i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LƢƠNG MAI HIẾU
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NHÀ VĂN NAM CAO
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ
Thái Nguyên – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
Tác giả:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lƣơng Mai Hiếu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................................................................................. 7
4. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................................................................................................... 8
5. Tƣ liệu nghiên cứu ..................................................................................................................................................................... 8
6. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................................................................................. 8
7. Đóng góp của luận văn ........................................................................................................................................................ 9
8. Bố cục của luận văn ............................................................................................................................................................. 10
NỘI DUNG ..................................................................................................................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ VĂN
CHƢƠNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.................................................................... 11
1.1. Nhận diện thành ngữ, tục ngữ ......................................................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm tục ngữ .............................................................................................................................................. 11
1.1.2. Phân biệt thành ngữ, tục ngữ ............................................................................................................... 12
1.1.3. Nội dung và hình thức của tục ngữ ............................................................................................ 15
1.2. Những nhân tố cơ bản tác động tới ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác
của Nam Cao ......................................................................................................................................................................................... 24
1.2.1. Sơ lƣợc về tiểu sử ................................................................................................................................................ 24
1.2.2. Con ngƣời ....................................................................................................................................................................... 25
1.2.3. Môi trƣờng sáng tác ......................................................................................................................................... 27
1.2.4. Quan điểm nghệ thuật và cá tính sáng tạo:...................................................................... 29
Tiểu kết: ................................................................................................................................................................................................ 30
CHƢƠNG 2: CÁCH THỨC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO ...................................................................... 32
2.1. Triết lý về nhân phẩm qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác Nam Cao ...... 32
2.2. Triết lý về nghề văn, nghề giáo qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác
Nam Cao ...................................................................................................................................................................................................... 40
2.3. Phƣơng thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao ..... 45
2.3.1. Vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống .................................. 46
2.3.2. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ ở dạng cải biến, sáng tạo ....................................... 54
2.3.3. Vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ .................................................................................... 62
Tiểu kết:........................................................................................................................................................................................................... 66
CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ CỦA VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO ............................................................................................................... 68
3.1. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong phản ánh nội dung
sáng tác .......................................................................................................................................................................................................... 68
3.2. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong ngôn từ, diễn đạt
của tác phẩm ........................................................................................................................................................................................... 73
3.3. Giá trị biểu cảm của tác phẩm nhờ việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ 75
Tiểu kết: ................................................................................................................................................................................................ 78
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................................................... 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong sáng tác dân gian của mỗi dân tộc, thành ngữ, tục ngữ là loại
hình có mối quan hệ hữu cơ hơn cả với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Thành
ngữ, tục ngữ ra đời từ bao giờ không ai xác định đƣợc, không ai biết có từ
thời kì nào trong lịch sử loài ngƣời, mà chỉ biết nó là “túi trí khôn” chứa đựng
những tri thức dân gian về mọi mặt của đời sống.
Mỗi ngƣời dân Việt Nam khi ý thức xây dựng, bồi đắp cho mình vốn
ngôn ngữ giàu có của tiếng mẹ đẻ thƣờng khi nói, khi viết thích dùng những
ý, những mẫu có sẵn. Những mẫu, những ý ấy đƣợc thế hệ trƣớc tạo ra, những
thế hệ sau sử dụng nhƣ một thói quen và nó trở thành thành ngữ. Trong kho
tàng ngôn ngữ dân tộc, thành ngữ không phải là một cách phát biểu duy nhất
đúng, cũng không phải là cách nói bắt buộc, mà là cách nói thƣờng đƣợc chọn
lựa. Trong khi sử dụng, chúng ta dùng thành ngữ là muốn lời phát ngôn có
chỗ dựa, mong ngƣời nghe hiểu tắt theo lối ƣớc lệ. Tục ngữ lại là những kho
kinh nghiệm của nhân dân về các hiện tƣợng tự nhiên, các quan hệ ứng xử xã
hội. Đó là nơi bộc lộ khá tập trung lối sống, những đặc điểm của tƣ duy, cách
cảm, lối nghĩ và lối nói của dân tộc. Tục ngữ phản ánh các hiện tƣợng tự
nhiên, xã hội, những kinh nghiệm sản xuất, các mối quan hệ xã hội bằng hình
thức nghệ thuật đặc thù. Hàng ngày, khi nghe đƣợc một câu nói hay, có ý
nghĩa nhờ vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách có hiệu quả thì chính ta cảm
thấy tâm đắc và nhƣ khám phá ra một điều gì mới lạ. Điều này khiến cho
thành ngữ, tục ngữ từ lâu đã trở nên quen thuộc, có sức sống lâu bền và khẳng
định đƣợc vị thế của mình trong đời sống tinh thần của nhân dân.
1.2. Trong thƣởng thức văn chƣơng, mỗi khi đọc đƣợc một câu văn, câu
thơ hay, giàu hình ảnh, vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt thành ngữ, tục ngữ
của dân tộc, ta cảm thấy nó có sức biểu cảm cao, cuốn hút ngƣời đọc và dễ đi
vào lòng ngƣời hơn. Thực tế, những nhà văn, nhà thơ lớn từ xƣa đến nay đều
là những ngƣời sử dụng vốn thành ngữ, tục ngữ một cách có hiệu quả trong
sáng tác của mình. Cùng với đó, vấn đề nghiên cứu về cách sử dụng thành
ngữ, tục ngữ trong văn chƣơng từ trƣớc đến nay đƣợc rất nhiều ngƣời quan
tâm, chú ý. Điều này cho thấy mảnh đất thành ngữ, tục ngữ đã đƣợc khai phá
từ rất lâu, nhƣng cho tới nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều điều kỳ diệu.
Văn học dân gian hay văn học viết luôn phản ánh đời sống. Nhờ văn học
mà bức tranh hiện thực nƣớc ta của từng thời kì lịch sử đã hiện ra một cách
chân thực, đầy đủ. Những nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945
đã có công rất lớn trong việc tái hiện một xã hội mà trong đó đầy rẫy những
bất công tàn bạo, vô nhân tính. Bên cạnh Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan..., Nam Cao là ngƣời góp phần đƣa trào lƣu văn học hiện
thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển đến đỉnh cao với những tác
phẩm xuất sắc. Sáng tác của Nam Cao đã vƣợt qua đƣợc những thử thách
khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách càng ngời sáng. Lớp bụi thời gian
càng phủ dày theo tháng năm thì những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ
những tƣ tƣởng nhân văn cao cả, ý nghĩa hiện thực sâu sắc, và vẻ đẹp ngôn
ngữ nghệ thuật điêu luyện, đặc sắc.
Đi sâu tìm hiểu từng câu chữ, từng từ ngữ trong các sáng tác của Nam
Cao, điều dễ nhận thấy tác giả đã vận dụng nhiều câu thành ngữ, tục ngữ. Dấu
ấn ấy đậm in trên từng trang viết của nhà văn. Trong đó, chúng tôi đặc biệt
quan tâm tới việc vận dụng tục ngữ của Nam Cao, có lẽ, bởi tục ngữ mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình thức ngắn gọn, súc tích, cô đọng, đầy đủ nội dung ý nghĩa cần diễn đạt
nên nhà văn đã sử dụng nó nhƣ một chất liệu dân gian trong rất nhiều tác
phẩm của mình.
1.3. Xét thấy sự vận dụng phong phú của thành ngữ, tục ngữ trong các
tác phẩm của Nam Cao là một vấn đề rất thú vị và mang nhiều ý nghĩa nhƣng
lại chƣa đƣợc chú ý đúng mức, ngƣời viết mạnh dạn chọn đề tài “Thành ngữ,
tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao” để nghiên cứu, đi sâu phân
tích, lý giải một cách hệ thống về vấn đề này. Hi vọng việc nghiên cứu sẽ
giúp tác giả luận văn thêm một lần nữa đƣợc thấy cái hay, cái đẹp của thành
ngữ, tục ngữ Việt Nam, cái sắc sảo mà bình dị của văn chƣơng Nam Cao và
mối quan hệ mật thiết giữa thành ngữ, tục ngữ - văn chƣơng trong tiến trình
phát triển của Văn học hiện đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Thành ngữ, tục ngữ là những câu nói đúc rút kinh nghiệm của nhân dân
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống vật chất và tinh thần. Nó chứa đựng quan
niệm của ngƣời bình dân về thế giới tự nhiên và xã hội. Thông qua ngôn từ
đƣợc chọn lọc gọt rũa, thành ngữ, tục ngữ phản ánh tri thức nhiều mặt của đời
sống xã hội. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thành ngữ, tục ngữ vẫn
khẳng định đƣợc giá trị của mình và có sự vận động rất linh hoạt. Nó là một
trong những thể loại phản ánh tri thức dân gian thông qua tƣ duy của ngƣời
Việt hữu hiệu nhất.
Thành ngữ, tục ngữ là lời hay ý đẹp của nhân dân trƣờng tồn với thời
gian. Nó đƣợc hiện diện trong chuỗi lời nói và trong văn bản. Tuy nhiên,
trong thời đại ngày nay, hình thức tồn tại trong chuỗi lời nói của tục ngữ bị
thu hẹp dần, và việc sử dụng cũng dựa theo hoàn cảnh, môi trƣờng nhất định.
Cụ thể, tri thức thành ngữ, tục ngữ về văn hóa nông nghiệp chỉ còn đƣợc vận
dụng ở môi trƣờng nông thôn, giữa những ngƣời nông dân với nhau. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiên, hình thức tồn tại bằng văn bản của thành ngữ, tục ngữ lại đƣợc phát
triển rộng rãi, nhƣ: thành ngữ, tục ngữ với báo chí; thành ngữ, tục ngữ với văn
chƣơng; và thành ngữ, tục ngữ xuất hiện khá phổ biến trên trò chơi truyền
hình trong những chƣơng trình gần đây.
Lâu nay, nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ luôn là vấn đề thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, và đã thu đƣợc nhiều kết quả đáng ghi
nhận. Song, tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn
chƣơng vẫn là những khía cạnh mới rất đáng đƣợc khám phá. Việc sử dụng
thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm văn chƣơng góp phần tạo nên những
sắc màu mới trong bức tranh đa sắc, đa diện của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Đó cũng là cách để các nhà văn giữ gìn, bảo tồn tinh hoa tục ngữ một
cách hữu hiệu nhất.
Mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ với văn chƣơng, báo chí đã đƣợc
nhiều tác giả đề cập đến, và chủ yếu là các chuyên khảo, bài viết trên báo:
Trên “Tạp chí Văn học” thời điểm cuối những năm 60 của thế kỷ XX có
một diễn đàn bàn về Văn học dân gian hiện đại của các nhà nghiên cứu Văn
học dân gian: Đinh Gia Khánh, Vũ Ngọc Phan, Trần Gia Linh… Trong diễn
đàn đã có ý kiến lập luận về tục ngữ: “Tục ngữ chỉ là một trong những thể
loại chứng minh sức sống của Văn học dân gian trong thời đại mới”[32; tr.
34]. Lời nhận định này đã cho thấy sức sống trƣờng tồn của văn học dân gian
hiện đại nói chung và của thể loại tục ngữ nói riêng.
Một trong những khía cạnh nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ đó chính là
nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của các nhà
văn, nhà thơ - các tác giả lớn. Từ văn học Trung đại, Nguyễn Du đã ý thức
vận dụng nguồn tài nguyên dân gian phong phú này trong kiệt tác Truyện
Kiều, để làm nên một hồn thơ đậm chất dân gian, gần gũi với đời thƣờng. Về
nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1960, tác giả Lê Anh Trà đã có bài Cách viết của Hồ Chủ Tịch [50]. Trong
bài viết, tác giả đã có nhận định về việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ của
Ngƣời trong hành văn. Nhờ cách vận dụng sáng tạo này mà nhiều câu nói của
Hồ Chủ Tịch đã in vào trí nhớ của nhân dân nhƣ những câu tục ngữ, và thực
sự, nó đã trở thành tục ngữ trong thời hiện đại của dân tộc, nhƣ:
- Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
- Nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần...
Trong các bài viết Ngôn ngữ của Hồ Chủ Tịch qua những lời kêu gọi [5],
Bác Hồ với nguồn tục ngữ của dân tộc [6], Tìm hiểu cách dùng tục ngữ trong
những bài viết và bài nói của Hồ Chủ Tịch [18], các tác giả đều nghiên cứu và
đƣa ra nhận xét: Hồ Chủ Tịch vận dụng tục ngữ trong hành văn của mình rất
linh hoạt và hiệu quả. Ngay cả trong văn chính luận – thể loại có thể xem là
khô khan, mực thƣớc, mà Ngƣời vẫn khéo léo vận dụng thành ngữ, tục ngữ để
chuyển tải tƣ tƣởng, nội dung chính trị, làm cho sự việc thành dễ hiểu, dễ tiếp
thu, và trở nên sâu sắc hơn. Chẳng hạn, nói về việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Bác viết:
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như làm ruộng. Trước phải khó nhọc
cày bừa, chân bùn tay lấm, làm cho lúa tốt thì mới có gạo ăn.
Tác giả Cù Đình Tú, trong bài viết Hồ Chủ Tịch dùng thành ngữ, tục ngữ
[52] đã nhận định: trong cách viết, cách nói, Hồ Chủ Tịch vừa dùng nguyên
vẹn các thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian nhƣ: yêu nước thương nòi,
gan vàng dạ sắt, một lòng một dạ..., Ngƣời thƣờng sáng tạo đƣa vào một số
yếu tố để nhấn mạnh vào một phƣơng diện nào đó của sự vật, của tình thế,
của quan hệ. Hồ Chủ Tịch đã có những cách “sửa” thành ngữ, tục ngữ, “lẩy”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành ngữ, tục ngữ rất tài tình:
Sản xuất mà không tiết kiệm khác nào nhƣ gió vào nhà trống.
Việc nghiên cứu cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của
Nguyễn Trãi (Bùi Văn Nguyên - 1980) [38], Phan Châu Trinh (Trần Hải
Yến - 1998) [56], Hồ Xuân Hƣơng (Trƣơng Xuân Tiếu - 1999) [47]... cũng
đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Qua đó, các tác giả bài viết khẳng định,
việc vận dụng nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ của các nhà văn, nhà thơ đều
nhằm mục đích để lời văn, câu thơ thêm biểu cảm, giàu hình tƣợng, cảm xúc;
kế thừa, phát triển và lƣu giữ bản sắc dân tộc.
Thành ngữ, tục ngữ là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngƣời quan tâm.
Thành quả của nó đã và đang đƣợc công nhận một cách xác đáng. Trong thực
tiễn, thành ngữ, tục ngữ đƣợc vận dụng trên báo chí, truyền hình, và đã đƣợc
tác giả Trần Thị Trâm nhắc đến trong chuyên luận của mình [51; tr.353 – 364].
Để tạo hiệu quả thẩm mỹ, chuyển tải thông tin: nhanh nhất, sâu sắc nhất, giàu
giá trị biểu cảm, ngắn gọn, dễ nhớ để khảm vào trí nhớ bạn đọc, bất kì nhà
báo nào cũng luôn có ý thức sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong quá trình sáng
tạo tác phẩm. Nhờ những ƣu thế đó của thành ngữ, tục ngữ đã đáp ứng đƣợc
yêu cầu của báo chí hiện đại, vì thế, thành ngữ, tục ngữ cũng chứng tỏ đƣợc
sức sống vƣợt thời gian.
Chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong truyện đồng thoại của Tô Hoài
(Lê Nhật Ký – 2011) [25], đã quan tâm tới vai trò của thành ngữ, tục ngữ qua
việc hình thành tứ truyện; miêu tả, nhận xét về nhân vật. Việc vận dụng thành
ngữ, tục ngữ khiến cho truyện đồng thoại trở nên gần gũi với lời ăn tiếng nói
hàng ngày. Nó tạo nên sự đồng cảm của của độc giả đối với nhà văn Tô Hoài
khi tìm thấy bóng dáng kinh nghiệm, tri thức của mình đƣợc vận dụng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác phẩm.
Dƣơng Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở đã có công trình chuyên khảo
Tìm hiểu cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam
(2012) khá ấn tƣợng. Trong công trình này, các tác giả đã khảo sát đƣợc một
lƣợng thành ngữ, tục ngữ đồ sộ, có sự phân loại chi tiết, cụ thể. Và có thể coi
đây là một chuyên khảo có giá trị nhất định khi tìm hiều cách vận dụng thành
ngữ, tục ngữ trong văn xuôi hiện đại.
Với chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang
Sáng (2012), tác giả Lâm Thị Thiên Lan quan tâm tới việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ phù hợp với ngữ cảnh, đối tƣợng; phát huy tối đa tính biểu cảm, tính
hình tƣợng của thành ngữ; gắn bó với kho tàng đạo lý và kinh nghiệm ứng xử
dân gian Việt Nam. Tác giả cũng đã quan tâm tới các phƣơng thức vận dụng
thành ngữ, tục ngữ đã đƣợc dùng nhƣ công cụ đắc dụng, để tìm hiểu sắc thái
độc đáo cho ngôn ngữ văn chƣơng trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng.
Nhƣ vậy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chƣơng,
báo chí hiện đại đã đƣợc quan tâm, song chƣa đƣợc đề cập đến một cách đầy
đủ, cụ thể và toàn diện ở mọi khía cạnh nội dung của nó. Việc nghiên cứu
cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao cũng là một đề
tài hấp dẫn, hứa hẹn những điều mới mẻ. Vì vậy, với những thông tin có tính
chất gợi mở ở thành quả của những công trình nêu trên, hi vọng đề tài này
mang đến một cái nhìn cụ thể về “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của
nhà văn Nam Cao”.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà
văn Nam Cao ”, chúng tôi hƣớng tới mục đích:
- Khảo sát và rút ra nhận xét về việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Qua đó góp phần khẳng định sức sống
của những câu thành ngữ, tục ngữ, và sự đóng góp to lớn của Nam Cao làm
cho những câu tục ngữ ấy sống mãi.
- Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hƣớng của đề tài nhằm lƣu giữ,
bảo tồn thành ngữ, tục ngữ trong thời đại ngày nay; đặc biệt là tục ngữ với vai
trò là chất liệu của văn học.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những câu thành ngữ, tục ngữ
trong các tác phẩm văn xuôi của Nam Cao.
5. Tƣ liệu nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng nguồn tƣ liệu là bộ
sách: “Nam Cao toàn tập”. Đây là bộ sách đã thống kê đƣợc khá đầy đủ các
tác phẩm của Nam Cao.
Tập I và II gồm những truyện ngắn Nam Cao viết trƣớc Cách mạng
tháng Tám và truyện dài “Người hàng xóm”.
Tập III gồm những truyện viết sau cách mạng cùng tiểu thuyết “Sống mòn”.
Tuy nhiên, thực hiện luận văn này, chúng tôi căn cứ trên tƣ liệu khảo sát
chính là cuốn Kho tàng tục ngữ Việt Nam do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ
biên, in năm 2002, Nxb Văn hóa thông tin. Công trình này gồm 16.098 câu
tục ngữ đƣợc tập hợp từ 52 đầu sách khác nhau. Cuốn sách đã chú giải một số
lƣợng lớn những câu tục ngữ và đƣợc giới thiệu theo chủ đề giúp ngƣời đọc
có thể tra cứu một cách thuận lợi. Chúng tôi coi đây là cuốn sách công cụ để
phân biệt và nhận diện thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm văn xuôi của
Nam Cao.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Dựa trên những nghiên cứu lý
thuyết về thành ngữ, tục ngữ và đặc điểm khu biệt giữa chúng để làm cơ sở lý
luận cho đề tài và làm cơ sở để luận giải những vấn đề đề tài đề cập tới.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Để việc phân tích so sánh
đánh giá có căn cứ xác thực khi cần thiết, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống
kê để định lƣợng các câu thành ngữ, tục ngữ trong phạm vi sử dụng.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Các phƣơng pháp phân tích so sánh sẽ
đƣợc sử dụng để đối chiếu các kiểu vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong luận
văn. Ngoài ra, so sánh còn đƣợc sử dụng khi chúng tôi đƣa ra cái nhìn soi
chiếu giữa việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ của Nam Cao và các tác
giả khác.
- Phương pháp phân loại: Chúng tôi tiến hành theo phƣơng pháp phân
loại để phân biệt các kiểu vận dụng một cách hệ thống, ngoài ra còn dùng
phƣơng pháp này để phân loại bảng kết quả khảo sát thành ngữ, tục ngữ trong
sáng tác của nhà văn Nam Cao.
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài của chúng tôi mong muốn định lƣợng đƣợc cụ thể số lƣợng thành
ngữ, tục ngữ đƣợc Nam Cao vận dụng trong sáng tác của mình, để nhằm bổ
sung hƣớng khai thác, nghiên cứu về hiệu quả của cách sử dụng này. Qua đó,
chúng tôi muốn khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa thành ngữ, tục ngữ
và văn chƣơng, bởi thành ngữ, tục ngữ đã và đang là chất liệu dân gian dồi
dào cho văn học hiện đại. Nghiên cứu, vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo
hƣớng này cũng là cách bảo tồn tài nguyên thành ngữ, tục ngữ một cách hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quả nhất.
8. Bố cục của luận văn
Phần một: Mở đầu
Phần hai: Nội dung
Chương 1: Mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ và văn chƣơng – Một số
vấn đề lý luận chung
Chương 2: Cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của
Nam Cao
Chương 3: Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác
của Nam Cao
Phần ba: Kết luận
Tài liệu tham khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phụ lục
NỘI DUNG CHƢƠNG 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ VĂN CHƢƠNG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Nhận diện thành ngữ, tục ngữ
1.1.1. Khái niệm tục ngữ
Cho đến nay, có nhiều khái niệm về tục ngữ dựa trên những tiêu chí khác
nhau. Điều này chứng tỏ, tục ngữ là một vấn đề sớm đƣợc các nhà nghiên cứu
văn học dân gian quan tâm, nghiên cứu.
Theo Từ điển Thuật ngữ Văn học: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân
gian mà chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức
những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền”
[16, tr.377].
GS Lê Chí Quế đã nhận xét tục ngữ trên phƣơng diện phản ánh và tính
đặc thù của văn học: “Tục ngữ là những câu ngắn gọn có ý nghĩa hàm súc, do
nhân dân lao động sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó phản ánh đúc
kết mọi mặt tri thức đời sống của nhân dân thông qua những hình tượng nghệ
thuật độc đáo” [41, tr.239]. Đây quả thực là nhận xét rất hợp lý về tục ngữ.
Trong cuốn Tục ngữ ca dao, PGS. PTS Mã Giang Lân cũng có một góc
nhìn tƣơng tự. Ông nhận định tục ngữ là: “Lời ăn tiếng nói của nhân dân đã
được đúc kết lại dưới những hình thức tinh giản mang nội dung súc tích. Tục
ngữ thiên về biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã
hội và con người” [28, tr.3]. Tác giả khẳng định: “Tục ngữ cũng biểu hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của cuộc sống.
Tục ngữ thể hiện một phần quan trọng của tư liệu khoa học dân gian và triết
lý dân gian” [28, tr.3].
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Hoàng Tiến Tựu
định nghĩa về tục ngữ nhƣ sau: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có
chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét
dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ
nhớ, dễ truyền” [53, tr.129].
Những định nghĩa về tục ngữ càng về sau càng đầy đủ, nêu lên đƣợc tính
chất vốn có của thể loại. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu văn học dân
gian đã khám phá ra nhiều đặc trƣng mang tính khu biệt, từ đó cho thấy cái
nhìn đúng đắn về tục ngữ. Ta có thể hiểu: tục ngữ như là một cuốn sách mà
thế hệ đi trước để lại cho ngày hôm nay và mai sau. Trong đó kết đọng những
tinh hoa về cách ứng xử, kinh nghiệm đời sống lao động sản xuất của
nhân dân.
1.1.2. Phân biệt thành ngữ, tục ngữ
Thành ngữ và tục ngữ có quan hệ với nhau rất chặt chẽ, vì vậy trong hoạt
động nghiên cứu, sƣu tập trƣớc đây có xu hƣớng gộp chung, không có sự
phân biệt giữa chúng. Tuy nhiên, cách đây gần bảy thập kỷ, vấn đề phân biệt
thành ngữ và tục ngữ đã đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, nhất là các
nhà nghiên cứu văn học dân gian quan tâm trên nhiều tiêu chí, nhiều bình diện
khác nhau.
Đầu tiên, trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” (1943), GS Dƣơng
Quảng Hàm nhận định: “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc
khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì. Còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta
tiện dùng mà diễn tả một ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho màu mè” [15,
tr.15]. Nhƣ vậy, theo ông, thành ngữ chỉ là một phƣơng tiện để diễn đạt ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tƣởng của ngƣời nói chứ không mang đầy đủ ý nghĩa nội dung nhƣ tục ngữ.
Đồng tình với nhận định trên, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng quan
niệm: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, kinh
nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ
là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen
dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn” [39, tr.31].
Theo tác giả, trong tục ngữ còn có cả thành ngữ. Hay có thể hiểu nôm na,
thành ngữ là hoa, tục ngữ là quả.
Trên Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1972, bài viết: “Về ranh giới giữa
thành ngữ và tục ngữ” của tác giả Nguyễn Văn Mệnh đã dựa trên hai tiêu chí
nội dung và hình thức để đƣa ra kết luận: “Có thể nói nội dung của thành ngữ
mang tính chất hiện tượng, còn nội dung tục ngữ nói chung là mang tính chất
quy luật. Về hình thức ngữ pháp, nói chung mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ,
chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu
là một câu” [36, tr.13]. Đây đƣợc coi là một trong những nhận định dễ tiếp
nhận và có giá trị khu biệt.
Xét về chức năng ngữ pháp và nội dung, ý nghĩa, thì dù ngắn, mỗi câu
tục ngữ đều diễn tả một ý (một phán đoán) còn thành ngữ, dù dài cũng chỉ
diễn đạt một khái niệm tƣơng đƣơng với một từ hoặc một cụm từ. Ví dụ: khái
niệm “hiền” có các thành ngữ: hiền như bụt, hiền như đất, hiền như đất nặn...
Có thể nói, các ý kiến phân biệt thành ngữ không có sự thống nhất hoàn
toàn. Tác giả Dƣơng Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan đề cập đến cách phân biệt
thành ngữ và tục ngữ bằng hình thức mà không chú ý nội dung. Ngƣợc lại, tác
giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri, Hồ Lê
lại lấy nội dung làm cơ sở vạch ra ranh giới. Tác giả Đái Xuân Ninh, Cù Đình
Tú đi sâu vào sử dụng chức năng làm tiêu chí khu biệt thành ngữ và tục ngữ
mà chƣa đề cập đến nét trung gian giữa chúng. Mỗi tác giả đều có phân tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và lý giải riêng mang tính chất gợi mở rất nhiều cho chúng tôi – những ngƣời
đi sau nghiên cứu tục ngữ. Nhờ đó, chúng tôi có đƣợc cái nhìn tổng hợp để
phân biệt thành ngữ và tục ngữ:
Thứ nhất, về mặt nghĩa: Tục ngữ là những lời quy châm, những câu
khuyên răn về đối nhân xử thế, là những bài học kinh nghiệm về lao động sản
xuất, về nhận thức giới tự nhiên và xã hội, về đạo đức thực tiễn của nhân dân
bằng những câu súc tích ngắn gọn. Tục ngữ là những phán đoán. Thành ngữ
là sự miêu tả những hiện tƣợng tự nhiên và xã hội, là những khái niệm, những
đơn vị nghĩa có sẵn, đƣợc cô đúc chặt chẽ. Nghĩa của thành ngữ thƣờng
không thể giải thích đƣợc một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên
nó. Nó thể hiện một lối nói mang tính biểu trƣng, thƣờng là từ những từ ngữ
cụ thể kết hợp với nhau để mang một nghĩa ẩn dụ mới. Thành ngữ có nghĩa
bóng bẩy.
Thứ hai, về mặt kết cấu và chức năng ngữ pháp: Thành ngữ là cụm từ, tổ
hợp từ cố định đã quen dùng, là mệnh đề nằm trong câu. Kết cấu của thành
ngữ nằm ở bậc trên từ và dƣới câu. Vì vậy, mỗi thành ngữ ít nhất phải có ba
âm tiết trở lên. Trong tục ngữ có cả thành ngữ. Có khi thành ngữ đƣợc dùng
tƣơng đƣơng nhƣ một từ. Thành ngữ có chức năng định danh. Tục ngữ là một
câu có ý trọn vẹn và hoàn chỉnh, có chức năng thông báo, và là những phát
ngôn nhằm đƣa ra một nhận định, một tổng kết mang tính kinh nghiệm có từ
hiện thực.
Thành ngữ và tục ngữ có phần giống nhau về hình thức cấu tạo. Chúng
đều là những tổ hợp từ cố định, kết hợp với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ,
có vần điệu hoặc đối ứng (về số lƣợng âm tiết). Nhƣng thành ngữ và tục ngữ
hoàn toàn khác nhau về nội dung ngữ nghĩa và chức năng sử dụng nhƣ đã
trình bày ở trên.
Về cơ bản, thành ngữ là hiện tƣợng ngôn ngữ, là công cụ giao tế chung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của cộng đồng dân tộc; thuộc phạm trù ngôn ngữ học. Còn tục ngữ là một
hiện tƣợng ý thức xã hội, phản ánh lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân
dân, lối nói của dân tộc. Tục ngữ là một thể loại của văn học dân gian. Do đó,
điều dễ nhận thấy là ngƣời ta quen gọi thành ngữ tiếng Việt, gọi tục ngữ Việt
Nam, chứ không có cách gọi ngƣợc lại.
1.1.3. Nội dung và hình thức của tục ngữ
1.1.3.1. Nội dung của tục ngữ
Nhắc đến tục ngữ là nói tới kinh nghiệm. Những kinh nghiệm ấy đƣợc
coi nhƣ tri thức của dân gian. Nó là tri thức phi học đƣờng. Những tri thức ấy
bao gồm: tri thức ứng xử với tự nhiên và tri thức ứng xử với xã hội. Đây cũng
chính là nội dung mà tục ngữ chứa đựng.
