BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NÔNG BÍCH THẢO
THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG CHỨC –
TỪ THỰC TIỄN THANH TRA CỦA BỘ NỘI VỤ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NÔNG BÍCH THẢO
THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG CHỨC –
TỪ THỰC TIỄN THANH TRA CỦA BỘ NỘI VỤ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUỐC VĂN
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả.
Các kết quả nghiên cứu và kết luận trong luận văn là trung thực, không sao chép
từ bất kỳ nguồn nào hoặc hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu (nếu
có) đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.
Tác giả
Nông Bích Thảo
LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức - từ thực tiễn thanh tra
của Bộ Nội vụ“ được hoàn thành tại Học viện Hành chính Quốc Gia. Trong suốt
quá trình nghiên cứu, ngoài sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, tác giả đã nhận
được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và đồng
nghiệp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Quốc Văn, người trực tiếp
hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo viên chủ nhiệm Nguyễn Thị Ngân cùng
toàn thể các thầy, cô giáo và cán bộ Học viện Hành chính Quốc Gia đã giảng
dạy và giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa học và luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí, lãnh đạo Thanh tra Bộ Nội vụ
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập thông tin và số liệu
để thực hiện luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên do kinh nghiệm
nghiên cứu chưa nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến quý báu của Quý thầy cô và các bạn để bản thân được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả
Nông Bích Thảo
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nội dung viết tắt Cách viết tắt
Phản biện xã hội PBXH
Tuyển dụng, sử dụng công chức TDSDCC
Ủy ban nhân dân UBND
Văn bản quy phạm pháp luật VBQPPL
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA TUYỂN DỤNG,
SỬ DỤNG CÔNG CHỨC .................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của hoạt động thanh tra việc tuyển dụng, sử
dụng công chức ..................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức .................................. 8
1.1.2. Đặc điểm thanh tra trong lĩnh vực tuyển dụng, sử dụng công chức ......... 12
1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức .............. 16
1.2. Nội dung, nguyên tắc và quy trình tiến hành hoạt động thanh tra tuyển dụng,
sử dụng công chức ............................................................................................... 19
1.2.1. Nội dung thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức ................................. 19
1.2.2. Nguyên tắc thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức .............................. 21
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công
chức ..................................................................................................................... 26
1.3.1. Yếu tố khách quan ..................................................................................... 26
1.3.2. Yếu tố chủ quan ......................................................................................... 31
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 34
Chương 2. THỰC TRẠNG THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG
CHỨC CỦA THANH TRA BỘ NỘI VỤ .......................................................... 35
2.1. Khái quát chung về thanh tra Bộ Nội vụ ...................................................... 35
2.2. Thực tiễn nội dung và quy trình tiến hành hoạt động thanh tra tuyển dụng,
sử dụng công chức của Thanh tra Bộ Nội vụ ...................................................... 36
2.2.1. Nội dung thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức của Thanh tra Bộ Nội
vụ ......................................................................................................................... 36
2.2.2. Quy trình tiến hành .................................................................................... 41
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức của
Thanh tra Bộ Nội vụ ............................................................................................ 49
2.3.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân ....................................................... 49
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ................................................................ 56
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 61
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CÔNG
TÁC THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG CHỨC ..................... 62
3.1. Quan điểm về công tác thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức .............. 62
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo về thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức ............. 62
3.1.2. Quan điểm của tác giả về công tác tuyển dụng, sử dụng công chức và hoạt
động thanh tra trong lĩnh vực tuyển dụng, sử dụng công chức ........................... 63
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động công tác thanh tra tuyển dụng, sử dụng công
chức ..................................................................................................................... 68
3.2.1. Giải pháp chung bảo đảm hoạt động công tác thanh tra tuyển dụng, sử
dụng công chức ................................................................................................... 68
3.2.2. Giải pháp đối với Bộ Nội vụ ..................................................................... 74
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................... 81
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 83
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Trong hoạt động của Nhà nước, đội ngũ công chức là lực lượng nòng cốt,
đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác xây dựng và thực thi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng một đội ngũ công
chức đáp ứng đầy đủ cả về năng lực và phẩm chất, cống hiến hết mình cho nền
công vụ là điều tất yếu trước tình hình đổi mới đất nước để xây dựng nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, thống nhất và hiệu quả. Trong đó, công tác tuyển
dụng và sử dụng công chức là hai khâu trọng yếu, quyết định trực tiếp đến chất
lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức.
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có vai
trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó” [2]. Sau hơn 20 năm thực hiện,
đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, lớn mạnh về nhiều mặt, chất
lượng ngày càng được nâng lên. Đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh
chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được đòi hỏi công
việc, luôn tu dưỡng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao, cống hiến cho sự
nghiệp vĩ đại của dân tộc.
Công tác cán bộ được triển khai đồng bộ, toàn diện ở các khâu, trong đó có
nhiều khâu tạo được sự chuyển biến tích cực như công tác: quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ. Nội dung,
phương pháp, cách thức triển khai chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình. Việc
phân cấp quản lý cán bộ được thực hiện hợp lý hơn nhằm tăng cường phân cấp
1
cho cấp dưới. Công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ được tăng cường;
công tác bảo vệ chính trị nội bộ tiếp tục được quan tâm… qua đó từng bước góp
phần đổi mới công tác cán bộ. Việc đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ bảo đảm chặt
chẽ, đúng về thủ tục, đủ về tiêu chuẩn, điều kiện, phù hợp với năng lực, sở
trường và triển vọng phát triển. Không có tình trạng cục bộ, khép kín, lợi ích
nhóm; lợi dụng để bố trí người nhà, người thân, người quen vào các chức vụ
lãnh đạo, quản lý dù không đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Các quy trình công tác cán
bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và dân chủ
hơn. Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả hơn. Việc
xử lý kịp thời, nghiêm minh các cá nhân, tổ chức vi phạm đã góp phần cảnh
tỉnh, răn đe, phòng ngừa tiêu cực trong công tác cán bộ đồng thời củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận ấy, công tác cán bộ nói
chung và công tác tuyển dụng, sử dụng công chức nói riêng vẫn còn tồn tại
những bất cập và hạn chế gây xôn xao dư luận. Những sai phạm điển hình trong
thời gian qua có thể kể đến: việc thực hiện không đúng quy định của Đảng và
Nhà nước trong tiếp nhận, bổ nhiệm công chức; có biểu hiện vụ lợi trong việc
tuyển dụng, sử dụng công chức là người thân của lãnh đạo; bổ nhiệm sai quy
trình, sử dụng công chức khi chưa đủ các tiêu chuẩn: thời gian công tác ở lĩnh vực
mình phụ trách về chuyên môn nghiệp vụ ít nhất từ ba năm trở lên, có trình độ
Trung cấp lý luận chính trị trở lên, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà
nước; cơ quan có số lượng cấp phó suýt soát tổng biên chế hay các sai phạm trong
đánh giá chất lượng thí sinh ứng tuyển công chức: chấm giảm điểm để đánh trượt
thí sinh, chấm khống hoặc nhắc bài, làm lộ đề… Nhiều sai phạm đã và đang diễn
ra ở nền công vụ nước nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ công
chức, lãng phí nguồn nhân lực, công tác cán bộ tồn tại hành vi tham nhũng, tiêu
cực, thiếu hiệu quả, kém chuyên nghiệp. Điều này đã gióng lên hồi chuông báo
động về việc thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, đặc biệt là
ở khâu tuyển dụng, sử dụng.
2
Tại Hội nghị phòng chống tham nhũng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ
rõ quyền lực luôn có nguy cơ bị tha hóa cho nên phải thiết lập một cơ chế kiểm
soát việc thực thi quyền lực, quyền lực phải ràng buộc với trách nhiệm, “bất cứ
ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật”. Nghị quyết 26-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng đề ra
nhiệm vụ tăng cường kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống
chạy chức chạy quyền.
Từ đó cho thấy, đẩy mạnh công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật về tuyển dụng, sử dụng công chức là yêu cầu cấp thiết trong tình hình
mới, đặc biệt là việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác này nhằm phát hiện
những sơ hở, hạn chế để có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
Nước ta đã có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết
và hướng dẫn các nội dung thanh tra liên quan đến tuyển dụng và sử dụng công
chức. Hệ thống này cơ bản đã được hoàn thiện, đổi mới tạo cơ sở pháp lý cho
công tác thanh tra được thực hiện trơn tru, hiệu quả. Trải qua hơn 40 năm xây
dựng và trưởng thành, Thanh tra Bộ Nội vụ đã có những đóng góp quan trọng
cho sự nghiệp tổ chức nhà nước và sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống
thanh tra nhà nước. Mỗi năm thực hiện nhiều cuộc thanh tra ở lĩnh vực quản lý,
đặc biệt là lĩnh vực tuyển dụng, sử dụng công chức, thực hiện giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tiếp công dân. Qua các cuộc thanh tra đã phát hiện, ngăn chặn, xử lý,
kiến nghị xử lý sai phạm, đề xuất nhiều biện pháp chấn chỉnh; đồng thời kiến
nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm
khắc phục thiếu sót, sơ hở trong công tác quản lý góp phần nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức nhà nước. Quá trình hoạt động thanh tra thực tế của Thanh tra
Bộ Nội vụ cho thấy những thiếu hụt nhất định như: hệ thống pháp luật thanh tra
thiếu chặt chẽ, cụ thể; công tác thanh tra còn bị động, không có nhiều chủ thể
tham gia, chuyên trách, năng lực thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn;
kết luận thanh tra chưa được thực hiện nghiêm túc, biện pháp thiếu cứng rắn và
3
chế tài chưa đủ sức răn đe.
Từ tình hình pháp luật và thực tiễn đòi hỏi bức thiết là cần phải có những
nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra
trong tuyển dụng, sử dụng công chức nói riêng, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu
lực, hiệu quả thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức. Với những lý do trên, em
lựa chọn đề tài: “Thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức - từ thực tiễn
thanh tra của Bộ Nội vụ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến tổ chức và hoạt
động của thanh tra nhà nước ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau. Có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu khoa học, bài viết nghiên cứu pháp luật về
thanh tra, thanh tra chuyên ngành như:
- Luận án Tiến sỹ Quản lý công: “Thẩm quyền thanh tra trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước”, Phạm Huỳnh Công, Hà Nội – 2018. Luận án làm
bật lên thẩm quyền thanh tra trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay trên nhiều khía cạnh: luận giải các lý thuyết, nghiên cứu thực
trạng các quy định của pháp luật, chỉ ra mặt mạnh và hạn chế. Từ đó đề xuất các
giải pháp, khuyến nghị khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền
thanh tra; các giải pháp đổi mới phương thức tổ chứ, cách thức hoạt động thanh
tra, nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền thanh tra trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước ở nước ta;
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”, Trịnh Công Sơn, Hà Nội – 2017. Luận văn
tập trung làm sáng tỏ những lý luận cơ bản và thực tiễn về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra cấp huyện, đánh giá những ưu, nhược điểm và đề xuất các định
hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức và hoạt động của
thanh tra huyện với vai trò là cơ quan tham mưu, giúp việc cho UBND huyện
trong công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng
chống tham nhũng trong thời gian tới;
4
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế từ thực
tiễn tỉnh Hà Nam”, Nguyễn Tuấn Linh, Hà Nội – 2016. Luận văn đã chỉ ra
những cơ sở lý thuyết về thanh tra và thanh tra chuyên ngành, làm rõ khái niệm,
đặc điểm, nội, dung và vai trò của pháp luật thanh tra chuyên ngành y tế. Trên
cơ sở đó, đánh giá các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế và
thực tiễn thực hiện pháp luật thanh tra chuyên ngành y tế trên địa bàn, từ đó đề
xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành y tế tại các địa phương trên cả nước;
- Luận văn Thạc sỹ Luật: “Thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực Nội vụ ở
tỉnh Nam Định”, Nguyễn Thanh Thủy, Hà Nội – 2016. Từ cơ sở lý luận và thực
trạng công tác thanh tra chuyên ngành Nội vụ trên địa bàn tác giả đề xuất những
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành Nội vụ tại tỉnh
Nam Định;
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động,
thương binh và xã hội – Thực trạng và giải pháp”, Nguyễn Thị Hồng Diệp, Hà
Nội - 2009. Luận văn đã làm rõ khái niệm, đặc điểm về thanh tra và thực trạng
tổ chức, hoạt động của Thanh tra lao động, thương binh và xã hội; Trên cơ sở
tham khảo mô hình tổ chức và hoạt động của các bộ, ngành trong nước cũng như
ở nước ngoài, chỉ ra những mô hình hiệu quả, tính khả thi và các điều kiện, giải
pháp để thực hiện mô hình đó nhằm đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước trong lĩnh thương binh và xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ chức
và hoạt động của thanh tra ở Việt Nam”, Lê Thị Thu Oanh, Hà Nội – 2004;
Tạp chí: “Thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra – thực trạng và giải
pháp”, Nguyễn Thị Hồng Thúy, Tạp chí Thanh tra số 25/06/2015.
Các công trình, luận văn trên đã tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý
luận và thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp tăng cường tính hiệu lực,
hiệu quả trong công tác thanh tra, thanh tra chuyên ngành cũng như phương thức
tổ chức và cách thức hoạt động của cơ quan Thanh tra.
5
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về thanh tra việc
tuyển dụng, sử dụng công chức, sự tương quan giữa pháp luật về thanh tra và
pháp luật về cán bộ, công chức từ phương diện luật hành chính, hiến pháp
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung và thực
tiễn của hoạt động thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nội vụ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, luận văn tập trung nghiên
cứu hoạt động thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức, tập trung trong
phạm vi của các Bộ, cơ quan ngang bộ, và các tổ chức hành chính trực thuộc tại
Trung ương; các Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh và các tổ chức hành chính
trực thuộc tại địa phương trong thời gian từ 2015 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận
chung về thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức. Trên cơ sở thực tiễn tìm
ra các giải pháp có tính khả thi để đảm bảo hoạt động thanh tra việc tuyển dụng,
sử dụng công chức có hiệu quả, góp phần xây dựng nền hành chính trong sạch,
vững mạnh và hiện đại.
Để đạt được các mục đích trên, đề tài luận văn có nhiệm vụ làm rõ những
vấn đề cơ bản sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp đảm bảo công tác thanh tra việc tuyển
dụng, sử dụng công chức.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
6
lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về tuyển dụng, sử dụng công chức.
Đồng thời, luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp; thống kê; điều tra xã hội học…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Góp phần làm rõ và sâu sắc hơn các yếu tố làm ảnh hưởng
tới hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra việc tuyển dụng, sử dụng công chức.
Về mặt thực tiễn, luận văn cung cấp tài liệu tham khảo cho các cơ quan
trực tiếp thực hiện chức năng thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức ở địa
phương có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thanh tra tuyển dụng, sử dụng công
chức
Chương 2: Thực trạng thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức của thanh
tra Bộ Nội vụ
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động công tác thanh tra
7
tuyển dụng, sử dụng công chức
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của hoạt động thanh tra việc tuyển
dụng, sử dụng công chức
1.1.1. Khái niệm thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
a) Khái niệm về thanh tra
Thuật ngữ thanh tra xuất phát từ gốc tiếng Latinh là “inspectare” có nghĩa
là “nhìn vào bên trong”, chỉ được kiểm tra, xem xét từ bên ngoài của chủ thể có
thẩm quyền đối với hoạt động của đối tượng nhất định. Khái niệm thanh tra theo
từ điển luật học Đức được hiểu là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và
đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định, đó là
sự tác động có tính trực thuộc. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học
năm 2010 thì thanh tra được hiểu là sự kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp [44]. Theo quan niệm này, thanh tra bao hàm
kiểm soát, xem xét, phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định.
Ở mỗi quốc gia, khái niệm thanh tra được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác
nhau như: phạm vi hoạt động, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện chức năng thanh tra. Tùy thuộc vào chế độ chính trị, cấu
trúc nhà nước và các đặc điểm riêng của mỗi quốc gia, dân tộc mà việc thiết lập
cơ quan thanh tra theo nhiều cách khác nhau như: cơ quan thanh tra nằm trong tổ
chức trong hệ thống cơ quan hành pháp hoặc chức năng thanh tra gắn liền với
kiểm toán và được tổ chức thành một cơ quan độc lập.
Ở nước ta quan niệm về thanh tra được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau thể
hiện qua mô hình nhà nước trong lịch sử, các quy định của pháp luật từng thời kỳ
như: Thời phong kiến khái niệm thanh tra chưa được sử dụng nhưng có các chức
quan làm công việc giống như thanh tra (Gián nghị đại phu, Ngự sử đài, Quan
8
ngự sử...).
Thuật ngữ thanh tra mang tính pháp lý lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh
số 64/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chính phủ sẽ thành lập
ngay một Ban thanh tra đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả công việc và
các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [21]. Luật
thanh tra năm 2010 khẳng định: “Thanh tra Nhà nước là hoạt động xem xét,
đánh giá, xử lý theo quy trình thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành” [27]. Hiến pháp năm 2013 quy định chức
năng thanh tra gắn liền với nhiệm vụ của Chính phủ như sau: “tổ chức công tác
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy nhà nước...” [29].
Thanh tra có tác động tích cực đối với quản lý và góp phần nâng cao hiệu
lực hiệu quả quản lý nhà nước. Trong vai trò của mình, thanh tra không chỉ là
hoạt động kiểm tra, giám sát; kịp thời phát hiện sai phạm; kiến nghị, xử lý
nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm và đề ra các biện pháp khắc phục, sửa
chữa mà hơn hết là phương tiện để chủ thể quản lý phát hiện những biểu hiện trì
trệ, không phù hợp với thực tiễn khách quan của cơ chế, phương pháp quản lý
đã và đang cản trở các hoạt động quản lý, từ đó đề xuất các biện pháp cải cách
hoàn thiện các hoạt động quản lý nhà nước.
Khi tiến hành hoạt động thanh tra thì những hành vi vi phạm thường được
xử lý bằng các biện pháp kỷ luật hành chính, do đó ta có thể phân thành hai loại
gồm: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Đối với thanh tra chuyên ngành: là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ
thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó [27]. Hoạt động thanh tra chuyên
ngành do các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực tiến
9
hành (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở) và cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở được giao
chức năng thanh tra chuyên ngành). Như vậy, hoạt động thanh tra chuyên ngành
chủ yếu hướng tới việc kiểm soát việc chấp hành chính sách, pháp luật chuyên
ngành của mọi đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhằm phục vụ hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục đích
của hoạt động thanh tra chuyên ngành tập trung và phát hiện những sơ hở trong
cơ chế quản lý và chính sách pháp luật để kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý kịp
thời phòng ngừa phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh
vực quản lý nhà nước.
Đối với thanh tra hành chính: là hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao [27]. Như vậy, thanh tra
hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; đối tượng của
thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc. Nội dung của
thanh tra hành chính nhằm xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức và cá nhân trực thuộc.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành. Nó thể hiện quan hệ trong chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, kiểm soát giữa
cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan có thẩm quyền với đối tượng trực thuộc chịu
sự quản lý.
b) Khái niệm công chức và tuyển dụng, sử dụng công chức.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật
Viên chức quy định: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong
10
cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: Công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy
ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [26].
Công chức có vị trí rất quan trọng trong việc duy trì hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống chính trị. Chính vì thế việc tuyển dụng và sử dụng được
quan tâm đặc biệt. Có thể hiểu tuyển dụng công chức là quy trình do cơ quan có
thẩm quyền tiến hành nhằm sàng lọc và tuyển chọn những người đáp ứng đầy đủ
năng lực, phẩm chất theo yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế
của cơ quan sử dụng công chức. Ngoài ra còn phải đáp ứng các điều kiện riêng
nhất định do Luật Cán bộ, Công chức quy định. Trường hợp đáp ứng các điều
kiện đã nêu và cam kết tình nguyện làm việc từ 5 năm trở lên ở miền núi, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc người học theo chế độ cử tuyển, sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ thì tuyển dụng thông qua xét tuyển.
Sử dụng công chức là việc sắp xếp vị trí việc làm của cơ quan có thẩm
quyền đối với công chức dưới các hình thức: bố trí, phân công công tác; chuyển
ngạch, nâng ngạch công chức; điều động, luân chuyển, biệt phái công chức; bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm công chức; đánh giá công chức nhằm
phát huy tối đa năng lực làm việc của công chức theo yêu cầu nhiệm vụ, theo
quy hoạch, kế hoạch sử dụng công chức trên cơ sở quy định của pháp luật.
Việc đánh giá công chức là hoạt động được tiến hành hàng năm trước khi
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng kết thúc
nhiệm kỳ, kết thúc thời gian luân chuyển đối với công chức và trước khi bổ
nhiệm quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, kết thúc thời gian biệt phái đối
với công chức. Mục đích đánh giá công chức được xác định là để làm rõ phẩm
chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kết quả thực
11
hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá là căn cứ để bố trí, sử dụng, đào tạo,
bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với công chức.
Việc đánh giá công chức là người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng công chức
thực hiện.
c) Khái niệm thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức.
Hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức (TDSDCC) được tiến
hành theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật; những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Đối với cơ quan Nội vụ nói riêng: thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
là một nội dung của thanh tra chuyên ngành Nội vụ, được tiến hành bởi các cơ
quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Bộ Nội vụ, Thanh tra Sở Nội vụ) đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ và cơ
quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ chấp hành quy định pháp luật trong các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ [16].
Như vậy: Thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức là hoạt động đánh giá,
xem xét, kết luận của cơ quan thanh tra ngành Nội vụ đối với việc thực hiện các
quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng công chức của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc phạm vi quản lý mà pháp luật quy định cho thanh tra nội vụ.
1.1.2. Đặc điểm thanh tra trong lĩnh vực tuyển dụng, sử dụng công chức
a) Đặc điểm về chủ thể và đối tượng thanh tra
Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước. Do đó, chủ thể của hoạt động thanh tra TDSDCC là các cơ quan thanh
tra nhà nước (Thanh tra Bộ Nội vụ, Thanh tra Sở Nội vụ); đối tượng của thanh
tra là đối tượng quản lý nhà nước. Đây là những yếu tố căn bản để phân biệt
hoạt động thanh tra với các phương thức kiểm soát khác như hoạt động kiểm tra,
giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của công dân đối với hoạt
động hành chính nhà nước.
Kiểm tra và thanh tra đều là một chức năng chung của quản lý nhà nước là
12
hoạt động mang tính chất “phản hồi” của chu trình quản lý. Kiểm tra và thanh
tra có quan hệ gần gũi, bổ sung lẫn nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì kiểm tra
bao hàm thanh tra, hay nói cách khác thanh tra là một loại hình đặc biệt của
kiểm tra mà ở đó nó luôn luôn do một loại chủ thể là Nhà nước tiến hành và
mang tính quyền lực nhà nước. Ngược lại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thanh tra
cũng bao hàm kiểm tra. Các hoạt động, các thao tác nghiệp vụ trong một cuộc
thanh tra chính là kiểm tra. Ví dụ như việc kiểm tra sổ sách, giấy tờ, tài liệu;
kiểm tra kho quỹ của đối tượng thanh tra; so sánh, đối chiếu, đánh giá các số
liệu thu thập được trong quá trình thanh tra... đó chính là kiểm tra.
Thanh tra với giám sát đều là các hình thức của phương pháp kiểm soát nói
chung, trong kiểm soát hoạt động quản lý nhà nước nói riêng. Giám sát được
hiểu là việc theo dõi, kiểm tra, xem xét của chủ thể bên ngoài hướng vào các cơ
quan hành chính nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu
cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát thường là hoạt động của
chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ thống khác, tức là giữa cơ
quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống phụ
thuộc nhau.
Như vậy, chủ thể của hoạt động thanh tra TDSDCC mang tính quyền lực
nhà nước. Quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra TDSDCC được xác
định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Thanh tra
TDSDCC xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Tính quyền lực nhà
nước trong quá trình thanh tra TDSDCC được cụ thể hoá trong chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, mà chủ yếu là cơ quan thanh tra
nội vụ, cơ quan có nhiệm vụ chính về thanh tra TDSDCC. Để thực hiện quyền
hạn thanh tra theo pháp luật, các cơ quan thanh tra có quyền quyết định tổ chức
các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch được phê duyệt; trình thủ trưởng
cơ quan quản lý hành chính phê duyệt hoặc quyết định thanh tra đột xuất khi
phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; yêu cầu các cơ quan, đơn vị và cá nhân
13
có liên quan cung cấp những thông tin và những tư liệu cần thiết phục vụ cho
công tác thanh tra cũng như có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài
liệu và trả lời chất vấn của cán bộ thanh tra. Ngoài ra, cơ quan thanh tra, thanh
tra viên và cán bộ thanh tra có thẩm quyền còn có các quyền hạn khác như trưng
cầu giám định, niêm phong tài liệu và tài sản khi có căn cứ nhận định rằng tài
liệu và tài sản đó liên quan đến vi phạm pháp luật hoặc tạm đình chỉ hay đình
chỉ công tác đối với một người nào đó nếu thấy cần thiết.
Ngoài ra, xuất phát từ bản chất của thanh tra, thanh tra tuyển dụng, sử
dụng công chức có tính độc lập tương đối. Là bộ phận quan trọng, không thể
thiếu trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng
cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý
nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý. Cơ quan thanh tra
TDSDCC chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ truởng cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra
của thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan
thanh tra cấp trên; thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết
định xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.
Đối tượng thanh tra TDSDCC là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
vi quản lý của Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ chấp hành quy định pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ. Do đó, Đối tượng thanh tra TDSDCC là các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành các văn bản, quy định liên quan đến
tuyển dụng, sử dụng công chức và trực tiếp tổ chức thực hiện công tác tuyển
dụng, bố trí, phân công công tác; chuyển ngạch, nâng ngạch công chức; điều
động, luân chuyển, biệt phái công chức; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn
nhiệm công chức; đánh giá công chức cơ sở quy định của pháp luật, là một bộ
phận của hệ thống công vụ.
b) Đặc điểm về hình thức thanh tra
Thanh tra TDSDCC là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
14
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành pháp luật chuyên ngành về TDSDCC. Hoạt động thanh tra chỉ xem xét,
đánh giá đối tượng thanh tra trên một hoặc một số mặt hoạt động nhất định liên
quan đến thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời được thực hiện
dưới ba hình thức: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc thanh
tra đột xuất:
Thứ nhất, thanh tra theo kế hoạch: được tiến hành theo kế hoạch đã được
phê duyệt. Chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở ra quyết định thanh tra và
thành lập đoàn thanh tra. Đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến trách
nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì bộ trưởng,
giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập đoàn thanh tra.
Thứ hai, thanh tra thường xuyên: được tiến hành trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan nội vụ được giao thực hiện chức năng thanh tra TDSDCC.
Thứ ba, thanh tra đột xuất: được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc
phòng, chống tham nhũng hoặc theo yêu cầu của bộ trưởng, chánh thanh tra bộ,
giám đốc sở, chánh thanh tra sở. Chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở ra quyết
định thanh tra đột xuất, thành lập đoàn thanh tra và gửi quyết định thanh tra đột
xuất để báo cáo bộ trưởng, giám đốc sở. Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến
trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất và thành lập
đoàn thanh tra.
Thanh tra TDSDCC được tiến hành theo phương thức đoàn thanh tra với cơ
cấu, tổ chức chặt chẽ, thành viên của đoàn bao gồm: trưởng đoàn thanh tra,
thanh tra viên và các thành viên khác. Trưởng đoàn là người chịu trách nhiệm
quản lý và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của đoàn thanh tra, là một trong các yếu tố
quyết định đến kết quả hoạt động của đoàn thanh tra.
Thanh tra TDSDCC là một nội dung của thanh tra chuyên ngành nội vụ, do
đó, thanh tra viên ngành nội vụ có các tiêu chuẩn đặc thù [16]. Thanh tra viên
15
được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra và các
nhiệm vụ khác theo sự phân công của chánh thanh tra Bộ Nội vụ, chánh thanh
tra Sở Nội vụ. Thanh tra viên được cấp trang phục, thẻ thanh tra. Cộng tác viên
thanh tra ngành nội vụ là người có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm
vụ thanh tra được thanh tra Bộ Nội vụ, thanh tra Sở Nội vụ trưng tập tham gia
đoàn thanh tra và không thuộc biên chế của các cơ quan thanh tra nhà nước.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Thứ nhất, gắn liền với quản lý nhà nước trong lĩnh vực tuyển dụng, sử
dụng công chức. Là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực
TDSDCC vì thế thanh tra TDSDCC gắn liền với vai trò của Nhà nước trong
kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội để thực hiện những chức năng chung của
nhà nước. Để quản lý nhà nước, thanh tra là một công cụ để xem xét, định
hướng đánh giá kết quả quản lý trong lĩnh vực TDSDCC.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra TDSDCC thì quản lý nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra TDSDCC (quy định
thẩm quyền, tổ chức, quyết định và kết luận, sử dụng các kết quả và thông tin từ
phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý nhà
nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện các văn
bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm
quyền. Thanh tra TDSDCC nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động
lên các đối tượng bị quản lý là những vấn đề liên quan đến TDSDCC. Xem xét
cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra TDSDCC là công cụ, phương tiện để
quản lý nhà nước.
Thứ hai, là một trong những chức năng quan trọng và thiết yếu trong hoạt
động quản lý nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh mang tính quyền lực
nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để
duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự xã hội nhằm thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể của quản lý
16
nhà nước với việc tập trung quyền lực của nhân dân, thể hiện tâm tư, ý chí,
nguyện vọng và đảm bảo quyền lợi của nhân dân. Nhà nước quản lý mọi mặt
hoạt động của xã hội bằng pháp luật; các chế tài, thiết chế quyền lực nhà nước
và quản lý nhà nước thông qua các cơ quan chuyên môn với nhiệm vụ, chức
năng nhất định.
Hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tuỳ thuộc vào nội dung, chất
lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định quản lý nhà nước. Trong
khi đó Thanh tra TDSDCC là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước
nên nó là một trong những phương thức đảm bảo các quyết định quản lý được
tuân thủ một cách nghiêm túc, đồng thời góp phần xem xét cả tính hiệu quả của
quản lý nhà nước. Hiệu quả của quản lý nhà nước được tính trên hai phương
diện kết quả đạt được cuối cùng và chi phí thực hiện để đạt kết quả (con người,
tiền bạc, thời gian, công sức....). Hiệu quả trong quản lý là đạt kết quả cuối cùng
đạt được so với mục tiêu đề ra với chi phí ở mức tối thiểu.
Công tác thanh tra TDSDCC với mục đích xem xét, đánh giá thực hiện
quyết định quản lý công tác cán bộ đồng thời xem xét kết luận, đánh giá kết quả
thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ quan quản lý nhà
nước. Thông qua thanh tra TDSDCC nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, tiêu cực
trong công tác cán bộ đã được phát hiện, từ đó các chủ thể quản lý nắm bắt được
tình hình thực hiện pháp luật và nhiệm vụ mà nhà nước giao cho các đối tượng
quản lý thuộc quyền, phát hiện những ưu, khuyết điểm trong quản lý, trong công
tác điều hành, chỉ đạo, từ đó kịp thời ban hành những quyết định hay biện pháp
khắc phục, sửa chữa cũng như các biện pháp tác động phù hợp nhằm củng cố
trật tự pháp luật và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội.
Đối với hoạt động thanh tra TDSDCC đòi hỏi phải thu thập và xử lý; nhận
xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên nhân, dữ liệu, số liệu nhiều hơn, phức
tạp hơn. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản
lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra thực hiện các quyết định
liên quan đến việc TDSDCC mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể
17
thiếu và có ý nghĩa đặc biệt trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ ba, là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật xảy ra với nhiều lý do khác nhau,
nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế.
Vi phạm pháp luật xuất phát từ thiếu trách nhiệm trong quá trình thực thi công vụ
cần phải có hình thức xử lý nghiêm khắc, mạnh mẽ để cho người vi phạm hiểu và
sửa chữa những sai phạm đồng thời răn đe với những hành vi tương tự khác có
thể xảy ra.
Thanh tra TDSDCC góp phần phát hiện và kiến nghị cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh những tồn tại, hạn chế trong cơ chế
quản lý, điều hành trong lĩnh vực chuyên ngành nội vụ. Hoạt động của cơ quan
thanh tra được tiến hành định kỳ, thường xuyên hay đột xuất là sự nhắc nhở,
đồng thời tạo ra một “sức ép” nhất định lên các đối tượng vi phạm để hạn chế vi
phạm pháp luật có thể xảy ra trên thực tế. Ngoài chức năng bảo đảm pháp chế
thanh tra TDSDCC còn có chức năng tìm hiểu, giúp đỡ tìm hướng cho các đối
tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Các kiến nghị xử lý được đưa ra từ hoạt động thanh tra TDSDCC hướng
vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện qua việc phân tích, mổ
xẻ một cách sâu sắc đầy đủ về nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất mức
độ của hành vi vi phạm. Ngoài ra còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính
sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp
luật tương tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác. Vai trò phòng
ngừa của thanh tra TDSDCC mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp,
qua thanh tra mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm sẽ xảy ra trong tương
lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng
một cách kịp thời.
Thứ tư, là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện
nghiêm chỉnh. Với tư cách là một chức năng quản lý nhà nước, thanh tra
TDSDCC chính là hoạt động xem xét tại chỗ việc làm của các cơ quan, tổ chức
18
cá nhân có đúng chính sách, pháp luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm
chậm thì giúp họ sửa chữa và làm cho đúng. Mục đích của thanh tra TDSDCC là
nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các
cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ
và nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước. Để mọi người hiểu biết pháp luật cần nâng
cao công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm tăng cường tính pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra
TDSDCC được người đứng đầu cơ quan thanh tra kiến nghị với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ các quy định trái pháp luật.
Ngoài ra người đứng đầu cơ quan thanh tra kiến nghị với chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp xử lý việc chồng chéo, trùng lặp về chương trình, kế hoạch, nội dung
thanh tra thuộc quyền quản lý nhà nước của cấp mình. Cơ quan thanh tra thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ góp phần tích cực vào việc bảo đảm
tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Nội dung, nguyên tắc và quy trình tiến hành hoạt động thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức
1.2.1. Nội dung thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Nội dung của hoạt động thanh tra TDSDCC chủ yếu hướng tới việc kiểm
soát việc chấp hành chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực tuyển dụng, sử
dụng công chức của các đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhằm phục vụ hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Nghị định số
90/2012/NĐ-CP ngày 25/11/2012 có nêu nội dung thanh tra ngành Nội vụ:
“Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về các lĩnh vực: tổ chức hành
chính, sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa phương, địa giới hành chính; cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước; hội, tổ chức phi chính phủ; phối hợp với các
tổ chức thuộc Bộ thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về các lĩnh
vực: cơ yếu, tôn giáo, thi đua – khen thưởng và văn thư – lưu trữ”. [16]
Ngày 10/12/2012, Thông tư số 09/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ đã quy
19
định quy trình, nội dung thanh tra về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức,
viên chức. Đây là văn bản pháp luật quy định cụ thể nhất từ trước đến nay về
lĩnh vực thanh tra TDSDCC, tạo căn cứ pháp lý vững chắc cho các cuộc thanh
tra TDSDCC trên toàn quốc. Theo đó, nội dung thanh tra bao gồm:
“Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, đường lối, chính sách của
Đảng được cơ quan, đơn vị là đối tượng áp dụng liên quan đến việc tuyển dụng,
sử dụng và quản lý công chức trong giai đoạn và phạm vi thanh tra.
Các văn bản của cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra và các cơ quan, đơn
vị thuộc và trực thuộc đối tượng thanh tra ban hành liên quan đến việc tuyển
dụng, sử dụng và quản lý công chức được áp dụng trong giai đoạn, phạm vi
thanh tra.” [6]
Như vậy, hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức được bao
gồm các nội dung chính sau:
Thứ nhất, thanh tra các căn cứ pháp lý của việc tuyển dụng, sử dụng và
quản lý công chức: các VBQPPL của Nhà nước, đường lối, chính sách của Đảng
được cơ quan, đơn vị là đối tượng áp dụng liên quan đến việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức; các văn bản của cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh
tra ban hành liên quan đến việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức được
áp dụng trong giai đoạn, phạm vi thanh tra.
Thứ hai, thanh tra công tác thực hiện tuyển dụng công chức của cơ quan,
đơn vị là đối tượng thanh tra. Đoàn thanh tra tiến hành thanh tra các căn cứ, điều
kiện, thẩm quyền tuyển dụng công chức; thanh tra các nội dung thi tuyển, xét
tuyển công chức; thanh tra các nội dung về xét chuyển công chức cấp xã thành
công chức cấp huyện trở lên.
Thứ ba, thanh tra việc bố trí, phân công công tác đối với công chức.
Thứ tư, thanh tra việc chuyển ngạch, nâng ngạch và tiêu chuẩn ngạch công chức
Thứ năm, thanh tra căn cứ, lý do để thực hiện điều động, luân chuyển, biệt
phái công chức; trình tự, thủ tục; việc bố trí, phân công công tác đối với công
chức; việc thực hiện chế độ, chính sách đối với công chức; thời hạn điều động,
20
luân chuyển, biệt phái.
Thứ sáu, thanh tra các căn cứ, tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình về công
tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Trình tự,
thủ tục bổ nhiệm đối với nguồn nhân sự tại chỗ và bổ nhiệm đối với nguồn nhân
sự từ nơi khác.
Thứ bảy, thanh tra việc từ chức, miễn nhiệm của công chức giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý
1.2.2. Nguyên tắc thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Sau Luật thanh tra 2004, ngày 10/11/2006 Quyết định số 2151/2006/QĐ-
TTCP được ban hành đã quy định những nội dung quan trọng của Đoàn Thanh tra,
cụ thể là nguyên tắc, chế độ làm việc trong hoạt động thanh tra;những hành vi bị
nghiêm cấm trong hoạt động thanh tra; tổ chức và hoạt động thanh tra; nhiệm vụ,
quyền hạn của Trưởng Đoàn Thanh tra. Năm 2010 Luật thanh tra ra đời đã góp
phần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của ngành
Thanh tra, theo đó, nguyên tắc của hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công
chức là những quy tắc chỉ đạo, tiêu chuẩn hành động xuyên suốt trong quá trình
tiến hành thanh tra của cơ quan thanh tra Nội vụ và bao gồm những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
tuân theo pháp luật. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, thanh
tra TDSDCC được quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Việc can thiệp không có căn cứ pháp luật của bất kỳ tổ
chức, cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy theo mức độ nặng, nhẹ sẽ bị xử lý
theo các quy định của pháp luật.
Trong quá trình thanh tra TDSDCC, những người được giao thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra phải tuân thủ đúng những quy định của pháp luật
về hoạt động thanh tra, bảo đảm tính độc lập, nghiêm minh khi thực hiện những
thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền cho phép. Người ra kết luận thanh
tra, trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm trước
21
pháp luật về kết luận và việc làm của mình trong quá trình thanh tra.
Hoạt động thanh tra TDSDCC được tiến hành từ chương trình, kế hoạch
hoạt động của các tổ chức thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử đoàn
thanh tra, thanh tra viên... đến việc kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ đầy đủ các
quy định của pháp luật thanh tra. Các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh
tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho
đối tượng thanh tra; thanh tra vượt quá thẩm quyền, phạm vi, nội dung thanh tra;
cố ý kết luận sai sự thật, quyết định, xử lý trái pháp luật, bao che cho người có
hành vi vi phạm... đều bị nghiêm cấm và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nguyên tắc hoạt động thanh tra không được làm cản trở hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Hoạt động
thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỷ luật nhà nước, tăng
cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Mục đích cuối
cùng của hoạt động thanh tra TDSDCC là góp phần bảo đảm sự phát triển ổn
định và lành mạnh. Chính vì vậy mà thanh tra không được làm cản trở hoạt động
của đối tượng. Đây là nguyên tắc thể hiện mối quan hệ giữa các cơ quan thanh
tra TDSDCC với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; giữa cơ quan,
tổ chức, cá nhân thực thi quyền lực nhà nước với đối tượng chịu sự quản lý.
Pháp luật trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt vì
thế khi tiến hành hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra phải đảm bảo không cản
trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Có như vậy,
thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố và tăng cường pháp chế và kỷ luật
nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Cơ quan thanh tra TDSDCC chỉ tiến hành thanh tra những nội dung ghi
trong quyết định thanh tra, không được tự ý mở rộng phạm vi thanh tra hoặc kéo
dài thời gian thanh tra… Việc kết luận phải chính xác, khách quan, không vì
động cơ cá nhân, không được gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Nguyên tắc có ý nghĩa thực
22
tiễn rất quan trọng, khi vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ thanh tra lợi dụng
việc thanh tra để thực hiện nhưng hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của đối tượng thanh tra.
Thứ ba, nguyên tắc thanh tra phải bảo đảm tính chính xác, khách quan,
công khai, trung thực, dân chủ, kịp thời. Tính chính xác bảo đảm cho công tác
thanh tra TDSDCC đạt hiệu quả cao, được đối tượng chấp nhận, nhân dân đồng
tình ủng hộ, tạo cơ sở thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra. Muốn
đảm bảo tính chính xác trong hoạt động thanh tra cần có quan điểm đúng đắn
cũng như kiến thức, năng lực và phương pháp nghiệp vụ mới có thể đem lại kết
quả chính xác. Kết quả trong thanh tra TDSDCC không đảm bảo tính chính xác
sẽ dẫn đến việc nhìn nhận, đánh giá sai đối tượng thanh tra, từ đó có những kết
luận, kiến nghị xử lý thiếu đúng đắn, trái pháp luật.
Tính khách quan bảo đảm phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp
méo sự thật. Tính chính xác và tính khách quan có tác động qua lại lẫn nhau. Có
khách quan mới bảo đảm chính xác, ngược lại có chính xác mới thể hiện được
tính khách quan. Để bảo đảm tính khách quan, phải sâu sát thực tế, tôn trọng sự
thật, phản ánh đúng sự thật. Điều quan trọng là phải có bản lĩnh vững vàng, ý
thức trách nhiệm cao và có năng lực xem xét, phân tích chính xác, khoa học.
Tính trung thực là phản ánh đúng và đầy đủ bản chất của sự việc, không
thêm, bớt đồng thời cũng viện dẫn đầy đủ không cắt xén các quy định pháp luật
để xác định rõ đúng, sai.
Tính công khai trong hoạt động thanh tra TDSDCC thể hiện ở chỗ phải
thông báo nội dung thanh tra để mọi người biết nhằm động viên đông đảo nhân
dân tham gia phát hiện, giám sát, kiểm tra góp phần bảo đảm tính chính xác.
Những nội dung cần công khai bao gồm: quyết định thanh tra; tiếp công khai đối
tượng thanh tra và mọi người có liên quan ở nơi thanh tra; công khai kết luận
thanh tra... Tuỳ theo từng tính chất vụ việc thanh tra mà có hình thức công khai
cho thích hợp trừ trường hợp về bí mật quốc gia, thuộc an ninh quốc phòng hoặc
23
cần giữ bí mật về người tố cáo để bảo vệ họ... thì không được phép công khai.
Tính dân chủ trong hoạt động thanh tra TDSDCC là thể hiện sự tôn trọng
với đối tượng thanh tra góp phần tích cực vào kết quả kiểm tra, thanh tra. Trong
quá trình thanh tra cần coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi trọng
tính thuyết phục và việc thu thập, tiếp nhận thông tin có liên quan, kể cả tạo điều
kiện cho đối tượng thanh tra được trình bày ý kiến của họ để rà soát lại tính
đúng đắn từng việc làm cụ thể. Cần tránh mọi biểu hiện chủ quan áp đặt, bất
chấp ý kiến người khác. Tuy nhiên qua ý kiến đóng góp trình bày của nhiều
người, đoàn thanh tra, thanh tra viên phải xem xét, cân nhắc, để có sự quyết
đoán chính xác, dám chịu trách nhiệm về các quyết định và việc làm của mình.
Nếu do dự hoặc không biết chọn lọc ý kiến sẽ rất lúng túng, mất tính chủ động
trong kiểm tra, thanh tra.
Tính kịp thời trong hoạt động thanh tra TDSDCC cũng rất quan trọng bởi
vì do yêu cầu quản lý nhà nước và những vấn đề cuộc sống đặt ra là phải được
kiểm tra, thanh tra và trả lời đầy đủ, kịp thời mới có đối sách ứng xử cho sát
hợp. Nếu hoạt động thanh tra tiến hành chậm trễ hoặc không gắn với chu trình
quản lý sẽ kém hiệu quả. Muốn bảo đảm kịp thờiphải có kiến thức và năng lực
để phát hiện, phân tích, giám sát chiều sâu, làm rõ các mối liên hệ mới có thể
đánh giá đúng bản chất của sự vật, không lầm lẫn. Yêu cầu này nhằm đảm bảo
phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những việc làm vi phạm pháp luật, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể và các cá nhân trong xã hội.
Thứ tư, nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời
gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Thủ trưởng cơ
quan thanh tra TDSDCC cần nghiên cứu, xem xét kỹ các căn cứ và những điều
kiện khác có liên quan trước khi ra quyết định thanh tra và thành lập đoàn thanh
tra để tránh trùng lặp, cố gắng tránh hiện tượng có thể xảy ra là 1 năm liên tiếp
có nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra đến một cơ quan, đơn vị, nhất là thanh tra,
kiểm tra về cùng 1 nội dung. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, trưởng đoàn và
các thành viên cần thực hiện đúng kế hoạch thanh tra, đúng quyền hạn, trình tự
24
thủ tục và đúng thời gian, thời hiệu thanh tra.
Việc xác định đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra có căn cứ
từ hai phương diện: mức khái quát, hệ thống quản lý cần thông tin về vấn đề gì
và thanh tra đáp ứng theo phương pháp nào lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chính
hay xử lý là chính; mức cụ thể, hoạt động thanh tra thuộc quản lý nhà nước ở
lĩnh vực nào thì có đối tượng phạm vi, nội dung cụ thể theo lĩnh vực đó và điều
đó được thể hiện trực tiếp thông qua quyết định của cấp có thẩm quyền.
Thứ năm, nguyên tắc sử dụng đúng quyền hạn trong hoạt động thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức. Quyền hạn trong hoạt động thanh tra TDSDCC
là yếu tố mang tính nguyên tắc đảm bảo cho thanh tra đạt được mục đích đề ra.
Hoạt động thanh tra TDSDCC là hoạt động nhân danh quyền lực hành chính nhà
nước của cơ quan quản lý hành chính cấp trên đối với cấp dưới. Do vậy giới
hạn, phạm vi sử dụng quyền trong thanh tra TDSDCC nằm trong khuôn khổ của
quyền lực hành chính nhà nước. Việc sử dụng đúng quyền hạn trong thanh tra
đòi hỏi trên các khía cạnh: phạm vi, tính chất vấn đề, hành động và không hành
động trong sử dụng quyền.
Thứ sáu, nguyên tắc tuân thủ trình tự thanh tra tuyển dụng, sử dụng công
chức. Muốn tiến hành thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức trước hết phải có
quyết định thanh tra do người có thẩm quyền ban hành. Quyết định thanh tra
phải ghi rõ nội dung thời hạn thanh tra và xác định rõ người thực hiện. Khi thời
hạn thanh tra đã hết, nếu cuộc thanh tra chưa kết thúc phải có quyết định kéo dài
hoặc gia hạn thời hạn thanh tra.
Kết thúc cuộc thanh tra TDSDCC, đoàn thanh tra (thanh tra viên) phải có
báo cáo kết quả thanh tra, kiến nghị về các nội dung đã được thanh tra và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận, quyết định, các kiến nghị. Người ra
quyết định thanh tra TDSDCCphải ra kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra phải
xác định rõ đúng, sai; xác định các nguyên nhân khách quan, chủ quan; quy rõ
trách nhiệm. Tất cả các kết luận đều phải có hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, vật mang
25
tin khác bảo đảm.
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng
công chức
1.3.1. Yếu tố khách quan
a) Yếu tố chính trị
Qua việc nghiên cứu quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra
cho thấy, hơn 70 năm qua, cùng với sự lớn mạnh và phát triển của đất nước, công
tác thanh tra luôn luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng và nhất quán phương
châm tăng cường củng cố và phát triển để đáp ứng yêu cầu nhà nước qua mỗi thời
kỳ cách mạng của đất nước. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử, đất nước ta có
một nhiệm vụ chính trị riêng, chính vì thế hoạt động thanh tra cũng vận hành phù
hợp để góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của đất nước.
Vào những năm mới dành độc lập, nhiệm vụ chính trị đặt ra là ổn định đời
sống nhân dân trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm các quyền của người dân được
thực thi. Từ ý nghĩa đó ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 64/SL, thành lập Ban thanh tra đặc biệt, trong đó nêu rõ: “Ban thanh tra đặc
biệt có toàn quyền nhận các đơn khiếu nại của dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét
các tài liệu giấy tờ của UBND hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho
công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay
của Chính phủ đã phạm lỗi" [21]. Người dành sự quan tâm đặc biệt đối với công
tác thanh tra trong sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Nội dung mà công
tác thanh tra hướng tới trong thời gian này là giải quyết các khiếu nại của nhân
dân và thanh tra, xem xét sự thi hành chủ trương, chính sách của Chính phủ.
Sau một thời gian dài, đất nước ta đã có nhiều thành tựu trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, giai đoạn mới đặt ra cho chúng ta nhiều thách
thức, hoạt động thanh tra cũng có những thay đổi phù hợp, trong đó phải kể đến
sự ra đời của Chỉ thị số 38 CT/TW ngày 20/2/1984 của Ban bí thư Trung ương:
"trước mắt, cũng như lâu dài, công tác thanh tra có tác dụng quan trọng trực tiếp
đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giữ gìn pháp luật của
26
Nhà nước" và "cần tăng cường cho các tổ chức thanh tra có đủ số lượng cán bộ
thanh tra có phẩm chất, đạo đức tốt và có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn" [1] hoặc Nghị quyết số 26-HĐBT ngày 15/2/1984: "Thanh tra là một khâu
không thể thiếu trong công tác lãnh đạo. Đường lối chủ trương của Đảng được
Nhà nước cụ thể hoá bằng các chủ trương, chính sách và bằng việc tổ chức thực
hiện, đồng thời phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc tiến hành chủ trương
chính sách đã đề ra. Mặt khác, đứng về Nhà nước và xã hội phải tăng cường xây
dựng tổ chức ngành thanh tra" và "tổ chức thanh tra phải là một tổ chức có hiệu
lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời phải là một hình thức tổ chức
của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ của mình trong kiểm tra, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước".
Ngày 01/4/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thanh tra, đến
năm 2004 Quốc hội ban hành Luật Thanh tra đây là văn bản pháp lý cao nhất từ
trước tới nay có phạm vi điều chỉnh tổng quát nhất, đề cập nhiều vấn đề có liên
quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra. Luật Thanh tra ra đời có ý nghĩa quan
trọng về thực tiễn và lý luận. Đây là sự cụ thể ở mức cao quan điểm của Đảng và
Nhà nước đối với công tác thanh tra: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của
quản lý nhà nước” . Trên cơ sở tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra;
kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Thanh tra năm 2004; tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về công tác thanh tra, Quốc hội
khóa XIII đã ban hành Luật Thanh tra năm 2010 với nhiều thay đổi về tổ chức,
hoạt động thanh tra như làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi,
phương thức hoạt động thanh tra và sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, khắc
phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra; bảo đảm sự phối hợp
có hiệu quả giữa các công cụ giám sát, kiểm tra, thanh tra của bộ máy nhà nước
và của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hiến pháp năm 2013 một lần nữa quy định chức năng thanh tra gắn liền với
nhiệm vụ của Chính phủ tại khoản 5, điều 96 như sau: “tổ chức công tác thanh
tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng
27
trong bộ máy nhà nước...” [29]. Hiến pháp là cơ sở để Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 tại Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 08/12/2015. với tinh thần nâng cao
địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao; xây dựng ngành Thanh tra với đội ngũ nhân lực hội đủ
năng lực, trình độ, phẩm chất nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội
nhập quốc tế.
Thanh tra TDSDCC là một hoạt động của ngành thanh tra, vì thế đặt ra yêu
cầu mới trong thời kỳ mở cửa đó là quản lý tốt hoạt động liên quan đến đội ngũ
công chức, những người đang thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan nhà nước.
Qua trình thanh tra chịu áp lực không nhỏ từ xã hội cũng như yêu cầu của công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền. Để đảm bảo đáp ứng yêu cầu chính trị nào
hiện nay thanh tra TDSDCC cần theo dõi, xem xét việc chấp hành các kế hoạch
chỉ thị, chính sách đó, các địa phương.
b) Yếu tố pháp luật
Tuân thủ pháp luật mang đến hiệu quả của pháp luật được thực hiện trên
thực tế. Pháp luật ban hành ra là để tất cả mọi ngời thực hiện và tuân thủ đầy đủ
các quy định của pháp luật. Chính vì thế hoạt động thanh tra cũng phải tuân thủ
đầy đủ các quy định của pháp luật. Có thể nói tuân thủ pháp luật nói chung và
các quy định pháp luật về thanh tra nói riêng là thước đo hiệu lực, hiệu quả của
công tác thanh tra. Mức độ hoàn thiện của pháp luật ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu quả của công tác thanh tra.
Pháp luật có liên quan đến hoạt động thanh tra trong lĩnh vực TDSDCC bao
gồm hai nhóm: các văn bản pháp luật về công chức và TDSDCC và các văn bản
về thanh tra.
Thứ nhất, pháp luật về tuyển dụng, sử dụng công chức
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức tạo cơ sở pháp lý giúp cơ quan, đơn
28
vị xây dựng văn bản quản lý, tổ chức thực hiện công tác cán bộ có quy trình, quy
định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ hơn. Việc đổi mới công tác cán bộ đã đặt ra yêu
cầu đó là hệ thống pháp luật phải phù hợp với thực tiễn.
Ngày 01/12/2017 Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 2823/QĐ-BNV về
phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Nội vụ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2035 với mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Nội
vụ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; có số lượng và cơ cấu hợp lý; có phẩm
chất đạo đức tốt, năng động, sáng tạo; đề cao trách nhiệm giải trình, tăng cường
kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ” [10]. Đây đã trở thành định
hướng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân xây dựng kế hoạch, quy hoạch và hoàn
thiện cơ chế chính sách công tác cán bộ trong những năm gần đây.
Ngày 29/11/2018 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 161/2018/NĐ-CP
quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức và thăng
hạng viên chức đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2010/NĐ-
CP, và ngày 14/5/2019 Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BNV
sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng
ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và thực hiện chế
độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập với những điểm mới thắt chặt hơn nữa quy trình TDSDCC
nhằm tăng tính cạnh tranh minh bạch, công bằng; hạn chế tiêu cực.
Thứ hai, các văn bản pháp luật về Thanh tra
Từ định hướng của các văn kiện Đảng như Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung tương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận Hội
nghị Trung ương 5 (Khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng lãng phí… đã chỉ rõ cần đẩy mạnh thanh tra, tăng cường
tính độc lập tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, tăng cường thanh tra
29
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ công vụ… trong đó có nội dung về TDSDCC.
Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật về thanh tra đã được ban hành với văn
bản cụ thể như: Nghị định số 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Nội vụ; Thông tư số 09/2012/TT-BNV
ngày 10/12/2012 của Bộ Nội vụ đã Quy định quy trình, nội dung thanh tra về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức đã tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho hoạt động thanh tra TDSDCC.
c) Yếu tố tập quán - văn hóa
Tập quán văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật,
đặc biệt trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Tập quán văn hóa chính là những
chuẩn mực của hành vi của con người trong cuộc sống. Do đó, việc xây dựng pháp
luật phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng
biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Văn hóa điều chỉnh hành vi của con
người mạnh hơn cả pháp luật. Vì thế pháp luật phải được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm văn hóa đã có trong cuộc sống.
Tập quán – văn hóa ảnh hưởng không chỉ đến pháp luật mà còn tác động
trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của cơ quan và công chức nhà nước. Trong lĩnh
vực thanh tra TDSDCC thì yếu tố tập quán – văn hóa được hiểu là những kinh
nghiệm, thói quen mà cán bộ, công chức đang áp dụng để giải quyết công việc
mà pháp luật cho phép.
Thực tế cho thấy ở Việt Nam không có tập quán, truyền thống “soi xét lại”
các quy định TDSDCC. Thường xem việc TDSDCC là trách nhiệm của người
đứng đầu, cho nên dẫn đến tình trạng thụ động, bị động trong tuân thủ các quy
định của lãnh đạo về TDSDCC. Ở Việt Nam chưa hình thành văn hóa thi tuyển,
văn hóa công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng nên dẫn đến tình trạng
thi cử không minh bạch, còn chạy điểm, tiêu cực trong thi cử.
Có thể nói Tập quán – văn hóa không giải quyết tốt sẽ trở thành những rào
cản rất lớn cho công tác thanh tra. Thậm chí ở nhiều cơ quan việc TDSDCC còn
là vấn đề bí mật nên không thể giám sát. Tình trạng nàydiễn ra thường xuyên
gây ảnh hưởng rất lớn đến việc thu thập thông tin để giải quyết, xử lý đối với
30
các cuộc thanh tra.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
a) Việc tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Hoạt động thanh tra TDSDCC được tiến hành theo hai hình thức là theo kế
hoạch và đột xuất. Theo cách hiểu chung nhất, hình thức là cách thức tổ chức,
tiến hành một hoạt động có mục đích, phương tiện, thời hạn, phạm vi, đối tượng,
yêu cầu cụ thể. Thực tiễn cho thấy, có cuộc thanh tra theo kế hoạch nhưng thời
hạn thanh tra ngắn, phạm vi thanh tra hẹp và ngược lại, có cuộc thanh tra đột
xuất nhưng đòi hỏi phải thanh tra toàn diện, nội dung phức tạp, kéo dài.
Việc xác định rõ các nội dung theo từng hình thức thanh tra sẽ giúp việc tổ
chức thực hiện hoạt động thanh tra TDSDCC đảm bảo tính toàn diện và cụ thể, sử
dụng tối ưu nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, tránh tình trạng
chậm trễ chủ yếu trong ban hành Kết luận thanh tra hoặc không hoàn thành kế
hoạch thanh tra do cơ quan thanh tra phải tiến hành nhiều cuộc thanh tra đột xuất.
b) Công tác chỉ đạo đối với hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Tổ chức thanh tra TDSDCC phân bố từ trung ương đến địa phương phải đảm
bảo sự chỉ đạo của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên trong công tác xây dựng và
phát triển ngành quy hoạch đội ngũ cán bộ thanh tra giỏi nghiệp vụ, tâm huyết gắn
bó với ngành; thống nhất thẩm quyền, căn cứ tiến hành thanh tra đột xuất.
Thực tế cho thấy các cơ quan thanh tra thiếu tính độc lập và phụ thuộc vào
cơ quan quản lý cùng cấp về nhiều mặt: cơ cấu tổ chức, công tác nhân sự, kinh
phí, xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra. Điều này cần được quan tâm,
điều chỉnh kịp thời tránh ảnh đến công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt
động thanh tra TDSDCC và phải đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm
của các cơ quan thanh tra trong việc quyết định thanh tra.
c) Yếu tố năng lực và đạo đức công vụ của các chủ thể trong hoạt động
thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Năng lực và đạo đức công vụ của các chủ thể trong hoạt động thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức là yếu tố chủ quan tác chủ đạo quyết định đến
hiệu quả của hoạt động này. Hoạt động thanh tra TDSDCC hiện nay bao gồm
31
các chủ thể sau: Thủ trưởng cơ quan hành chính; người ra quyết định thanh tra;
trưởng đoàn thanh tra; thành viên đoàn thanh tra; giám định viên và các cơ quan
phối hợp liên quan.
Người ra quyết định thanh tra: Tuy không trực tiếp giải quyết các công
việc cụ thể của đoàn thanh tra nhưng người ra quyết định thanh tra có vị trí, vai
trò hết sức quan trọng đối với đoàn thanh tra. Người ra quyết định thanh tra có
trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung, thời hạn
ghi trong quyết định thanh tra.
Người ban hành quyết định thanh tra phải chọn những người có năng lực,
trình độ, phù hợp với yêu cầu của cuộc thanh tra. Trong đó, việc chọn cử trưởng
đoàn là rất quan trọng, trưởng đoàn là người trực tiếp chỉ đạo, điều hành tiến
hành cuộc thanh tra, chịu trách nhiệm trước người ra quyết định và trước pháp
luật về kết quả cuộc thanh tra.
Tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động của đoàn thanh tra. Việc kiểm tra
của người ra quyết định thanh tra đối với đoàn thanh tra rất quan trọng, giúp
đoàn thanh tra khắc phục kịp thời những thiếu sót, tháo gỡ những vướng mắc,
đảm bảo cho cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
Trưởng đoàn thanh tra: là người nghiên cứu kỹ nội dung thanh tra, nguồn
gốc và tài liệu làm căn cứ ra quyết định thanh tra để từ đó xác định mục đích,
yêu cầu của cuộc thanh tra; xác định trọng tâm, trọng điểm, phương pháp tiến
hành cuộc thanh tra; bố trí lực lượng, kinh phí phục vụ cho cuộc thanh tra.
Trưởng đoàn thanh tra phải lường được những thuận lợi, khó khăn, những yếu
tố tác động đến cuộc thanh tra. Đây là việc quan trọng, có tác dụng định hướng
xuyên suốt quá trình hoạt động thanh tra.
Trưởng đoàn thanh tra có vai trò là người tổ chức và quản lý, nên phải là
cán bộ có năng lực tổ chức và chỉ đạo, điều hành. Hoạt động của đoàn thanh tra
trong quá trình thanh tra phải được quản lý chỉ đạo chặt chẽ và rất cụ thể, tính kỷ
luật cao. Trưởng đoàn phải am hiểu về hoạt động quản lý, điều hành thì mới đề
ra được nhiệm vụ, kế hoạch thanh tra sát, đúng, phân công cho mỗi thành viên
và hướng dẫn họ hoạt động có trọng tâm, trọng điểm cụ thể để thực hiện theo
32
đúng kế hoạch. Đồng thời, trưởng đoàn phải có nhận thức bao quát hơn, có trình
độ tổng hợp cao mới có thể từ những sự việc cụ thể, khác nhau, phân tích làm rõ
mối liên hệ hữu cơ giữa các sự việc, hành vi đảm bảo cho việc kết luận chính
xác, khách quan và kiến nghị xử lý đúng người, đúng lỗi và khả thi.
Thành viên đoàn thanh tra: là người trực tiếp thực hiện các công việc
chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể như: giao nhận hồ sơ, tài liệu; kiểm tra thực trạng
hồ sơ, tài liệu có đảm bảo chất lượng, đúng yêu cầu không; trực tiếp quản lý hồ
sơ, tài liệu trong thời gian thanh tra; tiến hành các phương pháp kiểm tra, đối
chiếu, đánh giá; yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình và xác minh những vấn đề
liên quan đến nội dung thanh tra…
Với vai trò này, đòi hỏi các thành viên trong đoàn thanh tra phải đáp ứng
các tiêu chuẩn theo quy định pháp luật; nắm được tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội có ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra trong thời
kỳ được thanh tra; khái quát được kết quả thực hiện các nội dung được thanh tra;
ưu, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, điều hành; nguyên nhân khách quan, chủ
quan. Đây là một trong những căn cứ quan trọng cho kết luận cuộc thanh tra sau
này không bị sai lệch, phiến diện.
Trước yêu cầu đổi mới hoạt động thanh tra hiện nay, càng đòi hỏi mỗi
thanh tra viên phải trau dồi, học tập, tìm hiểu thường xuyên chủ trương chính
sách và thực tế xã hội, coi đó là một quá trình tích luỹ đối với mỗi thanh tra
viên, tạo cho mình sự hiểu biết đa dạng, phong phú; đó là điều kiện cần thiết để
có thể thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngoài ra, đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, các nhân có liên quan
đến nội dung thanh tra có trách nhiệm báo cáo, giải trình, cung cấp đầy đủ, kịp
thời thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra; thực hiện yêu cầu, kết
luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của người có thẩm quyền. Hoạt
động thanh tra ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, quyền lợi kinh tế - chinh trị của
đối tượng thanh tra nên sự hợp tác của đối tượng thanh tra có sự ảnh hưởng lớn
33
đến hiệu quả của cả quá trình thanh tra.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong chương 1, dưới góc độ lý luận, luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ
những nội dung sau:
Thứ nhất, đã làm rõ khái niệm thanh tra TDSDCC: là hoạt động đánh giá,
xem xét, kết luận của cơ quanh thanh tra nhà nước có thẩm quyền đối với việc
thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, nâng ngạch, bổ
nhiệm ngạch, chuyển ngạch; đánh giá, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân
chuyển, từ chức, miễn nhiệm, biệt phái công chức của cơ quan, tổ chứ, cá nhân
thuộc phạm vi quản lý. Hoạt động được tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật
định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; những
sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động thanh tra TDSDCC là các cơ quan thanh tra
nhà nước (Thanh tra Bộ Nội vụ, Thanh tra Sở Nội vụ). Đối tượng thanh tra
TDSDCC là các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nội
vụ, Sở Nội vụ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ chấp hành quy định
pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, Sở
Nội vụ.
Thứ ba, nội dung thanh tra TDSDCC bao gồm các vấn đề: thanh tra các căn
cứ pháp lý; thanh tra việc tổ chức thực hiện; thanh tra việc bố trí, phân công
công tác đối với công chức; thanh tra việc chuyển ngạch, nâng ngạch và tiêu
chuẩn ngạch công chức; thanh tra công tác điều động, luân chuyển, biệt phái;
chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức; thanh tra công tác bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại.
Thứ tư, làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thanh tra
TDSDCC bao gồm: yếu tố chính trị, yếu tố pháp luật, yếu tố năng lực, đạo đức
công vụ của các chủ thể có liên quan và các yếu tố bên ngoài khác như yếu tố
34
văn hóa, tập quán..
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG
CÔNG CHỨC CỦA THANH TRA BỘ NỘI VỤ
2.1. Khái quát chung về thanh tra Bộ Nội vụ
Ngày 11/3/1995, Nghị định số 181/CP của Chính phủ đã ban hành Quyết
định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của Vụ Thanh
tra Pháp chế thuộc Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Đây là văn bản tạo cơ sở
pháp lý để cải tiến một bước hoạt động của công tác thanh tra công vụ, đáp ứng
kịp thời đòi hỏi của yêu cầu nhiệm vụ mới. Theo đó, Vụ Thanh tra pháp chế
thực hiện chức năng chính là thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp, chính
sách thuộc lĩnh vực do Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ phụ trách. Ngày
29/9/2003 Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 61/2003/QĐ-BNV quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra Bộ - chính thức
thành lập Thanh tra Bộ Nội vụ và được kiện toàn bằng Quyết định số 2578/QĐ-
BNV ngày 21/9/2017.
Kể từ khi thành lập, Thanh tra Bộ Nội vụ đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ
thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công
dân và phòng, chống tham nhũng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Bộ Nội vụ. Hiện nay Thanh tra Bộ Nội vụ được tổ chức thành 03 phòng:
phòng Tổng hợp; phòng Thanh tra nội vụ khối bộ, ngành Trung ương; phòng
Thanh tra nội vụ khối địa phương.Tổng số cán bộ, công chức tính đến tháng
4/2019 là 20 người (Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra).
Thanh tra Bộ Nội vụ có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà
nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, phòng,
chống tham nhũng và phòng, chống tội phạm; tiến hành thanh tra hành chính đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ;
tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
35
vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ Nội vụ và Thanh tra Bộ;
giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, phòng, chống tham nhũng và phòng,
chống tội phạm theo quy định của pháp luật.
2.2. Thực tiễn nội dung và quy trình tiến hành hoạt động thanh tra tuyển
dụng, sử dụng công chức của Thanh tra Bộ Nội vụ
2.2.1. Nội dung thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức của Thanh tra
Bộ Nội vụ
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Thanh tra Bộ Nội vụ tiến hành hoạt
động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức được bao gồm các nội dung chính
sau: [9]
Thứ nhất, đối tượng thanh tra là các căn cứ pháp lý của việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức. Căn cứ pháp lý là cơ sở quan trọng để các cơ quan,
đơn vị có thẩm quyền triển khai thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng công
chức nên việc đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản này là rất quan
trọng. Theo đó căn cứ pháp lý của thanh tra bao gồm: các VBQPPL của Nhà
nước, đường lối, chính sách của Đảng được cơ quan, đơn vị là đối tượng áp
dụng liên quan đến việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức trong giai
đoạn và phạm vi thanh tra; các văn bản của cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh
tra và các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc đối tượng thanh tra ban hành liên
quan đến việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức được áp dụng trong
giai đoạn, phạm vi thanh tra.
Luật Cán bộ, công chức là căn cứ pháp lý chủ đạo nhằm tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đãi ngộ, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức. Để đáp ứng với yêu cầu của từng thời kỳ và
khắc phục những hạn chế của chính sách cũ, Chính phủ đã trình và tại kỳ họp
thứ 8 Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật số 52/2019/QH14 ngày 25/11/2019
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức (có hiệu lực từ ngày
36
01/7/2020).
Thứ hai, thanh tra việc tổ chức thực hiện công tác tuyển dụng công chức
của cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra. Việc thanh tra tiến hành với các nội
dung: kiểm tra hồ sơ, tài liệu liên quan công tác tuyển dụng công chức trong giai
đoạn và phạm vi thanh tra; thanh tra các căn cứ, điều kiện, thẩm quyền tuyển
dụng công chức thông qua các VBQPPL có liên quan đến nội dung tuyển dụng
công chức; thanh tra các nội dung về thi tuyển công chức; thanh tra các nội dung
về xét tuyển công chức; thanh tra các nội dung về xét chuyển công chức cấp xã
thành công chức cấp huyện trở lên. Một số căn cứ cụ thể có thể kể đến như:
Luật Cán bộ, công chức năm 2019 đã giao Chính phủ quy định lộ trình thực
hiện kiểm định chất lượng đầu vào công chức, bảo đảm công khai, minh bạch,
thiết thực, hiệu quả (Điều 39). Đồng thời, Luật bổ sung đối tượng xét tuyển đối
với người học theo chế độ cử tuyển, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nhà khoa
học trẻ tài năng (ngoài đối tượng cam kết làm việc 5 năm trở lên ở vùng đặc biệt
khó khăn) (Khoản 2 Điều 37) và quy định rõ các đối tượng được tiếp nhận vào
làm công chức từ cấp huyện trở lên đối với viên chức, cán bộ và công chức cấp
xã, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang, người làm công tác cơ yếu,
người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước và người
đã từng là cán bộ, công chức (Khoản 3 Điều 37). Điều này đã tạo nên những
thay đổi căn bản về căn cứ tuyển dụng công chức trong công tác thanh tra
TDSDCC.
Điểm b Khoản 3 Điều 24 của Quy chế tổ chức thi tuyển, xét tuyển công
chức đã quy định tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm tra sát hạch “không cử làm
thành viên Ban kiểm tra sát hạch đối với những người là cha, mẹ, anh, chị, em
ruột của bên vợ hoặc chồng, vợ hoặc chồng của người dự xét tuyển và những
người đang trong thời gian bị xem xét xử lý kỷ luật hoặc đang thi hành quyết
định kỷ luật”. Tuy nhiên Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 13/2010/TT-BNV quy
định về việc thành lập Hội đồng kiểm tra, sát hạch đối với cán bộ, công chức cấp
xã thành công chức cấp huyện không quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện của
37
thành viên Hội đồng kiểm tra, sát hạch. Do đó, qua thanh tra có trường hợp anh
trai ruột làm Chủ tịch Hội đồng để kiểm tra, sát hạch cho em trai ruột thành công
chức cấp huyện.
Về điều kiện, tiêu chuẩn xét chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công
chức từ cấp huyện trở lên tại Khoản 4 Điều 25 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP
quy định “Có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ được giao”.Việc quy định này là chưa cụ thể vì không xác định việc
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao trong thời gian bao nhiêu. Do đó, đề
nghị điều chỉnh, bổ sung nội dung này theo hướng giống với việc xét chuyển
viên chức thành công chức đó là đối tượng xét chuyển phải đáp ứng trong vòng
5 năm (60 tháng) phải hoàn thành nhiệm vụ được giao trở lên.
Thứ ba, thanh tra việc bố trí, phân công công tác đối với công chức. Trong
nội dung này, đoàn thanh tra kiểm tra hồ sơ, tài liệu về: việc quản lý vị trí việc
làm và biên chế công chức theo phân cấp và theo quy định của pháp luật; văn
bản phê duyệt các vị trí việc làm của từng cơ quan, đơn vị thuộc đối tượng thanh
tra; việc bố trí, phân công công tác đối với công chức theo đúng vị trí việc làm
và bản mô tả công việc đã được phê duyệt; kiểm tra sự phù hợp giữa trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ thể hiện thông qua các văn bằng, chứng chỉ với vị trí
công việc của công chức được bố trí.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản hướng dẫn thi
hành, Thành viên Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, cấp huyện là những người
đứng đầu các cơ quan chuyên môn của UBND. Trên thực tế, sau khi có kết quả
phê duyệt Thành viên UBND, các cơ quan, đơn vị ban hành quyết định bổ
nhiệm Thành viên UBND giữ các chức vụ các cơ quan chuyên môn. Việc này có
02 trường hợp: Một là, những người đang giữ chức vụ trưởng các cơ quan
chuyên môn của UBND, sau đó được bầu và phê chuẩn là thành viên UBND;
hai là những người là cấp phó hoặc không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ
quan chuyên môn của UBND nhưng được bầu và phê chuẩn là Thành viên
UBND. Do đó, đề nghị cần có văn bản hướng dẫn nội dung này để thực hiện
38
thống nhất.
Các quyết định của Bộ Nội vụ phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong các
cơ quan, tổ chức hành chính của UBND các tỉnh, thành phố, theo đó xác định
ngạch công chức tối thiểu của cấp trưởng, cấp phó cơ quan chuyên môn cấp
UBND cấp tỉnh, thành phố là “chuyên viên chính”. Quyết định số 82/2004/QĐ-
BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn Giám đốc sở và các chức vụ tương
đương thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Thông tư của
Bộ, ngành Trung ương, theo đó, tiêu chuẩn về trình độ quản lý nhà nước được yêu
cầu: “Tốt nghiệp quản lý hành chính nhà nước ngạch chuyên viên chính trở lên”.
Thông tư số 11/2014/TT-BNV, Thông tư số 05/2017/TT-BNV (sửa đổi bổ
sung một số điều của Thông tư số 11/2014/TT-BNV) của Bộ Nội vụ quy định
chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch công
chức chuyên ngành hành chính, theo đó, một trong những tiêu chuẩn về trình độ
đào tạo, bồi dưỡng của ngạch chuyên viên chính: “có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính”.
Do vậy sẽ rất khó khăn cho cơ sở áp dụng khi xác định điều kiện tiêu chuẩn
bổ nhiệm cán bộ bởi khi xem xét đủ điều kiện tiêu chuẩn bổ nhiệm có chứng chỉ
bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính. Nhưng lại chưa
đủ điều kiện theo vị trí việc làm Bộ Nội vụ đã phê duyệt danh mục vị trí đó phải
giữ ngạch chuyên viên chính. Do đó, các quy định về công tác cán bộ cần thống
nhất việc xác định giữa tiêu chuẩn ngạch và tiêu chuẩn bổ nhiệm.
Một số Bộ ban hành tiêu chuẩn giám đốc, phó giám đốc sở cần phải có chứng
chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước của ngành. Tuy nhiên, đến nay có Bộ
mới xây dựng xong tài liệu bồi dưỡng nhưng chưa tổ chức bồi dưỡng; có Bộ chưa
xây dựng xong tài liệu bồi dưỡng. Do đó, có những trường hợp giám đốc sở, phó
giám đốc sở được bổ nhiệm nhưng chưa có chứng chỉ về nội dung này.
Thứ tư, thanh tra việc chuyển ngạch, nâng ngạch và tiêu chuẩn ngạch công
chức đoàn thanh tra tiến hành các nội dung cụ thể sau:
Đối với nâng ngạch công chức: kiểm tra căn cứ để tổ chức thi nâng ngạch
39
và việc xây dựng kế hoạch thi nâng ngạch công chức; việc thông báo thi nâng
ngạch, việc quy định điều kiện, tiêu chuẩn dự thi nâng ngạch; môn thi, đề thi,
cách tính điểm từng môn thi; đáp án và thang điểm từng môn thi; hình thức và
thời gian, lệ phí thi; việc tiếp nhận hồ sơ dự thi nâng ngạch và việc đáp ứng các
điều kiện, tiêu chuẩn của hồ sơ dự thi; việc đáp ứng tỷ lệ cạnh tranh trong thi
nâng ngạch; việc thành lập và thực hiện nhiệm vụ của hội đồng thi nâng ngạch
công chức và các ban, bộ phận giúp việc của hội đồng thi nâng ngạch; việc tổ
chức thi; chấm thi nâng ngạch; việc báo cáo kết quả thi nâng ngạch; việc thông
báo kết quả thi nâng ngạch cho các thí sinh; việc ra quyết định phê duyệt kết quả
thi nâng ngạch; quyết định bổ nhiệm ngạch và xếp lương đối với công chức
trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch.
Đối với chuyển ngạch công chức: kiểm tra việc quy định của đối tượng
thanh tra về thẩm quyền đề nghị và quyết định việc chuyển ngạch công chức;
việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn của các hồ sơ xét chuyển ngạch; việc
thành lập và thực hiện nhiệm vụ của hội đồng xét chuyển ngạch công chức; việc
nâng bậc lương khi chuyển ngạch công chức.
Đối với tiêu chuẩn ngạch công chức: kiểm tra tổng số các ngạch công chức
của đối tượng thanh tra trong thời kỳ thanh tra; việc đáp ứng của các văn bằng,
chứng chỉ, các đề án, đề tài, công trình khoa học và các tài liệu khác có liên quan
đến tiêu chuẩn ngạch công chức theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, đoàn thanh tra kiểm tra, đối chiếu hồ sơ tài liệu liên quan đến
việc điều động, luân chuyển, biệt phái công chức theo quy định của pháp luật,
bao gồm: căn cứ, lý do để thực hiện; trình tự, thủ tục; việc bố trí, phân công
công tác đối với công chức; việc thực hiện chế độ, chính sách đối với công chức;
thời hạn điều động, luân chuyển, biệt phái. Ngoài ra thanh tra việc chuyển đổi vị
trí công tác đối với công chức thuộc các vị trí phải định kỳ chuyển đổi theo quy
định của pháp luật và các vị trí khác theo quy định riêng của đối tượng thanh tra.
Thứ sáu, thanh tra các căn cứ, tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình về công
tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Việc bổ
40
nhiệm phải đáp ứng tiêu chuẩn chung của công chức và tiêu chuẩn cụ thể của
từng chức danh bổ nhiệm theo quy định Đảng và Nhà nước. Việc bổ nhiệm lại
phải hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian giữ chức vụ lãnh đạo; đạt tiêu chuẩn
chung và tiêu chuẩn cụ thể của chức danh công chức lãnh đạo tại thời điểm xem
xét bổ nhiệm lại, đáp ứng được yêu cầu công tác trong thời gian tới...
Trình tự, thủ tục bổ nhiệm đối với nguồn nhân sự tại chỗ và bổ nhiệm đối
với nguồn nhân sự từ nơi khác. Bổ nhiệm lại đối với những công chức có đủ tuổi
để giữ chức vụ được bổ nhiệm từ đủ 02 năm trở lên và kéo dài thời gian giữ
chức vụ lãnh đạo đối với những công chức trong độ tuổi giữ chức vụ được bổ
nhiệm dưới 02 năm.
Thứ bảy, thanh tra việc từ chức, miễn nhiệm của công chức giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý bao gồm các nội dung sau: căn cứ, lý do để miễn nhiệm, từ
chức; lý do công chức lãnh đạo từ chức, miễn nhiệm; quy trình giải quyết việc từ
chức, miễn nhiệm; việc bố trí, phân công công tác khác đối với công chức sau
khi thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do từ chức, miễn nhiệm; việc giải quyết
chế độ, chính sách đối với công chức từ chức, miễn nhiệm.
2.2.2. Quy trình tiến hành
Quy trình tiến hành cuộc thanh tra TDSDCC của Thanh tra Bộ Nội vụ bao
gồm các bước sau: Chuẩn bị thanh tra; tiến hành thanh tra; kết thúc thanh tra.
Bước thứ nhất, chuẩn bị thanh tra được tiến hành với các công việc chính sau:
Thứ nhất, ban hành quyết định thanh tra. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
Chánh Thanh tra Bộ là người có thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra. Đối
với những trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định thanh tra cần tiến hành
khảo sát, nắm bắt tình hình đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh
tra. Người được giao khảo sát có trách nhiệm tổng hợp, phân tích, đánh giá các
thông tin thu nhận được hoặc yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo (về tổ chức và
quy mô, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cơ chế phân cấp, quản lý; tình hình
thực hiện quy định pháp luật về lĩnh vực TDSDCC; xác định vấn đề nổi cộm,
41
khả năng và dấu hiệu sai phạm…), sau đó báo cáo người giao nhiệm vụ khảo
sát. Thời gian thu thập thông tin, nắm tình hình do người ra quyết định thanh tra
quyết định, nhưng không quá 15 ngày làm việc.
Căn cứ kết quả khảo sát và chương trình, kế hoạch thanh tra, Bộ trưởng Bộ
Nội vụ, Chánh Thanh tra Bộ ban hành quyết định thanh tra, bao gồm các nội
dung cụ thể như sau: Căn cứ pháp lý để thanh tra; phạm vi, đối tượng, nội dung,
nhiệm vụ thanh tra; thời hạn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn
thanh tra, thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn thanh tra. Trong giai
đoạn này, quan trọng nhất là người ban hành quyết định thanh tra phải chọn
những người có năng lực, trình độ phù hợp với yêu cầu của cuộc thanh tra.
Trong đó, việc chọn, cử Trưởng Đoàn là rất quan trọng, Trưởng Đoàn là người
trực tiếp chỉ đạo, điều hành tiến hành cuộc thanh tra, chịu trách nhiệm trước
người ra quyết định và trước pháp luật về kết quả cuộc thanh tra.
Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm ký quyết định thanh tra và
chậm nhất là 05 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, quyết định thanh tra
phải được gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất. Quyết
định thanh tra phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký quyết
định thanh tra.
Thứ hai, xây dựng và phê duyệt kế hoạch thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra
chủ trì và chỉ đạo thành viên Đoàn xây dựng kế hoạch thanh trabao gồm các nội
dung: Mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra; phạm vi, đối tượng, thời gian, nội
dung của cuộc thanh tra; phương pháp tiến hành, địa điểm thanh tra, kiểm tra,
xác minh; tiến độ, thời gian thực hiện; chế độ thông tin, báo cáo; phương tiện,
thiết bị, kinh phí và những điều kiện cần thiết khác phục vụ hoạt động của Đoàn
thanh tra.
Thời gian xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra không quá 05 ngày làm
việc kể từ ngày ra quyết định thanh tra. Trưởng Đoàn trình người ra quyết định
thanh tra phê duyệt kế hoạch.
Thứ ba, phổ biến kế hoạch thanh tra. Trưởng Đoàn thanh tra tổ chức họp
42
Đoàn để quán triệt kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt; phổ biến và phân công
nhiệm vụ cho các thành viên của Đoàn; thảo luận về phương pháp, cách thức tổ
chức, tiến hành thanh tra, sự phối hợp giữa các thành viên trong Đoàn. Kế hoạch
tiến hành thanh tra là tài liệu nội bộ, không gửi cho đối tượng thanh tra. Trưởng
Đoàn phải bám sát kế hoạch để chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Đoàn
Thanh tra. Từng thành viên Đoàn Thanh tra xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm
vụ được phân công và báo cáo với Trưởng đoàn Thanh tra.
Thứ tư, xây dựng đề cương, yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo. Đoàn
thanh tra xây dựng đề cương báo cáo gửi cho đối tượng thanh tra và yêu cầu đối
tượng thanh tra báo cáo các nội dung thanh tra theo đúng đề cương để phục vụ
quá trình thanh tra. Báo cáo của đối tượng thanh tra được lưu trong hồ sơ cuộc
thanh tra. Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm chủ trì cùng các thành viên
trong Đoàn Thanh tra xây dựng đề cương yêu cầu báo cáo gồm một số nội dung:
Một là, đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới việc
thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra trong thời kỳ được thanh tra; việc
quản lý tổ chức, bộ máy, con người; việc phân cấp giữa đối tượng thanh tra và
các đơn vị trực thuộc; mối quan hệ giữa đơn vị là đối tượng thanh tra với các
đơn vị cấp dưới, với đơn vị cấp trên; quy chế quản lý tài chính, tài sản…
Hai là, đề cương yêu cầu báo cáo của Đoàn thanh tra cần gợi ra những điểm
thật sát với nội dung cuộc thanh tra, như: Kết quả thực hiện các nội dung được
thanh tra; ưu, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, điều hành; nguyên nhân khách
quan, chủ quan. Đây là một trong những căn cứ quan trọng cho kết luận cuộc
thanh tra sau này không bị sai lệch, phiến diện.
Ba là, những vướng mắc và kiến nghị của đối tượng thanh tra với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Trưởng đoàn Thanh tra gửi văn bản có kèm theo đề
cương yêu cầu báo cáo và dự kiến lịch thanh tra ít nhất là 6 ngày trước khi công
bố quyết định thanh tra. Trong đó, Trưởng đoàn Thanh tra đề nghị đối tượng
thanh tra xây dựng và trình bày báo cáo việc thực hiện các quy định pháp luật về
TDSDCC tại buổi công bố quyết định thanh tra; có ý kiến thống nhất về lịch
43
thanh tra trực tiếp.
Thứ năm, thông báo về việc công bố quyết định thanh tra. Trưởng đoàn
thanh tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến đối tượng thanh tra về việc
công bố quyết định thanh tra. Thành phần tham dự buổi công bố quyết định
thanh tra gồm có Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh
tra, Thủ trưởng đơn vị, tổ chức tham mưu về công tác quản lý công chức, viên
chức của đối tượng thanh tra và các thành phần khác do Trưởng đoàn thanh tra
và Thủ trưởng cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra quyết định.
Bước thứ hai, tiến hành thanh tra gồm các công việc sau:
Thứ nhất, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng
đoàn Thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra.
Trưởng đoàn Thanh tra chủ trì buổi công bố quyết định thanh tra; đọc toàn
văn quyết định thanh tra; quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung, thời hạn cuộc
thanh tra đã ghi trong quyết định; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người
tiến hành thanh tra cũng như đối tượng thanh tra theo quy định của pháp luật; đề
ra chương trình và quan hệ công tác; thống nhất với đối tượng thanh tra về lịch
làm việc và phương pháp làm việc; các nội dung cần thiết khác khi làm việc tại
cơ quan đơn vị là đối tượng thanh tra và yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị
thuộc đối tượng thanh tra chuẩn bị, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến nội
dung thanh tra.
Trưởng đoàn Thanh tra đề nghị đại diện Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân là đối tượng thanh tra báo cáo trực tiếp về những nội dung thanh tra theo
đề cương đã gửi. Qua nghe báo cáo của đối tượng thanh tra, nếu thấy cần thiết
phải bổ sung, Trưởng đoàn Thanh tra có thể yêu cầu đối tượng thanh tra tiếp tục
bổ sung, hoàn thiện báo cáo. Việc công bố quyết định thanh tra được lập biên bản
và được ký giữa đại diện Đoàn thanh tra và đại diện lãnh đạo cơ quan, đơn vị là
đối tượng thanh tra.
Thứ hai, tiến hành thanh tra trực tiếp tại các cơ quan, đơn vị là đối tượng
thanh tra theo lịch thanh tra. Sau khi công bố quyết định thanh tra, các thành
44
viên Đoàn Thanh tra phải tiến hành phần việc được giao gồm:
Một là, thu nhận báo cáo của đối tượng thanh tra, nghe đối tượng thanh tra
báo cáo; nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá văn bản báo cáo của
đối tượng thanh tra và các thông tin, hồ sơ, lài liệu đã thu thập được; yêu cầu đối
tượng thanh tra giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra.
Khi đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ tài liệu, cán bộ thanh tra phải kiểm
tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu có đúng yêu cầu và đảm bảo
đúng quy định của pháp luật không. Khi nhận hồ sơ tài liệu phải có văn bản giao
nhận, đồng thời khẩn trương nghiên cứu khai thác tài liệu đó để phát hiện những
bất cập, bất hợp lý, đồng thời có kế hoạch những việc tiếp theo.
Trong quá trình thanh tra, Đoàn Thanh tra phải trực tiếp quản lý hồ sơ tài
liệu nhưng phải yêu cầu đơn vị được thanh tra có các biện pháp bảo vệ an toàn
tài liệu. Cán bộ thanh tra tuyệt đối không được để thất lạc, làm hư hỏng cũng
như tiết lộ các thông tin tài liệu của đơn vị được thanh tra. Đoàn Thanh tra cần
lưu ý không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Phương pháp kiểm tra hồ sơ tài liệu rất phong phú, đa dạng. Đoàn Thanh tra
có trách nhiệm nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá; yêu cầu đối
tượng thanh tra giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; tiến
hành kiểm tra, xác minh thực tế (nếu cần) và chịu trách nhiệm về tính chính xác,
khách quan của những thông tin, tài liệu đã kiểm tra, xác minh. Tùy theo yêu cầu
và nội dung mỗi cuộc thanh tra hay mỗi vấn đề cần thanh tra để áp dụng những
biện pháp khác nhau.
Hai là, trong quá trình thanh tra trực tiếp, nếu thấy cần thiết Đoàn thanh tra
tiến hành làm việc với công chức, viên chức hoặc người có liên quan để xác
mình nội dung đã thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, khách quan
của những thông tin, tài liệu đã xác minh.
Ba là, sau khi kết thúc việc kiểm tra, xác minh tại mỗi cơ quan, đơn vị là
đối tượng thanh tra và các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan, Đoàn thanh tra
lập biên bản và thông báo sơ bộ kết quả, đánh giá khái quát việc thực hiện các
45
quy định của pháp luật về nội dung thanh tra.
Thứ ba, nhật ký Đoàn Thanh tra là sổ ghi chép những hoạt động của Đoàn
Thanh tra và những nội dung có liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra
diễn ra trong ngày, từ khi có quyết định thanh tra đến khi bàn giao hồ sơ thanh
tra cho cơ quan có thẩm quyền. Hàng ngày, Trưởng đoàn Thanh tra có trách
nhiệm ghi chép sổ nhật ký và ký xác nhận về nội dung đã ghi chép. Trường hợp
cần thiết, Trưởng đoàn Thanh tra giao việc ghi chép sổ nhật ký cho thành viên
Đoàn Thanh tra, nhưng Trưởng đoàn Thanh tra phải có trách nhiệm về việc ghi
chép và ký xác nhận nội dung ghi chép đó vào sổ nhật ký Đoàn Thanh tra.
Nội dung nhật ký Đoàn Thanh tra cần phản ánh: Ngày, tháng, năm; các
công việc đã tiến hành; tên cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra hoặc
có liên quan được kiểm tra, xác minh, làm việc; Ý kiến chỉ đạo, điều hành của
người ra quyết định thanh tra, của Trưởng đoàn Thanh tra (nếu có); Khó khăn,
vướng mắc phát sinh trong hoạt động thanh tra của Đoàn Thanh tra (nếu có);
Các nội dung khác có liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra (nếu có);
Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm quản lý sổ nhật ký Đoàn Thanh tra
trong quá trình thanh tra. Trường hợp bị mất hoặc hư hỏng thì Trưởng đoàn phải
báo cáo với Người ra quyết định thanh tra xem xét, giải quyết.
Việc ghi nhật ký Đoàn Thanh tra được thực hiện theo mẫu và phải đảm bảo
tính chính xác, khách quan, trung thực, rõ ràng và phản ánh đầy đủ công việc diễn
ra trong quá trình thanh tra. Sổ nhật ký Đoàn Thanh tra được lưu trong hồ sơ cuộc
thanh tra.
Thứ tư, kết thúc thanh tra trực tiếp tại cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh
tra. Chuẩn bị kết thúc việc thanh tra trực tiếp, Trưởng đoàn Thanh tra tổ chức
họp Đoàn Thanh tra để thống nhất các nội dung công việc cần thực hiện cho đến
ngày dự kiến kết thúc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra. Trưởng đoàn
Thanh tra báo cáo với người ra quyết định thanh tra về dự kiến kết thúc việc
thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra.
Trưởng đoàn Thanh tra thông báo bằng văn bản về thời gian kết thúc thanh
46
tra trực tiếp với đối tượng thanh tra và gửi cho thủ trưởng đối tượng thanh tra
biết hoặc nếu cần thiết, có thể tổ chức buổi làm việc với đối tượng thanh tra để
thông báo việc kết thúc thanh tra; buổi làm việc được lập thành biên bản và
được ký giữa thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra với
Trưởng đoàn Thanh tra.
Bước thứ ba, kết thúc thanh tra cần thực hiện các công việc sau:
Thứ nhất, sau khi kết thúc giai đoạn thanh tra trực tiếp tại cơ quan, đơn vị
là đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chỉ đạo việc tổng hợp số liệu, phân
tích các tài liệu mà Đoàn thanh tra đã thu thập và đánh giá, nhận định về nội
dung thanh tra. Từng thành viên Đoàn Thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng
văn bản với Trưởng đoàn Thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và
phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của báo cáo đó. Trường hợp
nhận thấy nội dung báo cáo chưa rõ, chưa đủ thì Trưởng đoàn Thanh tra yêu cầu
thành viên Đoàn Thanh tra bổ sung, làm rõ thêm.
Trưởng Đoàn chỉ đạo việc tổng hợp báo cáo của các thành viên Đoàn để
xây dựng dự thảo báo cáo kết quả thanh tra. Dự thảo báo cáo kết quả thanh tra
được gửi lấy ý kiến các thành viên trong Đoàn. Ý kiến của các thành viên Đoàn
thanh tra phải được thể hiện bằng văn bản. Trưởng đoàn xem xét, thống nhất ý
kiến và chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về
quyết định của mình.
Thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra trình người ra quyết định
thanh tra chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra. Nội dung báo
cáo kết quả thanh tra gồm: khái quát về đối tượng thanh tra; Kết quả kiểm tra,
xác minh các nội dung thanh tra; Đánh giá ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân trong việc chấp hành các quy định của pháp luật liên quan đến nội dung
thanh tra; Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị biện
pháp xử lý; kiến nghị cấp và người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành
quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức cho phù hợp
với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra
47
(nếu có); Ý kiến khác nhau giữa các thành viên Đoàn (nếu có).
Thứ hai, xây dựng và công bố kết luận thanh tra.
Một là, xây dựng kết luận thanh trabao gồm các nội dung sau: Kết quả
kiểm tra, xác minh từng nội dung thanh tra; Kết luận về việc chấp hành các quy
định của pháp luật của đối tượng thanh tra liên quan đến nội dung thanh tra; xác
định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, các nhân có hành vi vi phạm (nếu có); Kiến nghị của cơ quan có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức, viên chức cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái
pháp luật phát hiện qua thanh tra (nếu có).
Sau khi nhận được báo cáo kết quả thanh tra và báo cáo bổ sung (nếu có)
của Đoàn Thanh tra, người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn Thanh
tra chủ trì xây dựng dự thảo kết luận thanh tra. Dự thảo kết luận thanh tra được
gửi lấy ý kiến các thành viên Đoàn thanh tra trước khi gửi đối tượng thanh tra
lấy ý kiến. Nếu các thành viên Đoàn thanh tra có ý kiến khác nhau về các nội
dung trong dự thảo kết luận thanh tra thì Trưởng đoàn xem xét, quyết định.
Khi cần thiết, người ra quyết định thanh tra lấy ý kiến của cơ quan chuyên
môn hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Ý kiến tham
gia của cơ quan chuyên môn và của đối tượng thanh tra đối với dự thảo kết luận
thanh tra được thể hiện bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ thanh tra.
Trong quá trình ra kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có
quyền yêu cầu Trưởng đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, yêu
cầu đối tượng thanh tra giải trình. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định
thanh tra giao cho Đoàn Thanh tra tiến hành thanh tra, làm rõ thêm một số nội
dung theo yêu cầu. Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản,
làm cơ sở cho việc ra văn bản kết luận thanh tra.
Trường hợp người ra quyết định thanh tra gửi dự thảo kết luận thanh tra
cho đối tượng thanh tra và đối tượng thanh tra có văn bản giải trình thì việc giải
trình của đối tượng thanh tra phải thực hiện bằng văn bản và có các chứng cứ để
48
chứng minh cho ý kiến giải trình của mình. Trưởng đoàn Thanh tra có trách
nhiệm nghiên cứu và đề xuất với người ra quyết định thanh tra hướng xử lý nội
dung giải trình của đối tượng thanh tra.
Hai là, công bố kết luận thanh tra. Căn cứ vào báo cáo kết quả thanh tra của
Đoàn Thanh tra, sau khi xem xét giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có),
Trưởng đoàn Thanh tra hoàn thiện kết luận thanh tra trình người ra quyết định
thanh tra ký ban hành. Người ra quyết định thanh tra ra quyết định ban hành kết
luận thanh tra trong thời gian chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo
kết quả thanh tra.
Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng Đoàn thanh tra có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản cho đối tượng thanh tra về việc tổ chức công bố kết luận
thanh tra với nội dung như sau: Thời gian, địa điểm công bố kết luận thanh tra;
thành phần dự họp.
Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng Đoàn thanh tra đọc toàn văn kết
luận, nêu rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc thực hiện kết
luận và các kiến nghị khác. Việc công bố được lập biên bản và được ký giữa đại
diện Đoàn và đại diện lãnh đạo cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra. Người ra
quyết định thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận thanh tra
(trừ những nội dung trong kết luận thanh tra thuộc bí mật nhà nước).
Ba là, họp rút kinh nghiệm Đoàn thanh tra. Trong trường hợp cần thiết,
Trưởng đoàn triệu tập các thành viên đoàn họp rút kinh nghiệm, đánh giá và rút
ra bài hộc kinh nghiệm qua cuộc thanh tra; đề xuất khen thưởng người làm tốt
và xử lý những công chức có sai phạm theoquy định của pháp luật. Cuộc họp rút
kinh nghiệm được lập thành biên bản lưu hồ sơ thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra
có trách nhiệm bàn giao hồ sơ thanh tra cho những bộ phận, người được giao
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và quy chế của cơ quan thanh tra.
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
của Thanh tra Bộ Nội vụ
2.3.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân
49
a) Những mặt đạt được
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2019, các cuộc thanh tra
TDSDCC do Thanh tra Bộ chủ trì tiến hành hoặc tham gia đã theo đúng kế
hoạch hoặc chỉ đạo (đối với các cuộc thanh tra đột xuất), đạt kết quả tốt, đảm
bảo đúng các quy định của pháp luật về thời gian, trình tự, cách thức tiến hành,
không có khiếu nại, tốt cáo, kiến nghị, phản ánh đối với các cuộc thanh tra, kiểm
tra hoặc đối với thành viên các Đoàn thanh tra, kiểm tra.
Qua thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Bộ Nội vụ đã phát hiện và kiến nghị kịp
thời, phù hợp, đúng quy định pháp luật để khắc phục và hạn chế những thiếu sót,
sai phạm của của các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật trong công tuyển dụng và sử dụng công chức.
Thứ nhất, khối lượng công việc được Thanh tra Bộ Nội tiến hành đa dạng
về nội dung thanh tra.
Căn cứ vào chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt, hàng năm Thanh tra
Bộ Nội vụ đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra tập trung vào các lĩnh vực: quản lý
biên chế công chức; quản lý số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công
lập; tuyển dụng công chức, viên chức; tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh
nghề nghiệp viên chức; bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý; quản lý hồ sơ công
chức, viên chức; nâng bậc lượng trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc; số
lượng cấp phó và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ
trong các cơ quan hành chính nhà nước tại các Bộ, ngành, địa phương.
Theo báo cáo tổng hợp của Thanh tra Bộ Nội vụ, trong giai đoạn từ năm
2015 đến tháng 6 năm 2019, Thanh tra Bộ Nội vụ đã tiến hành 68 cuộc thanh tra
thuộc lĩnh vực TDSDCC, trong đó có 14 cuộc là thanh tra đột xuất (Bảng 2.1).
Ở các Bộ, ngành đã tiến hành 25 cuộc thanh tra về các nội dung cụ thể như:
Thanh tra về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức lãnh đạo của Bộ Ngoại
giao; thanh tra về công tác bổ nhiệm, nghỉ hưu, thôi việc, kéo dài thời gian công
tác, thời gian giữ chức vụ và số lượng phó công chức, viên chức lãnh đạo quản
lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; thanh tra công tác tuyển dụng
50
công chức, viên chức; bổ nhiệm, số lượng cấp phó công chức, viên chức lãnh
đạo, quản lý và đánh giá công chức, viên chức của Bộ Tư pháp; thanh tra công
tác bổ nhiệm, số lượng cấp phó công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam,Tổng cục Dự trữ Nhà nước
trực thuộc Bộ Tài chính; thanh tra việc quản lý, sử dụng biên chế; số lượng
người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; ký hợp đồng lao động làm
công tác chuyên môn; tuyển dụng viên chức; bổ nhiệm; số lượng cấp phó; nghỉ
hưu; đánh giá, phân loại công chức, viên chức của Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước thuộc Bộ Tài chính; kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra về việc thực
hiện các quy định của pháp luật về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức
lãnh đạo củaBộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; thanh tra công tác bổ
nhiệm của Bộ Công thương.
Ở địa phương đã tiến hành cuộc 43 thanh tra về các nội dung sau:
Kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra của Bộ Nội vụ về bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại và tiêu chuẩn ngạch công chức lãnh đạo của UBND tỉnh Cà Mau,
UBND tỉnh Ninh Bình; thanh tra công tác tuyển dụng công chức;
Bổ nhiệm, số lượng cấp phó, tiêu chuẩn ngạch công chức lãnh đạo, quản lý
của UBND tỉnh Đắc Nông, tỉnh Sơn La, UBND tỉnh Quảng Ngãi, UBND tỉnh
Hòa Bình, UBND tỉnh Kiên Giang, UBND tỉnh An Giang; thanh tra công tác bổ
nhiệm, số lượng cấp phó, tiêu chuẩn ngạch công chức lãnh đạo, quản lý của
UBND tỉnh Bình Phước, UBND tỉnh Hà Nam, UBND tỉnh Hải Dương; thanh tra
công tác tuyển dụng công chức; nâng ngạch công chức;
Ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn trong các cơ quan hành
chính nhà nước; bổ nhiệm và quản lý hồ sơ công chức của UBND tỉnh Hà
Giang, UBND tỉnh Kon Tum, UBND tỉnh Điện Biên, UBND tỉnh Nghệ An,
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, UBND tỉnh Cao Bằng, UBND tỉnh Tây Ninh;
Thanh tra việc tuyển dụng công chức, viên chức; bổ nhiệm công chức giữ
51
chức vụ lãnh đạo cấp phòng; số lượng phó trưởng phòng và việc ký hợp đồng
làm công tác chuyên môn của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Hải
Dương.
Thanh tra việc quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức, xét
chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức từ cấp huyện trở lên; nâng
bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ đối
với công chức; bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; số lượng cấp phó; quản lý
hồ sơ công chức và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp
vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước của UBND tỉnh Lai Châu.
Thanh tra việc quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức; bổ
nhiệm công chức lãnh đạo quản lý; số lượng cấp phó; chế độ tiền lương đối với
công chức và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ
trong các cơ quan hành chính nhà nước của UBND tỉnh Tiền Giang.
Thanh tra việc quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức; nâng
ngạch công chức; bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; quản lý hồ sơ công
chức; công tác cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức và việc
ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong các cơ quan
hành chính nhà nước của UBND tỉnh Bến Tre, UBND tỉnh Gia Lai, UBND tỉnh
Sóc Trăng, UBND tỉnh Lào Cai, UBND tỉnh Long An,
Thanh tra công tác quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức, xét
chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức từ cấp huyện trở lên; bổ
nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; số lượng cấp phó; tiêu chuẩn ngạch của
công chức lãnh đạo, quản lý và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên
môn, nghiệp vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước thuộc thẩm quyền quản
lý của UBND tỉnh Quảng Trị.
Thanh tra việc quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức, xét
chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức từ cấp huyện trở lên; nâng
bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ đối
với công chức; bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; số lượng cấp phó; quản lý
52
hồ sơ công chức và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp
vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của
UBND.
Bảng 2.1. Tổng hợp hoạt động thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức của
Thanh tra Bộ Nội vụ từ năm 2015 đến tháng 6/2019
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2015
2016
2017
2018
2019
11
15
15
17
10
Tổng số cuộc thanh tra
4
2
4
3
1
Thanh tra đột xuất
Nguồn: Phòng Tổng hợp Thanh tra Bộ Nội vụ
Từ bảng biểu thể hiện số cuộc thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức đã
thực hiện cho thấy, số cuộc thanh tra giữa các năm không có nhiều sự chênh
lệch. Số cuộc thanh tra có xu hướng ngày càng tăng lên, năm 2015 là năm thực
hiện số cuộc thanh tra thấp nhất (11 cuộc), năm 2018 là năm thực hiện số cuộc
thanh tra nhiều nhất (17 cuộc).
Thứ hai, qua thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Bộ Nội vụ phát hiện nhiều sai
phạm, vướng mắc trong công tác tuyển dụng, sử dụng công chức.
Thứ nhất, một số quy trình, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chưa được thể
hiện thành văn bản để lưu trữ trong hồ sơ công chức. Việc tính thời hạn bổ
nhiệm của chức vụ mới trong một số trường hợp được điều động chưa đúng, một
số hồ sơ còn làm ngược quy trình về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, thời hạn bổ nhiệm
lại cho một số cán bộ, công chức lãnh đạo còn chậm.
Thứ hai, nhiều trường hợp công chức lãnh đạo chưa đáp ứng tiêu chuẩn về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (chưa có trình độ Đại học), lý luận chính trị,
quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học nhưng vẫn được các cơ quan, đơn vị xem
xét bổ nhiệm chức danh lãnh đạo. Sau khi được bổ nhiệm mới cử đi đào tạo, bồi
dưỡng để bổ sung các tiêu chuẩn còn thiếu.
Thứ ba, việc kê khai tài sản khi bổ nhiệm thực hiện chưa đầy đủ, một số cơ
53
quan, đơn vị không thực hiện; việc khai sơ yếu lý lịch để bổ nhiệm không đúng
mẫu 2C-BNV/2008 của Bộ Nội vụ hoặc có kê khai nhưng không ghi ngày,
tháng, năm kê khai.
Thứ tư, những trường hợp bổ nhiệm từ nguồn nơi khác đến còn thiếu các
thủ tục như: Trao đổi yêu cầu công tác với cán bộ được giới thiệu, làm việc với
cấp ủy và thủ trưởng cơ quan đơn vị nơi đang công tác để trao đổi ý kiến về nhu
cầu bổ nhiệm, lấy ý kiến cấp ủy nơi tiếp nhận.
Thứ năm, đối với trình tự bổ nhiệm lại thì việc đánh giá, đề xuất ý kiến của
Thủ trưởng đơn vị trực tiếp còn chưa phù hợp với quy định như: Phó Giám đốc
Sở đề đánh giá, đề xuất ý kiến khi bổ nhiệm đối với Giám đốc Sở; Giám đốc Sở
đánh giá, đề xuất ý kiến khi bổ nhiệm đối với Phó Giám đốc Sở hoặc Ban
Thường vụ đánh giá, đề xuất ý kiến… Một số hồ sơ không có văn bản thể hiện
việc Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng công chức lãnh đạo đánh giá
và đề xuất ý kiến khi bổ nhiệm lại. Nhiều trường hợp giữ chức vụ trên 05 năm
mới làm thủ tục bổ nhiệm lại.
Thứ sáu, một số quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại còn sai sót cả về thể
thức trình bày và nội dung quyết định: Không ghi thời điểm có hiệu lực của
quyết định, thời hạn giữ chức vụ bổ nhiệm; tên quyết định không phù hợp, chưa
thống nhất giữa tiêu đề và nội dung (quyết định bổ nhiệm nhưng nội dung lại ghi
là bổ nhiệm lại, quyết định điều động bổ nhiệm chỉ ghi là quyết định điều động).
Thứ bảy, một số công chức khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại còn không đáp ứng
về tuổi bổ nhiệm;thiếu điều kiện, tiêu chuẩn về chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, trình độ lý luận chính trị hoặc
chưa thực hiện xác nhận trình độ lý luận chính trị theo quy định tại Quy định số
256-QĐ/TW ngày 16/9/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; kê khai tài sản,
kê khai lý lịch.
Thứ tám, đối với một số trường hợp miễn nhiệm, từ chức, không được bổ
nhiệm lại chức vụ lãnh đạo, quản lý, việc thực hiện trình tự, thủ tục chưa đầy đủ
theo quy định; việc áp dụng quy định của pháp luật về từ chức, miễn nhiệm còn
54
có trường hợp chưa chính xác (trường hợp từ chức nhưng áp dụng là miễn
nhiệm); có quyết định chưa nêu đầy đủ căn cứ pháp lý áp dụng thực hiện, không
có nội dung về chế độ, chính sách, không thể hiện việc bố trí phân công công tác
cho công chức sau khi miễn nhiệm, từ chức và không được bổ nhiệm lại.
Thứ chín, một số trường hợp cơ quan, đơn vị bổ nhiệm số lượng cấp phó
vượt quá so với quy định.
Một số trường hợp công chức có thời gian làm công tác tại cơ quan, đơn vị
chưa đảm bảo để đánh giá, nhận xét về kết quả thực hiện nhiệm vụ, khả năng
quy tụ hoặc chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn ngạch công chức hành chính
nhưng đã được bổ sung quy hoạch và được bổ nhiệm cấp phó; một số trình tự
bổ nhiệm chưa được thể hiện bằng văn bản lưu trong hồ sơ bổ nhiệm; có
trường hợp được bổ nhiệm, điều động bổ nhiệm phó trưởng phòng khi phòng
chuyên môn đã có số lượng cấp phó bằng hoặc nhiều hơn số lượng đề xuất trong
Đề án xác định vị trí việc làm của đơn vị.
Công tác tham mưu về việc tuyển dụng công chức, viên chức, bổ nhiệm
công chức giữ chức vụ lãnh đạo cấp phó của cơ quan tham mưu còn hạn chế;
trách nhiệm của tập thể lãnh trong công tác bổ nhiệm còn hạn chế; công tác
thanh tra, kiểm tra chưa được thường xuyên nên một số sai sót, tồn tại trong
việc bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo cấp phó; số lượng phó vượt quá
quy định không được phát hiện, chấn chỉnh kịp thời.
b) Nguyên nhân của những mặt đạt được
Thứ nhất, nhóm nguyên nhân khách quan
Những năm gần đây, sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và
sự quan tâm của dư luận xã hội đã nâng cao vị thế của hoạt động thanh tra.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra và lĩnh vực tuyển dụng,
sử dụng công chức tuy còn nhiều vướng mắc nhưng vẫn là căn cứ vững chắc cho
hoạt động thanh tra được thực hiện hợp pháp, xuyên suốt, phát huy quyền của
đoàn thanh tra. Đặc biệt, Luật Thanh tra năm 2010, Luật Phòng, chống tham
55
nhũng năm 2018, Luật Tố cáo (sửa đổi) và Luật Cán bộ, công chức năm 2008,
năm 2019 là các đạo luật quan trọng nâng cao hiệu quả công tác thanh tra tuyển
dụng, sử dụng công chức với nhiều giải pháp mới mang tính đột phá.
Mặt khác, các giải pháp được đưa ra từ hoạt động thanh tra TDSDCC không
chỉ có mục đích xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà còn phát hiện, đề xuất
sửa đổi, bổ sung, khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật. Các kết quả này
chính là căn cứ cho những cuộc thanh tra tiến hành sau được chính xác, tiết kiệm
thời gian, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra.
Thứ hai, nhóm nguyên nhân chủ quan
Hoạt động thanh tra TDSDCC gắn liền với yêu cầu quản lý nhà nước, luôn
theo sát và đáp ứng nhiệm vụ của thời kỳ. Đồng thời, việc củng cố, kiện toàn tổ
chức, cán bộ thanh tra theo hướng tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu
lại đội ngũ thanh tra viên đã phần nào đáp ứng được khối lượng công việc trong
khi tranh thủ nguồn lực vào phát triển cán bộ thanh tra có đủ phẩm chất, năng
lực, kinh nghiệm.
Việc tổ chức thực hiện kết luận thanh tra ngày càng được quan tâm và thực
hiện bài bản, đúng quy trình; các vụ việc có tính chất phức tạp được chỉ đạo kịp
thời; phát huy được tính chủ động và quyền của cán bộ thanh tra.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
a) Những hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm đạt được, tổ chức và hoạt động thanh tra
TDSDCC của Thanh tra Bộ Nội vụ vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế như:
Một là, số lượng các cuộc thanh tra còn rất nhỏ so với đối tượng mà thanh
tra Bộ Nội vụ có thẩm quyền thanh tra. Điều này dẫn đến việc, mất nhiều thời
gian để tiến hành thanh tra đủ các đối tượng thuộc phạm vi quản lý và các đối
tượng đã thanh tra đợi đến thời điểm thanh tra lại sẽ có nhiều năm bị bỏ trống
không được thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Hai là, phương thức tiến hành thanh tra: Trong thời gian qua, Thanh tra Bộ
56
Nội vụ hầu như tập trung vào việc tiến hành thanh tra sau khi các đối tượng
thanh tra đã tổ chức hoàn thành xong công việc mà chưa tiến hành thanh tra
ngay trong khi đối tượng thanh tra đang tiến hành công việc đó.
Ba là, đối với các sai phạm trong công tác TDSDCC được phát hiện qua
thanh tra, Thanh tra Bộ Nội chỉ có biện pháp xử lý là kiến nghị các cơ quan, đơn
vị có thẩm quyền tổ chức thực hiện các biện pháp khắc phục các sai phạm. Điều
này dẫn đến việc xử lý các sai phạm chưa có tính răn đe cao để hạn chế trong
thời gian tiếp theo sau thanh tra.
Bốn là, pháp luật về thanh tra nói chung và về thanh tra hoạt động thanh tra
TDSDCC nói riêng vẫn chưa đầy đủ. Các nội dung về thẩm quyền cũng như quy
trình thanh tra chưa quy định rõ dẫn đến tình trạng việc áp dụng, tiến hành một
cuộc thanh tra chưa khách quan, thạm chí lộ thông tin của cuộc thanh tra. Một số
nội dung của pháp luật chưa quy định sát với yêu cầu quản lý công chức.
Năm là, đội ngũ công chức đang thực hiện nhiệm vụ thanh tra mà đặc biệt
là thanh tra ngành Nội vụ với hoạt động thanh tra TDSDCC còn ít. Số lượng
chưa tương xứng với khối lượng công việc được giao, đặc biệt là những nội
dung chuyên sâu cần đến những công chức thanh tra có kinh nghiệm, am hiểu,
xử lý tốt với mọi tình huống.
Sáu là, về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh tra còn
ở mức hạn hẹp, chế độ đãi ngộ cho công chức thanh tra thực hiện nhiệm vụ như
tiền lương, nhà cửa, chế độ sinh hoạt chưa đáp ứng được cuộc sống của họ và
gia đình.
Từ những tồn tại đã nêu, đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý sai phạm, đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhiều
cơ chế, chính sách pháp luật nhằm khắc phục những khuyết điểm, sở hở trong
công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
b) Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhóm nguyên nhân khách quan
Hệ thống văn bản pháp luật thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành
57
nội vụ nói riêng còn tồn tại những điểm bất cập, không phù hợp với tình hình và
yêu cầu thực tiễn. Đây được xem là nguyên nhân chính dẫn đến việc áp dụng
luật còn gặp nhiều khó khăn. Một số văn bản ban hành đã lạc hậu so với thực
tiễn, tuy nhiên vẫn chưa thể thay thế do hệ thống pháp luật của ta chưa dự liệu
và phải chờ có văn bnả mới ra đời thay thế. Ví dụ: Nghị định số 24/2014/NĐ-CP
ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không quy định cụ thể về số
lượng Phó Trưởng phòng cấp Sở.
Quy định pháp luật chưa quy định chế tài xử lý đối với các sai phạm trong
công tác TDSDCC được phát hiện qua thanh tra bằng hình thức xử phạt. Đối với
những sai phạm khi phát hiện thì mới chỉ dừng lại ở việc cơ quan thanh tra kiến
nghị các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tổ chức thực hiện các biện pháp khắc
phục các sai phạm. Với những sai phạm lớn có mức độ nghiêm trọng thì còn
phải báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Chính phủ hoặc việc xử lý bị kéo dài.
Công tác tham mưu về sử dụng công chức, tuyển dụng công chức không
qua thi, tuyển dụng công chức… của các cơ quan, địa phương còn hạn chế.
Công tác quản lý hồ sơ công chức chưa được quan tâm đúng mức; nhiều công
chức không kịp thời nộp bổ sung các văn bằng, chứng chỉ học tập, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho cơ quan, đơn vị quản lý hồ sơ công chức làm ảnh
hưởng tới việc tổng hợp, thống kê.
Chậm trễ trong việc ban hành văn bản quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và
trình tự, thủ tục bổ nhiệm đối với các chức danh thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của
Chủ tịch UBND tỉnh; không kịp thời nắm bắt và vận dụng các văn bản quy định,
hướng dẫn, thực hiện về công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức do
địa phương ban hành theo thẩm quyền, cập nhật, sửa đổi và ban hành các văn
bản mới để thay thế, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật Cán bộ công
chức và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Một số cơ quan, đơn vị chưa nhận thức và chấp hành đầy đủ các quy định
về điều kiện, tiêu chuẩn chức danh và các bước trong quy trình bổ nhiệm công
58
chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; chưa gắn kết việc cử công chức đi đào tạo,
bồi dưỡng để đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm nên nhiều trường hợp có
quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại vẫn còn thiếu điều kiện, tiêu chuẩn theo quy
định. Việc tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng về chuyên môn cho cán bộ, công
chức làm công tác tổ chức, cán bộ chưa được tiến hành thường xuyên.
Công tác kiểm tra, giám sát trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý công
chức chưa được coi trọng nên một số hạn chế, tồn tại trong nhiều năm không
được phát hiện, chấn chỉnh kịp thời.
Đối với việc tuyển dụng công chức còn đang tiến hành hành thông qua hai
hình thức đó là thi tuyển và xét tuyển. Tuy nhiên chưa có sự đồng bộ và bộc lộ
sự kém hiệu quả trong việc thực hiện. Việc thi tuyển và xét tuyển chưa được
đồng bộ và pháp luật quy định chưa cụ thể dẫn đến tình trạng nhiều bất hợp lý
xảy ra.
Thứ hai, nhóm nguyên nhân chủ quan
Thanh tra Bộ Nội vụ là một cơ quan thanh tra được thành lập trên cơ sở
thực hiện các nhiệm vụ của ngành Nội vụ. Nhiệm vụ chủ yếu là thanh tra
TDSDCC. Mặc dù là cơ quan có vai trò quan trọng và ý nghĩa hết sức đặc biệt
nhưng Thanh tra Bộ Nội vụ vẫn là một cơ quan mới, thời gian hoạt động chưa
lâu (Ngày 29/9/2003 Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 61/2003/QĐ-
BNV quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra Bộ -
chính thức thành lập Thanh tra Bộ Nội vụ và được kiện toàn bằng Quyết định số
2578/QĐ-BNV ngày 21/9/2017).
Cơ cấu tổ chức và nhân sự vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện. Hiện nay Thanh tra Bộ Nội vụ chỉ có 20 cán bộ, công chức gồm: Chánh
Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra với 03 phòng: phòng Tổng hợp; phòng
Thanh tra nội vụ khối bộ, ngành Trung ương; phòng Thanh tra nội vụ khối địa
phương. Hơn thế nữa với yêu cầu giảm biên chế và sáp nhập một số cơ quan
trong thời gian tới dẫn đến việc bộ máy thanh tra Bộ Nội vụ chưa ổn định và còn
59
gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp công việc của cơ quan.
So với yêu cầu và khối lượng công việc, số lượng cán bộ, công chức của
Thanh tra Bộ còn ít do đó không thể tổ chức nhiều cuộc thanh tra trong thời gian
ngắn với nhiều địa bàn khắp cả nước. Đặc biệt có những cuộc thanh tra đột xuất
theo yêu cầu của Bộ Nội vụ hoặc của Chính phủ thì khó khăn về số lượng cán bộ
lại càng hiện rõ. Một mặt Thanh tra Bộ Nội vụ vẫn phải đảm bảo hoạt động
thường xuyên của đơn vị, mặc khác phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ mới phát
sinh nên dãn đến sức ép cho đội ngũ thanh tra và lãnh đạo quản lý. Đội ngũ công
chức đang thực hiện nhiệm vụ thanh tra của Bộ Nội vụ có đặc thù công việc phải
thực hiện các cuộc thanh tra thường xuyên hoặc đột xuất kéo dài từ 2 đến 3 tuần
làm việc và phải tiếp công dân theo lịch, đồng thời với số lượng công chức chưa
tương xứng với khối lượng công việc, họ ít có cơ hội tham gia các khóa bồi
dưỡng, tập huấn hoặc các lớp học tập trung nhằm nâng cao trình độ lý luận,
60
chuyên môn, nghiệp vụ.
Tiểu kết Chƣơng 2
Nghiên cứu thực trang thanh tra TDSDCC của Thanh tra Bộ Nội vụ cả về
pháp luật lẫn thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, luận văn đưa ra một vài kết luận sau:
Phần lớn, các cuộc thanh tra TDSDCC do Thanh tra Bộ Nội vụ chủ trì tiến
hành hoặc tham gia đã theo đúng kế hoạch, đạt kết quả tốt, đảm bảo đúng các
quy định của pháp luật về thời gian, trình tự, cách thức tiến hành, không có
khiếu nại, tốt cáo, kiến nghị, phản ánh đối với các cuộc thanh tra, kiểm tra hoặc
đối với thành viên các Đoàn thanh tra, kiểm tra
Về số lượng các cuộc thanh tra còn rất nhỏ so với đối tượng mà thanh tra
Bộ có quyền tiến hành thanh tra. Điều này dẫn đến việc, mất nhiều thời gian để
tiến hành thanh tra đủ các đối tượng thuộc phạm vi quản lý và các đối tượng đã
thanh tra đợi đến thời điểm thanh tra lại sẽ có nhiều năm bị bỏ trống không chịu
sự tác động thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Phạm vi tiến hành các cuộc thanh tra chưa cân đối, việc thanh tra chủ yếu
tập trung tiến hành thanh tra ở các tỉnh Miền Bắc (từ Huế trở ra). Khối lượng các
cuộc thanh tra tiến hành ở Miền Nam là khá ít, tuy nhiên thời gian gần đây, các
cuộc thah tra đã có sự phân bố tương đối đồng đều do có sự phân khu quản lý
đối với thanh tra viên. Phương thức tiến hành thanh tra hầu như tập trung vào
việc tiến hành thanh tra sau khi các đối tượng thanh tra đã tổ chức hoàn thanh
xong công việc mà chưa tiến hành thanh tra ngay trong khi các đơn vị đang tiến
hành công việc đó.
Qua thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Bộ Nội vụ đã phát hiện những thiếu sót,
sai phạm trong việc thực hiện các quy định của pháp luật trong công tác tổ chức
cán bộ của các Bộ, ngành, địa phương. Từ đó có những đề xuất, kiến nghị nhằm
hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan và nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý
61
nhà nước trong công tác cán bộ.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
CÔNG TÁC THANH TRA TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG CÔNG CHỨC
3.1. Quan điểm về công tác thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo về thanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Trong những năm qua vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung và thanh tra
trong công tác cán bộ nói riêng được Đảng ta quan tâm như: văn kiện Đại hội
XII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Nghị quyết số 26-NQ/TW,
Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ,
vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đã được trình bày kỹ lưỡng,
được thể hiện xuyên suốt, đầy đủ và toàn diện.
Thanh tra là phương thức có tính răn đe cao nhất trong các phương thức kiểm
soát quyền lực. Hoạt động này được tiến hành quy mô cùng nhiều phương pháp
nghiệp vụ để phát hiện những sai phạm trong thi hành pháp luật và được xem là
biện pháp phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật hiệu quả. Quan điểm chỉ đạo
công tác thanh tra TDSDCC của Đảng thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng
rất coi việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, cần đặt ra những phương
hướng, giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, cụ thể, thiết thực và khả thi.
Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế về kiểm soát quyền lực
trong công tác TDSDCC theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm
soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm. Cơ
chế, thể chế chính là căn cứ, là công cụ để tiến hành kiểm soát trong thanh tra
TDSDCC. Đây là nội dung, biện pháp có ý nghĩa trực tiếp và quyết định nhất.
Thứ ba, thiết lập cơ chế thanh tra hiệu quả cần phát huy sức mạnh tổng hợp
62
của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, vai trò tổ chức, quản lý của
nhà nước, giám sát và phản biện xã hội (PBXH) của các đoàn thể chính trị - xã
hội, nhất là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân.
Thứ tư, tăng cường thanh tra trong tất cả các khâu của quy trình công tác
cán bộ. Chú trọng công tác tuyển dụng công chức đúng với chức danh, biên chế
và yêu cầu của vị trí việc làm. Việc đánh giá công chức phải được tiến hành
thường xuyên và đánh giá dựa trên năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đây là cơ sở để đề bạt, bổ nhiệm và khen
thưởng, ghi nhận thành tích đối với công chức.
Thứ năm, đánh giá, xác định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của tập thể, cá
nhân trong công tác cán bộ theo hướng bảo đảm phải rõ quyền, đủ quyền, đúng
quyền và thực quyền. Đồng thời, nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra TDSDCC. Cần có cơ chế, chính sách tăng thẩm quyền
cho thanh tra, phát huy tối đa các quyền trong hoạt động thanh tra đồng thời bảo
đảm tính độc lập trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
3.1.2. Quan điểm của tác giả về công tác tuyển dụng, sử dụng công chức
và hoạt động thanh tra trong lĩnh vực tuyển dụng, sử dụng công chức
Công chức có vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức, hoạt động của các cơ
quan nhà nước, là người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi
luật pháp, quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; tham mưu, hoạch định,
tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách.
Việc đổi mới và không ngừng hoàn thiện công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ,
công chức là điều không chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều hướng
tới theo nhu cầu thực tế và trọng dụng nhân tài. Với việc nghiên cứu và phân
tích các mô hình thanh tra trên thế giới, đồng thời học hỏi cách quản lý,
TDSDCC có thể rút ra cho Việt Nam một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, đổi mới phương thức tuyển chọn công chức nhằm lựa chọn được
đội ngũ công chức có chuyên môn, nghiệp vụ thông qua các kỳ thi công chức. Ở
Nhật Bản, hàng năm Viện Nhân sự Nhật Bản tiến hành thi tuyển công chức với
63
việc phân loại công chức thành 03 loại. Những người trúng tuyển kỳ thi loại I sẽ
được đào tạo để trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Những người trúng
tuyển các kỳ thi loại II, loại III sẽ làm các công việc chuyên môn nghiệp vụ cụ thể.
Ở Việt Nam hiện nay việc tuyển chọn được tiến hành bằng hai con đường
thi tuyển và xét tuyển, tuy nhiên việc đánh giá công chức lại tiến hành hàng năm
khi họ đã và đang làm việc. Chúng ta có thể vận dụng bằng việc tổ chức thi
tuyển công chức lãnh đạo và công chức thực hiện chuyên môn. Gần đây nhất đề
án thí điểm tuyển chọn lãnh đạo quản lý cấp vụ, sở, phòng của Bộ Nội vụ đã
được thực hiện và bước đầu lựa chon được những cá nhân xuất sắc, tuy nhiên
việc thực hiện còn chậm và chưa mang tính rộng khắp.
Đối với hoạt động thanh tra cũng cần tiến hành bằng việc thi tuyển để lựa
chọn những thanh tra viên có năng lực quản lý, đồng thời lựa chọn những người
làm chuyên môn. Cần lựa chọn những thí sinh là những người theo học tại các
trường đại học lớn, có uy tín, trong suốt quá trình học tập, thành tích phải xuất
sắc. Đây là nguồn công chức tiềm năng đủ khả năng xử lý và giải quyết các vấn
đề phát sinh trong hoạt động thanh tra.
Thứ hai, xây dựng chính sách thu hút, sử dụng nhân tài, chú trọng đến mục
tiêu tuyển chọn người có tài năng dựa trên năng lực, khả năng đóng góp. Cùng
với đó là xây dựng chính sách lương dựa trên năng lực và các hỗ trợ, tăng cường
đầu tư, trợ cấp cho giáo dục. Một số quốc gia như Singapore, Hoa Kỳ đã thực
hiện có hiệu quả, chính sách thu hút nhân tài về các điều kiện vật chất, tinh thần,
khả năng thăng tiến, khả năng cống hiến đã giúp cho các quốc gia này thu hút
được những người giỏi làm việc trên hầu hết các lĩnh vực.
Ở Việt Nam hiện nay chính sách thu hút nhân tài đang áp dụng nhưng chỉ
thực hiện một phần như thu hút công chức trẻ làm việc ở vùng sâu, vùng xa,
những nơi có chất lượng cuộc sống thấp. Ưu tiên những người có trình độ tiến
sĩ, có thể xét tuyển không phải qua thi tuyển... Tuy nhiên về chế độ đãi ngộ vẫn
chưa đủ tạo niềm tin cho những người có trình độ, năng lực chuyên môn cống
hiến. Vấn đề cần đặt ra là chính sách thu hút phải đi liền với việc bảo đảm chất
64
lượng cuộc sống và các điều kiện để công chức họ làm việc.
Với hoạt động thanh tra cần có những chính sách bảo đảm, thu hút công
chức làm việc như về chính sách tiền lương, chế độ khám chữa bệnh, chế độ nhà
cửa và các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Cần nghiên cứu các chính
sách thu hút phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam nhằm thu hút được đội
ngũ công chức chất lượng để thực hiện hoạt động thanh tra
Thứ ba, trọng tâm đầu tư vào việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, đặc biệt
hướng tới đối tượng là công chức. Chúng ta có thể thấy một số quốc gia rất chú
trọng đào tạo lãnh đạo trẻ ngay từ khi còn rất trẻ. Với việc thành lập các trung
tâm đào tạo cao cấp, hướng nội dung chủ yếu là phát triển năng lực lãnh đạo với
những khóa học về quản lý nhà nước, thực tập chuyên sâu về chuyên môn thanh
tra và các hoạt động khác liên quan đến quản lý nhà nước.
Hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là đào tạo lãnh đạo cao cấp khi họ đang làm
việc hoặc là nguồn lãnh đạo chủ chốt đã tạo nguồn. Thực tế hàng năm vẫn tiến
hành các khóa học ngắn hạn để bồi dưỡng chuyên môn nhưng việc đào tạo chỉ
diễn ra khi những người đó là công chức nhà nước đã và đang thực hiện công
vụ. Việc đào tạo chỉ mang tính bổ sung cho công chức về các kiến thức chuyên
môn để thực hiện tốt nhiệm vụ mà thôi.
Cũng nhận thấy rằng ở một số tỉnh, thành phố của Việt Nam đang thực
hiện đào tạo công chức nguồn, điển hình là ở Hà Nội với đề án 1000 công chức
cấp xã được đào tạo để làm việc tại xã, phường, thị trấn. Đối tượng học viên này
được lựa chọn rất kỹ lưỡng về học thức, chuyên môn, đạo đức và cả tư duy lãnh
đạo, sau đó sẽ được đào tạo ít nhất hai năm về các lĩnh vực mà dự tính tương lai
đảm nhiệm (theo Quyết định số 5485/QĐ-UBND của UBND Thành phố Hà Nội
về việc ban hành Đề án thí điểm Đào tạo 1000 công chức nguồn làm việc tại xã,
phường, thị trấn giai đoạn 2012 – 2015 của thành phố Hà Nội). Kết thúc khóa
đào tạo sẽ tiến hành thi tuyển và tuyển dụng làm việc tại các xã, phường, thị
trấn. Đây là mô hình đào tạo công chức rất có hiệu quả cần nghiên cứu, thí điểm
áp dụng với đào tạo công chức nguồn ngành thanh tra. Chúng ta có thể lựa chọn
65
những cá nhân tiêu biểu, độ tuổi trẻ để đào tạo công chức với kiến thức chủ yếu
là các nội dung, kỹ năng thanh tra, sau đó đưa về cơ sở hoạt động. Như vậy sẽ
giúp cho công chức của chúng ta vừa có trình độ học vấn vừa có năng lực
chuyên môn đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu giải quyết các công việc của hoạt
động thanh tra.
Thứ tư, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công chức nhằm phân loại
và tạo động lực phân đấu cho công chức. Qua nghiên cứu hầu hết các quốc gia
đều quan tâm và có những biện pháp hữu hiệu để đánh giá chính xác kết quả
thực hiện công việc của công chức. Tại Hoa Kỳ đã thành lập ban đánh giá chất
lượng thực thi công việc làm nhiệm vụ chấm điểm xếp hạng và chế độ khen
thưởng; Nhật Bản thì tiến hành chấm điểm thành tích đối với nhân viên; Ở
Australia thì đưa ra các mục tiêu và chỉ số đánh giá kết quả làm việc nhằm làm
cơ sở để trả lương và ghi nhận sự thăng tiến của công chức.
Thực tế ở Việt Nam việc đánh giá công chức vẫn tiến hành hàng năm với
việc phân loại dựa trên khả năng làm việc theo từng tháng. Những công chức
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong năm phải đảm bảo không bị kỷ luật, có sáng
kiến kinh nghiệm hoặc có thành tích đột xuất. Việc đánh giá còn là cơ sở để xem
xét tăng lương trước thời hạn 6 tháng hoặc một năm.
Qua nghiên cứu và áp dụng vào thực tế Việt Nam, đối với hoạt động thanh
tra phải có sự đánh giá và ban hành hệ thống tiêu chí đánh giá riêng. Ngoài việc
xem xét việc thực hiện trong một năm còn tính tới việc thực hiện nhiệm vụ được
giao. Đối với những vụ việc thanh tra phức tạp, kéo dài, giải quyết tốt cần có sự
ghi nhận, khen thưởng và xem đó là một trong những tiêu chí để đánh giá, cân
nhắc vào các vị trí quản lý, lãnh đạo.
Thứ năm, tổ chức các đơn vị tiếp nhận thông tin để tiếp nhận một cách
nhanh nhất các thông tin do cá nhân, tổ chức cung cấp. Các thông tin thu thập
chủ yếu liên quan đến những sai phạm về TDSDCC và phải bảo đảm tính chính
xác, kịp thời. Đối với các thông tin tố giác từ điện thoại phải có sự phân loại và
xác minh, đồng thời bảo đảm các điều kiện về yêu cầu bảo vệ người tố cáo theo
66
quy định của pháp luật.
Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện rất tốt hình thức này nhằm phát hiện
những vi phạm để từ đó xây dựng các kế hoạch thanh tra. Ở Việt Nam trong
những năm vừa qua, nhiều vụ việc được phát hiện nhờ có sự tố giác của nhân
dân và sự tham gia có hiệu quả của hệ thống báo chí, truyền thông. Chúng ta cần
mở rộng mạng lưới cộng tác viên rộng rãi để tăng cường sự giám sát, kiểm tra
của cơ quan đối với hoạt động của đối tượng bị giám sát trên phạm vi và địa bàn
rộng lớn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cần có cơ chế quản lý thông tin,
tránh tình trạng đặt điều, vu khống, sai sự thật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể.
Thứ sáu, sử dụng các chuyên gia, các nhà chuyên môn trong khi xem xét,
giải quyết các vụ việc liên quan đến những vấn đề phức tạp, chuyên ngành sâu.
Ý kiến của các chuyên gia có chuyên môn sẽ giúp cho việc phân tích, nhận định
một vụ việc khách quan và chính xác hơn. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có độ phức
tạp khác nhau, đặc biệt trong lĩnh vực TDSDCC lại cần có sự phân tích kỹ
lưỡng, rõ ràng và đúng trọng tâm.
Thực tế, các chuyên gia, nhà chuyên môn đã góp phần nâng cao hiệu quả
của việc thanh tra trong các lĩnh vực quản lý nhà nước nói chung và thanh tra về
công chức nói riêng. Ở Việt Nam khi có một vụ việc được công bố thì ngay lập
tức có nhiều ý kiến bàn luận, đó là những ý kiến phân tích tích cực để từ đó nhà
nước có những biện pháp tốt hơn trong việc quản lý về sau.
Ở Việt Nam hiện nay, việc tuyển dụng công chức theo cơ chế tuyển dụng
theo tiêu chuẩn chức danh gắn với vị trí việc làm và tiến hành thi tuyển dụng
công chức theo hai vòng thi. Theo đó, vòng 1 thi trắc nghiệm về kiến thức
chung, ngoại ngữ, tin học để bảo đảm chính xác trong việc chấm thi và thuận
tiện trong việc ứng dụng công nghệ thông tin. Vòng 2 là thi chuyên môn nghiệp
vụ bằng hình thức phỏng vấn, thực hành hoặc thi viết do người đứng đầu cơ
quan có thẩm quyền tuyển dụng quyết định. Việc tuyển dụng công chức, viên
chức, nâng ngạch công chức và thăng hạng viên chức đã thể hiện rõ tinh thần
67
đổi mới trong việc tổ chức thi tuyển và xét tuyển công chức.
Công tác TDSDCC rất dễ xảy ra việc lạm dụng quyền lực để trục lợi, như:
nhiều trường hợp thực hiện tuyển dụng, sử dụng không đúng quy định, không
công khai, minh bạch, công tâm, khách quan; một số nơi, một số trường hợp thi,
tuyển dụng công chức, viên chức chỉ mang tính hình thức; quy hoạch, luân
chuyển, bổ nhiệm, đi học, đi đào tạo không theo tiêu chuẩn... gây mất cân bằng
trong cơ cấu công chức, thiếu hụt về chất lượng công chức, chênh lệch giữa
năng lực, trình độ và nhiệm vụ, quyền hạn và gây mất lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước. Do đó, cần phải có cơ chế kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ, thực hiện thanh tra để phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản
lý, chính sách, pháp luật nhằm kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
các biện pháp khắc phục.
Phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật giúp cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực TDSDCC, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động công tác thanh tra tuyển dụng, sử
dụng công chức
3.2.1. Giải pháp chung bảo đảm hoạt động công tác thanh tra tuyển
dụng, sử dụng công chức
3.2.1.1. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác thanh
tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Đảng giữ vai trò quyết định trong việc lựa chọn con đường phát triển cho
dân tộc ta, lựa chọn khả năng, xu hướng vận động cho nền kinh tế đất nước.
Công tác thanh tra TDSDCC là công cụ hữu hiệu của quản lý nhà nước. Do vậy,
việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác thanh tra TDSDCC là rất
quan trọng.
Để đáp ứng yêu cầu về sự vận động không ngừng của kinh tế - xã hội, đòi
68
hỏi phải có sự đổi mới, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra công tác cán
bộ, công chức. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, Nhà nước cụ thể hóa bằng
chính sách, pháp luật của về công tác thanh tra TDSDCC, đưa ra nhiều nội dung
thay đổi về tổ chức, hoạt động thanh tra như làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, phạm vi, phương thức hoạt động thanh tra và sự phối hợp của các cơ quan
thanh tra, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra; bảo
đảm sự phối hợp có hiệu quả giữa các công cụ giám sát, kiểm tra, thanh tra của
bộ máy nhà nước và của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Cùng với đó, tiếp tục khẳng định và quy định cụ thể hơn cơ chế bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, ban hành VBQPPL. Để làm rõ và sâu sắc
hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xây dựng, ban hành
VBQPPL, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ
sung 06 Điều của Luật năm Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, trong
đó, bổ sung nội dung thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm “Sự phù hợp của chính
sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước”, cụ thể:
- Bổ sung nội dung thẩm tra “sự phù hợp của nội dung chính sách với
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước” trong đề
.
- Bổ sung nội dung thẩm định phải bảo đảm sự phù hợp của nội dung dự
thảo văn bản (dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết do Chính phủ trình; dự thảo
nghị định; dự thảo nghị quyết do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh trình; dự
thảo quyết định của UBND cấp tỉnh; dự thảo quyết định của UBND cấp huyện
với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc chủ đạo,
xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, là nhân tố quyết
69
định đến tính hiệu quả của hoạt động thanh tra.
3.2.1.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về pháp
luật Thanh tra và hoạt độngthanh tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Muốn nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động và nhân dân cần phải tiến hành đồng loạt nhiều
biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như sau:
Một là, tổ chức, triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng, tuân thủ các quy định của pháp luật,
đảm bảo yêu cầu hiệu quả, thiết thực và tiết kiệm.
Hai là, nội dung tuyên truyền phải gắn với trọng tâm công tác TDSDCC.
Các nội dung truyền tải phải thiết thực, có trọng điểm, cập nhật những thay đổi,
bổ sung, các chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng, Chính phủ, cơ quan quản lý về tình
hình, kết quả, mô hình và kinh nghiệm trong thực hiện pháp luật trong
TDSDCC.
Ba là, hình thức tổ chức phải đa dạng, phong phú, kết hợp nhiều loại hình
tuyên truyền và phù hợp với từng đối tượng. Đối với cán bộ, công chức cần
tuyên truyền thông qua các tin bài trên thông tin đại chúng, trên cổng thông tin
điện tử Bộ, ngành, địa phương. Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm về công
tác TDSDCC và hoạt động thanh tra nhằm phổ biến, quán triệt chính sách, pháp
luật hoặc hướng dẫn, giải thích, chia sẻ kinh nghiệm… Tổ chức các lớp tập huấn,
bồi dưỡng công tác TDSDCC và hoạt động thanh tra TDSDCC. Đối với nhân dân
thì tổ chức hội nghị, sân khấu hóa, thi viết, phát tờ rơi, tuyên truyền trên các thông
tin đại chúng, trên loa, tuyên truyền lưu động xuống tại các thôn, xóm, khu dân cư
với phương châm “mỗi người dân trong cộng đồng dân cư là một tuyên truyền
viên”. Phát hành sách, ấn phẩm từ kết quả xây dựng pháp luật, đề tài nghiên cứu
khoa học, các báo cáo tổng kết, báo cáo nghiên cứu, khảo sát…
Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tuyên
truyền cho đội ngũ công chức làm công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật về công tác TDSDCC. Khuyến khích các tuyên truyền viên tự nâng cao
70
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm phối hợp với các ngành, các cấp tổ
chức tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho các tuyên truyền viên. Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật.
Năm là, đầu tư kinh phí để hỗ trợ cho các hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật nhằm đạt hiệu quả cao. Cần tranh thủ sự hỗ trợ về kinh phí
của các tổ chức, cá nhân quan tâm đến công tác thanh tra TDSDCC. Tập trung
thực hiện tốt công tác sơ kết, tổng kết để đánh giá lại những việc đã làm được,
chưa làm được, đề ra phương hướng giải pháp và xác định nội dung tuyên
truyền cho những năm tiếp theo. Bên cạnh đó, kịp thời khen thưởng những tổ
chức, cá nhân làm tốt, phê bình, nhắc nhở những tổ chức, cá nhân thực hiện
chưa nghiêm.
Sáu là, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và thường xuyên giữa các cấp, các
ngành đối với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về công tác
thanh tra TDSDCC.
3.2.1.3. Hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức.
Luật Cán bộ, công chức là căn cứ pháp lý nhằm tăng cường quản lý, sử
dụng, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công
chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính.
Trên cơ sở Luật Cán bộ, công chức đã được sửa đổi, bổ sung, Chính phủ,
các bộ, ngành cần khẩn trương nghiên cứu ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức
đồng bộ, nhất quán, hệ thống; tránh tình trạng chậm ban hành hoặc thường
xuyên bổ sung, thay đổi, gây lúng túng trong việc thực hiện, ảnh hưởng đến hiệu
lực, hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thanh tra.
Thể chế pháp luật về thanh tra là một nhân tố có vai trò quan trọng quyết
71
định đến kết quả thanh tra, đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà
nước. Để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra tuyển
dụng, sử dụng công chức nói riêng cần phải chú trọng đến công tác hoàn thiện
pháp luật về thanh tra theo hướng: Bổ sung các quy định về chế tài xử lý theo
hướng tăng nặng đối với các hành vi chống đối cản trở thành viên Đoàn thanh
tra trong quá trình thanh tra, quy định các biện pháp xử lý có hiệu quả các đối
tượng không chấp hành kiến nghị, kết luận thanh tra; phát h
Pháp luật về thanh tra cần tăng thẩm quyền và tính độc lập của cơ quan
thanh tra. Có như thế sự chủ động và độc lập sẽ góp phần nâng hiệu quả của các
cuộc thanh tra trên thực tế. Thẩm quyền của Thanh tra được nghiên cứu và xây
dựng phù hợp với các lĩnh vực thanh tra, đặc biệt là các lĩnh vực nhạy cảm. Hơn
thé cần tăng cườn
Pháp luật về thanh tra cần hoàn thiện quy trình, thủ tục, thời gian tiến hành
công tác thanh tra. Đây là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng và đảm bảo
cho công tác thanh tra đạt hiệu quả. Đối với một cuộc thanh tra phải quan tâm
đến yếu tố bảo mật thông tin, vì thế quy trình phải đảm bảo nhằm tránh lọt thông
72
tin trước khi một cuộc thanh tra được tiến hành. Đồng thời thủ tục phải gọn,
đúng quy định và phù hợp với thời gian tiến hành một cuộc thanh tra. Các yếu tố
này phải có sự thống nhất và ổn định trong kế hoạch thanh tra.
sử dụng công chức.
Mặt trậ
2013 ghi nhận tại Điều 9. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc là giám sát
mang tính nhân dân, thể hiện sự tham gia của người dân vào công việc chung
của đất nước. Việc giám sát và hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
góp phần xây dựng và bảo vệ nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được pháp luật quy định phải chịu
trách nhiệm tổ chức mạng lưới để thu nhận những ý kiến, đóng góp của người
dân và chuyển tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải trình. Tuy nhiên, việc
tiếp nhận và chuyển giao ý kiến của nhân dân vẫn chưa có một quy trình cụ thể,
gây khó khăn cho nhân dân khi muốn thực hiện quyền dân chủ, gây chậm trễ
trong việc tiếp nhận những thông tin đa chiều của nhà nước.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ
sung Điều 6 của Luật năm 2015 để quy định về PBXH của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL, cụ thể: Quy định rõ
thời điểm thực hiện PBXH được thực hiện trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến về
dự thảo VBQPPL; Trường hợp dự thảo VBQPPL đã được PBXH thì hồ sơ dự
án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm
văn bản phản biện xã hội; Bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo
trong việc nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý kiến PBXH khi chỉnh lý dự thảo văn
bản. Các nội dung khác liên quan đến PBXH được thực hiện theo quy định của
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy, vai trò giám sát và phản biện xã hội
73
trên con đường hoàn thiện hệ thống pháp luật đã được khẳng định.
Để phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với công tác TDSDCC
cần phải bổ sung các quy định về hình thức giám sát, quy trình tiếp nhận, tổng
hợp ý kiến đóng góp của nhân dân. Triển khai các chương trình, kế hoạch cụ thể
để đưa quy định về giám sát và phản biện xã hội vào thực hiện trong thực tế chứ
ko chỉ trên giấy tờ. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và
động viên nhân dân tham gia giám sát, đóng góp ý kiến, tuyên dương ý kiến
đóng góp tích cực.
3.2.2. Giải pháp đối với Bộ Nội vụ
3.2.2.1. Không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra tuyển dụng,
sử dụng công chức
Thanh tra TDSDCC là hoạt động nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng quy
định pháp luật về TDSDCC của các đối tượng thuộc phạm vi quản lý. Công tác
chỉ đạo, điều hành trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra
TDSDCC cần phải gắn kết thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan quản lý
cùng cấp. Theo đó, thanh tra sở phải thường xuyên bám sát chủ trương, kế
hoạch, nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Thanh tra bộ phải bám sát sự chỉ đạo thực
hiện những chủ trương, chính sách cụ thể theo ngành, theo lĩnh vực trên toàn
quốc. Đồng thời, nêu cao ý thức chấp hành sự chỉ đạo theo chương trình, kế
hoạch, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ để phối hợp điều hoà
hoạt động thanh tra trong toàn quốc.
Thanh tra TDSDCC cần phải được chú trọng, xây dựng tổ chức bộ máy
theo hướng khoa học tinh gọn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ
quan trong hệ thống. Đảm bảo thực hiện hoạt động thanh tra hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý. Kiện toàn bộ máy
các cơ quan thanh tra TDSDCC cũng như xây dựng, phát triển đội ngũ công
chức, thanh tra viên đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Sắp xếp tổ chức bộ
máy cần phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cụ thể, căn cứ vào điều kiện thực tế
74
điều kiện tự nhiên về phạm vi địa bàn quản lý đầy đủ thì sắp xếp các bộ phận
một cách phù hợp. Bố trí biên chế thanh tra, lực lượng thanh tra viên một cách
khoa học phù hợp với hoạt động thanh tra, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của từng
bộ phận. Bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý hội tụ đầy đủ năng lực, phẩm chất
đáp ứng yêu cầu thực tế và đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan thanh tra.
Hoạt động thanh tra trực tiếp của cơ quan thanh tra TDSDCC mang tính
quyết định đến yếu tố thành bại của cuộc thanh tra. Do đó, việc đổi mới hoạt
động thanh tra của cơ quan thanh tra nói chung và Đoàn thanh tra nói riêng là rất
cần thiết. Điều này đòi hỏi cơ quan thanh tra phải tiến hành đồng loạt nhiều biện
pháp trong đổi mới hoạt động thanh tra:
Một là, xây dựng được quy chế làm việc chặt chẽ, khoa học; xác định
chương trình, kế hoạch thanh tra có trọng tâm, trọng điểm theo năm, quý và theo
giai đoạn.
Hai là, xây dựng quy chế phối hợp công việc, nâng cao tinh thần chủ động,
sáng tạo của các thành viên Đoàn trong thực thi nhiệm vụ đồng thời phối hợp
hoạt động nhịp nhàng giữa thanh tra và các cơ quan, đơn vị hữu quan trong việc
bảo vệ pháp luật, đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật liên quan đến công tác TDSDCC.
Bốn là, có sự chỉ đạo sát sao của người ra quyết định thanh tra hoặc trưởng
đoàn thanh tra, để kịp thời chấn chỉnh những hành vi lệch khỏi quỹ đạo hoặc
giải quyết các vấn đề phát sinh.
Năm là, việc cập nhật, đổi mới và hoàn thiện các phương pháp nghiệp vụ
thanh tra là rất cần thiết khi tiến hành thanh tra trực tiếp, tuỳ theo nội dung thanh
tra và khả năng cung cấp hồ sơ, tài liệu của đối tượng thanh tra mà Đoàn thanh
tra đề ra các phương pháp thanh tra và biện pháp nghiệp vụ phù hợp, ví dụ:
nghiên cứu sổ sách, tài liệu tổng hợp và chi tiết, đối chiếu so sánh giữa các
nguồn tài liệu khác nhau, trực tiếp gặp gỡ đối tượng, và người có liên quan,
kiểm tra xác minh tại chỗ và những nơi khác, vấn đề niêm phong tài liệu, đình
chỉ một số hoạt động của nơi được thanh tra... Do đó, việc nghiên cứu, đổi mới
các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, hoạt động thanh tra; giao lưu, học hỏi, trao
75
đổi kinh nghiệm với các tổ chức thanh tra quốc tế là biện pháp đáng lưu ý.
3.2.2.2. Không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ công chức thanh
tra tuyển dụng, sử dụng công chức
Đội ngũ công chức là một trong những yếu tố quyết định quan trọng bậc
nhất ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh tra TDSDCC. Việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra phải là một việc làm thường
xuyên, liên tục hướng tới một số nhiệm vụ sau:
Một là, Bộ Nội vụ cần phải rà soát đội ngũ công chức thanh tra của toàn
ngành Nội vụ. Thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho công chức thanh tra nhằm đảm bảo về số lượng, chất
lượng, đáp ứng thực hiện nhiệm vụ của toàn ngành. Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi
dưỡng trên cơ sở tiêu chuẩn chức vụ, vị trí công tác. Rà soát đối chiếu những mảng
kiến thức công thức còn thiếu sót để đào tạo, bồi dưỡng đúng người, đúng vị trí,
không đào tạo tràn lan gây lãng phí thời gian và kinh phí. Hình thức đào tạo phải
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, không làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện công
việc. Nội dung đào tạo chú trọng vào kỹ nặng, nghiệp vụ thanh tra, học hỏi các
kinh nghiệm thực tế, phù hợp với thời đại.
Hai là, xây dựng chế độ công vụ phù hợp với đặc thù của thanh tra lĩnh vực
TDSDCC, thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng, thực hiện tốt việc thi đua khen
thưởng trong thực thi công vụ. Đây chính là động lực làm việc của công chức,
tạo tâm lý yên tâm, tinh thần trách nhiệm và tránh những tiêu cực có thể xảy ra.
Ba là, các cơ sở đào tạo về nghiệp vụ thanh tra viên, thanh tra viên chính,
nghiệp vụ thanh tra cần xây dựng và hình thành đội ngũ giảng viên chuyên
nghiệp, đổi mới phương pháp và nội dung giảng dạy. Đào tạo, tập huấn chuyên
môn nghiệp vụ một cách khoa học, hợp lý, gắn kết lý luận và thực tiễn để học
viên dễ dàng nắm bắt và áp dụng trong thực tiễn hoạt động thanh tra một cách
hiệu quả.
Bốn là, thường xuyên nâng cao kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ cho công
chức thanh tra để họ có năng lực phân tích, tổng hợp vấn đề cũng như khả năng
76
phối hợp, độc lập trong thực thi công vụ. Có khả năng trình bày, kết luận vấn đề
một cách logic, rõ ràng, mạch lạc. Họ phải cập nhật, nắm vững kiến thức pháp
luật, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Đồng thời chủ động
trau dồi tư duy luật, ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công việc.
Năm là, việc tuyển dụng công chức thanh tra cần phải có yêu cầu đặc biệt
phù hợp với vị trí việc làm và đặc thù nghề nghiệp. Đổi mới phương thức tuyển
dụng theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin.
Sáu là, tăng cường kiểm tra, giám sát công chức thanh tra và các đoàn
thanh tra, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ thanh
tra trong quá trình thực thi công vụ. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành
vi vi phạm pháp luật của công chức thanh tra trong quá trình thực thi công vụ.
Ban hành quy chế công vụ một cách cụ thể điều chỉnh hoạt động của công chức
thanh tra bảo đảm nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về
những hoạt động của mình.
3.2.2.3. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức.
Thủ trưởng cơ quan thanh tra là người trực tiếp thực hiện công tác chỉ đạo,
điều hành hoạt động của cơ quan, có vai trò quyết định chất lượng hiệu quả của
hoạt động thanh tra. Vì vậy, cần phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của thủ
trưởng cơ quan thanh tra TDSDCC, cụ thể ở những nội dung sau:
Một là, thủ trưởng cơ quan thanh tra phải làm tốt vai trò của người quản lý
như: tổng hợp chương trình, kế hoạch thanh tra, điều hoà phối hợp trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát trong ngành thanh tra và trong các cơ quan có chức
năng kiểm tra, khắc phục tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động tham mưu về quản lý nhà nước về công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân và phòng, chống tham
nhũng. Tăng cường thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp, thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, thực hiện pháp luật về thanh
77
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Ba là, tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền và thủ trưởng cùng cấp giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Tập trung giải quyết những
vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài. Đối với các vụ việc có quyết định giải quyết
khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật thì thủ trưởng cơ
quan thanh tra phải tham mưu cho ủy ban nhân dân cùng cấp, lãnh đạo bộ,
ngành giám sát, kiểm tra và đôn đốc cấp dưới tổ chức thực hiện nghiêm túc,
khẩn trương, dứt điểm.
Bốn là, quan tâm cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Báo cáo và kết luận thanh tra nhằm tránh phiền hà cho cơ
sở và đảm bảo phục vụ kịp thời cho công tác quản lý điều hành của chính quyền
cùng cấp.
3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động thanh tra
tuyển dụng, sử dụng công chức.
Việc hoàn thiện chế độ, chính sách sách đối với công chức thanh tra tuyển
dụng, sử dụng công thức là cấp thiết. Chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần cần
được thực hiện kịp thời, thỏa đáng nhằm động viên sự nhiệt tình hăng hái, củng
cố sự đoàn kết thống nhất của công chức thực hiện nhiệm vụ.
Để hoạt động thanh tra TDSDCC có hiệu quả thì điều kiện làm việc, cơ sở
vật chất cho công chức phải đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hơn
nữa, phải trang bị các phương tiện làm việc tiên tiến, ứng dụng khoa học công
nghệ vào hoạt động thanh tra, cung cấp các phương tiện kỹ thuật cần thiết trong
nghiệp vụ thanh tra, xây dựng dữ liệu điện tử lưu trữ hồ sơ, cập nhật các văn bản
quy phạm pháp luật để thuận tiện cho việc tra cứu, trao đổi thông tin về hoạt
động thanh tra TDSDCC.
Điều kiện và môi trường làm việc góp phần tăng hiệu suất lao động của cán
bộ, công chức. Cần quan tâm đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, chú trọng việc
xây dựng văn hóa công sở trong cơ quan thanh tra, hoàn thiện quy chế liên quan
78
đến chế độ, làm việc, quan hệ công tác, trách nhiệm quyền hạn của trưởng đoàn
thanh tra, thanh tra viên và công chức làm công tác thanh tra một cách thống
nhất, cụ thể, rõ ràng tạo môi trường làm việc minh bạch, thân thiện và đoàn kết.
3.2.2.5. Tổ chức thực hiện nghiêm túc kết luận, kiến nghị xử lý về thanh tra
Sau khi thông báo kết luận thanh tra đến các cơ quan, đơn vị, Thanh tra Bộ
Nội vụ có văn bản đôn đốc, theo dõi, đề nghị các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền
sửa đổi, bổ sung, khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trong kiến nghị của kết
luận thanh tra. Tại các kết luận thanh tra, thanh tra Bộ Nội vụ kiến nghị thủ
trưởng cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra thực hiện các biên pháp nhằm khắc
phục các tồn tại, hạn chế, sai phạm trong công tác TDSDCC.
Sau khi có kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh
tra cần thực hiện nghiêm chỉnh những kiến nghị và kết luận của đoàn thanh tra
về các nội dung:
Một là, thực hiện đúng các quy định của pháp luật về TDSDCC. Tổ chức
rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế được chỉ ra.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các nội dung hướng dẫn về công tác tổ chức cán bộ
để phù hợp với quy định hiện hành.
Hai là, kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xảy ra những hạn chế, tồn tại. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về
TDSDCC để phát hiện những sơ hở, hạn chế và có biện pháp chấn chỉnh, khắc
phục kịp thời.
Ba là, tổ chức việc rà soát, sắp xếp, bổ sung thành phần tài liệu còn thiếu
trong hồ sơ công chức, đồng thời có kế hoạch cử công chức còn thiếu tiêu chuẩn
đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng với
tiêu chuẩn của chức danh lãnh đạo, tiêu chuẩn ngạch đang giữ và đề ra thời hạn
để xem xét việc bố trí công tác cho phù hợp, xếp lại ngạch công chức cho phù
hợp đối với những trường hợp đang giữ ngạch chưa phù hợp với vị trí công tác.
79
Kịp thời đề xuất những kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc trong công tác
tổ chức cán bộ với cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, thay thế tạo điều kiện
thuận lợi trong thực hiện công việc.
Bốn là, thường xuyên tổ chức hoặc đề nghị cơ quan chức năng bồi dưỡng,
hướng dẫn công chức làm công tác tổ chức cán bộ, nhất là khi có quy định mới
của pháp luật liên quan. Bên cạnh đó, yêu cầu cán bộ, công chức làm công tác tổ
chức cán bộ tăng cường trách nhiệm, tự nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn.
Năm là, xem xét hoặc chỉ đạo xem xét bổ nhiệm lại hoặc không bổ nhiệm
lại đối với những trường hợp đã hết thời hạn giữ chức vụ. Cho thôi giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý đối với công chức đang được kéo dài thời gian công tác khi
đến tuổi nghỉ hưu.
Sáu là, thu hồi quyết định bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với các
quyết định sai phạm có liên quan đến tuyển dụng, tiếp nhận, nâng ngạch. Kiểm
tra hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tuyển dụng công chức đối với công chức
đang công tác để xử lý theo quy định đối với những trường hợp không được
80
tuyển dụng đúng quy định của pháp luật.
Tiểu kết Chƣơng 3
Tại chương 3, Luận văn đã nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng, định
hướng xây dựng về chính sách pháp luật của nhà nước về thanh tra TDSDCC và
quan điểm của tác giả về xu hướng quản lý, sử dụng công chức và điển hình về
thanh tra TDSDCC trên thế giới và ở Việt Nam nói riêng.
Chương 3 luận văn xác định phương hướng bảo đảm hoạt động của công
tác thanh tra TDSDCC của Thanh tra Bộ Nội vụ. Từ thực trạng và quan điểm
trên luận văn đã đề ra hai nhóm giải pháp chính là giải pháp chung cho hoạt
động thanh tra TDSDCC và giải pháp đối với Bộ Nội vụ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, giải pháp về hoàn thiện thể chế, hệ thống văn bản pháp luật về
cán bộ, công chức và hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra TDSDCC
Thứ hai, giải pháp về tổ chức, triển khai, kiện toàn bộ máy, đội ngũ, đổi
mới tổ chức và hoạt động thanh tra TDSDCC
Thứ ba, giải pháp nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ công chức thực
hiện công tác thanh tra
Thứ tư, giải pháp giáo dục, tuyên truyền pháp luật thanh tra và thanh tra
TDSDCC
Thứ năm, giải pháp kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngọ cho
công chức thanh tra thực hiện TDSDCC.
Các nhóm biện pháp trên đây cần phải được triển khai đồng loạt, có
chương trình kế hoạch cụ thể, nâng cao tính khả thi nhằm hoàn thiện hoạt động
81
thanh tra TDSDCC.
KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước ta, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng công tác TDSDCC, đặc biệt là yêu cầu mới về tăng cường hiệu
lực, hiệu quả công tác thanh tra việc TDSDCC. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị nhằm không ngừng hoàn thiện, kiện toàn bộ máy với lực lượng nòng
cốt là đội ngũ công chức đáp ứng đủ yêu cầu năng lực và phẩm chất.
Thanh tra việc TDSDCC là một khâu thiết yếu của chức năng quản lý nhà
nước của Bộ Nội vụ, có nhiệm vụ phát hiện những sơ hở trong quản lý, làm cơ
sở cho việc hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật liên quan đến lĩnh vực
quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ.
Hoạt động thanh tra việc TDSDCC của Thanh tra Bộ Nội vụ thời gian qua
đã đạt được những thành tựu nhất định, song vẫn không tránh khỏi những tồn
tại, hạn chế. Do vậy, để nâng cao hiệu quả thanh tra việc TDSDCC trong thời
gian tới cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: hoàn thiện thể chế thanh tra
chuyên ngành liên quan đến công tác TDSDCC; kiện toàn tổ chức thanh tra một
cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và thực tiễn, đổi mới
phương thức thanh tra; nâng cao năng lực thực thi công vụ cho đội ngũ thanh tra
82
viên; công khai, minh bạch hóa công tác thanh tra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1984), Chỉ thị 38-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh tra, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (1997), Nghị quyết
03-NQ/TW về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (2018), Nghị quyết
26-NQ/TW về tập trung xây dựng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội.
4. Bộ Nội vụ (2004), Quyết định 82/2004/QĐ-BNV về tiêu chuẩn Giám đốc sở
và các chức vụ tương đương thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư 13/2010/TT-BNV ngày 30/12/2010 hướng dẫn
về tuyển dụng và nâng ngạch công chức của Nghị định 24/2010/NĐ-CP
ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức, Hà Nội.
6. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư 09/2012/TT-BNV ngày 10/12/2012 quy định quy
trình, nội dung thanh tra về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên
chức, Hà Nội.
7. Bộ Nội vụ (2014), Thông tư 11/2014/TT-BNV ngày 09/10/2014 quy định
chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch
công chức chuyên ngành hành chính, Hà Nội.
8. Bộ Nội vụ (2017), Thông tư số 05/2017/TT-BNV ngày 15/08/2017 sửa đổi
83
bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2014/TT-BNV, Hà Nội.
9. Bộ Nội vụ (2017), Quyết định 2578/QĐ-BNV ngày 21/9/2017 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra Bộ Nội vụ, Hà Nội.
10. Bộ Nội vụ (2017), Quyết định 2823/QĐ-BNV phê duyệt Chiến lược phát
triển ngành Nội vụ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Hà Nội.
11. Bộ Nội vụ (2019), Thông tư số 03/2019/TT-BNV sửa đổi quy định về tuyển
dụng công chức, viên chức, nâng ngạch ngạch công chức, thăng hạng chức
danh nghề nghiệp viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công
việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, Hà
Nội.
12. Chính phủ (2018), Nghị định 161/2018/NĐ-CP Ngày 29/11/2018 quy định
về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức và thăng hạng
viên chức, Hà Nội.
13. Chính phủ (2010), Nghị định 24/2010/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức, Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra,Hà Nội.
15. Chính phủ (2012), Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 quy định
về cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh
tra chuyên ngành, Hà Nội.
16. Chính phủ (2012), Nghị định 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 quy định tổ
chức và hoạt động thanh tra ngành Nội vụ, Hà Nội.
17. Chính phủ (2017), Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ, Hà Nội.
18. Phạm Huỳnh Công (2018), Thẩm quyền thanh tra trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, Luận án Tiến sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính
84
Quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Hồng Diệp (2009), Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao
động, thương binh và xã hội – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ
Luật, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
20. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Thanh tra và giải quyết
khiếu nại hành chính, Nxb. Khoa học kỹ thuật Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1945), Sắc lệnh 64/SL về Thành lập Ban Thanh tra đặc biệt,
Hà Nội.
22. Hội đồng Bộ trưởng (1984), Nghị quyết 26-HĐBT về việc tăng cường tổ
chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra, Hà Nội.
23. Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Thanh tra, Hà Nội.
24. Nguyễn Tuấn Linh (2016), Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế từ thực
tiễn tỉnh Hà Nam, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Khắc Hường (2004), Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa thanh
tra Bộ và thanh tra chuyên ngành – thực trạng và giải pháp, Đề tài Khoa
học cấp Bộ.
26. Quốc Hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Hà Nội.
27. Quốc Hội (2010), Luật Thanh tra, Hà Nội.
28. Quốc Hội (2011), Luật Khiếu nại, Hà Nội.
29. Quốc Hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc Hội (2013), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
31. Quốc Hội (2018), Luật Tố cáo, Hà Nội.
32. Quốc Hội (2019), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công
chức và Luật Viên chức, Hà Nội.
33. Quốc Hội (2020), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
85
34. Thanh tra Bộ Nội vụ (2015), Kế hoạch thanh tra năm 2015, Hà Nội.
35. Thanh tra Bộ Nội vụ (2016), Kế hoạch thanh tra năm 2016, Hà Nội.
36. Thanh tra Bộ Nội vụ (2017), Kế hoạch thanh tra năm 2017, Hà Nội.
37. Thanh tra Bộ Nội vụ (2018), Kế hoạch thanh tra năm 2018, Hà Nội.
38. Thanh tra Bộ Nội vụ (2019), Kế hoạch thanh tra năm 2019, Hà Nội.
39. Thanh tra Bộ Nội vụ (2018), Tổng hợp các cuộc thanh tra về công tác bổ
nhiệm từ năm 2011 đến năm 2017, Hà Nội.
40. Thanh tra Bộ Nội vụ (2017), Một số vướng mắc trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật trong các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý nhà nước
của Bộ Nội vụ phát hiện qua thanh tra, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2015), “Thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra
– thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Thanh tra, (số 25/06/2015).
42. Nguyễn Thanh Thủy (2016), Thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực Nội vụ
ở tỉnh Nam Định, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội – 2016
43. Trịnh Công Sơn (2017), Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
44. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nvb.Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
45. Hoàng Văn Vy (2010), “Luật Thanh tra cần có những quy định linh hoạt cho
86
hoạt động thanh tra chuyên ngành”, Tạp chí Thanh tra, (số 3).