BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

….o0o….

NGUYỄN HỮU CHÍNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG CẦM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, 2001

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

….o0o….

NGUYỄN HỮU CHÍNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG CẦM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Chuyên ngành : Ngữ văn

Mã số : 50433

Người hướng dẫn khoa học

TS. Lê Tiến Dũng

Thành phố Hồ Chí Minh, 2001

LỜI CẢM TẠ

Để hoàn thành luận văn này chúng tôi xin chân thành cám ơn.

Các thầy cô phòng Khoa học Công nghệ và sau đại học Trường Đại học Sư phạm

thành phố Hồ Chí Minh.

Các thầy cô, khoa ngữ văn trường Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội I, Viện Văn học, Viện Khoa

học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh.

Sở giáo dục và Đào tạo Bạc Liêu.

Thầy Lê Tiến Dũng, người trực tiếp hướng dẫn luận văn này.

Nhà thơ Hoàng Cầm, nhà thơ Hoàng Hưng, những người cung cấp cho tôi tài liệu để

hoàn thành luận văn này.

Thầy Nguyễn Sáu, thầy Đào Đức Hạnh người đã hướng dẫn tôi những bước đầu tiên

đến với văn học.

Bạn bè, thân hữu lớp cao học Văn khóa 7 và khóa 8.

Cha mẹ những người đã sinh ra và dưỡng dục tôi.

Vợ và con, những người trực tiếp tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Nhân dịp luận văn được bảo vệ, một lần nữa chúng tôi xin chân thành tri ân.

MỤC LỤC

LỜI CẢM TẠ.............................................................................................. 3

MỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................... 4

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 5

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 5

2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 5

3. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 9

4. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 9

Chương 1: CHẤT TRỮ TÌNH TRONG THƠ HOÀNG CẦM ........... 11

1. Vấn đề chất thơ ................................................................................................... 11

2. Chất trữ tình trong thơ Hoàng Cầm .................................................................. 13

Chương 2: TƯ DUY NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG CẦM ................ 42

1. Quan niệm về tư duy nghệ thuật thơ. ................................................................ 42

2. Tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, từ tư duy lãng mạn đến tư duy tượng trưng. ....................................................................................................................... 44

KẾT LUẬN ............................................................................................... 92

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1/- Hoàng Cầm là một nhà thơ khá tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện

đại. Tác phẩm của ông từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông.

Qua nhiều lần cải cách,thay đổi chương trình, sách giáo khoa, Hoàng cầm vẫn giữ

được vị trí của mình. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của Hoàng Cầm trong tiến

trình văn học Việt|Nam nói chung và thơ Việt Nam hiện đại nói riêng. Do đó việ c

nghiên cứu về ông là một điều hết sức cần thiết .

1.2/- Hoàng Cầm là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông

không thuộc lớp những nhà thơ tiền chiên nhu Xuân Diệu, Huy Cân, Chế Lan Viên

... và cũng không đi theo lối đi của những nhà thơ kháng chiến như Nguyễn Đình

Thi, Chính Hữu, Quang Dũng ... và cả những nhà thơ chống Mỹ sau này. Ồng có một

lối đi riêng, âm thầm, lặng lẽ. Chính vì vậy nghiên cứu về Hoàng cầm một mặt giúp

chúng ta nhận diện được sự phát triển của tư duy thơ Việt Nam hậu lãng mạn, mặt

khác cho thấy sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt Nam hiện đại .

Do đó, mục đích của đề tài này nhằm nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm một cách

toàn diện và có hệ thống. Từ đó nhận diện được con đường phát triển của tư duy

nghệ thuật thơ ông từ lãng mạn đến hậu lãng mạn. Đồng thời qua đó thấy được

những đóng góp nhất định của Hoàng Cầm cho nền văn học Việt Nam nói chung và

thơ ca Việt Nam hiện đại nói riêng .

2. Lịch sử vấn đề

Về tác giả Hoàng Gầm có thể kbẳng định chưa có một công trình nào nghiên

cứu về ông một cách toàn diện và có hệ thống. Toàn bộ nghiên cứu về ông chỉ là

những bài viết, những tiểu luận, những bài giới thiệu ngắn. Chúng được tập hợp lại

trong hai quyển sách tiêu biểu: Thứ nhất làiquyển "Phê bình, bình luận văn

học" do NXB Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh ấn hành (không ghi rõ năm) giới thiệu các

tác giả Hồng Nguyên, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Quang Dũng và

Hoàng Cầm. Quyển thư hai tương đối đầy đặn hơn, đó là quyển "Hoàng Cầm thơ văn

và cuộc đời" do Hoài Việt sưu tầm ; biên soán, NXB Văn hóa Thông tin ấn hành năm

1997. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu sơ lược một vài bài viết tiêu biểu,có khen và có

chê. Đó là những bài viết ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu chuyên

luận này của chúng tôi .

Trước hết đó là bài về:"Mấy ý nghĩ nhỏ về thơ Hoàng Cầm'' của nhà nghiên cứu

Nguyễn Đăng Mạnh. Đọc tập "Mưa thuận thành" của Hoàng C ầm, ông viết "Những vần

thơ cứ ngân nga, cứ ám ảnh hoài và nhói lên trong ta một nỗi xót xa, một niềm thương nhớ

khôn nguôi" (72 - tr229). Những nhận xét tuy có phần cảm tính và chủ quan nhưng

được ông chứng minh và phân tích khá cụ thể. Ông khái quát;"Hình như có một không

gian Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh". Những nhận xét

trên được Đỗ Đức Hiểu chia sẻ trong bài viết'"Hoàng Cầm" (107 –tr280). Ông viết

: "Tính hiện đại trong thơ Hoàng Cầm không phải như Vũ Hoàng Chương (nhà thơ đô thị

với phố xá đô thị sàn nhảy, đô thị, tiệm hút đô thị ...) mà là một vùng cỏ cây, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực hóa thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà sấm, bến Cô

Mưa và Lá Diêu Bông, hay những người con gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ Kính Bắc

xóa nhòa trong mùa bụi bay". Những nhận xét như vậy cho phép chúng ta, ở một góc

nhìn bao quát tiếp cận được hệ thống thi pháp thơ Hoàng Cầm. Nó tạo nên phẩm chất

trữ tình trong thơ ông. Đi xa hơn vào thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, Nguyễn

Đăng Mạnh xem thơ Hoàng Cầm như là "một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mông lung, vô thức'1 (72 -

tr 334). Có lẽ đây cũng là một hướng đi của tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm .

Điểm tương đồng giữa nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh và Đỗ Đức Hiểu ở

chỗ,cả hai ông gợi ra một hướng tiếp cận mới trong thế giới nghệ thuật thơ Hoàng

Cầm mà cả hai tác giả đều gọ i là "Siêu thơ". Có thể nói đây là một trong những

hướng tìm tòi về hình thức thơ ca Việt Nam hậu lãng mạn theo xu hướng tượng

trưng. Phải chăng tư duy thơ Hoàng cầm phát triển theo hướng đó? và ông đạt được

ở những mức độ nào? Hoàng Cầm rõ ràng mang những yếu tố lãng mạn nhưng ông

cũng vượt ra ngoài những yếu tố đó để tìm đến "một thế giới không tuân theo những lô

gic thông thường, không nói năng bằng cú pháp thông thường" (72 - tr234)

Hoài Việt trong bài "Đền với Hoàng Cầm" giới thiệu tương đối đầy đủ về Hoàng Cầm với tư cách một nhà thơ mà theo ông utrước 1945, trong bảng phong thần

của các nhà thơ mới chưa có tên anh"(107 tr 7). Cũng cần nói thêm, đây cũng chỉ là bài

giới thiệu chung chung chưa đi vào phân tích cụ thể thuyết phục trên tư liệu thơ

Hoàng Cầm, ông gọi Hoàng Cầm là "....một người làm vườn cần mẫn, cuốc xới trên

mảnh đài hương hỏa, gieo vải những hạt hoa nhài, hoa ngầu. Đến đó vẫn là một tư duy nền

mạch. Nhưng rồi vườn hoa ấy bỗng xen vào hoa Păng xê, hoa Tuỵlíp" (107 – tr12), có lẽ

ông muốn nhận xét quá trình phát triển của tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, nên ở

phần sau, trên cơ sở phân tích những tìm tòi của Hoàng cầm về dùng từ, đặt câu, xây

dựng hình ảnh ông kết luận : " Theo tôi, Hoàng Cầm là cuộc hôn phối giữa dân tộc và

hiện đại; Anh đã bỏ qua thời kỳ thử nghiệm để đi thẳng tới cái đích đã nhắm". Những nhận

xét như trên có tính gợi mở hơn là những khẳng định có tính khoa học, có tính thuyết

phục cao .

Có lẽ đáng chú ý hơn cả và có tính chặt chẽ hơn cả là bài viết "Ấn tượng thơ

Hoàng Cầm"của nhà nghiên cứu phê bình Chu Văn Sơn. Bài viết có dung lượng và

kết cấu của một tiểu luận hơn là một bài báo. Trong bài viết trên tác giả đã cố gắng

lý giải những ẩn ức trong thế giới tình cảm thơ Hoàng Cầm. ông viết: "Thơ Hoàng

cầm là thứ hoa trái vật vã mộng du, óng ả thanh cao mà phong trần lận đận của nỗi nghẹn

ngào đó" (85 - tr286). Ông nói nhiều đến hồn thơ, đến điệu thơ và nhạc thơ

Hoàng Cầm. Ông cố gắng đi tìm cái giọng điệu riêng của thơ Hoàng Cầm, "Có cảm

giác điêu thơ Hoàng Cầm như con hạc đầu đình, muốn bay không cất nổi mình mà bay, nó

là những sải cánh, đập cánh chới với, chơi vơi".(85 - tr289)

Ngoài ra ông còn nói đến : "Một sự hội nhập của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm" với

những bi kịch của cuộc đời được biểu đạt bằng những lớp nghĩa chồng lên nhau, để

nén lại, để ẩn chứa : ''Hoàng Cầm đã nén chìm tính biểu cảm của câu chữ, để nỗi nghẹn

ngào khuất chìm trong câu chữ, đặng kýthác trọn vẹn vết thương tủi cực của số phận

mình." (85 - tr293). Hồn thơ Hoàng Cầm, do đó theo ông, là những ẩn ức của cuộc

đời. Bài viết trên có ý nghĩa lớn trong quá trình nghiên cứu thơ Hoàng Cầm.

Chia sẻ với Chu Văn Sơn là bài viết của nhà văn Phạm Thị Hoài "Đọc Mưa

thuận thành của Hoàng Cầm". Thực chất bài viết chỉ trình bày những cảm nhận của tác

giả về thơ Hoàng Cầm. Đó là những cảm nhận có tính rời rạo, chưa xâu chuỗi theo

một đề tài nhất định. Tác giả viết "Vậy thì trước hết tôi thấy Hoàng Cầm đẹp và xa

cách", ở đây nhà văn muốn nổi đến một hệ lời Hoàng Cầm với những ẩn ức nào đó,

vừa gần gũi vừa xa xôi. Tác giả đi tìm "trường liên tường rất đặc trưng trong thơ Hoàng

Cầm" với những khám phá, "nhữ ng hình ảnh không ngờ có thể đặt nối tiếp nhau để xuất

hiện những thi tứ không ngờ và một nhạc điệu không ngờ" (50 - tr255). Bằng những cảm

nhận như vậy tác giả đã cố gắng đi tìm cái riêng trong hồn thơ của Hoàng Cầm.

Việc làm ấy là cần thiết nhưng chưa đủ. Chưa đủ vì bài viết cũng chỉ dừng lại ở mức

độ gợi mở, giới thiệu, chỉ dừng lại ở sự đồng cảm của một nhà văn với một nhà thơ .

Trần Mạnh Hảo trong bài "phê bình "Hoàng Cầm và 99 tình khúc"trên văn số 71

- 97 và được in lại trong "Phê bình, bình luận văn học" do Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn

đã nhìn nhận và đánh giá thơ Hoàng cầm ở một khía cạnh khác. Tác giả Trần Mạnh

Hảo chủ yếu tập trung vào phê hơn là bình. Ông phê phán sự thiếu trong sáng, các

yếu tố sex trong thơ tính Hoàng Cầm, cách dùng chữ, câu "Nhũng chữ cầu kỳ quá mức

của ông đôi khi đánh bạt nghĩa kỹ thuật thơ đánh hỏng tình thơ khiến người đọc không còn

thấy thơ đâu nữa mà chỉ toàn những chữ mạ kền, chữ vàng mà nhống nhánh, thông

thênh...."(43 - tr 117). Nói chung tác giả có phần cực đoan khi phê phán thơ tình

Hoàng Cầm theo hướng xã hội học mà chưa thấy được những đóng góp nhất định

của ông. Bài nghiên cứ u còn mang nặng yếu tố chủ quan cả trong khen và chê do đó

chưa thật sự là những cứ liệu khoa học khả dĩ có thể giúp được gì trong quá trình

nghiên cứu thơ Hoàng Cầm

Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Minh Thái, Đặng

Tiến, Mai Thục .... chủ yếu là các bài viết ngắn cảm nhận về thơ Hoàng Cầm với tư

cách là những người đọc thơ ông và yêu thơ ông. Những bai viết trên là những tham

khảo bổ ích trong quá trình nghiên cứu chuyên luận này.

Tóm lại, lịch sử nghiên cứu thơ Hòang Cầm, có thể thấy hai đặc điểm sau:

Thứ nhát: Chưa có một công trình nào nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm một

cách đầy đủ và có hệ thống .

Thứ hai: Nhiều nhệ nghiên cứu đã chỉ ra được những đặc trưng của tư duy

nghệ thuật thơ Hoàng Cầm,nhưng chưa chỉ rõ quá trình phát triển của tự duy nghệ

thuật thơ ông trong bối cảnh những tìm tòi về hình thức của thơ ca Việt Nam sau

1945.

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng khoa học của chuyển luận là thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm ở

hai bình diện :

Thứ nhất là ở bình diện chất trữ tình của thơ Hoàng Cầm. Trong đó, chúng tôi

chủ yếu nghiên cứu tư duy nghệ thuật trên chất liệu nội dung của thơ ông, những

cảm nhận của ông về thời gian, không gian nghệ thuật, những quan niệm về tình

yêu. Đó là những cảm hứng sáng tạo chủ quan của nhà thơ .

Bình diện thứ hai đi sâu nghiên cứu những đặc trưng vá quá trình phát triển

của tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm trong bối cảnh những tìm tòi về hình thức thơ

ca Việt Nam sau 1945. Ở đây chúng tôi nghiên cứu Hoàng Cầm với tư duy nghệ

thuật từ lãng mạn đến tượng trung. Từ đó chúng ta thấy được những đóng góp nhất

định của ông đối với quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.

4. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu

Tác phẩm của Hoàng C ầm khá phong phú : Từ kịch thơ, thơ đến văn xuôi.

Chuyên luận này chỉ chủ yếu nghiên cứu thơ Hoàng Cầm. Kịch thơ và văn xuôi là

những phần tham khảo bổ ích của chúng tôi. Cho đến nay Hoàng Cầm đã xuất bản

năm tập thơ : "Bên kia sông Đuống" NXB Văn hóa 1993, "Về kinh Bắc\ NXB Văn học

1994, "Mưa Thuận Thành", NXB Văn hóa 1991. "Men đá vàng\ NXB văn học 1995

và "99 tình khúc\ NXB văn học-1996. Có thể nói số lượng các tập thơ được xuất bản

là nhiều. Tuy nhiên, số lượng các bài thơ không nhiều lắm bởi lẽ có nhiều bái trùng

lặp ở nhiều tập thơ khác nhau. Do đó, đơn vị khảo sát của chúng tôi ở đây là bài thơ .

Ngoài ra từ 1990 trở lại đây Hoàng Cầm có khá nhiều thơ trên các báo và tạp

chí. Đó không phải là đối tượng nghiên cứu của chuyên luận này mà chỉ là những

phần để tham khảo.

Trong chuyên luận này, phương pháp nghiên cứu chủ yểu của chúng tôi là

phương pháp phân tích trên văn bản tác phẩm thơ Hoàng Cầm và một phần cuộc đời

ông .

Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp lịch sử cụ thể, đặc biệt,

phương pháp so sánh đổ i chiếu, được ưu tiên sử dụng. Qua đó thấy được những nét

tương đồng và dị biệt giữa Hoàng cầm và các nhà thơ hiện đại khác .

Ở đây chúng tôi không chủ trương tách rời các yếu tố nội dung và hình thức

trong quá trình nghiên cứu. Chúng tôi nghiên cứ u đồng thời nội dung va hình thức

như là một quá trình sáng tạo. Có chăng đôi khi có sự tách rời chỉ là những trừu xuất

để tiện nghiên cứu mà thôi .

Chúng tôi xin chân thành cám ơn Phòng nghiên cứu khoa học; khoa Ngữ Văn,

Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh; khoa Ngữ Văn và Báo Chí, Đại học

Khoa Học Xã Hội và Nhấn Văn thành phố Hồ Chí Minh; khoa Ngữ Văn Đại học Sư

Phạm và Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội; Viện Văn Học. Viện Khoa

Học Xã Hội tại thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt chúng tôi xin chân thành cả m ơn

TS Lê Tiến Dũng người trực tiếp hướng dẫn chúng tôi hoàn thành chuyên luận này .

Chương 1: CHẤT TRỮ TÌNH TRONG THƠ HOÀNG CẦM

1. Vấn đề chất thơ

Nói đến thơ trước hết là nói đến chất thơ. Chất thơ như là một yếu tố quan

trọng trong hệ thống giá trị của thơ ca. Chất thơ không chỉ là một phương diện của

nội dung trữ tình mà còn là sự thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng

khách quan và cảm hứng sáng tạo chủ quan. Do đó, chất thơ là mạch nguồn, là sự

rung động của nhà thơ trước thế giới, là chất men tạo nên cái say, cái đẹp của thơ

ca

1.1/- Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có một quan niệm rõ ràng, có hệ thống về

chất thơ dù nhiều nhà nghiên cứu phê bình dùng thuật ngữ này. Trước hết người ta

hay nói đến chất thơ trong cuộc sống hoặc sâu hơn tác phẩm này giàu chất thơ.

Thực chất đây là cách nói chưa đi vào nội dung khái niệm. Hà Minh Đức cho

rằng:"khi nói đến chất thơ là nói tới nhân tố thuộc nội dung" (34 - tr 33) và ở phần khác

ông viết "Những nhân tố đặc biệt quan trọng để tạo nên chất thơ là phần cảm xúc và suy

nghĩ chủ quan của nhà thơ" (34 - tr35). Như vậy chất thơ không chỉ là nội dung trữ tình

của thơ, nó chính là sự thống nhất nội dung, hình thức trong thơ, chất thơ,do đó

không phải là khách thể thẩm mỹ mà là sự thống nhất khách thể chủ thể thẩm mỹ.

Chất tho trong cuộc sống khác với chất thơ trong thơ ca : "Chất thơ trong nghệ thuật

bao gồm sự thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng khách quan và cảm hứng

sáng tạo chủ quan của nhà thơ" (34 - tr35) .

Chất thơ, đương nhiên bắt nguồn từ cuộc sống. Nhưng nó là cuộc sống đã

được "chuyển hóa” được "cải hóa" trong sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ. Trong

cồng trình "Tâm lý văn nghệ", nghiên cứu quá trình hoạt động của tâm lý sáng tạo,

Chu Quang Tiềm gọi đó là hình thức "Di tình tác dụng". Như vậy chất thơ là sản phẩm

của quá trình hoạt động tâm lý sáng tạo, là chức năng khứu biệt của thơ ca : "tác

phẩm trữ tình làm sống dậy cái chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế

giới của những suy tư, tâm trạng, nỗi niềm - một phương diện rất, năng động, hấp dẫn của

hiện thực"(70 - tr358).

Từ đó, Hà Minh Đức cho rằng : "Song để tìm hiểu và đánh giá cho đúng một tiếng

nói thi ca thì phải thấy được từ bên trong chất thơ tầm vóc về tư tưởng của mỗi tác giả. Tầm

vốc tư tưởng chỉ ra độ sâu và chiều cao của hồn thơ" (34 - tr54). Cái mà tác giả gọi là tư

tưởng ỏ đây chính là tư tưởng nghệ thuật. Do đó, ông cho rằng chất thơ gắn liền với

trí tưởng tượng, với tình cảm và cái đẹp. Nó là cái đẹp của tâm hồn nhà thơ biểu đạt

trọn vẹn trên trang thơ. Như vậy, nghiên cứu chất thơ là nghiên cứu nội dung trữ

tình được biểu đạt qua hệ thống thi pháp.

1.2/- Trong "Mỹ học" Hegel viết "Khi bàn đến nội dung của cái làm đối tượng cho

cách quan niệm cái nên thơ (tức là chất thơ) - ít nhất là làm một cách tương đối - ngay từ

đầu, loại trừ cái bên ngoài, tức là gạt bỏ các sự vật tự nhiên .. Đối tượng của thơ là những

hứng thú tinh thần" (44 - tr483). Ở đây gạt bỏ quan niệm duy mỹ của nhà nghiên cứu

chúng ta cũng phải nhận rằng chất thơ không thể tách rời với trí tưởng tượng, với

đời sống tình cảm và sự rung động của nhá thơ trước thế giới. "Cái hành trình của trí

tưởng tượng mang tính chất ngẫu nhiên bao nhiêu về mặt hình ảnh trực quan thì mang tính

tất yếu bấy nhiêu về mục đích biểu hiện, mục đích tư tưởng (93 - tr77). Như vậy, chất

thơ, tất nhiên bắt nguồn từ cuộc sống thông qua quá trình "thanh lọc" của nhà thơ và

được biểu hiện trên văn bản tác phẩm thơ, chất thơ do đó được biểu hiện qua hệ

thống thi pháp. Nghiên cứu chất trữ tình của một tác phẩm, tác giả, một trào lưu tất

nhiên gắn liền với đời sống thẩm mỹ và các phương thức, phương tiện biểu hiện đời

sống thẩm mỹ đó.

Từ hai phần trên, chúng ta có thể khẳng định, nghiên cửu chất thơ không phải

là nghiên cứu cái hiện thực, cái đề tài ở bên ngoài nhà thơ. Nghiên cứu chất thơ

cũng không phải là nghiên cứu nội dung trữ tình được phản ảnh trong thơ ca.

Nghiên cứu chất thơ là nghiên cứu đời sống thẩm mỹ của nhà thơ được biểu đạt

như thế nào qua hệ thống thi pháp. Nó bao gồm việc chiếm lĩnh và biểu đạt không

gian, thời gian nghệ thuật, những quan niệm thẩm mỹ về con người và cuộc đời.