Quá trình hoạt động lâu dài nhằm thích ứng với môi trƣờng tự nhiên và
xã hội đã hình thành nên những tri thức trong tục ngữ. Những tri thức của tục
ngữ đƣợc hình thành theo phƣơng thức: quan sát cộng trải nghiệm bằng tri
thức. Tri thức dân gian ấy đƣợc lƣu truyền nơi cửa miệng ngƣời đời từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Cứ nhƣ vậy, con ngƣời quan sát, chiêm nghiệm và rút
ra những đúc kết mang tính kinh nghiệm và trở thành bài học cho bao ngƣời,
bao đời.
Nội dung đầu tiên của tục ngữ là tri thức ứng xử với tự nhiên. Tức là nói
về thiên nhiên, thời tiết và kinh nghiệm lao động (kinh nghiệm trồng trọt và
chăn nuôi). Tri thức này phản ánh mối quan hệ của con ngƣời với thế giới tự
nhiên. Con ngƣời đã biết quan sát, khám phá tự nhiên để ứng dụng vào lao
động sản xuất tạo hiệu quả cao. Biểu hiện đó đƣợc thể hiện trong nội dung
của rất nhiều câu tục ngữ nói về thời tiết, kinh nghiệm trong canh tác nông
nghiệp. Trong trồng trọt, ngƣời dân lao động đƣa ra "hệ thống kinh nghiệm"
từ khâu làm đất đến gieo mạ, chăm sóc và thu hoạch. Trong chăn nuôi, cách
nuôi nấng chăm sóc, cách thu hoạch, tất cả đều chi tiết rõ ràng. Tục ngữ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguồn tài liệu quý giá, là "kĩ sư" tƣ vấn cho nhà nông trong quá trình sản xuất
nông nghiệp. Bên cạnh kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, còn có những câu
tục ngữ nói về tập quán canh tác của ngƣời Việt. Tập quán trồng khoai, trồng
đậu, trồng cà, trồng lúa của nền văn minh nông nghiệp lâu đời đã đƣợc tục
ngữ phản ánh và trở thành những kinh nghiệm quý báu cho khoa học nông
nghiệp sau này.
Tục ngữ phản ánh tri thức ứng xử xã hội đƣợc hình thành trong quá trình
sinh sống, giao tiếp và ứng xử giữa con ngƣời với nhau; nhân dân đã đúc kết
rất nhiều câu tục ngữ nói về kinh nghiệm ứng xử trong gia đình và ngoài xã
hội. Trong gia đình có thể kể đến các mối quan hệ ứng xử giữa: cha mẹ - con
cái; vợ - chồng; anh chị em ruột... Tục ngữ không chỉ đƣa ra những hiện
tƣợng mà còn đƣa ra những kinh nghiệm ứng xử khéo léo, tinh tế để tạo mối
hòa hảo tốt đẹp giữa các đối tƣợng trong mối quan hệ này. Cũng nhƣ vậy,
hàng loạt các câu tục ngữ xuất hiện đề cập tới mối quan hệ ứng xử giữa hàng
xóm láng giềng với nhau; bạn bè đồng nghiệp; tập thể - cá nhân...; giữa ngƣời
làm ơn - kẻ chịu ơn; ngƣời nói - ngƣời nghe; và đề cập tới các kinh nghiệm
trong giao tiếp, thái độ khen - chê...
Tục ngữ còn ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội, phản ánh truyền
thống tƣ tƣởng và đạo đức của nhân dân lao động.
Tục ngữ ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội ghi lại một vài kí ức về
thời kỳ lịch sử xa xƣa của dân tộc: “Ăn lông ở lỗ”, “Chồng chung vợ chạ”,
“Con dại cái mang”...; ghi lại một số hiện tƣợng và nhân vật lịch sử cá biệt,
một số biến đổi về kinh tế, chính trị ảnh hƣởng đến đời sống của nhân dân:
“Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, “Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong”...
Đại bộ phận các câu tục ngữ ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội ở thời kỳ
phong kiến. Đó là những tập tục sinh hoạt hàng ngày về mọi mặt nhƣ ăn, ở,
mặc, cƣới xin, ma chay, hội hè đình đám: “Tương cà Gia Bản”, “Dưa La, cà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”, “Đói cho
chết, ngày tết cũng lo”, “Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên”, “Cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy”, “Gái hơn hai, trai hơn một”... Đó còn là những câu tục ngữ
ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của xã thôn: “Phép vua thua
lệ làng”, “Sống lâu lên lão làng”, “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó
bếp”...; phản ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân tộc của nhân dân
ta: “Một người làm quan cả họ được nhờ”, “Thế gian một vợ một chồng,
chẳng như vua bếp hai ông một bà”, “Thấy người sang bắt quàng làm họ”...;
phản ánh đời sống của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác nhau (chủ
yếu là của nhân dân lao động) và tình hình đấu tranh giai cấp: “Bần cùng sinh
đạo tặc”, “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, “Cá lớn
nuốt cá bé”, “Con giun xéo lắm cũng oằn”... Tục ngữ ghi nhận các hiện
tƣợng lịch sử xã hội đƣợc hình thành trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên qua quá trình lƣu truyền về sau, nội dung lịch sử của nhiều câu
thƣờng mờ nhạt đi. Nhân dân sử dụng những câu này xem nhƣ một lời sẵn có,
súc tích, có hình ảnh để phát biểu một nhận xét, một điều suy nghĩ, một phán
đoán này hay khác tƣơng ứng với hình ảnh đó.
Tục ngữ phản ánh truyền thống tƣ tƣởng và đạo đức của nhân dân lao
động Việt Nam với những câu tục ngữ thể hiện tƣ tƣởng nhân đạo chủ nghĩa
chân chính của nhân dân lao động. Tƣ tƣởng nhân đạo này trƣớc hết thể hiện
ở sự quý trọng con ngƣời: “Người ta là hoa đất”, “Người như hoa ở đâu
thơm đó”...; thể hiện lòng tự hào của nhân dân ta đối với đất nƣớc giàu đẹp và
con ngƣời tài hoa: “Chè Vân Thái, gái Tiên Lữ”, “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì
phố Hiến”, “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, chẳng lịch cũng thể là người
Tràng An”... Tục ngữ phản ánh khá đầy đủ những đức tính của nhân dân lao
động nhƣ cần cù, kiên trì, tinh thần lạc quan, óc thực tế, lòng chung thủy, nết
thật thà...: “Còn nước còn tát”, “Có thực mới vực được đạo”, “Một con ngựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đau cả tàu bỏ cỏ”, “Thật thà là cha quỷ quái”, “Thật thà như đếm cá con”...
Nhiều câu tục ngữ thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhƣợng của nhân
dân lao động chống áp bức bóc lột: “Được làm vua, thua làm giặc”, “Bà tiền
bà thóc bà cóc gì ai”... Điều kiện sống và lao động trong xã hội cũ đã làm nảy
ra một cách tự phát trong nhân dân lao động Việt Nam những yếu tố của tƣ
tƣởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa: “Ăn cho đều, kêu cho sòng”, “Hơn nhau
tấm áo manh quần, thả ra mình trần ai cũng như ai”...
Khi nói tục ngữ, dùng tục ngữ thƣờng ngƣời ta muốn nhấn mạnh đến
phần nghĩa bóng núp dƣới vỏ bọc ngôn từ của nó. Đó là cái chiều sâu hàm ẩn
trí tuệ của tục ngữ. Tục ngữ vì thế mà diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh
nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử - xã hội của nhân dân.
Nội dung của tục ngữ muốn đƣợc thể hiện để tạo đƣợc ấn tƣợng và hiệu
quả, điều đó phụ thuộc rất lớn vào phƣơng diện hình thức. Điều đặc biệt làm
nên thể loại tục ngữ chính là sự hài hòa giữa nội dung và hình thức
1.1.3.2. Hình thức của tục ngữ
* Hình tượng
Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành
những phƣơng châm, chân lý. Nó thể hiện bằng ngôn từ qua lối tƣ duy và lối
nói hình tƣợng. Đặc điểm này khiến cho tục ngữ ngắn gọn, cô đọng mà không
trừu tƣợng, khô khan, khó hiểu. Phần lớn tục ngữ đều có hình tƣợng và sự
việc cụ thể, sinh động.
Hình tƣợng trong tục ngữ là hình tƣợng ngôn ngữ, đƣợc xây dựng từ
nhiều biện pháp nghệ thuật cụ thể khác nhau, nhƣ: miêu tả trực tiếp so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, nhân cách hóa, tỉ dụ...
Ví dụ:
So sánh: Một mẹ già bằng ba then cửa
Tỉ dụ: Gái có chồng như gông đeo cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Miêu tả trực tiếp: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống
Ẩn dụ: Chó chê mèo lắm lông ; Thả con săn sắt, bắt con cá rô
Nhân cách hóa: Cá mè đè cá chép
Ngoa dụ: Một nghề thì sống, đống nghề thì chết ; Tấc đất tấc vàng
* Vần, điệu và sự hoà đối
Phần lớn tục ngữ Việt đều có vần và cách gieo vần rất phong phú, đa
dạng. Vần trong tục ngữ khá đa dạng. Vần thực hiện chức năng giữ nhịp cho
câu tục ngữ và góp phần làm nổi bật những từ có ý nghĩa quan trọng (nhãn tự)
trong câu. Nhƣng không chỉ có vậy, chức năng nghệ thuật của vần ở chỗ nó
tạo âm hƣởng mƣợt mà cho câu tục ngữ, góp phần tạo nên tính chất xuôi tai,
thuận miệng, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ vận dụng một cách tự nhiên trong giao tiếp.
Tục ngữ có thể sử dụng tất cả các vần mà thơ ca hiện có, đặc biệt là vần bằng,
vần trắc: “Ăn chắc mặc bền”, “Miệng ông cai, vai đầy tớ”…
Cụ thể, tục ngữ bao gồm: vần liền và vần cách, vần trắc và vần bằng.
Vần liền: tức là hai tiếng hiệp vần đi liền nhau.
- Sểnh nhà ra thất nghiệp
- Nắng chóng trưa, mưa chóng tối
- Giỏ nhà ai, quai nhà nấy
Vần cách: hai tiếng hiệp vần đứng cách nhau một từ, hoặc hai, ba từ.
- Trẻ lên ba cả nhà học nói
- Người sống hơn đống vàng
- Một miếng khi đói bằng một gói khi no
Vần giống nhƣ chất keo, dính kết các từ lại với nhau, góp phần làm cho
tục ngữ bền vững, khó bị tan vỡ, biến đổi. Tuy vậy, vần cũng chỉ là yếu tố hỗ
trợ, còn yếu tố chủ yếu quyết định sự bền vững của tục ngữ là ý tứ, và nhịp
điệu. Vì thế, nhiều câu tục ngữ không có vần nhƣng vẫn tồn tại lâu dài, vững
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chắc trong nhân dân. Ví dụ: “Tre già măng mọc”, “Tức nước vỡ bờ”...
Nhịp điệu của câu tục ngữ thể hiện ở những điểm ngừng giọng khi nói.
Nó là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong tục ngữ. Cách tổ chức nhịp điệu
của tục ngữ Việt rất đa dạng. Phần nhiều sự tổ chức nhịp điệu và sự tổ chức ý
tứ trong tục ngữ ăn khớp, tƣơng ứng với nhau, tạo ra sự thống nhất hài hòa
trong mỗi câu tục ngữ. Ngắt nhịp trong tục ngữ không chỉ có tác dụng ngừng,
nghỉ để lấy hơi, lấy giọng, mà còn có tác dụng nhấn mạnh nội dung, ý nghĩa
Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho
tục ngữ. Hình thức đối trong tục ngữ Việt là: đối lời, đối ý, đối cân, đối lệch...
- Được làm vua - thua làm giặc (đối cân)
- Chó treo - mèo đậy (đối cân cả lời và ý)
- Đẹp như tiên - không tiền cũng ế (đối lệch)
Tục ngữ là một lối nói cách điệu (nằm ở khu vực trung gian, quá độ giữa
lời nói thƣờng và thơ ca). Hầu hết các kiểu gieo vần, ngắt nhịp của các thể thơ
dân tộc truyền thống đều có thể tìm thấy trong tục ngữ. Các kiểu ngắt nhịp
thƣờng gặp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn
ngữ thơ ca...
Cách ngắt nhịp 2 tiếng:
- Mèo mả/ gà đồng
- Nồi da/ nấu thịt
Cách ngắt nhịp 3 tiếng:
- Mềm thì nắn/ rắn thì buông
Cách ngắt nhịp 4 tiếng:
- Trai ba mươi tuổi/ đang xoan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Gái ba mươi tuổi/ đã toan về già
* Hình thức ngữ pháp
Đơn vị “tác phẩm” của thể loại tục ngữ, theo thói quen thƣờng đƣợc gọi
là “câu”, vì nó ngắn. Thực ra, xét về nội dung phán đoán cũng nhƣ hình thức
diễn đạt thì “câu” của tục ngữ không giống nhau.
Có thể chia tục ngữ thành ba loại câu khác nhau: Tục ngữ có thể có một
vế, chứa một phán đoán, nhƣng thƣờng có hai vế, chứa hai phán đoán. Cũng
có thể có tục ngữ gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Loại câu một vế: gồm một mệnh đề độc lập, chứa một phán đoán:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp
- Một đường cày bằng một ngày cuốc
- Cờ bạc là bác thằng bần
Loại câu hai vế: gồm hai mệnh đề, chứa hai phán đoán có quan hệ xa,
gần với nhau. Đây là loại câu phổ biến trong tục ngữ Việt.
- Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng
- Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy
Loại câu từ ba vế trở lên: gồm ba mệnh đề, chứa đựng ba phán đoán trở lên.
- Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy
- Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền.
Những phán đoán trong tục ngữ thƣờng không hiện rõ và đầy đủ. Phần
lớn nó là những phán đoán khẳng định, bao gồm cả khẳng định tuyệt đối (vô
điều kiện), và khẳng định tƣơng đối (có điều kiện).
Khẳng định tuyệt đối, ví dụ:
- Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng
- Chết ra ma, quét nhà ra rác
Khẳng định tƣơng đối:
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
- Của một đồng, công một nén
* Các kiểu suy luận
Hình thức phổ biến, thông dụng nhất của phƣơng pháp tƣ duy trong tục
ngữ Việt là hình thức liên hệ, so sánh. Trong tục ngữ có nhiều kiểu suy luận,
liên hệ:
Liên hệ tƣơng đồng: tức là so sánh ngang nhau hoặc giống nhau. Giữa
hai vế đƣợc hiểu ngầm là có các từ so sánh ngang nhau: như, như thế, cũng là,
cũng như...
Ví dụ:
- Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi giăng (trăng)
- Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh
Liên hệ không tƣơng đồng: có các từ chỉ quan hệ so sánh, với các lối so
sánh khác nhau: so sánh hơn, kém, thua, đƣợc... và không thể thiếu các từ chỉ
sự so sánh, nhƣ: hơn, thua, sao bằng, không bằng, không tày..., vì nếu thiếu
thì sẽ không nói rõ đƣợc sự hơn kém và sẽ trở thành quan hệ tƣơng đồng.
- Học thầy không tày học bạn
- Chết vinh còn hơn sống nhục
- Con chăm cha không bằng bà chăm ông
Liên hệ tƣơng phản, đối lập: Ở đây các quan hệ từ đƣợc trốn đi, nhƣng
cần hiểu ngầm là có các từ: mà, nhưng, trái lại...
- Bỏ con săn sắt, bắt con cá rô
- Đũa mốc chòi mâm son
- Được mùa chê cơm hẩm, mất mùa lẩm cơm thiu
Liên hệ phụ thuộc: Ở đây, các từ chỉ quan hệ giữa hai vế cũng đƣợc trốn
đi, và tồn tại các từ chỉ quan hệ ngầm: nếu - thì, nếu như, thì...
- Gái có công, chồng chẳng phụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Giã gạo thì ốm, giã cốm thì khỏe
- Được voi đòi tiên
Lối suy luận, phán đoán này, vừa nêu giả thiết (hay điều kiện), vừa nêu
kết luận (có tính chất dự đoán). Vì thế nó hay đƣợc dùng trong tục ngữ dự
đoán thời tiết.
- Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
Liên hệ nhân quả: giữa hai vế của mỗi câu tục ngữ đƣợc hiểu ngầm là có
chứa các từ chỉ quan hệ nhân quả: tất phải, tất yếu, đương nhiên là, ắt...
- Trời sinh voi ắt sinh cỏ
- Gieo nhân nào gặp quả nấy
- Đầu xuôi, đuôi lọt
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tục ngữ
Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ. Tính chất
bền vững của tục ngữ biểu hiện ở cả hình thức lẫn nội dung của nó. Có những
câu tục ngữ chỉ có một nghĩa, nhƣ: mưa đằng đông vừa trông vừa chạy, mưa
đằng nam vừa làm vừa chơi; công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn.
Tuy nhiên, tục ngữ mang tính đa nghĩa lại chiếm tỉ lệ khá lớn, chất lƣợng khá
cao và là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại này. Một câu tục ngữ của bộ phận
này thƣờng có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Nếu thiếu bộ phận tục ngữ
này, khi mỗi câu đều chỉ có một nghĩa xác định và bất biến thì sự phong phú
về nội dung của kho tàng tục ngữ mỗi dân tộc sẽ giảm đi đến mức không thể
hình dung nổi.
Nhiều câu tục ngữ ngắn gọn, lời ít, nhƣng ý nhiều, lƣợng thông tin cao:
- Tre già, măng mọc
- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Tức nước vỡ bờ...
Những câu tục ngữ đa nghĩa đều có phần ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài
lời). Mà phần “ý ở ngoài lời” lại là phần đƣợc sử dụng chính thức ở những
câu tục ngữ ấy. Ví dụ khi nói câu “Trăm voi không được bát nước xáo” thì
ngƣời nói cũng nhƣ ngƣời nghe đều chỉ dùng nghĩa bóng, chứ không ai hiểu
theo nghĩa đen của chúng cả. Vì trong thực tế làm gì có ai nấu thử “trăm voi”
để lấy “nước xáo”. Những câu tục ngữ thuộc loại này tiêu biểu cho bộ phận
tục ngữ mang tính chất ngụ ý (hay ngụ ngôn), tính chất phúng dụ (nói bóng).
Ngay từ khi mới ra đời chúng đã sống và chỉ sống với nghĩa bóng mà thôi.
Bộ phận thứ hai của loại này gồm những câu đƣợc dùng với cả hai nghĩa
song song (nghĩa đen và nghĩa bóng). Ví dụ: “Con vua thì lại làm vua, con sãi
ở chùa thì quét lá đa”; “Chân nam đá chân xiêu”... Loại này ban đầu có thể
chỉ xuất hiện với nghĩa đen, nhƣng về sau lại chủ yếu đƣợc dùng với nghĩa
bóng. Và nói chung, loại tục ngữ nói về các hiện tƣợng và quy luật tự nhiên
có tính khái quát cao, phần lớn đều có thể đƣợc dùng theo nghĩa bóng để nói
về những hiện tƣợng và quy luật xã hội. Ở đây, hầu nhƣ tính chất ngụ ý không
nằm trong dụng ý sáng tác ban đầu của tác giả dân gian, mà nảy sinh về sau
trong cách hiểu của ngƣời sử dụng. Và không phải bất kì câu tục ngữ nào
cũng có thể nảy sinh nghĩa bóng. Hiện tƣợng này chỉ có thể diễn ra đối với
những câu tục ngữ có tiềm ẩn khả năng mở rộng nghĩa.
1.2. Những nhân tố cơ bản tác động tới ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng
tác của Nam Cao
1.2.1. Sơ lƣợc về tiểu sử
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915. Quê tại làng Đại
Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam - nay là xã Hoà Hậu,
huyện Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
danh: Nam Cao.
Xuất thân từ một gia đình trung nông, cha Nam Cao là ông Trần Hữu
Huệ, thợ mộc, làm thuốc; mẹ là bà Trần Thị Minh làm vƣờn, làm ruộng và dệt
vải. Nam Cao học sơ học ở trƣờng làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học,
gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trƣờng Cửa Bắc rồi trƣờng Thành
Chung. Nhƣng vì thể chất yếu, chƣa kịp thi Thành Chung ông đã phải về nhà
chữa bệnh, rồi cƣới vợ năm mƣời tám tuổi.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn
chƣơng đầu tiên vì mục đích mƣu sinh. Năm mƣời tám tuổi vào Sài Gòn, ông
nhận làm thƣ ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối
cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các
truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút
danh Thuý Rƣ. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kì
đầu còn chịu ảnh hƣởng của trào lƣu văn học lãng mạn đƣơng thời.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành Chung, Nam Cao
dạy học ở trƣờng tƣ thục Công Thành, trên đƣờng Thuỵ Khê, Hà Nội. Ông
đƣa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ
cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.
Tháng 11 năm 1951, trên đƣờng vào công tác vùng địch hậu Liên khu
Ba, Nam Cao bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình).
Với tâm huyết gần hai mƣơi năm cầm bút, Nam Cao trở thành cây bút xuất
sắc của dòng văn học hiện thực (1940 – 1945), là ngƣời đi tiên phong trong
việc xây dựng nền văn học mới, Nam Cao đƣợc Nhà nƣớc truy tặng Giải
thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (Đợt 1, 1996).
1.2.2. Con ngƣời
Những ngƣời từng sống, chiến đấu với Nam Cao đều thấy rõ ba đặc
điểm trong tính cách có ảnh hƣởng nhiều đến phong cách sáng tác của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam Cao.
Nhìn bề ngoài, Nam Cao có phần vụng về, ít nói, lạnh lùng nhƣng nội
tâm thì luôn luôn sôi sục, căng thẳng. Trong ông thƣờng diễn ra xung đột gay
gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn
nhát, giữa tính chân thực với sự giả dối, giữa khát vọng cao cả với mong
muốn tầm thƣờng. Các trang viết về tri thức nghèo thể hiện rất rõ đặc điểm
trên đây trong con ngƣời Nam Cao.
Nam Cao sống ân tình với ngƣời nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt. Ông
cho rằng: không có tình thƣơng thì không xứng đáng đƣợc gọi là Ngƣời.
Trƣớc Cách mạng, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất của một trí thức tài cao
phận thấp, nhƣng không khinh bạc, “ngất ngưởng” nhƣ Nguyễn Tuân…
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng nhân hậu, hiền hoà.
Không nỡ ăn bát cơm ngon dành riêng cho mình, Nam Cao luôn muốn chia
đều cho cả nhà. Vì vậy, viết về ngƣời nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng
tràn đầy niềm xót thƣơng, cảm thông.
Ông luôn luôn trăn trở, suy tƣ về bản thân và cuộc sống. Vì thế, từ những
chuyện nhỏ nhặt, thƣờng ngày, Nam Cao nêu đƣợc vấn đề xã hội lớn lao,
nhiều bài học triết lý sâu sắc. Với mình thì khiêm nhƣờng, với ngƣời thì trân
trọng. Đánh giá văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, ông viết:
“Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu tốp anh em. Tố Hữu, Kim Lân thứ nhì, Nguyên
Hồng, Tô Hoài, Nam Cao bét, bởi vì xét ra vẫn cũ…” [14, tr. 768].
Với những nét riêng xuất phát từ gia đình và bản thân nhà văn, đã hình
thành nên phong cách nghệ thuật Nam Cao. Một Nam Cao luôn cảm thông
với những số phận con ngƣời nghèo khổ, một Nam Cao luôn lắng nghe tiếng
lòng của ngƣời dân nghèo lầm than và của những số phận bất hạnh. Qua đó,
nhà văn còn thể hiện những chiêm nghiệm, những suy tƣ của mình vào trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trang viết. Vì thế, việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào trong các sáng tác là
một sự lựa chọn tối ƣu, sáng tạo của ông để làm nên những trang văn bất hủ,
khẳng định vị thế của Nam Cao trên văn đàn văn học dân tộc
1.2.3. Môi trƣờng sáng tác
Nam Cao sinh ra và lớn lên nơi miền quê nghèo khó, đồng trũng, ao sâu – một
miền quê rất đặc trƣng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chuyện làng – những
ngƣời thôn quê lam lũ, nghèo khổ, vùng đất đồng chiêm, bờ đay, bãi mía,
vƣờn tƣợc, bến sông… nhà văn đã thuộc trong đầu. Gắn bó lâu năm với cuộc
sống làng quê, Nam Cao am hiểu rất sâu sắc cuộc sống sinh hoạt và lời ăn
tiếng nói của ngƣời nông dân. Và chính hoàn cảnh đó lại là mạch nguồn quan
trọng để Nam Cao tiếp thu kho tàng ngôn ngữ dân gian một cách tự nhiên, sâu sắc.
Nam Cao luôn gần gũi, gắn bó với những mẫu ngƣời ấy – những ngƣời
“Bình dân” [1; tr. 32], “Người dân thường” [54; tr. 68]. Thiếu Sơn trong Phê
bình và cảo luận cắt nghĩa: Bình dân là “hạng lao động thợ thuyền, hạng
nông phu điền dã, tức là những người tầng lớp lao động có địa vị bình thường
trong xã hội”.
Do sự chi phối của bối cảnh chính trị xã hội, hai chữ “Bình dân” đã trở
thành một thuật ngữ chính trị xã hội xuất hiện thƣờng trực trên báo chí và
trong hiện thực cuộc sống trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dƣơng. Từ
đời sống xã hội, vấn đề bình dân trở thành một hiện tƣợng văn học đƣợc đề
cập đến nhiều. Trong không khí sôi nổi của phong trào “Bình dân”, giới văn
chƣơng không chỉ đòi tự do cơm áo, mà họ còn sôi nổi bàn về “Văn chương
bình dân”, “Nhà văn bình dân”.
Là ngƣời xuất thần từ tầng lớp bình dân, khi nhỏ sống trong một gia đình
trung nông đông con quanh năm thiếu ăn. Đói nghèo, bệnh tật đeo đuổi và
giày vò Nam Cao ngay từ những năm còn nhỏ. Làng Đại Hoàng của Nam Cao
ở một vùng xa phủ, xa huyện, đặc biệt lại nằm trong thế “quần ngư tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thực” (đàn cá tranh mồi), nên bọn cƣờng hào chức dịch trong làng càng đƣợc
dịp hoành hành. Nơi đây hàng năm vẫn thƣờng xảy ra những vụ kiện tụng lẫn
nhau giữa những bọn giàu có nhiều thế lực, và không ít cảnh những ngƣời
nông dân phải dời bỏ làng quê đi tha hƣơng cầu thực. Những sự việc có thực
diễn ra ở đây đã đƣợc ghi lại trên trang sách của Nam Cao với dấu ấn nặng nề
về một vùng quê đói nghèo tăm tối. Với tấm lòng hồn hậu, chất phác và ân
tình sâu nặng với ngƣời lao động, cuộc sống lam lũ, túng thiếu của những
ngƣời lao động nghèo đó đƣợc phản ánh chân thực, sinh động trong sáng tác
của nhà văn. Đi vào thế giới ngôn ngữ nhân vật của Nam Cao, ta thấy bức
tranh mù xám của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 hiện
lên chân thực, rõ nét. Nhiều khi, ta nhƣ không còn phân định đƣợc rõ đấy thực
chất là thế giới ngôn từ nghệ thuật của Nam Cao, hay đấy là những lời ăn
tiếng nói của ngƣời bình dân đƣợc Nam Cao tổ chức một cách có nghệ thuật.
Trong văn Nam Cao, sự xuất hiện của tục ngữ là một phƣơng tiện nghệ thuật
giúp nhà văn phản ánh “những vang động của đời”.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, Nam
Cao – nhà văn của những trăn trở, suy tƣ, của những giằng xé, giày vò đã thực
sự giác ngộ, tự nguyện bƣớc vào cuộc đời cách mạng và kháng chiến. Nhà
văn đã hòa mình vào không khí thời đại để thay đổi đời ông, thay đổi văn ông.
Nam Cao đã tự xác định phải làm một công dân tốt trƣớc khi làm một nhà
văn. Thực tế đời sống cách mạng và kháng chiến đã dẫn đến sự đổi mới trong
cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao. “Sống đã rồi hãy viết… góp sức vào công
việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật
cao hơn…” [14; tr. 447]. Nhà văn hào hứng ghi lại những đổi thay của cuộc
sống và con ngƣời sau Cách mạng tháng Tám bằng những nét sắc sảo, tài hoa,
những thế mạnh vốn có của nhà văn hiện thực với tầm tƣ tƣởng, nhiệt huyết
của ngƣời chiến sĩ cách mạng Nam Cao. Ông vẫn ấp ủ trong lòng một cuốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiểu thuyết về quê hƣơng kháng chiến. Để rồi khi tai họa bất ngờ ập đến, Nam
Cao đã vĩnh viễn ra đi khi tuổi đời và tài năng đang vào độ sung sức, đầy triển
vọng. Nói nhƣ Tô Hoài – Lời tựa trong cuốn Nam Cao, nhà văn hiện thực
xuất sắc [11] – “Nam Cao đã chết trên cuốn tiểu thuyết lớn của mình”. Ông
đƣợc nhận định là một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ đã góp phần
cách tân và hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam trên hành trình văn học của
thế kỷ XX.
1.2.4. Quan điểm nghệ thuật và cá tính sáng tạo:
Cũng giống nhƣ Nguyên Hồng, những sáng tác đầu tay của Nam Cao
chịu ảnh hƣởng khá rõ của văn học lãng mạn. Tâm hồn mơ mộng của tuổi trẻ
cùng với những tác động của của văn chƣơng lãng mạn đƣơng thời đã khiến
ông hƣớng tới xu thế “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát ly thực tế. Nhƣng
Nam Cao không dừng lại lâu ở thế giới mơ mộng, ảo tƣởng, mà chóng trở về
với cuộc đời thực. “Nhưng ở những người trẻ tuổi nhà nghèo, những cái buồn
thường phải sớm nhường chỗ cho những cái lo”, nỗi lo cơm áo, bệnh tật, đói
rét. Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve: “Nghệ thuật không cần phải
là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” [13, tr. 64].
