

Coefficient

Std. Error

Prob.

-0.312774 2.459687 4.614268 -2.416617 1.061009

0.001320 0.002087 0.002007 0.005059 0.038159

0.7548 0.0147 0.0000 0.0165 0.2899

Variable C DEPOSIT LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

-0.000413 0.005133 0.009262 -0.012225 0.040487 0.233757 Mean dependent var 0.219501 S.D. dependent var 0.003166 Akaike info criterion 0.002155 Schwarz criterion 956.5380 Hannan-Quinn criter. 16.39742 Durbin-Watson stat 0.000000

0.006842 0.003583 -8.650346 -8.573218 -8.619199 0.672293

Mô hình 1: LLP và Deposit Dependent Variable: LLP Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 14:35 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.534620 0.845199 0.812911 2.048808 15.45437

0.0000 0.0006 0.0406 0.5481 0.0035

Variable C DEPOSIT LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA

7.056246 3.471849 -2.060414 0.601581 -2.948956

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

3.772411 2.934404 -1.674934 1.232524 -45.57425 0.119135 Mean dependent var 0.102747 S.D. dependent var 1.282164 Akaike info criterion 353.4480 Schwarz criterion -364.3184 Hannan-Quinn criter. 7.269584 Durbin-Watson stat 0.000017

4.423867 1.353587 3.357440 3.434568 3.388587 1.713830

Mô hình 1: -Z-SCORE và DEPOSIT Dependent Variable: - Z-SCORE Method: Panel Least Squares Date: 09/02/18 Time: 10:08 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Mô hình 2: LLP và BIG Dependent Variable: LLP

Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 14:56 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

t-Statistic

Coefficient

Std. Error

Prob.

-0.229288 -0.525063 2.198947 1.101665 3.679533 -0.805408 0.343340

0.001374 0.004572 0.002225 0.003154 0.002041 0.005504 0.038420

0.8189 0.6001 0.0290 0.2719 0.0003 0.4215 0.7317

Variable C DEPOSIT*BIG DEPOSIT BIG LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

-0.000315 -0.002400 0.004892 0.003475 0.007509 -0.004433 0.013191 0.270602 Mean dependent var 0.250056 S.D. dependent var 0.003103 Akaike info criterion 0.002051 Schwarz criterion 961.9589 Hannan-Quinn criter. 13.17027 Durbin-Watson stat 0.000000

0.006842 0.003583 -8.681444 -8.573465 -8.637839 0.673285

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.565065 1.880445 0.915006 1.297321 0.839446 2.263789 15.80325

0.0000 0.0639 0.0001 0.0891 0.0484 0.6409 0.0036

6.015023 -1.862323 3.981931 1.708201 -1.985357 0.467160 -2.944000

Variable C DEPOSIT*BIG DEPOSIT BIG LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

3.398881 -3.501995 3.643490 2.216085 -1.666601 1.057552 -46.52475 0.135112 Mean dependent var 0.110749 S.D. dependent var 1.276434 Akaike info criterion 347.0372 Schwarz criterion -362.3050 Hannan-Quinn criter. 5.545783 Durbin-Watson stat 0.000023

4.423867 1.353587 3.357318 3.465297 3.400923 1.732228

Mô hình 2: -Z-SCORE và BIG Dependent Variable: - Z-SCORE Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 14:58 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Mô hình 3: LLP và GFC Dependent Variable: LLP Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 16:11 Sample: 2007 2017

Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

1.216729 -2.541242 2.999277 0.585264 -1.898452 4.952934 0.910601

0.001480 0.004005 0.002376 0.002363 0.005007 0.001966 0.039831

0.2251 0.0118 0.0030 0.5590 0.0590 0.0000 0.3635

Variable C DEPOSIT*GFC GFC DEPOSIT EQUITY_RATIO LOAN_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.001801 -0.010179 0.007125 0.001383 -0.009505 0.009738 0.036270 0.275376 Mean dependent var 0.254964 S.D. dependent var 0.003093 Akaike info criterion 0.002038 Schwarz criterion 962.6813 Hannan-Quinn criter. 13.49095 Durbin-Watson stat 0.000000

0.006842 0.003583 -8.688012 -8.580033 -8.644407 0.727530

Mô hình 3: - Z-SCORE và GFC Dependent Variable: -Z-SCORE Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 16:14 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.607192 1.643382 0.974711 0.969438 2.054219 0.806692 16.34257

