BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HIỀN

THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HIỀN

THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN CẢNH HỢP

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp. Số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là xác thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hiền

LỜI CẢM ƠN

Luận văn với đề tài “Thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí

Minh” được hoàn thành là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng riêng bản thân tôi

trong suốt thời gian học tập và sự hỗ trợ, giúp đỡ từ nhiều phía.

Để hoàn thành luận văn này, trước tiên cho phép tôi xin trân trọng gửi

lời cảm ơn tới Ban Giám đốc Học viện hành chính Quốc gia cùng toàn thể

quý thầy cô, giảng viên Học viện đã tận tình dạy bảo trong suốt 2 năm học

tập. Những kiến thức quý báu mà thầy cô truyền dạy là cơ sở để tôi nghiên

cứu học tập đạt kết quả tốt và cũng là cơ sở để tôi có thể hoàn thiện luận văn

của mình.

Tiếp theo, tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới Thầy PGS.TS

Nguyễn Cảnh Hợp, giảng viên trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.

Những định hướng, góp ý và đặc biệt sự quan tâm, động viên từ Thầy là

nguồn động lực lớn lao giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo Bảo

hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tận tình trong

việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến đề tài. Tôi cũng xin được cảm

ơn sự hỗ trợ thường xuyên từ Phòng đào tạo sau đại học và toàn thể bạn bè,

người thân đã đồng hành và giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến để luận văn của

tôi hoàn thiện hơn.

Đặc biệt, tôi xin cảm ơn sự tin tưởng, kỳ vọng, động viên từ gia đình

dành cho tôi để tôi luôn cố gắng hoàn thành tốt luận văn.

Luận văn này được hoàn thiện bởi sự cố gắng nỗ lực của bản thân

nhưng do khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên không thể

tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được những

góp ý của quý thầy cô và các bạn học để tôi hoàn thành luận văn của mình.

Tôi xin trân trọng cảm ơn.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH Bảo hiểm xã hội

BHTN Bảo hiểm thất nghiệp

BHYT Bảo hiểm y tế

BHXH Thành phố Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh

CNTT Công nghệ thông tin

HĐLĐ Hợp đồng lao động

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

14

1

STT TRANG NỘI DUNG

18

2

Bảng 1.1: Phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành

35

3

Hình 1.1: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể trong quản lý, điều hành quỹ BHXH, BHTN, BHTN

42

4 Hình 2.1: Sơ đồ thể hiện vị trí của cơ quan BHXH

43

5 Hình 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức BHXH Thành phố

46

6

Hình 1.2: Trình tự tiến hành thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT

48

7

Bảng 2.1: Đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành phố

50

8

Bảng 2.2: Thống kê số lượng đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT giai đoạn 2016 – 2019

51

9

Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình thu - nợ BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm doanh nghiệp giai đoạn 2016 – 2019

53

10

Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của các loại doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2016 - 2019

11

51,53, 59,61,63

Bảng 2.4: Số cuộc thanh tra của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019

59

12

Hộp 2.1, 2.2, 2.3, 2.4,2.5 : Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

63

13 Bảng 2.6: Tỷ lệ khắc phục nợ của đơn vị qua thanh tra

Bảng 2.5: Kết quả thanh tra về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT

14

65

STT NỘI DUNG TRANG

15

94

Hình 2.4: Trình tự các bước trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra

16

97

Hình 3.1: Mối quan hệ giữa các chủ thể trong xây dựng, quản lý và sử dụng sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động

Bảng 3.1: Phân quyền quản lý đối với hệ thống cơ sở dữ liệu về đơn vị và người lao động

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................ 5

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................. 7

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................... 9

4. Đối tượng nghiên cứu...................................................................... 9

5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 9

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 9

7. Những đóng góp của đề tài ............................................................ 11

8. Kết cấu của đề tài .......................................................................... 11

NỘI DUNG ............................................................................................................. 12

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ .............................................................................. 12

1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 12

1.1.1. Khái niệm thanh tra và thanh tra chuyên ngành ...................................... 12

1.1.2. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ........................... 16

1.1.3. Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT ......................... 22

1.2. Chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 27

1.3. Đối tượng thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội ................................................. 29

1.4. Nội dung, hình thức thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ....................................... 31

2

1.4.1. Nội dung thanh tra ..................................................................................... 32

1.4.2. Hình thức thanh tra.................................................................................... 33

1.5. Quy trình thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 34

1.5.1. Thời hạn thanh tra ..................................................................................... 34

1.5.2. Trình tự tiến hành thanh tra ...................................................................... 34

1.6. Căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ......................... 38

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 40

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................... 41

2.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động, người lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Thành phố ............................. 41

2.1.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn Thành phố .............................................................................................................. 41

2.1.2. Khái quát về Bảo hiểm xã hội Thành phố ............................................... 42

2.2. Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố ..................................................................... 45

2.2.1. Thực trạng về chủ thể thanh tra ................................................................ 45

2.2.2. Thực trạng về đối tượng thanh tra ............................................................ 47

2.2.3. Thực trạng về nội dung, hình thức thanh tra ........................................... 52

2.2.4. Thực trạng về quy trình thanh tra ............................................................. 65

2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng thanh tra về thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố .......... 68

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ................................................ 68

3

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .................................................. 71

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 82

CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................................................... 83

3.1. Định hướng hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với BHXH Thành phố ............ 83

3.2. Các nhóm giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của BHXH Thành phố ......... 86

3.2.1 Tăng cường sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng Ủy, Ban Giám đốc BHXH Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................... 86

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật .................................. 87

3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động ............. 88

3.2.4. Mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiểm xã hội ...................................................................................................................... 90

3.2.5. Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra ............................................................................................... 90

3.2.6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin ............................................... 92

3.2.7. Phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan khác trong xây dựng, chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động ............................................................................................................................ 94

TIẾU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 99

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 102

4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm y

tế (BHYT) là những chính sách quan trọng của hệ thống an sinh xã hội quốc

gia, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị

và phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, chính sách, pháp luật về BHXH,

BHTN, BHYT luôn là một nội dung trọng tâm, xuyên suốt quá trình lãnh

đạo và quản lý đất nước.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Phát triển

và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo

hiểm tai nạn lao động,…”. Những chính sách trên không ngừng được bổ

sung, hoàn thiện cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập.

Mới nhất, có thể kể tới Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban

Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII xây dựng ngày

23/5/2018, định hướng về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Điều 34,

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh

xã hội” cùng với đó là nhiều văn bản luật góp phần bảo đảm thực hiện quyền

cơ bản này của công dân như Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi năm

2014), Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật Việc làm năm 2013... và

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Sau đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

đặt ra nhiều thách thức mà ngành BHXH phải đối mặt: Nhu cầu đổi mới,

hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH gắn với chức năng mới được

Luật BHXH năm 2014 giao cho ngành BHXH thực hiện chức năng thanh tra

về đóng BHXH, BHTN, BHYT; cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nhân sự

ngành BHXH chưa thực sự hợp lý, tinh gọn với nhu cầu bức thiết cần cải

5

tiến; Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý điều hành hoạt động

còn chậm, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động của ngành BHXH; công tác

thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH chưa tạo

được niềm tin vững chắc, chưa thu hút người lao động chủ động, tích cực

tham gia hệ thống BHXH; tình trạng nợ đọng BHXH ngày càng phổ biến với

mức độ vi phạm ngày càng lớn; nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm của

người lao động và người sử dụng lao động trong việc đóng BHXH chưa cao;

chế tài xử phạt vi phạm trong đóng BHXH chưa nghiêm; việc khởi kiện các

đối tượng vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH bị đình trệ vì nhiều vướng mắc

trong các quy định pháp luật...

Từ khi Luật BHXH năm 2014, Nghị định số 21/2016/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 31/3/2016 có hiệu lực, với vai trò của Thành phố Hồ Chí

Minh - trung tâm kinh tế, tài chính hàng đầu cả nước, BHXH Thành phố là

một trong số ít các cơ quan BHXH cấp tỉnh được giao thực hiện thí điểm

nhiều nội dung mới của ngành BHXH. Bảo hiểm xã hội Thành phố đã chuẩn

bị sẵn sàng và triển khai tốt chức năng thanh tra chuyên ngành được giao,

đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, góp phần thực hiện

thắng lợi Bảy chương trình đột phá trong Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ

Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn, vẫn còn nhiều

tồn tại, vướng mắc phải nghiên cứu để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện như:

Nghiệp vụ thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT còn rất mới nên quá

trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ; lực lượng công chức, viên

chức thực hiện chức năng thanh tra còn mỏng; số lượng doanh nghiệp và lực

lượng lao động trên địa bàn Thành phố quá lớn so với mật độ bình quân của

cả nước là áp lực rất lớn mà BHXH Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên lựa chọn “Thanh tra

chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y

6

tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu

với mong muốn luận giải được cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý cũng như thực

trạng hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT, từ đó đề xuất các

giải pháp góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động này tại BHXH

Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Kể từ khi Luật Thanh tra năm 2010, Luật BHXH năm 2014 ra đời, đã

có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả như:

Đề tài khoa học cấp cơ sở của tác giải Nguyễn Thị Hải Yến (2012):

“Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao thực hiện chức

năng thanh tra chuyên ngành”, đề tài làm rõ khái niệm, đặc điểm, chủ thể,

đối tượng, phạm vi của hoạt động thanh tra chuyên ngành trên cơ sở của Luật

Thanh tra năm 2010. Đồng thời đưa ra các đánh giá, nhận xét về những điểm

còn bất cập từ thực tiễn tổ chức, triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Đề tài khoa học cấp bộ do tác giả Nguyễn Tuấn Khanh làm chủ nhiệm

(2014): “Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành - Những vấn đề lý

luận và thực tiễn”, từ thực tiễn sau 5 năm tổ chức thực hiện Luật Thanh tra

năm 2010 trong phạm vi cả nước, đề tài đã phân tích, đánh giá những ưu

điểm trong tổ chức hoạt động thanh tra chuyên ngành, đồng thời chỉ ra những

điểm hạn chế, bất cấp và đưa ra hệ thống giải pháp đồng bộ từ sửa đổi, bổ

sung các quy định pháp luật hiện hành, đến các giải pháp về đào tạo, nâng

cao nghiệp vụ; tổ chức, triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Đề tài khoa học của BHXH Việt Nam do tác giả Phan Văn Mến làm

chủ nhiệm (2014): “Nghiên cứu đề xuất bổ sung một số tội danh trong lĩnh

vực BHXH, BHYT vào Bộ Luật hình sự sửa đổi”, đề tài đã nghiên cứu, đánh

giá những mặt khó khăn, hạn chế trong việc khởi kiện các hành vi vi phạm

7

pháp luật BHXH, BHYT, khó khăn trong cơ chế phối hợp giữa cơ quan

BHXH, cơ quan tư pháp và tổ chức Công đoàn; đồng thời đề xuất các giải

pháp liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật, cơ chế

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật BHXH, BHYT.

Đề tài khoa học cấp bộ do tác giải Mai Xuân Nam làm chủ nhiệm

(2015): “Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên

ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT”, trên cơ sở phân tích, đánh giá các

quy định pháp luật và thực trạng tổ chức hoạt động thanh tra chuyên ngành

lao động nói chung, đề tài đã đề xuất các giải pháp để xây dựng, tổ chức,

triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực đóng BHXH,

BHTN, BHYT của ngành BHXH.

Hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ mới đề cập, phân tích đến

hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung, đến công tác quản lý nhà nước

về các chế độ BHXH, BHTN, BHYT. Hơn nữa, cơ quan BHXH mới được

giao chức năng thanh tra chuyên ngành đóng từ năm 2016, do đó có thể thấy

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về hoạt

động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT cũng như đưa

ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành

của cơ quan BHXH.

Thống kê các công trình nghiên cứu khoa học tại Học viện Hành chính

Quốc gia từ năm 2015 đến nay, học viên nhận thấy chưa có công trình nghiên

cứu khoa học nào liên quan đến lĩnh vực thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT.

Vì vậy, “Thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất

nghiệp, bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” là đề

8

tài có tính mới, cấp thiết, đóng góp nhất định về phương diện lý luận cũng

như thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành của Bảo hiểm xã hội Thành

phố Hồ Chí Minh.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần tìm hiểu một cách hệ

thống, toàn diện những vấn đề lý luận, pháp lý về hoạt động thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT; đánh giá, tổng kết thực tiễn và đề xuất

giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH, BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh, đây là địa bàn tập trung số

lượng lớn, với sự đa dạng, phong phú của các loại hình doanh nghiệp cũng

như thu hút nguồn nhân lực rất lớn từ nhiều vùng miền khắp cả nước. Do đó,

số lượng người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT ở đây chiếm tỷ lệ

cao nhất cả nước

- Về thời gian: Từ ngày 01/6/2016 (thời điểm Nghị định số

21/2016/NĐ-CP có hiệu lực) đến hết tháng 12/2019.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa Duy

vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử. Cụ thể là quan điểm của Chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác

9

thanh tra; chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách BHXH, BHTN,

BHYT;...

6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng các phương

pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với từng nội dung nghiên cứu như: phương

pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh v.v.. nhằm làm sáng tỏ

các vấn đề nghiên cứu. Trong đó:

- Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ

nội dung của đề tài khi nghiên cứu, đánh giá về vai trò của BHXH nói chung,

đặc biệt là trong thực hiện hoạt động thanh tra, từ việc phân tích

cơ sở lý luận, phân tích làm rõ thực trạng, cho đến luận giải về các

giải pháp góp phần tăng cường hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu các công trình

khoa học liên quan đến đề tài, những vấn đề lý luận cũng như thực trạng

hoạt động thanh tra chuyên ngành do BHXH Thành phố Hồ Chí Minh thực

hiện để đưa ra những nhận định về ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên

nhân của những ưu điểm, hạn chế đó.

- Phương pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu các quy định

pháp luật liên quan tới thanh tra chuyên ngành, làm rõ quá trình phát triển

của các quy định pháp luật cũng như bản thân cơ quan BHXH gắn với việc

thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

- Phương pháp thống kê được sử dụng trong phân tích, đánh giá thực

trạng hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của

Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh tại Chương II của đề tài.

10

Các số liệu tổng hợp, các báo cáo sơ kết, tổng kết hoạt động, các bản

kết luận thanh tra... được hỗ trợ cung cấp bởi BHXH Thành phố, đảm bảo

tính khách quan, trung thực, chính xác, khoa học.

7. Những đóng góp của đề tài

Đề tài có đóng góp nhất định về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt

động thanh tra về thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của

Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần phục vụ cho hoạt động

nghiên cứu, giảng dạy, học tập chuyên ngành Quản lý công.

Số liệu phân tích, kết quả đánh giá của đề tài có giá trị tham khảo cho

các cá nhân, đơn vị khác khi nghiên cứu về chủ đề này.

Các kiến nghị, đề xuất, giải pháp của đề tài góp phần để các cơ quan

quản lý nhà nước xem xét, hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật liên

quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

8. Kết cấu của đề tài

Đề tài được chia thành 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT.

Chương 2: Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí

Minh

11

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THANH TRA CHUYÊN

NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP,

BẢO HIỂM Y TẾ

1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

Để làm rõ nội hàm của khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất

giải pháp, kiến nghị liên quan trực tiếp tới thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố, cần tiếp cận từ những khái

niệm nền tảng sau:

1.1.1. Khái niệm thanh tra và thanh tra chuyên ngành

1.1.1.1. Thanh tra

Thanh tra là một khái niệm cơ bản trong quản lý nhà nước đã được

nhiều đề tài nghiên cứu làm rõ về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò,

nội dung, phương thức, chủ thể, đối tượng, quy trình... Dưới góc độ pháp lý,

thanh tra được quy định trong nhiều văn bản pháp luật qua các thời kỳ,

giai đoạn. Khái niệm này đã được các công trình khoa học tiếp cận dưới các

góc độ sau:

Tại đề tài khoa học cấp Nhà nước về “Hoàn thiện cơ chế thanh tra,

kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước” của tác giả

Trần Đức Lượng, năm 2001 thì: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của

quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan,

tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên

trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng,

12

sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa,

xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [21, tr.19].

Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Trường

Đại học Luật Hà Nội, năm 2010 đưa ra khái niệm: “Thanh tra là một hoạt

động chuyên trách do bộ máy thanh tra đảm nhiệm có nội dung là kiểm tra,

xem xét, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực hiện chính sách, pháp

luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lí

hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo vệ

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân

góp phần nâng cao hiệu lực quản lí hành chính nhà nước” [40, tr.42].

Khoản 1, Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 đưa ra khái niệm thanh tra

nhà nước, theo đó: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử

lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của

cơ quan, tổ chức, cá nhân” [25].

Nhìn chung, các khái niệm về thanh tra không có quá nhiều sự khác

biệt, đều xem thanh tra là một hoạt động, một chức năng của nhà nước, do

chủ thể mang thẩm quyền được nhà nước quy định; hoạt động thanh tra diễn

ra theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ; có nội dung là kiểm tra, xem xét,

đánh giá, kết luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc chấp hành

pháp luật chuyên ngành, quy tắc quản lý; có mục đích khắc phục hạn chế,

thiếu xót trong chính sách, pháp luật đồng thời phát huy nhân tố tích cực

cũng như phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật.

Trên cơ sở kế thừa kết quả của những công trình khoa học cũng như

13

các quy định pháp luật đã nêu trên, có thể đưa ra khái niệm thanh tra như

sau:

Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt

động xem xét, đánh giá, xử lý đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,

nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra được thực hiện bởi các

chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, nhằm phòng

ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát

hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị

các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

1.1.1.2. Thanh tra chuyên ngành

Thuật ngữ thanh tra chuyên ngành cùng với thanh tra hành chính được

quy định tại Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010. Cụ thể: Thanh tra hành chính

được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối

với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,

pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Thanh tra chuyên ngành là hoạt

động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực

đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên

ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh

vực đó [25].

Bảng 1.1: Phân biệt thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành

14

Tiêu chí

Thanh tra hành chính

Thanh tra chuyên ngành

Kiểm soát thực hiện nhiệm vụ,

Kiểm soát hoạt động chấp hành

công vụ của cán bộ, công

chính sách, pháp luật của mọi đối

Mục đích

chức, cơ quan nhà nước, lành

tượng nhằm phục vụ hiệu quả hoạt

mạnh hóa bộ máy nhà nước.

động quản lý nhà nước.

- Bộ, Ủy ban nhân dân các

- Bộ, thanh tra bộ

cấp,…

Chủ thể

- Sở, thanh tra sở

- Các cơ quan thanh tra nhà

tiến hành

- Cơ quan được giao thực hiện

nước: Thanh tra Chính phủ;

thanh tra

nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành

Thanh tra tỉnh, Thanh tra

(các Tổng cục, Cục,…)

Bộ,…

Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu

Đối tượng

Cơ quan, tổ chức, cá nhân trực

sự điều chỉnh của pháp luật chuyên

thanh tra

thuộc.

ngành.

Xem xét, đánh giá việc thực

Xem xét, đánh giá việc chấp hành

Nội dung

hiện chính sách, pháp luật,

pháp luật chuyên ngành, quy định

thanh tra

nhiệm vụ, quyền hạn được

về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc

giao.

quản lý thuộc ngành, lĩnh vực.

Việc phân định hoạt động thanh tra thành thanh tra hành chính và

thanh tra chuyên ngành xuất phát từ hai nhu cầu trong hoạt động quản lý của

Nhà nước: Một là, tự điều chỉnh, hoàn thiện nhằm khắc phục các biểu hiện

sai phạm của chính bản thân bộ máy nhà nước; Hai là, nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý các mặt của đời sống xã hội. Nếu như hoạt động thanh tra

hành chính hướng vào bản thân bộ máy quản lý, thì hoạt động thanh tra

chuyên ngành hướng vào xã hội, các đối tượng quản lý.