Sự chuyển biến của Nam Cao từ xu hƣớng nghệ thuật lãng mạn đến quan
điểm hiện thực là cả một quá trình phấn đấu gian khổ nhƣng dứt khoát. Để
xác định cho mình một quan điểm sống và viết đúng đắn; và để rồi khẳng
định sức mạnh của văn học nghệ thuật chính là là bắt nguồn từ đời sống và
phục vụ đời sống, Nam Cao đã trải qua không ít những dằn vặt, băn khoăn.
Trăng sáng có giá trị nhƣ một bản tuyên ngôn nghệ thuật. Nó đánh dấu một
bƣớc chuyển biến trong nhận thức tƣ tƣởng, và khẳng định một nhân cách đầy
bản lĩnh của nhà văn Nam Cao trong cuộc đời cũng nhƣ trong sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghệ thuật.
Là một nhà văn có nhân cách, và có ý thức trách nhiệm về ngòi bút của
mình, Nam Cao không thích sự dễ dãi với những lối mòn sẵn. Ông quan niệm
nghệ thuật muốn thành công phải tìm tòi, sáng tạo. Với quan điểm ấy tác giả
đã rất chú ý vận dụng ngôn ngữ đời sống của nhân dân trong sáng tác của
mình. Nam Cao không chỉ đồng cảm, thông cảm, bênh vực cho những kiếp
lầm than mà còn viết nên những trang văn bằng chính suy nghĩ của họ, nói
bằng cách nói của họ. Ngôn ngữ văn chƣơng của Nam Cao vì vậy là thứ ngôn
ngữ không chỉ mới mẻ so với văn chƣơng Trung đại, nó còn khác xa với ngôn
ngữ văn chƣơng Tự lực văn đoàn, một phái văn chƣơng cùng thời với Nam
Cao bấy giờ. “Lời ăn tiếng nói”, cái “quê mùa” xuất hiện dày đặc trong văn
Nam Cao chính là ngôn ngữ làng quê, hàng ngày của ngƣời lao động – ngôn
ngữ của ngƣời nông dân Bắc Bộ, cụ thể là bằng việc vận dụng những câu
thành ngữ, tục ngữ trong hành văn.
Nhà văn đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ để tạo không khí nông thôn cho
tác phẩm, và tô đậm cuộc sống lam lũ của ngƣời dân quê. Điều này đã làm
nên phong cách ngôn ngữ vừa uyên bác, hiện đại lại vừa gần gũi, quen thuộc.
Thành ngữ, tục ngữ chứa đựng sự hiểu biết bằng hình ảnh và triết lý với lời
nói ngụ ý. Nam Cao đã để lại ấn tƣợng khi vận dụng thành công điều đó, bởi
bằng chứng là văn chƣơng của ông mang đầy sự chiêm nghiệm triết lý của
ngƣời dân lao động. Vận dụng khéo léo “lời ăn tiếng nói” của ngƣời nông
dân Bắc bộ, ông đã thể hiện sự trân trọng ngƣời nông dân và trân trọng ngôn
ngữ truyền thống. Điều đó làm nên danh hiệu “Nam Cao là nhà văn của nông
thôn Việt Nam” (Tô Hoài).
Tiểu kết:
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chƣơng thực chất là
kết quả của quá trình lấy văn học dân gian làm chất liệu cho sáng tác văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chƣơng. Chƣa bao giờ văn học dân gian cổ truyền của dân tộc lại sống dậy
huy hoàng và đƣợc nhận thức sâu sắc về giá trị và vai trò của nó nhƣ trong
thời đại ngày nay. Điều này có thể đƣợc hiểu một cách bao quát: văn học dân
gian đã đóng vai trò làm nền cho sự phát triển và kết tinh của văn học viết,
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết là quan hệ hai mặt, vừa đối lập,
vừa tƣơng hỗ.
Sự xuất hiện của nền văn học dân gian trƣớc khi có nền văn học viết và
tính chất ngọn nguồn, làm nền của nó đối với nền văn học viết ra đời sau nó,
vừa là sự khẳng định vai trò của văn học dân gian đối với văn học viết, vừa là
điều cốt lõi nhất khi nói về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học
viết. Nó thật ra là quy luật phổ biến trong lịch sử văn học của tất cả các nƣớc
trên thế giới. Nhƣng lịch sử văn học Việt Nam có quy luật đặc thù ở chỗ: sau
khi có văn học viết rồi thì văn học dân gian đã không teo đi, ngƣợc lại vẫn tồn
tại nhƣ một dòng riêng và phát triển, do đó vẫn tiếp tục tăng cƣờng vai trò làm
nền cho sự kết tinh của văn học viết.
Mối quan hệ tƣơng hỗ giữa văn học dân gian với nền văn học viết đã
diễn ra theo quy luật: lúc nào sức sống của dân tộc, của nhân dân trỗi dậy thì
lúc đó văn học dân gian và những bộ phận tiến bộ trong văn học viết xích lại
gần nhau. Thực tiễn văn học viết và văn học dân gian ở giai đoạn nửa sau thế
kỷ XVIII chứng minh rõ điều đó. Văn học dân gian không chỉ có tác động
một chiều tới văn học viết, mà bản thân văn học viết cũng có sự ảnh hƣởng và
tác động tới văn học dân gian, làm cho sức sống của văn học dân gian trở nên
vững bền.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, mối quan hệ giữa văn học dân
gian với văn học viết về cơ bản đã khác trƣớc; và sẽ có sự hoà quyện giữa văn
học của mọi tầng lớp nhân dân trong một đất nƣớc. Nhƣ vậy, nghiên cứu việc
vận dụng tục ngữ trong các sáng tác của Nam Cao là việc làm khả thi và có ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghĩa trong giai đoạn văn học hiện nay.
CHƢƠNG 2
CÁCH THỨC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
2.1. Triết lý về nhân phẩm qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác Nam Cao
Nam Cao là một cây bút ý thức rõ về nghề nghiệp của mình. Với vai trò
là nhà văn của trào lƣu hiện thực phê phán, Nam Cao nhận mình là ngƣời thƣ
kí trung thành của thời đại và viết với một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo.
Nổi lên dƣới giọng văn tài tình của tác giả, ta thấy ông đặt trƣớc mắt ngƣời
đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch đau đớn,
vật vã. Thông qua những sáng tác của mình, Nam Cao đã phản ánh đƣợc cái
khung cảnh ngột ngạt, tăm tối của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng
Tám. Những tác phẩm của Nam Cao, từ truyện ngắn đầu tay có tiếng vang
Chí Phèo đến tiểu thuyết Sống mòn là sự thể hiện trên nhiều về số phận những
con ngƣời, và hơn thế nữa, là cuộc sống cùng khổ của cả một tầng lớp ngƣời,
một giai cấp. Ông quan tâm tới đời sống tinh thần của con ngƣời, và luôn
hứng thú khám phá con ngƣời trong con ngƣời. Nam Cao viết nhiều, nhƣng
sáng tác của ông có thể quy về hai đề tài chủ yếu: ngƣời nông dân, và ngƣời
trí thức tiểu tƣ sản nghèo.
Với đề tài ngƣời nông dân, Nam Cao thể hiện thái độ trân trọng, xót
thƣơng đối với những kiếp ngƣời nghèo khổ. Tấm lòng yêu thƣơng nhân đạo
và sự hiểu biết sâu sắc về con ngƣời, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao
xây dựng đƣợc những hình tƣợng nông dân sinh động. Từ một làng quê heo
hút của mình, nhà văn đã cho ngƣời đọc nhận thấy thực trạng ấy nhang nhác
nhƣ ở nhiều vùng nông thôn đang trong thời kì lột xác. Cũng khai thác về đề
tài nông thôn Việt Nam, ngƣời nông dân trong tác phẩm của Ngô Tất Tố,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Công Hoan bị dồn đẩy đến tận chân tƣờng và đã nảy sinh nhiều
chuyện éo le. Ám ảnh trong tâm trí ngƣời đọc là một chị Dậu cùng quẫn đến
mức phải bán chó, bán con, bán sữa; một Thị Mịch bị dồn vào đƣờng cùng và
thoát xác khỏi cô thôn nữ hiền lành, lƣơng thiện. Nhƣng đến với Nam Cao,
cảnh nghèo đã thấm thía qua từng trang sách, và ngƣời đọc cứ day dứt không
nguôi về bi kịch của những con ngƣời bị đẩy đến tận đáy sâu bể thẳm của đau
thƣơng. Viết về ngƣời nông dân trong thời kì cùng quẫn, bế tắc này, Nam Cao
không dừng lại ở những hiện tƣợng bề mặt, ông cố gắng đi sâu vào bản chất
của sự vật, bày tỏ thái độ đồng cảm, xót thƣơng đối với những tâm hồn lao
khổ. Họ phải đối mặt với từng miếng ăn để giữ mạng sống. Họ bị phá sản, bị
dồn vào con đƣờng bần cùng hóa, tha hóa… Bởi “già néo đứt dây” (Chí
Phèo), tất cả làm nên một bức tranh đa diện về đề tài ngƣời nông dân Việt
Nam trong thời kì xã hội ấy.
Cuộc sống của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo là mảng đề tài chủ yếu
thứ hai của Nam Cao trƣớc Cách mạng tháng Tám. Sinh ra ở nông thôn, song
Nam Cao sống nhiều với tầng lớp tiểu tƣ sản nghèo thành thị. Ông am hiểu
cuộc sống cùng cực của ngƣời nông dân, nhƣng càng thấm thía sâu sắc cuộc
sống của tầng lớp tiểu tƣ sản, bởi bản thân ông từng là giáo khổ trƣờng tƣ, là
nhà văn nghèo bất đắc dĩ phải lựa chọn “sống đã rồi hãy viết”, “phải bán dần
sự sống cho mình khỏi chết đói”. Tác phẩm của Nam Cao đã ghi lại trung
thực cuộc sống quẩn quanh, mòn mỏi của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản với những
tấn bi kịch của đời mình: bi kịch vỡ mộng, sống cuộc sống “đời thừa”, “sẽ
mốc lên, rỉ đi, sẽ mục ra”, bi kịch “chết mòn” tinh thần, và những đấu tranh
để tự vƣơn lên. Dƣới ngòi bút của mình, Nam Cao đã làm cho hình ảnh ngƣời
tiểu tƣ sản trí thức nghèo hiện lên tất cả những mặt mâu thuẫn, phức tạp của
nó. Họ phải chịu cảnh “ngồi rỗi ăn không” (Ngƣời thợ rèn), rồi lại rơi vào
cảnh gia đình chì chiết, đay nghiến nhau “tiếng bấc đưa đi, tiếng chì quăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại” (Cƣời). Trong họ chứa đựng cả những điều tốt đẹp, xấu xa, và quá trình
đấu tranh giữa những mặt trái ngƣợc đó diễn ra liên tục, lúc âm thầm dai
dẳng, lúc bùng lên quyết liệt. Sức chống đỡ của họ tuy còn yếu ớt nhƣng là sự
vƣơn dậy rất đáng trân trọng.
Nhìn một cách tổng quát toàn bộ tác phẩm của Nam Cao, ta thấy, dù ông
viết về đề tài nào cũng vẫn nhằm thể hiện một tƣ tƣởng: nỗi đau đớn trƣớc
tình trạng con ngƣời vì miếng cơm manh áo mà không sao đứng thẳng lên
đƣợc, không sao giữ đƣợc nhân tính, nhân cách, nhân phẩm. Bởi thế,
những trang văn “đau đời” của ông luôn làm cho ngƣời đọc thấy rung cảm,
ngậm ngùi.
Qua việc nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Nam Cao thƣờng sử dụng hai
mảng đề tài trên trong các sáng tác của mình. Tuy nhiên, đề tài về ngƣời nông
dân chiếm ƣu thế vƣợt trội. Có điều đó bởi Nam Cao là ngƣời sinh ra và lớn
lên trong môi trƣờng nông thôn, hình tƣợng về ngƣời nông dân và cuộc sống
của họ đã ngấm vào máu thịt của ông. Đời sống thôn quê, nếp sống hồn hậu
đã trở thành hồn cốt của nhà văn. Vì thế, trong các sáng tác của Nam Cao, đề
tài về ngƣời nông dân đã trở thành đề tài chiếm ƣu thế.
Triết lý về nhân phẩm mà Nam Cao muốn thể hiện trong sáng tác của
mình là hiện thực về cái đói và miếng ăn. Có nhiều cách phản ánh về cái đói
và miếng ăn, nhƣng với riêng Nam Cao, cái đói, miếng ăn đƣợc hiện lên rất rõ
trong cách nói dân gian, trong kiểu nói thành ngữ, tục ngữ. Nó là một sự thật
bi thảm, một nỗi ám ảnh đau đớn của nhân dân ta nhiều thế kỉ qua. Trong văn
chƣơng Việt Nam, cái đói đã trở thành đề tài sáng tác cho lớp nhà văn hiện
thực phê phán Việt Nam, nhƣ: Ngô Tất Tố, Nguyên Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài... Cái đói nằm giữa hai thái cực sống – chết, là
mối quan tâm lớn nhất của Nam Cao, và cũng là của thế giới nhân vật Nam
Cao. Xung quanh cái đói này, Nam Cao đã thông qua nhân vật của mình rút ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bao triết lý, để ngƣời đọc có dịp ngẫm nghĩ sâu hơn về ý nghĩa sống và mục
đích sống, nhƣ: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” (Rình trộm),
và hơn nữa, “miếng ăn là miếng nhục” (Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó).
Trƣớc Nam Cao, quả chƣa thấy nhà văn nào đặt mối quan tâm và khai thác
sâu vào vấn đề sinh tử này. “Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ
giản dị biết bao?” [12; tr. 276].
Phần lớn những truyện ngắn viết về đề tài nông dân của Nam Cao đều
ghi lại những dấu ấn một thời kì đen tối của nông thôn Việt Nam những năm
1930 – 1945. Vẫn là những chủ đề quen thuộc nhƣ nhiều nhà văn hiện thực
khác: đời sống khó khăn, thóc cao gạo kém, con ngƣời phải vật lộn để kiếm
sống, nhƣng trong tác phẩm của Nam Cao, cái đói nhƣ một sức mạnh vô hình
thít chặt lấy số phận các nhân vật. Từ Nghèo đến Một đám cưới, Lão Hạc,
Quái dị... chúng ta đều bắt gặp một hoàn cảnh chung: nông thôn xơ xác, tiêu
điều. “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn
rộng thì có rộng, nhưng xấu lắm... Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ con
bụng ỏng, mắt toét ngoài đường sẵn lắm” [12; tr. 265]. Số phận của ngƣời
nông dân trong nhiều truyện ngắn của Nam Cao đƣợc đặt ở những thử thách
khốc liệt của cảnh nghèo. Họ sống trong những căn nhà “tối như hũ nút”
(Quái dị), ở trong thảm cảnh “nghèo rớt mồng tơi” (Một truyện xú – vơ –
nia). Họ, nếu không cam phận sống thiệt thòi, tủi nhục nhƣ một kẻ tôi đòi
(Nhu (Ở hiền)), thì cũng sống âm thầm, nhẫn nại nhƣ trong đắng cay, chua
xót (Dì Hảo (Dì Hảo)), nếu không bị chết đói về bệnh tật (anh Đĩ Chuột
(Nghèo)), (anh Phúc (Điếu văn)), thì cũng chết khốn chết khổ vì bả chó (lão
Hạc (Lão Hạc)), hay bội thực vì “Một bữa no” quá hiếm hoi (bà cái Tý (Một
bữa no))… Những phận ngƣời “con sâu cái kiến” (Trẻ con không đƣợc ăn
thịt chó) ấy, dù mỗi ngƣời một hoàn cảnh, nhƣng chung quy lại là cảnh nghèo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và cái chết của họ mang một ý nghĩa tố cáo xã hội sâu sắc.
Bên cạnh loại nhân vật chịu sự đày đọa, chà đạp của xã hội nhƣng vẫn
giữ đƣợc nhân phẩm của mình, còn có một loại nhân vật đã bắt đầu bị biến
chất, tha hóa. Một loạt thành ngữ, tục ngữ đƣợc Nam Cao sử dụng trong các
tác phẩm đã làm rõ hơn về loại nhân vật này: những con ngƣời “hiền lành
như đất” đã bị “năm bè bảy mối” “đè đầu cưỡi cổ” và kết cục trở thành
những kẻ “cố cùng liều thân”. Đó là Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò),
Trương Rự (Nửa đêm), Năm Thọ, Binh Chức (Chí Phèo)... và tiêu biểu hơn cả
cho loại nhân vật này là Chí Phèo (Chí Phèo). Viết về những nhân vật này,
Nam Cao không miêu tả những con ngƣời cá thể, mà vƣơn tới phản ánh một
hiện tƣợng có tính phổ biến của xã hội: một bộ phận nông dân bị xã hội thực
dân phong kiến xô đẩy đến bƣớc đƣờng cùng, phản ứng liều lĩnh, cực đoan.
Viết về cái đói để nói về nhân phẩm con ngƣời, Ngô Tất Tố là một cây
bút thuộc thế hệ đàn anh của Nam Cao cũng có thể coi là tiêu biểu cho xu
hƣớng văn chƣơng của những ngƣời đói. Ngô Tất Tố nói về cái đói của ngƣời
nông dân, đáng sợ nhất là truyện Làm no hay cái ăn trong những ngày nước
ngập. Ngƣời ta đã có sáng kiến ăn đƣợc cả đến đất sét và bèo tây thì có nghĩa
cái đói đã là một tai họa khủng khiếp đến nhƣờng nào. Mỗi tác phẩm nhƣ thế
của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói thảm thiết của ngƣời nông dân. Còn với
Nam Cao, khai thác cùng về khía cạnh đó, nhƣng Nam Cao nói về miếng ăn
hơn là về cái đói, nói về cái nhục hơn là về cái khổ. Cái nghèo, cái đói mà
Nam Cao thể hiện trong hầu hết các tác phẩm của mình lại là tiếng kêu cứu
lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con ngƣời đang bị cái đói và miếng
ăn làm cho “tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi” [34; tr. 183].
Nam Cao viết về miếng ăn một cách sâu sắc, cay đắng, day dứt. Ở nhiều
tác phẩm, nhà văn đã xây dựng tình huống truyện có ý nghĩa quyết định đã
đƣợc tạo nên bởi vấn đề miếng ăn. Câu tục ngữ “miếng ăn là miếng nhục”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhƣ một triết lý xót xa, đó là một thử thách ghê gớm đã hủy diệt nhân tính của
những ngƣời nông dân nghèo. Một bữa no là chuyện miếng ăn. Tư cách mõ,
Trẻ con không biết ăn thịt chó... cũng là chuyện miếng ăn. Miếng ăn cũng là
cái gông vô hình nặng nề đè dúi dụi anh tiểu tƣ sản trí thức xuống sát đất với
cái nợ áo cơm, để biến tất cả những ƣớc mơ, những triết lý của anh ta trở
thành huênh hoang, vớ vẩn, giả dối và khôi hài (Đời thừa, Quên điều độ, Sống
mòn...). Đây là tấn bi kịch thảm thƣơng kéo dài của mấy trí thức tiểu tƣ sản
mà cái nghèo đã khiến tâm trí, tâm huyết của họ cứ bị hút chặt vào bữa ăn
hàng ngày. Họ đau khổ, họ tức tối, gầm ghè nhau chung quanh một mâm cơm
để rồi sau đó thấy nhục nhã, ê chề cho chính cái tâm địa hèn hạ, nhỏ nhen của
mình. Vậy đấy, Sống mòn cũng là một tiếng kêu cấp cứu của những nhân cách
đang bị hủy diệt, của những linh hồn đang héo hắt, chết mòn chết mỏi vì
miếng cơm, manh áo. Họ chỉ là những con ngƣời “thấp cổ bé miệng”, ở trong
những hoàn cảnh ngặt nghèo đành “cắn răng lại mà chịu”. Cả thế giới nhân
vật của Nam Cao “bị áo cơm ghì sát đất” nhƣ xuội đi trong cái vòng luẩn
quẩn của hiện thực cuộc sống. Nhân phẩm mỗi ngƣời vì thế cũng mòn mỏi
theo từng ngày.
Tuy vậy, Nam Cao cũng đề cao, coi trọng tính lƣơng thiện của ngƣời
nông dân. Ngòi bút nhà văn hƣớng đến chỗ làm cho con ngƣời hiểu con ngƣời
hơn, biết quý trọng bản tính tốt đẹp vốn có của con ngƣời, cái bản tính thƣờng
bị bóp méo, bị che lấp bởi hoàn cảnh, bởi sự nghèo khổ, và cả sự bàng quan,
vô tâm của những ngƣời xung quanh hàng ngày. Trong tác phẩm của ông, con
ngƣời sống trong một xã hội thật dữ dằn, cay nghiệt, hoàn cảnh nhƣ muốn
nghiền nát họ đi, nhƣng ngƣời ta vẫn không chịu khuất phục, vẫn cố ngoi lên
để sống, để bộc lộ tính cách, để làm ngƣời. Họ đấu tranh khi quyết liệt, khi
âm thầm để hƣớng về một cuộc sống xứng đáng, lƣơng thiện.
Đã có nhân vật của Nam Cao không chịu từ bỏ nhân phẩm, nhân cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bởi họ có lòng tự trọng riêng mình. Ngƣời ta không chịu vứt bỏ cái duy nhất
mà ngƣời ta có trong hoàn cảnh nghèo hèn ấy. Lão Hạc (Lão Hạc) là con
ngƣời nhƣ thế. Lão chấp nhận “sống khổ sống sở”, không đánh mất mình vì
miếng cơm để giữ cho lòng mình thanh sạch, bởi lão lƣơng thiện quá. Bi kịch
của lão Hạc chính là bi kịch về lòng tự trọng. Ngƣời tự trọng là ngƣời ý thức
cao về mình. Tâm lão Hạc sáng quá nên lão nhận rõ hơn ai hết tình cảnh của
lão, nguy cơ của lão: cái nguy cơ đánh mất nhân phẩm. Giữ mảnh vƣờn cho
con là nỗi niềm lớn nhất của một ngƣời cha nhƣ lão suốt đời com cóp, chắt
chiu mà không có đủ tiền cƣới vợ cho đứa con trai duy nhất. Nam Cao đã vận
dụng câu thành ngữ “thắt lưng buộc bụng” nhƣ chứng minh cho sự cần kiệm
đáng nể của lão Hạc. Cho nên, tất yếu lão tự tìm đến cái chết nhƣ một hành
động tự giải thoát. Song, kết cục của lão Hạc không phải là manh động, là tiêu
cực. Lão đã cố gắng duy trì sự sống của mình mà không động đến tiền làm ma
cho mình, càng không cậy nhờ đến hàng xóm láng giềng. Đây quả là một sự
khắc kỉ khổ hạnh của con ngƣời để bảo toàn tính lƣơng thiện, và nhân phẩm,
nhân cách trong những hoàn cảnh hiếm hoi giữa đời thƣờng.
Nam Cao đã đề cao, ngợi ca lòng lƣơng thiện của ngƣời dân nghèo, bởi
nhờ có đôi mắt yêu thƣơng, trái tim nhân hậu, ông vẫn tin rằng trong tâm hồn
của những ngƣời không còn là ngƣời, những con ngƣời bề ngoài đƣợc miêu tả
nhƣ những con vật vẫn còn nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản.
Nhà văn nhận ra đằng sau những bộ mặt xấu xí đến “ma chê quỷ hờn” của
Thị Nở (Chí Phèo), của mụ Lợi (Lang Rận), của Nhi (Nửa đêm)... vẫn là một
con ngƣời, một tâm tính ngƣời thật sự, cũng khao khát yêu thƣơng. Nam Cao
chẳng những đã nhìn thấy tấm lòng vị tha, khắc kỉ của lão Hạc, mà còn phát
hiện đƣợc cả chất thơ trong trẻo trong tâm hồn tƣởng chừng đã hoàn toàn đen
độc của Chí Phèo nữa. Trong đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u
mê nhƣ hắn – một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá, hủy hoại từ nhân hình đến nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tính – nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động thật sự của tình yêu, của niềm
khao khát muốn trở lại làm ngƣời lƣơng thiện, khi hắn nhớ lại niềm mơ ƣớc
thuở xƣa: “chồng cuốc mƣớn, cày thuê, vợ dệt vải” [12; tr. 114].
Một trong những đặc sắc của ngòi bút Nam Cao là đã mạnh dạn đƣa cái
hàng ngày vào văn học, nghĩa là ông chẳng cần sự kiện gì quan trọng, chẳng
xây dựng kịch tính gì lớn lao. Tác phẩm chỉ dệt toàn bằng những chi tiết, sự
kiện vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn, những xung đột nhỏ nhen vô nghĩa giữa
những con ngƣời nhỏ bé tội nghiệp mà nhà văn gọi là “những chuyện không
muốn viết” của kiếp sống “con sâu cái kiến”, “con giun cái dế” (Sống mòn).
Để rồi, bi kịch của đời thƣờng, của những cái vặt vãnh hàng ngày, qua ngòi
bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu. Bởi thế
mà việc ông đƣa những lời ăn, tiếng nói hàng ngày của ngƣời dân lao động
vào trang văn để nói về triết lý nhân phẩm bằng việc vận dụng những thành
ngữ, tục ngữ nhƣ hơi thở tự nhiên, mềm mại. Ngƣời đọc thấy đƣợc cách viết
chắc tay, chặt chẽ của Nam Cao bởi cách sử dụng ngôn ngữ tài tình ấy.
Sức hấp dẫn riêng của ngòi bút Nam Cao còn thể hiện ở những tƣ tƣởng
có màu sắc khái quát triết lý của ông đặt vào trong mỗi tác phẩm, bởi Nam
Cao là một đầu óc thích khái quát triết lý. Tất nhiên, đó không phải là thứ triết
lý chung chung “muôn thuở” mà là những phát hiện của ông về cuộc sống,
nghĩa là mang đẫm mồ hôi của tâm não nhà văn. Nhiều câu triết lý xung
quanh cái sự thật đói khát: “hiền quá hóa ngu” (Chí Phèo), “khổ như chó”
(Sống mòn, Sao lại thế này), “no dồn đói góp” (Một bữa no), “bữa đói bữa
no” (Nụ cƣời), “miếng ăn là miếng nhục” (Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó)...
đƣợc Nam Cao sử dụng tục ngữ nhằm khắc họa rõ nét chủ đề, tƣ tƣởng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình quả là một sự chọn lựa đúng đắn, đáng ghi nhận.
2.2. Triết lý về nghề văn, nghề giáo qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng
tác Nam Cao
Với mảng đề tài này, Nam Cao đã dồn nhiều suy nghĩ, tâm huyết, thiện
cảm cho những ngƣời trí thức nghèo, những ông giáo trƣờng tƣ với công việc
rất nhàm chán và đồng lƣơng khốn khổ, những nhà văn tâm huyết với nghề
nhƣng luôn cô đơn và nghèo túng. Nam Cao xây dựng hình mẫu về ngƣời trí
thức phải là những ngƣời có ích, có đóng góp nhất định cho đời sống tinh thần
của xã hội. Khi ngƣời ta đã chọn văn chƣơng nghệ thuật làm nghiệp của mình
thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, phải đam mê, nhiệt huyết, có nhƣ thế
mới làm nghệ thuật tốt đƣợc. “Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ
say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh
những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn
ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không
biết chán. Đối với hắn lúc ấy nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có
gì đáng quan tâm nữa...” [13; tr. 79].
Nhận thức đƣợc mình, họ say mê lý tƣởng và mang một hoài bão lớn. Họ
“nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một
thời” [13; tr. 79]. Tuy vậy, họ chƣa có cơ hội để thực hiện những dự định đã
ấp ủ. Mộng làm ngƣời có ích cho đời của họ bị gánh nợ áo cơm ghì sát đất,
không sao ngóc đầu lên đƣợc. Học vấn, hiểu biết “nhìn xa trông rộng” (Sống
mòn) càng làm cho họ có ý thức sâu sắc hơn về thực trạng của mình. Họ thực
sự sống trong một chuỗi những bi kịch. Với cuộc đời vô vị, không lối thoát.
Hàng ngày, họ phải chứng kiến bao số phận nghiệt ngã của những ngƣời lao
động nghèo xung quanh, và một xã hội đầy bất công, ngang trái, bế tắc. Với
một cung cách nhẹ nhàng, Nam Cao đã vạch ra bi kịch của những ngƣời
muốn sống một đời sống xứng đáng, có ích, xây dựng đƣợc một sự nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào đó, nhƣng rốt cuộc chẳng làm đƣợc việc gì ra việc gì, kéo lê cuộc sống tẻ
nhạt, đáng xấu hổ, từ ngày này sang ngày khác, vì thụ động, bởi ngại đổi thay,
và sợ hãi. Đúng nhƣ những Điền (Giăng sáng), những Hộ (Đời thừa), những
Thứ, San (Sống mòn)... mà Nam Cao đã nhận xét, cuộc sống của những ngƣời
nhƣ vậy “sẽ mốc lên, rỉ đi, sẽ mục ra”, và họ “sẽ chết mà chưa làm gì cả,
chết mà chưa sống” [14; tr. 318]. Ngƣời trí thức nhƣ họ luôn phải bóng bẩy,
“ăn trắng mặc trơn”, “cắn răng lại mà chịu” (Sống mòn) tất cả hoàn cảnh
trớ trêu quanh mình. Nêu lên bi kịch “sống mòn” của ngƣời trí thức tiểu tƣ
sản nghèo, nhà văn không đổ lỗi một cách đơn giản, dễ dãi cho hoàn cảnh
khách quan, cho xã hội, cho thực dân phong kiến. Nhà văn nhìn thấy ở đây có
cả trách nhiệm của con ngƣời, của mỗi cá nhân. Miêu tả tình cảnh “sống
mòn” của Thứ, nhà văn nhận xét: “Y nhu nhược quá, hèn yếu quá! Y không
bao giờ cưỡng lại, không bao giờ nhảy xuống sông xuống bể, không bao giờ
chĩa súng lục vào người bẻ lái và ra lệnh hãm máy, quay mũi lại. Y để mặc
cho con tàu mang y đi!” [14; tr. 318]. Cái nhu nhƣợc, hèn yếu đến buông xuôi
ấy của y, phải chăng bắt nguồn từ sự tự ý thức mình là kẻ “thấp cổ bé miệng”
(Sống mòn) trong xã hội?