0.0000 0.1240 0.2844 0.0006 0.4638 0.0364 0.0574

Variable C DEPOSIT*GFC GFC DEPOSIT EQUITY_RATIO LOAN_RATIO ROA

5.719302 -1.544326 1.073285 3.468528 0.733861 -2.105554 -1.910224

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

3.472715 -2.537918 1.046142 3.362524 1.507512 -1.698533 -31.21797 0.145061 Mean dependent var 0.120978 S.D. dependent var 1.269071 Akaike info criterion 343.0452 Schwarz criterion -361.0323 Hannan-Quinn criter. 6.023438 Durbin-Watson stat 0.000008

4.423867 1.353587 3.345748 3.453727 3.389353 1.703404

Mô hình 4 Kiểm định tính vững LLP và HL Dependent Variable: LLP Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 16:54 Sample: 2007 2017 Periods included: 11

Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

t-Statistic

Coefficient

Std. Error

Prob.

-0.917824 2.575382 2.655815 2.897726 -2.643571 4.356151 0.707853

0.001470 0.004365 0.003063 0.002570 0.005016 0.002003 0.038452

0.3597 0.0107 0.0085 0.0042 0.0088 0.0000 0.4798

Variable C DEPOSIT*HL HL DEPOSIT EQUITY_RATIO LOAN_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

-0.001349 0.011242 0.008134 0.007446 -0.013259 0.008726 0.027218 0.258450 Mean dependent var 0.237561 S.D. dependent var 0.003129 Akaike info criterion 0.002085 Schwarz criterion 960.1413 Hannan-Quinn criter. 12.37267 Durbin-Watson stat 0.000000

0.006842 0.003583 -8.664921 -8.556942 -8.621316 0.739838

Mô hình 4: Kiểm định tính vững – Z-SCORE và HL Dependent Variable: - Z-SCORE Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 16:55 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.600493 1.782871 1.250957 1.049491 2.048607 0.818160 15.70510

0.0000 0.0807 0.1064 0.0002 0.6432 0.0225 0.0035

5.516750 1.754868 1.621361 3.812021 0.463824 -2.298566 -2.957163

Variable C DEPOSIT*HL HL DEPOSIT EQUITY_RATIO LOAN_RATIO ROA

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

3.312767 3.128703 2.028253 4.000683 0.950193 -1.880595 -46.44253 0.133006 Mean dependent var 0.108584 S.D. dependent var 1.277987 Akaike info criterion 347.8824 Schwarz criterion -362.5725 Hannan-Quinn criter. 5.446068 Durbin-Watson stat 0.000029

4.423867 1.353587 3.359750 3.467729 3.403355 1.730841

Mô hình 5: Kiểm định tính vững LLP và MACROECONOMIC Dependent Variable: LLP Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 15:16 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.002006 0.002022 0.001910 0.004832 0.036337 0.000320 0.000392

0.0371 0.0072 0.0000 0.0131 0.1421 0.3609 0.0023

2.097447 2.715403 5.273951 -2.502630 1.473418 -0.915528 -3.083760

Variable C DEPOSIT LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA GDP UNEMP

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.004207 0.005490 0.010075 -0.012093 0.053539 -0.000293 -0.001210 0.319316 Mean dependent var 0.300142 S.D. dependent var 0.002998 Akaike info criterion 0.001914 Schwarz criterion 969.5622 Hannan-Quinn criter. 16.65342 Durbin-Watson stat 0.000000

0.006842 0.003583 -8.750566 -8.642587 -8.706961 0.711153

Mô hình 5: Kiểm định tính vững –Z-SCORE và MACROECONOMIC Dependent Variable: - Z-SCORE Method: Panel Least Squares Date: 09/01/18 Time: 15:49 Sample: 2007 2017 Periods included: 11 Cross-sections included: 20 Total panel (balanced) observations: 220

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.859873 0.866823 0.819042 2.071626 15.57896 0.137319 0.168210

4.140783 3.296915 -2.106953 0.554708 -2.969372 -0.098320 0.778016

0.0000 0.0011 0.0363 0.5797 0.0033 0.9218 0.4374

Variable C DEPOSIT LOAN_RATIO EQUITY_RATIO ROA GDP UNEMP

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

3.560546 2.857842 -1.725684 1.149146 -46.25973 -0.013501 0.130870 0.123091 Mean dependent var 0.098390 S.D. dependent var 1.285273 Akaike info criterion 351.8606 Schwarz criterion -363.8233 Hannan-Quinn criter. 4.983123 Durbin-Watson stat 0.000085

4.423867 1.353587 3.371121 3.479100 3.414726 1.715011