ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÝ THỊ THU PHƢƠNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÝ THỊ THU PHƢƠNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TÔN THẢO MIÊN THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư - Tiến sĩ Tôn Thảo Miên (Viện Văn học), người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập,

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi chân thành cảm ơn nhà văn Cao Duy Sơn đã cung cấp những tư

liệu quý giá liên quan đến đề tài luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, chân thành cảm

ơn đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã tạo điều kiện, động viên tôi trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 Lý Thị Thu Phương

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 8

Chƣơng I: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 8

1. Khái niệm thế giới nhân vật, nhân vật văn học 8

2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 9

2.1. Những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, có số phận bất hạnh 9

2.2. Những nhân vật lí tƣởng 13

2.2.1. Khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống 13

2.2.2. Những con ngƣời nhân hậu, chung thủy, nghĩa tình 17

2.2.3. Những con ngƣời dũng cảm, cao thƣợng, giàu lòng vị tha 20

2.3. Nhân vật tha hóa 23

3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật 26

3.1. Miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật 26

3.1.1. Miêu tả ngoại hình, hành động để khắc họa chân dung 27

3.1.2. Miêu tả ngoại hình, hành động để nhận dạng tâm tính,

đoán định tính cách 31

3.2. Miêu tả nội tâm 36

3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột

để nhân vật tự bộc lộ 37

3.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều, nhiều cung bậc

và luôn biến chuyển 41

3.2.2.1. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều 41

3.2.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều cung bậc và luôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biến chuyển 44

Chƣơng II: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật 50

trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 51

1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 51

1.2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 51

1.2.1. Không gian địa lí 52

1.2.1.1.Không gian địa lý nhƣ một khách thể thẩm mĩ 52

1.2.1.2. Không gian địa lý là phông nền cho sự vận động

tâm lý và tính cách, là dấu hiệu phản ánh tâm tƣ,

tình cảm của nhân vật 55

1.2.2. Không gian đời tƣ 59

2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 64

2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật 64

2.2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn 65

2.2.1. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại 65

2.2.2. Thời gian tâm lí 70

2.2.3. Thời gian phong tục, lễ hội 74

Chƣơng III: Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn 79

1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh với thủ pháp so sánh - nét đặc trƣng

của truyện ngắn Cao Duy Sơn 79

2. Ngôn ngữ đậm sắc thái dân tộc 89

2.1. Vận dụng lối nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi 89

2.2. Sắc thái dân tộc thể hiện ở việc đƣa tiếng địa phƣơng,

tiếng dân tộc vào tác phẩm 97

KẾT LUẬN 101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng đƣợc sáng tạo theo các nguyên

tắc tƣ tƣởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con

ngƣời, mặc dù nó phản ánh những thế giới ấy. “Thế giới nghệ thuật là khái

niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật.”[32]. Thế giới nghệ thuật có

không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội

riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... chỉ xuất hiện một cách có

ƣớc lệ trong sáng tác nghệ thuật.

Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn là cơ sở để hiểu

hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm và cách cắt nghĩa của nhà

văn về thế giới. Thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tƣ duy

nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế giới quan, văn hóa

chung và cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật

chính là khám phá thế giới bên trong ẩn kín - cái thế giới chi phối sự hình

thành phong cách nghệ thuật - của nhà văn.

1.2. Trong đời sống văn học Việt Nam đƣơng đại, Cao Duy Sơn đƣợc đánh

giá là một trong những cây bút có khả năng khai thác độc đáo về đề tài miền

núi. Nhà văn Cao Duy Sơn sinh năm 1956 tại Cao Bằng, ngƣời dân tộc Tày,

là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hiện công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật

các dân tộc thiểu số Việt Nam. Những trang viết đậm đà bản sắc văn hóa

vùng cao của ông đã để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn đọc và khẳng định

đƣợc vị trí trong mảng văn xuôi viết về miền núi. Năm 1993, tiểu thuyết

Người lang thang của Cao Duy Sơn đƣợc Hội đồng văn học dân tộc miền núi

Hội nhà văn Việt Nam trao giải A, đồng thời đoạt giải Nhì - Hội nghị Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhật. Năm 1999, tập truyện ngắn Những chuyện ở lũng Cô Sầu đƣợc tặng

1

thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tiểu thuyết Đàn trời đƣợc Hội Văn học

Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trao giải A năm 2007. Ngôi nhà

xưa bên suối là tập truyện đã đoạt giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam năm

2008 và Giải thƣởng văn học ASEAN năm 2009.

Sáng tác của Cao Duy Sơn là những “mảng sống đậm đặc, tươi ròng”

(Hữu Thỉnh) về miền núi. Đặc biệt, hiện thực cuộc sống và con ngƣời miền

núi hiện ra trong truyện ngắn của ông đa diện, nhiều chiều. Những trang văn

mở ra một thế giới nghệ thuật mới lạ, đầy hấp dẫn, mang đến cho ngƣời đọc

sự hiểu biết về đất và ngƣời vùng cao, vun đắp niềm tin yêu tha thiết với

những miền xa xôi của tổ quốc. Tác phẩm của Cao Duy Sơn đã đƣợc in ấn,

xuất bản và giới thiệu nhiều trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tuy

nhiên, đến thời điểm này, ngoài một số bài báo hoặc những ý kiến bàn luận,

đánh giá nhỏ lẻ, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên biệt về Cao Duy Sơn

và tác phẩm của ông. Vì vậy, việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện

ngắn của nhà văn Cao Duy Sơn là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn

và ý nghĩa khoa học.

1.3. Trên cơ sở nhìn nhận mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ

thuật trong việc phản ánh thế giới, luận văn tiếp cận các truyện ngắn của Cao

Duy Sơn nhằm giải mã những tín hiệu nghệ thuật, tìm hiểu quan niệm và cách

cắt nghĩa của nhà văn về thế giới. Trong giới hạn luận văn thạc sĩ khoa học,

ngƣời viết mong muốn đƣợc góp phần nhỏ bé vào lĩnh vực nghiên cứu, từ đó

khẳng định vị trí của một nhà văn dân tộc Tày trong văn xuôi Việt Nam

đƣơng đại.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Nó là kiểu

tồn tại đặc thù vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của ngƣời thƣởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thức, vừa là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong chỉnh thể thẩm mĩ

2

của tác phẩm. "Chỉnh thể tác phẩm được nhận thức qua khái niệm thế giới

nghệ thuật" [44]. Thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực, cá tính sáng tạo của

nhà văn, chất liệu nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật không chỉ tƣơng đƣơng mà

còn rộng hơn tác phẩm nghệ thuật. Nó có thể bao quát tất cả các tác phẩm của

một nhà văn, một trào lƣu nghệ thuật, một thời kì văn học. Khái niệm thế giới

nghệ thuật đƣợc nhìn nhận nhƣ một phạm trù mĩ học bao gồm tất cả các yếu

tố của quá trình sáng tạo nghệ thuật và tất cả kết quả của hoạt động sáng tạo

nghệ thuật.

2.2. Trong nền văn học đƣơng đại, nhà văn Cao Duy Sơn đã có những đóng

góp to lớn cho văn xuôi viết về miền núi, khẳng định đƣợc tài năng và phong

cách của mình khi khai thác đề tài này. Sự bàn luận, đánh giá về sáng tác của

Cao Duy Sơn, đến thời điểm này, ngoài một số bài báo hoặc những ý kiến nhỏ

lẻ dừng ở những nét khái quát nhất trong những công trình nghiên cứu về văn

học các dân tộc thiểu số, có rất ít công trình nghiên cứu quy mô hoặc một

cuốn sách chuyên khảo riêng biệt.

Hầu hết những bài viết về nhà văn Cao Duy Sơn đăng tải trên báo chí là

những bài phỏng vấn về sự ra đời của tác phẩm, về những cảm nghĩ của nhà

văn khi sáng tác và khi đƣợc nhận giải thƣởng. Bài viết "Cả đời tôi chỉ đeo

đuổi đề tài về người miền núi" của Chu Thu Hằng ghi lại cuộc phỏng vấn nhà

văn Cao Duy Sơn về lợi thế của nhà văn và cái khó khi viết về đề tài miền núi

[12]. "Với tác giả Ngôi nhà xưa bên suối", tác giả Mai Thi tìm hiểu lí do Cao

Duy Sơn chọn tên truyện Ngôi nhà xưa bên suối đặt tên cho tập truyện và

đƣợc nhà văn giải thích: "Ngôi nhà xưa bên suối chọn vì nói thay cho cả tập

truyện về sự tiếc nuối một cái gì tốt đẹp đã qua mất rồi."[47]. Tác giả Hứa

Hiếu Lễ thể hiện niềm tự hào của ngƣời Cô Xàu về Cao Duy Sơn khi nghe tin

tập truyện Ngôi nhà xưa bên suối của nhà văn giành giải thƣởng của Hội nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn Việt Nam năm 2008 [20]. Trong bài "Viết văn phải có sự ám ảnh"[40] và

3

"Viết văn là một cuộc viễn du về cội nguồn"[50], các tác giả đã ghi lại cảm

xúc của Cao Duy Sơn khi nhận giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam và suy

nghĩ của nhà văn về đề tài sáng tác: "Cái để tạo nên trong tôi cảm xúc là

quãng đời ấu thơ, nơi mình sinh ra và lớn lên.(...) Viết văn nhất định phải có

sự ám ảnh..." [40]; "... với tôi viết văn giống như một cuộc viễn du về cội

nguồn, cuộc viễn du về xứ sở mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành"[50].

Có một số ít bài đi vào nội dung tác phẩm nhƣ: Cõi nhân gian như cổ tích

(Nguyễn Chí Hoan), Ban mai có một giọt sương (Đỗ Đức). Viết về tiểu thuyết

Đàn trời, tác giả Nguyễn Chí Hoan nhận xét: "Chủ đề hai hàng của cuốn tiểu

thuyết được khai triển song song trên hai tuyến thời gian quá khứ và hiện tại

(...). Bằng cách ấy, tiểu thuyết này kể cho chúng ta một câu chuyện cổ tích

qua một phiên bản hiện đại..." [16]. Còn tác giả Đỗ Đức đã thể hiện những

cảm nhận ban đầu của mình về tập truyện Ngôi nhà xưa bên suối của Cao

Duy Sơn, suy nghĩ về nhân vật và chủ đề của các tác phẩm: Ngôi nhà xưa bên

suối, Chợ tình, Song sinh, Hoa bay cuối trời [7].

Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, nhà phê bình Lâm

Tiến nhận xét về Cao Duy Sơn: “Ông miêu tả nhân vật dưới góc độ đời tư, có

số phận riêng và một sự tự ý thức. Điều đó càng được thể hiện rõ trong những

truyện ngắn sau này của ông. (...) Truyện của Cao Duy Sơn còn hấp dẫn

người đọc ở cách viết giàu cảm xúc, giàu hình tượng với cách cảm nhận sự

vật, hiện tượng tinh tế, chính xác, sắc sảo với những tình huống căng thẳng

gay gắt, bất ngờ.” [53, tr.151]

Luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Đặng Thùy An (Trƣờng Đại học Sƣ phạm

Hà Nội - 2007) với đề tài “Thi pháp nhân vật tiểu thuyết trong tiểu thuyết

Người lang thang và Đàn trời của Cao Duy Sơn” là công trình nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyên biệt đầu tiên về tác phẩm của Cao Duy Sơn. Tuy nhiên luận văn này

4

chỉ nghiên cứu hai tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết theo hƣớng tiếp cận thi

pháp nhân vật.

Luận văn thạc sĩ Ngữ văn của Đinh Thị Minh Hảo (Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Thái Nguyên - 2009) với đề tài “Truyện ngắn Cao Duy Sơn” là công

trình nghiên cứu chuyên biệt đầu tiên về truyện ngắn Cao Duy Sơn. Tác giả

đã đi sâu tìm hiểu ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn (Những chuyện ở lũng

Cô Sầu; Những đám mây hình người; Ngôi nhà xưa bên suối), từ đó khái quát

những nét tƣơng đồng và khác biệt của Cao Duy Sơn với các tác giả văn xuôi

miền núi đƣơng đại. Tác giả viết: “Là một nhà văn xuất hiện trong thời sau

đổi mới, Cao Duy Sơn vừa hòa nhập vừa vượt trội lên trên mặt bằng chung

của văn xuôi miền núi đương đại.” [11, tr.24]

Nghiên cứu hiện thực và con ngƣời miền núi trong truyện ngắn Cao Duy

Sơn, tác giả Đinh Thị Minh Hảo khẳng định đó là “bức tranh xã hội miền núi

với những xung đột “ngầm” và in đậm bản sắc văn hóa Tày” và nhận xét về

hình tƣợng con ngƣời miền núi: “Họ đã vượt lên trên những bi kịch của số

phận tỏa sáng lòng nhân hậu, dũng cảm trong đói nghèo và bất hạnh.” [11,

tr.40]. Khi tìm hiểu một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn, tác giả luận văn tập trung vào cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân

vật và đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn.

Nhƣ vậy, đến thời điểm hiện tại, vẫn chƣa có một công trình chuyên biệt

nào nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Việc

tìm hiểu nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn vì thế

đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu tất yếu.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn:

5

- Tập truyện ngắn Những chuyện ở lũng Cô Sầu - Tặng thƣởng của Hội

nhà văn Việt Nam năm 1999.

- Tập truyện ngắn Những đám mây hình người - Giải B của Hội Văn học

Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2003.

- Tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối - Giải thƣởng Hội nhà văn Việt

Nam năm 2008; Giải thƣởng Văn học ASEAN năm 2009.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả những vấn đề thi pháp mà chỉ tập

trung vào một số phƣơng diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật của truyện

ngắn Cao Duy Sơn. Đó là: thế giới nhân vật, không gian nghệ thuật và thời

gian nghệ thuật, ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn.

4. Mục đích nghiên cứu

Mục đích khoa học của luận văn là góp phần làm rõ hơn những nét riêng

của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tìm hiểu quan niệm

nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và thế giới. Từ đó khẳng định thành

công và chỉ ra một số hạn chế của Cao Duy Sơn khi viết về đề tài miền núi,

góp phần đánh giá vị trí của nhà văn trong nền văn học đƣơng đại Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp

nghiên cứu cơ bản sau:

- Phƣơng pháp thống kê, khảo sát.

- Phƣơng pháp phân tích.

- Phƣơng pháp hệ thống, tổng hợp.

- Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh.

6. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống một số phƣơng

diện cơ bản của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Từ đó

chúng tôi mong muốn góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cao Duy Sơn trong nghệ thuật tự sự khi khai thác đề tài miền núi.

6

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, nội dung luận văn

triển khai thành ba chƣơng:

Chƣơng 1: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.

Chƣơng 2: Không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn

Cao Duy Sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chƣơng 3: Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn.

7

NỘI DUNG

CHƢƠNG I

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

1. Khái niệm thế giới nhân vật, nhân vật văn học

Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, là một thực thể hoàn

chỉnh, thống nhất của các yếu tố nội dung và hình thức, vừa có khả năng phản

ánh hiện thực cuộc sống vừa biểu hiện thế giới tâm hồn, tƣ tƣởng, tình cảm

của ngƣời viết, nó đƣợc sáng tạo theo quy luật thẩm mĩ và có ý nghĩa xã hội.

Theo Bêlinxki: "Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi

vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí của

nó". Thế giới nghệ thuật không chỉ tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật mà còn

tồn tại trong trí tƣởng tƣợng, sự hình dung của độc giả. Nó thống nhất nhƣng

không đồng nhất với thế giới thực tại.

Thế giới nhân vật là hạt nhân của thế giới nghệ thuật, cũng là phƣơng tiện

quan trọng nhất để thể hiện tƣ tƣởng trong các tác phẩm kịch và tự sự. Nó

quyết định các yếu tố khác nhƣ cốt truyện, sự lựa chọn chi tiết, phƣơng tiện

ngôn ngữ và cả kết cấu của truyện. Vì thế khám phá thế giới nhân vật là

chặng đƣờng đầu tiên không thể thiếu của hành trình tìm hiểu thế giới nghệ

thuật trong sáng tác của một nhà văn.

Nhân vật văn học là “thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người,

một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ

thuật ngôn từ.” [34, tr.1254]. “ Nhân vật văn học là con người cụ thể được

miêu tả trong tác phẩm văn học ” [33, tr.202]. Qua nhân vật văn học, nhà văn

thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tƣởng thẩm mĩ của mình về con ngƣời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực

8

hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện tương

ứng.” [45, tr.365].

Nhân vật văn học đƣợc miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn, qua

ngôn từ và chi tiết. Các phƣơng diện loại hình của nhân vật văn học rất đa

dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm có nhân vật chính, nhân vật phụ,

nhân vật trung tâm. Xét về phƣơng diện hệ tƣ tƣởng, về quan hệ đối với lý

tƣởng xã hội của nhà văn, có thể nói tới nhân vật chính diện, nhân vật phản

diện, nhân vật lý tƣởng, nhân vật tƣ tƣởng... Vì vậy khi phân định loại hình

nhân vật phải rất linh hoạt dựa trên cơ sở khả năng phản ánh hiện thực của

chúng và ý đồ tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn.

2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

Mỗi nhà văn, trong quá trình sáng tạo đều hƣớng tới xây dựng những kiểu

loại nhân vật nhất định. “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy và giải quyết hết

thảy trong một sáng tác.” [15, tr.62]. Trong tác phẩm văn học, nhân vật luôn

đƣợc miêu tả nhƣ một loại hình tính cách, một mô hình cá nhân. Mô hình cá

nhân đƣợc miêu tả nhƣ một chỉnh thể còn đƣợc gọi là vai văn học. Ngoài đảm

nhiệm vai văn học trong tác phẩm, nhân vật còn là sự thể hiện những vai xã

hội nhất định, có tính chất tiêu biểu trong đời sống. Trên sơ sở vai văn học,

các kiểu loại nhân vật đƣợc định hình trong mối tƣơng quan với thân phận

đích thực của họ trong đời thực và với quan niệm thẩm mĩ của nhà văn. Thế

giới nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn Cao Duy Sơn mang những đặc

điểm có sức khái quát và giá trị nghệ thuật sâu sắc.

2.1. Những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, có số phận bất hạnh

Trong thế giới nhân vật phong phú của truyện ngắn Cao Duy Sơn, nhân vật

trung tâm chủ yếu là những ngƣời lao động ở miền núi, những con ngƣời nhỏ

bé, bình dị. Ta có thể gặp những con ngƣời nhƣ thế ở bất cứ nơi đâu trong đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống hàng ngày. Đó là lão Khơ chuyên đóng xe ngựa (Hoa bay cuối trời); lão

9

Sấm ăn mày (Người ở muôn nơi); bà Ban quét chợ, lão Khuề ngày kiếm củi

bán, đêm bắt tắc kè (Âm vang vong hồn); Kí - nhân viên bán thịt (Những đám

mây hình người); Thùng - lái xe ở lâm trƣờng (Mùa én gọi bầy)... Từng cá

thể, từng mảnh đời thầm lặng góp phần tạo nên thế giới nhân vật phong phú

trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Lựa chọn những con ngƣời nhỏ bé, bình

dị làm nhân vật trung tâm trong sáng tác của mình, nhà văn không tập trung

tái hiện những vất vả bởi mƣu sinh mà đi sâu khám phá tâm lí, khẳng định vẻ

đẹp tâm hồn của họ trong nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh. Điều đó chứng tỏ

nhà văn Cao Duy Sơn không chỉ am hiểu sâu sắc về cuộc sống và con ngƣời ở

miền núi mà còn có trái tim yêu thƣơng, giàu cảm thông với những đau khổ

của con ngƣời. Quan trọng hơn, qua thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn, độc giả nhận ra quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và

hiện thực.

Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn

đồng tâm mà tâm điểm là con người.” [4]. Các nhà văn gửi gắm trong sáng

tác của mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thƣơng con ngƣời. “Tình

yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan, say mê, vừa là một nỗi

đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc

của những người chung quanh mình.” [4]. Có tình yêu lớn ấy, nhà văn mới có

thể cảm thông sâu sắc với những con ngƣời bất hạnh.

Khi khắc họa những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, Cao Duy Sơn tập trung tái

hiện những bất hạnh, éo le trong cuộc đời của họ. Chính vì vậy, hình ảnh

những con ngƣời nhỏ bé, vô danh, ít đƣợc để ý trong xã hội trở nên sáng rõ và

ám ảnh ngƣời đọc, khơi gợi bao suy nghĩ về cuộc sống và con ngƣời. Nhà văn

quan tâm đến đời tƣ con ngƣời với những mất mát, éo le, bất hạnh do nhiều

nguyên nhân khác nhau. Những mối tình lỡ dở, gia đình đổ vỡ, con ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chia li, tan hợp với những món nợ tình nghĩa suốt đời là hình tƣợng xuyên

10

suốt trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Nhân vật trong truyện ngắn của Cao

Duy Sơn không khốn khó vì nghèo, vì tiền mà bất hạnh của cuộc đời họ là

những đớn đau nhức nhối trong tâm tƣởng. Con ngƣời mang khát vọng

thƣờng bị dập vùi trong xa xót, dở dang.

Cuộc đời dằng dặc buồn đau của ông Thim đƣợc nhà văn tái hiện trong tác

phẩm Người săn gấu. Mƣời hai tuổi, chú bé Thim phải chứng kiến cảnh tƣợng

đau đớn, khủng khiếp suốt đời không bao giờ quên: “Ngƣời cha đã đẩy lùi

con thú bằng sức mạnh kì diệu nhƣng ông đã không thoát ra đƣợc trong

những chiếc vuốt cong nhọn hoắt của nó, ngƣời và gấu đã cùng lao xuống đáy

vực hun hút”. Năm tháng qua đi, tuổi xuân của Thim đã gửi gắm ở khắp các

chiến trƣờng. Rời quân ngũ, hơn ba mƣơi năm làm chân đƣa thƣ lƣu động,

hầu nhƣ đã đến khắp vùng hẻo lánh trong tỉnh, chƣa bao giờ trong ông nguôi

vơi nỗi nhớ vùng quê xa, “nơi Thim đã có một thời trẻ trung chát đắng” với

“mối tình nhƣ nụ hoa đầu tiên mới nhú...”. Thim đóng chặt cánh cửa lòng

mình và chỉ để ngỏ một lối duy nhất cho tình yêu ban đầu ấy vĩnh viễn tồn tại.

Nỗi bất hạnh của Hoán (Thằng Hoán) bắt đầu từ một tai nạn khủng khiếp

khi nó lên mƣời tuổi. Mƣời tám tuổi nhìn vẫn nhƣ đứa trẻ lên mƣời. “Thân

hình không cao quá một mét tƣ. Cái đầu to quá khổ nhƣ bị cái u trên lƣng đè

nặng, luôn trĩu về phía trƣớc. Hai bàn chân to bè những ngón tòe ra...”. Gần

bốn mƣơi tuổi Hoán mới có vợ nhƣng ngƣời vợ ấy đã phản bội chồng. Vợ bỏ

nhà theo nhân tình, Hoán một mình chăm lo cho con trai mới lên bốn tuổi.

“Đêm đêm ôm con ngủ, nhìn ngấn nƣớc mắt vẫn đọng trên đôi má ngây thơ

của nó, trong lòng Hoán cồn lên một nỗi thƣơng xót tê tái”.

Hai cha con lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng) sống ở ngôi nhà sàn nằm

lẻ loi dƣới chân núi. Từ ngày ngƣời vợ hiền lành chết thảm vì gặp hổ trên

đƣờng đi đón chồng, Lão Vƣợc đi săn thú không chỉ để mƣu sinh mà còn để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

báo thù. Lão muốn quên mà không sao quên nổi “cái quá khứ nghiệt ngã và

11

tàn nhẫn”. Nỗi đớn đau của lão Vƣợc dồn tụ, chất chồng bao “năm tháng nhọc

nhằn săn đuổi, và những ngày âm thầm nuôi con trong nỗi cô đơn triền miên.”

Câu chuyện về Ò Lình ở bản Luông (Nơi đây không một bóng người)

khiến ngƣời đọc ngỡ ngàng trong đau xót. Dân bản gọi chú bé bị câm từ lúc

mới lọt lòng là Ò Lình (thằng Khỉ) “vì nó giống y nhƣ một con khỉ” với thân

thể phủ một lớp lông màu vàng. Vừa mới ra đời, Ò Lình đã phải cùng mẹ trốn

chạy sự tàn nhẫn của ngƣời cha chối bỏ con mình. Hai mẹ con ở trong rừng

sâu, “một cuộc sống ở nơi không một bóng ngƣời”. Suốt mƣời bốn năm trời,

chỉ có bà đỡ đi lại tiếp tế, chăm sóc hai mẹ con với tấm lòng một ngƣời mẹ

nhân hậu. Nhƣng rồi bà đỡ bị dân quân bắn chết vì họ tƣởng là quái vật từ

rừng hủi đến hại dân làng. Còn Ò Lình, sau khi xông vào đám cháy cứu bọn

trẻ và bị con ngƣời xua đuổi, chú bé chạy về rừng với mẹ. Tiếng gọi mẹ lần

đầu tiên cất lên cũng là tiếng nói cuối cùng của Ò Lình. “...nó đã mang theo

cái tiếng nói đầu tiên ấy, cái tiếng nói của một con ngƣời thực sự theo vào

giấc ngủ vĩnh viễn”.

Đến với tác phẩm Hoa bay cuối trời, ngƣời đọc không khỏi xúc động trƣớc

mối tình của Dình và Khơ, cảm thƣơng ngƣời con gái xinh đẹp vùng Pác Gà.

Dình đã có ngƣời con trai ngỏ lời, “nhƣ con chim đã có đôi, con suối có bóng

núi làm bạn”. Khơ hẹn sẽ đón Dình về làm vợ trên chiếc xe ngựa do chính tay

anh đóng, “đƣợc một con ngựa hồng bờm tết hoa rực rỡ kéo đi qua những

cánh rừng”. Nhƣng sau một trận sốt li bì suốt năm ngày, đôi chân Dình không

thể cử động đƣợc nữa. Không muốn ngƣời yêu phải khổ, Dình đã nhờ anh trai

nói dối để Khơ tin rằng cô là kẻ bội tình. Chiếc xe ngựa do chính tay Khơ

đóng, mấy mƣơi năm sau mới lăn bánh đƣa Dình “đi về nơi cuối trời”.

Đọc những trang văn tái hiện những trang đời bất hạnh đầy trắc trở, có

cảm giác Cao Duy Sơn đang nói hộ ƣớc mơ, giãi bày éo le uẩn khúc và niềm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mong mỏi của những con ngƣời nhỏ bé, bình dị ở vùng cao. Dƣới ngòi bút

12

của nhà văn, bức tranh hiện thực xã hội miền núi hiện lên với những xung đột

âm thầm vừa có tính thời sự của cuộc sống đƣơng đại, vừa là những xung đột

muôn thuở của số phận con ngƣời. Đó là xung đột giữa con ngƣời với thiên

nhiên; giữa khát vọng tình yêu, hạnh phúc với những rào cản của lễ giáo, hủ

tục; giữa ƣớc mơ và thực tại phũ phàng. Nhà văn không quan sát, mô tả bề

ngoài mà nắm bắt và tái hiện đƣợc sự vận động bên trong của đời sống ở vùng

rừng núi xa xôi phía Bắc. Mỗi cuộc đời, mỗi số phận là một mảnh nhỏ của

hiện thực, không mở ra những chiều kích khoáng đạt mà dẫn dắt ngƣời đọc

nƣơng theo những niềm đau, lắng sâu bao xót xa, vật vã trong bi kịch. Với

những thăng trầm ở mọi thân phận, các nhân vật của Cao Duy Sơn thiên về

loại nhân vật số phận hơn là nhân vật tính cách, tuy nhà văn vẫn có ý thức tạo

cho mỗi nhân vật một nét cá tính và ngôn ngữ riêng.

2.2. Những nhân vật lí tƣởng

Truyện ngắn của Cao Duy Sơn có nhiều nhân vật đƣợc xây dựng theo

nguyên tắc lí tƣởng hóa về nhân cách. Với những nhân vật này, nhà văn quan

tâm đến vẻ đẹp tâm hồn hơn vẻ đẹp hình thức và quan niệm đó là yếu tố quan

trọng làm nên tính lí tƣởng. Thế giới truyện của Cao Duy Sơn buồn nhƣng

không quá bi lụy, ám ảnh nhƣng không quá nặng nề. Chính vẻ đẹp tâm hồn

con ngƣời đã làm vợi bớt mọi nỗi đau, cái nhìn bớt u ám. Đặc điểm này góp

phần mang lại giá trị nhân văn sâu sắc cho những sáng tác của Cao Duy Sơn.

Trong nghịch cảnh, những con ngƣời nhỏ bé, bình dị miền sơn cƣớc vẫn tràn

đầy khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống, vẫn nhân hậu, chung thủy,

nghĩa tình và dũng cảm, cao thƣợng, vị tha.

2.2.1. Khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống

“Tình yêu là hành vi cao cả nhất của tâm hồn và là kiệt tác của con người”

(Gac xông). Ở bất cứ nơi đâu, dù ở thời đại nào, con ngƣời đều khao khát yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thƣơng. Trong các tác phẩm của mình, Cao Duy Sơn không chỉ khắc họa

13

những con ngƣời vùng cao chân chất, mộc mạc mà còn muốn nói điều gì đó

về những điều thầm kín sâu thẳm trong tâm hồn họ, về những ƣớc muốn,

khao khát yêu thƣơng. Không phải là thứ lí tƣởng cao xa mà là những khát

vọng đời thƣờng: ƣớc vọng một tình yêu toàn vẹn, hạnh phúc lứa đôi, một

cuộc sống tốt đẹp, yên bình. Phải chăng nhà văn để nhân vật nói ra những lầm

lỡ, giãi bày những ƣớc nguyện không thành để dịu vợi, nguôi ngoai cay đắng,

và để thắp lên niềm tin vào cuộc sống trong mỗi trái tim đau ?

L. Tônxtôi cho rằng: “Suy cho cùng, bi kịch lớn nhất của con người là tình

yêu”. Tình yêu mang hạnh phúc đến cho con ngƣời, tình yêu thanh lọc tâm

hồn, khiến ngƣời bình thƣờng bỗng trở nên cao cả, kẻ ích kỉ trở thành cao

thƣợng, vị tha. Nhƣng tình yêu cũng có thể mang đến cho con ngƣời nỗi khổ

đau, day dứt suốt đời. Dù vậy, con ngƣời vẫn không nguôi khát vọng, và niềm

tin vào cuộc sống chƣa bao giờ lụi tắt trong những trái tim ngƣời.

Truyện ngắn Cao Duy Sơn có những số phận bi kịch mà nỗi đau thƣơng,

xót xa, nuối tiếc đeo đẳng cả một đời ngƣời, có nhiều chuyện tình éo le, trắc

trở. Có những chàng trai cô gái yêu nhau tha thiết, thề nguyền gắn bó trọn đời

nhƣng lại phải chia xa (Chợ tình, Hoa bay cuối trời, Súc Hỷ...). Có tình yêu

chớm nở nhƣng không thể kết trái bởi sự ngáng trở của tƣ tƣởng xã hội, của

định kiến (Người săn gấu, Tượng trắng...). Và có những đôi lứa đã nên nghĩa

vợ chồng vẫn còn gặp trái ngang (Mùa én gọi bầy).

Đến với chuyện tình của Thim và Phón (Người săn gấu), ngƣời đọc cảm

thƣơng cho mối tình của ngƣời con gái “con nhà quyền thế nhất vùng” với

chàng trai mồ côi nghèo khổ có tài săn gấu. Tình yêu ấy đã vấp phải rào cản

của tƣ tƣởng phân chia đẳng cấp trong xã hội phong kiến miền núi thời kì

trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945. Anh trai của Phón ra lệnh đánh đập

Thim hết sức dã man, xát muối vào vết thƣơng rồi bỏ lại trong rừng cho thú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dữ ăn thịt. Thoát chết sau cái ngày đau thƣơng ấy, chàng trai săn gấu vào bộ

14

đội. “Năm tháng qua đi, tuổi xuân của Thim đã gửi gắm ở khắp các chiến

trƣờng nhƣng hình ảnh Phón vẫn không sao phai mờ trong tâm trí chàng trai

săn gấu”. Đất nƣớc hòa bình, hành trình tìm lại “mối tình nhƣ cánh hoa đầu

tiên mới nhú” của Thim kéo dài suốt mấy chục năm trời. Linh cảm của Thim

khi nghe câu chuyện về ngƣời xƣa đã gieo hi vọng và niềm tin cho ông trong

bao tháng năm tìm kiếm. Khát khao đoàn tụ sau hơn nửa đời ngƣời xa cách

nhƣ càng mãnh liệt, tha thiết theo thời gian.

Chàng trai trong tác phẩm Tượng trắng vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi bên

đƣờng đƣợc những ngƣời bị bệnh hủi đƣa về nuôi dƣỡng. Chàng trở thành

“chiếc phao để họ bám” giữa biển đời xô dạt vì là ngƣời duy nhất còn lành lặn

nhƣ một con ngƣời bình thƣờng mà họ có quyền tiếp xúc. Ngƣời cha của cô

gái chàng yêu không vƣợt qua đƣợc định kiến, ông đƣa con gái rời xa làng

hủi. Quên thời gian, chỉ còn nhớ hình ảnh ngƣời thƣơng và mong ngày nàng

trở lại, chàng trai tạc một khối đá trắng thành “bức tƣợng thiếu nữ hiển hiện

nhƣ một con chim trắng với đôi mắt mơ màng thoáng ngơ ngác buồn”. Khi

ngƣời con gái năm xƣa trở lại với mái tóc trên đầu đã bạc, “chỉ còn một bộ

xƣơng ngƣời đã khô trắng, nằm rải rác trên thảm cỏ xanh mƣợt” dƣới bức

tƣợng đá. Kiếp ngƣời hữu hạn, nhƣng chàng trai đã tạc vào thời gian khát

vọng vĩnh hằng và niềm tin bất diệt vào tình yêu.

