BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Trung Kiên
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Trung Kiên
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số
: 8229020
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Dư
Ngọc Ngân - người đã gợi mở, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, khoa Ngữ
trình học tập và nghiên cứu.
văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................... 8
1.1. Vấn đề thành ngữ trong tiếng Việt .......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thành ngữ ......................................................................... 8
1.1.2. Nguồn gốc của thành ngữ ................................................................. 9
1.1.3. Đặc điểm của thành ngữ ................................................................. 13
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác ........................................ 19
1.1.5. Phân loại thành ngữ ........................................................................ 21
1.2. Trường nghĩa ......................................................................................... 22
1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ................................................ 25
1.4. Thành ngữ chứa các yếu tố thuộc TNTT trong tiếng Việt .................... 27
1.4.1. Trường nghĩa thời tiết ..................................................................... 27
1.4.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT .................................................. 29
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 31
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA THÀNH NGỮ CÓ TỪ
NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG
TIẾNG VIỆT ............................................................................. 32
2.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt ............................................................................................. 32
2.1.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT
trong tiếng Việt ............................................................................... 34
2.1.2. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ so sánh có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt .................................................................... 39
2.1.3. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ thường có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt .................................................................... 42
2.2. Chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt ............................................................................................. 45
2.2.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ trong
cụm từ .............................................................................................. 45
2.2.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần nòng cốt
của câu ............................................................................................. 48
2.2.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ của câu .... 50
2.2.4. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần biệt lập của
câu ................................................................................................... 52
2.3. Vị trí của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu ......................... 53
2.3.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng đầu câu ........................... 53
2.3.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng giữa câu .......................... 54
2.3.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng cuối câu .......................... 54
2.4. Khả năng kết hợp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu ..... 56
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 59
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA THÀNH NGỮ CÓ TỪ
NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG
TIẾNG VIỆT ............................................................................. 60
3.1. Ý nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT ..................................... 60
3.1.1. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa chỉ các hiện tượng thời tiết.............. 60
3.1.2. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những khó khăn
trong cuộc sống ................................................................................... 63
3.1.3. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những nguy
hiểm- thách thức .................................................................................. 65
3.1.4. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống lam lũ
và những thân phận nổi trôi ................................................................ 67
3.1.5. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những cơ hội-
thuận lợi............................................................................................... 69
3.1.6. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những vận xui ......... 71
3.1.7. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng chỉ trạng thái tâm lý
của con người ...................................................................................... 71
3.1.8. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành động
của con người ...................................................................................... 75
3.1.9. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành vi
ứng xử của con người .......................................................................... 76
3.1.10. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tính cách con
người ................................................................................................... 78
3.1.11. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những tình thế
trong cuộc sống ................................................................................... 80
3.1.12. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tốc độ .................... 81
3.1.13. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh ............... 83
3.1.14. Nhóm thành ngữ biểu thị những ý nghĩa biểu trưng khác ............... 84
3.2. Một vài nét văn hóa Việt Nam qua thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT ................................................................................................... 85
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CDT : Cụm danh từ
CĐT : Cụm động từ
CN : Chủ ngữ
CTT : Cụm tính từ
DT : Danh từ
ĐT : Động từ
STT : Số thứ tự
TT : Tính từ
TNTT : Trường nghĩa thời tiết
TTP : Thành phần phụ
VN : Vị ngữ
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt ....................... 33
Bảng 2.2. Thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT chia theo số lượng âm
tiết .................................................................................................... 35
Bảng 2.3. Thành ngữ so sánh có chứa từ ngữ thuộc TNTT chia theo dạng
thức {t} như B ................................................................................. 42
Bảng 3.1. Số lượng thành ngữ theo ý nghĩa biểu trưng .................................. 84
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống một ngôn ngữ, thành ngữ đồng hành cùng với từ và các
đơn vị ngôn ngữ khác tạo thành sự đa dạng cũng như đặc trưng riêng cho ngôn
ngữ đó. Có thể nói, thành ngữ là một bộ phận độc đáo của mỗi ngôn ngữ, bởi
nó có đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa, đồng thời phản ánh đặc trưng văn hóa
dân tộc của mỗi ngôn ngữ, trong đó có những giá trị vật chất và giá trị tinh
thần của dân tộc. Chính vì lý do này mà thành ngữ luôn thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Khá nhiều bộ phận thành ngữ, vấn đề trong
thành ngữ đã được nghiên cứu một cách sâu rộng, chẳng hạn như: thành ngữ
chỉ tính cách con người, thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm, thành ngữ chứa các từ
chỉ động vật, thực vật, màu sắc, bộ phận cơ thể con người, hàm ý khen chê
trong thành ngữ...Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy trong
thành ngữ có một số lượng lớn thành ngữ có những từ ngữ liên quan đến thời
tiết, mà vấn đề này lại chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Các thành
ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết chỉ thấy xuất hiện xen kẽ, lác đác
trong các bài viết về tính cách con người, về hàm ý khen chê, chứ chưa được
xem xét, tìm hiểu một cách có hệ thống trong mối tương quan giữa các thành
ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết. Ngôn ngữ (trong đó có thành
ngữ) luôn phát triển cùng xã hội, gắn với cuộc sống của con người, đặc biệt
gắn liền với môi trường sinh sống, một trong những yếu tố của môi trường
sống đó chính là thời tiết. Và chắc chắn rằng, ông cha ta đã sử dụng các từ
thuộc trường nghĩa thời tiết để diễn đạt rất nhiều ý nghĩa biểu trưng khác nhau.
Đây là một vấn đề vô cùng thú vị, thôi thúc chúng tôi cố gắng tìm hiểu về bộ
phận thành ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết, để từ đó thấy
được đặc trưng văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện như thế nào qua bộ
phận thành ngữ này.
2
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt
Khi tìm hiểu về tiếng Việt, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt vấn đề tìm
hiểu về thành ngữ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, thành ngữ thường được
đánh đồng với tục ngữ mà không có một ranh giới để phân biệt chúng.
Đầu thế kỉ XX, Phạm Quỳnh có bản báo cáo mang tên “Tục ngữ ca dao”
đăng trên Tạp chí Nam Phong (1921). Trong bài viết này, ông quan niệm tất cả
các cụm từ cố định đều là tục ngữ.
Công trình “Tục- ngữ phong- dao” của Nguyễn Văn Ngọc (1928) được
xem là hợp tuyển thành ngữ tiếng Việt đầu tiên. Công trình gồm 2 tập, ghi
chép 6.500 câu tục ngữ, 850 bài ca dao được sưu tập trong dân gian và sách cổ.
Tác giả cũng chưa có sự phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, trong 6500 câu
tục ngữ mà tác giả sưu tầm có rất nhiều câu là thành ngữ.
Tuy nhiên, những công trình kể trên dù có bước đầu đề cập đến vấn đề
thành ngữ nhưng có thể nói nghiên cứu về thành ngữ ở thời điểm đó vẫn chưa
được quan tâm. Nó còn là một “khoảng đất trống” trên lãnh địa của Ngôn ngữ
học.
Đến giữa thế kỉ XX, tác giả Dương Quảng Hàm trong sách “Việt Nam văn
học sử yếu” (1943) đã tách khái niệm thành ngữ ra khỏi tục ngữ. Cuốn sách
của học giả Dương Quảng Hàm được xem là “dấu mốc” quan trọng trong
nghiên cứu thành ngữ. Từ đây, thành ngữ bắt đầu được xem xét như một đối
tượng riêng rẽ, độc lập trên các bình diện cấu tạo, ý nghĩa và cú pháp.
Vào những năm 70 của thế kỉ XX, thành ngữ trở thành một đối tượng
nghiên cứu khoa học thực sự. Cũng từ giai đoạn này, các nghiên cứu về thành
ngữ gặt hái được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở việc: xác
định khối lượng của thành ngữ, phân xuất các thành ngữ trong tiếng Việt,
nghiên cứu các thuộc tính của thành ngữ và cách thức khu biệt chúng với
những đơn vị khác của ngôn ngữ như: ngữ định danh, quán ngữ, hoặc với tục
3
ngữ. Các bài viết này chủ yếu đăng trên tạp chí ngôn ngữ. Các công trình
nghiên cứu về thành ngữ với cách tiếp cận đa dạng từ nhiều góc nhìn của ngữ
âm học, từ vựng học và cú pháp học với các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn
Tu (1968); Nguyễn Văn Mệnh (1986); Cù Đình Tú (1973); Nguyễn Thiện
Giáp (1975; 2003); Hồ Lê (1976); Hoàng Văn Hành (1973, 1979); Trương
Đông San (1985); ...
Nhiều khuynh hướng nghiên cứu thành ngữ đã xuất hiện. Những tác giả
có thiên hướng nghiên cứu thành ngữ ở phương diện nguồn gốc, sự phát triển
gắn với các bình diện văn hóa là: Bùi Khắc Việt (1978); Đỗ Hữu Châu (1999),
Nguyễn Đức Dân (1986); Nguyễn Văn Khang (2005); …
Các tác giả như Trương Đông San (1985), Hoàng Văn Hành (1979) thì đi
sâu vào nghiên cứu một tiểu loại nhỏ của thành ngữ tiếng Việt là thành ngữ so
sánh. Tác giả Nguyễn Văn Hằng (1999) với công trình “ Thành ngữ bốn yếu tố
trong tiếng Việt hiện đại” đã góp một tiếng nói quan trọng vào việc nghiên cứu
thành ngữ đối chiếu. Các tác giả như Phan Xuân Thành, Trịnh Cẩm Lan, … thì
đi vào nghiên cứu về cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng của thành ngữ.
Những năm gần đây, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các luận văn thạc
sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về thành ngữ có một số lượng không nhỏ. Đó là
những nghiên cứu đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung và có chiều sâu
về văn hóa..
2.2. Tình hình nghiên cứu về thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết
Vấn đề thời tiết trong thành ngữ đã được Nguyễn Hồ Phương Chi bàn đến
trong bài viết “Thời tiết trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh” đăng trên tạp chí
“Ngôn ngữ và đời sống” năm 2011. Bài viết trình bày một số thành ngữ, tục
ngữ có yếu tố thời tiết thông dụng mà người học tiếng Anh thường gặp và so
sánh với một số thành ngữ, tục ngữ tương tự trong tiếng Việt.
4
Tuy nhiên thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng
Việt lại là một đề tài chưa nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thành ngữ tiếng Việt có số lượng lớn lên đến mấy nghìn đơn vị. Không
những thế nó còn đa dạng về đề tài và chủ đề. Đứng trước kho tàng thành ngữ
rộng lớn, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là
nhóm thành ngữ có các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết. Đó là: trường
nghĩa chỉ các hiện tượng thời tiết: gió (phong), mưa (vũ), nắng, sương, sấm,
sét, thiên lôi, chớp, tuyết, băng, thủy triều (triều), bão, giông/dông, nạn hồng
thủy, lũ, trường nghĩa chỉ các yếu tố thời tiết trên biển: sóng, biển (bể); trường
nghĩa chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời: trăng, mây, sao, trời; trường nghĩa
chỉ nhiệt độ không khí: nóng, mát, lạnh, giá, rét, buốt
Tư liệu chính phục vụ cho việc nghiên cứu là nhóm thành ngữ có các từ
ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết được thống kê trong các tài liệu sau:
Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông, Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002
Từ điển thành ngữ học sinh, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan
Xuân Thành, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009.
Thành ngữ tiếng Việt, Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Nxb Khoa học xã
hội, 2009.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi xác định mục đích của luận văn là chỉ được ra một số đặc điểm
về ngữ pháp, ngữ nghĩa của nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết trong tiếng Việt. Từ đó luận văn cố gắng liên hệ, chỉ ra một vài nhận xét và
kiến giải về mối quan hệ của nhóm thành ngữ này với những đặc trưng trong
tư duy và văn hóa của người Việt.
Để đạt được mục đích đó, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
5
- Thống kê những thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong
tiếng Việt.
- Xác định được cấu tạo, chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ
thuộc trường nghĩa thời tiết.
- Xác định được các loại ý nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết, trong đó chú ý đến ý nghĩa biểu trưng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Người viết tìm ra những thành ngữ có chứa từ
ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng Việt, sau đó thống kê số lượng
thành ngữ có từ ngữ chỉ các hiện tượng thời tiết, từ ngữ chỉ các yếu tố thời tiết
trên biển, từ ngữ chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời, từ ngữ chỉ nhiệt độ
không khí. Từ ngữ liệu đó, người viết thống kê và xác định tần số xuất hiện
của các từ ngữ chỉ thời tiết trong trong thành ngữ.
- Phương pháp miêu tả: Sau khi thống kê, chúng tôi tiến hành miêu tả các
trường hợp điển hình về vị trí, cách kết hợp, chức năng ngữ pháp của các thành
ngữ trong phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Chúng tôi tiến hành phân tích ngữ
nghĩa chủ yếu là nghĩa biểu trưng của từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong
thành ngữ.
- Phương pháp hệ thống: Khi tập hợp các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết, người viết sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất định về ý nghĩa biểu
trưng và khả năng kết hợp.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn cung cấp thêm tư liệu về thành ngữ tiếng Việt, đặc biệt là
thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết.
- Luận văn góp phần làm rõ đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa của thành ngữ,
đặc biệt là nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT.
6
- Qua phần phân tích ngữ nghĩa, luận văn có thể trình bày một vài kiến
giải về mối quan hệ giữa nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT với văn hóa
Việt.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày những vấn đề lý thuyết về
thành ngữ tiếng Việt, cụ thể là khái niệm thành ngữ, nguồn gốc thành ngữ, đặc
điểm thành ngữ (đặc điểm về cấu tạo và ngữ nghĩa), phân loại thành ngữ, phân
biệt thành ngữ với tục ngữ và với các đơn vị ngôn ngữ khác (như quán ngữ,
ngữ định danh). Chúng tôi cũng tập trung làm rõ lý thuyết trường nghĩa, chỉ ra
những trường nghĩa thời tiết chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu. Cuối cùng,
chúng tôi cũng tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thành ngữ có các từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt và văn hóa của người Việt Nam.
Chương 2: Đặc điểm ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết trong tiếng Việt
Trong chương 2 này, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê, phân loại, miêu tả
các thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT về mặt cấu trúc cú pháp: cấu trúc cú
pháp của thành ngữ đối có các từ ngữ thuộc TNTT, cấu trúc cú pháp của
thành ngữ so sánh có các từ ngư thuộc TNTT, cấu trúc cú pháp của thành ngữ
thường (là thành ngữ mà không phải là thành ngữ đối cũng không phải là thành
ngữ so sánh) có các từ ngữ thuộc TNTT.
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc trường
nghĩa thời tiết trong tiếng Việt
Trong chương 3, chúng tôi sẽ tìm hiểu nghĩa biểu trưng của thành ngữ có
từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi sẽ cố
7
gắng so sánh đối chiếu thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết tiếng
Việt với đơn vị tương đương trong một vài ngôn ngữ khác, để từ đó làm nổi
bật đặc trưng văn hóa của người Việt.
8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Vấn đề thành ngữ trong tiếng Việt
1.1.1. Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm
hiểu. Cũng vì thế mà có nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ. Các quan
niệm về thành ngữ được cụ thể dần cùng với lịch sử nghiên cứu vấn đề thành
ngữ trong tiếng Việt. Ban đầu, chưa có một quan niệm cụ thể cho thành ngữ vì
còn có sự đồng nhất giữa thành ngữ với các đơn vị ngôn ngữ khác như tục ngữ,
quán ngữ … Từ những năm bốn mươi của thế kỉ XX trở lại đây, khái niệm
thành ngữ mới được trình bày độc lập để phân biệt với các đơn vị ngôn ngữ
khác. Sau đây là một số quan niệm về thành ngữ của các nhà nghiên cứu:
- “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn và chỉ
bảo điều gì; nghĩa là thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn
đạt một ý nghĩa gì hoặc tả một trạng thái gì cho có màu mè.” (Dương Quảng
Hàm, 2005).
- “Thành ngữ là loại đơn vị có sẵn, chúng là những ngữ có kết cấu chặt
chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định, có chức năng định danh và được
tái hiện trong giao tế.” (Nguyễn Văn Mệnh, 1986).
- “Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập
đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn
chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra.
Những thành ngữ này cũng có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có.
Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa
bằng từ nguyên học.” (Nguyễn Văn Tu, 1968).
- “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thức - cấu
trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy, về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp
hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.” (Hoàng Văn Hành, 2004).
9
- “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định về cấu trúc, có nghĩa bóng, được
sử dụng để miêu tả những hình ảnh, những hiện tượng, tính cách hay quan
hệ.” (Hồ Lê, 1976).
- “Thành ngữ là đơn vị ổn định về hình thức, phản ánh lối nói, lối suy
nghĩ đặc thù của mỗi dân tộc. Thành ngữ phản ánh các khái niệm và các hiện
tượng.” (Nguyễn Đức Dân, 1986).
- “Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc ý nghĩa. Nghĩa
của chúng có tính hình tượng và gợi cảm.” (Mai Ngọc Chừ, 2007).
- “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ
nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý
nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động
như một từ riêng biệt ở trong câu.” (Nguyễn Như Ý, 1998).
Có thể nói, mỗi nhà nghiên cứu đều có một cách kiến giải riêng về thành
ngữ tiếng Việt. Các khái niệm được đưa ra có nhiều điểm tương đồng nhưng
cũng có cả những điểm khác biệt. Đây cũng là một khó khăn để đi đến việc tìm
ra một khái niệm thống nhất cho thành ngữ tiếng Việt. Tiếp thu các quan niệm
của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra một khái niệm chung về
thành ngữ tiếng Việt như sau: Thành ngữ tiếng Việt là những ngữ cố định có
cấu trúc tương đối ổn định, bền vững, có ngữ nghĩa trọn vẹn và mang tính biểu
trưng.
1.1.2. Nguồn gốc của thành ngữ
Thành ngữ cũng giống như các đơn vị ngôn ngữ khác, chúng có quá trình
hình thành và phát triển cùng với lịch sử phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
Vấn đề đi tìm nguồn gốc của thành ngữ là một vấn đề khá nan giải và phức tạp.
Vì nguồn gốc của thành ngữ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Xét
một cách tổng quát, thành ngữ được hình thành từ các nguồn cơ bản sau đây:
a. Thành ngữ được hình thành từ đời sống lao động
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, hoạt động lao động chủ yếu của
10
người Việt là cày cấy, trồng trọt, chăn nuôi. Khi xưa, người nông dân làm việc
dựa vào sức mình là chính, không có các loại máy móc, phương tiện hiện đại
hỗ trợ như ngày nay, vì vậy họ phải làm việc rất vất vả, cực nhọc. Đời sống lao
động vất vả đã ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân. Nhiều sự kiện thuộc
đời sống lao động sản xuất hay những công việc mưu sinh đã trở thành chất
liệu cấu tạo nên nhiều thành ngữ tiếng Việt. Đó là hình ảnh những người nông
dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, thức khuya dậy sớm,
cháy mặt lấm lưng, dầm sương dãi nắng, đâm sấp rập ngửa, buôn thúng bán
mẹt, v.v... Tâm lí lo lắng, sắp đặt công việc sao cho hợp lí được phản ánh trong
thành ngữ liệu bò đo chuồng. Cái nhìn thiển cận, lối làm ăn manh mún, thiếu
tính toán là cơ sở ra đời thành ngữ tham bát bỏ mâm. Đời sống đói kém của
người nông dân giữa hai vụ lúa được phản ánh trong thành ngữ tháng ba ngày
tám…
Một số thành ngữ tiêu biểu: liệu cơm gắp mắm, trông gió bỏ buồm, bờ xôi
ruộng mật, cày sâu cuốc bẫm, chăn trâu cắt cỏ, chiêm khê mùa thối, cưa đứt
đục suốt, dãi gió dầm sương, đắp đập be bờ, đầu ghềnh cuối bãi, đầu gio mặt
muội, êm chèo mát mái…
b. Thành ngữ được hình thành từ đời sống sinh hoạt hàng ngày
Trong đời sống hàng ngày, đối với người Việt Nam, ăn uống được coi
là vấn đề quan trọng hàng đầu. Ăn không chỉ đơn thuần là thỏa mãn nhu cầu
của cái đói mà còn thể hiện rõ đạo lí, triết lí sống của con người Việt Nam.
Điều này được thể hiện rất rõ trong thành ngữ: chém to kho mặn, thái to bung
dừ, đầu trôi môi mè, chuối sau cau trước, say như điếu đổ, cơm gà cá gỏi, cơm
chiêm mắm mặn, cơm hẩm cà thiu, cơm sung cháo dền, cơm tẻ mẹ ruột, tương
cà mắm muối, da bánh mật, má bánh đúc, bánh chưng ra góc, bánh đúc bày
sàng, trơn như đổ mỡ...
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng và mùa
lạnh được phân biệt rõ rệt nên chuyện ăn mặc của người Việt cũng rất được coi
11
trọng. Với những người nông dân chân lấm tay bùn thì ăn mặc xuềnh
xoàng: áo vải quần nâu, áo thô giày cỏ, thậm chí áo mảnh quần manh, quần
manh áo vá, váy vận yếm mang, cởi trần đóng khố, lưng đen khố bện... Với
những người giàu có thì áo dài khăn đóng, áo dài khăn lượt, áo the khăn xếp,
quần chùng áo dài, quần chân áo chít, quần hồ áo cánh, khăn đóng áo chùng,
khăn thâm áo vải... Và với những cô thiếu nữ thì lại phải áo lụa quần hồng, mớ
ba mớ bảy,...
c. Thành ngữ hình thành từ đời sống tâm linh (tập tục, tín ngưỡng)
Là một dân tộc thiên về việc trọng tình, trọng nghĩa, người Việt Nam nói
chung đặc biệt coi trọng việc tang ma, thờ cúng tổ tiên. Một số thành ngữ tiêu
biểu: cha đưa mẹ đón; cha gậy tre, mẹ gậy vông; trẻ làm ma, già làm hội;chôn
sấp, liệm ngửa; giữ như giữ mả tổ, rước voi về giày mả tổ, đào mồ cuốc mả,
chửi ủng mồ ủng mả, mồ yên mả đẹp, vén áo tay sô, đốt nhà táng giấy…
Bên cạnh đó, còn có những thành ngữ được ra đời từ quan niệm tín
ngưỡng, tôn giáo của người Việt: ăn chay niệm Phật; ăn mày cửa Phật; hiền
như Bụt; của ít lòng nhiều; ở hiền gặp lành; gieo gió gặt bão; Phật nhà chẳng
cầu đi cầu Thích Ca ngoài đường… Để chỉ những kẻ giả dối, cha ông ta dùng
cách nói miệng nam mô, bụng một bồ dao găm hay miệng Phật tâm xà; chỉ thói
ích kỉ, của người khác thì phung phí, của mình thì chặt chẽ, người Việt dùng
thành ngữ của người Bồ tát, của mình lạt buộc …
Trong thế giới quan tôn giáo của người Việt, thuyết Vật linh luận cũng
rất được coi trọng. Người ta tin rằng, trong tất cả các vật (hữu tri, vô tri) đều có
sự trú ngụ của những linh hồn. Linh hồn ngự trị trong cây (thần cây đa, ma cây
gạo), trong đá, trong các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm, chớp (ông
Đùng, bà Đoàng) và đặc biệt là ở con người. Người ta tin rằng con người có
linh hồn. Có lẽ đây là cơ sở để cho ra đời một loạt các thành ngữ như: hồn vía
lên mây, hồn lìa khỏi xác, ba hồn chín vía, ba hồn bảy vía, hết hồn hết vía, hồn
xiêu phách lạc, thần hồn nát thần tính, táng đởm kinh hồn, hồn về chín suối,
12
hồn điên phách đảo, kinh hồn mất vía, hú hồn hú vía, bay hồn bạt vía, sợ mất
vía...
d. Thành ngữ có cơ sở hình thành từ văn học
Truyện cổ tích dân gian, truyện ngụ ngôn, truyện cười Việt Nam là cơ sở
hình thành của nhiều thành ngữ tiếng Việt: con Rồng cháu Tiên, con Lạc cháu
Hồng, đẽo cày giữa đường, nói dối như Cuội, vắt cổ chày ra nước oan Thị
Kính, công dã tràng, há miệng chờ sung, rồng đến nhà tôm, thầy bói xem voi,
phù thủy đền gà, dốt có đuôi/ chuôi, đồ Lí Thông, nói nhăng nói cuội, nói dối
như cuội, con rồng cháu tiên, trời đánh thánh vật, gan cóc tía...
Bên cạnh đó, những nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học cũng là
cơ sở cho sự ra đời của nhiều thành ngữ Việt: máu ghen Hoạn Thư, đồ Sở
Khanh, xấu như Thị Nở…
e. Thành ngữ được hình thành từ thế giới động vật
Vì Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều nên nước
ta là môi trường sinh sống của rất nhiều loài động vật. Đặc biệt, những động
vật gần gũi, quen thuộc đối với con người như: chim, cá, rắn, rết, sâu bọ, các
con vật nuôi như chó, mèo, trâu, ngựa, lợn, gà, vịt... đều được phản ánh trong
lời ăn tiếng nói hàng ngày, trở thành nguồn chất liệu phong phú để tạo nên
nhiều thành ngữ: mất hút con mẹ hàng lươn, chuồn chuồn đạp nước, đười ươi
giữ ống, nước mắt cá sấu, te tái như gà mái nhảy ổ, cổ ngẳng như cổ cò, giãy
nảy như đỉa phải vôi, xác như vờ, xơ như nhộng, rối như gà mắc đẻ, giấu như
mèo giấu cứt, chó cái giữ con, dai như đỉa, mèo già hóa cáo, khỏe như voi …
f. Thành ngữ được hình thành từ thế giới thực vật
Bên cạnh động vật, các loài thực vật với những đặc tính điển hình của
chúng cũng trở thành chất liệu để tạo nên thành ngữ: đen như củ súng, đen như
củ tam thất, xanh như tàu lá, tươi như hoa, đỏ như gấc, đỏ như hoa vông, đỏ
như quả bồ quân, trắng như ngó cần, trắng như bông, rối như canh hẹ, rách
như xơ mướp, rẻ như bèo, chát như sung...