Với Nam Cao, ông quan niệm rằng, phàm đã theo nghiệp văn chƣơng,
sách vở, thì ngƣời trí thức cần coi trọng sự sáng tạo. Trƣớc hết, nhà văn muốn
khẳng định nghệ thuật chân chính phải bắt rễ trong đời sống hiện thực, không
đƣợc thoát li đời sống để trở thành lừa dối. Muốn sáng tạo ra những tác phẩm
có giá trị để đời, anh cần phải tâm niệm sẽ lao động, sáng tạo nghệ thuật thực
sự. Trải qua thể nghiệm và suy ngẫm của bản thân về văn chƣơng và hiện
thực cuộc đời, Nam Cao đã mƣợn lời của nhân vật trong tác phẩm để phát
biểu triết lý về sự sáng tạo trong nghệ thuật: “Nghệ thuật không cần phải là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có
thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than...” [13; tr.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80]. Từ ý nghĩ thiết tha ấy về sự sáng tạo trong văn chƣơng, nghệ thuật, Nam
Cao lên tiếng phê phán tính chất thoát li, lừa dối của văn học lãng mạn. Theo
ông, tâm hồn ngƣời ta “ru với gió”, “mơ theo trăng” thì chỉ có thể là “ánh
trăng lừa dối”. Nhà văn đòi văn học phải bắt rễ từ hiện thực, nghĩa là trở về
với cuộc sống của hàng vạn, hàng triệu con ngƣời đau khổ. Nghệ thuật phải
“vị nhân sinh”, phải là “vũ khí phấn đấu cho tình thương, lòng bác ái và sự
công bằng” [13; tr. 80]. Ngƣời cầm bút có lƣơng tri phải “đứng trong lao khổ
mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” [13; tr. 65]. Với
nội dung này, Nam Cao nhấn mạnh, nghệ thuật chân chính là ngƣời cầm bút
phải không ngừng sáng tạo, phải nhìn thẳng vào sự thực để nói lên nỗi thống
khổ của nhân dân, và vì nhân dân mà lên tiếng.
Nam Cao gửi gắm những suy tƣ, quan niệm sâu sắc của mình về nghề
văn, và sứ mạng của ngƣời cầm bút chân chính. Ông cho rằng, bản chất của
văn chƣơng là đồng nghĩa với sự sáng tạo: “Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương
chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những những nguồn
chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” [13; tr. 80]. Câu nói ngắn
gọn nhƣng đã thâu tóm những yêu cầu gắt gao, nghiêm túc đối với ngƣời sáng
tác văn chƣơng. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm
theo một kiểu mẫu đưa cho” là cách diễn tả hình ảnh, ám chỉ thứ văn chƣơng
đẽo gọt, khuôn sáo, hời hợt, một thứ văn chụp ảnh hoặc minh họa giản đơn.
“Ngƣời thợ” dù là “ngƣời thợ khéo tay” thì cũng chỉ sản xuất ra những sản
phẩm hàng loạt theo mẫu mã có sẵn, dù có khéo léo cũng chỉ là một hình thức
bắt chƣớc, theo khuôn mẫu. Lao động của nhà văn thì khác hẳn. Đó là quá
trình nghiền ngẫm, khám phá, tìm tòi những nội dung mới và hình thức diễn
tả mới để tạo ra những sản phẩm độc nhất vô nhị của riêng mình, mang bản
sắc độc đáo của từng nghệ sĩ. Nó chắc chắn không thể là cách viết theo kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“vắt mũi đút miệng” (Điếu văn), hay “ăn xổi ở thì” (Sống mòn), “ăn hoang
phá hoại” (Cƣời). Trong truyện ngắn Những chuyện không muốn viết, Nam
Cao cũng đã diễn đạt một cách thật đặc thù hình ảnh lao động của nghề văn
qua câu tục ngữ: “Cái nghề văn kị nhất là cái lối thấy ngƣời ta ăn khoai
cũng vác mai đi đào” [13; tr. 20], tức là nó tối kị sự sao chép, bắt chƣớc. Với
một yêu cầu thật nghiêm khắc về nghề, nhà văn đã đúng khi quan niệm: “Văn
chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. Bởi lẽ, nghệ thuật bắt đầu từ
thiên bẩm, nhƣng chỉ thiên bẩm thôi cũng sẽ không có nghệ thuật. Vì mỗi tài
năng, thiên bẩm chỉ chiếm một phần, còn chín phần là nƣớc mắt, mồ hôi, sự
tìm tòi, sáng tạo và khổ luyện.
Nam Cao còn đề cập tới vấn đề lƣơng tâm nghề nghiệp của mỗi nhà văn,
nhà giáo. Ông quan niệm ngƣời cầm bút phải có lƣơng tâm và trách nhiệm đối
với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì
cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”
[13; tr. 80]. Nhà văn đã dùng câu khẳng định để phê phán với một thái độ
mạnh mẽ, dứt khoát: cẩu thả trong công việc là biểu hiện của thái độ vô trách
nhiệm, của sự bất lƣơng. Trong bất cứ nghề nghiệp, công việc gì cũng đáng
lên án, chứ không riêng gì trong văn chƣơng, giáo dục nói chung, cẩu thả, vội
vàng cũng đồng nghĩa với gian dối, thiếu ý thức. Chính sự cẩu thả trong công
việc sẽ dẫn đến hiệu quả thấp kém, thậm chí hƣ hỏng, dẫn đến tác hại khôn
lƣờng. Vì thế, qua triết lý của mình về nghề văn, Nam Cao muốn nhắn nhủ:
mỗi ngƣời trên bất cứ lĩnh vực, công việc gì cũng cần cẩn trọng, có lƣơng
tâm, tinh thần trách nhiệm với công việc, coi kết quả công việc là thƣớc đo
lƣơng tâm, phẩm giá của con ngƣời. Bởi nếu nảy sinh lối“tự kỉ ám thị”
(Cƣời) về mình thì ngƣời ta rất dễ sai lầm. Và thực chất, Nam Cao muốn xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dựng, khẳng định một thái độ sống có trách nhiệm, gắn bó với công việc, có
lƣơng tâm nghề nghiệp. Đó là biểu hiện của một nhân cách nghệ sĩ
chân chính.
Cái gốc, nền tảng vững chắc trong chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là
chủ nghĩa nhân đạo. Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao khẳng định: “Một
tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là
một tác phẩm chung cho cả đời người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao,
mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái,
sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” [13; tr. 91]. Nhƣ vậy, trong
quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo đƣợc đặt ra, nhƣ một yêu cầu tất
yếu đối với những tác phẩm “thật có giá trị”. Đó cũng chính là mục đích mà
mỗi ngƣời trí thức cần đóng góp cho đời, để ngƣời với ngƣời sống đƣợc yêu
thƣơng, đƣợc sẻ chia nhiều hơn.
Mỗi ngƣời, không chỉ với ngƣời trí thức, sống là để làm một cái gì đẹp
hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi ngƣời sống cần có sự ý thức về mình, làm
cho cuộc sống của mình có ý nghĩa. Nam Cao nói về quan niệm của mình về
mục đích, ý nghĩa của cuộc sống: “Mỗi người sống, phải làm thế nào cho
phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong
mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi
người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gì là cái lối
sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng biết việc gì ngoài
cái việc kiếm thức ăn để đổ vào cái dạ dày…” [14; tr. 257]. Lối sống đầy
nhân bản ấy chắc chắn không thể là lối sống bo bo, chỉ biết mình nhƣ “con
nhện ôm khư khư bọc trứng” (Đời thừa) đƣợc.
Nam Cao là nhà văn của những ngƣời trí thức nghèo, của những kiếp
“sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vƣơn lên cao nhƣng lại
bị chuyện áo cơm ghì sát đất. Nếu nhƣ mỗi tác phẩm viết về đề tài ngƣời nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân của Nam Cao đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với ngƣời nghèo khổ thì
mỗi trang viết về đề tài ngƣời trí thức đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm
khát khao cháy bỏng của chính nhà văn. Thành ngữ, tục ngữ mà Nam Cao vận
dụng trong các sáng tác đã giúp ông thể hiện những nỗi niềm đó đƣợc trọn
vẹn, đầy đủ nhất.
2.3. Phƣơng thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 74 tác phẩm văn xuôi, cụ thể ở các thể
loại: 53 truyện ngắn sáng tác trƣớc Cách mạng, 2 truyện thiếu nhi, 1 truyện
dài, 1 tiểu thuyết, và 17 tác phẩm viết sau Cách mạng (gồm 1 kịch, 1 nhật kí).
Số liệu chúng tôi thống kê đƣợc nhƣ sau: Tổng số thành ngữ, tục ngữ đƣợc sử
dụng là 483 với tần số xuất hiện là 542 lần.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, trong các tác phẩm văn xuôi của Nam
Cao có vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo các cách sau:
Bảng thống kê cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ
trong sáng tác của Nam Cao
Đối tƣợng Tần số Số lƣợng Nguyên dạng Cải biến thống kê sử dụng
Thành ngữ 409 372 324 85
Tục ngữ 133 111 80 53
Số lần thành ngữ, tục ngữ đƣợc sử dụng nguyên dạng nhiều hơn so với
cải biến. Với Nam Cao, kiểu vận dụng này chiếm ƣu thế trong các truyện
ngắn của ông, (nguyên dạng: 404, cải biến: 138). Đáng chú ý ở đây là sự
chênh lệch giữa thành ngữ, tục ngữ thuần Việt và thành ngữ, tục ngữ Hán
Việt. Cả số lƣợng thành ngữ, tục ngữ Hán Việt nguyên dạng và cải biến chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuất hiện 27/542 lần trong sáng tác của Nam Cao (Thành ngữ: 20, tục ngữ: 7).
Có điều đó bởi từ lúc sinh thời, Nam Cao đã luôn đắm mình trong mạch
nguồn cảm hứng vô tận của cuộc sống thôn quê. Những hình ảnh về làng quê,
bến bãi, những nhọc nhằn của ngƣời nông dân trong cuộc chiến giành cơm áo
luôn đƣợc nhà văn cảm nhận với tâm hồn nhạy cảm, hồn hậu. Để rồi, ông thể
hiện lại cuộc đời ấy bằng ngôn từ giản dị, dân dã qua những trang viết về
nông thôn Việt Nam. Ông góp nhặt những câu nói hàng ngày của ngƣời dân
lao động để tự nhiên, nhẹ nhàng đƣa những suy ngẫm, những triết lý sâu xa
mà ông đã chiêm nghiệm vào văn chƣơng. Bởi thế, trong các sáng tác của
mình, các thành ngữ, tục ngữ thuần Việt, gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của nhân dân đƣợc Nam Cao vận dụng chủ yếu là điều dễ hiểu.
Nhƣng dù là thành ngữ, tục ngữ thuần Việt hay Hán Việt thì trong các
sáng tác của Nam Cao, chúng cũng đƣợc đƣa vào vận dụng một cách gần gũi,
bình dị nhƣ những câu nói hàng ngày của ngƣời dân lao động. Có nhiều câu
thành ngữ, tục ngữ đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần trong các tác phẩm của Nam
Cao, nhƣ: Ăn trắng mặc trơn (3 lần), Câm như hến (2 lần), Cố đấm ăn xôi (2
lần), Đè đầu cưỡi cổ (3 lần), Đỏ như gấc chín (3 lần), Gắt như mắm thối (4
lần), Khổ từ trong trứng (2 lần), Mềm như bún (2 lần), Nay ốm mai đau (3
lần), Nghĩa tử là nghĩa tận (2 lần), No dồn đói góp (2 lần), Nói toạc móng heo
(2 lần), Rẻ như bèo (4 lần), Tham như mõ (5 lần), Thắt lưng buộc bụng (3
lần), Tre già măng mọc (2 lần), Tự cổ chí kim (3 lần), Xám như gio (2 lần),
Xướng ca vô loài (2 lần)...
Với số lƣợng thành ngữ, tục ngữ khá lớn trong các sáng tác, Nam Cao đã
vận dụng chúng ở nhiều dạng khác nhau. Và tùy theo từng trƣờng hợp cụ thể,
nhà văn đƣa ra cách sử dụng chúng ở nguyên dạng hay cải biến cho phù hợp.
2.3.1. Vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống
Vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ là lấy nguyên văn, nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đƣa vào tác phẩm.
Cách sử dụng này nghĩa là nhà văn không có bất cứ một sự thay đổi nào về
cấu trúc hình thức (vỏ ngữ âm, kết cấu, vần, nhịp), cũng nhƣ nội dung ý nghĩa
của thành ngữ, tục ngữ. Cách xử lý này đòi hỏi tác giả phải có một khả năng
cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ, đồng
thời phải là ngƣời có khả năng xử lý ngôn từ để có thể “ghép”, “cài” những
câu thành ngữ, tục ngữ vốn là những từ ngữ “đúc sẵn” theo khuôn mẫu, xen
vào những lời nói của nhân vật, hay lời kể mà không bị cứng nhắc, gƣợng ép.
Trong các sáng tác của Nam Cao, ngƣời đọc cảm thấy ngôn từ của nhân vật,
ngƣời kể chuyện vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ nhƣng rất tự nhiên,
nhuần nhị tuôn theo mạch cảm hứng của tác phẩm, dù đôi khi có số ít những
thành ngữ, tục ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng. Chẳng hạn, Nhân lão tâm bất lão
(Đôi móng giò), Nghĩa tử là nghĩa tận (Nửa đêm, Ngƣời hàng xóm), Tha
phương cầu thực (Xem bói, Ngƣời thợ rèn), Tự lực cánh sinh (Đóng góp)...
Với kiểu vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống của
Nam Cao trong sáng tác đã cho ta thấy biểu hiện sinh động của bức tranh
cuộc sống thôn quê phản ánh mối quan hệ ngôn ngữ - văn hoá. Ngƣời ta dùng
thành ngữ, tục ngữ khi muốn đƣa triết lý vào câu nói, Nam Cao cũng vậy.
Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác, đặc biệt là tục ngữ của ông mang đầy sự
chiêm nghiệm triết lý của ngƣời dân lao động về cái sống và cái chết. Những
đúc kết tƣởng nhẹ bỗng nhƣ không, mà ngẫm ra thật có sức nặng. Đó là cách
nói mang chiều sâu triết lý rất đặc trƣng trong sáng tác Nam Cao rút ra từ vô
vàn sự thực nhỏ nhặt thƣờng ngày, mà ông đã chọn cách vận dụng nguyên
dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống để thể hiện.
Trong sáng tác, Nam Cao không dùng thành ngữ, tục ngữ để tô điểm
thêm cho lời nói, nếu có thì đấy chỉ là một kiểu chơi chữ, một cách nói vui
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không thƣờng xuyên xuất hiện:
“ – Mời các cụ! Mời các cụ! Các cụ cho mặc ý. Con nhà binh, thích
chạy nhăng hơn tĩnh tọa.
Ông nháy mắt người ta mấy cái. Một ông ra ý hiểu:
- Vâng, tôi biết!... Tính ông Cửu nhà tôi nhân lão tâm bất lão? Ông còn
muốn đi nhìn con gái làng” [12; tr. 190].
Là nhà văn hiện thực xuất sắc, Nam Cao đã dứt khoát trong sự lựa chọn
và trung thành với chủ nghĩa hiện thực kiểu mới. Ta hiểu vì sao trong hệ
thống đề tài của mình, Nam Cao bám riết vào những cái văn xuôi phàm tục,
vào những sự thật trần trụi xuất phát từ “cái đói và miếng ăn” – một thảm
trạng đối với con ngƣời trong xã hội cũ. Trong văn học hiện thực Việt Nam,
không phải chỉ có Nam Cao viết về cái đói nhƣng ông đã viết theo kiểu của
riêng ông. Nhà văn có cách tiếp cận và thể hiện đề tài theo nét riêng để làm
nên dấu ấn, phong cách nghệ thuật của mình.
Nam Cao sử dụng nguyên dạng câu tục ngữ, và để nó trở thành một câu
độc lập, là lời dẫn truyện của nhà văn, nhƣ để khẳng định một tiền đề chân lý.
No dồn, đói góp, rồi dẫn đến cái chết của nhân vật bà cái Tý trong truyện Một
bữa no là một tiếng kêu thật thê thảm, không phải trƣớc cái chết thê thảm của
bà cái Tý, mà trƣớc cái chết tinh thần của bà lão.
Không là ngẫu nhiên khi Nam Cao đã đặc tả kéo dài cái cách ăn uống
khốn khổ thảm hại của bà cái Tý trƣớc sự lƣờm nguýt của mụ Phó Thụ và sự
xấu hổ của đứa cháu gái vốn vẫn quý trọng bà nó. Ngƣời bà ấy chỉ vì đói quá
mà bất chấp mọi sĩ diện của con ngƣời, chỉ để muốn có một bữa cơm no, để
thỏa mãn cái dạ dày lép kẹp đã bao ngày dài. Ngòi bút của Nam Cao tƣởng
nhƣ lạnh lùng đến tàn nhẫn khi tả tỉ mỉ cái ăn của bà cụ: bà ăn nhanh, ăn vội,
cố theo kịp ngƣời ta vì sợ ngƣời ta ăn hết mất. Bà già lập cập ăn vội nên rớt cả
mắm ra ngoài... Sau đó lại còn cạo nồi sồn sột... Đúng là bà cụ đói quá nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mới phải đến nỗi thế. Nhƣng điều Nam Cao muốn nhấn mạnh ở đây là cái
nhục mà con ngƣời phải chấp nhận vì đói. Gieo nỗi ám ảnh, xót xa vào lòng
ngƣời đọc về tiếng kêu đau đớn ấy của kiếp ngƣời đói khổ, không gì đặc sắc
hơn việc Nam Cao lựa chọn câu tục ngữ No dồn, đói góp đƣa vào tác phẩm.
“No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng
chưa thấm tháp. Những người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy
thì bà cứ ăn đi. Ăn đến kỳ no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng
mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật” [12; tr. 286].
Thật tội nghiệp cái “sáng suốt” của một bà lão già đã nghĩ ra cách đi
kiếm “một bữa no” để rồi bị bội thực mà chết. Cái chết của bà nghiễm nhiên
trở thành tấm gƣơng để đám nhà giàu lắm của răn đe ngƣời ở: “Chúng mày
xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ
chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!” [12; tr. 289]. Điều đó, liệu bà có cần
nghĩ tới? Bởi con ngƣời phải chịu nhục có nghĩa là phải từ bỏ nhân phẩm, từ
bỏ tính chất ngƣời của mình để chấp nhận cái sống của con vật. “Tham một
miếng, tiếng để đời” là vậy. Quả cay đắng lắm thay!
Nam Cao vận dụng nguyên dạng câu tục ngữ nhƣ một tiền đề chân lý.
Với cách này, ông đặt nó trong lời thoại của nhân vật, hoặc trong lời dẫn
truyện của nhà văn, và thƣờng là ở đầu câu.
Trong lời dẫn truyện của nhà văn:
“Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du
côn?” [12; tr. 90].
Trong lời của nhân vật trong tác phẩm:
“Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng nói: Tre già
măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình chẳng được lợi tí gì
đâu...” [12; tr. 126].
Cách Nam Cao sử dụng nguyên dạng câu tục ngữ “Tre già măng mọc”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hai lần trong cùng một tác phẩm (Chí Phèo) để lại ấn tƣợng khó phai cho
ngƣời đọc. “Tre già măng mọc” chính là sự lặp lại của quá trình tha hoá, lƣu
manh hoá nhƣ một quy luật ở những con ngƣời dƣới đáy xã hội cũ. Chúng bị
bọn cƣờng hào, ác bá kết “năm bè bảy mối” nhũng nhiễu dân lành; khiến họ
khốn cùng, rồi cùng hơn cả dân cùng. Những Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo
(nhân vật trong Chí Phèo) đều là hệ quả của sự đè nén ấy. “Bần cùng sinh đạo
tặc” cũng bởi đó mà ra. Với một câu tục ngữ đƣợc sử dụng hai lần, sức mạnh
phê phán của tác phẩm thể hiện trƣớc hết ở chỗ đã chỉ ra cái quy luật tàn bạo
khủng khiếp của xã hội thực dân phong kiến.
Sử dụng tục ngữ nguyên dạng cả về nội dung lẫn hình thức nhƣ một
phản đề để nêu lên chủ đề câu chuyện, Nam Cao đã đạt đƣợc hiệu ứng tích
cực từ cách vận dụng này.
“Ngừng một lát, bu lại thở dài và bảo:
- Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất. Đàn ông chả mấy người biết
thương con cái. Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết thì liếm lá dọc đàng.
Mẹ mà chết đi thì... con ơi!...” [12; tr. 296].
Câu tục ngữ trên đƣợc đặt vào chính miệng ngƣời mẹ của nhân vật Ninh
nói chứ không phải lời ngƣời kể chuyện. Nó chứa đựng sự thở than, chua xót
của nhân vật khi nghĩ đến tƣơng lai của các con mình khi thiếu vắng bàn tay
mẹ. Nó đã diễn đạt một cách cô đọng điều ngƣời mẹ muốn nói về nỗi niềm
đầy lo lắng cho đàn con sắp mất mẹ. Không cần diễn đạt dài dòng, câu tục
ngữ xuất hiện nhƣ một câu độc lập đủ để ngƣời nghe tự suy luận đƣợc điều đó.
Nam Cao dùng nguyên dạng tục ngữ để kết thúc câu chuyện, hoặc để rút
ra chân lý. Tác giả thƣờng đặt tục ngữ ở cuối câu trong kiểu vận dụng này.
“Bà gân cổ lên cãi lại:
- Sao không biết? Hay thì nó hiện ngay ra ở mặt ấy. Trông mà không
biết! Thế nào gọi là thầy già con hát trẻ?...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ông bật cười:
- Không trách được! Cái trò đàn bà có khác! Chỉ trông mặt mà bắt hình
dong...” [12; tr. 413].
Kiểu vận dụng nguyên dạng tục ngữ để rút ra chân lý nhƣ trên còn đƣợc
Nam Cao vận dụng hiếm hoi khi ý thức về nghề nghiệp của mình, bởi vốn
ngôn ngữ dân gian không giàu có về mảng tri thức này.
Nam Cao trăn trở nhiều về bản thân, về nghiệp cầm bút, và ông đã đúng
khi nhận thức rõ đƣợc rằng: ông cần viết những gì nên viết, và chỉ cần đúng
theo suy nghĩ, lƣơng tâm mình. Vì thế, cách nói triết lý về nghiệp văn chƣơng
của Nam Cao đã nhẹ nhàng ghi dấu trong lòng ngƣời đọc, nhƣng thâm thúy:
“Cái nghề văn, kỵ nhất cái lối thấy ngƣời ăn khoai cũng vác mai đi
đào” [13; tr. 20].
Thành ngữ thực hiện chức năng định danh, nên khi đƣợc sử dụng nguyên
dạng, nó chủ yếu đóng vai trò làm thành phần câu. Việc vận dụng này của
Nam Cao khá đa dạng và mang sắc thái riêng trong hành văn.
Thành ngữ nguyên dạng làm chủ ngữ trong câu:
“No lắm, rửng nhiều: ấy là một câu cửa miệng của người ta. No lắm,
mà chỉ nồng nộng chơi không thì càng rửng nhiều lắm lắm” [12; tr. 418].
Thành ngữ nguyên dạng làm vị ngữ trong câu đã đƣợc sử dụng nhiều
trong sáng tác của Nam Cao:
“- Con nên thương bà mà thương nó. Những lúc con đi vắng, khi bà
váng mình sốt mẩy, chỉ một mình nó chăm sóc trông nom...” [12; tr. 408]
Cũng nói đến cái đói, cảnh nghèo, trong Tư cách mõ, miếng ăn đã làm
tiêu ma tƣ cách ngƣời của anh cu Lộ để tạo nên tƣ cách mõ của anh nông dân
rất tự trọng này.
“Bây giờ thì hắn đã trở thành mõ hẳn rồi. Một thằng mõ đủ tư cách mõ,
chẳng chịu kém những anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy là,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng tham ăn...” [12; tr. 345].
Căn nguyên của sự biến thái ấy cũng bởi từ cái đói, miếng ăn. Vì nghèo,
anh ta chấp nhận công việc làm mõ. Rồi vì những ghẻ lạnh, ghen tị và xa lánh
của ngƣời đời đã làm anh ta cứ tiến bộ mãi trong nghề mõ của mình, với
những tham lam, bẩn thỉu của kẻ không còn lƣơng tri. Ngƣời ta không còn
lòng tự trọng chỉ vì không đƣợc ai trọng. Họ đâu biết rằng, làm nhục ngƣời là
một điều rất nguy hiểm để đẩy con ngƣời ta thành đê tiện. “Tham như mõ” là
bản chất của tên mõ hiện tại ấy. Nam Cao đã sử dụng thành ngữ Tham như mõ
nguyên dạng ba lần làm thành phần câu, nhƣ để nhấn mạnh, khắc họa rõ nét
cái bản tính của con ngƣời tội nghiệp đó:
“Người ta đã nói: tham nhƣ mõ. Nếu nó không tham, sao nó làm mõ?
Còn mình, không lẽ mình lại keo với cả từ thằng mõ trở đi?...” [12; tr. 346].
“- Mẹ khiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham nhƣ mõ”.
A! Họ bảo hắn là mõ vậy... Tham nhƣ mõ vậy!... Đã vậy thì hắn tham
cho mà biết!...” [12; tr. 354].
Nói đến bản tính của con ngƣời, Nam Cao cũng đã sử dụng thành ngữ
nguyên dạng làm vị ngữ trong câu”
+ “ - Thằng Lộc ác nhƣ chó ấy!” [13; tr. 323].
+ “Ông chủ lại lút cút chạy vào, nói nhƣ quát vào tai...” [14; tr. 119].
+ “Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện xưa, càng nghĩ tôi lại càng phục Kha là
con người sớm biết, sớm khôn” [13; tr. 35].
Thành ngữ nguyên dạng còn đƣợc Nam Cao dùng làm định ngữ:
+ “Cả làng chẳng ai còn không biết con dâu bà đủ tật: đã vụng, đã lười,
đã ăn không nên đọi nói không nên lời, lại còn có tính gian: thị chúa đời là
hay ăn cắp và ăn vụng” [13; tr. 99].
+ “Nó giãy lên nhƣ đỉa phải vôi. Nó phun phè phè. Nó gào lên. Bao
nhiêu nước gừng bắn ra áo mẹ” [13; tr. 63].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam Cao còn sử dụng thành ngữ nguyên dạng làm bổ ngữ trong câu:
+ “ – Thôi chú đi vào nhà. Anh vẫn tưởng chú tài giỏi hơn anh, ra đi để
lập thân để lấy ngày nay áo gấm về làng cho rạng vẻ tổ tông, và anh cũng
thơm lây. Không ngờ chú làm nhục cả ông cha” [13; tr. 187].
+ “Họ là những người nhẫn nại đến cực độ, luôn luôn nhận mình là con
sâu cái kiến, con giun cái dế, ai muốn giẫm lên cũng được, những kẻ bị bóc
lột, đè nén, ức hiếp, đánh chửi đã quá quen rồi, nên hầu như không còn biết
phẫn uất là gì;...” [14; tr. 169].
Thành ngữ nguyên dạng còn đƣợc làm trạng ngữ trong sáng tác của
Nam Cao:
“Năm chừng mƣời họa, Điền cũng còn nghĩ rằng: nên theo phép vệ
sinh” [13; tr. 52].
Việc Nam Cao sử dụng thành ngữ nguyên dạng đảm nhiệm các vị trí
khác nhau trong câu giúp lời văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh. Bên cạnh
đó, khi thành ngữ đóng vai trò làm thành phần phụ bổ nghĩa cho danh từ,
động từ, tính từ... còn làm cụ thể hóa nét nghĩa, và nó nhấn mạnh nội dung ý
nghĩa của ngữ cảnh theo mục đích mà tác giả muốn vận dụng.
Có thể nhận thấy, thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng trong sáng tác của
Nam Cao đƣợc vận dụng rất linh hoạt, tự nhiên. Chúng có thể xuất hiện ở đầu
câu, giữa câu, và cuối câu. Có thể tham gia làm thành phần câu hoặc đứng
thành câu độc lập. Vì thế, chúng đƣợc Nam Cao sử dụng nhƣ những lập luận
để nhà văn trình bày quan điểm cá nhân của nhân vật.
Nam Cao đã vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt nguyên dạng các thành
ngữ, tục ngữ trong sáng tác để chủ yếu miêu tả cuộc sống lam lũ, vất vả và số
phận của những ngƣời nông dân nghèo vùng chiêm trũng, qua đó tạo sự gần
gũi, bình dị trên từng trang viết của nhà văn. Để một lần nữa ta có thể khẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
định: ngôn ngữ đời thƣờng của quần chúng nhân dân đã mang lại sức sống lâu
bền cho ngôn ngữ văn chƣơng. Và nhƣ vậy, thành ngữ, tục ngữ tự bản thân đã
chứng tỏ khả năng lan tỏa, trƣờng tồn.