Bằng những câu chuyện giản dị và cảm động, nhà văn Cao Duy Sơn đã

đƣa ngƣời đọc đến với những mối tình sâu nặng và lãng mạn của các chàng

trai cô gái thủy chung, có nghĩa có tình. Dù gặp bao thăng trầm trong cuộc

sống, nhân vật của Cao Duy Sơn vẫn không nguôi khát vọng tình yêu, vẫn

trọn vẹn niềm tin sắt son vào ngày mai tốt đẹp. Súc Hỷ từng có một thời trai

trẻ lỡ đƣờng duyên phận, phải chôn chặt mối tình trong lòng để mấy chục

năm sau nối lại, cùng Mú Dinh bâng khuâng trong hạnh phúc muộn mằn (Súc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hỷ). Sinh yêu Ếm nhiều lắm, “tƣởng sẽ chết nếu không lấy đƣợc nhau”.

15

Nhƣng Ếm bị gia đình ép gả cho ngƣời khác. Theo thời gian, nỗi buồn dần

nguôi ngoai “nhƣng thƣơng nhớ vẫn hằn sâu trong ngực”. Khi về già lão Sinh

và mú Ếm mới có thể gặp nhau. Nhƣ bao nhiêu cặp tình lỡ dở, “Một năm một

phiên chợ tình tìm đến nhau để ngồi thầm thì bao chuyện xƣa và cả chuyện

nay.” (Chợ tình)

“ Niềm vui trong ngày cƣới không phù dâu phù rể sóng bƣớc hai bên chiếc

xe ngựa” của nhân vật Dình (Hoa bay cuối trời) khiến những trái tim đã yêu

hay chƣa từng biết đến sự ngọt ngào và cay đắng của tình yêu cũng cảm thấy

nghẹn ngào. Khơ và Dình đã hò hẹn: “Nếu không lấy đƣợc nhau cả hai sẽ

cùng chết”. Sau trận sốt, đôi chân của Dình không thể cử động đƣợc nữa.

Không muốn ngƣời yêu phải khổ vì mình, Dình nén lòng nhờ anh trai nói dối

để Khơ tin mình thay lòng đổi dạ. Suốt đời ngậm ngùi cô đơn vẫn không thôi

khao khát, trƣớc khi từ giã cõi đời, Dình mới thỏa ƣớc nguyện từ thuở

xuân xanh.

Cuộc đời đầy trái ngang, trắc trở của các nhân vật trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn có lúc khiến ngƣời đọc có cảm giác đó là những mảnh vụn đời tƣ

mãi mãi dở dang. Song con ngƣời không bao giờ cam chịu bó tay. Vì tha thiết

với hạnh phúc có lúc đã tuột khỏi tầm tay nên ngƣời chồng trong “Mùa én gọi

bầy” vừa cố chấp, vừa cao thƣợng, bao dung đối với ngƣời vợ đã một lần lầm

lỡ. Những kiếp đàn ông ở Âm vang vong hồn đến chết vẫn bị ràng buộc trong

khát muốn và ghen tuông. Với cái nhìn tinh tế và sâu sắc, nhà văn Cao Duy

Sơn đã nhận ra phía sau những tâm trạng còn nhiều day dứt, xót xa kia là

niềm tha thiết với tình yêu, hạnh phúc, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Cho

dù kết thúc truyện thƣờng buồn hoặc dở dang nhƣng ngƣời đọc không cảm

thấy bi quan, mệt mỏi. Bởi sau tất cả những mất mát, đắng cay, con ngƣời vẫn

không thôi nghĩ tới những điều tốt đẹp, và dòng chảy yêu thƣơng, hi vọng vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lan tỏa, dâng tràn.

16

2.2.2. Những con ngƣời nhân hậu, chung thủy, nghĩa tình

Một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học Việt Nam từ xƣa đến nay

là cảm hứng ngợi ca cái đẹp, cái thiện. Hƣớng tới giá trị nhân văn truyền

thống, nhà văn Cao Duy Sơn đã xây dựng những con ngƣời nhân hậu, chung

thủy, nghĩa tình trở thành hình tƣợng nổi bật trong sáng tác của mình. Những

nhân vật đó có cuộc sống bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác, thậm chí cuộc đời

họ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Phải chăng nhà văn muốn đặt nhân vật của

mình vào thử thách của số phận để những phẩm chất tốt đẹp nhƣ “vàng mƣời”

càng tỏa sáng trong “lửa” gian nan ?

Thầy Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối) tình nguyện xa Hà Nội lên Mục Mã xa

xôi dạy học từ thời còn trẻ. Trong cuộc đời ngƣời thầy giáo ấy, chuyện đời,

chuyện nghề khi vui khi buồn. Có lúc thầy nghĩ “Số kiếp thầy toàn gặp điều

rắc rối”. Thầy bị kỉ luật, phải luân chuyển trƣờng vì “chuyện một trò đẹp nhƣ

nàng tiên trên trời đem lòng yêu thầy”. Đến trƣờng mới một thời gian lại gặp

Bền - cô học trò ấy lúc này đã trở thành đồng nghiệp của thầy. Nghi ngờ thầy

Hạc là cha đứa bé trong bụng cô học trò cũ, nhà trƣờng buộc thầy nghỉ lên

lớp. “Đồng nghiệp, học trò nhìn thầy nhƣ nhìn một tội phạm, một tội phạm hủ

hóa đang chờ ngày cấp có thẩm quyền ra phán quyết”. Để quên đi phần nào

phiền muộn, thầy làm một khu vƣờn thực nghiệm. Cho đến lúc vƣờn thực

nghiệm đƣợc các trƣờng khác trong tỉnh đến tham quan, ban giám hiệu mặc

nhiên coi đó là thành quả của tập thể. Đồng nghiệp của thầy hoan hỉ đón

khách tham quan, nhận quà và những lời ca tụng. Không ai nhắc đến thầy. Vì

danh dự và thành tích của tập thể, ngƣời ta mặc nhiên cho phép mình chà đạp

danh dự của cá nhân và tàn nhẫn với đồng nghiệp của mình. Nhƣng với thầy

Hạc, điều quan trọng là khu vƣờn ấy có ích cho mọi ngƣời. “Thỉnh thoảng từ

căn phòng nhìn ra, thấy những đoàn khách hay học sinh các lớp bƣớc vào khu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vƣờn, thầy mỉm cƣời.”

17

Khi thầy đã có một gia đình hạnh phúc, Bền - cô học trò năm xƣa đã vô

tình gây bao rắc rối cho thầy lại đến nhờ vợ chồng thầy nuôi giúp cô con gái

mới hơn một tuổi. Ngƣời vợ hiền của thầy chỉ kịp đặt tên con mình là Thƣ,

con của Bền là Lữ rồi ra đi mãi mãi vì khối u ác tính. Gà trống nuôi con, thầy

Hạc một mình chống đỡ sóng gió cuộc đời, hết lòng thƣơng yêu hai cô con

gái mà chỉ trong ý nghĩ, thầy cũng chƣa bao giờ phân biệt con đẻ, con nuôi.

Mƣời mấy năm sau, Bền trở lại xin đón con nhƣng Lữ hờn tủi, oán trách

không chịu về với mẹ. Thầy Hạc đã khuyên Lữ tha thứ cho ngƣời mẹ đã chịu

nhiều khổ đau cho dù trong lòng thầy đau xót không muốn phải chia xa. Tấm

lòng ngƣời cha - ngƣời thầy có trái tim nhân hậu làm ngƣời đọc xúc động và

cảm phục, khơi gợi khát khao vƣơn tới lẽ sống cao đẹp của con ngƣời.

Nếu cái tâm của ngƣời thầy giáo làm ngƣời đọc xúc động và cảm phục thì

tình yêu thƣơng của lão Sấm ăn mày (Người ở muôn nơi) với những đứa trẻ

đói khát làm ngƣời đọc sững sờ cảm động. Cha bỏ đi với ngƣời phụ nữ khác,

mẹ đi tìm cha mãi không về, tám đứa trẻ đói khát chỉ biết cầu Chúa cứu giúp.

Một tuần liền, mỗi sớm thức dậy, lũ trẻ thấy “một cái giỏ tre đựng đầy những

nắm cơm lơ lửng ngay hiên nhà”. Lũ trẻ tin rằng Chúa ở muôn nơi đã thấu lời

cầu nguyện. Cho đến khi lão Sấm chết, chúng mới biết ông lão ăn mày ấy đã

nhƣờng cơm cho mấy anh em mình. Lòng nhân ái của lão Sấm thức tỉnh trong

mỗi con ngƣời nghĩ suy về những điều giản dị mà vô cùng kì diệu trong cuộc

sống: Chúa ở muôn nơi và tình yêu thương ở trong mỗi con người.

Trong các sáng tác của Cao Duy Sơn, có “nhân vật lí tưởng mà lòng nhân

ái như có sẵn trong tâm hồn, làm việc tốt tự nhiên như hít thở khí trời” [11,

tr.57]. Bên cạnh các nhân vật nhƣ thầy Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối), lão Sấm

(Người ở muôn nơi), Ò Lình (Nơi đây không một bóng người)... còn có những

nhân vật không tên xuất hiện với tƣ cách cá nhân hay tập thể. Nhà văn không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dùng những danh từ riêng để phân biệt họ với nhân vật khác, nhƣng ngƣời

18

đọc không thể nào quên. Đó là những ngƣời bị bệnh hủi, chàng trai (Tượng

trắng), bà đỡ (Nơi đây không một bóng người)... Chứng kiến sự tàn nhẫn của

ngƣời cha khi thấy con trai mới sinh có một lớp lông màu vàng phủ trên thân

thể, bà đỡ âm thầm cứu giúp ngƣời mẹ và đứa trẻ đáng thƣơng khi họ bỏ trốn

vào rừng sâu. Mƣời bốn năm trời, “bà đỡ đã bí mật đi lại tiếp tế, chăm sóc hai

mẹ con với tấm lòng một ngƣời mẹ nhân hậu”. Trong khi hai mẹ con Ò Lình

bất hạnh bị sự ấu trĩ và tàn nhẫn của đồng loại xua đuổi khỏi thế giới loài

ngƣời, chỉ có bà đỡ coi họ là ngƣời và dành cho họ tình ngƣời ấm áp.

Không giống những truyện ngắn khác, tác phẩm Tượng trắng chỉ có địa

danh mà không có tên ngƣời. Nhà văn để ngƣời đọc nhận diện nhân vật chủ

yếu trong quan hệ và qua tính cách. Những ngƣời bệnh hủi “bị con ngƣời xua

đuổi trôi dạt lang thang” đã nhặt đƣợc “một đứa trẻ bị bỏ rơi bên mé đƣờng

lầm lụi” và nuôi nó lớn “bằng tất cả tình thƣơng của những số phận đau khổ”.

Đứa trẻ ấy lớn lên và là ngƣời duy nhất còn lành lặn không mang bệnh hủi.

Chàng trai chỉ biết trả ơn “những con ngƣời bất hạnh nhƣng có tấm lòng lành

hơn khí trời” bằng cách tạc vào từng mỏm đá hình dạng mặt mũi của ngƣời đã

chết. Chàng trai ấy đã từ chối tiếng gọi của tình yêu, ở lại với thế giới khổ đau

của những linh hồn vật vã nơi làng hủi. Tình yêu của con ngƣời tình nghĩa

thủy chung ấy đã làm cho tƣợng đá bất tử với thời gian.

Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn có nhiều mối tình đẹp nhƣng dang

dở. Phải đến khi tuổi đã xế chiều, những ngƣời yêu nhau mới đƣợc bên nhau.

Hoa bay cuối trời, Chợ tình, Súc Hỷ là những câu chuyện đẹp về tình yêu

vƣợt qua thời gian của những chàng trai cô gái miền sơn cƣớc chung thủy,

nghĩa tình. Lão Hỷ và mú Dinh (Súc Hỷ) thời trẻ lỡ đƣờng duyên phận, khi về

già mới có thể đến với nhau nối lại tình xƣa. Chợ tình Âu Lâm mỗi năm chỉ

họp một lần vào ngày hai mƣơi lăm tháng giêng. Cũng nhƣ bao nhiêu cặp tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lỡ dở, lão Sinh và mú Ếm chờ một năm để gặp một lần. Lúc còn trẻ không lấy

19

đƣợc nhau, khi về già “chỉ cần đƣợc ngồi bên nhau chẳng nói gì cũng thấy ấm

lòng”. Lúc còn trẻ không nên đôi lứa, khi về già hẹn chậm bƣớc đợi nhau đến

cõi vĩnh hằng:

“Về a Ếm ơi! Anh biết em bỏ anh khác đi một mình rồi. Anh đâu dám trách

Ếm.(…). Bây giờ thế này thôi, chợ từ nay không có chúng mình nữa, không có

em không còn chợ. (...), hãy chậm chân cho nhau kịp bƣớc với Ếm ơi.”

Đâu phải là lời khấn cho ngƣời đã khuất, đó là lời thƣơng lời nhớ, lời hẹn

ƣớc của những trái tim yêu chƣa lỡ nhịp bao giờ. Thời gian hay cái chết cũng

không thể chia lìa những con ngƣời nghĩa tình đến thế. Ngƣời đọc xúc động

nhận ra trong cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay nơi đại ngàn xa xôi có

những tấm lòng chan chứa yêu thƣơng, trọn vẹn nghĩa tình. Càng đi sâu tìm

hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn, ngƣời đọc càng

nhận ra những điều nhà văn kí thác thật sâu xa, bị cuốn hút và xúc động trƣớc

một thế giới ngƣời đậm chất nhân văn.

2.2.3. Những con ngƣời dũng cảm, cao thƣợng, giàu lòng vị tha

Truyện ngắn của Cao Duy Sơn cho thấy những xung đột của hiện thực xã

hội miền núi nhƣ xung đột lịch sử - dân tộc, xung đột thế sự đời tƣ với các

dạng thức biểu hiện vô cùng phong phú: cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái

ác, giữa con ngƣời với thiên nhiên, giữa khát vọng tình yêu, hạnh phúc với

những trái ngang trắc trở… Nhân vật của Cao Duy Sơn thƣờng phải đối diện

với những thử thách nghiệt ngã. Đó có thể là nguy hiểm hữu hình khi nhân

vật đối mặt với một con ác thú, nhƣng cũng có thể là thử thách vô hình đòi

hỏi con ngƣời phải vƣợt qua, chiến thắng sự hận thù và ích kỉ của chính bản

thân mình. Trong hoàn cảnh đó, bản chất, tính cách, những phẩm chất tốt đẹp

nhƣ lòng dũng cảm, sự cao thƣợng, vị tha đƣợc bộc lộ rõ ràng và chân thực.

Với ngƣời miền núi, mối quan hệ giữa con ngƣời với môi trƣờng sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không phải lúc nào cũng là sự gắn bó, hòa hợp mà còn có những xung đột gay

20

gắt. Đó là mâu thuẫn khó giải quyết giữa nhu cầu sinh tồn của con ngƣời với

nhu cầu sinh tồn của tự nhiên. Hiểm họa của đại ngàn cùng những hận thù

khủng khiếp giữa ngƣời và ác thú đã đƣợc đề cập đến trong các tác phẩm

“Người săn gấu” và “Cuộc báo thù cuối cùng”. Cảnh ngƣời thợ săn đối mặt

với con gấu hung dữ khiến ngƣời đọc lo lắng nghĩ tới ranh giới mong manh

giữa sự sống và cái chết. Ấn tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời đọc là sự cảm

phục đối với những con ngƣời có sức khỏe và lòng dũng cảm phi thƣờng:

“Thim chằm chằm nhìn con vật đang lao về hƣớng mình. Đôi mắt bình

tĩnh đến lạnh lùng, từ trong hai đốm lửa đỏ bật lên ý nghĩ dữ dội và quả quyết.

(…). Con gấu chồm dậy rất nhanh, từ ngực nó một dòng máu đỏ sẫm trào ra

ƣớt đẫm mảng lông ngực. Cây giáo không còn tác dụng nữa. Vừa né ngƣời

tránh hai cái tát, nhanh nhƣ chớp Thim luồn sát ngực chộp nhanh hai tay của

nó đẩy ngay ra, đầu húc ngƣợc dƣới hàm, bằng tất cả sức lực cùng với miếng

võ hiểm bất kì thợ săn nào cũng phải biết, con thú bị đẩy lùi từng bƣớc sát

vách núi dựng đứng, Thim dồn sức vào chân phải đạp mạnh vào bụng nó

đồng thời hai tay đẩy bật con thú ra khỏi ngƣời. Một khối đen sì nặng nề vùn

vụt lao xuống chân núi sâu hút…” (Người săn gấu)

Còn đây là cảnh lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng) quần nhau với chúa

sơn lâm:

“Ngay lập tức con thú phóng đến nhƣ một mũi tên. Cùng đồng thời với cái

bóng vằn vện vừa bật lên khỏi mặt đất, Vƣợc nhún chân bay ngƣời sang trái

cắt một góc vuông, hƣớng vào đầu con hổ. Trong màn trời nhập nhoạng, ánh

kim loại lóe lên nhƣ một tia chớp, cắt gió xả ngang đầu con thú, một tiếng rú

bỗng vang lên rùng rợn, nghe nhƣ có ngàn cây đổ. Vƣợc nhào ngƣời vùng

dậy, vung dao xả tiếp nhát thứ hai...”

Nhà văn miêu tả cụ thể theo trình tự thời gian, không bình luận. Câu chữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của tác giả truyền đến ngƣời đọc cảm giác của ngƣời trong cuộc, dồn nén

21

căng thẳng nhƣng tin tƣởng vô cùng vào sức mạnh và lòng dũng cảm của con

ngƣời đang đối mặt với thách thức, hiểm nguy.

Thời gian có thể làm cỗi tàn nhiều thứ, riêng sự cao thƣợng và lòng vị tha

mãi là những giá trị tinh thần cao đẹp của đời sống con ngƣời. Sinh ra và lớn

lên ở miền sơn cƣớc, phóng khoáng nhƣ gió núi mây ngàn, nhân vật của Cao

Duy Sơn yêu ghét phân minh, giàu lòng vị tha và vô cùng cao thƣợng. Họ sẵn

sàng cƣu mang, giúp đỡ, sẻ chia mà không hề tính toán. Họ nhận về mình xót

xa, để ngƣời không cay đắng, ngậm ngùi. Với những sai lầm, họ độ lƣợng thứ

tha. Tấm lòng của những ngƣời nhƣ bà đỡ, Ò Lình (Nơi đây không một bóng

người), Hoán (Thằng Hoán), Dình (Hoa bay cuối trời), lão Sấm (Người ở

muôn nơi)... giúp mọi ngƣời vững tin trong cuộc sống. Cho dù cuộc đời còn

nhiều nƣớc mắt khổ đau và lầm lỗi, vẫn có sự cao thƣợng, bao dung mở lối

đón ta về.

Mối tình của chàng trai tên Khơ ở Háng Vài và ngƣời thiếu nữ đất Pác Gà

(Hoa bay cuối trời) chớm nở trong dịp lễ hội ngày xuân khi “những bông mận

nở muộn nhƣ tuyết trắng bên những cành đào rực rỡ dƣới chân núi khẽ đƣa

trong gió”. Họ đã trao lời thƣơng và ƣớc hẹn đón nhau về trên chiếc xe ngựa

thật đẹp do chính tay chàng đóng. Nhƣng cuộc đời éo le để mối tình đẹp

chẳng thể đơm hoa kết trái. Dình bị ốm rồi bị liệt đôi chân. Ngƣời con gái ấy

đã ngậm ngùi chôn chặt mối tình, nhờ anh trai nói dối để Khơ tin mình đã làm

dâu nhà khác. Bởi không muốn ngƣời yêu phải khổ vì mình mang tật, Dình đã

nén chặt lòng trong nỗi cô đơn dằng dặc một đời ngƣời. Ở trên đời, liệu có

phải ai cũng biết yêu nhƣ ngƣời thiếu nữ đất Pác Gà?... Những giây phút sắp

lìa xa cuộc sống, Dình mới nghĩ cho mình. Một đời chờ đợi, giấc mơ xƣa mới

trở thành sự thật. Lần đầu tiên lão Khơ đón ngƣời yêu chung thủy trên cỗ xe

ngựa tự tay mình đóng nhƣ năm xƣa đã hẹn, cũng là lần cuối cùng họ đƣợc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bên nhau.

22

Trong cuộc sống, sự cao thƣợng, vị tha không chỉ là thái độ cần có khi

ngƣời khác mắc sai lầm mà còn là biểu hiện của tình yêu đích thực, của nhân

cách cao cả. Đó là sự cao thƣợng của Hoán (Thằng Hoán) đối với ngƣời vợ đã

bỏ chồng bỏ con đi theo ngƣời đàn ông khác; là tấm lòng của bà đỡ, của chú

bé ngƣời - khỉ (Nơi đây không một bóng người); lão Sấm (Người ở muôn nơi)

đối với mọi ngƣời. Dù cuộc sống của mình còn nhiều vất vả, đắng cay, những

con ngƣời ấy đều sẵn sàng hi sinh lợi ích, thậm chí cả cuộc sống của mình vì

ngƣời khác mà không đắn đo, tính toán. Những nhân vật cao thƣợng, vị tha

trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn vừa mang lại chất thơ và giá trị nhân văn

cho tác phẩm, vừa thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời:

Vẻ đẹp tâm hồn của con người chính là chất thơ trong cuộc sống.

2.3. Nhân vật tha hóa

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn hiện lên chân thực

với những con ngƣời rất đời thƣờng, có tốt có xấu, có hay có dở, có nỗi khổ

và niềm vui. Không cảm nhận và phản ánh đời sống một cách đơn giản, Cao

Duy Sơn thƣờng quan sát, miêu tả nhân vật trong sự vận động tính cách của

nó. Đa số các nhân vật của Cao Duy Sơn không có sự biến đổi tính cách theo

chiều hƣớng xấu. Vẻ đẹp tâm hồn, những phẩm chất tốt đẹp vốn có của nhân

vật không hề thay đổi theo thời gian mà ngày càng tỏa sáng. Hình tƣợng nhân

vật tha hóa trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn xuất hiện không nhiều. Nhà

văn chủ yếu phản ánh sự suy thoái phẩm chất đạo đức của nhân vật. Sự tha

hóa đƣợc khai thác ở khía cạnh con ngƣời cá nhân hơn là con ngƣời làm

nhiệm vụ chính trị với vai trò xã hội nhất định.

Lão Vƣợc trong tác phẩm Cuộc báo thù cuối cùng sống bằng nghề săn thú,

“với lại thú ham săn bắn đã ngấm vào máu của lão rồi”. Từ ngày ngƣời vợ

chết thảm vì hổ dữ, lão Vƣợc trở thành nỗi kinh hoàng của muôn loài muông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thú. “Từ khao khát trả thù hóa thành niềm say mê nhƣ cuồng nhập vào lão từ

23

lúc nào, lão không còn nhớ”. Trong đau thƣơng, lão Vƣợc đã để mình trở

thành nô lệ của lòng thù hận, gieo rắc đau thƣơng cho muông thú.

Các nhân vật Làn Dì (Thằng Hoán), Sìu (Song sinh), Kình (Hấp hối) đƣợc

miêu tả nhƣ là nô lệ của ham muốn, dục vọng thấp hèn. Nhân vật Làn Dì

(Thằng Hoán) vốn “sinh trƣởng trong một gia đình khá giả, tử tế. Cô đã từng

đi học trƣờng sƣ phạm của tỉnh, nhƣng đã bị đuổi ra khỏi trƣờng vì mắc tội

quan hệ trai gái. Sau lại tiếp tục đi làm tại một cửa hàng lƣơng thực của

huyện, đƣợc giao chân thủ kho, đƣợc một năm thì lại bị đi cải tạo vì tội tham

ô hai tấn gạo”. Gia đình thất vọng, hổ thẹn, làng xóm khinh bỉ, mỉa mai, Làn

Dì bỏ nhà ra đi hi vọng “chôn vùi quá khứ tội lỗi". Đến bản Tà Phàn, Làn Dì

nhận lời làm vợ Hoán - “con ngƣời dị tật xấu xí”. Những tƣởng sau những cay

đắng nhục nhã từng phải chịu đựng, Làn Dì sửa đổi tâm tính và an phận.

Nhƣng ngƣời phụ nữ ấy lại dan díu với tay thợ cả đến dựng nhà cho mình.

Con trai đƣợc ba tuổi thì Làn Dì bỏ đi theo nhân tình. Nghĩa vợ chồng, tình

mẫu tử - đối với ngƣời vợ, ngƣời mẹ ấy - có lẽ đều vô nghĩa.

Câu chuyện về hai anh em sinh đôi Du và Sìu (Song sinh) làm ngƣời đọc

giật mình trƣớc sự mê muội đầy bản năng của con ngƣời. Nhƣ bao chàng trai

khác, Sìu mơ ƣớc làm giàu và khao khát một gia đình. Thấy anh trai lấy đƣợc

ngƣời vợ đẹp, Sìu ghen tị, khát thèm. Lợi dụng sự giống nhau của hai anh em

song sinh, Sìu mặc quần áo của Du, giả dạng anh trai để chiếm đoạt thân xác

chị dâu. Sự tha hóa của Sìu đƣợc đẩy đến tận cùng để nhân vật trở thành hiện

thân cho đỉnh điểm của vô luân. Đây không phải là hành động nhất thời bột

phát, hoàn toàn mang tính bản năng của nhân vật mà nó là kết quả của niềm

khát khao hòa trộn với sự đố kị và mê muội tầm thƣờng. Bởi sau hành động

loạn luân đó, Sìu thản nhiên nói với chị dâu: “...tôi muốn đƣợc thế vào chỗ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của thằng Du, kiếp này muốn lấy Lu về làm vợ”.

24

Những năm đầu mới giải phóng, ông Kình (Hấp hối) là một cán bộ cấp

tỉnh, “ba mƣơi tuổi quá mải mê với công việc chẳng khi nào đƣợc rảnh tay

nghĩ về một ngƣời con gái”. Hạnh phúc gia đình là niềm khao khát chính

đáng của mỗi con ngƣời, nhƣng ngƣời mà Kình muốn lấy làm vợ là một phụ

nữ đã có chồng. Cùng một toán thanh niên trong làng, Kình đón đƣờng bắt

cóc và chiếm đoạt thân thể ngƣời phụ nữ ấy. Hành động tội lỗi trong bóng tối

đã làm tan nát một gia đình. Ngƣời vợ hóa điên sau khi sinh ra giọt máu của

kẻ đã làm nhục chị. Tám năm sau, Kình mới gặp lại và biết ngƣời phụ nữ đó

là vợ của Chức - “đã từng là ngƣời dìu dắt những bƣớc đi đầu tiên của ông

trên con đƣờng cách mạng”. Sợ bị trả thù, Kình tìm cách buộc tội Chức làm

tay sai cho giặc, mƣợn tay kẻ khác đày đọa Chức trong tù hơn mƣời năm trời.

Nghe tin ngƣời vợ bất hạnh của mình chết vì tai nạn ô tô, đau khổ và oan ức,

Chức đã treo cổ tự vẫn ở trong tù.

Nhà văn mô tả sự tha hóa nhƣ một quá trình, nhân vật trƣợt dài, lún sâu

trong tội lỗi. Là một cán bộ từng hoạt động bí mật, giờ giữ một chức vụ khá

quan trọng của tỉnh, vậy mà Kình lại chiếm đoạt hạnh phúc của ngƣời khác.

Gây tội lỗi rồi không dám đối diện và chịu trách nhiệm, lại dùng thủ đoạn hèn

hạ hại ngƣời đã vì mình mà phải chịu bao đau khổ, xót xa. Với nhân vật Kình,

Cao Duy Sơn đã khắc họa hình tƣợng con ngƣời tha hóa đầy sức ám ảnh.

Nhƣ vậy, các nhân vật Làn Dì (Thằng Hoán), lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối

cùng), Sìu (Song sinh) và Kình (Hấp hối) là nhân vật mang tính chất loại

hình. Đƣợc cấu thành bởi hàng loạt chi tiết mang tính chất cùng loại và tái

diễn trong nhiều tình huống khác nhau, tính cách nhân vật đƣợc đẩy đến tận

cùng để bộc lộ bản chất. Từ đó nhà văn muốn lí giải nguyên nhân khiến con

ngƣời tự đánh mất mình, cảnh tỉnh con ngƣời về sự tha hóa.

Có thể nói, các nhân vật tha hóa trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn rất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chân thực và có ý nghĩa nhận thức rất sâu sắc. Nhân vật tự ý thức sự thay đổi

25

theo chiều hƣớng xấu của con ngƣời mình và vật lộn với chính bản thân mình

vừa ngang tàng vừa đau đớn. Lão Vƣợc đầy thù hận vừa khao khát trả thù vừa

đau lòng thấy con gái bị tổn thƣơng. Khi giết đƣợc con hổ đã hại chết vợ

mình lão vẫn không hề thanh thản. (Cuộc báo thù cuối cùng). Sìu thoát chết,

bên chân trái bị cắt cụt và mãi mãi phải sống dƣới cái tên của anh mình. “Đến

giờ Sìu thấy lòng mình chẳng còn chút oán hận ai. Tự mình làm mình chịu”

(Song sinh). Làn Dì bội bạc phải rơi nƣớc mắt gào thét đau đớn vì không

đƣợc con trai tha thứ (Thằng Hoán). Còn ông Kình dù chƣa bị trừng trị nhƣng

suốt đời phải day dứt về tội lỗi của mình (Hấp hối). Nghĩa là nhà văn đang

gieo mầm hi vọng về một sự đổi thay tốt đẹp. Bởi nếu còn thấy đau đớn, ân

hận về những gì mình gây ra, nghĩa là con ngƣời vẫn còn ý thức về những

điều tốt đẹp và hƣớng tới những điều tốt đẹp.

3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật

Nhân vật là yếu tố cơ bản góp phần quyết định sự sống còn của một tác

phẩm văn chƣơng. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Cái khó nhất vẫn

là làm sao cho người trong truyện hiện ra lồ lộ giữa trang sách như hình

người trên một bức phù điêu”. Cao Duy Sơn đã có những thành công nhất

định trong bƣớc đƣờng tìm tòi và thể nghiệm những khám phá, sáng tạo ở

nghệ thuật miêu tả nhân vật, đặc biệt là miêu tả ngoại hình, hành động và nội

tâm nhân vật.

3.1. Miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật

Nhân vật tồn tại trong tác phẩm văn học nhƣ một thực thể sinh động và

chủ động nhƣ con ngƣời trong đời thực. Vì vậy các nhân vật văn học là đại

diện của các tính cách xã hội, có ngoại hình và thế giới nội tâm riêng. “Ngoại

hình là một khái niệm nhằm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong..., tóm lại, là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của

26

nhân vật”. [29, tr.168]. Còn hành động của nhân vật “không chỉ là yếu tố cần

thiết để bộc lộ tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu thúc đẩy sự diễn

biến của cốt truyện trong tác phẩm. Đó chính là những việc làm cụ thể của

nhân vật trong quan hệ ứng xử với các nhân vật khác và trong những tình

huống khác nhau của cuộc sống.” [29, tr.169]

Khi xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình, Cao Duy Sơn thƣờng chú

trọng miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật để khắc họa chân dung và

để nhận dạng tâm tính, đoán định tính cách. Nhờ đó, nhân vật trong truyện

không mờ nhạt mà gây ấn tƣợng cho ngƣời đọc ngay từ những chi tiết miêu tả

ban đầu.

3.1.1. Miêu tả ngoại hình, hành động để khắc họa chân dung

Trong nghệ thuật nói chung và trong văn học nói riêng, cảm hứng ngợi ca

cái đẹp là một dòng chảy nồng nàn không bao giờ vơi cạn. Nghệ thuật không

thể thiếu cái đẹp, cái lí tƣởng, hoàn hảo. Truyện ngắn của Cao Duy Sơn có

nhiều nhân vật để lại ấn tƣợng khá đậm cho độc giả về vẻ đẹp ngoại hình

hoàn hảo mang đặc trƣng của con ngƣời miền núi. Chất miền núi của nhân vật

nổi đậm ngay từ những chi tiết miêu tả ngoại hình. Đây là vẻ đẹp và sức khỏe

của chàng trai mồ côi có tài săn gấu: “Thim mang cây giáo trên vai, cúc áo

mở tung để lộ ra bộ ngực vuông vức căng tròn, lƣng đeo tấm da bọc xƣơng

con gấu...” (Người săn gấu). Trong tác phẩm Hoa bay cuối trời, vẻ đẹp của

những chàng trai miền sơn cƣớc hiện lên qua vài chi tiết miêu tả ngắn gọn

giàu sức gợi: “Có một cánh tay rất to, rõ những múi cơ gồng lên cuồn cuộn,

gạt những bắp chân giày xéo trên mặt đất đổ rạp nhƣ gạt những bẳng nƣớc

rỗng”. Cảnh những chàng trai trẻ tranh đầu pháo trong lễ hội pháo hoa Pác Gà

đƣợc miêu tả bằng một đoạn văn ngắn, nhiều động từ xuất hiện đã tái hiện

liên tiếp những hành động nhanh mạnh, dứt khoát, quyết liệt của hai chàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trai trẻ đang quyết giành phần thắng:

27

“...Khơ nhào đến chộp lấy chiếc vòng. Không thấy mặt ngƣời, vẫn bắp tay

cuồn cuộn đó vƣơn tới chặn Khơ lại. Khơ cảm giác bàn tay mình bị kẹp chặt

trong cục gỗ ép mía. Những ngón tay cộm chai cuốn một vòng làm cánh tay

Khơ muốn gãy. Khơ đành buông chiếc vòng. Nhanh nhƣ một chớp mắt bàn

tay gân guốc đó vồ lấy. Gã bật ngƣời đứng dậy, rẽ đám đông cố thoát ra

ngoài. Khơ lao đến ôm gã quật xuống. (...), chiếc vòng đỏ lăn xuống đất, Khơ

chộp vội nhún chân nhảy bật qua vòng ngƣời đang mỗi lúc một thắt chặt.”