13
g. Thành ngữ có cơ sở hình thành từ các hiện tượng tự nhiên
Việt Nam vốn là một đất nước nông nghiệp, nền sản xuất thiên về trồng
trọt, canh tác. Vì vậy yếu tố thiên nhiên có tác động to lớn đối với hoạt động
sản xuất, sinh hoạt của con người Việt Nam: ào ào như thác lũ, cao như núi,
dâng lên như nước thủy triều, như rồng gặp mây, tan như mây, như mặt trăng
mặt trời, như sao hôm sao mai, vắng trăng có sao, nước chảy hoa trôi, nước
chảy chỗ trũng, nước sâu sào ngắn, sóng cả gió to, sóng yên biển lặng, sông
có khúc, người có lúc, thay ngựa giữa dòng, nước nổi bèo nổi…
h. Nguồn gốc từ việc vay mượn của tiếng nước ngoài
Một bộ phận không nhỏ thành ngữ tiếng Việt có nguồn gốc ngoại lai.
Điều này đã phản ánh quá trình tiếp xúc, tiếp nhận một cách mềm mại và linh
hoạt của tiếng Việt nói chung và thành ngữ tiếng Việt nói riêng đối với những
ảnh hưởng từ bên ngoài đối với ngôn ngữ của dân tộc.
Theo số liệu của Nguyễn Thị Tân (2003) trong bài viết “Nhận diện thành
ngữ gốc Hán trong tiếng Việt” thành ngữ tiếng Việt có tới 2714 đơn vị thành
ngữ gốc Hán. Con số này cho thấy thành ngữ gốc Hán chiếm khoảng gần 30%
tổng số thành ngữ tiếng Việt và chiếm khoảng 98% thành ngữ có gốc ngoại lai.
Một số thành ngữ tiêu biểu: xuất khẩu thành chương, chúng khẩu đồng từ,
đồng tâm hiệp lực, xuất đầu lộ diện, khẩu Phật tâm xà…
1.1.3. Đặc điểm của thành ngữ
Thành ngữ với tư cách là đơn vị tương đương với từ, bản thân nó mang
những đặc điểm riêng về cấu tạo cũng như về ngữ nghĩa. Cụ thể như sau:
a. Đặc điểm về cấu tạo
a¹/ Đặc điểm về mặt ngữ âm:
- Trong nhiều thành ngữ thanh điệu hài hòa theo luật bằng – trắc, và trầm
– bổng, ví dụ: một vốn, bốn lời (một vốn: cao – thấp; trắc – trắc / bốn lời: cao
– thấp ; trắc – bằng; và giữa một - bốn: trầm-bổng, và giữa vốn- lời là bổng -
trầm).
14
- Nhiều thành ngữ cũng được cấu tạo theo luật hợp vần, một vốn, bốn lời;
được voi đòi tiên ; dửng dưng như bánh chưng ngày tết; ...
a²/ Đặc điểm về mặt ngữ pháp: Ta thấy có hai kiểu cấu tạo thành ngữ:
- Thành ngữ có cấu trúc so sánh:
Trong thành ngữ so sánh hầu hết là so sánh ngang. Rất hiếm khi có so
sánh hơn, chỉ một vài thành ngữ thuộc kiểu này, ví dụ: cửu đại hơn ngoại
nhân, hay một giọt máu đào hơn ao nước lã. Các từ ngữ dùng để so sánh chủ
yếu là như, đôi khi là bằng ( ví dụ: hai đấm cũng bằng một đạp; hai thưng
cũng bằng một đấu; bé bằng con kiến; cưới không bằng lại mặt;...), hoặc tầy
(tày) (ví dụ: Gương tầy liếp, Tội tày đình).
Khác với cấu trúc so sánh bình thường, trong thành ngữ so sánh có thể
vắng vế A, nhưng người sử dụng và tiếp nhận vẫn hiểu đúng A, ví dụ: (giống
nhau) như hai giọt nước, (chắc) như đinh đóng cột, (vui) như nở từng khúc
ruột; ... Vế A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng, hoặc trạng
thái hành động của sự vật.
Có khi A là một thành phần của câu nói, và là phần đề. Còn thành ngữ là vế
B, làm phần thuyết trong câu nói. Như vậy vế A có tính chất tùy nghi. Song, theo
chúng tôi, nó vẫn bị khống chế, bị chi phối bởi nghĩa của B (tức của thành ngữ).
Ví dụ:
như cá với nước
như diều gặp gió
như rắn mất đầu
Họ Tình quân dân ... khắng khít ... lúc nào cũng cần có nhau Ông ấy ... phất lên Nhà ấy phất lên Hắn Thằng cha ấy Cả một lũ Bọn chúng ... khác nào
15
Vế B luôn luôn hiện diện, có thể là một từ , ví dụ: nhanh như sóc, nhẹ như
bấc, ..., có thể là một cụm từ , ví dụ: nóng như lửa đốt, nói như đấm vào tai,
mắng như tát nước vào mặt, thì thụt như chuột ngày, nhớ như chôn vào ruột,
tối như cửa địa ngục, thin thít như thịt nấu đông, ..., có thể là một kết cấu
chủ-vị, ví dụ: te tái như gà mái mắc đẻ, lừ đừ như ông từ vào đền, vênh váo
như khố rợ phải lấm, ú ú cạc cạc như vịt nghe sấm, như rựa chém xuống đá,
như Từ Hải chết đứng, như chim sổ lồng, ngáy như bò rống, lộp bộp như gà
mổ mo, lúng túng như chó ăn vụng bột, lầm rầm như thầy bói nhẩm quẻ, lanh
chanh như hành không muối, khư khư như ông từ giữ oản,...
- Thành ngữ không có cấu trúc so sánh. Ở kiểu cấu tạo này, ta cũng thấy
có hai loại nhỏ:
+/ Thành ngữ được cấu tạo theo qui tắc đối và điệp giữa các thành tố,
kiểu như: trên đe dưới búa, lừa thầy phản bạn, một nắng hai sương, hứa
hươu hứa vượn, ba cọc ba đồng... Các thành ngữ kiểu này có nghĩa biểu trưng
hóa nhờ phép ẩn dụ. Hoàng Văn Hành gọi kiểu này là thành ngữ ẩn dụ hóa đối
xứng.
+/ Thành ngữ được tạo nên nhờ phương thức ghép từ thông thường, ví
dụ: vạch áo cho người xem lưng, theo voi hít bã mía, theo đóm ăn tàn... Loại
thành ngữ này không cấu tạo theo kiểu so sánh, cũng không dùng phép đối ứng
để ghép nối các thành tố; mà nó cố định hóa, hay đúng hơn là thành ngữ hóa
một đoạn tác ngôn, vốn được cấu tạo trên cơ sở luật kết hợp bình thường trong
tiếng Việt, sử dụng phép ẩn dụ hóa để tạo nghĩa biểu trưng . Hoàng Văn Hành
gọi loại này là thành ngữ ẩn dụ phi đối xứng.
b) Đặc điểm về ngữ nghĩa
Khi nghiên cứu về đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ, các nhà Việt ngữ
học đã chỉ ra thành ngữ mang tính cụ thể, tính hình tượng, tính dân tộc, tính
truyền cảm, và đặc biệt các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh về tính biểu trưng
của thành ngữ.
16
- Thành ngữ có tính cụ thể: Các hình ảnh được thành ngữ sử dụng rất cụ
thể. Ví dụ: trứng để đầu đẳng, thành ngữ này miêu tả rất rõ ràng vị trí của quả
trứng là ở đầu gậy. Thành ngữ đèn treo trước gió miêu tả rất rõ ràng vị trí của
cây đèn được treo ở chỗ có gió thổi. Thành ngữ ngàn cân treo trên đầu sợi tóc
miêu tả rất rõ vị trí của vật nặng ngàn cân được treo ở đầu sợi tóc, sự đối lập
cực điểm về lượng và lực ở đây rất rõ ràng.
- Thành ngữ có tính hình tượng: Những hình ảnh cụ thể mà thành ngữ
miêu tả bao giờ cũng có một đích hướng tới để đại diện cho một đặc trưng, một
trạng thái của sự vật khác, hay của sự kiện khác. Nghĩa là nó nhằm đến việc
biểu thị một khái niệm khác. Ví dụ hình ảnh vật ngàn cân được treo ở đầu sợi
tóc không nhằm miêu tả vật ấy nặng chính xác là bao nhiêu, còn sợi tóc dài
hay ngắn, dày hay mảnh, mà nhằm biểu thị tính chất nguy hiểm ở mức độ rất
cao của hiện tượng hay sự kiện nào đó.
- Thành ngữ có tính dân tộc: ngôn ngữ được xem là linh hồn của dân tộc
mà thành ngữ lại là một bộ phận của ngôn ngữ. Vì thế, cố nhiên thành ngữ
cũng mang tính dân tộc. Hơn nữa, thành ngữ còn là sự chọn lựa các từ ngữ
trong vốn từ vựng của dân tộc để xây dựng thành một kết cấu bền vững. Cho
nên, nó chứa đựng trong mình là trí tuệ, văn hóa và những đặc điểm riêng của
từng cộng đồng dân tộc. Dân tộc Việt Nam vốn là những cư dân nông nghiệp.
Họ sống gắn bó với tự nhiên. Coi các yếu tố của tự nhiên từ động thực vật đến
các đồ vật trong cuộc sống thường ngày như những vật gần gũi, thân thuộc.
Điều này đã “hắt bóng” vào thành ngữ. Trong thành ngữ ta tìm thấy những
hình ảnh rất thân quen trong đời sống hàng ngày của cộng đồng ngôn ngữ. Đó
là dòng sông, con suối, cái khe, đó là những con vật sống trong nhà với người:
chó, mèo, gà, vịt, thậm chí là chuột, kiến,...; đó là cái lá khoai, cái chum, vại...
- Thành ngữ có tính truyền cảm mạnh: Tác giả Nguyễn Thiện Giáp
(2003) cho rằng: “bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng kèm
theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định; hoặc là kính trọng tán thành;
17
hoặc là chê bai, khinh rẻ; hoặc là ái ngại xót thương”. Các thành ngữ ra đời
bao giờ cũng hàm chứa trong đó là thái độ, tình cảm của người sử dụng. Chẳng
hạn:
Khóm chuối nhà tao mọc lấn sang nhà mày một tí, sao mày cũng lòng
lang dạ thú, đào mất của tao để mà ăn.
Thành ngữ lòng lang dạ thú được dùng với sắc thái khinh rẻ, coi thường.
Thành ngữ biểu thị khái niệm bằng hình ảnh theo phương thức ẩn dụ, so
sánh cho nên nó có sức gợi cảm rất mạnh. Nếu biết sử dụng thành ngữ đúng
cách, đúng chỗ thì lời ăn tiếng nói của chúng ta trở nên uyển chuyển, sinh
động, giàu sức truyền cảm, có sức lôi cuốn người nghe.
- Thành ngữ mang tính biểu trưng
Các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt đều khẳng
định: thành ngữ mang tính biểu trưng. Tuy nhiên, mỗi nhà nghiên cứu lại đưa
ra những cách hiểu khác nhau về tính biểu trưng trong thành ngữ.
Trong “Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt”, khi phân
tích cấu trúc hình thái của thành ngữ so sánh T như B (đẹp như tiên, chậm như
rùa) Hoàng Văn Hành (1976) đã xem B (tiên, rùa) có tính biểu trưng. Ở đây,
các yếu tố này được xem là không hiển ngôn, bởi vì phép so sánh được tạo lập
không phải đem cái được so sánh để so sánh với cái so sánh, mà chỉ so sánh
qua đặc tính được các sự vật đó biểu trưng.
Bùi Khắc Việt (1978) xuất phát từ quan niệm “biểu trưng là kí hiệu mà
quan hệ với quy chiếu (referent) là có nguyên do” cho rằng tính biểu trưng của
thành ngữ Việt biểu hiện ở chỗ: hình ảnh hoặc sự vật, sự việc cụ thể miêu tả
trong thành ngữ là nhằm nói về những ý niệm khái quát hóa. Tác giả cũng
nhấn mạnh cần phải phân biệt tính biểu trưng và tính hình ảnh. Tác giả dẫn ra
quan niệm của V.G. Giắc-cơ, cơ sở của tính hình ảnh là sự cảm thụ đồng thời
của hai bức tranh, một bức tạo nên nghĩa bóng của từ hoặc của thành ngữ, một
bức tương ứng với nghĩa đen, nghĩa gốc của nó. Nghĩa đen là cơ sở, từ nghĩa
18
đen sẽ phát sinh ra nghĩa bóng, nghĩa bóng là sự phản chiếu của nghĩa đen.
Khái niệm tính biểu trưng rộng hơn khái niệm tính hình ảnh. Do sự vật hoặc
tính hình ảnh có một số phẩm chất nào đó chung với điều nó biểu hiện nên
biểu trưng gợi cho ta một ý niệm về nội dung biểu hiện. Mối quan hệ giữa sự
vật hoặc hình ảnh với ý nghĩa biểu trưng trong trường hợp này có tính chất ước
lệ. Căn cứ vào mức độ biểu trưng hóa, tác giả chia ra làm hai loại biểu trưng:
biểu trưng toàn bộ (ví dụ giẫm chân tại chỗ, bật đèn xanh) và biểu trưng bộ
phận, trong đó một vài thành tố có nghĩa biểu trưng rõ rệt, một số không có
nghĩa biểu trưng (ví dụ voi, chuột, chó trong đầu voi đuôi chuột, lên voi xuống
chó có ý nghĩa biểu trưng).
Phan Xuân Thành (1990) trong “Tính biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt”
cho rằng: “tính biểu trưng ở đây được biểu hiện là nghĩa sâu xa được bộc lộ
thông qua những nghĩa thường gặp của mỗi yếu tố trong thành ngữ. Thông qua
một thành ngữ có vài yếu tố có tính biểu trưng cao, như chìa khóa của thành
ngữ, mà theo đó, giải mã được chúng thì cũng đồng thời hiểu được nghĩa tổng
hòa của cả tổ hợp chứa chúng”. Tác giả chia biểu trưng thành biểu trưng đơn
giản và biểu trưng phức tạp, biểu trưng trực tiếp và biểu trưng gián tiếp. Biểu
trưng đơn giản thường gặp ở những thành ngữ so sánh như: trắng như tuyết,
nhát như cáy…Ở biểu trưng phức tạp, các yếu tố cấu tạo bao giờ cũng tiềm ẩn
tri thức dân gian sâu sắc, chẳng hạn từ lửa trong nóng như lửa. Biểu trưng gián
tiếp thể hiện ở tính nhiều bậc trong biểu trưng ngữ nghĩa. Chẳng hạn trong thành
ngữ nhạt phấn phai hương (chỉ sự tàn phai nhan sắc theo tuổi ngày một già của
người phụ nữ) thì hương, phấn trước tiên được coi là phấn, hương của bông hoa,
rồi bông hoa mới là cái biểu trưng cho người phụ nữ.
Nguyễn Đức Dân (1986) trong “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - sự vận
dụng” lại cho rẳng nghĩa của thành ngữ được khái quát trên nghĩa đen của nó,
chính là nghĩa biểu trưng. Nếu như nghĩa của tục ngữ được hình thành qua sự
biểu trưng nghĩa của một câu thì nghĩa của thành ngữ được hình thành qua biểu
19
trưng ngữ nghĩa của cụm từ. Đồng thời các yếu tố trong thành ngữ cũng có giá
trị biểu trưng. Chẳng hạn như trong thành ngữ được voi đòi tiên, voi và tiên
biểu trưng cho hai sự vật tốt, cái sau tốt hơn cái trước. Mặt khác nghĩa biểu
trưng của thành ngữ còn được hình thành qua khuôn cú pháp: được A đòi B.
Tổng hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu, theo chúng tôi, bản thân thành
ngữ là đơn vị định danh bậc hai. Vì thế mà lớp nghĩa chính thành ngữ hướng
tới không phải là lớp nghĩa đen mà là lớp nghĩa bóng - nghĩa biểu trưng. Thành
ngữ sử dụng những vật thực, việc thực để biểu trưng cho những đặc điểm, tính
chất, hoạt động, tình thế…. Lớp nghĩa biểu trưng được suy ra từ lớp nghĩa đen
của thành ngữ. Có hai hình thức biểu trưng của thành ngữ là hình thái tỉ dụ (so
sánh) và hình thái ẩn dụ (so sánh ngầm). Tuy nhiên, đây chỉ là hai hình thức
phổ biến của thành ngữ vì trong một số trường hợp thành ngữ vẫn được sử
dụng theo nghĩa đen.
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác
1.1.4.1. Thành ngữ và tục ngữ
Thành ngữ và tục ngữ tuy có một số nét tương đồng có thể chuyển hóa lẫn
nhau, song về bản chất thì khác nhau cả về hình thức cấu trúc, cả về mặt ngữ
nghĩa, nội dung biểu đạt và chức năng của chúng trong giao tiếp xã hội. Có thể
nhận thấy những nét tương đồng và dị biệt của hai đơn vị này qua bảng tóm tắt
sau đây:
Tiêu chí
Phương diện
Thành ngữ
Tục ngữ Đều là các đơn vị do từ tạo nên, có tính ổn định cao.
Tương đồng
1. Cấu tạo
- Cụm từ cố định, có chức năng tương đương với từ.
- Câu hoàn chỉnh, câu cố định biểu thị phán đoán
2. Ngữ nghĩa
Khác biệt
- Đơn vị định danh bậc hai của ngôn ngữ, miêu tả sự vật, sự việc.
- Phán đoán thể hiện kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử.
3. Khả năng sử dụng
- Không thể dùng độc lập một mình, khi hành chức nó phải được đặt trong câu.
- Có thể dùng độc lập một mình, diễn đạt được một thông điệp trọn vẹn.
20
Tuy nhiên, ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ không phải lúc nào cũng
rõ ràng và dễ xác định. Các tác giả của “Từ điển thành ngữ Việt Nam”
(Nguyễn Như Ý chủ biên) đã thừa nhận trong 8000 đơn vị thành ngữ đã thống
kê, trong đó cũng có “một vài đơn vị chưa xác định rõ là thành ngữ hay tục
ngữ, một vấn đề còn bỏ ngỏ trong Việt ngữ học” (Nguyễn Như Ý, 2002).
Chu Xuân Diên (1975) cũng nhấn mạnh: “Với tư cách là một hiện tượng
ngôn ngữ, tục ngữ còn có những đặc điểm rất gần với thành ngữ. Điều đó
khiến cho tục ngữ và thành ngữ đã nhiều khi xảy ra hiện tượng không có sự
phân biệt, không những về cách dùng mà còn về quan niệm nữa”.
1.1.4.2. Thành ngữ và quán ngữ
Thành ngữ và quán ngữ cũng đều là ngữ cố định (cụm từ cố định). Song
tính chất cố định của quán ngữ thấp hơn. Về cấu tạo, quán ngữ thường không
có vần điệu, không có sử dụng phép đối điệp. Nó chỉ là những kết hợp từ thông
thường nhưng được dùng quen mà thành cố định, ví dụ: nói tóm lại, phải
chăng là, nói nào ngay, rõ như ban ngày, ... Về ngữ nghĩa, cấu tạo nghĩa của
thành ngữ là một tích hợp tạo thành một thể thống nhất, nên muốn hiểu nghĩa
của thành ngữ phải hiểu cả khối. Còn nghĩa của quán ngữ là một tổng số nghĩa
của các thành tố như cấu trúc nghĩa của cụm từ tự do. Chính vì vậy mà người
gọi quán ngữ là đơn vị trung gian giữa cụm từ tự do và cụm từ cố định.
Mặt khác cũng phải thấy có một số quán ngữ ít nhiều cũng có tính hình
ảnh. Có thể xem đó là những đơn vị trung gian giữa quán ngữ và thành ngữ, ví
dụ: nói sát bờ sát góc, nói hết nước hết cái, nói có vong linh ..., ...
Xét về chức năng, thành ngữ định danh sự vật bằng hình ảnh, gợi tả. Còn
quán ngữ có chức năng nối ý, đưa đẩy làm liền mạch ngôn bản/ văn bản và
nhấn mạnh.
1.1.4.3. Thành ngữ và ngữ định danh
Thành ngữ và ngữ định danh cũng đều là ngữ cố định, tính chất cố định,
nói chung, tương đương nhau. Nhưng ở ngữ định danh chức năng làm tên gọi
21
sự vật nổi bật hơn, nhưng tính chất gợi tả, biểu cảm thì thấp hơn thành ngữ. Ví
dụ: mắt một mí, mặt trái xoan,...; kỷ luật sắt,...; quân sư quạt mo,...
1.1.5. Phân loại thành ngữ
Việc phân loại thành ngữ là một vấn đề được các nhà nghiên cứu đặt ra
từ lâu. Tuy nhiên, do số lượng thành ngữ lớn; lại phong phú, đa dạng về ý
nghĩa cho nên để tìm ra một cách phân loại thống nhất là điều không đơn giản.
Mỗi nhà nghiên cứu dựa trên một điểm nhìn khác nhau về thành ngữ lại có
những cách phân loại khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại thành ngữ
tiêu biểu:
Nguyễn Thiện Giáp dựa vào cơ chế cấu tạo nên thành ngữ, ông đã chia
thành ngữ thành hai loại là thành ngữ hòa kết và thành ngữ hợp kết.
Thành ngữ hòa kết có cơ chế cấu tạo tương tự cơ chế cấu tạo của ngữ
định danh hòa kết, được hình thành trên cơ sở của một ẩn dụ toàn bộ. Chẳng
hạn ta có thành ngữ bỏ ngoài tai có ý nghĩa chung là biểu thị sự không quan
tâm, mặc kệ dư luận. Ý nghĩa này được thể hiện thông qua một quá trình
chuyển hóa thành đơn vị hậu nghĩa khác. Đơn vị hậu nghĩa này được biểu
hiện trong các đơn vị ngữ âm cụ thể. Do đó mà các ý nghĩa của các từ (bỏ,
ngoài, tai) chỉ có tác dụng trực tiếp cấu thành đơn vị hậu ngữ nghĩa chứ không
trực tiếp phản ánh những thuộc tính của khái niệm “không quan tâm, mặc kệ
dư luận” (đối tượng đang cần được diễn đạt). Như vậy, ý nghĩa của chúng đã
hòa vào nhau để biểu thị một khái niệm mới và do hiểu ý nghĩa của chúng.
Một số ví dụ về thành ngữ hợp kết như: ăn thịt người không tanh, bở hơi tai,
chết rũ xương,…
Thành ngữ hợp kết có cơ chế cấu tạo tương tự với cơ chế cấu tạo của
ngữ định danh hợp kết, được hình thành do sự kết hợp của một số thành tố biểu
thị thuộc tính chung của đối tượng với các thành tố khác biểu thị thuộc tính
riêng của đối tượng hoặc nó có thể được hình thành nhờ sự kết hợp của hai
thành tố nghĩa biểu thị những mặt riêng của một đối tượng chung hơn cần diễn
22
đạt. Ví dụ: chân lấm tay bùn, vụng miệng biếng chân, trăm tai nghìn mắt,…
Nguyễn Công Đức (1995) khi căn cứ vào cấu trúc hình thái ngữ nghĩa đã
chia thành ngữ tiếng Việt thành ba loại là thành ngữ đối, thành ngữ so sánh và
thành ngữ thường. Quan điểm này được Hoàng Văn Hành ủng hộ, ông cho
rằng “Nếu tạm gác lại tính logic, tính hệ thống chặt chẽ trong việc phân loại
thành ngữ, mà chú ý nhiều đến tính chất tiện lợi cho việc miêu tả, chúng ta có
thể chia toàn bộ vốn thành ngữ tiếng Việt ra ba loại lớn là: Thành ngữ đối,
thành ngữ so sánh và thành ngữ thường.” (Hoàng Văn Hành, 2004).
Ở những góc nhìn khác, tác giả Hoàng Văn Hành cũng đề xuất hai hướng
phân loại nữa. Căn cứ vào cấu trúc của thành ngữ chia thành hai loại lớn là
thành ngữ đối xứng và thành ngữ phi đối xứng. Căn cứ vào phương thức tạo
nghĩa có thể chia thành hai loại là thành ngữ so sánh và thành ngữ ẩn dụ hóa.
Tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu nêu trên, chúng tôi cho rằng khi
phân loại thành ngữ cần quan tâm đến cùng lúc cả hai tiêu chí là cấu trúc và
ngữ nghĩa. Đó cũng là lí do chúng tôi tán đồng cách phân loại của Nguyễn
Công Đức và Hoàng Văn Hành. Theo đó, thành ngữ tiếng Việt được chia làm
ba loại lớn là thành ngữ so sánh, thành ngữ đối, thành ngữ thường. Sau đây là
bảng phân loại:
Thành ngữ so sánh
Thành ngữ Thành ngữ đối
Thành ngữ thường
1.2. Trường nghĩa
Các đơn vị từ vựng không tồn tại tách rời, biệt lập với nhau trong hệ
thống ngôn ngữ ở trạng thái tĩnh, mà chúng luôn có những mối quan hệ nhất
định. Một trong những mối quan hệ quan trọng giúp con người hiểu sâu hơn và
sử dụng ngôn ngữ hiệu quả hơn đó là quan hệ về nghĩa giữa các đơn vị từ
vựng. Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, các từ ngữ đồng nhất về
23
mặt nghĩa được tập trung thành các nhóm và được gọi là “trường nghĩa” hay là
trường ngữ nghĩa; trường từ vựng - ngữ nghĩa (semantic field, lexical field).
Theo tác giả người Nga, Ju.X. Xtepanov: “trong vốn từ của một ngôn ngữ
có các kiểu nhóm từ có quan hệ chặt lỏng khác nhau, như loạt đồng nghĩa, loạt
trái nghĩa; các nhóm nội dung như “nhóm từ tính cách”, “nhóm các động từ
chuyển động của người” …là biểu hiện của một hiện tượng gọi là trường từ
vựng hay trường ngữ nghĩa” (dẫn theo Đỗ Việt Hùng, 2013).