2.3.2. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ ở dạng cải biến, sáng tạo
Đây là kiểu vận dụng tuy không chiếm đa số trong sáng tác Nam Cao
nhƣng nó làm cho hành văn của ông có màu sắc riêng, thấm đẫm tƣ duy, triết
lý. Bởi với kiểu cải biến này, thành ngữ, tục ngữ có lợi thế hơn để có thể phù
hợp với những vấn đề của tác phẩm. Cải biến các yếu tố thành ngữ, tục ngữ
đã đƣợc vận dụng trong sáng tác của Nam Cao gồm các kiểu dạng sau:
Bảng phân loại các kiểu cải biến thành ngữ, tục ngữ
trong sáng tác Nam Cao
Sử dụng một Đảo trật tự Thay thế từ Thêm, bớt Mƣợn ý
vế cú pháp ngữ gốc từ ngữ nguyên gốc
12 17 26 50 33
2.3.2.1. Sử dụng một vế
Ở dạng cải biến này, hầu nhƣ nhà văn chỉ sử dụng một vế của tục ngữ,
nhƣng ngƣời đọc vẫn tri nhận đƣợc tục ngữ gốc mà tác giả sử dụng. Có điều
này, một mặt do sự cố định của khuôn hình tục ngữ. Mặt khác, những thành
ngữ, tục ngữ mà Nam Cao sử dụng vốn quen thuộc, gần gũi với lời ăn tiếng
nói hàng ngày của ngƣời nông dân.
Tục ngữ thƣờng có hai vế, khi xét về nội dung ý nghĩa, có loại cả hai vế
cùng đồng chức, tức là quan hệ ý nghĩa của hai vế là đẳng lập, riêng biệt,
cùng hỗ trợ để suy ra nét nghĩa khái quát. Trong quá trình sử dụng, Nam Cao
chỉ dùng một vế, có khi là vế trƣớc, có khi dùng vế sau, nhƣng vẫn đảm bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc nội dung ý nghĩa của cả câu tục ngữ.
“ – Chúng ta yêu nhau lắm, nhưng chúng ta không cùng giai cấp với
nhau: em giầu sang quá, giầu từ trong trứng giầu ra; còn anh, nghèo khổ
ngay từ khi còn trong bụng mẹ” [12; tr. 139].
Trong đoạn đối thoại trên của Tuyết và Hùng có vận dụng một vế của
câu tục ngữ “Giàu từ trong trứng giàu ra, khó từ ngã bảy ngã ba khó về”. Chỉ
cần vận dụng một vế đó, ta cũng thấy đƣợc sự khác biệt trong tƣ tƣởng, suy
nghĩ của hai nhân vật trong truyện ngắn.
Việc vận dụng này còn đƣợc nhắc lại ở những ngữ cảnh khác:
“Nhờ thế, bà quản Thích đỡ nghèo hơn. Chẳng được giàu như trước
nhưng cũng dễ chịu. Ngày ngày bà cháu đã được bữa đói bữa no” [12; tr. 471].
“Một mình sống đã khó khăn. Bây giờ lại thêm một miệng ăn, và nhất là
thêm một món tiêu một tháng hai đồng bạc cho em đi học. Có cố tằn tiện lắm
cũng chỉ đủ cho anh em bữa đói, bữa no” [13; tr. 214].
Vẫn cùng một vế của câu tục ngữ “Bữa cơm bữa cháo, bữa đói bữa no”
nhƣng ở mỗi ngữ cảnh, nó lại mang một suy ngẫm riêng. Trong Nửa đêm,
ngƣời bà vui mừng vì giờ hai bà cháu đã đỡ vất vả, nhọc nhằn hơn xƣa khi
kiếm miếng ăn. Còn ở Nụ cười, nỗi lo về từng bữa ăn đã trở thành thƣờng trực
của hai anh em Hùng – Hoạt. Đó là nhờ cách cảm nhận tinh tế, vận dụng khéo
léo của tác giả.
Tục ngữ có hai vế, nhƣng đôi khi chỉ thiên về một vế nào đó. Khi vận
dụng, Nam Cao đã sử dụng vế chính, tức là vế quyết định nghĩa khái quát của
câu tục ngữ vào hành văn của mình.
“Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng ông nào còn khỏe răng để gặm nổi
cái móng giò, nhưng cũng chẳng ông nào chịu mất. Một miếng giữa làng…
Đừng có tưởng…” [12; tr. 191].
Ở trƣờng hợp này, vế sau của câu tục ngữ “Một miếng giữa làng bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một sàng xó bếp” không cần thiết bộc lộ đầy đủ. Nhờ đó, ngƣời đọc ngầm
hiểu đƣợc ý nhà văn muốn nhấn mạnh vào giá trị của vế tục ngữ đƣợc
vận dụng.
Trong hoàn cảnh khác, Nam Cao cũng vận dụng tục ngữ ở dạng này:
“Sự co quắp của đàn bà thật khó chịu nhưng nhiều khi có lý. Bởi vì cái
thời mọi cái rẻ nhƣ bèo dần dần phải qua đi” [12; tr. 307].
“Làng y vẫn như xưa, khổ hơn xưa. Vải Tây rẻ nhƣ bèo, nghề dệt cổ xưa
của làng chết hẳn rồi. Dân làng không việc rất nhiều” [14; tr. 21].
Ở những ngữ cảnh cụ thể nhƣ trên, vế sau của câu tục ngữ “Rẻ như bèo,
nhiều heo cũng hết” đã không còn đƣợc quan tâm tới. Ngƣời ta chỉ thấy giá
trị của câu tục ngữ ở vế thứ nhất đƣợc sử dụng mà thôi.
2.3.2.2 Thay thế từ ngữ
Hình thức cải biến này trong sáng tác của Nam Cao chỉ đƣợc thể hiện ở
dạng: Thay thế từ ngữ của thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng bằng một từ khác
tƣơng đƣơng. Kiểu vận dụng này đƣợc nhà văn sử dụng nhiều trong các sáng
tác. Cụ thể ta đã thấy một loạt thành ngữ, tục ngữ mới đƣợc thay thế từ,
những nghĩa gốc của nó không bị thay đổi. Nam Cao vận dụng hình thức cải
biến này để nó phù hợp với ngữ cảnh: Đặc như rươi (Đông nhƣ rƣơi), Trông
trước trông sau (Nhìn trƣớc ngó sau), Đè đầu ấn cổ, Đè đầu đè cổ (Đè đầu
cƣỡi cổ), Nuốt chẳng trôi (Nuốt không trôi), Quý hơn vàng (Quý nhƣ vàng),
Đầu xuôi đuôi ngược (Đầu xuôi đuôi lọt)…
Trong cách vận dụng này, Nam Cao đã đƣa vào trong sáng tác của mình
những câu tục ngữ đã đƣợc cải biến, nhƣ:
+ “Buồn cười chưa, có vậy mà cũng gắt nhƣ mắm thối. Đã muốn gắt thì
cho gắt. Người đàn bà nghĩ thế” [13; tr. 109].
+ “– Thật ạ! Ông ấy mới bập bẹ trống, đang ham bằng chết. Mấy hôm
nay không có tiền đi hát nên cứ gắt nhƣ mắm thối. Hôm nay bán cỗ ngài thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào chẳng đi?” [13; tr. 269].
+ “Bà hạ giọng cho thật thấp:
- Này, mày ạ! Hình như lớp này cô ấy cũng đánh bạc ra việc đấy. Mà
phỏng chừng thua, nên gắt nhƣ mắm thối, mà rạc người đi, trông như con
khỉ ấy!” [14; tr. 280].
+ “Anh nói cũng phải, - ông bảo vậy – nhưng cứ như máu tôi thì tôi giết
hết. Trông thấy chúng nó cũng đã đủ lộn tiết lên rồi. Mắt xanh, mũi lõ, nói lùy
xùy, lùy xùy, gắt nhƣ mắm thối mà hơi một tí là đá đít!” [14; tr. 388].
Nam Cao đã sử dụng bốn lần câu Gắt như mắm thối trong bốn ngữ cảnh
khác nhau, chứ ông không sử dụng câu tục ngữ nguyên dạng “Gắt như mắm
tôm”. Bởi ông đã cân nhắc và có chính kiến cho sự lựa chọn ấy.
Trong truyện dài Người hàng xóm, Nam Cao cũng lựa chọn câu tục ngữ
đã đƣợc thay thế câu nguyên dạng. Ông đã không dùng câu tục ngữ gốc “Nói
toạc móng heo” trong cách vận dụng của mình, để nó phù hợp hơn với văn
cảnh. Nhờ đó, câu văn cũng trở nên xuôi tai, thuận miệng hơn.
“Tiền đỏ mặt. Lộc cười khanh khách, tranh nói, không đợi Tiền kịp nói:
- Thì Tiền sẽ lấy, chẳng còn phải nghĩ ngợi lôi thôi gì nữa. Anh Hiền ạ,
anh cố đợi Tiền đi thôi! Úp mở làm gì? Tôi cứ trả lời toạc móng heo giùm
Tiền đấy” [13; tr. 395].
2.3.2.3. Đảo trật tự cú pháp
Trong sáng tác, Nam Cao đã vận dụng một loạt thành ngữ, tục ngữ theo
kiểu vận dụng đảo cú pháp. Các thành ngữ, tục ngữ có quan hệ đẳng kết, vì
thế, dạng vận dụng này trong sáng tác của Nam Cao khá đa dạng.
Có khi đó là sự hoán chuyển toàn khối giữa hai vế:
Cuốc mướn cày thuê – Cày thuê cuốc mướn (Chí Phèo)
Manh quần tấm áo – Tấm áo manh quần (Dì Hảo)
Dậy sớm thức khuya – Thức khuya dậy sớm (Điếu văn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mặt lớn tai to – Tai to mặt lớn (Sống mòn)
+ “Nhưng ông trời hình như không muốn cho bố, con Dần ngóc đầu lên.
Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao” [12; tr. 221].
+ “Bỗng nhiên nó làm như người hờ:
- Ối trời đất ơi là trời đất! Sao mà cái kiếp tôi nó khổ như thế này? Tôi
vất hết mọi cái đi vì người ta mà người ta thì coi tôi nhƣ cái rác, cái rơm. Tôi
giết người vì người ta mà người ta định giết tôi!” [12; tr. 495].
Ở hai ngữ cảnh trên, Nam Cao đã không sử dụng hai thành ngữ, tục ngữ
nguyên dạng: “Thóc cao, gạo kém” và “Coi người như rơm, như rác”. Nhà
văn chọn lựa cách chuyển khối giữa hai vế này để mang đến sự thay đổi trong
hành văn, mà vẫn giữa nguyên đƣợc ý nghĩa của câu thành ngữ, tục ngữ.
Có khi Nam Cao vẫn giữ nguyên khung kết cấu ngữ pháp của cả hai vế
và chỉ hoán vị các thành tố đối ứng nhau theo từng cặp đƣợc đan chéo giữa
hai vế. Cách hoán chuyển này vẫn đảm bảo tính cân đối, nhịp nhàng, đối xứng
về mặt cấu trúc và về mặt nội dung ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ.
Chẳng hạn:
Thượng cẳng tay hạ cẳng chân – Thượng cẳng chân hạ cẳng tay (Trẻ
con không đƣợc ăn thịt chó)
Em trước chị sau - Chị trước em sau (Ở hiền)
Đón trước rào sau – Rào trước đón sau (Sống mòn)
Phú quý vinh hoa – Vinh hoa phú quý (Sống mòn)
Có khi, Nam Cao lại vận dụng trong sáng tác của mình cách đảo trật tự
từ trong câu, khi ông không dùng câu tục ngữ nguyên dạng “Ngay mặt như
cán tàn”:
“Ấy thế mà cái đứa nào ác nghiệt đã phải vội đem chuyện về cho vợ con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi nó biết. Tôi cãi làm sao bây giờ? Tôi cứ ngay mặt ra nhƣ cán tàn” [13; tr. 25].
2.3.2.4. Thêm, bớt từ ngữ
Ở dạng vận dụng này, Nam Cao sử dụng trong từng trƣờng hợp cụ thể.
Có khi ông thêm từ, có khi bớt từ trong thành ngữ, tục ngữ gốc.
* Thêm từ:
Nam Cao thƣờng cho thêm vào cấu trúc thành ngữ, tục ngữ các yếu tố
mới nhằm nêu rõ chủ đề tác phẩm hoặc ý tƣởng mà ông định thể hiện. Kiểu
cải biến này khá phổ biến trong sáng tác văn chƣơng hiện nay. Nó thƣờng
đƣợc sử dụng nhằm nhấn mạnh chủ ý của nhà văn trong việc thể hiện chủ đề
tác phẩm. Một thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng có thể truyền tải nội dung đến
ngƣời đọc một cách trọn vẹn, có giá trị biểu cảm cao, nhƣng đối với thành
ngữ, tục ngữ đƣợc cải biến bằng cách thêm một số từ vào thành ngữ, tục ngữ
gốc thì sức biểu cảm của nó cũng có giá trị không kém. Đây cũng có thể gọi
là kiểu cải biến mở rộng cấu trúc của thành ngữ, tục ngữ.
Các yếu tố mới có thể nằm ở các vị trí khác nhau xét theo quan hệ với
tục ngữ gốc nhƣng chủ yếu là trong nội tại cấu trúc của nó với vai trò chêm
xen. Các yếu tố mới chêm xen có thể là một từ hoặc một cụm từ. Sự chêm xen
ấy phụ thuộc vào ý đồ sáng tạo của Nam Cao trong từng nội dung tác phẩm.
Điều này ít nhiều làm biến đổi hình thức của thành ngữ, tục ngữ truyền thống,
chứ không ảnh hƣởng nhiều đến nội dung của nó.
Trong sáng tác, kiểu vận dụng này của ông chiếm 42/50 số liệu thành
ngữ, tục ngữ thống kê đƣợc. Qua khảo sát cho thấy, nhà văn thƣờng sử dụng
các phụ từ quan hệ hoặc mức độ để thêm vào thành ngữ, tục ngữ nguyên
dạng. Các câu tục ngữ đƣợc vận dụng nhƣ: Trời đã sinh voi tất nhiên sinh cỏ,
Tay có làm thì hàm mới nhai, Không có lửa thì lấy đâu ra khói, Cưỡi lên đầu
lên cổ, Khát đến như cháy họng, Thiệt người lại thiệt của, Cắn răng vào mà
chịu, Túng đói quá sinh liều, Tu tiên đã gần đắc đạo, Những hạt cơm thừa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những lưng canh cặn… là sự sáng tạo theo kiểu cải biến mở rộng cấu trúc này.
+ “- Bây giờ đến nhà nó thì cũng nhục. Nhưng đường đất mất rồi. Với
lại… dẫu sao thì cũng còn là anh em! Nó túng quá nên nghĩ liều…” [13, tr. 194].
+ “Bà kể cho Thứ nghe toàn những chuyện vợ nhà này hư, vợ nhà nọ hư.
Và bà kết luận:
- Như thế mà cũng phải cắn răng vào mà chịu. Mặc cái số mình như
vậy. Không lẽ mỗi chốc bỏ nhau. Mà bỏ nhau, đã chắc lấy được người hơn
thế chưa?” [14, tr. 283].
+ “- Điên! Điên à? Chẳng điên cuồng gì cả! Đêm nay tôi sẽ đào ngạch
chui vào buồng của nhà nó có cái gì lấy tất. Một cái chổi cùn tôi cũng không
để nhé!... À! Láo thật! Chuột lại cứ đòi gặm chân mèo à?” [12; tr. 387].
* Bớt từ ngữ:
Kiểu vận dụng này chiếm 8/50 thành ngữ, tục ngữ ở dạng thêm, bớt từ.
Ở đây, Nam Cao chọn cách lƣợc một vài từ trong thành ngữ, tục ngữ gốc.
Điều này vừa làm thon gọn thành ngữ, tục ngữ, vừa phù hợp với nột dung của
ngữ cảnh.
+ “Cũng có người hiền lành hơn thì bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc ông lý
không có nhà...”. Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng là
hách dịch, coi ngƣời nhƣ rơm nhƣ rác” [12; tr. 84].
+ “- Từ thuở cha mẹ đẻ đến giờ tôi mới nghe một bánh pháo dài đến
thế. Sung sướng chửa? Nhà người ta đã hay thì hay đủ cách. Con rể đấy”
[12; tr. 453].
+ “San nói một hơi, không còn kịp thở, mặt hầm hầm. Y cười chế nhạo,
và bảo tiếp:
- Họ mưu mẹo kể cũng đã tài tình, nhưng vẫn còn để hở cái đuôi...” [14;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tr. 212].
2.3.2.5. Mượn ý thành ngữ, tục ngữ gốc
Trƣờng hợp này khá phổ biến trong cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ
cải biến của Nam Cao. Ở dạng này, nhà văn không vận dụng khuôn hình của
thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng mà chỉ mƣợn ý của nó và triển khai theo
phong cách khẩu ngữ của ngƣời nông dân. Qua khảo sát, các trƣờng hợp có sử
dụng thành ngữ, tục ngữ ở dạng mƣợn ý đƣợc dùng cả trong lời dẫn truyện và
trong lời thoại của nhân vật. Mƣợn ý thành ngữ, tục ngữ gốc đƣợc thể hiện ở
hai hình thức: mƣợn ý thuận chiều và mƣợn ý nghịch chiều.
* Mượn ý thuận chiều
Mƣợn ý thuận chiều nghĩa là nhà văn diễn đạt lại thành ngữ, tục ngữ theo
phong cách khẩu ngữ đúng với nội dung ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ gốc.
“Giận cá chém thớt là như vậy. Chỉ khổ ông mũi đỏ! Ông bị giải và lo
xám người. Bà vợ ông vốn không phải tay vừa. Vợ chồng nhà bà xưa nay chỉ
cặm cụi làm ăn, có trêu ghẹo ai đâu? Trâu bò chọi nhau thì mặc kệ trâu bò!
Chết ruồi muỗi là chết làm sao đƣợc?” [12; tr. 374].
Cách cải biến này đƣợc Nam Cao vận dụng với cả thành ngữ, tục ngữ
Hán Việt, để cho chúng không còn là thứ ngôn ngữ xa lạ, bác học mà trở nên
gần gũi, thân thuộc với ngƣời dân. Thành ngữ Họa vô đơn chí đã đƣợc Nam
Cao sử dụng với cách này.
+ “Nhưng cái họa không bao giờ đến một mình. Bà mẹ sinh ốm nặng.
Có lẽ biết mình khó qua khỏi, bà thu xếp đưa Hoạt về quê, và để riêng cho
Hùng một món tiền đi trọ học; bà muốn Hùng học trọn bốn năm học rồi kiếm
việc làm nuôi em” [13; tr. 208].
* Mượn ý nghịch chiều
Mƣợn ý nghịch chiều nghĩa là trên cơ sở nội dung, ý nghĩa của thành
ngữ, tục ngữ gốc, nhà văn diễn đạt với ý nghĩa ngƣợc lại. Ở dạng này, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành ngữ, tục ngữ đƣợc sử dụng thƣờng có màu sắc âm tính: Bèo cũng không
rẻ thế (Rẻ nhƣ bèo), Nếu không tham sao nó làm mõ (Tham nhƣ mõ), Không
trôi cũng phải cố nuốt (Nuốt không trôi), Cái mặt mày không ưa nhẹ (Thân
lừa ƣa nặng)...
Nam Cao vận dụng cải biến câu thành ngữ Cố đấm ăn xôi một cách hình
ảnh trong ngữ cảnh sau:
+ “San bỗng lại phì cười, y bảo:
- Chúng mình khổ thật! Giá được ở với vợ thì phải cố chịu cái tai nạn
đàn bà lắm điều, cũng là lẽ đương nhiên. Đằng này phải bỏ vợ mà đi thế mà
vẫn không tránh được cái mồm loa, mép giải. Không đƣợc ăn xôi, mà cũng
phải nai lƣng ra mà chịu đấm. Ức chết đi được” [14; tr. 15].
Nhà văn vận dụng rất độc đáo, hóm hỉnh câu tục ngữ Hán Việt Quý hồ ly
bất quý hồ đa trong sáng tác của mình:
“...Còn thì chỉ cái giống bánh sắn, bánh khoai hoặc cái bánh rán làm
bằng cơm nguội là nhiều lắm. Ngon hay không, chẳng cần phải hỏi. Quý hồ
thật to...” [12; tr. 265].
Những kết quả có đƣợc do sự cải biến thành ngữ, tục ngữ mà Nam Cao
đã vận dụng trong sáng tác chính là điểm tạo nên sự độc đáo, mới mẻ cho
thành ngữ, tục ngữ truyền thống và thu hút đƣợc sự quan tâm của ngƣời đọc.
Chính vì thế, cải biến câu theo hƣớng sử dụng một vế, thay thế từ, đảo trật tự
cú pháp, thêm, bớt từ, mƣợn ý thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng là hƣớng cải
biến đƣợc Nam Cao sử dụng trong sáng tạo tác phẩm. Điều này tạo nên sự
độc đáo cho tác phẩm văn chƣơng và vì thế thành ngữ, tục ngữ đƣợc nâng
cánh bay lên cùng thời đại, có một sức sống trƣờng tồn, không bị lạc hậu,
không rơi vào quên lãng.
2.3.3. Vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ
Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng việc Nam Cao sử dụng trùng điệp tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ trong sáng tác của mình là một hiện tƣợng rất tiêu biểu. Đó chính là nét
riêng trong cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ của Nam Cao. Nó một mặt
đƣợc thể hiện bằng tần số xuất hiện của các thành ngữ, tục ngữ. Mặt khác, đó
là cách Nam Cao dùng liên tiếp các thành ngữ, tục ngữ trong một câu văn.
Trong cách vận dụng này, trƣớc hết, đó là sự xuất hiện dày đặc thành
ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao. Hầu hết tác phẩm nào của ông
cũng vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Có những tác phẩm có mật độ thành ngữ,
tục ngữ đƣợc sử dụng dày đặc, liên tiếp. Điều đó phụ thuộc vào chủ đề, nội
dung, dung lƣợng tác phẩm mà nhà văn lựa chọn để thể hiện. Cụ thể: Chí
Phèo (46 lần), Dì Hảo (7 lần), Đôi móng giò (9 lần), Một đám cưới (18 lần),
Trẻ con không được ăn thịt chó (19 lần), Một bữa no (10 lần), Thôi đi về (9
lần), Mua danh (9 lần), Tư cách mõ (10 lần), Ở hiền (16 lần), Rửa hờn (8 lần),
Một truyện xú – vơ – nia (8 lần), Nhìn người ta sung sướng (9 lần), Lang Rận
(15 lần), Điếu văn (10 lần), Nửa đêm (26 lần), Những truyện không muốn viết
(9 lần), Cười (8 lần), Người thợ rèn (12 lần), Truyện người hàng xóm (37 lần),
Sống mòn (88 lần), Đóng góp (8 lần), Định mức (14 lần)...
Sự trùng điệp thành ngữ, tục ngữ khi vận dụng trong sáng tác của Nam
Cao đƣợc biểu hiện ở cùng một câu văn có hai, hoặc ba thành ngữ, tục ngữ
liên tiếp xuất hiện. Trong cách vận dụng này, Nam Cao sử dụng thành ngữ,
tục ngữ ở dạng nguyên thể và dạng cải biến, sáng tạo. Cách dùng này có các
dạng: thành ngữ - tục ngữ, thành ngữ - thành ngữ.
Trong sáng tác, Nam Cao thƣờng dùng thành ngữ, tục ngữ không đi liền
với nhau, mà có sự đan xen trong cùng một ngữ cảnh.
Nói đến Thị Nở, một ngƣời đàn bà dị dạng, dở hơi, Nam Cao đã dùng
thành ngữ, tục ngữ cùng xuất hiện liên tiếp để tả về thị:
“Nhưng người đàn bà ấy lại là thị Nở, một người ngẩn ngơ nhƣ những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” [12; tr. 107].
Khi miêu tả về mụ Lợi, mụ ngƣời ở trong nhà ông cựu, Nam Cao cũng
sử dụng hai lần cả thành ngữ, tục ngữ nhƣ vẽ bức tranh biếm họa về ngƣời
đàn bà này:
“Không còn một người đàn bà nào có thể xấu hơn. Mụ béo trục, béo
tròn, mặt mũi như tổ ong bầu, mắt trắng, môi thâm, mà đen như thằng quỷ”
[12; tr. 419].
Nhắc đến ông giáo Thứ, Nam Cao kể về sự xuất hiện của ông qua hai
câu thành ngữ đƣợc sử dụng nguyên dạng:
“Cái mộng viễn du vẫn chưa thành, thì một trận ốm thập tử nhất sinh
đã đem y về, trả cho đất chôn nhau cắt rốn” [14; tr. 20].
Ở trƣờng hợp khác, Nam Cao vận dụng trùng điệp ba lần thành ngữ, tục
ngữ trong cùng một câu văn. Cách vận dụng liên tục thành ngữ, tục ngữ có
cùng hƣớng nghĩa này nhằm nhấn mạnh nội dung ý nghĩa mà nhà văn muốn
diễn đạt. Không chỉ nhằm nhấn mạnh nội dung, quan trọng hơn, cách vận
dụng thành ngữ, tục ngữ này tạo nên đƣợc tính nhạc cho câu văn, đoạn văn
đó. Điều này phản ánh rất rõ cách nói năng hàng ngày của ngƣời dân. Cụ thể:
Trong Sống mòn, nhà văn để thằng ở Mô ƣu tƣ về chuyện vợ con của
hắn qua lời dẫn truyện của ông:
“Đã chắc gì khi lấy Mô rồi, nó chịu chừa những cái dỏm ấy đi và biết
chịu thƣơng chịu khó, chịu đầu gio mặt muội, chân lấm tay bùn, để sống
với nhau? Đã chắc gì!” [14; tr.157].
Nhà văn cũng sử dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ trong lời đối thoại
của nhân vật trong tiểu thuyết:
“ – Chẳng nói giấu gì hai ông, bây giờ thì đành nhẽ, tôi lại cho các cháu
về ở nhờ nhà chị, nhà em, rồi lại làm thuê cấy mƣớn, mò cua bắt ốc, buôn
thúng bán mẹt, gặp cái gì làm cái ấy, lần hồi nuôi các cháu. Ở nhà quê, mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thứ thế nào cũng còn rẻ hơn…” [14; tr. 311].
Kiểu vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ cũng đƣợc Nam Cao sử
dụng trong đoạn văn, khi ông muốn cô đọng ý tƣởng sáng tạo của mình, thay
bằng việc phải dùng những con chữ ngồn ngộn, không giàu hình ảnh. Trong
dạng này, Nam Cao sử dụng liên tục thành ngữ, tục ngữ không cùng hƣớng
nghĩa. Điều này cho ta thấy sự am hiểu vốn thành ngữ, tục ngữ của nhà văn,
cũng nhƣ khả năng vận dụng ngôn ngữ của tác giả.
Liên tiếp trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã vận dụng thành ngữ,
tục ngữ theo dạng này trong nhiều đoạn văn:
“Vào rồi hắn mới biết những cái hắn sợ là hão cả. Bá Kiến quả có ý
muốn dàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời,
thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không
anh hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai còn thèm chấp! Thế
nào là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì
cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà đi cho sớm. Cụ vẫn bảo lý Cường như thế
đấy. Vũ dũng như hắn mà làm được lý trưởng là nhờ có cụ. Cụ mà chết đi rồi,
“chúng nó” lại không cho ăn bùn” [12; tr. 88].
Đoạn đối thoại của Chí Phèo khi đến xin đi ở tù cũng đƣợc nhà văn lƣu
tâm. Qua đó ta thấy rằng, việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu nói đã
thấm nhuần trong tâm hồn mỗi ngƣời dân Việt, bởi dù họ có bị biến chất, biến
dạng, bị béo mó về tinh thần đi nữa, ngƣời ta vẫn không thể quên đi nguồn
cội, quên đi thứ ngôn ngữ chính thống của dân tộc mình. Ngƣời ta vẫn có thể
sáng suốt và khéo léo khi sử dụng vốn ngôn ngữ dân gian này.
“ – Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại sinh ra thích ở tù; bẩm có
thế, con có dám nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở
tù còn cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nƣớc, một thƣớc đất cắm dùi không
có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù…”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[12; tr. 98].
Trong truyện Mua danh, dạng vận dụng này cũng đƣợc nhà văn sử dụng
khi anh Bịch đƣợc gạ gẫm mua chức hƣơng trƣởng của làng:
“Hắn lắc đầu hăng hái quá đến nỗi ông sinh ngượng. Ông nói gắt:
- Thì cứ để bạc mà đem chôn! Mẹ khiếp! Có tiền có của, làm người đàn
anh không muốn, cứ muốn để đứa khác nó cƣỡi lên đầu lên cổ. Ngu nhƣ
bò!” [12; tr. 337].
Với cách vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ, Nam Cao đã bộc lộ
ngòi bút sắc sảo của mình. Bởi để “lồng” những thành ngữ, tục ngữ vào trong
hành văn với mật độ dày đặc nhƣ vậy, nhà văn vừa phải là ngƣời viết chắc
tay, vừa nắm rõ nghĩa của những thành ngữ, tục ngữ mình định dùng, để cách
vận dụng đó không là khô khan, gƣợng gạo. Có thể nói, trong một câu văn,
đoạn văn, vận dụng một thành ngữ, tục ngữ đã là vận dụng một lời hay ý đẹp.
Vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ đƣợc hiểu là sự trùng điệp lời hay, ý
đẹp vậy. Vì thế, vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo dạng này là một thành công
trong sự nghiệp cầm bút của Nam Cao.
Tiểu kết:
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao quả là
một sự lựa chọn sáng suốt và hiệu quả. Bằng việc vận dụng này, ngƣời đọc
thấy đƣợc quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuật của nhà văn đƣợc bộc
lộ rõ rệt.