Khi khắc họa chân dung những chàng trai nơi đại ngàn xa thẳm, Cao Duy

Sơn thƣờng kết hợp miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật, từ đó tô

đậm vẻ đẹp hình thể và sức mạnh của họ. Đó là những thanh niên miền núi

khỏe mạnh với bộ ngực vạm vỡ, bắp thịt nở nang, đƣờng gân cuồn cuộn. Họ

giỏi nghề săn bắt, cần cù lao động, mạnh mẽ, dũng cảm đối mặt với thử thách,

hiểm nguy. Vẻ đẹp ấy, sức mạnh ấy nhƣ đƣợc kết tinh từ sức sống của chốn

sơn lâm hoang sơ, hùng vĩ.

Đối với các nhân vật nữ, nhà văn Cao Duy Sơn cũng sử dụng chi tiết miêu

tả ngoại hình và hành động để khắc họa. Chân dung những cô gái xinh đẹp

tựa đóa hoa rừng ngạt ngào hƣơng sắc trong nắng mai đƣợc tạo nên bởi những

nét vẽ thiên về miêu tả diện mạo. Những câu văn mềm mại, lung linh và mát

dịu nhƣ sƣơng núi khi miêu tả vẻ đẹp thuần khiết đầy nữ tính của thiếu nữ

miền sơn cƣớc: “Mặt nàng đẹp nhƣ bông đào trong nắng. Nụ cƣời bẽn lẽn,

mắt chớp nhƣ cánh vẫy của loài bƣớm hoa. Trong bộ quần áo Nùng xanh cổ

vịt, viền nách bằng vải láng cống màu đen, toàn thân nàng khẽ run trong

hoàng hôn se lạnh.” (Hoa bay cuối trời); “Nàng xinh xắn, uyển chuyển nhƣ

con suối thu chân núi.” (Hòn bi đá màu trắng)

Vẻ đẹp của Ếm (Chợ tình) không thể chỉ gọi bằng một từ “nhan sắc”. Cái

đẹp và sức xuân tràn trề làm những nụ cƣời tỏa sáng niềm vui: “Ếm đẹp nhƣ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoa, (...) mỗi khi cƣời trời nhƣ sáng bừng lên, hoa xuân lay lắc vui nhƣ

28

nhƣờng lại nhan sắc”. Còn cô gái trong truyện Dưới chân núi Nục Vèn đẹp

nhƣ một nàng tiên ở chốn rừng xanh: “Cô gái có đôi mắt đẹp nhƣ con chim

lửa, cổ trắng nhƣ ruột cây chuối rừng, môi đỏ nhƣ cánh hoa gạo.”

Miêu tả nhƣ vậy thực chất là gợi tả. Khắc họa chân dung nhân vật qua chi

tiết ngoại hình, nhà văn ít miêu tả trực tiếp, thƣờng dùng phép so sánh và lấy

thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con ngƣời. Miêu tả ngoại hình

trong thế đối sánh với thiên nhiên là đặc điểm mang tính kế thừa thi pháp văn

học truyền thống rất rõ rệt.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn không chỉ có những con

ngƣời có vẻ đẹp ngoại hình hoàn hảo mà còn có những nhân vật hiện diện nhƣ

một sự bất thƣờng. Đó là Hoán (Thằng Hoán) với cái hình thể dị dạng của

ngƣời tàn tật. Mƣời tám tuổi nhìn vẫn nhƣ đứa trẻ lên mƣời. “Cái đầu to quá

khổ nhƣ bị cái u trên lƣng đè nặng, luôn trĩu về phía trƣớc. Hai bàn chân to bè

những ngón tòe ra vững chãi đỡ cái thân hình thấp lùn không cao quá một mét

tƣ. Ngắm nhìn cái bóng dị dạng dƣới nắng của mình xong, Hoán thƣờng quay

mình lại phía sau nhƣ muốn tránh nhìn cái bóng đó. Hai mắt Hoán mở to trên

khuôn mặt nặng nề bỗng từ từ ngẩng lên nhƣ muốn ném vào quá khứ mọi oán

giận, bất hạnh và cay đắng.”

Ngoại hình nhân vật đƣợc miêu tả từ điểm nhìn của nhân vật, thực chất là

sự hoán đổi lăng kính từ tác giả sang nhân vật. Cách miêu tả nhƣ vậy khiến

cho chân dung nhân vật rõ nét và có chiều sâu. Tâm trạng nhân vật đƣợc phơi

mở với những ẩn ức, tủi hờn chất chứa trong đôi mắt. Với sự kết hợp giữa chi

tiết miêu tả ngoại hình và hành động rất tự nhiên, khéo léo, Cao Duy Sơn đã

khắc họa thành công chân dung một con ngƣời bất hạnh cả về hình thể và tâm

trạng, nỗi niềm.

Chú bé trong tác phẩm Nơi đây không một bóng người vừa mới chào đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã phải cùng mẹ chạy trốn sự nhẫn tâm của ngƣời cha chối bỏ con mình “vì

29

nó giống y nhƣ một con khỉ”. Khi khắc họa chân dung nhân vật, Cao Duy Sơn

không dồn nén các chi tiết miêu tả ngoại hình mà lựa chọn miêu tả ở những

thời điểm nhất định. Nhà văn miêu tả Ô Lình khi mới sinh ra từ điểm nhìn của

ngƣời cha: chú bé mang “hình hài một con khỉ. Cái thân thể trần truồng đỏ

hỏn đó, phủ một lớp lông màu vàng, ƣớt nhớp nháp”. Cách miêu tả nhấn

mạnh đặc điểm khác thƣờng của đứa trẻ, đặt trong trƣờng liên tƣởng để so

sánh và đánh giá đúng với cảm giác của ngƣời cha. Mƣời bốn năm sau, “Ò

Lình đã sắp thành một chàng trai. Cặp chân dài của nó đã bắt đầu nổi bắp, hai

bờ vai vuông vức nằm dƣới cái cổ cao và thẳng, nhƣ đƣợc một bàn tay tuyệt

mĩ tạo nên đỡ lấy khuôn mặt nhẵn nhụi và trắng trẻo, luôn đọng những nét

tƣơi vui và hồn nhiên. Cái nét hồn nhiên tƣơi vui đó đã lấn át toàn bộ lớp lông

màu vàng, mịn màng trên cơ thể hòng biến Ò Lình thành một kẻ lạ mắt khó

nhìn”. Vẫn không bỏ qua điểm khác thƣờng của chú bé ngƣời - khỉ nhƣng nhà

văn tập trung miêu tả nét hồn nhiên, tƣơi vui của nhân vật. Sống cùng mẹ

trong rừng sâu, tách biệt với thế giới con ngƣời, Ò Lình hồn nhiên nhƣ cây cỏ,

trong trẻo nhƣ nƣớc suối rừng. Tâm hồn trẻ hòa với thiên nhiên thanh sạch

không bị vẩn đục bởi định kiến xã hội nhƣ ngƣời lớn. Trong một ngoại hình

“lạ”, nhà văn phát hiện và tô đậm cái quen thuộc của tâm hồn ngƣời ở tuổi

thiếu niên. Chiều sâu của bức chân dung là ở đó.

Sự tiếp cận thi pháp hiện đại đã mang lại tính linh hoạt cho nghệ thuật

miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy

Sơn. Tùy từng nhân vật mà miêu tả đầy đủ, trọn vẹn, hoặc miêu tả dần theo

mạch truyện. Ngoại hình và hành động của nhân vật đƣợc miêu tả từ nhiều

điểm nhìn khác nhau. Đặc biệt Cao Duy Sơn thƣờng kết hợp miêu tả ngoại

hình và hành động để khắc họa chân dung nhân vật nên hình ảnh con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời trở nên sống động. Tuy nhiên, khi miêu tả vẻ đẹp hình thể có tính lí

30

tƣởng, nhà văn chủ yếu dùng bút pháp ƣớc lệ, tƣợng trƣng nên chân dung

nhân vật thiếu tính cá thể hoặc có nhƣng chƣa sắc nét.

3.1.2. Miêu tả ngoại hình, hành động để nhận dạng tâm tính, đoán định

tính cách

Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn, mỗi nhân vật là một số phận, một

tính cách riêng. Có ngƣời tình nghĩa, vị tha, nhân hậu, có ngƣời ích kỉ, tàn

nhẫn, xấu xa. Phẩm chất, tính cách nhân vật thƣờng đƣợc nhà văn “ngầm giới

thiệu” qua những chi tiết miêu tả ngoại hình và hành động khi nhân vật xuất

hiện. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật trong truyện

ngắn Cao Duy Sơn thể hiện sự thống nhất cao về quan niệm con ngƣời trong

tƣ duy nghệ thuật của ông. Đó là chú trọng miêu tả ngoại hình và hành động

trong mối tƣơng quan với tâm hồn, tính cách. Đây là cách giới thiệu nhân vật

mang tính truyền thống trong văn học.

Khi giới thiệu nhân vật, bên cạnh những chi tiết miêu tả ngoại hình và

hành động để khắc họa chân dung, nhà văn Cao Duy Sơn còn sử dụng những

chi tiết có ý nghĩa nhƣ dấu hiệu của tâm tính. Ò Lình (Nơi đây không một

bóng người) từ nhỏ phải cùng mẹ chạy trốn vào rừng sâu, sống cách biệt với

mọi ngƣời. Chú bé ấy có “khuôn mặt nhẵn nhụi và trắng trẻo luôn đọng

những nét tƣơi vui và hồn nhiên” với “cặp mắt nhƣ hai đốm sao” và “ánh mắt

rực sáng”. Không thuần túy là chi tiết miêu tả ngoại hình, hình ảnh “đôi mắt”

đã hé mở tâm hồn trong trẻo nhƣ nƣớc suối rừng của Ò Lình, khơi gợi những

xúc cảm đẹp đẽ trong ngƣời đọc. Cho đến khi Ò Lình lao vào đám cháy cứu

những em bé ra khỏi nhà trẻ đang ngùn ngụt lửa, ta nhận ra sự lôgic trong vận

động của mạch truyện.

Ngƣời đàn ông tàn tật trong truyện Thằng Hoán có thân hình dị dạng khiến

cô gái nào lần đầu tiên nhìn thấy hình dạng của anh đều tỏ ra khiếp đảm. Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Duy Sơn không miêu tả cùng một lúc tất cả những đặc điểm bề ngoài của

31

nhân vật Hoán. Nhà văn chọn một số đặc điểm, kết hợp miêu tả cùng với hành

động của nhân vật, từ đó giúp ngƣời đọc nhận ra phẩm chất, tính cách của

nhân vật. Lũ trẻ con “thích đến chơi với Hoán vì không khi nào Hoán từ chối

chúng một việc gì. Khi thì đẽo xảng, đẽo khăng, khi thì lắp một đôi “mạ

điếng”, thứ gì qua đôi bàn tay thô kệch của Hoán cũng đẹp lên một cách kì lạ.

Bọn trẻ còn thích hơn khi Hoán túm lấy cái mũi tẹt của mình giả làm tiếng

chó, đủ các loại, chó con, chó lớn, tiếng chó và mèo đuổi cắn nhau". Chỉ qua

vài nét khắc họa nhân vật khi làm đồ chơi và đùa vui cùng lũ trẻ, ngƣời đọc

nhận ra bản tính hiền lành và lòng nhân hậu đƣợc ẩn sau bề ngoài xấu xí kia.

Chính lòng yêu trẻ của Hoán đã xóa nhòa khoảng cách dễ có giữa lũ trẻ với

anh - một ngƣời dị dạng. Sau này khi ngƣời vợ của Hoán bỏ chồng bỏ con đi

theo nhân tình, Hoán vẫn sẵn sàng tha thứ cho ngƣời phụ nữ ấy. Những trang

văn miêu tả cảnh Hoán chăm lo cho con khiến ngƣời đọc cũng rƣng rƣng xúc

động trƣớc tình phụ tử sâu nặng, thiêng liêng.

Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn có nhiều nhân vật mang tính lí tƣởng.

Đó là những con ngƣời đẹp cả ngoại hình và phẩm chất tâm hồn nhƣ Dình,

Khơ (Hoa bay cuối trời), những nhân vật có vẻ ngoài xấu xí hoặc khác

thƣờng nhƣng lại có vẻ đẹp tâm hồn sáng trong, nhân hậu nhƣ Hoán (Thằng

Hoán), Ò Lình (Nơi đây không một bóng người)... Có nhân vật đẹp về ngoại

hình nhƣng lại bội bạc, tàn nhẫn (Làn Dì trong truyện Thằng Hoán)... Cách

khắc họa nhân vật của Cao Duy Sơn khá linh hoạt nhằm tô đậm tính cách

nhân vật và chủ đề tác phẩm. Không phải đối với nhân vật nào nhà văn cũng

chú trọng miêu tả ngoại hình và hành động. So với cách miêu tả nhân vật

phản diện, Cao Duy Sơn ít miêu tả ngoại hình của các nhân vật tích cực hơn.

Đối với các nhân vật phản diện, tâm địa xấu xa, bản tính độc ác, tàn nhẫn

đáng mỉa mai, lên án, những chi tiết miêu tả ngoại hình và hành động của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân vật thƣờng giúp ngƣời đọc nhận dạng tâm tính, đoán định tính cách. Nói

32

cách khác, chi tiết của nhà văn thƣờng có tính “dự báo”. Trong truyện ngắn

Song sinh, nhà văn đã giới thiệu về hai anh em sinh đôi:

“Đứng cạnh nhau khó phân biệt Du đâu, Sìu đâu. Cùng nƣớc da trắng, tóc

hơi quăn tự nhiên và cái mũi gồ. Du thong thả, thích ăn diện, mộng đây đó,

mắt thƣờng mơ màng, hám gái từ khi mƣời lăm, mƣời sáu tuổi. Sìu mạnh mẽ,

nhanh nhẹn, thân hình rắn rỏi, mắt hay liếc trộm ngƣời.”

Hai anh em chỉ khác nhau một chi tiết. Mắt Du “thƣờng mơ màng” còn Sìu

“mắt hay liếc trộm ngƣời”. Ánh mắt ấy, cách nhìn ấy của Sìu khiến ngƣời ta e

ngại nghĩ đến ngƣời có tính cách gian xảo, không đàng hoàng. Nó dự báo con

ngƣời này dám làm và sẽ làm những điều tội lỗi. Cùng với chi tiết miêu tả

ngoại hình của Sìu, nhà văn còn miêu tả một số hành động của nhân vật này

trong những tình huống khác nhau, từ đó tính cách nhân vật bộc lộ tự nhiên và

lôgic. Sìu theo ngƣời trong bản vào rừng cƣa gỗ nghiến làm thớt bán. Du sắp

cƣới vợ, ngƣời già cho nhắn Sìu về chuẩn bị đón chị dâu, việc không đừng

đƣợc lại sắp đến hạn giao hàng, Sìu thấy khó nghĩ. “Gã nổi cáu vung búa

chém vào gốc cây dẻ già, chửi cái thằng cƣới vợ không phải lúc.” Với Sìu,

việc lớn, việc vui của ngƣời anh chẳng khác gì chuyện xấu cản trở hắn kiếm

tiền. Đến khi nhìn thấy vợ Du, “mặt gã đơ ra, mắt nhƣ dán vào dáng đi uyển

chuyển của chị dâu. Không ngờ Du lấy đƣợc đứa xinh thế. Nâng bát rƣợu đầy,

Sìu ngửa cổ cạn một hơi trơ đáy”. Để ghìm lòng đố kị đang dâng hay để dịu

nỗi khát thèm ?

Ngày Du nhờ Sìu cùng đi đón vợ, vừa nhìn thấy chị dâu, “gã rên lên và

khao khát một ngƣời nhƣ Lu. Không chờ Du ra hiệu, nhƣ con hổ vồ mồi Sìu

bật ngón chân nhảy phắt qua một bụi cây ngang ngực. Trong chớp mắt, gã ôm

gọn Lu đè xuống”. Không một chút ngại ngần hay ý tứ, hành động của Sìu

khiến ngƣời đọc phấp phỏng lo sợ một bi kịch đƣợc báo trƣớc. Sau này, Sìu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã giả dạng anh trai để chiếm đoạt thân xác chị dâu. Nhƣ vậy, trƣớc khi

33

tính cách nhân vật đƣợc đẩy đến tận cùng để trở thành hiện thân của vô

luân, nhà văn đã cung cấp cho ngƣời đọc những dấu hiệu để đoán định

tính cách nhân vật.

Con ngƣời sục sôi dục vọng, là nô lệ của bản năng thấp hèn nhƣ Sìu còn

xuất hiện ở tác phẩm Dưới chân núi Nục Vèn. Đó là Khàng - con trai độc nhất

của lí trƣởng. Nhà văn đã nhiều lần miêu tả “đôi mắt con rắn” của Khàng.

Trong số những ngƣời đến làm thuê cho nhà mình, “Khàng để ý đến một cô

gái có đôi mắt đẹp nhƣ con chim lửa, cổ trắng nhƣ ruột cây chuối rừng, môi

đỏ nhƣ cánh hoa gạo. (...) Cái mắt con rắn của nó thèm thuồng từ ngày ấy”.

Khi thấy cô gái làm việc ở ruộng thuốc phiện, “Khàng đứng nhƣ con gấu, mắt

vằn đỏ nhƣ mắt con hổ đói hau háu nhìn cắm vào cái gáy nõn chuối rừng”.

Lúc tìm kiếm ai thì “đôi mắt con rắn nhìn quanh”. Mắt Khàng nhìn cha vẫn là

“đôi mắt con rắn” “nổi lên những tia vằn đỏ man rợ”. Qua cách miêu tả bằng

thủ pháp so sánh “vật hóa” của nhà văn, hình ảnh đôi mắt nhân vật Khàng thật

đáng sợ. Nhìn vào đôi mắt ấy có thể đọc đƣợc những ý nghĩ đen tối và sự tàn

độc của nhân vật. Đối với dân làng, chỉ cần một con trâu nào chạm cái móng

vào bờ ruộng nhà mình là Khàng cầm dao “phạt mạnh vào cổ con trâu nhƣ

phạt vào thân chuối”. Hành động ấy cho thấy bản tính của kẻ sẵn sàng làm

điều ác mà không ghê tay. Cách mạng đã trả đám ruộng nhà nó cho những

ngƣời nghèo, “nó cầm dao chém vào những ngƣời định xuống cày ở đám

ruộng”, tìm cách chống phá, cản trở những điều tốt đẹp trong cuộc sống mới,

thậm chí xúi giục con trai làm điều ác.

Sự tàn ác gian xảo của Sài Vẳn (Người săn gấu) cũng không thể che giấu

bởi “đôi mắt một mí” với cái nhìn “trừng trừng” “ánh lên dữ tợn” đã hé lộ bản

chất của hắn. Là “con trai của Coằng”, Sài Vẳn không chịu nổi khi những lời

thán phục, khen ngợi tài săn gấu của ngƣời vùng Pác Miều lại dành cho Thim

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- một chàng trai mồ côi. Thấy em gái mình có cảm tình với Thim, Sài Vẳn

34

càng căm tức. Gặp Thim, “nó nhìn Thim trừng trừng rồi đột ngột hạ giọng vui

vẻ” hỏi mƣợn Thim cây giáo. Thim “chƣa kịp nghĩ Sài Vẳn định mƣợn để

làm gì thì nó đã giật nhanh cây giáo trong tay Thim”. Sự rắp tâm hại ngƣời

hiển hiện trong cái nhìn và hành động của Sài Vẳn cho dù nó đã cố che giấu

bằng giọng nói tỏ ra vui vẻ. Cho đến khi mũi giáo của Thim gãy gọn trong

ngực con gấu “lộ ra một đƣờng cắt rất nhỏ ngay sát chuôi mũi giáo”, ngƣời

đọc bỗng rùng mình trƣớc sự thâm hiểm của kẻ giết ngƣời.

Kết quả khảo sát hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn

cho thấy nhà văn thƣờng lựa chọn, tập trung miêu tả đặc điểm hoặc hành động

nào đó của nhân vật sao cho phù hợp và bộc lộ đƣợc bản chất, tính cách của

nhân vật. Một trong những chi tiết “biết nói” xuất hiện trong khá nhiều tác

phẩm của Cao Duy Sơn là “đôi mắt”. Hầu hết các nhân vật nam có bản tính

xấu xa, tâm địa độc ác đều đƣợc nhà văn miêu tả đôi mắt, ánh nhìn. Qua hình

ảnh “đôi mắt” có thể cảm nhận thế giới nội tâm, đoán định tính cách của nhân

vật. Cảm nhận ấy càng trở nên rõ nét khi nhà văn kết hợp miêu tả hành động

của nhân vật. Đó là hành động của Sìu: “nhảy phắt” ra “ôm gọn Lu đè

xuống” (Song sinh); Khàng cầm dao “phạt mạnh vào cổ con trâu nhƣ phạt

vào thân chuối” (Dưới chân núi Nục Vèn); Sài Vẳn “giật nhanh cây giáo

trong tay Thim” (Người săn gấu). Những hành động nhanh, gọn, quyết liệt,

bất ngờ nhƣ là hiện thực hóa những ý đồ đen tối, sự tàn ác, vô luân trong

tâm địa con ngƣời.

Đối với những nhân vật nữ mang tính lí tƣởng, Cao Duy Sơn miêu tả ngoại

hình và hành động của họ chủ yếu để khắc họa chân dung. Còn những ngƣời

phụ nữ tàn nhẫn, phản trắc, không có phẩm hạnh thƣờng đƣợc nhà văn khắc

họa bằng những chi tiết miêu tả nhằm nhận dạng tâm tính, đoán định tính

cách. Trƣớc khi cho ngƣời đọc biết lai lịch của Làn Dì (Thằng Hoán), Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Duy Sơn đã miêu tả ngƣời phụ nữ ấy:

35

“ Làn Dì có nƣớc da xanh tái. Các nét trên khuôn mặt khá gọn, đôi mắt to

có đuôi dài, luôn chực cƣời vui vẻ với mọi ngƣời”. Không phải là “cặp mắt

nhƣ hai đốm sao” phản chiếu tâm hồn trong sáng của Ò Lình (Nơi đây không

một bóng người), cũng không phải “đôi mắt mở to” muốn ném vào quá khứ

oán giận và cay đắng nhƣ nhân vật Hoán (Thằng Hoán), đôi mắt của Làn Dì

tôn lên nét đẹp diện mạo, hé mở đời sống nội tâm và tính cách của ngƣời phụ

nữ nhiều ham muốn, dễ dãi, lẳng lơ. Có thể nói, chỉ một chi tiết nhỏ mà đắt,

Cao Duy Sơn đã giới thiệu nhân vật khá ấn tƣợng.

Nhân vật Đẹm - vợ ngƣời lái xe ở lâm trƣờng Nà Pha - trong Mùa én gọi

bầy đƣợc nhà văn miêu tả từ điểm nhìn của những ngƣời phụ nữ ở lâm

trƣờng: “đôi mắt nữa, nhìn thấy mấy thằng trẻ trai cứ tít lại vì cƣời”. Qua lời

thì thầm bàn tán của những nhân vật khác, nhà văn kín đáo giới thiệu về một

sai lầm gây bi kịch. Sau này, gia đình hạnh phúc của Thùng và Đẹm tan vỡ vì

Đẹm đã phản bội chồng.

Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn là sự tiếp

cận thi pháp hiện đại trên cơ sở kế thừa thi pháp truyền thống. Những nhân

vật có phẩm chất tốt đẹp, nhân cách cao cả thƣờng đƣợc nhà văn khắc họa

chân dung bằng chi tiết miêu tả ngoại hình và hành động. Các nhân vật phản

diện nhƣ Sìu (Song sinh), Khàng (Dưới chân núi Nục Vèn), Sài Vẳn (Người

săn gấu), Làn Dì (Thằng Hoán) thƣờng đƣợc miêu tả bằng bút pháp tả thực.

Từ đó những đặc điểm ngoại hình và hành động của nhân vật trở nên rõ nét và

có giá trị nhƣ tín hiệu dự báo, bộc lộ tâm tính. Trong văn học, ngoại hình và

hành động của nhân vật đƣợc miêu tả sinh động không chỉ góp phần bộc lộ

tính cách nhân vật mà còn có tác dụng cá biệt hóa nhân vật.

3.2. Miêu tả nội tâm

Theo quan điểm của Đoàn Đức Phƣơng, nội tâm là khái niệm dùng để “chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân vật, đó là những tâm trạng, suy nghĩ,

36

cảm xúc, cảm giác, những phản ứng tâm lí của bản thân nhân vật trước

những cảnh ngộ, những tình huống mà nhân vật chứng kiến hoặc thể nghiệm

trên những bước đường đời của mình”. [29, tr.170]. Lecmontop cho rằng:

“Lịch sử tâm hồn con người dù là tâm hồn nhỏ bé nhất cũng hầu như thú vị

và bổ ích hơn lịch sử của cả một dân tộc”. Trong văn học, miêu tả những sắc

thái nội tâm của nhân vật chính là con đƣờng khám phá cái tôi bí ẩn của con

ngƣời. Việc miêu tả con ngƣời có chân thực hay không phụ thuộc vào khả

năng nhà văn điều tiết những phẩm chất tốt và xấu của mỗi nhân vật và chiều

sâu thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật. Vì thế, một trong những tiêu

chí đánh giá tài năng của nhà văn trong sáng tạo là việc thể hiện thành công

thế giới nội tâm của con ngƣời.

Nhà văn Cao Duy Sơn sinh ra và lớn lên ở thị trấn Cô Sầu, huyện Trùng

Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tình yêu quê hƣơng, sự gắn bó với mảnh đất giàu

truyền thống, am hiểu những nét đẹp văn hóa và con ngƣời miền núi của nhà

văn thấm sâu vào những trang văn. Thế giới nội tâm ngƣời miền núi qua ngòi

bút Cao Duy Sơn trở nên sống động và hấp dẫn lạ kì. Nhà văn thƣờng đặt

nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột để nhân vật tự bộc lộ và miêu

tả nội tâm nhân vật nhiều chiều, nhiều cung bậc và luôn biến chuyển.

3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột để nhân vật tự

bộc lộ

Thực chất, sắc thái nội tâm con ngƣời dù phức tạp đa dạng đến đâu cũng

vẫn là hệ quả của biến cố trong cuộc sống. Và biến cố trong cuộc sống lại tác

động trực tiếp tới những chuyển biến trong nội tâm con ngƣời, là cơ sở để

nhân vật vận động theo một hƣớng mới. Nắm vững quy luật đó, nhà văn Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Duy Sơn rất chú trọng những biến cố trong cuộc đời nhân vật.

37

Thầy giáo Hạc trong tác phẩm Ngôi nhà xưa bên suối đƣợc Cao Duy Sơn

xây dựng nhƣ một hình mẫu lí tƣởng về nhân cách. Thầy là ngƣời Hà Nội,

tình nguyện lên Mục Mã dạy học và đƣợc phân công vào Páo Lò - huyện xa

nhất tỉnh. Cô học trò tên Bền đẹp nhƣ một nàng tiên trên trời đem lòng yêu

thầy. Thầy Hạc bị kỉ luật, bị luân chuyển trƣờng, bị hãm lƣơng. Mấy năm sau,

nàng tiên xứ Páo Lò lại trở thành đồng nghiệp của thầy. Thầy Hạc phải chịu

bao rắc rối vì bị nghi ngờ “là chủ nhân sản phẩm trong bụng nàng tiên”. Cho

đến khi Bền tới gặp hiệu trƣởng nói rõ đứa trẻ trong bụng cô là con của ngƣời

bạn trai cùng học đã nhập ngũ vào Nam chiến đấu, thầy Hạc mới đƣợc minh

oan. Kể lại những biến cố trớ trêu trong cuộc đời thầy giáo Hạc, nhà văn

muốn khắc tạc chữ "tâm" sáng trong và lòng nhân hậu của một ngƣời thầy.

Khi thầy Hạc đã lập gia đình, Bền để lại đứa con gái mới hơn một tuổi của

mình ở nhà thầy với lá thƣ nhờ vợ chồng thầy nuôi giúp, và mƣời mấy năm

sau, cô đột ngột trở lại xin đón con đi. Cao Duy Sơn đã đặt nhân vật vào tình

huống tâm lí xung đột trái chiều buộc phải lựa chọn để nhân vật tự bộc lộ.

Những băn khoăn, trăn trở, lo lắng, xót xa chan chứa tình ngƣời của ngƣời

cha - ngƣời thầy đã đƣợc thể hiện vô cùng xúc động. Nhà văn không miêu tả

mà để nhân vật tự giãi bày:

“Tôi thấy trong tôi đang có một nhà tù, phạm nhân trong đó là tôi đang

không có cách nào thoát ra. Cái không tốt trong tôi chính là đứng giữa, nửa

muốn cho cái Lữ theo mẹ nó, một nửa không muốn xa nó. Cứ nghĩ phải chia

tay với con lòng tôi nhƣ có ai cầm dao cắt từng nhát. Đau xót lắm anh ạ.

Nhƣng con của ngƣời ta sinh ra mình không trả hóa là kẻ tim bằng sắt bằng

gang. Cho nó đi hóa ra mình là kẻ mắt trắng môi thâm chỉ muốn tống cổ con

nuôi ra cửa cho rảnh, để đƣợc ôm toàn vẹn đứa con đẻ. Tôi đâu làm đƣợc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những việc bất nghĩa đó.”

38

Trƣớc sóng gió cuộc đời, bị nghi ngờ về nhân cách, với nghị lực của mình

thầy Hạc vẫn vƣợt lên đứng vững. Nhƣng giờ đây, khi nghĩ đến việc phải xa

đứa con nuôi mình đã hết lòng yêu thƣơng nhƣ con đẻ, thầy cảm thấy đau đớn

vô cùng. Nhà văn không khắc họa nhân vật nhƣ một thánh nhân để ngƣỡng

vọng mà xây dựng một nhân vật vừa đời thƣờng vừa cao cả. Qua những lời

tâm sự của thầy Hạc, ngƣời đọc xúc động nhận ra sự lƣỡng lự giằng xé kia

không phải là biểu hiện của lòng ích kỉ. Cội nguồn của nó là tình phụ tử, là

tấm lòng ngƣời cha sâu rộng vô bờ. Dù Lữ đã “là một phần của cuộc đời

thầy”, thầy giáo Hạc vẫn khuyên nhủ em tha thứ và trở về với mẹ.

Trong tác phẩm Nơi đây không một bóng người, nhà văn đã mang đến cho

ngƣời đọc những cảm nhận ban đầu vô cùng trong sáng về chú bé ngƣời - khỉ

có tâm hồn trong trẻo, hồn nhiên qua chi tiết miêu tả ngoại hình của Ò Lình.

Ấn tƣợng ấy trở nên sâu sắc, trọn vẹn khi chứng kiến cảnh Ò Lình xông vào

đám cháy cứu lũ trẻ - NHỮNG CON NGƢỜI mà chú bé mới nhìn thấy vài lần ở cái

“thế giới lạ lùng” nó vừa khám phá. Mƣời bốn tuổi, Ò Lình mới biết ở ngoài khu

rừng hai mẹ con đang sống có thế giới của con ngƣời. Mẹ Ò Lình vẫn dặn:

“Không đƣợc rời khỏi khu rừng này, nếu không sẽ gặp nguy hiểm”. Thấy nhà trẻ

bị cháy, không chút do dự, Ò Lình đã lao vào đám lửa cứu lũ trẻ. Soi vào tâm

hồn trong sáng ấy, ngƣời đọc bỗng giật mình nhận ra sự so sánh đầy ẩn ý của

nhà văn. Phải chăng khi con ngƣời ấu trĩ và mang định kiến sẽ hồn nhiên làm

điều ác, gây bi kịch cho những ngƣời hồn nhiên làm điều tốt ở đời ?

Đau đớn vì bị vợ phản bội, dù vẫn sống cùng vợ con nhƣng Thùng (Mùa

én gọi bầy) không thể tha thứ. Ngƣời đọc có cảm giác sự thù hận, cố chấp của

Thùng cứ đầy lên theo năm tháng. Chỉ đến khi ngƣời vợ cùng đứa con bé nhỏ

ra đi, Thùng mới sực tỉnh. Nhân vật thành thực giãi bày: “đã có lúc tao muốn

tha thứ cho cô ấy, nhƣng sự cố chấp lâu ngày đã bám rễ một cách hèn hạ vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đầu óc mình”. Những suy tƣ mà Thùng giấu kín đến gần chục năm trời đƣợc

39

bộc lộ khi hạnh phúc chỉ còn trong hi vọng mong manh. Nhƣng dù sao, sự

thức tỉnh muộn màng ấy cũng làm lòng ngƣời ấm lại bởi nhận ra thù hận chƣa

bao giờ tiêu diệt đƣợc lòng nhân ái và niềm khao khát yêu thƣơng.