15

Như vậy, hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động xem xét,

đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không

trực thuộc về mặt tổ chức trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy

định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó,

đồng thời khắc phục những sơ hở của pháp luật, phát huy

nhân tố tích cực, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, lợi

ích nhà nước và xã hội.

Đến đây, có thể xác định hoạt động thanh tra đóng BHXH, BHTN,

BHYT thuộc loại hình thanh tra chuyên ngành, bởi nó thỏa mãn đầy đủ các

dấu hiệu về mục đích, về chủ thể, về đối tượng cũng như về

nội dung thanh tra.

1.1.2. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

1.1.2.1. Khái niệm

BHXH, BHTN và BHYT là những chính sách nằm trong hệ thống an

sinh xã hội của nước ta. Có thể hiểu, an sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã

hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được

áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và

xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản,

thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong [41, tr.9].

An sinh xã hội cũng được hiểu bao gồm nhiều thành tố khác nhau như:

bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội, các chế độ trợ cấp từ ngân

sách nhà nước, chế độ trợ cấp đối với gia đình và các quỹ phòng xa. Các

thành tố này cũng có thể gắn với những khoản chu cấp thêm do những người

sử dụng lao động đảm bảo, đáng chú ý nhất là là các chế độ bồi thường cho

người lao động (đối với chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) và với

16

cả các chế độ bổ sung khác nữa được triển khai xung quanh mục đích an sinh

xã hội.

Ở góc độ quốc tế, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua Công

ước Số 102 năm 1952 về những quy chuẩn tối thiểu về an sinh xã hội đã phân

- Chăm sóc y tế

- Chế độ ốm đau

- Chế độ thai sản

- Chế độ trợ cấp thất nghiệp

- Chế độ trợ cấp gia đình

- Chế độ thương tật trong lao động

- Chế độ trợ cấp tàn tật

- Chế độ trợ cấp tuổi già (hưu trí)

- Chế độ tử tuất

chia hệ thống an sinh xã hội gồm các chính sách, chế độ cơ bản:

Như vậy, BHXH, BHTN, BHYT là các loại hình bảo hiểm, một trong

những hình thức của các chính sách an sinh xã hội. Trong đó, BHXH là một

trong những loại hình bảo hiểm ra đời từ rất sớm - xuất hiện chính thức đầu

tiên trên thế giới ở Phổ vào năm 1883 [15, tr73] và ở Việt Nam vào năm

1947.

Đứng ở góc độ xem xét BHXH là chính sách an sinh xã hội của Nhà

nước, là một nội dung thanh tra, kiểm tra của công tác quản lý nhà nước –

hay nói cách khác là ở góc độ pháp lý (đây cũng là góc độ mà đề tài lựa chọn)

thì: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của

người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai

nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng

vào quỹ BHXH” [27].

17

Cùng với BHXH, BHTN và BHYT cũng là những chế độ BHXH bắt

buộc, theo đó:

BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động

khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm

việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN [27].

Còn BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các

đối tượng theo quy định để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận

do Nhà nước tổ chức thực hiện

Như vậy, trong mối quan hệ lao động thì người lao động, người sử

dụng lao động, Nhà nước và cơ quan BHXH là những chủ thể của quỹ

BHXH, BHTN, BHYT tham gia vào việc tạo lập, duy trì, phát triển, khai

thác, sử dụng quỹ BHXH, BHTN, BHYT theo đúng mục đích, chức năng

của quỹ. Có thể khái quát mối quan hệ giữa các chủ thể trên theo sơ đồ sau:

Hình 1.1: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể

trong quản lý, điều hành quỹ BHXH, BHTN, BHTN

Các loại hình bảo hiểm trên hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng

trong đời sống xã hội, cụ thể:

18

- Đối với người lao động, BHXH, BHTN, BHYT góp phần ổn định tài

chính cho người lao động trước những tổn thất do rủi ro xảy ra như: ốm đau,

tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, thất nghiệp hay về già,… là chỗ

dựa tâm lí giúp người lao động yên tâm trong lao động sản xuất, góp phần

nâng cao năng suất lao động cá nhân.

- Đối với người sử dụng lao động, BHXH, BHTN, BHYT giúp người

sử dụng lao động trang trải những khoản chi phí lớn, phát sinh trong quá

trình sử dụng lao động (trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh

nghề nghiệp…đối với người lao động), góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa

chủ sử dụng lao động và người lao động, hạn chế các hiện tượng đình công,

biểu tình, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định,

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận cho người sử

dụng lao động.

- Đối với Nhà nước và hệ thống an sinh xã hội, BHXH, BHTN, BHYT

vừa thể hiện vai trò, giá trị xã hội của nhà nước, vừa góp phần cân đối thu

chi trong lĩnh vực an sinh xã hội, giảm tải cho ngân sách nhà nước, đồng thời

góp phần bảo đảm đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành

BHXH cũng như tạo ra một bộ phận GDP của quốc gia. Là trụ cột của hệ

thống an sinh xã hội, BHXH, BHTN, BHYT góp phần điều tiết các chính

sách khác, qua đó ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng xã

hội, và ổn định xã hội.

1.1.2.2. Trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo

hiểm y tế

Từ năm 1962 đến trước thời kỳ đổi mới, các quỹ bảo hiểm bắt buộc nói

chung chỉ được hình thành từ hai nguồn là các xí nghiệp sản xuất đóng góp dựa

19

trên quỹ lương của xí nghiệp và phần còn lại do ngân sách nhà nước đài thọ.

Trong giai đoạn này, không tồn tại quỹ BHXH, BHTN, BHYT độc lập.

Từ năm 1998 đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị

trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quỹ

BHXH, BHTN, BHYT mang tính độc lập với ngân sách nhà nước và được

hình thành từ ba nguồn: người sử dụng lao động, người lao động và Nhà

nước. Trong đó, hai nguồn chính là từ người sử dụng lao động và người lao

động với mức đóng của người sử dụng lao động chiếm tỷ lệ cao nhất.

Như vậy, theo quy định pháp luật Việt Nam, trách nhiệm tham gia

đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động được phân chia cho cả

người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Đây

không phải là sự phân chia rủi ro, mà là mối quan hệ hài hòa lợi ích giữa hai

bên. Cụ thể:

- Về phía người lao động, việc họ đóng góp một phần thu nhập vào

các quỹ bảo hiểm này vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính

mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ đối

với người sử dụng lao động.

- Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần các quỹ này

cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản

tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động. Đồng thời nó góp phần

giảm bớt tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp, tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa

chủ - thợ.

Trong mối quan hệ về trách nhiệm tham gia đóng BHXH, BHTN,

BHYT, người sử dụng lao động có vai trò quan trọng nhất, bởi vì để hoạt

động sản xuất kinh doanh được ổn định thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư

để có thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, người sử dụng lao động còn phải

20

chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động. Bên cạnh việc trả lương

thỏa đáng, người sử dụng lao động còn phải có trách nhiệm đóng BHXH,

BHTN, BHYT cho người lao động trong suốt quá trình lao động. Chỉ có như

vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng

kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả

kinh tế cho doanh nghiệp. Vai trò quan trọng hàng đầu của người sử dụng

lao động còn được thể hiện qua tỷ lệ đóng BHXH, BHTN, BHYT giữa người

sử dụng lao động và người lao động, trong đó tỷ lệ đóng của người sử dụng

lao động chiếm phần lớn.

Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của người sử dụng lao động trong

đóng BHXH, BHTN, BHYT còn được thể hiện cả ở những trách nhiệm cụ

thể sau:

- Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ BHXH, đóng, hưởng

BHXH, BHTN, BHYT;

- Đóng BHXH, BHTN, BHYT theo quy định và hàng tháng trích từ

tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH, BHTN,

BHYT;

- Phối hợp với cơ quan BHXH trả trợ cấp BHXH, BHTN, BHYT cho

người lao động;

- Phối hợp với cơ quan BHXH trả sổ BHXH cho người lao động, xác

nhận thời gian đóng BHXH, BHTN, BHYT khi người lao động chấm dứt hợp

đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật;

- Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến

việc đóng, hưởng BHXH, BHTN, BHYT theo yêu cầu của cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền;

21

- Định kỳ thực hiện niêm yết công khai thông tin về việc đóng BHXH,

BHTN, BHYT cho người lao động; cung cấp thông tin về việc đóng BHXH,

BHTN, BHYT khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu.

1.1.3. Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT

1.1.3.1. Khái niệm

Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT mới xuất hiện

trong thời gian gần đây, khái niệm này được Luật BHXH năm 2014 quy định

như sau [28]:

Điều 13. Thanh tra bảo hiểm xã hội

1. Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng

thanh tra chuyên ngành về việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH

theo quy định của pháp luật về thanh tra.

2. Thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về

quản lý tài chính BHXH theo quy định của pháp luật về thanh tra.

3. Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về

đóng BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Luật này và quy định khác của

pháp luật có liên quan.

Nội dung tương ứng này được Luật BHXH năm 2006 quy định:

Điều 10. Thanh tra bảo hiểm xã hội

1. Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng

thanh tra chuyên ngành về BHXH.

2. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra chuyên ngành về BHXH

được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.”

22

Qua đối chiếu các quy định về công tác thanh tra trong quản lý nhà

nước về BHXH từ Luật BHXH năm 2006 đến Luật BHXH năm 2014, có thể

thấy, từ năm 2014 trở về trước, Luật BHXH chỉ sử dụng khái niệm thanh tra

BHXH. Đây là hoạt động thanh tra chuyên ngành thuộc thẩm quyền của

Thanh tra lao động - thương binh và xã hội. Đến Luật BHXH năm 2014, hoạt

động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT được phân chia

thành 03 loại:

- Thanh tra chuyên ngành về việc thực hiện chính sách, pháp luật về

BHXH do Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện.

- Thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính BHXH theo quy định

của pháp luật về thanh tra do Thanh tra tài chính thực hiện.

- Thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN theo quy

định của Luật BHXH và quy định khác của pháp luật có liên quan do cơ quan

BHXH thực hiện.

Sở dĩ có sự phân chia hoạt động thanh tra BHXH thành 03 nhóm trên

xuất phát từ thực tiễn đây là một hoạt động thanh tra chuyên ngành có đối

tượng rộng lớn, nội dung thanh tra tương đối phức tạp, cần huy động nhiều

nguồn lực (chủ yếu là con người) để thực hiện. Trong khi Thanh tra lao động

- thương binh và xã hội bên cạnh nội dung này còn phải thực hiện thanh tra

các chuyên ngành khác như: lao động, việc làm; an toàn lao động; tiền lương;

dạy nghề; bảo vệ, chăm sóc trẻ em,… cùng các hoạt động thanh tra hành chính.

Chính sự quá tải này của Thanh tra lao động - thương binh và xã hội mà Luật

BHXH năm 2014 đã có sự điều chỉnh theo hướng phân chia hoạt động thanh

tra chuyên ngành BHXH thành 03 nội dung nhỏ hơn và giao về cho 03 cơ

quan khác nhau thực hiện, trong đó có cơ quan BHXH.

23

Bên cạnh đó, quỹ BHXH, BHTN, BHYT như đã phân tích ở trên, là

quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hệ thống cơ quan BHXH

Việt Nam quản lý trực tiếp nhằm cân đối thu - chi theo quy định của pháp

luật về BHXH, BHTN, BHYT của Nhà nước. Do đó, cơ quan BHXH Việt

Nam có trách nhiệm giám sát, theo dõi việc thực hiện các quy định về đóng

- hưởng của các đối tượng quản lý là người sử dụng lao động nói chung bằng

các hình thức kiểm tra và thanh tra chuyên ngành.

Việc giao quyền thực hiện thanh tra chuyên ngành cho cơ quan BHXH

không hoàn toàn là giao một quyền lực nhà nước cho một đơn vị sự nghiệp

công lập vì cơ quan BHXH chỉ có quyền thanh tra về mảng đóng BHXH,

BHTN, BHYT - một mảng nội dung mang tính chuyên môn, nghiệp vụ sâu,

còn các nội dung thanh tra chuyên ngành BHXH, BHTN, BHYT khác vẫn

do cơ quan quản lý nhà nước về lao động - thương binh và xã hội thực hiện.

Trên cơ sở các khái niệm thanh tra, thanh tra chuyên ngành, khái niệm

BHXH, BHTN, BHYT đã được làm rõ ở trên, có thể hiểu khái niệm thanh

tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT như sau:

Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT là hoạt động

thanh tra chuyên ngành do cơ quan BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH cấp

tỉnh tiến hành theo phân cấp thẩm quyền và quy định của pháp luật về thu

BHXH, BHTN, BHYT và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

1.1.3.2. Mục đích, vai trò

Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH,

BHTN, BHYT không nằm ngoài những mục đích của hoạt động thanh tra

nói chung, đó là: “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,

pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc

phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ

24

quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy

nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý

nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ

quan, tổ chức, cá nhân” [25].

Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra chuyên ngành này còn có vai trò

trong công tác quản lý nhà nước về BHXH, BHTN, BHYT:

Một là, giúp các cơ quan quản lý phát hiện sơ hở của cơ chế, chính

sách, pháp luật về thu, đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Trong quản lý nhà nước về BHXH, BHTN, BHYT nói riêng cũng như

quản lý hành chính nhà nước nói chung, những cơ chế, chính sách, pháp luật

được các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành để điều hành hoạt động và

điều chỉnh, kiểm soát các quan hệ xã hội. Những cơ chế, chính sách, pháp

luật này khi áp dụng trong thực tiễn không tránh khỏi bộc lộ những sơ hở và

thiếu sót mà trong nhiều trường hợp chỉ có thể được phát hiện và chấn chỉnh

thông qua hoạt động thanh tra. Bằng chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm

công tác, các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra phát hiện, đề xuất, kiến

nghị tới các chủ thể có thẩm quyền để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp

luật.

Hai là, góp phần hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về đóng BHXH,

BHTN, BHYT bao gồm: đối tượng đóng, mức đóng và phương thức đóng.

Trước khi áp dụng vào thực tiễn, cơ quan quản lý nhà nước về lao

động - thương binh và xã hội cùng cơ quan BHXH các cấp đều phải tổ chức

tập huấn, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp

luật về BHXH, BHTN, BHYT. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện,

các doanh nghiệp, người sử dụng lao động không tránh khỏi những khó khăn,

vướng mắc cần được sự hỗ trợ, hướng dẫn của những chủ thể có thẩm quyền,

25

trong đó có lực lượng thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT. Vì vậy, bên

cạnh việc xử lý, kiến nghị xử lý các sai phạm của đối tượng thanh tra, đoàn

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT cũng thường xuyên

hướng dẫn các nội dung của pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT như

đối tượng đóng, mức đóng, phương thức đóng,… thông qua đó góp phần

giúp đối tượng thanh tra khắc phục hạn chế, lúng túng trong nhận thức, thực

hiện pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động.

Ba là, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH,

BHTN, BHYT của người sử dụng lao động.

Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và tham gia đóng

BHXH, BHTN, BHYT, do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như lợi nhuận,

quy luật cạnh tranh... doanh nghiệp, người sử dụng lao động có thể tìm cách

để gian lận, lách luật thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật, chịu xử phạt hành

chính để giải quyết bài toán về lợi ích kinh tế của mình. Quá trình thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT chắc chắn sẽ phát hiện nhiều đối

tượng thanh tra gian lận trong việc kê khai đối tượng đóng, gian lận về loại

hình HĐLĐ, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT,… bởi những vi phạm này

đều sẽ để lại những dấu vết, những căn cứ, bằng chứng trong hoạt động quản

lý và điều hành sản xuất, kinh doanh của mình.

Thông qua hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT, đoàn

thanh tra sẽ phát hiện được những dấu hiệu sai phạm kèm theo các bằng

chứng xác thực để đoàn thanh tra kết luận về hành vi vi phạm và mức độ vi

phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT để xử lý hoặc kiến nghị xử

lý theo thẩm quyền.

Bốn là, truy thu, làm giảm nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

26

Đây được coi là vai trò trọng tâm và chủ yếu nhất của thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT. Xuất phát từ thực tế hiện nay, tỷ lệ nợ

đọng BHXH, BHTN, BHYT có xu hướng tăng dần qua mỗi năm, gây ảnh

hưởng đến quỹ BHXH, BHTN, BHYT cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới lợi

ích của người lao động, kéo theo nhiều hệ lụy đối với chính sách an sinh xã

hội vốn được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm.

Là đơn vị sự nghiệp công lập trực tiếp quản lý các quỹ BHXH, BHTN,

BHYT, chủ thể nắm đầy đủ các thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động đóng

BHXH, BHTN, BHYT, chính cơ quan BHXH là chủ thể có nhiều ưu thế

nhất, có thể bảo đảm tốt nhất việc truy thu và giảm nợ đọng BHXH, BHTN,

BHYT. Những ưu thế này cũng là tiền đề hết sức quan trọng cho hoạt động

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT do cơ quan BHXH thực

hiện một cách hiệu quả nhất, góp phần thực hiện mục tiêu hoạt động của

ngành là thu đúng, đủ quỹ BHXH, BHTN, BHYT, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người lao động.

1.2. Chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

Chủ thể thanh tra chuyên ngành là cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà

nước giao thẩm quyền tiến hành các hoạt động thanh tra chuyên ngành theo

trình tự, thủ tục nhất định nhằm đạt được mục đích, yêu cầu đề ra [36, tr.83].

Khi đề cập tới chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT có thể chia làm hai loại sau: chủ thể ra quyết định thanh tra và chủ

thể tiến hành thanh tra.

- Chủ thể ra quyết định thanh tra: Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam

và Giám đốc BHXH các tỉnh, thành phố. Các chủ thể này ban hành quyết

định thanh tra trên cơ sở tham mưu, đề xuất từ Vụ Thanh tra – Kiểm tra (đối

27

với BHXH Việt Nam) và Phòng Thanh tra – Kiểm tra (đối với BHXH tỉnh,

thành phố).

- Chủ thể tiến hành thanh tra: các cơ quan, tổ chức được Nhà nước

giao quyền, gồm: BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh, thành phố (gọi chung

là BHXH cấp tỉnh). Đây là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra

việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật,

quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi

quản lý Nhà nước.

Đặc điểm chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT:

Thứ nhất, chủ thể tiến thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT không mang tính quyền lực Nhà nước như các chủ thể thanh tra khác.

Hệ thống cơ quan BHXH là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Chính phủ

với Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và Giám đốc BHXH cấp tỉnh là công

chức theo quy định. Những nhân sự còn lại của ngành BHXH trực tiếp tham

gia vào các đoàn thanh tra và thực hiện hoạt động thanh tra là đội ngũ viên

chức ngành BHXH. Khác với các đoàn thanh tra chuyên ngành khác đều chủ

yếu do các thanh tra viên là công chức thực hiện.

Thứ hai, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ thể hiện vai trò chủ thể tiến

hành thanh tra chuyên ngành trong khoảng thời gian nhất định theo quy định

của pháp luật, tùy thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể.

Đó là thời hạn thanh tra được quy định tại quyết định thanh tra mà chủ thể

thanh tra phải tuân thủ. Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, để không

gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của đối tượng thanh

tra.

28

Thứ ba, khác với hoạt động thanh tra hành chính, chủ thể tiến hành

thanh tra chuyên ngành nói chung và thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT nói riêng được áp dụng 03 hình thức tiến hành thanh tra là

thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất, trong

khi đó thanh tra hành chính chỉ có 2 hình thức là thanh tra theo kế hoạch và

thanh tra đột xuất.