Nam Cao đã mƣợn chủ đề về cái đói và miếng ăn để nói lên triết lý nhân
phẩm của con ngƣời, và trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, tình huống
truyện có ý nghĩa quyết định đã đƣợc tạo nên bởi vấn đề miếng ăn. Miếng ăn
là thử thách ghê gớm đã phân hóa các tính cách theo hai cực: hoặc mất cả
nhân cách, nhân tính nhƣ những nhân vật trong Một bữa no, Trẻ con không
được ăn thịt chó, Chí Phèo, Quên điều độ, hoặc trở thành những bậc chí thiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhƣ Lão Hạc. Sự bần cùng hóa và sự bế tắc hoặc thui chột các khát vọng tinh
thần của mọi tầng lớp ngƣời lao động nông thôn và thành thị luôn là chủ đề
xuyên suốt trong văn Nam Cao... Hiện nay, thói ích kỉ, tham lam vẫn còn tồn
tại nặng nề, tình trạng sống mòn chƣa chấm dứt, và miếng ăn té ra vẫn khiến
nhiều ngƣời không sao giữ nổi nhân cách, nhân phẩm.
Vì thế, cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt để nêu lên những
nghĩ suy, triết lý về vấn đề này của Nam Cao đã đạt đƣợc hiệu quả mong
muốn. Qua những câu thành ngữ, tục ngữ về ngƣời dân, về cách sống, lối nghĩ
của họ, nhà văn đã đặt ra những vấn đề về nhân phẩm qua cái đói, miếng ăn.
Điều đó vẫn còn mang nguyên vẹn tính thời sự nóng hổi cho ngƣời nông, kẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sĩ xƣa và nay.
CHƢƠNG 3
GIÁ TRỊ CỦA VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
3.1. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong phản ánh nội
dung sáng tác
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng, cải biến hay sử dụng
trùng điệp tục ngữ trong các sáng tác của Nam Cao trong những lời kể
chuyện, lời thoại của nhân vật đã mang đến cho ngƣời đọc cách hiểu đầy đủ,
gần gũi về con ngƣời, số phận mà nhà văn thể hiện lòng cảm thông trong các
tác phẩm. Đƣa thành ngữ, tục ngữ vào trong sáng tác, nhân vật của Nam Cao
hiện lên rất giản dị, tự nhiên, cùng với cách suy nghĩ, cách cảm nhận cuộc
sống chất phác, hồn hậu vốn có của ngƣời dân thuần Việt. Qua đó, thể hiện
những bài học, những giá trị làm ngƣời mà nhà văn chuyển tải trong sáng tác
của mình.
Khi viết về ngƣời nông dân trƣớc Cách mạng tháng Tám, Nam Cao nhấn
mạnh đến cái nghèo, cái đói luôn bủa vây ngƣời nông dân. Họ phải tìm mọi
cách để mƣu sinh, để tồn tại. Nhà văn đã lựa chọn vận dụng những thành ngữ,
tục ngữ nguyên dạng để truyền tải đề tài này.
Về hoàn cảnh sống của ngƣời nông dân, Nam Cao khắc họa cảnh khốn
cùng của họ từ những nơi họ ở: Tối như hũ nút, Tối như hang, Thất cơ lỡ vận,
Tứ cố vô thân, Nghèo rớt mùng tơi, Đất khách quê người…Họ là những điển
hình cho những cảnh đời khốn khổ, cơ cực trong xã hội Việt Nam “Một cổ
hai tròng” ngày ấy, phải vất vả để tìm mọi nẻo mƣu sinh: Cày thuê cuốc
mướn, Được ăn thua chịu, Buôn thua bán lỗ, Thóc cao gạo kém, Thắt lưng
buộc bụng, Đầu gio mặt muội, Đầu đội vai mang, Sống khổ sống sở, Được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bữa hôm lo bữa mai, Ăn đói mặc rách…Câu tục ngữ Giàu bán chó, khó bán
con (Một đám cƣới) thể hiện một sự chua xót, đắng cay của cảnh nghèo. No
dồn, đói góp (Một bữa no) nói lên tình cảnh thảm thiết của một bà lão nghèo
đáng thƣơng. Với hoàn cảnh ngặt nghèo nhƣ vậy, phẩm chất của ngƣời nông
dân cũng hiện lên muôn mặt: Câm như hến, Im như thóc, Cười như mếu,
Khôn sống dại chết, Ăn càn nói bậy, Ăn hoang phá hại, Mồm năm miệng
mười, Được người được nết, Sớm biết sớm khôn, Chịu thương chịu khó, Nhẹ
dạ cả tin…
Một loạt các thành ngữ, tục ngữ nói về cảnh vất vả, đói nghèo của ngƣời
dân nhƣ thế đƣợc Nam Cao vận dụng vào từng ngữ cảnh cụ thể đã gieo vào
lòng ngƣời đọc những khắc khoải, xót xa. Qua đó, ngƣời đọc cảm nhận sâu
sắc và thấm thía tình cảnh khốn cùng của lớp ngƣời “thấp cổ bé miệng”
(Sống mòn) trong xã hội cũ.
Khi vận dụng cải biến thành ngữ, tục ngữ vào sáng tác, cụ thể bằng việc
thêm từ ngữ, không chỉ có tác dụng nhấn mạnh nội dung ý nghĩa của thành
ngữ, tục ngữ gốc mà còn đem lại cho thành ngữ, tục ngữ những sắc thái biểu
cảm khác. Bên cạnh đó, vận dụng theo dạng này trong một số trƣờng hợp còn
giúp cụ thể hóa nét nghĩa, và phù hợp với lối diễn đạt của Nam Cao.
Việc Nam Cao vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo dạng bớt từ cũng bởi
trong đời sống hàng ngày, ngƣời dân lao động có xu hƣớng nói tắt, nới bớt
theo quy luật tiết kiệm trong ngôn ngữ. Bởi vậy, cấu trúc thành ngữ, tục ngữ
đã đƣợc trau chuốt, gọt giũa bớt đi những yếu tố nào đó làm cho nó ngày một
gọn ghẽ, khúc chiết hơn cho phù hợp với ngữ cảnh mà nhà văn muốn vận
dụng. Bằng lối diễn đạt ngắn gọn, thành ngữ, tục ngữ đã đƣợc lƣợc bớt một số
từ nguyên dạng mà vẫn không làm thay đổi nội dung của nó. Ví dụ: cách Nam
Cao dùng cụm từ “Cha mẹ đẻ” (Đón khách) đƣợc rút gọn từ câu thành ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Cha sinh mẹ đẻ”.
Trong văn Nam Cao, thành ngữ, tục ngữ tạo nên lối kể chuyện dung dị,
gần gũi, xúc động về những cảnh đời, những số phận nhỏ bé trong kiếp sống
mòn. Ở đây, kiểu vận dụng cải biến theo lối mƣợn ý nghịch chiều tục ngữ
cũng làm cho mạch văn trở nên nhẹ nhàng, thấm thía, mà day dứt hơn. Tâm
sự của nhân vật Nhu trong Ở hiền: “Tại sao ở hiền không phải bao giờ cũng
gặp lành?” [12; tr. 358] ẩn chứa trong đó nỗi buồn miên man, khó giải đáp.
Nó nhƣ một câu hờn trách về sự bất công, vô lý ở đời, và hàm chứa sự chịu
đựng dẻo dai của nhân vật.
Tục ngữ trong văn Nam Cao còn thể hiện rất tinh tế tính cách, đời sống
tinh thần của nhân vật. Nhân vật bà Hai trong truyện dài Người hàng xóm
không có những đức tính trang nghiêm, đứng đắn trong cuộc sống, bởi Nam
Cao đã miêu tả: “Nó tử tế gì? Bụt ngồi tòa thì gà nào dám lên mổ mắt?
Chẳng qua nó xử đểu người ta trước” [13; tr. 274].
Trong Đòn chồng, Nam Cao còn vận dụng một câu tục ngữ vừa mang
hiệu quả nội dung, vừa mang hiệu quả hình thức biểu đạt. Nhà văn đã vận
dụng câu tục ngữ “Trai khôn đòn quan, gái ngoan đòn chồng” đặt lên làm
phụ đề, nhƣ một sự thông báo về nội dung tác phẩm mà ông muốn truyền tải.
Việc vợ Lúng ăn gian ở hàng bánh dầy đã làm y tức tối và muốn răn vợ bằng
một bài học để đời: trói vợ vào cột nhà rồi vừa ăn, vừa nhậu, vừa kể tội vợ.
Kể xong y lại đánh, vụt cô vợ hƣ của mình bằng những ngón đòn “ra trò”.
Gốc rễ của câu chuyện bi hài này cũng lại bởi cái đói và miếng ăn mà ra.
Nam Cao lựa chọn tục ngữ đƣa vào sáng tác, bởi tục ngữ lời ít ý nhiều
nên nó dễ dàng truyền tải lƣợng thông tin nhiều hơn thông tin thể hiện trong
vỏ bọc hình thức. Tục ngữ có lƣợng thông tin chất chứa dày đặc. Bản chất của
nó là không thiên về miêu tả, mà mang nghĩa hàm ẩn cao. Chỉ với một câu tục
ngữ ngắn gọn nhƣng nó giúp nhà văn truyền đến ngƣời đọc hàm lƣợng thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tin bao quát đƣợc nén trong một vài từ.
Một vế của câu tục ngữ “Từ rày buộc chỉ cổ tay, chim đậu thì bắt chim
bay thì đừng” đƣợc vận dụng khéo léo trong truyện Trẻ con không được ăn
thịt chó cũng bởi nó mang nghĩa hàm ẩn sâu sắc, là ghi nhớ một sự việc cay
cú, thấm thía lắm:
“Chậc! Ừ thì hắn là một người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không sao
cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi
hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kĩ: từ giờ đừng
bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai” [12; tr. 267].
Chuyện “Con trâu đi trước, cái cày theo sau”, nó là sự thực hiển nhiên
của cha ông từ ngàn đời. Vậy mà khi nói về chuyện ngƣợc đời, dân gian cũng
lại có cách nói ví von giàu hình ảnh:
“Ông chánh hội gọi người nhà đem bài ra chia. Cái ông này say quá đến
nỗi đặt cái cày trƣớc con trâu. Tôi nghĩ bụng thế vì chưa thấy ông sai đứa
nào đi mời chú Khì cả” [12; tr. 158].
Để nói đến chuyện may mắn khi đƣợc biệt đãi, ngƣời ta dùng câu tục
ngữ rất ẩn ý, xác đáng “Thánh nhân đãi khù khờ”:
“Anh Phúc thì mê nó tợn, cho nó nào quần lụa, nào áo cánh xát xi, nào
yếm vải phin… Lại cả tiền nữa đấy! Có thế thì nó mới lấy cu cậu vậy, chứ
không đời nào nó lấy. Trông anh chàng như con giun chết, không thương
được. Cu cậu hỏi năm, sáu đám, có đứa nào nó chịu lấy đâu? Mà toàn những
đứa xấu xí, vất bờ tre bảy ngày không ai buồn nhặt. Ấy thế mà thánh nhân
đãi khù khờ, tự nhiên với ngay được một con thật đẹp!…” [12; tr. 435].
Những câu tục ngữ khác nhƣ: thấy bở nên đào (Mua danh), giận cá chém
thớt (Rửa hờn), dại như vích (Một truyện xú – vơ – nia), vắt mũi đút miệng
(Điếu văn)… đều là những câu tục ngữ mang nghĩa hàm ẩn cao đƣợc Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cao sử dụng đắc địa trong các sáng tác.
Viết về ngƣời trí thức tiểu tƣ sản, Nam Cao cũng vận dụng thành ngữ,
tục ngữ để diễn tả về họ khá sắc nét. Họ cũng lâm vào những hoàn cảnh ngặt
nghèo: Nay ốm mai đau, Mẹ già con dại, Nhịn ăn nhịn mặc (Đời thừa); Thấp
cổ bé miệng, Thập tử nhất sinh, Nghèo rớt mồng tơi, Ăn không ngồi rồi, Nay
sài mai đẹn, Đầu gio mặt muội, Voi giày ngự xé, Cố đấm ăn xôi (Sống mòn);
Ăn nhịn để dè (Đôi mắt)… Với họ, phẩm chất của mỗi ngƣời cũng muôn màu
muôn vẻ bởi những hoàn cảnh đƣa đẩy: Nói như đổ mẻ vào mặt, Tiếng bấc
đưa đi, tiếng chì quăng lại (Cƣời); Thay lòng đổi dạ, Uống nước nhớ nguồn,
Ăn không nên đọi, nói không nên lời, Bán tín bán nghi, Cắn răng lại mà chịu, Nói
như quát, Nhẹ dạ cả tin, Ghen bóng ghen gió, Nói toạc móng heo (Sống mòn)…
Nam Cao vận dụng thành ngữ, tục ngữ nhƣ một sở trƣờng xây dựng
nhân vật, khắc họa tính cách, về ngoại hình cũng nhƣ về nội tâm nhân vật, bởi
đặc trƣng lời ít, ý nhiều của thành ngữ, tục ngữ. Ta thấy những từ ngữ, hình
ảnh đã đƣợc sử dụng nhƣ: Rạch mặt ăn vạ, Ma chê quỷ hờn, Mắt trắng môi
thâm... Trên thực tế, qua những thành ngữ, tục ngữ ông sử dụng, dễ nhận thấy
Nam Cao tập trung sự chú ý vào tầng lớp ngƣời lao động nghèo, những ngƣời
có số phận hẩm hiu, không tìm đƣợc chỗ đứng của mình trong xã hội, bị vứt
ra bên lề cuộc sống. Họ thuộc thế giới những ngƣời cùng khổ, ở “dƣới đáy”
của xã hội, những con ngƣời bị tha hóa, bị què quặt, cả về thể xác và tinh thần
vì bị áp bức, hành hạ, vì tối tăm mặt mũi lo chạy ăn từng bữa, vì sự bế tắc
mục ruỗng của xã hội, vì sự hèn nhát, sợ hãi của chính mỗi ngƣời. Việc vận
dụng thành ngữ, tục ngữ trong các sáng tác của mình, Nam Cao đã tạo ra
những giá trị nhận thức sâu sắc cho ngƣời đọc khám phá, và tạo nên sức nặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong chủ ý sáng tác của nhà văn.
3.2. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong ngôn từ, diễn đạt
của tác phẩm
Thành ngữ, tục ngữ nói chung, đặc biệt là tục ngữ, là những tri thức dân
gian đƣợc đúc kết từ ngàn đời. Nó ngắn gọn, súc tích, giàu tính biểu cảm.
Việc Nam Cao sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm làm câu văn nhẹ
nhàng, thanh thoát, giàu hình ảnh và vẫn chứa đựng đầy đủ nội dung, ý nghĩa
mà nhà văn muốn chuyển tải. Đó là bởi thành ngữ, tục ngữ đã tạo ra đƣợc
hiệu quả về ngôn từ và lối diễn đạt trong mỗi sáng tác.
Trƣớc hết, hiệu quả về mặt ngôn từ: Việc Nam Cao sử dụng thành ngữ,
tục ngữ trong sáng tác tạo nên sự ngắn gọn, súc tích, cho tác phẩm ngay từ
hình thức trình bày. Những đoạn hành văn, những ý đồ nhà văn muốn chuyển
tải dài dòng đã đƣợc cô đọng trong câu thành ngữ, tục ngữ ngắn gọn. Thành
ngữ, tục ngữ đƣợc sử dụng còn đem lại những hình ảnh mà ngôn ngữ toàn dân
khó có thể biểu đạt đƣợc. Bởi ngôn từ của thành ngữ, mà đặc biệt của tục ngữ,
là sự tinh lọc những tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
Tác phẩm của Nam Cao luôn chứa đựng những triết lý sâu sắc. Cái đói
nằm giữa hai cực sống – chết, đó là mối quan tâm lớn nhất của Nam Cao, và
của thế giới nhân vật Nam Cao. Bởi nắm rõ đƣợc hiệu quả sắc nét khi vận
dụng thành ngữ, tục ngữ vào mỗi sáng tác sẽ tạo ra, Nam Cao sử dụng thành
ngữ, tục ngữ ở cả hai mảng đề tài: về ngƣời nông dân, và ngƣời trí thức
nghèo. Điều này giúp tác phẩm của ông mang hiệu quả biểu đạt cao khi đến
tay độc giả.
Chung quanh cái đói, Nam Cao để ngƣời đọc chiêm nghiệm đƣợc những
triết lý thông qua những sáng tạo của mình về nhân vật. Qua đó, chúng ta có
dịp nghĩ ngẫm sâu hơn về ý nghĩa sống và mục đích sống. Trƣớc Nam Cao,
quả thực chƣa thấy nhà văn nào đặt mối quan tâm và xoáy sâu vào vấn đề sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tử này. Ông đã có những lập luận chặt chẽ trong mỗi trang văn để thể hiện ý
đồ đó của mình: “Có lẽ chết đói là một cách chết mà chúng ta sợ nhất trong
bao nhiêu cách chết. Ta có thể liều chết mà kiếm ăn” [13; tr. 120]... để rồi
chuốc lấy kết cục bi thảm No dồn đói góp (Một bữa no).
Hay nhƣ suy tƣ của San trong Sống mòn mang nỗi niềm chua chát, khi
nhân vật tự đƣa ra lập luận:
“...Cho chúng mình đi học thì sạt nghiệp mà chúng mình thành ra khổ.
Chúng mình hóa dở dang. Chạy chọt để vào làm sở nọ, sở kia thì chúng mình
lấy tiền đâu? Làm thợ thì không có nghề. Đi buôn thì không có vốn. Về nhà
quê làm ruộng thì chúng nó cười cho thối đầu lâu. Vả lại cuốc không hay,
cày không biết, với cũng không có sức. Ngay lưng quen rồi” [14; tr. 168].
Câu thành ngữ trong lời thoại của nhân vật San Cuốc không hay, cày
không biết mang hình ảnh biểu đạt sắc nét. Qua thành ngữ này, ngƣời đọc có
thể hình dung đƣợc vẻ lóng ngóng, vụng về của việc không thông thạo công
việc nhà nông sẽ thấy vất vả, khó nhọc đến nhƣờng nào.
Khi nói về triết lý nghề nghiệp của nghề văn, nghề giáo, Nam Cao cũng
đạt đƣợc hiệu quả về hình thức khi ông chuyển tải những thông điệp, những
quan niệm của mình qua những lý lẽ thuyết phục vào sáng tác. Những mục
đích “Phải sống đã rồi hãy viết”, hay “Chết mau nghĩa là chưa chết. Nếu tôi
không dạy học thì chết ngay, bởi không ai có thể sống mà không ăn” [13; tr. 119]
nhƣ day dứt, ám ảnh vào tâm trí ngƣời đọc cái gông, cái sức ép của sự sống.
Chọn lựa giữa việc sống đúng nghĩa và để tồn tại, ngƣời trí thức của Nam Cao
đều phải chua chát lựa chọn một cách sống khác, chƣa thật sự với chính mình.
Họ mang trong mình những hoài bão, lý tƣởng của tuổi trẻ mà lại chƣa có
điều kiện để thực hiện nó. Phải chăng, họ sinh nhầm thời?
Khi đã định hƣớng đƣợc mình, vạch ra đƣợc mục đích mình cần đóng
góp cho đời, họ - những ngƣời trí thức trong sáng tác Nam Cao đã tâm niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
theo một triết lý của đời mình: việc viết văn không thể là việc làm “ăn sẵn”,
bắt chƣớc một cách hèn hạ. Sự sáng tạo của họ không thể a dua theo kiểu của
câu tục ngữ “Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào” (Những chuyện
không muốn viết). Với họ, sống là phải có đam mê, cống hiến hết mình để
cuộc sống có ý nghĩa: “Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển đến
tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình” [14; tr. 257].
Những đúc kết của Nam Cao thật có hiệu quả diệu kỳ. Đó là cách nói
mang chiều sâu triết lý rất đặc trƣng cho văn chƣơng nhà văn đƣợc đúc rút từ
điều bình dị nhất. Cách Nam Cao chọn thành ngữ, tục ngữ để chuyển tải
những thông điệp đời thƣờng ấy góp phần làm cho những triết lý của ông trở
nên súc tích, ngắn gọn; tạo đƣợc hiệu quả thẩm mỹ cao cho mỗi sáng tác.
3.3. Giá trị biểu cảm của tác phẩm nhờ việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ
Biểu cảm đƣợc hiểu là “biểu hiện tình cảm, cảm xúc” [54; tr. 66]. Đó
cũng là giá trị thẩm mĩ góp phần tạo nên dấu ấn của tác phẩm trong lòng độc giả.
Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn học là một sáng tạo
đáng ghi nhận của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Với Nam Cao, việc sử
dụng thành ngữ, tục ngữ với vai trò là một thể loại của văn học dân gian đã
đem đến hiệu quả biểu đạt cao cho các sáng tác của ông. Vai trò của thành
ngữ, tục ngữ, mà cụ thể ở đây là tục ngữ, vì thế cũng đƣợc ghi nhận một cách
tích cực, thấu đáo.
Biểu hiện của giá trị biểu cảm trong các sáng tác của Nam Cao đƣợc thể
hiện khi tác giả xen kẽ câu thành ngữ, tục ngữ vào mỗi vị trí nào đó cũng đều
là một sự lựa chọn đắc địa, và phát huy đƣợc giá trị của mỗi câu thành ngữ,
tục ngữ đối với từng sáng tác cụ thể. Vì thế, sử dụng trọn vẹn cả câu thành
ngữ, tục ngữ đem lại nét độc đáo, mang giá trị biểu đạt cao cho tác phẩm văn
xuôi. “Chí Phèo không anh hùng, nhưng nó là thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thèm chấp! Thế nào là mềm nắn rắn buông?” [12; tr. 88].
Sử dụng một vế của câu tục ngữ đƣợc Nam Cao ƣa dùng. Do mỗi vế của
tục ngữ giống nhƣ một câu tục ngữ hoàn chỉnh nên việc sử dụng nó trong tác
phẩm đem lại hiệu quả biểu đạt cao, nhấn mạnh và khái quát đựơc sự chú ý
đối với ngƣời đọc, tác động vào thị giác, tâm lý tiếp nhận của họ.
“Lệ làng từ cổ đến giờ vốn thế. Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng ông
nào còn khỏe răng để có thể gặm nổi cái móng giò, nhưng cũng chẳng ông
nào chịu mất. Một miếng giữa làng... Đừng có tưởng...” [12; tr. 191].
Với cách sáng tạo đó, nhà văn đã khéo léo kéo suy nghĩ của độc giả gần
với suy nghĩ của mình vì thế độc giả thấy hứng thú hơn, cuốn hút hơn. Cùng
với sự ngắn gọn về hình thức, giàu hình ảnh, độc đáo về nội dung, một vế câu
tục ngữ đƣợc sử dụng đã đem đến sự kết hợp ấn tƣợng, mang lại giá trị biểu
cảm cho sáng tác của Nam Cao.
Kiểu biến đổi thành ngữ, tục ngữ truyền thống đã thực sự đem đến một
bƣớc “đột phá” mới cho thành ngữ, tục ngữ và văn chƣơng. Đối với thành
ngữ, tục ngữ, sự thay đổi về hình thức và nội dung ý nghĩa đã đem đến cho
chúng một diện mạo mới mẻ, nội dung hiện đại phù hợp với thời đại. Với kiểu
biến đổi thành ngữ, tục ngữ truyền thống để đƣa vào trong sáng tác, nhà văn
dễ dàng truyền tải đến ngƣời đọc suy nghĩ, ý kiến của mình thông qua tác
phẩm đó.
Cái biến theo hƣớng mở rộng cấu trúc, tức là thêm từ ngữ vào thành ngữ,
tục ngữ nguyên dạng tạo nên những sự thay đổi trong kết cấu, vần, nhịp. Điều
này đã tạo nên ấn tƣợng tác động vào thị giác của ngƣời đọc. Một chút thay
đổi vần, nhịp, kết cấu không làm mất đi giá trị của thành ngữ, tục ngữ truyền
thống mà còn tạo nên sự mới mẻ và sự thích ứng của thành ngữ, tục ngữ với
những giá trị mới.
“- Mèo mù. Bèo cũng không rẻ thế, chuối năm nay mà mười ba nải chịu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bán một đồng hai xu à?” [12; tr. 321].
Kiểu hoán đổi vị trí, đảo trật tự cú pháp các yếu tố trong câu nhằm đáp
ứng đích đến của tác giả. Nó cũng mang hiệu quả khái quát và làm sâu sắc,
độc đáo cho nội dung tác phẩm.
“Con chị hóa ra thừa. Cũng phải cho nó đi ăn, đi ở với người ta để kiếm
manh quần tấm áo. Chả gì cũng bớt một miệng ăn” [12; tr. 172].
Kiểu cải biến câu theo cách mƣợn ý của thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng
cũng đạt đƣợc hiệu quả biểu hiện nhƣ mong muốn. Các yếu tố đƣợc mƣợn ý
sẽ tạo nên một nét nghĩa mới cho thành ngữ, tục ngữ truyền thống. Nét nghĩa
ấy phù hợp với nội dung tác phẩm, phán ánh trúng và trực tiếp đối tƣợng, vấn
đề trong đó. Trong cách vận dụng này, nhà văn hay dùng những dấu chấm hỏi (?)
sau mỗi thành ngữ, tục ngữ đƣợc mƣợn ý theo hƣớng nghịch chiều. “Năng
nhặt không chặt bị đấy à? Góp cây thành rừng chứ!” [14; tr. 657]. Sử dụng
dấu câu mang tính biểu cảm sau câu thành ngữ, tục ngữ đƣợc mƣợn ý chính là
phƣơng thức làm biến đổi hình thức, nội dung, ý nghĩa câu thành ngữ, tục ngữ
gốc cho phù hợp với nội dung tác phẩm và thái độ của tác giả. Điều này đã
đem đến sự mới mẻ làm cho thành ngữ, tục ngữ trở nên hiện đại và nét nghĩa
của thành ngữ, tục ngữ mƣợn ý trở nên độc đáo hơn.
Cách Nam Cao vận dụng sáng tạo thành ngữ cũng tạo ra đƣợc giá trị
biểu cảm cho sáng tác. Câu thành ngữ “Đồng đất nước người” (Nửa đêm)
mang đậm nét riêng của vùng quê chiêm trũng của tác giả. Ngƣời viết đã
mang thắc mắc về câu thành ngữ lạ về vùng quê của nhà văn để tìm hiểu ngọn
nguồn. Vậy ra, nơi vùng quê ấy đất chật ngƣời đông, cứ tháng ba ngày tám thì
ngƣời dân lại phải đi nơi khác kiếm ăn cho qua ngày. Họ là dân “gạo ăn
đong”, bởi không có đất lƣơng thực, nên thƣờng thiếu đói và phải đi đong gạo
ăn khoảng ba tháng mỗi năm. Dân nơi đó cũng còn thƣờng sử dụng câu thành
ngữ “Gạo chợ, nước người” cũng với nghĩa của câu Đồng đất nước người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhƣ trên. Bởi thế, nếu không hiểu về vùng đất, con ngƣời nơi đó, có lẽ ít ai
hiểu hết đƣợc sự sáng tạo của nhà văn, khi đƣa câu thành ngữ này vào
trang viết.
Qua việc Nam Cao vận dụng thành công thành ngữ, tục ngữ vào trang
văn, đã có nảy sinh những thành ngữ, tục ngữ mới trên cơ sở sự vận dụng
sáng tạo của nhà văn. Cụ thể, khi nói đến nhân vật trong sáng tác Nam Cao –
một trong những nét riêng làm nên đặc trƣng, dấu ấn cho tên tuổi nhà văn,
dân gian hiện nay lại dùng ngay sáng tác của ông để ví von, vận dụng. Nhân
vật của Nam Cao hình thành từ hƣ cấu, dựa trên những nguyên mẫu có thật,
và rồi, từ nhân vật của ông lại đi vào đời sống thực tại. Bây giờ, ở đâu có
những kẻ say sƣa, sừng sỏ, đầu gấu, ngƣời ta gọi đó là thằng Chí Phèo, và
tránh xa không muốn dây vào. Bởi vậy, đã có những câu thành ngữ mới, nhƣ:
“Say như Chí Phèo”, hay “Nát như thằng Chí Phèo”, “Đồ Chí Phèo”, “Rạch
mặt ăn vạ”... Những cô gái xấu xí quá, ế chồng, lại ngẩn ngơ nữa, ngƣời ta
nói “Xấu như Thị Nở”, “Dở hơi như Thị Nở”, “Đúng là Thị Nở”... Tình yêu
của Chí Phèo, Thị Nở cũng đƣợc ví von: “Cặp đôi hoàn hảo”…
Cách sáng tạo của Nam Cao là ông đã khéo léo vận dụng thành ngữ, tục
ngữ vào sáng tác đúng chỗ, đúng mục đích sử dụng. Việc vận dụng đó đã làm
cho tác phẩm của ông hay hơn nhiều lần, và mang giá trị biểu cảm cao. Điều
này góp phần đƣa ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam trở nên hiện đại một cách
“đặc biệt”. Nó phát triển lên tầm cao hơn, trở nên sâu sắc, thấm thía hơn nhờ
nghệ thuật vận dụng của ngôn từ, mà Nam Cao là một trong những nhà văn
tiêu biểu góp sức cho công cuộc này.
Tiểu kết:
Vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo các dạng nhƣ trên để đáp ứng mục
đích sáng tác đã tạo đƣợc lối diễn đạt ấn tƣợng, hiệu quả cho mỗi trƣờng hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vận dụng của Nam Cao. Điều này đã tạo đƣợc hiệu ứng tốt cho quá trình tiếp
nhận tác phẩm của ông đến với độc giả, và khẳng định đƣợc tài năng điêu
luyện trong viêc sử dụng vốn ngôn ngữ tiếng Việt của nhà văn.
Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác Nam Cao đã đem đến
những hiệu quả nhất định: giá trị thẩm mĩ của tác phẩm đƣợc nâng cao, thêm
đặc sắc, độc đáo. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào hành văn khiến câu văn
của Nam Cao giàu hình ảnh, giàu sức gợi, và dễ ghi dấu ấn trong lòng ngƣời
đọc. Vì thế, hiệu quả tích cực mà thành ngữ, tục ngữ đem đến trong quá trình
sáng tạo văn chƣơng của Nam Cao chiếm ƣu thế nổi trội rất cần đƣợc
ghi nhận.