Trong các sáng tác của Cao Duy Sơn, mỗi khi nhà văn để nhân vật tự bộc

lộ nội tâm trong tình huống tâm lí xung đột là một lần gây bất ngờ cho độc

giả. Nhân vật hiện ra chân thực, đầy đặn nhƣ đang tồn tại trong cuộc sống

này. Nhân vật Làn Dì lẳng lơ, bội bạc (Thằng Hoán) chỉ bộc lộ hết sự đê tiện,

bỉ ổi của mình khi quay lại đón con trai sau ba năm bỏ đi theo nhân tình. Thấy

Hoán không đồng ý để mình đƣa con đi, “Thị thầm nguyền rủa: (...) Trời ơi!

Cái thằng lùn vƣợn cào, sao nó không chết đi cho đỡ khổ mình”. Rồi thị

hét lên: “Thằng Mìn không phải con mày đâu.”

Nhân vật Khin (Dưới chân núi Nục Vèn) khi đặt tay vào cò súng chuẩn bị

giết ngƣời theo sự xúi giục của ngƣời cha “bỗng run rẩy nhƣ lên cơn sốt”.

Tâm trạng nhân vật trong khoảnh khắc ấy đƣợc nhà văn miêu tả cụ thể và sắc

nét chứ không mơ hồ, mờ nhạt. Sự ghen tuông bởi tình yêu không đƣợc đáp

đền, nỗi sợ hãi khi sắp làm điều ác, tình cảm chân thành của chàng trai ngoài

ba mƣơi tuổi mới biết yêu, sự hối hận khi suýt nữa “gây nên mối thù oán đau

xót cho dân bản”, và cả lòng biết ơn của Khin với dân bản Luông - những

ngƣời “đã thƣơng yêu đùm bọc một đứa trẻ mồ côi, con của một ngƣời đàn bà

xấu số có thân phận cay đắng” đều trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Diễn biến

tâm trạng của nhân vật giúp ngƣời đọc nhận ra bản chất tốt đẹp của chàng trai

cho dù nơi đại ngàn vẫn còn cái xấu, cái ác đang hiện diện.

Bình thƣờng, sự phức tạp, phong phú cũng nhƣ chiều sâu tâm hồn con

ngƣời bị che kín bởi “con ngƣời bên ngoài”. Chỉ trong những tình huống căng

thẳng, khi con ngƣời phải đứng trƣớc sự lựa chọn, đối diện với đƣợc - mất,

những ý nghĩ sâu kín, nơi khuất nẻo của tâm hồn mới phơi mở tự nhiên, chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thực và trọn vẹn nhất. Khi đó bản chất của con ngƣời cũng đƣợc bộc lộ đầy

40

đủ. Cao Duy Sơn đã thành công khi khám phá “con ngƣời bên trong” của

nhân vật bằng cách đặt nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột để

nhân vật tự bộc lộ. Nhà văn không áp đặt, cũng không can thiệp vào quá trình

tự bộc lộ đó, vì vậy hiện thực tâm lí con ngƣời có độ sâu hơn.

3.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều, nhiều cung bậc và luôn

biến chuyển

Hành trình khám phá, miêu tả những sắc thái nội tâm của con ngƣời không

dễ dàng và đơn giản. “Con ngƣời bên trong” của mỗi ngƣời là một thế giới

riêng biệt đầy bí ẩn. Với sự tiếp cận thi pháp hiện đại, khi miêu tả nhân vật,

Cao Duy Sơn hƣớng vào thế giới nội tâm với những sắc thái đa dạng,

phong phú, tinh vi, phức tạp, nhiều cung bậc và luôn biến chuyển.

3.2.2.1. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều chiều

Thế giới nội tâm con ngƣời vô cùng bí ẩn và rất khó nắm bắt. Nhà văn có

thể trực tiếp biểu hiện bằng ngôn ngữ của chính mình với tƣ cách là ngƣời kể

chuyện, sử dụng độc thoại nội tâm và đối thoại trong nội tâm của nhân vật,

hoặc miêu tả những biểu hiện của cảm xúc, nghĩ suy, tâm trạng ở nét mặt, ánh

mắt, nụ cƣời và hành động. Trong các tác phẩm, nội tâm nhân vật đƣợc Cao

Duy Sơn soi chiếu nhiều chiều: từ chiều sâu tâm hồn (từ bên trong) và từ

dấu hiệu bề ngoài (từ bên ngoài).

Để nhân vật tự phơi bày “con ngƣời bên trong” của chính mình, các nhà

văn thƣờng sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm là hình

thức đặc biệt của đối thoại. Theo quan niệm của Pospelov: “ Lời độc thoại nội

tâm là lời không nhắm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người

với người” [35, tr.31]. Độc thoại nội tâm thƣờng xuất hiện ở những dạng thức

sau: “Ngôn từ trực tiếp không diễn nên lời của các nhân vật, hoặc ngôn từ

của tác giả nhân danh mình mà nói nhưng cũng có thể sử dụng từ vựng hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giọng điệu của nhân vật hoặc cũng có thể là đối thoại bên trong.” [57].

41

Độc thoại nội tâm không phải là thủ pháp mới lạ. Trong phƣơng thức kể của

truyện ngắn hiện nay, nó ngày càng có vai trò quan trọng, trở thành một thủ

pháp nghệ thuật có hiệu lực để bộc lộ quá trình tự ý thức của nhân vật.

Tác phẩm Âm vang vong hồn là một câu chuyện buồn về những thân phận

dở dang và chuyện tình dang dở. Khuề yêu Ban và đƣợc Ban trao gửi tình yêu

mong gắn bó trọn đời. Nhƣng khi bị hai ngƣời đàn ông cũng muốn lấy Ban

làm vợ xông vào đánh, “Khuề run rẩy thầm nghĩ: Phen này khéo chết! Ý nghĩ

chống trả bỗng tan rã, đôi mắt mờ đi vì hoảng sợ, Khuề ao ƣớc có phép lạ

vách đá sau lƣng nứt rạn đột ngột rồi biến khỏi đây trong nháy mắt! (...) Tai

Khuề ù đặc, mặt méo xệch một cách thảm hại. Từ thẳm sâu nỗi sợ hãi, Khuề

run rẩy với ý nghĩ “Hay tất cả bọn ngƣời này bày mƣu giết mình. Cả Ban

nữa...? ”. Sự sợ hãi, bạc nhƣợc của nhân vật đƣợc soi chiếu từ bên trong với

những ý nghĩ, ƣớc ao, suy đoán thầm kín và đƣợc cảm nhận từ dấu hiệu

bên ngoài: “đôi mắt mờ đi”, “mặt méo xệch một cách thảm hại”.

Cách miêu tả nội tâm nhiều chiều nhƣ vậy khiến cho sự đớn hèn cũng có

chân dung. Khuề đã hèn nhát phủ nhận tình yêu, phủ nhận những phút giây

nồng nàn tràn ngập yêu thƣơng mà hai ngƣời vừa mới có: “Không... đừng

tin... Tôi không nhận lời yêu cô ấy. Tôi với Ban không có chuyện gì với nhau

cả”. Suốt một đời cô độc, lão Khuề không thôi day dứt, ân hận vì hèn yếu

không dám bảo vệ tình yêu. Mấy chục năm sau, tâm trạng nhân vật còn đƣợc

soi chiếu theo chiều thời gian: từ hiện tại nhìn về quá khứ. Trên đƣờng đƣa bà

Ban đến nơi yên nghỉ cuối cùng, lão Khuề càng thấy cay đắng, ân hận trong

lòng: “Trời ơi, giá nhƣ ngày đó tay lão cứ nắm lấy hai hòn đá thế này, giáng

thẳng vào đầu gã thợ rèn và phó cối, thì đời lão giờ đâu đến nỗi này... Hèn

quá, ngu quá Khuề ơi !”

Diễn biến tâm trạng của nhân vật Hoán (Thằng Hoán) khi phát hiện vợ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phản bội ngay tại nhà mình lại đƣợc nhà văn soi chiếu từ những biểu hiện bề

42

ngoài. Thấy ánh đèn bị tắt phụt và tiếng động trong buồng, Hoán giật mình:

“Hình nhƣ trên giƣờng có hai ngƣời đang nằm. Ai thế nhỉ?” Duy nhất có một

lời tự vấn khi hoài nghi và thắc mắc xuất hiện trong tâm trí nhân vật. Còn lại

là hàng loạt chi tiết miêu tả bề ngoài và giọng nói của Hoán:

- “Hoán sững ngƣời, đôi mắt trợn trừng nhƣ ngƣời lên cơn động kinh nhìn

cắm vào thân thể lõa lồ của Làn Dì.”

- “Vụt ! Một cánh tay vung ra.”

- “…giọng trầm đục nhƣ rít qua kẽ răng”

- “Đôi bàn tay thƣờng ngày vẫn chậm chạp, nay nhanh nhẹn và chính xác

đến kì lạ.”

- “Hoán nhìn hắn lạnh lùng rồi cất giọng bình tĩnh.”

- “Đôi mắt vằn đỏ nén cơn giận dữ đang đè nặng ngực, làm cái u trên vai cứ

trồi lên thụt xuống.”

Ngƣời miền núi vốn trầm lặng, tâm trạng, tính cách chủ yếu đƣợc bộc lộ

qua hành động. Cao Duy Sơn đã lựa chọn chi tiết để bao nhiêu kinh ngạc, sục

sôi, dữ dội trong lòng Hoán hiện lên qua đôi mắt, giọng nói, hành động tát vợ,

để rồi bất ngờ “bùng nổ” bằng hành động rạch mặt nhân tình của vợ. Nhà văn

muốn tô đậm tính cách con ngƣời yêu ghét phân minh, không suy tính đắn đo,

phản ứng tức thời không khoan nhƣợng với cái xấu. Đó là bản tính hồn nhiên,

trung thực, thẳng thắn của ngƣời miền núi.

Trong tác phẩm Dưới chân núi Nục Vèn, tâm trạng nhân vật Khàng đƣợc

miêu tả theo chiều hƣớng từ biểu hiện bên ngoài đến suy nghĩ bên trong. Là

con lí trƣởng, khi cách mạng thành công, Khàng ôm mối thù hận vì đám

ruộng nhà nó phải trả lại cho những ngƣời nghèo, vì “Cách mạng về không

cho nó chém cái gì nó muốn”. Nhà văn chỉ ra sự thay đổi bề ngoài nhằm tô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đậm bản chất tàn ác, thâm hiểm không hề thay đổi của lão Khàng. Biểu hiện

43

rõ nhất của bản chất ấy là cái sắc lạnh của đôi mắt rắn và những suy nghĩ,

tính toán nhằm chống phá cách mạng:

“Lão bỗng nhếch mép cƣời, cái miệng mấy chục năm đã đóng kín nay lại

mở, (...) Duy có đôi mắt con rắn của lão vẫn lạnh, lão gật gù khoái trá. (…)

Chỉ còn lão Pạc thôi, lão mà gật thì cả bản này sẽ nghe theo. Tối nay ta sẽ

sang nhà lão tìm cái lời gió nhẹ chui vào tai, nói cái điều quả núi to sắp đổ, thì

cái đầu lão sẽ chuyển thôi...”

Các nhân vật với những nét tính cách đa dạng là sản phẩm của ngòi bút

sáng tạo. Cao Duy Sơn đã thành công khi miêu tả chân thực, khách quan thế

giới nội tâm nhân vật, và thế giới nội tâm ấy chính là sự thể hiện khách quan

và chân thật nhất bản chất của con ngƣời. Do cách miêu tả nội tâm nhiều

chiều, các nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn dù ở thái cực nào, tốt

hay xấu, cao cả hay tầm thƣờng, đều tự do và chủ động bộc lộ bản chất của

mình qua những biến chuyển trong nội tâm.

3.2.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật nhiều cung bậc và luôn biến chuyển

Miền rừng núi bao đời đƣợc coi là nơi âm u, rùng rợn, chốn rừng thiêng

nƣớc độc, có những con ngƣời dữ tợn, thô bạo, chỉ sống theo bản năng, tính

cách giản đơn, ngờ nghệch. Cùng với các nhà văn viết về đề tài miền núi, Cao

Duy Sơn đã mang đến cho ngƣời đọc hiểu biết mới, cái nhìn đúng đắn và

chân thật về đời sống và con ngƣời miền núi. Nhân vật của ông có quá trình

diễn biến tâm lí phức tạp, tinh tế, sắc thái nội tâm đa dạng, phong phú, sự

chuyển hóa cảm xúc diễn ra rất nhanh.

Tác phẩm của Cao Duy Sơn ẩn chứa sự đa dạng của các sắc thái nội tâm

con ngƣời. Sự tuyệt vọng, hoảng loạn lúc cái chết cận kề, nỗi day dứt ân hận

sau khi làm điều ác, sự đớn đau cay đắng vì bị phản bội, tâm trạng chênh

chao, niềm yêu thƣơng khắc khoải thầm kín, những nhớ nhung luyến tiếc đeo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đẳng cả một đời, niềm tự hào, ngƣỡng mộ, biết ơn, sự căm ghét, hận thù,

44

cố chấp… tất cả đều đƣợc nhà văn khám phá, nắm bắt và miêu tả rất thành

công. Đặc biệt, khi đặt nhân vật vào những tình huống tâm lí xung đột, Cao

Duy Sơn đã diễn tả một cách tự nhiên, sinh động những suy nghĩ thầm kín,

phức tạp, những cung bậc cảm xúc, trạng thái tâm lí và sự biến chuyển nội

tâm của con ngƣời - vốn là một mảng hiện thực rất trừu tƣợng không phải

nhà văn nào cũng phản ánh thành công.

Tâm trạng của nhân vật Lu (Song sinh) khi bị ngƣời em sinh đôi của chồng

cƣỡng đoạt ngổn ngang, chất chồng các sắc thái tâm lí, cảm xúc. Nhận ra

ngƣời đó là Sìu chứ không phải là Du, “Lu bàng hoàng”. Sự thật phũ phàng

không thể tin nổi khiến lí trí và cảm giác nhƣ tê liệt. “Nàng muốn khóc mà

không sao bật thành tiếng, muốn gào thét mà cổ họng ứ nghẹn”. Sau khoảnh

khắc đó, điều Lu cảm nhận rõ rệt nhất là nỗi nhục nhã, xấu hổ, nàng đớn đau

cất lời cay đắng: “Mày bị ma làm, mày điên thật rồi! Không ai làm thế, làm

thế không còn là ngƣời nữa. Mày lấy dao giết chết tao đi thôi Sìu ơi”. Vậy mà

Sìu vẫn thản nhiên: “tôi chỉ muốn đƣợc thế vào chỗ thằng Du, kiếp này muốn

lấy Lu làm vợ…”. Lu hoảng hốt trƣớc lời lẽ của kẻ không bận tâm đến sự

phải trái của lẽ đời. Trong tâm trí Lu, cùng một lúc xuất hiện sự giận dữ, ê chề

tuyệt vọng, muốn gào lên cho hả oán hờn lại lo sợ và hổ thẹn nếu chuyện lọt

tai ngƣời khác. Dòng tâm trạng sau lúc ào ạt nhƣ thác lũ, bỗng lắng sâu, rã rời

trong nỗi xót xa thân phận: “Trời chỉ cho ngƣời một lần sống sao bỗng ra

éo le thế này ?”

Còn lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng) sau bao năm săn tìm, bao năm

khao khát trả thù, khi giết đƣợc con hổ đã gây ra cái chết thảm thƣơng cho vợ

lại thấy tâm trạng mình thật lạ:

“Tâm trạng lúc này mừng hay buồn lão không sao tách bạch đƣợc rõ ràng.

Tự nhiên lão muốn khóc. (...). Buồn có, mừng có, trống rỗng hoang mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng có. Cả cay đắng, tủi nhục và nhớ thƣơng cũng ào đến nhƣ những cơn

45

sóng lũ. Lão thấy mình đang bị đè bẹp, không sao gƣợng mình dậy đƣợc. Đột

nhiên lão nghe trong lòng những cảm xúc lẫn lộn đang dần bị tóp lại, và hiện

lên nỗi lo sợ mơ hồ, chầm chậm lấn tới, gây một trạng thái hoang mang,

bất ổn.”

Cứ tƣởng khi giết đƣợc kẻ thù, lão Vƣợc sẽ vô cùng mừng vui và thanh

thản. Nhƣng hiện lên qua câu chữ của nhà văn là tâm trạng vô cùng phức tạp

của nhân vật. Những trạng thái tâm lí và cảm xúc đối lập nhau cùng hiện diện,

đan xen. Kẻ thù đã đến tận nhà lão và bị lão bắn chết trƣớc mặt bé Na. Lão

Vƣợc không muốn nói, nên con bé không hề biết con hổ cụt tai đó mƣời năm

trƣớc đã giết chết mẹ nó. Con bé mồ côi mẹ nhìn thấy hổ con liếm vết thƣơng

cho hổ mẹ rồi rúc đầu vào vú mẹ liền van vỉ trong tiếng nức nở: “Pa ơi, pa

đừng giết nó pa nhé, mẹ nó…mẹ nó đã chết rồi…!” Tiếng khóc của bé Na

làm “ngực lão nhói buốt”, và lão khóc. Cao Duy Sơn đồng thời miêu tả diễn

biến tâm trạng của hai cha con lão Vƣợc trƣớc cái chết của con hổ mẹ. Tâm

trạng của hai nhân vật không thuần nhất mà có nhiều cung bậc và luôn biến

chuyển. Ngƣời đọc nhận ra sự chuyển biến tâm trạng của lão Vƣợc khi soi

vào “tấm gƣơng” tâm hồn trong sáng của bé Na. Tiếng khóc của đứa bé mồ

côi mẹ “khóc thƣơng cho tình cảnh côi cút của con thú” đã lay động trái tim

chất chứa đau đớn và hận thù, khơi gợi tình yêu thƣơng từ lâu đã bị khát khao

trả thù vùi lấp. “Lão thƣơng con lão, lão thƣơng cả tình thƣơng của nó với con

hổ con lúc này. (...) Không ! Lão không có quyền bắn con thú kia, và không

có quyền xua nó khỏi cánh rừng này.”

Trong tác phẩm Dưới chân núi Nục Vèn, nhà văn Cao Duy Sơn đã miêu tả

sự biến chuyển nội tâm của nhân vật Khin trong một tình huống vô cùng căng

thẳng. Lão Khàng - cha của Khin - ôm mối thù ngấm tận xƣơng tủy với cách

mạng vì đã đem đám ruộng nhà lão trả lại ngƣời nghèo, thù nhất là chủ nhiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bao Cạ "đã bắt nó đƣa lên huyện cải tạo khi nó cầm dao chém vào những

46

ngƣời định xuống cày ở đám ruộng nhà nó”. Thấy con trai đau khổ ôm mối

tình đơn phƣơng với con gái của Bao Cạ, lão Khàng đổ thêm hận thù vào cái

bụng Khin đang “ngấm ngầm ghen thù nhƣ cái chớp trời đợi cái sấm to”.

Trong đêm tối, Khin nấp bên đƣờng để giết Cạ. Nhƣng vừa nhìn thấy Cạ,

những tức tối, hận thù tan biến. Khin thấy căng thẳng rồi run rẩy, đầu óc mê

mụ không còn can đảm làm cái điều khủng khiếp vừa mới đây nó định làm.

Ngay lập tức Khin thấy ân hận và hổ thẹn. Những câu hỏi liên tiếp vang lên

vừa tự vấn vừa tự phán xét:

“Phạ ơi, suýt nữa thì nó giết chết một ngƣời mà nó đã yêu thầm nhớ vụng,

gây nên mối thù oán đau xót cho dân bản. Lúc ấy nó biết đi đâu sống? Rời bỏ

cái bản Luông này ƣ? Không đƣợc đâu ! Bản Luông này Khin chịu ơn nhiều

lắm. Ai đã cho nó cái chữ? Ai đã dậy nó cầm cái cày? Ai đã cho nó biết cách

cầm cái búa, cái đục đập hòn đá, khoét cái cây dựng nhà? Ai đã thƣơng yêu

đùm bọc một đứa trẻ mồ côi, con của một ngƣời đàn bà xấu số có thân phận

cay đắng?”

Phải là ngƣời nắm vững quy luật tâm lí con ngƣời mới có thể miêu tả linh

hoạt, chân thực tâm trạng nhân vật đến thế. Bản chất Khin là tốt, chỉ vì bị cha

lợi dụng và kích động nên nhất thời nghe theo. Khi phát hiện có ba bóng đen

đuổi theo Cạ, tâm lí của nhân vật chuyển biến rất nhanh: nghi ngờ, phán đoán,

khẳng định, tính toán. “Đúng thám báo rồi. Hồi này chúng hay sang phục kích

bắn lén và bắt cóc ngƣời của ta đƣa sang bên kia biên giới”. Khin đã bắn chết

tên thám báo cứu Cạ. Cạ thoát khỏi hiểm nguy nhƣng chàng trai vừa cứu cô

mãi ra đi mà chƣa kịp nói “cái lời hoa mới nở”.

Diễn biến tâm lí nhân vật của Cao Duy Sơn rất tự nhiên, hợp quy luật vận

động của tính cách. Quá trình chuyển hóa cảm xúc diễn ra rất nhanh. Đặc biệt

khi miêu tả quá trình đó trong nội tâm nhân vật, nhà văn thƣờng đề cao vai trò

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của tình thƣơng và lòng vị tha. Dù bị Sìu lừa gạt cƣỡng đoạt, Lu vẫn xin

47

chồng tha chết cho hắn (Song sinh). Nhận ra cuộc sống chẳng bao giờ hết đau

thƣơng nếu ngƣời và thú cứ gieo đau thƣơng cho nhau, lão Vƣợc quyết định

từ bỏ hận thù (Cuộc báo thù cuối cùng). Nhân vật Khin (Dưới chân núi Nục

Vèn) sau những phút giây căng thẳng, giằng xé, từ thù hận trở về với yêu

thƣơng đã quyết định cứu ngƣời chứ không giết ngƣời nhƣ lời cha xúi giục.

Thế giới nội tâm con ngƣời là một mảng hiện thực rất trừu tƣợng. Các tác

phẩm của Cao Duy Sơn chứng tỏ nhà văn phản ánh mảng hiện thực đó không

chỉ đa dạng, bề bộn mà luôn vận động. Sự vận động của nhân vật, xét cho

cùng, xuất phát từ thế giới nội tâm rồi đi đến hành động. Ta có thể bắt gặp

cách miêu tả nội tâm nhƣ vậy khi nhà văn khắc họa các nhân vật: Ò Lình (Nơi

đây không một bóng người), Hoán (Thằng Hoán), lão Khuề (Âm vang vong

hồn), thầy Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối), Dồ (Hòn bi đá màu trắng)…

Nhân vật trung tâm của bức tranh xã hội miền núi trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn là hình tƣợng con ngƣời miền núi. Đó là những con ngƣời nhỏ bé,

bình dị, những số phận bất hạnh có cuộc đời nhiều ngang trái, éo le nhƣng

không nguôi khát vọng tình yêu và niềm tin vào cuộc sống. Đó là những con

ngƣời nhân hậu, cao thƣợng, chung thủy, nghĩa tình và giàu lòng vị tha, cũng

có ngƣời lầm đƣờng lạc lối, đánh mất mình trong dòng đời bộn bề nghiệt

ngã…Từng nhân vật, từng mảnh đời thầm lặng mà không mờ nhạt góp phần

làm nên thế giới nhân vật đa dạng trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.

Bằng nhiều cách khám phá và thể hiện độc đáo, Cao Duy Sơn đã khắc họa

hình tƣợng con ngƣời miền núi một cách sinh động, sâu sắc và đa chiều. Nhà

văn đã tìm cách đi vào chiều sâu không cùng của tâm hồn con ngƣời, khám

phá, đồng cảm và chia sẻ. Con ngƣời xuất hiện trong truyện ngắn Cao Duy

Sơn là một thực thể trần tục với tất cả chất ngƣời của nó: có tốt và xấu, cao cả

và thấp hèn, ích kỉ và vị tha, có dục vọng, tha hóa, có thức tỉnh, tự nhận thức

và biết hƣớng thiện... Qua từng số phận cá nhân, từng tính cách, nhà văn thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con ngƣời rất sâu sắc. Truyện ngắn

48

của Cao Duy Sơn đã “đem đến cho người đọc mảng sống đậm đặc, tươi ròng

về những con người miền núi, vừa cổ kính vừa hiện đại, mộc mạc, chân chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và không đánh mất mình trong những hoàn cảnh éo le, đau đớn.” [48]

49

CHƢƠNG II

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

Mọi vật trên thế giới đều tồn tại trong không gian và thời gian, thế giới

nghệ thuật và nhân vật văn học cũng vậy. Thời gian nghệ thuật và không gian

nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Thi pháp học hiện đại

quan niệm không gian, thời gian là nơi “ phản ánh trong cái hữu hạn của

mình một đối tượng là thế giới bên ngoài tác phẩm” (Lôtman). Không gian

nghệ thuật và thời gian nghệ thuật không chỉ có chức năng làm “phông nền”

cho nhân vật mà tự nó có đời sống riêng, tồn tại độc lập tƣơng đối với cốt

truyện và nhân vật, trở thành công cụ truyền tải tƣ tƣởng và là dấu hiệu

nhận biết phong cách sáng tác của nhà văn.

Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật là “những phẩm chất định

tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc tiếp nhận toàn

vẹn thực tại nghệ thuật và tổ chức nên kết cấu của tác phẩm” [2, tr.304].

Không gian, thời gian là hai phạm trù tƣơng ứng, thống nhất chặt chẽ trong

một chỉnh thể nghệ thuật. “Không gian, thời gian nghệ thuật chính là hình

thức tồn tại của hình tượng.” [10, tr.187]. Không gian, thời gian nghệ thuật

trong truyện ngắn là yếu tố để thể hiện điểm nhìn của tác giả về cuộc đời

thông qua hình tƣợng nhân vật, là hình thức cắt nghĩa con ngƣời, đem đến cho

ngƣời đọc những khám phá mới, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong

ba tập truyện ngắn, nhà văn Cao Duy Sơn đã có những thành công nhất định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi xây dựng thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật.

50

1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật

Theo nhà lí luận văn học Nga D. X. Likhachev thì mỗi tác phẩm có một

không gian sống riêng biệt, giới hạn của nó phụ thuộc vào sức tƣởng tƣợng

của nhà văn và nhu cầu cấu tạo của tác phẩm. Không gian nghệ thuật là hình

thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của nhà văn

nhằm biểu hiện con ngƣời và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.

“Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm

văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy các quan niệm về thế

giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học.” [32, tr.134]

Theo giáo sƣ Trần Đình Sử, “không gian nghệ thuật là mô hình thế giới

của tác giả cụ thể, được biểu hiện bằng ngôn ngữ của các biểu tượng không

gian”. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật là sự mô hình hóa các

mối liên hệ của bức tranh thế giới nhƣ thời gian, xã hội, đạo đức. Không gian

nghệ thuật có thể là mô hình không gian điểm, không gian tuyến, không gian

mặt phẳng, hoặc có thể chia ra không gian bên trong và không gian bên

ngoài… Nguyễn Thái Hòa chia thành không gian bối cảnh, không gian sự

kiện, không gian tâm lí, không gian kể chuyện, không gian đối thoại [14].

Trong đó không gian bối cảnh là không gian rộng lớn nhất mà câu chuyện xảy

ra, bao gồm bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh xã hội, bối cảnh tâm trạng.

1.2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

Văn xuôi viết về đề tài miền núi có nét đặc sắc và cũng là ƣu thế so với

văn xuôi viết về các vùng miền khác là sở hữu một không gian có sức hấp dẫn

và vẻ đẹp riêng không nơi đâu có. Không gian nghệ thuật là một trong những

yếu tố quan trọng tạo nên “hƣơng vị” miền núi đặc trƣng cho những trang viết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của Cao Duy Sơn. Dựa trên khái niệm và những quan niệm về không gian

51

nghệ thuật, chúng tôi tiến hành khảo sát ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn

ở phƣơng diện không gian địa lí và không gian tâm lí.

1.2.1. Không gian địa lí

Ba tập truyện ngắn, mỗi tác phẩm mở ra một không gian riêng nhƣng có

những địa danh và hình ảnh trở đi trở lại: Cô Sầu, bản Luông, Pác Gà, Mục

Mã, sông Quy, núi Phia Phủ… Những cái tên gắn với miền đất Cao Duy Sơn

vô cùng gắn bó, là cội nguồn nuôi dƣỡng cảm hứng sáng tác của ông. Nhà văn

từng bộc bạch: “Tôi sinh ra và lớn lên ở thị trấn Cô Sầu (Cao Bằng), cha là

người Kinh, mẹ là người Tày. Mọi ấn tượng, kỉ niệm, kí ức của tôi đều gắn bó

với mảnh đất này và cứ đầy lên mãi, tự một lúc nào đó thì “bung” ra.

Tiểu thuyết, truyện dài, ngắn của tôi đều bắt nguồn từ nơi ấy…” [47]

Không gian trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn là không gian của miền

rừng núi phía Bắc xa xôi với núi cao, vực sâu, rừng cây, nƣơng bãi, sông suối,

mƣa rừng gió núi... vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Những tên đất

tên bản gợi cảm giác vừa lạ vừa xa: vùng Pác Miều, bản Pắc Mặn, bản Tà

Phàn, bản Cô Sầu, đèo Keng Sly, chợ Âu Lâm, bản Luông, bản Nặm Loát,

sông Slam Luồng, núi Nục Vèn, núi Phia Phủ, Cổ Lâu… Các địa danh xuất

hiện trong hầu hết các tác phẩm (20/22 tác phẩm) đã trở thành chất liệu gợi tả

không gian mang đậm đặc trƣng của miền núi phía Bắc nói chung và đất Cao

Bằng nói riêng, tô đậm tính chân thực của những câu chuyện kể. Trong truyện

ngắn của Cao Duy Sơn, có khi không gian địa lí nhƣ một khách thể thẩm mĩ,

có khi nó có chức năng làm nền cảnh cho sự vận động tính cách hoặc là dấu

hiệu phản ánh tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời, trở thành biểu tƣợng, tín hiệu

nghệ thuật.

1.2.1.1. Không gian địa lí nhƣ một khách thể thẩm mĩ

Trong ba tập truyện ngắn, không gian bối cảnh đƣợc nhà văn Cao Duy Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miêu tả không nhiều, có tả cũng kiệm lời, chủ yếu là chấm phá nhƣng gợi

52

đƣợc phong vị miền núi phía Bắc. Cách miêu tả của nhà văn rất linh hoạt, từ

đó không gian địa lí hiện lên khi rõ ràng, khi thấp thoáng, có lúc giao hòa

gắn bó, có lúc độc lập với con ngƣời.

Đến với mỗi câu chuyện, ngƣời đọc nhƣ đƣợc hòa vào không gian bất tận

của xứ sở lâm tuyền thơ mộng. Đó là cảnh xuân tràn đầy sức sống, rực rỡ sắc

màu của vạn vật chốn non ngàn: “những bông mận nở muộn nhƣ tuyết trắng

bên những cành đào rực đỏ dƣới chân núi khẽ đƣa trong gió xuân” (Hoa bay

cuối trời). Mƣa xuân ở vùng núi sao mà thơ mộng và yên ả, “những giọt mƣa

xuân trong nhƣ ngọc” (Hoa bay cuối trời) dƣờng nhƣ cũng phảng phất cái

hơi, cái hồn man mác của vùng cao: “Ở vùng núi, xuân đến dƣờng nhƣ đậm

đà và nét hơn mọi nơi. Mƣa nhƣ bụi rắc xuống từ đỉnh núi lên khắp khe

ngách, lối mòn, ken sƣơn sƣớt quanh những gốc lê già trổ bông nhƣ tuyết. Chỉ

những bóng ngƣời một màu chàm lặng lẽ đi nhƣ trôi về phía chợ.” (Chợ tình)

“Thu là thơ của đất trời…”. Chất thơ ấy hiện diện trong sắc màu, mùi

hƣơng, ánh nắng và cảm giác bồng bềnh khi con ngƣời hòa với cảnh mênh

mang: “Trƣa mùa thu yên tĩnh, một làn gió nhẹ lƣớt qua bãi cúc dại nở vàng

khắp chân đồi, lùa quanh thung lũng một mùi hƣơng dịu dàng hoang dã… Cái

hƣơng vị ngầy ngậy đăng đắng đó len cả vào đồng cỏ đã bắt đầu se khô. Một

vồng mây nhuốm nắng vàng, bồng bềnh trôi trên ngọn cây dẻ…” (Nơi đây

không một bóng người)

Buổi sớm mai thanh bình ở xứ núi thật trong trẻo và nên thơ: “Trời còn

sớm. Bình minh vẫn chƣa đủ sức xua tan màn sƣơng bao quanh những lƣng

núi. Đâu đó vọng về tiếng họa mi lảnh lót hót căng mảnh nhƣ tơ khiến cho

không gian nhƣ đƣợc kéo giãn trong suốt.” (Mưa phố). Dƣới ngòi bút của nhà

văn, từ bầu trời cao, màn sƣơng và tiếng chim đều trở nên quyến rũ lạ kì.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nắng sớm e ấp khiến cảnh mơ màng nhƣ trong mộng. Lắng tai nghe và

53

rộng mở tâm hồn, bỗng nhận ra cái trong trẻo của tiếng chim ca đang loang

rộng làm cho không gian mở ra trong suốt.

Khi màn đêm buông xuống, trời sao, làn gió nhẹ nhàng có nét gì đó rất

riêng, êm dịu vô cùng:

- “Bầu trời đầy sao đan nhau nhấp nháy nhƣ mắt ông trời đang ngồi thảnh

thơi nhìn xuống mặt đất. Một làn gió nhẹ thổi tới mang theo hƣơng vị nồng

của đất.” (Dưới chân núi Nục Vèn)

- “Đã cuối mùa thu. Khí lạnh từ núi phả xuống không ngăn đƣợc màu vàng

trong nhƣ lọc của trăng thu” (Hòn bi đá màu trắng)

Nhà văn Cao Duy Sơn đã tái hiện không gian địa lí ở nhiều thời điểm

trong năm (mùa xuân, mùa thu, mùa đông…) và trong ngày (sáng, trƣa, chiều,

tối). Khung cảnh thiên nhiên bao giờ cũng nhiều chi tiết đan cài, giao hòa.

Nhà văn chú ý nhấn mạnh màu sắc, âm thanh, mùi hƣơng, ánh sáng, thƣờng

gợi mở không gian rộng lớn chứ không phải là không gian nhỏ bé, hạn hẹp.

Không gian ấy mở theo chiều cao của bầu trời, rộng theo làn gió thổi trên

bờ bãi và thung lũng, quyện hƣơng vị nồng nàn của đất…

Thiên nhiên rộng lớn mang vẻ hoang sơ mộc mạc, còn phố núi hay thị trấn

ở vùng cao hiện ra thật ấn tƣợng. Những câu văn miêu tả nhƣng thực chất là

gợi khiến hình ảnh Háng Vài trở nên cổ kính: “Háng Vài giờ vẫn nguyên sơ

nhƣ hồi ngƣời Pháp sang áp đáo hồi thế kỉ mƣời chín. Vẫn những tƣờng nhà

không trát áo lộ đá hộc, mái ngói âm dƣơng nối nhau nhƣ những toa tàu bị bỏ

quên giữa lũng hoang.”(Hoa bay cuối trời). Và cảnh núi sông khi chiều buông

ấn tƣợng vô cùng: “Con đƣờng đá rộng hai bƣớc chân nằm nép bên sƣờn núi.

Phía bên phải là vách núi dựng đứng nhìn xuống mặt sông Gâm. Chỗ ngoặt

của con sông dƣới chân núi, dòng nƣớc lao xuống dừng lại thăm thẳm xanh

ngắt gây cảm giác rờn rợn lạnh lẽo. Mặt trời nhƣ bị những chàng núi khổng lồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vít xuống sau lƣng, nhƣng vẫn cố nhô lên rọi xuống mặt sông và con đƣờng

54

những luồng sáng vàng nhạt, thẳng tắp hình rẻ quạt.” (Người săn gấu). Miêu

tả thiên nhiên không nhiều nhƣng ấn tƣợng và giàu sức gợi, Cao Duy Sơn đã

khám phá và sáng tạo nên thế giới thiên nhiên giàu sức sống, đa sắc màu,

hùng vĩ và thơ mộng, đƣa ngƣời đọc đến với miền đất hoang sơ xa ngái chứa

bao điều bí ẩn, diệu kì, cảm nhận phong vị miền núi phía Bắc độc đáo,

khó quên.

1.2.1.2. Không gian địa lí là phông nền cho sự vận động tâm lí và

tính cách, là dấu hiệu phản ánh tâm tƣ, tình cảm của nhân vật

Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, thế giới sơn lâm không chỉ là đối tƣợng

miêu tả nhƣ một khách thể thẩm mĩ mà còn là phông nền cho sự vận động tâm

lí và tính cách nhân vật. Cảnh núi rừng, vực sâu trong buổi sớm giá buốt của

mùa đông vừa khơi gợi một không gian đặc trƣng của miền núi phía Bắc vừa

tạo dựng bối cảnh để nhân vật xuất hiện. Đó là “cánh rừng xa nhất, dày rậm

nhất”, “vách đá lƣng chừng núi gần nhƣ dựng đứng nhìn xuống bên dƣới là

vực sâu hút đến chóng mặt” (Người săn gấu). Không gian mở rộng ba chiều

khiến cái dữ dội, hiểm trở của núi cao vực sâu càng tăng lên gấp bội. Nơi

ngƣời cha của Thim đối mặt với con gấu là “một triền đá thoai thoải rộng

bằng chiếc chiếu nan” trƣớc cửa hang. Đối với ngƣời đi săn, khoảng cách

không đầy một tầm tay với loài thú dữ là vô cùng nguy hiểm. Ngƣời cha của

Thim đã đẩy lùi con thú nhƣng ông không thể thoát ra khỏi những chiếc vuốt

cong nhọn hoắt của nó, ngƣời và gấu cùng lao xuống đáy vực hun hút. Tác giả

đã đặt nhân vật vào khoảng an toàn hạn hẹp chơi vơi giữa nguy hiểm vây

quanh để tôn lên tƣ thế, sức mạnh và lòng dũng cảm của con ngƣời.

Cảnh sông nƣớc, núi non và đồng lúa đang bén rễ lại đƣợc nhà văn Cao

Duy Sơn sử dụng nhƣ bối cảnh của tâm trạng nhân vật Kình (Hấp hối) trƣớc

khi gặp ngƣời phụ nữ tên Thực. Non xanh nƣớc biếc, khung cảnh hữu tình, sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống đang nảy nở sinh sôi đã khơi gợi nỗi bâng khuâng, những tình cảm

55

tốt đẹp, trong sáng và niềm khát khao hạnh phúc: “Đƣờng về làng men theo

bờ con sông Quy, mặt nƣớc ngăn ngắt xanh, lặng lẽ luồn qua giữa hai thành

núi cao đứng lặng, tất cả những hình ảnh thân quen đó gợi lên trong Kình nỗi

bâng khuâng nhớ về một thời trẻ thơ xa lắc”. Trong tâm trạng ấy, Kình nhìn

thấy “phía cọn nƣớc đang cần mẫn chuyển từng ống đổ xuống đồng lúa đang

bén rễ, bóng một ngƣời con gái lội xuống bờ sông. (...) Kình đứng lặng nhìn,

chợt khao khát nghĩ về hạnh phúc của mình, ba mƣơi tuổi quá mải mê với

công việc chẳng khi nào đƣợc rảnh tay nghĩ về một ngƣời con gái.”

Dƣới ngòi bút của nhà văn, không gian mùa thu tĩnh lặng, thơ mộng hiện

lên vô cùng quyến rũ bởi đƣợc nhuộm màu hoa, màu nắng và đƣợc ƣớp

hƣơng thơm: “Trƣa mùa thu yên tĩnh, một làn gió nhẹ lƣớt qua bãi cúc dại nở

vàng khắp chân đồi, lùa quanh thung lũng một mùi hƣơng dịu dàng, hoang

dã…Cái hƣơng vị ngầy ngậy đăng đắng đó len cả vào đồng cỏ đã bắt đầu se

khô. Một vồng mây nhuốm nắng vàng, bồng bềnh trôi trên ngọn cây dẻ…”

(Nơi đây không một bóng người)

Khoảng không ngập tràn sắc vàng trải rộng mênh mang ấy là phông nền

cho sự vận động tâm lí của chú bé “ngƣời - khỉ” phải cùng mẹ sống trong

rừng sâu đã mƣời bốn năm trời. “Nó hờ hững cảm nhận cảnh vật của mùa

thu” bởi đang say mê một thế giới lạ lùng vừa đƣợc khám phá. Với Ò Lình,

cảnh vật mùa thu rất đẹp nhƣng không lạ nhƣ thế giới kia. Cách miêu tả

không gian của nhà văn giúp ngƣời đọc nhận ra những biến đổi trong tâm lí

của một đứa trẻ phải sống cách biệt với thế giới loài ngƣời, giờ phát hiện ra

thế giới ấy, nó vô cùng tò mò và say mê.

Với Làn Dì (Thằng Hoán), nhà văn để sự xuất hiện của nhân vật này gắn

liền với hình ảnh nguồn nƣớc ở đầu bản Tà Phàn. Trƣớc đây, bà mẹ của Hoán

gặp Làn Dì ngồi khóc ở nguồn nƣớc đầu bản đã đón cô về, cô đã nhận lời làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vợ Hoán. Ba năm đã trôi qua kể từ khi Làn Dì bỏ chồng con đi theo ngƣời đàn

56

ông khác, “…có lúc nào đó nhớ đến bản Tà Phàn bao giờ thị cũng hình dung

ra nguồn nƣớc này trƣớc tiên. Nguồn nƣớc gợi lại trong thị quá khứ buồn bã”.

Giờ đây trở lại, tắm ở dòng nƣớc mát lạnh, Làn Dì “thấy sợ khi bắt gặp kỉ

niệm xƣa”. Bối cảnh không gian gợi nhắc quá khứ không muốn nhớ và chứng

kiến cuộc gặp gỡ của Làn Dì và đứa con trai đã bảy tuổi. Làn Dì xót xa, run

rẩy chìa tay gọi con trong nƣớc mắt, còn thằng Mìn “lùi lại, đôi mắt ráo

hoảnh” rồi “cụp mắt xuống, nó quay đầu chạy về bản”. Ngƣời đàn bà bội

bạc, nhẫn tâm ấy chƣa bao giờ yên lòng và thanh thản. Và nỗi đớn đau khi

thấy con trai thảm hại trong bộ quần áo “dính đầy những miếng vá vụng

về” chứng tỏ tình mẫu tử nhƣ nguồn nƣớc ở đầu bản có đầy vơi nhƣng

chƣa cạn bao giờ.

Nhƣ vậy, nhà văn Cao Duy Sơn đã kế thừa truyền thống tả cảnh ngụ tình

trong văn học một cách sáng tạo. Mỗi tác phẩm là một bối cảnh không gian

riêng, có khi đối lập với con ngƣời (Người săn gấu), có khi là giá đỡ tâm

trạng, làm phông nền để tôn lên sự vận động tâm lí, tô đậm tính cách của nhân

vật (Nơi đây không một bóng người, Thằng Hoán, Hấp hối…). Ở nhiều tác

phẩm khác, không gian địa lí là dấu hiệu phản ánh tâm tƣ tình cảm của nhân

vật: Cuộc báo thù cuối cùng, Hòn bi đá màu trắng, Mùa én gọi bầy, Ngôi nhà

xưa bên suối…

Mỗi nhân vật một cảnh ngộ riêng, nỗi niềm riêng, nhà văn Cao Duy Sơn

đã lựa chọn những bối cảnh phù hợp với những tâm trạng, cảnh ngộ đó. Qua

cách tạo dựng của nhà văn, không gian địa lí trở thành dấu hiệu phản ánh tâm

tƣ, tình cảm của nhân vật. Hai cha con lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng)

sống trong ngôi nhà sàn nằm lẻ loi dƣới chân núi. Cuộc sống của lão Vƣợc và

bé Na gắn bó với núi Kiếm, rừng Keng Pảng, chợ Cô Sầu. Lão Vƣợc săn thú,

ra chợ bán, rồi trở về ngôi nhà. Nhân vật đi về, vui buồn, thù hận..., tất cả gói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gọn trong không gian ấy. Nó là dấu hiệu của tâm tƣ lão Vƣợc sau khi ngƣời

57

vợ chết: thời gian trôi qua nhƣng lòng thù hận và nỗi thƣơng đau kết đọng

không thể nguôi vơi.

Nhân vật Dồ (Hòn bi đá màu trắng) trở về quê hƣơng sau tám năm cải tạo,

di lí đến hai nhà tù, giờ là ngƣời tự do mà sao chƣa có đƣợc cảm giác quen

thuộc. Khung cảnh hiện lên vừa quen vừa lạ trong cảm nhận của Dồ: “Chân

đạp phứa trên mặt đƣờng lởm chởm đá mà chẳng cảm giác đau đớn. Ven

rừng, con thú nào vừa đi qua để lại dƣới dấu chân những mầm cỏ gãy ứa nhựa

hăng nồng. Chân núi xa, những nhà sàn thƣa thớt loang khói nhƣ sƣơng”. Sự

ngỡ ngàng và niềm vui đƣợc “là ngƣời tự do” chỉ làm Dồ mất đi cảm giác đau

đớn trên da thịt. Còn nỗi niềm thƣơng nhớ quê nhà luôn tỉnh thức trong nhân

vật. Dấu hiệu của tâm tƣ ấy chính là cảm nhận về mùi hƣơng mộc mạc,

nguyên sơ mà sâu xa đậm đà của cây cỏ, cái mùi thật thƣơng nhớ nhƣ

linh hồn xứ sở, quê hƣơng.

Ở tác phẩm Mùa én gọi bầy, Cao Duy Sơn dùng phép thay đổi không gian:

dịch chuyển, thu hẹp rồi mở rộng. Từ lâm trƣờng Nà Pha, gia đình Thùng

chuyển đến Pù Dặm cách phố huyện hai mƣơi kilômét, từ đƣờng cái đến

“ngôi nhà nằm đơn độc dƣới chân một quả đồi” phải mất hai giờ đi bộ. Nhân

vật chọn cho mình một không gian xa và sâu hơn để chạy trốn hiện thực phũ

phàng. “Giữa mênh mông đại ngàn Thùng luôn tự giấu mình trong các cuộc đi

săn tối ngày”. Không còn tin tƣởng và không thể tha thứ cho lỗi lầm của vợ,

Thùng sống thu mình lại, chìm trong cố chấp, nỗi buồn và tuyệt vọng, nghiệt

ngã với vợ con và với cả bản thân mình. Gần chục năm trời, tâm tƣ của nhân

vật nhƣ bị đóng khung giữa mênh mông rừng núi. Cho đến phần cuối tác

phẩm, ta mới bắt gặp không gian cao xa, rộng mở và ấm áp hi vọng đoàn tụ,

yêu thƣơng: “Mặt trời đã đứng bóng. Trên những cánh rừng loang nắng từng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đàn chim én ríu rít gọi bầy đảo cánh bay vội về phƣơng nam.”

58

Nhà văn Cao Duy Sơn bắt đầu câu chuyện về thầy giáo Hạc (Ngôi nhà xưa

bên suối) bằng những lời giới thiệu về ngôi nhà của nhân vật: “Căn phòng tôi

thuê ở và nhà thầy Hạc cách nhau con suối Cun. Nhà tôi ở bên đƣờng quốc lộ

ba, phía sau trông ra con suối. Bên kia bờ suối là xóm Đậu, có ngôi nhà thầy

Hạc. Từ cuối mùa hạ sang quá xuân, mỗi lần sang thăm thầy tôi không đi theo

đƣờng cầu treo Nà Cạn mà lội ngay suối sau nhà. Những ngày này suối không

ngập bờ, hiền hòa chảy, khi lội nƣớc chỉ trên đầu gối”. Cách miêu tả cụ thể

giúp ngƣời đọc dễ hình dung khung cảnh bình dị, quen thuộc ở miền sơn

cƣớc. Không gian yên ả có dòng suối hiền hòa nhƣ một bến đỗ bình yên cho

thầy Hạc sau bao sóng gió của cuộc đời. Đó cũng là biểu tƣợng cho tâm hồn

của ngƣời thầy giáo nhân hậu.

Không gian địa lí trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn gắn liền với miền

rừng núi phía Bắc của tổ quốc, với mảnh đất Cao Bằng mà nhà văn vô cùng

gắn bó. Đó là không gian rộng lớn với cảnh vật vừa hoang sơ, dữ dội vừa lãng

mạn, trữ tình. Phải là không gian ấy mới phù hợp với con ngƣời miền núi,

tính cách của nhân vật mới bộc lộ đầy đủ: phóng khoáng, ngang tàng, dũng

cảm, nhân hậu... Các truyện ngắn của Cao Duy Sơn tuy phát triển theo những

chiều hƣớng khác nhau và trải dài theo thời gian nhƣng vẫn luôn diễn tiến

trong bối cảnh chung của miền rừng núi phía Bắc. Không gian ấy tham gia

vào kết cấu tác phẩm và truyền đạt tƣ tƣởng của nhà văn. Không những thế,

nó còn có chức năng liên kết các văn bản, tập hợp các truyện ngắn thành một

thể thống nhất. Đây chính là biểu hiện của sự tập trung tƣ tƣởng, bút lực của

nhà văn khi khai thác đề tài miền núi.

1.2.2. Không gian đời tƣ

Không gian là môi trƣờng bộc lộ của nhân vật. Nhân vật chỉ hành động và

bộc lộ tự do trong không gian của mình. Mỗi không gian cho phép bộc lộ một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phƣơng diện của con ngƣời, phù hợp với một kiểu nhân vật nhất định. Vì vậy,

59

nhà văn muốn thể hiện một quan niệm nhất định về con ngƣời thì phải tạo ra

một không gian thích hợp. Các nhà văn lớp trƣớc thƣờng khai thác sự đối lập

giữa các mảng không gian trong không gian địa lí để tạo ra môi trƣờng thích

hợp cho các nhân vật hoạt động. Nhân vật của Nam Cao đƣợc đƣa vào hai

môi trƣờng khác nhau: “xó nhà quê” và ngoại ô Hà Nội. Cuộc đời Xuân tóc

đỏ (Số đỏ) đƣợc Vũ Trọng Phụng đặt vào không gian “vỉa hè” và không gian

của tầng lớp thƣợng lƣu... Các nhà văn đƣơng đại lại chú trọng không gian

tâm trạng, tâm lí con ngƣời.

Nhà văn Cao Duy Sơn quan tâm đến đời tƣ con ngƣời với những mất mát,

éo le, bất hạnh. Vì vậy ông đã tạo dựng không gian đời tƣ cho mỗi nhân vật,

mỗi số phận. Trong các tác phẩm, Cao Duy Sơn đã xây dựng một hệ thống

không gian riêng biệt, vừa có ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa tƣợng trƣng.

Những ngôi nhà, túp lều, phiên chợ, hang núi, con đƣờng…tƣợng trƣng cho

không gian thân thuộc với mỗi con ngƣời. Đó có thể là không gian để con

ngƣời bộc lộ hoặc là không gian để thử thách con ngƣời. Hình ảnh “ngôi nhà”

trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Không gian nhỏ bé

riêng tƣ đó thƣờng rạn nứt, đổ vỡ. (Thằng Hoán, Mùa én gọi bầy, Cuộc báo

thù cuối cùng, Hòn bi đá màu trắng, Nơi đây không một bóng người…).

Bi kịch của con ngƣời bắt đầu ở đó, tâm trạng, tính cách, bản chất của nhân

vật đƣợc thể hiện rõ nét ở không gian đó.

Không gian đời tƣ trong truyện Thằng Hoán là ngôi nhà - nơi nhân vật đã

từng sống trong tình thƣơng yêu của mẹ, nơi Hoán và Làn Dì nên vợ nên

chồng, cũng là nơi Hoán cay đắng đau khổ biết bao khi Làn Dì phản bội.

Trong ngôi nhà đó, bao đêm Hoán phải rơi nƣớc mắt thƣơng con trai khóc tìm

mẹ. Với Làn Dì bội bạc, đó là nơi cô không thể trở lại, không thể bƣớc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chân vào.

60

Không gian đời tƣ - ngôi nhà ở nhiều tác phẩm thƣờng đơn độc, tách biệt

với xóm làng. Trong truyện ngắn Những đám mây hình người, không gian đời

tƣ của Lơ là “ngôi nhà nằm một mình sau gò đồi cây cỏ lúp xúp”. Bao ngƣời

đàn ông đến rồi lại đi, ngôi nhà ấy là nơi Lơ chờ đợi một ngƣời để “nói những

điều chƣa nói, làm những điều chƣa làm để lòng khỏi day dứt”. Tác giả khéo

léo đặt nhân vật vào không gian ấy để nhân vật tự bộc lộ nỗi niềm. Và ngƣời

đọc nhận ra sự chung tình trong cái éo le của cuộc đời ngƣời phụ nữ phải trao

thân cho bao ngƣời đàn ông ấy.

Ngôi nhà của Thùng và Đẹm (Mùa én gọi bầy) ở lâm trƣờng Nà Pha “đã

từng chứng kiến những ngày tháng tràn trề hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ”,

nhƣng ngọn lửa ghen tuông thù hận “đã thiêu cháy ngôi nhà đồng thời cũng

đốt trụi tình yêu của họ”. Đến nơi ở mới, “giữa mênh mông đại ngàn”, ngôi

nhà hoang lạnh chìm trong dằn vặt đớn đau của con ngƣời đâu còn là tổ ấm?

Nó “nằm đơn độc dƣới chân một quả đồi”, đơn độc nhƣ nhân vật đang đắm

chìm trong ân hận và buồn đau.

Còn đây là không gian đời tƣ của hai cha con lão Vƣợc: “Ngôi nhà sàn bốn

mặt thƣng gỗ nghiến, cứng cáp nhƣ một chiếc hộp sắt, nằm lẻ loi dƣới chân

núi.” (Cuộc báo thù cuối cùng). Đó từng là ngôi nhà hạnh phúc của gia đình

ba ngƣời, là chốn an toàn cho bé Na mỗi khi cha vào rừng săn bắn, cũng là

nơi lão Vƣợc thanh toán món nợ máu với con hổ đã giết vợ mình. Niềm hạnh

phúc, nỗi đớn đau, buồn khổ, thù hận, cô đơn…của nhân vật đều diễn ra trong

không gian ấy, thấm thía vô cùng ! Nhƣng so với các tác phẩm trên, sự rạn

nứt, đổ vỡ của không gian đời tƣ lão Vƣợc là dấu hiệu đổi thay tốt đẹp.

Kết thúc tác phẩm, lão Vƣợc quyết định đƣa con đến một miền đất khác sinh

sống, quyết định từ bỏ hận thù.

Ở một số tác phẩm, nhà văn sử dụng phƣơng thức chuyển đổi, nối tiếp khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạo dựng không gian đời tƣ của nhân vật. Sau khi chạy trốn vào rừng sâu,

61

không gian đời tƣ của hai mẹ con Ò Lình (Nơi đây không một bóng người)

chuyển đổi từ “ngôi nhà” sang “hang đá” trong rừng hủi. Từ không gian đầm

ấm, hạnh phúc chuyển thành không gian trú ẩn, trốn tránh sự miệt thị, hắt hủi

của ngƣời đời. Không gian đời tƣ của Thim (Người săn gấu) là “một túp lều

lẻ loi cuối bản, cái gia sản cuối cùng của ngƣời cha để lại”. Mối tình của Thim

và Phón “nhƣ cánh hoa đầu tiên mới nhú đã bị dập nát tổn thƣơng...” Rời

quân ngũ trở về, không tìm đƣợc ngƣời yêu, Thim chọn công việc đƣa thƣ

báo lƣu động đi các làng xã với niềm hi vọng “bất ngờ tìm thấy bóng dáng

xƣa”. Hơn ba mƣơi năm tìm kiếm, không gian đời tƣ của nhân vật Thim là

những con đƣờng đến khắp vùng hẻo lánh trong tỉnh, là mênh mang hi vọng

và tình yêu nhƣ “cái đốm lửa nhỏ nhoi vẫn bỏng rát trong lòng”.

Thời trẻ, lão Khuề và bà Ban (Âm vang vong hồn) thƣơng nhau mà không

thành đôi lứa. “Lão ở một vòm hang bên này núi Phia Phủ”, bà Ban quét chợ

“ở vòm hang bên kia núi”. Cuộc đời dằng dặc vui ít buồn nhiều cứ trôi đi

trong không gian nhỏ bé ấy. Lão Ki và lão Lử đều muốn lấy Ban làm vợ, Ban

chọn Khuề nhƣng ngƣời con trai cô yêu không dám bảo vệ tình yêu. Bốn con

ngƣời ở gần nhau mà mãi cách xa. Nỗi cô đơn đeo đẳng cả một đời ngƣời cho

đến khi họ rời những “ngách hang”, “vòm hang” để về với đất. Không gian

đời tƣ ở đây có ranh giới không thể vƣợt qua, dù tiếc nuối, khao khát, nhân

vật vẫn phải cam chịu. Ranh giới ấy làm cho hoài niệm thêm đau đớn, và nỗi

cô đơn vây bủa, chất chồng.

Không gian đời tƣ không đơn thuần là khoảng không gian trong đó diễn ra

những hoạt động, sinh hoạt riêng tƣ của nhân vật mà còn là nơi nhân vật tự

bộc lộ chân thật nhất, tự đối diện và tự nhận thức. Không gian đời tƣ của nhân

vật Kình (Hấp hối) thuộc kiểu không gian điểm, có giới hạn và ngày càng thu

hẹp lại. Công việc bộn bề của một cán bộ cấp tỉnh khiến ông Kình luôn căng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thẳng. Những lúc nhƣ vậy, ông Kình luôn thích về ngồi bên thành giếng “để

62

đƣợc ngắm mình trong đó”, để vơi đi mọi căng thẳng mệt mỏi. “Nhƣng cái

nguyên do ông thƣờng đến đây ngồi, lại là một kỉ niệm đã lâu lắm rồi, một kỉ

niệm kinh hoàng và cay đắng, nhƣng luôn cuốn hút, quyến rũ ông”. Nhìn cái

bóng mình in dƣới đáy giếng, ông Kình bắt gặp thời trẻ trung của mình ở dƣới

đó, sống thực với tâm trạng, tình cảm thực của mình khi nghĩ đến “cái đêm

ông đã xử sự nhƣ một kẻ ăn cƣớp”, cƣỡng đoạt ngƣời phụ nữ mới gặp mà ông

chƣa từng biết tên. Ngay cả trong giấc mơ, quá khứ vẫn hiện diện, dày vò, ám

ảnh: “...khi nhắm mắt thiếp đi, cái hình ảnh ghê sợ đó lại hiện lên. Đó là một

cái hố sâu, tối nhƣ hũ nút, xuất hiện một cánh tay dài ngoằng thò lên, túm chặt

lấy ông kéo xuống.”

Ở hai tác phẩm Tượng trắng và Chợ tình, không gian đời tƣ cũng là không

gian điểm. Nó bộc lộ chiều sâu tâm tƣ và lẽ sống của nhân vật. Không gian

đời tƣ của chàng trai (Tượng trắng) là “làng hủi” và “nghĩa địa”. Ở làng hủi,

chàng trai là “kẻ duy nhất còn lành lặn nhƣ một con ngƣời bình thƣờng mà họ

có quyền tiếp xúc, (…), là chiếc phao để họ bám”. Vì thế, chàng đã từ chối

tiếng gọi của tình yêu và ở lại với những số phận đau khổ. Ở nghĩa địa, chàng

là “kẻ duy nhất không để lại tƣợng mồ của chính mình” sau khi đã “tạc vào

từng mỏm đá hình dạng mặt mũi của kẻ đã chết” và hình ảnh của ngƣời yêu.

Một trái tim nhức nhối yêu thƣơng giữa hai bờ sống - chết của dòng sông

cuộc đời khiến ngƣời đọc cảm phục và xúc động. Còn không gian đời tƣ của

lão Sinh và mú Ếm (Chợ tình) lại là “chỗ cây sau sau già” ở chợ tình Âu Lâm

“một năm chỉ vào ngày hai mƣơi lăm tháng giêng mới họp”. Mỗi năm một

phiên chợ tình, nhƣ bao cặp tình lỡ dở khác, lão Sinh và mú Ếm mới gặp nhau

“để ngồi thầm thì bao chuyện xƣa và cả chuyện nay”, để trao nhau lời thƣơng

lời nhớ làm ấm lòng sau bao năm tháng chia xa. Ở ngoài không gian ấy là hai

nửa dở dang, buồn nhớ. Ở trong không gian ấy, hai tâm hồn hòa quyện nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đôi. “Gốc sau sau già" là không gian biểu tƣợng cho hạnh phúc, cho lẽ sống

63

của hai ngƣời và chỉ là không gian hạnh phúc khi có hai ngƣời. Ba năm không

gặp mú Ếm đến chợ, lão Sinh gửi lời cho ngƣời đã xa: “Bây giờ thế này thôi,

chợ từ nay không có chúng mình nữa, không có em không còn chợ…” rồi

“đi vào núi Phja Bjooc và biến mất.”

Nếu nhƣ thời chiến tranh, con ngƣời trong văn học chủ yếu đƣợc khắc họa

trong thời gian lịch sử, không gian vĩ mô thì từ năm 1975, với quan niệm mỗi

con ngƣời là “một tiểu vũ trụ”, con ngƣời hƣớng nội, các nhà văn thƣờng đặt

nhân vật trong thời gian hiện thực và không gian đời tƣ. Ở không gian công

cộng, ta chỉ thấy con ngƣời công dân, con ngƣời xã hội của nhân vật thì ở

không gian đời tƣ, chiều sâu nội tâm nhân vật đƣợc hé lộ, nỗi niềm riêng phơi

mở một cách tự nhiên, thành thực nhất. Xây dựng không gian đời tƣ để khắc

họa nhân vật chính là biểu hiện của ý thức tìm tòi để đổi mới của nhà văn

Cao Duy Sơn.

2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật

Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Nghệ thuật là một dạng tồn tại

đặc thù, nó cũng có thời gian riêng. “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại

của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó.” [32]. Likhachôp

cho rằng: “Thời gian là đối tượng, là chủ đề, là công cụ miêu tả - là sự ý thức

và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức

đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học.”

Văn học phản ánh, tái hiện đời sống qua các dạng thức thời gian. Nhà văn

có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế, đảo ngƣợc trở về quá khứ hay

vƣợt qua hiện tại tới tƣơng lai, có thể dồn nén trong một khoảnh khắc hoặc

kéo dài chốc lát thành vĩnh viễn. Vì vậy thời gian trong văn học không đơn

thuần là thời gian hiện thực (thời gian tuyến tính). Đó “là thời gian mà ta có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của

64

nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay

tương lai.” [42, tr.61]

Thời gian nghệ thuật vô cùng đa dạng, mỗi nhà nghiên cứu có cách lí giải

và phân loại riêng. Nhà nghiên cứu văn học Nga Bakhtin đã chia thời gian

nghệ thuật thành bốn loại: thời gian phiêu lƣu, thời gian cổ tích, thời gian tiểu

sử, thời gian lịch sử. [3]. Theo Giáo sƣ Trần Đình Sử, thời gian nghệ thuật

gồm hai loại: thời gian trần thuật và thời gian đƣợc trần thuật. “Sự sắp xếp,

phối trí của thời gian được trần thuật vào thời gian trần thuật mới tạo ra

được thời gian nghệ thuật thật sự.”[41] Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm

văn học là một trong những phƣơng tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung

nghệ thuật và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con ngƣời.

Không gian, thời gian là hai phạm trù tƣơng ứng, thống nhất chặt chẽ trong

một chỉnh thể nghệ thuật. Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, tƣơng ứng với mô

hình không gian địa lí và không gian đời tƣ là thời gian đan xen giữa quá khứ

và hiện tại, thời gian tâm lí, thời gian phong tục, lễ hội.

2.2.Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn

2.2.1. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại

Trong văn học, quan hệ giữa quá khứ, hiện tại, tƣơng lai chỉ là tƣơng đối,

phụ thuộc vào điểm quy chiếu “bây giờ”. Thời hiện tại đồng thời với cuộc

sống đang diễn ra, thời quá khứ là quá khứ của hiện tại đó, thời tƣơng lai là

thời điểm sau cuộc sống đó. Thời gian hiện tại đóng vai trò chủ đạo vì đó là

thời gian cảm nhận. Thời gian quá khứ xuất hiện rất muộn trong văn học.

Chú trọng quá khứ là một đặc điểm phổ biến của văn học hiện đại.

Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại là loại thời gian trong đó, phát

ngôn trần thuật không phải là quá khứ, cũng không hẳn hiện tại. Nó ở ranh

giới giữa hai chiều thời gian ấy. Những câu chuyện đƣợc kể xen kẽ giữa sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và trƣớc, trƣớc và sau, liên tƣởng về quá khứ rồi quay về hiện tại. Kiểu

65

thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại phù hợp với kiểu nhân vật có nhiều

suy tƣ và hồi tƣởng. Nó vừa là phƣơng tiện diễn tả những biến thái tinh vi

trong tâm hồn nhân vật, vừa là yếu tố chi phối cấu trúc văn bản. Đan xen thời

gian quá khứ và thời gian hiện tại chính là cách xây dựng nhân vật trong

khoảng thời gian so le, đặt điểm nhìn nghệ thuật ở tình thế lƣỡng phân. Khi

đó mối quan hệ giữa thời quá khứ và thời hiện tại sẽ đƣợc khai thác tối đa làm

nổi bật chủ đề tác phẩm.

Các nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn thiên về đời sống nội

tâm, giàu cảm xúc, cảm giác với thế giới xung quanh, với mọi ngƣời và với

chính mình. Để khắc họa nhân vật, nhà văn Cao Duy Sơn thƣờng sử dụng

kiểu thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại khi tổ chức tác phẩm. Số

truyện ngắn có xây dựng kiểu thời gian này chiếm tỉ lệ 86,4 % (19/22 tác

phẩm). Nhà văn thƣờng mở ra khung cảnh thời gian của truyện là thời hiện tại

của phát ngôn. Lẽ ra phải là sự tiếp tục hiện tại để đi tới tƣơng lai nhƣng sự

kiện tiếp theo lại là chuyện của những năm về trƣớc, sau đó trở về hiện tại và

đi đến tƣơng lai. Đó là cách mở đầu của các tác phẩm: Người săn gấu, Hấp

hối, Thằng Hoán, Cuộc báo thù cuối cùng, Những đám mây hình người,

Ngôi nhà xưa bên suối, Hoa bay cuối trời, Hoa Mộc Vương, Súc Hỷ…

Truyện ngắn của Cao Duy Sơn thƣờng bắt đầu bằng thời gian hiện tại với

sự kiện của hiện tại, và ngay sau khi mở ra thời gian cho câu chuyện lại đảo

ngƣợc về quá khứ rồi mới dẫn tới hiện tại. Mở đầu truyện Người săn gấu là

hình ảnh ông Thim đang trên đƣờng tới bản Vạn - cái địa chỉ ghi trên lá thƣ

có tên ngƣời phụ nữ mà ông hi vọng đó là ngƣời ông đã tìm kiếm hơn ba

mƣơi năm qua. Sau đó là sự hồi tƣởng của nhân vật về “một thời trẻ trung

chát đắng”. Kết thúc tác phẩm là tâm trạng của ông Thim khi đứng trƣớc ngôi

nhà có “cánh cửa khép hờ nhƣ suốt ba mƣơi năm nay vẫn khép hờ nhƣ vậy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chờ ai đó đến mở ra.”

66

Câu chuyện về gia đình của Hoán và Làn Dì (Thằng Hoán) bắt đầu bằng

sự kiện Làn Dì trở về bản Tà Phàn sau ba năm bỏ đi với nhân tình. Sự kiện đó

gợi trong Hoán những hoài niệm về tuổi ấu thơ, về cuộc sống từ khi có vợ, có

con. Sau đó mạch truyện quay lại với sự trở về của Làn Dì. Mối tình của

chàng trai và cô gái trong truyện Tượng trắng sống lại qua lời kể của bà nội

nhân vật tôi - ngƣời kể chuyện - khi bà cùng con cháu đi tảo mộ trong tiết

thanh minh. Từ cuộc gặp gỡ giữa lão Khơ và lão Phủ (Hoa bay cuối trời) sau

nửa thế kỉ xa nhau, nhà văn dẫn ngƣời đọc theo dòng tâm tƣởng của nhân vật

trở lại những năm tháng họ còn là những chàng trai trẻ, để thƣơng, để tiếc cho

một đôi trai tài gái sắc yêu nhau mà không thể nên đôi. Câu chuyện tình dang

dở ấy còn đƣợc viết tiếp trong hiện tại, đẹp đẽ và xúc động vô cùng.

Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn, mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại

thƣờng bộc lộ theo hai chiều hƣớng: quá khứ đối lập với hiện tại và quá khứ

nối tiếp hiện tại, bổ sung cho hiện tại. Ở chiều hƣớng thứ nhất, quá khứ đối

lập với hiện tại thƣờng là quá khứ tốt đẹp (Dưới chân núi Nục Vèn, Âm vang

vong hồn, Hòn bi đá màu trắng, Mùa én gọi bầy…). Vì vậy, hiện tại đối với

các nhân vật là những gì họ phải chịu đựng, còn quá khứ là biểu tƣợng cho

những gì mà họ mong muốn.

Quá khứ của lão Khàng (Dưới chân núi Nục Vèn) là “thời vàng son” của

con trai lí trƣởng muốn gì đƣợc nấy. Còn hiện tại là cuộc sống mà nhân vật

không mong muốn: “đám ruộng nhà Khàng phải trả lại cho những ngƣời

nghèo đi vào làm ăn tập thể. (…) Cách mạng về không cho nó chém cái gì nó

muốn”. Chính vì vậy, lão Khàng luôn tìm cách trở lại với cái quá khứ “quyền

thế” kia. Thời gian quá khứ trong Mùa én gọi bầy và Hòn bi đá màu trắng là

những tháng ngày êm đềm hạnh phúc, vợ chồng con cái yêu thƣơng, gắn bó.

Nhƣng thời gian hiện tại là tan vỡ không thể hàn gắn, là mất mát không sao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bù đắp. Sự phản bội, ghen tuông, ích kỉ, cố chấp đã phá hủy những mối quan

67

hệ tốt đẹp đầy tính nhân bản: tình cảm cha con, tình nghĩa vợ chồng. Để quá

khứ và hiện tại đối lập đồng thời soi chiếu lẫn nhau trong tâm tƣ nhân vật, nhà

văn dễ dàng khám phá những nỗi niềm sâu kín của con ngƣời, giúp ngƣời đọc

nhận ra sự tự nhận thức của con ngƣời trong bi kịch.

Ở chiều hƣớng thứ hai, thời gian quá khứ thƣờng có tác dụng tô đậm, bổ

sung cho hiện tại, nối tiếp hiện tại. Trong tác phẩm Hoa bay cuối trời, thời

gian quá khứ góp phần lí giải ý nghĩa của cốt truyện. “Gặp lại lão Phủ, lão

Khơ nhƣ thấy lại tuổi trẻ của mình”. Không chỉ thế, sau nửa thế kỉ, lão Khơ

mới biết ngƣời con gái năm xƣa vẫn còn sống, mới hiểu vì sao hai ngƣời phải

xa nhau. Lời kể của lão Phủ trong hiện tại làm sáng tỏ những chuyện trong

quá khứ, nối quá khứ với hiện tại. Tình yêu cháy bỏng từ thuở thanh xuân

lắng lại trong lòng, đến bây giờ khi mái đầu đã bạc lại càng sâu nặng,

thiết tha.

Không chỉ có ý nghĩa tô đậm hiện tại, trong các tác phẩm: Cuộc báo thù

cuối cùng, Hấp hối…, quá khứ còn đổ bóng xuống hiện tại. Cuộc sống hiện

tại của nhân vật luôn bị ám ảnh, vì thế nhân vật không đƣợc giải thoát, chẳng

thể nguôi quên. Từ ngày vợ chết vì hổ dữ, lão Vƣợc (Cuộc báo thù cuối cùng)

đã trở thành nỗi kinh hoàng của muôn loài muông thú. Nỗi đau mất vợ và

lòng thù hận càng lớn thêm theo năm tháng khi chƣa giết đƣợc kẻ thù.

“Những muốn quên đi cái quá khứ nghiệt ngã và tàn nhẫn, nhƣng hình nhƣ

lão càng đẩy ra, nó càng tiến đến gần hơn”. Mƣời năm đã qua, trong lúc lão

Vƣợc ngồi chờ kẻ thù ngay tại nhà mình, quá khứ lại hiện lên nhƣ những

thƣớc phim quay chậm. Kết cấu đan xen thời gian quá khứ và hiện tại của

truyện đã cho thấy quá khứ in hằn nỗi đau thƣơng lên từng khoảnh khắc trong

cuộc đời hiện tại, làm đầy đặn thêm nỗi bất hạnh trong hiện tại của nhân vật.

Nhân vật Kình (Hấp hối) bề ngoài vẫn giữ vẻ đạo mạo, ung dung của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cán bộ có quyền thế, nhƣng trong thẳm sâu kí ức, “cái quá khứ khốn nạn” vẫn

68

ám ảnh nặng nề khiến ông không thể nào thanh thản. Kình cƣỡng đoạt ngƣời

phụ nữ đã có chồng, sau đó tìm cách vu oan đẩy ngƣời chồng vào tù hòng che

giấu tội lỗi của mình mà không bị ai phát giác. Quá khứ chỉ trở về trong giấc

mơ chứ không phải là sự hồi tƣởng khi nhân vật tỉnh. Song cái quá khứ đƣợc

con ngƣời thủ đoạn nhƣ Kình che giấu kĩ lƣỡng, cẩn thận vẫn không bị mờ

nhòe. Ngƣợc lại, khi quá khứ tội lỗi và sự ăn năn đã len vào giấc mơ có nghĩa

là sự ám ảnh đã trở thành thƣờng xuyên. Thực chất, quá khứ vẫn đang

hiện diện trong cuộc sống hiện tại của nhân vật.

Cách đan xen thời gian quá khứ với thời gian hiện tại trong truyện Âm

vang vong hồn khiến ngƣời đọc có cảm giác, với lão Khuề, quá khứ không

khác biệt so với hiện tại. Nỗi cô đơn và khao khát của bây giờ cũng là của

ngày xƣa. Hạnh phúc trong tầm tay lại để mất chỉ vì hèn nhát không dám bảo

vệ tình yêu. Nhà văn đã để nhân vật trở lại với quá khứ khi biết bà Ban đã

chết. Đó là kí ức đẹp đẽ về những giây phút Khuề và Ban bên nhau, rồi Khuề

bị lão Ki và lão Lử “dần cho một trận nên thân ở hang bà Ban”. Trên đƣờng

đƣa bà Ban đến nơi yên nghỉ cuối cùng, lão Khuề nhớ lại cuộc gặp gỡ với bà

Ban sau khi lão Ki và lão Lử chết. Bà Ban đã từ chối lão. Nỗi cay đắng ân hận

của ngày hôm qua vẫn hiện diện và hòa vào nỗi đớn đau của ngày hôm nay

khiến lão Khuề ngã gục. Lão Khuề chết bên mộ ngƣời đàn bà “đã mang theo

bao nỗi khát khao của lão”. Sau những lớp cảnh quá khứ và hiện tại xen kẽ

linh hoạt, tự nhiên, truyện khép lại ở hiện tại và dƣ âm lan tỏa mãi.

Ở nhiều tác phẩm của Cao Duy Sơn, cách kể chuyện đan xen giữa quá khứ

và hiện tại nhƣ vậy làm cho bản chất mối quan hệ bên trong của các sự kiện

đƣợc sáng tỏ. Các sự kiện trong truyện không theo trình tự nhân quả nhƣ kết

cấu của truyện ngắn truyền thống mà đan xen, đảo lộn làm cho thời đoạn tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự luôn có xu hƣớng mở rộng. Dạng thức này không mở rộng không gian,

69

thời gian mà tạo nên nếp gấp bí ẩn khiến cho nó trở nên đa dạng, phong phú,

nhiều tầng bậc.

2.2.2. Thời gian tâm lí

Trong văn học, hoạt động tâm lí, kí ức, dòng ý thức tạo thành thời gian

nhân vật. Một đặc điểm của thi pháp hiện đại khác thi pháp truyền thống là

các tác giả không lấy chiều vận động của thời gian làm chiều vận động cốt

truyện. Truyện phát triển theo dòng chảy của tâm lí nhân vật chứ không theo

chiều thời gian thông thƣờng. Thời gian tâm lí chính là thời gian qua sự cảm

nhận của nhân vật theo hoàn cảnh, là thời gian đƣợc nếm trải theo tâm hồn

nhân vật. So với kiểu kết cấu biên niên, cách thức xây dựng thời gian tâm lí

đã tạo khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong con ngƣời hiệu quả hơn.

Nếu kể theo dòng thời gian khách quan thì khó đi sâu vào tâm lí nhân vật bởi

dừng lại ở tâm lí nhân vật thì câu chuyện trở nên dàn trải, dài dòng vƣợt quá

sức tải của khung thể loại.

Thời gian tâm lí đƣợc nhà văn Cao Duy Sơn xây dựng khá thành công

trong các tác phẩm: Người săn gấu, Hấp hối, Thằng Hoán, Cuộc báo thù cuối

cùng, Tượng trắng, Âm vang vong hồn, Hoa bay cuối trời, Hòn bi đá màu

trắng, Hoa Mộc Vương… Ở những truyện ngắn này, kết cấu của truyện

thƣờng là kết cấu tâm lí, lôgic truyện là lôgic của tâm trạng nhân vật. Khi các

nhân vật hồi tƣởng quá khứ, kỉ niệm hiện về gắn liền với những thời điểm có

ý nghĩa riêng, với những sự kiện không thể nào quên.

In đậm trong kí ức nhân vật Thim (Người săn gấu) là “thời trẻ trung chát

đắng”. Vì vậy nhà văn đã sắp xếp trình tự sự kiện trong dòng hồi tƣởng của

nhân vật bắt đầu từ thời thanh niên, sau đó nhớ lại thời thơ ấu với “cảnh tƣợng

đau đớn, khủng khiếp suốt đời Thim không bao giờ quên”: ngƣời cha và con

gấu cùng rơi xuống vực. Tiếp đó là câu chuyện về mối tình đầu của Thim và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phón dẫn dắt mạch truyện đến khi chạm vào hiện tại. Thời gian tâm lí giúp

70

ngƣời đọc nhận ra những sự kiện cứ bám lấy kí ức nhân vật Thim, từ đó lí giải

đƣợc tâm trạng của nhân vật trong hiện tại.

Truyện Hấp hối bắt đầu từ một cảnh trong giấc mơ của nhân vật Kình. Đó

là một buổi chiều ảm đạm, giá buốt, ông Kình gầy ốm đang thiêm thiếp trên

giƣờng chờ đợi giây phút từ giã cõi đời. Con trai của ông đã đƣa ông đến bên

giếng nhƣ ông mong muốn. Từ lúc đó, ông Kình nhớ lại “một kỉ niệm kinh

hoàng và cay đắng”, “cái đêm ông đã xử sự nhƣ một kẻ ăn cƣớp”. Sau đó là

bốn cảnh tiếp nối: cảnh hai cha con ngồi bên giếng; ông Kình nhớ lại một lần

ngồi bên gốc cây trám nhìn xuống giếng bắt gặp hình ảnh mình và cô gái dƣới

đó; cảnh Kình gặp lại ngƣời phụ nữ ấy “sau tám năm tìm kiếm và chờ đợi”;

cảnh hai cha con ông Kình nói chuyện với nhau. Đoạn kết của truyện là cảnh

ông Kình tỉnh giấc và bắt đầu chuyến công tác ở Hà Nội. Ngƣời đọc bỗng

choàng tỉnh nhận ra đó là giấc mơ của nhân vật. Trong giấc mơ đó, hiện tại là

cảnh ông Kình ốm yếu sắp chết phải đối diện với sự từ chối của ngƣời con trai

đƣợc sinh ra sau hành động tội lỗi của ông. Nhƣng so với thời gian sự kiện

của tác phẩm thì đó lại là chuyện chƣa xảy ra. Cách tổ chức kết cấu nhƣ vậy

làm nhịp thời gian trở nên gấp gáp. Dòng thời gian hiện tại bị ngừng lại

nhƣờng chỗ cho quá khứ và tƣơng lai. Nhân vật vừa sống trong hiện tại, vừa

sống trong quá khứ và tƣơng lai. Hình tƣợng nhân vật đƣợc khắc họa không

phải bằng hành động, sự kiện mà bằng môtip giấc mơ, bằng những suy nghĩ

triền miên theo dòng chảy liên tục của ý nghĩ, cảm giác, hồi tƣởng, liên tƣởng

bất chợt đan xen, kết dính vào nhau. Thủ pháp đồng hiện thời gian đã góp

phần diễn tả thấm thía cảm giác của nhân vật đang dằn vặt, day dứt về lỗi lầm

trong quá khứ, lo sợ cho tƣơng lai, đồng thời gợi ý niệm về sự báo ứng.

Truyện ngắn Hòn bi đá màu trắng cũng có kết cấu theo lôgic tâm lí của

nhân vật Dồ. Trong niềm vui sƣớng của ngƣời đƣợc tự do, Dồ nhớ lại những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tháng ngày hạnh phúc và cả những sai lầm trong quá khứ. Tác phẩm có bảy

71

đoạn tƣơng ứng với bảy cảnh luân phiên tái hiện quá khứ và hiện tại, từ đó soi

chiếu tâm trạng của nhân vật và lí giải thực tại một cách thấu đáo. Đồng thời

thông qua tâm trạng nhân vật Dồ, tác giả muốn gợi trong ngƣời đọc suy nghĩ

về tình yêu nghệ thuật và tình yêu cuộc sống.

Sự kiện trong các tác phẩm khác cũng đƣợc sắp xếp theo lôgic tâm lí nhân

vật và gắn với những thời điểm quan trọng có ý nghĩa tạo nên bƣớc ngoặt.

Ngót nửa thế kỉ trôi qua, lão Khơ (Hoa bay cuối trời) vẫn nhớ nhƣ in lễ hội

pháo hoa Pác Gà; những lời thƣơng hai ngƣời trao gửi; câu chuyện Phủ kể về

ngƣời em gái đã theo chồng. Từ đó mạch truyện tiếp nối đến hiện tại và cuộc

nói chuyện với lão Phủ đã làm sáng tỏ những uẩn khúc năm xƣa. Mạch truyện

Hoa Mộc Vương chảy theo dòng xúc cảm của nhân vật San trong đêm cuối

năm ở Đà Lạt chợt nghe khúc tha hƣơng. Khắc sâu trong kí ức là những mốc

thời gian và sự kiện, là chia li và đoàn tụ:

- “Đêm. Me khóc thầm.”

- “Sáng. Me không còn nằm bên.”

- “Tết. Cha trở về.”

- “Một buổi sáng, me gọi ta đến…”

- “Đó là tết Bính Thân. 1956…”

Để dòng chảy tâm lí nhân vật quyết định sự phát triển của cốt truyện là

cách xử lí thời gian linh hoạt, đáp ứng đƣợc những yêu cầu khắt khe của thể

loại truyện ngắn trong việc đi sâu khám phá tâm lí con ngƣời. Do tổ chức tác

phẩm theo tâm lí nhân vật nên thời gian sự kiện trong truyện ngắn của Cao

Duy Sơn thƣờng không dài hơn thời gian tâm lí. Nhiều tác phẩm đƣợc xây

dựng trong một đơn vị thời gian hạn hẹp: ngày, giờ, một cuộc đối thoại, một

mẩu hồi ức… Nhà văn đi thẳng vào một thời điểm trong cuộc đời nhân vật, từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thời điểm đó, thời gian đƣợc mở rộng. Lúc này thời gian sự kiện không còn

72

chi phối nhân vật mà dòng xúc cảm của nhân vật sẽ làm cho thời gian

trần thuật và thời gian sự kiện có sự chênh lệch.

Trong tác phẩm Hoa bay cuối trời, thời gian sự kiện gói gọn trong cuộc

gặp gỡ giữa lão Khơ với lão Phủ và cảnh lão Khơ đến gặp ngƣời xƣa. Cả quá

khứ dằng dặc với bao biến cố dồn hết vào cuộc gặp gỡ trong chốc lát.

“Chuyện cũ giờ nhớ lại cũng bởi từ khi Phủ xuất hiện. (…). Gặp lại Phủ,

chuyện xƣa bỗng hiện về.” (quá khứ / hiện tại: 22/16 trang). Thời gian sự kiện

trong truyện Người săn gấu đƣợc xác định bằng thời gian đi hết một quãng

đƣờng. Nhà văn bắt đầu câu chuyện vào thời điểm nhân vật Thim “Giờ đã là

ông già Thim - trầm tĩnh - ít nói - tóc đã điểm sƣơng”. Trên đƣờng đi đến bản

Vạn, ông Thim nhớ lại bao chuyện buồn vui từ thuở ấu thơ đến tận bây giờ.

(quá khứ / hiện tại: 20/2 trang)

Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, một nét nổi bật của thời gian - không

gian ảo là thời gian giấc mơ. Mơ là thời gian đặc biệt, là sự chắp nối, xâu

chuỗi liên tục hoặc đứt đoạn của những ám ảnh vô thức. Thời gian sự kiện

trong truyện Hấp hối không dài (một giấc mơ), còn thời gian tâm lí đƣợc mở

rộng. Ở khoảnh khắc đƣợc chọn để thể hiện, nhân vật có thể vận động theo

mọi hƣớng: hƣớng tới tƣơng lai hoặc quay về quá khứ. Nhân vật Kình cùng

một lúc vừa sống trong hiện tại vừa sống trong quá khứ. Ứng với hai lớp thời

gian ấy là hai khoảng không gian gần nhƣ đối lập, trong đó thời gian sự kiện

rút ngắn, thu hẹp không gian tồn tại thực của nhân vật để xoáy vào không

gian tâm tƣởng. Nhân vật Kình mơ thấy mình ốm sắp chết, gặp con trai nhƣng

con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ ấy không đƣợc tái hiện liên tục mà xen kẽ

với hồi ức của nhân vật về hành động tội lỗi của mình trong quá khứ. Điều đó

chứng tỏ sự day dứt và mặc cảm đã đƣợc ghi nhận vào trong tiềm thức nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật và biểu hiện thành giấc mơ. Giấc mơ là sự giải tỏa những ẩn ức mà ban

73

ngày nhân vật trăn trở, băn khoăn. Nó soi rọi, lí giải nội tâm nhân vật một

cách tự nhiên và thấu đáo.

Nhƣ vậy, khi nhà văn xây dựng thời gian tâm lí, điểm nhìn đƣợc di chuyển

vào bên trong nhân vật. Nhân vật tự bộc bạch tâm trạng, thế giới bên trong

đƣợc soi rọi và câu chuyện có chiều sâu của sự tự ý thức. Bakhtin cho rằng:

“Trong con người bao giờ cũng có một cái gì mà chỉ có bản thân người đó là

có thể phát hiện được bằng hành vi tự nhận thức tự do, bằng hành vi ngôn

ngữ, là cái mà người ta không thể xác định theo bề ngoài và sau lưng được”.

Nghĩa là chỉ có tự nhận thức, con ngƣời mới phát hiện ra chính mình. Trong

văn học, con ngƣời tự nhận thức chỉ xuất hiện khi cái tôi cá thể đƣợc quan

tâm đúng mức. Con ngƣời tự nhận thức thể hiện chiều sâu mới trong quan

niệm nghệ thuật về con ngƣời. Nó gắn liền với sự thức tỉnh ngày càng cao của

nhà văn về giá trị cá nhân và chứng tỏ sự vận động, phát triển của văn học: từ

mô tả quá trình nhận thức đến phản ánh quá trình tự nhận thức của con ngƣời.

Nhân vật từ chỗ nhận thức, đánh giá thế giới và mọi ngƣời xung quanh, dần đi

đến chỗ tự quan sát, khám phá, phân tích nội tâm bản thân.

2.2.3. Thời gian phong tục, lễ hội

Thời gian phong tục “là thời gian của các phiên chợ, các tuần chay, các

ngày cúng giỗ, các ngày lễ tiết trong năm, nó tạo thành nhịp độ chung của

cuộc sống từng vùng, từng dân tộc, từng tôn giáo và gia đình, dòng họ. Không

ai có thể sống ngoài phong tục và đời họ gắn với nhịp điệu của thời này.”

[42, tr.67]. Khai thác đề tài miền núi, nhà văn Cao Duy Sơn không dừng ở

việc quan sát, mô tả bề ngoài mà còn tái hiện đƣợc sự vận động bên trong của

đời sống hiện thực vùng cao phía Bắc với những nét độc đáo đầy ấn tƣợng.

Bằng tác phẩm của mình, nhà văn đã đƣa ngƣời đọc đến với thế giới tâm linh,

đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đồng bào dân tộc ở miền núi. Đó là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những nghi thức của môi trƣờng xã hội, là những nét đẹp văn hóa truyền

74

thống với những phong tục tập quán in dấu trong cuộc sống cộng đồng bao

thế hệ. Đến với truyện ngắn của Cao Duy Sơn, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc vẻ

đẹp rất riêng của những tập tục tốt đẹp mà ngày nay đã ít nhiều mai một.

Không những thế, Cao Duy Sơn còn xây dựng thời gian phong tục nhằm tạo

dựng bối cảnh không gian và thời gian của một số truyện ngắn nhƣ:

Tượng trắng, Hoa bay cuối trời, Chợ tình, Súc Hỷ…

Tác phẩm Tượng trắng mở đầu bằng khung cảnh: “Tháng ba, rét nàng Bân

về cùng mƣa phùn, thấm khí lạnh vào những sƣờn núi cao ngất. Đá giá buốt

và đục nhờ trong mây mù bao phủ. Cái thứ mù lẫn nƣớc là là bay thấp khiến

mặt đất không sao hửng lên đƣợc”. Cái rét trở lại vào cuối mùa xuân gợi tích

nàng Bân đan áo cho chồng, gợi trong lòng ngƣời những nỗi niềm, nghĩ suy

về thủy chung, ân nghĩa. Đó là bối cảnh không gian của câu chuyện mà bà nội

kể cho con cháu nghe. Còn bối cảnh thời gian là tiết thanh minh: “...hôm nay

đúng ngày mùng ba tháng ba, ngày cửa mả đã mở. Thanh minh quê tôi chỉ có

ngày hôm nay, vì thế cả bản đã gánh xôi gà và rƣợu cùng những bó hƣơng

ra mộ từ sớm.”

Theo quan niệm của ngƣời dân tộc, ngày cửa mả đã mở là ngày ngƣời

đang sống và ngƣời đã khuất đƣợc gặp nhau cùng ăn bữa cơm đoàn tụ sau

một năm dài âm dƣơng cách biệt. Trong tiết thanh minh, “không khí hoài

niệm” bao trùm tất cả. Thời gian phong tục có nhịp điệu chậm, sâu lắng,

thiêng liêng làm nền cho những hoài niệm và tƣởng nhớ của bà nội. Nó khiến

câu chuyện tình đƣợc kể lại không chỉ là hồi ức riêng tƣ thật buồn thật đẹp mà

còn là hồi ức của những ngƣời đang sống về những ngƣời đã khuất, về những

gì không còn tồn tại nhƣng không nên và không thể nào quên.

Ở miền núi, mùa xuân gắn liền với nhiều lễ hội độc đáo của đồng bào các

dân tộc. Mọi ngƣời đi hội vui xuân, tham gia trò chơi, gặp gỡ và yêu thƣơng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Biết bao mối tình chớm nở trong những ngày hội xuân nhƣ thế. Tình yêu của

75

Khơ và Dình (Hoa bay cuối trời) bắt đầu từ khi họ gặp nhau ở lễ hội pháo hoa

Pác Gà. “ Năm nay ngƣời về chợ hội nhiều nhƣ hoa rừng nở khắp các lối

mòn. Tiếng cƣời nói, lƣợn Hà lều vang vọng thung sâu”. Trong khung cảnh

nhộn nhịp tƣơi vui và niềm háo hức chờ đón cuộc đấu quyết liệt xem ai là

ngƣời “cƣớp vòng đem về đặt lên bàn thờ miếu Nùng”, có những trái tim

đang rộn rã theo nhịp của tình yêu. Mối tình còn e ấp tiếp thêm sức mạnh và

niềm tin để Khơ trở thành ngƣời chiến thắng trong cuộc thi tranh đầu pháo.

Cho dù sau này mối tình của anh và Dình chỉ còn là kỉ niệm, hai ngƣời đều

không quên lễ hội pháo hoa trên đất Pác Gà. Cuối đời gặp lại, “Khơ nhìn vào

mắt nàng. Ở đó nƣờm nƣợp những ngƣời đang đổ về lễ hội pháo hoa Pác Gà.

Rừng đào nở hoa thắm đỏ, con suối xuân trong vắt và giá buốt, chiếc vòng đỏ

đeo vào cổ tay trắng tròn của nàng… Ngày xƣa, ngày xƣa nhƣ hiện về trong

đôi mắt nàng cƣời.”

Nét văn hóa độc đáo của miền núi phía Bắc là những phiên chợ vùng cao.

Ở đó “cái bản sắc nguyên thủy, cái tâm hồn đích thực của một cái chợ vẫn

còn tồn tại.” Ngƣời vùng cao sống giữa núi rừng, sinh hoạt và sản xuất chủ

yếu theo phƣơng thức tự cung, tự cấp. Những phiên chợ không chỉ là nơi đổi

trao mua bán mà còn là nơi gặp gỡ bạn bè, nơi hò hẹn của những trái tim yêu.

Đến với “Chợ tình” Âu Lâm trong sáng tác của Cao Duy Sơn, ngƣời đọc

đƣợc sống trong không gian - thời gian văn hóa rất riêng của ngƣời miền núi:

“Chợ trên một gò đồi. Một năm chỉ vào ngày hai mƣơi lăm tháng giêng

mới họp (…). Chợ ở đây không ồn ào nhƣ chợ phiên phố chợ, không tranh

mua, tranh bán, không đuổi đánh nhau vì ghen tuông hay thù oán. Đến đây

mọi bực dọc đều đã đƣợc khỏa dƣới sông, mọi toan tính đƣợc cởi bỏ trên

đƣờng, chỉ đem đến con tim bồi hồi và những lời thầm thì ái ân tìm vào tai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời xƣa.”(Chợ tình)

76

Nhà văn miêu tả không nhiều, chỉ dành một đoạn ngắn ở phần đầu tác

phẩm để giới thiệu chợ tình Âu Lâm rồi tạo dựng thời gian của phiên chợ theo

cảm nhận của nhân vật. “Cái ngày ở đây nó ngắn lắm, ngắn nhất trong năm”.

Chỉ một ngày thôi, nhƣng với những lứa đôi lỡ dở, thời gian phiên chợ không

còn là bối cảnh mang tính khách thể nữa. Nó là nhịp độ chung của cuộc sống

cả cộng đồng, cả một vùng, nó nhập vào thế giới tâm linh của con ngƣời. Đến

với “Chợ tình”, ngƣời đọc xúc động trƣớc những giọt nƣớc mắt và những lời

chia sẻ sau chia li, lỡ dở. Đến với “Chợ tình”, ngƣời đọc ấm lòng bởi giá trị

nhân văn của một phiên chợ vùng cao đã có tự bao đời.

Đầu xuân năm mới, ngƣời dân tộc ở miền núi có tục hát khai xuân. Ngƣời

có sứ mệnh hát khai xuân sẽ mặc bộ quần áo rách rƣới giống nhƣ những

ngƣời ăn xin, đến từng nhà “dán giấy đỏ lên cánh cửa”, hát lời chúc “cầu phúc

cầu an cho cả năm”. Chủ nhà sẽ đặt một đồng tiền vào chiếc giỏ mà ngƣời hát

khai xuân đeo bên mình. “Khai vài xuân chỉ là chúc phúc cho thiên hạ sống

hòa thuận, no ấm. Giống nhƣ gã ăn mày mà không phải ăn mày.(...) Hình hài

của lão, nó nhắc ngƣời ta khi sung sƣớng nhớ lúc đói khổ, kẻ nghèo khó hi

vọng no ấm ngày mai…” (Súc Hỷ). Và đây là “những câu thơ mềm nhƣ suối

hát” ngƣời khai vài xuân xƣớng lên trƣớc cửa mỗi nhà:

“Bƣơn chiêng pi mấƣ khai vài xuân a… ngần sèn khảu tu nả à, mò mả

khảu tu lăng ơ…cần ké lục đếch khảu pi mấƣ à a…phù sần au khen slửa lòng

dà…khảu, nặm, ngần sèn tim rƣờn la…cung hỷ phát sòi…(tháng giêng năm

mới đến khai xuân…chúc cho tiền bạc nhƣ nƣớc chảy vào cửa trƣớc, ngựa bò

chen đầy cửa sau, trẻ già cùng bƣớc vào năm mới, đều đƣợc tay áo thần tiên

che chở…gạo, nƣớc, tiền, bạc đầy nhà…vui vẻ phát tài.)

Phải là ngƣời gắn bó và hiểu biết sâu sắc những phong tục tập quán của

quê hƣơng mới có thể tái hiện những gì đã qua mà vẫn xúc động thiêng liêng

đến thế. Nhà văn Cao Duy Sơn tâm sự: “Ngày bé tôi cũng từng đặt những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồng xu vào giỏ của người hát khai xuân nên những gì tôi viết là tất cả những

77

điều đã ăn sâu vào tâm thức và trở thành máu thịt…”. Có thể nói, Súc Hỷ là

một tác phẩm có giá trị văn hóa rất sâu sắc. Câu chuyện làm ngƣời đọc nhớ lại

một tục lệ đã mất ở miền núi, khơi gợi niềm tự hào trân trọng những giá trị

tinh thần đặc sắc của ngƣời vùng cao.

Trong Truyện Tây Bắc, sự am hiểu xứ sở có những phiên chợ tình và có

nhiều cây thuốc phiện đã giúp nhà văn Tô Hoài mô tả thành công những tục lệ

bất công nhƣ: xử kiện, phạt vạ, cƣớp vợ… Tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng

cũng phản ánh khá sâu sắc phong tục tập quán của ngƣời dân tộc Tày ở miền

núi phía Bắc. Có những phong tục đẹp, có sức hấp dẫn lạ kì nhƣ: lễ hội Lồng

tồng, lễ mừng cơm mới, lễ thề nguyền dƣới trăng, tục cúng giỗ, tục nằm

mả…Có những hủ tục lạc hậu khiến bao ngƣời phải khốn đốn nhƣ: ép duyên,

ma gà…Cũng nhƣ các nhà văn đi trƣớc, Cao Duy Sơn không tập trung miêu

tả tập tục nhằm gợi trí tò mò của ngƣời đọc mà luôn gắn chúng với cốt truyện,

quan hệ hữu cơ với số phận và tính cách nhân vật. Mỗi tác phẩm là một vẻ

đẹp riêng của phong tục và của tâm hồn con ngƣời. Phong tục, lễ hội, tình yêu

chung thủy, lòng tốt của con ngƣời - theo nhà văn - đều thuộc về văn hóa, đều

đáng trân trọng và gìn giữ. Đây chính là bài học thấm thía giá trị nhân văn.

Trong thể thống nhất là tác phẩm ngôn từ, các yếu tố thời gian và không

gian không tách rời mà gắn bó chặt chẽ. Mỗi thời gian nghệ thuật có không

gian tồn tại riêng, ngƣợc lại mỗi thời gian cụ thể lại có không gian tƣơng ứng.

Ở truyện ngắn của Cao Duy Sơn, không gian địa lí và thời gian phong tục, lễ

hội đã góp phần tái hiện bức tranh hiện thực mang đậm bản sắc của vùng núi

phía Bắc. Ứng với không gian đời tƣ là thời gian đan xen giữa quá khứ và

hiện tại, thời gian tâm lí mang lại chiều sâu cho ngòi bút khám phá, từ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khắc họa hình ảnh con ngƣời miền núi đậm nét thật khó quên.

78

CHƢƠNG III

NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

Văn học là loại hình nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu sáng tạo hình

tƣợng. Việc sáng tạo ngôn ngữ văn học không bao giờ bắt đầu từ bản thân

ngôn từ mà bắt đầu từ ý đồ nghệ thuật của nhà văn khi phản ánh đời sống.

Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt một ý nghĩa mà “không một phát ngôn

đồng nghĩa nào có thể thay thế được” (G.V. Xtêpanôp) và truyền đạt qua thế

giới nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật là sự thể hiện cái nhìn, sự cảm nhận và

thái độ của nhà văn với hiện thực. Do đó ngôn ngữ nghệ thuật ở đây là ngôn

ngữ của thế giới nghệ thuật và của cá tính sáng tạo ngƣời nghệ sĩ. Nói cách

khác, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành phƣơng thức tồn tại, phƣơng tiện biểu

hiện của nội dung. Những đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật là tính

hình tƣợng, tính cấu trúc và tính cá thể hóa.

Là một ngƣời con của đất Cao Bằng, Cao Duy Sơn đã mang đến cho ngƣời

đọc những trang viết thấm đẫm bản sắc dân tộc. Đó là kết quả của “sự sắc sảo

trong quan sát cuộc sống và gọi nó ra bằng chính ngôn ngữ của người vùng

mình.” [7]. Về phƣơng diện ngôn ngữ, ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn

có hai đặc điểm nổi bật: ngôn ngữ giàu hình ảnh với thủ pháp so sánh và đậm

sắc thái dân tộc. Những đặc điểm này thể hiện ở cả hai phƣơng diện:

ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật.

1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh với thủ pháp so sánh - nét đặc trƣng của

truyện ngắn Cao Duy Sơn

Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn có tính hình tƣợng rất cao. Đặc điểm

này có cơ sở từ thói quen tƣ duy hình tƣợng của đồng bào dân tộc ở miền núi,

nghĩa là tƣ duy theo cách hình dung, cắt nghĩa đời sống bằng hình ảnh cụ thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Xuất phát từ thói quen tƣ duy của đối tƣợng đƣợc miêu tả và ý thức của ngƣời

79

viết mà ngôn ngữ truyện ngắn của Cao Duy Sơn rất giàu hình ảnh so sánh.

Trong ba tập truyện ngắn: Những chuyện ở lũng Cô Sầu, Những đám mây

hình người, Ngôi nhà xưa bên suối, nhà văn Cao Duy Sơn đã sử dụng thủ

pháp so sánh ở tất cả 22 tác phẩm. Số lần sử dụng trong từng tác phẩm cụ thể

nhƣ sau:

Số lần Số lần Số Số Tên tác phẩm sử dụng/ Tên tác phẩm sử dụng/ TT TT số trang số trang

1 Người săn gấu 23 / 22 12 24 / 32 Nơi đây không một bóng người

2 Hấp hối 21 / 26 13 Bong bóng ngoài 4 / 5

mưa

3 Thằng Hoán 21 / 21 14 Mưa phố 20 / 22

4 28 / 21 15 85 / 22 Cuộc báo thù cuối cùng Dưới chân núi Nục Vèn

5 Người ở muôn nơi 13 / 13 16 Cố nhân 1 / 9

6 Tượng trắng 18 / 17 17 Chích bông ơi 8 / 4

7 Âm vang vong hồn 23 /32 18 33 / 45 Ngôi nhà xưa bên suối

8 Chợ tình 13 / 9 19 Hoa bay cuối trời 35 / 38

9 Song sinh 39 / 33 20 31 / 22 Hòn bi đá màu trắng

10 40 / 26 21 Hoa Mộc Vương 16 / 17 Những đám mây hình người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11 Mùa én gọi bầy 10 / 31 22 Súc Hỷ 21 / 19

80

Là phƣơng thức tu từ có tính truyền thống, so sánh là sự đối chiếu giữa hai

sự vật khác nhau trên cơ sở có những nét tƣơng đồng nhằm diễn tả bằng hình

ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng, nghĩa là làm nổi bật, gây ấn tƣợng về

sự vật đƣợc nói đến. Trong các tác phẩm của mình, Cao Duy Sơn thƣờng sử

dụng thủ pháp so sánh khi miêu tả cảnh vật và miêu tả con ngƣời.

Trong sáng tác văn học, cảnh vật thiên nhiên là nội dung, đồng thời là

phƣơng tiện biểu đạt thế giới nghệ thuật của nhà văn. Đó là phông nền để nhân

vật xuất hiện, để bộc lộ tâm tình, là bức tranh thiên nhiên “vừa cho ta nhìn, vừa

cho ta cảm” mà quan trọng là cái “cho ta cảm”. Cùng miêu tả hình ảnh mặt trời

lúc chiều buông, có khi nhằm tạo khung cảnh, môi trƣờng hoạt động của nhân

vật: “Mặt trời nhƣ bị những chàng núi khổng lồ vít xuống sau lƣng, nhƣng vẫn

cố nhô lên rọi xuống mặt sông và con đƣờng những luồng sáng vàng nhạt,

thẳng tắp hình rẻ quạt.” (Người săn gấu); có khi so sánh để diễn tả những rung

động của tâm hồn nhân vật trƣớc cảnh vật: “Hai đứa ngồi trên ngọn đồi, nhìn về

phía tây, nơi ấy mặt trời đỏ nhƣ lòng trứng gà, đang rớt xuống sau núi. Mặt trời

gợi cho tôi chuyện Hậu Nghệ…” (Người ở muôn nơi).

Mƣa xuân trong những trang viết của Cao Duy Sơn vừa quen vừa lạ bởi nhà

văn tìm đƣợc nét tƣơng đồng tinh tế giàu sức gợi giữa những sự vật rất đỗi bình

thƣờng và quen thuộc. Cách so sánh trong trạng thái động của sự vật làm khung

cảnh trở nên sáng ấm, mơ màng: “Mƣa nhƣ bụi rắc xuống từ đỉnh núi len khắp

khe ngách, lối mòn, ken sƣơn sƣớt quanh những gốc lê già trổ bông nhƣ tuyết”

(Chợ tình); “Mƣa phùn nhƣ hoa bay trong gió, khẽ đậu xuống lá mận non tơ.”

(Súc Hỷ)

Còn nắng ở miền sơn cƣớc thật sáng trong, rực rỡ, đƣợc ƣớp hƣơng hoa và

tràn ngập góc thềm. Cách so sánh của nhà văn tạo ấn tƣợng về sự tinh khiết và

màu sắc khiến ngƣời đọc ngỡ ngàng: “Hƣơng hoa Mộc Vƣơng thoảng một góc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thềm đầy nắng, thứ ánh sáng trong vắt nhƣ đƣợc lọc qua lớp thủy tinh màu

81

vàng” (Hoa Mộc Vương). Thủ pháp so sánh làm ngọn đèn trong đêm Hoán và

Làn Dì (Thằng Hoán) nên vợ chồng nhƣ cũng xao xuyến mừng vui: “Ngọn đèn

trên nóc chiếc hòm gỗ khẽ đung đƣa nhƣ con ong vàng đang vỗ cánh.”

Khi sử dụng thủ pháp so sánh, điều quan trọng nhất là chuẩn so sánh và

tƣơng quan so sánh. Nếu cái đƣợc so sánh và cái đƣa ra để so sánh khác loại thì

phép so sánh càng bất ngờ và có hiệu quả cao. Cao Duy Sơn thƣờng sử dụng

những hình ảnh so sánh rất quen thuộc, phổ biến trong đời sống của ngƣời dân

miền núi. Cách thức so sánh là lấy cái cụ thể để làm rõ cái chƣa cụ thể, cái trừu

tƣợng. Đặc biệt, những trƣờng hợp so sánh khác loại đã gợi những liên tƣởng

bất ngờ, thú vị cho ngƣời đọc. Đó là khi nhà văn miêu tả âm thanh: “…bầu trời

cao rộng ngăn ngắt khe khẽ nghiêng tai lắng nghe cái điệu khèn buồn nhƣ làn

khói trấu gieo chậm trong nắng vàng vắng lặng.” (Người săn gấu). Cao Duy

Sơn đã tạo liên tƣởng so sánh khá bất ngờ khi dùng hình ảnh “làn khói trấu gieo

chậm trong nắng vàng vắng lặng” để diễn tả giai điệu nhẹ nhàng, chậm, buồn

của tiếng kèn nhân vật Thim đang thổi. Cảm giác của thính giác đƣợc so sánh,

đƣợc gợi từ cảm giác của thị giác và tâm hồn con ngƣời khi thấy làn khói mỏng

manh, nhạt nhòa từ từ gieo trong nắng vàng, vƣơng trên cái tĩnh lặng của không

gian.

Trong tác phẩm Dưới chân núi Nục Vèn, nhà văn miêu tả tiếng kêu của hổ

con mất mẹ: “Tiếng kêu của nó nhƣ mũi dao chọc vào màn đêm, rồi mất dần

trong tiếng âm ƣ…ầm ừ từ hang núi Kiếm vọng về”. Hình ảnh so sánh “mũi

dao chọc vào màn đêm” đã làm nỗi đau, nỗi bơ vơ trong tiếng kêu của hổ con

đang còn bú mẹ hiện lên thành hình, thành khối. Dùng hình ảnh “mũi dao chọc

vào màn đêm” để mô tả âm thanh, nhà văn buộc ngƣời đọc phải huy động

trƣờng liên tƣởng và cảm giác của thị giác, xúc giác mới thấm thía sự bơ vơ lạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lõng của kiếp mồ côi.

82

Con ngƣời là đối tƣợng chính của nghệ thuật nói chung và của văn học nói

riêng. Trong văn xuôi, một trong những cách thức khắc họa nhân vật là miêu tả

ngoại hình và nội tâm nhân vật. Nhà văn Cao Duy Sơn rất chú trọng lựa chọn

hình ảnh so sánh khi phác họa chân dung con ngƣời miền núi phía Bắc với

những nét riêng không thể lẫn với ngƣời vùng miền khác. Những hình ảnh so

sánh mà nhà văn sử dụng rất quen thuộc trong đời sống và phù hợp với nếp

nghĩ, nếp cảm của ngƣời dân miền núi phía Bắc. Đây là vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe

mạnh của chàng trai săn gấu: “Thim đi vào rừng lúc trời vừa sáng rõ. (…) Hai

bắp chân đỏ nhƣ lõi cây nghiến nhằm hƣớng rừng trƣớc mặt rảo bƣớc tự tin”

(Người săn gấu). Vóc dáng hao gầy của thầy giáo Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối)

đƣợc so sánh với cái màng tre mềm mại, mỏng manh: “Ngƣời mỏng nhƣ màng

tre!”. Nhấn mạnh sự giống nhau của hai anh em sinh đôi, Cao Duy Sơn sử dụng

hình ảnh quen thuộc với ngƣời nông dân và miêu tả tỉ mỉ: “Du và Sìu có bề

ngoài giống nhau nhƣ hai cái cày mới, cùng loại gỗ, kích cỡ kiểu dáng đều do

một ngƣời khéo tay tạo nên.”(Song sinh). Ngƣời miền xuôi thƣờng so sánh anh

em song sinh “giống nhau nhƣ hai giọt nƣớc”, ở đây hình ảnh so sánh và cách

mô tả bằng lối diễn đạt của ngƣời miền núi đã giúp cho nội dung biểu đạt trở

nên sáng rõ và đậm bản sắc vùng miền.

Miêu tả hình thức của những ngƣời thiếu nữ miền sơn cƣớc, Cao Duy Sơn

thƣờng sử dụng những so sánh quen thuộc mang phong vị ca dao hoặc có tính

ƣớc lệ. Nhà văn chú trọng những nét, những chi tiết cụ thể nhƣ đôi mắt, khuôn

mặt, làn da, mái tóc:

- “Càng lớn cô càng xinh đẹp. Tóc cô mỗi ngày một dài và đầy lên trong vành

khăn quấn đầu. Môi đỏ nhƣ bi chuối rừng, mắt đẹp nhƣ mắt con chim hục phầy.

Da trắng mịn nhƣ nõn chuối.” (Tượng trắng)

- “…cô gái có đôi mắt đẹp nhƣ con chim lửa, cổ trắng nhƣ ruột cây chuối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rừng, môi đỏ nhƣ cánh hoa gạo.” (Dưới chân núi NụcVèn)

83

- “Nàng xinh xắn, uyển chuyển nhƣ con suối thu chân núi.” (Hòn bi đá

màu trắng)

- “Mặt nàng đẹp nhƣ bông đào trong nắng. Nụ cƣời bẽn lẽn, mắt chớp nhƣ

cánh vẫy của loài bƣớm hoa. (…). Mà sao có ngƣời trời cho làn da trắng quá

thế! Mịn nhƣ mỡ đông, tƣơi mát nhƣ sƣơng loang mặt hồ.” (Hoa bay

cuối trời)

- “Với Hoán, Làn Dì giống nhƣ bông hoa kim anh rực rỡ những thân cành tua

tủa gai góc…” (Thằng Hoán)

Cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng cao gắn bó với thiên nhiên. Thiên

nhiên chi phối, ảnh hƣởng và hiện diện trong nếp sống, nếp nghĩ của họ. Trong

truyện ngắn của Cao Duy Sơn, thiên nhiên là chuẩn mực, là cơ sở tạo hình để

ngợi ca vẻ đẹp của con ngƣời. Nhà văn thƣờng so sánh vẻ đẹp của thiếu nữ với

vẻ đẹp của các loài hoa. Lối so sánh của Cao Duy Sơn rất hồn nhiên, mộc mạc

và có tính trực giác cao. Hình ảnh so sánh thƣờng gợi trong ngƣời đọc cảm

giác, ấn tƣợng về màu sắc, sự non tơ, mịn màng tƣơi mát: “Cổ trắng nhƣ ruột

cây chuối rừng, môi đỏ nhƣ cánh hoa gạo” hay “Da trắng mịn nhƣ nõn chuối”,

“mịn nhƣ mỡ đông”… Tính trực giác cao không làm cái đẹp trở nên dung tục

mà để dễ chạm vào cảm giác và khơi đam mê, ngƣỡng mộ, ngỡ ngàng trƣớc

những bông hoa đậm đà sắc hƣơng nơi rừng xa núi thẳm. Sử dụng hình ảnh so

sánh, nhà văn không chỉ khắc họa ngoại hình nhân vật mà còn khơi gợi, định

hƣớng thái độ, tình cảm của độc giả đối với nhân vật.

Thủ pháp so sánh đƣợc Cao Duy Sơn sử dụng linh hoạt và rất thành công

trong việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nội tâm con ngƣời là những gì thuộc về

bên trong, diễn ra trong nhận thức, đời sống tình cảm của con ngƣời. Để miêu

tả nó, các nhà văn đã thể hiện bằng nhiều phƣơng diện: nhận thức, nghĩ suy,

cảm xúc; có lúc là những trạng thái bản năng, có khi thuộc về nhân tính… Thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giới nội tâm đƣợc phơi bày tƣờng tận ở cả phần tốt đẹp và cả những miền u ám,

84

ở cả quá khứ, hiện tại và tƣơng lai. Trong ba tập truyện: Những chuyện ở lũng

Cô Sầu, Những đám mây hình người, Ngôi nhà xưa bên suối, Cao Duy Sơn đã

sử dụng linh hoạt những hình thức so sánh, mang lại cho ngôn ngữ nghệ thuật

vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển và khả năng cụ thể hóa, hữu hình hóa những cái

khó nắm bắt trong lòng ngƣời. Để miêu tả nội tâm nhân vật, nhà văn thƣờng sử

dụng hai hình thức: so sánh tâm trạng với sự vật, sự việc, hiện tƣợng trong đời

sống và so sánh cảm nhận tâm lí với cảm giác vật lí.

Phổ biến hơn trong truyện của Cao Duy Sơn là cách thức so sánh tâm trạng

với sự vật, sự việc, hiện tƣợng. Đây là trƣờng hợp so sánh khác loại. Những xúc

cảm, trạng thái tâm lí của con ngƣời là vô hình còn các sự vật, sự việc, hiện

tƣợng trong đời sống là hữu hình. Cách so sánh này tạo những liên tƣởng bất

ngờ thú vị do “lạ hóa” và sự chính xác đến tinh tế, đặc biệt khi diễn tả cảm xúc

của ngƣời đang yêu. Miêu tả tâm trạng của Thim - chàng trai mồ côi nghèo khó

- khi đƣợc con gái của “Coằng” trao lời thƣơng nhớ, nhà văn viết: “Có một điều

gì đó nhƣ ngọn lửa đang bùng lên trong thâm tâm ngƣời con trai mới lớn…”

(Người săn gấu). Mơ hồ, mới mẻ chƣa thể gọi tên nhƣng hình ảnh so sánh đã

truyền cho ngƣời đọc sự ấm áp, nồng nàn trong trái tim nhân vật.

Ở tác phẩm Hoa bay cuối trời, trái tim rạo rực tình yêu đƣợc nhà văn so

sánh với một sự việc rất quen thuộc trong đời sống của ngƣời miền núi: “Cảm

giác bâng khuâng khiến trái tim Khơ bỗng nhƣ ngựa non cuồng vó muốn lồng

khỏi ngực”. Và nỗi nhớ ngƣời yêu, khát khao gặp gỡ của chàng trai vùng núi

cháy bỏng vô cùng: “Không thể chờ đến tết Đoan ngọ nhƣ đã hẹn, bây giờ mới

sau lễ Thanh minh mùng ba tháng ba đƣợc hai ngày, lòng Khơ đã bồn chồn nhƣ

có ai thả vào cả đàn kiến lửa”. Nỗi nhớ thƣơng không thể ví với cảm giác vật lí

(Nhớ ai bổi hổi bồi hồi. Như đứng đống lửa, như ngồi đống than), cũng không

so sánh với vầng trăng đang hao gầy theo thời gian (Nhớ chàng như mảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trăng đầy. Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm). Nó là cảm giác không yên

85

hòa vào mong nhớ, kết tụ trong lòng nhân vật đến mức đớn đau. Những chàng

trai, cô gái chốn sơn lâm yêu thƣơng nồng nàn đến thế, khi mối tình không thể

nở hoa kết trái, nỗi buồn đau của họ thấm vào lời ngƣời kể chuyện: “Sinh buồn

nhƣ con suối thu cạn nƣớc.” (Chợ tình). Dòng nƣớc dù vơi đầy vẫn là sự sống,

là linh hồn của con sông, con suối. Thu sang, suối cạn nƣớc rồi, suối có còn là

sinh thể trong sự sống bất tận của đại ngàn hay chỉ là một lạch đất trơ trọi, vô

tri ?

Những hình ảnh so sánh giàu sức gợi đã diễn tả thấm thía nỗi đau của nhân

vật khi tình yêu lỡ dở. Ngƣời miền núi chân chất, hồn nhiên, không nhiều lời,

không hay bộc lộ bằng lời nói. Hiểu sâu sắc tâm lí đó của “người đồng mình”

(Y Phƣơng), Cao Duy Sơn đã sử dụng chính ngôn ngữ và hình ảnh quen thuộc

trong đời sống của đồng bào miền núi để gọi tên, so sánh. Làn Dì (Thằng

Hoán) phản bội chồng, bỏ đi ba năm rồi quay về đòi đƣa con trai đi cùng, Hoán

không đồng ý. Tâm trạng, thái độ của nhân vật Hoán đƣợc nhà văn miêu tả

bằng một câu ngắn gọn: “Hoán vẫn đứng lạnh lùng nhƣ một tảng đá mồ côi”.

Nếu nhà văn chỉ so sánh với hình ảnh “tảng đá”, có lẽ ngƣời đọc chỉ cảm nhận

ở nhân vật sự vô cảm, vô tri. Thêm một từ “mồ côi” mà khơi mở bao liên

tƣởng: thái độ dứt khoát, những lo âu và cảm giác cô đơn của một ngƣời cha

trƣớc nguy cơ mất mát, xót xa.

Trong tác phẩm Cuộc báo thù cuối cùng, Cao Duy Sơn cũng sử dụng hình

thức so sánh tâm trạng với sự vật, hiện tƣợng để thể hiện nội tâm của lão Vƣợc.

Sự căng thẳng của nhân vật khi rình bắn con hổ đã hại chết vợ mình đƣợc nhà

văn miêu tả: “…lão thấy đầu mình đang căng lên nhƣ một sợi dây cung”. Nhìn

thấy kẻ thù, nỗi đau mất mát và giận dữ cùng trào dâng dữ dội: “Đầu lão bỗng

nổi lên tiếng ù ù nhƣ sấm động”. Cũng nhƣ sự lo âu, căng thẳng, sự bối rối của

con ngƣời là trạng thái tâm lí rất khó hình dung, nắm bắt. Cao Duy Sơn đã miêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tả sự bối rối và lo lắng của thầy giáo Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối) sợ mọi ngƣời

86

hiểu lầm thấy cô học trò cũ vừa khóc vừa chạy ra khỏi phòng thầy: “Thầy vò

đầu rứt tóc, ruột rối nhƣ cƣớc chài”. Niềm hạnh phúc đƣợc làm cha khi đứa con

đầu lòng ra đời đƣợc nhà văn so sánh với tâm trạng của ngƣời chỉ dám hi vọng

điều nhỏ bé bỗng đƣợc nhận niềm vui sƣớng lớn lao: “Thầy vui nhƣ đào củ mài

đƣợc hũ vàng”. Qua thủ pháp so sánh của nhà văn, những sự vật, sự việc, hiện

tƣợng phổ biến trong cuộc sống sinh hoạt đã mang vào trang văn hơi thở của núi

rừng, bản sắc dân tộc đậm đà trong thói quen, nếp nghĩ của con ngƣời miền núi.

Bên cạnh đó, Cao Duy Sơn còn sử dụng khá hiệu quả hình thức so sánh cảm

nhận tâm lí với cảm giác vật lí. Đó là cách thức so sánh những cảm nhận của tâm

hồn với cảm giác nhận biết đƣợc nhờ các giác quan (cảm giác vật lí, cảm giác thân

xác). Cảm giác là hình thức thấp nhất của nhận thức. Cảm giác cho ta biết

những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, đối tƣợng đang tác động vào giác quan

của ta. Còn cảm xúc là những rung động trong lòng ngƣời, là sự “động lòng

mạnh mẽ”. Trong văn học, các nhà văn khám phá chiều sâu tâm hồn con ngƣời

từ những biểu hiện cảm giác, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống,

những cảnh ngộ cụ thể. Khi nhà văn so sánh cảm nhận tâm lí với cảm giác vật lí,

ngƣời đọc nhƣ cảm nhận đƣợc cảm giác của nhân vật bằng giác quan của chính

mình. Từ sự thấu hiểu đó, ngƣời đọc đồng điệu, đồng cảm với nỗi niềm của nhân

vật.

Sau những năm tháng gửi gắm tuổi xuân ở khắp các chiến trƣờng, Thim

(Người săn gấu) trở về quê tìm “ngƣời con gái yêu mình bằng tất cả tấm lòng

trong trắng, chân thật”. Dân bản kể lại mọi chuyện cho anh nghe. Ngày đó,

nghe mọi ngƣời nói Thim đã bị giết trong rừng, “suốt hai ngày cô không ăn

uống gì. Thế rồi vào một đêm, cô gái đã bỏ đi và không bao giờ thấy trở lại

nữa”. Tìm ngƣời thƣơng mà không thể gặp, bây giờ không biết ngƣời còn hay

mất, “Những câu chuyện nhƣ mảnh nứa cứa vào gan ruột...”. Thƣơng nhớ, khát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khao và hi vọng dồn nén bao ngày tháng, giờ đây niềm hi vọng ấy bị dập tắt

87

phũ phàng. Những chuyện đau lòng dân bản kể lại chính là thực tại nghiệt ngã

nhân vật Thim phải đối diện. Nó đƣợc ví với mảnh nứa cứa vào da thịt, vào gan

ruột những vết đứt rất ngọt, buốt xót vô cùng.

Trong tác phẩm Hoa bay cuối trời, nỗi lòng của lão Khơ khi mái đầu đã bạc

đƣợc nhà văn diễn tả: “Chuyện tình đầu chẳng thể quên, nhắc lại lòng còn xót

nhƣ dao xát muối cứa thịt”. Nỗi xót xa đau đớn khi yêu nhau mà chẳng lấy

đƣợc nhau là trạng thái tâm lí, tình cảm của con ngƣời chỉ có thể cảm nhận

bằng tâm hồn chứ không phải bằng các giác quan vật chất. Cảm giác xót đau

khi dao xát muối cứa thịt là cảm giác vật lí, cảm giác thân xác. Với cách so

sánh nhƣ vậy, nỗi lòng nhân vật nhƣ đƣợc vật chất hóa, cụ thể hóa, gợi nhiều

thƣơng cảm xót xa.

Sự ấm ức, tức tối là trạng thái tâm lí con ngƣời thƣờng thể hiện qua nét mặt,

ánh mắt, lời nói, cử chỉ, hành động. Nhà văn đã so sánh để trạng thái tâm lí của

nhân vật trở nên rõ nét. Nhân vật Khàng (Dưới chân núi Nục Vèn) vốn là con

trai lí trƣởng. Khi cách mạng về, “đám ruộng nhà Khàng phải trả lại cho những

ngƣời nghèo”, Khàng phải đi làm cùng với những ngƣời trƣớc đây đã đến ở làm

thuê, cày mƣớn cho nhà nó. “Khàng ức lắm, ức nhƣ con gấu bị thƣơng. (…).

Nó nhƣ ngậm phải cái lá đắng”. Ngƣời miền núi ai cũng hiểu, khi bị thƣơng

gấu không bỏ chạy nhƣ hổ, vết thƣơng chỉ càng kích thích nó tấn công đối thủ

dữ dội hơn. Đƣợc liên tƣởng so sánh với cái hung hăng, dữ tợn của con gấu bị

thƣơng, với cảm giác của cơ quan vị giác khi con ngƣời ngậm phải cái lá đắng,

sự thù hận, tức tối của Khàng trở nên dữ dội không gì xoa dịu đƣợc.

Có thể nói, sự phát hiện và diễn tả cảm giác, cảm xúc của con ngƣời là một

việc không dễ dàng và đơn giản. Bởi trong con ngƣời, cảm giác, cảm xúc

thƣờng đan xen soi rọi, có khi đồng điệu, có lúc trái ngƣợc làm nên sự phức tạp

phong phú của nội tâm con ngƣời. Lối trần thuật giàu hình ảnh với thủ pháp so

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sánh của Cao Duy Sơn đã góp phần gợi tả sâu sắc và tinh tế những trạng thái

88

tâm lí, cảm giác, cảm xúc của nhân vật. Sự sâu sắc và tinh tế đó thuộc về tâm

hồn nhà văn, sự linh hoạt, khéo léo trong lựa chọn và sử dụng ngôn từ, hình

ảnh. Vì vậy, ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn không chỉ giàu hình ảnh mà

còn giàu chất thơ, mang tính đặc trƣng của vùng núi phía Bắc.

2. Ngôn ngữ đậm sắc thái dân tộc

2.1. Vận dụng lối nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi

Ngôn ngữ văn học là "ngôn ngữ mang tính nghệ thuật đƣợc dùng trong văn

học." [10, tr.215]. Ngôn ngữ văn học có cội nguồn từ ngôn ngữ nhân dân, đƣợc

sử dụng để xây dựng hình tƣợng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Trong tác

phẩm văn học, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính

sáng tạo, phong cách, tài năng của ngƣời sáng tác. Với những nhà văn khai

thác đề tài miền núi, vấn đề quan trọng đặt ra là phải phản ánh đƣợc tƣ duy,

tính cách hồn nhiên, chân thật của ngƣời miền núi. Việc tiếp thu ngôn ngữ của

đồng bào dân tộc ít ngƣời để chuyển hoá vào tác phẩm đòi hỏi sự hiểu biết và

cả tài năng của ngƣời cầm bút. Không đơn giản chỉ là mô phỏng hay sao chép

lối nói của ngƣời dân tộc thiểu số, điều quan trọng là ngƣời viết phải thấu tỏ

nếp tƣ duy và điệu hồn dân tộc, từ đó vận dụng sáng tạo mang lại bản sắc dân

tộc cho nhân vật và tác phẩm. Trong truyện ngắn của mình, Cao Duy Sơn

thƣờng vận dụng cách nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi khi mô tả

đặc điểm của sự vật, sự việc, diễn tả thời gian, những phẩm chất, đức tính, cảm

giác và lời nói của con ngƣời.

Để mô tả đặc điểm của sự vật, hiện tƣợng, ngƣời miền núi thƣờng dùng

những hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống, khi liên tƣởng thƣờng kết

hợp với phép nhân hoá. Trong tác phẩm Dưới chân núi Nục Vèn, nhà văn đã

vận dụng cách liên tƣởng đó để mô tả đám ruộng nhà lí trƣởng. Đó là hình ảnh

gợi liên tƣởng so sánh độ rộng lớn của không gian với sức cày của một con trâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khoẻ: "... đám ruộng mỗi ngày một to, con trâu khoẻ cày đi ba đƣờng, về ba

89

đƣờng đã đòi về nghỉ ăn cỏ". Trong tác phẩm Hoa bay cuối trời, nhà văn đã

diễn tả tâm trạng của nhân vật Khơ lúc nghe lời Phủ kể và nhấn mạnh tính chất

của sự kiện bằng hình ảnh núi lở đá lăn: "Phủ là thằng con trai mộc mạc, ăn ở

thuỷ chung, trọng ngƣời khí phách, không thể tự dựng chuyện núi lở đá lăn nhƣ

thế."

Ngƣời vùng cao quen nhìn trời mây, cây cỏ để xác định thời gian. Thời điểm

xảy sự việc, bắt đầu sự kiện hay thời gian diễn ra một hoạt động thƣờng đƣợc

họ gắn với những biến đổi của thiên nhiên, của những sự vật quen thuộc trong

đời sống. Trong tƣ duy và cảm nhận hồn nhiên của ngƣời miền núi, thời điểm

kết thúc một ngày là lúc ông trời chuẩn bị đi ngủ. Nhà văn viết: "Tiếng ve rừng

cất lên rền rĩ chợt làm Vƣợc sốt ruột. Giống này mà lên tiếng chỉ lúc nữa mắt

trời sẽ khép." (Cuộc báo thù cuối cùng); "Họ đi làm từ lúc con gà nhà nó gáy

lần thứ nhất đến lúc ông mặt trời về ngủ bên kia núi Nục Vèn mới về

nghỉ."(Dưới chân núi Nục Vèn)

Nói về sự ra đời của một đứa trẻ, ngƣời vùng cao có cách diễn đạt khác

ngƣời miền xuôi, đó là cách nói dùng hình ảnh "nhìn thấy mặt trời". Cách tính

đếm thời gian của họ cũng rất thú vị. Nhiều khi chỉ ƣớc lƣợng để gợi ý niệm ít

hoặc nhiều chứ không xác định cụ thể, chính xác tuyệt đối. Khoảng thời gian

giữa hai thời điểm ra đời của hai anh em sinh đôi Du và Sìu đƣợc đo bằng

khoảng cách của hai thời điểm nồi cơm sôi và nồi cơm chín: "Cùng là anh em

sinh đôi, nhìn thấy mặt trời trƣớc nhau chỉ bằng nồi cơm sôi, cơm chín Du

nghiễm nhiên làm anh, Sìu làm em..." (Song sinh)

Trong truyện Dưới chân núi Nục Vèn, thời gian một năm đã trôi qua cũng

đƣợc tính theo một mùa trồng cấy hay thu hoạch, nhƣng không phải là mùa lúa

mà là mùa thuốc phiện: "Nhà lão Khàng ở đầu bản Luông. Lão sống với thằng

Khin, con trai độc nhất của lão. Mé thằng Khin chết lúc đẻ nó qua hai mùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuốc phiện". Khi kể lại câu chuyện tình cảm động của lão Sinh và mú Ếm

90

(Chợ tình), Cao Duy Sơn đã sử dụng lời nửa trực tiếp để diễn tả tâm trạng khắc

khoải mong chờ của nhân vật. Tâm trạng ấy trải theo chiều dài thời gian không

tính bằng tháng năm mà bằng độ dài cuộc đời loài ngựa: "Dễ phải đến mƣời

bốn lần thay ngựa Sinh mới gặp đƣợc nàng". Cách tính đếm thời gian tƣởng

nhƣ cụ thể mà thật khó xác định cụ thể. Đọng lại trong câu chữ là dằng dặc thời

gian, là khắc khoải mong chờ. Vận dụng cách nói của ngƣời miền núi để thể

hiện tâm trạng và khắc họa nhân vật, nỗi mong nhớ trong truyện của Cao Duy

Sơn cũng mang bản sắc vùng cao, mộc mạc vậy thôi mà sâu nặng, tha thiết vô

cùng.

Khác với ngƣời miền xuôi, khi nhận xét về ngƣời khác hay tự cảm nhận, tự

đánh giá, ngƣời dân tộc thiểu số ở miền núi không hay dùng những danh từ,

tính từ để định danh và nêu tính chất một cách trực tiếp. Nói về những phẩm

chất, đức tính, cảm giác hay tâm trạng của con ngƣời, họ thƣờng gắn chúng với

những dấu hiệu bề ngoài để nhận biết và lí giải. Nhà văn Cao Duy Sơn đã khéo

léo vận dụng cách nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi khi nói về sự

can đảm, lòng dũng cảm của con ngƣời: "Muốn bắn đƣợc con thú to thì cái gan

phải to, cái mật phải đầy, cái tay không run thì mới bắn đƣợc." (Người săn

gấu). Sự thính tai tinh mắt, nhanh nhạy trong quan sát, nắm bắt và tâm địa độc

ác của nhân vật Khàng (Dưới chân núi Nục Vèn) đƣợc nhà văn mô tả bằng lối

nói rất quen thuộc của ngƣời miền núi: "Mấy chục năm nay lão không ra khỏi

bản một bƣớc nhƣng chuyện gì lão cũng biết. Có ngƣời nói lão có cái tai ở

ngoài sông, có cái mắt ở trên núi". Những lời xúi bẩy đầy toan tính của lão

Khàng đƣợc ví nhƣ lá độc: "Sao đến bây giờ miệng lão còn nhiều cái lá độc

thế?"

Để diễn tả những khái niệm trừu tƣợng, những diễn biến nội tâm của con

ngƣời, ngƣời miền núi có xu hƣớng cụ thể hóa chúng bằng hình ảnh so sánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoặc ẩn dụ. Sự tù túng, hạn hẹp, hạn chế rất khó hình dung khi đƣợc ví von

91

bỗng trở nên dễ hiểu: "... Du tòng quân. Tuy chỉ đƣợc huấn luyện ngoài tỉnh,

cách bản Niểng bảy chục cây số nhƣng cũng là mãn nguyện lắm! Hơn ở nhà tù

túng, mắt bị cây rừng bƣng kín." (Song sinh). Còn sự ân hận day dứt của Pẩu

(Mưa phố) đƣợc nhà văn miêu tả ngắn gọn và cụ thể: "Pẩu thấy mình có tội, tội

lớn bằng tất cả những ngọn núi đất Cô Sầu chồng lên nhau". Những từ ngữ và

hình ảnh mộc mạc lấy thẳng từ ngôn ngữ đời sống của ngƣời miền núi đƣợc

dùng để miêu tả sự giận dữ, nỗi lo sợ của con ngƣời: "Khàng giật mình, đầu nó

bỗng có nhiều tiếng ông sấm, bà sét đuổi đánh nhau."; "...dân bản run cái chân,

cái tay..." (Dưới chân núi Nục Vèn). Tâm trạng của Sìu (Song sinh) khi nhìn

thấy chị dâu đƣợc nhà văn miêu tả: “Lâu rồi không gặp, quan sát kĩ Sìu thấy chị

dâu đẹp hơn trƣớc. Ôi cái thằng Du dài tai, mèo mù vớ đƣợc cá mắc cạn”. Hình

ảnh “mèo mù vớ đƣợc cá mắc cạn” biểu đạt sự may mắn một cách bất ngờ,

ngẫu nhiên, đạt đƣợc cái ngoài khả năng. Đƣa hình ảnh ấy vào trong câu văn,

tác giả đã diễn tả rất trúng sự khao khát đầy ghen tị của nhân vật Sìu.

Trong ba tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn, phổ biến hơn cả là sự vận dụng

lối diễn đạt của ngƣời miền núi để mô tả lời nói, cách nói. Nhờ những hình ảnh

quen thuộc xuất hiện theo cơ chế ẩn dụ, tính chất của lời nói, mục đích và thái

độ ngƣời nói trở nên cụ thể, dễ cảm nhận. Lời yêu thƣơng trai gái trao nhau là

"lời nụ lời hoa" (Hoa bay cuối trời); "cái lời hoa mới nở" (Dưới chân núi Nục

Vèn). Những lời rủ rê, lôi kéo, mỉa mai hoặc chửi mắng, đe dọa là "cái lời gió

nhẹ chui vào tai"; "cái lời gió có bóng"; "lời đắng lời thối mồm con hổ"; "lời

lửa, lời gió đổ cây" (Dưới chân núi Nục Vèn); "lời gang lời sắt" (Song sinh).

Ngƣời miền xuôi có câu: “Nói nhƣ đinh đóng cột” nghĩa là: nói chắc chắn,

khẳng định dứt khoát, không thay đổi. (Từ điển thành ngữ Việt Nam). Cũng

biểu đạt ý nghĩa đó, nhà văn Cao Duy Sơn vận dụng lời ăn tiếng nói của ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miền núi với hình ảnh quen thuộc, gần gũi làm cho câu nói mộc mạc, dễ hiểu, ý

92

tứ sâu xa: “Có ngƣời nói chắc nhƣ búa sắc ăn gỗ thực mục...” (Ngôi nhà xưa

bên suối)

Trong tác phẩm Song sinh, sau khi giới thiệu hai anh em sinh đôi Du và Sìu,

nhà văn viết: “Khác đi khác đến. Trẻ trông già học, già tựa trẻ sống thành ra

cuối đời ngƣời Cô Sầu cũng biết làm khối điều tử tế”. Cách diễn đạt của ngƣời

miền núi rất ngắn gọn mà ý nghĩa trọn vẹn, hoàn chỉnh. Nó biểu đạt cách thức

hành động, kết quả của hành động đồng thời cho thấy sự ung dung, chủ động tự

tin của con ngƣời. Câu nói còn thể hiện sự gắn bó, nối tiếp giữa các thế hệ trong

cộng đồng. Ngƣời còn trẻ học hỏi ngƣời già đồng thời cũng là chỗ dựa cho

ngƣời già.

Có thể nói, việc vận dụng lối nói hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi

đã mang lại cho sáng tác của Cao Duy Sơn giọng kể hồn nhiên, mộc mạc, chân

thành, góp phần xoá nhòa khoảng cách trần thuật và diễn tả đƣợc nếp tƣ duy

của ngƣời miền núi. Qua ngôn ngữ tác phẩm hiện lên cái tôi đậm bản sắc dân

tộc của ngƣời viết. Nhà văn Cao Duy Sơn đã nói về nghệ thuật sử dụng ngôn

ngữ trong các truyện ngắn của mình: “Ngay từ khi tôi viết tác phẩm đầu tiên

cho đến bây giờ đều mang hơi thở của miền núi rất rõ ràng. Bản thân tôi khi

viết tác phẩm là một phần của máu thịt mình, cho nên khi mình tư duy và viết là

tư duy của một người con dân tộc và miền núi. (...) Tôi muốn nói ngôn ngữ đó

phải đậm đà tâm hồn của một người dân tộc miền núi...”

Theo Giáo sƣ Trần Đình Sử, ngôn ngữ nhân vật (lời trực tiếp) “là lời của

nhân vật trong văn học”. Lời trực tiếp trong truyện ngắn thƣờng là lời các nhân

vật đối thoại với nhau. Ngôn ngữ đối thoại có vai trò quan trọng trong việc khắc

họa tính cách nhân vật. Thông qua ngôn ngữ đối thoại, hiện thực tâm lí con

ngƣời có độ sâu hơn và hiện thực cuộc sống đƣợc cụ thể hơn. Ngôn ngữ đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thoại trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ cá thể hóa sâu sắc.

93

Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn thiên về mô tả tâm

trạng, là ngôn ngữ thiên về tự bạch, đậm bản sắc dân tộc. Những lời thƣơng, lời

nhớ, lời trách cứ giận hờn của nhân vật vừa giàu hình ảnh vừa sâu xa ý nghĩa.

Đây là tiếng lòng cô gái khi gặp ngƣời thƣơng: " Con chim có tiếng hót tìm bạn,

lời em nói chẳng rơi vào lòng anh, em muốn đƣợc gánh cái nghèo cùng anh nhƣng

anh chẳng cho..." (Người săn gấu). Ở tác phẩm Hoa bay cuối trời, những “lời

nói có bóng” của Khơ và Dình không chỉ đẹp lời mà còn chứa chan tình yêu,

sâu nặng nghĩa tình. Trong lời nói của nhân vật, ngƣời đọc bắt gặp những hình

ảnh chỉ tồn tại trong trí tƣởng tƣợng của con ngƣời nhƣ: nhà ở trên trời, cây đá

nảy mầm, sông lửa..., bắt gặp cách nghĩ, cách nói hồn nhiên quen thuộc của

ngƣời vùng cao về xa cách, về sự chờ đợi và khao khát nên đôi:

“- Đƣợc lời này của em, nhà dù trên trời anh cũng tìm ra đấy. Anh sẽ đợi

đến khi nào em hé môi hoa nhận lời anh ngỏ. Dù phải trồng cây đá trƣớc cửa

nhà em cho đến khi nó nảy mầm để đợi lời hoa anh cũng sẽ đợi”.

“- Dình ơi! Em không ngại nhà anh phải đi qua sông lửa, không sợ leo đèo

Khau Liêu làm nhạt muối mồ hôi, anh muốn đƣợc ngỏ lời yêu, nay mai đƣợc

đón em về ở chung một nhà, sƣớng khổ có nhau.”

Và nỗi lòng của cô gái khi phải xa ngƣời yêu đƣợc cất thành lời:

“- Khơ ơi, kể từ nay một ngày không nhìn thấy anh là một ngày thế gian này

không có nắng, không có gió, rừng không có hoa nở và không cả tiếng chim

hót... anh hãy sớm trở về đây để cho em đƣợc nhìn thấy mặt.”

Với chất thơ đƣợm từng trang viết, tác phẩm Hoa Mộc Vương nhƣ một bài

thơ trữ tình ngợi ca vẻ đẹp và sức sống diệu kì của thiên nhiên, của tình ngƣời.

Lời trần thuật mềm mại, bay bổng, lời nhân vật tha thiết, lắng sâu. Những hình

ảnh trong lời ngƣời vợ dặn chồng “nặng vai bồ thuốc bắc viễn du trời Nam”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chở bao nghĩa tình sâu nặng: “Em chẳng thể ngăn anh, bao giờ đƣờng cây chắn

94

lối, cầu sông đứt dây, thuyền mảng chìm đáy nƣớc, anh hãy trở về đất Cô Sầu

nghèo khó này, cửa nhà chỉ khép hờ, cầu thang đủ bảy bậc đón anh.”

Đứng trƣớc bàn thờ tổ tiên, lời khấn của Súc Hỷ rất đỗi thiêng liêng và chân

thành mộc mạc. Đó là tấm chân tình, là niềm khát khao cả một đời của hai

ngƣời từng lỡ đƣờng duyên phận, là niềm hạnh phúc đƣợc chia sẻ, yêu thƣơng:

"-... Xin tiên tổ cho đƣợc làm bạn với Dinh. Từ nay coi hai nhà là một, tựa

vào nhau khi lạnh lƣng; làm tay làm chân của nhau khi khó ở..." (Súc Hỷ)

Ngƣời miền núi nói lời thƣơng thật mƣợt mà đằm thắm, còn lời trách móc

nhắc nhở của họ vừa thẳng thắn vừa ý nhị sâu xa. Đó là lời nhân vật Ban nhắc

Khuề đừng lỡ miệng để sau này ân hận:

“- Đừng nói bậy, hạt gạo rơi còn nhặt lên đƣợc, tiếng nói rơi ra mồm không

lấy lại đƣợc đâu!" (Âm vang vong hồn)

Hay lời Cạ nhắc khéo Khin chớ ham buôn bán mà bỏ ruộng nƣơng:

"- Anh Khin đi chợ bán thịt lợn à? Ở nhà làm ruộng thôi. Cái đám ruộng nhà

anh con gà rừng về đẻ trứng rồi đấy." (Dưới chân núi Nục Vèn)

Lời mỉa mai của Hử khi biết chồng mình đi lại với ngƣời đàn bà khác:

"- ... Con dúi làm hang trong đất còn bị moi lên làm chả nƣớng, huống chi

con ngƣời kềnh càng đi lại ở cái phố huyện nhỏ nhƣ cái nón mo." (Những đám

mây hình người)

Đến với câu chuyện tình dang dở trong tác phẩm Âm vang vong hồn, ngƣời

đọc không khỏi xót xa cùng nhân vật Khuề nghe lời Ban từ chối. Từng từ ngữ,

từng hình ảnh ví von nhƣ thấm đẫm luyến tiếc, hờn trách, xót xa:

"... Ngày ông không dám cƣớp lấy tôi, nhƣ trái cây chín mọng mà không ăn,

nhƣ cái trăng lúc còn tròn mà không ngắm, giờ quả chỉ còn xơ, trăng giờ đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

héo, ăn không đƣợc nhìn chỉ buồn."

95

Ngƣời miền núi vốn thẳng thắn, yêu ghét phân minh, chân thành bộc lộ. Lời

chất vấn, kết tội, trách mắng của họ thƣờng ngắn gọn, từ ngữ, hình ảnh rất cụ

thể và biểu cảm :

"- Lƣỡi mày rơi xuống ruột rồi sao?" (Mùa én gọi bầy)

"- Thằng thợ cả? Mày đổ cái thối vào nhà này rồi?" (Thằng Hoán)

"- Việc gì phải nổi lửa lên mặt thế ? Có ai biết việc này?" (Song sinh)

"- Đừng trách mắng Lu, tại một mình tao thôi, giết tao cũng đƣợc nhƣng

không đƣợc nhổ lời có độc vào mặt nó." (Song sinh)

Trong truyện Hòn bi đá màu trắng, khi bắt gặp Soóng và vợ mình “đang

ngồi tựa vai nhau” trong nhà Soóng, Dồ giận dữ vô cùng. Tiếng chửi của Dồ

cũng là lời kết tội kẻ làm điều khuất tất, hạ hắn xuống hàng con vật: “

Đồ chó đực, thò mõm sang máng nhà khác ăn vụng”. Ngôn ngữ nhân vật trong

đối thoại không chỉ bộc lộ thái độ mà còn khắc họa tính cách nhân vật. Lời nói

của Dồ cho thấy sự thẳng thắn trong tính cách của nhân vật, ý thức sâu sắc về

phải - trái, tốt - xấu, yêu ghét phân minh.

Không chỉ vận dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của ngƣời miền núi

để khắc họa tính cách nhân vật, nhà văn Cao Duy Sơn còn khéo léo dẫn dắt

ngƣời đọc khám phá thế giới nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại đậm bản

sắc dân tộc. Trong câu chuyện của hai cha con lão Khàng (Dưới chân núi Nục

Vèn), những điều ngƣời nói muốn ngƣời nghe hiểu và làm theo chỉ trở nên rõ

ràng khi hệ thống hình ảnh trong lời thoại đƣợc "giải mã". Sự giận dữ của Khin

đƣợc ví nhƣ "ngọn lửa", còn việc lão Khàng lấy lại đám ruộng của nhà mình đã

bị hợp tác xã trả cho ngƣời nghèo giống nhƣ "bắc nồi cháo ngon trên lửa

xuống":

" - Khin à, nếu đang có ngọn lửa trong bụng, trong đầu thì mày cất sang một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bên nghe tao nói đã."

96

"- Việc sắp xong rồi, nhƣng bắc nồi cháo ngon trên lửa xuống phải cẩn thận

cái tay, không vừa mất ăn vừa bị bỏng. (...) Tao đã phải ngậm cái lá đắng bao

nhiêu mùa lá rụng, lá mọc...”

"- Hừ. Ngƣời ta nói pá có con mắt ở trên núi, có cái tai ở ngoài sông, nhƣng

bây giờ tai của pá bị rêu chui vào, cái mắt của pá bị cái lá rừng che mất rồi."

"- Khin! Cái tai mày không bị con ruồi độc chui vào, cái mắt mày không bị

nhện đái chứ?"

Với lời thoại ngắn gọn, đậm bản sắc dân tộc, vận dụng linh hoạt lối diễn đạt

hồn nhiên, hay ví von của ngƣời miền núi, dƣờng nhƣ Cao Duy Sơn rất ít phải

dụng công về câu chữ. Nhà văn khéo léo sắp xếp chúng trong văn cảnh và tạo nên

những lời nói rất tự nhiên của nhân vật, từ đó tô đậm bản chất, tính cách, thể hiện

chân thực và sâu sắc thế giới nội tâm nhân vật là ngƣời miền núi. Ngôn ngữ nhân

vật ánh lên vẻ đẹp của ngôn ngữ truyện, mang lại sự độc đáo cho bức tranh

thiên nhiên và con ngƣời vùng cao, góp phần làm nên cái hồn dân tộc đằm thắm,

mặn mà của các tác phẩm.

2.2. Sắc thái dân tộc thể hiện ở việc đƣa tiếng địa phƣơng, tiếng dân tộc

vào tác phẩm

Trong các sáng tác của Cao Duy Sơn, tiếng địa phƣơng xuất hiện ở cả ngôn

ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật. Nó làm câu chuyện trở nên chân thực,

sống động, tạo đƣợc giọng điệu rất riêng cho tác phẩm. Nhà văn sử dụng tiếng

địa phƣơng ở nhiều mảng của đời sống nhƣng chủ yếu là từ ngữ xƣng hô, từ

ngữ chỉ sản vật, phong tục tập quán, trạng thái tâm lí, tình cảm của con ngƣời...

Ví dụ:

Lời Súc Hỷ nói với Chƣơng Chảo:

“- Mày mua cáy tắc đi tái còn kêu đắt sao? (gà nhỏ mồ côi)” (Súc Hỷ)

Đối thoại của lão Sinh và mú Ếm trong tác phẩm Chợ tình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“- Ếm à, về ngồi đi, anh cũng vừa đến thôi!

97

- Sinh ơi, bây giờ có ai nghe thấy mình “pi noọng” với nhau thế này chắc

là buồn cƣời lắm!”

Ngƣời mẹ trong truyện Hoa Mộc Vương nhắc đến ngày ba mƣơi tết và ông

bà ngoại bằng những từ: căm đắp, cung tai:

" - Mai là ngày “căm đắp”, hai mẹ con ta về bên “cung tai” đón giao thừa,

lâu rồi không về thăm chắc con nhớ ông bà lắm phải không?”

Trƣớc đây, ở miền núi, những đứa trẻ mới lọt lòng khi trên thân thể nó mang

những nét dị tật khác ngƣời, đều chung số phận nhƣ những đứa trẻ bị chết khi

chƣa đƣợc một tháng tuổi. Chúng bị quệt chàm lên mặt, đặt trong một cái rọ tre

cùng với một ít tã lót và một quả trứng luộc, tất cả những thứ trong đó đƣợc rắc

lên một nắm gạo trộn muối, rồi bị treo tít lên một ngọn cây, phơi nắng, phơi

sƣơng cho chết thối, chết mục. Ngƣời ta tin rằng làm nhƣ vậy những đứa trẻ ấy

sẽ không đầu thai trở lại làm con cháu nhà mình. Hủ tục ấy của ngƣời dân tộc ở

miền núi đƣợc nhà văn gợi lên qua lời ngƣời cha của Ò Lình nói với bà đỡ:

“- Đừng nói với ai về chuyện này…và bà hãy giúp tôi làm…làm…PhlyPiài

cho nó…tiện đây bà cầm lấy. Hƣơng, gà và gạo nếp tôi đã để sẵn dƣới sàn...

Chàm làm dấu tôi để trong túi này…chờ đêm xuống hãy đi” (Nơi đây không

một bóng người)

Khi tái hiện câu chuyện của cặp vợ chồng mới cƣới, Cao Duy Sơn sử dụng

nguyên âm tiếng dân tộc Tày có kèm chú giải sau mỗi lời thoại của nhân vật:

“Sáng nay đón Lu về cây rừng còn vƣơng mù sƣơng. Du trƣớc, Lu sau, đã

hơn một giờ đi bộ mà chẳng thể nói với nhau đƣợc mƣơi câu. Du cố lựa:

- Múc dác sằng dè? (Đói bụng chƣa?)

- Cƣn dá nhằng dác ca lăng mòn! (Ăn rồi làm sao còn đói)

- Ờ nỏ! (Ờ nhỉ)

Rồi họ lại bƣớc, không nhanh, không chậm, những muốn con đƣờng dài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mãi. Du lại hỏi:

98

- Múc dác sằng dè? (Đói bụng chƣa?)

- Bả da vá, xam lăng lai pẩn nẩy? (Điên rồi à, hỏi gì nhiều thế?)

- Ờ nỏ. (Ờ nhỉ)

- Nắm mì toẹn răng xam nao lỏ? (Không còn chuyện gì hỏi nữa rồi sao?)

- Mì ớ! (Có chứ)

- Toẹn răng mòn phjuối mà ngòi? (Có chuyện gì nói thử nghe xem)

- Kha nắt bấu dè? (Chân mỏi không à?)

- Lố, bả a né! (Đấy, đúng là bị điên rồi)

Lu cố nén cƣời:

- Nắt nắt ca lăng mòn, đay khua pỏ. (Mỏi, mỏi cái gì, làm buồn cƣời muốn

chết.)” (Song sinh)

Sử dụng nguyên âm tiếng dân tộc trong tác phẩm văn học cũng là một thủ

pháp nghệ thuật nhằm “lạ hóa” ngôn ngữ đồng thời tô đậm bản sắc dân tộc của

thế giới nghệ thuật trong sáng tác văn chƣơng. Trong tác phẩm Súc Hỷ, nhà văn

đã hai lần đƣa lời chúc phúc bằng tiếng Tày vào tác phẩm. Tình ngƣời ngân lên

khi ngƣời đọc cảm nhận đƣợc không khí của truyện, nhập sâu vào đời sống văn

hoá của ngƣời vùng cao, tự hào về thuần phong mĩ tục. Khép lại trang truyện

cuối cùng, ngƣời đọc cảm thấy sự ấm áp của mùa xuân, của “những câu thơ

mềm nhƣ suối hát” đọng mãi trong lòng:

“ - Bƣơn chiêng pi mấƣ khai vài xuân a… ngần sèn khảu tu nả à, mò mả

khảu tu lăng ơ…cần ké lục đếch khảu pi mấƣ à a…phù sần au khen slửa lòng

dà…khảu, nặm, ngần sèn tim rƣờn la…cung hỷ phát sòi…(tháng giêng năm

mới đến khai xuân…chúc cho tiền bạc nhƣ nƣớc chảy vào cửa trƣớc, ngựa bò

chen đầy cửa sau, trẻ già cùng bƣớc vào năm mới, đều đƣợc tay áo thần tiên

che chở…gạo, nƣớc, tiền, bạc đầy nhà…vui vẻ phát tài.)

Nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật, đây không phải là sự lạm dụng tiếng dân

tộc mà chính là dùng chất liệu ngôn từ của thực tại để phản ánh sinh động thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tại. Chỉ có ngôn ngữ lấy thẳng từ cuộc sống của con ngƣời miền núi mới thể

99

hiện đúng, thể hiện hết đƣợc tính chất sự vật, hiện tƣợng, diễn tả hết đƣợc cái

tình của con ngƣời miền núi. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Cao Duy Sơn là ở

chỗ sử dụng phƣơng ngữ, tiếng dân tộc đúng lúc, đúng chỗ. Nhờ đó, những câu

chuyện đậm hơi thở của mảnh đất vùng cao phía Bắc đƣợc kể bằng thứ ngôn

ngữ rất đặc trƣng của vùng đất ấy trở nên thấm thía, khó quên.

Nhà văn Cao Duy Sơn từng chia sẻ: “Với những người hiểu sâu về văn hóa

các dân tộc, họ sẽ biết cách “mã hóa” ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống của

người dân tộc thành ngôn ngữ hiện nay của văn chương - đó mới chính là bản

chất sâu thẳm mà rất ít người hiện nay làm được. Bản thân tôi, một người con

của miền núi, vậy mà cũng chỉ dám nhận là đang trong quá trình tích lũy, khám

phá để “mã hóa” những vỉa tầng văn hóa nguyên bản, hồn nhiên của người dân

tộc đưa vào những trang văn.”[12]. Trong cách nhìn của Văn hóa học, ngôn ngữ

là phƣơng tiện chuyển tải và lƣu giữ những di sản văn hóa dân tộc. Vận dụng

lối nói ví von, giàu hình ảnh của ngƣời miền núi và đƣa từ địa phƣơng, tiếng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc vào tác phẩm, nhà văn Cao Duy Sơn đã mang lại bản sắc riêng cho ngôn ngữ truyện và bức tranh cuộc sống của con ngƣời ở miền núi phía Bắc.

100

KẾT LUẬN

Trong nền văn xuôi đƣơng đại Việt Nam, cùng với các nhà văn viết về

đề tài dân tộc miền núi, Cao Duy Sơn đã có những đóng góp nhất định

trong việc khám phá, phản ánh bức tranh hiện thực miền núi phía Bắc. Tác

phẩm của ông mở ra một thế giới nghệ thuật mới lạ đầy hấp dẫn, mang lại

cái nhìn mới mẻ và sâu sắc cho ngƣời đọc về cuộc sống và con ngƣời vùng

cao. Khảo sát ba tập truyện ngắn: Những chuyện ở lũng Cô Sầu, Những

đám mây hình người, Ngôi nhà xưa bên suối của nhà văn Cao Duy Sơn, có

thể rút ra một số kết luận sau:

1. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn khá phong phú và

sinh động, hình tƣợng con ngƣời miền núi hiện lên chân thực. Nhân vật trung

tâm trong truyện ngắn Cao Duy Sơn là những con ngƣời nhỏ bé, bình dị, có số

phận bất hạnh. Dù cuộc đời gặp éo le, trắc trở, họ vẫn khao khát tình yêu, có

sức sống và niềm tin mãnh liệt, vẫn nhân hậu, chung thủy, nghĩa tình, cao

thƣợng, vị tha. Nhà văn đã khai thác khá thành công chiều sâu nội tâm nhân vật

với cái tôi tinh thần phong phú, phức tạp, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và phơi bày

những thói xấu, những mê muội tầm thƣờng của con ngƣời. Đặc biệt, thế giới

nhân vật của Cao Duy Sơn mang đậm bản sắc vùng miền. Việc thể hiện bản sắc

dân tộc trong văn học là sự phấn đấu tự giác của nhà văn, nó đòi hỏi sự tìm tòi

sáng tạo không mệt mỏi, tình cảm sâu nặng, một chiều sâu tƣ tƣởng cần thiết và

phải thực sự có tài năng. Tuy nhiên hệ thống nhân vật trong một số tác phẩm

còn ít, cốt truyện còn đơn giản.

2. Không gian - thời gian nghệ thuật là những yếu tố quan trọng của thế giới

nghệ thuật. Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn, những yếu tố này tồn tại với

tƣ cách là chất liệu, là phƣơng tiện hữu hiệu tạo dựng nên một thế giới nghệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuật sinh động, phong phú. Không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện

101

ngắn của Cao Duy Sơn thấm đẫm dấu ấn văn hóa của miền núi phía Bắc. Đó là

mô hình biểu tƣợng của không gian địa lí và không gian đời tƣ để nhân vật bộc

lộ tâm trạng và tính cách. Tƣơng ứng với không gian đó là thời gian đan xen

giữa quá khứ và hiện tại, thời gian tâm lí và thời gian phong tục, lễ hội. Mô

hình không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn góp

phần thể hiện tƣơng đối trọn vẹn và sâu sắc quan niệm nghệ thuật thấm đƣợm

tinh thần nhân văn cao cả của nhà văn về con ngƣời.

3. Ngôn ngữ truyện ngắn Cao Duy Sơn giản dị, mộc mạc và biểu cảm.

Nhà văn vận dụng rất linh hoạt và hiệu quả các thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt

là thủ pháp so sánh, cách diễn đạt giàu hình ảnh của ngƣời miền núi, đƣa

tiếng địa phƣơng, tiếng dân tộc vào tác phẩm. Những trang văn chân thật, do

vậy mà xúc động. Cái duyên của nhiều câu chuyện nằm ở cách giãi bày, diễn

tả của nhà văn với ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật chủ động, tự

nhiên, đậm bản sắc dân tộc.

4. Khai thác vấn đề số phận cá nhân, nêu cao tinh thần nhân văn đang là xu

thế chung của văn học đổi mới. Với thế giới nhân vật phong phú, truyện ngắn

Cao Duy Sơn sâu lắng trong các mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời,

những phƣơng cách ứng xử nhân ái và cao thƣợng. Số phận cá nhân là dấu ấn

đậm nét trong truyện ngắn Cao Duy Sơn. Nhà văn quan tâm đến hạnh phúc cá

nhân, những vui buồn, đắng cay và khát vọng của con ngƣời, sẻ chia và trân

trọng với trái tim yêu thƣơng, với niềm tin mãnh liệt. Cái đẹp, cái thiện, sự cao

cả dù có lúc bị dập vùi, có khi khuất lấp, vẫn bất diệt trong cuộc sống bộn bề

phức tạp của con ngƣời. Truyện ngắn Cao Duy Sơn là tiếng nói khẳng định,

ngợi ca cái đẹp trong tâm hồn, trong lối ứng xử, vẻ đẹp nhân cách của con

ngƣời.

Trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và hiện thực miền núi, Cao Duy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sơn cảm nhận thế giới ở góc độ đời thƣờng. Cái nhìn và giọng điệu truyện ngắn

102

Cao Duy Sơn vừa chân thành, mộc mạc, vừa ấm áp, trữ tình. Những trang viết

của ông về đề tài miền núi mang lại cho ngƣời đọc nhận thức và những xúc

cảm thẩm mĩ đậm chất nhân văn. Một góc độ nhận thức và thể hiện miền núi

nhƣ vậy là đóng góp đáng trân trọng của nhà văn. Ba tập truyện ngắn: Những

chuyện ở lũng Cô Sầu, Những đám mây hình người, Ngôi nhà xưa bên suối thể

hiện những sáng tạo không ngừng của Cao Duy Sơn trong nghệ thuật truyện

ngắn. Có thể khẳng định, ở thời điểm hiện tại, Cao Duy Sơn là một trong những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cây bút tiêu biểu nhất của đội ngũ nhà văn là ngƣời dân tộc thiểu số.

103

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Thuỳ An (2007), Thi pháp nhân vật tiểu thuyết trong tiểu thuyết Người

lang thang và Đàn trời của Cao Duy Sơn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại

học Sƣ phạm Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội.

3. Bakhtin (1999), "Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ

nghĩa hiện thực", Tạp chí văn học, (Số 4).

4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội.

5. Nguyễn Đăng Điệp (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, NXB

Giáo dục.

6. Phạm Văn Đồng (1980), Góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc dân tộc Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Đỗ Đức (2008), "Ban mai có một giọt sƣơng", Báo Văn nghệ, (Số 49),

6/12/2008.

8. Hà Minh Đức (1993), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

9. N.A. Gulaiep (1982), Lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ

văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

11. Đinh Thị Minh Hảo (2009), Truyện ngắn Cao Duy Sơn, Luận văn thạc sĩ

Ngữ văn, Đại học Thái Nguyên.

12. Chu Thu Hằng (2008), "Cả đời tôi chỉ theo đuổi về đề tài miền núi", Báo

Văn nghệ.

13. Bùi Hiển (1991), "Cánh cửa mở ra cõi mông lung", Phụ san Văn nghệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hà Nội 4/1991.

104

14. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

15. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, NXB Văn học.

16. Nguyễn Chí Hoan (2007), "Cõi nhân gian nhƣ cổ tích, Đọc Đàn trời - tiểu

thuyết của Cao Duy Sơn", Báo Văn nghệ số tết Đinh Hợi.

17. Hoàng Ngọc La - Hoàng Hoa Toàn - Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hóa dân

gian Tày, Sở Văn hóa thông tin Thái Nguyên.

18. Phong Lê (1998), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB

Văn hóa dân tộc.

19. Phong Lê - Đinh Đăng Định (1985), Bốn mươi năm văn hóa nghệ thuật các

dân tộc thiểu số Việt nam 1945 - 1985, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

20. Hứa Hiếu Lễ (2008), "Bông hoa sen đang ngát", Vietnamnet.

21. Hứa Hiếu Lễ (2008), "Nhà văn ngƣời Co Xàu đoạt giải văn chƣơng", Báo

Văn nghệ Cao Bằng.

22. Hà Linh (2008), "Văn xuôi độc chiếm giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam",

Báo Đời sống văn nghệ.

23. Lã Văn Lô - Hà Văn Thƣ (1984), Văn hoá Tày Nùng, NXB Văn hóa,

Hà Nội.

24. Phƣơng Lựu (2004), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

25. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, NXB Giáo dục.

26. Đào Thủy Nguyên (2010), “Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn

Cao Duy Sơn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (Số 6).

27. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trước cách

mạng tháng Tám, NXB Văn hoá.

28. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đại học và trung học chuyên nghiệp.

105

29. Nhiều tác giả (2008), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Nhiều tác giả (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội.

31. Nhiều tác giả (1988), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt nam hiện đại, NXB

Văn hóa dân tộc.

32. Nhiều tác giả (1998), Từ điển thuật học văn học, NXB Đại học Quốc gia.

33. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học.

34. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học, NXB Thế giới.

35. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, NXB Tân Dân, Hà Nội.

36. Hoàng Quyết - Tuấn Dũng (1994), Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

37. Cao Duy Sơn (1997), Những chuyện ở lũng Cô Sầu, NXB Quân đội

nhân dân.

38. Cao Duy Sơn (2002), Những đám mây hình người, NXB Văn hóa dân tộc.

39. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, NXB Văn hóa dân tộc.

40. Huy Sơn (2008), "Viết văn phải có sự ám ảnh'', Báo Người lao động

www.nld.com.vn

41. Trần Đình Sử (1994), "Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con

đƣờng của thơ", Tạp chí văn học (Số 1).

42. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

43. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình lí luận văn học, Tập I, NXB Đại học

sƣ phạm.

44. Trần Đình Sử (2007), Giáo trình lí luận văn học, Tập II, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

45. Trần Đình Sử - Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.

106

46. Trần Đình Sử - Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi (1996), Từ điển thuật ngữ

văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

47. Mai Thi (2008), "Với tác giả Ngôi nhà xƣa bên suối", Báo Hà Nội Mới,

12/9/2008.

48. Hữu Thỉnh (2008), Báo Hà Nội Mới 12/9/2008.

49. Dƣơng Thuấn (2003), "Vấn đề phát triển văn học nghệ thuật các dân tộc

thiểu số trong thời kì mới", Vietnamnet.

50. Võ Thị Thuý (2008), Nhà văn Cao Duy Sơn: "Viết văn là một cuộc viễn du

về cội nguồn", Báo Kinh tế đô thị www.nld.com.vn

51. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB

Văn hoá dân tộc.

52. Lâm Tiến (1997), Văn học các dân tộc thiểu số, NXB Văn hóa dân tộc.

53. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc.

54. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, NXB Văn hóa dân tộc.

55. Trần Mạnh Tiến (2001), Lí luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Toại (1981), "Một vài biểu hiện đặc điểm dân tộc qua một số

tiểu thuyết miền núi", Tạp chí văn học (Số 4).

57. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi mới -

NXB Khoa học xã hội - Mũi Cà Mau.

58. Vũ Xuân Tửu (2006), "Đàn trời ai đọc nấy nghe", Báo Văn hóa các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc, Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

108