1.3. Đối tượng thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội

Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức có nghĩa vụ đóng BHXH,

BHTN, BHYT nói chung đều có thể trở thành đối tượng thanh tra. Theo quy

định tại Khoản 3, Điều 2, Luật BHXH năm 2014; Khoản 3, Điều 44, Luật

Việc làm năm 2013 và Khoản 4, Điều 2, Luật BHYT năm 2008, các cơ quan,

đơn vị, tổ chức này bao gồm [27, 28, 29]:

- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;

- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội

- nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;

- Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ

Việt Nam;

- Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức

khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.

Căn cứ vào nguồn đóng các bảo hiểm bắt buộc là từ ngân sách nhà

nước hay nguồn thu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đối tượng

trên, cơ quan BHXH thường phân chia đối tượng thanh tra thành hai nhóm

sau để thuận tiện trong công tác quản lý quỹ BHXH, BHTN, BHYT:

29

- Nhóm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự

nghiệp;

- Nhón các doanh nghiệp, hộ kinh doanh (bao gồm cả các doanh

nghiệp, tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam);

Các nhóm đơn vị sử dụng lao động trên trên trong quá trình hoạt động

đều sử dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, khu công nghiệp thậm

chí sử dụng số lượng rất lớn người lao động. Họ là đối tượng cơ bản của hoạt

động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH mà cơ quan BHXH hướng tới

trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Trong các nhóm đối tượng đã nêu, nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ

kinh doanh có tỷ lệ vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cao

hơn hẳn nhóm còn lại. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc đây là nhóm

đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT từ quỹ tiền của đơn vị sử dụng lao

động, mà số tiền này phụ thuộc rất lớn vào tình hình sản xuất kinh doanh

hoặc nhận thức của đơn vị sử dụng lao động. Còn nhóm cơ quan nhà nước,

đơn vị sự nghiệp là nhóm đối tượng được ngân sách nhà nước chi trả lương,

trích đóng BHXH, BHTN, BHYT, việc chấp hành các quy định pháp luật

tương đối đúng quy định do đó rất ít xảy ra hành vi vi phạm hoặc sai sót

trong việc đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Trong nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh, doanh nghiệp

ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỉ lệ vi phạm

pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cao hơn so với doanh nghiệp nhà

nước, được xác định là đối tượng thanh tra trọng tâm khi cơ quan BHXH lập

kế hoạch thanh tra vì các nhóm doanh nghiệp này có những đặc điểm đặc thù

sau:

30

Thứ nhất, đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài, chủ doanh nghiệp là người quyết định toàn bộ hoạt

động của đơn vị, trong đó có việc chấp hành và tổ chức thực hiện việc đóng

BHXH, BHTN, BHYT. Chủ doanh nghiệp của các loại hình doanh nghiệp

này đặt lợi nhuận làm động lực cơ bản trong toàn bộ quá trình tồn tại, phát

triển của mình. Trong khi đó, ngoài mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp nhà

nước còn phải thực hiện các chức năng khác như điều tiết thị trường, cung

ứng dịch vụ công ích và các dịch vụ khác mà nhà nước độc quyền…

Thứ hai, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài có số lượng đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT rất lớn. Số

lượng người lao động ở hai loại hình doanh nghiệp này cũng trở thành sức

ép đối với chủ doanh nghiệp trong việc cân đối thu - chi, tối đa hóa lợi nhuận.

Thứ ba, nhận thức về pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT và ý thức

chấp hành của đại bộ phận chủ doanh nghiệp (phần lớn ở các doanh nghiệp

tư nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ) còn hạn chế so với doanh nghiệp

nhà nước, nên tỷ lệ vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT ở các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ lớn hơn.

Thứ tư, riêng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, loại hình

doanh nghiệp này thường có quy mô lớn, trình độ quản lý thường cao hơn so

với các loại hình doanh nghiệp còn lại, tiềm ẩn nguy cơ cao trong lợi dụng

kẽ hở của pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT để thực hiện hành vi trốn

đóng, đóng không đúng mức BHXH, BHTN, BHYT nhằm tối đa hóa lợi

nhuận. Tỷ lệ vi phạm ở loại hình doanh nghiệp này có thể ít hơn so với doanh

nghiệp ngoài quốc doanh nhưng mức độ, quy mô, sự tinh vi, phức tạp của

hành vi vi phạm thường lớn hơn.

1.4. Nội dung, hình thức thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm

31

xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

1.4.1. Nội dung thanh tra

Khi thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT, chủ thể

thanh tra tiến hành thanh tra những nội dung sau: đối tượng đóng BHXH,

BHTN, BHYT, mức đóng BHXH, BHTN, BHYT và phương thức đóng

BHXH, BHTN, BHYT.

- Về đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh tra

xác minh tính đúng đắn trong việc khai báo về số lượng đối tượng đóng

BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức; tiến hành xem xét, đánh giá tình hình sử

dụng lao động và tham gia BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức. Căn cứ để

chủ thể thanh tra đối chiếu là: HĐLĐ, bảng chi trả lương hàng tháng, thang

bảng lương do đơn vị xây dựng, bảng chấm công của. Cụ thể hơn:

Căn cứ xác định đối tượng là người lao động tham gia BHXH, BHTN,

BHYT bao gồm: HĐLĐ, quyết định bổ nhiệm, quyết định nâng lương, bảng

chấm công, bảng thanh toán lương hàng tháng hoặc theo hình thức khoán công

việc;

Căn cứ xác định đối tượng là người sử dụng lao động tham gia BHXH,

BHTN, BHYT bao gồm: quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh, giấy chứng nhận đầu tư.

- Về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh tra xác

định mức tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức. Căn cứ đối

chiếu, xem xét gồm: thang bảng lương, bảng chi trả lương, HĐLĐ, quy chế

trả lương, thưởng, nội quy lao động. Mức đóng bao gồm: mức lương chính

ký kết trên HĐLĐ, và các khoản phải đóng BHXH như phụ cấp chức vụ,

chức danh, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, phụ

cấp thâm niên, phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút…

32

- Về phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh

tra xác minh việc chấp hành quy định về phương thức đóng BHXH, BHTN,

BHYT. Có hai phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT:

Trường hợp đóng hàng tháng: Chậm nhất đến ngày cuối cùng của

tháng, tổ chức trích tiền đóng BHXH, BHTN, BHYT trên quỹ tiền lương

tháng của người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT, đồng thời trích

từ tiền lương tháng đóng BHXH, BHTN, BHYT của từng người lao động,

chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH, BHTN,

BHYT mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.

Trường hợp đóng 03 tháng hoặc 06 tháng: Áp dụng đối với hợp tác xã,

hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán.

1.4.2. Hình thức thanh tra

Giống như các cuộc thanh tra chuyên ngành nói chung, thanh tra

chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT được tiến hành dưới 03 hình

thức: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất.

Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành theo kế hoạch đã được phê

duyệt. Thanh tra theo kế hoạch có thuận lợi là giúp đoàn thanh tra chủ động

trong việc bố trí thời gian và lực lượng tiến hành, có thể thu thập tài liệu hoặc

khảo sát trước khi tiến hành thanh tra.

Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm

vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nhằm

đảm bảo hoạt động thanh tra gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên

môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi

phạm pháp luật.

33

Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá

nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý

nhà nước cùng cấp giao. Đặc điểm của những cuộc thanh tra đột xuất là

hướng vào giải quyết những vấn đề cấp bách, cần xem xét, kết luận chính

xác, cụ thể nhưng trong khoảng thời gian tương đối ngắn, nhằm đáp ứng kịp

thời cho yêu cầu lãnh đạo, quản lý.

Tùy thuộc vào đặc thù của cuộc thanh tra mà các chủ thể thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT có thể được tiến hành theo các

hình thức linh hoạt khác nhau phù hợp với các quy định của pháp luật thanh

tra. Thông thường, các cuộc thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT chủ yếu được tiến hành dưới hình thức thanh tra theo kế hoạch và

thanh tra đột xuất.

1.5. Quy trình thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

1.5.1. Thời hạn thanh tra

Thời hạn thanh tra là khoảng thời gian tính từ ngày công bố quyết định

thanh tra đến ngày kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra. Theo quy định:

Các cuộc thanh tra do BHXH Việt Nam tiến hành không quá 45 ngày, trường

hợp phức tạp có thể kéo dài hơn nhưng không quá 70 ngày; Các cuộc thanh

tra do BHXH tỉnh tiến hành không quá 30 ngày, trường hợp phức tạp có thể

kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

1.5.2. Trình tự tiến hành thanh tra

Trình tự tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT được mô tả khái quát thông qua sơ đồ sau:

34

Hình 1.2: Trình tự tiến hành thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH, BHTN, BHYT

Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT về cơ bản tuân

thủ các quy định về quy trình, thủ tục của hoạt động thanh tra chuyên ngành

tại Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính

phủ, bên cạnh đó là hướng dẫn chi tiết về quy trình thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH, BHTN, BHYT tại Quyết định số 1518/QĐ-BHXH ngày

18/10/2016 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, bao gồm 03 giai đoạn:

1.5.2.1. Giai đoạn chuẩn bị thanh tra

- Thu thập thông tin để ban hành quyết định thanh tra:

Hoạt động này được tiến hành bởi đơn vị được giao chủ trì thanh tra

(thường là Vụ/Phòng Thanh tra - Kiểm tra) nhằm thu thập thông tin, tài liệu,

hồ sơ, dữ liệu để nắm tình hình, làm căn cứ, cơ sở cho người có thẩm quyền

ra quyết định thanh tra.

- Ra quyết định thanh tra:

35

Căn cứ chương trình kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt hoặc theo

yêu cầu thanh tra đột xuất, thủ trưởng đơn vị được giao chủ trì cuộc thanh

tra xây dựng dự thảo quyết định thanh tra để trình người có thẩm quyền ra

quyết định.

- Xây dựng và phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra:

Việc xây dựng, phổ biến kế hoạch thanh tra góp phần bảo đảm cho

hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, đạt được mục đích cũng như hiệu quả

công tác. Trên cơ sở kế hoạch chung của đoàn, các thành viên đoàn thanh tra

xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với

Trưởng đoàn.

- Gửi quyết định thanh tra:

Sau khi quyết định thanh tra được ban hành, Trưởng đoàn thanh tra

chỉ đạo việc gửi quyết định thanh tra kèm theo đề cương thanh tra tới đối

tượng được thanh tra trước khi thanh tra ít nhất 05 ngày làm việc để đối tượng

thanh tra chuẩn bị (trừ trường hợp thanh tra đột xuất).

1.5.2.2. Giai đoạn tiến hành thanh tra

- Công bố quyết định thanh tra:

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn

có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc

công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản. Nếu đối tượng

thanh tra không tiếp đoàn thanh tra hoặc tiếp nhưng không có sự tham dự

của người đại diện hoặc người được ủy quyền hợp pháp của đối tượng thanh

tra, Trưởng đoàn tiến hành lập biên bản tạm hoãn thanh tra và xác định lại

ngày thanh tra để đối tượng thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp

luật.

36

- Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu:

Đoàn thanh tra có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ,

tài liệu, dữ liệu liên quan đến nội dung thanh tra. Đây là một trong những

căn cứ để đoàn thanh tra có thể tiến hành kiểm tra, xác minh tính hợp pháp,

hợp lý trong hoạt động của đối tượng thanh tra, làm tiền đề cho việc xây

dựng bản kết luận thanh tra.

- Kiểm tra, xác minh:

Trên cơ sở thông tin, tài liệu, hồ sơ, dữ liệu đã thu thập được, đoàn

thanh tra có trách nhiệm nghiên cứu, đối chiếu, so sánh, phân tích, đánh giá

việc chấp hành chính sách, pháp luật của đối tượng thanh tra.

- Báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra:

Hằng ngày, thành viên đoàn có trách nhiệm báo cáo tình hình thực

hiện nhiệm vụ với Trưởng đoàn; Trưởng đoàn có trách nhiệm báo cáo tiến

độ, kết quả thanh tra với người ra quyết định thanh tra để theo dõi, chỉ đạo

và giám sát hoạt động của đoàn thanh tra.

1.5.2.3. Giai đoạn kết thúc thanh tra

- Báo cáo kết quả cuộc thanh tra:

+ Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc tiến hành

thanh tra, thành viên đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với

Trưởng đoàn thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu

trách nhiệm về tính chính xác, khách quan, trung thực về nội dung báo cáo.

+ Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng

đoàn xây dựng và báo cáo kết quả thanh tra (trừ trường hợp cần phải chờ kết

luận chuyên môn) trình người ra quyết định thanh tra.

- Kết luận thanh tra:

37

Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày người ra quyết định thanh tra xem

xét cho ý kiến đối với báo cáo về cuộc thanh tra, Trưởng đoàn phải trình dự

thảo kết luận thanh tra để người ra quyết định thanh tra ký ban hành.

Đồng thời, người ra quyết định thanh tra phải lựa chọn việc công khai,

thời gian công khai và hình thức công khai kết luận thanh tra. Ngoài ra, sau

khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn có trách nhiệm tổ chức họp đoàn để

tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của đoàn thanh tra hoặc đưa ra những

đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho hoạt

động của các đoàn thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn

ra sau đó.

1.6. Căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế

Các văn bản pháp luật chủ yếu được sử dụng trong quá trình hoạt động

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn của cơ quan

BHXH cấp tỉnh bao gồm:

- Luật Thanh tra năm 2010;

- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;

- Luật Việc làm năm 2013;

- Luật BHXH năm 2014;

- Luật BHYT năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2014;

- Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định quy định về cơ quan được

giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra

chuyên ngành, ngày 09/02/2012;

38

- Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, ban hành

ngày 05/01/2016;

- Nghị định số 21/2016/NĐ-CP quy định việc thực hiện chức năng

thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN của cơ quan BHXH,

ban hành ngày 31/3/2016;

- Thông tư số 05/2014/TT-TTCP quy định về tổ chức, hoạt động, quan

hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh

tra, ban hành ngày 16/10/2014;

- Quyết định số 969/QĐ-BHXH quy định về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương, ban hành

ngày 26/7/2019;

- Quyết định số 1518/QĐ-BHXH quy định hoạt động thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra của BHXH Việt

Nam, ban hành ngày 18/10/2016.

- Quy chế phối hợp công tác số 5423/QCPH-BHXH-TCT giữa BHXH

Việt Nam và Tổng cục Thuế, ban hành ngày 31/12/2014;

39

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT là hoạt động

thanh tra chuyên ngành do cơ quan BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh thực

hiện, có vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về thu BHXH,

BHYT, BHTN.

Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng được tiến hành dựa trên các

văn bản pháp luật hiện này mà chủ yếu là Luật Thanh tra năm 2010, Luật

Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật bảo hiểm y tế được sửa đổi bổ sung năm

2014, Luật Việc làm năm 2013, Nghị định 21/2016/NĐ-CP quy định việc

thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN

của cơ quan BHXH, Quyết định số 1518/QĐ-BHXH quy định hoạt động

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra

của BHXH Việt Nam. Trên cơ sở các căn cứ lý luận và pháp lý về thanh tra

và BHXH, BHTN, BHYT, tác giả đã tập trung phân tích về khái niệm, chủ

thể, đối tượng, nội dung, hình thức và quy trình của thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Thông qua nội dung đã phân tích ở Chương 1, đề tài đã giải quyết

được nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra là hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý

luận và cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT, từ đó làm rõ hơn cách tiếp cận nghiên cứu các vấn đề liên

quan hoạt động này.

Những phân tích là kết luận trong chương này là tiền đề, cơ sở để phân

tích, đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ở chương tiếp theo.

40

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM

XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO

HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động, người lao động và cơ

quan Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Thành phố

2.1.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động và người lao động trên

địa bàn Thành phố

Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 10% dân số cả nước,

nhiều năm qua luôn giữ vị trí đầu tầu về kinh tế, tài chính của cả nước. Là

hạt nhân của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với mức đóng góp GDP là

66,1% trong vùng, đóng góp 30% trong tổng GDP của cả khu vực Nam Bộ,

đóng góp 22% GDP của cả nước.

Về tình hình đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố, theo

kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2018 (tính đến ngày 31-12-2018), Thành

phố có 111.616 cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong đó, số lượng doanh nghiệp,

hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá thể sử dụng lao động có đến 104,483 tổ chức,

đơn vị.

Lực lượng lao động trên địa bàn Thành phố luôn có xu hướng tăng về

số lượng và chất lượng qua từng năm. Tính đến năm 2018, lực lượng lao

động từ 15 tuổi trở lên là 4,54 triệu người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang

làm việc trong các loại hình kinh tế là 4,41 triệu người. Tỉ lệ lao động đã qua

đào tạo chiếm 36,7%, tăng 1,9% so với năm 2016.

Với quy mô số lượng đơn vị sử dụng lao động, người lao động lớn

nhất cả nước, loại hình đa dạng, năng động, đây vừa là động lực to lớn cho

sự phát triển chung của Thành phố nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,

41

phức tạp cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước nhằm đảm

bảo nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp

của người lao động, trong đó có quyền lợi về BHXH, BHTN, BHYT.

2.1.2. Khái quát về Bảo hiểm xã hội Thành phố

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH

Thành phố nói riêng, của BHXH cấp tỉnh nói chung được quy định tại Quyết

định số 969/QĐ-BHXH của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ngày

27/9/2019. Theo đó, Quyết định số 969/QĐ-BHXH quy định về vị trí, chức

năng, cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố như sau:

2.1.2.1. Vị trí, chức năng

Hình 2.1: Sơ đồ thể hiện vị trí của cơ quan BHXH

Nguồn: Tổng hợp của tác giả.

Bảo hiểm xã hội Thành phố là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam

đặt tại Thành phố, chịu sự quản lý trực tiếp và toàn diện của Tổng Giám đốc

BHXH Việt Nam và chịu sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành

42

phố của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo hiểm xã hội Thành

phố có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng đặt tại địa

chỉ số 117C, đường Nguyễn Đình Chính, Phường 15, Quận Phú Nhuận,

Thành phố Hồ Chí Minh.

Bảo hiểm xã hội Thành phố giúp Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tổ

chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN; quản lý các quỹ:

BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn Thành phố theo quy định của BHXH

Việt Nam và quy định của pháp luật.

2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố được mô tả thông qua sơ đồ sau:

Hình 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức BHXH Thành phố

43

Bảo hiểm xã hội Thành phố là tổ chức hoạt động theo chế độ thủ

trưởng. Về cơ cấu tổ chức, BHXH Thành phố có 01 Giám đốc, giúp việc cho

Giám đốc gồm 04 Phó Giám đốc và 12 phòng nghiệp vụ cùng BHXH 24

quận, huyện. Số lượng công chức, viên chức ngành BHXH tại Thành phố là

1.244 người, trong đó tính riêng số lượng công chức, viên chức làm việc tại

BHXH Thành phố là 398 người.

2.1.2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn

Nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH Thành phố được quy định tại

Quyết định 969/QĐ-BHXH ngày 29/7/2019 và Quyết định số 1518/QĐ-

BHXH ngày 18/10/2016. BHXH Thành phố có một số nhiệm vụ, quyền hạn

quan trọng liên quan tới chức năng thanh tra về đóng BHXH như sau:

1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra được quy định của Nghị

định số 21/2016/NĐ-CP.

2. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền trình Tổng

Giám đốc phê duyệt.

3. Quyết định thành lập đoàn thanh tra, kiểm tra thuộc phạm vi quản

lý trên địa bàn tỉnh.

4. Ký ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra và xử lý các kiến nghị của

đoàn thanh tra, kiểm tra.

5. Chỉ đạo, theo dõi hoạt động của đoàn thanh tra, kiểm tra; giải quyết

các vấn đề phát sinh, vướng mắc vượt quá thẩm quyền giải quyết của Trưởng

đoàn thanh tra, kiểm tra.

6. Giải quyết theo thẩm quyền khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt

động thanh tra, kiểm tra.

44

7. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành

chính.

2.2. Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT của BHXH Thành phố

Nhìn chung, từ năm 2016 và chính thức từ năm 2017, hoạt động thanh

tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố được

tổ chức triển khai thực hiện đúng trình tự quy trình, thủ tục theo quy định

của pháp luật và hướng dẫn của ngành, nhận thức về tăng cường thực hiện

pháp luật thanh tra trong quy trình quản lý, tác nghiệp của lãnh đạo, viên

chức toàn hệ thống đã được nâng lên.

Trước năm 2016, BHXH Thành phố đã chủ động, nỗ lực, tăng cường

kiểm tra, thanh tra phối hợp nhưng do chức năng bị hạn chế, ngoài các biện

pháp tranh thủ sự hỗ trợ từ các ngành khác như Sở Lao động – Thương binh

và Xã hội để kiến nghị xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHTN,

BHYT... nên hiệu quả chưa như mong đợi. Việc thực hiện chức năng thanh

tra chuyên ngành theo quy định của Luật BHXH năm 2014 chỉ mới thực hiện

trong thời gian ngắn, bước đầu vừa thực hiện vừa đúc kết kinh nghiệm, chủ

yếu tập trung xử lý phương thức đóng (tăng cường thu hồi nợ đọng BHXH,

BHTN, BHYT) trong tình hình số lượng đơn vị nợ đọng BHXH, BHTN,

BHYT nói riêng và số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, BHTN,

BHYT nói chung ở Thành phố rất lớn.

2.2.1. Thực trạng về chủ thể thanh tra

Trong giai đoạn từ trước năm 2015, hệ thống BHXH Thành phố chủ

yếu tiến hành các hoạt động kiểm tra, kiểm tra phối hợp và cử cộng tác viên

tham dự cùng các đoàn thanh tra thực hiện pháp luật lao động và pháp luật

BHXH do Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố chủ

45

trì và thanh tra việc thực hiện pháp luật BHYT do Thanh tra Sở Y tế chủ trì

và các cơ quan khác trên địa bàn Thành phố khi có yêu cầu phối hợp.

BHXH Thành phố bắt đầu chủ trì, tổ chức thí điểm hoạt động thanh

tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố từ

tháng 10/2016. Tính đến hết tháng 12/2019, cơ quan BHXH Thành phố có

50 công chức, viên chức đã được cử học lớp thanh tra viên và thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và đã có 16 công chức, viên chức

thuộc BHXH Thành phố được giao thực hiện thanh tra chuyên ngành.

Bảng 2.1: Đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành phố

Trình độ

Số lượng

Bồi dưỡng

chuyên môn

nghiệp vụ

Công

Viên

Đại

Sau

thanh tra

chức

chức

học

đại học

1

2

1

2

Ban Giám đốc

12

10

2

12

Phòng Thanh tra – Kiểm tra

2

2

2

Phòng Quản lý thu

Nguồn: BHXH Thành phố.

Trên đây là bảng tổng hợp về cơ cấu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

của công chức, viên chức thuộc BHXH Thành phố được giao thực hiện thanh

tra chuyên ngành. Nhìn chung, cơ quan BHXH đã quan tâm bố trí, bồi dưỡng

nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức thực hiện hoạt động thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT; có 16/16 công chức, viên chức

có trình độ từ đại học trở lên và đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng nghiệp

vụ thanh tra.

46

Theo quy định của BHXH Việt Nam, tiêu chuẩn của Trưởng đoàn

thanh tra của BHXH tỉnh là lãnh đạo BHXH tỉnh hoặc Trưởng phòng, Phó

Trưởng phòng thanh tra – kiểm tra và có chứng chỉ hoàn thành lớp bồi dưỡng

thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT do cơ quan có thẩm

quyền cấp. Tuy nhiên, với đặc thù của Thành phố là địa bàn tập trung số

lượng đơn vị sử dụng lao động lớn nhất trong cả nước, tình hình nợ đọng

BHXH, BHTN, BHYT của các đối tượng thanh tra cũng đặc biệt phức tạp

so với các địa phương khác, khiến cơ quan BHXH Thành phố phải tổ chức

nhiều đoàn thanh tra chuyên ngành trong cùng một thời điểm. Vì vậy, để

đảm bảo nhân sự tiến hành thanh tra, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết

định số 2601/QĐ-BHXH ngày 06/12/2016 quy định về việc bổ sung Trưởng

đoàn thanh tra, kiểm tra. Cụ thể, tại cơ quan BHXH Thành phố, các chức

danh như Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Quản lý thu, Khai thác và Thu

nợ được đảm nhiệm vị trí Trưởng đoàn thanh tra (sau khi được đào tạo và

cấp chứng chỉ hoàn thành lớp bồi dưỡng thanh tra chuyên ngành về đóng

BHXH).

Trong quá trình tiến hành thanh tra, đoàn thanh tra còn trưng tập viên

chức thuộc các phòng nghiệp vụ và viên chức thuộc cơ quan BHXH quận,

huyện (nơi đơn vị sử dụng lao động đăng ký tham gia BHXH) phụ trách quản

lý thu của đối tượng thanh tra tham gia đoàn để đảm bảo việc nắm bắt cụ thể

tình hình đóng BHXH, BHTN, BHYT của đối tượng thanh tra, qua đó góp

phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của Đoàn thanh tra.

2.2.2. Thực trạng về đối tượng thanh tra

Theo thống kê từ BHXH Thành phố, số lượng đơn vị sử dụng lao động,

người lao động trên địa bàn Thành phố tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT

giai đoạn từ 2016 - 2019 có một số biến động như sau:

47

Bảng 2.2: Thống kê số lượng đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc

đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT giai đoạn 2016 – 2019

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Nhóm đối

Số người

Số người

Số người

Số người

tượng thanh

Số đơn vị

Số đơn vị

Số đơn vị

Số đơn vị

lao động

lao động

lao động

lao động

tra

Cơ quan nhà

nước, tổ chức

chính trị -xã

3,350

216,974

3,585

216,680

3,638

218,079

3,635

217,283

hội, đơn vị sự

nghiệp

công

lập

Doanh

63,928 1,864,689

90,171 1,934,695

104,483 2,063,414

118,025 2,169,956

nghiệp, hộ

kinh doanh

67,278 2,081,663

93,756 2,151,375

108,121 2,281,493

121,660 2,387,239

Tổng cộng

Nguồn: BHXH Thành phố.

Từ bảng số liệu cho thấy, nhóm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -

xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập tương đối ổn định qua các năm, từ năm

2016 đến năm 2019 tăng 285 đơn vị mới với 309 người lao động tham gia

BHXH, BHTN, BHYT. Điều này hoàn toàn dễ hiểu do đây là nhóm cơ quan,

tổ chức nhà nước, việc thành lập mới hoặc giải thể các cơ quan hầu hết chỉ

được thực hiện khi có sự thay đổi địa giới hành chính, sát nhập, chia tách địa

phương hoặc khi có sự thay đổi của các cơ quan nhà nước được cơ quan có

thẩm quyền thông qua.

Nhóm doanh nghiệp, hộ kinh doanh có sự biến động rõ rệt. Năm 2016,

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 67,278 đơn vị với 2,081,663 người

tham gia BHXH, BHTN, BHYT, năm 2019 có 121,660 đơn vị với 2,387,239

48

người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT, tăng 54,097 đơn vị với

305,267 người lao động. Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh

tế lớn của cả nước, hạ tầng, công nghệ liên tục phát triển mạnh qua các năm;

cùng với đó vị trí địa lý, giao thông và khí hậu thuận lợi, dễ dàng chi chuyển

ra các khu vực là yếu tố quan trọng để thu hút các doanh nghiệp trong và

ngoài nước đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh.

Như vậy nhóm đối tượng thanh tra là doanh nghiệp, hộ kinh doanh có

số lượng đơn vị và người tham gia lớn và phức tạp hơn so với nhóm đối

tượng còn lại. Bên cạnh đặc điểm số lượng đơn vị lớn, tính đa dạng, phức

tạp của nhóm đối tượng này còn thể hiện ở tình hình thu – nợ quỹ BHXH,

BHTN, BHYT trong từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:

49

Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình thu - nợ BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm

doanh nghiệp giai đoạn 2016 – 2019

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Cơ quan nhà

Số đã thu

3,248,696

3,469,916

3,721,034

4,047,502

nước, tổ chức

1

chính trị -xã hội,

đơn vị sự nghiệp

Số nợ

27,871

34,250

26,878

29,786

công lập

Số đã thu

38,969,493

44,287,254

50,850,515

57,203,955

Doanh nghiệp,

2

hộ kinh doanh

Số nợ

2,115,111

2,162,374

2,123,828

2,364,998

Số đã thu

4,874,357

5,444,102

5,880,022

6,030,687

Doanh nghiệp

2.1

nhà nước

Số nợ

143,398

150,674

147,725

153,808

Số đã thu

17,452,984

20,202,133

24,643,838

29,074,164

Doanh nghiệp

2.2

ngoài quốc doanh

Số nợ

1,497,026

1,612,692

1,628,796

1,843,444

Doanh nghiệp có

Số đã thu

16,092,912

18,040,098

19,636,090

21,325,845

2.3

vốn đầu tư nước

Số nợ

461,638

388,451

317,536

325,715

ngoài

Số đã thu

549,240

600,921

690,565

773,259

2.4 Tổ chức còn lại

Số nợ

13,050

10,557

29,772

42,030

Nguồn: BHXH Thành phố.

Qua bảng số liệu cho thấy, số nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT ở nhóm

đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh (Mục 2 – Bảng số liệu) có biến động

nhẹ qua các năm. Từ năm 2016, số nợ là 2,115 tỷ đồng; đến năm 2017, số

nợ đọng tăng lên 2,162 tỷ đồng (tăng 1,25%); năm 2018 đã giảm còn 2,123

tỷ đồng, năm 2019 tăng lên 2,364 tỷ đồng.

50

Trong đó, cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của 03 loại hình doanh

nghiệp tiêu biểu, chiếm số lượng lớn trong nhóm đối tượng doanh nghiệp,

hộ kinh doanh được mô tả thông qua biểu đồ sau:

Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của

các loại doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng

doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2016 - 2019

Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn: BHXH Thành phố.

Cơ cấu nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm đối tượng thanh

tra có một số điểm đáng chú ý như sau:

- Loại hình doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ nợ nhỏ nhất trong tổng

số nợ BHXH, BHTN, BHYT so với các loại hình doanh nghiệp khác và có

xu hướng tăng nhẹ qua các năm. Loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài có tỉ lệ nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT cao hơn doanh nghiệp nhà

nước nhưng có xu hướng giảm đều qua các năm. Điều này cũng phản ánh ý

thức chấp hành của đối tượng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có

sự thay đổi theo hướng tích cực hơn và cũng cho thấy phần nào hiệu quả của

hoạt động thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT.

51

- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ nợ lớn nhất trong tổng

số nợ BHXH, BHTN, BHYT hàng năm. Từ năm 2016, loại hình doanh

nghiệp này có số nợ là 1.497 tỷ đồng chiếm 70,80% tổng số nợ trong năm,

năm 2017 loại hình doanh nghiệp này có số nợ là 1,612 tỷ đồng, chiếm 75,1%

, năm 2018 số nợ là 1.628 tỷ đồng, chiếm 78% và đến năm 2019 số nợ lên

tới 1.843 tỷ đồng chiếm 79,50% .

Qua phân tích các số liệu, biểu đồ trên, có thể thấy thực trạng nợ đọng

BHXH, BHTN, BHYT đang diễn ra chủ yếu ở nhóm đối tượng doanh

nghiệp, hộ kinh doanh, mà tập trung lớn nhất ở các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh. Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT đối

của BHXH Thành phố muốn giải quyết được bài toán về giảm nợ đọng cần

phải tập trung vào các doanh nghiệp này. Tuy nhiên nhóm này bao gồm nhiều

loại hình công ty sản xuất kinh doanh, quy mô cũng hết sức đa dạng, với số

lượng lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tình hình sử dụng lao động

cũng hết sức phức tạp, công tác quản lý nhà nước không tránh khỏi gặp nhiều

khó khăn.

Khi xây dựng chương trình thanh tra, kiểm tra hàng năm, BHXH

Thành phố thường tập trung vào nhóm doanh nghiệp có hành vi vi phạm như

trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT thường xuyên, kéo

dài hay nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT lớn. Con số thống kê này định kỳ

hàng tháng được đăng tải công khai trên Trang thông tin điện tử của BHXH

Thành phố để đối tượng nắm thông tin về tình trạng của mình và cũng là cơ

sở để BHXH Thành phố tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra.

2.2.3. Thực trạng về nội dung, hình thức thanh tra

Xuất phát từ đặc trưng của đối tượng thanh tra và điều kiện cụ thể của

chủ thể thanh tra đã được phân tích ở trên, hình thức cơ bản được BHXH

52

Thành phố sử dụng trong các cuộc thanh tra là thanh tra theo kế hoạch và

thanh tra đột xuất.

Hoạt động thanh tra đóng BHXH được BHXH Thành phố triển khai

thực hiện trong bối cảnh các đơn vị sử dụng lao động tại Thành phố nợ đọng

lớn và việc trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động diễn ra rất

phổ biến, đặc biệt là tập trung tại các Công ty, khu công nghiệp sử dụng lực

lượng lao động có trình độ thấp về nhận thức, hiểu biết pháp luật nói chung

và pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT nói riêng. Chính vì vậy, công tác

thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi trốn đóng, nợ tiền BHXH,BHTN,

BHYT và các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng chế độ, trục lợi BHXH,

BHTN, BHYT luôn được BHXH Thành phố xác định là một trong những

nhiệm vụ quan trọng trong quá trình quản lý việc thực hiện chính sách

BHXH, BHYT trên địa bàn Thành phố.

Bảng 2.4: Số cuộc thanh tra của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019

Năm

2016

2017

2018

2019

27

331

426

468

Số cuộc

Nguồn: BHXH Thành phố.

Tính từ tháng 10/2016, BHXH TP bắt đầu triển khai thí điểm để chuẩn

bị nguồn lực bắt đầu thanh tra từ năm 2017. Từ cuối 2016 đến tháng 12/2019,

BHXH Thành phố đã chủ trì tiến hành 1206 cuộc thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố. Các cuộc

thanh tra qua các năm đều tăng lên về số lượng, năm 2018 tăng 95 cuộc so

với năm 2017 và năm 2019 tăng 42 cuộc so với năm 2018.

2.2.3.1. Thực trạng thanh tra về đối tượng đóng

Với nội dung thanh tra về đối tượng đóng, đoàn thanh tra căn cứ vào

53

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, theo đó:

+ Trước ngày 01/01/2018: người lao động có ký kết HĐLĐ, có tên

trên bảng lương từ 03 tháng trở lên thì thuộc đối tượng tham gia BHXH.

+ Từ ngày 01/01/2018: người lao động ký kết HĐLĐ từ 01 tháng trở

lên, có tên trên bảng chi trả lương của đơn vị.

Thống kê kết quả thanh tra tại BHXH Thành phố, thấy nổi lên một số

thực trạng như:

- Doanh nghiệp có thuê mướn, sử dụng lao động nhưng không ký kết

HĐLĐ hoặc ký các loại hợp đồng khác như hợp đồng cộng tác viên, hợp

đồng đào tạo, hợp đồng làm việc bán thời gian, hợp đồng khoán việc… để

trốn đóng BHXH.

- Doanh nghiệp không tham gia BHXH, BHTN, BHYT cho người lao

động đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian tham gia đóng BHXH và

tiếp tục giao kết HĐLĐ tại đơn vị, đơn vị tiến hành trả lương theo ngày để

trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Hộp 2.1: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

Nhận xét:

- Đối tượng thanh tra lập thủ

2.1.1. Đối tượng đóng

tục đăng ký tham gia BHXH

Tổng số lao động của Văn phòng Công ty và

không kịp thời cho 41 lao

16 Chi nhánh tham gia tại Thành phố theo Bảng

động.

lương tháng 06/2018 là 2.901 người (không bao

gồm bảng lương lao động thôi việc trong tháng

- 12 trường hợp bị phát hiện

6/2018).

sai về thời gian tham gia,

54

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

phải điều chỉnh giảm thời

gian tham gia BHXH với

Số lao động có tên trên bảng lương thực tế của

tổng số tiền điều chỉnh giảm

công ty thuộc diện tham gia BHXH là 41 người

là 27.943.700 đồng.

(04 lao động chưa tham gia và 37 lao dộng tham

gia thiếu thời gian). Tổng số tiền truy thu cho 41

người do chưa tham gia và đóng không đúng

thời gian quy định chưa bao gồm lài chậm nộp

là: 106.484.400 đồng, trong đó quỹ BHXH là

83.094.650 đổng

Số lao động không có trên bảng lương hoặc

có nhưng không đủ ngày công nhưng vẫn tham

gia BHXH là 12 người (trong đó: 03 trường hợp

chưa báo giảm, 09 trường họp báo giảm sai

tháng). Tổng số tiền điều chỉnh giảm do không

thuộc đối tượng tham gia là: 27.943.700 đồng,

trong đó quỹ BHXH là 25.545.400 đồng.

[…]

Nguồn: BHXH Thành phố.

- Loại vi phạm phổ biến mà các đoàn thanh tra thường xuyên phát hiện

liên quan đến đối tượng đóng BHXH tại doanh nghiệp là doanh nghiệp chậm

khai báo tăng giảm lao động, quỹ lương, mức lương hoặc chức danh công

việc khi có thay đổi, không ký HĐLĐ hay ký với tên gọi khác nhau như đề

cập ở trên để trốn đóng, không đóng cho người đủ tuổi nghỉ hưu nhưng chưa

phải là đối tượng hưu trí.

Hộp 2.2: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

55

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

Nhận xét:

- Đối tượng thanh tra đã đóng

1.1. Về đối tượng đóng

BHXH không đủ số người

Tổng số lao động thực tế trên bảng lương

thuộc diện bắt buộc với tổng

tháng 07/2018 của Công ty là 97 người. Trong

số

tiền

phải

đóng

đó: HĐLĐ không xác định thời hạn là 35 người,

1.031.379.775 đồng.

HĐLĐ từ 12 tháng đến 36 tháng là 38 người,

chưa giao kết HĐLĐ là 24 người.

- Đối tượng thanh tra chưa

điều chỉnh giảm đóng cho số

Tổng số lao động của Công ty thuộc đối

lao động không thuộc đối

tượng đóng BHXH vào tháng 07/2018 là 73

tượng tham gia với tổng số

người.

tiền giảm đóng là 110.263.850

Tổng số lao động đóng BHXH đã tham gia

đồng.

đến hết tháng 07/2018 là 36 người.

Năm 2017 có 25 lao động, năm 2018 có 73

lao động thuộc đối tượng đóng BHXH nhưng

Công ty chưa lập thủ tục tham gia phải truy đóng

với số tiền là 1.031.379.775 đồng.

Năm 2017 có 08 lao động, năm 2018 có 05

lao động không có tên trên bảng lương nhưng

vẫn tham gia BHXH. Phải điều chỉnh giảm đóng

với tiền là 110.263.850 đồng; trong đó có 02 lao

động đã được Công ty đề nghị giải quyết hưởng

trợ cấp ốm đau và đã được BHXH quận Bình

Tân giải quyết với số tiền 5.784.200 đồng

56

Năm 2017, có 56 lao động đủ điều kiện nhưng

không có hồ sơ lao động và không tham gia

BHXH.

[…]

Nguồn: BHXH Thành phố.

- Cũng có tình trạng các doanh nghiệp đề nghị truy thu cộng nối thời

gian cho các giai đoạn trước đây không thuộc đối tượng thu BHXH, BHYT,

BHTN để đủ các chế độ; Cá biệt có trường hợp ký hợp đồng dịch vụ cho

thuê lại lao động để né tránh thực hiện đóng BHXH, BHTN, BHYT;

2.2.3.2. Thực trạng thanh tra về mức đóng

Để xem xem xét về mức đóng BHXH, BHYT, BHTN của đơn vị sử

dụng lao động, các đoàn thanh tra căn cứ vào: thang bảng lương, bảng chi

trả lương, HĐLĐ, quy chế trả lương, thưởng, nội quy lao động. Ngoài mức

lương chính ký kết trên HĐLĐ còn có các khoản khác theo quy định tại

Khoản 2, Điều 30, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH như:

+ Trước ngày 01/01/2018, các khoản phụ cấp phải đóng BHXH,

BHTN, BHYT gồm: phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ

cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực;

phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút.

+ Từ ngày 01/01/2018 trở đi, các khoản bổ sung khác phải đóng

BHXH, BHTN, BHYT là các khoản bổ sung xác định được mức tiền cụ thể

cùng với mức lương thỏa thuận trong HĐLĐ và trả thường xuyên trong mỗi

kỳ trả lương.

Đoàn thanh tra còn tiến hành đối chiếu mức tiền lương tháng đóng

BHXH, BHTN, BHYT với mức lương tối thiểu vùng của năm đó và thang

57

bảng lương của đơn vị đã xây dựng để đảm bảo quyền lợi cho người lao

động.

Tổng hợp kết quả thanh tra các năm về mức đóng BHXH, BHTN,

BHYT của đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố cho thấy BHXH

Thành phố đã thực hiện nội dung này tương đối hiệu quả, thể hiện cụ thể

như:

Năm 2017, các đoàn thanh tra đã đề nghị các đơn vị truy đóng bảo

BHXH, BHYT, BHTN cho 538 lao động thuộc đối tượng tham gia nhưng

doanh nghiệp chưa tham gia với tổng số tiền là 2,9 tỷ đồng, truy giảm cho

255 lao động không thuộc đối tượng tham gia với số tiền 2,2 tỷ đồng, điều

chỉnh mức đóng cho 680 lao động với tổng số tiền 822 triệu đồng.

Năm 2018 tiếp tục có sự chuyển biến rõ nét sơ với năm 2017, các đoàn

thanh tra đã đề nghị lập thủ tục truy đóng tham gia cho 706 lao động với số

tiền là 7,6 tỷ đồng; truy giảm cho 322 lao động không thuộc đối tượng tham

gia với số tiền 3,1 tỷ đồng, điều chỉnh mức đóng cho 332 lao động với tổng

số tiền 1,7 triệu đồng.

Năm 2019 các đoàn thanh tra đã đề nghị lập thủ tục truy đóng tham

gia cho 197 lao động với số tiền là 2,7 tỷ đồng; truy giảm cho 66 lao động

không thuộc đối tượng tham gia với số tiền 490 triệu đồng, điều chỉnh mức

đóng cho 69 lao động với tổng số tiền 64 triệu đồng.

58

Bảng 2.5: Kết quả thanh tra về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT

Đơn vị: đồng

Năm

Truy đóng

Truy giảm

Điều chỉnh mức lương

2.951.109.207

2.256.624.614

822.621.812

2017

7.636.089.127

3.187.864.397

1.791.716.601

2018

2.701.702.803

490.445.200

64.919.017

2019

Nguồn: BHXH Thành phố.

Với kết quả như trên, rõ ràng thanh tra về đóng BHXH đối với đơn vị

sử dụng lao động có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh tại Thành phố tồn tại

nhiều mô hình doanh nghiệp, khu công nghiệp thu hút lượng lớn người lao

động từ các tỉnh thành miền Trung, miền Tây Nam Bộ làm việc nhưng trình

độ nhận thức pháp luật thấp, dễ bị người sử dụng lao động o ép, chấp nhận

chịu thiệt về quyền lợi.

Đối với nội dung thanh tra về mức đóng, qua nghiên cứu tìm hiểu hoạt

động thanh tra của BHXH Thành phố, nhóm nghiên cứu còn thấy tồn tại các

thực trạng sau:

- Hầu hết đơn vị đóng BHXH cho người lao động với mức lương bằng

hoặc cao xấp xỉ mức lương tối thiểu vùng, hoặc có trường hợp đóng cao bất

thường để lạm dụng hưởng chế độ thai sản.

Hộp 2.3: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

59

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

Nhận xét:

Đối tượng thanh tra không

1.2. Về mức đóng

xây dựng thang lương bảng

Công ty chưa xây dựng hệ thống thang

lương để làm cơ sở giao kết

lương, bảng lương làm cơ sở giao kết HĐLĐ đề

HĐLĐ, trả lương và tham gia

trả lương và đóng BHXH cho người lao động

BHXH cho người lao động

theo quy định của pháp luật;

theo quy định.

Công ty có chi trả các khoản phụ cấp cho

người lao động, gồm: tiền xăng, tiền nhà trọ,

tiền điện thoại, tiền cơm, tiền ăn giữa ca, tiền

thưởng năng suất.

Tổng quỹ lương thực tế tháng 07/2018 của

97 lao động là 671.380.000 đồng.

Tổng quỹ lương tham gia BHXH tháng

07/2018 của 36 lao động chỉ là 154.385.000

đồng.

Mức lương thực nhận tháng 07/2018 của

người lao động: cao nhất là 18.908.000 đồng,

thấp nhất là 4.400.000 đồng.

Mức lương đóng BHXH tháng 07/2018:

cao nhất là 6.245.000 đồng, thấp nhất là

4.260.000 đồng.

[…]

Nguồn: BHXH Thành phố.

60

- Phần lớn những doanh nghiệp được thanh tra chưa chấp hành đúng

việc xây dựng thang lương, bảng lương, hoặc không áp dụng đúng thang

lương, bảng lương đã xây dựng làm cơ sở để giao kết HĐLĐ, chi trả lương

và tham gia BHXH cho người lao động.

Hộp 2.4: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

Nhận xét:

- Đối tượng thanh tra

2.2. Về mức đóng

có xây dựng nhưng

Công ty có xây dựng hệ thống thang, bảng lương

không áp dụng thang

năm 2018 nhưng không áp dụng làm cơ sở giao kết

lương, bảng

lương

HĐLĐ (chức danh nhân viên văn phòng có mức lương

năm 2018 làm cơ sở

là 4.260.000 đồng nhưng trên HĐLĐ là 3.980.000

giao kết HĐLĐ.

đồng); Công ty không xây dựng mức lương cho trưởng,

phó phòng nhưng trên HĐLĐ thể hiện 02 chức danh

- Đối tượng chưa thực

trên với mức lương như của nhân viên văn phòng.

hiện điều chỉnh mức

lương tối thiếu vùng,

Năm 2018, công ty có lập hồ sơ điều chỉnh mức

vẫn trích lương của

lương tối thiếu vùng chung cho tất cả lao động là

người lao động theo

4.260.000 đồng. Năm 2019, công ty chưa lập hồ sơ

mức lương tối thiếu

điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng.

vùng năm 2018

Trên HĐLĐ thể hiện mức lương chính và phụ cấp

- BHXH quận Bình

theo quy chế của Công ty.

Thạnh đã tự điều chỉnh

Trên bảng lương hiện mức lương chính và các

mức lương tham gia

khoản phụ cấp (tiền cơm, điện thoại và phụ cấp khác).

BHXH cho người lao

Công ty tham gia BHXH cho người lao động trên mức

động theo mức lương

lương chính.

tối thiếu vùng năm

Mức lương thực nhận của người lao động theo

61

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

bảng lương tháng 03/2019: cao nhất: 4.725.000 đồng

2019.

và thấp nhất: 1.351.923 đồng (do không đủ ngày công

làm việc).

Mức lương làm cơ sở trích nộp BHXH tháng

03/2019: Trên Bảng lương thể hiện mức lương làm cơ

sở trích nộp là 4.260.000 đồng. Trên dữ liệu do BHXH

quận Bình Thạnh quản lý, cơ sở trích nộp là 4.472.600

đồng…

Nguồn: BHXH Thành phố.

Thực trạng này dẫn đến quỹ lương tham gia BHXH, BHTN, BHYT

của các đơn vị do cơ quan BHXH quản lý thường thấp hơn rất nhiều lần

(thường chỉ bằng 30% đến 50%) so với quỹ lương thực tế của đơn vị.

2.2.3.3. Thực trạng thanh tra về phương thức đóng

Đoàn thanh tra căn cứ trên dữ liệu chương trình quản lý thu để xem

xét việc đơn vị sử dụng lao động có tuân thủ phương thức đóng hay không.

Đơn vị sử dụng lao động thực hiện đúng phương thức đóng thì không để nợ

quỹ BHXH, BHTN, BHYT.

Hiệu quả của nội dung thanh tra về phương thức đóng được thể hiện

thông qua tỷ lệ khắc phục nợ của các đơn vị sử dụng lao động. Bảng 2.6 cho

thấy, tỷ lệ này tăng đáng kể trong giai đoạn 2016 - 2019, gắn với sự xuất hiện

chức năng thanh tra về đóng BHXH theo Luật BHXH năm 2014.

62

Bảng 2.6: Tỷ lệ khắc phục nợ của đơn vị qua thanh tra

Đơn vị: đồng

Số nợ khi lên

Số nợ được khắc

Tỷ lệ

Năm

danh sách thanh

phục qua thanh tra

khắc phục nợ

tra

(%)

8.592.085.181

855.740.445

9.96

2016

138.825.969.535

96.343.025.778

69.40

2017

589.564.090.342

331.962.799.159

56.31

2018

506.865.511.735

263.443.717.239

51.97

2019

Nguồn: BHXH Thành phố.

Liên quan đến phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT, còn tồn tại

thực trạng một số đơn vị vẫn hoạt động, đã từng bị khởi kiện, đang thi hành

án dân sự về nợ BHXH, BHTN, BHYT, nhưng vẫn tiếp tục vi phạm, chấp

nhận để lập biên bản xử phạt nhưng không khắc phục, cơ quan thi hành án

cũng không có biện pháp thu hồi nợ cũ do cơ sở vật chất của đơn vị đều có

nguồn gốc thuê mướn hoặc đã thế chấp ngân hàng.

Cũng có một số ít các đơn vị không còn hoạt động, không còn trụ sở

kinh doanh, nhưng do nợ đọng (kể cả nợ thuế) không có nguồn chi trả, không

thể giải thể nên vẫn treo nợ kéo dài.

Cũng có thực trạng, nhiều doanh nghiệp tuy có khả năng đóng BHXH,

BHTn, BHYT nhưng cố ý chiếm dụng khoản tiền này, chỉ khi nhận được kế

hoạch hoặc quyết định thanh tra mới chuyển tiền nộp về cơ quan BHXH.

Hộp 2.5: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận

63

Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện

[…]

Nhận xét:

Đối tượng thanh tra đã vi

1.3. Phương thức đóng

phạm nghiêm trọng phương

Tính đến hết tháng 09/2018 Công ty còn nợ

thức đóng, để nợ quỹ BHXH

đóng số tiền là 6.406.203.610 đồng (bao gồm số

từ tháng 11/2014 với tổng số

nợ theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của

tiền là 6.406.203.610 đồng.

các đương sự số 26/IIGT-LĐ-ST ngày

25/09/2015 của Tòa Án Nhân dân Quận 10).

Trong đó nợ quỹ BHXH, từ tháng 11/2013 số

tiền 4.147.012.005 đồng; lãi chậm nộp là

2.258.726.875 đồng.

Trong kỳ phát sinh tháng 10/2018 công ty

có lập hồ sơ điều chỉnh giảm cho 64 lao động

không thuộc đối tượng tham gia bắt buộc với

tổng số tiền là 1.261.310.048 đồng.

Ngày 04/10/2018 Công ty có chuyển số tiền

101.557.248 đồng vào tài khoản chuyên thu của

BHXH Quận 10.

Nguồn: BHXH Thành phố.

Trong quá trình thực hiện công tác thanh tra, khi phát hiện các vi phạm

về nội dung thanh tra, các đoàn thanh tra tiến hành xử lý vi phạm hành chính.

Năm 2017, BHXH Thành phố lập biên bản vi phạm và ban hành Quyết định

xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 83 triệu đồng, năm 2018 xử phạt

vi phạm hành chính tại các đơn vị với tổng số tiền 12.9 tỷ đồng, năm 2019

xử phạt vi phạm hành chính tại các đơn vị với tổng số tiền 11.9 tỷ đồng.

64

Bên cạnh đó, BHXH Thành phố là đơn vị đầu tiên chuyển cơ quan

công an đề nghị điều tra xử lý hình sự đối với 72 đơn vị nợ BHXH, BHYT,

BHTN theo quy định tại Bộ luật Hình sự sửa đổi có hiệu lực từ ngày

01/01/2018.

2.2.4. Thực trạng về quy trình thanh tra

Giai đoạn 2016 - 2019, các đoàn thanh tra về đóng BHXH đối với đơn

vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố thực hiện quy trình, trình tự

thanh tra căn cứ theo Quyết định số 1518/QĐ-BHXH ngày 18/10/2016 của

BHXH Việt Nam quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra.

Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra, việc khảo sát, nắm tình hình được

BHXH Thành phố thực hiện theo trình tự và sử dụng các công cụ hỗ trợ thực

hiện như sau:

Hình 2.4: Trình tự các bước trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra

Bước 1

Bước 2

Bước 3

Bước 4

Trình

tự

65

- Bộ công cụ hỗ

- Đối chiếu với

- Cổng thông

- Phần mềm tin

trợ tập trung dữ

chương

trình

tin quốc gia về

học văn phòng

liệu thu, sổ, thẻ

công tác năm,

đăng ký doanh

(MS

office,

Công

và tài chính kế

kế hoạch thanh

nghiệp

Open office,…)

cụ hỗ

toán

(Phần

tra năm của các

trợ

- Cục Thuế

mềm

TST

cơ quan, đơn vị

Thành phố cung

thực

online)

cấp

Nguồn: Tổng hợp.

hiện

Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, các đoàn thanh tra thực hiện các

hoạt động sau: yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, hồ

sơ, dữ liệu; kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu, hồ sơ, dữ liệu; báo cáo tiến

độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra; sửa đổi, bổ sung nội dung, kế hoạch thanh

tra; chuyển hồ sơ sang cơ quan nhà nước có thẩm quyền; lập và thông qua

biên bản. Những hoạt động này đều được các đoàn thanh tra thực hiện theo

trình tự, thủ tục được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật và hướng

dẫn nghiệp vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.

Khi đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu, hồ sơ, dữ liệu, đoàn thanh

tra tiến hành kiểm tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu. Phương

pháp kiểm tra tài liệu, hồ sơ, dữ liệu rất phong phú, đa dạng. Tùy theo yêu

cầu và nội dung mỗi cuộc thanh tra, đoàn thanh tra sẽ áp dụng những biện

pháp khác nhau. Thông thường, để không ảnh hưởng đến hoạt động bình

thường của đối tượng thanh tra, đoàn thanh tra sử dụng phương pháp đối

chiếu: đối chiếu tài liệu, hồ sơ, dữ liệu của đối tượng thanh tra với nhau, với

số liệu của Phòng Quản lý thu và của cơ quan BHXH cấp huyện quản lý đối

tượng thanh tra đó để tìm ra các điểm bất hợp lý.

66

Qua quá trình nghiên cứu, xem xét hồ sơ, tài liệu, khi phát hiện những

vấn đề sai phạm, đoàn thanh tra tiến hành phân tích rõ nguyên nhân, mối

quan hệ của vấn đề sai phạm với các nội dung khác, lập biên bản xác nhận

số liệu.

Ngoài ra, đoàn thanh tra cũng tiến hành thanh tra xác minh thực tế khi

cần thiết để xác định, củng cố hoặc bổ sung cho kết quả kiểm tra hồ sơ tài

liệu. Mọi kết quả làm việc, kiểm tra thực tế đều được ghi lại bằng biên bản.

Các biên bản làm việc hoặc kiểm tra xác minh khi lập xong, cán bộ thanh tra

đọc để đối tượng nghe và yêu cầu họ ký vào biên bản. Đoàn thanh tra tổ chức

xác minh kịp thời những vấn đề nghi vấn để xác định những sai phạm là do

đối tượng chưa hiểu đúng hay do đối tượng cố ý vi phạm nhằm trục lợi, từ

đó có cách giải quyết phù hợp.

Giai đoạn kết thúc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra báo cáo bằng văn

bản kết quả thanh tra (cùng với dự thảo kết luận thanh tra) gửi người ra quyết

định thanh tra là Giám đốc BHXH Thành phố để ban hành kết luận thanh tra.

Sau khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn tổ chức họp đoàn để tổng

kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của đoàn thanh tra, nội dung tổng kết của

thanh tra Thành phố thường bao gồm các nội dung sau:

- Đánh giá kết quả thanh tra đạt được so với mục đích, yêu cầu của

cuộc thanh tra;

- Đánh giá kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc thực

hiện Quy chế hoạt động của đoàn thanh tra; giám sát, kiểm tra hoạt động đoàn

thanh tra, quy tắc ứng xử của người được giao nhiệm vụ thực hiện thanh tra và

các quy định khác có liên quan đến hoạt động đoàn thanh tra;

- Những bài học kinh nghiệm rút ra qua cuộc thanh tra và những kiến

nghị, đề xuất của đoàn thanh tra.

67

Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 2016 - 2019, hoạt động thanh tra

chuyên ngành BHXH, BHTN, BHYT của đoàn thanh tra Thành phố đã cơ

bản thực hiện đúng theo quy định pháp luật và quy định của ngành.

2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng thanh tra về thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Những kết quả đạt được

Trải qua hơn 03 năm thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành kể

từ thời điểm Luật BHXH có hiệu lực thi hành, tuy bước đầu còn gặp nhiều

khó khăn nhưng tựu trung lại, BHXH Thành phố gặt hái được nhiều thành

quả đáng khích lệ. Đó vừa là trách nhiệm nhưng cũng là động lực cho ngành

BHXH nói chung và BHXH Thành phố tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính

trị, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Khái quát lại, kết quả hoạt động thanh tra chuyên ngành BHXH,

BHTN, BHYT của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019, nổi lên những

nét tiêu biểu sau:

Thứ nhất, công tác thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT được

thực hiện bởi BHXH Thành phố ngày một hoàn thiện và phát huy hiệu quả

góp phần nâng cao việc chấp hành các quy định về đóng, hưởng các chế độ

BHXH, BHTN, BHYT của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành

phố.

Thứ hai, qua công tác thanh tra đã kịp thời phát hiện và xử lý các hành

vi vi phạm như: chậm đóng, trốn đóng, đóng không đủ số người thuộc diện

tham gia, đóng không đúng mức đóng.

68

Thứ ba, hiệu quả xử lý, thu hồi nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT được

nâng cao, góp phần quan trọng trong việc giảm tình trạng nợ đọng BHXH,

BHTN, BHYT trên địa bàn, đảm bảo người lao động được hưởng đầy đủ chế

độ khi tham gia BHXH, BHTN, BHYT.

Thứ tư, quy trình thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện phù hợp

với quy định của pháp luật thanh tra, với quy trình thanh tra do BHXH

Việt Nam xây dựng, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với các đơn vị sử dụng lao

động trên địa bàn Thành phố.

2.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật, quy chế về hoạt động thanh

tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT ngày càng hoàn thiện.

Cơ sở pháp lý đầu tiên và cao nhất về việc cơ quan BHXH được thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là Luật BHXH năm 2014. Tại Khoản

3, Điều 13 quy định: “Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra chuyên

ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT theo quy định...” Sau đó, Chính phủ

đã ban hành Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016, quy định việc

thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN.

Trên cơ sở Luật và Nghị định, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết

định 1518/QĐ-BHXH, quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam.

Bên cạnh đó, cũng phải kể đến quy định tại Điều 216, Bộ luật Hình sự

năm 2015 với tội danh “Trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm

thất nghiệp cho người lao động” cũng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu cho

quả hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT.

69

Các văn bản pháp luật trên đã tạo nên khung pháp lý tương đối hoàn

chỉnh để cơ quan BHXH Thành phố thực hiện hoạt động thanh tra và đem

lại những kết quả rất tích cực so với thời gian trước đó.

Thứ hai, công tác thanh tra của BHXH Thành phố được chỉ đạo sát

sao, hỗ trợ kịp thời từ BHXH Việt Nam.

Bên cạnh các văn bản chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời, trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng, Vụ Thanh tra - Kiểm tra và Trường Đào tạo

nghiệp vụ BHXH của BHXH Việt Nam đã phối hợp với Trường Cán bộ

thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ

thanh tra cho các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố, trong đó có BHXH Thành

phố. Ngoài ra, BHXH Việt Nam còn quan tâm tới đội ngũ công chức, viên

chức tiến hành hoạt động thanh tra của ngành bằng việc hướng dẫn triển khai

thực hiện các chế độ bồi dưỡng cho công chức, viên chức thực hiện hoạt

động công tác thanh tra chuyên ngành (cơ sở vật chất, công tác phí, trang

phục,…).

Thứ ba, công tác thanh tra của BHXH Thành phố nhận được sự

phối hợp, hỗ trợ của các Sở - Ngành liên quan.

Trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, các đoàn

thanh tra tại BHXH Thành phố luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các

Sở - Ngành. Đặc biệt là sự hỗ trợ của Liên đoàn lao động Thành phố, các

Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Lao động – Thương binh và

Xã hội trong việc cung cấp thông tin, tình hình các doanh nghiệp sử dụng lao

động trên địa bàn quản lý. Tại các địa phương nơi các doanh nghiệp đặt tru

sở chính, khi có đoàn thanh tra đến thực hiện công vụ thì chính quyền sở tại

luôn có sự phối hợp để xác minh thông tin, tình hình hoạt động của doanh

nghiệp, góp phần giúp đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ theo quy định.

70

Thứ tư, đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành

phố được nâng lên cả về số lượng và chất lượng.

Ngay khi quy định của pháp luật về chức năng thanh tra của BHXH

có hiệu lực, BHXH Việt Nam, BHXH Thành phố đã chủ động tổ chức các

lớp đào tạo, bồi dưỡng thanh tra viên và thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHYT, BHTN cho công chức, viên chức trong ngành. Công tác này được tổ

chức định kỳ hàng năm.

Hiện nay, BHXH Thành phố tiếp tục triển khai bồi dưỡng nghiệp vụ

thanh tra viên và thanh tra chuyên ngành cho viên chức thuộc BHXH các

quận huyện. Với thực trạng nhân lực của BHXH Thành phố hiện nay, đây là

một việc làm rất phù hợp, đúng đắn bởi viên chức BHXH các quận, huyện

là nhóm đối tượng mà BHXH Thành phố thường xuyên trưng tập trong quá

trình thực hiện hoạt động thanh tra và cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất

lượng hoạt động của các đoàn thanh tra về đóng BHXH đối với doanh nghiệp

trên địa bàn Thành phố.

Sự chủ động này góp phần đảm bảo số lượng, chất lượng của đội ngũ

công chức, viên chức tiến hành hoạt động thanh tra, kịp thời đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả của công tác thanh tra về đóng BHXH trên địa

bàn Thành phố.

Bên cạnh đó, thông qua thực tiễn hoạt động của các đoàn thanh tra,

đội ngũ viên chức của BHXH Thành phố không ngừng trau dồi về kỹ năng,

kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ. Công tác tổng kết rút kinh nghiệm,

đánh giá kết quả thực hiện cũng thường xuyên được tổ chức để kịp thời có

sự điều chỉnh cần thiết.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế

71

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, hoạt động thanh tra về đóng

BHXH đối với danh nghiệp trên địa bàn Thành phố còn những tồn tại, hạn

chế sau:

Thứ nhất, quá trình triển khai thực hiện thanh tra về đóng BHXH,

BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của

thực tiễn.

Hạn chế này thể hiện thông qua số tiền khắc phục nợ BHXH, BHTN,

BHYT của các đơn vị sử dụng lao động qua thanh tra. Thành phố là địa

phương dẫn đầu cả nước về số đơn vị sử dụng lao động trú đóng trên địa bàn,

đồng nghĩa với số lượng các đơn vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH,

BHTN, BHYT là rất lớn. So với số nợ mà BHXH Thành phố đang quản lý

(- số liệu thống kê tại Bảng 2.3), số tiền khắc phục nợ của đơn vị sử dụng lao

động hiện chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (- số liệu thống kê tại Bảng 2.5).

Hạn chế này cũng được thể hiện thông qua số lượng các cuộc thanh

tra mà BHXH Thành phố đã tiến hành. Thống kê cho thấy, số lượng các cuộc

thanh tra của BHXH còn rất khiêm tốn so với con số thống kê các đơn vị

hiện đang nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố. Cập nhật

tại trang thông tin điện tử của BHXH Thành phố, chỉ tính riêng tháng

12/2019, số lượng doanh nghiệp (nợ BHXH, BHTN, BHYT từ 6 tháng hoặc

nợ BHXH từ 300 triệu trở lên) bị BHXH Thành phố công khai hơn 700 doanh

nghiệp, tỷ lệ nhiều hơn số lượng các cuộc thanh tra mà BHXH tiến hành từ

tháng 10/2016 đến tháng 12/2019 (– theo số liệu thống kê tại Bảng 4).

Như vậy, tuy có những kết quả tích cực, đáng ghi nhận thì số lượng

và chất lượng của các cuộc thanh tra về đóng BHXH trên địa bàn Thành phố

vẫn chưa đạt tới kỳ vọng mà những nhà quản lý đặt ra.

72

Thứ hai, tình trạng đơn vị né tránh, không tiếp đoàn thanh tra hoặc

gây trở ngại cho công tác thanh tra.

Tình trạng đơn vị né tránh, không hợp tác dẫn đến kéo dài thời gian

thực hiện cuộc thanh tra, hoặc không thể tiến hành thanh tra như:

Một là, doanh nghiệp né tránh việc thanh tra bằng cách dựa vào Chỉ

thị 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2017 về việc chấn chỉnh

hoạt động thanh tra, kiểm tra, không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra

quá 1 lần/năm đối với doanh nghiệp.

Hai là, một số đơn vị mặc dù có khả năng nhưng chiếm dụng tiền đóng

BHXH, BHTN, BHYT đến khi có quyết định thanh tra mới thực hiện nghĩa

vụ đóng BHXH, BHTN, BHYT. Một số đơn vị còn sẵn sàng vi phạm, chấp

nhận để lập biên bản xử phạt, nhưng không khắc phục, cơ quan thi hành án

cũng không có biện pháp thu hồi nợ.

Ba là, đơn vị không cung cấp hồ sơ đầy đủ, hoặc gây khó khăn cho

đoàn thanh tra trong việc cung cấp số liệu. Tình huống nhiều đoàn thanh tra

BHXH Thành phố gặp phải là đơn vị chỉ cung cấp hồ sơ ở hình thức sổ sách,

giấy tờ, các bìa, tệp tài liệu được sắp xếp không theo thứ tự, quy tắc nhất

định mà không cung cấp dữ liệu số.

Bốn là, đơn vị thay đổi trụ sở chính trên Giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh nhưng không thông báo hoặc không hoạt động tại địa chỉ trụ sở

đã đăng ký. Có trường hợp đơn vị né tránh bằng cách không cử người đại

diện theo pháp luật tiếp đoàn thanh tra, đoàn thanh tra đến đơn vị nhưng

không thể gặp được người đại diện theo pháp luật.

Thứ ba, còn nhiều khó khăn trong công tác quản lý của cơ quan

BHXH.

73

Công tác theo dõi, thống kê, tổng hợp về thanh tra, kiểm tra, tiếp công

dân, giải quyết đơn thư hiện nay của cơ quan BHXH chủ yếu thực hiện thủ

công, dẫn đến tốn thời gian và chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc phân

tích số liệu.

Hiện BHXH Thành phố không có bộ phận chuyên trách theo dõi, đôn

đốc các đơn vị thực hiện các kiến nghị tại kết luận thanh tra nên việc kiểm

soát quá trình thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả, kiểm soát số tiền

xử phạt vi phạm hành chính gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, việc phối hợp giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức có liên

quan tới hoạt động thanh tra về đóng BHXH còn nhiều hạn chế.

Hiệu quả hoạt động của BHXH Thành phố không chỉ được bảo đảm

bằng hoạt động của riêng hệ thống BHXH mà còn cần sự tham gia, phối hợp

của nhiều cơ quan, tổ chức trên địa bàn. Hiện vẫn còn một số khó khăn, hạn

chế trong phối hợp hoạt động giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức làm giảm

hiệu quả của thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT như sau:

Một là, khó khăn trong phối hợp cơ quan công an để khởi tố đơn vị nợ

BHXH, BHTN, BHYT.

Tính đến tháng 12/2019, BHXH Thành phố đã kiến nghị xử lý 72 đơn

vị đề nghị cơ quan Công an xử lý hình sự về tội danh “Trốn đóng BHXH,

BHYT, BHTN cho người lao động” nhưng hiện cơ quan chức năng vẫn chưa

ra quyết định khởi tố vụ án nào đối với tội danh trên.

Hai là, khó khăn trong phối hợp với tổ chức công đoàn để khởi kiện

đơn vị nợ BHXH, BHTN, BHYT.

Thực trạng khỏi kiện đơn vị nợ BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức

công đoàn tại Thành phố cũng như thực trạng chung của cả nước đều đang

gặp phải những khó khăn nhất định. Nguyên nhân chính của hạn chế này là

74

do sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong các quy định pháp luật sẽ được chỉ rõ

ở mục 2.3.2.2.

Ba là, chưa có sự phối hợp giữa BHXH và cơ quan thuế trong xây

dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp và người lao động.

Giữa công tác quản lý BHXH và công tác quản lý thuế có nhiều điểm

chung như: Chung nhóm đối tượng quản lý (các tổ chức chi trả tiền lương,

tiền công và cá nhân làm công ăn lương); Chung căn cứ (tiền công, tiền lương

và phụ cấp lương của người lao động) để tính thuế thu nhập cá nhân hoặc

thu BHXH.

Liên quan đến nhóm đối tượng đơn vị sử dụng lao động và người lao

động, hiện tại có 02 hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng, khai thác, sử dụng

bởi 02 hệ thống cơ quan là BHXH và thuế. Các cơ sở dữ liệu này có thể khai

thác, sử dụng chung nhưng hiện chưa được đồng bộ hóa, dẫn đến khả năng

thông tin về cùng một đơn vị nhưng cơ sở dữ liệu tại 2 hệ thống cơ quan này

lại không thống nhất, ảnh hưởng tới hoạt động quản lý nhà nước nói chung,

nhất là khi tiến hành thanh tra liên ngành đối với đơn vị.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Những hạn chế nêu trên của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố xuất phát từ những nguyên

nhân cơ bản sau đây:

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp lý còn những quy định thiếu đồng

bộ, thiếu hướng dẫn chi tiết ảnh hưởng tới triển khai thực hiện.

- Thiếu thống nhất giữa Luật Thanh tra năm 2010 và Luật BHXH năm

2014, Nghị định số 21/2016/NĐ-CP về địa vị pháp lý của BHXH cấp tỉnh và

người được giao thực hiện chức năng thanh tra đóng BHXH.

75

Khoản 6, Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Cơ quan

được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan thực

hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục,

cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra

chuyên ngành”. Trong khi đó, Luật BHXH năm 2014 và Nghị định số

21/2016/NĐ-CP lại giao cho BHXH là một đơn vị sự nghiệp công lập thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH.

Khoản 7, Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Người được

giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức được phân

công thực hiện nhiệm vụ thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức

năng thanh tra chuyên ngành”. Trong khi đó, theo Nghị định số

21/2016/NĐ-CP, chỉ có một số lượng nhỏ người được giao thực hiện nhiệm

vụ thanh tra là công chức (Giám đốc, Phó Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố),

hầu hết những người còn lại trong hệ thống cơ quan BHXH làm công tác

thanh tra là viên chức.

- Quyết định 1518/QĐ-BHXH chưa đồng bộ với Luật Xử lý vi phạm

hành chính năm 2012 về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với

hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH.

Khoản 1, Điều 46, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định

về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra đã trao thẩm quyền

cho cả thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên

ngành trong khi thi hành công vụ.

Trong khi đó, Quyết định 1518/QĐ-BHXH của Tổng Giám đốc

BHXH Việt Nam, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của BHXH trong

hoạt động thanh tra về đóng BHXH chỉ được giao cho Tổng giám đốc BHXH

Việt Nam, Giám đốc BHXH cấp tỉnh và Trưởng đoàn thanh tra do Tổng giám

76

đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập [11]. Như vậy, tất cả thành viên

của đoàn thanh tra do Giám đốc BHXH cấp tỉnh ra quyết định thành lập đều

không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm của

đối tượng thanh tra. Hệ quả là, việc xử lý vi phạm thiếu kịp thời cũng như

thiếu tính cưỡng chế, răn đe cần thiết đối với đối tượng thanh tra, cùng với

đó là hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố bị

suy giảm.

- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Bộ luật Lao động năm 2012 còn

có quy định thiếu đồng bộ.

Theo Điểm d, Khoản 1, Điều 14, Luật BHXH năm 2014, tổ chức công

đoàn có quyền: “Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về

BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,

tập thể người lao động…”.

Trong khi đó, Điểm d, Khoản 1, Điều 201, Bộ luật Lao động năm 2012

lại xác định tranh chấp về BHXH giữa người lao động với chủ doanh nghiệp

được xếp vào nhóm tranh chấp lao động cá nhân. Theo đó, cá nhân có thể

trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp về BHXH với người sử dụng lao

động mà không nhất thiết phải thông qua tổ chức đại diện của mình (tổ chức

công đoàn).

Dẫn chứng minh họa cho sự thiếu đồng bộ này bằng trường hợp cụ thể

của công ty TNHH KL Texwell Vina [14]. Công ty này nợ BHXH hơn 17 tỷ

đồng của hơn 1.900 lao động. Người lao động của công ty đã thông qua công

đoàn cơ sở ủy quyền cho Trung tâm tư vấn pháp luật của Liên đoàn lao động

địa phương đứng ra khởi kiện trước tòa án. Tuy nhiên, tòa án cho rằng, phải

tiến hành thủ tục tố tụng theo hướng giải quyết tranh chấp lao động của từng

77

cá nhân, đồng thời người lao động chỉ được ủy quyền cho công đoàn cơ sở

khởi kiện. Tiếp cận theo hướng này, tòa án sẽ phải tổ chức 1.900 phiên tòa

để xét xử. Rõ ràng, đây là một mâu thuẫn, bất cập lớn trong quy định của Bộ

luật Lao động năm 2012 so với luật BHXH năm 2014.

- Văn bản hướng dẫn chi tiết để xử lý hình sự đối với tội danh “Trốn

đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động”chưa kịp thời.

Tội danh “Trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động” được

quy định tại Điều 216, Bộ luật Hình sự năm 2015 là tội danh mới cùng với

đó, một số điều luật quy định pháp nhân thương mại có thể trở thành chủ thể

tội phạm cũng là những quy định rất mới của Bộ luật Hình sự năm 2015, tuy

nhiên văn bản hướng dẫn không kịp thời về quy trình, thủ tục, hồ sơ đề nghị

khởi tố đã gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho cơ quan BHXH địa phương

thực hiện.

Đến tháng 09/2019 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng

thẩm phán TAND tối ca Hướng dẫn áp dụng điều 214 về tội gian lận bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế và

điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

nghiệp cho người lao động của bộ luật hình sự chính thức có hiệu lực. Tháng

01/2020, BHXH Việt Nam ban hành công văn số 239/BHXH-PC hướng dẫn

thực hiện tiếp nhận, xử lý thông tin; lập, gửi hồ sơ kiến nghị khởi tố các hành

vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại Điều 214, Điều 215, Điều 216 Bộ luật

Hình sự đến các BHXH địa phương thực hiện.

Vào tháng 8/2017, Tổng cục Cảnh sát và BHXH Việt Nam đã ban

hành Quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống, tội phạm và các hành

vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, BHTN [33]. Tuy nhiên, Quy chế còn quy

định chung chung, đồng thời còn thiếu các hướng dẫn quan trọng của Hội

78

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về mặt nội dung nên việc triển

khai thực hiện còn hết sức hạn chế.

Thứ hai, phần mềm quản lý nghiệp vụ công tác thanh tra, kiểm tra

mới được đưa ra sử dụng từ tháng 11/2019, cần có thời gian để thích ứng

và phát huy hiệu quả.

Đến tháng 6/2018, BHXH Thành phố cùng với BHXH Thành phố Hà

Nội, Cần Thơ, các tỉnh Yên Bái và Nghệ An mới được BHXH Việt Nam chỉ

đạo triển khai thí điểm Phần mềm quản lý nghiệp vụ công tác thanh tra, kiểm

tra. Quá trình triển khai thí điểm đã đem lại nhiều kết quả, chuyển biến tích

cực. Vì vậy, vào tháng 11/2018, BHXH Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tập

huấn nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và ứng

dụng CNTT trong công tác thanh tra, kiểm tra cho lãnh đạo và viên chức trực

tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu

tố và viên chức công nghệ thông tin của BHXH các tỉnh, thành phố để bắt

đầu triển khai nhân rộng việc sử dụng, khai thác phần mềm này cho ngành

BHXH cả nước.

Đến tháng 11/2019, BHXH Việt nam đề nghị các tỉnh thành bắt đầu

sử dụng phần mềm để kịp thời phản ánh các bất cập, thiếu sót để BHXH Việt

Nam có cơ sở điều chỉnh. Do đó, cần phải lưu ý rằng phần mềm vẫn đang

trong giai đoạn mới triển khai bước đầu nên cần phải có thời gian để tập

huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho người sử dụng, giúp họ thích ứng, nắm

vững và khai thác được tối đa hiệu quả của nó. Đồng thời, quá trình thì điểm

chắc chắn sẽ phát hiện nhiều vấn đề cần xử lý như hạn chế, thiếu sót của

phần mềm, tối ưu hóa phần mềm, phát hiện và xử lý lỗ hổng trong bảo mật

dữ liệu...

Thứ ba, công tác tuyên truyền về quyền lợi, trách nhiệm đóng

BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động còn chưa hiệu quả.

79

Tình hình vi phạm các quy định về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho

thấy ý thức về trách nhiệm đóng BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị chưa cao.

Đây là nghĩa vụ pháp lý của đơn vị sử dụng lao động trước nhà nước, là trách

nhiệm đạo đức thể hiện quan hệ gắn kết, tương hỗ chia sẻ gánh nặng cho cả

đơn vị sử dụng lao động và người lao động khi gặp rủi ro, là đòn bẩy kinh tế

kích thích sự chủ động, sáng tạo, nâng cao năng luất lao động của người lao

động, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao... qua đó đem lại lợi nhuận cho

chủ đơn vị sử dụng lao động, đồng thời cũng là kênh quan trọng để đơn vị

sử dụng lao động xây dựng thương hiệu, tạo nên uy tín, tầm ảnh hưởng của

đơn vị sử dụng lao động đối với xã hội, thu hút đối tác tốt.

Tuy nhiên, các biểu hiện trên thực tế của đơn vị sử dụng lao động trong

mối quan hệ với cơ quan BHXH, với các đoàn thanh tra về đóng BHXH,

BHTN, BHYT cho thấy đơn vị sử dụng lao động vẫn chưa ý thức rõ về lợi

ích, giá trị của việc đóng BHXH, BHTN, BHYT. Nhiều đơn vị sử dụng lao

động chây ỳ trong đóng BHXH, BHTN, BHYT tìm cách né tránh, không tiếp

đoàn thanh tra, gây ra những khó khăn, trở ngại cho công tác thanh tra về

đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn ra rất phổ biến ở Thành phố hiện nay đã

được mô tả chi tiết ở các mục trước là những minh chứng rõ nét về hạn chế,

yếu kém trong nhận thức của đơn vị sử dụng lao động đối với nghĩa vụ đóng

BHXH, BHTN, BHYT.

Để nâng cao ý thức chấp hành của các đơn vị sử dụng lao động, xét ở

góc độ quản lý nhà nước, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành

các quy định về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động

cần được cơ quan BHXH tổ chức, phối hợp triển khai thực hiện rộng rãi,

hiệu quả hơn.

Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức còn

nhiều hạn chế.

80

Việc phối hợp giữa BHXH với cơ quan công an trong xử lý hình sự

đơn vị sử dụng lao động trốn đóng BHXH,BHTN, BHYT với tổ chức công

đoàn trong khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH, BHTN, BHYT đã được đề

cập tới trong nhóm nguyên nhân thứ nhất.

Hiện nay các cơ quan, tổ chức hữu quan đang triển khai thực hiện các

biện pháp cần thiết để sớm khắc phục những tồn tại, hạn chế trên: Tổng Liên

đoàn lao động Việt Nam đang xúc tiến gặp gỡ, làm việc với Ủy ban Thường

vụ Quốc hội, Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã

hội, BHXH Việt Nam để tìm ra giải pháp tháo và mới nhất vào tháng

09/2019, Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019 hướng dẫn chi tiết

Bộ luật Hình sự về các tội phạm liên quan đến BHXH [13] là văn bản quan

trọng góp phần xử lý các hành vi vi phạm nợ đọng, trốn đóng BHXH,

BHTN,BHYT.

Quy chế phối hợp công tác số 994/QCPH-BHXH-CT giữa BHXH

Thành phố và Cục Thuế Thành phố được ban hành ngày 31/3/2015 gắn với

việc thi hành Luật BHXH năm 2006. So với Luật BHXH năm 2006, văn bản

này ra đời muộn và nhanh chóng lạc hậu vì chỉ sau một thời gian, Luật BHXH

năm 2014 có hiệu lực với sự thay đổi cơ bản là giao chức năng thanh tra đóng

BHXH cho hệ thống BHXH. Sự thay đổi này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ

hơn giữa BHXH với nhiều cơ quan, tổ chức hữu quan, đặc biệt là cơ quan

thuế trong việc xây dựng hệ thống dữ liệu thống nhất về doanh nghiệp và

người lao động, phục vụ tốt nhất cho hoạt động thu, BHXH, thanh tra, xử lý

trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự liên quan tới thu, đóng

BHXH.

81

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT có vai

trò vô cùng quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về BHXH, BHTN,

BHYT. Đây cũng là bước tiến quan trọng của Ngành trong thời gian qua khi

lần đầu tiên một đơn vị sự nghiệp được Quốc hội giao thực hiện chức năng

thanh tra, do đó thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thanh tra chuyên ngành đóng

là nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong thời gian qua.

Trong thời gian qua, BHXH Thành phố đã nhận thức được tầm quan

trọng, ý nghĩa, vai trò, của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng. Nội dung,

quy trình thanh tra đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật và quy định

của Ngành. Kết quả thanh tra đã khái quát được tình hình thực hiện đóng

BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị trên địa bàn, chỉ ra được các hành vi vi

phạm và xử lý, kiến nghị xử lý đối với các vi phạm. Bên cạnh đó, thông qua

hoạt động thanh tra, các đoàn thanh tra đã hướng dẫn, giải thích các quy định

để góp phần tháo gỡ các vướng mắc cho đơn vị sử dụng lao động trong việc

thực hiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT; góp phần bảo đảm quyền và

lượi ích hợp pháp của người lao động.

Bên cạnh các kết quả đạt được, BHXH Thành phố vẫn còn gặp phải một

số vướng mắc khó khăn do đây là nhiệm vụ mới của Ngành. Hệ thống quy định

pháp luật, đội ngũ nhân sự, địa bàn lớn, phức tạp, số đơn vị lao động lớn... là

những nguyên nhân chính dẫn đến các khó khăn, vướng mắc hiện nay.

Như vậy, trong chương 2 đề tài đã nghiên cứu thực trạng về thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố trong giai

đoạn từ 2016 – 2019, từ đó đề tài đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ

ra những unguyên nhân của hạn chế nhằm tạo cơ sở để đưa ra những phương

hướng và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành

BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố trong chương tiếp theo.

82

CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA

CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT

NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Định hướng hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm

xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với BHXH Thành phố

Định hướng của công tác thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT trên địa bàn Thành phố không nằm ngoài định hướng phát triển chung

của ngành BHXH Việt Nam và BHXH Thành phố.

Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày

23/07/2013, với mục tiêu: “Phát triển ngành BHXH Việt Nam theo hướng

hiện đại, đảm bảo đủ năng lực và điều kiện để nâng cao chất lượng, hiệu

quả phục vụ và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ X nhiệm kỳ

hiện nay (2015 – 2020) đã xác định an sinh xã hội là một trong 13 nhiệm vụ

và giải pháp chủ yếu cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay, trong đó nhấn

mạnh: “xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh

nghiệp”.

Với tầm quan trọng của BHXH, BHTN, BHYT Đảng, Nhà nước và

Đảng bộ, chính quyền Thành phố luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề

này. Những chính sách về BHXH, BHTN, BHYT không ngừng được bổ

sung, hoàn thiện cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.

83

Từ các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng như: Nghị

quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội

giai đoạn 2012 - 2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012, về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012

- 2020; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách

BHXH ban hành ngày 23/5/2018, có thể khái quát những định hướng cơ bản

phát triển của ngành BHXH Việt Nam nói chung và BHXH Thành phố nói

riêng trong giai đoạn hiện nay:

Một là, xây dựng, phát triển hệ thống chính sách BHXH, BHTN,

BHYT linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại phù hợp với xu hướng hội nhập

quốc tế, hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với sự phát triển

kinh tế - xã hội.

Hai là, bảo đảm và kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng; công

bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững trong BHXH, BHTN, BHYT.

Ba là, sửa đổi hệ thống luật BHXH theo hướng mở rộng đối tượng

tham gia, thiết kế BHXH đa tầng. Gắn việc đóng BHXH với các quyền lợi

và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp và người sử dụng lao động, như hưởng

các cơ chế, chính sách ưu đãi về vay vốn, thuế,...

Bốn là, xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện BHXH, BHTN, BHYT

tinh gọn, hiệu quả phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách

và chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT; Thực hiện tốt công

tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của người dân đối với công

tác BHXH, BHTN, BHYT.

Để BHXH, BHTN, BHYT thực sự trở thành trụ cột của hệ thống an

sinh xã hội với độ bao phủ rộng nhất, hướng tới mục tiêu tất cả người dân

84

đều tham gia và được thụ hưởng chế độ BHXH, BHTN, BHYT, góp phần

quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị -

xã hội, đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước, hoạt động thanh

tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH cần

được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên định hướng sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về hoạt động thanh

tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT theo hướng xác định đúng địa

vị pháp lý của cơ quan BHXH các cấp và đội ngũ công chức, viên chức trong

thực thi hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó, kịp thời điều chỉnh

đồng bộ các quy định hướng dẫn thi hành về thanh tra chuyên ngành với các

quy định của pháp luật về lao động, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự.

Thứ hai, để đảm bảo hệ thống BHXH, BHTN, BHYT theo hướng đa

tầng, mở rộng đối tượng tham gia, gắn việc đóng BHXH, BHTN, BHYT với

các quyền lợi và nghĩa vụ khác của đơn vị sử dụng lao động và người sử

dụng lao động, như hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi về vay vốn, thuế,...

cần tiếp tục mở rộng phạm vi thanh tra của cơ quan BHXH không chỉ giới

hạn ở việc thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đơn vị, người sử dụng

lao động mà mở rộng sang cả thanh tra việc hưởng BHXH đối với người lao

động.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ

chức thực thi hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng như xử lý, khắc phục

hậu quả sau thanh tra.

Thứ tư, có sự phối hợp quản lý giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức

chính trị - xã hội với BHXH trong việc giám sát thực hiện nghĩa vụ đóng

BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị, người sử dụng lao động. Xử lý nghiêm,

dứt điểm, kịp thời tình trạng nợ, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT.

85

Ngoài ra, định hướng cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố còn cần phải chấp hành theo

Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiến

hành thanh tra, kiểm tra không quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp.

3.2. Các nhóm giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của BHXH Thành phố

3.2.1 Tăng cường sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng Ủy, Ban Giám

đốc BHXH Thành phố Hồ Chí Minh

Sự quan tâm, đầu tư của lãnh đạo BHXH Thành phố đối với việc nâng

cao chất lượng hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT có ý nghĩa quan trọng. Khi lãnh đạo BHXH Thành phố có chủ trương,

định hướng quan tâm nâng cao chất lượng thanh tra thì các nguồn nhân lực,

vật lực cũng được huy động đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu này. Không

những vậy, sự quan tâm đó còn góp phần nâng cao vị trí và ý nghĩa của hoạt

động thanh tra. Lãnh đạo BHXH Thành phố có thể tăng cường quan tâm

thông qua việc tạo có chủ trương chỉ đạo các cơ quan liên quan đến hoạt

động thanh tra có sự phối hợp, hỗ trợ cho hoạt động thanh tra của BHXH

Thành phố, có chế độ tuyên dương, khen thưởng đối với các Trưởng đoàn

thanh tra, Thành viên Đoàn thanh tra có thành tích đặc biệt trong công tác.

Lãnh đạo BHXH Thành phố có thể tăng cường quan tâm, chỉ đạo về việc

nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, nâng cao vai trò của Trưởng đoàn

thanh tra thông qua việc thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm hoặc hội

thảo với chủ đề liên quan đến nghiệp vụ, kỹ năng công tác của Trưởng đoàn

thanh tra. Ngoài ra, trong các cuộc họp sơ kết, tổng kết quá trình công tác

của cơ quan, lãnh đạo có thể đề cập tới nội dung nâng cao vai trò của hoạt

động thanh tra, xem đó là nội dung trọng điểm cần thực hiện trong thời gian

86

tới trong toàn cơ quan. Những điều đó chắc chắn sẽ đem đến sự thay đổi to

lớn trong BHXH thành phố cũng như nhận thức của đội ngũ viên chức về

tầm quan trọng của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT; góp phần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của người lao động.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Thứ nhất, xác định địa vị pháp lý của cơ quan BHXH, của đội ngũ

viên chức trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Cụ thể, kiến

nghị Quốc hội sửa đổi Khoản 7, Điều 3 và Điều 34 Luật Thanh tra năm 2010

để phù hợp với đặc thù của người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra

chuyên ngành không chỉ riêng ngành BHXH mà còn của một số ngành khác

hiện nay, lực lượng chủ yếu là viên chức.

Tuy nhiên, để một viên chức được xem là viên chức được giao thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, cần có quy định những tiêu chuẩn

cụ thể rõ ràng về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thanh tra và năng lực nghiệp

vụ chuyên môn để không dẫn đến tình trạng đơn vị sự nghiệp nào cũng được

giao nhiệm vụ thanh tra.

Thứ hai, trong thanh tra đột xuất, cần xem lại quy định phải có người

đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền hợp

pháp mới thực hiện thanh tra được, vì nếu đơn vị né tránh, kéo dài thời gian,

sẽ không khác gì thực hiện thanh tra theo kế hoạch. Ngoài ra, cần bổ sung

quy định pháp luật, hướng dẫn về việc xử lý cụ thể đối với các hành vi né

tránh, không tiếp đoàn thanh tra, cố tình kéo dài thời gian thanh tra.

Thứ ba, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục khởi kiện nợ BHXH theo

quy định của Luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2016; hướng dẫn thống

87

nhất việc phối hợp, chuyển giao quyền khởi kiện doanh nghiệp từ cơ quan

BHXH cho tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp.

3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động

Trong những năm qua, BHXH Thành phố đã tăng cường công tác

thông tin tuyên truyền về Luật BHXH đến doanh nghiệp và người lao động

qua các hình thức tuyên truyền khác nhau như: ký kết quy chế phối hợp với

17 sở, ngành và 21 cơ quan quan báo đài để tuyên truyền, tổ chức đối thoại

với doanh nghiệp; tuyên truyền trực tiếp trên trang thông tin điện tử BHXH

Thành phố; thực hiện chuyên mục hỏi - đáp trên báo và trang thông tin điện

tử; phát thanh “BHXH, BHYT - những điều cần biết” trên các đài phát thanh

và truyền hình; phát hành ấn phẩm “Những điều cần biết về các chế độ

BHXH” tại các doanh nghiệp ở khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn

Thành phố. Mặc dù những hình thức tuyên truyền này khá phong phú, đa

dạng, song vẫn chưa thu hút được số đông doanh nghiệp và người lao động.

Do vậy, BHXH Thành phố cần tiếp tục có những sự điều chỉnh, thay đổi

mang tính bước ngoặt để đem lại hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền

đến doanh nghiệp và người lao động như:

- Về nội dung tuyên truyền:

+ Tiếp tục tuyên truyền về chính sách BHXH, các vấn đề liên quan

đến chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT liên quan đến phạm vi quản

lý của cơ quan BHXH; ý thức trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động trong

tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT.

+ Tuyên truyền, giải thích về mục đích, ý nghĩa của hoạt động thanh

tra nhằm mục đích trước hết là tiếp xúc, hướng dẫn đơn vị thực hiện đúng

các quy định của pháp luật về việc đóng BHXH, BHTN, BHYT; giúp đơn vị

nhận diện, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tham gia

88

BHXH, BHTN, BHYT; đồng thời xóa bỏ định kiến của đơn vị sử dụng lao

động cho rằng hoạt động thanh tra chỉ nhằm tìm kiếm sơ hở, gây khó khăn

cho đơn vị.

- Về đối tượng tuyên truyền:

+ Chú trọng hơn đối với tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động (là

chủ đơn vị và những người thực hiện công tác kế toán, BHXH của đơn vị sử

dụng lao động), đặc biệt là các đơn vị sử dụng lao động mới đăng ký kinh

doanh, để họ nhận thức được những lợi ích khi tham gia BHXH cho người lao

động.

+ Bên cạnh đó, tuyên truyền hướng đến đối tượng là người lao động để

nâng cao nhận thức về chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT của

Đảng và Nhà nước đối với đơn vị sử dụng lao động và người lao động, để họ

tự hiểu rõ về quyền lợi, nghĩa vụ của mình và trách nhiệm của đơn vị sử dụng

lao động nơi mình làm việc trong tham gia đóng BHXH. Đây là tiền đề quan

trọng cho người lao động mạnh dạn, chủ động đấu tranh bảo vệ quyền lợi của

mình trước đơn vị sử dụng lao động, buộc người sử dụng lao động phải đóng

đúng, đóng đủ BHXH, BHTN, BHYTcho người lao động.

- Về hình thức tuyên truyền:

+ Ngoài hình thức tuyên truyền trên Trang thông tin điện tử, băng rôn,

đối thoại, phát tờ rơi… cần lập thêm ứng dụng trên các thiết di động (điện

thoại thông minh, máy tính bảng,...) để truyền tải tin tức, chủ trương, chính

sách nhà nước đến gần hơn với đơn vị sử dụng lao động và người lao động.

+ Thông qua các tổ chức công đoàn để tuyên truyền, phổ biến chính

sách, pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT. Đây là tổ chức đại diện của

người lao động, có quan hệ gần gũi, gắn bó thiết thân và nhận được sự tin

tưởng, tín nhiệm của người lao động nên sẽ có tác động, ảnh hưởng rất lớn

89

tới việc thay đổi nhận thức của họ.

3.2.4. Mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ

quan bảo hiểm xã hội

Là hoạt động bảo hiểm có đặc thù riêng mang bản chất nhân văn, nhân

đạo, tính cộng đồng sâu sắc, không vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động BHXH,

BHTN, BHYT trước hết phải tuân thủ đúng nguyên tắc có đóng, có hưởng,

quyền lợi thụ hưởng tương ứng với nghĩa vụ đóng góp. Đồng thời, hoạt động

BHXH, BHTN, BHYT thể hiện bản chất xã hội, tính đoàn kết, chia sẻ giữa

các thành viên tham gia đóng góp xây dựng, phát triển quỹ, không phân biệt

giàu nghèo, già trẻ, khỏe mạnh hay đau ốm.

Quan điểm này, định hướng cho công tác quản lý nhà nước về BHXH,

BHTN, BHYT cần tăng cường các giải pháp ngăn chặn và xử lý các hành vi

lợi dụng, trục lợi, không thuộc đối tượng tham gia nhưng tìm cách hợp thức

hóa để có tên trong danh sách hưởng các chế độ, trợ cấp của BHXH, ví dụ

như: không khai báo đang làm việc để vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp; không

khai báo người thụ hưởng chế độ BHXH bị mất để tiếp tục nhận trợ cấp của

người đã mất,...

Do đó, cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền, nội dung thanh tra của cơ

quan BHXH bên cạnh thanh tra việc đóng BHXH, BHTN, BHYT của đơn

vị sử dụng lao động, còn được thanh tra việc hưởng BHXH, BHTN, BHYT

đối với đơn vị sử dụng lao động, người lao động.

3.2.5. Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội

ngũ thực hiện chức năng thanh tra

Để hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị

sử dụng lao động đạt hiệu quả cao thì trước hết phải có một đội ngũ công

chức, viên chức thực hiện hoạt động thanh tra giỏi về chuyên môn nghiệp

90

vụ, am hiểu các chính sách BHXH, BHTN, BHYT có phẩm chất đạo đức

chính trị vững vàng,... đặt trong bối cảnh nguồn nhân lực của BHXH nói

riêng, của các cấp, các ngành nói chung có sự tác động mạnh mẽ của cách

mạng công nghiệp 4.0 cũng như việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế.

Do đó, việc xây dựng, tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

vụ thường xuyên là rất cần thiết. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra về đóng

BHXH, BHTN, BHYT đòi hỏi các viên chức cơ quan BHXH phải thường

xuyên tiếp xúc với các đơn vị, vì vậy trong quá trình tiếp xúc không tránh

khỏi những tình huống bất ngờ đòi hỏi từng viên chức tham gia hoạt động

thanh tra phải có kinh nghiệm, năng động và sáng tạo.

Mục tiêu là xây dựng được đội ngũ viên chức thực hiện hoạt động

thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT có phẩm chất chính trị tốt, có trình

độ chuyên môn vững vàng, nắm vững các quy định của chính sách, pháp luật

về BHXH, BHTN, BHYT có đủ kinh nghiệm và năng lực về nghiệp vụ thanh

tra. Riêng đội ngũ công chức và viên chức lãnh đạo, quản lý còn phải có đủ

năng lực quản lý, điều hành hoạt động thanh tra.

Từ những yêu cầu trên đòi hỏi trên, cơ quan BHXH Thành phố cần có

các biện pháp để nâng cao chất lượng cho đội ngũ công chức, viên chức tham

gia hoạt động thanh tra như:

- Xây dựng chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ thông qua các chương

trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.

- Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao hiệu quả

quản lý thu BHXH. Thực hành thành thạo và sử dụng hiệu quả các phần mềm

quản lý, các cán bộ làm công tác thu cần được tập huấn nghiệp vụ thường

xuyên, đặc biệt khi có các chính sách mới, các văn bản mới... Việc trang bị

91

kiến thức như vậy sẽ giúp cán bộ vững vàng về nghiệp vụ và tự tin khi xử lý

những trường hợp vướng mắc, hạn chế sức ép lên lãnh đạo.

- Bên cạnh đào tạo, bỗi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thanh tra, cũng

cần đào tạo bổ sung về ngoại ngữ, tin học, kỹ năng làm việc nhóm, cũng như

nhận thức tư tưởng, đạo đức, thấm nhuần quan điểm phục vụ người lao động,

nhanh chóng chuyển đổi tác phong hành chính sang tác phong phục vụ.

- Hàng năm, thường xuyên tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ, chính

sách, chế độ BHXH, BHTN, BHYT; về nghiệp vụ công tác thu, cấp sổ thẻ…

Thông qua cuộc thi không chỉ khuyến khích việc tự học tập nâng cao trình

độ nghiệp vụ mà bên cạnh đó còn giải quyết được những vướng mắc khi triển

khai chế độ chính sách tại đơn vị, đồng thời tạo bầu không khí thi đua giữa

các phòng nghiệp vụ, giữa BHXH các quận, huyện.

3.2.6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

Như đã phân tích ở Chương 2, công tác thanh tra vẫn còn gặp nhiều

khó khăn, trở ngại do sự hạn chế, lạc hậu của công cụ, phương tiện quản lý,

tiêu tốn nhiều thời gian và chưa khoa học. Cũng vì vậy mà nhiều đơn vị đóng

sai đối tượng, trốn đóng, đóng thiếu mức, giải quyết hưởng sai chế độ cho

người lao động (người lao động) với số lượng lớn, nhưng do hạn chế trong

ứng dụng CNTT nên khó kiểm soát và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả.

Việc nghiên cứu ứng dụng CNTT, xây dựng các chương trình, phần mềm

phục vụ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu

nại, tố cáo là nhiệm vụ tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trong năm 2018, BHXH Thành phố là một trong những địa phương

được áp dụng thí điểm Phần mềm quản lý nghiệp vụ về công tác thanh tra,

kiểm tra và tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là

92

Phần mềm thanh tra kiểm tra). Phần mềm đã đáp ứng hai nhu cầu hiện nay

của BHXH Thành phố đó là:

Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu “Hiện đại hóa công tác quản lý”, cụ thể:

việc dữ liệu nghiệp vụ được quản lý có hệ thống, số liệu được tổng hợp tự

động chính xác, nhanh chóng giúp người quản lý nắm bắt để xử lý kịp thời;

giảm tải sử dụng văn bản giấy và sổ sách ghi chép tay, giải phóng sức lao

động, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; hướng tới mục tiêu cán bộ quản

lý có thể tự truy cập (bằng máy tính, điện thoại, thiết bị cá nhân) để lấy số

liệu, thông tin khi tham gia các cuộc họp hoặc cần thông tin để đưa ra quyết

định quản lý.

Thứ hai, tiết kiệm thời gian cho đội ngũ viên chức trong công tác báo

cáo, tổng hợp (đến kỳ báo cáo kết xuất số liệu, kiểm tra và ký điện tử gửi báo

cáo); giải quyết bài toán nghiệp vụ trên số lớn, hỗ trợ các tiện ích để nâng

cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng trên cần được đẩy nhanh tiến độ.

Bên cạnh đó, Phần mềm thanh tra, kiểm tra chỉ mới đáp ứng nhu cầu rút ngắn

thời gian, giảm bớt thủ tục, giấy tờ. Trong giai đoạn hiện nay, một yêu cầu

đặt ra trong hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT không chỉ

dừng lại ở việc hiện đại hóa công tác quản lý, giảm tải sử dụng văn bản giấy

và sổ sách ghi chép tay và tiết kiệm thời gian cho cán bộ trong công tác báo

cáo, tổng hợp mà còn đặt ra yêu cầu về tính liên kết và đồng bộ cơ sở dữ liệu

với các phần mềm quản lý giữa các cơ quan BHXH từ Trung ương đến cấp

quận, huyện cũng như giữa cơ quan BHXH với các cơ quan quản lý nhà nước

về lao động - thương binh và xã hội, cơ quan thuế.

Do đó, BHXH Việt Nam cần tiếp tục phối hợp, phát triển tính năng

liên kết và đồng bộ cơ sở dữ liệu cả về tiến độ, đối tượng cũng như kết quả

93

thanh tra.

Giải pháp này cùng với các giải pháp được nêu ở mục 2.3.4 và mục

2.3.6 có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ chặt chẽ, cần được triển khai thực

hiện một cách thống nhất, đồng bộ để có thể nâng cao hiệu quả, chất lượng

hoạt động của ngành BHXH nói chung, của công tác thanh tra về đóng

BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành

phố nói riêng.

3.2.7. Phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan khác trong

xây dựng, chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao

động và người lao động

Đối với hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với

đơn vị sử dụng lao động nói riêng và hoạt động quản lý BHXH nói chung

của cơ quan BHXH thì hệ thống cơ sở dữ liệu về quá trình tham gia BHXH,

BHTN, BHYT của đơn vị sử dụng lao động có sự liên kết chặt chẽ, mật thiết

với những hệ thống cơ sở dữ liệu khác về đơn vị sử dụng lao động do các cơ

quan quản lý nhà nước khác quản lý, đặc biệt là cơ quan quản lý thuế như đã

đề cập ở mục 2.3.2.1.

Có thể mô tả sơ đồ về vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể trong

xây dựng, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động

và người lao động như sau:

Hình 3.1: Mối quan hệ giữa các chủ thể trong xây dựng, quản lý và sử dụng

cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động

94

Nguồn: Tác giả.

Hiện nay, ngành thuế đang sử dụng hệ thống tờ khai thuế thu nhập cá

nhân theo Luật Thuế thu nhập cá nhân còn Hệ thống BHXH sử dụng hệ thống

tờ khai theo Luật BHXH, Luật BHYT. Qua thực hiện cho thấy, có thể sử

dụng một tờ khai chung để kê khai cả thuế thu nhập cá nhân và các khoản

BHXH. Tờ khai này được chuyển cho một cơ quan để số hóa, tạo thành một

hệ thống cơ sở dữ liệu số thống nhất, đồng bộ, từ đó các cơ quan chuyên

ngành sẽ khai thác, sử dụng theo yêu cầu quản lý riêng. Việc quản lý nguồn

dữ liệu dùng chung còn góp phần nâng cao tính minh bạch đối với thông tin

về người lao động, việc làm và thu nhập của họ, tránh tình trạng không đồng

nhất về thông tin cho cùng một người lao động cụ thể trong cùng một đơn vị

sử dụng lao động đã xảy ra hiện nay. Trên cơ sở này, BHXH Thành phố và

Cục Thuế cũng có thể đi đến thống nhất một cơ chế thanh tra, kiểm tra chung

95

để xác định chính xác, đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân và các

khoản đóng góp BHXH, BHTN, BHYT.

Việc xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu về lao động cần thực hiện theo

một số nguyên tắc sau:

- Nội dung cơ sở dữ liệu: thông tin về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;

bảng kê khai thông tin đăng ký thuế; bảng kê khai thông tin đăng ký BHXH,

BHYT, BHTN; bảng kê khai thang lương, bảng lương doanh nghiêp; thông

tin khác.

- Do đơn vị sử dụng lao động chủ động kê khai và cập nhật thường

xuyên bằng nhiều hình thức tùy vào điều kiện của mỗi đơn vị (kê khai điện

tử, kê khai trên giấy, kê khai qua email,...) và gửi đến cổng thông tin của cơ

quan quản lý nguồn dữ liệu.

- Do một đầu mối quản lý cơ sở dữ liệu, cơ quan quản lý nguồn dữ liệu

(thuộc cơ quan thuế, có thể là Cục Thuế tỉnh, thành phố) sẽ số hóa toàn bộ

bản kê khai theo các trường dữ liệu.

- Các đối tượng được tiếp cận thông tin tại cơ sở dữ liệu này dựa trên

nguyên tắc phân quyền cụ thể của hệ thống.

Cơ quan quản lý dữ liệu sẽ cung cấp cho các đơn vị liên quan như cơ

quan BHXH trong hoạt động thanh tra truy cập cơ sở dữ liệu, sử dụng các

mã số doanh nghiệp, mã số người lao động để khai thác thông tin người lao

động, đơn vị sử dụng lao động phục vụ các nghiệp vụ của ngành mình. Đồng

thời, thực hiện kết nối dữ liệu từ các ngành trở lại dữ liệu của cơ quan quản

lý nguồn dữ liệu.

Có thể xây dựng phương án phân quyền xây dựng, cập nhật các loại

thông tin trên hệ thống cơ sở dữ liệu về đơn vị và người lao động cho các

96

chủ thể quản lý như doanh nghiệp, Cục Thuế, BHXH Thành phố, và các cơ

quan nhà nước khác có liên quan như sau:

Bảng 3.1: Phân quyền quản lý đối với hệ thống cơ sở dữ liệu

về đơn vị và người lao động

Chủ thể thực hiện cập nhật

thông tin

Nội dung thông tin

Doanh

quan

quan

quan

nghiệp

thuế

BHXH

khác

Thông tin đăng ký doanh nghiệp (tên

x

X

doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính,

1

ngành, nghề kinh doanh, người đại diện

theo pháp luật,…);

X

Thông tin về tình trạng hoạt động của

doanh nghiệp (đang hoạt động, đã giải

2

thể, tạm ngừng kinh doanh,…);

x

Thông tin về tình hình hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp (báo

3

cáo tài chính, doanh thu, lao động,…);

x

Thông tin kê khai thuế, đăng ký BHXH,

4

BHYT, BHTN

97

Chủ thể thực hiện cập nhật

thông tin

Nội dung thông tin

Doanh

quan

quan

quan

nghiệp

thuế

BHXH

khác

x

x

X

Thông tin về xử lý doanh nghiệp có

hành vi vi phạm pháp luật (kết luận và

5

Nguồn: Tổng hợp.

kết quả xử lý của cơ quan nhà nước)

Để giải pháp này triển khai đem lại hiệu quả, cần xây dựng cơ sở pháp

lý rõ ràng về trách nhiệm cập nhật thông tin (cập nhật lần đầu, cập nhật

thường xuyên) của các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước, là đơn vị sử

dụng lao động, trong đó, trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động trong việc

cập nhật thông tin là rất quan trọng vì chính đơn vị sử dụng lao động, dưới

sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước, của chính những người lao động sẽ

thực hiện cập nhật thông tin một cách chính xác và kịp thời nhất.

Đồng thời, trong phối hợp với cơ quan Công an, Công đoàn, BHXH

Thành phố cần sớm xây dựng các quy chế phối hợp hoạt động cụ thể phù

hợp với các quy định pháp luật mới về việc kiến nghị khởi tố, khởi kiện đối

với các đơn vị vi phạm để kịp thời xử lý các hành vi vi phạm, đảm bảo quyền

lợi của người lao động.

98

TIẾU KẾT CHƯƠNG 3

Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,

BHTN, BHYT góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về BHXH, BHYT, BHTN, đảm bảo ổn định, công bằng xã hội. Chính

vì vậy, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm và

quán triệt các Ngành nói chung và Ngành BHXH nói riêng trong việc thực

hiện hiệu quả công tác thanh tra. Riêng với Ngành BHXH, hoạt động thanh

tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT luôn được xác định là nhiệm

vụ trọn tâm trong định hướng xây dựng chương trình công tác hàng năm.

Từ những phân tích, tổng kết thực trạng hoạt động thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố tại chương 2, đối

chiếu cơ sở lý luận và pháp lý tại chương 1, đề tài đã đề xuất một số phương

hướng và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra chuyên ngành đóng

BHXH, BHTN, BHYT. Các kiến nghị được đề xuất ở chương này có những

kiến nghị BHXH Thành phố có thể độc lập triển khai, có những kiến nghị là

giải pháp chung cho toàn Ngành nghiên cứu thực hiện để khắc phục những

hạn chế trong hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT.

Triển khai đồng bộ, thống nhất các kiến nghị cùng sự nỗ lực và quyết

tâm cao của BHXH Thành phố và toàn Ngành BHXH là điều kiện quan trọng

để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,

BHYT của BHXH Thành phố nói riêng và toàn Ngành BHXH nói chung.

99

KẾT LUẬN

Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động hoạt động thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố, trên cơ

sở đối chiếu với cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động này để tìm ra

nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế, đề tài đã đề xuất những phương

hướng và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt động

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành

phố, thông qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHXH,

BHTN, BHYT của cơ quan BHXH Thành phố và công tác quản lý nhà nước

về quỹ BHXH, BHTN, BHYT của Thành phố.

Qua quá trình nghiên cứu, có thể nhận thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt

động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT nói chung, trên

địa bàn Thành phố nói riêng, cần tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động

về việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT và hoạt

động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT.

Thứ ba, có lộ trình mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của cơ quan BHXH trong thanh tra về đóng, hưởng BHXH, BHTN, BHYT

đối với đơn vị sử dụng lao động.

Thứ tư, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thanh tra

cho đội ngũ nhân sự làm công tác thanh tra ngành BHXH.

Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động

thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

100

Thứ sáu, phối hợp với cơ quan thuế trong xây dựng, chia sẻ và khai

thác cơ sở dữ liệu chung về người lao động và doanh nghiệp.

Như vậy, đề tài đã thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra,

phác họa những nét cơ bản của hoạt động hoạt động thanh tra chuyên ngành

đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố. Trên cơ sở phân tích cơ

sở lý luận và thực trạng của hoạt động, đề tài đã đề xuất các nhóm giải pháp

nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động hoạt động thanh tra chuyên

ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố (2015), Nghị quyết Đại hội

Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020, ban hành ngày

17/10/2015.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 15-

NQ/TW về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, ban

hành ngày 01/6/2012.

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 21-

NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT

giai đoạn 2012 – 2020, ban hành ngày 22/11/2012.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018), Nghị quyết số 28-

NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, ban hành ngày 23/5/2018.

5. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2016), Báo cáo số 1242/BC-TTKT

về tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm

2016 và nhiệm vụ công tác năm 2017, ban hành ngày 30/12/2016.

6. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2017), Báo cáo số 1483/BC-BHXH

về tổng kết 06 năm thi hành Luật Thanh tra, ban hành ngày 14/7/2017.

7. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2017), Báo cáo số 56/BC-TTKT về

tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm 2017

và nhiệm vụ công tác năm 2018, ban hành ngày 03/01/2018.

8. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2018), (2019), Kết luận thanh tra

chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT tại một số đơn vị sử dụng lao động.

9. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2019), Báo cáo số 56/BC-TTKT về

tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm 2018

và nhiệm vụ công tác năm 2019, ban hành ngày 07/01/2019.

102

10. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Quyết định số 969/QĐ-BHXH

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH

địa phương, ban hành ngày 29/7/2019.

11. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 1518/QĐ-BHXH

quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và

hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam, ban hành ngày 18/10/2016.

12. Bảo hiểm xã hội Việt Nam – Tổng cục Thuế (2014), Quy chế phối

hợp công tác số 5423/QCPH-BHXH-TCT giữa BHXH Việt Nam và Tổng cục

Thuế, ban hành ngày 31/12/2014.

13. Báo Nhân dân điện tử, “Cần sớm có văn bản hướng dẫn xử lý các

hành vi vi phạm lĩnh vực bảo hiểm”, đăng ngày 07/01/2019,

https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/38819802-can-som-co-van-ban-

huong-dan-xu-ly-cac-hanh-vi-vi-pham-linh-vuc-bao-hiem.html.

14. Báo Tuổi trẻ, bài viết “Công đoàn đề nghị khởi kiện công ty

Texwell Vina”, Số đăng ngày 06/3/2019.

15. Bộ môn Kinh tế bảo hiểm/Trường Đại học Kinh tế quốc dân

(2012), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

16. Chính phủ (2012), Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định quy

định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và

hoạt động thanh tra chuyên ngành, ngày 09/02/2012.

17. Chính phủ (2016), Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, ban hành

ngày 05/01/2016.

18. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP quy định việc

thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN

103

của cơ quan BHXH, ban hành ngày 31/3/2016.

19. Cục Thống kê Thành phố (2018), Niên giám thống kê năm 2017,

Ấn bản điện tử đăng tải trên Cổng thông tin điện tử cục Thống kê Thành phố,

http://pso.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/niengiamthongke2017

20. Trần Đức Long (2018), Công tác thanh tra chuyên ngành

góp phần giảm nợ đọng BHXH, BHYT, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người lao động, Tạp chí Thanh tra điện tử,

http://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/cong-tac-thanh-tra-chuyen-

nganh-gop-phan-giam-no-dong-BHXH-bhyt-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-

phap-cua-nguoi-lao-dong-179901

21. Trần Đức Lượng và những người khác (2001), Đề tài khoa học độc

lập cấp Nhà nước “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước”, ĐT298, Hà Nội.

22. Đinh Văn Minh (2012), Hỏi – Đáp về Luật Thanh tra năm 2010,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ thống

BHXH hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho

cải cách trong tương lai, Ấn bản điện tử phát hành tại

www.worldbank.org.vn.

24. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản điện tử,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Thong-tin-ly-luan2012/15184/An-

sinh-xa-hoi-o-nuoc-ta-Mot-so-van-de-ly.aspx

25. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra năm 2010

26. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

104

27. Quốc hội (2013), Luật Việc làm năm 2013

28. Quốc hội (2014), Luật BHXH năm 2014

29. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2008

30. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 05/2014/TT-TTCP quy

định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự,

thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra, ban hành ngày 16/10/2014.

31. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Giáo trình Luật Hành

chính Việt Nam, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.

32. Phạm Đình Thành (2017), Nghiên cứu xây dựng, khai thác nguồn

dữ liệu về người lao động trong các doanh nghiệp giữa Ngành BHXH và

Ngành thuế, Tạp chí BHXH điện tử, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-

tuc/nghien-cuu-xay-dung-khai-thac-nguon-du-lieu-ve-nguoi-lao-dong-

trong-cac-doanh-nghiep-giua-nganh-BHXH-va-nganh-thue-17086.

33. Dương Văn Thắng (2015), Đổi mới và Phát triển BHXH ở Việt

Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

34. Trịnh Văn Toàn (2018), Một số vấn đề trong thực hiện Chỉ thị số

20 của Thủ tướng về chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh

nghiệp, Tạp chí Thanh tra điện tử, http://thanhtravietnam.vn

35. Tổng cục Cảnh sát – Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quy chế

số 3461/QCPH-TCCS-BHXH quy chế phối hợp giữa Tổng cục Cảnh sát và

BHXH Việt Nam trong công tác phòng, chống, tội phạm và các hành vi vi

phạm pháp luật BHXH, BHYT, BHTN, ngày 18/8/2017.

36. Nguyễn Văn Tuấn (2014), Những yếu tố đặc trưng của hoạt động

thanh tra chuyên ngành, Tạp chí Thanh tra điện tử http://thanhtravietnam.vn

37. Trần Trí Trung (2008), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

105

công tác thanh tra, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, Số tháng 10 năm 2008.

38. Trường Cán bộ thanh tra (2005), Nghiệp vụ công tác thanh tra,

Nxb. Thống kê, Hà Nội.

39. Trường Đại học Công đoàn (2010), Giáo trình Kinh tế bảo hiểm,

Nxb. Lao động, Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Thanh tra và giải

quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.

41. Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam – Cơ quan hợp tác

phát triển quốc tế CHLB Đức (GIZ) (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã

hội ở Việt Nam đến năm 2020, GIZ, Hà Nội.

106