Khi viết văn, tác giả không có ý định gò câu gọt chữ, cân nhắc câu này
diễn đạt bằng thành ngữ, hay câu kia phải chọn tục ngữ. Với Nam Cao, mạch
văn, cảm xúc văn và cả việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào sáng tác đến
với ông rất nhuần nhị, tự nhiên. Nó bình dị nhƣ hơi thở của cuộc sống thƣờng
ngày. Chất văn của Nam Cao toát ra từ chất thực và sự giản dị đời thƣờng.
Ngôn ngữ trong văn chƣơng Nam Cao là ngôn ngữ nghệ thuật của cuộc đời.
Ông đã sống một đời sống thấm đẫm mồ hôi, nƣớc mắt, lời than thở và khát
vọng đổi đời của ngƣời nông dân, ngƣời trí thức. Vì vậy, ông đã nói lên tiếng
nói của họ bằng cách nói của họ. Văn với ngƣời là một, ngôn ngữ và tấm lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là một. Tài và tâm lấp lánh trong từng dòng, từng chữ.
KẾT LUẬN
1. Thành ngữ, tục ngữ là những câu nói vần điệu, giàu hình ảnh mang
hơi hƣớng gần gũi với ngôn ngữ đời thƣờng của ngƣời dân. Nó là cách nói
vần vè đƣợc ngƣời dân ƣa sử dụng và vận dụng trong mọi ngữ cảnh.
Tục ngữ đƣợc cấu tạo theo một hệ thống thi pháp riêng, khác những câu
nói thông thƣờng: Xuất phát từ thực tiễn nhƣng luôn giàu triết lý, là suy lý
nhƣng luôn thấm đƣợm tình cảm, chặt chẽ, đanh thép mà giàu hình ảnh, nhịp
nhàng xuôi tai thuận miệng, dễ thuộc dễ thấm vào hồn ngƣời.
2. Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ đã giúp cho mỗi ngƣời, mỗi nhân
vật trong tác phẩm có cách ứng xử phù hợp, thông minh, linh hoạt trƣớc các
đối tƣợng, hoàn cảnh, điều kiện xã hội khác nhau, tránh đƣợc những sai lầm
không đáng có.
Nam Cao đã vận dụng lời ăn tiếng nói của dân gian một cách sáng tạo
vào trong sáng tác của mình. Ông sử dụng thành ngữ cốt để cho câu nói vừa
ngắn gọn, hàm súc mà lại góp phần chuyển tải ngữ nghĩa một cách sinh động,
ấn tƣợng và thú vị. Khi sử dụng tục ngữ, câu văn nhƣ tăng thêm giá trị lập
luận, làm cho tác phẩm hay, chặt chẽ và đậm chất trí tuệ dân gian. Nam Cao
đã vận dụng thành công thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác với kiểu vận dụng
nguyên dạng, và cải biến (sử dụng một vế, đảo trật tự cú pháp, thêm bớt từ
ngữ, thay thế từ, mƣợn ý nguyên dạng thuận chiều và nghịch chiều).
Việc vận dụng đã tạo ra những giá trị về nội dung, về nghệ thuật, về sự
biểu cảm của lời văn. Nam Cao đã góp phần không nhỏ tạo ra sự lan xa, tỏa
rộng của “lời hay ý đẹp”, “lời khôn ý khéo” trong kho tàng tri thức dân gian.
3. Bằng tài năng và tâm huyết trong lao động sáng tạo, Nam Cao đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khẳng định đƣợc vị trí và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình. Riêng về
truyện ngắn, ông đƣợc suy tôn là cây bút bậc thầy. Vị trí cao cả này không
phải nhà văn nào cũng vƣơn tới đƣợc
Vì tất cả những lẽ trên, có thể khẳng định rằng, việc vận dụng thành ngữ,
tục ngữ vào trong sáng tác của Nam Cao là việc làm rất tích cực, và mang
nhiều ý nghĩa để tạo nên thế giới nhân vật đặc chất thôn quê Việt Nam. Hiệu
quả của việc vận dụng này cũng là thêm 1 khía cạnh khẳng định vẻ đẹp của
văn chƣơng, văn hóa, tâm hồn con ngƣời Nam Cao. Văn Nam Cao – thứ văn
chƣơng nóng hổi nƣớc mắt thƣơng đời. Ông đã là khuôn mẫu, là tấm gƣơng
lớn, đóng góp công lao đáng kể trong việc hình thành nhân cách, tài năng
ngƣời cầm bút. Thật chí lí khi nhận định rằng, Nam Cao làm ngƣời khác kinh
ngạc bằng câu thành ngữ, tục ngữ dẫn ra đúng chỗ bởi khối óc thông tuệ của
nhà văn.
4. Từ góc độ nghiên cứu của mình, chúng tôi hy vọng rằng những vấn đề
đặt ra trong đề tài có thể tiếp tục đƣợc nghiên cứu cặn kẽ và toàn diện hơn.
Không chỉ với riêng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao, mà sẽ
tìm kiếm, lƣu giữ những thành ngữ, tục ngữ đƣợc vận dụng qua văn chƣơng
hiện đại. Hy vọng với sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, tác giả đề tài sẽ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thêm kinh nghiệm nghiên cứu để tiếp tục đi sâu tìm hiểu vấn đề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
2. Phạm Tuấn Anh (2005), “Bi kịch của lòng tự trọng (Đọc truyện ngắn Lão
Hạc của Nam Cao)”, Tạp chí Văn học, (Số 1), tr. 26 – 29.
3. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu, Vũ Văn Sỹ, Phan Diễm Phƣơng (2000), Nam Cao
con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam Cao, Luận án tiến sĩ,
Viện văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Phan Cảnh (1965), “Bƣớc đầu tìm hiểu ngôn ngữ của Hồ Chủ Tịch
qua những lời kêu gọi”, Tạp chí Văn học, (Số 6), tr. 13 – 23.
6. Hà Châu (1970), “Bác Hồ với nguồn tục ngữ của dân tộc”, Tạp chí Văn
học, (Số 3), tr. 49 – 60.
7. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian – Mấy vấn đề phương pháp luận
và nghiên cứu thể loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Phan Thị Đào (1999), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
9. Phan Thị Đào (1997), “Tỉnh lƣợc nhƣ là một yếu tố cấu thành thi pháp tục
ngữ”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (Số 3), tr. 88 – 90.
10. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê
Chí Dũng, Hà Văn Đức (2004), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb
Giáo Dục.
11. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập, Tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập, Tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Dƣơng Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí
Minh.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
17. Dƣơng Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở (2012), Tìm hiểu cách vận dụng
thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam, http://ctu.edu.vn,
ngày 02/01/2012.
18. Thái Hòa (1980), “Tìm hiểu cách dùng tục ngữ trong bài viết và bài nói
của Hồ Chủ Tịch”, Tạp chí Ngôn ngữ,(Số 2), tr. 9 – 13.
19. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Việt Hƣơng (2000), Tục ngữ Việt Nam bản chất thể loại qua hệ
thống phân loại, Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Đinh Gia Khánh (2003), “Tục ngữ”, Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 353 – 371.
22. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2008), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tái bản lần thứ 11.
23. Nguyễn Xuân Kính (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Tập 1, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Xuân Kính (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Tập 1, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
25. Lê Nhật Ký (2011), Thành ngữ, tục ngữ trong truyện đồng thoại của Tô
Hoài, http://lenhatky.vnweblogs.com, ngày 15/4/2011.
26. Lâm Thị Thiên Lan (2012), Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày 03/3/2012.
27. Lƣơng Thị Lan (2004), Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
28. Mã Giang Lân (1993), Tục ngữ ca dao Việt Nam tuyển chọn và giới thiệu,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Lân (2006), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn
học, Hà Nội.
30. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
31. Hà Thị Liễu (2007), Ảnh hưởng của Văn học dân gian trong truyện ngắn
Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
32. Trần Gia Linh (1991), Những biến đổi quan trọng của thể loại tục ngữ
trong thời đại mới, Tạp chí Văn hóa dân gian, (Số 1), tr. 34 – 37.
33. Đỗ Quang Lƣu (1979), “Tục ngữ - châm ngôn và thời đại”, Tạp chí Văn
học, (Số 5), tr. 101 – 108.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam chân dung và phong cách,
Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Văn Mệnh (1972), “Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ”, Tạp
chí Ngôn ngữ, (Số 3), tr. 12 – 72.
37. Lê Hồng My, Nguyễn Thị Huệ (2010), Thành ngữ trong sáng tác của Ngô
Tất Tố và Nam Cao, http://dlu.edu.vn, ngày 22/11/2010.
38. Bùi Văn Nguyên (1980), “Âm vang tục ngữ ca dao trong thơ Quốc âm của
Nguyễn Trãi”, Tạp chí Ngôn ngữ, (Số 3), tr. 29 – 37.
39. Vũ Ngọc Phan (2000), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học,
Hà Nội.
40. Nguyễn Kim Phong (2007), “Tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở...?”, Tạp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chí Văn học, (Số 11), tr. 63 – 64.
41. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1990), Văn học dân
gian, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
42. Ngô Thị Thanh Quý (2010), Tìm trong tục ngữ nét văn hóa Việt, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội.
43. Trần Đăng Suyền (2001), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Thông (1998), Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào về
văn hóa ứng xử, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.
45. Bích Thu (2001), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
46. Phạm Thị Thu (2008), So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của
Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxkê Akutagawa (Nhật Bản), Luận văn
thạc sĩ, Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
47. Trƣơng Xuân Tiếu (1999), “Thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt với thơ Nôm
Đƣờng luật của Hồ Xuân Hƣơng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (Số 1), tr.
73 – 77.
48. Phạm Văn Tình (2007), “Phân biệt thành ngữ, tục ngữ nhƣ thế nào?”, Tạp
chí Văn học, (Số 6), tr. 60 – 62.
49. Phạm Văn Tình (2007), “Mỗi câu tục ngữ - một nửa lời khuyên”, Tạp chí
Văn học, (Số 11), tr. 22 – 23.
50. Lê Anh Trà (1960), “Cách viết của Hồ Chủ Tịch”. Tạp chí Nghiên cứu
văn học, (Số 5), tr. 30 – 38.
51. Trần Thị Trâm (2006), Từ nguồn cội văn chương, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
52. Cù Đình Tú (1970), “Hồ Chủ Tịch dùng thành ngữ, tục ngữ”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (Số 2), tr. 12- 16.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53. Hoàng Tiến Tựu (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
54. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm
từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.
55. Nguyễn Thế Vinh (2011), Nam Cao những mạch nguồn văn, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nam.
56. Trần Hải Yến (1998), “Phan Châu Trinh và việc sử dụng thành ngữ, tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (Số 4), tr. 64 – 70.
PHỤ LỤC
BẢNG KHẢO SÁT THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Đông nhƣ rƣơi Đặc như rươi [12; tr. 24] Những cánh hoa tàn
Xướng ca vô loài [12; tr. 32] Xƣớng ca vô loài Cảnh cuối cùng
Xướng ca vô loài [12; tr. 39] Xƣớng ca vô loài
Béo nhƣ lợn Béo như con lợn quay thật béo [12; tr. 41] TRUYỆN Nay đây mai đó Nay đây mai đó [12; tr. 43] Một bà hào hiệp NGẮN Chết mê chết mệt Chết mê chết mệt [12; tr. 43]
Vò đầu dứt tóc Vò đầu dứt tóc [12; tr. 45]
Tíu tít như con mẹ dại [12; tr. 53] Tíu tít nhƣ con mẹ dại Nghèo Khổ từ trong trứng Khổ từ trong bụng mẹ [12; tr. 57]
Da bọc xƣơng Xương bọc trong da [12; tr. 58]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giống nhƣ đúc Giống Nga như đúc [12; tr. 63] Đui mù Không đầu không cuối [12; tr. 65] Không đầu không
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
cuối
Đỏ nhƣ gấc chín Đỏ như gấc chín [12; tr. 71]
Cái chết của con Mực Nhìn trƣớc nhìn sau Trông trước trông sau [12; tr. 72]
Hai cái xác Láo nháo nhƣ tàu đêm Láo nháo như trong tàu đêm [12; tr. 80]
Tai liền miệng Tai liền miệng [12; tr. 83]
Coi ngƣời nhƣ cái rơm, cái rác Coi người như rơm như rác [12; tr. 84]
Không cha không mẹ Không cha không mẹ [12; tr. 84]
Ồn ào nhƣ chợ Ồn ào như chợ [12; tr. 85] TRUYỆN
Lép nhƣ trấu Lép như trấu [12; tr. 88] NGẮN
Khôn róc đời Khôn róc đời [12; tr. 88] Chí Phèo
Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân [12; tr. 88]
Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân
Mềm nắn rắn buông [12; tr. 88] Mềm nắn rắn buông
Đè đầu ấn cổ [12; tr. 88] Đè đầu cƣỡi cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Năm bè bảy mối [12; tr. 89] Năm bè bảy mối
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Cƣỡi đầu cƣỡi cổ Cưỡi đầu cưỡi cổ [12; tr. 89]
Bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu Bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu [12; tr. 89]
Đầu bò đầu bƣớu Đầu bò đầu bướu [12; tr. 89]
Thất cơ lỡ vận Thất cơ lỡ vận [12; tr. 89]
Tre già măng mọc Tre già măng mọc [12; tr. 90]
Hiền quá hóa ngu Hiền quá hóa ngu [12; tr. 90]
Nghèo rớt mồng tơi Nghèo rớt mồng tơi [12; tr. 90]
Đầu hai thứ tóc Đầu hai thứ tóc [12; tr. 91]
TRUYỆN
Của trời cho Chí Phèo NGẮN Của không dưng được trời cho [12; tr. 91]
Hiền lành nhƣ đất Hiền lành như đất [12; tr. 94]
Già néo đứt dây Già néo đứt dây [12; tr. 94]
Tứ cố vô thân Tứ cố vô thân [12; tr. 95]
Biết mềm biết cứng Biết mềm biết cứng [12; tr. 95]
Đâu lại vào đấy Lại đâu vào đấy [12; tr. 96]
Thân lừa ƣa nặng Cái giống nhà mày không ưa nhẹ [12; tr. 97]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Gãi đầu gãi tai Gãi đầu gãi tai [12; tr. 98]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Trời tru đất diệt Trời tru đất diệt [12; tr. 98]
Về làng về nƣớc Về làng về nước [12; tr. 98]
Thƣớc đất cắm dùi Thước đất cắm dùi [12; tr. 98]
Tức nhƣ chọc họng Tức như chọc họng [12; tr. 99]
Khát cháy họng Khát đến như cháy họng [12; tr. 104]
Ông cả bà lớn Ông cả bà lớn [12; tr. 105]
Bò nhƣ cua Bò như cua [12; tr. 105]
Ma chê quỷ hờn Ma chê quỷ hờn [12; tr. 108]
Hiền y nhƣ mèo Hiền y như mèo [12; tr. 108] TRUYỆN Chí Phèo Mát nhƣ quạt hầu Mát như quạt hầu [12; tr. 109] NGẮN
Mát nhƣ quạt hầu Mát y như quạt hầu [12; tr. 110]
Cày thuê cuốc mƣớn Cuốc mướn cày thuê [12; tr. 114]
Trời đánh không chết [11; tr. 116] Trời đánh không chết
Già chẳng trót đời Ngoài ba mươi tuổi, mà chưa trót đời [12; tr. 121]
Rạch mặt ăn vạ Rạch mặt ăn vạ [12; tr. 121]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhạt nhƣ nƣớc ốc Nhạt như nước ốc [12; tr. 123]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Trời có mắt Trời có mắt [12; tr. 125]
Tre già măng mọc Tre già măng mọc [12; tr. 126]
Thiệt ngƣời thiệt của Thiệt người lại thiệt của [12; tr. 126] Chí Phèo Hiền nhƣ đất Hiền như đất [12; tr. 126]
Quanh năm suốt tháng [12; tr. 133] Quanh năm suốt tháng
Manh áo che thân Manh áo che thân [12; tr. 133]
Hai khối óc
Giàu sang từ trong trứng giàu ra [12; tr. 139]
Giàu từ trong trứng giàu ra, khó từ ngã bảy ngã ba khó về TRUYỆN
Đen nhƣ mực Đen như mực [12; 141] NGẮN Ma đƣa Ăn giập bã trầu Ăn giập bã trầu [12; 144]
Ngu nhƣ bò Ngu như một đàn bò [12; tr. 153]
Tối nhƣ hang Tối như hang [12; tr. 154]
Thản nhiên như không [12; 158] Thản nhiên nhƣ không Chú khì
Cái cày trước con trâu [12; tr. 158] Cái cày đi trƣớc con trâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đất khách quê ngƣời Đất khách quê người [12; tr. 162]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Được ăn thua chịu [12; tr. 164] Đƣợc ăn thua chịu
Tấm áo manh quần Manh quần tấm áo [12; tr. 172] Dì Hảo
Chạy ngược chạy xuôi [12; tr. 173]
Dì Hảo
TRUYỆN NGẮN
Đôi móng giò
Chiều hôm ban mai [12; tr. 174] Một nắng hai sương [12; tr. 174] Ăn no mặc lành [12; tr. 176] Con dòng cháu giống [12; tr. 179] Buôn thua bán lỗ [12; tr. 181] Tiền văn minh, hậu nhà sư [12; tr. 185] Cái ăn cái mặc [12; tr. 185] Cười như điên [12; tr. 187] Đi đó đi đây [12; tr. 187] Rừng xanh núi đỏ [12; tr. 187] Đè đầu đè cổ [12; tr. 188] Há miệng mắc quai [12; tr. 189]
Chạy nhăng hơn tĩnh tọa [12; tr. 190]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chạy ngƣợc chạy xuôi Chiều hôm ban mai Một nắng hai sƣơng Ăn no mặc lành Con dòng cháu giống Buôn thua bán lỗ Tiền văn minh, hậu nhà sƣ Cái ăn cái mặc Cƣời nhƣ điên Đi đó đi đây Rừng xanh núi đỏ Đè đầu cƣỡi cổ Há miệng mắc quai Chạy nhăng hơn tĩnh tọa Nhân lão tâm bất Nhân lão tâm bất lão [12; tr. 190]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Một miếng giữa làng [12; tr. 190]
lão Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp
Sống khổ sống sở Sống khổ sống sở [12; tr. 196]
Thắt lƣng buộc bụng Thắt lưng buộc bụng [12; tr. 198]
Cƣời nhƣ mếu Cười như mếu [12; tr. 200] Lão Hạc
Chết không nhắm mắt [12; tr. 203] Chết không nhắm mắt
Cắn rơm cắn cỏ Cắn rơm cắn cỏ [12; tr. 204]
TRUYỆN Oang oang nhƣ ngỗng đực Oang oang như ngỗng đực [12; tr. 209] Con mèo NGẮN Oang oang nhƣ mõ Oang oang như mõ [12; tr. 209]
Ngủ nhƣ chết Ngủ như chết [12; tr. 212]
Sắc nhƣ dao Sắc như dao [12; tr. 215]
Nghèo từ trong trứng Nghèo từ trong trứng nghèo ra [12; tr. 216] Một đám cƣới Có da có thịt Có da có thịt [12; tr. 218]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Béo như con cun cút [12; tr. 218] Béo nhƣ con cun cút
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Chân yếu tay mềm Chân yếu tay mềm [12; tr. 218]
Thổi cơm không chín quét nhà chẳng nên [12; tr. 219] Thổi cơm không chín quét nhà chẳng nên
Đào ông bới cha Đào ông bới cha [12; tr. 219]
Thóc cao gạo kém Gạo kém thóc cao [12; tr. 221]
Chết đói cả lũ Chết đói cả lũ [12; tr. 221]
Chẳng té cơm cũng té cháo Chẳng được cơm thì cũng được cháo [12; tr. 222]
Tiền rừng bạc bể [12; tr. 222]
Tiền rừng bạc bể tay không hững hờ TRUYỆN
Một đám cƣới NGẮN Giàu bán chó, khó bán con Giàu bán chó, khó bán con [12; tr. 227]
Đắt nhƣ nhân sâm Đắt thì ngang với nhân sâm [12; tr. 229]
Miếng bùi chui qua cổ [12; tr. 229] Miếng bùi chui qua cổ
Sinh con đẻ cái Sinh con đẻ cái [12; tr. 230]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chín bỏ làm mười [12; tr. 232] Chín bỏ làm mƣời
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Mâm cao cỗ đầy Mâm cao cỗ đầy [12; tr. 232]
Van ông lạy bà Van ông lạy bà [12; tr. 233]
Mát lòng mát ruột Mát lòng mát ruột [12; tr. 233]
Khôn đòn quan, gái ngoan đòn chồng [12; tr. 236] Trai khôn đòn quan, gái ngoan đòn chồng
Bố bảo không dám Đòn chồng Bố tôi có sống lại mà bảo tôi, tôi cũng không dám làm [12; tr. 236]
Mắt năm mắt mười [12; tr. 238] Mồm năm miệng mƣời
Xám nhƣ chàm Xám như chàm [12; tr. 239] TRUYỆN Nhạt nhƣ nƣớc lã Nhạt như nước lã [12; tr. 245] NGÁN Tự cổ chí kim Tự cổ chí kim [12; tr. 246]
Buộc chỉ cổ tay [12; tr. 246]
Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó Từ rày buộc chỉ cổ tay, chim đậu thì bắt chim bay thì đừng
Miếng ăn là miếng nhục [12; tr. 248] Miếng ăn là miếng nhục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trông gà hóa cuốc [12; tr. 249] Trông gà hóa
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
cuốc
Giàu nuôi chó, khó nuôi heo Nuôi gà hay nuôi chó còn phải tùy gia cảnh [12; tr. 249]
Nghèo rớt mồng tơi Nghèo rớt mồng tơi [12; tr. 249]
Sắc nhƣ dao Sắc như dao [12; tr. 252]
Ăn hoang phá hại Ăn hoang phá hại [12; tr. 253]
Ngang nhƣ cua Ngang như cua [12; tr. 254]
Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó Thƣợng cẳng chân, hạ cẳng tay Thượng cẳng tay, hạ cẳng chân [12; tr. 255]
Con sâu cái kiến Con sâu cái kiến [12; tr. 259]
Mò cua bắt ốc Móc cua, mò ốc [12; tr. 265]
TRUYỆN Quý hồ thật to [12; tr. 265] Quý hồ ly bất quý hồ đa NGẮN
Đầu trộm đuôi cƣớp Đầu trộm đuôi cướp [12; tr. 268] Quái dị
Dựng ngƣợc tóc gáy Tóc gáy tôi dựng ngược [12; tr. 269]
Tối nhƣ hũ nút Tối như hũ nút [12; tr. 272]
Xám nhƣ gio Xám như gio [12; tr. 272]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thắt lƣng buộc bụng Thắt lưng buộc bụng [12; tr. 275] Một bữa no Chạy xạc gấu váy Chạy xạc cả gấu váy [12; tr. 276]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Thập tử nhất sinh Thập tử nhất sinh [12; tr. 276]
Có làm mới có ăn Thức ăn không tự nhiên chạy vào mồm, có làm thì mới có [12; tr. 276]
Tức sặc tiết Người ta tức bà đến gần sặc tiết [12; tr. 277]
Trái gió trở trời Trái gió trở trời [12; tr. 277]
Trơn lông đỏ da Trơn lông đỏ da [12; tr. 282]
Nửa đùa nửa thật Nửa đùa nửa thật [12; tr. 283]
No dồn, đói góp No dồn, đói góp [12; tr. 286] Một bữa no
No nứt bụng Ăn cho nứt bụng ra thì ăn làm gì [12; tr. 287]
Tối tăm mặt mũi Tối tăm mặt mũi [12; tr. 288] TRUYỆN Gầy giơ xƣơng Gầy giơ xương [12; tr. 296] NGẮN
Từ ngày mẹ chết
Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết thì liếm lá dọc đàng [12; tr. 296]
Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết thì liếm lá dọc đàng
Thời nào tiết ấy Thời nào tiết ấy [12; tr. 302]
Mƣa thuận gió hòa Mưa thuận gió hòa [12; tr. 303] Làm tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đen nhƣ mực Đen như mực [12; tr. 304]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Khóc hu hu như cha chết [12; tr. 305] Khóc nhƣ cha chết
Rẻ như bèo [12; tr. 307] Rẻ nhƣ bèo, đông heo cũng hết
Vong gia thất thổ [12; tr. 309] Vong gia thất thổ
Mò cua bắt ốc [12; tr. 310] Mò cua bắt ốc
Tay làm hàm nhai Làm tổ Tay có làm thì hàm mới nhai [12; tr. 310]
Bóp mồm bóp miệng Bóp mồm bóp miệng [12; tr. 320]
Bèo cũng không rẻ thế [12; tr. 321] Rẻ nhƣ bèo, đông heo cũng hết
Trẻ con không biết đói Dở ngƣời dở ngợm Người dở người, ngợm dở ngợm [12; tr. 322] TRUYỆN
Nói ra nói vào Nói ra nói vào [12; tr. 322] NGẮN
Tự cổ chí kim Tự cổ chí kim [12; tr. 324]
Chân nam đá chân xiêu [12; tr. 324] Chân nam đá chân xiêu Thôi đi về Vạt áo vắt vai Vạt áo vắt vai [12; tr. 324]
Ông bà ông vải Ông bà ông vải [12; tr. 325]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nuốt không trôi Nuốt của nó không trôi [12; tr. 325]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Không có lửa sao có khói Không có lửa thì lấy đâu ra khói [12; tr. 326]
Trơ mắt ếch Trơ mắt ếch [12; tr. 327]
Kêu trời kêu đất Kêu trời kêu đất [12; tr. 327]
Nghèo vẫn hoàn nghèo [12; tr. 331] Nghèo vẫn hoàn nghèo
Nát nhƣ tƣơng Nát như tương [12; tr. 334]
Mặt nhăn nhƣ mặt khỉ Mặt lúc nào nhăn nhó như mặt khỉ [12; tr. 335]
Đầy nhƣ mâm xôi Đầy lù lù như một mâm xôi [12; tr. 336]
Có tiền có của Có tiền có của [12; tr. 337]
Đè đầu cƣỡi cổ Cưỡi lên đầu lên cổ [12; tr. 337] Mua danh TRUYỆN Ngu nhƣ bò Ngu như bò [12; tr. 337] NGẮN Van ông lạy bà Van ông lạy bà [12; tr. 338]
Thấy bở đào mãi Thấy bở nên đào mãi [12; tr. 340]
Trốn nhƣ trạch Trốn như trạch [12; tr. 340]
Tự cổ chí kim Tự cổ chí kim [12; tr. 343]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Im nhƣ thóc Im như thóc [12; 346] Tƣ cách mõ Tham nhƣ mõ Tham như mõ [12; tr. 346]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Tham nhƣ mõ Nếu nó không tham sao nó làm mõ [12; tr. 346]
Hiền nhƣ đất Hiền như đất [12; tr. 346]
Cày thuê cuốc mƣớn Cày thuê cuốc mướn [12; tr. 347]
Túng làm liều Túng làm liều [12; tr. 347]
Kẻ trên người dưới [12; tr. 348] Kẻ trên ngƣời dƣới
Làm thuê làm mƣớn Làm thuê làm mướn [12; tr. 349]
Tham nhƣ mõ Tham như mõ [12; tr. 353] Tƣ cách mõ
Tham nhƣ mõ Tham như mõ [12; tr. 353]
No căng bụng No đến căng bụng [12; tr. 355]
Nuốt không trôi Nuốt chẳng trôi [12; tr. 358]
TRUYỆN Tham nhƣ mõ Ăn tham rồi chỉ làm đến mõ mà thôi [12; tr. 358] NGẮN
Ở hiền gặp lành Ở hiền Ở hiền không phải bao giờ cũng gặp lành [12; tr. 358]
Nói nhƣ băm, nhƣ bổ Nói chan chát như băm như bổ [12; tr. 361]
Tay hòm chìa khóa Tay hòm chìa khóa [12; tr. 361]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mua rẻ bán đắt Bán thì rẻ mà mua thì lại thường đắt
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
[12; tr. 362]
Tay hòm chìa khóa Tay hòm chìa khóa [12; tr. 363]
Có sừng có mỏ Đủ sừng đủ mỏ [12; tr. 363]
Đƣợc chừng nào hay chừng ấy Được ít chừng nào hay chừng ấy [12; tr. 364]
Lợi bất cập hại Lợi nhiều hơn hại [12; tr. 364]
Hoa hòe hoa sói Hoa hòe hoa sói [12; tr. 364]
Hoa hòe hoa sói Hoa hòe hoa sói [12; tr. 364]
Con gái có thì Con gái có thì [12; tr. 364]
Chị trƣớc em sau Em trước chị sau [12; tr. 364]
Hiền nhƣ đất nặn Hiền như đất nặn [12; tr. 366] Ở hiền
Cậy của cậy tài Cậy của cậy tài [12; tr. 367] TRUYỆN Chắc nhƣ đinh đóng cột Như đinh đóng cột [12; tr. 369] NGẮN Khóc nhƣ mƣa Khóc như mưa [12; tr. 369]
Chạy ngược chạy xuôi [12; tr. 370] Chạy ngƣợc chạy xuôi
Rửa hờn Cái khố chẳng có mà đeo [12; tr. 371] Cái khố chẳng có mà đeo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ném đá dấu tay Ném đá dấu tay [12; tr. 372]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Sần nhƣ vỏ cam Sần sùi như một cái vỏ cam sành [12; tr. 373]
Khinh nhƣ rác Khinh tôi như rác [12; tr. 374]
Giận cá chém thớt Giận cá chém thớt [12; tr. 374]
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết Trâu bò chọi nhau thì mặc kệ trâu bò, chết ruồi muỗi là chết làm sao được [12; tr. 374]
Cắn rơm cắn cỏ Cắn rơm cắn cỏ [12; tr. 377]
Khôn sống dại chết Khôn sống dại chết [12; tr. 381]
Dốt nhƣ bò Dốt như bò [12; tr. 381]
Cơm nhà ma vợ Cơm nhà ma vợ [12; tr. 381]
Rình trộm Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp [12; tr. 383] TRUYỆN Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp
NGẮN Chuột gậm chân mèo [12; tr. 383] Chuột gậm chân mèo
Chuột gậm chân mèo Chuột lại cứ đòi gậm chân mèo à [12; tr. 387]
Chạy ngƣợc chạy xuôi Chạy ngược chạy xuôi [12; tr. 388]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một truyện xú - vơ - nia Dại nhƣ vích Dại như vích [12; tr. 389]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Nhăn nhƣ mặt khỉ Mặt nhăn nhó như mặt khỉ [12; tr. 389]
Mồm năm miệng mười [12; tr. 392] Mồm năm miệng mƣời
Gái hơn hai trai hơn một [12; tr. 394] Gái hơn hai giai hơn một
Nghèo rớt mồng tơi Nghèo rớt mồng tơi [12; tr. 395]
Con cú đậu cành mai Con cú đậu cành mai [12; tr. 396]
Túm năm tụm ba Khổ từ trong trứng Trẻ nhƣ măng Túm năm tụm ba [12; tr. 397] Khổ từ trong trứng khổ ra [12; tr. 404] Trẻ như măng [12; tr. 405]
Có năm có bảy Có năm có bảy [12; tr. 406]
Chết khô chết nỏ Chết khô chết nỏ [12; tr. 406]
Một tấc đến giời Một tấc đến giời [12; tr. 407] TRUYỆN Nhìn ngƣời ta sung sƣớng Ăn càn nói bậy Ăn càn nói bậy [12; tr. 407] NGẮN Nay ốm mai đau Nay ốm mai đau [12; tr. 407]
Được người được nết [12; tr. 407] Đƣợc ngƣời đƣợc nết
Váng mình sốt mẩy Váng mình sốt mẩy [12; tr. 408]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lang Rận Thầy già, con hát Thầy già, con hát trẻ [12; 413]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
trẻ
Trông mặt mà bắt hình dong Trông mặt mà bắt hình dong [12; tr. 413]
Có bệnh thì vái tứ phương [12; tr. 414] Có bệnh thì vái tứ phƣơng
Rận lắm hơn giòi Rận lắm hơn giòi [12; tr. 416]
Đầu gio mặt muội Đầu gio mặt muội [12; tr. 418]
No lắm rửng nhiều No lắm rửng nhiều [12; tr. 418]
Nhƣ mèo thấy mỡ Như mèo thấy mỡ [12; tr. 419]
Béo trục béo tròn Béo trục béo tròn [12; tr. 419]
Mắt trắng môi thâm Mắt trắng, môi thâm, da thiết bì [12; tr. 419]
Mắng nhƣ băm nhƣ bổ Mắng như băm như bổ [12; tr. 419]
Im nhƣ thóc Im như thóc [12; tr. 419] TRUYỆN Lang Rận
NGẮN Ngọn nguồn lạch sông [12; tr. 422] Ngọn nguồn lạch sông
Mặt sƣng nhƣ mặt thớt Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt [12; tr. 427]
Tím ruột tím gan Tím ruột tím gan [12; tr. 428]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điếu văn Giãy nhƣ đỉa phải Lăn lộn trên đường như một con đỉa
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
vôi phải vôi [12; tr. 429]
Quý nhƣ vàng Quý hơn vàng [12; tr. 431]
Uống nước lã cầm hơi [12; tr. 432] Uống nƣớc lã cầm hơi
Thức khuya dậy sớm Dậy sớm thức khuya [12; tr. 432]
Nói nhƣ móc họng Nói cho như móc họng [12; tr. 433]
Vắt mũi đút miệng [12; tr. 434] Vắt mũi đút miệng
Được bữa hôm lo bữa mai [12; tr. 434] Đƣợc bữa hôm lo bữa mai
Thánh nhân đãi khù khờ [12; tr. 435] Thánh nhân đãi khù khờ Điếu văn Cơm bƣng nƣớc rót Cơm bưng nước rót [12; tr. 436]
Mát lòng mát ruột Mát lòng mát ruột [12; tr. 440]
TRUYỆN So vai rụt cổ So vai rụt cổ [12; tr. 443]
NGẮN Răng bàn cuốc Răng bàn cuốc [12; tr. 444] Đón khách Đỏ nhƣ gấc chín Đỏ như gấc chín [12; tr. 446]
Cha sinh mẹ đẻ Từ thuở cha mẹ đẻ [12; tr. 453]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đen như cột nhà cháy [12; tr. 456] Nửa đêm Đen nhƣ cột nhà cháy
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Gạo thừa cơm nguội Gạo thừa cơm nguội [12; tr. 457]
Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn [12; tr. 459] Đồng tiền đi trƣớc đồng tiền khôn
Mềm như con bún [12; tr. 462] Mềm nhƣ cọng bún
Làm xuôi làm ngƣợc Làm xuôi làm ngược [12; tr. 463]
Đổ đình đổ chùa Đổ đình đổ chùa [12; tr. 463]
Nghĩa tử là nghĩa tận [12; tr. 464] Nghĩa tử là nghĩa tận
Tháo cũi xổ lồng Tháo cũi xổ lồng [12; tr. 465]
Không cha không mẹ Thằng bé không cha lại thành ra không mẹ [12; tr.466]
Hiền nhƣ đất Hiền như đất [12; tr. 468]
TRUYỆN Nhìn ngược nhìn xuôi [12; tr. 469] Nửa đêm Nhìn ngƣợc nhìn xuôi NGÁN
Bữa đói bữa no [12; tr. 471]
Bữa cơm bữa cháo, bữa đói bữa no
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trắng như con lợn cạo [12; tr. 474] Trắng ơn ởn nhƣ lợn cạo lông
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Tiền nào của ấy Tiền nào của ấy [12; tr. 475]
Câm nhƣ hến Câm như hến [12; tr. 480]
Câm nhƣ hến Câm như hến [12; tr. 483]
Nói nhƣ khƣớu Nói huyên thuyên như con khướu [12; tr. 483]
Xấu nhƣ ma Xấu xí như ma [12; 486]
Đẹp nhƣ tiên Đẹp như tiên [12; tr. 486]
Thắt lƣng buộc bụng Thắt lưng buộc bụng [12; tr. 487]
Đồng đất nƣớc ngƣời Đồng đất nước người [12; tr. 489]
Coi ngƣời nhƣ cái rơm, cái rác Coi tôi như cái rác, cái rơm [12; tr. 495]
Giết ngƣời nhƣ ngóe Giết người như ngóe [12; tr. 500]
Trời có mắt Trời có mắt [12; tr. 502] Nửa đêm TRUYỆN
Đời cha ăn mặn, đời con khát nƣớc Đời cha ăn mặn, đời con khát nước [12; tr. 502] NGẮN
Trời cao đất dày Trời cao đất dày [12; tr. 502]
Đầu xuôi đuôi lọt Đầu xuôi đuôi ngược [12; tr. 515]
Trời cao đất dày Trời cao đất dày [12; tr. 517] Tình già
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người ghét của ưa [12; tr. 520] Ngƣời ghét của yêu
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Già còn chơi trống bỏi [12; tr. 526] Già còn chơi trống bỏi
Ông cả bà nhớn Ông cả bà nhớn [12; tr. 526]
Nhìn xa trông rộng Nhìn rộng biết xa [13; tr. 15]
Cái mặt không chơi đƣợc Đảo đồng đảo địa Đảo đồng đảo địa [13; tr. 19]
Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào [13; tr. 20] Thấy ngƣời ăn khoai cũng vác mai đi đào Những chuyện không muốn viết
Mặt y nhăn như mặt hổ phù [13; tr. 23] Mặt nhăn nhƣ mặt hổ phù
Chết dấm chết dúi Chết dấm chết dúi [13; tr. 23]
Giết người không gươm [13; tr. 23] Giết ngƣời không gƣơm
Cha sinh mẹ đẻ Từ thuở cha mẹ đẻ [13; tr. 23] TRUYỆN Tan xƣơng nát thịt Tan xương nát thịt [13; tr. 24]
NGẮN Những chuyện không muốn viết Ngay mặt ra như cán tàn [13; tr. 25] Mặt ngay nhƣ cán tàn
Đầu xuôi đuôi lọt Đầu xuôi đuôi ngược [13; tr. 25]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chẳng đƣợc cơm thì đƣợc cháo Chẳng được cơm thì được cháo [13; tr. 26]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Thăm cửa thăm nhà Thăm cửa thăm nhà [13; tr. 31]
Chết cả con lẫn mẹ Chết cả con lẫn mẹ [13; tr. 34] Truyện tình
Sớm biết sớm khôn Sớm biết sớm khôn [13; tr. 35]
Ngon hay không tại miệng Ngon hay không là tại miệng [13; tr. 42]
Con ăn đứa ở Con ăn đứa ở [13; tr. 48] Nhỏ nhen
Thắt lƣng buộc bụng Thắt lưng buộc bụng [13; tr. 49]
Ăn đói mặc rách Ăn đói mặc rách [13; tr. 49]
Năm chừng mười họa [13; tr. 52] Giăng sáng Năm chừng mƣời họa
Ăn ngon mặc đẹp Ăn ngon mặc đẹp [13; tr. 61] Giăng sáng Giãy nhƣ đỉa phải vôi Giãy lên như đỉa phải vôi [13; tr. 63]
Cổ nhân chê kẻ sĩ Cổ nhân chê kẻ sĩ [13; tr. 66]
Cơm ăn áo mặc TRUYỆN Cơm ăn không được ngon, áo mặc không được lành [13; tr. 66] Mua nhà NGẮN Chạy ngược chạy xuôi [13; tr. 73] Chạy ngƣợc chạy xuôi
Hớt tay trên Hớt tay trên [13; tr. 74]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khóc nhƣ mƣa Khóc như mưa [13; tr. 78] Đời thừa Nay ốm mai đau Nay ốm mai đau [13; tr. 78]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Mẹ già con dại Mẹ già con dại [13; tr. 78]
Ngủ say nhƣ chết Ngủ say như chết [13; tr. 83]
Nhƣ con nhện ôm khƣ khƣ bọc trứng Như con nhện ôm khư khư bọc trứng [13; tr. 83]
Nhịn ăn nhịn mặc Nhịn ăn nhịn mặc [13; tr. 85]
Coi ngƣời nhƣ cái rơm, cái rác Coi người như rác, như rơm [13; tr. 97]
Sao lại thế này
Ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời Ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời [13; tr. 99]
No dồn, đói góp No dồn, đói góp [13; 100]
Ngủ nhƣ chết Ngủ như chết [13; tr. 105]
Cải lão hoàn đồng Cải lão hoàn đồng [13; tr. 105]
Tự kỷ ám kỷ Tự kỷ ám kỷ [13; tr. 108]
Gắt nhƣ mắm tôm Gắt như mắm thối [13; tr. 109] TRUYỆN Rối nhƣ canh hẹ Rối lên như canh hẹ [13; tr. 109] Cƣời NGẮN Nói như đổ mẻ vào mặt [13; tr. 109] Nói nhƣ đổ mẻ vào mặt
Ăn hoang phá hoại Ăn hoang phá hoại [13; tr. 109]
Khổ đêm khổ ngày Khổ đêm khổ ngày [13; tr. 109]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tiếng bấc đƣa đi, Tiếng bấc đưa đi, tiếng chì quăng lại
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
tiếng chì quăng lại [13; tr. 114]
Nói toạc móng heo Nói toạc móng heo [13; tr. 135]
Ngồi trơ mắt ếch Ngồi trơ mắt ếch [13; tr. 135] Nƣớc mắt Nay ốm mai đau Nay ốm mai đau [13; tr. 140]
Khổ nhƣ chó Khổ như một con chó [13; tr. 141]
Hiền như ông bụt đất [13; tr. 147] Hiền nhƣ ông bụt đất
Đắt nhƣ nhân sâm Đắt như nhân sâm [13; tr. 150] Bài học quét nhà
Đến đâu hay đến đấy [13; tr. 151] Đến đâu hay đến đó
Như điên như dại [13; tr. 156] Nhƣ điên nhƣ dại
Nóng như lửa đốt [13; tr. 157] Nóng nhƣ lửa đốt
Tha phƣơng cầu thực Tha phương cầu thực [13; tr. 166]
Lại đâu vào đấy Lại đâu vào đấy [13; tr. 167] Xem bói TRUYỆN
Ngang nhƣ cua Ngang như cua [13; tr. 167] NGẮN Nhân tình nhân ngãi Nhân tình nhân ngãi [14; tr. 324] Mò sâm banh Chạy bở hơi tai Chạy một tua bở hơi tai [14; tr. 329]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Của chìm của nổi Của chìm của nổi [14; tr. 351] Đƣờng vô Nam Ăn trắng mặc trơn Ăn trắng mặc trơn [14; tr. 351]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Vợ đẹp con khôn Vợ đẹp con khôn [14; tr. 352]
Khóc hết nƣớc mắt Khóc hết nước mắt [14; tr. 353]
Ăn không nên đọi, nói không nên lời Ăn không nên đọi, nói không nên lời [14; tr. 355]
Cắn răng mà chịu Cắn răng vào mà chịu [14; tr. 362]
Túng đói quá sinh liều [14; tr. 364] Đói ăn vụng, túng làm liều
Cách mạng Rẻ như bèo [14; tr. 366] Rẻ nhƣ bèo, đông heo cũng hết
Bày mƣu tính kế Bày mưu tính kế [14; tr. 376]
Mất ăn mất ngủ Mất ăn mất ngủ [14; tr. 381]
Gắt nhƣ mắm tôm Gắt như mắm thối [14; tr. 388] Cách mạng
Ăn nhịn để dè Ăn nhịn để dè [14; tr. 463]
TRUYỆN Ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc [14; tr. 463] Đôi mắt Ăn không dám ăn, mặc không dám mặc NGẮN
Cƣời chảy nƣớc mắt Cười nhiều quá, phát ho chảy cả nước mắt [14; tr. 493]
Mua rẻ bán đắt Mua rẻ bán đắt [14; tr. 487]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trên những con đƣờng Việt Bắc Năm chừng mười họa [14; tr. 490] Năm chừng mƣời
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
họa
Ma thiêng nƣớc độc Ma thiêng nước độc [14; tr. 490]
Vườn không nhà trống [14; tr. 493] Vƣờn không nhà trống
Đầu đội vai mang Đầu đội vai mang [14; tr. 504] Từ ngƣợc về xuôi Hại dân hại nƣớc Hại nước hại dân [14; tr. 504]
Chạy đằng giời Chạy đằng giời [14; tr. 520] Bốn cây số cách một căn cứ địch
Của chìm của nổi Vui dân công Của chìm chẳng biết có những gì, nhưng của nổi… [14; tr. 529]
Vào sinh ra tử [14; tr. 547] Trần Cừ
Vào sinh ra tử Trái duyên lỡ kiếp Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt Trái duyên lỡ kiếp [14; tr. 559] Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt [14; tr. 559]
Ăn xổi ở thì Ăn xổi ở thì [14; tr. 571] Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng KÝ
Tay có ngón dài ngón ngắn Tay cũng có ngón dài ngón ngắn [14; tr. 581]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhẵn củ tỏi Nhẵn củ tỏi [14; tr. 641] Định mức Câm nhƣ thóc Câm như thóc [14; tr. 643]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Đánh bùn sang ao [14; tr. 643]
Đánh bùn sang ao giắt nhau xuống giếng
Sẩy vai chị đến vai em [14; tr. 643] Sẩy vai chị đến vai em
Tƣơi nhƣ hoa Tươi như hoa [14; tr. 647]
Trong ấm ngoài êm Trong ấm ngoài êm [14; tr. 652]
Trên thuận dƣới hòa Trên thuận dưới hòa [14; tr. 652]
Mê nhƣ điếu đổ Mê như điếu đổ [14; tr. 653]
Lạnh nhƣ tiền Lạnh như tiền [14; tr. 656]
Năng nhặt chặt bị Năng nhặt không chặt bị đấy à [14; 657]
Góp cây nên rừng Góp cây thành rừng [14; tr. 657]
Nuốt không trôi Không trôi cũng phải cố nuốt [14; tr. 657]
KÝ Đồng cam cộng khổ Đồng cam cộng khổ [14; tr. 659] Định mức
Trơ trơ như hòn đá ráp [14; tr. 660] Trơ nhƣ đá, vững nhƣ đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tiền lƣng thóc đụn Tiền lưng thóc đụn [13; tr. 171] TRUYỆN Ngƣời thợ rèn Ngồi rỗi ăn không Ngồi rỗi ăn không [13; tr. 174]
Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Thể loại THIẾU NHI Mềm nhƣ bún Mềm như bún [13; tr. 176]
Giấy rách phải giữ lấy lề [13; 182] Giấy rách phải giữ lấy lề
Dở hơi nhƣ cám hấp Dở hơi như cám hấp [13; tr. 183]
Quê cha đất tổ Quê cha đất tổ [13; tr. 185]
Tha phƣơng cầu thực Tha phương cầu thực [13; tr. 185]
Chết đƣờng chết chợ Chết chợ chết đường [13; tr. 185]
Áo gấm về làng Áo gấm về làng [13; tr. 187]
Túng làm liều Túng quá nên nghĩ liều [13; 194]
Vô công rồi nghề Vô công rồi nghề [13; tr. 197]
Cơm ăn áo mặc Cơm ăn áo mặc [13; tr. 198]
Mở cờ trong bụng Mở cờ trong bụng [13; tr. 201] Nụ cƣời Con ăn đứa ở Con ăn đứa ở [13; tr. 206]
Họa vô đơn chí Cái họa không bao giờ đến một mình [13; tr. 208]
Rét nhƣ cắt ruột Rét như cắt ruột [13; tr. 212]
Nụ cƣời TRUYỆN THIẾU NHI Bữa đói bữa no [13; tr. 214]
Bữa cơm bữa cháo, bữa đói bữa no
Cơm cha, áo mẹ, Cơm cha, áo mẹ [13; tr. 218]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
công thầy
Đào công bới việc Đào công bới việc [13; tr. 236]
Vụng thầy tớ lão Vụng thầy tớ lão [13; tr. 238]
Chân nam đá chân xiêu [13; tr. 241] Chân nam đá chân xiêu
Tiên lấy cú Tiên lấy cú [13; tr. 243]
TRUYỆN Cứng như sắt nguội [13; tr. 247] Cứng nhƣ sắt nguội Ngƣời hàng xóm DÀI
Năm chừng mười họa [13; tr. 247] Năm chừng mƣời họa
Cơm thừa canh cặn Những hạt cơm thừa, những lưng canh cặn [13; tr. 248]
Qua sông phụ công Qua sông phụ công [13; tr. 255]
Lạ nƣớc lạ cái Lạ nước lạ cái [13; tr. 257]
Mang thù chuốc oán Mang thù mang oán [13; tr. 257]
Mật ít ruồi nhiều Ruồi nhiều mật ít [13; tr. 258] TRUYỆN Giận tím mặt Giận thâm tím mặt [13; tr. 258] Ngƣời hàng xóm DÀI Ngày một ngày hai Ngày một ngày hai [13; tr. 260]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Làm ơn cho chót Làm ơn thì làm ơn cho chót [13; tr. 262]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Gắt nhƣ mắm tôm Gắt như mắm thối [13; tr. 269]
Lửa cháy đổ dầu thêm [13; tr. 271] Lửa cháy đổ dầu thêm
Đeo mo vào mặt Đeo mo vào mặt [13; tr. 273]
Bụt trên tòa gà nào mổ mắt Bụt ngồi tòa thì gà nào dám lên mổ mắt [13; tr. 274]
Sắc nhƣ dao cau Sắc như dao cạo [13; tr. 275]
Con nuôi đứa ở Con nuôi đứa ở [13; tr. 294]
Mắng nhƣ tát nƣớc vào mặt Mắng như tát nước vào mặt [13; tr. 311]
Chẳng nói chẳng rằng [13; tr. 317] Chẳng nói chẳng rằng
Nghĩa tử là nghĩa tận [13; tr. 318] Nghĩa tử là nghĩa tận
Ác nhƣ chó Ác như chó [13; tr. 323]
Đánh hộc máu mồm Nó đã đánh ông Nga hộc máu mồm [13; tr. 339] Ngƣời hàng xóm TRUYỆN DÀI Ba hồn bảy vía Ba hồn bảy vía [13; tr. 341]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sinh con ai nỡ sinh lòng [13; tr. 342] Sinh con ai nỡ sinh lòng
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Bố mẹ sinh con trời sinh tính Bố mẹ sinh con trời phú tính [13; tr. 342]
Kẻ nói còn có người nghe [13; tr. 343] Kẻ nói còn có ngƣời nghe
Ăn cùng mâm, ngủ cùng giƣờng Ăn cùng một mâm, ngủ cùng một giường [13; tr. 345]
Cơm vàng mắm mặn Cơm vàng mắm mặn [13; tr. 349]
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt Cơm chả lành, canh chả ngọt [13; tr. 361]
Tối nhƣ hang Tối như hang [13; tr. 385]
Cƣời đau cả ruột Cười đau cả ruột [13; tr. 391]
Chết mê chết mệt Chết mê chết mệt [13; tr. 394]
Nói toạc móng heo Trả lời toạc móng heo [13; tr. 395]
Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già [13; tr. 396] Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thẳng nhƣ thân cau Thẳng đuồn đuỗn như một cây cau [14; tr. 11] Sống mòn TIỂU THUYẾT Tiếc của giời Tiếc của giời [14; tr. 11]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Mồm loa mép giải Mồm loa mép giải [14; tr. 15]
Cố đấm ăn xôi Không được ăn xôi mà cũng phải nai lưng ra mà chịu đấm [14; tr. 15]
Thấp cổ bé miệng Thấp cổ bé miệng [14; tr. 17]
Nhìn xa trông rộng Nhìn rộng biết xa [14; tr. 19]
Thập tử nhất sinh Thập tử nhất sinh [14; tr. 20]
Chôn nhau cắt rốn Chôn nhau cắt rốn [14; tr. 20]
Rẻ như bèo [14; tr. 21] Rẻ nhƣ bèo, đông heo cũng hết
Đỏ mặt tía tai Đỏ mặt tía tai [14; tr. 25]
Cuốc không hay, cày không biết Cuốc không hay, cày không biết [14; tr. 38]
Ngỗng ông lại tết ông [14; tr. 41] Ngỗng ông lại lễ ông
Khóc nhƣ cha chết Khóc như cha chết [14; tr. 41]
Thay lòng đổi dạ Thay lòng đổi dạ [14; tr. 41]
Đứng núi này trông núi nọ [14; tr. 45] Đứng núi này trông núi nọ Sống mòn TIỂU THUYẾT Ra măng ra rƣơi Ra măng ra rươi [14; tr. 55]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ra đầu ra đũa Ra đầu ra đũa [14; tr. 55]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Uống nước nhớ nguồn [14; tr. 55] Uống nƣớc nhớ nguồn
Điều hay lẽ phải Điều hay nét tốt [14; tr. 61]
Kín cổng cao tƣờng Kín cổng cao tường [14; tr. 88]
Ăn không nên đọi, nói không nên lời Ăn không nên đọi, nói không nên lời [14; tr. 93]
Nhƣ diều gặp gió Như diều gặp gió [14; tr. 94]
Tai to mặt lớn Mặt lớn tai to [14; tr. 95]
Nghèo rớt mồng tơi Nghèo rớt mồng tơi [14; tr. 97]
Ăn không ngồi rồi Ăn không ngồi rồi [14; tr. 101]
Bán tín bán nghi Bán tín bán nghi [14; tr. 104]
Nửa kín nửa hở Nửa kín nửa hở [14; tr. 108]
Xám nhƣ gio Xám như gio [14; tr. 109]
Cắn răng mà chịu Cắn răng lại mà chịu [14; tr. 113]
Nói nhƣ quát Nói như quát [14; tr. 119]
Sạch nhƣ lau Sạch như lau [14; 128]
Nửa đùa nửa thật Nửa đùa nửa thật [14; tr. 129] Sống mòn TIỂU THUYẾT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Oang oang nhƣ ngỗng đực Oang oang như ngỗng đực [14; tr. 139]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Đứt từng khúc ruột Đứt từng khúc ruột [14; tr. 146]
Làm tình làm tội Làm tình làm tội [14; tr. 149]
Nay sài mai đẹn Nay sài mai đẹn [14; tr. 152]
Nặng mặt sa mày Nặng mặt sa mày [14; tr. 153]
Khổ nhƣ chó Khổ hơn con chó [14; tr. 155]
Ăn trắng mặc trơn Ăn trắng mặc trơn [14; tr. 157]
Chịu thương chịu khó [14; tr. 157] Chịu thƣơng chịu khó
Đầu gio mặt muội Đầu gio mặt muội [14; tr. 157]
Cuốc không hay, cày không biết Cuốc không hay, cày không biết [14; tr. 168]
Con sâu cái kiến Con sâu cái kiến [14; tr. 169]
Con giun cái dế Con giun cái dế [14; tr. 169]
Cƣỡi lên đầu lên cổ Cưỡi lên đầu lên cổ [14; tr. 171]
Cƣỡi lên đầu lên cổ Cưỡi lên đầu lên cổ [14; tr. 172]
Rét nhƣ cắt ruột Rét như cắt ruột [14; tr. 181]
Chó cậy gần nhà Chó cậy gần nhà [14; tr. 188] TIỂU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ăn xổi ở thì Ăn xổi ở thì [14; tr. 190] Sống mòn THUYẾT Nhẹ dạ cả tin Nhẹ dạ cả tin [14; tr. 191]
Thể loại Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Bụng mang dạ chửa Bụng mang dạ chửa [14; tr. 192]
Của trên trời rơi xuống Của tự nhiên trên trời rơi xuống [14; tr. 194]
Đứng núi này trông núi nọ Đứng núi này trông núi nọ [14; tr. 202]
Đi guốc trong bụng Đi guốc trong bụng [14; tr. 212]
Ghen bóng ghen gió Ghen bóng ghen gió [14; tr. 217]
Ghen bóng ghen gió Ghen bóng ghen gió [14; tr. 217]
Voi giày ngựa xé Voi giày ngựa xé [14; tr. 224]
Đỏ nhƣ gấc chín Đỏ như gấc chín [14; tr. 224]
Mất ăn mất ngủ Mất ăn mất ngủ [14; tr. 228]
Kẻ thuê ngƣời làm Kẻ thuê người làm [14; tr. 231]
Nói toạc móng heo [14; tr. 231] Nói toạc móng heo
Vênh váo ra tuồng Vênh váo ra tuồng [14; tr. 235]
Rào trƣớc đón sau Đón trước rào sau [14; tr. 237]
Ở vậy nuôi con Ở vậy nuôi con [14; tr. 246]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đầu đội vai mang Đầu đội vai mang [14; tr. 249] TIỂU Sống mòn Chân lấm tay bùn Chân lấm tay bùn [14; tr. 249]
Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Thể loại THUYẾT Ăn trắng mặc trơn Ăn trắng mặc trơn [14; tr. 250]
Đến chợ hết quà Đến chợ hết quà [14; tr. 255]
Cơm ăn áo mặc Cơm ăn áo mặc [14; tr. 256]
Vinh hoa phú quý Phú quý vinh hoa [14; tr. 257]
Chết đƣờng chết chợ Chết đường chết chợ [14; tr. 272]
Buôn thua bán lỗ Buôn thua bán lỗ [14; tr. 280]
Gắt nhƣ mắm tôm Gắt như mắm thối [14; tr. 280]
Đầu xuôi đuôi lọt Đầu xuôi đuôi ngược [14; tr. 282]
Cắn răng mà chịu Cắn răng vào mà chịu [14; tr. 283]
Ăn no mặc lành Ăn no mặc lành [14; tr. 284]
Ăn trắng mặc trơn Ăn trắng mặc trơn [14; tr. 289]
Chân lấm tay bùn Chân lấm tay bùn [14; tr. 289]
Trẻ nhƣ măng Trẻ như măng [14; tr. 289]
Nhƣ tiên nhƣ rồng Như tiên như rồng [14; tr. 289]
Nói nọ nói kia Nói nọ nói kia [14; tr. 292]
Cố đấm ăn xôi Cố đấm ăn xôi [14; tr. 298]
Chung lƣng đấu sức Chung lưng đấu sức [14; tr. 309]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thƣớc đất cắm dùi Thước đất cắm dùi [14; tr. 310] TIỂU Sống mòn
Tác phẩm Thành ngữ Tục ngữ Cách vận dụng
Thể loại THUYẾT Thóc cao gạo kém Thóc cao gạo kém [14; tr. 311]
Làm thuê cấy mƣớn Làm thuê cấy mướn [14; tr. 311]
Mò cua bắt ốc Mò cua bắt ốc [14; tr. 311]
Buôn thúng bán mẹt Buôn thúng bán mẹt [14; tr. 311]
Tay bồng tay dắt Tay bồng tay dắt [14; tr. 420]
Ho nhƣ xé phổi Ho như xé phổi [14; tr. 434]
Thâm sơn cùng cốc Thâm sơn cùng cốc [14; tr. 442] NHẬT KÝ Ở rừng
Tu tiên đắc đạo Tu tiên đã gần đắc đạo [14; tr. 444]
Tu nhân tích đức Tu nhân tích đức [14; tr. 453]
Ăn chung ở lộn Ăn chung ở lộn [14; tr. 592]
Mồm năm miệng mười [14; tr. 598] Mồm năm miệng mƣời
Cày sâu cuốc bẫm Cày sâu cuốc bẫm [14; tr. 606]
Cày sâu cuốc bẫm Cày sâu cuốc bẫm [14; tr. 606] KỊCH Đóng góp
Tự lực cánh sinh Tự lực cánh sinh [14; tr. 607]
Tự lực cánh sinh Tự lực cánh sinh [14; tr. 607]
Ăn thóc giống Đổ thóc giống ra ăn [14; tr. 610]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thiên tai thủy họa Thiên tai thủy họa [14; tr. 613]
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2012
XÁC NHẬN CỦA TRƢỞNG KHOA CHUYÊN MÔN
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn