BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HIỀN
THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HIỀN
THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN CẢNH HỢP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp. Số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là xác thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CẢM ƠN
Luận văn với đề tài “Thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh” được hoàn thành là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng riêng bản thân tôi
trong suốt thời gian học tập và sự hỗ trợ, giúp đỡ từ nhiều phía.
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên cho phép tôi xin trân trọng gửi
lời cảm ơn tới Ban Giám đốc Học viện hành chính Quốc gia cùng toàn thể
quý thầy cô, giảng viên Học viện đã tận tình dạy bảo trong suốt 2 năm học
tập. Những kiến thức quý báu mà thầy cô truyền dạy là cơ sở để tôi nghiên
cứu học tập đạt kết quả tốt và cũng là cơ sở để tôi có thể hoàn thiện luận văn
của mình.
Tiếp theo, tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới Thầy PGS.TS
Nguyễn Cảnh Hợp, giảng viên trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Những định hướng, góp ý và đặc biệt sự quan tâm, động viên từ Thầy là
nguồn động lực lớn lao giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo Bảo
hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tận tình trong
việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến đề tài. Tôi cũng xin được cảm
ơn sự hỗ trợ thường xuyên từ Phòng đào tạo sau đại học và toàn thể bạn bè,
người thân đã đồng hành và giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến để luận văn của
tôi hoàn thiện hơn.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn sự tin tưởng, kỳ vọng, động viên từ gia đình
dành cho tôi để tôi luôn cố gắng hoàn thành tốt luận văn.
Luận văn này được hoàn thiện bởi sự cố gắng nỗ lực của bản thân
nhưng do khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên không thể
tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được những
góp ý của quý thầy cô và các bạn học để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
BHYT Bảo hiểm y tế
BHXH Thành phố Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
CNTT Công nghệ thông tin
HĐLĐ Hợp đồng lao động
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
14
1
STT TRANG NỘI DUNG
18
2
Bảng 1.1: Phân biệt thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành
35
3
Hình 1.1: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể trong quản lý, điều hành quỹ BHXH, BHTN, BHTN
42
4 Hình 2.1: Sơ đồ thể hiện vị trí của cơ quan BHXH
43
5 Hình 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức BHXH Thành phố
46
6
Hình 1.2: Trình tự tiến hành thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT
48
7
Bảng 2.1: Đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành phố
50
8
Bảng 2.2: Thống kê số lượng đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT giai đoạn 2016 – 2019
51
9
Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình thu - nợ BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm doanh nghiệp giai đoạn 2016 – 2019
53
10
Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của các loại doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2016 - 2019
11
51,53, 59,61,63
Bảng 2.4: Số cuộc thanh tra của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019
59
12
Hộp 2.1, 2.2, 2.3, 2.4,2.5 : Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
63
13 Bảng 2.6: Tỷ lệ khắc phục nợ của đơn vị qua thanh tra
Bảng 2.5: Kết quả thanh tra về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT
14
65
STT NỘI DUNG TRANG
15
94
Hình 2.4: Trình tự các bước trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra
16
97
Hình 3.1: Mối quan hệ giữa các chủ thể trong xây dựng, quản lý và sử dụng sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động
Bảng 3.1: Phân quyền quản lý đối với hệ thống cơ sở dữ liệu về đơn vị và người lao động
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................ 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................. 7
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................... 9
4. Đối tượng nghiên cứu...................................................................... 9
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 9
7. Những đóng góp của đề tài ............................................................ 11
8. Kết cấu của đề tài .......................................................................... 11
NỘI DUNG ............................................................................................................. 12
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ .............................................................................. 12
1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 12
1.1.1. Khái niệm thanh tra và thanh tra chuyên ngành ...................................... 12
1.1.2. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ........................... 16
1.1.3. Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT ......................... 22
1.2. Chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 27
1.3. Đối tượng thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội ................................................. 29
1.4. Nội dung, hình thức thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ....................................... 31
2
1.4.1. Nội dung thanh tra ..................................................................................... 32
1.4.2. Hình thức thanh tra.................................................................................... 33
1.5. Quy trình thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế...................................................... 34
1.5.1. Thời hạn thanh tra ..................................................................................... 34
1.5.2. Trình tự tiến hành thanh tra ...................................................................... 34
1.6. Căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế ......................... 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 40
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................... 41
2.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động, người lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Thành phố ............................. 41
2.1.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn Thành phố .............................................................................................................. 41
2.1.2. Khái quát về Bảo hiểm xã hội Thành phố ............................................... 42
2.2. Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố ..................................................................... 45
2.2.1. Thực trạng về chủ thể thanh tra ................................................................ 45
2.2.2. Thực trạng về đối tượng thanh tra ............................................................ 47
2.2.3. Thực trạng về nội dung, hình thức thanh tra ........................................... 52
2.2.4. Thực trạng về quy trình thanh tra ............................................................. 65
2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng thanh tra về thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố .......... 68
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ................................................ 68
3
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân .................................................. 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 82
CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................................................... 83
3.1. Định hướng hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với BHXH Thành phố ............ 83
3.2. Các nhóm giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của BHXH Thành phố ......... 86
3.2.1 Tăng cường sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng Ủy, Ban Giám đốc BHXH Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................... 86
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật .................................. 87
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động ............. 88
3.2.4. Mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiểm xã hội ...................................................................................................................... 90
3.2.5. Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra ............................................................................................... 90
3.2.6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin ............................................... 92
3.2.7. Phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan khác trong xây dựng, chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động ............................................................................................................................ 94
TIẾU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 99
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 102
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm y
tế (BHYT) là những chính sách quan trọng của hệ thống an sinh xã hội quốc
gia, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị
và phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, chính sách, pháp luật về BHXH,
BHTN, BHYT luôn là một nội dung trọng tâm, xuyên suốt quá trình lãnh
đạo và quản lý đất nước.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Phát triển
và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn lao động,…”. Những chính sách trên không ngừng được bổ
sung, hoàn thiện cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập.
Mới nhất, có thể kể tới Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII xây dựng ngày
23/5/2018, định hướng về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Điều 34,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh
xã hội” cùng với đó là nhiều văn bản luật góp phần bảo đảm thực hiện quyền
cơ bản này của công dân như Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi năm
2014), Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật Việc làm năm 2013... và
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Sau đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đặt ra nhiều thách thức mà ngành BHXH phải đối mặt: Nhu cầu đổi mới,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH gắn với chức năng mới được
Luật BHXH năm 2014 giao cho ngành BHXH thực hiện chức năng thanh tra
về đóng BHXH, BHTN, BHYT; cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nhân sự
ngành BHXH chưa thực sự hợp lý, tinh gọn với nhu cầu bức thiết cần cải
5
tiến; Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý điều hành hoạt động
còn chậm, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động của ngành BHXH; công tác
thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH chưa tạo
được niềm tin vững chắc, chưa thu hút người lao động chủ động, tích cực
tham gia hệ thống BHXH; tình trạng nợ đọng BHXH ngày càng phổ biến với
mức độ vi phạm ngày càng lớn; nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm của
người lao động và người sử dụng lao động trong việc đóng BHXH chưa cao;
chế tài xử phạt vi phạm trong đóng BHXH chưa nghiêm; việc khởi kiện các
đối tượng vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH bị đình trệ vì nhiều vướng mắc
trong các quy định pháp luật...
Từ khi Luật BHXH năm 2014, Nghị định số 21/2016/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 31/3/2016 có hiệu lực, với vai trò của Thành phố Hồ Chí
Minh - trung tâm kinh tế, tài chính hàng đầu cả nước, BHXH Thành phố là
một trong số ít các cơ quan BHXH cấp tỉnh được giao thực hiện thí điểm
nhiều nội dung mới của ngành BHXH. Bảo hiểm xã hội Thành phố đã chuẩn
bị sẵn sàng và triển khai tốt chức năng thanh tra chuyên ngành được giao,
đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, góp phần thực hiện
thắng lợi Bảy chương trình đột phá trong Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn, vẫn còn nhiều
tồn tại, vướng mắc phải nghiên cứu để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện như:
Nghiệp vụ thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT còn rất mới nên quá
trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ; lực lượng công chức, viên
chức thực hiện chức năng thanh tra còn mỏng; số lượng doanh nghiệp và lực
lượng lao động trên địa bàn Thành phố quá lớn so với mật độ bình quân của
cả nước là áp lực rất lớn mà BHXH Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên lựa chọn “Thanh tra
chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y
6
tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu
với mong muốn luận giải được cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý cũng như thực
trạng hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT, từ đó đề xuất các
giải pháp góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động này tại BHXH
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Luật Thanh tra năm 2010, Luật BHXH năm 2014 ra đời, đã
có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả như:
Đề tài khoa học cấp cơ sở của tác giải Nguyễn Thị Hải Yến (2012):
“Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành”, đề tài làm rõ khái niệm, đặc điểm, chủ thể,
đối tượng, phạm vi của hoạt động thanh tra chuyên ngành trên cơ sở của Luật
Thanh tra năm 2010. Đồng thời đưa ra các đánh giá, nhận xét về những điểm
còn bất cập từ thực tiễn tổ chức, triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Đề tài khoa học cấp bộ do tác giả Nguyễn Tuấn Khanh làm chủ nhiệm
(2014): “Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn”, từ thực tiễn sau 5 năm tổ chức thực hiện Luật Thanh tra
năm 2010 trong phạm vi cả nước, đề tài đã phân tích, đánh giá những ưu
điểm trong tổ chức hoạt động thanh tra chuyên ngành, đồng thời chỉ ra những
điểm hạn chế, bất cấp và đưa ra hệ thống giải pháp đồng bộ từ sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật hiện hành, đến các giải pháp về đào tạo, nâng
cao nghiệp vụ; tổ chức, triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Đề tài khoa học của BHXH Việt Nam do tác giả Phan Văn Mến làm
chủ nhiệm (2014): “Nghiên cứu đề xuất bổ sung một số tội danh trong lĩnh
vực BHXH, BHYT vào Bộ Luật hình sự sửa đổi”, đề tài đã nghiên cứu, đánh
giá những mặt khó khăn, hạn chế trong việc khởi kiện các hành vi vi phạm
7
pháp luật BHXH, BHYT, khó khăn trong cơ chế phối hợp giữa cơ quan
BHXH, cơ quan tư pháp và tổ chức Công đoàn; đồng thời đề xuất các giải
pháp liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật, cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật BHXH, BHYT.
Đề tài khoa học cấp bộ do tác giải Mai Xuân Nam làm chủ nhiệm
(2015): “Đề xuất giải pháp để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT”, trên cơ sở phân tích, đánh giá các
quy định pháp luật và thực trạng tổ chức hoạt động thanh tra chuyên ngành
lao động nói chung, đề tài đã đề xuất các giải pháp để xây dựng, tổ chức,
triển khai hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực đóng BHXH,
BHTN, BHYT của ngành BHXH.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ mới đề cập, phân tích đến
hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung, đến công tác quản lý nhà nước
về các chế độ BHXH, BHTN, BHYT. Hơn nữa, cơ quan BHXH mới được
giao chức năng thanh tra chuyên ngành đóng từ năm 2016, do đó có thể thấy
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về hoạt
động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT cũng như đưa
ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành
của cơ quan BHXH.
Thống kê các công trình nghiên cứu khoa học tại Học viện Hành chính
Quốc gia từ năm 2015 đến nay, học viên nhận thấy chưa có công trình nghiên
cứu khoa học nào liên quan đến lĩnh vực thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT.
Vì vậy, “Thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” là đề
8
tài có tính mới, cấp thiết, đóng góp nhất định về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành của Bảo hiểm xã hội Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần tìm hiểu một cách hệ
thống, toàn diện những vấn đề lý luận, pháp lý về hoạt động thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT; đánh giá, tổng kết thực tiễn và đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH, BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh, đây là địa bàn tập trung số
lượng lớn, với sự đa dạng, phong phú của các loại hình doanh nghiệp cũng
như thu hút nguồn nhân lực rất lớn từ nhiều vùng miền khắp cả nước. Do đó,
số lượng người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT ở đây chiếm tỷ lệ
cao nhất cả nước
- Về thời gian: Từ ngày 01/6/2016 (thời điểm Nghị định số
21/2016/NĐ-CP có hiệu lực) đến hết tháng 12/2019.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa Duy
vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử. Cụ thể là quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác
9
thanh tra; chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách BHXH, BHTN,
BHYT;...
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với từng nội dung nghiên cứu như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh v.v.. nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề nghiên cứu. Trong đó:
- Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ
nội dung của đề tài khi nghiên cứu, đánh giá về vai trò của BHXH nói chung,
đặc biệt là trong thực hiện hoạt động thanh tra, từ việc phân tích
cơ sở lý luận, phân tích làm rõ thực trạng, cho đến luận giải về các
giải pháp góp phần tăng cường hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu các công trình
khoa học liên quan đến đề tài, những vấn đề lý luận cũng như thực trạng
hoạt động thanh tra chuyên ngành do BHXH Thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện để đưa ra những nhận định về ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên
nhân của những ưu điểm, hạn chế đó.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu các quy định
pháp luật liên quan tới thanh tra chuyên ngành, làm rõ quá trình phát triển
của các quy định pháp luật cũng như bản thân cơ quan BHXH gắn với việc
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong phân tích, đánh giá thực
trạng hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của
Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh tại Chương II của đề tài.
10
Các số liệu tổng hợp, các báo cáo sơ kết, tổng kết hoạt động, các bản
kết luận thanh tra... được hỗ trợ cung cấp bởi BHXH Thành phố, đảm bảo
tính khách quan, trung thực, chính xác, khoa học.
7. Những đóng góp của đề tài
Đề tài có đóng góp nhất định về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt
động thanh tra về thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của
Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần phục vụ cho hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy, học tập chuyên ngành Quản lý công.
Số liệu phân tích, kết quả đánh giá của đề tài có giá trị tham khảo cho
các cá nhân, đơn vị khác khi nghiên cứu về chủ đề này.
Các kiến nghị, đề xuất, giải pháp của đề tài góp phần để các cơ quan
quản lý nhà nước xem xét, hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật liên
quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài được chia thành 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT.
Chương 2: Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THANH TRA CHUYÊN
NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP,
BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
Để làm rõ nội hàm của khái niệm thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất
giải pháp, kiến nghị liên quan trực tiếp tới thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố, cần tiếp cận từ những khái
niệm nền tảng sau:
1.1.1. Khái niệm thanh tra và thanh tra chuyên ngành
1.1.1.1. Thanh tra
Thanh tra là một khái niệm cơ bản trong quản lý nhà nước đã được
nhiều đề tài nghiên cứu làm rõ về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò,
nội dung, phương thức, chủ thể, đối tượng, quy trình... Dưới góc độ pháp lý,
thanh tra được quy định trong nhiều văn bản pháp luật qua các thời kỳ,
giai đoạn. Khái niệm này đã được các công trình khoa học tiếp cận dưới các
góc độ sau:
Tại đề tài khoa học cấp Nhà nước về “Hoàn thiện cơ chế thanh tra,
kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước” của tác giả
Trần Đức Lượng, năm 2001 thì: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của
quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên
trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng,
12
sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa,
xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [21, tr.19].
Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2010 đưa ra khái niệm: “Thanh tra là một hoạt
động chuyên trách do bộ máy thanh tra đảm nhiệm có nội dung là kiểm tra,
xem xét, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lí
hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân
góp phần nâng cao hiệu lực quản lí hành chính nhà nước” [40, tr.42].
Khoản 1, Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 đưa ra khái niệm thanh tra
nhà nước, theo đó: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử
lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức, cá nhân” [25].
Nhìn chung, các khái niệm về thanh tra không có quá nhiều sự khác
biệt, đều xem thanh tra là một hoạt động, một chức năng của nhà nước, do
chủ thể mang thẩm quyền được nhà nước quy định; hoạt động thanh tra diễn
ra theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ; có nội dung là kiểm tra, xem xét,
đánh giá, kết luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy tắc quản lý; có mục đích khắc phục hạn chế,
thiếu xót trong chính sách, pháp luật đồng thời phát huy nhân tố tích cực
cũng như phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật.
Trên cơ sở kế thừa kết quả của những công trình khoa học cũng như
13
các quy định pháp luật đã nêu trên, có thể đưa ra khái niệm thanh tra như
sau:
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt
động xem xét, đánh giá, xử lý đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra được thực hiện bởi các
chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, nhằm phòng
ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát
hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1.1.1.2. Thanh tra chuyên ngành
Thuật ngữ thanh tra chuyên ngành cùng với thanh tra hành chính được
quy định tại Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010. Cụ thể: Thanh tra hành chính
được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Thanh tra chuyên ngành là hoạt
động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh
vực đó [25].
Bảng 1.1: Phân biệt thanh tra hành chính với thanh tra chuyên ngành
14
Tiêu chí
Thanh tra hành chính
Thanh tra chuyên ngành
Kiểm soát thực hiện nhiệm vụ,
Kiểm soát hoạt động chấp hành
công vụ của cán bộ, công
chính sách, pháp luật của mọi đối
Mục đích
chức, cơ quan nhà nước, lành
tượng nhằm phục vụ hiệu quả hoạt
mạnh hóa bộ máy nhà nước.
động quản lý nhà nước.
- Bộ, Ủy ban nhân dân các
- Bộ, thanh tra bộ
cấp,…
Chủ thể
- Sở, thanh tra sở
- Các cơ quan thanh tra nhà
tiến hành
- Cơ quan được giao thực hiện
nước: Thanh tra Chính phủ;
thanh tra
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
Thanh tra tỉnh, Thanh tra
(các Tổng cục, Cục,…)
Bộ,…
Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
Đối tượng
Cơ quan, tổ chức, cá nhân trực
sự điều chỉnh của pháp luật chuyên
thanh tra
thuộc.
ngành.
Xem xét, đánh giá việc thực
Xem xét, đánh giá việc chấp hành
Nội dung
hiện chính sách, pháp luật,
pháp luật chuyên ngành, quy định
thanh tra
nhiệm vụ, quyền hạn được
về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc
giao.
quản lý thuộc ngành, lĩnh vực.
Việc phân định hoạt động thanh tra thành thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành xuất phát từ hai nhu cầu trong hoạt động quản lý của
Nhà nước: Một là, tự điều chỉnh, hoàn thiện nhằm khắc phục các biểu hiện
sai phạm của chính bản thân bộ máy nhà nước; Hai là, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý các mặt của đời sống xã hội. Nếu như hoạt động thanh tra
hành chính hướng vào bản thân bộ máy quản lý, thì hoạt động thanh tra
chuyên ngành hướng vào xã hội, các đối tượng quản lý.
15
Như vậy, hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động xem xét,
đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không
trực thuộc về mặt tổ chức trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy
định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó,
đồng thời khắc phục những sơ hở của pháp luật, phát huy
nhân tố tích cực, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, lợi
ích nhà nước và xã hội.
Đến đây, có thể xác định hoạt động thanh tra đóng BHXH, BHTN,
BHYT thuộc loại hình thanh tra chuyên ngành, bởi nó thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu về mục đích, về chủ thể, về đối tượng cũng như về
nội dung thanh tra.
1.1.2. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
1.1.2.1. Khái niệm
BHXH, BHTN và BHYT là những chính sách nằm trong hệ thống an
sinh xã hội của nước ta. Có thể hiểu, an sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã
hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được
áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và
xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản,
thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong [41, tr.9].
An sinh xã hội cũng được hiểu bao gồm nhiều thành tố khác nhau như:
bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội, các chế độ trợ cấp từ ngân
sách nhà nước, chế độ trợ cấp đối với gia đình và các quỹ phòng xa. Các
thành tố này cũng có thể gắn với những khoản chu cấp thêm do những người
sử dụng lao động đảm bảo, đáng chú ý nhất là là các chế độ bồi thường cho
người lao động (đối với chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) và với
16
cả các chế độ bổ sung khác nữa được triển khai xung quanh mục đích an sinh
xã hội.
Ở góc độ quốc tế, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua Công
ước Số 102 năm 1952 về những quy chuẩn tối thiểu về an sinh xã hội đã phân
- Chăm sóc y tế
- Chế độ ốm đau
- Chế độ thai sản
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
- Chế độ trợ cấp gia đình
- Chế độ thương tật trong lao động
- Chế độ trợ cấp tàn tật
- Chế độ trợ cấp tuổi già (hưu trí)
- Chế độ tử tuất
chia hệ thống an sinh xã hội gồm các chính sách, chế độ cơ bản:
Như vậy, BHXH, BHTN, BHYT là các loại hình bảo hiểm, một trong
những hình thức của các chính sách an sinh xã hội. Trong đó, BHXH là một
trong những loại hình bảo hiểm ra đời từ rất sớm - xuất hiện chính thức đầu
tiên trên thế giới ở Phổ vào năm 1883 [15, tr73] và ở Việt Nam vào năm
1947.
Đứng ở góc độ xem xét BHXH là chính sách an sinh xã hội của Nhà
nước, là một nội dung thanh tra, kiểm tra của công tác quản lý nhà nước –
hay nói cách khác là ở góc độ pháp lý (đây cũng là góc độ mà đề tài lựa chọn)
thì: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ BHXH” [27].
17
Cùng với BHXH, BHTN và BHYT cũng là những chế độ BHXH bắt
buộc, theo đó:
BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm
việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN [27].
Còn BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các
đối tượng theo quy định để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận
do Nhà nước tổ chức thực hiện
Như vậy, trong mối quan hệ lao động thì người lao động, người sử
dụng lao động, Nhà nước và cơ quan BHXH là những chủ thể của quỹ
BHXH, BHTN, BHYT tham gia vào việc tạo lập, duy trì, phát triển, khai
thác, sử dụng quỹ BHXH, BHTN, BHYT theo đúng mục đích, chức năng
của quỹ. Có thể khái quát mối quan hệ giữa các chủ thể trên theo sơ đồ sau:
Hình 1.1: Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể
trong quản lý, điều hành quỹ BHXH, BHTN, BHTN
Các loại hình bảo hiểm trên hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống xã hội, cụ thể:
18
- Đối với người lao động, BHXH, BHTN, BHYT góp phần ổn định tài
chính cho người lao động trước những tổn thất do rủi ro xảy ra như: ốm đau,
tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, thất nghiệp hay về già,… là chỗ
dựa tâm lí giúp người lao động yên tâm trong lao động sản xuất, góp phần
nâng cao năng suất lao động cá nhân.
- Đối với người sử dụng lao động, BHXH, BHTN, BHYT giúp người
sử dụng lao động trang trải những khoản chi phí lớn, phát sinh trong quá
trình sử dụng lao động (trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp…đối với người lao động), góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa
chủ sử dụng lao động và người lao động, hạn chế các hiện tượng đình công,
biểu tình, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận cho người sử
dụng lao động.
- Đối với Nhà nước và hệ thống an sinh xã hội, BHXH, BHTN, BHYT
vừa thể hiện vai trò, giá trị xã hội của nhà nước, vừa góp phần cân đối thu
chi trong lĩnh vực an sinh xã hội, giảm tải cho ngân sách nhà nước, đồng thời
góp phần bảo đảm đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành
BHXH cũng như tạo ra một bộ phận GDP của quốc gia. Là trụ cột của hệ
thống an sinh xã hội, BHXH, BHTN, BHYT góp phần điều tiết các chính
sách khác, qua đó ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng xã
hội, và ổn định xã hội.
1.1.2.2. Trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm y tế
Từ năm 1962 đến trước thời kỳ đổi mới, các quỹ bảo hiểm bắt buộc nói
chung chỉ được hình thành từ hai nguồn là các xí nghiệp sản xuất đóng góp dựa
19
trên quỹ lương của xí nghiệp và phần còn lại do ngân sách nhà nước đài thọ.
Trong giai đoạn này, không tồn tại quỹ BHXH, BHTN, BHYT độc lập.
Từ năm 1998 đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quỹ
BHXH, BHTN, BHYT mang tính độc lập với ngân sách nhà nước và được
hình thành từ ba nguồn: người sử dụng lao động, người lao động và Nhà
nước. Trong đó, hai nguồn chính là từ người sử dụng lao động và người lao
động với mức đóng của người sử dụng lao động chiếm tỷ lệ cao nhất.
Như vậy, theo quy định pháp luật Việt Nam, trách nhiệm tham gia
đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động được phân chia cho cả
người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Đây
không phải là sự phân chia rủi ro, mà là mối quan hệ hài hòa lợi ích giữa hai
bên. Cụ thể:
- Về phía người lao động, việc họ đóng góp một phần thu nhập vào
các quỹ bảo hiểm này vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính
mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ đối
với người sử dụng lao động.
- Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần các quỹ này
cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản
tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động. Đồng thời nó góp phần
giảm bớt tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp, tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa
chủ - thợ.
Trong mối quan hệ về trách nhiệm tham gia đóng BHXH, BHTN,
BHYT, người sử dụng lao động có vai trò quan trọng nhất, bởi vì để hoạt
động sản xuất kinh doanh được ổn định thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư
để có thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, người sử dụng lao động còn phải
20
chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động. Bên cạnh việc trả lương
thỏa đáng, người sử dụng lao động còn phải có trách nhiệm đóng BHXH,
BHTN, BHYT cho người lao động trong suốt quá trình lao động. Chỉ có như
vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng
kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả
kinh tế cho doanh nghiệp. Vai trò quan trọng hàng đầu của người sử dụng
lao động còn được thể hiện qua tỷ lệ đóng BHXH, BHTN, BHYT giữa người
sử dụng lao động và người lao động, trong đó tỷ lệ đóng của người sử dụng
lao động chiếm phần lớn.
Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của người sử dụng lao động trong
đóng BHXH, BHTN, BHYT còn được thể hiện cả ở những trách nhiệm cụ
thể sau:
- Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ BHXH, đóng, hưởng
BHXH, BHTN, BHYT;
- Đóng BHXH, BHTN, BHYT theo quy định và hàng tháng trích từ
tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH, BHTN,
BHYT;
- Phối hợp với cơ quan BHXH trả trợ cấp BHXH, BHTN, BHYT cho
người lao động;
- Phối hợp với cơ quan BHXH trả sổ BHXH cho người lao động, xác
nhận thời gian đóng BHXH, BHTN, BHYT khi người lao động chấm dứt hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật;
- Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến
việc đóng, hưởng BHXH, BHTN, BHYT theo yêu cầu của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền;
21
- Định kỳ thực hiện niêm yết công khai thông tin về việc đóng BHXH,
BHTN, BHYT cho người lao động; cung cấp thông tin về việc đóng BHXH,
BHTN, BHYT khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu.
1.1.3. Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT
1.1.3.1. Khái niệm
Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT mới xuất hiện
trong thời gian gần đây, khái niệm này được Luật BHXH năm 2014 quy định
như sau [28]:
Điều 13. Thanh tra bảo hiểm xã hội
1. Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH
theo quy định của pháp luật về thanh tra.
2. Thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về
quản lý tài chính BHXH theo quy định của pháp luật về thanh tra.
3. Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về
đóng BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Luật này và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Nội dung tương ứng này được Luật BHXH năm 2006 quy định:
Điều 10. Thanh tra bảo hiểm xã hội
1. Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về BHXH.
2. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra chuyên ngành về BHXH
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.”
22
Qua đối chiếu các quy định về công tác thanh tra trong quản lý nhà
nước về BHXH từ Luật BHXH năm 2006 đến Luật BHXH năm 2014, có thể
thấy, từ năm 2014 trở về trước, Luật BHXH chỉ sử dụng khái niệm thanh tra
BHXH. Đây là hoạt động thanh tra chuyên ngành thuộc thẩm quyền của
Thanh tra lao động - thương binh và xã hội. Đến Luật BHXH năm 2014, hoạt
động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT được phân chia
thành 03 loại:
- Thanh tra chuyên ngành về việc thực hiện chính sách, pháp luật về
BHXH do Thanh tra lao động - thương binh và xã hội thực hiện.
- Thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính BHXH theo quy định
của pháp luật về thanh tra do Thanh tra tài chính thực hiện.
- Thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN theo quy
định của Luật BHXH và quy định khác của pháp luật có liên quan do cơ quan
BHXH thực hiện.
Sở dĩ có sự phân chia hoạt động thanh tra BHXH thành 03 nhóm trên
xuất phát từ thực tiễn đây là một hoạt động thanh tra chuyên ngành có đối
tượng rộng lớn, nội dung thanh tra tương đối phức tạp, cần huy động nhiều
nguồn lực (chủ yếu là con người) để thực hiện. Trong khi Thanh tra lao động
- thương binh và xã hội bên cạnh nội dung này còn phải thực hiện thanh tra
các chuyên ngành khác như: lao động, việc làm; an toàn lao động; tiền lương;
dạy nghề; bảo vệ, chăm sóc trẻ em,… cùng các hoạt động thanh tra hành chính.
Chính sự quá tải này của Thanh tra lao động - thương binh và xã hội mà Luật
BHXH năm 2014 đã có sự điều chỉnh theo hướng phân chia hoạt động thanh
tra chuyên ngành BHXH thành 03 nội dung nhỏ hơn và giao về cho 03 cơ
quan khác nhau thực hiện, trong đó có cơ quan BHXH.
23
Bên cạnh đó, quỹ BHXH, BHTN, BHYT như đã phân tích ở trên, là
quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hệ thống cơ quan BHXH
Việt Nam quản lý trực tiếp nhằm cân đối thu - chi theo quy định của pháp
luật về BHXH, BHTN, BHYT của Nhà nước. Do đó, cơ quan BHXH Việt
Nam có trách nhiệm giám sát, theo dõi việc thực hiện các quy định về đóng
- hưởng của các đối tượng quản lý là người sử dụng lao động nói chung bằng
các hình thức kiểm tra và thanh tra chuyên ngành.
Việc giao quyền thực hiện thanh tra chuyên ngành cho cơ quan BHXH
không hoàn toàn là giao một quyền lực nhà nước cho một đơn vị sự nghiệp
công lập vì cơ quan BHXH chỉ có quyền thanh tra về mảng đóng BHXH,
BHTN, BHYT - một mảng nội dung mang tính chuyên môn, nghiệp vụ sâu,
còn các nội dung thanh tra chuyên ngành BHXH, BHTN, BHYT khác vẫn
do cơ quan quản lý nhà nước về lao động - thương binh và xã hội thực hiện.
Trên cơ sở các khái niệm thanh tra, thanh tra chuyên ngành, khái niệm
BHXH, BHTN, BHYT đã được làm rõ ở trên, có thể hiểu khái niệm thanh
tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT như sau:
Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT là hoạt động
thanh tra chuyên ngành do cơ quan BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH cấp
tỉnh tiến hành theo phân cấp thẩm quyền và quy định của pháp luật về thu
BHXH, BHTN, BHYT và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.1.3.2. Mục đích, vai trò
Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH,
BHTN, BHYT không nằm ngoài những mục đích của hoạt động thanh tra
nói chung, đó là: “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc
phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ
24
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy
nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân” [25].
Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra chuyên ngành này còn có vai trò
trong công tác quản lý nhà nước về BHXH, BHTN, BHYT:
Một là, giúp các cơ quan quản lý phát hiện sơ hở của cơ chế, chính
sách, pháp luật về thu, đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Trong quản lý nhà nước về BHXH, BHTN, BHYT nói riêng cũng như
quản lý hành chính nhà nước nói chung, những cơ chế, chính sách, pháp luật
được các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành để điều hành hoạt động và
điều chỉnh, kiểm soát các quan hệ xã hội. Những cơ chế, chính sách, pháp
luật này khi áp dụng trong thực tiễn không tránh khỏi bộc lộ những sơ hở và
thiếu sót mà trong nhiều trường hợp chỉ có thể được phát hiện và chấn chỉnh
thông qua hoạt động thanh tra. Bằng chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm
công tác, các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra phát hiện, đề xuất, kiến
nghị tới các chủ thể có thẩm quyền để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật.
Hai là, góp phần hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về đóng BHXH,
BHTN, BHYT bao gồm: đối tượng đóng, mức đóng và phương thức đóng.
Trước khi áp dụng vào thực tiễn, cơ quan quản lý nhà nước về lao
động - thương binh và xã hội cùng cơ quan BHXH các cấp đều phải tổ chức
tập huấn, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp
luật về BHXH, BHTN, BHYT. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện,
các doanh nghiệp, người sử dụng lao động không tránh khỏi những khó khăn,
vướng mắc cần được sự hỗ trợ, hướng dẫn của những chủ thể có thẩm quyền,
25
trong đó có lực lượng thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT. Vì vậy, bên
cạnh việc xử lý, kiến nghị xử lý các sai phạm của đối tượng thanh tra, đoàn
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT cũng thường xuyên
hướng dẫn các nội dung của pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT như
đối tượng đóng, mức đóng, phương thức đóng,… thông qua đó góp phần
giúp đối tượng thanh tra khắc phục hạn chế, lúng túng trong nhận thức, thực
hiện pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động.
Ba là, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH,
BHTN, BHYT của người sử dụng lao động.
Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và tham gia đóng
BHXH, BHTN, BHYT, do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như lợi nhuận,
quy luật cạnh tranh... doanh nghiệp, người sử dụng lao động có thể tìm cách
để gian lận, lách luật thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật, chịu xử phạt hành
chính để giải quyết bài toán về lợi ích kinh tế của mình. Quá trình thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT chắc chắn sẽ phát hiện nhiều đối
tượng thanh tra gian lận trong việc kê khai đối tượng đóng, gian lận về loại
hình HĐLĐ, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT,… bởi những vi phạm này
đều sẽ để lại những dấu vết, những căn cứ, bằng chứng trong hoạt động quản
lý và điều hành sản xuất, kinh doanh của mình.
Thông qua hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT, đoàn
thanh tra sẽ phát hiện được những dấu hiệu sai phạm kèm theo các bằng
chứng xác thực để đoàn thanh tra kết luận về hành vi vi phạm và mức độ vi
phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT để xử lý hoặc kiến nghị xử
lý theo thẩm quyền.
Bốn là, truy thu, làm giảm nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
26
Đây được coi là vai trò trọng tâm và chủ yếu nhất của thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT. Xuất phát từ thực tế hiện nay, tỷ lệ nợ
đọng BHXH, BHTN, BHYT có xu hướng tăng dần qua mỗi năm, gây ảnh
hưởng đến quỹ BHXH, BHTN, BHYT cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới lợi
ích của người lao động, kéo theo nhiều hệ lụy đối với chính sách an sinh xã
hội vốn được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm.
Là đơn vị sự nghiệp công lập trực tiếp quản lý các quỹ BHXH, BHTN,
BHYT, chủ thể nắm đầy đủ các thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động đóng
BHXH, BHTN, BHYT, chính cơ quan BHXH là chủ thể có nhiều ưu thế
nhất, có thể bảo đảm tốt nhất việc truy thu và giảm nợ đọng BHXH, BHTN,
BHYT. Những ưu thế này cũng là tiền đề hết sức quan trọng cho hoạt động
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT do cơ quan BHXH thực
hiện một cách hiệu quả nhất, góp phần thực hiện mục tiêu hoạt động của
ngành là thu đúng, đủ quỹ BHXH, BHTN, BHYT, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động.
1.2. Chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
Chủ thể thanh tra chuyên ngành là cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà
nước giao thẩm quyền tiến hành các hoạt động thanh tra chuyên ngành theo
trình tự, thủ tục nhất định nhằm đạt được mục đích, yêu cầu đề ra [36, tr.83].
Khi đề cập tới chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT có thể chia làm hai loại sau: chủ thể ra quyết định thanh tra và chủ
thể tiến hành thanh tra.
- Chủ thể ra quyết định thanh tra: Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
và Giám đốc BHXH các tỉnh, thành phố. Các chủ thể này ban hành quyết
định thanh tra trên cơ sở tham mưu, đề xuất từ Vụ Thanh tra – Kiểm tra (đối
27
với BHXH Việt Nam) và Phòng Thanh tra – Kiểm tra (đối với BHXH tỉnh,
thành phố).
- Chủ thể tiến hành thanh tra: các cơ quan, tổ chức được Nhà nước
giao quyền, gồm: BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh, thành phố (gọi chung
là BHXH cấp tỉnh). Đây là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật,
quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý Nhà nước.
Đặc điểm chủ thể thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT:
Thứ nhất, chủ thể tiến thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT không mang tính quyền lực Nhà nước như các chủ thể thanh tra khác.
Hệ thống cơ quan BHXH là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Chính phủ
với Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và Giám đốc BHXH cấp tỉnh là công
chức theo quy định. Những nhân sự còn lại của ngành BHXH trực tiếp tham
gia vào các đoàn thanh tra và thực hiện hoạt động thanh tra là đội ngũ viên
chức ngành BHXH. Khác với các đoàn thanh tra chuyên ngành khác đều chủ
yếu do các thanh tra viên là công chức thực hiện.
Thứ hai, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ thể hiện vai trò chủ thể tiến
hành thanh tra chuyên ngành trong khoảng thời gian nhất định theo quy định
của pháp luật, tùy thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể.
Đó là thời hạn thanh tra được quy định tại quyết định thanh tra mà chủ thể
thanh tra phải tuân thủ. Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, để không
gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của đối tượng thanh
tra.
28
Thứ ba, khác với hoạt động thanh tra hành chính, chủ thể tiến hành
thanh tra chuyên ngành nói chung và thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT nói riêng được áp dụng 03 hình thức tiến hành thanh tra là
thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất, trong
khi đó thanh tra hành chính chỉ có 2 hình thức là thanh tra theo kế hoạch và
thanh tra đột xuất.
1.3. Đối tượng thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội
Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức có nghĩa vụ đóng BHXH,
BHTN, BHYT nói chung đều có thể trở thành đối tượng thanh tra. Theo quy
định tại Khoản 3, Điều 2, Luật BHXH năm 2014; Khoản 3, Điều 44, Luật
Việc làm năm 2013 và Khoản 4, Điều 2, Luật BHYT năm 2008, các cơ quan,
đơn vị, tổ chức này bao gồm [27, 28, 29]:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;
- Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam;
- Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức
khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
Căn cứ vào nguồn đóng các bảo hiểm bắt buộc là từ ngân sách nhà
nước hay nguồn thu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đối tượng
trên, cơ quan BHXH thường phân chia đối tượng thanh tra thành hai nhóm
sau để thuận tiện trong công tác quản lý quỹ BHXH, BHTN, BHYT:
29
- Nhóm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự
nghiệp;
- Nhón các doanh nghiệp, hộ kinh doanh (bao gồm cả các doanh
nghiệp, tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam);
Các nhóm đơn vị sử dụng lao động trên trên trong quá trình hoạt động
đều sử dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, khu công nghiệp thậm
chí sử dụng số lượng rất lớn người lao động. Họ là đối tượng cơ bản của hoạt
động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH mà cơ quan BHXH hướng tới
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trong các nhóm đối tượng đã nêu, nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ
kinh doanh có tỷ lệ vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cao
hơn hẳn nhóm còn lại. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc đây là nhóm
đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT từ quỹ tiền của đơn vị sử dụng lao
động, mà số tiền này phụ thuộc rất lớn vào tình hình sản xuất kinh doanh
hoặc nhận thức của đơn vị sử dụng lao động. Còn nhóm cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp là nhóm đối tượng được ngân sách nhà nước chi trả lương,
trích đóng BHXH, BHTN, BHYT, việc chấp hành các quy định pháp luật
tương đối đúng quy định do đó rất ít xảy ra hành vi vi phạm hoặc sai sót
trong việc đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Trong nhóm đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh, doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỉ lệ vi phạm
pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT cao hơn so với doanh nghiệp nhà
nước, được xác định là đối tượng thanh tra trọng tâm khi cơ quan BHXH lập
kế hoạch thanh tra vì các nhóm doanh nghiệp này có những đặc điểm đặc thù
sau:
30
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, chủ doanh nghiệp là người quyết định toàn bộ hoạt
động của đơn vị, trong đó có việc chấp hành và tổ chức thực hiện việc đóng
BHXH, BHTN, BHYT. Chủ doanh nghiệp của các loại hình doanh nghiệp
này đặt lợi nhuận làm động lực cơ bản trong toàn bộ quá trình tồn tại, phát
triển của mình. Trong khi đó, ngoài mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp nhà
nước còn phải thực hiện các chức năng khác như điều tiết thị trường, cung
ứng dịch vụ công ích và các dịch vụ khác mà nhà nước độc quyền…
Thứ hai, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài có số lượng đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT rất lớn. Số
lượng người lao động ở hai loại hình doanh nghiệp này cũng trở thành sức
ép đối với chủ doanh nghiệp trong việc cân đối thu - chi, tối đa hóa lợi nhuận.
Thứ ba, nhận thức về pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT và ý thức
chấp hành của đại bộ phận chủ doanh nghiệp (phần lớn ở các doanh nghiệp
tư nhân, cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ) còn hạn chế so với doanh nghiệp
nhà nước, nên tỷ lệ vi phạm pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ lớn hơn.
Thứ tư, riêng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, loại hình
doanh nghiệp này thường có quy mô lớn, trình độ quản lý thường cao hơn so
với các loại hình doanh nghiệp còn lại, tiềm ẩn nguy cơ cao trong lợi dụng
kẽ hở của pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT để thực hiện hành vi trốn
đóng, đóng không đúng mức BHXH, BHTN, BHYT nhằm tối đa hóa lợi
nhuận. Tỷ lệ vi phạm ở loại hình doanh nghiệp này có thể ít hơn so với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nhưng mức độ, quy mô, sự tinh vi, phức tạp của
hành vi vi phạm thường lớn hơn.
1.4. Nội dung, hình thức thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm
31
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
1.4.1. Nội dung thanh tra
Khi thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT, chủ thể
thanh tra tiến hành thanh tra những nội dung sau: đối tượng đóng BHXH,
BHTN, BHYT, mức đóng BHXH, BHTN, BHYT và phương thức đóng
BHXH, BHTN, BHYT.
- Về đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh tra
xác minh tính đúng đắn trong việc khai báo về số lượng đối tượng đóng
BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức; tiến hành xem xét, đánh giá tình hình sử
dụng lao động và tham gia BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức. Căn cứ để
chủ thể thanh tra đối chiếu là: HĐLĐ, bảng chi trả lương hàng tháng, thang
bảng lương do đơn vị xây dựng, bảng chấm công của. Cụ thể hơn:
Căn cứ xác định đối tượng là người lao động tham gia BHXH, BHTN,
BHYT bao gồm: HĐLĐ, quyết định bổ nhiệm, quyết định nâng lương, bảng
chấm công, bảng thanh toán lương hàng tháng hoặc theo hình thức khoán công
việc;
Căn cứ xác định đối tượng là người sử dụng lao động tham gia BHXH,
BHTN, BHYT bao gồm: quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, giấy chứng nhận đầu tư.
- Về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh tra xác
định mức tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức. Căn cứ đối
chiếu, xem xét gồm: thang bảng lương, bảng chi trả lương, HĐLĐ, quy chế
trả lương, thưởng, nội quy lao động. Mức đóng bao gồm: mức lương chính
ký kết trên HĐLĐ, và các khoản phải đóng BHXH như phụ cấp chức vụ,
chức danh, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, phụ
cấp thâm niên, phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút…
32
- Về phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT: là việc chủ thể thanh
tra xác minh việc chấp hành quy định về phương thức đóng BHXH, BHTN,
BHYT. Có hai phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT:
Trường hợp đóng hàng tháng: Chậm nhất đến ngày cuối cùng của
tháng, tổ chức trích tiền đóng BHXH, BHTN, BHYT trên quỹ tiền lương
tháng của người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT, đồng thời trích
từ tiền lương tháng đóng BHXH, BHTN, BHYT của từng người lao động,
chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH, BHTN,
BHYT mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
Trường hợp đóng 03 tháng hoặc 06 tháng: Áp dụng đối với hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm, theo khoán.
1.4.2. Hình thức thanh tra
Giống như các cuộc thanh tra chuyên ngành nói chung, thanh tra
chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT được tiến hành dưới 03 hình
thức: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất.
Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành theo kế hoạch đã được phê
duyệt. Thanh tra theo kế hoạch có thuận lợi là giúp đoàn thanh tra chủ động
trong việc bố trí thời gian và lực lượng tiến hành, có thể thu thập tài liệu hoặc
khảo sát trước khi tiến hành thanh tra.
Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nhằm
đảm bảo hoạt động thanh tra gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên
môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật.
33
Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp giao. Đặc điểm của những cuộc thanh tra đột xuất là
hướng vào giải quyết những vấn đề cấp bách, cần xem xét, kết luận chính
xác, cụ thể nhưng trong khoảng thời gian tương đối ngắn, nhằm đáp ứng kịp
thời cho yêu cầu lãnh đạo, quản lý.
Tùy thuộc vào đặc thù của cuộc thanh tra mà các chủ thể thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT có thể được tiến hành theo các
hình thức linh hoạt khác nhau phù hợp với các quy định của pháp luật thanh
tra. Thông thường, các cuộc thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT chủ yếu được tiến hành dưới hình thức thanh tra theo kế hoạch và
thanh tra đột xuất.
1.5. Quy trình thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
1.5.1. Thời hạn thanh tra
Thời hạn thanh tra là khoảng thời gian tính từ ngày công bố quyết định
thanh tra đến ngày kết thúc thanh tra tại nơi được thanh tra. Theo quy định:
Các cuộc thanh tra do BHXH Việt Nam tiến hành không quá 45 ngày, trường
hợp phức tạp có thể kéo dài hơn nhưng không quá 70 ngày; Các cuộc thanh
tra do BHXH tỉnh tiến hành không quá 30 ngày, trường hợp phức tạp có thể
kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
1.5.2. Trình tự tiến hành thanh tra
Trình tự tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT được mô tả khái quát thông qua sơ đồ sau:
34
Hình 1.2: Trình tự tiến hành thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH, BHTN, BHYT
Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT về cơ bản tuân
thủ các quy định về quy trình, thủ tục của hoạt động thanh tra chuyên ngành
tại Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính
phủ, bên cạnh đó là hướng dẫn chi tiết về quy trình thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH, BHTN, BHYT tại Quyết định số 1518/QĐ-BHXH ngày
18/10/2016 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, bao gồm 03 giai đoạn:
1.5.2.1. Giai đoạn chuẩn bị thanh tra
- Thu thập thông tin để ban hành quyết định thanh tra:
Hoạt động này được tiến hành bởi đơn vị được giao chủ trì thanh tra
(thường là Vụ/Phòng Thanh tra - Kiểm tra) nhằm thu thập thông tin, tài liệu,
hồ sơ, dữ liệu để nắm tình hình, làm căn cứ, cơ sở cho người có thẩm quyền
ra quyết định thanh tra.
- Ra quyết định thanh tra:
35
Căn cứ chương trình kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt hoặc theo
yêu cầu thanh tra đột xuất, thủ trưởng đơn vị được giao chủ trì cuộc thanh
tra xây dựng dự thảo quyết định thanh tra để trình người có thẩm quyền ra
quyết định.
- Xây dựng và phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra:
Việc xây dựng, phổ biến kế hoạch thanh tra góp phần bảo đảm cho
hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, đạt được mục đích cũng như hiệu quả
công tác. Trên cơ sở kế hoạch chung của đoàn, các thành viên đoàn thanh tra
xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với
Trưởng đoàn.
- Gửi quyết định thanh tra:
Sau khi quyết định thanh tra được ban hành, Trưởng đoàn thanh tra
chỉ đạo việc gửi quyết định thanh tra kèm theo đề cương thanh tra tới đối
tượng được thanh tra trước khi thanh tra ít nhất 05 ngày làm việc để đối tượng
thanh tra chuẩn bị (trừ trường hợp thanh tra đột xuất).
1.5.2.2. Giai đoạn tiến hành thanh tra
- Công bố quyết định thanh tra:
Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn
có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc
công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản. Nếu đối tượng
thanh tra không tiếp đoàn thanh tra hoặc tiếp nhưng không có sự tham dự
của người đại diện hoặc người được ủy quyền hợp pháp của đối tượng thanh
tra, Trưởng đoàn tiến hành lập biên bản tạm hoãn thanh tra và xác định lại
ngày thanh tra để đối tượng thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp
luật.
36
- Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu:
Đoàn thanh tra có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ,
tài liệu, dữ liệu liên quan đến nội dung thanh tra. Đây là một trong những
căn cứ để đoàn thanh tra có thể tiến hành kiểm tra, xác minh tính hợp pháp,
hợp lý trong hoạt động của đối tượng thanh tra, làm tiền đề cho việc xây
dựng bản kết luận thanh tra.
- Kiểm tra, xác minh:
Trên cơ sở thông tin, tài liệu, hồ sơ, dữ liệu đã thu thập được, đoàn
thanh tra có trách nhiệm nghiên cứu, đối chiếu, so sánh, phân tích, đánh giá
việc chấp hành chính sách, pháp luật của đối tượng thanh tra.
- Báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra:
Hằng ngày, thành viên đoàn có trách nhiệm báo cáo tình hình thực
hiện nhiệm vụ với Trưởng đoàn; Trưởng đoàn có trách nhiệm báo cáo tiến
độ, kết quả thanh tra với người ra quyết định thanh tra để theo dõi, chỉ đạo
và giám sát hoạt động của đoàn thanh tra.
1.5.2.3. Giai đoạn kết thúc thanh tra
- Báo cáo kết quả cuộc thanh tra:
+ Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc tiến hành
thanh tra, thành viên đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với
Trưởng đoàn thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu
trách nhiệm về tính chính xác, khách quan, trung thực về nội dung báo cáo.
+ Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng
đoàn xây dựng và báo cáo kết quả thanh tra (trừ trường hợp cần phải chờ kết
luận chuyên môn) trình người ra quyết định thanh tra.
- Kết luận thanh tra:
37
Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày người ra quyết định thanh tra xem
xét cho ý kiến đối với báo cáo về cuộc thanh tra, Trưởng đoàn phải trình dự
thảo kết luận thanh tra để người ra quyết định thanh tra ký ban hành.
Đồng thời, người ra quyết định thanh tra phải lựa chọn việc công khai,
thời gian công khai và hình thức công khai kết luận thanh tra. Ngoài ra, sau
khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn có trách nhiệm tổ chức họp đoàn để
tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của đoàn thanh tra hoặc đưa ra những
đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho hoạt
động của các đoàn thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn
ra sau đó.
1.6. Căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế
Các văn bản pháp luật chủ yếu được sử dụng trong quá trình hoạt động
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn của cơ quan
BHXH cấp tỉnh bao gồm:
- Luật Thanh tra năm 2010;
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
- Luật Việc làm năm 2013;
- Luật BHXH năm 2014;
- Luật BHYT năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2014;
- Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định quy định về cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành, ngày 09/02/2012;
38
- Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, ban hành
ngày 05/01/2016;
- Nghị định số 21/2016/NĐ-CP quy định việc thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN của cơ quan BHXH,
ban hành ngày 31/3/2016;
- Thông tư số 05/2014/TT-TTCP quy định về tổ chức, hoạt động, quan
hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh
tra, ban hành ngày 16/10/2014;
- Quyết định số 969/QĐ-BHXH quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương, ban hành
ngày 26/7/2019;
- Quyết định số 1518/QĐ-BHXH quy định hoạt động thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra của BHXH Việt
Nam, ban hành ngày 18/10/2016.
- Quy chế phối hợp công tác số 5423/QCPH-BHXH-TCT giữa BHXH
Việt Nam và Tổng cục Thuế, ban hành ngày 31/12/2014;
39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT là hoạt động
thanh tra chuyên ngành do cơ quan BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh thực
hiện, có vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về thu BHXH,
BHYT, BHTN.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng được tiến hành dựa trên các
văn bản pháp luật hiện này mà chủ yếu là Luật Thanh tra năm 2010, Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật bảo hiểm y tế được sửa đổi bổ sung năm
2014, Luật Việc làm năm 2013, Nghị định 21/2016/NĐ-CP quy định việc
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN
của cơ quan BHXH, Quyết định số 1518/QĐ-BHXH quy định hoạt động
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra
của BHXH Việt Nam. Trên cơ sở các căn cứ lý luận và pháp lý về thanh tra
và BHXH, BHTN, BHYT, tác giả đã tập trung phân tích về khái niệm, chủ
thể, đối tượng, nội dung, hình thức và quy trình của thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Thông qua nội dung đã phân tích ở Chương 1, đề tài đã giải quyết
được nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra là hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý
luận và cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT, từ đó làm rõ hơn cách tiếp cận nghiên cứu các vấn đề liên
quan hoạt động này.
Những phân tích là kết luận trong chương này là tiền đề, cơ sở để phân
tích, đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ở chương tiếp theo.
40
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM
XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO
HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động, người lao động và cơ
quan Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Thành phố
2.1.1. Khái quát về đơn vị sử dụng lao động và người lao động trên
địa bàn Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 10% dân số cả nước,
nhiều năm qua luôn giữ vị trí đầu tầu về kinh tế, tài chính của cả nước. Là
hạt nhân của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với mức đóng góp GDP là
66,1% trong vùng, đóng góp 30% trong tổng GDP của cả khu vực Nam Bộ,
đóng góp 22% GDP của cả nước.
Về tình hình đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố, theo
kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2018 (tính đến ngày 31-12-2018), Thành
phố có 111.616 cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong đó, số lượng doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá thể sử dụng lao động có đến 104,483 tổ chức,
đơn vị.
Lực lượng lao động trên địa bàn Thành phố luôn có xu hướng tăng về
số lượng và chất lượng qua từng năm. Tính đến năm 2018, lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên là 4,54 triệu người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang
làm việc trong các loại hình kinh tế là 4,41 triệu người. Tỉ lệ lao động đã qua
đào tạo chiếm 36,7%, tăng 1,9% so với năm 2016.
Với quy mô số lượng đơn vị sử dụng lao động, người lao động lớn
nhất cả nước, loại hình đa dạng, năng động, đây vừa là động lực to lớn cho
sự phát triển chung của Thành phố nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,
41
phức tạp cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước nhằm đảm
bảo nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp
của người lao động, trong đó có quyền lợi về BHXH, BHTN, BHYT.
2.1.2. Khái quát về Bảo hiểm xã hội Thành phố
Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH
Thành phố nói riêng, của BHXH cấp tỉnh nói chung được quy định tại Quyết
định số 969/QĐ-BHXH của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ngày
27/9/2019. Theo đó, Quyết định số 969/QĐ-BHXH quy định về vị trí, chức
năng, cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố như sau:
2.1.2.1. Vị trí, chức năng
Hình 2.1: Sơ đồ thể hiện vị trí của cơ quan BHXH
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
Bảo hiểm xã hội Thành phố là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam
đặt tại Thành phố, chịu sự quản lý trực tiếp và toàn diện của Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam và chịu sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành
42
phố của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo hiểm xã hội Thành
phố có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng đặt tại địa
chỉ số 117C, đường Nguyễn Đình Chính, Phường 15, Quận Phú Nhuận,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảo hiểm xã hội Thành phố giúp Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tổ
chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN; quản lý các quỹ:
BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn Thành phố theo quy định của BHXH
Việt Nam và quy định của pháp luật.
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố được mô tả thông qua sơ đồ sau:
Hình 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức BHXH Thành phố
43
Bảo hiểm xã hội Thành phố là tổ chức hoạt động theo chế độ thủ
trưởng. Về cơ cấu tổ chức, BHXH Thành phố có 01 Giám đốc, giúp việc cho
Giám đốc gồm 04 Phó Giám đốc và 12 phòng nghiệp vụ cùng BHXH 24
quận, huyện. Số lượng công chức, viên chức ngành BHXH tại Thành phố là
1.244 người, trong đó tính riêng số lượng công chức, viên chức làm việc tại
BHXH Thành phố là 398 người.
2.1.2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn
Nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH Thành phố được quy định tại
Quyết định 969/QĐ-BHXH ngày 29/7/2019 và Quyết định số 1518/QĐ-
BHXH ngày 18/10/2016. BHXH Thành phố có một số nhiệm vụ, quyền hạn
quan trọng liên quan tới chức năng thanh tra về đóng BHXH như sau:
1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra được quy định của Nghị
định số 21/2016/NĐ-CP.
2. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền trình Tổng
Giám đốc phê duyệt.
3. Quyết định thành lập đoàn thanh tra, kiểm tra thuộc phạm vi quản
lý trên địa bàn tỉnh.
4. Ký ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra và xử lý các kiến nghị của
đoàn thanh tra, kiểm tra.
5. Chỉ đạo, theo dõi hoạt động của đoàn thanh tra, kiểm tra; giải quyết
các vấn đề phát sinh, vướng mắc vượt quá thẩm quyền giải quyết của Trưởng
đoàn thanh tra, kiểm tra.
6. Giải quyết theo thẩm quyền khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt
động thanh tra, kiểm tra.
44
7. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành
chính.
2.2. Thực trạng thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT của BHXH Thành phố
Nhìn chung, từ năm 2016 và chính thức từ năm 2017, hoạt động thanh
tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố được
tổ chức triển khai thực hiện đúng trình tự quy trình, thủ tục theo quy định
của pháp luật và hướng dẫn của ngành, nhận thức về tăng cường thực hiện
pháp luật thanh tra trong quy trình quản lý, tác nghiệp của lãnh đạo, viên
chức toàn hệ thống đã được nâng lên.
Trước năm 2016, BHXH Thành phố đã chủ động, nỗ lực, tăng cường
kiểm tra, thanh tra phối hợp nhưng do chức năng bị hạn chế, ngoài các biện
pháp tranh thủ sự hỗ trợ từ các ngành khác như Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội để kiến nghị xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHTN,
BHYT... nên hiệu quả chưa như mong đợi. Việc thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành theo quy định của Luật BHXH năm 2014 chỉ mới thực hiện
trong thời gian ngắn, bước đầu vừa thực hiện vừa đúc kết kinh nghiệm, chủ
yếu tập trung xử lý phương thức đóng (tăng cường thu hồi nợ đọng BHXH,
BHTN, BHYT) trong tình hình số lượng đơn vị nợ đọng BHXH, BHTN,
BHYT nói riêng và số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, BHTN,
BHYT nói chung ở Thành phố rất lớn.
2.2.1. Thực trạng về chủ thể thanh tra
Trong giai đoạn từ trước năm 2015, hệ thống BHXH Thành phố chủ
yếu tiến hành các hoạt động kiểm tra, kiểm tra phối hợp và cử cộng tác viên
tham dự cùng các đoàn thanh tra thực hiện pháp luật lao động và pháp luật
BHXH do Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố chủ
45
trì và thanh tra việc thực hiện pháp luật BHYT do Thanh tra Sở Y tế chủ trì
và các cơ quan khác trên địa bàn Thành phố khi có yêu cầu phối hợp.
BHXH Thành phố bắt đầu chủ trì, tổ chức thí điểm hoạt động thanh
tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố từ
tháng 10/2016. Tính đến hết tháng 12/2019, cơ quan BHXH Thành phố có
50 công chức, viên chức đã được cử học lớp thanh tra viên và thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và đã có 16 công chức, viên chức
thuộc BHXH Thành phố được giao thực hiện thanh tra chuyên ngành.
Bảng 2.1: Đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành phố
Trình độ
Số lượng
Bồi dưỡng
chuyên môn
nghiệp vụ
Công
Viên
Đại
Sau
thanh tra
chức
chức
học
đại học
1
2
1
2
Ban Giám đốc
12
10
2
12
Phòng Thanh tra – Kiểm tra
2
2
2
Phòng Quản lý thu
Nguồn: BHXH Thành phố.
Trên đây là bảng tổng hợp về cơ cấu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của công chức, viên chức thuộc BHXH Thành phố được giao thực hiện thanh
tra chuyên ngành. Nhìn chung, cơ quan BHXH đã quan tâm bố trí, bồi dưỡng
nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức thực hiện hoạt động thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT; có 16/16 công chức, viên chức
có trình độ từ đại học trở lên và đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng nghiệp
vụ thanh tra.
46
Theo quy định của BHXH Việt Nam, tiêu chuẩn của Trưởng đoàn
thanh tra của BHXH tỉnh là lãnh đạo BHXH tỉnh hoặc Trưởng phòng, Phó
Trưởng phòng thanh tra – kiểm tra và có chứng chỉ hoàn thành lớp bồi dưỡng
thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT do cơ quan có thẩm
quyền cấp. Tuy nhiên, với đặc thù của Thành phố là địa bàn tập trung số
lượng đơn vị sử dụng lao động lớn nhất trong cả nước, tình hình nợ đọng
BHXH, BHTN, BHYT của các đối tượng thanh tra cũng đặc biệt phức tạp
so với các địa phương khác, khiến cơ quan BHXH Thành phố phải tổ chức
nhiều đoàn thanh tra chuyên ngành trong cùng một thời điểm. Vì vậy, để
đảm bảo nhân sự tiến hành thanh tra, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết
định số 2601/QĐ-BHXH ngày 06/12/2016 quy định về việc bổ sung Trưởng
đoàn thanh tra, kiểm tra. Cụ thể, tại cơ quan BHXH Thành phố, các chức
danh như Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Quản lý thu, Khai thác và Thu
nợ được đảm nhiệm vị trí Trưởng đoàn thanh tra (sau khi được đào tạo và
cấp chứng chỉ hoàn thành lớp bồi dưỡng thanh tra chuyên ngành về đóng
BHXH).
Trong quá trình tiến hành thanh tra, đoàn thanh tra còn trưng tập viên
chức thuộc các phòng nghiệp vụ và viên chức thuộc cơ quan BHXH quận,
huyện (nơi đơn vị sử dụng lao động đăng ký tham gia BHXH) phụ trách quản
lý thu của đối tượng thanh tra tham gia đoàn để đảm bảo việc nắm bắt cụ thể
tình hình đóng BHXH, BHTN, BHYT của đối tượng thanh tra, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của Đoàn thanh tra.
2.2.2. Thực trạng về đối tượng thanh tra
Theo thống kê từ BHXH Thành phố, số lượng đơn vị sử dụng lao động,
người lao động trên địa bàn Thành phố tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT
giai đoạn từ 2016 - 2019 có một số biến động như sau:
47
Bảng 2.2: Thống kê số lượng đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc
đối tượng đóng BHXH, BHTN, BHYT giai đoạn 2016 – 2019
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Nhóm đối
Số người
Số người
Số người
Số người
tượng thanh
Số đơn vị
Số đơn vị
Số đơn vị
Số đơn vị
lao động
lao động
lao động
lao động
tra
Cơ quan nhà
nước, tổ chức
chính trị -xã
3,350
216,974
3,585
216,680
3,638
218,079
3,635
217,283
hội, đơn vị sự
nghiệp
công
lập
Doanh
63,928 1,864,689
90,171 1,934,695
104,483 2,063,414
118,025 2,169,956
nghiệp, hộ
kinh doanh
67,278 2,081,663
93,756 2,151,375
108,121 2,281,493
121,660 2,387,239
Tổng cộng
Nguồn: BHXH Thành phố.
Từ bảng số liệu cho thấy, nhóm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -
xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập tương đối ổn định qua các năm, từ năm
2016 đến năm 2019 tăng 285 đơn vị mới với 309 người lao động tham gia
BHXH, BHTN, BHYT. Điều này hoàn toàn dễ hiểu do đây là nhóm cơ quan,
tổ chức nhà nước, việc thành lập mới hoặc giải thể các cơ quan hầu hết chỉ
được thực hiện khi có sự thay đổi địa giới hành chính, sát nhập, chia tách địa
phương hoặc khi có sự thay đổi của các cơ quan nhà nước được cơ quan có
thẩm quyền thông qua.
Nhóm doanh nghiệp, hộ kinh doanh có sự biến động rõ rệt. Năm 2016,
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 67,278 đơn vị với 2,081,663 người
tham gia BHXH, BHTN, BHYT, năm 2019 có 121,660 đơn vị với 2,387,239
48
người lao động tham gia BHXH, BHTN, BHYT, tăng 54,097 đơn vị với
305,267 người lao động. Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh
tế lớn của cả nước, hạ tầng, công nghệ liên tục phát triển mạnh qua các năm;
cùng với đó vị trí địa lý, giao thông và khí hậu thuận lợi, dễ dàng chi chuyển
ra các khu vực là yếu tố quan trọng để thu hút các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy nhóm đối tượng thanh tra là doanh nghiệp, hộ kinh doanh có
số lượng đơn vị và người tham gia lớn và phức tạp hơn so với nhóm đối
tượng còn lại. Bên cạnh đặc điểm số lượng đơn vị lớn, tính đa dạng, phức
tạp của nhóm đối tượng này còn thể hiện ở tình hình thu – nợ quỹ BHXH,
BHTN, BHYT trong từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
49
Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình thu - nợ BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm
doanh nghiệp giai đoạn 2016 – 2019
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Cơ quan nhà
Số đã thu
3,248,696
3,469,916
3,721,034
4,047,502
nước, tổ chức
1
chính trị -xã hội,
đơn vị sự nghiệp
Số nợ
27,871
34,250
26,878
29,786
công lập
Số đã thu
38,969,493
44,287,254
50,850,515
57,203,955
Doanh nghiệp,
2
hộ kinh doanh
Số nợ
2,115,111
2,162,374
2,123,828
2,364,998
Số đã thu
4,874,357
5,444,102
5,880,022
6,030,687
Doanh nghiệp
2.1
nhà nước
Số nợ
143,398
150,674
147,725
153,808
Số đã thu
17,452,984
20,202,133
24,643,838
29,074,164
Doanh nghiệp
2.2
ngoài quốc doanh
Số nợ
1,497,026
1,612,692
1,628,796
1,843,444
Doanh nghiệp có
Số đã thu
16,092,912
18,040,098
19,636,090
21,325,845
2.3
vốn đầu tư nước
Số nợ
461,638
388,451
317,536
325,715
ngoài
Số đã thu
549,240
600,921
690,565
773,259
2.4 Tổ chức còn lại
Số nợ
13,050
10,557
29,772
42,030
Nguồn: BHXH Thành phố.
Qua bảng số liệu cho thấy, số nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT ở nhóm
đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh (Mục 2 – Bảng số liệu) có biến động
nhẹ qua các năm. Từ năm 2016, số nợ là 2,115 tỷ đồng; đến năm 2017, số
nợ đọng tăng lên 2,162 tỷ đồng (tăng 1,25%); năm 2018 đã giảm còn 2,123
tỷ đồng, năm 2019 tăng lên 2,364 tỷ đồng.
50
Trong đó, cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của 03 loại hình doanh
nghiệp tiêu biểu, chiếm số lượng lớn trong nhóm đối tượng doanh nghiệp,
hộ kinh doanh được mô tả thông qua biểu đồ sau:
Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện cơ cấu nợ BHXH, BHTN, BHYT của
các loại doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng
doanh nghiệp, hộ kinh doanh giai đoạn 2016 - 2019
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: BHXH Thành phố.
Cơ cấu nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT của các nhóm đối tượng thanh
tra có một số điểm đáng chú ý như sau:
- Loại hình doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ nợ nhỏ nhất trong tổng
số nợ BHXH, BHTN, BHYT so với các loại hình doanh nghiệp khác và có
xu hướng tăng nhẹ qua các năm. Loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có tỉ lệ nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT cao hơn doanh nghiệp nhà
nước nhưng có xu hướng giảm đều qua các năm. Điều này cũng phản ánh ý
thức chấp hành của đối tượng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
sự thay đổi theo hướng tích cực hơn và cũng cho thấy phần nào hiệu quả của
hoạt động thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT.
51
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ nợ lớn nhất trong tổng
số nợ BHXH, BHTN, BHYT hàng năm. Từ năm 2016, loại hình doanh
nghiệp này có số nợ là 1.497 tỷ đồng chiếm 70,80% tổng số nợ trong năm,
năm 2017 loại hình doanh nghiệp này có số nợ là 1,612 tỷ đồng, chiếm 75,1%
, năm 2018 số nợ là 1.628 tỷ đồng, chiếm 78% và đến năm 2019 số nợ lên
tới 1.843 tỷ đồng chiếm 79,50% .
Qua phân tích các số liệu, biểu đồ trên, có thể thấy thực trạng nợ đọng
BHXH, BHTN, BHYT đang diễn ra chủ yếu ở nhóm đối tượng doanh
nghiệp, hộ kinh doanh, mà tập trung lớn nhất ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT đối
của BHXH Thành phố muốn giải quyết được bài toán về giảm nợ đọng cần
phải tập trung vào các doanh nghiệp này. Tuy nhiên nhóm này bao gồm nhiều
loại hình công ty sản xuất kinh doanh, quy mô cũng hết sức đa dạng, với số
lượng lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tình hình sử dụng lao động
cũng hết sức phức tạp, công tác quản lý nhà nước không tránh khỏi gặp nhiều
khó khăn.
Khi xây dựng chương trình thanh tra, kiểm tra hàng năm, BHXH
Thành phố thường tập trung vào nhóm doanh nghiệp có hành vi vi phạm như
trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT thường xuyên, kéo
dài hay nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT lớn. Con số thống kê này định kỳ
hàng tháng được đăng tải công khai trên Trang thông tin điện tử của BHXH
Thành phố để đối tượng nắm thông tin về tình trạng của mình và cũng là cơ
sở để BHXH Thành phố tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra.
2.2.3. Thực trạng về nội dung, hình thức thanh tra
Xuất phát từ đặc trưng của đối tượng thanh tra và điều kiện cụ thể của
chủ thể thanh tra đã được phân tích ở trên, hình thức cơ bản được BHXH
52
Thành phố sử dụng trong các cuộc thanh tra là thanh tra theo kế hoạch và
thanh tra đột xuất.
Hoạt động thanh tra đóng BHXH được BHXH Thành phố triển khai
thực hiện trong bối cảnh các đơn vị sử dụng lao động tại Thành phố nợ đọng
lớn và việc trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động diễn ra rất
phổ biến, đặc biệt là tập trung tại các Công ty, khu công nghiệp sử dụng lực
lượng lao động có trình độ thấp về nhận thức, hiểu biết pháp luật nói chung
và pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT nói riêng. Chính vì vậy, công tác
thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi trốn đóng, nợ tiền BHXH,BHTN,
BHYT và các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng chế độ, trục lợi BHXH,
BHTN, BHYT luôn được BHXH Thành phố xác định là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình quản lý việc thực hiện chính sách
BHXH, BHYT trên địa bàn Thành phố.
Bảng 2.4: Số cuộc thanh tra của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019
Năm
2016
2017
2018
2019
27
331
426
468
Số cuộc
Nguồn: BHXH Thành phố.
Tính từ tháng 10/2016, BHXH TP bắt đầu triển khai thí điểm để chuẩn
bị nguồn lực bắt đầu thanh tra từ năm 2017. Từ cuối 2016 đến tháng 12/2019,
BHXH Thành phố đã chủ trì tiến hành 1206 cuộc thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố. Các cuộc
thanh tra qua các năm đều tăng lên về số lượng, năm 2018 tăng 95 cuộc so
với năm 2017 và năm 2019 tăng 42 cuộc so với năm 2018.
2.2.3.1. Thực trạng thanh tra về đối tượng đóng
Với nội dung thanh tra về đối tượng đóng, đoàn thanh tra căn cứ vào
53
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, theo đó:
+ Trước ngày 01/01/2018: người lao động có ký kết HĐLĐ, có tên
trên bảng lương từ 03 tháng trở lên thì thuộc đối tượng tham gia BHXH.
+ Từ ngày 01/01/2018: người lao động ký kết HĐLĐ từ 01 tháng trở
lên, có tên trên bảng chi trả lương của đơn vị.
Thống kê kết quả thanh tra tại BHXH Thành phố, thấy nổi lên một số
thực trạng như:
- Doanh nghiệp có thuê mướn, sử dụng lao động nhưng không ký kết
HĐLĐ hoặc ký các loại hợp đồng khác như hợp đồng cộng tác viên, hợp
đồng đào tạo, hợp đồng làm việc bán thời gian, hợp đồng khoán việc… để
trốn đóng BHXH.
- Doanh nghiệp không tham gia BHXH, BHTN, BHYT cho người lao
động đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian tham gia đóng BHXH và
tiếp tục giao kết HĐLĐ tại đơn vị, đơn vị tiến hành trả lương theo ngày để
trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Hộp 2.1: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
Nhận xét:
- Đối tượng thanh tra lập thủ
2.1.1. Đối tượng đóng
tục đăng ký tham gia BHXH
Tổng số lao động của Văn phòng Công ty và
không kịp thời cho 41 lao
16 Chi nhánh tham gia tại Thành phố theo Bảng
động.
lương tháng 06/2018 là 2.901 người (không bao
gồm bảng lương lao động thôi việc trong tháng
- 12 trường hợp bị phát hiện
6/2018).
sai về thời gian tham gia,
54
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
phải điều chỉnh giảm thời
gian tham gia BHXH với
Số lao động có tên trên bảng lương thực tế của
tổng số tiền điều chỉnh giảm
công ty thuộc diện tham gia BHXH là 41 người
là 27.943.700 đồng.
(04 lao động chưa tham gia và 37 lao dộng tham
gia thiếu thời gian). Tổng số tiền truy thu cho 41
người do chưa tham gia và đóng không đúng
thời gian quy định chưa bao gồm lài chậm nộp
là: 106.484.400 đồng, trong đó quỹ BHXH là
83.094.650 đổng
Số lao động không có trên bảng lương hoặc
có nhưng không đủ ngày công nhưng vẫn tham
gia BHXH là 12 người (trong đó: 03 trường hợp
chưa báo giảm, 09 trường họp báo giảm sai
tháng). Tổng số tiền điều chỉnh giảm do không
thuộc đối tượng tham gia là: 27.943.700 đồng,
trong đó quỹ BHXH là 25.545.400 đồng.
[…]
Nguồn: BHXH Thành phố.
- Loại vi phạm phổ biến mà các đoàn thanh tra thường xuyên phát hiện
liên quan đến đối tượng đóng BHXH tại doanh nghiệp là doanh nghiệp chậm
khai báo tăng giảm lao động, quỹ lương, mức lương hoặc chức danh công
việc khi có thay đổi, không ký HĐLĐ hay ký với tên gọi khác nhau như đề
cập ở trên để trốn đóng, không đóng cho người đủ tuổi nghỉ hưu nhưng chưa
phải là đối tượng hưu trí.
Hộp 2.2: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
55
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
Nhận xét:
- Đối tượng thanh tra đã đóng
1.1. Về đối tượng đóng
BHXH không đủ số người
Tổng số lao động thực tế trên bảng lương
thuộc diện bắt buộc với tổng
tháng 07/2018 của Công ty là 97 người. Trong
số
tiền
phải
đóng
là
đó: HĐLĐ không xác định thời hạn là 35 người,
1.031.379.775 đồng.
HĐLĐ từ 12 tháng đến 36 tháng là 38 người,
chưa giao kết HĐLĐ là 24 người.
- Đối tượng thanh tra chưa
điều chỉnh giảm đóng cho số
Tổng số lao động của Công ty thuộc đối
lao động không thuộc đối
tượng đóng BHXH vào tháng 07/2018 là 73
tượng tham gia với tổng số
người.
tiền giảm đóng là 110.263.850
Tổng số lao động đóng BHXH đã tham gia
đồng.
đến hết tháng 07/2018 là 36 người.
Năm 2017 có 25 lao động, năm 2018 có 73
lao động thuộc đối tượng đóng BHXH nhưng
Công ty chưa lập thủ tục tham gia phải truy đóng
với số tiền là 1.031.379.775 đồng.
Năm 2017 có 08 lao động, năm 2018 có 05
lao động không có tên trên bảng lương nhưng
vẫn tham gia BHXH. Phải điều chỉnh giảm đóng
với tiền là 110.263.850 đồng; trong đó có 02 lao
động đã được Công ty đề nghị giải quyết hưởng
trợ cấp ốm đau và đã được BHXH quận Bình
Tân giải quyết với số tiền 5.784.200 đồng
56
Năm 2017, có 56 lao động đủ điều kiện nhưng
không có hồ sơ lao động và không tham gia
BHXH.
[…]
Nguồn: BHXH Thành phố.
- Cũng có tình trạng các doanh nghiệp đề nghị truy thu cộng nối thời
gian cho các giai đoạn trước đây không thuộc đối tượng thu BHXH, BHYT,
BHTN để đủ các chế độ; Cá biệt có trường hợp ký hợp đồng dịch vụ cho
thuê lại lao động để né tránh thực hiện đóng BHXH, BHTN, BHYT;
2.2.3.2. Thực trạng thanh tra về mức đóng
Để xem xem xét về mức đóng BHXH, BHYT, BHTN của đơn vị sử
dụng lao động, các đoàn thanh tra căn cứ vào: thang bảng lương, bảng chi
trả lương, HĐLĐ, quy chế trả lương, thưởng, nội quy lao động. Ngoài mức
lương chính ký kết trên HĐLĐ còn có các khoản khác theo quy định tại
Khoản 2, Điều 30, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH như:
+ Trước ngày 01/01/2018, các khoản phụ cấp phải đóng BHXH,
BHTN, BHYT gồm: phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ
cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực;
phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút.
+ Từ ngày 01/01/2018 trở đi, các khoản bổ sung khác phải đóng
BHXH, BHTN, BHYT là các khoản bổ sung xác định được mức tiền cụ thể
cùng với mức lương thỏa thuận trong HĐLĐ và trả thường xuyên trong mỗi
kỳ trả lương.
Đoàn thanh tra còn tiến hành đối chiếu mức tiền lương tháng đóng
BHXH, BHTN, BHYT với mức lương tối thiểu vùng của năm đó và thang
57
bảng lương của đơn vị đã xây dựng để đảm bảo quyền lợi cho người lao
động.
Tổng hợp kết quả thanh tra các năm về mức đóng BHXH, BHTN,
BHYT của đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố cho thấy BHXH
Thành phố đã thực hiện nội dung này tương đối hiệu quả, thể hiện cụ thể
như:
Năm 2017, các đoàn thanh tra đã đề nghị các đơn vị truy đóng bảo
BHXH, BHYT, BHTN cho 538 lao động thuộc đối tượng tham gia nhưng
doanh nghiệp chưa tham gia với tổng số tiền là 2,9 tỷ đồng, truy giảm cho
255 lao động không thuộc đối tượng tham gia với số tiền 2,2 tỷ đồng, điều
chỉnh mức đóng cho 680 lao động với tổng số tiền 822 triệu đồng.
Năm 2018 tiếp tục có sự chuyển biến rõ nét sơ với năm 2017, các đoàn
thanh tra đã đề nghị lập thủ tục truy đóng tham gia cho 706 lao động với số
tiền là 7,6 tỷ đồng; truy giảm cho 322 lao động không thuộc đối tượng tham
gia với số tiền 3,1 tỷ đồng, điều chỉnh mức đóng cho 332 lao động với tổng
số tiền 1,7 triệu đồng.
Năm 2019 các đoàn thanh tra đã đề nghị lập thủ tục truy đóng tham
gia cho 197 lao động với số tiền là 2,7 tỷ đồng; truy giảm cho 66 lao động
không thuộc đối tượng tham gia với số tiền 490 triệu đồng, điều chỉnh mức
đóng cho 69 lao động với tổng số tiền 64 triệu đồng.
58
Bảng 2.5: Kết quả thanh tra về mức đóng BHXH, BHTN, BHYT
Đơn vị: đồng
Năm
Truy đóng
Truy giảm
Điều chỉnh mức lương
2.951.109.207
2.256.624.614
822.621.812
2017
7.636.089.127
3.187.864.397
1.791.716.601
2018
2.701.702.803
490.445.200
64.919.017
2019
Nguồn: BHXH Thành phố.
Với kết quả như trên, rõ ràng thanh tra về đóng BHXH đối với đơn vị
sử dụng lao động có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh tại Thành phố tồn tại
nhiều mô hình doanh nghiệp, khu công nghiệp thu hút lượng lớn người lao
động từ các tỉnh thành miền Trung, miền Tây Nam Bộ làm việc nhưng trình
độ nhận thức pháp luật thấp, dễ bị người sử dụng lao động o ép, chấp nhận
chịu thiệt về quyền lợi.
Đối với nội dung thanh tra về mức đóng, qua nghiên cứu tìm hiểu hoạt
động thanh tra của BHXH Thành phố, nhóm nghiên cứu còn thấy tồn tại các
thực trạng sau:
- Hầu hết đơn vị đóng BHXH cho người lao động với mức lương bằng
hoặc cao xấp xỉ mức lương tối thiểu vùng, hoặc có trường hợp đóng cao bất
thường để lạm dụng hưởng chế độ thai sản.
Hộp 2.3: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
59
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
Nhận xét:
Đối tượng thanh tra không
1.2. Về mức đóng
xây dựng thang lương bảng
Công ty chưa xây dựng hệ thống thang
lương để làm cơ sở giao kết
lương, bảng lương làm cơ sở giao kết HĐLĐ đề
HĐLĐ, trả lương và tham gia
trả lương và đóng BHXH cho người lao động
BHXH cho người lao động
theo quy định của pháp luật;
theo quy định.
Công ty có chi trả các khoản phụ cấp cho
người lao động, gồm: tiền xăng, tiền nhà trọ,
tiền điện thoại, tiền cơm, tiền ăn giữa ca, tiền
thưởng năng suất.
Tổng quỹ lương thực tế tháng 07/2018 của
97 lao động là 671.380.000 đồng.
Tổng quỹ lương tham gia BHXH tháng
07/2018 của 36 lao động chỉ là 154.385.000
đồng.
Mức lương thực nhận tháng 07/2018 của
người lao động: cao nhất là 18.908.000 đồng,
thấp nhất là 4.400.000 đồng.
Mức lương đóng BHXH tháng 07/2018:
cao nhất là 6.245.000 đồng, thấp nhất là
4.260.000 đồng.
[…]
Nguồn: BHXH Thành phố.
60
- Phần lớn những doanh nghiệp được thanh tra chưa chấp hành đúng
việc xây dựng thang lương, bảng lương, hoặc không áp dụng đúng thang
lương, bảng lương đã xây dựng làm cơ sở để giao kết HĐLĐ, chi trả lương
và tham gia BHXH cho người lao động.
Hộp 2.4: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
Nhận xét:
- Đối tượng thanh tra
2.2. Về mức đóng
có xây dựng nhưng
Công ty có xây dựng hệ thống thang, bảng lương
không áp dụng thang
năm 2018 nhưng không áp dụng làm cơ sở giao kết
lương, bảng
lương
HĐLĐ (chức danh nhân viên văn phòng có mức lương
năm 2018 làm cơ sở
là 4.260.000 đồng nhưng trên HĐLĐ là 3.980.000
giao kết HĐLĐ.
đồng); Công ty không xây dựng mức lương cho trưởng,
phó phòng nhưng trên HĐLĐ thể hiện 02 chức danh
- Đối tượng chưa thực
trên với mức lương như của nhân viên văn phòng.
hiện điều chỉnh mức
lương tối thiếu vùng,
Năm 2018, công ty có lập hồ sơ điều chỉnh mức
vẫn trích lương của
lương tối thiếu vùng chung cho tất cả lao động là
người lao động theo
4.260.000 đồng. Năm 2019, công ty chưa lập hồ sơ
mức lương tối thiếu
điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng.
vùng năm 2018
Trên HĐLĐ thể hiện mức lương chính và phụ cấp
- BHXH quận Bình
theo quy chế của Công ty.
Thạnh đã tự điều chỉnh
Trên bảng lương hiện mức lương chính và các
mức lương tham gia
khoản phụ cấp (tiền cơm, điện thoại và phụ cấp khác).
BHXH cho người lao
Công ty tham gia BHXH cho người lao động trên mức
động theo mức lương
lương chính.
tối thiếu vùng năm
Mức lương thực nhận của người lao động theo
61
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
bảng lương tháng 03/2019: cao nhất: 4.725.000 đồng
2019.
và thấp nhất: 1.351.923 đồng (do không đủ ngày công
làm việc).
Mức lương làm cơ sở trích nộp BHXH tháng
03/2019: Trên Bảng lương thể hiện mức lương làm cơ
sở trích nộp là 4.260.000 đồng. Trên dữ liệu do BHXH
quận Bình Thạnh quản lý, cơ sở trích nộp là 4.472.600
đồng…
Nguồn: BHXH Thành phố.
Thực trạng này dẫn đến quỹ lương tham gia BHXH, BHTN, BHYT
của các đơn vị do cơ quan BHXH quản lý thường thấp hơn rất nhiều lần
(thường chỉ bằng 30% đến 50%) so với quỹ lương thực tế của đơn vị.
2.2.3.3. Thực trạng thanh tra về phương thức đóng
Đoàn thanh tra căn cứ trên dữ liệu chương trình quản lý thu để xem
xét việc đơn vị sử dụng lao động có tuân thủ phương thức đóng hay không.
Đơn vị sử dụng lao động thực hiện đúng phương thức đóng thì không để nợ
quỹ BHXH, BHTN, BHYT.
Hiệu quả của nội dung thanh tra về phương thức đóng được thể hiện
thông qua tỷ lệ khắc phục nợ của các đơn vị sử dụng lao động. Bảng 2.6 cho
thấy, tỷ lệ này tăng đáng kể trong giai đoạn 2016 - 2019, gắn với sự xuất hiện
chức năng thanh tra về đóng BHXH theo Luật BHXH năm 2014.
62
Bảng 2.6: Tỷ lệ khắc phục nợ của đơn vị qua thanh tra
Đơn vị: đồng
Số nợ khi lên
Số nợ được khắc
Tỷ lệ
Năm
danh sách thanh
phục qua thanh tra
khắc phục nợ
tra
(%)
8.592.085.181
855.740.445
9.96
2016
138.825.969.535
96.343.025.778
69.40
2017
589.564.090.342
331.962.799.159
56.31
2018
506.865.511.735
263.443.717.239
51.97
2019
Nguồn: BHXH Thành phố.
Liên quan đến phương thức đóng BHXH, BHTN, BHYT, còn tồn tại
thực trạng một số đơn vị vẫn hoạt động, đã từng bị khởi kiện, đang thi hành
án dân sự về nợ BHXH, BHTN, BHYT, nhưng vẫn tiếp tục vi phạm, chấp
nhận để lập biên bản xử phạt nhưng không khắc phục, cơ quan thi hành án
cũng không có biện pháp thu hồi nợ cũ do cơ sở vật chất của đơn vị đều có
nguồn gốc thuê mướn hoặc đã thế chấp ngân hàng.
Cũng có một số ít các đơn vị không còn hoạt động, không còn trụ sở
kinh doanh, nhưng do nợ đọng (kể cả nợ thuế) không có nguồn chi trả, không
thể giải thể nên vẫn treo nợ kéo dài.
Cũng có thực trạng, nhiều doanh nghiệp tuy có khả năng đóng BHXH,
BHTn, BHYT nhưng cố ý chiếm dụng khoản tiền này, chỉ khi nhận được kế
hoạch hoặc quyết định thanh tra mới chuyển tiền nộp về cơ quan BHXH.
Hộp 2.5: Trích Kết luận thanh tra do BHXH Thành phố kết luận
63
Kết quả thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện
[…]
Nhận xét:
Đối tượng thanh tra đã vi
1.3. Phương thức đóng
phạm nghiêm trọng phương
Tính đến hết tháng 09/2018 Công ty còn nợ
thức đóng, để nợ quỹ BHXH
đóng số tiền là 6.406.203.610 đồng (bao gồm số
từ tháng 11/2014 với tổng số
nợ theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của
tiền là 6.406.203.610 đồng.
các đương sự số 26/IIGT-LĐ-ST ngày
25/09/2015 của Tòa Án Nhân dân Quận 10).
Trong đó nợ quỹ BHXH, từ tháng 11/2013 số
tiền 4.147.012.005 đồng; lãi chậm nộp là
2.258.726.875 đồng.
Trong kỳ phát sinh tháng 10/2018 công ty
có lập hồ sơ điều chỉnh giảm cho 64 lao động
không thuộc đối tượng tham gia bắt buộc với
tổng số tiền là 1.261.310.048 đồng.
Ngày 04/10/2018 Công ty có chuyển số tiền
101.557.248 đồng vào tài khoản chuyên thu của
BHXH Quận 10.
Nguồn: BHXH Thành phố.
Trong quá trình thực hiện công tác thanh tra, khi phát hiện các vi phạm
về nội dung thanh tra, các đoàn thanh tra tiến hành xử lý vi phạm hành chính.
Năm 2017, BHXH Thành phố lập biên bản vi phạm và ban hành Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 83 triệu đồng, năm 2018 xử phạt
vi phạm hành chính tại các đơn vị với tổng số tiền 12.9 tỷ đồng, năm 2019
xử phạt vi phạm hành chính tại các đơn vị với tổng số tiền 11.9 tỷ đồng.
64
Bên cạnh đó, BHXH Thành phố là đơn vị đầu tiên chuyển cơ quan
công an đề nghị điều tra xử lý hình sự đối với 72 đơn vị nợ BHXH, BHYT,
BHTN theo quy định tại Bộ luật Hình sự sửa đổi có hiệu lực từ ngày
01/01/2018.
2.2.4. Thực trạng về quy trình thanh tra
Giai đoạn 2016 - 2019, các đoàn thanh tra về đóng BHXH đối với đơn
vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố thực hiện quy trình, trình tự
thanh tra căn cứ theo Quyết định số 1518/QĐ-BHXH ngày 18/10/2016 của
BHXH Việt Nam quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra.
Trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra, việc khảo sát, nắm tình hình được
BHXH Thành phố thực hiện theo trình tự và sử dụng các công cụ hỗ trợ thực
hiện như sau:
Hình 2.4: Trình tự các bước trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Bước 4
Trình
tự
65
- Bộ công cụ hỗ
- Đối chiếu với
- Cổng thông
- Phần mềm tin
trợ tập trung dữ
chương
trình
tin quốc gia về
học văn phòng
liệu thu, sổ, thẻ
công tác năm,
đăng ký doanh
(MS
office,
Công
và tài chính kế
kế hoạch thanh
nghiệp
Open office,…)
cụ hỗ
toán
(Phần
tra năm của các
trợ
- Cục Thuế
mềm
TST
cơ quan, đơn vị
Thành phố cung
thực
online)
cấp
Nguồn: Tổng hợp.
hiện
Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, các đoàn thanh tra thực hiện các
hoạt động sau: yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, hồ
sơ, dữ liệu; kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu, hồ sơ, dữ liệu; báo cáo tiến
độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra; sửa đổi, bổ sung nội dung, kế hoạch thanh
tra; chuyển hồ sơ sang cơ quan nhà nước có thẩm quyền; lập và thông qua
biên bản. Những hoạt động này đều được các đoàn thanh tra thực hiện theo
trình tự, thủ tục được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật và hướng
dẫn nghiệp vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.
Khi đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu, hồ sơ, dữ liệu, đoàn thanh
tra tiến hành kiểm tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu. Phương
pháp kiểm tra tài liệu, hồ sơ, dữ liệu rất phong phú, đa dạng. Tùy theo yêu
cầu và nội dung mỗi cuộc thanh tra, đoàn thanh tra sẽ áp dụng những biện
pháp khác nhau. Thông thường, để không ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của đối tượng thanh tra, đoàn thanh tra sử dụng phương pháp đối
chiếu: đối chiếu tài liệu, hồ sơ, dữ liệu của đối tượng thanh tra với nhau, với
số liệu của Phòng Quản lý thu và của cơ quan BHXH cấp huyện quản lý đối
tượng thanh tra đó để tìm ra các điểm bất hợp lý.
66
Qua quá trình nghiên cứu, xem xét hồ sơ, tài liệu, khi phát hiện những
vấn đề sai phạm, đoàn thanh tra tiến hành phân tích rõ nguyên nhân, mối
quan hệ của vấn đề sai phạm với các nội dung khác, lập biên bản xác nhận
số liệu.
Ngoài ra, đoàn thanh tra cũng tiến hành thanh tra xác minh thực tế khi
cần thiết để xác định, củng cố hoặc bổ sung cho kết quả kiểm tra hồ sơ tài
liệu. Mọi kết quả làm việc, kiểm tra thực tế đều được ghi lại bằng biên bản.
Các biên bản làm việc hoặc kiểm tra xác minh khi lập xong, cán bộ thanh tra
đọc để đối tượng nghe và yêu cầu họ ký vào biên bản. Đoàn thanh tra tổ chức
xác minh kịp thời những vấn đề nghi vấn để xác định những sai phạm là do
đối tượng chưa hiểu đúng hay do đối tượng cố ý vi phạm nhằm trục lợi, từ
đó có cách giải quyết phù hợp.
Giai đoạn kết thúc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra báo cáo bằng văn
bản kết quả thanh tra (cùng với dự thảo kết luận thanh tra) gửi người ra quyết
định thanh tra là Giám đốc BHXH Thành phố để ban hành kết luận thanh tra.
Sau khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn tổ chức họp đoàn để tổng
kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của đoàn thanh tra, nội dung tổng kết của
thanh tra Thành phố thường bao gồm các nội dung sau:
- Đánh giá kết quả thanh tra đạt được so với mục đích, yêu cầu của
cuộc thanh tra;
- Đánh giá kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc thực
hiện Quy chế hoạt động của đoàn thanh tra; giám sát, kiểm tra hoạt động đoàn
thanh tra, quy tắc ứng xử của người được giao nhiệm vụ thực hiện thanh tra và
các quy định khác có liên quan đến hoạt động đoàn thanh tra;
- Những bài học kinh nghiệm rút ra qua cuộc thanh tra và những kiến
nghị, đề xuất của đoàn thanh tra.
67
Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 2016 - 2019, hoạt động thanh tra
chuyên ngành BHXH, BHTN, BHYT của đoàn thanh tra Thành phố đã cơ
bản thực hiện đúng theo quy định pháp luật và quy định của ngành.
2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng thanh tra về thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1. Những kết quả đạt được
Trải qua hơn 03 năm thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành kể
từ thời điểm Luật BHXH có hiệu lực thi hành, tuy bước đầu còn gặp nhiều
khó khăn nhưng tựu trung lại, BHXH Thành phố gặt hái được nhiều thành
quả đáng khích lệ. Đó vừa là trách nhiệm nhưng cũng là động lực cho ngành
BHXH nói chung và BHXH Thành phố tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính
trị, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Khái quát lại, kết quả hoạt động thanh tra chuyên ngành BHXH,
BHTN, BHYT của BHXH Thành phố giai đoạn 2016 - 2019, nổi lên những
nét tiêu biểu sau:
Thứ nhất, công tác thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT được
thực hiện bởi BHXH Thành phố ngày một hoàn thiện và phát huy hiệu quả
góp phần nâng cao việc chấp hành các quy định về đóng, hưởng các chế độ
BHXH, BHTN, BHYT của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành
phố.
Thứ hai, qua công tác thanh tra đã kịp thời phát hiện và xử lý các hành
vi vi phạm như: chậm đóng, trốn đóng, đóng không đủ số người thuộc diện
tham gia, đóng không đúng mức đóng.
68
Thứ ba, hiệu quả xử lý, thu hồi nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT được
nâng cao, góp phần quan trọng trong việc giảm tình trạng nợ đọng BHXH,
BHTN, BHYT trên địa bàn, đảm bảo người lao động được hưởng đầy đủ chế
độ khi tham gia BHXH, BHTN, BHYT.
Thứ tư, quy trình thanh tra do BHXH Thành phố thực hiện phù hợp
với quy định của pháp luật thanh tra, với quy trình thanh tra do BHXH
Việt Nam xây dựng, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với các đơn vị sử dụng lao
động trên địa bàn Thành phố.
2.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật, quy chế về hoạt động thanh
tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT ngày càng hoàn thiện.
Cơ sở pháp lý đầu tiên và cao nhất về việc cơ quan BHXH được thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là Luật BHXH năm 2014. Tại Khoản
3, Điều 13 quy định: “Cơ quan BHXH thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành về đóng BHXH, BHTN và BHYT theo quy định...” Sau đó, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016, quy định việc
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN.
Trên cơ sở Luật và Nghị định, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết
định 1518/QĐ-BHXH, quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHYT, BHTN và hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến quy định tại Điều 216, Bộ luật Hình sự
năm 2015 với tội danh “Trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp cho người lao động” cũng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu cho
quả hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT.
69
Các văn bản pháp luật trên đã tạo nên khung pháp lý tương đối hoàn
chỉnh để cơ quan BHXH Thành phố thực hiện hoạt động thanh tra và đem
lại những kết quả rất tích cực so với thời gian trước đó.
Thứ hai, công tác thanh tra của BHXH Thành phố được chỉ đạo sát
sao, hỗ trợ kịp thời từ BHXH Việt Nam.
Bên cạnh các văn bản chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời, trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng, Vụ Thanh tra - Kiểm tra và Trường Đào tạo
nghiệp vụ BHXH của BHXH Việt Nam đã phối hợp với Trường Cán bộ
thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
thanh tra cho các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố, trong đó có BHXH Thành
phố. Ngoài ra, BHXH Việt Nam còn quan tâm tới đội ngũ công chức, viên
chức tiến hành hoạt động thanh tra của ngành bằng việc hướng dẫn triển khai
thực hiện các chế độ bồi dưỡng cho công chức, viên chức thực hiện hoạt
động công tác thanh tra chuyên ngành (cơ sở vật chất, công tác phí, trang
phục,…).
Thứ ba, công tác thanh tra của BHXH Thành phố nhận được sự
phối hợp, hỗ trợ của các Sở - Ngành liên quan.
Trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành, các đoàn
thanh tra tại BHXH Thành phố luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các
Sở - Ngành. Đặc biệt là sự hỗ trợ của Liên đoàn lao động Thành phố, các
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Lao động – Thương binh và
Xã hội trong việc cung cấp thông tin, tình hình các doanh nghiệp sử dụng lao
động trên địa bàn quản lý. Tại các địa phương nơi các doanh nghiệp đặt tru
sở chính, khi có đoàn thanh tra đến thực hiện công vụ thì chính quyền sở tại
luôn có sự phối hợp để xác minh thông tin, tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, góp phần giúp đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ theo quy định.
70
Thứ tư, đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra của BHXH Thành
phố được nâng lên cả về số lượng và chất lượng.
Ngay khi quy định của pháp luật về chức năng thanh tra của BHXH
có hiệu lực, BHXH Việt Nam, BHXH Thành phố đã chủ động tổ chức các
lớp đào tạo, bồi dưỡng thanh tra viên và thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHYT, BHTN cho công chức, viên chức trong ngành. Công tác này được tổ
chức định kỳ hàng năm.
Hiện nay, BHXH Thành phố tiếp tục triển khai bồi dưỡng nghiệp vụ
thanh tra viên và thanh tra chuyên ngành cho viên chức thuộc BHXH các
quận huyện. Với thực trạng nhân lực của BHXH Thành phố hiện nay, đây là
một việc làm rất phù hợp, đúng đắn bởi viên chức BHXH các quận, huyện
là nhóm đối tượng mà BHXH Thành phố thường xuyên trưng tập trong quá
trình thực hiện hoạt động thanh tra và cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng hoạt động của các đoàn thanh tra về đóng BHXH đối với doanh nghiệp
trên địa bàn Thành phố.
Sự chủ động này góp phần đảm bảo số lượng, chất lượng của đội ngũ
công chức, viên chức tiến hành hoạt động thanh tra, kịp thời đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả của công tác thanh tra về đóng BHXH trên địa
bàn Thành phố.
Bên cạnh đó, thông qua thực tiễn hoạt động của các đoàn thanh tra,
đội ngũ viên chức của BHXH Thành phố không ngừng trau dồi về kỹ năng,
kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ. Công tác tổng kết rút kinh nghiệm,
đánh giá kết quả thực hiện cũng thường xuyên được tổ chức để kịp thời có
sự điều chỉnh cần thiết.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
71
Bên cạnh những kết quả tích cực trên, hoạt động thanh tra về đóng
BHXH đối với danh nghiệp trên địa bàn Thành phố còn những tồn tại, hạn
chế sau:
Thứ nhất, quá trình triển khai thực hiện thanh tra về đóng BHXH,
BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn.
Hạn chế này thể hiện thông qua số tiền khắc phục nợ BHXH, BHTN,
BHYT của các đơn vị sử dụng lao động qua thanh tra. Thành phố là địa
phương dẫn đầu cả nước về số đơn vị sử dụng lao động trú đóng trên địa bàn,
đồng nghĩa với số lượng các đơn vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH,
BHTN, BHYT là rất lớn. So với số nợ mà BHXH Thành phố đang quản lý
(- số liệu thống kê tại Bảng 2.3), số tiền khắc phục nợ của đơn vị sử dụng lao
động hiện chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (- số liệu thống kê tại Bảng 2.5).
Hạn chế này cũng được thể hiện thông qua số lượng các cuộc thanh
tra mà BHXH Thành phố đã tiến hành. Thống kê cho thấy, số lượng các cuộc
thanh tra của BHXH còn rất khiêm tốn so với con số thống kê các đơn vị
hiện đang nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn Thành phố. Cập nhật
tại trang thông tin điện tử của BHXH Thành phố, chỉ tính riêng tháng
12/2019, số lượng doanh nghiệp (nợ BHXH, BHTN, BHYT từ 6 tháng hoặc
nợ BHXH từ 300 triệu trở lên) bị BHXH Thành phố công khai hơn 700 doanh
nghiệp, tỷ lệ nhiều hơn số lượng các cuộc thanh tra mà BHXH tiến hành từ
tháng 10/2016 đến tháng 12/2019 (– theo số liệu thống kê tại Bảng 4).
Như vậy, tuy có những kết quả tích cực, đáng ghi nhận thì số lượng
và chất lượng của các cuộc thanh tra về đóng BHXH trên địa bàn Thành phố
vẫn chưa đạt tới kỳ vọng mà những nhà quản lý đặt ra.
72
Thứ hai, tình trạng đơn vị né tránh, không tiếp đoàn thanh tra hoặc
gây trở ngại cho công tác thanh tra.
Tình trạng đơn vị né tránh, không hợp tác dẫn đến kéo dài thời gian
thực hiện cuộc thanh tra, hoặc không thể tiến hành thanh tra như:
Một là, doanh nghiệp né tránh việc thanh tra bằng cách dựa vào Chỉ
thị 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2017 về việc chấn chỉnh
hoạt động thanh tra, kiểm tra, không để xảy ra tình trạng thanh tra, kiểm tra
quá 1 lần/năm đối với doanh nghiệp.
Hai là, một số đơn vị mặc dù có khả năng nhưng chiếm dụng tiền đóng
BHXH, BHTN, BHYT đến khi có quyết định thanh tra mới thực hiện nghĩa
vụ đóng BHXH, BHTN, BHYT. Một số đơn vị còn sẵn sàng vi phạm, chấp
nhận để lập biên bản xử phạt, nhưng không khắc phục, cơ quan thi hành án
cũng không có biện pháp thu hồi nợ.
Ba là, đơn vị không cung cấp hồ sơ đầy đủ, hoặc gây khó khăn cho
đoàn thanh tra trong việc cung cấp số liệu. Tình huống nhiều đoàn thanh tra
BHXH Thành phố gặp phải là đơn vị chỉ cung cấp hồ sơ ở hình thức sổ sách,
giấy tờ, các bìa, tệp tài liệu được sắp xếp không theo thứ tự, quy tắc nhất
định mà không cung cấp dữ liệu số.
Bốn là, đơn vị thay đổi trụ sở chính trên Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh nhưng không thông báo hoặc không hoạt động tại địa chỉ trụ sở
đã đăng ký. Có trường hợp đơn vị né tránh bằng cách không cử người đại
diện theo pháp luật tiếp đoàn thanh tra, đoàn thanh tra đến đơn vị nhưng
không thể gặp được người đại diện theo pháp luật.
Thứ ba, còn nhiều khó khăn trong công tác quản lý của cơ quan
BHXH.
73
Công tác theo dõi, thống kê, tổng hợp về thanh tra, kiểm tra, tiếp công
dân, giải quyết đơn thư hiện nay của cơ quan BHXH chủ yếu thực hiện thủ
công, dẫn đến tốn thời gian và chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc phân
tích số liệu.
Hiện BHXH Thành phố không có bộ phận chuyên trách theo dõi, đôn
đốc các đơn vị thực hiện các kiến nghị tại kết luận thanh tra nên việc kiểm
soát quá trình thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả, kiểm soát số tiền
xử phạt vi phạm hành chính gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, việc phối hợp giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức có liên
quan tới hoạt động thanh tra về đóng BHXH còn nhiều hạn chế.
Hiệu quả hoạt động của BHXH Thành phố không chỉ được bảo đảm
bằng hoạt động của riêng hệ thống BHXH mà còn cần sự tham gia, phối hợp
của nhiều cơ quan, tổ chức trên địa bàn. Hiện vẫn còn một số khó khăn, hạn
chế trong phối hợp hoạt động giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức làm giảm
hiệu quả của thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT như sau:
Một là, khó khăn trong phối hợp cơ quan công an để khởi tố đơn vị nợ
BHXH, BHTN, BHYT.
Tính đến tháng 12/2019, BHXH Thành phố đã kiến nghị xử lý 72 đơn
vị đề nghị cơ quan Công an xử lý hình sự về tội danh “Trốn đóng BHXH,
BHYT, BHTN cho người lao động” nhưng hiện cơ quan chức năng vẫn chưa
ra quyết định khởi tố vụ án nào đối với tội danh trên.
Hai là, khó khăn trong phối hợp với tổ chức công đoàn để khởi kiện
đơn vị nợ BHXH, BHTN, BHYT.
Thực trạng khỏi kiện đơn vị nợ BHXH, BHTN, BHYT của tổ chức
công đoàn tại Thành phố cũng như thực trạng chung của cả nước đều đang
gặp phải những khó khăn nhất định. Nguyên nhân chính của hạn chế này là
74
do sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong các quy định pháp luật sẽ được chỉ rõ
ở mục 2.3.2.2.
Ba là, chưa có sự phối hợp giữa BHXH và cơ quan thuế trong xây
dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp và người lao động.
Giữa công tác quản lý BHXH và công tác quản lý thuế có nhiều điểm
chung như: Chung nhóm đối tượng quản lý (các tổ chức chi trả tiền lương,
tiền công và cá nhân làm công ăn lương); Chung căn cứ (tiền công, tiền lương
và phụ cấp lương của người lao động) để tính thuế thu nhập cá nhân hoặc
thu BHXH.
Liên quan đến nhóm đối tượng đơn vị sử dụng lao động và người lao
động, hiện tại có 02 hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng, khai thác, sử dụng
bởi 02 hệ thống cơ quan là BHXH và thuế. Các cơ sở dữ liệu này có thể khai
thác, sử dụng chung nhưng hiện chưa được đồng bộ hóa, dẫn đến khả năng
thông tin về cùng một đơn vị nhưng cơ sở dữ liệu tại 2 hệ thống cơ quan này
lại không thống nhất, ảnh hưởng tới hoạt động quản lý nhà nước nói chung,
nhất là khi tiến hành thanh tra liên ngành đối với đơn vị.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Những hạn chế nêu trên của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố xuất phát từ những nguyên
nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp lý còn những quy định thiếu đồng
bộ, thiếu hướng dẫn chi tiết ảnh hưởng tới triển khai thực hiện.
- Thiếu thống nhất giữa Luật Thanh tra năm 2010 và Luật BHXH năm
2014, Nghị định số 21/2016/NĐ-CP về địa vị pháp lý của BHXH cấp tỉnh và
người được giao thực hiện chức năng thanh tra đóng BHXH.
75
Khoản 6, Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục,
cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành”. Trong khi đó, Luật BHXH năm 2014 và Nghị định số
21/2016/NĐ-CP lại giao cho BHXH là một đơn vị sự nghiệp công lập thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH.
Khoản 7, Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Người được
giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức được phân
công thực hiện nhiệm vụ thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành”. Trong khi đó, theo Nghị định số
21/2016/NĐ-CP, chỉ có một số lượng nhỏ người được giao thực hiện nhiệm
vụ thanh tra là công chức (Giám đốc, Phó Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố),
hầu hết những người còn lại trong hệ thống cơ quan BHXH làm công tác
thanh tra là viên chức.
- Quyết định 1518/QĐ-BHXH chưa đồng bộ với Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH.
Khoản 1, Điều 46, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định
về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra đã trao thẩm quyền
cho cả thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành trong khi thi hành công vụ.
Trong khi đó, Quyết định 1518/QĐ-BHXH của Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của BHXH trong
hoạt động thanh tra về đóng BHXH chỉ được giao cho Tổng giám đốc BHXH
Việt Nam, Giám đốc BHXH cấp tỉnh và Trưởng đoàn thanh tra do Tổng giám
76
đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập [11]. Như vậy, tất cả thành viên
của đoàn thanh tra do Giám đốc BHXH cấp tỉnh ra quyết định thành lập đều
không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm của
đối tượng thanh tra. Hệ quả là, việc xử lý vi phạm thiếu kịp thời cũng như
thiếu tính cưỡng chế, răn đe cần thiết đối với đối tượng thanh tra, cùng với
đó là hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố bị
suy giảm.
- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Bộ luật Lao động năm 2012 còn
có quy định thiếu đồng bộ.
Theo Điểm d, Khoản 1, Điều 14, Luật BHXH năm 2014, tổ chức công
đoàn có quyền: “Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về
BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,
tập thể người lao động…”.
Trong khi đó, Điểm d, Khoản 1, Điều 201, Bộ luật Lao động năm 2012
lại xác định tranh chấp về BHXH giữa người lao động với chủ doanh nghiệp
được xếp vào nhóm tranh chấp lao động cá nhân. Theo đó, cá nhân có thể
trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp về BHXH với người sử dụng lao
động mà không nhất thiết phải thông qua tổ chức đại diện của mình (tổ chức
công đoàn).
Dẫn chứng minh họa cho sự thiếu đồng bộ này bằng trường hợp cụ thể
của công ty TNHH KL Texwell Vina [14]. Công ty này nợ BHXH hơn 17 tỷ
đồng của hơn 1.900 lao động. Người lao động của công ty đã thông qua công
đoàn cơ sở ủy quyền cho Trung tâm tư vấn pháp luật của Liên đoàn lao động
địa phương đứng ra khởi kiện trước tòa án. Tuy nhiên, tòa án cho rằng, phải
tiến hành thủ tục tố tụng theo hướng giải quyết tranh chấp lao động của từng
77
cá nhân, đồng thời người lao động chỉ được ủy quyền cho công đoàn cơ sở
khởi kiện. Tiếp cận theo hướng này, tòa án sẽ phải tổ chức 1.900 phiên tòa
để xét xử. Rõ ràng, đây là một mâu thuẫn, bất cập lớn trong quy định của Bộ
luật Lao động năm 2012 so với luật BHXH năm 2014.
- Văn bản hướng dẫn chi tiết để xử lý hình sự đối với tội danh “Trốn
đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động”chưa kịp thời.
Tội danh “Trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động” được
quy định tại Điều 216, Bộ luật Hình sự năm 2015 là tội danh mới cùng với
đó, một số điều luật quy định pháp nhân thương mại có thể trở thành chủ thể
tội phạm cũng là những quy định rất mới của Bộ luật Hình sự năm 2015, tuy
nhiên văn bản hướng dẫn không kịp thời về quy trình, thủ tục, hồ sơ đề nghị
khởi tố đã gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho cơ quan BHXH địa phương
thực hiện.
Đến tháng 09/2019 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán TAND tối ca Hướng dẫn áp dụng điều 214 về tội gian lận bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, điều 215 về tội gian lận bảo hiểm y tế và
điều 216 về tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động của bộ luật hình sự chính thức có hiệu lực. Tháng
01/2020, BHXH Việt Nam ban hành công văn số 239/BHXH-PC hướng dẫn
thực hiện tiếp nhận, xử lý thông tin; lập, gửi hồ sơ kiến nghị khởi tố các hành
vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại Điều 214, Điều 215, Điều 216 Bộ luật
Hình sự đến các BHXH địa phương thực hiện.
Vào tháng 8/2017, Tổng cục Cảnh sát và BHXH Việt Nam đã ban
hành Quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống, tội phạm và các hành
vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT, BHTN [33]. Tuy nhiên, Quy chế còn quy
định chung chung, đồng thời còn thiếu các hướng dẫn quan trọng của Hội
78
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về mặt nội dung nên việc triển
khai thực hiện còn hết sức hạn chế.
Thứ hai, phần mềm quản lý nghiệp vụ công tác thanh tra, kiểm tra
mới được đưa ra sử dụng từ tháng 11/2019, cần có thời gian để thích ứng
và phát huy hiệu quả.
Đến tháng 6/2018, BHXH Thành phố cùng với BHXH Thành phố Hà
Nội, Cần Thơ, các tỉnh Yên Bái và Nghệ An mới được BHXH Việt Nam chỉ
đạo triển khai thí điểm Phần mềm quản lý nghiệp vụ công tác thanh tra, kiểm
tra. Quá trình triển khai thí điểm đã đem lại nhiều kết quả, chuyển biến tích
cực. Vì vậy, vào tháng 11/2018, BHXH Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tập
huấn nghiệp vụ tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và ứng
dụng CNTT trong công tác thanh tra, kiểm tra cho lãnh đạo và viên chức trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu
tố và viên chức công nghệ thông tin của BHXH các tỉnh, thành phố để bắt
đầu triển khai nhân rộng việc sử dụng, khai thác phần mềm này cho ngành
BHXH cả nước.
Đến tháng 11/2019, BHXH Việt nam đề nghị các tỉnh thành bắt đầu
sử dụng phần mềm để kịp thời phản ánh các bất cập, thiếu sót để BHXH Việt
Nam có cơ sở điều chỉnh. Do đó, cần phải lưu ý rằng phần mềm vẫn đang
trong giai đoạn mới triển khai bước đầu nên cần phải có thời gian để tập
huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho người sử dụng, giúp họ thích ứng, nắm
vững và khai thác được tối đa hiệu quả của nó. Đồng thời, quá trình thì điểm
chắc chắn sẽ phát hiện nhiều vấn đề cần xử lý như hạn chế, thiếu sót của
phần mềm, tối ưu hóa phần mềm, phát hiện và xử lý lỗ hổng trong bảo mật
dữ liệu...
Thứ ba, công tác tuyên truyền về quyền lợi, trách nhiệm đóng
BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động còn chưa hiệu quả.
79
Tình hình vi phạm các quy định về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho
thấy ý thức về trách nhiệm đóng BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị chưa cao.
Đây là nghĩa vụ pháp lý của đơn vị sử dụng lao động trước nhà nước, là trách
nhiệm đạo đức thể hiện quan hệ gắn kết, tương hỗ chia sẻ gánh nặng cho cả
đơn vị sử dụng lao động và người lao động khi gặp rủi ro, là đòn bẩy kinh tế
kích thích sự chủ động, sáng tạo, nâng cao năng luất lao động của người lao
động, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao... qua đó đem lại lợi nhuận cho
chủ đơn vị sử dụng lao động, đồng thời cũng là kênh quan trọng để đơn vị
sử dụng lao động xây dựng thương hiệu, tạo nên uy tín, tầm ảnh hưởng của
đơn vị sử dụng lao động đối với xã hội, thu hút đối tác tốt.
Tuy nhiên, các biểu hiện trên thực tế của đơn vị sử dụng lao động trong
mối quan hệ với cơ quan BHXH, với các đoàn thanh tra về đóng BHXH,
BHTN, BHYT cho thấy đơn vị sử dụng lao động vẫn chưa ý thức rõ về lợi
ích, giá trị của việc đóng BHXH, BHTN, BHYT. Nhiều đơn vị sử dụng lao
động chây ỳ trong đóng BHXH, BHTN, BHYT tìm cách né tránh, không tiếp
đoàn thanh tra, gây ra những khó khăn, trở ngại cho công tác thanh tra về
đóng BHXH, BHTN, BHYT diễn ra rất phổ biến ở Thành phố hiện nay đã
được mô tả chi tiết ở các mục trước là những minh chứng rõ nét về hạn chế,
yếu kém trong nhận thức của đơn vị sử dụng lao động đối với nghĩa vụ đóng
BHXH, BHTN, BHYT.
Để nâng cao ý thức chấp hành của các đơn vị sử dụng lao động, xét ở
góc độ quản lý nhà nước, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức chấp hành
các quy định về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động
cần được cơ quan BHXH tổ chức, phối hợp triển khai thực hiện rộng rãi,
hiệu quả hơn.
Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa BHXH với các cơ quan, tổ chức còn
nhiều hạn chế.
80
Việc phối hợp giữa BHXH với cơ quan công an trong xử lý hình sự
đơn vị sử dụng lao động trốn đóng BHXH,BHTN, BHYT với tổ chức công
đoàn trong khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH, BHTN, BHYT đã được đề
cập tới trong nhóm nguyên nhân thứ nhất.
Hiện nay các cơ quan, tổ chức hữu quan đang triển khai thực hiện các
biện pháp cần thiết để sớm khắc phục những tồn tại, hạn chế trên: Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam đang xúc tiến gặp gỡ, làm việc với Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, BHXH Việt Nam để tìm ra giải pháp tháo và mới nhất vào tháng
09/2019, Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP ngày 15/8/2019 hướng dẫn chi tiết
Bộ luật Hình sự về các tội phạm liên quan đến BHXH [13] là văn bản quan
trọng góp phần xử lý các hành vi vi phạm nợ đọng, trốn đóng BHXH,
BHTN,BHYT.
Quy chế phối hợp công tác số 994/QCPH-BHXH-CT giữa BHXH
Thành phố và Cục Thuế Thành phố được ban hành ngày 31/3/2015 gắn với
việc thi hành Luật BHXH năm 2006. So với Luật BHXH năm 2006, văn bản
này ra đời muộn và nhanh chóng lạc hậu vì chỉ sau một thời gian, Luật BHXH
năm 2014 có hiệu lực với sự thay đổi cơ bản là giao chức năng thanh tra đóng
BHXH cho hệ thống BHXH. Sự thay đổi này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
hơn giữa BHXH với nhiều cơ quan, tổ chức hữu quan, đặc biệt là cơ quan
thuế trong việc xây dựng hệ thống dữ liệu thống nhất về doanh nghiệp và
người lao động, phục vụ tốt nhất cho hoạt động thu, BHXH, thanh tra, xử lý
trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự liên quan tới thu, đóng
BHXH.
81
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT có vai
trò vô cùng quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về BHXH, BHTN,
BHYT. Đây cũng là bước tiến quan trọng của Ngành trong thời gian qua khi
lần đầu tiên một đơn vị sự nghiệp được Quốc hội giao thực hiện chức năng
thanh tra, do đó thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thanh tra chuyên ngành đóng
là nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong thời gian qua.
Trong thời gian qua, BHXH Thành phố đã nhận thức được tầm quan
trọng, ý nghĩa, vai trò, của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng. Nội dung,
quy trình thanh tra đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật và quy định
của Ngành. Kết quả thanh tra đã khái quát được tình hình thực hiện đóng
BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị trên địa bàn, chỉ ra được các hành vi vi
phạm và xử lý, kiến nghị xử lý đối với các vi phạm. Bên cạnh đó, thông qua
hoạt động thanh tra, các đoàn thanh tra đã hướng dẫn, giải thích các quy định
để góp phần tháo gỡ các vướng mắc cho đơn vị sử dụng lao động trong việc
thực hiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT; góp phần bảo đảm quyền và
lượi ích hợp pháp của người lao động.
Bên cạnh các kết quả đạt được, BHXH Thành phố vẫn còn gặp phải một
số vướng mắc khó khăn do đây là nhiệm vụ mới của Ngành. Hệ thống quy định
pháp luật, đội ngũ nhân sự, địa bàn lớn, phức tạp, số đơn vị lao động lớn... là
những nguyên nhân chính dẫn đến các khó khăn, vướng mắc hiện nay.
Như vậy, trong chương 2 đề tài đã nghiên cứu thực trạng về thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố trong giai
đoạn từ 2016 – 2019, từ đó đề tài đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ
ra những unguyên nhân của hạn chế nhằm tạo cơ sở để đưa ra những phương
hướng và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành
BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố trong chương tiếp theo.
82
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Định hướng hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với BHXH Thành phố
Định hướng của công tác thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT trên địa bàn Thành phố không nằm ngoài định hướng phát triển chung
của ngành BHXH Việt Nam và BHXH Thành phố.
Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày
23/07/2013, với mục tiêu: “Phát triển ngành BHXH Việt Nam theo hướng
hiện đại, đảm bảo đủ năng lực và điều kiện để nâng cao chất lượng, hiệu
quả phục vụ và tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ X nhiệm kỳ
hiện nay (2015 – 2020) đã xác định an sinh xã hội là một trong 13 nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay, trong đó nhấn
mạnh: “xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh
nghiệp”.
Với tầm quan trọng của BHXH, BHTN, BHYT Đảng, Nhà nước và
Đảng bộ, chính quyền Thành phố luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề
này. Những chính sách về BHXH, BHTN, BHYT không ngừng được bổ
sung, hoàn thiện cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
83
Từ các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng như: Nghị
quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội
giai đoạn 2012 - 2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012, về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012
- 2020; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách
BHXH ban hành ngày 23/5/2018, có thể khái quát những định hướng cơ bản
phát triển của ngành BHXH Việt Nam nói chung và BHXH Thành phố nói
riêng trong giai đoạn hiện nay:
Một là, xây dựng, phát triển hệ thống chính sách BHXH, BHTN,
BHYT linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại phù hợp với xu hướng hội nhập
quốc tế, hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Hai là, bảo đảm và kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng; công
bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững trong BHXH, BHTN, BHYT.
Ba là, sửa đổi hệ thống luật BHXH theo hướng mở rộng đối tượng
tham gia, thiết kế BHXH đa tầng. Gắn việc đóng BHXH với các quyền lợi
và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp và người sử dụng lao động, như hưởng
các cơ chế, chính sách ưu đãi về vay vốn, thuế,...
Bốn là, xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện BHXH, BHTN, BHYT
tinh gọn, hiệu quả phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách
và chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT; Thực hiện tốt công
tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của người dân đối với công
tác BHXH, BHTN, BHYT.
Để BHXH, BHTN, BHYT thực sự trở thành trụ cột của hệ thống an
sinh xã hội với độ bao phủ rộng nhất, hướng tới mục tiêu tất cả người dân
84
đều tham gia và được thụ hưởng chế độ BHXH, BHTN, BHYT, góp phần
quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị -
xã hội, đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước, hoạt động thanh
tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH cần
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên định hướng sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về hoạt động thanh
tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT theo hướng xác định đúng địa
vị pháp lý của cơ quan BHXH các cấp và đội ngũ công chức, viên chức trong
thực thi hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó, kịp thời điều chỉnh
đồng bộ các quy định hướng dẫn thi hành về thanh tra chuyên ngành với các
quy định của pháp luật về lao động, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự.
Thứ hai, để đảm bảo hệ thống BHXH, BHTN, BHYT theo hướng đa
tầng, mở rộng đối tượng tham gia, gắn việc đóng BHXH, BHTN, BHYT với
các quyền lợi và nghĩa vụ khác của đơn vị sử dụng lao động và người sử
dụng lao động, như hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi về vay vốn, thuế,...
cần tiếp tục mở rộng phạm vi thanh tra của cơ quan BHXH không chỉ giới
hạn ở việc thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đơn vị, người sử dụng
lao động mà mở rộng sang cả thanh tra việc hưởng BHXH đối với người lao
động.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và tổ
chức thực thi hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng như xử lý, khắc phục
hậu quả sau thanh tra.
Thứ tư, có sự phối hợp quản lý giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội với BHXH trong việc giám sát thực hiện nghĩa vụ đóng
BHXH, BHTN, BHYT của đơn vị, người sử dụng lao động. Xử lý nghiêm,
dứt điểm, kịp thời tình trạng nợ, trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT.
85
Ngoài ra, định hướng cho hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố còn cần phải chấp hành theo
Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiến
hành thanh tra, kiểm tra không quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp.
3.2. Các nhóm giải pháp hoàn thiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của BHXH Thành phố
3.2.1 Tăng cường sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng Ủy, Ban Giám
đốc BHXH Thành phố Hồ Chí Minh
Sự quan tâm, đầu tư của lãnh đạo BHXH Thành phố đối với việc nâng
cao chất lượng hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT có ý nghĩa quan trọng. Khi lãnh đạo BHXH Thành phố có chủ trương,
định hướng quan tâm nâng cao chất lượng thanh tra thì các nguồn nhân lực,
vật lực cũng được huy động đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu này. Không
những vậy, sự quan tâm đó còn góp phần nâng cao vị trí và ý nghĩa của hoạt
động thanh tra. Lãnh đạo BHXH Thành phố có thể tăng cường quan tâm
thông qua việc tạo có chủ trương chỉ đạo các cơ quan liên quan đến hoạt
động thanh tra có sự phối hợp, hỗ trợ cho hoạt động thanh tra của BHXH
Thành phố, có chế độ tuyên dương, khen thưởng đối với các Trưởng đoàn
thanh tra, Thành viên Đoàn thanh tra có thành tích đặc biệt trong công tác.
Lãnh đạo BHXH Thành phố có thể tăng cường quan tâm, chỉ đạo về việc
nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, nâng cao vai trò của Trưởng đoàn
thanh tra thông qua việc thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm hoặc hội
thảo với chủ đề liên quan đến nghiệp vụ, kỹ năng công tác của Trưởng đoàn
thanh tra. Ngoài ra, trong các cuộc họp sơ kết, tổng kết quá trình công tác
của cơ quan, lãnh đạo có thể đề cập tới nội dung nâng cao vai trò của hoạt
động thanh tra, xem đó là nội dung trọng điểm cần thực hiện trong thời gian
86
tới trong toàn cơ quan. Những điều đó chắc chắn sẽ đem đến sự thay đổi to
lớn trong BHXH thành phố cũng như nhận thức của đội ngũ viên chức về
tầm quan trọng của hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT; góp phần xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Thứ nhất, xác định địa vị pháp lý của cơ quan BHXH, của đội ngũ
viên chức trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Cụ thể, kiến
nghị Quốc hội sửa đổi Khoản 7, Điều 3 và Điều 34 Luật Thanh tra năm 2010
để phù hợp với đặc thù của người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành không chỉ riêng ngành BHXH mà còn của một số ngành khác
hiện nay, lực lượng chủ yếu là viên chức.
Tuy nhiên, để một viên chức được xem là viên chức được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, cần có quy định những tiêu chuẩn
cụ thể rõ ràng về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thanh tra và năng lực nghiệp
vụ chuyên môn để không dẫn đến tình trạng đơn vị sự nghiệp nào cũng được
giao nhiệm vụ thanh tra.
Thứ hai, trong thanh tra đột xuất, cần xem lại quy định phải có người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền hợp
pháp mới thực hiện thanh tra được, vì nếu đơn vị né tránh, kéo dài thời gian,
sẽ không khác gì thực hiện thanh tra theo kế hoạch. Ngoài ra, cần bổ sung
quy định pháp luật, hướng dẫn về việc xử lý cụ thể đối với các hành vi né
tránh, không tiếp đoàn thanh tra, cố tình kéo dài thời gian thanh tra.
Thứ ba, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục khởi kiện nợ BHXH theo
quy định của Luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2016; hướng dẫn thống
87
nhất việc phối hợp, chuyển giao quyền khởi kiện doanh nghiệp từ cơ quan
BHXH cho tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động
Trong những năm qua, BHXH Thành phố đã tăng cường công tác
thông tin tuyên truyền về Luật BHXH đến doanh nghiệp và người lao động
qua các hình thức tuyên truyền khác nhau như: ký kết quy chế phối hợp với
17 sở, ngành và 21 cơ quan quan báo đài để tuyên truyền, tổ chức đối thoại
với doanh nghiệp; tuyên truyền trực tiếp trên trang thông tin điện tử BHXH
Thành phố; thực hiện chuyên mục hỏi - đáp trên báo và trang thông tin điện
tử; phát thanh “BHXH, BHYT - những điều cần biết” trên các đài phát thanh
và truyền hình; phát hành ấn phẩm “Những điều cần biết về các chế độ
BHXH” tại các doanh nghiệp ở khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn
Thành phố. Mặc dù những hình thức tuyên truyền này khá phong phú, đa
dạng, song vẫn chưa thu hút được số đông doanh nghiệp và người lao động.
Do vậy, BHXH Thành phố cần tiếp tục có những sự điều chỉnh, thay đổi
mang tính bước ngoặt để đem lại hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền
đến doanh nghiệp và người lao động như:
- Về nội dung tuyên truyền:
+ Tiếp tục tuyên truyền về chính sách BHXH, các vấn đề liên quan
đến chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT liên quan đến phạm vi quản
lý của cơ quan BHXH; ý thức trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động trong
tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT.
+ Tuyên truyền, giải thích về mục đích, ý nghĩa của hoạt động thanh
tra nhằm mục đích trước hết là tiếp xúc, hướng dẫn đơn vị thực hiện đúng
các quy định của pháp luật về việc đóng BHXH, BHTN, BHYT; giúp đơn vị
nhận diện, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tham gia
88
BHXH, BHTN, BHYT; đồng thời xóa bỏ định kiến của đơn vị sử dụng lao
động cho rằng hoạt động thanh tra chỉ nhằm tìm kiếm sơ hở, gây khó khăn
cho đơn vị.
- Về đối tượng tuyên truyền:
+ Chú trọng hơn đối với tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động (là
chủ đơn vị và những người thực hiện công tác kế toán, BHXH của đơn vị sử
dụng lao động), đặc biệt là các đơn vị sử dụng lao động mới đăng ký kinh
doanh, để họ nhận thức được những lợi ích khi tham gia BHXH cho người lao
động.
+ Bên cạnh đó, tuyên truyền hướng đến đối tượng là người lao động để
nâng cao nhận thức về chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT của
Đảng và Nhà nước đối với đơn vị sử dụng lao động và người lao động, để họ
tự hiểu rõ về quyền lợi, nghĩa vụ của mình và trách nhiệm của đơn vị sử dụng
lao động nơi mình làm việc trong tham gia đóng BHXH. Đây là tiền đề quan
trọng cho người lao động mạnh dạn, chủ động đấu tranh bảo vệ quyền lợi của
mình trước đơn vị sử dụng lao động, buộc người sử dụng lao động phải đóng
đúng, đóng đủ BHXH, BHTN, BHYTcho người lao động.
- Về hình thức tuyên truyền:
+ Ngoài hình thức tuyên truyền trên Trang thông tin điện tử, băng rôn,
đối thoại, phát tờ rơi… cần lập thêm ứng dụng trên các thiết di động (điện
thoại thông minh, máy tính bảng,...) để truyền tải tin tức, chủ trương, chính
sách nhà nước đến gần hơn với đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
+ Thông qua các tổ chức công đoàn để tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật về đóng BHXH, BHTN, BHYT. Đây là tổ chức đại diện của
người lao động, có quan hệ gần gũi, gắn bó thiết thân và nhận được sự tin
tưởng, tín nhiệm của người lao động nên sẽ có tác động, ảnh hưởng rất lớn
89
tới việc thay đổi nhận thức của họ.
3.2.4. Mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan bảo hiểm xã hội
Là hoạt động bảo hiểm có đặc thù riêng mang bản chất nhân văn, nhân
đạo, tính cộng đồng sâu sắc, không vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động BHXH,
BHTN, BHYT trước hết phải tuân thủ đúng nguyên tắc có đóng, có hưởng,
quyền lợi thụ hưởng tương ứng với nghĩa vụ đóng góp. Đồng thời, hoạt động
BHXH, BHTN, BHYT thể hiện bản chất xã hội, tính đoàn kết, chia sẻ giữa
các thành viên tham gia đóng góp xây dựng, phát triển quỹ, không phân biệt
giàu nghèo, già trẻ, khỏe mạnh hay đau ốm.
Quan điểm này, định hướng cho công tác quản lý nhà nước về BHXH,
BHTN, BHYT cần tăng cường các giải pháp ngăn chặn và xử lý các hành vi
lợi dụng, trục lợi, không thuộc đối tượng tham gia nhưng tìm cách hợp thức
hóa để có tên trong danh sách hưởng các chế độ, trợ cấp của BHXH, ví dụ
như: không khai báo đang làm việc để vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp; không
khai báo người thụ hưởng chế độ BHXH bị mất để tiếp tục nhận trợ cấp của
người đã mất,...
Do đó, cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền, nội dung thanh tra của cơ
quan BHXH bên cạnh thanh tra việc đóng BHXH, BHTN, BHYT của đơn
vị sử dụng lao động, còn được thanh tra việc hưởng BHXH, BHTN, BHYT
đối với đơn vị sử dụng lao động, người lao động.
3.2.5. Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội
ngũ thực hiện chức năng thanh tra
Để hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị
sử dụng lao động đạt hiệu quả cao thì trước hết phải có một đội ngũ công
chức, viên chức thực hiện hoạt động thanh tra giỏi về chuyên môn nghiệp
90
vụ, am hiểu các chính sách BHXH, BHTN, BHYT có phẩm chất đạo đức
chính trị vững vàng,... đặt trong bối cảnh nguồn nhân lực của BHXH nói
riêng, của các cấp, các ngành nói chung có sự tác động mạnh mẽ của cách
mạng công nghiệp 4.0 cũng như việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế.
Do đó, việc xây dựng, tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ thường xuyên là rất cần thiết. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra về đóng
BHXH, BHTN, BHYT đòi hỏi các viên chức cơ quan BHXH phải thường
xuyên tiếp xúc với các đơn vị, vì vậy trong quá trình tiếp xúc không tránh
khỏi những tình huống bất ngờ đòi hỏi từng viên chức tham gia hoạt động
thanh tra phải có kinh nghiệm, năng động và sáng tạo.
Mục tiêu là xây dựng được đội ngũ viên chức thực hiện hoạt động
thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT có phẩm chất chính trị tốt, có trình
độ chuyên môn vững vàng, nắm vững các quy định của chính sách, pháp luật
về BHXH, BHTN, BHYT có đủ kinh nghiệm và năng lực về nghiệp vụ thanh
tra. Riêng đội ngũ công chức và viên chức lãnh đạo, quản lý còn phải có đủ
năng lực quản lý, điều hành hoạt động thanh tra.
Từ những yêu cầu trên đòi hỏi trên, cơ quan BHXH Thành phố cần có
các biện pháp để nâng cao chất lượng cho đội ngũ công chức, viên chức tham
gia hoạt động thanh tra như:
- Xây dựng chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ thông qua các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
- Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao hiệu quả
quản lý thu BHXH. Thực hành thành thạo và sử dụng hiệu quả các phần mềm
quản lý, các cán bộ làm công tác thu cần được tập huấn nghiệp vụ thường
xuyên, đặc biệt khi có các chính sách mới, các văn bản mới... Việc trang bị
91
kiến thức như vậy sẽ giúp cán bộ vững vàng về nghiệp vụ và tự tin khi xử lý
những trường hợp vướng mắc, hạn chế sức ép lên lãnh đạo.
- Bên cạnh đào tạo, bỗi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thanh tra, cũng
cần đào tạo bổ sung về ngoại ngữ, tin học, kỹ năng làm việc nhóm, cũng như
nhận thức tư tưởng, đạo đức, thấm nhuần quan điểm phục vụ người lao động,
nhanh chóng chuyển đổi tác phong hành chính sang tác phong phục vụ.
- Hàng năm, thường xuyên tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ, chính
sách, chế độ BHXH, BHTN, BHYT; về nghiệp vụ công tác thu, cấp sổ thẻ…
Thông qua cuộc thi không chỉ khuyến khích việc tự học tập nâng cao trình
độ nghiệp vụ mà bên cạnh đó còn giải quyết được những vướng mắc khi triển
khai chế độ chính sách tại đơn vị, đồng thời tạo bầu không khí thi đua giữa
các phòng nghiệp vụ, giữa BHXH các quận, huyện.
3.2.6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
Như đã phân tích ở Chương 2, công tác thanh tra vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, trở ngại do sự hạn chế, lạc hậu của công cụ, phương tiện quản lý,
tiêu tốn nhiều thời gian và chưa khoa học. Cũng vì vậy mà nhiều đơn vị đóng
sai đối tượng, trốn đóng, đóng thiếu mức, giải quyết hưởng sai chế độ cho
người lao động (người lao động) với số lượng lớn, nhưng do hạn chế trong
ứng dụng CNTT nên khó kiểm soát và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả.
Việc nghiên cứu ứng dụng CNTT, xây dựng các chương trình, phần mềm
phục vụ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo là nhiệm vụ tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong năm 2018, BHXH Thành phố là một trong những địa phương
được áp dụng thí điểm Phần mềm quản lý nghiệp vụ về công tác thanh tra,
kiểm tra và tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là
92
Phần mềm thanh tra kiểm tra). Phần mềm đã đáp ứng hai nhu cầu hiện nay
của BHXH Thành phố đó là:
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu “Hiện đại hóa công tác quản lý”, cụ thể:
việc dữ liệu nghiệp vụ được quản lý có hệ thống, số liệu được tổng hợp tự
động chính xác, nhanh chóng giúp người quản lý nắm bắt để xử lý kịp thời;
giảm tải sử dụng văn bản giấy và sổ sách ghi chép tay, giải phóng sức lao
động, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; hướng tới mục tiêu cán bộ quản
lý có thể tự truy cập (bằng máy tính, điện thoại, thiết bị cá nhân) để lấy số
liệu, thông tin khi tham gia các cuộc họp hoặc cần thông tin để đưa ra quyết
định quản lý.
Thứ hai, tiết kiệm thời gian cho đội ngũ viên chức trong công tác báo
cáo, tổng hợp (đến kỳ báo cáo kết xuất số liệu, kiểm tra và ký điện tử gửi báo
cáo); giải quyết bài toán nghiệp vụ trên số lớn, hỗ trợ các tiện ích để nâng
cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng trên cần được đẩy nhanh tiến độ.
Bên cạnh đó, Phần mềm thanh tra, kiểm tra chỉ mới đáp ứng nhu cầu rút ngắn
thời gian, giảm bớt thủ tục, giấy tờ. Trong giai đoạn hiện nay, một yêu cầu
đặt ra trong hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT không chỉ
dừng lại ở việc hiện đại hóa công tác quản lý, giảm tải sử dụng văn bản giấy
và sổ sách ghi chép tay và tiết kiệm thời gian cho cán bộ trong công tác báo
cáo, tổng hợp mà còn đặt ra yêu cầu về tính liên kết và đồng bộ cơ sở dữ liệu
với các phần mềm quản lý giữa các cơ quan BHXH từ Trung ương đến cấp
quận, huyện cũng như giữa cơ quan BHXH với các cơ quan quản lý nhà nước
về lao động - thương binh và xã hội, cơ quan thuế.
Do đó, BHXH Việt Nam cần tiếp tục phối hợp, phát triển tính năng
liên kết và đồng bộ cơ sở dữ liệu cả về tiến độ, đối tượng cũng như kết quả
93
thanh tra.
Giải pháp này cùng với các giải pháp được nêu ở mục 2.3.4 và mục
2.3.6 có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ chặt chẽ, cần được triển khai thực
hiện một cách thống nhất, đồng bộ để có thể nâng cao hiệu quả, chất lượng
hoạt động của ngành BHXH nói chung, của công tác thanh tra về đóng
BHXH, BHTN, BHYT đối với đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn Thành
phố nói riêng.
3.2.7. Phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan khác trong
xây dựng, chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao
động và người lao động
Đối với hoạt động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT đối với
đơn vị sử dụng lao động nói riêng và hoạt động quản lý BHXH nói chung
của cơ quan BHXH thì hệ thống cơ sở dữ liệu về quá trình tham gia BHXH,
BHTN, BHYT của đơn vị sử dụng lao động có sự liên kết chặt chẽ, mật thiết
với những hệ thống cơ sở dữ liệu khác về đơn vị sử dụng lao động do các cơ
quan quản lý nhà nước khác quản lý, đặc biệt là cơ quan quản lý thuế như đã
đề cập ở mục 2.3.2.1.
Có thể mô tả sơ đồ về vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể trong
xây dựng, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động
và người lao động như sau:
Hình 3.1: Mối quan hệ giữa các chủ thể trong xây dựng, quản lý và sử dụng
cơ sở dữ liệu chung về đơn vị sử dụng lao động và người lao động
94
Nguồn: Tác giả.
Hiện nay, ngành thuế đang sử dụng hệ thống tờ khai thuế thu nhập cá
nhân theo Luật Thuế thu nhập cá nhân còn Hệ thống BHXH sử dụng hệ thống
tờ khai theo Luật BHXH, Luật BHYT. Qua thực hiện cho thấy, có thể sử
dụng một tờ khai chung để kê khai cả thuế thu nhập cá nhân và các khoản
BHXH. Tờ khai này được chuyển cho một cơ quan để số hóa, tạo thành một
hệ thống cơ sở dữ liệu số thống nhất, đồng bộ, từ đó các cơ quan chuyên
ngành sẽ khai thác, sử dụng theo yêu cầu quản lý riêng. Việc quản lý nguồn
dữ liệu dùng chung còn góp phần nâng cao tính minh bạch đối với thông tin
về người lao động, việc làm và thu nhập của họ, tránh tình trạng không đồng
nhất về thông tin cho cùng một người lao động cụ thể trong cùng một đơn vị
sử dụng lao động đã xảy ra hiện nay. Trên cơ sở này, BHXH Thành phố và
Cục Thuế cũng có thể đi đến thống nhất một cơ chế thanh tra, kiểm tra chung
95
để xác định chính xác, đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân và các
khoản đóng góp BHXH, BHTN, BHYT.
Việc xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu về lao động cần thực hiện theo
một số nguyên tắc sau:
- Nội dung cơ sở dữ liệu: thông tin về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;
bảng kê khai thông tin đăng ký thuế; bảng kê khai thông tin đăng ký BHXH,
BHYT, BHTN; bảng kê khai thang lương, bảng lương doanh nghiêp; thông
tin khác.
- Do đơn vị sử dụng lao động chủ động kê khai và cập nhật thường
xuyên bằng nhiều hình thức tùy vào điều kiện của mỗi đơn vị (kê khai điện
tử, kê khai trên giấy, kê khai qua email,...) và gửi đến cổng thông tin của cơ
quan quản lý nguồn dữ liệu.
- Do một đầu mối quản lý cơ sở dữ liệu, cơ quan quản lý nguồn dữ liệu
(thuộc cơ quan thuế, có thể là Cục Thuế tỉnh, thành phố) sẽ số hóa toàn bộ
bản kê khai theo các trường dữ liệu.
- Các đối tượng được tiếp cận thông tin tại cơ sở dữ liệu này dựa trên
nguyên tắc phân quyền cụ thể của hệ thống.
Cơ quan quản lý dữ liệu sẽ cung cấp cho các đơn vị liên quan như cơ
quan BHXH trong hoạt động thanh tra truy cập cơ sở dữ liệu, sử dụng các
mã số doanh nghiệp, mã số người lao động để khai thác thông tin người lao
động, đơn vị sử dụng lao động phục vụ các nghiệp vụ của ngành mình. Đồng
thời, thực hiện kết nối dữ liệu từ các ngành trở lại dữ liệu của cơ quan quản
lý nguồn dữ liệu.
Có thể xây dựng phương án phân quyền xây dựng, cập nhật các loại
thông tin trên hệ thống cơ sở dữ liệu về đơn vị và người lao động cho các
96
chủ thể quản lý như doanh nghiệp, Cục Thuế, BHXH Thành phố, và các cơ
quan nhà nước khác có liên quan như sau:
Bảng 3.1: Phân quyền quản lý đối với hệ thống cơ sở dữ liệu
về đơn vị và người lao động
Chủ thể thực hiện cập nhật
thông tin
Nội dung thông tin
Cơ
Cơ
Cơ
Doanh
quan
quan
quan
nghiệp
thuế
BHXH
khác
Thông tin đăng ký doanh nghiệp (tên
x
X
doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính,
1
ngành, nghề kinh doanh, người đại diện
theo pháp luật,…);
X
Thông tin về tình trạng hoạt động của
doanh nghiệp (đang hoạt động, đã giải
2
thể, tạm ngừng kinh doanh,…);
x
Thông tin về tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp (báo
3
cáo tài chính, doanh thu, lao động,…);
x
Thông tin kê khai thuế, đăng ký BHXH,
4
BHYT, BHTN
97
Chủ thể thực hiện cập nhật
thông tin
Nội dung thông tin
Cơ
Cơ
Cơ
Doanh
quan
quan
quan
nghiệp
thuế
BHXH
khác
x
x
X
Thông tin về xử lý doanh nghiệp có
hành vi vi phạm pháp luật (kết luận và
5
Nguồn: Tổng hợp.
kết quả xử lý của cơ quan nhà nước)
Để giải pháp này triển khai đem lại hiệu quả, cần xây dựng cơ sở pháp
lý rõ ràng về trách nhiệm cập nhật thông tin (cập nhật lần đầu, cập nhật
thường xuyên) của các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước, là đơn vị sử
dụng lao động, trong đó, trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động trong việc
cập nhật thông tin là rất quan trọng vì chính đơn vị sử dụng lao động, dưới
sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước, của chính những người lao động sẽ
thực hiện cập nhật thông tin một cách chính xác và kịp thời nhất.
Đồng thời, trong phối hợp với cơ quan Công an, Công đoàn, BHXH
Thành phố cần sớm xây dựng các quy chế phối hợp hoạt động cụ thể phù
hợp với các quy định pháp luật mới về việc kiến nghị khởi tố, khởi kiện đối
với các đơn vị vi phạm để kịp thời xử lý các hành vi vi phạm, đảm bảo quyền
lợi của người lao động.
98
TIẾU KẾT CHƯƠNG 3
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH,
BHTN, BHYT góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về BHXH, BHYT, BHTN, đảm bảo ổn định, công bằng xã hội. Chính
vì vậy, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm và
quán triệt các Ngành nói chung và Ngành BHXH nói riêng trong việc thực
hiện hiệu quả công tác thanh tra. Riêng với Ngành BHXH, hoạt động thanh
tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT luôn được xác định là nhiệm
vụ trọn tâm trong định hướng xây dựng chương trình công tác hàng năm.
Từ những phân tích, tổng kết thực trạng hoạt động thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố tại chương 2, đối
chiếu cơ sở lý luận và pháp lý tại chương 1, đề tài đã đề xuất một số phương
hướng và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra chuyên ngành đóng
BHXH, BHTN, BHYT. Các kiến nghị được đề xuất ở chương này có những
kiến nghị BHXH Thành phố có thể độc lập triển khai, có những kiến nghị là
giải pháp chung cho toàn Ngành nghiên cứu thực hiện để khắc phục những
hạn chế trong hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT.
Triển khai đồng bộ, thống nhất các kiến nghị cùng sự nỗ lực và quyết
tâm cao của BHXH Thành phố và toàn Ngành BHXH là điều kiện quan trọng
để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN,
BHYT của BHXH Thành phố nói riêng và toàn Ngành BHXH nói chung.
99
KẾT LUẬN
Thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động hoạt động thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố, trên cơ
sở đối chiếu với cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động này để tìm ra
nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế, đề tài đã đề xuất những phương
hướng và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt động
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành
phố, thông qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHXH,
BHTN, BHYT của cơ quan BHXH Thành phố và công tác quản lý nhà nước
về quỹ BHXH, BHTN, BHYT của Thành phố.
Qua quá trình nghiên cứu, có thể nhận thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt
động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT nói chung, trên
địa bàn Thành phố nói riêng, cần tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho đơn vị sử dụng lao động
về việc chấp hành chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT và hoạt
động thanh tra về đóng BHXH, BHTN, BHYT.
Thứ ba, có lộ trình mở rộng phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan BHXH trong thanh tra về đóng, hưởng BHXH, BHTN, BHYT
đối với đơn vị sử dụng lao động.
Thứ tư, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thanh tra
cho đội ngũ nhân sự làm công tác thanh tra ngành BHXH.
Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
100
Thứ sáu, phối hợp với cơ quan thuế trong xây dựng, chia sẻ và khai
thác cơ sở dữ liệu chung về người lao động và doanh nghiệp.
Như vậy, đề tài đã thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra,
phác họa những nét cơ bản của hoạt động hoạt động thanh tra chuyên ngành
đóng BHXH, BHTN, BHYT của BHXH Thành phố. Trên cơ sở phân tích cơ
sở lý luận và thực trạng của hoạt động, đề tài đã đề xuất các nhóm giải pháp
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động hoạt động thanh tra chuyên
ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT.
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố (2015), Nghị quyết Đại hội
Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020, ban hành ngày
17/10/2015.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 15-
NQ/TW về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, ban
hành ngày 01/6/2012.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 21-
NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT
giai đoạn 2012 – 2020, ban hành ngày 22/11/2012.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018), Nghị quyết số 28-
NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, ban hành ngày 23/5/2018.
5. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2016), Báo cáo số 1242/BC-TTKT
về tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm
2016 và nhiệm vụ công tác năm 2017, ban hành ngày 30/12/2016.
6. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2017), Báo cáo số 1483/BC-BHXH
về tổng kết 06 năm thi hành Luật Thanh tra, ban hành ngày 14/7/2017.
7. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2017), Báo cáo số 56/BC-TTKT về
tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm 2017
và nhiệm vụ công tác năm 2018, ban hành ngày 03/01/2018.
8. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2018), (2019), Kết luận thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH, BHTN, BHYT tại một số đơn vị sử dụng lao động.
9. Bảo hiểm xã hội Thành phố (2019), Báo cáo số 56/BC-TTKT về
tổng kết tình hình, kết quả thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra năm 2018
và nhiệm vụ công tác năm 2019, ban hành ngày 07/01/2019.
102
10. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Quyết định số 969/QĐ-BHXH
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH
địa phương, ban hành ngày 29/7/2019.
11. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 1518/QĐ-BHXH
quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN và
hoạt động kiểm tra của BHXH Việt Nam, ban hành ngày 18/10/2016.
12. Bảo hiểm xã hội Việt Nam – Tổng cục Thuế (2014), Quy chế phối
hợp công tác số 5423/QCPH-BHXH-TCT giữa BHXH Việt Nam và Tổng cục
Thuế, ban hành ngày 31/12/2014.
13. Báo Nhân dân điện tử, “Cần sớm có văn bản hướng dẫn xử lý các
hành vi vi phạm lĩnh vực bảo hiểm”, đăng ngày 07/01/2019,
https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/38819802-can-som-co-van-ban-
huong-dan-xu-ly-cac-hanh-vi-vi-pham-linh-vuc-bao-hiem.html.
14. Báo Tuổi trẻ, bài viết “Công đoàn đề nghị khởi kiện công ty
Texwell Vina”, Số đăng ngày 06/3/2019.
15. Bộ môn Kinh tế bảo hiểm/Trường Đại học Kinh tế quốc dân
(2012), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
16. Chính phủ (2012), Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định quy
định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và
hoạt động thanh tra chuyên ngành, ngày 09/02/2012.
17. Chính phủ (2016), Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, ban hành
ngày 05/01/2016.
18. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP quy định việc
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN
103
của cơ quan BHXH, ban hành ngày 31/3/2016.
19. Cục Thống kê Thành phố (2018), Niên giám thống kê năm 2017,
Ấn bản điện tử đăng tải trên Cổng thông tin điện tử cục Thống kê Thành phố,
http://pso.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/niengiamthongke2017
20. Trần Đức Long (2018), Công tác thanh tra chuyên ngành
góp phần giảm nợ đọng BHXH, BHYT, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động, Tạp chí Thanh tra điện tử,
http://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/cong-tac-thanh-tra-chuyen-
nganh-gop-phan-giam-no-dong-BHXH-bhyt-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-
phap-cua-nguoi-lao-dong-179901
21. Trần Đức Lượng và những người khác (2001), Đề tài khoa học độc
lập cấp Nhà nước “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước”, ĐT298, Hà Nội.
22. Đinh Văn Minh (2012), Hỏi – Đáp về Luật Thanh tra năm 2010,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ thống
BHXH hiện đại – Những thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho
cải cách trong tương lai, Ấn bản điện tử phát hành tại
www.worldbank.org.vn.
24. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản điện tử,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Thong-tin-ly-luan2012/15184/An-
sinh-xa-hoi-o-nuoc-ta-Mot-so-van-de-ly.aspx
25. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra năm 2010
26. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
104
27. Quốc hội (2013), Luật Việc làm năm 2013
28. Quốc hội (2014), Luật BHXH năm 2014
29. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2008
30. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 05/2014/TT-TTCP quy
định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự,
thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra, ban hành ngày 16/10/2014.
31. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.
32. Phạm Đình Thành (2017), Nghiên cứu xây dựng, khai thác nguồn
dữ liệu về người lao động trong các doanh nghiệp giữa Ngành BHXH và
Ngành thuế, Tạp chí BHXH điện tử, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/tin-
tuc/nghien-cuu-xay-dung-khai-thac-nguon-du-lieu-ve-nguoi-lao-dong-
trong-cac-doanh-nghiep-giua-nganh-BHXH-va-nganh-thue-17086.
33. Dương Văn Thắng (2015), Đổi mới và Phát triển BHXH ở Việt
Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Trịnh Văn Toàn (2018), Một số vấn đề trong thực hiện Chỉ thị số
20 của Thủ tướng về chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh
nghiệp, Tạp chí Thanh tra điện tử, http://thanhtravietnam.vn
35. Tổng cục Cảnh sát – Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quy chế
số 3461/QCPH-TCCS-BHXH quy chế phối hợp giữa Tổng cục Cảnh sát và
BHXH Việt Nam trong công tác phòng, chống, tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật BHXH, BHYT, BHTN, ngày 18/8/2017.
36. Nguyễn Văn Tuấn (2014), Những yếu tố đặc trưng của hoạt động
thanh tra chuyên ngành, Tạp chí Thanh tra điện tử http://thanhtravietnam.vn
37. Trần Trí Trung (2008), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
105
công tác thanh tra, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, Số tháng 10 năm 2008.
38. Trường Cán bộ thanh tra (2005), Nghiệp vụ công tác thanh tra,
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
39. Trường Đại học Công đoàn (2010), Giáo trình Kinh tế bảo hiểm,
Nxb. Lao động, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Thanh tra và giải
quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
41. Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam – Cơ quan hợp tác
phát triển quốc tế CHLB Đức (GIZ) (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã
hội ở Việt Nam đến năm 2020, GIZ, Hà Nội.
106