2. Chất trữ tình trong thơ Hoàng Cầm

Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có những mảng đề tài, những nguồn cảm hứng

riêng, nó tạo nên phong cách của chính họ. Với thơ, điều này được hiện ra rõ hơn

“nhà thơ phải có một kinh nghiệm hết sức rộng, hất sức sâu về cải đề tài anh ta muốn viết.

yêu cầu anh ta phải có thể nói là sống với đề tài ấy, sáp nhập nó vào cái tôi của anh ta sau

khi đã đào sâu nó và hoán cải nó đi".(44 – tr519). Cái mà Hegel chỉ ra ở đây là "vùng

thẩm mỹ" của mỗi nhà thơ. Nó cho phép nhà thơ đi sâu hơn vào đời sống nội tâm,

đời sống tinh thần của cộng đồng và của chính mình. Nói đến Hồ Xuân Hương là

người ta nghĩ- ngay đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến; nói đến

Xuân Diệu là nói đến những khát vọng về tình yêu. Nếu như Vũ Hoàng Chương là

một nhà thơ lãng mạn của thị thành thì Nguyễn Bính lại là mọt nhà thơ lãng mạn

của vùng quê chiêm trũng. Điều này không chỉ tạo nên phong cách, hệ thống thi

pháp mà nó còn biểu hiện cá tính sáng tạo, tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ

Hoàng Cầm là nhà thơ vùng quan họ Bắc Ninh, là "đất kinh Bắc huê tình, diễm lệ

đầy ắp huyền thoại và bảng lảng một làn sương khói dân ca", "Thơ Hoàng Cầm dìu chúng

ta qua những chùa chiền lăng miếu, những cầu, những bến, những cây lá hội hè, qua

những cặp mắt đa tình của những người gái xứ quê”(49 -tr227). Chất thơ

Hoàng Cầm chính là men say nồng nàn của đất trời kinh Bắc đầy huyền thoại và ảo

ảnh .

2.1. Không gian, thời gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm

2.1.1/- Như đã trình bày ở trên, mỗi nhà thơ đều có một không gian tinh thần

riêng. Nó chính là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn và tinh lực của nhà thơ. Với

Hoàng Cầm, thơ ông đắm chìm trong không gian của vùng đất kinh Bắc giàu

truyền thống văn hóa. Đó là mạch nguồn chảy suốt trong hồn thơ của ông. Không

gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm là không gian của vùng đất kinh Bắc với con

sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ", con sông Cầu "Gấm

sông cầu khoác lại áo ngày xưa” là vùng quê với hội Lim, hội Dóng, hội chen Nga

Hoàng; là Lý cây đa, lý huê tình, là quan họ Bắc Ninh ngọt ngào diễm lệ; tà vùng

quê của hhững huyền thoại về Ỷ Lan, Chiêu Thánh, là những địa danh lảng

bảng "Cầu bà sấm, bến cô Mưa"

Mỗi nhà thơ đều tạo dựng cho mình một hoạt không gian tinh thần riêng. Với

Hoàng Cầm đó là không gian của hội hè, quan họ. Không gian quan họ có trong

Hoàng Cầm từ máu thịt. Ông có hẳn một tập thơ "Về kinh Bắc".

"Cúi lạy mẹ con trở về kinh Bắc

Chiều mưa giẻ quạt voi lồng"

(Đêm Thổ)

"Về kinh Bắc phải đâu con hế miệng

Khế chua vôi bột lòng tay"

Ị (Đêm Mộc)

" Về kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt

Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua"

(Đêm Thủy)

Thơ ông trở về kinh Bắc sau bao thăng trầm của đời người, sau bao bể dâu

như còn lắng đọng hồn ông, như đứa con trở về Đất Mẹ. Đấy là lời tâm sự của ông

: "Vâng đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng rụng xuống báo tin thu, hồn tôi cứ

chìm dần chìm sâu. Chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa. Thời tôi còn nhỏ dại,

với biết bao bóng dáng, màu sắc, đường nét hương vị đã quá xa, đã không còn nữa". (9 –

tr147). Với Hoàng Cầm quê hương la "bóng dáng", là "đường nét" là "hương vị", tất cả

như hòa nhập lại tạo nên một không gian vừa gần gũi, vừa xa xăm, vừa hiển hiện,

vừa mờ nhạt:

"Em ơi thử đến mấy giêng hai

Đêm hội Lim về

đê quai rảo bước

Đuổi tà lụa nhạt

ánh trăng đầm thấm đường sương"

(Theo đuổi)

"Chấp chới chè non

Cầu Lim, Nội Duệ

The Hà Đông đón kiệu bỏ quê Xim "

(Sương cầu Lim)

"Mồ hôi tháng giêng mưa sũng

Và không gian ấy, quê hương ấy thấm đẫm những khúc nhạc buồn :

Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu"

(Đêm Thổ)

"Một tiếng buông khoan giữa nhịp

Vì chơi vơi điệu lúc tàu trăng

Ai ngờ để lòng em muốn đổ

Đông hoài đuổi mãi sao Hôm"

(Đếm sao)

Khúc nhạc ấy rất thực và cũng rất mơ :

"Trách gì ai sáo trúc gây mê

Trách gì ai cặm cụi vót tre

Đan lồng vàng tía

Ngờ trời mây trăm sắc ước ao"

(Đếm nắng)

Có thể nói, khống gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm là không gian của âm

nhạc. Nó vừa nhẹ nhàng, vừa lắng đọng, vừa réo rắt, vừa trầm bổng thiết tha. Đó là

không gian của vùng quê quan họ ông sinh ra trên vùng quê quan họ, lớn lên bằng

câu hát quan họ, và ông đắm chìm vào đó, tận hưỏng cái say của quan họ Bắc Ninh.

. .... À ... ơi ... Câu ru mẹ mới

Chất thơ Hoàng Cầm là chất men của quan họ Bắc Ninh:

Có bàn tay vỗ tốc ...

... ngủ đi con

(Đứa trẻ)

"Lý lý ơi khát khô cháy giọng

Tình tình ơi chớ động mành thưa

Chìa vôi quệ gió hững hờ

Bờ ao sáo tắm bạo giờ ...

I

...hở Em" (Theo đuổi)

''Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hời ...

... ới Diêu bông

(Lá diêu bông)

"Lý cây đa, lý huê tình

Nguyệt cầm long phím dỗ dành ai ca Người ơi! người ở ... hay là" !

(Thể phách tinh anh)

Và bên cạnh những câu quan họ ngọt ngào là những hội hè đình đám. Nhưng

với, Hoàng Cầm nó không phải là cái rộn ràng của hội hè mà là cái sâu lắng chất

ngất của tình yêu. Với Hoàng Cầm hội hè là tiếng vọng qua tình yêu :

Hôi thi bún :

" Ôi đêm đông hồ

Nát nhàu thân tố nữ

Sợi bún ngà vá lại dung nhan"

(Hội thi đội bún)

Hội đánh đu :

"Luồn tay ôm say

giấc bay lay đỉnh núi

Tuột hàng khuy rơi tóc yếm buông mành" (Hội đánh đu)

Hội thi dệt vải :

"Thoi chim khách đến năm đi hết

Vải gột hồ hai má gột môi hoang"

(Thi dệt vai)

Hội gióng :

"Cầm gậy tre đì se duyên cô Tấm ông Hoàng

Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu tây"

(Hội Gióng)

Hội Vân Hà :

"Hội tàn men

Quẩn quanh nghiên ngửa

Giật yếm đào túm vội đôi bầu"

(Hội Vân Hà)

Hội chen Nga Hoàng :

"Nhẩn nha thôi ôi tiếng cuối âm vang

Tay không rời tay người chưa nguôi tê mê thầm” (Hội chen Nga Hoàng)

Hội thêu gấm :

"Dừng mũi kim giải áo buộc đêm mơ

Chàng lưu ứa nước mắt

Bước ra thềm hong mưa"

(Hội thêu gấm)

i

Không gian hội hè với Hoàng Cầm là cái tĩnh lặng của tình yêu, là những khát

khao ẩn ức. Nó chứa đựng những tình cảm sâu lắng trong mạch nguồn của văn hóa

kinh Bắc .

Nguyễn Bính - nhà thơ cụng có một không gian vùng quê nhưng đó là một

không gian cụ thể "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" với những mối tình thiết tha nồng

nàn. Với Hoàng Cầm thì lại khác, nó là một không gian chứa đựng, là một không

gian hóa giải những tiềm thức tuổi thơ lặn trong hồn ông. Ông có một không gian rất

thực với con sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng" với "Cầu Lim, Nội Duệ" với "Gấm

sông Cầu khoác lại áo ngày xưa". Trong một không gian huyền sử của "Bến Lúy

Lâu" của "Cổ loa cú vúc chòi canh" của "Ngựa ô truy lao cầu vồng, Yên Thế". Và hơn thế

trong thơ ông có cả một không gian huyền thoại "Qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa"

"Những có Bồng Thi với dế đầu si. Những lá diêu bông với đôi xe Hồng. Và trong cái

không gian vừa thực vừa mơ ấy là tiếng vọng buồn man mác, sâu lắng của quan họ

Bắc Ninh. Đó không chỉ là không gian thực của Kinh Bắc hội hè mà là một không

giàn văn hóa đã trầm tích trong cảm hứng thi ca của ông tạo nên một chất say kỳ lạ.

"Cái hệ lời ới hời, vi vút sấp ngửa, khép nép nghiêng ngửa mê và tê tê, vời vợi ấy lại đi đôi

với một âm vận rất riêng..." (50 - tr251) . Cái riêng ấy, như đã nói ở trên,đã nhập vào

tiềm thức của ông từ khi còn là một tuổi thơ đầy vương vấn, đầy khát khao .

Chất say trong thơ ông khộng chỉ là âm thanh mà còn là cái say của màu sắc.

Cái màu sắc thấm đậm, cái màu sắc rất riêng vừa lảng bảng, vừa nhạt nhòa sương

khói. Đó là cái màu của "đồng chiều, cuống rạ" cái màu của "nắng quái chiều

đông", của "nhạt nắng xiên khoai". Khác với Xuân Diệu, người có một màu sắc không

gian đầy ấn tượng, một màu sắc mơn mởn, rực rỡ tràn đầy khát vọng. Và cũng khác

với Nguyễn Bính với một không gian xanh của vùng quê. Hoàng Cầm có một vùng

quê, một vùng thơ mờ nhạt sương khói, mịt mờ xa xăm. Không phải ông không có

những gam màu sáng, nhưng rất ít và chỉ xuất hiện ở tập "Bên kia sông Đuống"

"Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biết "

(Bên kia sống Đuống)

(Bên kia sống Đuống)

" Hình nhân má điệp mực tàu"

"Cười như mùa thu tỏa nắng"

Nhưng đến "Về kinh Bắc" thì tất cả dường như chìm trong một màn sương mờ

ảo. Ông, tâm sự : "Tôi chìm vào một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà

như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và lảng bảng không gian ..." (107 -tr 201) :

"Thờ ơ lắng đọng quê nhà

Nhữhg sương buông khói mờ xa sông Cầu "

(Thờ ơ)

"Lũ lượt ngày đi xám lạnh dần Mùa nào đất lạ cũng thanh tân

Em vun ngực lép tê chân bước Đi quá đông già chẳng thấy xuân"

(Bênh)

Nguyễn Đăng Mạnh trong chuyên luận "Mấy ý nghĩ nhỏ về thơ Hoàng

Cầm" (72 - tr231) nhận xét: " Ở bên kia sông Đuống có thơ say mà vần có tỉnh, có màu tối

nhưng cũng có màu sáng, thậm chí tươi tắn nữa. Còn ở Lá diêu bông thì say triền miên và

chỉ có một thứ ánh sáng buổi chiều đông chiếu trên cánh đồng vắng có bóng ai đó đang

ngẩn ngơ tìm kiếm một cái gì".

Quả vậy ta nhận thấy cả tập thơ như chim trong ảo ảnh, chỉ có một thứ màu

sáng le lói của "Đồng chiều cuống rạ", một màu đêm của "Đêm thổ" "Đêm kim" :Đêm

mộc", "Đêm hỏa" của "Anh chớ dìm em đêm nén đau". Cái màu sắc trong "Lá Diêu

Bông" trong "Quả vườn ổi" hay "Cỏ bồng thi" cứ nhạt nhòa cứ mờ xa dĩ vãng :

"Em đi mãi nhưng đường làng ngơ ngắt

Nhặt lá đa đan mũ chiêu quân

Hát vẩn vơ lời sẩm chợ

Gậy mù ngửi hơi đường lạ

Bóng cây rợp mát lưng gù

Chiều lá dứa tít mù chong chóng

Giómát nàymẹ quạt

từ chênh chếch nẻo tàn trăng” (Đợi mùa)

Cái riêng của Hoàng Cầm là ở chỗ : Trong găm màu mờ nhạt sương

khói của ông luôn thấm đẫm nhạc điệu và mở rộng ra không gian chứ không hề vì

thế mà thu hẹp lại

"Đuổi tà lụa nhạt

ánh trăng đầm thấm đường sương"

(Theo đuổi)

"Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu"

(Đêm thổ)

“Lơi tình

Chùa vắng

trắng

(Hiếu Sinh)

Xem đêm”

Những chùa chiều lăng miếu của xứ kinh Bắc với hương khói của nó luôn

phảng phất trong thơ ông :

" Ôi chiều kinh Bắc

Chuông chùa nhuộm son"

(Mưa thuận thành)

"Khói li đoài thoai thoải khúc hành vân"

(Đèn nhang 2)

"Chùa Phật tích ruổi trong màn lụa bạch"

(Đêm thủy )

Trong bảng màu của Hoàng C ầm có khá nhiều mảng màu tím dường như có

cái gì đó thiết tha lắm và cũng có cả nữ tính :

"Trên ngực tròn hương tím thức đêm say" (Ngẩn ngơ)

"Lắc đầu hoa tím rụng"

(Cỏ bồng thi)

"Đài hương tím bỗng uốn mình nở rộ "

" Em không nói chiều nay không bóng tím

Ngậm hình em lá ngọt tím môi chì"

(Ngẩn ngơ)

"Một mình đi .......

hoa tím mấy cũng thừa"

(Tơ tưởng)

Ị "Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu"

(Đêm thổ)

Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy màu tím trong thơ ông không phải là màu

thực. Nó là cái màu của "tơ tưởng", của "ngẩn ngờ', là màu sắc của một tâm trạng,

một tâm trạng khát khao và mang đầy nữ tính .

Cái không gian tinh thần trong thơ Hoàng Cầm là một không gian rất riêng

không thể lẫn lộn. Nó là mảnh đất mà nơi ấy ông gieo mầm thơ và nuôi dưỡng mầm

thơ. Nó tạo nên một không gian kinh Bắc vừa cụ thể vừa mang đầy ảo ảnh .

2.1.2. Trong triết học không gian chính là sự tồn tại và thời gian là một quá

trình. Còn trong văn chương thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận là thời

gian được quan niệm. Và ở bình diện cao hơn nó là triết luận về cuộc đời. "Những

hình tượng văn học, về mặt hình thức được khai triển theo thời gian (tính tuần tự của văn

bản), về mặt nội dung nó tái tạo bức tranh vừa không gian, vừa thời gian về thế giới, hơn

nữa, lại tái tạo ở bình diện giá trị tư tưởng - tượng trưng của bức tranh ấy (4 - tr317). Như

vậy,cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật có giá trị như là những

phương tiện (và là phương tiện quan trọng) biểu đạt những quan niệm nghệ

thuật.Trong thơ ca thời gian, nghệ thuật là một hệ thống thỉ pháp mà nhà thơ biểu

đạt quan niệm nghệ thuật của mình. Chế Lan Viên có thời gian luôn quay về quá

khứ quay "về những phế tích của Chiêm Thành. Do đó thơ ống chính là thời gian

của nỗi sầu vạn cổ, của sự nuôi tiếc ngày qua :

"Ai đâu trở lại mùa thu trước

Nhặt lấy cho tôi những lá văng? Với của ủoa tươi

màôn cánh rã về đây đem chắn nẻo xuân sang"

(Xuân)

Còn Xuân Diệu ông có một quan niệm khác về thời gian, Lê Tiến Dũng trong

chuyên luận "Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giaị đoạn 1930 - 1945 cho

rằng Xuân Diệu quan niệm thời gian trong sự biến đổi của nó, thời gian là một dòng

chảy vô tận trong sự hạn hữu của đời người 'Thuyền qua mà nước chẳng

qua". Hoàng Cầm có một thời gian nghệ thuật khác, một quan niệm về thời gian

khác. Với Hoàng Cầm thời gian lả sụ kiếm tìm, là thời gian của những ảo vọng vụt

qua. Nhưng trước hết thời gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm luôn gắn chặt với

không gian. Không gian mờ mịt trong thơ ông là không gian của sự giằng xé giữa

ngày và đêm :

"Một nắm cơm khô cạn túi gương tàu

Dùng dằng bẻ đôi chiều nấng quái

(Gái hậu lê)

"Tơ tưởng em

chiều chiều xa lắc

Một mình đi ...

hoa tím mấy cũng thừa"

(Tơ tưởng)

"Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp

Dở khóc dở cười"

(Đen nhang 1)

"Mùa đông sau em tìm thấy lá

Chị lắc đầu

trông năng vãn bên sông"

(Lá Diêu Bông)

Thời gian ở đây không chỉ là sự tương thích với không gian, mà cơ hồ là thời

gian chứa đựng những mất mát, những nuối tiếc u hoài "Thơ Hoàng Cầm âm u lóe

sáng rồi mịt mù, xa tắt như những huyền thoại thuở hoang sơ" (107 - . tr283). Nó mang

cái buồn vời vợi của những câu quan họ, mang đầy những mất mát mà ông cố nén,

"Lẽo đẽo em đi vườn mai sau

cố thu lại :

Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng"

(Quả vườn ổi)

Nhưng vẫn bật ra :

"Em đừng lớn nữa chị đừng đi"

(Cây tam cúc)

Dường như có một bi kịch nào đó về thời gian. Nó như đẩy thơ ông ngược

dòng thời gian, chứa đựng những đau thương, mất mát :

"Bốn mùa dông bão vò duyên phận Trả nợ

cuồng phong hết kiếp chưa"

(U ẩn)

"Nhớ em từ một đường khâu

Hai năm bát mẻ đũa còng chia nhau"

(Ngày giỗ)

" Trăm năm nhào quyện hư vô

Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn"

(Hai ngả)

Dù là bốn mùa, là hai năm, là trăm năm, nhưng nó không phải là một thời gian

định lượng. Nó là thời gian của 'Trăm năm trong cõi người ta" của "Nghìn năm mây

trắng bây giờ còn bay". Nhưng điểm khác là ở chỗ thời gian của Hoàng Cầm là thời

gian chứa đựng : Chứa đựng những tình yêu, những mất mát, những đắng cay,

những khát vọng, những nỗi buồn. Chính vì vậy mà ông nghe thời gian như vọng lại

"Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử"

của huyền thoại :

(Gió lông ngỗng)

I

Và thời gian cứ thế vụt đi như bóng câu qua cửa sổ, như một ánh chớp phù

du

"Chiều em đi không quá một vòng tay"

(Hai ngả)

"Em đi một loáng trăm năm "

(Ngày giỗ)

Trong thơ Hoàng Cầm quá khứ, hiện tại và tương lai như chập lại, như hòa

vào nhau :

" Về khuya mê bóng, bóng theo

Nhìn chênh thế kỷ bóng vèo qua mi"

(Ngày giỗ)

Và nó tạo nên một "triết luận về thời gian". Thời gian cứ vùn vụt trôi đi trong sự

hạn hữu của đời người. Thời gian không chỉ là khách thể mà nó trở thành chủ thể

trữ tình. Cái chủ thể trữ tình luôn mang tâm trạng hoài vọng, chìm khuất, ẩn chứa :

"Có nét buồn khôi nguyên

Chìm sâu vào đăng đẳng

Có tiếng ca ưu phiền

Chìm sâu vào lẳng lặng"

(Buồn có lý )

Cái sâu lắng của thời gian như cứ chìm dần, chìm dần, cứ qua đi, qua đi mà

nhà thơ như ngồi đó để "đếm giờ", để nhìn sự tàn phai mà tiếc nuối :

" Cây đa đường xứ

lớn lên ai hay.

Vẫn cơn gió cũ

bao nhiêu chiều vụn đá "

(Đếm giờ)

Thời gian trong thơ ông tạo nên nột trường liên tưởng về thời gian. Nó không

chỉ là cái liên tưởng về quá khứ, hiện tại mà còn là sự liên tưởng giữa cuộc đời và

thơ ca. Ca dao có sự liên tưởng cũng rất hay :

"Cây da bến cũ bây giờ còn đây"

Và sự liên tưởng của Huy Cận trong "Tràng Giang'

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làn xa vãn chợ chiều "

Thời gian qua đi, nhưng vết tích của nó thì đọng lại. Nhà thơ nắm bắt được

cái hữu hình đó của thời gian để tạo nên chất say của thơ. "Dầu hành trình thơ là đi

ngược vào quá khứ, nhưng đó là cuộc tìm kiếm vĩnh cửu của thi nhân đi về phía trước (107

-tr302). Do vậy thời gian trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là thời gian của quá khứ,

không chỉ là thời gian chứa đựng mà còn là thời gian kiếm tìm. Sự kiếm tìm hạnh

phúc giữa những bi kịch của đời người. Có thể nói với Hoàng Cầm đời người là

một cuộc hành hương đi tìm hạnh phúc, mặc dù với ông hạnh phúc cũng chỉ là ảo

ảnh. Chúng ta sẽ khảo sát hai bài thơ sau để thấy rõ quan niệm về thòi gian kiếm

tìm của ông .

Trước hết là bài "Tử nguồn đến biển", bài thơ là những bước nhảy về thời gian,

những dấu lặng Đỗ Đức Hiệu gọi là "... những khoảng không, những khoảng trống,

những cái lặng ấy chính là nơi chất thơ lan tỏa" (46 - tr 17 ):

"Sau chuyến đi xa lần thứ nhất Anh về

Sau chuyến đi xa lần thứ ba Anh về

Sau chuyến đi xa lần thứ chín Anh về

Giữa ba khoảng trống ấy của thời gian là những biến đổi của bi kịch đời người :

Nhìn mắt anh ao mưa nhòe nắng

Nhìn nếp nhăn vầng trán anh

ngang; tầ m bão biển

Nghe tóc anh xào xạc lũy tre mờ khói tím"

Bi kịch cứ diễn ra càng lúc càng quyết liệt. Sự tìm kiếm, sự đợi chờ cứ dài ra

với những khẳng lặng, những rung động. Mỗi chuyến đi là một lần tìm kiếm, mỗi lần

tìm kiếm là một lần hằn dấu thời gian. Hạnh phúc mong manh như chính cái đẹp

của chất thơ. Bài thơ "Lá Diêu Bông" cũng vẫn là cái bi kịch của sự kiếm tìm hạnh

phúc:

Hai ngày em tìm thấy lá

Mùa đông sau em tìm thấy lá

Ngày cưới chị

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Em tìm thấy lá "

Thời gian vẫn cứ diễn ra bi kịch vẫn cứ kéo dài như vô tận : "sao bi kịch con

người kéo dài quá vậy! Cái đẹp hiện lên, cái đẹp biến đi… ước mơ con người không bao

-tr283) sự kiếm tim dường như là vô vọng :

giờ tìm thấy, nó ngẩn ngơ tìm quanh quẩn. Đó là bi kịch muôn thuở của con người" (107

Chị chau mày

Đâu phải lá diêu bông

Chị lắc đầu

Trông nắng vãn bên sông

Chị cười xe chỉ ấm tròn kim

Xòe tay phủ mặt chị không nhìn

Lá diêu bông chỉ là một huyền thoại ảo ảnh, và sự kiếm tìm hạnh phúc chính

là sự kiếm tìm cái ảo ảnh. Nhưng đó không phải là bi kịch của cuộc đời. Bi kịch của

cuộc đời là ở chỗ con người không hề kiếm tìm những ảo ảnh về hạnh phúc. Cái kết

thúc của cả hai bài thơ chính là chỗ đó, là sự "triết luận vê thời gian". Tất cả tạo thành

một chất thơ viên mãn, lung linh, tạo thành…những chủ đề vĩnh hằng, những chân giá

trị thách thức mọi xói mòn, xô giạt của thời gián lãnh đạm" (16 – tr8). Có thể nói thơ ca

Việt Nam từ lãng mạn đến sau lãng mạn (và một vài hiện tượng khác) chưa ai tạo

nên một ý nghĩa của thời gian như Hoàng Cầm Chính nó tạo nên cái đặc biệt trong

thơ ông. Nếu như Đoàn Phú Tứ có một "Màu thời gian" mang chất tượng trưng thì Hoảng Cầm trái lại mang đến cho chúng ta những suy ngẫm, "nghiền ngẫmr về thời

gian (mà chúng tôi sẽ nói ở phần sau) :

“Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ

Rủ xô gai biển động tìm kim"

(Đêm kim)

" Yếm may ba ngày mẹ vá lại

Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm"

(Đêm mộc)

Bằng phương tiện tư duy về thời gian, thơ đã nói được những điều không thể

nói, đã cảm nhận, đã linh cảm được những sâu thẳm nhất của cuộc đời, của "Miền

im thẳm, thắm môi tê". của những "giấc mơ dang dở", của "Cõi đời nghiêng ngửa giấc u

minh". Thời gian không gian nghệ thuật chính là nơi mà nhà thơ bày tỏ tâm trạng, nỗi

lòng của minh, là mảnh đất cho thơ lan tỏa. Hoàng Cầm nằm trong số đó. Ông có

một không gian, một thời gian tinh thần được chuyển hóa từ cảm xúc và tài năng.

Nó chính là sự ẩn dụ của cuộc đời ông, một cuộc đời đầy những hoài vọng sương

khói và lảng bảng huyền thoại .

2.2. Tình yêu, sự trải nghiệm của thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm

2.2.1/- Nói đến thơ là nói đến tình cảm và chủ yếu là tỉnh yêu đôi lứa. Thi ca

muôn đời vẫn vậy, dù mỗi giai đoạn, mỗi trào lưu, mỗi tác giả đều có sự khác nhau

trong quan niệm về tình yêu. Cách đây gần mười lăm thế kỷ Lưu Hiệp trong

"Văn tâm điêu long" đã nói đến 'Văn" và "tình", văn sinh ra tình (tất nhiên cái "tình" khi

đó gắn với cái "tính"), ông chia văn làm ba loại. Trong dó "thứ ba là lối văn lấy tính tình

làm cốt (13 – tr176). Tuy nhiên suốt hơn mười thế kỷ tiếp theo thơ vẫn chỉ là "văn dĩ

ngôn chỉ' cho đến khi xuất hiện cuộc cách mạng về tư tưởng, đặc biệt là Mỹ học.

Hegel viết "Vì vậy cho nên nhiệm vụ chính của thơ là gợi lên cho ý thức nhận thấy những

sức mạnh của cuộc sống tinh thần và tất cả những gì lay động ta làm ta xúc cảm trong các

dục vọng và các tình cảm nhân tính" (44 - tr484). Cái xúc cảm, cái dục vọng ở đây

chính là đời sống tinh thần, là tình yêu của con người và theo Hegel nó là "nhiệm vụ

chính của thơ'. Thơ luôn đi sâu vào đời sống tâm hồn con người, là ước mơ là khát

khao của con người. Thơ luôn hướng nội ở độ sâu thẳm nhất và nơi ấy thơ bắt gặp

tình yêu. Lịch sử thơ ca nhân loại cho thấy nhiều nhà thơ trở nên nổi tiếng mà chủ

yếu là thơ tình : Puskin, A.Lamactin. Veclen ... và ở Việt Nam,: thơ lãng mạn cũng

chủ yếu là thơ tình với Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính ... vế thơ tỉnh Xuân

Diệu, Trần Đình Sử viết "Ông đòi hỏi mội tình cảm được biểu hiện tuyệt đối nồng cháy,

cao độ tối đa". (86 - tr 42), cái "tuyệt đối. nồng cháy cao độ, tối đa"ở đây chính là tinh

yêu, là mạch nguồn. là bản chất của thơ ca : "Với bản chất của thể loại thơ là tiếng nói

nhạy cảm nhất của tình cảm, trái tim con người. Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn

chương nói chung và thơ nói riêng". (114 -tr305).

Với thơ ca Việt Nam sau 1945 Hoàng Cầm là một nhà thơ khá đặc biệt. Ông

không hòa vào mọi người, ông âm thầm, lặng lẽ và cho ra đời nhiều bài thơ viết về

tình yêu rất hay. Hoàng Cầm là một nhà thơ tình vừa đặc biệt vừa khá tiêu biểu của

thơ Việt Nam hậu lãng mạn, ông tự họa mình :

"Ta sinh đôi trái tim

từ hai dòng tóc óng

đêm đợi hoa quỳnh

mà duyên kiếp vò nhàu

xé nửa vầng trăng lạnh lẽo"

(Nhịp điệu Hồng Châu)

Và với Hoàng Cầm thơ ca chính là mảnh đất của tình yêu

"Thuở ấy Chị chưa về thơ Anh

Áo tơ dính chặt bó thân hình

Đến khi xé lụa bừng da thịt

Ngửa mặt phù du khép gió xanh "

(Dáng thơ).

Thơ tình Hoàng Cầm có thể nói gắn liền với tuổi thơ của ông. Tuổi thơ sinh ra

trên một miền quê diễm tình, một miền quê quan họ của "Gái cầu Lim Nội Duệ"của

"Cô hàng xóm răng đen -cười như mua thu tỏa nắng". Nơi đó cái đẹp, cái tình cứ như

ám vào tuổi thơ của ông và theo ông suốt hành trình thơ. "Hình nhân mã điệp mực

tàu, mắt nghiêng dựa liếp" rồi thì "Váy đình bảng buông chùng cửa võng". Tình yêu trong

thơ Hoàng Cầm do đó càng ngày càng lớn lên, rộng ra, nhiều cung bậc, màu sắc.

Co lúc tình yêu trong ông thâm trầm sâu lắng, lúc cay đắng nghẹn ngào, lúc bùng

lên dữ dội với những khát khao những nhục dục và cả cái libido. Trần Mạnh Hảo, trong một bài phê bình u99 tình khúc?' (văn 71 - 97) nhận xét : Tựu chuung, thơ tình

Hoàng Cầm vẫn đằm thắm, nồng nhiệt, thậm chí mê cuồng nhưng không kém phần quằn

quại đau thương (43 - tr 113)

Trước hết ta nhận thấy thơ tình của Hoàng Cầm thật sâu lắng. Nó sâu lắng

như chính cuộc đời ông, cái sâu lắng của một tình yêu đơn côi, của "Em mười hai

tuổi biết gì Chị ơi' , của "lẻo đẽo em đi vườn mai sau - cúi nhặt chiều mưa dăm quả

"Ấy bởi thương em

rụng. Cái tình yêu sâu lắng trong ông cứ như bồn chồn :

mái nhà um cỏ

Chim vào ra vách đứng cột ngồi"

(Theo đuổi)

Như mộng mị :

"Tôi về nhặt lá đáy khe

I

Ném lên cao .....

lặng mình nghe ....

thật người"

( Tu )

Và tình yêu chỉ được cảm nhận bằng những tiếng vọng rất mơ hồ, xa lắng

của cõi tâm linh :

"Vắt áo nghe thầm tiếng vái kêu "

(Tắm đêm)

Chừng như không phải là tiếng vái kêu mà là tiếng vọng của tình yêu, một

tình yêu vừa nồng ấm, vừa diết da. Thế nhưng tình yêu luôn đi liền với dang dở.

Xuân Diệu viết :

"Tinh yêu đến, tình yêu đi ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt"

Và ông cay đắng :

"Ta ngây phơ vội tưởng họ yêu mình

Ta dâng vội cả ân tình thứ nhất

Đương vương chủ ta bỗng thành hành khất

Chỉ vì nghe mội lời hứa như chim"

(Xuân Diệu - Yêu mến)

Với Hoàng cầm sự cay đắng trong ông thật sâu lắng, nhẹ tênh mà đầy hụt

hẫng :

"Chìa vôi quệt gió hững hờ

Bờ ao sáo tắm bao giờ ....

hở em"

(Theo đuổi)

I

Ông nhấm nháp tình yêu trong cái trống không nhạt nhòa, hụt hẫng :

"Liệu còn gì của men say

Cạn ly cũng bỏ môi gầy nhạt tênh "

(Liệu còn gì nữa)

Và cũng đẩy lạnh lẽo : "Chăn nệm dày càng rét phía nằm em". Niềm cô đơn

trong ông mang nỗi đau và những mặc cảm đầy nữ tính vẫn lồng đau ấy vào thương

phận này". Nỗi đau trong tình yêu của Hoàng cầm có cái gì đó thật quặn thắt :

"Chắt chiu quấn lụa càng đau ruột tằm"

Nguyễn Bính - một nhà thơ tình chân quê rất nổi tiếng nhưng sự sót xa của

ông-mới thật đau đớn, quyết liệt.

"Không từ ân ái nhỡ nhàng

Lòng tỏi than lạnh gio tàn làm sao?"

(Người hàng xóm)

Riêng Hoàng Cầm thì lại khác, nhà văn Phạm Thị Hoài cho rằng : "ông không

đơn giản tới mức cứ đau đồi từ trang này sang trang khác (50 - tr253) mà thâm trầm xót

xa phiền muộn. "Thế giới tình cảm trong mưa thuận thành, dù gồm nhiều mảng rất khác

nhau, chỉ xót xa phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt tinh vi, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính" (50 -

tr253) . Và tác giả viết tiếp: "bản năng cũng được kìm nén chỉ êm dịu một lẽ chấp nhận

thoáng chút xót xa, thế giới ấy khó chia sẻ". (107 - tr254). Quả thật ông không tìm

sự đồng cảm, không bày tỏ một cách thiết tha nhưng vẫn thấy đầy chua xót :

" Còn em lảng đảng nơi đâu

Anh về

so sẩm

í

đũa màu

gỗ mun"

(Viết trong quán cà phê)

"Nhớ em từ một đường khâu

Hai năm vai áo toạc đau xé lòng

Nhớ em từ miếng cơm không

Hai năm bát mẻ đũa còng chia nhau "

(Ngày giỗ)

Đó là cái ọhua sót trọng sự "so sấm" tẩn mẩn của cuộc tình "bát mẻ đũa

cònự. Ta có cảm giác như ồng cố nén, cổ thu minh lại, cố lặn thật sâu vào bản thể

của mình trước bể dâu cuộc dời. Vỉ vậy cho nên với ống cuộc đời chỉ là một nửa :

"Một nửa tôi theo về cuối trời

Một nửa em về trang giấy lạnh"

(Ngỏ với gió biển)

Và thật xót xa cho hồn thơ, hồn đời của ông :

"Lắm loài súng sính sinh đôi

Nòi tình thui thủi một đời một không"

(Thua một không)

Sự xót xa trong tình yêu, sự thất vọng cứ âm ỉ ngân lên :

"Tan rồi hạt bụi ái ân

Vướng mi em mộ ĩ dôi lần phải không "

(Ngày giỗ)

Dẫu vậy, mặt khác tình yêu trong thơ Hoàng Cầm có một cái gì đó gần với

Xuân Diệu, người có "tiếng lòng của một khát vọng sống mãnh liệt nồng nàn" (25 - tr55)

có "nỗi lòng của một người khát sống và say sống” (25 - trôi).

"Tôi cần tin, rỏi khao khái được nhầm "

(Mời yêu - Xuân Diệu)

Với Hoàng Cầm thế giới tình yêu trong ông là thế giới của khát khao, khát

khao đến tận cùng, lực kiệt.

"Ôm em suốt đợi sóng trào

vẫn thèm nghén nghẹn cồn cào của chua"

(Chuyện cô đơn)

"Miền in thẳm

thắm môi tê

Hôn em cạn máu

đi về tận không"

(Tu)

Sự khát khao tình yêu trong thơ Hoàng Cầm luôn thường trực, từ "những khát

khao một đêm dài trắng nuột” đến "Nước khát chiều sóng ngực em đâu” Tình yêu luôn

đi liền với những khát khao mà nếu không có nó tình yêu sẽ trở nên vô vị.

ì

Ông khát khao một đêm, khát khao một chiều và "Khát hôm mai cháy khôn nguôi'

Như đã nói ở trên, Hoàng Cầm có một tuổi thơ, một đời thơ kỳ lạ. Cậu bé

Hoàng Cầm cầm chiếc lá diêu bông "đi đầu non cuối bể” như ám vào đời thơ Hoàng

Cầm. Hoài Việt trong công trình sưu tầm biên soạn "Hoàng Cầm thơ văn và cuộc đời”

nhận xét : "Còn một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ, điềm tĩnh hơn, trầm lặng

hơn, sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng riêng muốn giải tỏa những ẩn ức”(107 – tr16).

Nỗi khát khao trong ông như một niềm ẩn ức dồn nén từ lâu :

"Khát thêm từng trận

Khát hòai tuổi xưa"

Và khát khao dai dẳng :

" Và dai dẳng em ơn

Là cơn say khát lá

(Nhớ lá)

Sự ám ảnh tạo cho thơ Hoàng Cầm có những mạch cảm xúc đặc biệt. Đó là

sự ám ảnh của tình yêu vô bờ bến trong hồn thơ, trong cảm xúc của ông. Nếu ví

hồn thơ của Hoàng Cầm như là những hạt giống thì có thể nói đó là những hạt

giống nó có thể mọc lên ở mọi mảnh đất. Với Hoàng Cầm tình yêu len vào tận cửa

thiền :

"Ơi chiều Kinh Bắc

Chuông chùa nhuộm son"

“Chuông chiều cởi yếm

(Mưa Thuận Thành)

Chuông sớm đội khăn"

Và nhập vào con người :

(Đêm thủy)

"Ong bay vai áo tiểu thon mình"

(Chùa Phật tích)

Cả trong tượng Phật :

"Chùa Phật tích ruổi trong mà lụa bạch

Tượng Quan Âm má ửng bồ quân"

(Chùa phật tích)

Ở Hoàng Cầm, có một cái gì đó như là mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa một con

người với những cung bậc sâu lắng đầy nữ tính với một con người đầy những khát

khao cháy bỏng. Phải chăng chính sự mâu thuẫn này đã dồn nén tâm trạng,

dồn nen cảm xúc của ông, làm cho mạch tình cảm trong thơ ông cứ như nghèn

nghẹn “Tôi đọc thơ Hoàng Cầm nhiều lần, lần nào cũng nguyên một cảm giác : Có một cái

gì đó thật khó chịu, bị bó buộc, bị nhấn chìm, bị đè ngang trong câu chữ, cố thoát lên nhưng

không sao thoát được, cứ nghẹn ngào u uất, tức tưởi* (85 - Ư285). Và có thể nói điệu

thơ Hoàng cầm như con hạc trong ca dao :

"Em như con hạc đầu đình

Muôn bay không cất nổi mình mà bay "

(Ca dao)

Con hạc ấy rất muốn bay nhưng sải cánh của nó cứ chới với. Nó phải mang

nặng hơn nhiều lần cái mà nó có thể mang. Quả vậy hồn thơ Hoàng Cầm chất chứa

vào đó bao nhiêu là tình cảm, vũ mềm. Cái duyên kiếp nghẹn ngào "Em đứng nhìn

theo em gọi đôỉ” vì chị đã "Xòe tay phủ mặt” mang bao nhiêu là u uất. nghẹn ngào :

"Em nói như gió nghẹn

Chiều nghiêng mây Thị Màu"

(Anh đứng đây là đâu)

"Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân"

Đó là cái nghẹn ngào của tuổi xuân :

(Đêm thổ)

"Thôi em xin tắt cơn cười nghẹn"

Cái nghẹn ngào của nụ cười :

(Bênh)

"Trời sao nuốt nghẹn khối u mềm"

Cái nghẹn ngào của đất trời :

(Xa)

"Vẫn thềm nghén nghẹn cồn cào của chua "

Cái nghẹn ngào của khát khao :

(Chuyện cô đơn)

Với sự tan vỡ của tình yêu chưa phải là sự kết thúc. Nó vẫn âm ỉ, vẫn nghén

nghẹn, vẫn uất ức : " Sao vẫn còn gìờ ấy nghẹn ngào chia"

(Về cõi thật anh)

Nó âm ỉ đến tưởng chừng như tận cùng vẫn không kết thúc

"Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng"

(Đêm thủy)

Có thể nói cái nghẹn tắt trong thơ ông chính là sự mâu thuẫn giữa một tâm

hồn nữ tính với một khát khao vô tận. Đó chính còn là sự dồn nén tình cảm của một

tuổi thơ nhạy cảm sinh ra trên vùng đất huê tình diễm lệ, đầy những đam si. Nó

chính là mạch nguồn tạo nên chất thơ Hoàng Cầm rất đặc trưng, Không hề lẫn lộn.

2.2.2. Ở đây chúng ta cùng tìm hiểu một mạch nguồn khác trong thơ ông: Đó

là những dục vọng trong tình yêu (chứ không phải chủ nghĩa khoái lạc (Plecssure

Seekinh). Trước hết chúng ta cần khẳng định Hoàng Cầm không phải là một nhà

thơ chủ trương lấy nhục dục thân xác làm cứu cánh cho thi ca. Nó xuất hiện trọng

thơ ông như là một tất yếu trên con đường đi tới cái đẹp, là sự rung động mãnh liệt

của một hồn thơ đầy mê đắm, là sự thăng hoa của những khát vọng về cái đẹp. Trên

cơ sở phân tích quá trình sáng tạo văn hóa S.Freud viết "Do đó tính lực tính dục sẽ

được thăng hoa có nghĩa là, nó sẽ khơi mục tiêu cho tình dục để chuyển sang mục tiêu xã

hội cao cả" (dẫn theo Phương Lựu trong "khơi dọng lý thuyết” (67 - tr99). Quả vậy

những yếu tố

tính dục trong lịch sử thơ ca Việt Nam không phải là một cái gì đó quá hiếm hoi. Ca

"Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi".

dao tự ngày xưa đã viết rồi :

Hoặc táo bạo hơn :

"Mấy cô yếm thắm bỏ bùa cho sư"

Hồ Xuân Hương cũng không phải là ngoại lệ trong nền thi ca Việt Nam.

Thì Hoàng Cầm có có cả tâm hồn của một người trai "Dải yếm lòng trai mãi

phất cờ” có cả một "Hội yếm bay" với :

"Bay cờ triệu yếm ríu ran ca "

(Hội yếm bay)

Ông tâm sự “Tôi chưa thấy một thứ áo ngực nào đẹp mà tình mà quyến rũ đáo để

như yếm trong trang phục cổ của cô gái quê Kinh Bắc, với cái chất liệu mềm mại : Sụt, sồi,

đãi, nái, … với lộng lẫy các màu sắc : Lòng trai, xác pháo, hồng điều, vàng mỡ, thanh thiên,

nâu non, lá mạ, hoa liễu, vỏ đỗ" (94 - tr351). Với Hoàng Cầm yếm tượng trưng cho cái

đẹp, cho những xúc cảm thẩm mỹ "thắt yếm đào tuổi son". Yếm là tình yêu, là những

khoái cảm tận cùng của tình yêu :

" Yếm hãm xuân tình em hé môi"

(Hội yếm bay)

Nó không trần tục mà bồng bềnh đầy gợi cảm :

"Hai đứa lung linh lơi yếm áo

Thuyền trăng dềnh

sả cánh cô đơn "

(Chị em xanh)

Và cũng đầy sự nổi loạn :

"Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết

Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây"

(Hội yếm bay)

Sự nổi loạn với ông chất chứa từ trong sâu thẳm của một nến văn hóa phồn

thực với tranh Đông Hồ :

"Yếm may ba ngày mẹ vá lại Khuya nghe buồ ng đọng bóng đêm rằm"

(Đêm mộc)

Với hội họa, khỏa thân trở thành một đề tài muôn thuở. Với thơ cũng không

phả là hiếm. Nữ sĩ Xuân Hương với cuộc nổi loạn "Yếm đào trễ xuống dưới nương

long” cũng là tiếp nối bức tranh của Nguyễn Du vẽ nàng Kiều "Dáy dày đúc sẵn một

tòa thiên nhiên". Bích Khê thi sĩ cũng có cả một "Tranh lõa thể" :

"Đêm u Huyền ngu mê trên mải tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi

Hai vú nàng, hai vú chàng chao ôi

Cho tôi nút cả dòng sông ngọt lộng :

Ô lồ lộ một tòa hoa nghiêm động ..."

(Tranh lõa thể -Bích Khê)

Bức tranh nuy (khỏa thân) của Hoàng Cầm không lồ lộ. Nó xa xăm, mịt mù

sương khói như tình yêu, như hồn thơ của ông. Nó thật gần mà thật xa.

"Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành

Nghe nghìn muôn năm sau

xoa nắn đôi bầu vú lụa"

(Nắng phù xa)

Nó như toát lên từ một nơi xa khuất nào đó của tâm linh, của huyền sử :

"Bỗng âm dương toát mình trần "

"Cõi trương chi đã lạnh dần

Anh còn quấn tóc trói trần Mị Nương"

(Tập Kiều)

I

Nhưng cũng thật gần gũi thật gợi cảm :

"Vú xuân đường phèn căng bưởi Nga Mi"

(Đêm thổ)

: ì

ì

Nhìn chung những yếu tố khỏa thân trong thơ Hoàng Cầm thường ít được

ông tả. Trường hợp như vừa dẫn ở trên rất hiếm. Còn lại ông không miêu tả mà chỉ

Tình yêu là kết quả của một quá trình dồn nén, tiếp tục được dồn nén. Nó như

trình bày từ một góc của tâm linh.

là một sự ám ảnh, vừa rất thực nhưng cũng vừa "liêu trai':.

"Dòng dậy vực mãi đêm hồ tinh

ấp vú mình trần con dế trủi"

(Tắm đêm)

"Hội tăn men

quẩn quanh nghiêm ngửa

Giật yếm đào túm vội đôi bầu

Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ

Mịt mù mây sóng cuốn về đâu"

(Hội Vân Hà)

Chất thơ Hoàng Cầm cứ chênh vênh giữa thực và mơ, giữa hiện tại và ảo

ảnh, bởi hình như ông cũng có nhiều "giấc mơ". Từ "Chiều mê bến lịm bàng hoàng

chớp đông cho đến "với ai em nói đêm mê ấy cứ như lẩn quất, cứ như thấp thoáng

tronq thơ ông. Và cõi thơ ông càng mịt mờ hơn .

"Ngủ lại giấc mơ dang dở"

(Đêm mộc)

Có ý kiến cho rằng nhục tính trong thơ ông tục. Đọc kỹ không thấy điều này.

Chúng ta chỉ thấy nhục dục trong thơ ông chỉ là những giấc mơ về tình yêu, là sự

thăng hoa của một tuổi thơ nhạy cảm và khát vọng, là những u uẩn của những mâu

thuẫn dồn nén. Đó là mâu thuẫn giữa ham muốn và kìm nén giữa khát khao và thấ t

vọng, giữa hiện thực và tâm hồn, giữa tình yêu và tan vỡ .

2.3. Từ những phân tích trên chúng ta có thể rút ra đặc trưng gì về chất

trữ tình trong thơ Hoàng Cầm? ông chịu những ảnh hưởng nào và ở mức độ

nào?

1. Trước hết chúng ta nhận thấy Hoàng Cầm không thuộc những nhà thơ

thuộc dòng thơ lãng mạn Việt Nam, mặc dù trước 1945 ông có làm một vái bài thơ

và kịch thơ. Thơ lãng mạn Việt Nam từ sau 1940 đã có những biến chuyển về nội

dung trữ tình và hữu tình với Bích Khê, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh và cả

Xuân Diệu, người đi hết chặng đường thơ lãng mạn Việt Nam. Trong bối cảnh lịch

sử đó của thơ ca, Hoàng Cầm tiếp nối như là một quá trình chuyển tiếp của thi ca

Việt Nam hiện đại .

2 . Thế nhưng Hoàng Cầm lại là một con người khác. Con người được sinh

ra, được nuôi dưỡng và được lớn lên bằng ca dao, bằng quan họ Bắc Ninh. Trong

tâm hồn của ông là cả một không gian văn hóa Kinh Bắc với những hội hè, những

huyền sử, những âm vang của đồng quê. Thế cho nên chất thơ Hoàng Cầm khởi đi

từ dây.

Và nó bắt gặp con thuyền thơ ca Việt Nam hậu lãng mạn. Vì vậy ta bắt gặp

trong thơ ông một không gian, thời gian nghệ thuật vừa rất thực, vừa rất mơ, vừa

được nhìn bằng đôi mắt, vừa được nhìn bằng cảm giác. Ông luôn cảm giác thế giới

bằng con mắt thơ vừa nữ tính vừa u huyền lo âu. Ông cảm giác trong cái nghiêng

ngửa của đất trời, cái chập chờn của mộng ảo, cái mờ mịt của khói sương.

Trong "Những thế giới nghệ thuật thơ”, Trần Đình Sử viết: "Thơ lãng mạn đem lại một

nguyên tắc miêu tả mới" : "Tả chân sự vật bằng trực cảm mang nội dung tâm lý va tưởng

tượng” (86 - tr50). Ở đây Hoàng Cầm không chỉ tả chân sụ vật bằng trực cảm mà

thường là sự vụt hiện của dòng vô thức giữa những câu thơ, bài thơ lồ lộ cảm xúc .

3. Hoàng Cầm xuất hiện như là những nhà thơ kháng chiến nhưng chỉ có 2 bài khá

hay được biết đến. Đó là bài "Đêm liên hoan" và "Bên kia sông Đuống. Bài sau nổi

tiếng hơn và nổi tiếng đến ngày nay cũng chỉ vì cái dáng đời "Nằm nghiêng

nghiêng” của con sông ám vào đời ông. Thời đại mới đương nhiên, cảm xúc mới.

Tuy nhiên Hoàng Cầm không đi theo con đường của Tố Hữu, của Xuân Diệu, của

Chế Lan Viên. Ông cũng không di theo những tìm tòi về hình thức mới của Nguyễn

Đình Thi, Trần Dần một cách thái quá. Đặc biệt sau năm 1954 cho đến suốt cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cả nước lên đường, còn ông thì lặng lẽ, âm thầm và chắt chiu. Ông không hòa vào cái “ta" của thời đại mà trở về với cội nguồn, cái "cội nguồn

đầy ải thơ ông. Do đó nguồn cảm xúc của thơ ông có khác. Nó trở về với chính bản

"Tôi về nhặt lá đáy khe

thể của ông :

Ném lên cao .....

lặng mình nghe ....

thật người"

( Tu )

Có lẽ vì vậy mà thơ ông không mang cái âm hưởng dạt dào, hùng tráng của

"sử thi” dân tộc, cũng không mang cái mặc cảm bị bỏ rơi. Chất thơ ông như chính

con người ông, tâm hồn ông, một tâm hồn dành trọn cho thi ca .

Nghiên cứu những điều này để thấy rõ tư duy nghệ thuật của thơ Hoàng Cầm

mà chúng tôi sẽ trình bày cụ thể hơn ở phần sau :

Chương 2: TƯ DUY NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG CẦM

1. Quan niệm về tư duy nghệ thuật thơ.

1.1. Sáng tạo nghệ thuật là một lĩnh vực của hoạt động tinh thần. Nó là biểu

hiện cụ thể của tư duy tinh thần trong quá trình nhận thức và chiếm lĩnh thế giới. Từ

thời cổ đại thơ ca được xem như là biểu hiện của ý thức thần thoại,của tư duy thần

thoại trong quá trình khám phá những huyền bí của thế giới. Lịch sử phát triển của

nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng là lịch sử phát triển của các kiểu tư duy

nghệ thuật. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc đều có những phương thức hhận thức và

chiếm lĩnh thế giới khác nhau. Mỗi nhà văn, nhà thơ, do đó cũng có những kiểu tư

duy nghệ thuật khác nhau. Trong "150 thuật ngữ văn học" Lại Nguyên Ân cho rằng

tư duy nghệ thuật là" một dạng hoạt động trí tuệ, nhằm sáng tạo và tiếp nhận tác

phẩm nghệ thuật. Và ông viết tiếp:"Bẩn chất, thực chất của tư duy nghệ

thuật bị quy định bởi phương thức vừa tinh thần vừa thực tiễn của việc chiếm lĩnh

thế giới bằng nghệ thuật bởi tính chất của việc phản ảnh thế giới bằng nghệ thuật (4

- tr 368). Như vậy bản chất của tư duy nghệ thuật theo ông bị quy định bởi các

phương thức, các phương tiện nghệ thuật "Những nét tiêu biểu của tư duy nghệ

thuật là : Tính chọn lọc cao về thẩm mỹ, tính liên tưởng, tính ấn dụ". Như vậy các

phương thức, phương tiện nghệ thuật là hình thức, là "cái biểu đạt” của tư duy nghệ

Hegel, nhà Mỹ học cổ điển Đức trong phần bàn luận về “Tác phẩm nghệ thuật

thuật.

với tính cách một sản phẩm của hoạt động con người” nhận xét: "Nhu cầu chung về

nghệ thuật là xuất phát từ các cố gắng hợp lý của con người muốn nhận thức một cách tinh

thần cái thế giới bên ngoài và cái thế giới bên trong bằng cách hình dung nó là một đối

tượng ở đấy y nhận ra cái "tôi" của y. Mặt khác, y làm cho nhu cầu này về tự do tinh thần

được thỏa mãn bằng cách nhận thức cái tồn tại là cho mình và mặt khác. Ở chỗ y thể hiện

ra ngoài các tồn tại ấy vì mình và bằng cách nhân đôi mình lên làm cho cái tồn tại ở trong

nội tâm của y trở thành trực quan và có thể nhận thức được đối với y và đối với những

người khác? (44 – tr.98). Cái mà Hegel gọi là "nhận thúc tinh thần" "nhận thức cái tồn tại

cho mình" chính là tư duy nghệ thuật dưới góc độ là một hoạt động chủ quan đặc thù

của chủ thể thẩm mỹ. Quan niệm có tính chủ quan duy mỹ ở đây của Hegel nhằm

mục đích loại trừ các hoạt động lý tính trong nhận thức nghệ thuật, phân biệt tư duy

nghệ thuật và tư duy khoa học. Tu duy khoa học là tư duy logic luôn phát triển theo

hướng trừu tượng hóa, khái quát hóa và vô hình hóa. Còn tự duy nghệ thuật thì cụ

thể hóa, hình tượng hóa,là "sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan là sự

hình tượng hóa hiện thực khách quan theo nhận thúc chủ quan" (93 – tr.54). Tư duy

nghệ thuật cho phép chúng ta nhận thức được những thế giới vô hình, cái tiềm

thức, cái vô thức. cái thế giới bất định của con người "dấu hiệu cốt yếu của tu duy

nghê thuật là tính giả thiết, là năng lực suy tư cái bất định. Những giả thiết được tạo dựng,

các mảng hiện thực "vô hình" được soi rọi, cái khoảng trống và sự "không biết" được khắc

phục, tất cả đều nhờ cái tưởng tượng năng sản hiện diện ở hoạt động nghệ thuật như chất

xúc tác của tư tưởng sáng tạo" (4 - tr370) .

1.2/- Như vậy chúng ta đã nắm được bản chất đặc trưng của tư duy nghệ

thuật. Vậy tư duy nghệ thuật được biểu hiện cụ thể như thế nào trên tác phẩm nghệ

thuật? ở đây chúng ta nói đến văn học và cụ thể là thơ ca. Vậy tư duy nghệ thuật

được biểu hiện cụ thể như thế nào trên văn bản thơ ca? Lại Nguyên Ân trong

"150 thuật ngữ văn học” cho rằng:"tư tưởng, quan niệm của tác phẩm được xây dụng trên

cơ sở tư duy nghệ thuật, việc lựa chọn các phương tiện biểu hiện cũng dựa trên cơ sở tư

duy nghệ thuật' (4-tr 370).

Như vậy tư tưởng, quan niệm của tác phẩm được xây dựng trên cơ sở tư duy

nghệ thuật, việg lựa chọn các phương tiện biểu hiện là sự hiện thực hóa của tư duy

nghệ thuật .

Trước hết tư duy nghệ thuật được biểu hiện ở cái "tôi" cá nhân,Nguyễn Bá

Thành cho rằng : "Đặc điểm quan trong nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ

tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy (93 - tr56). Cái tôi vừa là chủ thể thẩm mỹ vừa

là phương tiện biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Tìm hiểu cái “tôi” của nhà thơ tức là

đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, của nhà thơ .

Thế nhưng quan trọng hơn, đặc biệt hơn đối với thơ đó là ngôn ngữ: "Ngôn

ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy” (Saussure) "Thơ là một nghệ thuật tự biểu hiện bằng

ngôn ngữ: (Humbolt); (Dẫn theo Hà Minh Đức - Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam

hiện đại - NXB Giáo Dục) không có ngôn ngữ thì không có thơ ca. Ngôn ngữ trong văn

chương là ngôn ngữ nghệ thuật. Đặc biệt đối vôi thơ nó là một thứ "siêu ngôn ngữ nghệ

thuật. Ngôn ngữ thơ ca trong quá trình phát triển của nó không chỉ làm chức năng

truyền đạt, thông báo, không chỉ là cống cụ của tư duy nghệ thuật mà còn là mục

đích của nghệ thuật. Quan niệm trên của Jacobson cho phép chúng ta tiếp cận thế

giới nghệ thuật của nhà thơ ở chiều sâu nhất, tinh vi nhất, khám phá được tâm hồn.

cảm hứng thẩm mỹ của nhà thơ. Nguyễn Bá Thành trong công trình nghiên cứu

"Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại” cũng cho rằng “Ngôn ngữ thơ, đối với nhà

thơ vừa có ý nghĩa phương tiện, vừa có ý nghĩa mục đích (93 - tr64) .

Thể thơ cũng là một phương diện quan trọng của tư duy nghệ thuật. Thể thơ

chính là sự biểu đạt đời sống tâm hồn của nhà thơ "khi nhà thơ lựa chọn một thể nào

đó để sáng tác cùng có nghĩa là lựa chọn một khả năng diễn đạt phù hợp với điệu thức tâm

hồn mình, phù hợp với cảm xúc cần bộc lộ. Do vây. đề cập đến thể thơ cũng là đề cập đến

một phương diện của tư duy nghệ thuật” (25 – tr122). Mỗi thời đại văn học, mỗi trào lưu

văn học, mỗi tác giả đều thành công ở những thể loại nhất định. Đối với thơ cũng

vậy ;các thể thơ biểu hiện sự vận động của tư duy nghệ thuật thơ. Thể thơ, do đó

không chỉ là hình thức của thơ ca ;mà còn là mạch tư duy của nhà thơ theo những

hệ thống nhất định. Nó là một chỉnh thể của cấu trúc tư duy nghệ thuật. Nguyễn Bá

Thành cho rằng "còn tư duy thơ biện đại và sự vận động giải tỏa. phát triển theo mạch

thẳng, tiến tới một triết lý" (93 - tr334). Thể tho cho phép nhà thơ biểu hiện tư tưởng

nghệ thuật của mình theo những hệ thống logic nội tại .

2. Tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, từ tư duy lãng mạn đến tư duy tượng trưng.

2.1. Cái “tôi” trong thơ Hoàng Cầm – từ cái “tôi” khẳng định đến “tôi” hoài nghi, cái

“tôi” vô thức:

Sáng tác thơ ca là một quá trình biểu hiện, là cảm hứng rung động mãnh liệt

của chủ thể thẩm mỹ. Hegel viết "nguồn gốc và điểm tựa của nó là chủ thể, và chủ thể là

người duy nhất, độc nhất mang nội dung (dẫn theo 34 - tr61). Thợ ca từ xưa đến nay

luôn đề cập đến cái tôi. Quá trình phát triển của cái tôi là quá trình phát triển của tư

duy nghệ thuật, ở thơ cổ cái tôi luôn được ẩn giấu, luôn bị che khuất bởi những

quan niệm xã hội. ở thơ lãng mạn cái tôi là khát vọng khẳng định mãnh liệt với thơ

hậu lãng mạn đã có những bước phát triển khác, nó trở về với những hoài nghi,

những dục vọng của tiềm thức vô thức. nó đối diện vói sự sống - cái chết (trừ thơ ca

cách mạng với cái "ta" hoành tráng lấn át cái tôi).

Hoàng cầm, nhà thơ hậu lãng mạn Việt Nam khởi đi từ cuối cái "tôi" của thơ

lãng mạn đến cái tôi của tượng trưng, ông có những khát vọng về bản ngã của mình

nhưng ông cũng biểu hiện những hoài nghi, những suy ngẫm, những khoảnh khắc

2.1.1- Cái "tôi” cá nhân trong thơ Hoàng Cầm trước hết là cái tôi của "bản ngã

của dòng vô thức chợt hiện .

đòi được khẳng định", ông có cái tôi vừa khát khao vừa lạc lõng, vừa cô độc. Ở

phương diện này. nó là cái tôi lãng mạn. Ông tự họa mình :

"Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh

Đì mài tìm sim chẳng chín"

(Về với ta)

"Ta con chào mào khát nước

về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm "

(Về với ta)

"Ta con chim cu

về gù rặng tre

Đưa nắng ấu thơ

về sân đất trắng "

(Về với ta)

"Ta con phù du ao trời chật chội

Đứng cánh bèo, đo gió lặng tìm sao"

(Về với ta)

Trước hết ta nhận thấy cái ''tôi” khẳng định ở ông. Nhưng nó là sự khẳng định

mất mát. ông đang cố tìm kiếm trong sự mất mát, trong cái lỡ làng, dang dở mạch tư

Không phải một mà nhiều lần, Hoàng Cầm luôn so sánh mình với những con

duy. Cái tôi của ông dường như luôn hướng về nơi bất định .

vật, những con vật bé nhỏ thu mình trong "chiếc đảo hồn tôi”

" Đã đi cá

Đườg kiếm chân rêu có nghe dế gọi

Hẳn là con dế sầu đi

Ong rưng rưng bay đứng nắng mai

hoa mướp rơi đầy cổng ngõ

Tổ chích chòe cây mít

tiếng chân truyền kẽ lá phân vân" .

(Đi mãi)

Ở đây không phải là tư duy bằng phương tiện của con ong, cái kiến mà là

những tiếng vọng mơ hồ của một cái " t ô i ” luôn ẩn chứa. tiếng vọng của tuổi thơ,

một tuổi thơ "hao hao cổ tích mờ xanh tuyệt cùng". Như đã nói ở phần trước Hoàng

Cầm mang một cái tôi khát khao .

" Khát dòng sông em

Sóng sánh bờ mi cong"

(Phía sau thư cầu hôn)

' Khát hôm mai cháy khôn nguôi

Nuột nà răng cắn tím môi nôi tình"

(Thêm)

" Nước khát chiều sóng ngực em đâu"

(Lỡ hẹn sông Hương)

"Những khao khát một đêm dài trắng muột

Ấm êm em trong trắng thịt da đêm "

(Nhớ xa)

Cái tôi khát khao ấy đi liền với cái tôi say mê :

"Cơn say cuối đời

Cứ ngồi mà thương"

(Phía sau thư cầu hôn)

" Và dai dắng em ơi

Là cơn say khái lá "

(Nhớ ...lá)

"trên ngực tròn hương tím thức đêm say"

Cái tôi khát khao, say mê trong thơ Hoàng Cầm khác với cái tôi khát khao

giao cảm của Xuân Diệu "Hỡi xuân hồng. ta muốn cắn vào ngươi” và cũng khác với cái

say của Vũ Hoàng Chương. "Đưa hồn say về tận cuối trời Quên". Cái tôi khát khao và

say mê của Hoàng Cầm luôn được kìm nén, được dồn nén. Đó là một cái tôi chứa

đầy ẩn ức, những ẩn ức của tuổi thơ, những ẩn ức của cuôc đời. Tất cả những ẩn

ức đó không phải được ông cố tình giãi bày trên trang thơ, mà nó cứ thoáng chợt

hiện lên từ cõi tâm linh, từ trong vô thức .

Nhưng trước hết cái tôi Hoàng C ầm là cái tôi tiếp theo của mạch tư duy lãng

mạn. Nó là cái tôi của tình yêu. Chính xác hơn nó là cái tôi trăn trở kiếm tìm. Cái tôi

đầy trắc trở của ông là hình bóng của sự mải miết kiếm tìm :

"Em mười hai tuổi tìm theo chị

Qua cầu Bà Sấm bến Cô Mưa

Đi ... !

ngày tháng lụi

tìm không thấy

Giải yếm lòng trai mãi phất cờ"

(Quả vườn ổi)

Sự tỉm kiếm tình yêu ở ông như một trò chơi cút bắt. Cái "tôi" ấy cứ như mải

miết đi về nơi vô cùng, vô tận. Nơi ấy dường như là hư vô, dường như là tiếng vọng

của miền tâm linh sâu thẳm :

" Từ thuở ấy

em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hời!..

- Ới Diêu bông !.. "

(Lá Diêu Bông) Tiếng vọng ấy chính là tiếng gọi thảng thốt của một tâm hồn ngập tràn những

cô đơn, những mất mát những đau thương, những hy vọng le lói. Tất cả như cứ trĩu

nặng trên đôi vai cỏ độc .

"Bỗng dưng gió biển ngập hồn tôi

Một ánh buồn le lói ngập tràn

Một dáng gầy băng qua xứ tuyết

Một miền danạ dờ nép đơn côi"

(Ngỏ với gió biển)

Và sự cô đơn thật đáng thương cho cái tôi đi hết nẻo đời và đi hết hành trình

thơ ca .

"'Bảy mươi đứng phía ngoẹo cười

Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô "

(Hai ngả)

"Coi ly tan xé cuộc này Phó xa một bóng âm đầy số khong"

(Thua một không)

Có những bài thơ đọc qua thấy thật bình thường không có gì đặc sắc. Nhưng

đọc kỹ mới thấy cái bùi ngùi, cái hụt hẫng, cái đoạn kiếp trong con người

Hoàng Cầm. Ở đó cái "tôi” cứ ám ảnh ta một nỗi buồn sâu lắng, cái buồn thương

cho một thân phận đang nuốt nghẹn ;

"Tiễn em sang sân bay

Đưa em về nhà chồng

Đưa em xuống nghĩa trang

Đưa em vào hư không

Giờ này em bay rồi

Kiếp này bao giờ xong"

(Tiễn đưa)

Bài thơ xem qua thật bình thường nhưng ẩn chứa một cái tôi đầy tâm trạng.

Không đau đớn, không gào khóc. nhẹ nhàng mà chứa đựng mất mát. Ở đây mạch tư

duy tâm trạng hướng đến những nỗi niềm thực hơn là hướng đến câu chữ. Hồn vía

của bài thơ. Do đó có sức truyền cảm mãnh liệt. Cái ngậm ngùi của một thân phận

dường như được chính tác giả bỏ quên trong tiềm thức

"Tôi bỏ lại phía bên kia núi tím

Tiếng hú hồn đêm nguyệt cầm long phím

Bỗng bật đèn soi xác tiễn tàn nhang

Tôi bỏ lại phía bên kìa núi tím

Nhức nhối ngực trần căng - xe tim chìm lỉm

Bến sông chiều le lói gọi xanh xưa"'

(Hai phía núi)

Những "tiếng hú hồn đêm" những "nhức nhối ngực trần' được bỏ lại như cứ

xoáy vào âm vận của câu thơ. Nó tạo một sự bức bách, sự mất mát. Sự mất mát sau

bao nhiêu kiếm tìm vô vọng .

"Anh đì về phía không em

Em đi về phía dài thêm bão bùng"

(Hai ngả)

2.1.2- Có thể nói cái tôi tìm kiếm của Hoàng Cầm là cái tôi cô đơn mong manh

dễ vỡ: "Còn một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ. điềm tĩnh hơn. trầm lắng hơn,

sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng riêng muốn giải tỏa những ẩn ức kiểu" "Men đá vàng".

"Lớp men tráng lên những đau thương của cuộc đời tan vỡ" (107 – tr16). Nhưng có lẽ cái

sâu sắc hơn ở đây mà nhà nghiên cứu Hoài Việt muốn nói đến là cái tôi ẩn ức, cái

tôi dồn nén từ sâu thẳm của vô thức, của những trực giác kinh nghiệm. Do đó, với

Hoàng Cầm bên cạnh cái tôi khẳng định đầy chất lãng mạn là một cái tôi hoài nghi.

Hoài nghi với chính mình, hoài nghi sự tồn tại. Chính sự hoài nghi làm cho cảm

hứng thơ ông. dường như không xác định. Cái tôi của Hoàng Cầm là cái tôi khách

quan trình bày những vô định :

"Em đi mãi những đường làng ngơ ngắt

Nhặt lá la đan mũ chiêu quân

Hát vẩn vơ lời sẩm chợ

Gậy mù ngửi hơi đường lạ

bóng cây rợp mát lưng gù

Chiều lá dứa tít mù chong chóng

Gió mát này mẹ quạt

từ chênh chếch nẻo tàu trăng "

(Đợi mùa)

Cái hình ảnh "em đi”, “chiều”, "gió mát'" "mẹ quạt” rất thực được đặt trong bức

tranh của "đường làng ngơ ngắt của "lá la đan", "lời sẩm chợ" và "nẻo tàn trăng” tạo nên

một trường liên tưởng mà người đọc phải tự thể nghiệm. Cái tôi không hiện ra, nó bí

ẩn, nó mơ hồ như chính cõi lòng vô định của nhà thơ. Tương tự như vậy là một đoạn

thơ khác :

"Dó lụa lật trang

sang chữ triện quan tài .

Bóng người cô ru ột

Mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi

Sông trôi xa còn ngoái về

xem gót chân u yển chuyển

Bao nhiêu núi đồi kinh Bắc

Dịch sường thông sang xúm xít

quanh hàng mi nắng đọng hồ tròng"

(Đèn nhang 2 )

Có hình ảnh của một người cô rất thực với ''vành môi' với "gót chân" với "hàng

mi nhưng nó lại hướng đến một thế giới khác, một thế giới xa vời ẩn chứa trong một

chủ thể đầy tâm trạng, một chủ thể luôn ray rứt với hiện tại, hoài nghi hiện tai bằng

những hoài vọng về quá khứ. Tứ thơ cứ như cố tình lạc đi, như cố tình dẫn người

đọc đến nơi hư vô, ma quái :

"Đi đâu

Tràng mày xếch vòng cung

Bắn nái chiều mai váng đỏ

Châu chấu ma vờn cổ yếm xây"

(Đền thổ)

Với Hoàng Cầm ông không hề chối từ thực tại nhưng cái bóng của ông cứ lặn

lội về quá khứ. Ông trình bày thực tại để trở về quá khứ, để cảm nhận những mong

manh của quá khứ như một giấc mơ, cái tôi ấy là "mảnh rách' của giấc mơ:

"Từ cuộng lá xưa tôi lạc lối

Men bờ cong quên bẵng nẻo về

Em đừng hỏi mãi tôi câu ấy

Mảnh rách còn xanh quanh giấc mê "

(Đừng hỏi)

Đó là những "giấc mơ dang dở" những giấc mơ tàn men s a y ” . Cái quá khứ được

cảm nhận ở một góc của tâm linh là cái dấn thân của thơ Hoàng Cầm. Nó được trải

nghiệm trong một thế giới đầy những biến động, một thế giới đầy những ẩn ức luôn

giày vò ông như một cơn mê kỳ là :

"Chợt mê thét giữa sân

Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng "

(Đêm hỏa)

Đó là cái mê thét của "giấc mơ dang dở" :

"Coi thanh ép móng

Bao giờ lim gãy đá tan

Ngủ lại giấc mơ dang dở

Chủm cao căng nứt mạch tằm"

(Ngủ lại giấc mơ)

Cái tôi của ông là cái tôi của cơn mơ, những cơn mơ vừa dữ dội, vừa âm ỉ,

vừa xa vắng :

"'Đùn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa

Ném xuống cầu ao em cởi áo chiều xưa"

(Gái hậu Lê )

Có lẽ chính giấc mơ đã tạo cho thơ sự liên tưởng kỳ lạ. Cái liên tưởng giữa

giấc mơ mang hình "nét mác chữ thiên", giữa "chủm cao" và "mạch tằm" giữa "đàn quạ

khoang' và người con gái ngày xưa đang tắm. Đó là cái liên tưởng biểu hiện sự phi lý

của tồn tại, là cái ảo vọng giữa thực tại và giấc mơ. giữa hiện tai và quá khứ. Một

quá khứ luôn mang mặc cảm về con người, về cuộc đời. Một quá khứ luôn ẩn chứa,

luôn tiềm ẩn .

Cái tuổi thơ của Hoàng Cầm, tuổi thơ của mảnh đất huê tình và lảng đảng

khói sương :

"Con tắm ao lội ngòi

ị (Đứa trẻ)

Tồng ngồng đi tìm hoa dại"

Và đưa trẻ ấy cứ thơ thẩn, đan si trong niềm ảo mộng của tình ái :

"Ngày chị bảo em quên

Tranh tố nữ long hồ gián nhấm

Mất chân đi

Má đội tổ tò vò

Cuốn chiếu xa r ồ i

thơ thẩn vách chiêm bao"

(Nước sông thương)

Chính vì vậy cái tôi trong thơ ông mang những ẩn ức, không phải dễ gì mà

hiểu được. Nó là cái vô lý, cái phi thực tại. cái không hàm chứa nghĩa trong câu

chữ: Nó toát ra như một giấc mơ cứ kéo dài, cứ ngâm xa mang một sức lan tỏa kỳ lạ

.

" Đành khất mắt đen a n h

Trầm lâm đăm chiêu

nhiều chiều thiên kỷ nhớ

Em hôn nồng - dạ - lan - anh

hôn mê nhạt nhòa các thiên đình"

(Tương biệt hành)

Câu chữ có vẻ như lụa là quá xá những cái hồn thì cứ âm âm, vọng vọng .

"Tiếng gì dưới ấy

Cỏ phải tiếng vang

Tìm tiếng vang mình

Chui vào cửa hẹp

Cửa khép ..."

(Đêm nắng)

Đó là cái tiếng vang từ sâu thẳm của chính tâm hồn nhà thơ, là tiếng vọng

của một tuổi thơ luôn chất chứa tâm trạng và nỗi niềm. Tâm trạng và nỗi niềm ấy đi

vào chiều sâu những bí ẩn của một thế giới siêu nghiệm, hòa tan cả hiện tại và quá

khứ. giữa thực và ảo .

Như vậy chúng ta có thể thấy với thơ Hoàng Cầm, trước hết đó là cái tôi luôn

khát khao giao cảm. Đó là mạch tư duy của chủ nghĩa lãng mạn. Ông khởi đi từ tư

duy lãng mạn và nó cứ theo suốt thơ ông. Cái tôi của ông là cái tôi của tình yêu, của

tan vỡ, của những tâm trạng, những nỗi niềm. Đó là cái tôi cô độc luôn lặn lội, luôn

tìm kiếm ở quá khứ, tìm kiếm trong sự vô vọng của cuộc đời, và sự hờ hững của

Nhưng, bằng cái tôi Hoàng Cầm hướng đến một thế giới khác, một thế giới

con người. Cái tôi của Hoàng Cầm là cái tôi chấp nhận, cái tôi chứa đựng .

siêu nghiệm bí ẩn, hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Cái tôi ấy lặn lội ở quá khứ với

những hoài nghi. những ẩn ức đã chìm sâu vào tiềm thức. Ở phương diện này tư

duy thơ Hoàng Cầm, ở một mức độ nhất định chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng.

Nhưng ông không phải là Bích Khê, là Nguyễn Xuân Sanh. Ông có một lối đi riêng,

lối đi tìm cái thế giới vĩnh hằng. Nơi đó ông bắt gặp thơ tượng trưng như là một sự

ngẫu nhiên. Do đó có thể nói với cái "tôi" trữ tình Hoàng Cầm đã mang đến

cho thơ ca Việt Nam những yếu tố của thơ tượng trưng đã được đồng hóa bởi tâm

hồn Việt Nam. Nó không siêu thoát, không bí hiểm. Nó cứ mờ ảo và xa xăm với

nhiều trường liên tưởng, nhiều trường nghĩa .

2.2- Thể thơ Hoàng Cầm :

2.2.1- Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình đi tìm sự thống nhất giữa nội

dung và hình thức. Với thơ ca nếu không có một hình thức thích hợp thi nhà thơ

không thể bộc lộ tâm trạng vả tinh cảm của mình, Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức

trong công trình "Thợ ca Viêt Nam - hình thúc và thể loại' cho rằng . "Nhờ có hình thức

thơ thích hợp nên trạng thái cảm xúc và lối cấu tứ của nhà thơ mới phong phú và đa dạng

hơn" (78 - tr83). Lê Tiến Dũng thì cho rằng "khi nhà thơ lụa chọn một thể nào đó để

sáng tác cũng có nghĩa là lựa chọn một khả năng diễn đạt phù hóp với điệu thức tâm hồn

mình, phù hợp với cảm xúc cần bộc lộ. Do vây, đề cập đến thể thơ củng là đề cập đến một

phương diện của tư duy nghệ thuật (25 – tr122). Do đó đề cập đến tư duy nghệ thuật

của nhà thơ không thể bỏ qua một hình thức quan trọng là thể thơ. Thể thơ là chất

liệu mà nhà thơ trình bày, gởi gắm bộc lộ. Nó chính là hình ảnh trực quan của tư

duy thơ, là một phương thức biểu hiên nghệ thuật và mục đích sáng tạo nghệ thuật

.

Hoàng Cầm xuất hiện sau cuộc Cách mạng lần thứ nhất của thơ ca Việt

Nam. về mặt thể thơ, từ thơ mới, thơ ca Việt Nam đã tiến một bước dài về thể loại

vượt qua những quy phạm của thơ cổ, thơ Đường luật. Thể loại luôn mang tính lịch

sử cụ thể của nó. Lê Tiến Dũng nhận xét "Trong những thời đại nhất định có những thể

loại nhất định". Thơ mới đã hoàn thành sứ mệnh tạo ra thơ tự do trên cơ sở của thơ

cổ. Hoài Thanh đã tổng kết thể loại thơ mới trong "Thi nhân Việt Nam" :

"Thể Đường luật vừa động đến là tan. Những bài Đường Luật của Quách Tấn dầu

được hoan nghênh cũng khó làm sống lại phép đối chủ, đối câu cùng các nội dung chặt chẽ

của thể thơ

Thất ngôn và ngũ ngôn rất thịnh. Không hẳn là cổ phong, cổ phong ngày xưa đà

thúc lại thành Đường luật thất ngôn và ngũ ngôn bây giờ lại do luật đường giản và nới ra

cho nên êm tai hơn. Cũng có lẽ vì nó ra vần bằng hơn vần trắc

Ca trù biến thành thơ tám chữ. Thể thơ này ra đời từ trước 1936, nghĩa là trước khi

Ô. Thao Thao đề xướng yêu vận mất. Phần nhiều vần liên châu.

Lục bát vận được trân trọng : ảnh hưởng của truyện Kiều và ca dao. Song thất lục

bát cơ hồ chết, không hiểu vì sao.

chỉnh.

Thơ bốn chữ trước chỉ thấy trao bài vè, nay cất lên hàng những thể thơ nghiêm

Lục ngôn thể trước chỉ thấy trong Bạch Vân Thi Tập thỉnh thoảng cũng được dùng.

Từ khúc mà hồi đầu mà người ta toan đưa làm thề chính thức của thơ mới, đã chất

dần cùng với thơ tự do.

Luật đổi thanh rất tự nhiên trong thơ Việt vẫn chi phối hết thảy các thể thơ" (91 -

tr42)

Có thể nói Hoài Thanh đã tổng kết toàn bộ những cách tân về thể thơ của thơ

mới. Tuy nhiên sau 1945 thơ ca Việt Nam đã có những biến chuyển khá mạnh mẽ.

Bên cạnh các nhà thơ lãng mạn đi theo Cách mạng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên,

Huy Cận, Lưu Trọng Lư và cả Tố Hữu đã xuất hiện một lớp những nhà thơ thế hệ

mới. Họ không bằng lòng với quan niệm cảm xúc mới, hình thức cũ. Họ đòi hỏi thời

đại mới, cảm xúc mới, phải có một hình thức thơ mới. Đó là Nguyễn Đình Thi, Chính

Hữu, Hữu Loan, Quang Dũng và Hoàng Cầm ... Họ bắt đầu những tìm tòi mới về

hình thức. Trước hết phải kể đến Nguyễn Đình Thi, ông tâm sự : "Tôi mong đi tới

những câu thơ như lời nói thường mà đến một độ cảm xúc "mãnh liệt”. Nếu cần, nói hơi dài,

dùng những câu dài. Nếu hơi ngắn, nói ngắn" (Dấn theo Vương Trí Nhàn 114 - tr 327).

Hình thức thơ, thể thơ, theo ông phải là giai điệu, là điệu thức của cảm xúc. Cũng

trong bài viết này vương Trí Nhàn kết luận "theo tôi, Nguyễn Đình Thi đã xuất phát từ

một luận điểm đúng: "Hình thức cũ không đủ nữa. Thời đại mới phải tìm đến những hình

thúc mới'" (114-tr330) .

Hoàng Cầm, dù trước 1945 có làm một vài bải thơ nhung ông xuất phát từ

không khí này, từ chủ trương đi tìm những thể nghiệm mới đặc biệt là sau 1954, sau

Nhân văn Giai phẩm (tất nhiên những bài thơ trong "Về Kinh Bắc” mới chỉ được công

bố xuất bản gần đây). Thể thơ Hoàng Cầm biểu hiện mạch phát triển của tư duy

nghệ thuật, biểu hiện độ rung động của cảm xúc của thơ ông .

Từ những đánh giá trên có thể nhận thấy những đặc trưng của thể thơ

Hoàng Cầm trong bối cảnh lịch sử, cụ thể và phát triển theo những quy luật của

văn chương nói chung và thơ ca nói riêng .

2.2.2- Các thể thơ chủ yếu của Hoàng Cầm : Hoàng Cầm xuất bản khá nhiều

và khá đa dạng. Tuy nhiên trong chuyên luận này chúng tôi chọn bốn tập thơ tiêu

biểu nhất "Về Kinh Bắc" "Mưa Thuận Thành" "Bên kia sông Đuống" và "99 tình

khúc". Đây là bốn tập thơ tiêu biểu cho quá trình phát triển của tư duy thơ Hoàng

Cầm. Tuy nhiên trong bốn tập thơ trên do có nhiều bài trùng nhau nên chúng tôi

chọn khảo sát trên đơn vị bài thơ nhằm đảm bảo tính khách quan. Có cả thảy 156

bài không trùng nhau (mà chúng tôi sẽ có danh mục kèm theo ở phần phụ lục). Qua

khảo sát 156 bài thơ trên chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm sau :

Thứ nhất : Thơ Hoàng Cầm phát triển theo hướng tự do đúng với nội hàm

của khái niệm đó. Thơ ông chủ yếu là thơ họp thể, có 102/156 bài hợp thể (tỷ lệ

66,50%). Các thể thơ được phân bố trong bảng 1 như sau

So sánh với thơ mới trước 1945 ta nhận thấy tỷ lệ này co nhiều khác biệt

(bảng thống kê dẫn theo Lê Tiến Dũng - Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân

Diệu) bảng 2

Thống kê thể loại thơ trong tuyển tập "cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam

ì

1945 – 1975” của Vũ Duy Thông nhận thấy như sau : (xem bảng 3) .

Bảng 2: Các thể thơ trong 12 tập thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới

(theo 25 – tr 126).

Qua 3 bả ng tống kê trên chúng ta nhậ n thấy thơ tự do và hợp thể là hai

thể thơ ưu thế của thơ Hoàng Cầm (66,5%) so với thơ mới (11%) và gần

tương ứng với thơ kháng chiến Việt Nam (58%) nhưng có phầ n trội hơn .

Số lượng các bài thơ có số tiếng đều nhau (đặ c biệt là thể 7 chữ cổ

điển) đã giảm đáng kể. Thờ lục bát hầ u như không có su biến đỏ ng lớn (8%

đến 9% trong cả 3 bả ng). Như vậy với thể thơ tự do và hợp thể, thơ Hoàng

Cầm phát triển theo hướng tư duy hiện đạ i ''Con đường từ dân tộc truyền thống

hướng tới nhân loại hiện đại về nội dung cũng tức là con đường từ cổ điển mà vươn tới tự

do vế hình thức? (93 - tr328) .

Thứ hai: Mặc dù thể tự do trong thơ Hoàng Cầm tương ứng với thể tự do

trong thơ kháng chiến nhưng ông rất ít có số dòng vươt quá 9 tiếng và toàn bộ

156 bài ít có dòng nào quá 11 tiếng. Ngược lại trong tuyển tập thơ kháng

chiến sau 1945 co nhiều bà i có số dòng vượt quá 10 tiếng, thậm chí 13, 14

tiếng. Thơ kháng chiến đề cao yếu tố chủ quan của tư duy, của mạch cả m

xúc, vượt qua các yếu tố khách quan của các quy luật ngôn ngữ , logic, và các

quy phạm tiếp nhậ n. Hoàng C ầm ở một mức độ nhấ t định vẫn tuân theo nhữ ng

quy luật khách quan của hình thứ c câu thơ. Qua đó dễ thấy thơ ông có sự trau

chuốt về hình thứ c, không phá vỡ hoàn toàn mạch tư duy thơ mới mà là một sự

Nếu gọi tự do hóa về câu chữ là tư duy hiện đại và số câu chữ gần đều nhau

sáng tạo tiếp nối.

là tư duy truyền thống thỉ có thể so sánh tư duy thơ Hoàng Cầm và thơ kháng chiến

qua đồ thị sau :

Chiểu tư duy truyền thống

— -------- Tư duy thơ Hoàng Cầm

........... Tư duy thơ kháng chiến 1945 - 1975

Thứ ba : Chúng tôi nhận thấy thơ bậc thang tà một thế ưu thế trong thơ

Hoàng Cầm. Trong số 102 bài tự do và hợp thể của Hoàng Cầm thì dường như

hơn 90% là thơ bậc thang. Ngay kể cả 12 bài lục bát, 22 bài 7 tiếng thì cũng có đến

hơn một nửa là thơ bậc thang. Ta nhận thấy trong thơ kháng chiến thơ bậc thang

cũng chiêm một số lượng đáng kể. Điểu này dường như ít thấy ở thơ mới (có chăng

chỉ là 1, 2 câu). Đó là hiện tượng mà Nguyễn Bá Thành trong "thơ và tư duy thơ Việt

Nam hiện đại gọi là "hiên tượng dòng thơ bị phá vỡ", Thơ bậc thang cho thấy hình thức

không chỉ là phương tiện nghệ thuật mà còn là mục đích nghệ thuật, Hình thức ấy

biểu đạt trạng thái tư duy, mạch tư duy của nhà thơ. Nó chính là sự miêu tả cái biểu

đạt mà ở đó. sụ tư duy theo dòng thơ truyền thống phần nào bị phá vỡ. Thơ bậc

thang do đó đặt người đọc vào những khoảng trống, những dấu lặng của mạch tư

Mặt khác, trong thơ Hoàng Cầm chúng ta nhận thấy có một hiện tượng

duy, "những nét dư nhân tạơ" (93 - tr 325)

dường như ngược chiều với thực tế phát triển của thơ ca Việt Nam. Trong tập thơ

"Về Kinh Bắc sáng tác vào những năm 50 và 60 đa số là thơ hợp thể và tự do (chỉ có

2 bài 7 tiếng và 1 bài 5 tiếng) còn trong tập thơ "99 tình khúc?' thì số bài có số tiếng

đều nhau tăng lên đáng kể (21 bài 7 tiếng, 10 bài 5 tiếng. 6 bài 8 tiếng), thơ tự do và

hợp thể ít hơn. cần lưu ý rằng tập "99 tình khúc” đa số được sáng tác sau 1970 cho

đến 1992 (thời điểm thơ Việt Nam đang tiếp tục những tìm kiếm cho một cuộc cách

mạng nữa cho thơ Việt Nam). Nghịch lý này phải chăng phản ánh xu hướng quay về

Từ những đối chiếu, so sánh và phân tích trên chung ta có thể rút ra những

truyền thống của ông, hay là một quá trình trăn trở tìm tòi nữa .

kết luận cụ thể về tư duy thơ Hoàng Cầm trên cơ sở thể thơ của ông. Thể bậc thang

và thể 7 tiếng chiếm ưu thế trong thơ Hoàng Cầm. Chúng ta tập trung khảo sát hai

thể thơ trên của ông .

2.2.3- Thể thơ 7 tiếng - cổ điển và hiện đại :

Thơ 7 tiếng có nguồn gốc từ thơ luật Đường nhưng theo Hoài Thanh nó

"ếm tai hơn'', tức là nhạc tính là yếu tố chủ yếu trong sự thành công của thể

thơ 7 tiếng. Thơ 7 tiếng chiếm ưu thế trong thơ mới. Với Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,

Huy Cận thơ 7 tiếng đã đạt đến trình độ cổ điển. Thơ 7 tiếng tuy có nguồn gốc và

cùng khuôn hình với thơ Đường thất ngôn, nhưng biên độ đã được mở rộng và nhịp

điệu đã phát triển theo mạch cảm xúc hơn

Trước hết chúng ta nhận thấy Hoàng Cầm gần gũi với thơ cổ điển ở

thể 7 tiếng. Đa số các bài thơ đều được chia khổ (19/22 bài được chia khổ) các khổ

thơ thông thường là 4 dòng. Ví dụ một bài sau :

LÁ NHỚ

"Ai bóc hồn tôi ra khỏi xác

Mà nghe rào rạt thịt lìa xương

Hồn đi quanh quất trên mi mắt

Người gái li quê khóc cuối đường

Xác vẫn tăn teo vèo mảnh lá

Rơi trên bờ lạnh thuở hồng hoang

Đôi tình nhân trẻ đi cầu tự

Đạp núi đường đêm - lá bẽ bàng

Rồi lại chiều mai lại sớm kia

Lá không in dấu phậ n xa lìa

Cứ lang thang phố nhờ cơn gió

Nhè nhẹ sạng hè rẽ lối khuya"

Số khổ thơ ít hơn bốn dòng không đáng kể. Cách gieo vần trong thơ 7 tiếng

của ông cũng rất cổ điển với 3 vấn hoặc vần ôm, hoặc gián cách. Nói chung thơ 7

tiếng của ông đa số sử dụng vần chân. Vài ví dụ sau :

- Bốn câu 3 vần được ông sử dụng nhiều (60%)

"Buồm mở hay chìm ôi biển xanh

Bàn chân dò dẫm chậm hay nhanh

Khói mây tan hợp mưa hay nắng

Ru vỗ bồ câu có mỏng manh "

(Thơ gởi đến người)

- Vần ôm được sử dụng ít hơn (10%) :

"Bật sáng chân mây một điệu đàn

Biển đông bừng chớp mắt Kiều Loan

Mắt điên mắt sóng men huyền diệu

Xanh thẳm hàng mi bên hợp tan

(Em có về không)

- Vần gián cách cũng được ông sử dụng khá nhiều :

"Kiếp trước ríu ran em vệ nữ

Chiề u lên đỉnh núi bế thương yêu

Kiếp này trả gía vào cơn lốc

Dìm thủy tinh cung với mắt kiều"

(Trả giá)

Về nhịp điệu, cũng như thơ Đường cổ điển và thơ mới, thơ 7 tiếng của

Hoàng Cầm chủ yếu là nhịp 4/3 điển hình có xen kẽ nhịp 2/5 : Các ví dụ sau :

- Nhịp 4/3 điển hình :

"Bật sáng chân mây/một điệu đàn

Biểnđông bừng chớp/mắt Kiều Loan

Mắt điên mắt sóng/men huyền diệu

Xanh thắm hàng mi/bển hợp tan

(Em có về không)

"Anh giải oan em/chẳng hết oan

Suối khuya cắt xé/tiếng kêu than

Hỏi em xứ Phật/nào yên t ĩnh

Em gượng cười soi/bóng đá vàng "

(Chùa Hương)

- Nhịp 2/5 :

"Ô hay!/Chát mặn nồng hơi thở"

(Ngỏ với gió biể n)

"Thì vân?/Em xin đứng lặng thinh "

(Bênh)

"Em đâu?/Ai xé hồn muôn mảnh "

(Xa)

Tuy nhiên, mặt khác chúng ta thấy, thể thơ 7 tiếng của Hoàng Cầm có những

điểm khá mới lạ. Những điểm này cho thấy mạch tư duy thơ ông có những hướng

phát triển vượt ra ngoài phạm vi của thơ mới. Nó cho thấy chiều sâu của những suy

nghiệm, sức lan tỏa của mạch tư duy trong sự đồng điệu vớ mạch cảm xúc. Đó là

chúng tôi muốn nói đến những kết thúc có tính âm vang trong những bài thơ 7 tiếng

của ông :

Kết thúc bài "Chị Em xanh":

"Chị vỡ pha lê bùn vấy tay

Hồn trong Em chuốc Chị chìm say

Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp

Sinh một đàn cỏn

mây trắ ng bay... "

Kết thúc bài "Chùa Hương"

" Ôm em đỉnh núi sao buông thấp

Hai ngực hòa tan một tiếng chuông

Tỉnh ra đắng chát tràn môi cháy .

Em đầu rồi?

vãn hội chùa Hương "

Kết thúc bài "Thơ gởi đến người"

"Mấy kiếp hồn trăng đắng lạ thường

Vì mê ảo vọng đắm tà dương

Mọc lên đầu núi cơn cô quạ nh

Không nói

- Ai nào biết xót thương”

Trong số 22 bài thơ thể 7 tiếng của Hoàng Cầm có 9 bài kết thúc như vậy

(chiếm hơn 40%). Bài thơ tuy kết thúc nhưng âm điệu của nó cứ vang xa, cứ ngân

lên. Thơ thất ngốn âm hưởng dứt hẳn ở câu kết. Thơ mới thể 7 tiếng cũng thông

thường kết thúc ở đó. Thơ Hoàng Cầm chưa kết thúc ở cuối. Ông hướng đến một

thế giới khác "Thế giới ấy ngân rung làm chao đảo hồn ta qua những tiếng

gọi" (107-tr260). Bài thơ của ông chưa kết thúc, nó hướng đến một thế giới khác

huyền diệu hơn trong sự đứt nghẹn của cảm xúc, nó như là một sự ám ảnh của cõi

vô thức, một tín hiệu âm ba. Những "chùm say" những "đắng chát" những "ảo

mê" như được nhà thơ cố tình đẩy xuống cái âm ba ở cuối bài thơ càng tạo nên âm

vang của hồn thơ. Có lẽ điều này chỉ có ở thơ Hoàng Cầm. Nó làm cho thơ ông, một

hồn thơ luôn lặn lội về quá khứ nhưng vẫn mang nặng những khát khao kiếm t ì m .

2.2.3. Thơ bậc thang - khoảng trắng trong thơ Hoàng Cầm : Thơ bậc thang

không được sử dụng trong thơ mới (Xem toàn bộ "Thi nhân Việt Nam" của Hoài

Thanh và Hoài Chân không thấy xuất hiện hình thức thơ bậc thang). Thơ bậc thang

thịnh hành sau 1945, đặc biệt khi thơ Maiakopxki được chuyển dịch nguyên bản về

hình thức sang tiếng Việt. Tuy nhiên thơ bậc thang đã xuất hiện trong thơ Hoàng

Cầm từ năm 1941 với bài "Một mình" và bài "Nếu anh còn trẻ'' :

"Một mình tôi

một mình em lạ thường

Dường như giăng chếch cuối tường,

Tiếng gà ti ễn biệt

đêm trường lặng im"

(Một mình)

"Nhưng thuyền em buộ c sai duyên phậ n

Anh lụy đời quê n bến khói sương

Năm tháng ...

năm cung

mờ cách biệt

Bao giờ em hết nợ tầm dương"

(Nếu anh còn trẻ)

Sau 1945 thơ bậc thang bắt đầu bước đi những nấc thang đầu tiên với nhiều

bài thơ rất hay, để lại ấn tượng mạnh ở người đọc với tiết tấu và nhịp điệu mới lạ,

âm hưởng lan tỏa. Chúng ta cùng đọc hai đoạn thơ bậc thang sau :

“vò võ

chân trời

khẩu súng

Mỗi đêm

từ biệt

một quê hương "

(Trần Dần-Bài thơ Việt Bắc)

"Sớm tối

ngâm nga mấy vần cảm khái

Đánh nhau với Tây

Bỏ việc

lang thang

vào Nam

ra Bắc

Cắt tóc đi tu

Nhưng quá nặng nghiệp đời

Chật vật kiếp người

Còn hơn rời cuộc sống

An nhà n

kinh kệ

buông xuôi

Gần hai mươi năm trời

Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng

Dạy tôi

làm thơ

ước mơ

hi vọng"

(Lê Đạt - Cha tôi)

Rõ ràng thơ bậc thang tạo nên nhiều ấn tượng rất mạnh, biểu đạt được trạng

thái cảm xúc, dòng suy tưởng của nhà thơ. Nguyễn Bá Thành trong "Thơ và tư duy

của Việt Nam hiện đại nhận xét : "Những dòng thơ bậc thang tạo nên ấn tựơnq mạnh về

tiết tấu, về nhịp điệu, về sự êm dịu giữa dòng" (93-tr324) và ông viết tiếp : “Thỉnh thoảng

được sử dụng là để tạo nên ấn tượng trực quan về sự đứt mạch, sự ngưng nghỉ sự nghẹn

ngào trong tình cảm thể hiện bằng văn bản" (93-tr325).

Với Hoàng Cầm, thơ bậc thang là những nốt lặng của tâm hồn, là chiều sâu

của những suy tưởng, là những "giấc mợ dang dở" "những đêm dài trắng nuột

Vậy thì trước hết chúng ta nhận thấy khoảng trống trong tho Hoàng Cầm là

"là những "mê thét giữa sân''.

những tiếng vọng. Những tiếng vọng của miền xa xăm hư ảo, của những nỗi đau

"Năm sau giặc giã

đồn nén :

Quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ

Thả tịnh vàng cưới Chị

võng mây trôi

Em đứng nhìn theo Em gọi đôi”

(Cây tam cúc)

Từ những hỉnh ảnh rất thực tác giả hướng đến một thế giới

khác, thế giới âm vang:

"Từ thủơ ấy

em cầm chịếc lá

đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu Bông hời...

...ớ i Diêu Bông "

(Lá Diêu Bông)

Đỗ Đức Hiểu trong chuyên luận "Đổi mới phê bình văn học” cho rằng : “Trên

trang giấy in thơ, thơ có nhiều khoảng trắng, đó là một phạm trù thi pháp thơ. Thơ không

nói hết. thơ là nhũng bước nhảy về thời gian, quảng không, quảng trống, những "cái lặng''

ấy chính là nơi chất thơ lan tỏa" (46-tr19). Những khoảng trắng ấy là những bi kịch,

những giấc mơ. Hai bài thơ bậc thang "Lá Diêu Bông" và “Từ nguồn đến biển" (như đã

phân tích ở chương l-mục 212) tác giả tạo ra những khoảng trống, những dấu lặng

cho sự dồn nén những bi kịch của người đời. Ở đó, có thế giới của những ảo ảnh

mà con người muốn vươn tới nhưng không bao giờ nắm bắt được.

Có những khoảng trắng trong thơ ông là những ám thị, những ngân vọng của

huyền thoại

"Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử

l…i…m…m

ứ…..!

l…i…m…m

ứ…..!

Mất rồi mười bảy, mười ba

An Dương- Vương ôi

Bọt bể bồ hồn "

(Gió lông ngỗng)

Ở đây không có cái bi kịch của một vương triều, cái tan vỡ của một mối tình

mà chỉ có cái ngân vang của một huyền thoại đã mất, đã xa.

Có khi ông trình bày những ám thị có cái tên "tơ tưởng'':

“Tơ tưởng em

chiều chiều xa lắc

Một mình đi ...

hoa tím mấy cũng thừa

Vì cánh chìm Kim Hồ mây tím lấp

Thuở nào em

Trăng trắng

Mịt mờ mưa"

(Tơ tưởng)

Có nhân vật “tôi" nhưng là cái “tôi tơ tưởng” cái tôi bất định hướng đến cái bất

định "thuở nào em", "mịt mờ mưa" nên câu chữ ở đây không dễ gì nắm bắt được nghĩa

thực của nó. Nó tượng trương cho một cái khác, nó là "tiếng nói của thế giới, là khát

vọng tìm kiếm của cái bí ẩn ở đằng sau bao gồm bản chất thế giới, các hiện tượng của tâm

linh con người của thế giới cảm giác và vô thức" (86-tr73).

Trong thơ Baudelaire ta bắt gặp cái ngôn ngữ mơ hồ của thiên nhiên.

Hoàng Cầm sử dụng cái ngôn ngữ của thiên nhiên như là một tượng trưng cho

cuộc đời ít ngọt ngào mà nhiều chua cay. Ông trình bày nó dưới dạng những đoản

khúc, những chia cắt như là những tín hiệu thẩm mỹ :

" Con về giấu nhữ ng bàn tay

nâng vú

so đũa

lau mắt

Phơi dây áo thềm sâu

Bố chặt cây sung, cây khê

cắm mía mía không lên

Nắng bừng lùm ớt chỉ thiên

ai trồng mà mọc"

(Đứ a trẻ )

Đoạn thơ trích trong bài có tên là "đưa trẻ". Phải chàng ông đang kể về cuộc

đời mình bằng những ám ảnh của tuổi thơ :

"Nhấn trăm chìm nữa chưa về

Khóc chan lòng mẹ

Ngất mê

Lặng lờ"

(Thể phách tinh anh)

Ở bài thơ "Hiếu sinh'' ta hãy nghe ngồn ngừ của đức từ bi “Tứ diệu đế" trong

" L ờ i t ì n h

ngôn ngữ thi ca của Hoàng Cầm :

chùa vắng

trăng

Xen đêm

Nghìn mắt lâm râm nghé động thuyền

Mảnh lá run xanh

khe suối nép

Nghìn tay đâu nỡ thắt xiêm y”

Ở đây vượt qua cái hàng rào ngôn ngữ của những "ẩn ức tính dục" ta bắt gặp

khoảng trống của những giấc mơ, không phải cái giấc mơ "động thiền" mà là giấc mơ

trắng của đêm trong cõi vĩnh hằng nhà Phật.

Qua những phân tích trên có thể nhận thấy rằng ở phạm vi thể thơ về căn bản

Hoàng Cầm khởi đi từ tư duy lãng mạn và chất lãng mạn theo suốt hành trình thơ

ông. Mặt khác, tư duy thơ Hoàng Cầm có hướng đến những yếu tố đầu tiên của tư

duy thơ tượng trương, đặc biệt đậm đặc ở tập thơ ."Về Kinh Bắc". Tuy nhiên lý giải

rạch ròi, rõ ràng về tư duy thơ ông trên thể loại, thế thơ rất khó bởi lẽ ông không chủ

trương cho một trường phái nào. Ổng sáng tác thể thơ để bày tỏ lòng mình, quan

niệm của mình.

2.3- Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm

F de Saussure trong giáo trình "Ngôn ngữ học đại cương" đã đưa ra luận điểm :

ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là một hệ thống ký hiệu biểu đạt tư tưởng.

Ngôn ngữ là sự hiện thực hóa của tư tưởng.

Mỗi loại hình nghệ thuật đều được xây dựng trên một chất liệu cụ thể với văn

chương, chất liệu đó là ngôn ngũ. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ vừa làm phương tiện

vừa làm mục đích để biểu đạt tư duy nghệ thuật của mình "Nhà văn khi sáng tạo

nên tác phẩm, bên cạnh sáng tạo ra hệ thống nhân vật, hệ thống hình tượng, thế

giới nghệ thuật... thì cũng đồng thời sáng tạo hệ thống lời văn, lời thơ" (25-tr139).

Như vậy sáng tạo văn chương cũng đồng thời là quá trình sáng tạo ra một hệ thống

ngôn ngữ. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật của một nhà văn nhà thơ chính là nghiên

cứu xem nhà văn nhà thơ đó tư duy như thế nào trên chất liệu ngôn ngữ.

Về ngôn ngữ thơ ca, Hegel trong "Mỹ học" nêu lên ba đặc điếm : Thứ nhất là

việc sáng tạo, thứ hai là trật tự các từ hay là hình tượng ngôn ngữ, thứ ba là cấu

trúc các trường cú (44-tr530,531). Có thể nói đây là ba đặc trưng quan trọng nhất

của ngôn ngữ thơ ca.

2.3.1- Lời thơ :

Thơ cổ điển có những quy phạm của nó nên lời thơ mang nhiều tính biểu

trưng và ước lệ. Trong thơ hiện đại với sự giải phóng cá nhân mang với tính cá thể

hóa cao độ, mỗi nhà thơ để có một "giọng điệu” riêng tạo nên hệ thống thi pháp và

phong cách của họ.

Nghiên cứu lời thơ của Hoàng Cầm có thể nhận thấy những đặc điểm sau :

Thứ nhất lời thơ Hoàng Cầm mang nhiều tính sáng tạo đặc biệt là việc sử

dụng động từ.

Thứ hai là lời thơ Hoàng Cầm là một hệ lời đầy nhạc điệu.

Thứ ba lời thơ Hoàng Cầm giàu chất liên tưởng, đặc biệt là những chuyển đổi

cảm giác.

Thứ tư là lời thơ Hoàng Cầm ít nhiều chịu ảnh hưởng của thơ xưa và cả thơ

2.3.1.1- Trước hết ta nhận thấy Hoàng Cầm có một hệ lời đầy sáng tạo.

phương Tây.

Con chữ trong thơ ông cứ như có hồn, như chuyển động theo nhịp thơ, như những

âm vang cứ vọng vào tâm khảm người đọc. Người xưa gọi đó là "tự nhãn", là linh

hồn của câu thơ, bài thơ. Hoàng Cầm rất tài tình trong sử dụng động từ. Mỗi động

từ làm nên cái hồn của câu thơ, bài thơ. Từ đó hướng đến hhững trường nghĩa khác

rộng hơn cái mà nó vốn có. Hãy xem Nguyễn Du, bậc thầy về ngôn ngữ thi ca sử

dụng động từ sau :

"Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Thì thật hay và thật lạ, nó là tiếng lòng của thi nhân.

Hoàng Cầm sử dụng nhiều động từ mạnh trong một câu thơ mà âm hưởng

của nó trở nên vang xa, tạo ấn tượng.

"Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử"

(Đêm hỏa)

"Trăng lên chém đầu ngọn gió"

(Đêm hỏa)

"Tràng mây xếch vòng cung

bắn nát chiều mai ráng đỏ"

(Đèn thổ)

"Tiếng xe đời thét gợi mưa sa"

(Ngẩn ngơ)

"Tiếng trổng chèo vuốt ngự c Châu Long

(Luân hồi)

Một mặt, động từ của ông làm cho âm hưởng câu thơ đột biến, mặt khác

nó cụ thể hóa những cái rất trừu tượng. Nó giúp ch úng ta cảm nhậ n được nhữ ng

thế giới vô hình và mông lung.

Động từ còn cụ thể cái thế giới nội tâm huyền bí, sâu xa của chính tác giả :

"Gió mát chồi xuân đay nghiến lũy tre làng"

(Đêm mộc)

"Cối xay đay tiếng than dài"

(Đi mãi)

"Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn"

(Ngựa 1)

Sử dụng động từ như là một nhân hóa tạo hồn cho sự vật :

"Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay"

(Đèn nhang 1)

"Chuông chiều cởi yếm .

Chuông sớm đội khăn"

(Đêm thủy)

"Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông"

(Đêm thổ)

Động từ còn biểu hiện thế giới tâm trạng, cảm quan cùa nhà thơ về cuộc đời

và con người :

"Cúi xóm buồ n teo một tiếng gà"

(Nế u anh còn trẻ)

"Ốc sên hiếng mắt ngó rình sớm mai "

(Tháng giêng đi chậm)

"Chìa vôi quệ t gió hững hờ"

(Theo đuổi)

Thế giới nội tâm của con người vốn dĩ mong manh, mơ hồ. Để nắm bắt được

cái thế giới đó thơ phải đi hết con đường của chữ nghĩa, vượt qua nghĩa "tự vị"

của từ để đạt đến những ngữ nghĩa mới hơn. Muốn vậy từ phải được đặt trong

những chuỗi âm thanh với sụ kết hợp mới lạ. Nó tạo nên những trường liên tưởng

về hình ảnh bất ngờ, táo bạo. Có lẽ Hoàng Cầm là một trong không nhiều lắm

những nhà thơ đạt được điều này bằng những liên tưởng bất ngờ:

" Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẩm tối"

(Gió lông ngỗng)

"Ván thuyền dù đã nát

Hàng đinh nhe răng cười"

(Buồ n có lý)

Một cái đêm sâu nhưng hình ảnh thì cụ thể, một cuộc tình dang dở với cái

nhe răng cay đắng của phận đời.

Thế giới hình ảnh trong ông là những liên tưởng tượng trưng tưởng chừng

như vô lý. Chính nó tạo nên sợi dây liên kết giữa những hình ảnh cụ thể với những

hình ảnh có tính siêu nghiệm :

"Ta con phù du ao trời chật chội

Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao"

(Về với ta)

"Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ

Rú xô gai biển động tìm kim"

Hay hình ả nh con quạ của Edgar Poe

(Đêm kim)

"Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa "

(Gái hậu Lê)

Tuy không phải là một ''phu chữ", không chủ trương làm thơ là một cuộc chơi

chữ, nhưng Hoàng Cầm cũng khá thành công trong lĩnh vực chữ nghĩa. Con chữ

trong tay ông, dù là những con chữ binh thường cũng trở nên có sức sống lạ kỳ.

Ông tách chữ thật tài tình :

"Đón chị hồn chênh

lệch bóng đêm"

(Chị em xanh)

"Ngoài ấy hững mưa hờ"

(Tơ tưởng)

“Duối hiên mê chập, ngủ chờn”

(Ngủ vỉa hè)

Ở đây ông vừa giữ được cái nghĩa của nó, vừa tạo cho nó cái nghĩa mới, do

dó câu thơ của ông trở nên nhiều nghĩa hơn, rộng nghĩa hơn. Sức tải của nó lớn

hơn. chất chứa nhiều hơn.

Hay ông tách từ để tạo phép đối trong câu thơ:

"Vẫn lòng đau ấy vào thương phậ n này"

(Thờ ờ)

"Chắt chiu quấ n lụa vào đau ruột tằm."

(Đi bên em)

"Cái bèo nước chảy ngược dòng

Rủ rê cái bọt xoáy vòng khe sâu"

(Kỷ niệm)

Người đọc cứ như thấy rõ, thấy cụ thể những nỗi đau, những thân phận vốn

dĩ là những cái không dễ gì nắm bắt. Nó làm tăng nghĩa của từ, làm tăng sức biểu

cảm cho câu thơ.

Có thể nói sự sáng tạo trong sử dụng động từ tách từ của Hoàng Cầm làm

cho ngốn ngữ thơ ca thêm phong phú, đa dạng ngôn ngữ của ông là ngôn ngữ

hướng ra để nắm bắt, để cảm nhận thế giới.

2.3.1.2- Lời thơ Hoàng Cầm là một lời thơ đầy nhạc điệu. Ông cho rằng "Nhạc

điệu là một chiếc xe chở hồn thơ". Thơ ca vốn dĩ gần với âm nhạc bằng các phương

tiện của âm, vần, điệp ... Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm mang đầy nhạc tính nên có nhà

nghiên cứu nhận xét "Nó phát huy cao độ tính nhạc của ngôn ngữ và chất say của

thơ" (83-tr102) Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm là nhạc điệu của tâm hồn, của cảm

xúc, vừa lảng bảng, vừa miên man vừa vang xa, vừa nhạt nhòa sương khói. Thơ

Hoàng Cầm là cuộc hôn phối giữa âm thanh và chữ nghĩa, giữa giai điệu của cuộc

sống và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.

Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm, trước hết được tạo ra từ cách kết hợp vần

với nhau. Nhưng cái đặc biệt hơn ở thơ ông là những âm vận đuổi nhau miên man,

vô tận. Tố Hữu có câu thơ viết rất hay :

"Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

Đường bạch dương sương trắng nắng tàn"

(Tố Hữu - Em ơi Ba Lan)

Hay câu thơ của Đoàn Phú Tứ :

"Dìu vương nương ấm thoảng xuân tình"

(Đoàn Phú Tứ-Màu thời gian)

Những âm vận như vậy Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong "Thơ ca Việt

Nam hình thức và thể loại" cho rằng "Những vần lưng níu nhau trực tiếp trong từng câu thơ

gợi lên những âm điệu đặc biệt, tăng sức gợi cảm của tứ thơ" (78-tr330). Sức gợi cảm

trong thơ Hoàng Cầm cứ như trồi theo những dòng nhạc miên man kéo dài bất tận

"Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng

(Đêm thổ)

trâu"

"Đuổi tà lụa nhạ t

Ánh trăng đầm thấm đường sương "

(Theo đuổi)

"Luồ n tay ôm say

giấc bay lay đỉnh núi"

(Thi đánh đu)

"Tình cờ đâu triệu triệu năm

Bồng nằm

Bỗng thắm

bỗng chằm hai chân "

(Thèm)

Âm vận cứ đuổi nhau, nhạc điệu cứ kéo dài ra. Nó là cái hồn say mê ảo, say

ngất lịm của nhà thơ. Nhạc điệu làm cho bài thơ cứ ngân vang bất tận.

Khác với các nhà thơ hiện đại làm thơ theo "điệu nói" ít sử dụng vần hoặc

không vần. Hoàng Cầm sử dụng khá nhiều vần.

Thể 7 tiếng của ông, như đã nói, sử dụng vần như thơ mới (tức là 4 câu 3 vần

hoặc 2 vần ôm, hoặc 2 vần gián cách) thể loại lục bát sử dụng cả vần chân và vần

lưng. Ở đây chủ yếu chúng ta xem xét thơ hợp thể của ông. Trong 102 bài thơ hợp

thể, bài nào cũng có gieo vần, thậm chí gieo vần dày đặc :

"Đã hẳn em về

xa mê tân linh

Sao cỏn đứng nghiêng khói thiêng vươn mình

Đã hẳng em lên thượng tầng khinh thanh

Sao còn rưng rưng cỏ mồ bình minh "

(Nén linh hương)

"Chân em đi dài không biết mỏi

Má hồng em lại nổi

đồng mùa nước lụt mênh mông

Lưng thon thon cắm sào em đợi

Đào giếng sân rồi

đừn lấp vội đầu xanh"

(Theo đuổi)

"Tôi bỏ lại phía bên kia núi tím

Nhức nhối ngực trần. Căng- xe tim chìm nghỉm

Bến sông chiều le lói gọi xanh xưa"

(Hai phía núi)

"Nàng chấm thi khép mắt ngoả nh đi

kén được một người .

n ụ cười chếch đôị mắt lạ

Vồn vã đến

thong dong thua

rồi lững thững đi"

(Hội vật)

Việc gieo vần kết hợp như trên tạo sự liên tưởng liên kết về nhạc điệu cho bài

thơ. Với thơ tự do và hợp thể khi những niêm luật đã mất thì liên kết thơ chủ yếu là

liên kết nhạc điệu. Thơ tự do của Hoàng Cầm có sự liên kết vần chân rất độc đáo.

"Mắt tròn cối xay

Không bao giờ ngủ trước sao mai"

(Cỏ bồng thi)

"Phải chăng vì em quên

Không giam cầm con dế đầu si

Trong vỏ bao diêm kín lặng thành trì

Để nó trốn qua khe tường bảo đổ

Sang mảnh vườn mai li

Năn nỉ suốt đêm dài quê tình sử thi"

(Tương biệ t hành)

Vần lưng ngoại trừ thơ 7 tiếng, 8 tiếng, lục bát thơ tự do và hợp thể của

Hoàng Cầm tuy có sử dụng nhưng ít hơn vần chân :

"Vào nửa đêm nông nỗi yếu mềm

Gió ngoà i cửa cười em ngày dại"

(Nhận lỗi)

"Em xa rồi xa thêm

Ngày trằn trọc suốt đêm trắng lạnh

Đêm thao thức không vơi ngày trắng em "

(Nhớ xa)

Cùng với gieo vần, các phương tiện trùng điệp về thanh, từ, câu cũng làm

cho thơ Hoàng Cầm mang đầy tính nhạc. Hoàng Cầm sử dụng khá nhiều thanh

bằng làm cho thế giới nhạc điệu của thơ ông vừa rất nhẹ nhưng cũng vừa rất sâu

như những hồi vọng. Nó nhẹ nhàng, miên man mà sâu lắng:

"Tay không rời tay người tê mê thầm”

"Mà mê lộ mờ xanh-chuông lưng chừng tan nhanh

Hoàng hôn mời anh ngồi-bẻ bàng chưa lên ngôi"

(Vào đường mê)

"Buồn pha lê thiên không nức nở"

(Hội yếm bay)

"Từ trinh trắng hào tròn trăng quanh năm

Sao hôm nay ai xui bơ vơ em về xa mê câm "

(Tương biệ t hành)

Kết hợp giữa điệp vần và điệp thanh :

"Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu"

(Đêm thổ)

"Đành khuất mắt đen anh

trầm lâng đăm chiêu

nhiều chiều thương kỷ nhớ "

Ngoài điệp thanh Hoàng Cầm cũng sử dụng nhiều phương tiện điệp âm:

"Hồng hoang hương ấm mấy chân trời"

(Nắng phù sa)

"Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ"

(Cây tam cúc)

''Quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ "

(Cây tam cúc)

"Lắm loài súng sính sinh đôi"

(Thua một không)

"Chuồn chuồn kim dim díp mắt

Ngủ đầy năm"

(Phía sau thư cầu hôn)

Điệp thanh, điệp âm trong thơ Hoàng Cầm không chỉ gây cái cảm giác nhẹ

nhàng mà nó cứ như âm u, như trầm mặc từ những cõi mông lung nào đó. Nhạc thơ

ông cứ như xóa nhòa cái ranh giới giữa thực và mơ,"giữa hiện tại và quá khứ.

Hoàng Cầm còn sử dụng khá nhiều các phương tiện trùng điệp

Trùng điệp từ :

“Đừng ví thân em hạt gạo tám xoan

Đừng vẽ hình em hoa đào hoa lí

Đừng hát tình em sóng vỗ mưa về

Đừng tạc mặt em lệch mái thúy cung"

(Đế m giờ)

"Nắng em nắng đến siêu hình Như môi như mắt như mình

như không "

(Nghĩ thương)

" Em đi liền bên anh

Vào chiều nay sương xuống

Vào chiều mai nắng hanh

Vào xa sau trầm tưởng"

(Gặp)

Điệp câu tà phương tiện được tác giả sử dụng nhiều nhất :

"Nhớ về mắt em

Ới thương là thương

Động gót mưa xuân

Cưới mặt trời hè

Ới thương là thương

Gà con nhớ mẹ

Cỏ vàng rung chân

Ới thương là thướng"

(Đêm nắng)

"Hai ngày em tìm thấy lá

Chị chau mày

đâu phả i lá Diêu Bông

Mùa đông sau em tìm thấy lá

Chị lắc đầu

trộng nắng vãn bên sông

Ngày cưới chị

Em tìm thây lá

Chị cười xe chỉ ấn trôn kim

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xòe tay phủ mặt chị không nhìn "

(Lá Diêu Bông) i

Đặc biệt, thơ lục bát của ông cũng sử dụng nhiều các hình thức trùng điệp :

"Liệu còn gì nữa của em

Không lời, không bóng chờ xem chuyển vần

Liệu còn gì của ái ân

Đến hương đêm thấm áo quầ n cũng tan

Liệu còn gì của thời gian

Chiề u xưa ấp ủ nồng nàn đã bay

Liệu còn gì của men s a y

Cặn ly cũng bỏ môi gầy nhạ t tênh Liệu còn gì nữa của anh

Bài thơ mê đã hóa thành viễn vông"

(Liệu còn gì nữa)

Có thể nói các biện pháp trùng điệp được sử dụng liên tục và dày đặc trong

thơ Hoàng Cầm. Nếu như các bài thơ 8 tiếng, thơ hợp thể và tự do tác giả sử dụng

nhiều các biện pháp trùng điệp âm, thanh và từ (85/108 bài chiếm 80%) thì các thể

4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng và lục bát tác giả sử dụng nhiều các biện pháp trùng điệp

cụm và câu (20/48 bài chiếm 40%) cũng có trùng điệp từ, âm, thanh (14/48 bài

chiếm 28%) chẳng hạn:

Bài thơ 5 tiếng Anh đứng đây là đâu" gôm 4 khổ thì có 4 lần điệp lại câu "Anh

đứng đây là đâu". Bài "Mưa Thuận Thành" điệp 29 từ'"mưa" trong 46 câu của

bài thơ. Như vậy có 29/148 tiếng của bài thơ dùng tiếng "mưa'', nào là "mưa rơi, mưa

chơi, mưa nhòa", "mưa chèo bẻo, mưa hoa nhài, mưa sành sứ, mưa chuông chùa .. ." Một

tỉ lệ trùng điệp dày đặc tạo nên một bản hợp ca thấm đẫm mưa rơi, tạo nên một thế

giới của tâm trạng mờ, nhòe, miên man, đều đặn. Tư duy trùng điệp chỉ bắt đầu từ

thơ mới. nó cho phép giải phóng nhạc điệu của thơ. Thơ hiện đại tư duy trùng lặp

càng được sử dụng nhiều, một mặt nó là nhịp điệu của cuộc sống, mặt khác nó là

nhịp điệu của tâm hồn. Như chúng ta thấy hơn 90% các bài thơ của Hoàng Cầm

đều được chia khổ (đây cũng là đặc điểm của thơ Việt Nam hiện đại), do đó trùng

điệp là một trong những biện pháp liên kết. Nó làm cho mạch tư duy của bài thơ liền

lạc hơn, liên kết với nhau chặt chẽ hơn, thống nhất hơn. Điều này càng có ý nghĩa

hơn khi mà thơ Hoàng Cầm ít theo một chủ đề cụ thể. Nó cứ phát triển theo nhiều

chiều, nhiều mạch khác nhau. Do đó trùng điệp càng tăng thêm sức mạnh liên kết

âm thanh nội tại. Nó là chất liệu liên kết bài thơ.

Nhạc thơ còn thể hiện ở cách ngắt nhịp của thơ. Các thể thơ 7 tiếng và lục

bát của Hoàng Cầm nhìn chung vẫn tiếp nối ngắt nhịp truyền thống của thơ mới.

Thơ 7 tiếng chủ yếu là nhịp 4/3 (như đã dẫn ở trên) còn lục bát chủ yếu là nhịp

chẵn. Đây là xu hướng truyền thống trong việc tạo nên tiết tấu, nhịp điệu của bài

thơ:

"Em đi/một loáng /trăm năm

Nơi đâu em ngủ/tôi nằm lênh đênh

Dầu nghiênq/gố i lặngtay mình

Chợt rung mắc áo/dáng hình cheo leo

về khuya/mê bónq/bóng theo Nhìn chênh thế kỷ/bóng vèo qua mi"

Nhịp chẵn kết hợp với thanh bằng là đặc trưng nhạc điệu của thơ mới và của

(Ngày giỗ)

thơ Hoàng Cầm. Các bài lục bát và thể 7 chữ biến dạng theo bậc thang nhìn chung

cũng theo quy luật này trừ vài trường hợp đặc biệt:

"Dường như biết/lại không quen

Một mình tôi/

Một mình em/

Lạ thường"

(Một mình)

Thể 8 tiếng của Hoàng Cầm ngắt nhịp có khác so với thơ mới. Thơ mới với

khuôn nhịp của ca trù là 3/3/2 hoặc 3/2/3 (25 –tr151).

Ví dụ :

“Khách ngồi lại/cùng em/đây gố i lả

Tay em đây/ mời khách ngả/đầu say"

(Xuân Diệu-Lời kỹ nữ)

Tho 8 tiếng của Hoàng Cầm thường ngắt nhịp chẵn:

"Xóa nhanh quầ ng thâm/nhặ t thầm sợi tóc

Từ đêm tân hôn/ghi ân cười khóc

Ghi nét mày chau/ghi sắc môi hồng

Băng ngắn mật gấu/băng dài mật ong"

(Nén linh hương)

Hay:

"Mưa đì về anh/mưa đi lưu ly

Kinh Bắc hồng môi/gái xưa kinh kỳ

Kinh Bắc lên men/đắm hương vương phi

Hời mưa phương Nam/bao giờ mưa đi"

(Giọt mưa phương Nam) í

Tho 8 tiếng của Hoàng Cầm ngắt nhịp chẵn và đều 4/4 tạo nên một âm

hưởng nhẹ và thanh thoát cho bài thơ. Như vậy thể loại 8 tiếng của Hoàng Cầm có

một nhạc điệu khác với ca trù và thơ mới, nó gần với âm hưởng của lục bát hơn.

Phải chăng đó cũng chính là âm hưởng quan họ trong thơ ông.

Thơ hợp thể của Hoàng Cầm có nhịp thơ là nhịp của cuộc sống của tâm hồn

ông. Nhịp thơ ông lúc nhanh lúc chậm, lúc dập dìu thiết tha lúc trầm bổng sâu lắng,

lúc mờ ảo xa xăm. Bài "Bên kia sông Đuống”, "Hội vật". "Gái Hậu Lê". “Đợi mùa" là

những điển hình của sự thay đổi tiết tấu nhịp điệu. Có nhịp chậm, nhịp nhanh, có

" Em bước vào đình/

nhịp êm đềm khắc khoải, có nhịp âm âm; vọng vọng

ôm cột/bốn ngư ời ôm/

Em rẽ sang chùa/

lay châèn/h ộ pháp

Sau chùa tát đêm/một chạp

Gàu giai ai vớt/chị ơi/

lòa lõa/thân trăng

Chị lỡ xe Hồng/

Mẹ đi lấy chồng/

Cổ cưới chênh vênh/khoai luộc

Mật vàng mọng/r ách vỏ nâu non"

(Đợ i mùa)

Hay

"Em ơi!/Buồn làm chi/

Anh đưa em về sông Đuống/

Ngày xưa/cát trằnq phẳ ng lì/

Sông Đuống trôi đi/

Một dòng lấp lánh/

Nằm nghiêng nghiêng/ trong kháng chiến/trường kỳ

Xanh xanh bãi mía/bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc/

Đứng bên này sông/sao nhớ tiếc

Sao xót xa/ như rụnq bàn tay

(Bên kia sông Đuống) Thơ tự do và hợp thể không ngắt nhịp theo quy luật. Nó là nhịp điệu của tâm

2.3.1.3- Đặc điểm thứ ba trong lời thơ của Hoàng Cầm giàu chất liên tưởng.

hồn, là sự giao cảm giữa thi nhân và âm thanh cuộc sống.

Cùng với liên kết vần, âm, thanh, từ, câu có thể nói liên tưởng là chất liệu liên kết ý

trong thơ Hoàng Cầm. Nó liên kết bằng những chuyển đổi cảm giác độc đáo, bằng

những thủ pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ...

Những chuyển đổi cảm giác trong thơ Hoàng Cầm nghiêng về những cảm

nhận mang tính ẩn dụ hơn. Nó không cụ thể là cảm giác của con người mà là những

mảnh vỡ của con người.

“Phấn mùa trăng xoa mờ sẹo tuổi"

(Tắm đêm)

"Mảnh rách còn xanh quanh giấc mê"

(Đừ ng hỏi) "Trên ngực tròn hương tím thức đêm say" (Ngẩn ngơ)

Sự xóa nhòa, sự hòa trộn cảm giác tạo nên những liên tưởng siêu kinh

nghiệm

Ông cảm nhận âm thanh của thế giới thật hay:

"Vát áo nghe thầm tiếng vãi kêu"

(Tắm đêm)

"Ba hồi chuông lảo đảo các toa tàu

Cong mái đỏ quanh thành"

(Hội vật)

Đây là âm thanh của thế giới tâm trạng. Nó mơ hồ và xa xăm. Nó chỉ đến với

một hồn thơ đầy nội cảm. Đặc điểm này thể hiện rõ tư duy tượng trưng trong thơ

Hoàng Cầm. Tư duy ấy luôn hướng đến một thế giới ở ngoài thế giới của những tồn

tại.

Nhân hóa cũng là một trong những thủ pháp của nghệ thuật thơ ca. Nhân hóa

cho phép nhà thơ làm sống lại thế giới quanh mình, làm sinh động cái thế giới khách

quan vốn dĩ ở bên ngoài nhà thơ. Với Hoàng Cầm, nhân hóa là gởi gấm tâm trạng,

là kỷ thác cái chủ thể trữ tình của mình vào thế giới các sự vật, hiện tượng, là sự

giải mã những ký hiệu của thế giới tự nhiên.

Những nhân hóa tưởng tượng:

"Nàng mây cầm mảnh trăng liềm

cắt rốn nỗi lòng mới đẻ"

(Chuyện cô đơn)

"Mái tóc thương em mờ sợi trắng

Mời trănạ đọng ngọc mắt nguyên sinh"

(Nế u anh còn trẻ)

Những nhân hóa liên tưởng :

"Tuổi đã rách vá gì cho kịp"

(Tắm đêm)

"Sợi bún ngà vá lại dung nhan"

( Thi sợi bún)

"Vãi gột hồ hai má gội môi hoang" (Thi dệt vái)

Những nhân hóa có tính ký thác :

"Đừng cứa tay mình câu hát ơi"

(Đế m sao)

"Gậy mù ngửỉ hơi đường lạ

bóng cây rợp mát lưng gù"

(Đợ i mùa)

"Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ "

(Bên kia sông Đuống)

Cái "nghiêng nghiêng" của đời ông, cái thân phận của tuổi già "gậy mù", cái

nghiệp oan khiên của "câu hát" chính là những tượng trưng cho số phận con người.

Những câu thơ cứ như ám vào người đọc về thân phận đầy ngang trái, lận đận. Sự

truyền cảm của bài thơ thật lớn.

Thơ Hoàng Cầm cũng sử dụng khá nhiều hình ảnh so sánh. So sánh làm cho

hình ảnh thơ ông cụ thể hơn, có sức sống hơn và gọi cảm hơn:

"Những cô hàng xóm răng đen !

Cười như mùa thu tỏa nắng"

(Bên kia sông Đuống)

"Ta con phù du ao trời chật chội

Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao".

(Về với ta)

" Khấn thầm như Mẹ lỡ đò ngang

Miệng hé hạt na nhòa bế vắng

Cổ tay tròn đẫn mía de"

(Quà mẹ)

Những so sánh ngầm của Hoàng Cầm có ý nghĩa khái quát rất cao, tầm sự

suy tưởng sâu sắc:

"Xe đời bẹp bánh chông chênh

Vá cho tôi

nắm lại vành mê si"

(Ngủ vỉa hè)

“Ván thuyền dầu đã nát

Hoàng đinh nhe răng cười"

(Buồ n có lý)

"Những cuộc dọn nhà

tuần du trang sử rách

vương quên mái tóc

sợi tơ trời

óng ánh mạng sương thu" (Đi mãi)

Những cảm nhận về thế giới, những ẩn dụ so sánh tạo nên những liên tưởng

có: sức gợi cảm lớn trong tư duy thơ Hoàng Cầm. Nó làm cho thơ ông vừa truyền

thống, vừa hiện đại. Hiện đại trên nền móng của truyền thống thơ ca dân tộc.

2.3.1.4- Bên cạnh những đặc trưng trên thiết nghĩ chúng ta cũng cần phân

tích một mặt khác trong lời thơ của ông. Đó là việc ông sử dụng khá nhiều từ cũ,

gần như là sáo mòn. Trong thơ Hoàng Cầm tuy không dày đặc nhưng cũng khá

nhiều các từ mà các nhà thơ hiện đại khác rất ít sử dụng. Nào là "mộng cũ", "khói

tím", "li đoài", ''bóng tím" ... hay các cụm "sầu lênh láng", "chảy sầu", "mê

mải sầu", "đơn côi", "bão tình", "bụi ái ân", lênh láng phố ” ... những từ này đôi khi

làm cho câu thơ cùa ông cứ như chênh vênh giữa sáng tạo và sáo mòn. Tuy nhiên

chính những từ này cũng gợi cho chúng ta một thế giới khác, thế giới của quá khứ

trong cái không gian c ổ kính của thơ ông.

Cũng như các nhà thơ lãng mạn tiền bối Hoàng Cầm cũng chịu ảnh hưởng

của thơ phương Tây trong dùng từ, đặt câu. Tuy nhiên những ảnh hưởng đó không

lớn lắm. Một vài ví dụ:

"Đành khất mắt đen anh "

(Tương biệ t hành)

"Thành lứa đôi rồi â u yếm rất em anh "

(Chuyện cô đơn)

"Chăn nệm dày càng rét phía nằm em"

(Nhớ xa)ì

" Thật anh đấy. Em nói se sẽ

- Vào em đi!

ngoài ấy hững mưa hờ”

(Tơ tưởng)

Nói chung việc dùng những hệ thống từ cũ, những ảnh hưởng của cách đặt

câu thơ phương Tây không phải là một đặc trưng nổi trội trong tư duy thơ Hoàng

Cầm. Đó có thể được xem là những thể nghiệm có tính trăn trở của ông trong quá

trình lao động nghệ thuật vậy.

2.3.2- Câu thơ trong thơ Hoàng Cầm:

2.3.2.1- Câu là đơn vị cơ sở của tư duy. Một văn bản văn chương luôn được

xây dựng trên đơn vị câu "Sáng tác văn học là tự đặt câu liên tục để xây dựng một văn

bản nghệ thuật" (93-tr315). Nhà nghiên cứu Lê Tiến Dũng cho rằng : "Trong thơ khi có

ý thơ, hình tượng thơ nhà thơ phải diễn đạt qua câu thơ'' Như vậy câu thơ là hiện thực

hóa của tư duy nghệ thuật.

Tuy nhiên thực tế sáng tạo thơ ca cho thấy nhà thơ ít tư duy trẽn đơn vị câu

thơ mà thông thường tư duy trên đơn vị dòng thơ. Câu thơ và dòng thơ rất ít trùng

nhau. Có câu thơ một dòng, có câu gồm nhiều dòng lại có dòng nhiều câu. Thực tế

xưa nay các nhà nghiên cứu vẫn mặc nhiên xem dòng thơ là câu

thơ. Từ điển Tiếng Việt NXB KHXH in năm 1977 cho rằng "Lục bát : thể văn vần của

Việt Nam, cứ sau một câu sáu chữ lại đến một câu tám chữ" từ đó cho rằng "Truyện

Kiều" gồm 3254 câu thơ. Các tác giả Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức trong "Thơ ca

Việt Nam — hình thức và thể loại" hay Hoài Thanh trong "Thi nhân Việt Nam"... khi

nghiên cứu đều xem dòng thơ là câu thơ (Dẫn theo 25 – tr 161).

Thực tiễn cho thấy dòng thơ đặc trưng cho tư duy thơ bởi lẽ thơ còn bị chi

phối bởi nhiều yếu tố khác như âm thanh, nhạc điệu. Do đó dòng thơ là đặc trưng

của tư duy nghệ thuật thơ mà nhờ nó người ta nhận diện ra thơ "Khi một câu thơ bao

gồm nhiêu dòng thơ (có khi là một khổ thơ, một đoạn thơ thậm chí là một bài thơ) thì tư duy

thơ dựa hẳn vào dòng thơ” (93 - tr320).

2.3.2.2- Tuy nhiên khi nghiên cứu thơ Hoàng Cầm chúng tôi nhận thấy, nếu

lấy đơn vị dòng thơ làm cơ sở thì có mấy điểm sau:

Thứ nhất trong mối tương quan với câu thơ, thơ Hoàng Cầm có dòng gồm 2

câu nhưng đa số các câu gồm nhiều dòng, gồm cả khổ thơ và bài thờ. Việc đặt dòng

thơ ở Hoàng cầm gần như không theo các quy luật của ngữ nghĩa mà theo những

chuỗi nhịp điệu nhất định nào đó.

Thứ hai số bài có số dòng thơ đều đặn trong 156 bài mà chúng tôi khảo sát là

54 bài (chiếm 34%) Tuy nhiên do hiên tượng dòng thơ bị phá vỡ để tạo thơ bậc

thang nên số bài thơ có số dòng thơ đều nhau ở ông ít hơn nhiều. Trong 54 bài thể

4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng và lục bát của ông chỉ có 28 bài (50%) là dòng thơ không bị

phá vỡ để tạo thơ bậc thang. Như vậy chỉ có 28/156 bài thơ của Hoàng Cầm là

dòng thơ đều nhau (18%) còn lại là thơ bậc thang. Mà như đã phân tích, trình bày

ở trên dòng thơ bậc thang là dòng phát triển của cảm xúc và nhịp điệu.

Thứ ba câu thơ Hoàng Cầm ở một mức độ vừa phải là câu thơ của "điệu

nói" nhưng mang nhiều nhạc điệu.

Thơ Hoàng Cầm có những dòng gồm 2 câu tuy nhiên số lượng không nhiều:

"Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay"

" Em đâu? Ai xé hồn muôn mảnh"

(Chị em xanh)

(Xa)

"Buồn rã rượi. Em cứ về bên ấy''

"Thu đến muộn. Em cứ về bên ấy"

"Xuân đã qua. Em cứ về bên ấy"

"Em mất quê rồi. Anh mất em"

(Em cứ về bên ấy)

(Gửi người vợ xa quê)

Và có những câu gồm một khổ thơ:

"Triền miên đêm hè

diều sáo lửng lơ

tiếng nói sa xưa

cùng ai chẳng nói"

(Đi mãi)

"Con về giấu giếm những bàn tay

nâng vú

so đũa

lau mắt

phơi dây áo thềm sân"

(Đứ a trẻ )

Có những câu gồm cả bài thơ:

"Lời tình

chùa vắng

trắng

xem đêm !

Nghìn mắt lâm râm nghé động thiền

Mảnh lá run xanh

khe suối nép

Nghìn tay đâu nở thắt xiêm y”

(Hiếu sinh)

Như vậy, ở đây chúng ta nhận thấy, dòng thơ Hoàng Cầm không hướng đến

mục đích làm trọn vẹn ngữ nghĩa. Dòng thơ được ông đặt theo nhịp điệu của cảm

xúc. Mục đích dòng thơ Hoàng Cầm là hướng đến nhịp điệu, âm thanh.

Đặc điểm thứ hai trong câu thơ của Hoàng Cầm là tạo những "thi pháp của

khoảng trống" tạo ấn tượng, tạo cảm giác hơn là tạo nghĩa.

Câu thơ của ông không có chủ thể:

“Đi

bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy

níu cuộng lá vàng qua trận bão"

(Đèn nhang- 2)

"Chợt lóe đài xanh ngất nước

mây

Hoa khô xây bậc trăm thềm ngọc Một phím đàn đôi bốn cánh tay"

(Ngã ba sông)

"Máu đổ

Mây đùn

Gió lộng

Sớm mai đi" (Đêm thổ) Rõ ràng chúng ta không thể đọc thơ ông bằng tư duy logic thông thường. Nó

hướng đến cảm giác, đến ấn tượng hơn là ngữ nghĩa. Hệ cảm xúc trong thơ

Hoàng Cầm đôi khi phát triển theo độ dài ngắn của dòng thơ

Mạch cảm xúc tăng tiến:

"Đêm xuống

Làm lầu hoang

Trò chuyệ n gì ai đâu

Mồ hôi tháng giêng mưa sũng

Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu"

(Đêm thổ)

Mạch cảm xúc như nghẹn lại: "Chị đưa em đến bến này Cheo leo mõm núi Trước vực Sau khe "

(Cỏ Bồng thi)

Mạch cả m xúc đứt đoạn

"Ly cà phê nửa

tỉnh

Từng đôi sớm biết đ i về có nhau

Còn em !

lãng đãng nơi đâu

Anh về

so sẩm

đũa màu

gỗ mun"

Mạch cả m xúc như dồ n đuổ i, như nén lại:

"Tinh cờ đâu triệu triệu

(Viết trong quán cà phê)

Bỗng nằm

bỗng thắm

bỗng chằm hai chân"

(Thèm)

Dòng thơ Hoàng Cầm, do đó không tách rời với khổ thơ trong quá trình biểu

đạt tư duy nghệ thuật.

Câu thơ 8 tiếng trong thơ Hoàng Cầm là một biệt lệ. Như đã phân tích ở phần

trước, câu thơ 8 tiếng của Hoàng Cầm không giống với ca trù. Câu thơ 8 tiếng của

Hoàng Cầm thường ngắt nhịp chẵn, điệp thanh bằng, sử dụng nhiều vần, tạo nhạc

điệu êm và miên man.

"Mưa đi về anh/mưa dềnh mặt nước

Rung rinh ôm sao/khi nào sao tắt .

Mưađi về anh/mưa đi về nguồn

Chảy dòng hạnh xanh/ trôi nhanh cát buồn "

(Giọt mưa Phương Nam)

"Mười hai xa xưa .. ./mười hai bây giờ

Phải chăng anh ơi/anh là em thơ"

(Vào đường mê)

Tuy nhiên cũng đôi khi ngắt nhịp 3/5 nhưng không nhiều

"Ngày em ngủ/bến mi anh nắng đọng

Chiề u em đi/không quá một vòng tay

Tối em về/gió ru em vỗ sóng

Trên ngực tròn/hương tím thức đêm say"

(Ngẩn ngơ)

Thơ hiện đại có xu hướng mà Hoài Thanh gọi là "cuộc xâm lăng của văn xuôi".

Đặc biệt thơ Việt Nam sau 1945 luôn hướng đến câu thơ "điệu nói", Trần

Đinh sử trong "Những thế giới nghệ thuật thơ" xem đó là sự chuyển giọng từ "thơ trữ

tình điệu ngâm" sang thơ "trữ tình điệu nói" (86 – tr 109). Có thể thấy rõ điều đó qua

các bài Nhớ (Hồng Nguyên), Tình sông núi (Trần Mai Ninh), Màu tím hoa sim (Hữu

Loan) .. .

"Tôi lim dim cặp mắt

Không thấy nơi nào không đẹp.

Không giàu"

(Trần Mai Ninh - Tình sông núi)

hay

"Không có kính không phả i vì xe không có kính"

(Phạ m Tiến Duật-Bài thơ tiểu đội xe không kính)

Câu thơ điệu nói của Hoàng Cầm có khác, nó không ngang, không trúc trắc,

nó có vần, có nhạc.

"Chị bảo

Đứa nào tìm được lá Diêu Bông

Từ nay ta gọi là chồng "

( L a D i ê u B ô n g )

"Con đây ư!

Con đã về kinh Bắc

Những cỏ Bồng thi

với dế đầu si

Những lá Diêu Bông

với đôi xe hồng "

(Luân hồi)

"Tôi người làng Quan họ

Quê mẹ bên này sông

Cách quê cha một dòng

nước trắng"

(Tôi người làng quan họ)

Câu thơ điệu nói của Hoàng Cầm đôi khi sử dụng gạch đầdu dòng như những

lời thoại của một vở kịch. Nhưng với ông nó là cái bi kịch cuộc đời:

Xe đời bẹp bánh chông chênh

- Vá cho tôi!

- Nắn lại vành mê s i "

(Ngủ vỉa hè)

- X i n chị một quả chín !

- Quả chín quá tầm tay

- X i n chị một quả ương

- Quả ương chim khoét thủng"

(Quả vườn ổi)

Với cái tôi vừa khẳng định vừa hoài nghi, với một hệ thống ngồn ngữ vừa

truyền thống, vừa vượt ra ngoài truyền thống bằng những tương giao cảm giác,

những liên kết nhạc thơ, thơ Hoàng Cầm đã đi hết con đường của tư duy lãng mạn

và hướng đến tư duy tượng trưng, Tuy nhiên, tư duy tượng trưng ở Hoàng Cầm

chưa phải là một trào lưu, nó mang những yếu tố tượng trưng trên tinh thần của

ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Đo đó, Hoàng Cầm thực sự là một nhà thơ đặc biệt của

nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông không chủ trương gì, ông tự nhiên như chính con

người và cuộc đời của ông vậy. Đó là con người của một vùng quê hư ảo diễm tình

và một đời thơ long đong lân đận.

KẾT LUẬN

Như đã phân tích ở trên, trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại Hoàng Cầm giữ

một vị trí quan trọng và đặc biệt. Quan trọng vì thơ ông xuất hiện vào thời điểm mà

thơ ca Việt Nam đang tiếp tục những trăn trở tìm tòi sau ánh hào quang của thơ mới

; quan trọng vì tư duy nghệ tnuật của thơ ông phản ảnh được những đặc trưng

của tư duy nghệ thuật thơ ca Việt Nam hiện đại, trong đó tư duy hiện đại của ông

đặt nền tảng trên bình diện tư duy truyền thống thơ ca dân tộc. Thơ Hoàng

Cầm đặc biệt vì ông xuất hiện vào thời đại mà lịch sử dân tộc có nhiều biến động

nhạy cảm : đặc biệt vì ông dám mạo hiểm, dám chọn những lối đi riêng để bảo vệ

những giá trị đích thực của thơ ca. Tuy chỉ thành công ở những mức độ nhất

định với tính cách là những thử nghiệm táo bạo, nhưng chúng ta luôn trân trọng

những giá trị mà ông đã và sẽ đạt được. Đó là lẽ công bằng.

Tuy nhiên, vì nhữ ng lý do nào đó (kể cả những lý do ngoài văn học), thơ ông

chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Hoặc giả các nhà nghiên

cứu còn chờ đợi sự công tâm của thời gian. Chuyên luận này không có tham vọng

khám phá đầy đủ thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm mà chỉ là những trừu xuất

nhằm giúp độc giả làm quen và tiếp cận được với tư duy nghệ thuật thơ

ông. Qua đó,c húng ta định hình được các quá trình phát triển của tư duy thơ Việt

Nam hiện đại. Hơn nữa việc nghiên cứu tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm cho

phép chúng ta có một cái nhìn tổng quan hơn, đầy đủ hơn và toàn diện hơn về thơ

ca Việt Nam sau 1945. Nó là một trong nhiều cơ sở cho phép chúng ta thay

đổi "tầm nhìn", thay đổi "hệ hình nghiên cứu".

Để nghiên cứu về Hoàng Cầm, thiết nghĩ chúng ta phải đặt thơ ca của ông

vào chính con người và thời đại của ông. Xác định như vậy, chúng ta thấy nổi lên

hai đặc điểm sau:

Thứ nhất, Hoàng Cầm sinh ra và đắm mình trong mạch nguồn của quan họ

Bắc Ninh, trong hơi thở và bầu men say của một vùng quê văn hóa,đa tình và diễm

lệ (khác với Nguyễn Bính nhà thơ đô thị viết về thôn quê). Thơ ông là những hồi

vọng của tuổi thơ trên vùng quê văn hóa ấy.

Thứ hai, Hoàng Cầm bắt đầu sáng tác khi thơ lãng mạn đã làm tròn vai trò lịch

sử của mình, nhưng hào quang vẫn chưa tắt. Trước ông và cùng với ông, thơ Việt

Nam đang có những trăn trở, tìm tòi. Thơ Hoàng Cầm là những trăn trở tìm tòi trên

cái nền của thơ lãng mạn và cái nền của thơ ca dân tộc.

Vậy thì trước hết, chúng ta thấy, thơ Hoàng Cầm là tiếng nói của tình

yêu "đằm thắm và mê cuồng", là tiếng nói của một cái tôi khát khao giao cảm. Đối

tượng của thơ ông là con người và đất trời kinh Bắc. Vùng quê ấy chảy suốt trong

hồn thơ của Hoàng Cầm. Nó và hiện thực vừa mơ màng, vừa trong sáng và lảng

bảng sương khói mây, mưa. Nhưng Hoàng Cầm có một cái hồn khác "Còn một cái

bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ''để "giải tỏa những ẩn ức" (107-tr16). Quả vậy quê

hương kinh Bắc được Hoàng Cầm nhìn bằng những hoài vọng, những ẩn ức của

tuổi thơ. Chính điểm này làm cho thơ Hoàng Cầm vượt ra ngoài tư duy lãng mạn để

hướng đến cái thế giới bí ẩn của tâm hồn.

Thơ lãng mạn Việt Nam, ở cuối thời kỳ phát triển của nó đã bắt đầu hướng

đến thơ tượng trưng; "Có lẽ thơ tượng trưng Việt Nam chỉ bắt đầu với "Xuân Thu nhã tập"

''Buồm xưa" của Nguyễn Xuân Sanh và "Màu thời gian" của Đoàn Phú Tứ là nhũng bài thơ

tiêu biểu" (86 - tr87) và cả thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diêu, nhà thơ "vừa có yếu tố của

lãng mạn chủ nghĩa, vừa có yếu tố vượt ra ngoài hệ thống đó" (26 – tr181). Những nhà

thơ này ít nhiều chịu ảnh hưởng của Bandelaire, Mallarme, P.Verlaine, Edgar Poe

... Hơn nữa thời đại này, các tư tưởng mỹ học của Kant, Schopenhaner, Nietzche,

Sigmond Freud, Hegel cũng đã du nhập vào Việt Nam bằng con đường giao lưu với

văn hóa Pháp.

Thơ tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

ở Phương Tây. Nó là một trào lưu nghê thuật đối lập với chủ nghĩa hiện thực và

không chấp nhận cái lộ liễu của chủ nghĩa lãng mạn. Về tư duy tượng trưng trong

mỹ học Hegel Viết "Hình tượng tượng trưng giống nhu là một câu đố đòi hỏi chúng ta đi

tìm kiếm cái ý nghĩa nội tại đằng sau hình tượng" (Dãn theo 86 - tr65). Trong "150 thuật

ngữ văn học" Lại Nguyên Ân cho rằng chủ nghĩa tượng trưng là "Đem thuộc tính tinh

thần ở con người sáp lại với tôn giáo coi vô thức, trực giác là cái chủ yếu trong sáng tác

nghệ thuật"(4-tr108). Trần Đình Sử trong công trình “Những thế giới nghệ thuật thơ"

thì khẳng định : "Còn thơ tượng trưng là tiếng nói của thế giới, là khát vọng tìm kiếm cái bí

ẩn ở đằng sau, bao gồm bản chất thế giới, các hiện tượng của tâm linh con người của thế

giới cảm giác và vô thức" (4 - tr73). Như vậy, chủ nghĩa tượng trưng là quá trình khám

phá những bí ẩn của thế giới cảm giác, vô thức, siêu nghiệm bằng những hình

tượng có sức gợi cảm, có chiều sâu của những suy tưởng.

Quan niệm trên liệu có gần với tư duy nghệ thuật thơ Hoàng Cầm hay không,

thơ ông có tiếp cận được với những giá trị của thơ tượng trưng hay không thực sự

là một đề tài nghiên cứu.

Trong "Lời vĩ thanh" cho tập thơ "Về Kinh Bắc", về quá trình sáng tạo của mình,

Hoàng Cầm viết “Tôi chìm vào một vùng quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh mà gần

gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và lảng bảng không gian, xanh mơ mong manh màu

kỉ niệm, pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc đắm say mê, não

nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời

gian k h ô ng suy suyển đến một sợi mi cong" (107 - tr261). Trong c ái tâm trạng đầy ảo

ảnh đó thơ đến với ông như đến từ vô thức "Chợt bên tai vang lên một giọng nữ rất nhỏ

nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rải, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vằng đến, có lẻ từ

tiền kiếp vọng về" (107-tr196). Tất nhiên đây không phải là yếu tố quyết định rằng thơ

Hoàng Cầm là thơ tượng trưng, nhưng nó cũng phần nào cho thấy trực cảm nghệ

thuật của ông.

Trong bài viết "Mấy ý nghĩ nhỏ về thơ Hoàng Cầm" Nguyễn Đăng Mạnh, người

phát hiện ra cái "ảo ảnh chập chờn" trong thơ Hoàng Cầm nhận xét : “Trong tình hình

thơ hiện nay hình như không riêng gì Hoàng Cầm nhiều cây bút khác cũng muốn đi theo

hướng thơ ''Phi lý" hay gọi là "siêu thơ nói trên" (72 - tr326) còn Phạm Thị Hoài thì cho

rằng thơ Hoàng Cầm "đẹp và xa cách" t h ơ ông "là một người khách xa" (50- tr250) Đỗ

Đức Hiển cũng tán thành với ý kiến trên khi cho rằng : "Thơ Hoàng Cầm â m u,

lóe sáng, rồi mịt mù, xa tắt như những huyền thoại thuở hoang sơ” (107 — tr283)

Hoàng Ngọc Hiến trong phần kết luận của bài nghiên cứu "Baudelaire, chủ nghĩa

tượng trưng và thơ mới” viết: "Những nhà thơ trẻ bấy lâu nay làm quen gián tiếp với ngôn

ngữ tượng trưng như qua ca từ của Trịnh Công Sơn chẳng hạn, giờ đã có sách để đọc đó

là những tuyển tập tương đối đầy đủ thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên

và Hoàng Cầm ... xuất bản những năm gần đây" (dẫn theo 25 – tr181).

Từ những đánh giá, nhận xét có tính định hướng như vậy, chúng ta có thể

kiểm nghiệm trên văn bản thơ của Hoàng Cầm.

Trước hết là chất thơ của Hoàng Cầm, bên cạnh các chất say triền miên là

cái mờ mịt, chập chờn của những ảo ảnh. Không gian, thời gian trong thơ ông trước

hết là cái không gian thời gian của thơ lãng mạn. Nhưng không gian thời gian

ấy được cảm nhận trong cái mơ hồ giữa thực tại và ảo ảnh. Cái chập chờn giữa

hiện tại và quá khứ. Không gian thời gian trong thơ Hoàng Cầm không phải là cái

trở về của con người mà là sự trở về của ký ức, cả tập thơ "Về Kinh Bắc" là sự trở về

với những ký ức, cả những ký ức được huyền thoại hóa.

Tình yêu trong thơ Hoàng Cầm cũng mang cái hồn say đắm mê cuống của

lãng mạn. Những tinh yêu trong thơ ông còn là những trải nghiệm của cuộc đời; Nó

là những ẩn ức ít nhiều mang mặc cảm tính dục; Cái tình yêu của tuổi thơ trong thơ

ông gần như được dồn nén. Nó thoát ra trong đau đớn vật vã một cách mơ hồ. Tuy

nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thơ ông không hề hướng đến những khoái

cảm nhục dục tầm thường. Nó được thăng hoa trong cái hình ảnh "nâng bầu vú

Về tư duy nghệ thuật, thơ Hoàng Cầm chủ yếu sử dụng các phương tiện

mẹ" hoặc "Sồi non yếm thắm" hoặc "nghe trong chăn gối lạ kỳ".

nghệ thuật truyền thống của thơ lãng mạn Việt Nam. Nhưng có lẽ phương tiện mà

Hoàng Cầm sử dụng nhiều nhất là nhạc điệu. Nhạc điệu như tuôn trào vô tận trong

thơ ông từ cách chọn thể loại, hiệp vần, điệp từ, điệp ngữ, điệp âm, điệp thanh đến

những dòng thơ những khoảng trắng. Thế giới thơ ông trở thành một thế giới của

nhạc điệu. Đó là cái nhạc điệu của thiên nhiên mà ông nắm bắt được trong mơ hồ.

Đó là cái nhạc điệu trong sâu thẳm hồn ông cộng hưởng với nhạc điệu của thiên

nhiên.

Điểm qua một vài bài thơ chúng ta sẽ có điều kiện nhận diện rõ hơn xu hướng

tượng trưng trong thơ Hoàng Cầm.

Bài thơ "Đêm mộc" là một sự trở về nhưng nó lại là cái trở về của ký ức, của

giấc mơ.

"Ngủ lại giấc mơ dang dở

Chủm cau căng nứt mạch tằm"

Kỷ ức, hiện tại, quá khứ, những liên tưởng đứt đoạn làm cho bài thơ như là

một tượng trưng cho những hoài vọng của tuổi thơ.

Bài thơ "Lá Diêu Bông" như một câu chuyện được kể. Nhưng "Lá Diêu Bông''là

giấc mơ, là ảo ảnh về hạnh phúc mà cuộc đời con người chính là cuộc hành hương

đi tìm ảo ảnh. Ảo ảnh hạnh phúc cứ mãi vời xa vì lá Điêu Bông là chiếc lá của huyền

thoại về tình yêu. Bài thơ ngân vang như chập vào miền vô thức.

Đoạn thơ sau đây của ông gợi lên một ký ức xa xăm

"Thôn cũ

Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng

Cung quăng đo thân cau

vại nước lưng chừng

Đuôi nắn g quệt ngang cành ớ t " (Lính thú)

Bài thơ “Ta đứng đây là đâu" có "anh" có "em" nhưng con người ở đây cứ chờn

vờn trong hoài nghi với chính mình. Đó là con người lạc lõng, con người hoài nghi

trong một tâm trạng phảng phất những nỗi niềm xa xưa.

Như vậy có thể kết luận thơ Hoàng Cầm đã đi từ tư duy lãng mạn đến tư duy

tượng trưng. Và những yếu tố của tư duy tượng trưng trong thơ ông không thoát rời

những đặc trưng của thi ca dân tộc.

Nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm cho phép chúng ta thấy

được những đóng góp của ông trong quá trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Mặt

khác nghiên cứu thơ ông giúp chúng ta xác lập một kiểu tư duy của thơ Việt Nam

hiện đại. Nó giúp chúng ta như đã nói ở trên có một cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ

hơn về thơ ca Việt Nam sau 1945.