Năm 1896, nhà bác học người Nga M.M. Pokrovxki đã khẳng định: “Từ
và ý nghĩa của chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư
tưởng của chúng ta và độc lập với ý thức của chúng ta thành những nhóm nhất
định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất hay sự trái ngược
trực tiếp với chúng về nghĩa. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các
từ như vậy hoặc giống nhau hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa
và trong lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết
rằng những từ này được dùng trong tổ hợp cú pháp giống nhau” (dẫn theo Đỗ
Hữu Châu, 1998).
Như vậy, những quan niệm về trường từ vựng - ngữ nghĩa đã manh nha
xuất hiện ở vào nửa cuối thế kỷ XIX. Song khái niệm trường và lí thuyết về
trường từ vựng - ngữ nghĩa thực sự được nghiên cứu từ những năm 20 của thế
kỉ XX, bắt nguồn từ những lý thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F.De
Saussure. Sau đó các nhà nghiên cứu khác như G. Ipsen(1924), A.Jolles(1934),
W. Porzig(1934),…và đặc biệt là J.Trier (1934), theo đánh giá của S. Ullmann:
lịch sử ngữ nghĩa học đã mở ra một giai đoạn mới. J.Trier là người đầu tiên
đưa ra thuật ngữ “trường” vào ngôn ngữ học. Nhưng ông không dùng khái
niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới trường khái niệm và trường từ vựng.
Theo J. Trier, trường khái niệm là một hệ thống rộng gồm những khái niệm có
quan hệ với nhau, được tổ chức lại xung quanh một khái niệm trung tâm. Mỗi
24
trường khái niệm được các từ phủ lên trên, mỗi từ tương ứng với một khái
niệm. J. Trier đã thử áp dụng quan điểm cấu trúc vào lĩnh vực từ vựng ngữ
nghĩa. Ông cho rằng: “trong ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị
của nó là do quan hệ với các từ khác trong trường quyết định, rằng “trường”
là những hiện thực ngôn ngữ nằm giữa từ (riêng lẻ) với toàn bộ từ vựng,
trường quan hệ với toàn bộ từ vựng cũng như từ quan hệ với trường của
mình” (dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 1998). Mặc dù còn có những điểm chưa rõ
ràng, cần tranh luận như sự không phân biệt ý nghĩa của từ với khái niệm, hay
quan niệm quá dứt khoát về ranh giới giữa các trường khái niệm và các “vùng”
khái niệm của từ với nhau…nhưng những đề xuất của J. Trier thực sự là nền
móng quan trọng cho những nghiên cứu về trường từ vựng – ngữ nghĩa sau
này.
Quan tâm nhiều tới mối quan hệ trường nghĩa giữa các đơn vị từ vựng,
Tác giả L. Weisgerber đưa ra một quan điểm rất đáng chú ý về các trường:
“cần phải tính đến các “góc nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho
kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực nào đó của cuộc sống” (dẫn theo Đỗ
Hữu Châu, 1998).
Các trường kiểu của J. Trier và L. Weisgerber là những trường có tính
chất đối vị, gọi tắt là trường trực tuyến (trường nghĩa dọc).
Khắc phục những hạn chế trong quan niệm của J.Trier và L. Weisgerber,
W. Porzig - nhà ngôn ngữ học người Đức đã phân chia trường nghĩa theo
những nguyên tắc khác. Từ năm 1934, W. Porzig đã đề nghị nguyên tắc liên
tưởng. Theo quan niệm của W. Porzig, một từ nào đó xuất hiện thế nào cũng
gợi đến sự tồn tại của những từ khác. Chẳng hạn như từ “ăn uống” sẽ gợi đến
sự tồn tại của từ “miệng”, nhưng quan hệ ngược không xảy ra vì miệng không
nhất thiết là phải ăn – uống mà còn thực hiện một số hoạt động khác như
“nói”, “mắng”,…dựa trên cơ sở này, từ vựng được chia ra thành “các trường
25
nghĩa cơ bản” mà hạt nhân của nó bao giờ cũng là động từ hoặc tính từ, tức là
chúng thường làm vị ngữ trong câu.
Mối quan hệ về nghĩa tạo nên trường từ vựng ngữ nghĩa cũng trở thành
một trong những vấn đề được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam quan tâm
nghiên cứu như: Nguyễn Thiện Giáp, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Đỗ
Việt Hùng… Trong đó, Đỗ Hữu Châu là một trong những tác giả Việt Nam đã
có công giới thiệu khái niệm “trường nghĩa” đối với ngôn ngữ học nước nhà.
Ông định nghĩa trường nghĩa: “ Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một
trường nghĩa. Đó là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa.”( Đỗ Hữu Châu,
1998). Quan niệm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc phân lập
trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các quan niệm về
trường nghĩa của các nhà Việt ngữ học sau ông.
Luận văn này chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu Châu
làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
Thuật ngữ “văn hóa” có nguồn gốc từ chữ Latin cultus xuất hiện từ thời
cổ đại có nghĩa là trồng trọt. Về sau, theo phương thức ẩn dụ, ý nghĩa của từ ấy
được mở rộng ra. Nhưng thực chất từ văn hóa trong các ngôn ngữ khác nhau
đều có nhiều nghĩa. Và có thể hiểu một cách cơ bản nhất: “Văn hóa là hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội.” (Nguyễn Đức Tồn, 2002).
Văn hoá là nền tảng xã hội, là động lực thúc đẩy dân tộc phát triển. Văn
hoá thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống. Các phương thức biểu hiện, lưu
giữ và truyền đạt văn hoá rất phong phú và đa dạng. Trong số đó, nổi bật và
tiêu biểu là phương thức ngôn ngữ biểu đạt văn hóa. Nếu hiểu một cách cơ bản
văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần, có tính biểu trưng và tồn tại lâu
26
đời do con người tạo ra, thì dân tộc nào cũng có văn hoá, cộng đồng nào cũng
có văn hoá. Có những giá trị văn hoá mang tính hằng thể chung cho cả nhân
loại, lại có những giá trị văn hoá mang tính đặc thù, chỉ có ở cộng đồng này mà
không thấy rõ ở cộng đồng kia và ngược lại. Những giá trị văn hoá đặc thù ấy
chính là đặc trưng văn hoá. Sự khác biệt tạo ra đặc trưng; ở phạm trù văn hoá,
đặc trưng văn hoá của mỗi dân tộc trước hết được minh định dựa trên sự khác
biệt giữa văn hoá dân tộc này với văn hoá dân tộc khác.
Có thể hiểu, đặc trưng văn hoá là những nét trội về một hay một số mặt
nào đó của văn hoá một dân tộc hay một cộng đồng. Những nét trội này làm
thành các giá trị văn hoá cơ bản, tiêu biểu, có tính bền vững, cùng với các giá
trị khác, chúng làm thành nền văn hoá. Như vậy, đặc trưng văn hoá của một
dân tộc chính là những giá trị tiêu biểu về tinh thần và vật chất mà dân tộc đã
tích lũy trong quá trình lịch sử, nó có tính bền vững, có ý nghĩa lâu dài, có giá
trị khu biệt. Có như thế, đặc trưng văn hoá mới làm thành bản sắc văn hoá.
Tìm hiểu văn hoá dân tộc chính là tìm hiểu cái bản sắc ấy, tức cũng là xác định
nét khác biệt.
Như đã nói, đặc trưng văn hóa dân tộc được lưu giữ và truyền tải bằng
những hình thức khác nhau trong đó ngôn ngữ là phương tiện quan trọng thể
hiện văn hoá. “Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ, đó chính là phương tiện nối kết
các hiện tượng bên ngoài với thế giới bên trong của con người… Đặc biệt, bản
sắc riêng của mỗi dân tộc luôn luôn được thể hiện qua tiếng mẹ đẻ của họ;
ngôn ngữ là nơi bảo lưu tinh thần, văn hóa dân tộc, sức mạnh liên minh giữa
các dân tộc - tất cả để lại dấu ấn tài tình trong mỗi âm thanh” (W. Humbold;
dẫn theo Nguyễn Nhã Bản, 2003) “Ngôn ngữ đã chứa đựng trong mình toàn bộ
di sản văn hoá của các thế hệ trước, xác định hành vi của những con người
hiện tại, trong một mức độ nào đó, ngôn ngữ còn làm tiền đề cho con người
trong tương lai, có nghĩa chính ngôn ngữ sản sinh và sáng tạo ra con người”
(M. Kheydegger, dẫn theo Nguyễn Nhã Bản, 2003). Vì lẽ đó ngôn ngữ vừa là
27
điều kiện tồn tại, vừa là sản phẩm văn hoá nhân loại. Nhưng ta cũng cần thấy
rằng, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện truyền đạt và lưu giữ văn hóa, mà nó
còn là sản phẩm văn hóa của nhân loại giống như những sản phẩm văn hóa
khác như E. D. Sapir đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ là sản phẩm văn hóa mà
không phải là thực thể chức năng.” (Dẫn theo Nguyễn Văn Chiến, 2004).
Nguyễn Văn Chiến trong “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt” cũng
quan niệm: “Ngôn ngữ nói chính xác hơn là một hiện tượng văn hóa. Văn hóa
có ngoại diên lớn, trong khi đó, ngôn ngữ có ngoại diên hẹp hơn, nhưng có nội
hàm rộng hơn. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ là mối quan hệ bao
nhau. Giữa chúng có những chỗ khác nhau, giao nhau và giống nhau.”
(Nguyễn Văn Chiến, 2004).
Điều đó cũng có nghĩa là mọi nghiên cứu về văn hoá cũng không thể
không nghiên cứu chất liệu ngôn ngữ. Tất cả những gì con người tạo ra đều có
tính văn hoá, đều có dấu ấn của ngôn ngữ, vậy giải mã văn hoá có thể căn cứ
vào nhiều thông số, nhưng chiếc chìa khoá rất quan trọng, để có thể giải mã
văn hoá của dân tộc, đó chính là ngôn ngữ của dân tộc ấy. Tóm lại, ngôn ngữ
và văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngôn ngữ là phương tiện truyền
tải, lưu giữ và phản ánh bộ mặt văn hóa đặc trưng của dân tộc. Ngôn ngữ là
yếu tố văn hóa quan trọng hàng đầu mang sắc thái dân tộc rõ ràng nhất. Và
ngược lại, đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc lại ảnh hưởng đến sự phát triển
của các ngôn ngữ dân tộc.
1.4. Thành ngữ chứa các yếu tố thuộc TNTT trong tiếng Việt
1.4.1. Trường nghĩa thời tiết
Trước khi tìm hiểu thành ngữ chứa các yếu tố thuộc trường nghĩa thời
tiết, chúng ta phải có một cách hiểu chính xác về thời tiết và các yếu tố của nó.
Theo “Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam”, thời tiết là “trạng
thái tổng hợp của các yếu tố khí tượng xảy ra trong khí quyển ở một thời điểm
hay trong khoảng thời gian xác định. Những đặc trưng quan trọng nhất của thời
28
tiết là các yếu tố khí tượng: nhiệt độ không khí, áp suất khí quyển, gió, độ ẩm và
các hiện tượng thời tiết: giáng thuỷ, sương mù, giông tố, vv. Những đặc điểm
chung của thời tiết trong nhiều năm quy định loại hình khí hậu”.
Trong “Oxford Advanced learners dictionary” (1995), thời tiết được hiểu
là “the condition of the atmosphere at a particular place and time, such as the
temperature, and if there is wind, rain, sun, etc” (điều kiện khí quyển tại một
địa điểm và thời gian cụ thể, chẳng hạn như nhiệt độ, và nếu có gió, mưa, mặt
trời…).
Thời tiết trong “The Hutchinson Paperback Encyclopedia” (1994) được
định nghĩa là: “Day-to-day variation of climate and atmospheric conditions at
any one place, or the state of these conditions at a place at any one time. Such
conditions include humidity, precipitation, temperature, cloud cover visibility
and wind. To a meteorologist, the term “weather” is limited to the state of the
sky, precipitation and visibility as affected by fog and mist”.( Thời tiết và
những điều kiện thời tiết diễn ra hàng ngày ở bất cứ nơi nào. Các điều kiện đó
bao gồm độ ẩm, lượng mưa, nhiệt độ, khả năng hiển thị che phủ đám mây và
gió. Đối với một nhà khí tượng học, thuật ngữ "thời tiết" bị giới hạn ở trạng
thái bầu trời, lượng mưa và khả năng hiển thị bị ảnh hưởng bởi sương và
sương mù). Rõ ràng, khi nói về thời tiết, ngoài các hiện tượng thời tiết cơ bản
như gió, mưa, nhiệt độ, độ ẩm, sương, chúng ta cũng quan tâm đến trạng thái
cũng như các yếu tố của bầu trời.
Thuật ngữ thời tiết thường nói về hoạt động của các hiện tượng khí tượng
trong các thời kì ngắn (ngày hoặc giờ), khác với thuật ngữ "khí hậu" - nói về
các điều kiện không khí bình quân trong một thời gian dài.
Thời tiết bị chi phối bởi sự chênh lệnh áp suất không khí giữa nơi này và
nơi khác. Sự khác biệt về áp suất và nhiệt độ có thể xảy ra do góc chiếu của
ánh sáng tại một điểm đang xét, giá trị này thay đổi theo vĩ độ tính từ vùng
29
nhiệt đới. Sự tương phản mạnh về nhiệt độ không khí giữa vùng nhiệt đới và
cực làm sản sinh dòng chảy không khí mạnh.
Như vậy, các yếu tố thời tiết bao gồm: nhiệt độ không khí, áp suất khí
quyển, gió (hướng gió, tốc độ), độ ẩm. Các hiện tượng thời tiết bao gồm: nắng,
mưa, tuyết, sấm sét, giông bão, sương mù, giáng thủy. Bên cạnh các hiện
tượng chúng tôi vừa nêu, trên các bản tin dự báo thời tiết, chúng tôi còn thấy
những thông tin liên quan đến thời tiết biển, và một trong những hiện tượng
được nhắc đến đó chính là “sóng’’. Sóng biển là các sóng bề mặt xuất hiện tại
tầng trên cùng của biển hay đại dương, một dạng chuyển đổi năng lượng từ nơi
này đến nơi khác. Sóng được tạo ra do tác dụng của gió hoặc do các hoạt động
địa chấn. Ngoài “sóng”, chúng tôi cũng nhận thấy có một hiện tượng nữa được
đưa vào các bản tin thời tiết, đó chính là “thủy triều”. Thủy triều là mực nước
dâng lên hạ xuống dưới tác động của lực tạo triều. Trong đó lực tạo triều gây
ra bởi sức hút của mặt trăng và mặt trời lên lớp nước trên bề mặt trái đất kết
hợp với lực ly tâm của trái đất.
Như vậy, chúng tôi xác định trường nghĩa thời tiết là tập hợp những từ
ngữ liên quan đến thời tiết bao gồm:
- Những từ ngữ chỉ các hiện tượng thời tiết: gió (phong), mưa (vũ), nắng,
sương, sấm, sét, thiên lôi, chớp, tuyết, băng, thủy triều (triều), bão,
giông/dông, nạn hồng thủy, lũ
- Những từ ngữ chỉ các yếu tố thời tiết trên biển: sóng, biển (bể)
- Những từ ngữ chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời: trăng, mây, sao,
trời
- Những từ ngữ chỉ nhiệt độ không khí: nóng, mát, lạnh, giá, rét, buốt
1.4.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
Khi đã xác định được các yếu tố và các hiện tượng của thời tiết, chúng
nghiên cứu thành ngữ trong những trường nghĩa nhỏ sau:
30
- Thành ngữ chứa từ ngữ chỉ các hiện tượng thời tiết: gió (phong), mưa
(vũ), nắng, sương, sấm, sét, thiên lôi, chớp, tuyết, băng, thủy triều (triều), bão,
nạn hồng thủy,hạn, lũ. Ví dụ: Nắng dãi mưa dầu, một nắng hai sương, tắm
mưa gội gió, góp gió thành bão, bạt phong long địa, trắng như tuyết, ngáy như
sấm, như hạn chờ mưa, triều dâng bão tố, đi buôn gặp nạn hồng thủy, mưa
nguồn chớp bể, tin sét đánh,
- Những từ ngữ chỉ các yếu tố thời tiết trên biển: sóng, biển (bể). Ví dụ:
Sóng yên biển lặng, sóng to gió lớn...
- Những từ ngữ chỉ các yếu tố liên quan đến bầu trời: trăng, mây, sao,
trời. Ví dụ: Trời quang mây tạnh, trở trời trái gió,gió đục mây vần, vằng vặc
như trăng đêm rằm...
- Những từ ngữ chỉ nhiệt độ không khí: nóng, mát, lạnh, giá, rét, buốt. Ví
dụ: Nóng chảy mỡ, gió mát trăng thanh, bụng đói cật rét, mưa dầm gió buốt,
lạnh như băng, mùa đông tháng giá... Tuy nhiên, có những thành ngữ bản thân
nó không chứa từ ngữ chỉ nhiệt độ không khí nhưng vẫn thể hiện được nhiệt độ
không khí chúng tôi vẫn xếp vào nhóm này, chẳng hạn như thành ngữ cắt da
cắt thịt (lạnh, rét)
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, thành ngữ chứa các yếu tố
thuộc trường nghĩa thời tiết không phải chỉ để thể hiện các hiện tượng thời tiết,
mà hầu hết đều mang nghĩa biểu trưng. Điều này chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn
trong chương 3 của luận văn.
31
Tiểu kết chương 1
Từ việc tìm hiểu những vấn đề lí thuyết về thành ngữ, về trường nghĩa,
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề như
sau:
1. Thành ngữ là những đơn vị từ vựng có sẵn, có cấu tạo ổn định và có giá
trị biểu trưng cao về mặt ý nghĩa. Sự hình thành nên các thành ngữ bao giờ
cũng gắn liền với thực tiễn sử dụng ngôn ngữ của nhân dân. Đặc điểm là tính
cố định tức là sự bất biến về hình thức. Tuy nhiên, thực tiễn sử dụng cho thấy
thành ngữ vẫn có những biến thể nhất định. Về ngữ nghĩa, thành ngữ nổi bật ở
các đặc điểm là tính cụ thể, tính biểu trưng, tính truyền cảm, tính dân tộc.
2. Việc phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác không phải là một việc
dễ dàng, nhất là phân biệt thành ngữ với tục ngữ. Ranh giới giữa thành ngữ và
tục ngữ trong một vài trường hợp khó có thể xác định rõ ràng. Vì thế, có những
trường hợp có nhà nghiên cứu cho là thành ngữ, nhưng lại có nhà nghiên cứu
lại cho đó là tục ngữ, có nhà nghiên cứu lại có ý kiến trung hòa cho rằng vừa là
thành ngữ, vừa là tục ngữ. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT cũng có nhiều
trường hợp như vậy.
3. Trường nghĩa thời tiết là tập hợp những từ ngữ chỉ các hiện tượng thời
tiết, các yếu tố của thời tiết, tính chất của thời tiết. Chúng tôi xác định thành
ngữ có chứa những từ chỉ hiện tượng, yếu tố, tính chất thời tiết đó sẽ là đối
tượng khảo sát của luận văn.
4. Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT mang đầy đủ những đặc điểm
của thành ngữ nói chung. Điểm nổi bật của nhóm thành ngữ này là đã phản ánh
một cách khá đầy đủ về quan niệm cũng như “phản ứng” của người Việt trước
các hiện tượng thời tiết. Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT này cũng gợi
mở để chúng tôi tìm hiểu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ở chương
3.
32
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA THÀNH NGỮ
CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT
Khi tìm hiểu đặc điểm ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
trong tiếng Việt, chúng tôi tập trung nghiên cứu ở những phương diện cơ bản
sau:
- Số lượng, vị trí xuất hiện của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
- Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
- Chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong cụm
từ và câu
Khi nghiên cứu cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ, chúng tôi đi vào nghiên
cứu cấu tạo ngữ pháp của nội bộ thành ngữ, nghĩa là xem thành ngữ như một
đơn vị độc lập để nghiên cứu. Khi nghiên cứu về chức năng ngữ pháp, chúng
tôi đã đặt nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTTvào những đơn vị lớn hơn
như cụm từ và câu.
Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, chúng tôi áp dụng lí thuyết về ngữ pháp
tiếng Việt theo quan điểm của hai tác giả Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị
Lương trong “Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt”, Nxb Đại học Sư phạm, 2007.
` 2.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng
Việt
Ở chương 1, chúng tôi đã lựa chọn cách phân loại thành ngữ tiếng Việt
thành ba loại là thành ngữ thường, thành ngữ đối và thành ngữ so sánh. Nhóm
thành ngữ chúng tôi tìm hiểu cũng được chia làm ba loại như cách phân chia
thành ngữ nói chung. Chúng tôi đã tiến hành tổng hợp, phân loại và thu được
kết quả như sau:
33
Bảng 2.1 Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt
Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
Tổng số: 280
Thành ngữ đối Thành ngữ so sánh Thành ngữ thường
Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%)
163 58.2 64 22.9 53 18.9
Với thành ngữ đối: Đặc điểm nổi bật của thành ngữ đối là tính chất đối
ứng giữa các bộ phận, các yếu tố tạo nên thành ngữ (đối lời) và nhờ quan hệ
đối ứng này mà ta xác định được quan hệ đối ứng về ý của thành ngữ để từ đó
mà suy ra được ý của toàn bộ thành ngữ. Có hai kiểu cấu trúc tổng quát của
quan hệ đối ứng được các tác giả đưa ra là:
(i). Ax + Ay: hứa hươu hứa vượn, bằng xương bằng thịt, ba cọc ba đồng
(ii). Ax + By: bèo dạt mây trôi, đầu tắt mặt tối, lừa thầy phản bạn
Cấu trúc tổng quát này cũng có thể áp dụng với các thành ngữ đối có 6, 8,
10 âm tiết: con trước mặt, con sau lưng; mắt ốc nhồi, môi chuối mắn; mưa
không đến mặt, nắng không đến đầu.
Với thành ngữ so sánh: Tiếp thu quan điểm của Trương Đông San, các
tác giả của cuốn sách “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” do Hoàng Văn Hành
chủ biên cũng đồng tình với mẫu cấu trúc tổng quát của phép so sánh là A như
B và cấu trúc của thành ngữ so sánh đa dạng hơn cấu trúc của cụm từ tự do.
Điều này được thể hiện ở 4 dạng cơ bản sau đây:
a. A như B: rách như xơ mướp, chậm như rùa
b. (A) như B: (đen) như cột nhà cháy, (béo) như bồ sứt cạp
c. Như B: như môi với răng, như mở cờ trong bụng
d. AB: dẻo kẹo, đen thui
Mẫu cấu trúc tổng quát của thành ngữ so sánh được các tác giả đưa ra là:
{t} như B
34
Theo các tác giả này lí giải thì mẫu cấu trúc tổng quát trên có thể áp dụng
cho bất kì trường hợp nào. Khi đó từ mô hình tổng quát có thể tạo ra At1 như
Bt2. Trong đó:
t1 là thuộc tính của A
t2 là thuộc tính của B
Trong cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh thì t2 không bao giờ xuất hiện
ở dạng hiển ngôn. Mặt khác, thực chất mô hình {t} như B là hiện tượng
chuyển tiếp giữa kiểu “A như B” với kiểu {như B}.
Dấu {...} được nhóm biên soạn cuốn “Kể chuyện thành ngữ tục ngữ” sử
dụng trong mô hình tổng quát biểu thị ba khả năng sau:
a. – Có t.
b. – Không có t.
c. – Có thể có t mà cũng có thể không có t.
Với thành ngữ thường: Đây là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu
tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, cấu trúc bề mặt của thành ngữ.
Loại này không phản ánh cái nghĩa đích thực của chúng. Cấu trúc đó, có chăng
chỉ là cơ sở để nhận ra một nghĩa “sơ khởi”, “cấp một” nào đó, rồi trên nền
tảng của “nghĩa cấp một” này người ta mới rút ra, nhận ra ý nghĩa đích thực
của thành ngữ. Ví dụ thành ngữ vải thưa che mắt thánh có ý nghĩa sơ khởi là
dùng vật giản đơn, tạm bợ (vải thưa) để che giấu sự việc trước người tinh
tường (mắt thánh). Đó là cơ sở giúp ta suy ra ý nghĩa đích thực của thành ngữ
này là: dùng những phương tiện và biện pháp thô thiển, giản đơn để giấu giếm,
che đậy những ý nghĩ, ý đồ hành động trước những người tinh tường.
2.1.1. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT
trong tiếng Việt
2.1.1.1. Về số lượng
Thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT có số lượng lớn nhất với 163 thành
ngữ chiếm 58.2. % tổng số thành ngữ trong phạm vi khảo sát của đề tài.
35
Trong thành ngữ đối chứa từ ngữ thuộc TNTT chủ yếu là 4 âm tiết (157
thành ngữ chiếm 96,4%), có xuất hiện thành ngữ đối 6 âm tiết và 8 âm tiết
nhưng số lượng rất ít. Thành ngữ 10 âm tiết trở lên không thấy xuất hiện
Bảng 2.2. Thành ngữ đối có từ ngữ thuộc TNTT chia theo số lượng âm tiết
Tổng số
4 âm tiết
6 âm tiết
8 âm tiết
10
âm tiết
12 âm tiết
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
163
100
157
96.4
5
3
1
0.6
0
0
2.1.1.2. Về cấu tạo
Trong khi tìm hiểu thành ngữ đối chứa từ ngữ thuộc trường nghĩa thời
tiết, chúng tôi nhận thấy không tồn tại dạng Ax + Ay trong đó A là danh từ chỉ
thời tiết, còn x và y là những kết hợp từ. Toàn bộ thành ngữ đối chứa từ ngữ
thuộc trường nghĩa thời tiết đều thuộc công thức Ax + By trong đó A, B là
danh từ chỉ chỉ yếu tố thời tiết còn x và y là từ loại kết hợp.
Chớp bể mưa nguồn
Mưa gào gió rống
Gió táp mưa sa
Mưa dập gió vùi
Chớp bể mưa nguồn
a1. Thành ngữ có cấu trúc A(t) + B(t), trong đó A, B là danh từ (có thể
cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu tố thời tiết) còn (t)
là tính từ. Ví dụ:
Biển lặng gió yên
Mưa thuận gió hòa
Mưa to gió lớn
Trời quang mây tạnh
Mưa thuận gió hòa
36
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng 24 thành ngữ chiếm
14.7% thành ngữ đối.
a2. Thành ngữ có cấu trúc A(đ) + B(đ), trong đó A, B là danh từ (có thể
cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu tố thời tiết) còn (đ)
là động từ. Ví dụ:
Gió táp mưa sa
Mưa dập gió vùi
Mưa gào gió thét
Biển dậy sóng dồn
Cát lấp sóng vùi
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a2 có số lượng 31 thành ngữ chiếm 19
% thành ngữ đối.
a3. Thành ngữ có cấu trúc A(d) + B(d), trong đó A, B là danh từ (có thể
cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu tố thời tiết) còn (d)
là danh từ chỉ sự vật. Ví dụ:
Chớp bể mưa nguồn
Gió trúc mưa mai
Mưa bom bão đạn
Gió kép mưa đơn
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a3 có số lượng 11 chiếm 6.8 % thành
ngữ đối.
a4. Thành ngữ có cấu trúc (s) A + (s) B, trong đó A, B là danh từ (có
thể cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu tố thời tiết) còn
(s) là số từ. Ví dụ:
Bảy ngày ba bão
Chín nắng mười mưa
Một nắng hai sương
Năm nắng mười mưa
Hai sương một nắng
37
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a4 có số lượng 8 thành ngữ chiếm 4.9 %
thành ngữ đối.
a5. Thành ngữ có cấu trúc (đ) A + (đ) B, trong đó (đ) là động từ còn A,
B là danh từ (có thể cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ
yếu tố thời tiết). Ví dụ:
Ăn đất nằm sương
Ăn gió nằm mưa
Dãi gió dầm mưa
Đi mây về gió
Đội mưa đội nắng
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a5 có số lượng 67 thành ngữ chiếm
41.1% thành ngữ đối.
a6. Thành ngữ có cấu trúc (t) A + (t) B, trong đó (t) là tính từ còn A, B
là danh từ (có thể cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu
tố thời tiết). Ví dụ:
Thuận buồm xuôi gió
Trái gió trở trời
Trở trời trái gió
Trái nắng trở trời
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a6 có số lượng 4 chiếm 2.5 % thành
ngữ đối.
a7. Thành ngữ có cấu trúc (d) A + (d) B, trong đó (d) là danh từ; A, B
là danh từ (có thể cả A và B hoặc có thể một trong hai A, B là danh từ chỉ yếu
tố thời tiết). Ví dụ:
Mùa đông tháng giá
Chiếu đất màn sương
Màn sương chiếu đất
Đầu sóng ngọn gió
38
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu a7 có số lượng 7 chiếm 4.3 % thành ngữ
đối
a8. Thành ngữ đối chứa từ thuộc trường nghĩa chỉ nhiệt độ như: rét, lạnh,
nồng.
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng 5 chiếm 3 % thành ngữ
đối.
Ăn đói mặc rét
Cắt da cắt thịt
Môi hở răng lạnh
Quạt nồng ấp lạnh
Bụng đói cật rét
a9. Thành ngữ đối có yếu tố thuộc trường nghĩa thời tiết có cấu tạo cụm
từ + cụm từ. Thành ngữ nhóm này chiếm tỉ lệ thấp (2/163 thành ngữ đối, chiếm
1,2%). Trong đó có 01 thành ngữ có cấu tạo cụm danh từ- cụm danh từ, 01
thành ngữ có cấu tạo cụm động từ- cụm động từ.
Ăn đàng sóng nói đàng gió
CĐT CĐT
Trong thành ngữ trên, hai yếu tố thời tiết sóng và gió là định ngữ bổ sung
ý nghĩa cho danh từ đàng, tạo thành CDT, CDT này là thành phần phụ sau
trong CĐT mà trong đó ăn là động từ trung tâm.
Con ông sấm cháu ông sét
CDT CDT
a10. Thành ngữ có cấu trúc cụm chủ-vị + cụm chủ- vị
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng 4 chiếm 2.5 % thành
39
ngữ đối.
Cây muốn lặng gió chẳng đừng
Đông có mây tây có sao
Mưa không đến mặt nắng không đến đầu
Nắng không ưa mưa không chịu
2.1.2. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ so sánh có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt
2.1.2.1. Về số lượng
Thành ngữ loại này có 63 đơn vị chiếm 22,5 % thành ngữ chứa từ ngữ
thuộc trường nghĩa thời tiết . Ví dụ:
Ăn vụng như chớp
Khóc như mưa
Nắng như đổ lửa
Như buồm gặp gió
Như hạn gặp mưa
2.1.2.2. Về cấu tạo
Cấu trúc tổng quát của thành ngữ so sánh mà chúng tôi đã trình bày ở
phần trên là: {t} như B. Trong đó (t) là cái đưa ra so sánh còn B là cái so sánh,
giữa (t) và B có các từ so sánh: như, bằng, tày, hơn, không bằng, ....
Trong quá trình tìm hiểu nhóm thành ngữ so sánh chứa từ ngữ thuộc
trường nghĩa thời tiết chúng tôi nhận thấy chỉ có 01 từ so sánh được sử dụng,
đó là từ “như”.
Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày các dạng thức tồn tại của thành ngữ so
sánh có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong tiếng Việt.
a. Dạng thức: (t) như B
Ở dạng thức này, thành ngữ xuất hiện đầy đủ cả ba yếu tố gồm:
- (t): cái được so sánh (có thể là danh từ chỉ các yếu tố thời tiết, cũng có
thể là động từ hoặc tính từ chỉ những đặc điểm, tính chất có liên quan đến thời
40
tiết cũng như liên quan đến con người).
- B: cái so sánh (thường là danh từ thời tiết hoặc danh từ chỉ sự vật; cái
so sánh còn có thể là động từ hoặc tính từ).
- Quan hệ từ so sánh: như
Nước mắt như mưa
Trắng như tuyết
Mưa như trút nước
Nhanh như chớp
Ngáy như sấm
Kết quả thống kê cho thấy, loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số
lượng 49 đơn vị chiếm 76.6% tổng số thành ngữ so sánh.
Kiểu thành ngữ so sánh có đầy đủ 3 yếu tố lại được chia thành các tiểu
loại nhỏ sau đây:
* Dạng thức (t) như B, trong đó (t) là từ danh từ chỉ hiện tượng thời
tiết còn B động từ. Ví dụ:
Mưa như trút nước
Nắng như dội lửa
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng 8 đơn vị chiếm 12.5 %
thành ngữ so sánh.
* Dạng thức (t) như B, trong đó (t) là từ danh từ còn B là danh từ chỉ
hiện tượng thời tiết.
Loại này chỉ có duy nhất 01 thành ngữ, chiếm 1.6 % thành ngữ so sánh.
Đó là thành ngữ nước mắt như mưa.
* Dạng thức (t) như B, trong đó (t) là động từ, B là danh từ chỉ hiện
tượng thời tiết, hoặc B là cụm từ trong đó có chứa từ ngữ chỉ hiện tượng
thời tiết. Ví dụ:
Ăn vụng như chớp
Chạy nhanh như gió
41
Lên như diều gặp gió
Ngáy như sấm
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng là 15 đơn vị, chiếm
23.4% thành ngữ so sánh.
* Dạng thức (t) như B, trong đó cái được so sánh (t) là tính từ thuộc
trường nghĩa nhiệt độ, cái so sánh B là danh từ, động từ, tính từ, cụm động
từ. Ví dụ:
Nóng như rang
Rét như cắt
Nóng như hòn than
Nóng như lửa đốt
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng là 15 đơn vị chiếm 23.4
% thành ngữ so sánh.
* Dạng thức (t) như B, trong đó cái được so sánh (t) là tính từ, cái so sánh B
là danh từ chỉ các hiện tượng thời tiết hoặc cụm từ chứa từ chỉ thời tiết. Ví
dụ:
Mạnh như vũ bão
Trắng như tuyết
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng là 10 đơn vị chiếm 15.6
% thành ngữ so sánh.
b. Dạng thức: như B (không có t), đây là kiểu kết cấu mà cái được so
sánh (t) ẩn đi chỉ còn lại cái so sánh B là danh từ chỉ các hiện tượng thời tiết
hoặc B là cụm từ có chứa các từ chỉ hiện tượng thời tiết. Ví dụ:
Như sét đánh
Như vũ bão
Như cờ gặp gió
Loại thành ngữ cấu tạo theo kiểu này có số lượng 15 đơn vị chiếm 23,4
% tổng số thành ngữ so sánh.
42
Bảng 2.3. Thành ngữ so sánh có chứa từ ngữ thuộc TNTT chia theo dạng
thức {t} như B
Thành ngữ so sánh {t} như B như B
SL Tỉ lệ (%) SL Tỉ lệ (%) SL Tỉ lệ (%)
64 100 49 76.6 15 23.4
2.1.3. Cấu trúc ngữ pháp của thành ngữ thường có từ ngữ thuộc
TNTT trong tiếng Việt
2.1.3.1. Về số lượng
Đây là dạng thành ngữ không đối cũng không so sánh nên nó có hình
thức cấu tạo riêng, gồm có 53 đơn vị chiếm 18.9 % nhóm thành ngữ được
khảo sát.
2.1.3.2. Về cấu tạo
Kết quả khảo sát các thành ngữ thường có từ ngữ thuộc TNTT cho chúng
tôi thấy nhóm thành ngữ này được cấu tạo bởi ba loại cụm từ chủ yếu thuộc
quan hệ chính phụ là: cụm danh từ, cụm tính từ và cụm động từ. Bên cạnh đó,
chúng tôi cũng nhận thấy nhóm thành ngữ này có cấu tạo là cụm chủ - vị.
a. Thành ngữ thường có từ ngữ thuộc TNTT cấu tạo là cụm danh từ
Cụm danh từ là cụm từ chính phụ có danh từ làm thành tố chính. Dạng
đầy đủ của một cụm danh từ gồm có ba phần: phần trung tâm (hạt nhân, chính)
ở giữa, phần phụ trước và phần phụ sau. Mỗi phần phụ trước và phụ sau lại có
thể gồm nhiều thành tố phụ. Mô hình lí tưởng của cụm danh từ trong tiếng Việt
theo Bùi Minh Toán được mô hình hóa bằng bảng sau:
43
Cụm danh từ
Phần phụ trước Phần trung Phần phụ sau
tâm
Thành phần Thành phần Danh từ trung Thành phần Thành phần
phụ chỉ tổng phụ chỉ số tâm phụ chỉ hạn phụ chỉ định
lượng lượng định, miêu tả
Tất cả những học sinh thông minh này
Cả hai tư tưởng cực đoan ấy
Đối với nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT là cụm danh từ, chúng tôi
nhận thấy rằng không có thành ngữ nào đáp ứng được mô hình lí tưởng của
cụm danh từ. Trong 53 thành ngữ thường khảo sát, chúng tôi tìm được 05
thành ngữ có cấu tạo là CDT và tất cả các thành ngữ đó đều không có thành
phần phụ trước. Đó là các thành ngữ: ngọn đèn trước gió, tin sét đánh, mưa gió
dãi dầu, mưa gió thuận hòa, đèo heo hút gió.
b. Thành ngữ thuờng có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt cấu tạo
là cụm động từ
Cụm động từ là cụm từ chính phụ có động từ làm thành tố chính. Mô hình
lí tưởng của cụm động từ cũng gồm có 3 phần là: phần phụ trước, phần trung
tâm và phần phụ sau. Trong hoạt động giao tiếp, cụm động từ thường chỉ gồm
một thành tố trung tâm và một thành phần phụ trước hoặc một thành phần phụ
sau. Bùi Minh Toán miêu tả mô hình cụm động từ lí tưởng như sau:
Cụm động từ
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
đang đọc báo
đều bị bắt
Chúng tôi tìm được 19 thành ngữ có cấu tạo là CĐT. Ví dụ như: Dội
nước lạnh, dội sấm sét, tan ra mây khói, tát nước theo mưa…Các thành ngữ
44
nằm trong phạm vi chúng tôi khảo sát không có thành ngữ nào có phần phụ
trước.
c. Thành ngữ thường có từ ngữ thuộc TNTT cấu tạo là cụm tính từ
CTT là cụm từ chính phụ có tính từ là thành tố trung tâm. Ở dạng đầy đủ
CTT bao gồm ba phần là: phần phụ trước, phần trung tâm và phần phụ sau.
Trong thực tế giao tiếp, CTT có thể chỉ có một từ trung tâm và một thành tố
phụ trước hoặc một thành tố phụ sau. Bùi Minh Toán đã miêu tả CTT lí tưởng
bằng mô hình sau:
Cụm tính từ
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
đều dài 2 mét
cũng đẹp như bức tranh ấy
Khảo sát nhóm thành ngữ thường có chứa từ ngữ thuộc TNTT, chúng
tôi chỉ phát hiện được 03 thành ngữ có cấu tạo là CTT: dạn dày gió sương, dạn
dày nắng mưa, nóng chảy mỡ. Các thành ngữ này cũng không có trường hợp
nào đạt mức độ một cụm tính từ lí tưởng. Ngữ liệu được khảo sát cho thấy, các
thành ngữ là những cụm tính từ thường gồm hai phần là phần trung tâm và
phần phụ sau.
d. Thành ngữ thường có từ ngữ thuộc TNTT cấu tạo là cụm chủ - vị
Cụm chủ - vị là cụm từ bao gồm có hai thành phần. Trong đó, có một
thành phần đóng vai trò chủ ngữ, một thành phần đóng vai trò vị ngữ. Tuy
nhiên, khác với câu, cụm từ chủ vị không có chức năng thông báo, không thực
hiện được hành động nói như một câu.
Qua việc khảo sát ngữ liệu chúng tôi nhận thấy có 25 thành ngữ thường
có từ ngữ thuộc TNTT được cấu tạo theo mô hình của cụm chủ - vị. Kiểu cấu
tạo này được biểu hiện bằng mô hình sau:
45
TT Chủ ngữ Vị ngữ
(i) diều ăn gió
(ii) sét đánh ngang đầu
(iii) triều dâng bão tố
Chúng tôi đã phân tích về cấu trúc ngữ pháp của các đơn vị thành ngữ có
từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt. Kết quả phân tích ngữ pháp cho thấy,
nhóm thành ngữ này có cấu trúc ngữ pháp tương đối đa dạng. Điều này đã giúp
cho thành ngữ có khả năng thực hiện được nhiều chức năng ngữ pháp khi tham
gia cấu tạo câu. Phần tiếp theo của luận văn, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu về
chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong đơn vị câu.
2.2. Chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong
tiếng Việt
Từ ngữ là những yếu tố cơ bản để tạo thành một câu hoàn chỉnh. Thành
ngữ là những ngữ cố định nhưng có chức năng hoạt động như từ. Vì vậy, trong
hoạt động hành chức, thành ngữ cũng được sử dụng để tạo nên những đơn vị
ngôn ngữ lớn hơn mà gần gũi và phổ biến nhất là đơn vị câu. Qua việc khảo sát
ngữ liệu từ thực tiễn sinh hoạt, báo chí, internet và các tác phẩm văn học,
chúng tôi nhận thấy chức năng ngữ pháp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
biểu hiện như sau:
2.2.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ trong
cụm từ
2.2.1.1. Làm định ngữ
Định ngữ là thành phần có chức năng bổ sung trực tiếp ý nghĩa cho danh
từ. Nó có thể là một từ, một ngữ hoặc một cụm chủ - vị.
Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có chức năng là các định ngữ
trong cụm danh từ của câu. Ví dụ:
- Người đàn bà ghen bóng ghen gió đó yêu anh thực sự
46
- Làng chài nghèo ven biển thuộc xóm Nam Thịnh và Bắc Thịnh, xã Nghi
Thiết (Nghi Lộc) bỗng nhộn nhịp hẳn lên khi chiều về. Ấy là những lúc những
ngư dân chuẩn bị ra khơi và phía trước họ là một đêm cưỡi sóng vượt gió
nhưng cũng hứa hẹn một ban mai thuyền về cá về đầy khoang.
(Internet)
- Đòi cơn gió táp mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Phân tích các ví dụ trên chúng ta thấy thành ngữ ghen bóng ghen gió bổ
sung ý nghĩa cho danh từ người đàn bà, thành ngữ làm mưa làm gió bổ sung ý
nghĩa cho cụm danh từ bọn thực dân, thành ngữ cưỡi sóng vượt gió bổ sung ý
nghĩa cho danh từ một đêm, thành ngữ gió táp mưa sa bổ sung ý nghĩa cho
danh từ cơn.
người đàn bà ghen bóng ghen gió
DT Thành ngữ
một đêm cưỡi sóng vượt gió
CDT Thành ngữ
cơn gió táp mưa sa
DT Thành ngữ
2.2.1.2. Làm bổ ngữ
Bổ ngữ là thành phần có chức năng bổ nghĩa cho động từ, tính từ. Về vị
trí, bổ ngữ thường đứng ngay sau động từ hoặc tính từ.
Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT cũng có chức năng làm bổ ngữ này.
47
Ví dụ:
- Tình hình thế giới hiện nay không cho phép bọn đế quốc tự ý muốn làm
gió làm mưa”.
- Chúng nó đi công trường đứa nào cũng phơi phới như diều ăn gió
(Hạnh phúc - Trần Kim Thành)
- Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ cho hoa anh tàn
(Ca dao)
- Trải qua gió dập sóng dồi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
(Thơ- Tố Hữu)
Phân tích các ví dụ trên chúng ta thấy, thành ngữ làm mưa làm gió bổ
sung ý nghĩa cho động từ muốn, thành ngữ như diều ăn gió bổ sung ý nghĩa
cho tính từ phơi phới, thành ngữ gió dập sóng dồi bổ sung ý nghĩa cho động từ
trải qua.
muốn làm mưa làm gió
ĐT Thành ngữ
phơi phới như diều ăn gió
TT Thành ngữ
trải qua gió dập sóng dồi
CĐT Thành ngữ
48
2.2.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần nòng cốt
của câu
“Thành phần nòng cốt của câu là thành phần đảm bảo cho câu được trọn
nghĩa và thực hiện được chức năng giao tiếp, cả trong trường hợp câu tồn tại
độc lập, tách biệt với văn cảnh hoặc hoàn cảnh sử dụng. Trong trường hợp
bình thường, câu có hai thành phần nòng cốt là chủ ngữ và vị ngữ.” (Bùi Minh
Toán, Nguyễn Thị Lương, 2007).
2.2.2.1. Làm chủ ngữ
“Chủ ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, có quan hệ qua lại
với thành phần vị ngữ, nêu lên đối tượng mà đặc trưng hay quan hệ của nó
được nói đến ở vị ngữ.”(Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương, 2007). Chủ ngữ
trong phần lớn các trường hợp mang ý nghĩa chỉ người và sự vật. Tuy nhiên,
nó cũng có thể mang những ý nghĩa khác. Chủ ngữ được tạo nên bởi danh từ,
cụm danh từ, đại từ, tính từ, cụm tính từ, động từ, cụm động từ, ...
Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT hoàn toàn có thể giữ chức năng ngữ pháp là
chủ ngữ trong câu. Ví dụ:
Mưa bom bão đạn/ gieo rắc kinh hoàng cho người dân Đông Ghouta. (Internet)
CN VN
Ngáy như sấm/không chỉ ảnh hưởng đến giấc ngủ của bản thân mà còn
gây ảnh hưởng tới những người xung quanh.
CN VN
Tát nước theo mưa/ là biểu hiện của kẻ tiểu nhân.
CN VN
- Tai bay vạ gió/ là thành ngữ có thể bắt nguồn từ thành ngữ ''cháy thành
vạ lây'' của Trung Hoa.
CN VN
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, những thành ngữ có từ ngữ
49
thuộc TNTT khi làm chủ ngữ của câu thường kết hợp với từ là ở vị trí phía sau
nó. Lúc này, từ là có chức năng giải thích về ý nghĩa cho những đơn vị đồng
đẳng.
Phân tích ví dụ trên, chúng ta thu được hai đơn vị đồng đẳng là:
Tai bay vạ gió = thành ngữ có thể bắt nguồn từ thành ''cháy thành vạ
lây'' của Trung Hoa.
Kết quả khảo sát cho thấy, trong hai thành phần nòng cốt câu thì thành
ngữ làm chủ ngữ có tỉ lệ thấp hơn khi chúng làm vị ngữ. Chủ ngữ do các thành
ngữ từ ngữ thuộc TNTT đảm nhận có thể là thành ngữ đối (mưa bom bão đạn),
thành ngữ so sánh (ngáy như sấm) và thành ngữ thường (tát nước theo mưa).
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng, trong số các thành ngữ có thể giữ vai trò
làm chủ ngữ trong câu, dường như không có sự xuất hiện của tiểu nhóm thành
ngữ so sánh theo kiểu [như B] (như diều gặp gió, như vũ bão, như hạn gặp
mưa ...). Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do chức năng cơ bản của chủ
ngữ là nêu đối tượng. Trong khi đó, những thành ngữ so sánh có cấu tạo theo
kiểu [như B] lại không đáp ứng được yêu cầu này. Các trường hợp thành ngữ
được cấu tạo theo kiểu cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ lại có thể làm
chủ ngữ một cách khá dễ dàng, đặc biệt là cụm danh từ.
2.2.2.2. Làm vị ngữ
“Vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, có quan hệ qua lại
với thành phần chủ ngữ, nêu lên đặc trưng hoặc quan hệ mà thành phần chủ
ngữ biểu thị.”(Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương, 2007).
Vị ngữ biểu hiện sự hoạt động, tính chất, trạng thái của con người, hiện
tượng, sự vật và được xem là trung tâm của tổ chức câu. Cấu tạo của vị ngữ rất
đa dạng, có thể là động từ, cụm động từ, tính từ, cụm tính từ hoặc cụm chủ - vị.
Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có khả năng làm vị ngữ trong câu.
Xét các ví dụ sau:
50
-Tôi/ đã khóc như mưa khi Việt Nam thua Các Tiểu Vương quốc Ả rập
Thống Nhất
CN VN
-Người ta / đi mưa về gió, gối đất nằm sương, vì dân vì nước mà nó rình mò
cái mả bố chúng nó”
CN VN1 VN2
(Người chiến sĩ nhân dân - Tào Mạt)
-Nghe bảo trên ấy trời đất khác ta lắm. Ngày/ nóng như rang, đêm/ rét,
rét phải đắp chăn bông mới ngủ được. CN VN
(Hai chị em - Vũ Thị Thường)
-Cô ấy/ cây ngay không sợ sét đánh
CN VN
Ba loại thành ngữ như chúng tôi đã phân chia đều có thể làm vị ngữ
trong câu. Từ các ví dụ đã dẫn ra, chúng ta thấy, thành ngữ đối làm vị ngữ
(gối đất nằm sương); thành ngữ so sánh làm vị ngữ (khóc như mưa, nóng
như rang); thành ngữ thường làm vị ngữ (cây ngay không sợ sét đánh).
Thông qua việc khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, thành ngữ nói chung và
thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT nói riêng có khả năng làm vị ngữ có tỉ lệ cao
hơn nhiều so với thành ngữ làm chủ ngữ. Nguyên nhân có thể do chức năng
chủ yếu của vị ngữ là nêu đặc điểm, hoạt động, tính chất, trạng thái của người
hay sự vật. Trong khi đó, đây lại có thể xem là một thế mạnh của thành ngữ.
2.2.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần phụ của câu
Trong câu tiếng Việt, ngoài thành phần chính (thành phần nòng cốt) còn có
thành phần phụ. “Thành phần phụ của câu là thành phần nằm ngoài nòng cốt
câu. Sự có mặt của chúng, nhìn chung, không đóng vai trò quyết định đối với
tính trọn vẹn về ý nghĩa và tính tự lập về ngữ pháp của câu.” (Bùi Minh Toán,
Nguyễn Thị Lương, 2007). Các thành phần phụ của câu có thể kể đến gồm:
trạng ngữ, khởi ngữ (đề ngữ).
51
2.2.3.1. Làm trạng ngữ
Trạng ngữ là thành phần phụ của câu biểu thị các ý nghĩa về thời gian, nơi chốn, phương tiện, cách thức, mục đích, nguyên nhân,… của sự tình được nêu trong câu. Trạng ngữ có thể đứng trước, sau hay chêm giữa nòng cốt câu. Trong nhiều trường hợp, trước trạng ngữ có dùng quan hệ từ để dẫn nhập, đồng thời trạng ngữ thường được tách biệt với phần nòng cốt câu bằng một quãng ngắt (khi viết dùng dấu phẩy).
Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể cấu tạo nên các trạng ngữ
của câu.
Ví dụ: Như diều gặp gió, năm nay nó phất lên trông thấy. Trạng ngữ so sánh Nhanh như chớp, hắn giật lấy chiếc roi từ tay tôi. Trạng ngữ so sánh Như vịt nghe sấm, Tuấn chỉ ngồi im trong lớp. Trạng ngữ so sánh Như vũ bão, quân ta tấn công khiến kẻ địch phải hốt hoảng bỏ chạy. Trạng ngữ so sánh Thừa gió bẻ măng, nhiều nghệ sĩ lợi dụng cơ hội này để nổi tiếng. Trạng ngữ cách thức
2.2.3.2. Làm khởi ngữ (đề ngữ)
Khởi ngữ là thành phần phụ của câu, đứng trước nòng cốt câu, được dùng
để nêu lên một đối tượng, một nội dung với tư cách là đề tài của câu nói. Vì thế
mà khởi ngữ còn có một tên gọi khác là đề ngữ. Khởi ngữ được chia làm hai
loại là khởi ngữ nhấn mạnh cho toàn nòng cốt câu và khởi ngữ nhấn mạnh cho
một thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, ...).
Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể cấu tạo nên các khởi ngữ
của câu. Ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
52
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
Trong ví dụ trên, thành ngữ năm nắng mười mưa đóng vai trò nêu lên
chủ đề được nói đến ở vị ngữ dám quản công.
Dầm mưa dãi nắng người nông dân nào mà chẳng trải qua.
Trong ví dụ trên, thành ngữ dầm mưa dãi nắng nêu lên chủ đề được nói ở
vị ngữ.
Ghen bóng ghen gió ai mà ưa cho nổi.
Trong ví dụ trên, thành ngữ ghen bóng ghen gió là thành phần khởi ngữ,
đứng đầu câu để nêu lên đề tài nhắc đến ở vị ngữ.
Khởi ngữ có cấu tạo từ các thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT nhìn chung
ít xuất hiện.
2.2.4. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm thành phần biệt lập của
câu
Thành phần biệt lập là những thành phần nằm ngoài cấu trúc cú pháp của
câu nhưng có quan hệ về mặt ý nghĩa đối với câu đó. Thành phần biệt lập bao
gồm: thành phần tình thái, thành phần gọi đáp, thành phần phụ chú, thành phần
chuyển tiếp và thành phần cảm thán.
Trong quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy thành ngữ có từ
ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt có khả năng làm thành phần phụ chú của
câu.
“Phụ chú ngữ (giải ngữ) là bộ phận chêm xen, nằm ngoài cấu trúc cú
pháp của câu, dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự
53
tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của
câu hay dụng ý của người chú giải.” (Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương,
2007). Cấu tạo của phụ chú ngữ khá đa dạng, có thể là một từ, một tổ hợp từ
hoặc một kết cấu tương đương với một câu, một chuỗi câu. Chúng tôi khảo sát
ngữ liệu và thu được các thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong hoạt động
hành chức có chức năng làm phụ chú ngữ. Ví dụ:
- Đội bóng của HLV Park Hang-seo để thua 3-4 trên chấm luân lưu trước
UAE, sau khi hòa 1-1 ở hai hiệp chính trận tranh HC đồng và tôi đã khóc. Tôi
khóc, khóc như mưa với kết quả này. Tôi khóc không phải vì buồn thầy trò
HLV Park thua UAE mà tôi khóc vì sự bất công.
Trong ví dụ trên, thành ngữ khóc như mưa là phần phụ chú. Chức năng
của phần phụ chú này là bổ sung thêm ý nghĩa cho động từ khóc đứng trước
- Hà Nội, trời trở rét- rét như cắt.
Ở đây thành ngữ rét như cắt là thành phần phụ chú, bổ sung thêm thông
tin cho tính từ rét phía trước.
2.3. Vị trí của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu
Vị trí của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu bị chi phối bởi chức
năng ngữ pháp của chính nó. Ví dụ khi làm chủ ngữ, thành ngữ thường đứng
trước vị ngữ và thường đứng ở đầu câu còn khi làm vị ngữ thì vị trí thường
thấy nhất của thành ngữ là đứng ở giữa câu, cuối câu. Khảo sát vị trí xuất hiện
của thành ngữ trong hoạt động hành chức, chúng tôi nhận thấy có 3 vị trí phổ
biến là thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng đầu câu, đứng giữa câu và đứng
cuối câu.
2.3.1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng đầu câu
Đối với câu chỉ có hai thành phần là chủ ngữ và vị ngữ thì vị trí thông
thường của chủ ngữ là đứng đầu câu và thường đứng trước vị ngữ. Khi thành
ngữ có từ ngữ thuộc TNTT làm chủ ngữ, chúng cũng thường có vị trí ở đầu
câu. Ví dụ:
54
- Mượn gió bẻ măng là hành vi của kẻ tiểu nhân.
- Nóng như đổ lửa khiến người dân Hà Nội vô cùng khó chịu .
Ngoài thành phần nòng cốt câu là chủ ngữ và vị ngữ, câu còn có thể có
thêm các thành phần trạng ngữ hoặc khởi ngữ. Những thành phần phụ này
cũng thường có vị trí đứng ở đầu câu. Tác dụng của chúng nhằm bổ sung ý
nghĩa cho một bộ phận hoặc toàn bộ nòng cốt câu. Chẳng hạn trong ví dụ:
Như diều gặp gió, năm nay, nó phất lên trông thấy.
Trong trường hợp này, thành ngữ như diều gặp gió là trạng ngữ so sánh,
có vị trí đứng đầu câu.
2.3.2. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng giữa câu
Vị trí giữa câu có thể là thành phần trạng ngữ của câu. Vị trí này còn có
thể là thành phần phụ chú. Định ngữ của danh từ và bổ ngữ của động từ cũng
có thể đứng ở vị trí ở giữa câu. Khi thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có chức
năng ngữ pháp của các thành phần câu nêu trên thì chúng cũng thường có vị trí
đứng ở giữa câu. Ví dụ:
Trong công tác, tùy tình hình cụ thể mà quyết định, người chỉ huy phải
biết liệu gió phất cờ, có khi phải tạm dừng lại chờ đợi, khi có cơ hội phải biết
tranh thủ vượt lên dành thắng lợi.
Trong ví dụ này, thành ngữ liệu gió phất cờ có vị trí đứng ở giữa câu, là
bổ ngữ cho động từ biết phía trước nó.
2.3.3. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đứng cuối câu
Cuối câu là vị trí thường gặp nhất của thành phần vị ngữ. Thành ngữ có từ
ngữ thuộc TNTT đóng vai trò làm vị ngữ đương nhiên cũng đứng ở vị trí này.
Tuy nhiên, khi nó là thành phần phụ trong cụm từ, là trạng ngữ, là thành phần
phụ chú, chúng ta cũng thấy nó xuất hiện ở vị trí cuối câu.
Ví dụ:
- Ba tôi ngáy như sấm.
Trong ví dụ trên, thành ngữ ngáy như sấm là vị ngữ và đứng ở vị trí cuối câu.
55
- Lái buôn từ đồng bằng cũng đem lên đây bán thuốc lào, vải, dao, nồi
đồng, chảo gang và mọi thứ hàng hóa cần dùng hàng ngày cho đời sống đồng
bào người các dân tộc sinh sống nở những nơi đèo heo hút gió.
(Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi)
Trong ví dụ này, thành ngữ đèo heo hút gió đứng ở cuối câu và giữ vai trò
là định ngữ, bổ sung ý nghĩa cho danh từ nơi.
nơi đèo heo hút gió. CDT
- Ông chạy như điên như cuồng trên mảnh đất máy bay đang bắn như mưa.
(Con chó xấu xí - Kim Lân)
Rõ ràng chúng ta thấy, thành ngữ bắn như mưa có vị trí đứng cuối câu,
nó giữ vai trò là thành phần của cụm chủ- vị, cụm chủ- vị đó lại là thành phần
phụ sau trong cụm danh từ.
mảnh đất máy bay/ đang bắn như mưa.
CN VN
CDT
- Từ trước đến nay, trong lúc khó khăn, ông vẫn thuần thục vợ khôn
ngoan, biết lựa chiều theo gió.
(Hạnh phúc - Trần Kim Thành)
Trong ví dụ này, thành ngữ lựa chiều theo gió bổ nghĩa cho động từ biết
và có vị trí đứng ở cuối câu.
biết lựa chiều theo gió
CĐT
- Vận động viên điền kinh Nguyễn Thị Hiền đã xuất sắc giành huy chương
vàng với tốc độ chạy rất nhanh, nhanh như gió.
(Internet)
56
Thành ngữ nhanh như gió ở vị trí cuối câu và là thành phần phụ chú, làm
rõ thông tin cho tính từ nhanh phía trước nó.
2.4. Khả năng kết hợp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu
Đối với thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT, chức năng ngữ pháp, vị trí, khả
năng kết hợp của nó với các yếu tố khác trong câu có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Trong đó, chức năng ngữ pháp có ý nghĩa quyết định đến vị trí cũng như
khả năng kết hợp của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong câu. Qua khảo
sát chúng tôi nhận thấy rằng thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có khả năng kết
hợp với các phó từ.
Phó từ là những phụ từ đi kèm với động từ và tính từ để thể hiện các ý
nghĩa như cách thức, mức độ hay kết quả của hành động, hoạt động. Thành
ngữ là đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa như từ trong hoạt động hành chức, do đó
mà thành ngữ cũng có khả năng kết hợp với các phó từ. Cụ thể như sau:
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ chỉ
thời gian: đã, đang, sẽ, vừa, mới, sắp, từng, ... Ví dụ:
+ Trước phong trào cách mạng thế giới đang dâng lên như vũ bão, dù
bọn đế quốc Mỹ và tay sai điên cuồng và hung bạo trước cơn giãy chết có
dùng trăm phương nghìn kế, nhất định cũng không tránh khỏi con đường thất
bại thảm hại của chúng.
+ Tôi từng khóc như mưa khi Việt Nam thua Các Tiểu Vương quốc Ả rập
Thống Nhất.
+ Trải gió dầm mưa đã lắm rồi
Phen này cắt tóc để làm tôi.
(Trọc đầu - Nguyễn Khuyến)
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ có ý
nghĩa phủ định: không, chưa, chẳng, ... Ví dụ:
+ Vì bị chính quyền góp ý nên dạo này bà hàng xóm đáo để ấy không
chửi bóng chửi gió một ai nữa.
57
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ chỉ
mệnh lệnh: hãy, đừng, chớ, ... Ví dụ:
+ Cô đừng ghen bóng ghen gió như vậy.
+ Chớ dội nước lạnh vào nhiệt tình sáng tạo của thanh niên.
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ chỉ sự
đồng nhất, tiếp diễn hay lặp lại: cũng, đều, vẫn, còn, lại, cứ, mãi, nữa, ... Ví
dụ:
+ Chị ấy đẻ con trai rồi. Chị ấy bảo xin dì một cái vạt áo để may lấy
khước cho thằng bé sau này có cũng dạn gió dày sương được như mày.
(Cô gái Triều Dương - Nguyễn Quang Thân)
+ Anh còn ghen bóng ghen gió nữa kia à? Bộ đội mà xấu thế ?
(Mùa xuân em tiễn anh đi - Hoàng Khắc Bá)
+ Mặc dù đã dỗ dành rất nhiều nhưng đứa bé vẫn khóc như mưa.
+ Cứ trông ngày hôm nay thì mai lại nắng như thiêu như đốt, sờ vào
thân cây non mới cắm xuống đất, cứ nóng như nướng.
(Rừng về xuôi - Quang Dũng)
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ chỉ
mức độ: rất, quá, lắm, khí, hơi, ... Ví dụ:
+ Dạo này, tôi để ý, cô hay ghen bóng ghen gió lắm nha. Cô làm ơn, để
tôi yên.
- Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có thể kết hợp với các phó từ chỉ tần
số: thường, hay, năng, thường xuyên, luôn, luôn luôn, ... Ví dụ:
+ Nó là nó hay chửi bóng chửi gió người ta lắm
+ Ấy vô phép chị và cụ Tuy Mông, tôi như con ma ấy mà, hay đi mây về
gió, thì cũng nghe người ta nói thế thôi.
(Tuyển tập kịch Việt Nam - Nhiều tác giả)
+ Nam Cường có thói quen ngủ liền ba ngày ba đêm, thường ngáy như
sấm, có phép luật luyện âm binh và xuất quỷ nhập thần, khiến quan quân triều
58
đình phải thất bại.
(Tìm hiểu tiến trình phát triển của văn học dân gian- Cao Huy Đỉnh)
Như vậy, có thể thấy cả ba loại thành ngữ là thành ngữ đối, thành ngữ so
sánh và thành ngữ thường của nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đều có
thể kết hợp với các phó từ. Tùy từng trường hợp mà thành ngữ kết hợp với các
nhóm phó từ khác nhau như chúng tôi đã trình bày ở trên.
59
Tiểu kết chương 2
Dưới góc nhìn của bình diện ngữ pháp, nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT có những đặc điểm nổi bật sau đây:
1. Về cấu tạo: Nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có cấu tạo hết sức
phong phú, đa dạng. Chúng được chia thành ba loại chính là thành ngữ đối,
thành ngữ so sánh và thành ngữ thường. Thành ngữ đối được nghiên cứu
dựa theo số lượng âm tiết. Thành ngữ so sánh được cấu tạo theo hai dạng phổ
biến là có từ so sánh và không có từ so sánh. Thành ngữ thường được cấu tạo
theo các dạng là cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ và cụm chủ - vị. Ở
mỗi dạng, cấu tạo của chúng lại có những điểm khác nhau. Điều này đã được
chúng tôi xây dựng thành các mô hình và được trình bày cụ thể ở trên.
2. Về chức năng ngữ pháp: Khi tham gia vào hoạt động hành chức, để
tạo nên những đơn vị lớn hơn như câu và văn bản, thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT có chức năng ngữ pháp khá đa dạng. Cụ thể, chúng có thể có chức năng
làm nòng cốt câu (chủ ngữ + vị ngữ), làm các thành phần phụ của câu khởi
ngữ, trạng ngữ; định ngữ cho cụm danh từ và bổ ngữ cho cụm động từ. Ngoài
ra, nhóm thành ngữ này còn có chức năng làm thành phần phụ chú ngữ.
3. Vị trí và khả năng kết hợp: Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT có khả
năng kết hợp với các phó từ. Chức năng ngữ pháp và khả năng kết hợp đã
quyết định đến vị trí của thành ngữ chứa có từ ngữ thuộc TNTT là có thể đứng
đầu, đứng giữa hoặc đứng cuối câu. Như vậy, nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT nhìn từ phương diện ngữ pháp đã cho chúng ta thấy sự phong phú, đa
dạng trong trạng thái tĩnh cũng như trong hoạt động hành chức của thành ngữ.
Đây là những gợi mở quan trọng tạo nên những điểm nhìn mới để cho chúng
tôi đi tìm hiểu nhóm thành ngữ này ở phương diện ngữ nghĩa trong chương
tiếp theo.
60
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA THÀNH NGỮ
CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT
TRONG TIẾNG VIỆT
Bản thân thành ngữ là đơn vị định danh bậc hai. Vì thế mà lớp nghĩa
chính thành ngữ hướng tới không phải là lớp nghĩa đen mà là lớp nghĩa bóng -
nghĩa biểu trưng. Trong chương này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu lớp nghĩa
biểu trưng của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT trong tiếng Việt. Và qua đó,
chúng tôi cũng cố gắng chỉ ra một số nét đặc sắc về văn hóa Việt Nam qua
nhóm thành ngữ này.
3.1. Ý nghĩa của thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
3.1.1. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa chỉ các hiện tượng thời tiết
Trước tiên, các thành ngữ có yếu tố thuộc trường nghĩa thời tiết phản ánh
khá rõ nét về tình trạng thời tiết của Việt Nam. Chúng tôi đã tìm được có 47
trên tổng số 280 thành ngữ chiếm 16.8% thể hiện nội dung này. Trong 47
thành ngữ đó, có 27 thành ngữ so sánh, 19 thành ngữ đối và 01 thành ngữ
thường.
Nói đến thời tiết, chúng ta không thể không nhắc đến mưa, nắng. Đây là
hai hiện tượng thời tiết phổ biến. Khi miêu tả về nắng, mưa, người Việt đã chủ
yếu sử dụng lối so sánh để giúp chúng ta có thể thấy được sự khắc nghiệt của
thiên nhiên. Chúng ta có thể hình dung về hai hiện tượng này qua mô hình:
nắng/mưa + như + động từ/cụm động từ
Mưa như trút
Mưa như đổ nước
Mưa như xối nước
Nắng như dội lửa
Nắng như đổ lửa
Nắng như thiêu
Nắng như thiêu như đốt
61
Như vậy, các động từ, cụm động từ “trút”, “đổ nước”, “xối nước” đã giúp
chúng ta hình dung ra thời tiết Việt Nam có những trận mưa lớn, lượng nước
nhiều, cường độ mạnh. Các động từ/ cụm động từ “dội lửa”; “đổ lửa”,
“thiêu”; “như thiêu như đốt” miêu tả tính chất dữ dội, gay gắt của nắng.
Đi liền với hiện tượng nắng đó luôn kéo theo nhiệt độ không khí oi bức,
chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua mô hình: nóng + như + ĐT
Nóng như đốt
Nóng như hầm
Nóng như lửa
Nóng như luộc
Nóng như rang
Vẫn là cách nói so sánh quen thuộc, nhưng khi nói về tính chất nóng của
không khí, người Việt lại đem so sánh với những hành động chủ yếu cần đến
lửa, đặc biệt trong quá trình nấu nướng “đốt, hầm, luộc, rang”.
Không chỉ có vậy, khi nói về nóng, ngoài sử dụng cách nói so sánh ví
von, người Việt còn sử dụng lối nói quá, lối nói phóng đại “nóng chảy mỡ”.
Tất cả điều đó cho thấy Việt Nam là một đất nước nắng lắm, mưa nhiều.
Mặt khác, Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
Thời tiết được chia làm bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Tuy nhiên, về tính chất
của các mùa thì không phải lúc nào cũng thể hiện rõ nét: mùa xuân phải ấm áp,
mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ, mùa đông lạnh giá. Trên thực tế, mùa đông
và mùa xuân cùng chung tính chất lạnh, mùa hè và mùa thu cùng tính chất
nóng, nhưng đến mùa thu thì mức độ nóng giảm dần. Trong thành ngữ Việt
Nam thực tế này cũng được phản ánh rõ. Nếu như mùa hè với nắng nóng oi
bức, thì đến mùa đông, chúng ta lại cảm nhận được nền nhiệt độ đã hạ xuống
rõ rệt. Tính chất lạnh của thời tiết được thể hiện thông qua phép so sánh hai mô
hình sau:
62
- Lạnh + như + DT
Lạnh như băng
Lạnh như đồng
-Rét + như + ĐT/CĐT
Rét như cắt
Rét như cắt da cắt thịt
Sở dĩ có lạnh, rét như vậy, bởi khi “mùa đông tháng giá” đến cũng mang
theo những hiện tượng thời tiết khác:
Gió bấc mưa phùn
Mưa dầm gió bắc (bấc)
Mưa dầm gió buốt
Có sống ở miền Bắc và một số nơi vùng Bắc Trung Bộ, chúng ta mới cảm
nhận sâu sắc được chính những cơn mưa phùn kéo dài cả ngày, những đợt gió
mùa đông bắc tràn về làm cho chúng ta cảm thấy rét buốt vô cùng.
Bên cạnh đó, trong kho tàng thành ngữ Việt Nam, còn có những thành
ngữ nói về sự thay đổi của thời tiết, hoặc những hiện tượng thời tiết diễn ra bất
thường khó có thể lường trước được:
Chớp bể mưa nguồn
Trái gió trở trời
Trái nắng trở trời
Việt Nam còn có một vị trí địa lý vô cùng đặc biệt, đó chính là giáp với
Biển Đông, vì thế thời tiết trên biển cũng được phản ánh khá rõ nét:
Biển lặng gió yên
Sóng to gió lớn
Cuối cùng, chúng ta cũng tìm thấy những đêm thời tiết đẹp, bình yên qua
các câu:
Gió mát trăng thanh
Trời quang mây tạnh
Vằng vặc như trăng đêm rằm
63
Trong thành ngữ tiếng Anh, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những đơn
vị thành ngữ chứa các yếu tố thời tiết miêu tả bức tranh thời tiết. Một số thành
ngữ tiêu biểu: Rain cats and dogs (mưa nặng hạt); come rain or shine (nắng
hay mưa); billy wind (gió mạnh); brass-monkey weather (thời tiết rét đậm, rét
hại, rét như dao cắt)…
3.1.2. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những khó khăn
trong cuộc sống
Như đã trình bày ở trên, thời tiết Việt Nam diễn ra rất phức tạp. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt của con
người. Trước hết, thời tiết gây ra những khó khăn, trở ngại.
Trong quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi đã tìm được 30 đơn vị thành
ngữ chứa các từ ngữ thuộc TNTT nói về nội dung này. Những yếu tố thời tiết
xuất hiện trong 30 đơn vị thành ngữ này đó là: gió, sóng, mưa, mây, nắng,
sương, hạn hán, bão tố. Những yếu tố này trở thành ẩn dụ cho những khó khăn
trong cuộc sống cũng như trong công việc. Một điều khá đặc biệt mà chúng tôi
nhận thấy đó chính là 30 thành ngữ này đều là những thành ngữ đối. Nhóm
thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT mang ý nghĩa biểu trưng cho những khó
khăn được mô tả thông qua hai mô hình cấu trúc sau:
- Yếu tố thời tiết + ĐT + Yếu tố thời tiết + ĐT
Mưa dập gió dồn
Mưa sa gió táp
Mưa gào gió rống
Mưa dầm nắng dội
- Số từ + yếu tố thời tiết + Số từ + yếu tố thời tiết
Một nắng hai sương
Năm nắng mười mưa
Chín hạn mười mưa
64
Để diễn tả những khó khăn trong cuộc sống, trong thành ngữ luôn chứa
đựng những hiện tượng thời tiết sóng đôi, kết hợp với những động từ thể hiện
những hành động với mức độ, tốc độ trên mức bình thường, chúng tôi gọi
những động từ dạng này là động từ mạnh: gió táp mưa sa, mưa dập gió dồn,
mưa dập gió vùi, mưa gào gió thét…
Chúng ta cùng xét bài ca dao sau:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
Với thành ngữ “gió dập sóng dồi” kết hợp với mô típ quen thuộc “thân
em” và hình ảnh so sánh “như trái bần trôi” đã diễn tả một cách rõ nét nhất,
chân thật nhất số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Gió
dập sóng dồi ở đây không chỉ đơn thuần là gió, sóng thiên nhiên nữa, mà nó
còn là gió, sóng cuộc đời.
Ngoài kết hợp với những động từ mạnh, trong nhóm thành ngữ này,
chúng ta còn thấy nhiều thành ngữ mà trong đó có các hiện tượng thời tiết kết
hợp với số từ trước nó: chín hạn mười mưa, chín nắng mười mưa, hai sương
một nắng, năm nắng mười mưa…Nhắc đến những thành ngữ này, chúng ta
không thể không nhớ đến bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Rõ ràng với việc sử dụng thành ngữ “năm nắng mười mưa”, Tú Xương đã
khắc họa được hình ảnh bà Tú lam lũ vất vả cả một cuộc đời và từ đó thể hiện
tấm lòng biết ơn sâu sắc của ông đối với người vợ của mình.
Dùng thời tiết để diễn tả những khó khăn vất vả trong cuộc sống không
chỉ có trong quan niệm của người Việt, mà chúng ta còn bắt gặp điều này trong
quan niệm của người Trung Quốc, từ đó chúng ta thấy được sự tương đồng về
văn hóa trong quá trình tri nhận thế giới tự nhiên giữa hai dân tộc. Chúng ta
cùng xét một vài ví dụ tiêu biểu sau:
65
风雨交叉 (phong vũ giao xoa). Câu này nghĩa tương đương với thành
ngữ gió táp mưa sa: những gian khổ khó khăn trở ngại cùng xảy ra một lúc.
风风雨雨 (phong phong vũ vũ): nhiều gian nan vất vả.
风吹浪打 (phong xuy lãng đả): gió dập sóng vùi.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi chưa tìm được thành ngữ nào
chứa yếu tố thời tiết trong tiếng Anh mang nét nghĩa biểu trưng cho những khó
khăn trong cuộc sống.
3.1.3. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những nguy
hiểm- thách thức
Bên cạnh những khó khăn gian khổ, các thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
cũng mang ý nghĩa biểu trưng cho những nguy hiểm, thách thức trong cuộc
sống. Chúng tôi đã tìm được 09 thành ngữ (chiếm 3.2 % thành ngữ có từ ngữ
thuộc TNTT) thể hiện nội dung ý nghĩa này. Trong đó có 07 thành ngữ đối và
02 thành ngữ thường. Các hiện tượng thời tiết như bão, mưa, sóng, gió đã trở
thành những ẩn dụ để biểu trưng cho những nguy hiểm, thách thức mà con
người cần phải đối mặt và trải qua.
Đó là thành ngữ diễn tả nơi trải qua nguy hiểm, thử thách, gay go quyết
liệt: đầu sóng ngọn gió, đèo heo hút gió, bể sâu sóng cả.
Tôi vẫy tay chào Quang, chị Bình, hai người bạn kháng chiến và vẫy chào
tất cả, những người giờ đây chân hãy còn đứng trên mảnh đất của quê hương,
và sau này là những người đứng trước đầu sóng ngọn gió.
(Nhật kí người ở lại - Nguyễn Quang Sáng)
Trong thành ngữ tiếng Hán chúng ta cũng bắt gặp những thành ngữ cùng
mang nội dung này. Ví dụ:
久经风浪 (cửu kinh phong lãng): trải qua nhiều hiểm nguy
66
风口浪尖 (phong khẩu lãng tiêm): đầu sóng ngọn gió; nơi nguy hiểm
Đó còn là sự nguy hiểm dữ dội trong những cuộc chiến tranh tàn khốc:
mưa bom bão đạn, mưa bom gió đạn, bão đạn mưa bom. Hai thành ngữ này
diễn tả bom trút xuống nhiều như mưa, đạn bắn ra nhiều đợt ào ào như gió bão,
chiến đấu ác liệt nguy hiểm nhất.
Cũng không bao giờ có thể quên được cái buổi tối ngồi trên chòi cao,
nghe Khìn kể cái lý do đã khiến anh viết đơn tình nguyện xin ra đảo, và tình
nguyện ở lại trên mỏm đồi này, nơi mưa bom bão đạn.
(Họ sống và chiến đấu - Nguyễn Khải)
Những nguy hiểm do thời tiết mang lại cho con người cũng chính là
những thách thức đòi hỏi con người phải vượt qua: cây cao gió cả, có cứng
mới đứng đầu gió, thuyền to sóng cả.
Thành ngữ cây cao gió cả mang ý nghĩa: người chức quyền càng cao,
càng bị nhiều sự chống đối hoặc càng bị nhiều tai vạ ví như cây càng cao thì
càng phải chịu đựng nhiều gió bão lớn:
Cây cao gió cả khó chèo
Thấy đây vận bĩ khó lấm nghèo nên xa.
(Ca dao)
Chúng ta cũng bắt gặp ý nghĩa này trong thành ngữ chứa yếu tố thời tiết
tiếng Hàn:
가지 많은 나무 바람 잘 날 없다: Cây có nhiều cành không ngày nào
lặng gió.
Điều này một lần nữa chứng tỏ sự tương đồng trong cách tri nhận thế giới
của các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Thành ngữ có cứng mới đứng đầu gió mang ý nghĩa phải có dũng khí
vững vàng mới đủ bản lĩnh chống chọi, đương đầu với những khó khăn nguy
hiểm:
67
Vị trí này anh phải đảm nhiệm, khó khăn đấy, nhưng có cứng mới đứng
đầu gió, mọi người đều tín nhiệm ủng hộ anh.
(Internet)
Thành ngữ thuyền to sóng cả thể hiện ý nghĩa người có vai trò cương vị
càng cao thì trách nhiệm càng nặng nề, ví như thuyền càng to khi ra khơi xa
càng phải hứng chịu sóng to gió lớn:
Bây giờ các anh phải gánh vác nhiều trách nhiệm nặng nề, thuyền to
sóng cả là vậy.
(Internet)
3.1.4. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống lam lũ
và những thân phận nổi trôi
Với những khó khăn thử thách do thời tiết mang lại, chắc chắn đời sống
của con người sẽ bị ảnh hưởng. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT đã tái hiện
lại bức tranh đời sống lam lũ của người dân Việt Nam cũng như gợi nên những
thân phận nổi trôi trong xã hội. Chúng tôi đã tìm được 55 thành ngữ có từ ngữ
thuộc TNTT thể hiện ý nghĩa này. Trong đó gồm 50 thành ngữ đối và 05 thành
ngữ thường.
Qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy, những động từ chỉ hoạt động
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như “ăn”, “nằm”, “mặc”, “gội”,
“dầm”, “tắm”, “gối” “đi” kết hợp với những yếu tố chỉ thời tiết, chủ yếu là
“gió”, “mưa”, “sương”, “tuyết”, đều diễn tả tình trạng cuộc sống lam lũ, vất
vả. Điều này theo chúng tôi cũng dễ hiểu, vì cuộc sống trong xã hội cũ có sự
phân chia giai cấp rất rõ rệt. Tầng lớp bần cùng cố nông chiếm một tỷ lệ không
nhỏ trong xã hội, họ phải lâm vào tình trạng không nhà, không cửa, lam lũ, khổ
cực. Vì thế, tác động của các hiện tượng thời tiết lại càng làm cho cuộc sống
của họ cơ cực hơn. Cũng có thể, các hiện tượng thời tiết diễn ra bất thường,
không thể lường trước, cụ thể các hiện tượng mưa bão, lũ lụt, hạn hán làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như đời sống lao động sản xuất của
68
người dân, dẫn đến tình trạng mùa màng thất bát, nợ nần chồng chất, họ phải
bỏ xứ đi nơi khác…Đặc biệt là những người bần nông, không nhà không cửa.
Chúng ta cùng tìm hiểu một số thành ngữ tiêu biểu.
Thành ngữ ăn đói mặc rét hay bụng đói cật rét diễn tả sự thiếu túng,
nghèo khổ, cơm không đủ no, áo không đủ mặc:
Trong hai năm ăn đói mặc rét, phần lớn ngày đêm hai chân bị kẹp trong
cùm cho nên chạy trốn hơn mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã bị liệt cả.
(Sống để hoạt động - Nguyễn Tạo)
Thành ngữ ăn gió nằm mưa, ăn gió nằm sương diễn tả cuộc sống phải
nếm chịu nhiều nỗi vất vả, khổ sở trong việc đồng áng, việc đi lại hoặc các
công việc ngoài trời nói chung:
Quản bao tháng đợi năm chờ
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thành ngữ gối đất nằm sương diễn tả cảnh gian lao vất vả của người
nay đây mai đó, phải đi đường dài hoặc phải ở ngoài trời trong thời gian dài:
Người ta đi mưa về gió, gối đất nằm sương, vì dân vì nước mà nó rình
mò cái mả bố chúng nó.
(Người chiến sĩ nhân dân - Tào Mạt)
Thành ngữ màn sương chiếu đất lại cho chúng ta thấy về cuộc sống
không nhà cửa, tất cả sinh hoạt đều diễn ra trong sự khắc nghiệt của thiên
nhiên.
Họ quên sao được bao năm trước
Mỗi bạn phương trời cách biệt xa
Mấy độ xuân về dừng gót nghỉ
Màn sương chiếu đất đâu là nhà
(Đường ngàn dặm - Lê Đức Thọ)
69
Một số thành ngữ tiêu biểu khác: tắm mưa gội gió, dầm sương dãi nắng,
dầm sương dãi gió, cưỡi sóng vượt gió, ăn sương nằm tuyết, mưa dầu nắng
dãi, dãi dầu nắng mưa, dãi nắng dầm sương, dầm mưa dãi nắng…
Ngoài ra, các thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT còn diễn ra những thân
phận vô định, nay đây, mai đó, phiêu bạt, nổi trôi: bèo dạt mây trôi, bèo nổi
mây chìm, mây trôi bèo dạt, mây trôi bèo nổi, chiếc bách sóng đào.
Nàng rằng: “Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Chúng tôi cũng cố gắng tìm hiểu thành ngữ tiếng Anh chứa các yếu tố
thời tiết nhưng chúng tôi không tìm được nét nghĩa tương đồng này. Điều này
chúng tôi sẽ lý giải trong mục “Một vài nét văn hóa Việt Nam qua thành ngữ
có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết”
3.1.5. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những cơ hội-
thuận lợi
Trong thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT, chúng tôi đã tìm được 15
thành ngữ mang ý nghĩa chỉ cơ hội và thuận lợi. Điều đặc biệt, trong 15 thành
ngữ đó, cả 15 thành ngữ chứa yếu tố “gió”; 04 thành ngữ chứa yếu tố “mưa”.
Như vậy, dựa vào khía cạnh tác động tích cực của gió, mưa, người Việt đã sử
dụng hai yếu tố thời tiết này biểu trưng cho những cơ hội thuận lợi trong cuộc
sống.
Gió là một hiện tượng trong tự nhiên hình thành do sự chuyển động của
không khí trên một quy mô lớn. Sự chuyển động của không khí sinh ra gió.
Ngoài tiếp cận gió ở khía cạnh vô hình, không thể quan sát được để nói về sự
không có căn cứ, người Việt còn tiếp cận gió ở khía cạnh thứ hai, đó chính là
ảnh hưởng của gió. Gió tác động lên mọi vật xung quanh làm chúng biến đổi.
Đã là biến đổi thì có thể biến đổi tích cực hoặc biến đổi tiêu cực. Cả hai loại
biến đổi đó từ gió đều được người Việt thể hiện trong lời ăn tiếng nói của
70
mình. Loại biến đổi tiêu cực đó chính là những khó khăn, thử thách, nguy hiểm
mà gió mang lại. Còn loại tác động biến đổi tích cực chính là những cơ hội,
những thuận lợi, may mắn mà chúng ta sẽ bàn trong phần này.
Chúng tôi nhận thấy, có 03 sự vật chịu sự tác động trực tiếp của gió là:
cờ, buồm, diều. Đây là ba sự vật nếu không có gió thì khó có thể hoạt động
được. Diều, cờ chỉ có thể bay, buồm chỉ có thể lướt đi trên mặt nước nếu có
gió. Vì thế có những thành ngữ Việt Nam như: diều ăn gió, diều được gió,
như buồm gặp gió; như cờ gặp gió…
Từ quan sát thực tế đó, ngưởi Việt đã sử dụng những thành ngữ đó
để nói về những cơ hội, thuận lợi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống:
- Sự nghiệp lên như diều gặp gió nhờ chọn bàn làm việc hợp mệnh.
- Chúng nó đi công trường đứa nào cũng phơi phới như diều ăn gió.
- Như diều gặp gió, các đoàn thể cứu quốc phát triển rất nhanh chóng.
Dùng gió để nói về những cơ hội, thuận lợi, chúng ta cũng bắt gặp điều
này trong thành ngữ Hàn Quốc. Xét ví dụ sau:
“바람따라돛을단다” (Căng buồm theo gió): chọn đúng lúc, đúng thời
điểm để tiến hành công việc thì sẽ gặt hái được thành công. Còn nếu trường
hợp ngược lại “바람부는날가루팔러가듯” (Giống như đi bán bột ngày gió
thổi) hàm ý làm việc không tính toán, cân nhắc, không lựa chọn đúng thời
điểm nên gặp thất bại.
Đối với Việt Nam hay Hàn Quốc, gió được dùng để biểu hiện nét nghĩa
thời cơ, cơ hội, nhưng chúng tôi không tìm thấy nét nghĩa này trong thành ngữ
chứa yếu tố thời tiết trong tiếng Anh.
Ngoài ra, yếu tố “mưa” và “gió” kết hợp lại với nhau còn để chỉ thời tiết
thuận lợi, tạo điều kiện cho cuộc sống của con người:
Lúc này chắc ăn đến chín phần rồi. Trời cứ mưa thuận gió hòa như bây
giờ thì liệu mà cơi thêm cót lên mà đựng thóc
71
Trong thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi không tìm được thành ngữ chứa
yếu tố thời tiết nào mang ý nghĩa biểu trưng cho cơ hội và thuận lợi.
3.1.6. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những vận xui
Trong thành ngữ có chứa từ ngữ thuộc TNTT chúng tôi cũng phát hiện 04
thành ngữ mang ý nghĩa chỉ điều xui xẻo, không may: đi buôn gặp nạn hồng
thủy, gió kép mưa đơn, tai bay vạ gió, vạ gió tai bay.
Hai thành ngữ tai bay vạ gió, vạ gió tai bay thể hiện tai họa, rủi ro xảy ra
một cách đột ngột ngang trái:
- Pha kể đầu đuôi cái tai bay vạ gió mà mình vừa bị cho anh rể nghe.
(Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan)
- Hồng Tơ và chuyện phía sau những scandal tai bay vạ gió.
(Internet)
- Sau tai bay vạ gió, Kỳ Duyên xuất hiện với xế hộp sang trọng.
(Báo Dân trí)
Thành ngữ gió kép mưa đơn lại diễn tả sự rủi ro, gặp nhiều ngăn trở:
Dù khi gió kép mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thành ngữ đi buôn gặp nạn hồng thủy diễn tả việc làm ăn rủi ro, không
may mắn ví như người đi buôn gặp lụt lớn thì mất tiền ngày công, tiền đường
trong khi hàng hóa hư hỏng nhiều, chậm, không kịp bán gây thất thiệt, lỗ vốn
cao.
3.1.7. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng chỉ trạng thái tâm lý
của con người
Chúng tôi đã tìm thấy 11 thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT mà người Việt
Nam thường dùng để nói về tâm lý của con người. Trong tiếng Việt, những
thành ngữ chứa yếu tố “mây”; “gió”; “mưa” để diễn tả tâm trạng con người
thường là tâm trạng buồn đau, thương nhớ sầu thảm:
72
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Nguyễn Du muốn nói rằng không có nỗi đau khổ nào lớn hơn được nỗi
đau khổ của Kiều lúc này. Gió mưa vốn là hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ,
cũng từng tượng trưng cho tai họa. Gió mưa cũng là tiếng gào thét dữ dội thê
lương. Ở đây, trước nỗi đau của Kiều trời đất cũng chuyển vần. Cung đàn bạc
mệnh là nỗi lòng của người đàn bà bất hạnh cũng chứa cả nỗi thảm sầu của
thiên nhiên.
Hay như:
Mấy chục năm nay, nhiều người cho rằng, nhà thơ Sóng Hồng viết bài
“Là thi sĩ” với mục đích phê phán bài thơ “Cảm xúc” của Xuân Diệu. Thực tế,
bài thơ của nhà thơ Sóng Hồng được viết để làm binh vận và đối tượng trước
hết của bài thơ là một anh thư ký nhà binh Pháp "hay làm thơ lãng mạn, than
mây khóc gió, tiếc ngọc thương hoa".
(Internet)
Như vậy thành ngữ than mây khóc gió hay khóc gió than mây để diễn
tả tâm trạng sầu não, u buồn một cách vu vơ, không chính đáng.
Ngoài ra, thành ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết còn diễn
tả tâm lý sợ sệt, hốt hoảng:
Công Vinh "hồn vía lên mây" vì dính động đất tại Nhật Bản
Chúng ta cùng tìm hiểu thành ngữ sợ bóng sợ gió: sợ hão huyền, sợ
không có căn cứ xác thực.
Như chúng tôi đã trình bày trong mục nhóm thành ngữ chứa từ ngữ thuộc
TNTT mang ý nghĩa cơ hội- thuận lợi, gió là một hiện tượng tự nhiên hình
thành do sự chuyển động không khí trên một quy mô lớn. Sự chuyển động của
73
không khí sinh ra gió. Chúng ta không thể nhìn thấy gió, bởi gió vô hình.
Chính vì thế, gió đã trở thành ẩn dụ để nói những gì viển vông, hão huyền.
Nói về thành ngữ này, trong “Thế thuyết tân ngữ” có một câu chuyện về
“sợ bóng sợ gió” (“Ngô ngưu suyễn nguyệt”) như sau: Vị cận thần Mãn Phấn
của Tấn Vũ Đế rất sợ lạnh, đặc biệt là cái lạnh rét thấu xương của gió đông. Có
một lần gió thật to, vừa lúc anh ta vào cung tiếp kiến Vũ Đế, thấy cảnh thời tiết
rét lạnh bên ngoài cửa sổ lưu ly, dù biết rõ cửa sổ lưu ly rất dày, sẽ không bị
gió lùa vào, nhưng không khỏi có một cơn rùng mình. Vũ Đế thấy vậy liền
cười anh ta, Mãn Phấn xấu hổ trả lời: “Thần giống như trâu nước Ngô, chỉ cần
thấy ánh trăng là thở hồng hộc ngay”. Trâu nước vốn sinh sống ở sông Trường
Giang trong khu vực có nước sông Hoài chảy qua, loài trâu này sinh ra vốn sợ
nóng, cho nên vào mùa hè thích ngâm mình trong dòng nước mát mẻ; nó chỉ
cần thấy mặt trời thì toàn thân sẽ nóng lên, liên tục thở gấp; bởi vậy ngay cả
đôi khi nhìn thấy ánh trăng trong đêm, còn tưởng lầm là mặt trời, thân nhiệt lại
tăng cao, hoảng sợ đến nỗi thở gấp gáp.
Về sau thành ngữ sợ bóng sợ gió (“Ngô ngưu suyễn nguyệt”, trâu nước
Ngô nhìn thấy trăng mà thở hổn hển) từ đây mà hình thành, dùng để ví von con
người khi nhìn thấy một cái gì đó tương tự thứ mà bản thân sợ hãi sẽ nảy sinh
nỗi sợ hãi lớn trong lòng, cũng là dùng để chỉ thời tiết khốc liệt.
Từ câu chuyện này chúng ta thấy rằng nhiều thành ngữ mà đến ngày nay
chúng ta vẫn sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng do quá trình giao
lưu văn hóa, tiếp xúc qua lại giữa hai quốc gia, nó đã biến thành lời ăn tiếng
nói của người Việt.
Vẫn là gió- ẩn dụ cho những điều viển vông, không có căn cứ, người
Việt ta còn có một thành ngữ nói về trạng thái tâm lý ghen tuông ghen bóng
ghen gió: là ghen một cách vu vơ do tính hay suy diễn mà không có căn cứ xác
thực. Điều này xuất phát từ đặc điểm của gió, gió vô hình không quan sát được
bằng mắt.
74
Ngoài đau buồn, sợ sệt, ghen tuông, thành ngữ chứa các từ thuộc trường
nghĩa thời tiết còn thể hiện niềm mong mỏi của con người tránh nắng cầu rợp
(mong mỏi thoát khỏi tình trạng khó khăn, ác liệt), như hạn mong (chờ) mưa
(mong mỏi một cách tha thiết, đến tột độ) diễn tả niềm vui sướng khi được
thỏa mãn những điều mong muốn của bản thân.
Thành ngữ chứa các từ ngữ thuộc trường nghĩa chỉ thời tiết mang ý nghĩa
diễn tả các trạng thái tâm lý của con người là một hiện tượng vô cùng phổ biến
trong các ngôn ngữ.
Trong tiếng Anh, để diễn tả tâm trạng hạnh phúc chúng ta có thể sử dụng
thành ngữ “Over the moon” (Qua khỏi mặt trăng):
They’re going on holiday on Wednesday so they’re all over the moon.
(Oxford dictionary online)
(Họ sắp đi nghỉ vào thứ tư, vì thế họ rất hạnh phúc).
Cũng vẫn diễn tả trạng thái tâm lý này, trong tiếng Anh chúng ta cũng bắt
gặp thành ngữ “on cloud nine” (trên chín tầng mây) trong ví dụ sau:
Ian's best friend, Stolly (…) He's in the hospital, unconscious, and hooked up
to machines. The question Ian is trying to answer is: How did Stolly end up
there? In a way, Stolly's always been on cloud nine, living life by his own rules.
(Stolly, người bạn thân của Ian đang nằm ở viện trong tình trạng hôn mê,
người mắc đầy máy móc. Câu hỏi mà Ian đang cố tìm câu trả lời là Stolly kết
thúc trên giường bệnh như thế sao? Theo một cách nào đó, Stolly luôn hạnh
phúc, sống một cuộc đời theo nguyên tắc của anh).
Tại sao “on cloud nine” lại mang nét nghĩa thoải mái, hạnh phúc? Một
trong những cách giải thích thường được nghe nói đến là theo cách phân loại
của Cục Thời tiết Hoa Kỳ vào những năm 1950 thì mây số 9 là loại mây bông
xốp tích mưa rất đẹp. Một cách giải thích khác bắt nguồn từ Phật giáo, tầng
mây thứ 9 là một bậc của tiến trình khai sáng của một Bồ Tát.
75
3.1.8. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành
động của con người
Trong thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT, chúng tôi đã tìm được 16 thành
ngữ chỉ hoạt động của con người. Để nhấn mạnh về tính chất của các hoạt
động này, người Việt chủ yếu sử dụng lối nói quá: ăn như gió cuốn, ngáy như
sấm, ăn vụng như chớp, khóc như mưa như gió...
Đó là những thành ngữ chỉ hoạt động ăn uống. Hành động ăn nhanh, ăn
nhiều, ăn ngấu nghiến được thể hiện qua thành ngữ ăn như gió cuốn.
Anh Bằng ngồi cạnh anh Toàn, vẻ phớt đời, ăn như gió cuốn.
(Những niềm mê say - Tô Hải Vân)
Cũng hành động ăn, còn có thành ngữ ăn vụng như chớp: diễn tả hành
động ăn vụng nhanh, rất sành, khó có thể bắt quả tang:
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày
(Ca dao)
Đó còn hành động ngáy đều và to, rền vang khắp xung quanh qua thành
ngữ ngáy như sấm:
Nam Cường có thói quen ngủ liền ba ngày ba đêm, thường ngáy như
sấm, có phép luật luyện âm binh và xuất quỷ nhập thần, khiến quan quân triều
đình phải thất bại.
(Tìm hiểu tiến trình phát triển của văn học dân gian- Cao Huy Đỉnh)
Ngoài ra, còn có những thành ngữ diễn tả hành động nói năng mạnh mẽ,
hùng hồn, đâu ra đấy: ăn sấm nói gió, ăn sóng nói gió.
Còn Ứng thì đen trùi trũi, mắt lồi, ăn sấm nói gió dễ nhầm là tiểu đoàn trưởng.
(Internet)
Nó vạm vỡ, nhanh nhẹn, rất sôi nổi, ăn sóng nói gió, làm cho tôi chú ý
ngay từ phút ban đầu.
(Internet)
76
Bên cạnh đó, có những thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT diễn tả hành
động khóc của con người như khóc như mưa, khóc như mưa như gió, nước mắt
như mưa hay những hành động làm những việc linh tinh, viển vông không
thực tế: làm việc cầu phong, buôn mây bán gió. Thêm vào đó, cũng có những
hành động đánh nhanh, mạnh bằng hỏa lực như dội sấm sét, hành động làm
việc không biết mệt mỏi của người dân lao động qua thành ngữ vắt đất ra nước
thay trời làm mưa.
Cuối cùng, trong nhóm thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT cũng có những
đơn vị thành ngữ nói về cảnh tình tự, ân ái, chung chạ của đôi trai gái: gió tựa
hoa kề, mưa Sở mây Tần.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Mặc người mưa Sở mây Tần
Nhưng mình nào biết có xuân là gì?
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Trong thành ngữ chứa yếu tố thời tiết tiếng Anh, chúng tôi cũng tìm được
ý nghĩa biểu trưng này: Bleed dry (lừa tiền của ai đó); weather the storm (vượt
qua khó khăn); cast a cloud over (làm người khác chán)…
Attack is the best form of defence, throw caution to the winds and go for it.
(Tấn công là một cách tự vệ tốt nhất. Hãy liều một phen đi.)
3.1.9. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những hành vi
ứng xử của con người
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người
trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định
được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm
đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau.
77
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi đã tìm đươc 26 thành ngữ có từ ngữ
thuộc TNTT thể hiện hành vi ứng xử của con người.
Đó là hành vi khôn khéo, biết lựa tình thế để ứng xử sao cho giữ yên ổn
bản thân như gió chiều nào che/xoay chiều ấy.
Đó còn là lối ứng xử khéo léo để lấy lòng, vừa lòng người khác như liệu
chiều che gió, lựa chiều theo gió, hay khôn ngoan, biết ứng xử tùy theo thời
cơ, hoàn cảnh, thận trọng xem xét cân nhắc mọi điều kiện rồi mới thực hiện
như ý nghĩa của những thành ngữ sau đây thể hiện: lựa gió bẻ buồm, liệu gió
phất cờ xem gió bỏ buồm, xem gió bẻ buồm, coi gió bỏ buồm, trông gió bỏ
buồm. Đó cũng có thể là những hành vi lợi dụng thời cơ để che giấu những
hành vi sai trái: thừa gió bẻ măng, mượn gió bẻ măng, té nước theo mưa, tát
nước theo mưa. Đó còn là lối ứng xử không nói thẳng, trực tiếp, mà nói xa xôi
hoặc mượn chuyện khác để nói cho người ta tự suy ngẫm mà hiểu ý, nội dung
này được thể hiện qua câu thành ngữ nói bóng nói gió.
Cũng là lối ứng xử nói năng trong cuộc sống, người Việt Nam luôn đề cao
độ tin cậy của lời nói, nói gì cũng phải chắc chắn và có bằng cớ, chứ đừng nói
những lời chỉ nói ở ngoài miệng rồi sẽ thoáng qua như gió bay, không lưu giữ
lại được rồi sẽ bị lãng quên ngay. Đó là nội dung của câu thành ngữ lời nói gió
bay.
Thành ngữ mây bay hạc lánh lại phản ánh cách sống của nhiều người
trước cuộc đời, trước những chuyện thế sự, chuyện thị phi, không dám trực
tiếp đối diện mà lại chọn cách sống xa lánh cuộc đời.
Trong mối quan hệ gia đình, thành ngữ môi hở răng lạnh lại mang ý
nghĩa mọi người phải biết yêu thương nhau, đối xử tốt với nhau.
Trong mối quan hệ với người khác, thành ngữ dội nước lạnh biểu thị ý
nghĩa đừng ứng xử thô bạo, phũ phàng mà làm mất đi lòng nhiệt tình của họ.
Vẫn là ứng xử, chúng ta phải biết công bằng với mọi người, đã làm ơn,
ban phát thì phải đều khắp không nên chừa hoặc bỏ sót một ai. Thành ngữ đã
78
mưa thì mưa cho khắp chứa đựng lối ứng xử này.
Thành ngữ quạ ăn dưa bắt cò phơi nắng chứa đựng lối ứng xử tự mình
phải chịu trách nhiệm trước những hành động của mình, đừng đổ oan cho
người khác.
Một thành ngữ rất quen thuộc đối với người Việt Nam là cây muốn lặng,
gió chẳng đừng. Thành ngữ này phản ánh hai cách ứng xử của hai người khác
nhau trong cùng một sự việc, một người thì muốn ngừng lại, còn người kia thì
không chịu, một người muốn được bình an yên ổn, nhưng người kia lại tiếp tục
gây gổ, chống đối.
3.1.10. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tính cách con
người
Để nói về tính cách của con người, người Việt cũng thường sử dụng từ
ngữ thuộc TNTT. Vì thời tiết thường diễn ra thất thường, khó có thể đoán
trước, mới nắng sau đó mây đen kéo đến, mưa bất chợt… nên điều đó cũng
được ông cha ta dùng để diễn tả những người có tính nết thay đổi thất thường
qua các thành ngữ “trái gió trở trời”; “trái nắng trở trời”; “trỏ trời trái gió”.
- Bình thường có thể giúp chúng nó chu đáo. Nhưng khi chúng nó trái gió
trở trời thì cũng bẩn”.
(Trên đồng muối - Trần Kim Long).
- Có phải tạo hóa sinh ra phụ nữ với bản tính sớm nắng chiều mưa, vui
buồn thất thường.
(Internet)
Cả người Việt và người Trung Quốc đều đề cao chữ hiếu. Có những câu
thành ngữ có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng qua quá trình tiếp xúc văn hóa
lại được người Việt sử dụng rất nhiều và trở thành lời ăn tiếng nói của người
Việt. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” là một ví dụ. Quạt nồng ấp lạnh là khi
nóng nực thì quạt cho mát, khi lạnh lẽo thì ấp cho ấm, ý nói: con cái hiếu thảo
chăm sóc cha mẹ. Trong “Nhị thập tứ hiếu” (là một tác phẩm trong văn học
79
Trung Hoa kể lại sự tích 24 tấm gương hiếu thảo do Quách Cư Nghiệp vào thời
nhà Nguyên biên soạn), gương hiếu thảo thứ 6, Hoàng Hương thức khuya dậy
sớm hầu cha rất hiếu thảo. Vào mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ chăn chiếu để
truyền hơi ấm cho cha khỏi lạnh, đến mùa hè thì quạt mùng gối cho cha được
mát mẻ luôn. Nhờ vậy mà người cha sống thoải mái vui tươi, không biết có
mùa đông hay mùa hè. Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều, cũng dùng
thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” để ca ngợi tấm gương hiếu thảo của Thúy Kiều:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Một trong những tính cách được người Việt khi dùng các yếu tố thể hiện
trong thành ngữ đó chính là đức tính trung thực, ngay thẳng qua thành ngữ
“cây ngay không sợ sét đánh”- người tốt, người trung thực thì không sợ vu
cáo, đặt điều, gièm pha:
Các người quen nhòm nhỏ vào nhà người ta bỏ vạ cáo gian thì mặc xác
các người, ta đây cây ngay không sợ sét đánh.
(Xung đột - Nguyễn Khải)
Sống trong cùng một địa bàn, cùng chịu những tác động của thời tiết,
người Việt Nam dần dần hình thành tính cách biết sẻ chia, giúp đỡ nhau vượt
qua những khó khăn gian khổ. Điều này được thể hiện qua thành ngữ chia mưa
sẻ nắng:
Sống mà những người đút cơm mớm sữa cho mình, những người chia
mưa sẻ nắng với mình mà phải chịu đau đớn tủi hổ vì mình, phải dám quên
mình mới thiệt là đáng sợ.
(Bước chân - Nguyễn Vũ)
Bên cạnh ca ngợi những nét tính cách tốt, qua thành ngữ, người Việt còn
phê phán những mặt tiêu cực trong tính cách của con người:
Tính lẳng lơ, hay làm duyên, làm dáng thiếu đứng đắn trước người khác
giới được thể hiện qua thành ngữ cười gió cợt trăng
80
Một ả Hoạn Thư như vậy thì hơn gì một mụ chủ lầu xanh, không lùi bước
trước bất kì một thủ đoạn nào để buộc Kiều phải đon đả cười gió cợt trăng với
khách làng chơi.
(Xung quanh một số vấn đề về văn học và cuộc sống - Nguyễn Khánh Toàn)
Tính tình ngang ngược, chẳng biết sợ ai được thể hiện qua: trời đánh
không chết, con ông sấm cháu ông sét, làm mưa làm gió
Thời kì làm mưa làm gió của chủ nghĩa đế quốc đã qua và không bao giờ
trở lại.
(Internet)
Trong thành ngữ chứa từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết cũng có những
thành ngữ chỉ những con người ẩu đoảng, vội vã, thiếu thấu đáo như ba chớp
ba nhoáng.
Thành ngữ thiên lôi sai đâu đánh đó phê phán những người ì ạch, không
chủ động trong mọi việc, sợ trách nhiệm.
Tính cách bội bạc, không chung thủy, có người mới thì quên ngay người
cũ vốn đã gắn bó với mình là nghĩa biểu trưng của thành ngữ có trăng quên
đèn; chơi trăng quên đèn.
Trong thành ngữ chứa yếu tố thời tiết tiếng Anh, chúng tôi không tìm thấy
được nét nghĩa biểu trưng này.
3.1.11. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho những tình thế
trong cuộc sống
Trong việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, người Việt cũng hay sử
dụng các yếu tố thời tiết để nói về những tình thế trong cuộc sống. Chúng ta dễ
dàng bắt gặp điều này trong thành ngữ.
Đó có thể là những tình thế nguy kịch do sự sống chỉ còn hết sức mong
manh: như ngọn đèn trước gió, đó có thể là những tình thế bất ngờ, đột ngột:
như sét đánh, như sét đánh ngang tai, sét đánh lưng trời, sét đánh ngang đầu,
sét đánh ngang tai, tin sét đánh. Đó cũng có thể là những tình thế khẩn cấp:
81
cứu hạn như cứu hỏa. Đó cũng có thể là tình thế đang trong tình trạng khó
khăn, tuyệt vọng gặp được những điều may mắn, hạnh phúc: đại hạn gặp mưa
rào, hạn hán gặp mưa rào, nắng lâu gặp trận mưa rào, như hạn gặp mưa, như
rồng gặp mây, chuồn chuồn gặp nắng. Hay đó còn là tình thế đã hỏng việc lại
gặp điều kiện xấu nên càng trở nên hư hỏng nát bét: cứt phải trời mưa. Đó còn
là những tình thế tan vỡ, mất hết mọi hy vọng: tan như mây khói, tan ra mây
khói, tan tành mây khói, tan theo mây khói. Hay chúng ta còn bắt gặp những
tình thế buộc mình phải chấp nhận, không thể tránh được trong câu thành ngữ:
chạy trời không khỏi nắng, chạy trời sao khỏi nắng. Tình thế làm bao nhiêu, cố
gắng bao nhiêu cũng không đạt được kết quả: gió vào nhà trống, như gió thổi
vào nhà trống. Ngoài ra, trong thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT còn chứa
đựng tình thế bị chia cắt, không thể gặp nhau: tuyết chở sương che.
Chúng ta cùng xét một vài ví dụ sau:
Mắc bệnh ung thư, cậu bé 15 tuổi sống lay lắt như ngọn đèn trước gió.
(Internet)
Nay dáng Mẹ như ngọn đèn trước gió
Gửi muôn người tâm hỉ xả từ bi
Tay muốn níu kỷ niệm xưa còn đó
Mười ngón trơ nên chẳng nắm được gì!
Như vậy, khi con người đối diện với bệnh tật, tuổi già, sự sống đó trở nên
mong manh, có thể chết bất cứ lúc nào, giống như ngọn đèn trước gió, có thể
bị gió dập tắt lúc nào không hay.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi cũng không tìm thấy nét
nghĩa biểu trưng này trong thành ngữ chứa từ chỉ yếu tố thời tiết trong tiếng
Anh.
3.1.12. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho tốc độ
Trong các thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT chúng tôi tìm được có 06
thành ngữ chỉ tốc độ. Đó là các thành ngữ: nhanh như gió, nhanh như chớp,
82
gió đục mây vần, đi mây về gió, chạy nhanh như gió, bạt phong long địa.
Trong đó, tốc độ được so sánh với hai hiện tượng là gió và chớp. Điều này
cũng hoàn toàn dễ hiểu. Gió là một hiện tượng thời tiết mà con người không
thể nhìn thấy được nhưng có thể nhận biết được nó thông qua tác động của nó
lên các sự vật khác. Tốc độ di chuyển của gió là cực kỳ nhanh. Nếu chúng ta
tìm kiếm trên google với từ khóa “nhanh như gió”, chỉ cần trong vòng 0.29
giây, chúng ta sẽ có đến 47 100 000 kết quả có liên quan đến thành ngữ này.
Chứng tỏ, thành ngữ “nhanh như gió” được sử dụng rất phổ biến và rộng rãi:
- Thanh xuân trôi qua nhanh như gió
- Nói nhanh như gió
- Tính nhẩm nhanh như gió
- Phản xạ tiếng Anh nhanh như gió
- Phóng xe nhanh như gió
- Tháo lắp súng tiểu liên AK nhanh như gió
- Đọc ráp nhanh như gió
- Thủ thuật tăng tốc cho Iphone nhanh như gió
Bên cạnh gió, chớp cũng là hiện tượng thời tiết được người Việt sử dụng
để chỉ tốc độ nhanh. Tương tự, nếu chúng ta dùng từ khóa là thành ngữ “nhanh
như chớp” trên google, chỉ với 0.29 giây, chúng ta cũng thu được 8 130 000
kết quả có liên quan. Chớp là hiện tượng ánh sáng loé mạnh rồi tắt ngay do sự
phóng điện giữa hai đám mây hoặc giữa mây và mặt đất. Chính vì sự quan sát
thực tế này, mà cứ nói về tốc độ nhanh, ngoài so sánh với gió, người Việt còn
so sánh với chớp:
- Tên trộm xe tay ga bẻ khóa rồi phóng lên xe chạy nhanh như chớp.
- Bắt quả tang “nữ quái” móc túi nhanh như chớp ở Ngã Tư Sở.
- Thần đồng trả lời nhanh như chớp.
83
Hiện nay, trên truyền hình còn có cả một chương trình game show mang
tên “Nhanh như chớp” để thi trả lời các câu hỏi về mọi lĩnh vực một cách
nhanh nhất, chính xác nhất.
Cùng với cách tri nhận giống người Việt, người Anh cũng dùng “gió,
chớp” để nói về tốc độ nhanh. Chúng ta đã biết đến các thành ngữ: As quick as
lightning (nhanh như tia chớp), Like greased (a steak of) lightning (nhanh
như chớp); like the wind (nhanh như gió)…
- She ran like the wind. Suddenly a man from the side darted into the
middle of the road, stood straight in her way.
(Cô ấy chạy nhanh như gió. Bất ngờ một người đàn ông lao ra giữa
đường đứng ngay lối cô chạy).
3.1.13. Nhóm thành ngữ mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh
Nói đến thời tiết, chúng ta không thể không nhắc đến những tác động của
nó. Chính vì thế, người Việt đã dùng hình ảnh thời tiết để nói về sức mạnh, đặc
biệt là các hình ảnh: gió, mưa, bão, lũ, thủy triều. Chúng tôi đã tìm được 12
thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT nói về sức mạnh. Trong 12 thành ngữ đó, có
1 thành ngữ mang nghĩa đen, tức là nói về sức mạnh của thời tiết, đó là thành
ngữ gió thổi là chổi trời. Đây là thành ngữ nói về sức mạnh ghê gớm của gió ví
như cái chổi lớn có thể quét sạch mọi thứ trên mặt đất. Còn 11 thành ngữ còn
lại đều nói về sức mạnh liên quan đến con người, diễn tả khí thế sôi sục, mạnh
mẽ không gì có thể ngăn cản được: biển dậy sóng dồn, triều dâng bão tố, dâng
lên như nước thủy triều, dâng lên như nước vỡ bờ, dâng lên như vũ bão, mạnh
như vũ bão, dấy lên như vũ bão, như nước thủy triều, như nước tràn bờ, như
nước vỡ bờ, như vũ bão.
Ví dụ:
- Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại,
mệnh lệnh tiến công của Tổ quốc vang lên, Hồ Chủ Tịch phát động phong trào
84
“Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, lập tức trong toàn quân một cao
trào thi đua mới dâng lên như biển dậy sóng dồn.
(Internet)
- Sóng người ồ ạt như nước thủy triều cuốn về mạn Hồ Gươm.
(Một khoảng trời xanh- Mộng Sơn)
- Lực lượng vũ trang nhân dân xốc tới như nước vỡ bờ.
(Vào Sài Gòn- Lưu Quý Kỳ)
Với lối sống du mục, người Anh không quan tâm đến những ảnh hưởng
mà thời tiết mang lại, do vậy, trong các thành ngữ có từ ngữ chỉ thời tiết trong
tiếng Anh chúng tôi không tìm được thành ngữ nào mang ý nghĩa biểu trưng
cho sức mạnh.
3.1.14. Nhóm thành ngữ biểu thị những ý nghĩa biểu trưng khác
Ngoài 13 nét nghĩa biểu trưng như đã trình bày chúng tôi còn tìm thấy 03
thành ngữ nói về hình dáng, dáng vẻ của con người (cò bợ gặp trời mưa, thất
thểu như cò phải bão, trắng như tuyết), 02 thành ngữ nói vể trình độ nhận thức
của con người (như vịt nghe sấm, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm), 02 thành ngữ
nói về sự biến đổi (mưa lâu thấm đất, quá mù ra mưa). Tuy nhiên, số lượng
thành ngữ mỗi nội dung đó lại không nhiều, nên chúng tôi gộp lại mục những
nét nghĩa biểu trưng khác
Bảng 3.1. Số lượng thành ngữ theo ý nghĩa biểu trưng
Stt Ý nghĩa Số lượng Tỉ lệ %
1 Hiện tượng thời tiết 47 16.8
2 Những khó khăn trong cuộc sống 30 10.7
3 Nguy hiểm- thách thức 9 3.2
4 Cuộc sống lam lũ 55 19.6
5 Trạng thái tâm lý 11 3.9
6 Cơ hội- thuận lợi 15 5.4
85
7 Vận xui 4 1.4
8 Hành động của con người 18 6.4
9 Hành vi ứng xử 26 9.3
10 Tính cách con người 13 4.6
11 Tình thế trong cuộc sống 27 9.6
12 Sức mạnh 12 4.3
13 Tốc độ 6 2.1
14 Ý nghĩa khác 7 2.5
3.2. Một vài nét văn hóa Việt Nam qua thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT
Khi tìm hiểu vể thành ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết trong
tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy rất rõ nhiều nét văn hóa Việt Nam trong đó.
Mặc dầu không phải là nhiệm vụ trọng tâm của luận văn, nhưng trong phần
này chúng tôi vẫn muốn chỉ ra một vài đặc trưng văn hóa Việt Nam qua thành
ngữ có từ ngữ thuộc trường nghĩa thời tiết, góp phần khẳng định giữa văn hóa
và ngôn ngữ có một mối quan hệ khăng khít.
Trong phần trình bày về các ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ có từ ngữ
thuộc TNTT trong tiếng Việt, chúng tôi cũng đã cố gắng so sánh thành ngữ
tiếng Việt với thành ngữ tiếng Anh, tiếng Hàn, để lấy đó làm cơ sở để chúng ta
thấy được đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Xét về khía cạnh loại hình văn hóa, Việt Nam thuộc loại hình văn hóa
nông nghiệp, Anh hay Mỹ thuộc loại hình văn hóa du mục. Thành ngữ có từ
ngữ thuộc TNTT cũng thể hiện rõ đặc trưng văn hóa này.
Lối sống nông nghiệp là lối sống bắt buộc người dân Việt Nam phải định
canh định cư lâu dài, chịu sự tác động trực tiếp từ thời tiết. Từ đó, người Việt
dần dần hình thành tâm lý tôn trọng và tự thích nghi với mọi điều kiện thời tiết
có thể xảy ra. Sống hòa hợp với thiên nhiên, với thời tiết là mong mỏi không
chỉ của người dân Việt Nam mà còn là của dân cư thuộc nền văn hóa nông
86
nghiệp trọng tĩnh. Chẳng thế mà qua thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT chúng
ta có thể thấy được bức tranh về một cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông
dân: một nắng hai sương, dãi nắng dầm mưa, ăn sương nằm đất, dãi dầu mưa
nắng, đội mưa đội gió, gội gió tắm sương…phải đối mặt với những nguy
hiểm thách thức do thời tiết mang lại: sóng to gió cả, năm nắng mười mưa,
thuyền xuôi gió ngược…luôn mong mỏi, hy vọng những điều tốt đẹp: lên
như nhiều gặp gió, sóng yên biển lặng, mưa gió thuận hòa, thuận buồm xuôi
gió….Những điều này, chúng ta sẽ không bắt gặp trong thành ngữ tiếng Anh
có chứa các yếu tố thời tiết. Trong cách ứng xử với môi trường sống (tự nhiên)
của người Anh- dân du mục, nếu thấy nơi này không thuận tiện, họ có thể dễ
dàng đi nơi khác, không quan tâm đến khí hậu thời tiết. Đồng cỏ, nguồn nước
mới là bận tâm của dân du mục. Tuy nhiên họ không coi trọng thiên nhiên mà
có tham vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên, coi thiên nhiên như kẻ thù.
Chính vì điều đó, trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi không nhận thấy những
nét nghĩa biểu trưng như: cuộc sống lam lũ, vất vả, nguy hiểm thách thức, sức
mạnh, cơ hội thuận lợi, tính cách con người trong thành ngữ có các từ ngữ chỉ
thời tiết trong tiếng Anh.
Nếu người dân du mục coi thường các hiện tượng thời tiết, thì người Việt
quan tâm, coi trọng, thậm chí sợ hãi các hiện tượng này. Chính vì thế mà người
dân Việt Nam có cách sống chấp nhận, chuyện gì đến sẽ đến, không thể tránh
né được: chạy trời không/sao khỏi nắng. Hơn nữa, vì không lý giải được các
hiện tượng thời tiết, thấy những tác động ghê gớm của nó lên đời sống sinh
hoạt cũng như đời sống lao động, người Việt xưa đã suy tôn những hiện tượng
thời tiết trở thành những vị thần để thờ phượng, cúng bái, trở thành những thế
lực siêu nhiên: ù ù như hung thần gió. Ngày nay, người Việt dùng những từ
ngữ chỉ hiện tượng thời tiết để nói về những người có chức quyền, địa vị lớn
trong xã hôi: con ông sấm cháu ông sét.
87
Người Việt Nam- dân gốc nông nghiệp, sống định canh định cư ổn định
lâu dài nên ưa tĩnh, sống yên vui trong xóm làng với cái nhà, ao cá v.v… .
Nông dân xây dựng nếp sống đổi công, nay người mai ta, tương trợ lẫn nhau
để gặt hái được kết quả tốt đẹp trong việc cày cấy, trồng trọt. Do đó, đời sống
nông nghiệp ổn định hơn đời sống dân du mục. Lề lối sinh hoạt đó rèn luyện
cho dân nông nghiệp nếp sống trọng tình nghĩa: chia mưa sẻ nắng.
Trong bộ phận thành ngữ có yếu tố thuộc TNTT, chúng ta cũng bắt gặp
câu thành ngữ có chứa triết lý nhân quả của người Việt. Đó là thành ngữ gieo
gió gặt bão. Triết lý nhân quả của cha ông ta có lẽ bắt nguồn từ đạo Phật. Phật
giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ
VI trước công nguyên. Trải qua bao thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, Phật giáo
với tinh thần bình đẳng từ bi đã ăn sâu vào nếp sống và tư duy của người dân
trở thành những giá trị tinh thần vô giá, góp phần tạo nên những nét đặc sắc
của đạo đức dân tộc và văn hóa tâm linh người Việt. Hơn bao giờ hết, giáo lý
của Phật giáo đã được dân tộc Việt Nam tiếp nhận một cách dễ dàng bởi tính
thiết thực và gần gũi trong đời sống sinh hoạt thường nhật. Tư tưởng triết lý
của Phật giáo đã thấm nhuần tinh thần dân tộc Việt Nam. Khi đã hiểu được
giáo lý của thuyết nhân quả thì trong mỗi hành động, mỗi việc làm bản thân
chúng ta sẽ có ý thức cao hơn để tạo ra kết quả cao nhất, tránh những hậu quả
không tốt về sau. Đồng thời, chúng ta biết chế ngự mọi bất hạnh, ngăn ngừa
những điều ác để xua tan cái nghiệp quả luân hồi cho kiếp sau, đem lại niềm
vui, niềm hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho toàn xã hội. Trong một
xã hội, nếu ai cũng yêu thương, sống chan hòa, đối xử đúng mực với nhau,
không làm điều ác, làm điều gì cũng xuất phát từ cái thiện, luôn đặt điều nhân
nghĩa lên trên thì xã hội sẽ tốt đẹp biết bao.
Trong cuốn sách “Phong tục các dân tộc Đông Nam Á”, tác giả Ngô Văn
Doanh và Vũ Quang Thiện đã chỉ ra: “Mưa gió, trong quan niệm dân gian xưa,
không phải là kết quả của sự bốc hơi nước được tích tụ, không phải do sự
88
chênh lệch áp suất khí quyển mà chỉ là cuộc sinh hoạt tình dục của Trời và Đất
mà thôi. Những hạt mưa như tinh dịch, giúp Mẹ Đất sinh ra muôn loài cây
trái”. Như vậy, hai hiện tượng thời tiết mưa và gió trong văn hóa Việt Nam
còn để biểu thị những hành động ân ái, tình tự của đôi trai gái. Chúng ta nhận
thấy quan niệm này thông qua hai thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT: gió tựa
hoa kề, mưa Sở mây Tần.
89
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, ngoài ý nghĩa miêu tả bức tranh thời tiết Việt Nam với
những hiện tượng thời tiết đặc trưng, thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT còn thể
hiện 12 ý nghĩa biểu trưng khác, đó là: những khó khăn trong cuộc sống, nguy
hiểm thách thức, cuộc sống lam lũ, trạng thái tâm lý, cơ hội thuận lợi, vận xui,
hành động của con người, hành vi ứng xử, tính cách con người, tình thế trong
cuộc sống, sức mạnh, tốc độ. Ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ chứa từ ngữ
thuộc TNTT có hai đặc điểm nổi bật là một yếu tố thời tiết có có thể có nhiều ý
nghĩa biểu trưng và một ý nghĩa biểu trưng được biểu hiện qua nhiều yếu tố
thời tiết.
Nhóm thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT đã phác họa một phần bức
tranh văn hóa Việt với các nét văn hóa của đời sống nông nghiệp đặc thù, nét
văn hóa trong giao tiếp và những đặc trưng trong tính cách người Việt Nam.
Một góc bức tranh văn hóa cũng giúp cho chúng ta nhận thấy những ưu điểm
và cả những hạn chế trong tính cách của con người Việt Nam mà ông cha ta đã
gửi vào trong thành ngữ.
90
KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu nhóm thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT, chúng tôi có
thể rút ra một số kết luận sau:
1. Thành ngữ có từ ngữ thuộc TNTT là một bộ phận quan trọng của thành
ngữ tiếng Việt. Đó là những đơn vị ngôn ngữ có sẵn, với kết cấu tương đối
chặt chẽ, bền vững và có ý nghĩa ổn định. Thành ngữ là một dạng tồn tại trong
lời ăn tiếng nói của nhân dân, phản ánh một cách đa chiều những tình cảm, suy
nghĩ và nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính mình.
2. Về đặc điểm ngữ pháp, thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT bao gồm
ba loại là thành ngữ đối, thành ngữ so sánh và thành ngữ thường. Ở mỗi loại lại
có những dạng cấu tạo riêng. Thành ngữ đối được cấu tạo theo số lượng âm
tiết chẵn. Loại chiếm số lượng nhiều nhất là thành ngữ đối bốn âm tiết, ngoài
ra, còn có các thành ngữ đối sáu âm tiết, tám âm tiết, không có sự xuất hiện
của những thành ngữ đối từ mười âm tiết trở lên. Thành ngữ so sánh được cấu
tạo theo dạng phổ biến là có từ so sánh và chỉ xuất hiện duy nhất một từ so
sánh, đó là từ “như”. Thành ngữ thường được cấu tạo theo các dạng chủ yếu là
cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ, cụm chủ - vị. Chúng tôi đã minh
chứng điều này thông qua các mô hình được trình bày ở chương 2. Không chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu cấu tạo của thành ngữ, khi đi sâu tìm hiểu về chức
năng ngữ pháp của thành ngữ trong việc cấu tạo câu, chúng tôi nhận thấy,
thành ngữ có thể làm các thành phần của nòng cốt câu như chủ ngữ, vị ngữ hay
làm các thành phần phụ của câu như khởi ngữ, làm định ngữ cho cụm danh từ,
bổ ngữ cho cụm động từ trong câu. Ngoài ra, thành ngữ còn có thể làm phần
phụ chú ngữ.
3. Về đặc điểm ngữ nghĩa, nhóm thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT
được chúng tôi tìm hiểu chủ yếu dựa trên ý nghĩa biểu trưng. Chúng tôi tìm
được ít nhất 13 ý nghĩa biểu trưng thông qua nhóm thành ngữ này. Ý nghĩa
91
biểu trưng của thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT có hai đặc điểm nổi bật là
một yếu tố thời tiết có có thể có nhiều ý nghĩa biểu trưng và một ý nghĩa biểu
trưng được biểu hiện qua nhiều yếu tố thời tiết. Sự đa dạng về ý nghĩa biểu
trưng của các yếu tố thời tiết xuất hiện trong thành ngữ cũng là biểu hiện của
sự đa dạng trong cách tư duy, trong khả năng quan sát cùng sự liên tưởng tinh
tế và sâu sắc của người Việt chúng ta.
4. Nghiên cứu về nhóm thành ngữ chứa từ ngữ thuộc TNTT đã hé lộ cho
chúng tôi những khe sáng để mở ra cánh cửa văn hóa được chứa đựng trong
lòng nó. Bộ phận thành ngữ này đã phác họa nên một góc bức tranh văn hóa
Việt Nam mang đậm sắc màu của những cư dân nông nghiệp lúa nước. Tuy
cuộc sống của họ còn nhiều khó khăn thiếu thốn về vật chất, thậm chí là sự vất
vả, lam lũ trong cuộc mưu sinh nhưng điểm nổi bật trong tâm hồn họ là những
con người hiền lành, yêu lao động với một lối sống trọng tình, là cách cư xử
đầy thân thiện cùng một ý chí, nghị lực luôn phấn đấu để vươn lên.
5. Tìm hiểu về thành ngữ tiếng Việt nói chung, thành ngữ chứa từ ngữ
thuộc TNTT nói riêng đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bản chất của một đơn
vị ngôn ngữ cùng với những giá trị văn hóa chứa đựng trong lòng nó. Với đề
tài này, chúng tôi muốn đề xuất những hướng nghiên cứu tiếp theo như sau:
thứ nhất, nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt chứa từ ngữ thuộc TNTT trong sự so
sánh với một ngôn ngữ khác; thứ hai, tìm hiểu thành ngữ có từ ngữ thuộc
TNTT dựa trên lí thuyết liên ngành giữa ngôn ngữ học và văn hóa học để làm
nổi bật những đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Khắc Việt. (1978). Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng Việt.
Ngôn ngữ (số 1), tr.1 – 6.
Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương. (2007). Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt,
Nxb Đại học Sư phạm.
Bùi Thanh Lương. (2006). Cách sử dụng thành ngữ mới trên một số ấn phẩm
báo chí. Ngôn ngữ và đời sống (số 9), tr.8 -11.
Cù Đình Tú. (1973). Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ. Ngôn ngữ
(số 1), tr.39 - 43.
Chu Xuân Diên. (1975). Tục ngữ Việt Nam. Hà Nội: Nxb KHXH.
Dương Quảng Hàm.(2005). Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ.
Đinh Thị Khang. (2005). Thành ngữ trong ngôn ngữ độc thoại của nhân vật
“Truyện Kiều”. Nghiên cứu văn học (số 12), tr.45 - 53.
Đỗ Hữu Châu. (1998). Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. Nxb Giáo dục.
Đỗ Hữu Châu. (1999). Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
Đỗ Hữu Châu. (2006). Đại cương ngôn ngữ học (tập 2). Nxb Giáo dục.
Đỗ Quang Lưu. (1996). Cần tôn trọng và giữ gìn tính trong sáng và vẻ đẹp
riêng của tiếng Việt trong việc sử dụng thành ngữ dân gian. Văn học (số
3), tr.63 - 64.
Đỗ Việt Hùng. (2013). Ngữ nghĩa học từ bình diện hệ thống đến hoạt động.
Nxb Đại học Sư phạm.
Hoàng Phê. (2005). Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
Hoàng Văn Hành. (1973). Suy nghĩ về cách dùng thành ngữ qua thơ văn Hồ
Chủ Tịch. Ngôn ngữ (số 3), tr.10 - 19.
Hoàng Văn Hành. (1976). Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt.
Ngôn ngữ (1).
Hoàng Văn Hành. (1979). Về hiện tượng láy trong tiếng Việt. Ngôn ngữ (số 2),
tr.5 -15.
93
Hoàng Văn Hành. (2004). Thành ngữ học tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội.
Hồ Lê. (1976). Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. Nxb Hà Nội.
Hữu Đạt. (2010). Sự hình dung không gian trong nghĩa biểu tượng của thành
ngữ tiếng Việt. Ngôn ngữ (số 3), tr.10 - 19.
Khuất Thị Lan. (2005). Cách thể hiện phương châm về chất trong thành ngữ
tiếng Việt. Ngôn ngữ và đời sống (số 5), tr.8 -11.
Lê Bá Hán.(2004). Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Văn học.
Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán.
(2007). Nhập môn ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục.
Nguyễn Công Đức. (1995). Bình diện cấu trúc hình thái- ngữ nghĩa của thành
ngữ tiếng Việt. Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ Văn. Viện Ngôn ngữ
học Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân. (1986). Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - sự vận dụng.
Ngôn ngữ số 3, tr.1 - 11.
Nguyễn Đức Tồn. (2002). Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác). Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Đức Tồn. (2008). Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận
trong thành ngữ. Ngôn ngữ (số 12), tr.20 – 26.
Nguyễn Hồ Phương Chi. (2011). Thời tiết trong thành ngữ tục ngữ tiếng Anh.
Ngôn ngữ & Đời sống số 1+2
Nguyễn Lân. (1989). Từ điển thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt. Nxb Văn hóa.
Nguyễn Lực, Lương Văn Đang. (2009). Thành ngữ tiếng Việt. Nxb Khoa học
xã hội.
Nguyễn Nhã Bản. (2003). Cuộc sống của thành ngữ, tục ngữ trong kho tàng ca
dao người Việt. Nxb Nghệ An.
Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. (2002). Từ điển thành
ngữ tiếng Việt phổ thông: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
94
Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. (2009). Từ điển thành
ngữ học sinh. Nxb Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Như Ý.(1998). Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Nguyễn Thị Bảo. (2003). Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ
tiếng Việt. Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học. Trường Đại học Sư phạm
Tp HCM.
Nguyễn Thị Hồng Thu. (2003). Về những dạng thức của thành ngữ gốc Hán
trong tiếng Việt và tiếng Nhật. Ngôn ngữ (số 3), tr.6 - 12.
Nguyễn Thị Lương. (2009). Câu tiếng Việt: Nxb Đại học Sư phạm.
Nguyễn Thị Tân. (2003). Nhận diện thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt. Ngôn
ngữ (số 12), tr.16 - 25.
Nguyễn Thị Trung Thành. (2009). Cái khó trong phân biệt thành ngữ, tục ngữ.
Ngôn ngữ và đời sống (số 9), tr.6 - 12.
Nguyễn Thiện Giáp. (1975). “Về khái niệm thành ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ
(số 3), tr.45 - 52.
Nguyễn Thiện Giáp. (2003). Từ vựng học tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
Nguyễn Thúy Khanh. (1995). “Một vài nhận xét về thành ngữ so sánh có tên
gọi động vật”. Ngôn ngữ (số 3), tr.11 - 15.
Nguyễn Văn Chiến. (2004). Tiến tới việc xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt,
Nxb KHXN.
Nguyễn Văn Hằng. (1999). Thành ngữ bốn yếu tố trong tiếng Việt hiện đại
(Những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa). Nxb Khoa học Xã hội.
Nguyễn Văn Mệnh. (1986). Một vài suy nghĩ góp thêm về việc xác định khái
niệm thành ngữ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ (số 3), tr.12 -18.
Nguyễn Văn Ngọc. (1928). Tục-ngữ Phong-dao. Nxb Vĩnh- Hưng- Long Thư
quán.
Nguyễn Văn Tu. (1968). Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.
95
Nguyễn Xuân Hòa. (2008). Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng từ ngữ và thành
ngữ trong giao tiếp. Ngôn ngữ (số 5), tr.74 - 77.
Phạm Quỳnh. (1921). Tục ngữ ca dao. Tạp chí Nam Phong (số 46), tr. 253-
272.
Phan Xuân Thành. (1990). Tính biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt. Nxb Văn
hóa dân gian.
Tiêu Hà Minh. (2008). Đi tìm điển tích thành ngữ. Nxb Thông tấn.
Trần Ngọc Thêm. (2012). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục.
Trần Thị Hồng Hạnh. (2008). Bước đầu khảo sát mối quan hệ giữa ẩn dụ và
cấu trúc hình thức của thành ngữ (trên cứ liệu thành ngữ tiếng Việt). Ngôn
ngữ (số 11), tr.57 - 62.
Triều Nguyên. (2006). Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc.
Ngôn ngữ (số 5), tr.19 - 32.
Trịnh Cẩm Lan. (2009). Biểu trưng ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt (trên
cứ liệu thành ngữ có yếu tố chỉ tên gọi động vật). Ngôn ngữ và đời sống
(số 5), tr.28 – 33.
Trương Đông San. (1985). Thành ngữ so sánh trong tiếng Việt. Ngôn ngữ (số
4), tr.1 - 5.
Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào. (1995). Từ điển thành ngữ và tục
ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa.
PL 1
PHỤ LỤC Phụ lục 1: THÀNH NGỮ ĐỐI CÓ TỪ NGỮ THUỘC TNTT TRONG TIẾNG VIỆT
Thành ngữ Thành ngữ
Chia mưa sẻ nắng Chiếc bách sóng đào Chiếu đất màn sương Chín hạn mười mưa Chín nắng mười mưa Chơi trăng quên đèn Chớp bể mưa nguồn Chửi bóng chửi gió Có trăng quên đèn Coi gió bỏ buồm Con ông sấm cháu ông sét Cười gió cợt trăng Cưỡi sóng vượt gió Cưỡi thuyền vượt sóng
Ăn đàng sóng, nói đàng gió Ăn đất nằm sương Ăn đói mặc rét Ăn gió nằm mưa Ăn gió nằm sương Ăn sấm nói gió Ăn sóng nói gió Ăn sương nằm đất Ăn sương nằm tuyết Ăn tuyết nằm sương Bão đạn mưa bom Bão táp mưa sa Bão táp phong ba Bạt phong long địa Bảy ngày ba bão Bèo dạt mây trôi Bèo hợp mây tan Bèo nổi mây chìm Bể sâu sóng cả Biển dậy sóng dồn Biển lặng gió yên Bụng đói cật rét Buôn mây bán gió Cát dập sóng vùi Cát lấp sóng vùi
STT 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 Dãi gió dầm mưa 46 Dãi gió dầm sương 47 Dãi gió dầu mưa 48 Dãi nắng dầm mưa 49 Dãi nắng dầm sương 50 Dạn gió dày sương 51 Dày gió dạn sương 52 Dầm mưa dãi gió 53 Dầm mưa dãi nắng 54 Dầm sương dãi gió 55 Dầm sương dãi nắng 56 Dầm mưa trải nắng 57 Dầu mưa dãi gió
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 Cắt da cắt thịt Cây cao gió cả Cây muốn lặng, gió chẳng đừng 58 Dầu mưa dãi nắng Chải gió dầm mưa Chém sóng lặn gió 59 Dầu sương dãi nắng 60 Đầu sóng ngọn gió
PL 2
Thành ngữ Thành ngữ
Lựa chiều theo gió Lựa gió bẻ buồm
STT 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 Đi mây về gió Đi mưa về nắng Đội mưa đội gió Đội mưa đội nắng Đông có mây tây có sao Ghen bóng ghen gió Gieo gió gặt bão Gió bấc mưa phùn Gió bể mưa ngàn Gió dập mưa dồn Gió dập sóng dồi Gió dập sóng vùi Gió đục mây vần Gió kép mưa đơn Gió mát trăng thanh Gió táp mưa sa Gió thảm mưa sầu Gió trúc mưa mai Gió tựa hoa kề Góp gió thành bão Gối đất nằm sương Gội gió dầm sương Gội gió tắm mưa Hai sương một nắng Khóc gió than mây Làm gió làm mưa STT 91 92 93 Màn sương chiếu đất 94 Mây bay hạc lánh 95 Mây sầu gió thảm 96 Mây trôi bèo dạt 97 Mây trôi bèo nổi 98 Môi hở răng lạnh 99 Một nắng hai sương 100 Một sương hai nắng 101 Mùa đông tháng giá 102 Mưa bom bão đạn 103 Mưa bom gió đạn 104 Mưa dãi nắng dầu 105 Mưa dầm gió bắc (bấc) 106 Mưa dầm gió buốt 107 Mưa dầm gió lạnh 108 Mưa dầm nắng dội 109 Mưa dầm nắng gội 110 Mưa dập gió dồn 111 Mưa dập gió vùi 112 Mưa dầu nắng dãi 113 Mưa dầu nắng lửa 114 Mưa gào gió rống 115 Mưa gào gió thét 116 Mưa hòa gió thuận
Mưa không đến mặt, nắng không đến đầu Mưa nguồn chớp biển (bể)
87 88 89 90 Làm mưa làm gió Liệu chiều che gió Liệu gió phất cờ Lời nói gió bay 117 118 119 Mưa phùn gió bấc 120 Mưa sa gió táp
PL 3
Thành ngữ Thành ngữ
STT 121 Mưa Sở mây Tần 122 Mưa thuận gió đều 123 Mưa thuận gió hòa 124 Mưa to gió lớn 125 Mượn gió bẻ măng 126 Năm nắng mười mưa 127 Năm nắng mười sương 128 Nằm sương gối đất 129 Nắng dãi mưa dầm 130 Nắng dãi mưa dầu STT 143 Tai bay vạ gió 144 Tắm mưa gội gió 145 Than mây khóc gió 146 Theo gió phất cờ 147 Thuận buồm xuôi gió 148 Thuyền to sóng cả 149 Thuyền xuôi gió ngược 150 Thừa gió bẻ măng 151 Thương gió nhớ mưa 152 Trái gió trở trời
Nắng không ưa, mưa không chịu
131 132 Nắng lửa mưa dầu 133 Nắng táp mưa sa 134 Nhờ gió bẻ măng 135 Nói bóng nói gió 136 Phong ba bão táp 137 Quạt nồng ấp lạnh 138 Sóng cồn gió táp 139 Sóng to gió cả 140 Sóng to gió lớn 141 Sóng yên biển lặng 142 Sợ bóng sợ gió 153 Trái nắng trở trời 154 Tránh nắng cầu rợp 155 Trăng thanh gió mát 156 Trông gió bỏ buồm 157 Trở trời trái gió 158 Trời quang mây tạnh 159 Tuyết chở sương che 160 Vạ gió tai bay 161 Vắng trăng có sao 162 Xem gió bẻ buồm Xem gió bỏ buồm 163
PL 4
Phụ lục 2. THÀNH NGỮ SO SÁNH CÓ TỪ NGỮ THUỘC TNTT
Thành ngữ Thành ngữ
Ăn như gió cuốn Ăn vụng như chớp Bắn như mưa Chạy nhanh như gió Chi chít như sao sa Dâng lên như nước thủy triều Dâng lên như nước vỡ bờ Dâng lên như vũ bão Dấy lên như vũ bão Khóc như mưa Khóc như mưa mưa gió Lạnh như băng Lạnh như đồng Lạnh như sắt Lên như diều được gió Lên như diều gặp gió
STT 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 Như hạn mong mưa Như hạn gặp mưa Như gió (thổi) vào nhà trống Như nước thủy triều Như nước tràn bờ Như nước vỡ bờ Như rồng gặp mây Như sét đánh Như sét đánh ngang tai Như vịt nghe sấm Như vũ bão Nóng như đốt Nóng như hầm Nóng như hòn than Nóng như lò than Nóng như hun Nóng như luộc Nóng như lửa Nóng như lửa đốt Nóng như rang Nóng như thiêu như đốt Nước mắt như mưa Rét như cắt Rét như cắt da cắt thịt Tan như mây khói Trắng như tuyết Thất thểu như cò phải bão Vằng vặc như sao giữa trời Vằng vặc như trăng đêm rằm Ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm Ù ù như hung thần gió Cứu hạn như cứu hỏa
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 Mạnh như vũ bão 18 Mưa như đổ nước 19 Mưa như trút 20 Mưa như trút nước 21 Mưa như xối nước Nắng như dội lửa 22 Nắng như đổ lửa 23 Nắng như thiêu 24 Nắng như thiêu như đốt 25 Ngáy như sấm 26 Nhanh như chớp 27 Nhanh như gió 28 Như buồm gặp gió 29 Như cờ gặp gió 30 Như diều gặp gió 31 Như hạn chờ mưa 32
PL 5
Phụ lục 3: THÀNH NGỮ THƯỜNG CÓ CHỨA TỪ NGỮ THUỘC TNTT
Thành ngữ Thành ngữ
Làm việc cầu phong
STT Cây ngay không sợ sét đánh 1 Chạy trời không khỏi nắng 2 Chạy trời sao khỏi nắng 3 Chuồn chuồn gặp nắng 4 Cò bợ gặp trời mưa 5 Có cứng mới đứng đầu gió 6 Cứt phải trời mưa 7 Vắt đất ra nước thay trời làm mưa 8 9 Dãi dầu mưa nắng 10 Dãi dầu nắng mưa 11 Dạn dày nắng mưa 12 Dạn dày sương gió 13 Dầu dãi gió sương 14 Dầu dãi nắng mưa 15 Diều ăn gió 16 Diều được gió 17 Diều gặp gió 18 Dội nước lạnh 19 Dội sấm sét 20 Đã mưa thì mưa cho khắp 21 Đại hạn gặp mưa rào STT 28 Gió vào nhà trống 29 Hạn hán gặp mưa rào 30 Hồn vía lên mây 31 32 Mưa gió dãi dầu 33 Mưa gió thuận hòa 34 Mưa lâu thấm đất 35 Mưa thời mưa cho khắp 36 Nắng lâu gặp trận mưa rào 37 Ngọn đèn trước gió 38 Nóng chảy mỡ 39 Quá mù ra mưa 40 Quạ ăn dưa, bắt cò phơi nắng 41 42 43 44 45 46 47 48
Sét đánh lưng trời Sét đánh ngang đầu Sét đánh ngang tai Tan ra mây khói Tan tành mây khói Tan theo mây khói Tát nước theo mưa Té nước theo mưa Thiên lôi chỉ (bảo) đâu đánh đấy (đó) Thiên lôi sai đâu đánh đó Tin sét đánh Triều dâng bão tố Trời đánh không chết 49 50 51 52 53
22 Đau đẻ chờ sáng trăng 23 Đèo heo hút gió 24 Đi buôn gặp nạn hồng thủy 25 Gió chiều nào che chiều ấy 26 Gió chiều nào xoay chiều ấy 27 Gió thổi là chổi trời
PL 6
Phụ lục 4: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA THỜI TIẾT
STT Thành ngữ Thành ngữ
1 Cắt da cắt thịt 2 Chi chít như sao sa 3 Chớp bể mưa nguồn 4 Đông có mây tây có sao 5 Gió bấc mưa phùn 6 Gió bể mưa ngàn 7 Gió mát trăng thanh 8 Gió trúc mưa mai 9 Lạnh như băng 10 Lạnh như đồng 11 Lạnh như sắt 12 Mùa đông tháng giá 13 Mưa dầm gió bắc (bấc) 14 Mưa dầm gió buốt 15 Mưa dầm gió lạnh 16 Mưa dầu nắng lửa 17 Mưa nguồn chớp biển (bể) 18 Mưa như đổ nước 19 Mưa như trút 20 Mưa như trút nước 21 Mưa như xối nước 22 Mưa phùn gió bấc 23 Mưa to gió lớn 24 Nắng như dội lửa STT 25 Nắng như đổ lửa 26 Nắng như thiêu 27 Nắng như thiêu như đốt 28 Nóng chảy mỡ 29 Nóng như đốt 30 Nóng như hầm 31 Nóng như hòn than 32 Nóng như lò than 33 Nóng như hun 34 Nóng như luộc 35 Nóng như lửa 36 Nóng như lửa đốt 37 Nóng như rang 38 Nóng như thiêu như đốt 39 Rét như cắt 40 Rét như cắt da cắt thịt 41 Trái gió trở trời 42 Trái nắng trở trời 43 Trở trời trái gió 44 Trăng thanh gió mát 45 Trời quang mây tạnh 46 Vằng vặc như sao giữa trời 47 Vằng vặc như trăng đêm rằm
PL 7
Phụ lục 5: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG
Thành ngữ Thành ngữ
Bão táp mưa sa Bão táp phong ba Bảy ngày ba bão Cát dập sóng vùi Cát lấp sóng vùi
STT 16 Mưa dầm nắng dội 17 Mưa dập gió dồn 18 Mưa dập gió vùi 19 Mưa gào gió rống 20 Mưa gào gió thét 21 Mưa sa gió táp 22 Năm nắng mười mưa 23 Năm nắng mười sương 24 Nắng lửa mưa dầu 25 Nắng táp mưa sa Phong ba bão táp 26 Sóng cồn gió táp 27 Sóng to gió cả 28 Sóng to gió lớn 29 Thuyền xuôi gió ngược 30
STT 1 2 3 4 5 Chín hạn mười mưa 6 Chín nắng mười mưa 7 Gió dập mưa dồn 8 9 Gió dập sóng dồi 10 Gió dập sóng vùi 11 Gió đục mây vần 12 Gió táp mưa sa 13 Hai sương một nắng 14 Một nắng hai sương 15 Một sương hai nắng
Phụ lục 6: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
NHỮNG NGUY HIỂM- THÁCH THỨC
Thành ngữ Thành ngữ
Bão đạn mưa bom Bể sâu sóng cả Cây cao gió cả Có cứng mới đứng đầu gió Đầu sóng ngọn gió STT 6 7 8 9 Đèo heo hút gió Mưa bom bão đạn Mưa bom gió đạn Thuyền to sóng cả
STT 1 2 3 4 5
PL 8
Phụ lục 7: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
CUỘC SỐNG LAM LŨ
STT Thành ngữ Thành ngữ
1 Ăn đất nằm sương Ăn đói mặc rét 2 3 Ăn gió nằm mưa 4 Ăn gió nằm sương 5 Ăn sương nằm đất 6 Ăn sương nằm tuyết 7 Ăn tuyết nằm sương 8 Bèo dạt mây trôi 9 Bèo hợp mây tan 10 Bèo nổi mây chìm 11 Bụng đói cật rét 12 Chải gió dầm mưa 13 Chém sóng lặn gió 14 Chiếc bách sóng đào 15 Chiếu đất màn sương 16 Cưỡi sóng vượt gió 17 Cưỡi thuyền vượt sóng 18 Dãi dầu mưa nắng 19 Dãi dầu nắng mưa 20 Dãi gió dầm mưa 21 Dãi gió dầm sương 22 Dãi gió dầu mưa 23 Dãi nắng dầm mưa 24 Dãi nắng dầm sương 25 Dạn gió dày sương 26 Dạn dày nắng mưa 27 Dạn dày sương gió 28 Dày gió dạn sương STT 29 Dầm mưa dãi gió 30 Dầm mưa dãi nắng 31 Dầm sương dãi gió 32 Dầm sương dãi nắng 33 Dầm mưa trải nắng 34 Dầu dãi gió sương 35 Dầu dãi nắng mưa 36 Dầu mưa dãi gió 37 Dầu mưa dãi nắng 38 Dầu sương dãi nắng 39 Đi mưa về nắng 40 Đội mưa đội gió 41 Đội mưa đội nắng 42 Gối đất nằm sương 43 Gội gió dầm sương 44 Gội gió tắm mưa 45 Màn sương chiếu đất 46 Mây trôi bèo dạt 47 Mây trôi bèo nổi 48 Mưa dầm nắng gội 49 Mưa dầu nắng dãi 50 Mưa gió dãi dầu 51 Mưa dãi nắng dầu 52 Nằm sương gối đất 53 Nắng dãi mưa dầm 54 Nắng dãi mưa dầu Tắm mưa gội gió 55
PL 9
Phụ lục 8: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
TRẠNG THÁI TÂM LÝ
STT Thành ngữ STT
1 Ghen bóng ghen gió 2 Gió thảm mưa sầu 3 Hồn vía lên mây 4 Khóc gió than mây 5 Mây sầu gió thảm 6 Như hạn chờ mưa Thành ngữ 7 Như hạn mong mưa Sợ bóng sợ gió: 8 9 Than mây khóc gió 10 Thương gió nhớ mưa 11 Tránh nắng cầu rợp
Phụ lục 9: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CƠ
HỘI- THUẬN LỢI
STT Thành ngữ STT Thành ngữ
1 Biển lặng gió yên 2 Diều ăn gió 3 Diều được gió 4 Diều gặp gió 5 Lên như diều được gió 6 Lên như diều gặp gió 7 Mưa thuận gió đều 8 Mưa thuận gió hòa 9 Mưa hòa gió thuận 10 Như buồm gặp gió 11 Như cờ gặp gió 12 Như diều gặp gió 13 Mưa gió thuận hòa 14 Sóng yên biển lặng 15 Thuận buồm xuôi gió
Phụ lục 10: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
VẬN XUI
STT Thành ngữ STT Thành ngữ
1 Đi buôn gặp nạn hồng thủy 2 Gió kép mưa đơn 3 Tai bay vạ gió 4 Vạ gió tai bay
PL 10
Phụ lục 11: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
CHO NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI
STT Thành ngữ Thành ngữ
1 Ăn đàng sóng, nói đàng gió 2 Ăn như gió cuốn 3 Ăn vụng như chớp 4 Ăn sấm nói gió 5 Ăn sóng nói gió 6 Buôn mây bán gió 7 Chửi bóng chửi gió 8 Dội sấm sét 9 Gió tựa hoa kề STT 10 Góp gió thành bão 11 Khóc như mưa 12 Khóc như mưa như gió 13 Làm việc cầu phong 14 Mưa Sở mây Tần 15 Ngáy như sấm 16 Nước mắt như mưa 17 Vắt đất ra nước thay trời làm mưa 18 Ù ù như hung thần gió
Phụ lục 12: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
HÀNH VI ỨNG XỬ
STT Thành ngữ STT Thành ngữ
Cây muốn lặng, gió chẳng đừng
Đã mưa thì mưa cho khắp
1 2 Coi gió bỏ buồm 3 Dội nước lạnh 4 5 Gieo gió gặt bão 6 Gió chiều nào che chiều ấy 7 Gió chiều nào xoay chiều ấy 8 Liệu chiều che gió 9 Liệu gió phất cờ 10 Lời nói gió bay 11 Lựa chiều theo gió 12 Lựa gió bẻ buồm 13 Mây bay hạc lánh 14 Môi hở răng lạnh 15 Mưa thời mưa cho khắp 16 Mượn gió bẻ măng 17 Nhờ gió bẻ măng 18 Nói bóng nói gió 19 Quạ ăn dưa, bắt cò phơi nắng 20 Tát nước theo mưa 21 Té nước theo mưa 22 Theo gió phất cờ 23 Thừa gió bẻ măng 24 Trông gió bỏ buồm 25 Xem gió bẻ buồm Xem gió bỏ buồm 26
PL 11
Phụ lục 13: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
TÍNH CÁCH CON NGƯỜI
STT Thành ngữ Thành ngữ
1 Cây ngay không sợ sét đánh 2 Chia mưa sẻ nắng 3 Chơi trăng quên đèn
STT 8 Làm mưa làm gió 9 Quạt nồng ấp lạnh 10 Nắng không ưa, mưa không chịu Thiên lôi chỉ (bảo) đâu đánh đấy (đó)
4 Có trăng quên đèn 5 Con ông sấm cháu ông sét 6 Cười gió cợt trăng 7 Làm gió làm mưa 11 12 Thiên lôi sai đâu đánh đó 13 Trời đánh không chết
Phụ lục 14: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
TÌNH THẾ CUỘC SỐNG
STT Thành ngữ Thành ngữ
1 Chạy trời không khỏi nắng 2 Chạy trời sao khỏi nắng 3 Cứt phải trời mưa 4 Cứu hạn như cứu hỏa 5 Đại hạn gặp mưa rào 6 Đau đẻ chờ sáng trăng 7 Gió vào nhà trống 8 Hạn hán gặp mưa rào STT 15 Như sét đánh 16 Như sét đánh ngang tai 17 Sét đánh lưng trời 18 Sét đánh ngang đầu 19 Sét đánh ngang tai 20 Tan như mây khói 21 Tan ra mây khói 22 Tan tành mây khói
Mưa không đến mặt, nắng không đến đầu
9 10 Nắng lâu gặp trận mưa rào 11 Ngọn đèn trước gió 12 Như hạn gặp mưa 13 Như gió (thổi) vào nhà trống 14 Như rồng gặp mây 23 Tan theo mây khói 24 Tin sét đánh 25 Tuyết chở sương che 26 Vắng trăng có sao 27 Chuồn chuồn gặp nắng
PL 12
Phụ lục 15: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
CHO SỨC MẠNH
STT Thành ngữ STT Thành ngữ
1 Biển dậy sóng dồn 2 Dâng lên như nước thủy triều 3 Dâng lên như nước vỡ bờ 4 Dâng lên như vũ bão 5 Dấy lên như vũ bão 6 Gió thổi là chổi trời 7 Mạnh như vũ bão 8 Như nước thủy triều 9 Như nước tràn bờ 10 Như nước vỡ bờ 11 Như vũ bão 12 Triều dâng bão tố
Phụ lục 16: NHÓM THÀNH NGỮ MANG Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG
CHO TỐC ĐỘ
Thành ngữ Thành ngữ
STT 1 2 3 Bạt phong long địa Bắn như mưa Chạy nhanh như gió STT 4 5 6 Đi mây về gió Nhanh như chớp Nhanh như gió
Phụ lục 17: NHÓM THÀNH NGỮ MANG NHỮNG Ý NGHĨA BIỂU
TRƯNG KHÁC
Thành ngữ STT Thành ngữ
Cò bợ gặp trời mưa
STT 1 2 Mưa lâu thấm đất 3 Như vịt nghe sấm 4 Quá mù ra mưa 5 Trắng như tuyết 6 Thất thểu như cò phải bão 7 Ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm