ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2014

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Thành

Hà Nội - 2014

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi, Nguyễn Thị Vân Anh, lớp Cao học Văn K56,

khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan công trình

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

là công trình do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của

PGS. TS. Nguyễn Bá Thành.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung

khoa học trong công trình này.

Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014

Người cam kết

3

Nguyễn Thị Vân Anh

LỜI CẢM ƠN

Cuối cùng, luận văn của chúng tôi cũng hoàn thành

một cách tốt đẹp. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc

tới Thầy giáo Nguyễn Bá Thành, người đã tận tình hướng

dẫn, động viên, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình thực

hiện luận văn.

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Văn

học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học

Quốc gia Hà Nội, cảm ơn những người bạn đã nhiệt tình

giúp đỡ chúng tôi hoàn thành công trình này.

Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014

Tác giả

4

Nguyễn Thị Vân Anh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6

4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6

5. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 7

6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 7

NỘI DUNG

Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam

thời kỳ đổi mới .................................................................................................... 8

1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới ............................................... 8

1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới ........................................................ 10

1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết ...................... 16

1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu ........................................................... 16

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ......................................................................... 18

1.3.3. Những đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết

cho nền văn học đương đại Việt Nam ..................................................... 22

Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

2.1. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết ............................................................. 26

2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người .......................................... …26

2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết ............................................................. 27

2.2. Phân loại nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới .............. 30

2.2.1. Nhân vật bi kịch ............................................................................. 31

2.2.1.1. Bi kịch do hoàn cảnh ............................................................... 31

2.2.1.2. Bi kịch do bản thân tự đánh mất mình ..................................... 42

5

2.2.2. Nhân vật tha hóa ............................................................................ 48

2.2.2.1. Tha hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc .................. 48

2.2.2.2. Tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng ................................ 53

2.2.2.3. Tha hóa do giả dối, lừa lọc ...................................................... 61

2.2.3. Nhân vật lưỡng diện ....................................................................... 64

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu

thời kỳ đổi mới ................................................................................................. 75

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình .................................................................... 75

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm ......................................................................... 80

3.3. Xây dựng nhân vật trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật .. 89

3.4. Yếu tố tự truyện........................................................................................... 92

3.5. Giọng điệu trần thuật ................................................................................... 95

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 99

6

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 101

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sau 1986 đất nước bước sang một thời kỳ mới, cuộc sống thay da đổi

thịt trên nhiều phương diện. Văn học là tấm gương phản chiếu chân thực xã

hội. Không nằm ngoài quy luật đó, nó cũng từng bước làm mới và thay đổi

bản thân. Các thế hệ nhà văn đã có những cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực

và con người phong phú, đa dạng, nhiều chiều, nhiều phương diện chân thực

và toàn diện hơn.

Nhân vật là trọng tâm của tác phẩm. Nó là sự thể hiện chân xác và toàn

diện nhất bộ mặt của tác phẩm và bản chất, lý tưởng của thời đại. Thể loại

tiểu thuyết với tầm vóc và khả năng khái quát rộng lớn là mảnh đất màu mỡ

để nhà văn tái hiện cuộc sống và con người thời đại.

Cùng với các nhà văn lớn như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình

Phương, Hồ Anh Thái, Bảo Ninh, Chu Lai, Dương Hướng…thì Lê Lựu với

thể loại tiểu thuyết đã đưa ông lên vị trí danh dự của những nhà văn xuất sắc

thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn suốt đời hướng về con người, Lê Lựu đã gây

dựng nên một thế giới nhân vật phong phú, đa sắc màu. Từ những người lính

trở về sau chiến tranh khó khăn khi hòa nhập với cuộc sống đổi thay, đến

những người nông dân còn lạc hậu bị ràng buộc với những quan niệm phi lý,

những con người tự đánh mất chính mình gây ra những bi kịch đau buồn đến

những con người tha hóa bởi lòng tham vật chất, chức quyền…Xót xa hơn là

những người phụ nữ luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc nhưng lại bị xã hội

đè nén và những con người do hoàn cảnh mà trở nên lừa lọc, giả dối…Tất cả

hiện lên chân thực từ tấm lòng chân thành, giàu tình thương yêu của Lê Lựu,

ông không hề thương thay khóc mướn mà trải lòng mình dưới từng trang

7

sách. Suốt cuộc đời Lê Lựu “chỉ theo đuổi một nguyên tắc là Thật”, ông

“không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. Đó chính là nét độc đáo

trong văn chương Lê Lựu.

Sự hấp dẫn của tiểu thuyết Lê Lựu và một thế giới nhân vật sinh động,

chân thực đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu đề tài: “Thế giới nhân vật trong tiểu

thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới”. Mặt khác, qua đây chúng tôi cũng muốn bày

tỏ tình cảm, sự kính trọng, ngưỡng mộ trước tài năng của một nhà văn tiêu

biểu của nền văn học đương đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Trong sự phát triển không ngừng của văn học đương đại, Lê Lựu ngày

càng khẳng định được vị trí chắc chắn của mình trong lòng độc giả và thu hút

sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình. Về vấn đề thế giới nhân vật trong

tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới đã có một vài nhà nghiên cứu quan tâm

nhưng chỉ mới dừng ở mức nhận định, khái quát. Sau đây chúng tôi xin đề

cập đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:

Cuốn Lê Lựu tạp văn (2002) là một công trình tổng hợp những bài viết,

những bài phê bình văn học của Lê Lựu đối với các nhà văn, nghề văn. Đặc

biệt ở phần 4 cuốn sách đã tập hợp khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu,

phê bình về tác giả. Đó là Phong Vũ với “Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút

viết truyện ngắn”, là Lê Thành Nghị với “Thời xa vắng - một tâm sự nóng

bỏng”, tác giả Thiếu Mai “nghĩ về một “Thời xa vắng chưa xa””, Nguyễn

Hòa “Suy tư từ một “Thời xa vắng””, Nguyễn Ngọc Thiện nhấn mạnh đến

“khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - những tìm tòi và thể nghiệm”, Trần

Đăng Khoa tìm hiểu “Lê Lựu - chân dung văn học”… Khi tìm hiểu về vấn đề

xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Phan Vũ nhận định: “Lê Lựu có

ý thức rõ rệt trong việc tạo nên những cảnh ngộ, việc miêu tả cuộc đời, số

phận của mỗi nhân vật. Ở mỗi người anh muốn tìm hiểu khai thác và diễn tả

8

cả mặt nổi bên ngoài, lẫn mặt chìm bên trong. Điều đó ít nhiều làm cho các

nhân vật tiểu thuyết Mở rừng có dáng vẻ khác nhau” [23, tr.526]. Bài viết còn

khẳng định sở trường của Lê Lựu khi khắc họa những nhân vật người

lính:“anh dễ thành công khi miêu tả những người lính trẻ, nhất là những

người lính có gốc gác ở một vùng quê. Loại nhân vật này anh rất thuộc, anh

thân thiết và tri kỉ” [23, tr.529].

Tìm hiểu tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Thiếu Mai đã khẳng

định tài năng xây dựng nhân vật của Lê Lựu:“Lê Lựu tỏ ra hiểu nhân vật của

mình đến chân tơ, kẽ tóc đến tận những ngọn ngành, sâu thẳm nhất của tình

cảm, suy nghĩ” [23, tr.577].

Lê Tất Cứ tìm hiểu về Lê Lựu và tiểu thuyết Ranh giới (1979) đã đặc

biệt nhấn mạnh đến ngòi bút xây dựng nhân vật của Lê Lựu thông qua hình

tượng trung tâm của tác phẩm - nhân vật Ngân:“Điều đáng nói trước tiên trong

Ranh giới là tác giả đã không để cho các nhân vật mải miết chạy theo cốt truyện

làm mờ đi tính cách, mờ đi tư tưởng mà anh muốn truyền đến bạn đọc. Anh đã

lấy việc xây dựng một hệ thống tính cách để chuẩn bị cho quá trình phát triển

của cốt truyện” [23, tr.622]. Tác giả nhấn mạnh:“Ngòi bút Lê Lựu đã lách vào

một chỗ khó khăn của hiện thực tâm lý nhân vật” [23, tr.624].

Lê Hồng Lâm khi nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê

Lựu đã cho rằng: “Ông luôn viết hết mình như ông sống, yêu ghét rạch ròi và

đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách của nhân vật. Ở mức độ nào đó nhà văn

Lê Lựu đã tạo ra những nhân vật điển hình cho những hoàn cảnh điển hình”

[23, tr.703]. Nhà phê bình Hồng Thái cũng có quan điểm tương tự khi tìm

hiểu tác phẩm Hai nhà:“tiểu thuyết Hai nhà đọc rất “vào” vì ngòi bút phân

tích tâm lý của Lê Lựu đạt đến trình độ lão luyện” [23, tr.717].

Cuốn Thời xa vắng - tiểu thuyết và phim (2004) tiếp cận tác phẩm Thời

xa vắng trên hai phương diện: phim và tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu Văn học

9

Việt Nam Norico Kato trong bài “Về Thời xa vắng” đã khẳng định: “Thời xa

vắng là cuốn tiểu thuyết rất thành công trong việc miêu tả nội tâm của những cá

nhân đang phải gánh chịu những thương tổn và lo toan và là một cuốn tiểu thuyết

mà nền văn học mới đang tìm kiếm trong mớ hỗ độn của xã hội” [33, tr.355].

Trong công trình Tiểu thuyết đương đại (2005), Bùi Việt Thắng nhận

định đóng góp của Lê Lựu khi bàn về kiểu nhân vật bi kịch: “Từ sau 1975,

trong điều kiện mới cái bi kịch được vận dụng như một hình thức hữu hiệu để

tái hiện đời sống trong toàn bộ tính chất bi tráng của nó vốn là một đặc trưng

của lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Nhà văn Lê Lựu là người đã thành công

trong nhiệm vụ xây dựng một kiểu nhân vật bi kịch mới của văn học - bi kịch

lạc quan” [39, tr.134] và“tác giả đã quan tâm đến số phận con người cụ thể:

phát hiện và miêu tả quá trình tâm lý phức tạp của con người thụ động, méo

mó và cơ hội tới con người chủ động, hoàn thiện và trung thực là nhiệm vụ

chính mà tác giả đã thực hiện thành công một cách căn bản” [39, tr.187].

Những sáng tác của Lê Lựu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của

nhiều luận văn tốt nghiệp Đại học và Sau đại học. Các công trình đã tiếp cận

Lê Lựu trên các bình diện như: không gian, thời gian, nghệ thuật trần thuật,

nghệ thuật tự sự…Có thể kể đến một số công trình sau:

Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hiền “Tiểu thuyết Lê Lựu thời

kỳ đổi mới” (2002), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) đã

tìm hiểu sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm

Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông và những nỗ lực hiện đại

hóa thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu. Luận văn đã làm nổi bật được cảm hứng

bi kịch và sự nhận thức lại hiện thực trong tiểu thuyết Lê Lựu qua bộ ba tác

phẩm trên.

Luận văn thạc sỹ của tác giả Võ Thị Mỹ Hạnh “Nghệ thuật trần thuật

trong tiểu thuyết Lê Lựu” (2008), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ

10

Chí Minh) đã tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nghệ thuật thông

qua việc tìm hiểu về người trần thuật, kết cấu lời văn trần thuật và giọng điệu

trần thuật. Từ đó thể hiện được sự sáng tạo nghệ thuật và đóng góp của tác giả

đối với nền văn học dân tộc.

Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đào Thị Cúc “Không gian và thời gian

nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” (2010), (Trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tiếp cận nghệ

thuật tiểu thuyết Lê Lựu trên bình diện không gian, thời gian nghệ thuật. Luận

văn đã trình bày được những dạng thức, mô hình của không gian và thời gian

nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu…Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc nghệ

thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.

Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình khác như: Nghệ thuật viết

tiểu thuyết Lê Lựu (2006) - luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Hồng Vân, Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tư duy nghệ thuật

trong tiểu thuyết Lê Lựu (2013) - luận văn thạc sỹ Mai Thị Liên, Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội…

Có thể nói, Lê Lựu và tiểu thuyết của ông thu hút nhiều luận văn

nghiên cứu ở các phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Nhưng vấn đề

mà chúng tôi đi sâu tìm hiểu thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về Lê Lựu đều có tiếng nói khá

thống nhất, khẳng định tài năng và tinh thần miệt mài lao động của nhà văn

trên con đường tìm tòi, sáng tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam thời

kỳ đổi mới. Tuy nhiên, vấn đề mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu là “thế giới

nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” chỉ mới dừng lại ở mức

khái quát, sơ lược, thường thì tác giả chỉ kết hợp nhận xét trong những phê

11

bình, nghiên cứu chung về Lê Lựu. Vì vậy, trên cơ sở những công trình đã

nghiên cứu chúng tôi sẽ kế thừa, tiếp thu để hoàn thành luận văn của mình với

mong mỏi khẳng định hơn nữa giá trị văn chương Lê Lựu.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: là thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu

thời kỳ đổi mới trên các khía cạnh như: các kiểu nhân vật, tính cách, đặc điểm

nhân vật thể hiện trong tác phẩm và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê

Lựu.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung tìm hiểu 5 cuốn tiểu thuyết tiêu

biểu của Lê Lựu thời kỳ đổi mới. Đó là:

- Thời xa vắng (1986)

- Đại tá không biết đùa (1990)

- Chuyện làng cuội (1991)

- Sóng ở đáy sông (1994)

- Hai nhà (2000)

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Sử dụng phương pháp này để tiếp cận

trực tiếp với tác phẩm trên mọi phương diện, từ đó khái quát làm nổi bật vấn

đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Công trình đi sâu tìm hiểu về thể

loại Tiểu thuyết. Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc của Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ

đổi mới nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung.

- Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tác giả và tác phẩm trong

sự đối chiếu với những tác giả và tác phẩm khác là hết sức cần thiết vì qua đó

sẽ làm nổi bật được nét riêng, nét độc đáo của đối tượng.

- Phương pháp phân tích: Trên cơ sở hai phương pháp trên chúng tôi

tiến hành phương pháp này để làm rõ vấn đề. Từ đó để khái quát, tổng hợp lại

12

những vấn đề đã nghiên cứu.

- Phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội: Văn học nói chung và tiểu

thuyết Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Vì vậy tìm hiểu tiểu

thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới không thể không nói đến sự tất yếu phải đổi

thay, chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn này. Sử dụng

phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội nhằm lý giải cơ sở thực tiễn và quá trình

chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của Lê Lựu.

5. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn đã sử dụng những kiến thức về thi pháp học và tự sự học để

đi sâu phân tích sự mới mẻ trong quan niệm cũng như nghệ thuật tiểu thuyết

của Lê Lựu khi khắc họa nhân vật. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng

góp của tác giả cho nền văn học dân tộc nói chung và văn học Việt Nam

đương đại nói riêng.

Với đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn góp thêm tiếng nói, cách

tiếp cận về tác giả, tác phẩm và góp thêm một tài liệu cho việc học tập, nghiên

cứu và giảng dạy Lê Lựu.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì phần

Nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam

thời kỳ đổi mới

Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời

13

kỳ đổi mới.

Chương 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới

Nền văn học Việt Nam là một nền văn học phong phú, đa dạng về thể

loại. So với các thể loại như thơ hay truyện ngắn thì tiểu thuyết phát triển

chậm hơn, tìm thấy hướng đi muộn hơn, nhưng những đóng góp của nó trong

thời kỳ này vẫn không thể phủ nhận.

Trong giai đoạn 1930 - 1945 qua những sáng tác của nhóm Tự lực văn

đoàn và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, tiểu thuyết thực sự được quan tâm

và phát triển khá mạnh mẽ. Đến những năm 50 tiểu thuyết ngày càng khẳng

định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.

Nền văn học sau cách mạng tháng Tám gắn bó mật thiết với vận mệnh

dân tộc. Nó hướng vào phục vụ những nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu

cầu của từng giai đoạn cách mạng nên văn học giai đoạn này là một nền văn

học mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nền văn học

hướng về đại chúng. Cùng với các thể loại khác, tiểu thuyết giai đoạn này góp

phần cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến, ca ngợi chủ nghĩa anh

hùng cách mạng, phản ánh được hiện thực lịch sử dân tộc, xây dựng nên

những nhân vật anh hùng cách mạng, kết tinh những phẩm chất của dân tộc

và tinh thần của thời đại.

Thời kỳ này văn học đã thoát khỏi cái nhìn bế tắc về con người để

hướng tới cái nhìn con người làm chủ vận mệnh đất nước, dân tộc và cả vận

mệnh của chính mình. Với quan niệm này con người được thể hiện chủ yếu

trong văn học là con người phơi phới lạc quan, dù gặp muôn ngàn khó khăn

gian khổ nhưng cuối cùng nhất định chiến thắng. Đấy là những con người

14

luôn luôn quên mình về sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, quên mình

vì tập thể, là những con người đầy ý chí, nghị lực, đầy niềm tin với tấm lòng

vì tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Điểm lại những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết giai đoạn này, ta có

thể thấy rằng, với quy mô rộng lớn của mình, tiểu thuyết thực sự đã phản ánh

chân thực bức tranh rộng lớn của hiện thực cuộc sống thông qua những hình

tượng điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Khác với giai đoạn đầu thế

kỷ XX, ở giai đoạn lịch sử hào hùng, mang âm hưởng và màu sắc sử thi này,

con người tập thể, con người lý tưởng được đề cao hơn bao giờ hết. Nền văn

học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng dù sinh ra và lớn lên

trong khói lửa chiến tranh nhưng lại vô cùng hào hùng và rực rỡ. Những Sống

mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên

Ngọc, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn đất của Anh Đức, Bão biển

của Chu Văn, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu…thực sự đã tái

hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam

trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, thống nhất nước nhà.

Văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã xứng đáng

với sứ mệnh cao cả của một nền văn học cách mạng hướng về đại chúng nhân

dân, phục vụ chiến đấu và đã đóng góp được những thành tựu xuất sắc, góp

phần quan trọng cho sự phát triển văn học dân tộc trong thời đại mới. Tiểu

thuyết thời kỳ này đã ghi lại được những hình ảnh không thể phai mờ về một

thời kỳ lịch sử đầy gian lao, hy sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc ta.

Những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng

lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống dân tộc vừa

đậm nét thời đại hiện lên chân thực, sinh động trên từng trang văn, ngọn bút.

Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Anh Đức, Nguyễn Khải,

Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu…đã tạo nên những hình tượng đẹp đẽ

15

và có chiều sâu về người lính, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ,… Hình

tượng nhân vật quần chúng, hình ảnh những người lao động mới, của mọi

tầng lớp nhân dân nổi lên với phẩm chất cơ bản là lòng yêu nước và căm thù

giặc. Sự phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp của đất nước và

con người Việt Nam trong khói lửa chiến tranh. Đấy không phải là vẻ đẹp cổ

xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, cũng không phải là vẻ đẹp đìu hiu đượm buồn

của thơ mới mà là vẻ đẹp hào sảng, khỏe khoắn của con người “rũ bùn đứng

dậy sáng lòa” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).

Như vậy, văn học thời kỳ này đã vượt lên những mất mát đau thương,

gác lại những cảm xúc nỗi buồn cá nhân để hướng đến khí thế hào hùng, hăng

say đánh giặc, ngợi ca những thành tích, chiến công, những hành động tốt đẹp

của con người trong chiến đấu, trong lao động, hướng tới một cuộc sống mới

với con người mới, yêu mến chế độ, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng,

tin tưởng vào tương lai của đất nước. Nhưng một nền văn học chỉ hướng đến

cái chung, gạt đi cái riêng, ý thức cá nhân bị tan biến vào ý thức cộng đồng

nên đời sống thế sự và riêng tư ít được quan tâm, thể hiện. Mặt khác, vì coi

trọng việc phản ánh hiện thực trong phát triển cách mạng nên văn học thời kỳ

này không đủ để bao quát toàn bộ sự phong phú và phức tạp của đời sống.

Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối

về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên nó cũng hạn chế sự sáng tạo của

người cầm bút, làm nghèo đi khả năng và sức mạnh của hư cấu tưởng tượng,

hạn chế sự đa dạng của các thủ pháp nghệ thuật.

1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới

Đại thắng mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng

đưa tới một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Trong suốt những

năm tháng đấu tranh giành độc lập cho đất nước, nền văn học Việt Nam luôn

16

đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng

trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo

của một giai đoạn văn học mới. Mặc dù giai đoạn văn học ấy cũng đang tiếp

diễn, nhưng đến những năm đầu thế kỷ XXI đã đặt ra một nhu cầu tự đổi mới,

người cầm bút cảm thấy không thể tiếp tục những lối viết như trước, mà cần

hướng đến một sự đổi thay.

Khi bước vào một giai đoạn lịch sử - xã hội mới, cả nước đứng trước

một yêu cầu “phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường”. Sự thay đổi ấy

đã tác động đến giới sáng tác. Cuối năm 1986, Đại hội Đảng lần tứ VI được

tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, trước hết ở

quan niệm đề cao thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, phát

huy tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, chống sức ì và tính bảo

thủ của quan niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới cho sự sáng tạo. Đảng khuyến

khích và yêu cầu văn nghệ sĩ cần có những thể nghiệm mạnh bạo và sáng tạo

nghệ thuật ở loại hình cũng như các hình thức biểu hiện. Nghị quyết 05 của

Bộ Chính trị (ngày 28.11.1987) yêu cầu: “Thực hiện chủ trương đổi mới của

Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra với quy mô

và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các

nền văn hóa ngày càng mở rộng… nền văn hoá, văn nghệ nước ta cũng phải

đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Điều này đã tạo cho

người cầm bút sự tự tin và mạnh dạn hơn trong những tìm tòi, sáng tạo nghệ

thuật khi viết về đời sống, hiện thực, những tình huống, sự kiện xã hội.

Văn học thời kỳ này cũng thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy nghệ

thuật. Một hiện thực mới, một công chúng mới nên đòi hỏi một cách viết,

cách nhìn nhận và phản ánh mới. Sự đổi mới của các nhà văn trở thành tất yếu

sống còn của chính họ. Văn học thời kỳ này vì thế không chỉ đổi mới ở phạm

vi đề tài, mà còn đổi mới về tư duy nghệ thuật, về cảm hứng, cách viết… Giờ

17

đây, những người cầm bút hiểu rõ hơn ai hết sứ mệnh của văn chương đối với

cuộc sống. Thời kỳ đổi mới với những biến động phức tạp thực sự là mảnh đất lý

tưởng cho sự sáng tạo của tiểu thuyết: “Thời nay rộng cửa, gợi được rất nhiều

thứ để viết…cái hôm nay, cái ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ

với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất

phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ” (Nguyễn Khải) [41].

Trước hết có thể thấy rõ bước phát triển của văn học trên bình diện tư

duy nghệ thuật. Giờ đây văn chương không chỉ là sự ngợi ca, khâm phục mà

còn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng của hiện thực. Nếu trước đây chủ

yếu cách nhìn đơn điệu, rạch ròi thiện ác, địch ta, cao cả, thấp hèn…thì giờ

đây cách nhìn nhiều chiều hơn, đa diện và phức tạp hơn. Với xu hướng nhìn

thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực, đi vào tiêu

điểm nóng hổi nhất của đời sống. Trong tác phẩm, họ đã ý thức cần phải bóc

trần thế giới, phơi bày sự thật. Nhiều cây bút đã nêu ra những mặt trái còn bị

che khuất, lên án những lực lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử

lạc hậu lỗi thời, làm cản trở quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con

người cũng như sự phát triển của xã hội. Những tác phẩm Thời xa vắng, Hai

nhà (Lê Lựu), Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn

Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn Khải), Đi về nơi hoang dã (Nhật

Tuấn), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Thiên sứ (Phạm Thị

Hoài), Trả giá, Sóng lừng, Cõi mê (Triệu Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí

Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng),

Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, Phố,

Cuộc đời dài lắm (Chu Lai)…là những minh chứng tiêu biểu, đóng góp

không nhỏ vào sự đổi mới của tiểu thuyết thời kỳ này.

Các thế hệ nhà văn thời kỳ này ngày càng ý thức về sự đổi mới trong

sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, và cuối cùng họ đã để lại cho nền văn

18

học dân tộc những trang tiểu thuyết theo đúng nghĩa của nó, góp phần làm

cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn, đồng thời tiếng nói về

cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn:

Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn (Nguyễn Bình

Phương), Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung

chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Cơ hội của chúa, Khải

huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy

Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Tường thành (Võ Thị Xuân Hà), Ngụ cư

(Thuỳ Dương), Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh), Bóng của

cây sồi (Đỗ Bích Thuý), Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ (Nguyễn Ngọc

Thuần), Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai)…

Nếu như trước đây các nhà tiểu thuyết hướng tới những bức tranh hiện

thực hoành tráng thì giờ đây họ “trở về xem xét con người Việt Nam một cách

sáng tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn” [3, tr.2], họ nhận thấy rằng cần phải

viết về cái gì đó của con người, cho con người. Đất nước chuyển sang giai

đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay. Con người trong tổng hoà

của những mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên

mà đề tài thế sự, đời tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực

sáng tạo” trong tiểu thuyết đương đại. Phan Cự Đệ cũng đã từng nhận định:

“Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào

nhau hoặc tự khám phá mình như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã

qua…Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán

xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện” [10, tr. 153]. Sự

đổi mới trong nhận thức của nhà văn thực sự đã mang đến cho văn học một

cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc khi viết về con người. Con người với đầy

đủ các phẩm chất, bản năng, ý thức, phần con, phần người, từ con người tập

thể mang tính cộng đồng chuyển sang con người cá thể đời thường với những

19

mâu thuẫn phức tạp, con người bi kịch, con người sám hối, con người thức

tỉnh, con người nhận đường, con người suy tư dằn vặt, con người cô đơn, cay

đắng, con người anh hùng, con người hèn hạ... đã đi vào văn chương một cách

chân thực, nhân bản, giàu tính hướng thiện, được soi rọi dưới cái nhìn đa diện

nhiều chiều. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những

bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo, qua

giọng điệu phê phán, tự vấn. Những mặt trái của đời sống, sự tha hóa về nhân

cách, những số phận bi kịch, những nỗi đau khắc khoải, những mất mát tổn

thương…được đặc tả vô cùng chân thực trên từng trang viết. Vẫn là những

người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ, trí thức, nông dân... nhưng giờ đây

họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau, được đặt vào trong nhiều vòng

quay của cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất với đầy đủ các sắc

màu, các cực đối lập: nhân tính và phi nhân tính, đạo lý và thất đức, bản ngã

và phi bản ngã... và cũng không né tránh những mặt khuất lấp của cuộc đời,

kể cả “góc tăm tối cuối cùng”. Giờ đây con người không phải sống vì cộng

đồng, xả thân vì nghĩa lớn, con người quen sống với đám đông, ít đối diện với

bản thân mà là con người với tư cách cá nhân, sống với nội tâm và suy nghĩ

của chính mình, con người với thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp. Số

phận con người bình thường với những bi kịch của cuộc đời hiện lên chân

thực, đa dạng. Đó là bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữ cái muốn vươn

lên và cái kìm hãm, giữa thanh lọc và tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân bản.

Tiểu thuyết thời kỳ này không chỉ đi sâu vào thân phận con người qua

cách nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong những môi

trường đời sống bình thường mà còn đề cập tới khát vọng về đời sống, về

hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự

nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc sống riêng tư.

Những tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Khắc

20

Trường, Dương Hướng…đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung và

hạnh phúc riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Việc đi sâu vào

thế giới tinh thần của con người, vào quá trình tự ý thức của nó đã góp phần

củng cố thêm sự hình thành con người cá nhân trong xã hội, làm cho văn học

thời kỳ này đứng cao hơn văn học trước cách mạng, khi mà ở đó vấn đề tự do

cá nhân chủ yếu chỉ mới đặt ra trong phạm vi tự do tình cảm của con người.

Tiểu thuyết sau đổi mới vì vậy đã quan niệm con người cá nhân như “một

nhân cách, một nhân cách kiểu mới”. Con người với sự hòa hợp giữa con

người tự nhiên, con người tâm linh và con người xã hội. Con người đó vừa

đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ, thánh thiện, luôn khao khát và hướng tới cái

đẹp. Đó chính là nét nổi bật mang đậm tính nhân văn của tiểu thuyết thời kỳ

này khi nhìn nhận về con người.

Sự đổi mới về tư duy, quan niệm nghệ thuật về con người kéo theo sự

đổi mới về phong cách và ý thức nghệ thuật. Văn học thời kỳ này đã xuất hiện

một số cây bút mới với lối viết thực sự khác trước. Sự biến đổi của ý thức

nghệ thuật đang chuyển từ quan niệm về văn học như hình thức giáo dục

tuyên truyền sang quan niệm văn học như hoạt động sáng tạo, nhận thức và

tác động vào cuộc sống. Vào những năm 30 của thế kỷ XX sự xuất hiện của

các tác phẩm với tên tuổi của Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng

Phụng…đã tái hiện bức tranh đa dạng về hiện thực xã hội, giúp độc giả hiểu

thêm về con người và những cảnh sống xung quanh. Đến giai đoạn 1945 -

1975 do yêu cầu của cuộc kháng chiến, văn học lại chuyển hướng sang hoạt

động tuyên truyền chính trị, giáo dục, tư tưởng, động viên cổ vũ quần chúng.

Mãi đến thời kỳ đổi mới sáng tác văn học với hoạt động nhận thức và tự nhận

thức mới thực sự phát triển. Người đọc có thể tiếp cận hình tượng từ nhiều

phía, có thể rút ra những kết luận khác nhau từ một tác phẩm.

Bên cạnh tính đa nghĩa của hình tượng và sự phong phú về chủ đề,

21

giọng điệu của tác phẩm cũng được viết theo lối mới. Không còn là chất

giọng ngợi ca, khâm phục, mang tính răn dạy mà là một thứ giọng kể có vẻ

không nghiêm túc, thậm chí như đùa giỡn, vừa coi điều mình kể là thành thực,

vừa coi nó như chẳng có gì quan trọng. Chính điều này đã làm tăng sự phong

phú, lôi cuốn, hấp dẫn của giọng kể. Cách kể chuyện như thế chỉ có thể có

được trên cơ sở của một quan niệm mới về văn học, quan niệm xem văn học

như một hoạt động sáng tạo, một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ của con

người đối với thế giới.

Như vậy, văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã

thực sự được cởi trói, chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép trong

khuôn khổ hay giới hạn. Văn học tìm về với con người đời thường, con người

cá nhân nhưng vẫn “mới”, vẫn đầy sáng tạo. Văn học được trả lại thiên chức

của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh

trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả.

1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết

1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu

Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu,

huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông là thành viên của Hội nhà văn Việt

Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn. Hiện nay, ông đang

đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội.

Lê Lựu trưởng thành giữa lúc: “Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa

mượt đồng ấm áp làng quê” (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu). Tất cả

những niềm vui, nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy ông đều chứng kiến. Vốn là

một người nông dân mặc áo lính, ông luôn nghĩ về quê hương, gần gũi với

người nông dân và nông thôn, nên ông xem nó là cội nguồn, là quê hương văn

học của mình từ khi bắt đầu cầm bút cho đến tận bây giờ.

Sau khi rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ những năm sáu mươi,

22

Lê Lựu lao vào công việc, sống và tìm hiểu cuộc sống quân đội. Cảm hứng về

sự thay đổi của miền Bắc đã thôi thúc ông cầm bút ghi lại những điều mình

thích, nói lên những điều mình muốn nói với mọi người. Sau này càng đi

nhiều, ông càng được mở rộng tầm mắt và có thêm nhiều mảng đề tài mới.

Sau chiến tranh, ông trở về làm ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ quân đội

trong nhiều năm. Lúc làm biên tập, khi đi sáng tác, với quân hàm đại tá, là

một sỹ quan của làng văn nhưng ông vẫn luôn là người lính binh nhì trong đời

thường, vừa chân chất, thật thà, vừa xuề xòa, cởi mở…Với một lòng say mê

sống và viết, Lê Lựu lần lượt cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị và từng

bước khẳng định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.

Cuộc đời Lê Lựu gặp nhiều bất hạnh, ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm”,

ông đang mang trong mình rất nhiều thứ bệnh. Hàng ngày ông uống thuốc

nhiều hơn ăn cơm, coi bệnh viện gần như là nhà của mình. Không chỉ mang

trong mình nhiều căn bệnh quái ác mà đời sống tinh thần của ông cũng mang

nhiều nỗi buồn. Cuộc sống gia đình không trọn vẹn, hạnh phúc. Ông có hai

người vợ, người vợ đầu là mối tình sắp đặt từ phía gia đình ở Hưng Yên.

Cuộc hôn nhân không như ông mong muốn và hai người đã chia tay từ 40

năm trước. Sau đó, ông lên Hà Nội, người vợ cũ ở quê đã âm thầm chuyển tên

mảnh đất hương hỏa của tổ tiên sang tên mình. Chính ông đã ví rằng, người

vợ cũ này giống như cô Tuyết - vợ đầu của Giang Minh Sài trong tác phẩm

Thời xa vắng viết năm 1986. Tuy nhiên “thời xa vắng” của Lê Lựu còn xót xa

hơn Giang Minh Sài. Người vợ thứ hai của ông có hai người con, một trai,

một gái. Nhưng cuộc hôn nhân thứ hai này cũng kết thúc trong đau buồn. Giờ

đây, tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn phải tá túc ở trụ sở của trung tâm Văn

hóa doanh nhân, nơi ông sáng lập và làm lãnh đạo nhiều năm liền. Hơn 70

năm cuộc đời, với hai đời vợ và ba người con, giờ đây ông phải cậy nhờ vào

23

những người không phải là ruột thịt của mình.

Với hơn 50 năm cầm bút, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm, hầu hết

những nhân vật ông viết đều có sự bất trắc, vất vả trên con đường tìm đến

hạnh phúc của mình. Một Giang Minh Sài trong Thời xa vắng với những đấu

tranh cho hạnh phúc riêng, nhưng cũng không đến được với Hương - người

mà Sài yêu hết mực, cuối cùng cả cuộc đời lại phải chịu thất bại trong hạnh

phúc gia đình. Một Núi trong Sóng ở đáy sông bị cha đẻ ghẻ lạnh từ nhỏ, cuộc

đời lận đận, cuối cùng phải buông xuôi, trượt dài trên con đường tội lỗi, ra tù

vào tội, vất vả mưu sinh. Là Tâm trong Hai nhà chân thật, hiền lành, thương

yêu vợ con nhưng hết lần này đến lần khác bị vợ phản bội, để cuối cùng cay

đắng nhận tin rằng những đứa con anh thương yêu là con của kẻ khác…

Những nỗi buồn, những niềm đau trong cuộc sống khiến Lê Lựu tìm

đến văn chương như một cứu cánh, như món ăn tinh thần không thể thiếu.

Càng đau ông càng cố viết, càng viết ông càng khiến người đọc thấm thía hơn

về cuộc đời với muôn mặt của nó. Với Lê Lựu văn thực sự là đời, là người.

Ông đã sống và viết hết mình, cống hiến không mệt mỏi cho văn chương, cho

nghệ thuật.

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác

Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết gặt hái nhiều thành công thì Lê Lựu

là một cây bút truyện ngắn. Là một nhà văn trực tiếp đứng trong hàng ngũ của

những anh lính Cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh nên

ông thấu hiểu những mất mát của con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Lê

Lựu luôn trăn trở về tình đời, tình người.

Khởi nghiệp từ thể loại truyện ngắn, Lê Lựu để lại một số tác phẩm có

giá trị. Năm 1964 ông trình làng tác phẩm mang tên Tết làng Mụa, sau đó

hàng loạt tác phẩm khác ra đời, như Trong làng nhỏ, Người cầm súng phía

mặt trời, Truyện kể từ đêm trước…và đến Người về đồng cói thì Lê Lựu thực

24

sự trở thành một cây bút viết văn kỳ cựu. Đây là một tác phẩm xuất sắc trong

thời kỳ chống Mỹ, nó mang dáng dấp và hơi hướng tiểu thuyết. Phải chăng

tác phẩm này đã trở thành bước đệm cho Lê Lựu thành công hơn ở thể loại

tiểu thuyết sau này.

Lê Lựu viết chậm, mỗi ngày vẻn vẻn vài trang, nhưng tác phẩm của

ông vẫn rất có sức hút: “sáng tác của Lê Lựu đã đem đến cho người đọc một

không khí khác, toát ra từ chất liệu của đời, từ hiện thực khách quan. Anh

không giải bày mà để cho sự sống giãi bày. Anh không biểu hiện mà để cho

cuộc sống tự kể. Tuy quá trình vào nghề của anh có chậm nhưng người đọc

thấy rõ bước đi của anh không có những hụt hẫng, với cái nguy cơ đơn điệu,

tự lặp lại mình” [40, tr.110]. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông ra đời vào năm

1975, có tên là Mở rừng. Qua tác phẩm này, Lê Lựu như muốn phô bày,

muốn diễn tả và cắt nghĩa những vấn đề có ý nghĩa triết lý về chiến tranh, về

con người Việt Nam trong những năm chống Mỹ ở nhiều lớp người, nhiều

cảnh sống…Qua đây tác giả đã tái hiện cuộc sống với muôn vẻ đa dạng và

phức tạp như chính cuộc sống vốn có, như chính con người thường có. Giữa

cái anh hùng với cái thấp hèn, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái hài và cái

bi…dường như luôn đan xen và đấu tranh với nhau. Con người phải luôn

không ngừng đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh, vươn tới lý tưởng, để giải

quyết những mặt nan giải trong cuộc đời. Có thể coi đây là cuốn tiểu thuyết

vào loại khá của văn học Việt Nam những năm 70. Tuy nhiên, do một số lý

do nên nó không được người đọc hưởng ứng và giới phê bình quan tâm.

Sau tiểu thuyết Mở rừng thì Ranh giới (1979) là một cố gắng mới của

Lê Lựu. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện lực lượng an ninh cách mạng tiếp

tục truy bắt bọn tình báo CIA, bọn tướng tá ngụy đang âm mưu vượt đường

biển trốn ra nước ngoài mang những tài liệu về quân sự, kinh tế mà chúng thu

thập được ở Việt Nam. Chúng đang tìm mọi cách chống phá cách mạng sau

25

ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Với tác phẩm này, Lê Lựu đã phản ánh

hiện thực trên một bình diện mới. Vấn đề tư tưởng được ông đặt ra trong

Ranh giới khá mới mẻ và mang tính thời sự ở một mức độ nhất định.

Mãi đến những năm 80, khi đất nước đã yên tiếng súng, chiến tranh đã

ngưng hẳn trong tâm trí mọi người, những dư âm dai dẳng của nó cũng tạm

lắng xuống, cả nước đang chung tay hướng đến một sự đổi mới toàn diện trên

mọi lĩnh vực…thì Lê Lựu lại nhìn thấy trong đó những vấn đề nhức nhối của

thời đại, vấn đề số phận và nhân cách con người. Trong hoàn cảnh ấy tiểu

thuyết Thời xa vắng ra đời và trở thành một “hiện tượng văn học”: “Tiểu

thuyết Thời xa vắng ra đời như một sự bất ngờ với bạn đọc. Tác phẩm đã gây

nên một sự xôn xao, sửng sốt trong mọi người. Người khen, kẻ chê cũng

không phải là quá hiếm…một tác phẩm ra đời, gây được sự chú ý và nhiều ý

kiến tranh cãi, chứ không rơi vào tình trạng im ắng rồi bị quên lãng bao giờ

không ai hay như số phận của nhiều tác phẩm thường thường bậc trung khác”

[23, tr. 572, 573]. Tác phẩm đã nhận thức lại một thời mới đây thôi mà tưởng

như xa vắng từ thuở nào. Lê Lựu đã chỉ ra khía cạnh bi kịch, những nỗi đau

riêng tư của con người trong và sau chiến tranh. Nó không chỉ là sự phản ánh

quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận và đánh giá lại thực tại, không chỉ

là một bi kịch tình yêu không thành mà còn làm nổi cộm lên những vấn đề

tâm lý - xã hội chung của cả một thời đại.

Sau thành công vang dội của Thời xa vắng, Lê Lựu lại được một phen

khốn đốn vì Chuyện làng Cuội (1991). “Nếu mỗi cuốn sách ra đời như một

người nô bộc trung thành, một đứa con tinh thần của nhà văn, thì tiếc thay,

Chuyện làng Cuội lại là một đứa con bất hiếu của ông bố chất phác, nhân từ.

Nó mang cho Lê Lựu bao điều tai bay vạ gió” (Trần Đăng Khoa). Mặc dù Lê

Lựu viết Chuyện làng Cuội với ý đồ nghiêm túc, thậm chí muốn thể hiện

những vấn đề nhức nhối của thời đại, mang đậm tính thời sự như ông đã tâm

26

sự: “Tôi muốn nói lên rằng nhân dân có thể chịu đựng tất cả mọi sự chà đạp,

lừa dối của đế quốc, phong kiến, chịu mọi hy sinh, mất mát trong bước thăng

trầm của đất nước và của chính cuộc đời họ. Nhưng đến khi bị chính người

thân yêu ruột thịt chà đạp, lừa dối thì họ đã không sống nổi. Xã hội ta hiện

đang có mầm mống anh em ruột thịt, thậm chí bố con chà đạp, lừa dối lẫn

nhau. Đây là hiện tượng đáng báo động, cần phải ngăn chặn và lên án” [23,

tr.649], nhưng thực tế tác phẩm dường như chỉ mới dừng lại ở ý tưởng và ý

tưởng của Lê Lựu cũng vẫn chỉ là ý tưởng mà thôi. Nghĩa là nó chưa lặn được

vào cốt truyện, vào số phận nhân vật, nhân vật như những con rối thụ động

dưới bàn tay điều khiển khá lộ liễu của tác giả.

Sau thất bại của Chuyện làng Cuội Lê Lựu cho ra đời nhiều tác phẩm

có giá trị. Đó là Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000), Truyện ngắn Lê Lựu

(2003), Thời loạn (2009)…Hầu hết những sáng tác của ông vẫn trung thành

với vấn đề hiện thực, với con người trong những mối quan hệ phức tạp, với

những yếu tố tâm lý sâu sắc…Qua những sáng tác này, nhà văn đã tái hiện

một cách chân thực sâu sắc gương mặt lịch sử và đời sống xã hội. Muôn mặt

của cuộc sống trước những thay đổi do chiến tranh, cách mạng, cải cách

ruộng đất, hợp tác hóa, cải tạo xã hội, những khẩu hiệu, thành tích, những sai

lầm ấu trĩ, những cay đắng, bất hạnh, ngang trái của cuộc đời…tất cả hiện lên

đầy ám ảnh qua những trang văn của tác giả.

Với nội dung sâu sắc, bám chắc sự thật, kết hợp với những nét độc đáo

về bút pháp nghệ thuật, những sáng tác của Lê Lựu từ những năm sau đổi mới

là những minh chứng tiêu biểu về tài năng và những đóng góp của nhà văn

cho nền văn học dân tộc.

Từ truyện ngắn xuất hiện đầu tiên vào năm 1964, đến nay Lê Lựu đã

viết được gần hai mươi đầu sách và có nhiều tập có tiếng, trong đó Thời xa

vắng là một đỉnh cao “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt

27

Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu tiểu thì Lê Lựu là một trong

tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy ba mươi

tác phẩm thì có mặt Thời xa vắng” [23, tr.663]. Như vậy trong nền văn học

Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí nhất định.

Từ những trang viết đầu tiên, Lê Lựu đã thể hiện sự cần mẫn nghiêm

túc của một ngòi bút hết lòng với nghề. Nhà văn không chấp nhận sự nhạt

nhẽo, tầm thường mà ở bất cứ tác phẩm nào ông cũng muốn gửi gắm những

giá trị nào đó. Vì vậy, nhìn lại cả chặng đường sáng tác của Lê Lựu ta lại bắt

gặp những trang văn thấm đẫm tình đời, tình người. Ngòi bút giản dị và sâu

sắc ấy đã đi sâu vào lòng người đọc như minh chứng cho những giá trị tốt

đẹp.

1.3.3. Đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết trong nền văn

học Việt Nam đương đại

Lê Lựu là một trong những cây bút có nhiều đóng góp đối với nền văn

học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Với khuynh hướng nhận thức lại hiện thực

cùng với sự trở lại của cảm hứng bi kịch, những thay đổi trong quan niệm về

hiện thực và con người, cùng những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, Lê Lựu

đã góp phần làm đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

Lê Lựu qua các tác phẩm của mình đã nhìn nhận hiện thực xã hội một

cách tỉnh táo, khách quan, phơi bày những cái tiêu cực, xấu xa, mô tả và tố

cáo nó. Đó có thể là những quan niệm duy ý chí, lối tư duy bảo thủ hay những

thói vị kỉ, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng… Không chỉ dừng lại ở đó, Lê Lựu

còn nhận thấy sự lầm lẫn, hạn chế của một thời. Ông chỉ ra rằng chính những

quan niệm, lối tư duy ý chí đã trở thành sợi dây trói buộc đời sống tinh thần,

triệt tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của con người, gây ra bi kịch xót xa

cho mỗi số phận. Bằng cái nhìn sắc sảo, Lê Lựu đã lý giải được những biến

động của đời sống xã hội và sự tác động của nó đến số phận con người. Nhận

28

thức quá khứ và thực trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự

báo xu thế phát triển tất yếu và những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là

sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết

nước ta mà trước đó chưa có. Lê Lựu đã dùng ngòi bút của mình đi tìm cái

muôn màu của sự sống thông qua khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đó

không chỉ là sự mở rộng phạm vi hiện thực được phản ảnh, không chỉ là sự

tiếp nhận kỹ thuật hiện đại mà còn là tư duy mới mẻ về đời sống. Qua cái

nhìn trực diện vào những mặt trái trong xã hội, với thái độ phê phán sự xấu

xa, tha hóa của con người, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhức nhối của thời

đại với những thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tiểu thuyết của Lê

Lựu đã mở rộng thế giới hiện thực sống động nhưng cũng vô cùng phức tạp.

Một đóng góp không nhỏ của Lê Lựu cho nền văn học đương đại đó là

sự trở lại của cảm hứng bi kịch. Nếu như trong văn học thời kỳ kháng chiến

cảm hứng bi kịch cá nhân bị làm mờ nhạt thì giờ đây Lê Lựu đã khai thác nó

trong số phận mỗi cá nhân bằng những phân tích kỹ càng, không đơn giản,

phiến diện. Tiểu thuyết Lê Lựu, mà khởi đầu là Thời xa vắng đã lấy cảm hứng

bi kịch cá nhân làm đối tượng, đưa đến cho người đọc hứng thú suy nghĩ và

say sưa chiêm nghiệm về cuộc sống. Vấn đề bi kịch cá nhân đã từng là nguồn

cảm hứng lớn của nhân loại, nhưng suốt một thời gian dài nó chỉ thấp thoáng

xuất hiện trong văn học ta, bởi vậy không thể phủ nhận vai trò đi đầu của

Thời xa vắng đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch nhân văn trong giai đoạn

văn học mới. Với những đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã nhìn thẳng vào những

đau khổ, mất mát, những bất hạnh, ngang trái của con người, những bi kịch

đời thường ấy đầy rẫy trong cuộc sống phức tạp, nó làm cho con người loay

hoay trong vòng luẩn quẩn đầy khổ đau, biến con người trở thành nô lệ cho

cuộc đời, dần đánh mất mình mà không hay. Viết về bi kịch có thể tác giả

29

chưa đưa ra được những giải pháp để giải quyết bi kịch nhưng qua đó ông đã

giúp người đọc ý thức hơn về ý nghĩa của cuộc sống và mong muốn con

người hãy sống có trách nhiệm hơn với chình mình.

Mặc dù không có nhiều cách tân trong lối viết nhưng Lê Lựu vẫn luôn

có ý thức tìm tòi, thay đổi về mặt nghệ thuật trong từng tác phẩm, điều đó làm

cho tiểu thuyết của ông tránh khỏi sự đơn điệu, trùng lặp. Những sáng tác của

Lê Lựu đã có những đóng góp nhất định về phương diện nghệ thuật như cách

xây dựng tình huống truyện bất ngờ, kịch tính, không - thời gian nghệ thuật,

thủ pháp đồng hiện, giọng điệu trần thuật, khuynh hướng triết luận, ngôn

ngữ… Thời xa vắng là “lịch sử một số phận” với những đoạn đường đời cụ

thể dưới cái nhìn chiêm nghiệm, từng trải. Sóng ở đáy sông lại có vẻ như hồ

sơ của một phạm nhân được lần giở từng sự kiện qua sự phân tích chặt chẽ

những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới hành vi phạm tội. Ở Chuyện

làng Cuội, sự đan xen quá khứ và hiện tại làm cho mạch truyện thêm linh

hoạt, người đọc tuy khó nắm bắt truyện hơn nhưng cũng chủ động hơn trong

tiếp nhận tác phẩm. Nếu như ở Hai nhà, Lê Lựu thay đổi điểm nhìn trần thuật

bằng việc đưa những trang nhật ký vào tác phẩm để người đọc có thể hiểu rõ hơn

tâm trạng, cảm xúc, động cơ... của nhân vật thì trong Đại tá không biết đùa, nhà

văn chuyển hẳn đối thoại vào đoạn trần thuật, kể chuyện bằng nhiều điểm nhìn.

Không thoát ly khỏi tiểu thuyết truyền thống nhưng Lê Lựu đã cố gắng làm mới

cách viết của chính mình và điều đó cũng ít nhiều đem lại thành công.

Bảo Ninh, một nhà văn thuộc thế hệ cầm bút kế tiếp đã từng khẳng

định: “Cánh cửa mà nhà văn Lê Lựu đã mở ra cho tiểu thuyết thời Đổi mới

tuy rằng đã cũ nhưng mà vẫn vô cùng mới đối với các nhà văn lứa kế sau

ông. Những quan niệm về tiểu thuyết có thể đúc rút được từ Thời xa vắng

cũng không lạ thường gì song với những người viết văn trẻ tuổi hồi đó thì vẫn

có tác dụng gần như sự bừng tỉnh”. Bằng những thay đổi trong quan niệm về

30

hiện thực và con người cũng như những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, tiểu

thuyết Lê Lựu đã góp phần đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, trở thành

một “gương mặt” riêng trong bức tranh đa dạng của nền văn học dân tộc.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 luận văn đã khái quát đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam

trước thời kỳ đổi mới và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới để từ đó thấy

được sự vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết qua các thời kỳ. Cũng

trong chương này chúng tôi đi sâu tìm hiểu về Lê Lựu qua cuộc đời, sự

nghiệp sáng tác và những đóng góp của tác giả đối với thể loại tiểu thuyết và

đối với nền văn học đương đại Việt Nam. Với những nỗ lực sáng tạo nghệ

thuật cộng với những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, Lê

Lựu đã khẳng định vai trò tiên phong trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết.

Những sáng tác của ông với thể loại tiểu thuyết đã đưa ông lên vị trí danh dự

31

những nhà văn xuất sắc thời kỳ đổi mới.

Chương 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT

CỦA LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết

2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người

Con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các lĩnh vực, khoa học, lý

luận, kinh tế, quản lý… Khi là đối tượng của văn học, con người được nhìn

nhận như một nhân cách đích thực và toàn vẹn, được soi ngắm dưới nhiều

hoàn cảnh, nhiều mối quan hệ, được thừa nhận ở mọi giá trị liên quan tới nó.

Vì vậy quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học khác với quan niệm

Cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu,

về con người trong các hình thái ý thức xã hội khác.

song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách định

nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau:

Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách

cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của

nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[36, tr.15].

Huỳnh Như Phương cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể

hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm” [16, tr 210].

Cũng với vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật

ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là

hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm.

Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của

nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy

nghệ thuật” [15, tr.275].

Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm

32

trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con

người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái

quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn,

cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là

quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ

cũng gắn liền với cách cảm nhận và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể,

ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.

Khi nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong từng tác

phẩm, ta thấy điểm nhìn khác nhau giữa các nhà văn, giữa từng giai đoạn, thời

kỳ. Những thay đổi về quan niệm nghệ thuật qua các chặng đường sáng tác,

thể hiện qua ý thức của nhà văn về việc miêu tả con người. Qua đó làm nổi

bật tư tưởng, quan niệm của tác giả về xã hội, về thời đại, về con người trong

giai đoạn đó.

2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết

Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện

trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể có tên

riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như

thằng bán tơ, một mụ nào…Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng

như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ là một hiện

tượng nào đó trong tác phẩm. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái

quát tính cách của con người. Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên

nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của

cuộc sống.

Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm

mỹ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn với chủ đề của tác

phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua những biến cố, xung đột, mâu

33

thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu

thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân

vật khác. Cho nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện.

Ta có thể hiểu một cách khái quát, nhân vật văn học là nhân vật trong

tác phẩm văn học được nhà văn xây dựng với những nét tính cách tiêu biểu và

đời sống nội tâm phong phú. Nhân vật văn học hiện lên trong tác phẩm vừa là

những con người văn học để qua đó nhà văn thể hiện và chuyển tải ý đồ nghệ

thuật, vừa là những con người chân thực như con người thật của cuộc đời.

Nhân vật văn học vì thế bao giờ cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu đậm

trong lòng người đọc.

Vấn đề nhân vật là vấn đề hàng đầu quyết định diện mạo một nền văn

học, đặc biệt là tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết nhân vật hầu như luôn được nhà văn

miêu tả tỉ mỉ từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Vai trò của nhân vật trong

tiểu thuyết cũng vô cùng quan trọng: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết

tiểu thuyết là miêu tả con người và con đường đi của họ trong xã hội. Người

viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề phải thông qua nhân vật, xuất phát từ nhân

vật hơn là từ sự việc. Một cuốn tiểu thuyết có đứng được hay không là ở chỗ

nó có tạo ra được những nhân vật làm cho bạn đọc nhớ được hay không”

(Nguyễn Đình Thi) [13]. Vì thế việc nhận diện nhân vật văn học, đặc biệt là

nhân vật tiểu thuyết luôn là công việc quan trọng của công tác nghiên cứu,

phê bình văn học. Nghiên cứu nhân vật, chính là nghiên cứu cách nhà văn

nhìn nhận, cắt nghĩa, lý giải về con người như thế nào và bằng cách nào trong

tác phẩm của mình, “nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của

mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó

của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới

riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [32, tr.126]. Người ta

sẽ tìm thấy bộ mặt đầy đủ của con người trong các nhân vật của tiểu thuyết.

34

Nếu trong tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thì nhân vật cũng

vừa là cơ thể vừa là linh hồn. Nhân vật trong tiểu thuyết không hề xa lạ mà

được đặt trong những mối quan hệ cụ thể, đời thường. Nó không gì khác hơn

chính là hình ảnh của con người đời thường với những nỗi niềm suy tư, trăn

trở được phản chiếu thông qua lăng kính văn học. Những nhân vật tiểu thuyết

thường không nguyên phiến, một chiều mà nó lại hiện lên với tất cả sự phong

phú, sâu sắc, nó không chỉ có một tính cách duy nhất mà nó có thể mang

trong mình tất cả những đức tính tốt xấu đời thường như những con người

thật của cuộc đời.

Nhìn một cách khái quát, ta có thể thấy trước năm 1975, nhân vật trong

tiểu thuyết Việt Nam bị chi phối bởi khuynh hướng sử thi và được xây dựng

theo nguyên tắc phân tuyến thiện - ác, ta - địch, tốt - xấu… rạch ròi. Về cơ

bản, nhân vật được xây dựng nhằm thực hiện chức năng xã hội nhất định.

Những sáng tác của Lê Lựu trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài xu

hướng ấy. Trước đổi mới, Lê Lựu tập trung khắc họa nhân vật theo mô hình

con người tích cực của cộng đồng. Ông đặc biệt dành ưu ái cho hình tượng

người chiến sĩ.

Sau 1975, nhất là sau năm 1986, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt

Nam có nhiều thay đổi. Nhân vật không nằm trong thể khép kín và được định

sẵn về số phận như trước nữa mà luôn mang tính bất ngờ, không thể dự báo.

Nhân vật nhiều khi xuất hiện như một trạng thái đời sống, một dòng chảy tư

tưởng, một tiếng nói, một cách nhìn. Trong giai đoạn này nó được thể hiện

một cách sinh động, sâu sắc, có chiều sâu, thoát khỏi cái nhìn khô cứng, một

chiều, đơn tuyến trước đây. Không nằm ngoài đặc điểm ấy, qua việc xây dựng

những hình tượng nhân vật đặc sắc, sáng tác của Lê Lựu thời kỳ này đã thực

sự thể hiện cái nhìn nhân bản và sâu sắc nhất về con người với một niềm day

dứt khôn nguôi. Đến đây, ông thực sự xứng đáng là “nhà văn của tính cách,

35

của số phận con người”.

2.2. Phân loại nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, dựa trên các góc độ khác nhau có thể

chia nhân vật thành những kiểu loại khác nhau. Nếu dựa vào nội dung và cốt

truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và

nhân vật phụ. Dựa vào đặc điểm tính cách, việc truyền đạt lý tưởng của nhà

văn, có thể chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Dựa vào

thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. Dựa

vào cấu trúc hình tượng nhân vật, nhân vật được chia thành nhân vật chức

năng (hay mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.

Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về các loại nhân vật trong tiểu

thuyết Lê Lựu, chúng tôi đã dựa vào đặc điểm tính cách và cấu trúc hình

tượng để tiến hành phân loại nhân vật. Các nhân vật trong sáng tác của ông

không nghiêng hẳn về một loại nhân vật cụ thể nào như trên, nhưng xét thấy

nó gần với kiểu nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Ở đó nhân vật không

chỉ được mô tả như một tính cách, nhân cách, một cá nhân có tính nổi bật mà

nó còn thể hiện một ý thức, một tư tưởng tồn tại trong đời sống tinh thần của

xã hội. Dựa vào những tiêu chí trên chúng tôi phân loại các kiểu nhân vật

trong tiểu thuyết Lê Lựu như sau: Nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và nhân

vật lưỡng diện.

2.2.1. Nhân vật bi kịch

Nếu như trong nền văn học chiến tranh, cảm hứng bi kịch cá nhân gần

như không được nhắc đến thì sau thời kỳ đổi mới, nó trở lại với nhiều màu

sắc và có chiều sâu hơn. Có thể nói Tiểu thuyết Lê Lựu với khởi đầu là Thời

xa vắng có vai trò đi đầu đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch. Trong sự

nghiệp sáng tác của mình, Lê Lựu đã thành công khi xây dựng nhân vật bi

kịch trên nhiều phương diện. Đó có thể là bi kịch do hoàn cảnh gây nên, cũng

36

có thể bi kịch do chính bản thân nhân vật tự tạo ra. Tất cả được Lê Lựu cắt

nghĩa, lý giải hết sức sâu sắc bằng một trái tim hết lòng tin yêu con người và

đầy ưu tư, trăn trở vể cuộc đời.

2.2.1.1. Bi kịch do hoàn cảnh

Con người là trung tâm của xã hội và luôn bị chi phối và ràng buộc bởi

hoàn cảnh. Khi không đủ bản lĩnh đấu tranh chống lại hoàn cảnh, họ rơi vào

bi kịch, thậm chí trở thành nô lệ của hoàn cảnh. Trong văn học Việt Nam ta

đã bắt gặp loại nhân vật này ở các tác phẩm của các nhà văn hiện đại như

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao…Đến những năm tiền đổi mới,

hình ảnh con người là nạn nhân của hoàn cảnh sống, con người với số phận riêng

tư nhiều trắc trở đã hiện lên khá day dứt qua những trang văn của Nguyễn Khải,

Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng…Bước sang thời kỳ đổi mới, với nhu cầu

“nhận thức lại hiện thực” thì kiểu nhân vật bi kịch được xây dựng chân thật, sinh

động, sắc nét hơn và Lê Lựu được xem là một trong những nhà văn tiên phong

với sự ra đời của “hiện tượng văn học” - Thời xa vắng.

Câu chuyện về một thời mà Lê Lựu gọi là “thời xa vắng” là một câu

chuyện buồn mà suốt một thời gian dài người ta cố tình không nhắc tới. Đó là

cái thời mà sự yêu ghét của con người bị định đoạt một cách thô bạo, khiến

người ta muốn tồn tại thì phải tự gọt đẽo mình, phải “sống hộ ý định người

khác”. Tất cả những sai lầm một thời đó in rõ trong số phận và tính cách của

nhân vật chính Giang Minh Sài một cách ám ảnh. Suốt nửa cuộc đời, Sài loay

hoay giữa muôn vàn đau khổ do sức ép từ nhiều phía. Chưa đầy mười tuổi,

Sài đã bị gia đình bắt cưới Tuyết, “đứa con gái hơn Sài ba tuổi” mà anh “ghét

bỏ từ đầu đến chân”, nhưng cái ý định bỏ vợ của anh chưa kịp ló ra thì nó đã

bị dập tắt bởi quan niệm mang tính áp đặt của người cha “Chưa có khi nào

con cái lại trái ý cha mẹ”. Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình,

dòng họ. Đến tuổi trưởng thành, Sài lại phải cố gồng mình lên để chịu đựng,

37

phải “tự giết chết đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự”, anh

cắn răng chịu đựng, âm thầm chôn vùi tình cảm mãnh liệt với Hương, người

con gái anh yêu tha thiết. Khi vào quân ngũ, Sài lại phải theo ý các thủ trưởng

là phải “yêu vợ”, nhưng phải yêu thực sự để có đầy đủ cơ sở kết nạp Đảng.

Nhưng cuối cùng vì sống hộ người khác, để người khác quyết định cuộc đời

mình nên anh đã đánh mất đi tình yêu và cũng không được kết nạp Đảng vì lý

lịch nhà vợ. Đến khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai với Châu, tuy là người

tự do lựa chọn và được sống theo ý mình thì Sài lại phải sống “không phải là

mình, không còn là mình, cái mình có thì thừa ra, cái không có thì phải ứng

xử hàng ngày, có mãi từng ngày vẫn thấy thiếu hụt” [26, tr. 282]. Cách sống

ấy của anh vẫn là hệ quả của những tháng ngày “sống hộ ý định người khác”

thuở trước. Hôn nhân đổ vỡ là kết quả của một thời “yêu cái mình không có”

của anh. Rõ ràng cuộc đời Sài từ khi bắt đầu đã là bi kịch. Đó là bi kịch của

một con người “nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa đời còn lại

đi yêu cái mình không có” [26, tr. 332]. Cuộc đời sống hộ người khác, yêu

thương, ghét bỏ cũng vì người khác nên anh đã không còn là chính mình.

Những người thay Sài quyết định số phận của anh không phải là người xấu,

thậm chí họ rất yêu mến anh. Nhưng đó lại là những tình cảm sai lầm, vô tình

biến Sài thành một con rối bị giật dây, đẩy cuộc đời anh từ bi kịch này đến bi

kịch khác. Sài không được là chính mình, không được sống theo ý mình, cũng

không thể đi theo tiếng gọi của tình yêu đích thực bởi vì sao? Bởi trong cái

thời ấy, không ai cho Sài cái quyền được làm như vậy. Danh dự của gia đình,

của dòng họ ông đồ Khang, cái uy tín cán bộ của ông Hà, của anh Tính không

cho phép Sài “thò ra cái ý định bỏ vợ”. Cái sự yêu thương, quý mến của anh

Hiền, của anh Hiểu và những người khác trong quân ngũ cũng không cho

phép Sài đến với tình yêu của đời mình, không thể sống với suy nghĩ riêng tư

38

của mình. Thế nên trong cái thời ấy, Sài “không được là mình, không dám là

mình”, Sài phải “dựa vào dư luận mà sống”. Vì thế suốt cuộc đời mình, Sài bị

trôi đi trong những dòng bi kịch nghiệt ngã.

Cắt nghĩa bi kịch do hoàn cảnh, Lê Lựu dành nhiều ưu ái cho số phận

những người phụ nữ có hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chịu mất mát trong

tình yêu và hạnh phúc gia đình. Nếu nói đến sự ưu ái khi xây dựng nhân vật,

thì có lẽ Hương trong Thời xa vắng là nhân vật được Lê Lựu dành nhiều thiện

cảm hơn cả. Ở cô kết tinh cả nét đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp trong tính cách,

tâm hồn. Hương là hình ảnh của một con người sống có bản lĩnh, có trách

nhiệm, với một nhân cách trung thực, thẳng thắn rất đáng quý, giản dị chân

thành, nết na, hiền dịu. Lê Lựu qua hình tượng người phụ nữ này, đã thể hiện

được sự trân trọng, quý mến, đồng cảm với một cô gái yêu hết mình, luôn ra

sức bảo vệ tình yêu nhưng lại thất bại. Bởi cái xã hội luôn coi dư luận như là

lẽ sống thì con người dù cố gắng đến đâu vẫn không thể được sống với những

mong muốn, khát khao của chính mình. Xét cho cùng, cuộc đời Hương cũng

rất đáng thương. Người phụ nữ ấy, muốn sống trong tình yêu nhưng lại phải

sống một cuộc sống gia đình nặng về trách nhiệm, khao khát yêu đương

nhưng lại thất bại khi bảo vệ tình yêu ấy… Trong cái xã hội khắt khe, với

những lề lối cổ hủ, lạc hậu, với lối suy nghĩ hẹp hòi, nông cạn làm biến đổi

con người ấy, vẫn còn đâu đó những cô gái đẹp đẽ và đáng quý như Hương.

Nhân vật ấy hiện lên trong tác phẩm như một sự cân bằng, như một tia sáng

soi rọi cái không khí u ám của một thời xa vắng mênh mông.

Nếu Hương là nhân vật phụ nữ được Lê Lựu dành nhiều ưu ái, thì với

Tuyết, Lê Lựu lại có cái nhìn thiếu thiện cảm, lạnh lùng và hơi khắt khe.

Tuyết hiện lên trong tác phẩm xấu xí ở cả diện mạo và tính tình, được tác giả

miêu tả gần như là kẻ thù của Sài, như một bóng ma ám ảnh suốt quãng đời

thanh niên của Sài. Tuy nhiên, đọc Thời xa vắng, ta vẫn không thôi suy nghĩ

về nhân vật này. Xét cho cùng Tuyết là người đáng thương hơn đáng trách.

39

Cô cũng như Sài không được quyết định lựa chọn cuộc sống của mình nên cô

cũng là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Cô cam chịu tục lệ “cha

mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, chấp nhận làm vợ một đứa trẻ còn chưa đến tuổi

dậy thì, sống lặng lẽ chịu đựng mọi đắng cay, tủi nhục của người vợ bị chồng

ghẻ lạnh, hắt hủi. Nếu Sài cảm thấy khó chịu và ngột ngạt trong cuộc sống với

người mà anh ghét cay ghét đắng thì ngược lại Tuyết lại rất yêu Sài, và vì quá

yêu Sài nên cả cuộc đời cô cũng chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ, cô đơn trong

tình yêu, bất lực trong cuộc sống hôn nhân gia đình. Tuyết cũng giống như

bao cô gái khác, luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình nhưng lại bị

chồng coi như cái gai trong mắt. Cô luôn phải sống trong nỗi khát khao và cô

đơn của cô gái tuổi mười bảy: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày

như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái căng

đầy lên đã thấy khát khao đến cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm

đăm của con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chạy về”

[26, tr.38]. Có nhiều lúc cô thèm lắm một “câu quát mắng, thèm một quả

đấm, một cái tát, bởi những cái đấy là tục tằn, thô lỗ vẫn được tiếng là có

chồng, chồng đánh, chồng chửi, chồng giận hờn, hắt hủi…”[26, tr.144].

Nhưng đáp lại niềm khao khát đó là sự ghẻ lạnh “hai người gặp nhau như là

gỗ xếp vào đá, không bao giờ nhếch mép nói lấy nửa câu, trông thấy mình

như trông thấy một con hủi anh ấy phải né người quay đi lối khác” [26,

tr.144]. Người phụ nữ với vai trò là người vợ và người mẹ ấy cũng khao khát

hạnh phúc như bao nhiêu người khác nhưng cuối cùng vẫn phải sống trong

cô đơn và bất hạnh: “cả một thời con gái được chồng nhòm ngó đến một lần

rồi nuôi con một mình” để rồi “cứ phải ép mình xuống giường chịu cho qua

hết đêm này đến đêm khác” và “đêm nào cũng phải nghĩ một mình, ôm con

khóc mà nghĩ” [26, tr.144, 145]. Dù có với nhau đứa con nhưng Sài chỉ nhớ

đến con mà quên mất sự tồn tại của người sinh ra nó.

Người phụ nữ như Tuyết lẽ ra nhận được sự thương cảm của nhà văn

40

nhưng Lê Lựu lại có cái nhìn định kiến, thiếu công bằng. Lối suy nghĩ định

kiến cá nhân đã chi phối ngòi bút tác giả khi thể hiện nhân vật này. Đây cũng

là hạn chế trong ngòi bút của nhà văn khi viết Thời xa vắng, nó làm giảm bớt

giá trị nhân văn của tác phẩm.

Suy cho cùng, cả Hương và Tuyết đều là những người phụ nữ đáng

thương. Họ đều không được sống như mình mong muốn. Cái tôi cá nhân,

những khát vọng sống giản dị chân thực của họ bị lấn át, bị trói buộc bởi sức

ép của dư luận, của những người xung quanh, bởi những định kiến chung. Họ

không quyết định được số phận của mình và phải hứng chịu mọi khổ đau. Lê

Lựu qua hình tượng những nhân vật này, đã dấy lên một lời phê phán, lên án

sâu sắc xã hội và lên tiếng kêu cứu và bênh vực con người.

Với Thời xa vắng, Lê Lựu đã thể hiện một nỗi niềm thổn thức về giá trị

con người, ông mang đến cho chúng ta những bài học sâu sắc, giàu tính nhân

bản rằng chúng ta hãy sống là mình, hãy chịu trách nhiệm về bản thân mình

và hãy tự mình quyết định cuộc đời mình. Đừng nên “yêu cái người khác

yêu”, cũng đừng nên đi “yêu cái mà mình không có”. Nói về một thời xa vắng

ấy, Lê Lựu muốn hướng tới một cuộc sống bình thường, một xã hội nhân văn

tôn trọng cá nhân và ở đó con người phải có ý thức sâu sắc hơn nữa về vị trí

và giá trị của mình trong các mối quan hệ gia đình, xã hội và dám chịu trách

nhiệm về nhân cách của mình. Cái thời xa vắng ấy, vì vậy chưa bao giờ là xa

vắng bởi vì giá trị nhân văn của nó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Nếu Thời xa vắng là chuỗi bi kịch của con người bị áp đặt bởi lối tư

duy sai lầm, ấu trĩ thì Chuyện làng Cuội lại là bi kịch của những con người bị

quyền lợi giai cấp, bị chính sách chế độ chèn ép, dồn đuổi đến tận cùng nỗi

khổ đau, mất mát. Chuyện làng Cuội bắt đầu và kết thúc bởi cái chết bất ngờ

và không bình thường của bà Đất, người phụ nữ mà cả cuộc đời là chuỗi

những bi kịch, bi kịch bởi quá giàu yêu thương. Suốt cả cuộc đời bà giành hết

41

tình yêu cho chồng, cho con, câm lặng hy sinh, chịu đủ mọi tai tiếng nhục

nhã… nhưng cuối cùng lại phải chết trong đau đớn vì chính sự tàn nhẫn, sự

phản bội, cạn tình của đứa con mình.

Hồi còn trẻ Đất vốn là một cô gái xinh đẹp, hiền dịu, vừa bước vào cái

tuổi 18 đẹp đẽ, chưa biết thế nào là tình yêu, là hạnh phúc thì cô đã bị Tổng

Lỡi, một kẻ có quyền hành cưỡng hiếp, cuộc đời trước mắt trở thành địa ngục

tối tăm. Một thân một mình, bụng mang dạ chửa cô phải lưu lạc khắp nơi. Dù

cực khổ, tủi nhục như cô vẫn gắng gượng vì đứa con. Sinh ra nó cô phải sống

chui lủi 10 năm trời rồi mới dám về làng. Sau này về làng, Đất gặp và lấy

Kiêm, một chiến sĩ giàu lòng yêu nước. Tưởng như hạnh phúc đã mỉm cười

với cô nhưng cuối cùng Kiêm bị bắt. Đến khi có bầu đứa thứ ba, cô bị bọn

“lòng lang dạ thú” áp dụng luật lệ khắc nghiệt, trói cô lại, lột hết quần áo và

bắt cô đi từ đầu làng đến cuối xã, bị đánh đập, sỉ mắng đến khi ngất đi vì cái

tội chửa hoang. Hòa bình lập lại, vợ chồng đoàn tụ chưa được bao lâu thì biến

cố lại xảy đến với gia đình bà. Chồng bà từ một con người yêu nước, hôm qua

vừa là “người đứng đầu xã” mà hôm nay bỗng nhiên trở thành người phản

bội, kẻ phản quốc, thuộc giai cấp bóc lột. Bà bị mọi người hắt hủi, xa lánh vì

sợ liên lụy. Ngay cả con trai và con dâu cũng không dám lại gần bà. Chồng bị

bắn chết, bà sống trong nỗi đau đớn tột cùng, thời gian trôi đi, khi chồng được

minh oan, đang sống trong hạnh phúc vì có người con đánh giặc giỏi chưa bao

lâu thì bà lại phải chịu nỗi nhục rằng Mai - thằng con trai thứ hai của bà theo

giặc. Đứa con út là Sau vì muốn lấy lại danh dự cho mẹ, cũng hăng hái ra

chiến trường. Thế nhưng hạnh phúc ngắn ngủi tày gang, nỗi đau kế tiếp nỗi

đau, cùng một lúc bà nhận được hai giấy bảo tử của hai đứa con trai mình

trong lúc đang nhận bằng khen bà mẹ chiến sĩ xuất sắc nhất xã Ngoại

Thượng. Bà dù đau đớn vẫn không dám khóc, vẫn phải nói với mọi người

rằng phải noi theo các bà mẹ anh hùng miền Nam, dù con bà đã hy sinh, dù

42

mất mất là quá lớn nhưng bà không gục ngã…

Nhưng chưa hết, cuộc đời bà một lần nữa vì con lại phải mang tiếng ác.

Hiếu, thằng con trai mà bà hết mực yêu thương, vì muốn bỏ vợ nhưng lại sợ

ảnh hưởng đến danh tiếng, địa vị nên bắt bà viết đơn tố cáo con dâu, bắt bà

lạnh nhạt với Xuyến, không chấp nhận một đứa con dâu theo trai, hắn buộc bà

vu oan cho Xuyến xô mẹ chồng ngã gãy chân…để tòa giải quyết cho hắn

được li dị. Một lần nữa người phụ nữ bạc phận ấy lại gánh lấy mọi tội lỗi xấu

xa, bà bị mọi người xa lánh vì “ác độc quá”, vì bà mà gia đình con cái phải

tan đàn xẻ nghé, con mất mẹ, vợ mất chồng.

Khi hòa bình lập lại, con trai bà làm ăn thuận lợi, địa vị danh cao,

những tưởng rằng bà sẽ được bù đắp cho những năm tháng khổ đau, tủi nhục,

nào ngờ bà lại như một kẻ đi ở, cả ngày giúp việc hậu hạ vợ con thằng Hiếu.

Chăm sóc, phục vụ chúng nó ngày đêm nhưng thay vì những lời cảm ơn, bà

chỉ nhận được sự xỉa xói, đay nghiến của đứa con dâu lăng loàn.

Nhưng tất cả những nỗi đau kia chưa hẳn là tột cùng, bi kịch đời bà đẩy

lên cao hơn khi bà bị chính đứa con mình thương yêu nhất phản bội. Cả đời

ngậm đắng nuốt cay, hy sinh, tủi nhục vì nó, xem nó “như ngọn đèn soi sáng

cho cái thân phận nhục nhã” của bà để “nương tựa” mà sống thế mà nó lại

xem bà như cái gai, như vật cản, như là một mối nguy hiểm đe dọa đến cuộc

đời nó, “có ý định làm hại” nó. Những lời nói cay độc, đay nghiến của nó:

“nếu chết được bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ. Bà tưởng tôi cần bà

lắm đấy hả? Nhưng mọi chuyện vỡ lở ra, có chết bà cũng không yên với tôi

đâu” [24, tr.507] như những nhát dao đâm thẳng vào tim bà. Đến nước này bà

không thiết sống nữa. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi bà bấu víu vào để sống đến giờ

này đã bị thằng con chặt đứt, còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau này và bà tìm

đến cái chết như một sự giải thoát khỏi cuộc đời đầy tăm tối. Niềm hy vọng

cuối cùng, cái ngọn đèn tưởng là soi sáng đời bà lại chính là ngọn lửa tàn ác

43

thiêu cháy cả cuộc đời của người đàn bà tội nghiệp.

Suốt cả cuộc đời bà Đất là những bi kịch nối tiếp nhau, nỗi đau này

chưa dứt nỗi đau kia đã đến, tủi nhục này chưa qua, nhục nhã khác đã hành

hạ. Những dòng chữ của Lê Lựu thẫm đẫm nước mắt, như khóc thương cho

số phận người phụ nữ tội nghiệp, đáng thương ấy. Bi kịch của bà Đất là bi

kịch của một người phụ nữ có sắc nhưng thân phận bạc bẽo, giàu tình yêu

thương nhưng chỉ được đáp lại bằng sự vô ơn, bội bạc, là bi kịch của những

nỗi oan do chính xã hội, chính giai cấp tạo ra, là bi kịch của một người mẹ

cam chịu, nhẫn nhục, hết lòng vì con cái nhưng đáp lại chỉ là sự đay nghiến,

hằn học… Bi kịch đời bà thực sự được đẩy lên đỉnh điểm bằng cái chết

“không bình thường” ở đầm Cuội. Nhưng khi chết họ vẫn không cho bà yên

nghỉ mà phải chờ đợi mọi người trong cơ quan và những mối quan hệ khác

của thằng con trai bà viếng thăm. Với cuộc đời đen tối, khổ cực ấy, phải

chăng chỉ có cái chết mới chấm dứt hết những nỗi đau, mới là sự giải thoát

duy nhất? Cuộc đời bi thảm của bà Đất như một lời lên án, buộc tội, tố cáo

đanh thép cái xã hội tàn ác ấy. Cái xã hội mà số phận con người bị chèn ép, áp

đặt bởi những quan điểm giai cấp hẹp hòi, máy móc, chúng đã nhân danh giai

cấp, nhân danh quyền lực để bóp méo các mối quan hệ, hủy hoại những giá trị

đạo đức thiêng liêng nhất. Chúng đã khiến cho con người đánh mất nhân tính

vì nỗi sợ hãi, khiếp đảm những luật lệ, những định kiến cố hữu, ẫu trĩ, giáo

điều, làm cho con người tha hóa, biến chất để rồi họ lao vào hành hạ, chơi xỏ

nhau, giả dối, lừa lọc, phản bội nhau. Cuối cùng những người hiền lành, chất

phác lại trở thành nạn nhân “xấu số” phải gánh chịu hàng ngàn nỗi đau

thương, tủi nhục.

Vẫn một tấm lòng không thôi day dứt trước số phận những con người

bất hạnh, khổ đau, vẫn bằng cảm hứng bi kịch xuyên suốt, Lê Lựu một lần

nữa thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Núi, nhân vật trung tâm của

44

tác phẩm Sóng ở đáy sông. Núi thuộc kiểu người lầm đường lạc lối vì thiếu

vắng tình thương, sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình và xã hội nên từ một con

người hiền lành, học giỏi, sống có trách nhiệm với các em trở thành một tên

đầu trộm đuôi cướp, ra tù vào tội hết lần này đến lần khác.

Sinh ra là đứa con của vợ lẽ, hiểu rõ thân phận mình, Núi luôn tỏ ra là

đứa con ngoan, chăm chỉ và học giỏi. Nhưng vì là những đứa con “hạng hai”

nên hắn và các em ngay từ nhỏ đã phải nhận sự đối xử thiếu công bằng của

người cha. Đến khi mẹ chết, lại bị người cha cắt bớt chỉ tiêu lương thực ít ỏi

hàng tháng, vì thương các em, Núi đành bỏ học đi làm thuê kiếm tiền. Khi bị

người cha phát hiện anh đã bỏ học và đang bị tạm giam giữ tại đồn, ông đã

không cần suy nghĩ, quyết tâm từ con, cắt đứt mối quan hệ cha con. Cánh cửa

gia đình hoàn toàn khép lại, nơi bấu víu mỏng manh cuối cùng bị cắt đứt,

không còn chỗ dựa, Núi tự buông mình theo dòng đời khắc nghiệt. Khi chân

đã nhúng chàm thì khó lòng rút ra được, hoàn cảnh ấy càng ngày càng đẩy

Núi trượt xa hơn trên con đường tội lỗi. Hắn trở thành kẻ ăn cắp, lợi dụng

lòng tốt của mọi người để kiếm ăn, hắn ra tù vào tội như cơm bữa.

Nhưng cuộc đời hắn cũng rất đáng thương, ngay khi chạm đến ngưỡng

cửa tình yêu hắn đã bị những quan niệm, định chế khắt khe đè bẹp, hắn phải

từ bỏ tình yêu với người “cô” có “họ hàng tám đời”. Lề thói cổ hủ phong kiến

không cho phép họ đến với nhau, không đủ sức mạnh chống chọi với dư luận,

với điều tiếng, cô gái mang theo giọt máu của hắn bỏ xứ ra đi. Khi người mẹ

qua đời, mọi gánh nặng đè lên vai hắn, một cậu học trò lớp 9 đang ở tuổi học,

tuổi chơi. Hắn bỏ học kiếm tiền nuôi em, rồi vì quá bí bách, túng quẫn, lại

không nơi bấu víu, nương tựa hắn trở thành kẻ ăn cắp. Khi có ý định xây đắp

gia đình, tu chí làm ăn, hắn lại lấy phải người vợ “giang hồ”, sống với nhau

không lâu ả bỏ hắn đi theo trai. Thời gian đó hắn gặp Hồng, người phụ nữ

hiền lành, đảm đang, chăm sóc hắn tận tình. Ngỡ rằng cuộc đời đã đổi khác,

45

hạnh phúc hình như đã gõ cửa cuộc đời hắn thì ả giang hồ lại bế con về nhận

cha. Hắn lại đánh mất hạnh phúc, quay về sống những ngày tháng tồi tệ, rồi

không lâu người vợ bỏ hắn và đứa con đi theo trai, để hắn một thân một mình

“gà trống nuôi con”, đứa con thiếu sữa mẹ, lại không có ăn ốm lên ốm xuống,

hắn đi khắp nơi tìm mẹ cho con, vì con, hắn không muốn nhưng vẫn phải làm

cái nghề tán tận lương tâm, đi khắp nơi trộm cắp. Cuộc đời hắn hết lần này

đến lần khác bị hoàn cảnh xô đẩy, chèn ép. Khi hắn có ý định ngoi lên với hy

vọng nhỏ nhoi thì lại bị dập tắt phũ phàng, khi gia đình, mà tiêu biểu là bố

hắn, nơi bấu víu cuối cùng lại giơ chân đạp phăng hắn vào cái xã hội bẩn thỉu

một cách không thương tiếc. Thử hỏi một con người như hắn còn biết làm gì

trước hoàn cảnh đó. Sức người là hữu hạn, sự chống chọi với thực tế ngày

càng yếu ớt, mong manh, hắn không thể vượt qua được và hắn hư hỏng như là

một điều tất yếu, hiển nhiên trong cái xã hội này. Rõ ràng nhân tố làm cho

cuộc đời Núi bước vào con đường lầm lạc, biến số phận hắn trở nên trớ trêu

như vậy nguyên nhân chính là từ người bố tàn nhẫn và nhân tố phụ là hoàn

cảnh xã hội lúc bấy giờ.

So với Thời xa vắng thì Sóng ở đáy sông nhẹ nhàng hơn khi soi chiếu

số phận con người qua góc độ gia đình với những biến cố, thăng trầm của xã

hội. Trong cái môi trường sống mà tình cảm trở nên khô cứng, người ta chỉ

biết đến những quy tắc, định chế cứng nhắc thì con người biết nương tựa vào

đâu. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi đáng ra phải chất chứa tình thương

để đùm bọc, chở che cho nhau lại cạn tình, nhẫn tâm, cự tuyệt nhau, cha mẹ

đáng ra phải có trách nhiệm, thương yêu con cái lại lạnh lùng cắt đứt, viết đơn

xin toàn xử tội “tù chung thân” khi con phạm lỗi lầm…Trong cái xã hội ấy,

con người với sức chống chọi yếu ớt đã sa chân vào con đường lầm lạc, họ lợi

dụng nhau, lừa dối và chà đạp nhau để sống, để tồn tại. Đó là hệ quả, là tất

46

yếu mà thôi.

Trở lại với những bi kịch gia đình, trong Hai nhà, Lê Lựu đã miêu tả

một cách khá chân thực những nghịch cảnh, những oái ăm khó lường của

cuộc sống. Đó là bi kịch trong hôn nhân gia đình ở thời kỳ mà con người phải

đối mặt với cuộc sống mưu sinh nghiệt ngã, hạnh phúc dường như rất mỏng

manh, dù họ cố gắng thế nào vẫn không tránh được sự đổ vỡ. Tâm là một nhà

báo yêu nghề nhưng vẫn phải cố viết những bài báo “không đăng thì thiếu”

mà đăng lên thì “nhạt như nước ao bèo”, vì hầu như thời gian của anh dành

hết cho những việc nhà vặt vãnh, anh chỉ có thể ngồi vào bàn viết khi đã hoàn

thành nghĩa vụ mà vợ giao là hứng nước, giặt quần áo, dọn dẹp nhà cửa…

Sống hết mình vì gia đình nhưng cuộc đời chỉ trả lại anh đầy những khổ đau,

đổ vỡ. Anh không hề biết rằng vợ anh luôn cặp kè, ăn nằm với thằng đàn ông

khác và những đứa con anh nuôi nấng, chăm sóc đều không phải là con của

anh cho đến khi anh đọc được quyển nhật ký của vợ. Nhưng sau phần vì quá

yêu thương con và phần nghĩ vợ đã hối hận vì sự phản bội thì anh lại quay lại

sống với gia đình. Vì mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn nên anh xa

gia đình vào Sài Gòn làm thuê kiếm sống, chắt chiu từng đồng với ý tưởng tốt

đẹp rằng sẽ sửa nhà để vợ con đỡ phải khổ sở trong căn nhà lụp xụp. Thế

nhưng cuộc đời là một dãy những sự bất ngờ, anh trở về trong tình trạng tinh

thần sụp đổ hoàn toàn khi hay tin vợ mình ngủ với bác Địa - người bạn thân

chí cốt mà anh rất mực tin tưởng và quý trọng.

Với Hai nhà, Lê Lựu đã đi sâu khai thác hiện thực đời sống thành thị

với những vấn đề gai góc, đầy biến động. Nếu như ở Thời xa vắng, quãng đời

bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế quan liêu

bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở Hai nhà, phạm vi và cấp độ

phản ánh hiện thực được mở rộng hơn, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời

thiếu thốn và khó khăn, Lê Lựu đã nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã

47

hội. Lối sống ích kỷ, thực dụng đang dần hình thành, nó tấn công mạnh mẽ

vào tế bào gia đình làm tan rã nét đẹp gia đình truyền thống xưa nay. Qua tác

phẩm này, Lê Lựu không chỉ phân tích, lý giải sự tác động của đời sống xã

hội đến số phận con người, không chỉ là sự phê phán sự tha hóa, trượt dốc của

con người, không chỉ cảnh báo về nguy cơ đổ vỡ và suy thoái đạo đức gia

đình mà ông còn thấm thía được những hạn chế, nhẫm lẫn của cả một thời.

Qua những tác phẩm trên, Lê Lựu đã vạch ra được căn bệnh và hạn chế

của cả một thời. Cái thời mà ý thức cá nhân bao giờ cũng được đặt sau tinh

thần tập thể, cá thể dường như không được tồn tại mà tất cả phải sống vì đoàn

thể, vì dư luận, ở đó con người chỉ tôn sùng ý chí, dùng ý chí chủ quan để áp

đặt người khác, không cho phép ai vượt khỏi cái khuôn đã đúc sẵn. Với

những bi kịch đau buồn, Lê Lựu đã chỉ ra rằng chính những quan niệm,

những lối tư duy ý chí đó đã trở thành sợi dây trói buộc tinh thần con người,

triệu tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của họ và gây ra bi kịch cho biết

bao số phận.

2.2.1.2. Bi kịch do bản thân tự đánh mất chính mình

Lê Lựu khi xây dựng kiểu nhân vật bi kịch, ông không hoàn toàn đổ lỗi

do hoàn cảnh mà cho rằng con người rơi vào bi kịch một phần do bản thân họ

tự đánh mất chính mình. Ông chỉ ra căn nguyên sâu xa thuộc về yếu tố chủ

quan con người. Từ đó ông muốn con người phải chịu trách nhiệm về nhân

cách và cuộc đời mình.

Những số phận như Sài, như Tâm, như Núi hay bà Đất, qua cái nhìn

sâu sắc của Lê Lựu, cuộc đời họ là những bi kịch và những bi kịch đó không

chỉ do hoàn cảnh, do xã hội chi phối mà còn do chính bản thân họ. Họ không

có chính kiến, họ sống và phụ thuộc vào người khác, để người khác giật dây

và kéo đi, họ không đủ mạnh mẽ để quyết liệt chống trả, họ không phản ứng

để chống lại hoàn cảnh nên cả cuộc đời họ cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm

48

khác, chịu nỗi đau này đến nỗi đau khác.

Khi nhắc tới nhân vật Sài, chúng ta nghĩ ngay đến bi kịch của một kẻ

“một đời lầm lẫn, một đời thất bại”. Bi kịch đó một phần do hoàn cảnh nhưng

về phía mình, chính Sài lại quá nhu nhược, thụ động, không đủ dũng cảm để

chống lại hoàn cảnh. Giai đoạn đầu đời, Sài đã không dám chống lại sự áp đặt

của gia đình, không dám vượt qua dư luận, không dám phá bỏ những ràng

buộc để sống với con người thật của mình mà phải sống hai cuộc đời giả và

thật. Đến khi gặp Hương, Sài bị giằng xé giữa một bên là bổn phận, trách

nhiệm với một bên là khát vọng hạnh phúc của đời mình. Cuối cùng vì không

đủ bản lĩnh, không dám đấu tranh để đến với tình yêu, anh đánh mất hạnh

phúc thực sự của đời mình. Anh hèn nhát, không dám đối mặt, không dám

phản kháng, hay nói đúng hơn sự phản kháng ở anh quá yếu ớt. Muốn trốn

khỏi cuộc hôn nhân với Tuyết, người mà anh ghét cay, ghét đắng, Sài tìm đến

quân ngũ. Nhưng trong quân ngũ anh vẫn không thể quên được Hương. Nhận

được thư Hương, biết ơn tình yêu của cô, vậy mà Sài vẫn không dám lên

tiếng, mặc dù anh biết đó là việc “hèn nhát” và “ngu xuẩn”. Sống tại đơn vị,

Sài cố gắng rèn luyện, phấn đấu, Sài được đi học đại học, được bồi dưỡng để

có thể trở thành đảng viên…và đến đây một lần nữa Sài lại không vượt khỏi

“nếp nghĩ tập thể” là phải “yêu vợ”, phải gắn bó với vợ, anh nghe lời cấp trên

và “yêu vợ” nhưng cuối cùng vẫn không được kết nạp Đảng vì lí lịch nhà vợ

không trong sạch. Điều đó càng làm anh chua xót, chán nản. Sau này, khi thoát

khỏi cuộc hôn nhân với Tuyết, Sài choáng ngợp trong tự do được làm chủ cuộc

đời mình. Anh gặp Châu một cô gái thành thị xinh đẹp, anh lại gục gã và bị đắm

chìm trong tình yêu mà sau nó là sự lừa lọc, giả dối mà không hề hay biết. Sống

với Châu, anh để vợ lấn át, xem thường. Mặc dù nhiều lúc anh nhận ra “mình

không còn là mình. Xử sự việc gì cũng không phải là mình, vì mình, tự mình

quyết định. Tất cả là của cô ta, phải làm theo ý cô ta” [26, tr.243], anh tìm cách

49

biện bạch cho sự nhu nhược của mình với một tư tưởng rất AQ “nhưng yêu

nhau phải biết làm thế nào”, “thành ra anh cứ phải cố” [26, tr.243], và hết lần

này nhường nhịn đến lần khác chịu đựng, một lần nữa anh lại đánh mất chính

mình. Dù cuộc hôn nhân này là do anh lựa chọn nhưng anh vẫn “có cảm giác

như mình đang cố sức leo cây cứ ngửa mặt cố lên mãi đến lúc tưởng rằng chỉ

cần giơ tay ra là hái được quả mới ngớ ra rằng nó vẫn còn mờ xa mà mình

thì kiệt sức, hết hơi, thụt xuống sợ cười chê mà leo lên nữa thì không đủ sức”

[26, tr.271]. Cuối cùng khi trở về làng Hạ Vị với hai bàn tay trắng anh mới

thực sự thấm thía nỗi đau của cuộc đời mình với hai từ “giá như”, giá như anh

“cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế,

không chiều theo ý ai, sống hộ ý định của người khác” [26, tr.332] thì đâu đến

nỗi. Đến giờ anh mới nhận ra mình phải “bình tĩnh hơn”, “tỉnh táo hơn” để

“không phải lao đao”, “không cảm thấy hụt hơi” như những năm qua.

Có thể nói cuộc đời Sài là sản phẩm của một hoàn cảnh đáng buồn, đầy

bất công phi lý thời quá khứ. Hoàn cảnh khiến Sài phải tự bào mòn, gọt đẽo

mọi cá tính của mình cho vừa với khuôn mẫu chung của cộng đồng xã hội,

biến Sài thành kẻ nhu nhược, hèn nhát. Tính cách hèn nhát, nhu nhược của

anh một phần do sự “bó buộc của hoàn cảnh”, phần nữa xuất phát từ căn

nguyên sâu xa là tâm lý cố hữu của người nông dân làm thuê “sẵn cơm thì ăn,

sẵn việc thì làm, chỉ hong hóng chờ chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán,

định đoạt một việc gì” và “không dám cựa mình giẫy giụa, chỉ hong hóng chờ

đợi, thấp thỏm cầu may” [26, tr.182]. Với nhân vật Sài, Lê Lựu đã xây dựng

thành công một hình tượng điển hình sống động, sâu sắc, có sức ám ảnh to

lớn đối với mọi thế hệ độc giả.

Sau Thời xa vắng, Lê Lựu mang đến cho bạn đọc nhân vật trí thức Tâm

trong Hai nhà như một bản sao của Sài. Tâm là một con người thật thà, tốt

bụng, nhiệt tình nhưng khuyết điểm lớn nhất của anh là cả tin, nhu nhược. Vì

50

nhu nhược nên ngay từ đầu cuộc đời anh đã trở thành bi kịch của người đổ vỏ

cho những kẻ ăn ốc mà không hay. Khi đọc những dòng nhật ký của Linh

Anh, anh cảm thấy “như một lưỡi dao cứa vào ruột anh trong những đêm

khuya vắng” và “anh không tự biết là mình còn đang sống hay đã chết”. Có

những đêm nhìn vào “đám tóc cứng xanh, dầy bộn” của đứa con so với mái

tóc “cum cúp, lưa thưa mềm” của mình, “anh lại thấy như đang nhìn những

sợi dây thắt vào cổ mình làm cho hơi thở nghẽn lại” [25, tr.185]. Nhưng anh

không đủ dũng khí để chấm dứt với Linh Anh. Dù tất cả bạn bè đều khuyên

ngăn anh “phải bỏ thôi” nhưng “nó khốn nạn ở chỗ anh rất thích sống bằng

những ấn tượng và kỷ niệm của quá khứ. Cái quá khứ của Linh Anh là một cô

bé xinh, có duyên, cả mắt và miệng cười như một ngọn lửa sáng bừng lên…

lại thông minh, hóm hỉnh” [25, tr.229]… tất cả làm anh liêu xiêu và cuối cùng

anh lại “câm lặng ngậm bồ hòn làm ngọt nuốt nỗi ấm ức vào ngực mình để

bắt đầu chịu đựng những chuỗi ngày nặng nề căng thẳng” [25, tr.236]. Rồi

anh lại nhận “sự âu yếm, ban phát của cô ta như những kẻ ăn mày nhận của

bố thí” [25, tr.120]. Niềm tin mù quáng và sự tha thứ rộng lượng của anh đã

đặt không đúng chỗ, lại một lần nữa anh bị vợ phản bội. Sự phản bội này còn

tàn ác và đau đớn hơn. Cái bản tính lẳng lơ, thói quen buông thả của Linh

Anh vẫn không hề thay đổi, khi Tâm vào Sài Gòn kiếm sống, ở nhà cô ta lại

ngủ với bác Địa, người bạn mà Tâm xem như anh em ruột thịt. Tâm càng

chăm sóc, nín nhịn vợ thì cô ta càng lăng loàn, anh càng tin tưởng, thân thiết

với người hàng xóm thì càng tạo cơ hội cho ông ta ngoại tình với vợ mình, và

đau đớn hơn đứa con của một người bạn thân mà anh hết mực yêu quý lại

chết oan trong cái trò gian dâm của vợ anh. Như vậy, bi kịch của Tâm không

chỉ là bi kịch đánh mất mình, mà còn là bi kịch của con người bị phản bội.

Xót xa hơn là chính những người mà anh gần gũi, thương yêu và trân trọng

nhất là chính là những kẻ phản bội tàn nhẫn nhất đối với anh. Chính sự nhẹ dạ

51

cả tin của anh đã tạo điều kiện cho những kẻ cơ hội lợi dụng, chà đạp. Chính

sự dùng dằng, không dứt khoát, chính sự mê muội thiếu tỉnh táo đã đẩy anh tự

mình dẫm vào hố sâu bi kịch cuộc đời mình đến lần này đến lượt khác. Sự trả

giá cho niềm tin mù quáng của anh quả thực là quá đắt.

Số phận bi đát của bà Đất (Chuyện làng Cuội) cũng tương tự như Tâm,

hay Sài. Cuộc đời đầy tủi nhục, bất hạnh, khổ đau của bà, phần vì do định

kiến, chế độ xã hội, phần cũng vì bản tính cam chịu, nhẫn nhục, ngây thơ, cả

tin của bà gián tiếp gây ra chính bi kịch của cuộc đời bà. Khi bị tổng Lỡi hãm

hiếp nhưng bà không đủ tỉnh táo để nhận ra bản chất của hắn mà vẫn ngây thơ

tin vào lời hứa suông sẽ được “làm bà bốn” của hắn, để rồi bà bị đẩy đi xa,

phải một mình nuôi con và sống trong đau đớn, tủi nhục. Khi anh Kiêm,

chồng bà bị vu oan, nếu bà dám thẳng thắn nói cho mọi người hiểu rằng

chồng mình vô tội, rằng cái nhà tổng Lỡi xây cho mẹ con bà là vì bà đang

nuôi đứa con của hắn thì chồng bà đã không phải chết trong oan ức. Nếu bà

không hy sinh mù quáng cho đứa con trai của mình, không chiều theo ý nó,

vu oan cho vợ nó xô ngã gãy chân bà thì bà đâu bị mang tiếng ác, bị mọi

người xa lánh. Đến khi bị chính đứa con phản bội, niềm hy vọng cuối cùng bị

dập tắt, bà tìm đến cái chết. Cả cuộc đời bà là bi kịch của lối suy nghĩ, tư duy

sai lầm. Chính bản tính nhu nhược, chính sự yếu hèn, nỗi khiếp sợ trước

những định kiến gay gắt đã khiến bà không có đủ bản lĩnh để nói lên sự thật,

thậm chí sống sai sự thật để rồi biến mình thành kẻ tàn nhẫn, kẻ độc ác trong

mắt mọi người. Cái chết của bà thực ra cũng là sự trốn chạy trước thực tại, cái

thực tại mà ở đó bà đã trở nên đuối sức, không thể gồng mình chống chọi

được nữa. Nhưng với cuộc đời đầy bi kịch của con người tận cùng khổ đau

này, có lẽ cái chết chính là sự giải thoát duy nhất.

Nhân vật Núi trong Sóng ở đáy sông cũng rơi vào bi kịch tự đánh mất

mình. Từ một đứa con ngoan, học giỏi hắn trở thành một tên ăn cắp chuyên

52

nghiệp và nguyên nhân chính có lẽ chính là người cha tàn nhẫn, máu lạnh. Dù

rằng cuộc sống khắc nghiệt, dù rằng hắn sống thiếu thốn tình cảm của người

cha tàn ác nhưng nếu như hắn mạnh mẽ hơn, hắn chịu khó và kiên nhẫn hơn,

hắn quyết tâm hơn thì chắc rằng cuộc đời hắn sẽ không rơi vào bi kịch đau

buồn như thế. Trượt dài trên con đường tội lỗi, nhưng hắn không bị cự tuyệt

như Chí Phèo, mà bên cạnh hắn vẫn có những người lương thiện, yêu thương

hắn như bà tổ trưởng dân phố, anh công an, anh dân phòng và nhiều người

dân khu phố…ban tình thương và sự quan tâm cho hắn, mong hắn quay về

làm người lương thiện. Nhưng “ngựa quen đường cũ”, thói quen trộm cắp đã ăn

sâu vào xương tủy, đâu có dễ dàng tẩy rửa. Vì hắn lười nhác, không đủ nghị lực

vượt lên lòng tham của chình mình, và cũng vì hắn ngại phải bắt đầu lại cuộc

sống, vì “đơn giản là nó nặng nhọc, vất vả nên hắn không quen. Mà lại ít tiền.

Làm hùng hục cả tháng có khi không bằng chớp mắt một cái đã có số tiền gấp

hai ba chục lần như thế” [27, tr.217]. Với tư tưởng ăn sẵn, nhác lao động, lại

không đủ quyết đoán để chiến thắng hoàn cảnh, hắn cứ thế dần dần tự đánh mất

chính mình và suốt cuộc đời cứ trượt dài trong vũng bùn tội lỗi.

Mỗi nhân vật trong tác phẩm của Lê Lựu là một mảnh đời riêng nhưng

lại có sức khái quát cao về tấn bi kịch đa dạng của con người trong xã hội

mới. Với cách lý giải nguyên nhân dẫn đến bi kịch con người ở hai khía cạnh

là khách quan và chủ quan, với sự xót thương, đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã

nhìn thẳng vào những đau khổ, bất hạnh của con người, những bi kịch đầy rẫy

trong cuộc sống. Không nhằm mục đích to tát là chỉ ra giải pháp giải quyết bi

kịch nhưng ông qua tác phẩm của mình đã giúp người đọc ý thức hơn về ý

nghĩa của cuộc sống và sống có trách nhiệm với chính mình.

Không chỉ dừng lại ở vấn đề bi kịch cá nhân, ngòi bút của Lê Lựu còn

hướng tới một kiểu dạng con người khác. Đó là hình ảnh con người bị tha

hóa. Chân dung của loại người này cũng hiện lên hết sức chân thực và hấp

53

dẫn.

2.2.2. Nhân vật tha hóa

Tha hóa được hiểu một cách đơn giản có nghĩa là sự biến chất đi thành

xấu. Từ đó ta có thể hiểu một cách khái quát, tha hóa là sự chuyển hóa của

những hiện tượng và quan hệ nào đó thành một cái gì khác với bản thân nó

theo chiều hướng xấu đi. Tìm kiểu kiểu nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết Lê

Lựu chúng tôi dựa vào cách hiểu trên về sự tha hóa.

Tha hóa là một hiện tượng dễ thấy trong cuộc sống con người, nhất là

trong xã hội hiện đại, khi mà những giá trị vật chất có xu hướng lấn át giá trị

tinh thần. Trước sự cám dỗ của những giá trị vật chất ấy, nếu con người

không đủ bản lĩnh thì sẽ rơi vào vòng xoáy của nó, thỏa hiệp với nó, từ đó

biến chất và đánh mất mình lúc nào không hay. Đối với tiểu thuyết thời kỳ đổi

mới, kiểu nhân vật tha hóa cũng đã xuất hiện khá nhiều. Ta có thể kể đến

Năm Thành trong Ba lần và một lần, Huấn trong Vòng tròn bội bạc, Ba

Sương trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, hay Lại, Cầm, Dương trong Đám

cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Thủ trong Mảnh đất lắm

người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường…Trong tiểu thuyết của Lê Lựu

kiểu nhân vật này cũng xuất hiện khá phong phú qua cái nhìn có tính chất phê

phán trào lộng sâu sắc.

2.2.2.1. Tha hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc

Căn bệnh duy ý chí là căn bệnh tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong

quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn quy luật khách quan, nhận thức sai

lầm, xa rời thực tế. Những sai lầm này thể hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động

thực tiễn của con người, làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển.

Lê Lựu qua những sáng tác của mình đã thể hiện thái độ phê phán gay

gắt cái lối tư duy bảo thủ và thói vị kỉ, suy nghĩ lầm lạc ấy. Những kẻ nhân

danh gia đình, đoàn thể, nhân danh xã hội áp đặt suy nghĩ của mình cho người

54

khác, bắt người khác phải yêu cái mình yêu, ghét cái mình ghét, thậm chí tự

cho mình cái quyền quyết định cuộc sống của người khác, áp đặt họ phải vo

tròn, gọt đẽo bản thân trong lối tư duy, suy nghĩ hạn hẹp, cứng nhắc, giáo điều

của mình.

Xây dựng kiểu nhân vật này, Lê Lựu đã mang đến cho người đọc một

hình ảnh mang tính chất điển hình, hình ảnh ông Đại trong Sóng ở đáy sông.

Ông là kẻ luôn tạo cho mình vỏ bọc bề ngoài danh giá, trí thức nhưng thực

chất bên trong lại hết sức bỉ ổi. Ông luôn áp đặt, bắt mọi người trong gia đình

phải sống theo cách sống phi lí, giả tạo đó. Nhưng con người “danh giá” ấy,

qua hành động của mình lại dần lộ ra bản chất xấu xa. Khi vợ ở cữ, “sự dư

thừa trong cơ thể ông không thể kìm hãm trước con ở 19 tuổi có đôi má như

đốt cháy người khác. Cả bộ ngực đang vút lên, đôi môi đang thời bừng dậy

rừng rực đốt hết sự lạnh lùng của ông”, và đến khi “nguy hiểm đang dầy lên

trong cơ thể cô, ông cho cô 20 đồng để về quê” [27, tr.20, 21]. Nhưng sự

không thành, ông chấp nhận lấy con ở thấp kém làm vợ hai. Dẫu vậy thì cái

danh giá của gia đình ông không thể vì thế mà bị hủy hoại được, “thành ra,

cái “danh giá” của người có học thức cao sang ông phải giữ, để riêng ra,

ông để nó ở trên tầng trên, còn cái hạ đẳng tầm thường, lúc “cần đến” vào

giữa đêm tối vắng vẻ không ai nhìn thấy, ông mới ban xuống” [27, tr.21].

Ông có một điểm rất đặc biệt, đó là cái gì ông cũng biết trước, “biết

mà”. “Tôi đã biết trước là nó sẽ như thế”. “Bao giờ tôi cũng biết trước chuyện

này rồi sẽ đi đến đâu” và “dù việc to hay nhỏ, nói gì, làm gì thì ông luôn luôn

là người có lý. Mà cái lý của ông thì chỉ có từ đúng trở lên” [27, tr.238]. Đến

khi nhận được tin Núi, con trai ông bị bắt thì ông cũng cho rằng “điều đó tôi

đã biết trước từ lâu, tôi đã nghĩ như thế”. Nhưng sự thật đâu phải vậy, ông

không chịu hiểu rằng cái căn nguyên sâu xa khiến con ông lâm vào con đường

tù tội vì trộm cắp phần lớn là do ông. Một người cha quá keo kiệt, khắt khe,

55

vô tâm và thiếu trách nhiệm. Vợ mất, thay vì dành nhiều tình thương và sự

quan tâm cho con cái thì ông lại đi cắt bớt trợ cấp vốn đã ít ỏi hàng tháng cho

các con. Núi vì thương em, vì không có tiền lo cho các em nên đã phải bỏ học

kiếm sống, rồi dần dần trượt ngã, trở thành tên đầu trộm đuôi cướp. Biết được

tin này, ông đã không cần suy nghĩ lấy một giây quyết định viết đơn từ con,

“từ giờ phút này trở đi tôi không công nhận nó là con tôi nữa” [33, tr.98], đã

vậy ông còn trút bỏ mọi trách nhiệm giáo dục con cho xã hội “xin các đồng

chí giáo dục cháu. Còn gia đình chúng tôi từ nay coi như không có cháu” [27,

tr.99]. Ông còn tự bao biện cho sự lạnh lùng, vô trách nhiệm của mình, xem

việc mình từ nó là do nó gây ra, chính nó đã lừa dối ông, nên “ông đã không

là không. Nhất định là không bao giờ ông nhận nó”, “chấp nhận nó để rồi cả

đời ông bị nó lừa à? Nó với ông chỉ có cách: còn người này thì không còn

người kia hoặc ngược lại. Không thể bố bố con con gì nữa” [27, tr.101]. Ông

rũ sạch trách nhiệm, xem như nó với ông không có một mối liên hệ tình cảm

gia đình nào. Nó hư hỏng là do nó chứ đâu phải lỗi gì ở ông. Bởi ông đâu có

dạy nó “mày hãy đi ăn cắp mà kiếm sống”. Nó là kẻ “đầu trộm đuôi cướp” là

vì chính nó muốn như vậy. Do đó việc viết ngay đơn không nhận nó của ông

là việc “đúng đắn” và “chính xác”. Nhưng là một người biết tính toán trước

sau, ông “đã nghĩ cách đề phòng” những “kẻ xấu bụng, không ưa ông” với

một cách hết sức “mĩ mãn và không còn kẽ hở”, đó là “ông sẽ chọn đúng ngày

mưa bão để về quê. Họ hàng bên ngoại nhìn thấy ông mò mẫm đi trong mưa

bão, lặn lội đêm hôm về với các con thì có ai dám bảo ông là lạnh nhạt vô

trách nhiệm với con cái được nữa không” [27, tr.103]. Hành động và đầu óc

xảo quyệt của ông, càng bộc lộ cái bản chất xấu xa, vô trách nhiệm đằng sau

bộ mặt “danh giá” giả tạo. Cái tư duy bảo thủ, cái suy nghĩ vô lý cho đến chết

ông cũng không thay đổi, ngay cả cái suy nghĩ về đứa con “loại hai” của

mình. Khi con ông lại phạm sai lầm, ông còn nhẫn tâm hơn lần trước. Đâu chỉ

56

dừng lại ở tờ giấy từ con, lần này ông tàn ác ban hẳn cho con mình cái bản án

chung thân trong khi tội trạng của nó chỉ đáng mấy năm tù giam. Ông giải

thích việc làm đó cũng có “cái lý” của ông là để nó khỏi “đục rỗng cái xã hội

tươi đẹp của chúng ta”. Nhưng thực chất là để ông khỏi bị nó làm phiền và hủy

hoại danh dự của ông lần nữa. Nhưng dù có biết trước, có tính toán cặn kẽ đến

đâu thì “người tính cũng không bằng trời tính”, cuối cùng ông cũng rơi vào bi

kịch do chính mình tạo ra. Ông bị đột tử vì nhận ra cái điều không nằm trong khả

năng “biết trước” của mình. Đó chính là hình phạt xứng đáng cho con người

lạnh lùng, vô cảm, thậm chí phi nhân tính ấy. Đáng tiếc là khi ông ý thức được

sự quý giá của tình phụ tử, của tình cảm gia đình thì đã quá muộn.

Vẫn là kiểu nhân vật tha hóa do lối tư duy ý chí, bảo thủ, ta lại bắt gặp

hình ảnh nhân vật Đại tá Hoàng Thủy trong Đại tá không biết đùa. Ông là

một người cha tốt, hết lòng vì sự trưởng thành của con cái, không bao giờ

quên trách nhiệm răn dạy, bảo ban con mình theo con đường mà ông đã vạch

sẵn. Nhưng ông lại là người rất bảo thủ, đơn giản đến cứng nhắc, thô bạo,

luôn nhìn nhận, xử lý vấn đề theo một khuôn mẫu định sẵn, vì vậy cuối cùng

ông đã thất bại khi lấy mình là thước đo chân lý, khi áp đặt ý tưởng nhân danh

“thiện chí”, “có trách nhiệm” lên người khác một cách “quan liêu vất vả”.

Vì sợ con theo bạn bè hư hỏng, nên ông quyết định rèn luyện con theo

cách của mình. Ông yêu cầu công an huyện cho Tùy, con trai ông đi tập trung

cải tạo, tự xin hoãn đi học đại học ở nước ngoài để làm công nhân, bắt con

phải từ bỏ tình yêu với cô gái đã từng yêu một người khác vì cho rằng “người

ta đã bỏ được người thứ nhất thì cũng dễ dàng bỏ đến người thứ một trăm.

Thói quen mà. Nó giống như cái bậc thềm nhà mình ấy. Hồi nhỏ khi con đã

bỏ qua được một lần thì những lần sau có gì là cản trở nữa” [22, tr.26]. Cứ

thế, hết lần này đến lần khác, ông áp đặt con mình, bắt nó làm theo ý mình,

thay nó quyết định mọi chuyện và đương nhiên ông nghĩ những gì ông làm

57

đúng và tất cả là vì con ông, vì mong muốn cho nó thành người đúng nghĩa,

thành người tốt, có ích cho tổ quốc, cho xã hội. Nhưng chính lối suy nghĩ lầm

lạc, bảo thủ của mình, ông đã tự đẩy mình vào bi kịch. Ông sai lầm từ quan

niệm đến phương pháp giáo dục con cái, buộc con cái phải sống theo cách của

mình, nhưng con trai ông dù làm theo ý ông nhưng vẫn đeo đuổi những ý định

riêng, ngầm chống đối lại ông, nhằm bảo vệ tình yêu đôi lứa do anh ta tạo

dựng. Khi con ông bị mất tích không rõ lý do, với nhiều tin đồn không biết

đúng sai nên đầu ông cứ quanh quẩn với nhiều ý nghĩ. Có khi nghe tin đồn

con mình đã chết ông vẫn cứ cố che giấu “để chứng tỏ mình là con người

vững vàng sắt đá”, “khi gặp đau thương mất mát ông luôn tỏ ra là người có

bản lĩnh, không hề nao núng trước những sự cố mà ông cho là thử thách”, vì

“ở đời thử thách càng lớn thì càng chứng tỏ người bản lĩnh cao”, “đó là thói

quen của người tiến lên sự cao thượng, khác người thì dễ, quay lại sự bình

thường của chính mình, ở cái điểm xuất phát ban đầu thì vô cùng khó”, bởi

“ông đã quen nói những lời `to tát nghiêm trọng” nên bây giờ “bộc lộ tình

cảm nhỏ nhoi yếu đuối như người bình thường là rất dễ trở nên trơ trẽn,

gượng gạo” [22, tr.86]. Nhưng với ông thà con ông hy sinh vì danh dự, vì tổ

quốc còn hơn là sống với giặc gấp nhiều lần. Dẫu biết rằng, tính cách và lối

suy nghĩ có phần cứng nhắc của ông không phải là xấu, nó được hình thành

trong những năm tháng chiến tranh, đánh giặc. Sự nghiêm túc, quyết đoán là

điều cần thiết khi cầm súng đánh kẻ thù nhưng ông lại áp dụng nó một cách

máy móc, điều này hoàn toàn không phù hợp khi răn dạy con cái. Mỗi người

đều có những suy nghĩ, những mục đích và lý tưởng riêng và con trai ông

cũng vậy. Thế nhưng, dù là một người chiến sĩ luôn đúng đắn khi quyết đem

thân mình bảo vệ đất nước nhưng ông lại sai lầm khi áp đặt tư tưởng nghiêm

khắc, kỉ cương lên người con trai của mình. Ông luôn cố gắng lý giải mọi việc

theo chiều hướng sai lệch đó, để rồi ông tự đánh mất người con trai duy nhất,

58

cái chết của con ông là lời kết án dành cho ông.

Qua kiểu nhân vật này Lê Lựu đã chỉ ra rằng chính quan niệm, lối tư

duy ý chí, những suy nghĩ một chiều bảo thủ, những nguyên tắc cứng nhắc

giáo điều, cái lối suy nghĩ “quen ra mệnh lệnh cho người khác bất cứ năm

tháng nào, ở bất cứ việc nào, hoàn cảnh nào cũng chỉ có một vẻ mặt ra lệnh,

một cách nghĩ của bề trên, một cách hò hét của người phải được trân trọng,

kính nể, một cách nói theo thói quen, theo người trên mình đã nói. Thành ra

nó đơn điệu một chiều. Nhiều tháng nhiều năm như thế, nó nghèo nàn mòn

mỏi mà vẫn tưởng mình giàu có phong phú. Không nói được điều gì mới mẻ

vẫn tưởng là người sâu xa, không nghe được những lời dân dã khác mình vẫn

tưởng mình hiểu biết mọi ngọn nguồn” [22, tr.45] đã triệt tiêu mọi khát vọng

chính đáng của con người, trở thành sợi dây trói buộc đời sống tinh thần của

họ, gây ra bi kịch cho mỗi số phận.

2.2.2.2. Tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng

Chủ nghĩa cơ hội là luồng tư tưởng rình rập, canh chừng, không chịu

hành động tích cực, tranh thủ, lợi dụng thời cơ để chiếm lợi thế hoặc lợi ích

bằng công sức người khác. Những người có tư tưởng và hành động như vậy

gọi là “kẻ cơ hội” hay “người chủ nghĩa cơ hội”.

Quyền lực và danh vọng là cái đích chân chính mà mỗi con người đều

muốn vươn tới. Nhưng có những kẻ vì muốn đạt được nó mà bất chấp mọi thủ

đoạn. Khi ấy lòng tham quyền lực và danh vọng sẽ đẩy con người đến sự tha

hóa. Quan nhân vật Lê Minh Hiếu (Chuyện làng Cuội), Lê Lựu muốn đi thẳng

vào vấn đề này như một sự thức tỉnh con người.

Lê Minh Hiếu được xem là tín đồ của chủ nghĩa cơ hội. Hiếu là kết quả

của một mối tình vụng trộm. Lớn lên dưới tình yêu thương của người mẹ hiền

lành, tội nghiệp, khi còn nhỏ Hiếu tỏ ra là một đứa con ngoan, có hiếu, yêu

thương mẹ. Nhưng càng lớn lên hắn lại càng trở nên tha hóa, biến chất. Sự tha

59

hóa của Hiếu không phải hình thành một sớm, một chiều, mà đó là cả một quá

trình. Sinh ra là đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi nhưng Hiếu lại sớm hiểu chuyện.

Dù nhỏ hơn so với các bạn cùng tuổi nhưng trong các cuộc thi Hiếu đều luôn

đứng nhất, được làm người chỉ huy và chỉ huy đâu vào đấy, khi bị xua đuổi,

đánh đập Hiếu cũng rất gan dạ, sẵn sàng bảo vệ các em và là chỗ dựa cho

người mẹ đơn thân… Nhưng dần lớn lên, ý thức và suy nghĩ của một đứa trẻ

như Hiếu đã nhận thức được những phức tạp của cuộc sống. Từ bé đến lớn,

nó chứng kiến bao nhiêu biến cố của gia đình, những khổ sở mà mẹ của nó

phải chịu đựng… Khi lớn lên Hiếu làm trưởng ban phụ trách thiếu nhi xã

nhưng càng ngày do càng muốn thăng quan tiến chức nên Hiếu dần dần đánh

mất mình, trở nên khôn ngoan, lọc lõi. Vậy sự tha hóa của Hiếu bắt đầu từ khi

xã hội có những sự đổi thay, con người lúc này đã bắt đầu lo cho cuộc sống

của riêng mình, nuôi trong mình những khát khao làm giàu, muốn khẳng định

chỗ đứng và vị trí của mình trong xã hội. Để đạt được mục đích, vì quá đắm

chìm trong danh vọng mà con người đánh mất mình lúc nào không hay. Từ

một đứa trẻ ngoan Hiếu dần biến thành một kẻ cơ hội, trục lợi cho mình, sẵn

sàng làm tất cả để đạt được mục đích và tham vọng. Lúc đầu sự tha hóa của

hắn chỉ biểu hiện ở thói “háo danh”, lấy lòng cấp trên để thăng quan tiến

chức, hắn ra sức tô vẽ, dựng nên những thành tích giả cho xã Đại Thắng.

Nhưng tham vọng của hắn chưa dừng lại ở đó, và tất nhiên thủ đoạn của hắn

cũng không chỉ có vậy. Càng về sau khi đã leo lên được nấc thang danh vọng,

hắn càng bộc lộ bản chất gian giảo, quỷ quyệt. Sự tha hóa biến chất ấy được

che đậy dưới bộ mặt đạo đức nhân nghĩa giả tạo. Để đạt được những gì mong

muốn, trước hết hắn tạo cho mình một vỏ bọc hoàn hảo. Trong mắt mọi người

hắn luôn là một mẫu người lý tưởng, một người luôn “khiêm nhường, kín

đáo”, sống “tình nghĩa trước sau”, “biết kính trên nhường dưới”, hơn nữa hắn

lại là người rất “có năng lực”, “giàu sáng kiến”, luôn “tận tình, xốc vác” [24,

60

tr.266] mọi công việc lớn nhỏ của làng, xã. Nhưng đằng sau cái vẻ mặt hoàn

hảo ấy là bản chất của một kẻ lọc lõi, cơ hội, lắm mưu mô, quỷ kế. Trong hắn,

sự thèm khát danh vọng đã chi phối tất cả mọi hành động, nên dù những việc

nhỏ nhặt nhất, hắn cũng phải tính toán một cách chi li, cặn kẽ, hắn tính những

“đường đi nước bước cho hàng mười năm, mười lăm năm sau” chứ không

phải ngày một, ngày hai. Hắn cân nhắc cả “từng cái cười to nhỏ, chỉ cười mỉm

hay phô cả hàm răng xởi lởi ra. Cả cái bắt tay, cả lúc ôm vào người thì hờ

hững hay nồng nhiệt” [24, tr.344]. Cái nguy hiểm trong con người lọc lõi ấy

chính là sẵn sàng làm tất cả, kể cả việc chà đạp lên lương tâm của những

người thân yêu nhất để đạt được mục đích. Khi chú Kiêm, chồng của mẹ hắn

bị bắt vì bị nghi oan, khi cả làng hắt hủi mẹ hắn, thì hắn cũng tìm cách tránh

mặt mẹ hắn vì sợ bị liên lụy. Sau này khi chú Kiêm được minh oan, hắn đề ra

kế hoạch sửa sai để “rửa oan” cho người mà giờ đây hắn mới gọi bằng “Bố”.

Trong lúc cả làng chạy đuổi theo “nhét cứt vào mồm con Xuyến” vì tội vu oan

bố chồng cưỡng hiếp con dâu thì hắn lại ra sức bảo vệ vợ trước mặt mọi

người. Hắn yêu cầu vợ về xin lỗi mẹ nhưng trong đầu đã ấp ủ một âm mưu đê

hèn. Hắn giải thích cho mẹ hiểu rằng tại sao chiều hôm bắn bố hắn, thấy mẹ

bê cả rổ khoai đứng nhìn hắn chỗ bờ giếng nhưng hắn lại tránh mặt, bởi vì

“Hôm ấy mẹ có giết con, con cũng không thể nào làm gì để mẹ hiểu con được.

Con đã ra đầm Cuội tự vẫn mà không xong” [24, tr.268]. Trước mặt mẹ và

các em, hắn đã lật mặt sự trăng gió của vợ hắn với đội Lăng. Hắn giải thích

với vợ rằng, việc hắn làm lúc này “chỉ cốt để mẹ hiểu cái ngày hôm ấy con mẹ

cũng chả sung sướng gì” [24, tr.270]. Qua sự tính toán thần kỳ, cùng một lúc

hắn đã đạt được bốn thắng lợi lớn:

“Một là: Bà mẹ muốn ôm chầm lấy con trai để xoa dịu nỗi đau đớn âm

61

ỉ nhục nhã hơn cả đau đớn, khổ sở của bà.

Hai là: Hôm trước anh là cốt cán, cùng đội ngũ với giai cấp bần cố, hôm

nay anh là người của nỗi oan trái cùng cảnh ngộ với những người bị giam giữ

cùm, trói.

Ba là: Trước nhân dân và bác Văn Yến, người bí thư tỉnh ủy của những

năm sau, anh là một con người đầy bản lĩnh, biết kìm nén và chịu đựng, biết vì cái

chung mà nén nỗi đau riêng, gương mẫu đi đầu trong sửa sai.

Bốn là: Anh đã làm được phần nào của những gì anh nghiến răng lại trong

đêm cùng anh đội Quyền và anh Thó tắm ở đầm Cuội: “phải sống” [24, tr.271].

Vậy là, mối thù với sự phản bội của vợ hắn, sau những gì phải chịu đựng,

hắn đã trả thủ một cách mĩ mãn. Với sự sự việc này có thể thấy, hắn sẵn sàng chà

đạp lên người thân, đánh đổi hạnh phúc gia đình để đạt được mục đích.

Khi tổ chức lễ truy điệu cho bố hắn, hắn bày ra trò tụng kinh niệm phật

để nhằm “tạo ra sự trang trọng, linh thiêng”, nhưng hắn lại sợ “dính đến

chuyện mê tín dị đoan” nên nghĩ cách đùn đẩy trách nhiệm cho những người

xung quanh. Còn hắn thì “yên tâm mà “đau đớn”, “xót thương” và mệt mỏi vì

bắt tay, vì gật đầu khi khách “chia sẻ”” [24, tr.279]. Kết quả sau những việc

làm “đầy tình nghĩa”, hắn được cấp trên khen là người “có bản lĩnh vững

vàng. Có khả năng tập hợp quần chúng, có nhiều sáng kiến và tổ chức rất

khá”, là “trung tâm đoàn kết của xã này” [24, tr.281].

Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, kết hợp với phương châm: phơi bày cái

tiêu cực, mô tả và tố cáo nó, Lê Lựu đã cho ta thấy một cái nhìn “trực diện”

đối với cái xấu xa, sự giả dối. Đây thực sự là căn bệnh đại họa của một thời.

Khi con người cứ mải miết chạy theo danh vọng, địa vị một cách mù quáng,

sẵn sàng dẫm đạp người khác, thậm chí lấy người thân là bia đỡ đạn để che

giấu bộ mặt giả tạo, tất cả chỉ để tiến thân. Đối với Lưu Minh Hiếu, sự phản

bội, trăng gió của vợ hắn đối với hắn, thì trả thù bằng cách vạch mặt vợ hắn

62

trước mặt mẹ và gia đình là chưa đủ, trong lòng hắn vẫn canh cánh một “nỗi

nhục” bị cắm sừng. Hắn muốn bỏ Xuyến nhưng lại không dám đứng ra tự

mình bỏ vợ được, vì như vậy “lập tức cả nước sẽ đồn ầm lên” và hắn sẽ “mất

hết”. Do vậy, hắn chuyển hướng sang thuyết phục mẹ với nguyên nhân là do

“mâu thuẫn mẹ chồng con dâu căng thẳng”, vì bà mẹ chồng “không thể nào

chấp nhận một người con dâu đã đi ngủ với đội lại vu oan giết bố chồng” [24,

tr.322]. Vậy là người mẹ thật thà, cả tin, hết mực yêu thương con ấy đã chấp

nhận làm theo lời hắn, vu oan cho con dâu cố tình xô ngã gãy chân bà để

thằng con trai bà được bỏ vợ. Nhưng bà đâu ngờ rằng sự hy sinh mù quáng

của mình chính là sự mở đường cho tội ác, cho sự sa ngã, tha hóa của người

con và cái chết thương tâm, tức tưởi của mình sau này. Như vậy, để bảo vệ cái

danh dự, địa vị của mình, hắn đã biến mẹ hắn thành kẻ bất nhân bất nghĩa,

phải đứng ra hứng chịu sự ghẻ lạnh của bà con xóm giềng, vì bà mẹ chồng ác

nghiệt mà “con mất mẹ, chồng xa vợ, gia đình con cái tan đàn, xẻ nghé…”.

Nhưng việc bỏ vợ của hắn đang mang đến tiếng xấu, có nguy cơ ảnh hưởng

đến sự nghiệp của hắn. Hắn đang đau đầu chưa nghĩ được cách dẹp im dự

luận, thì “hai cái giấy báo tử của hai thằng em” là Mai và Sau như một “cứu

cánh đắc lực” cho hắn. Vốn là “con người của những dự định cho công việc

và sự nhạy cảm với những thời cơ” [24, tr.335] nên hắn không thực hiện theo

hai phương án của tỉnh đội “Một: là tung tin bán tín bán nghi dần dần. Độ ba

bốn tháng sau nếu thấy có thể được, lựa thời điểm nào đó để báo cho bà cụ.

Hai: có thể một vài tháng nữa báo cho Mai trước. Cũng là dịp công bố với

quần chúng, thanh minh cho anh ấy. Rồi tùy theo, một hai năm sau ta lại báo

nốt trường hợp thứ hai” [24, tr.333, 334], mà quyết định tổ chức lễ truy điệu

cho hai em trước đại hội tỉnh đảng bộ vào cuối tháng sau. Vì hắn biết rằng

nếu làm theo cách này thì không ai còn nhớ đến cái việc hắn bỏ vợ nữa, bởi

“trước mất mát tang thương lớn lao của gia đình” hắn thì “không kẻ nào còn

63

đủ nhẫn tâm hại hắn” [24, tr.335]. Với mục đích đó hắn đã để cho mẹ của

mình cùng lúc nhận hai giấy báo tử của cả hai đứa con trai nhưng vẫn không

dám khóc, không dám gục ngã vì lúc này bà đang cầm trên tay bằng khen

người mẹ chiến sĩ kiên cường. Vậy là để dẹp im dư luận, để bảo vệ cái danh

tiếng bẩn thủi của mình, hắn đã lợi dụng cả nỗi đau đớn tột cùng của mẹ hắn,

chà đạp lên cả mất mát đau thương của gia đình không chút hổ thẹn.

Sự tha hóa, bỉ ổi của hắn chưa dừng lại ở đó. Bằng mưu mô, quỷ quyệt

của mình, hắn đã lợi dụng lòng tốt của mọi người, chà đạp lên người thân để

hắn ngày càng tiến xa hơn trên con đường danh vọng. Hắn giàu có, không

thiếu tiền nhưng vẫn bỉ ổi ép mẹ chép lại những bức thư hắn soạn để xin tiền

người cha đẻ đang sống ở nước ngoài - người cha cường hào ác bá mà hắn

không dám công khai thừa nhận. Thế rồi sự việc bị con gái hắn phát hiện, lo

sợ sự “nghi ngờ rắc rối” trong công việc, hắn đã lớn tiếng chửi rủa mẹ:

“- Nói đi. Nói. Sao câm mồm thế

(…) - Tại sao bà lại độc ác với tôi như thế? Chỉ có loài sức vật nó mới

ăn thịt con nó. Bà hiểu không? Mai kia mà ai biết thằng tổng Lỡi là bố tôi, tôi

thừ từ liên hệ với hắn thì bà cứ liệu hồn. Tôi nói cho bà biết: nếu có bất cứ

một sự nghi ngờ rắc rối gì trong công tác của tôi thì bà không yên thân với tôi

đâu…”

(…) Bà có nhớ lời tôi dặn phải như thế nào không?

(…) Nhưng bà là con lợn phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi [24, tr.506].

Những lời nhục mạ, sỉ vả của hắn, như những nhát dao đâm thẳng vào

trái tim người mẹ tội nghiệp. Sự biến chất tha hóa của hắn đến ghê tởm, biến

hắn thành kẻ vô nhân tính, mất hết tình người. Với người mẹ cả đời hy sinh

thầm lặng vì hắn, mà đáp lại là những lời mắng chửi vô học, cạn tình nghĩa.

Hắn đã quên rằng, mẹ hắn đã vất vả nuôi dạy hắn thế nào, đứa con ngoan, biết

nghe lời ngày nào giờ lại đâm vào tim người mẹ những nhát dao chí mạng

64

bằng những lời nói cay độc. Hắn không trực tiếp giết chết mẹ hắn nhưng

chính hắn là hung thủ gây ra cái chết thảm thương cho bà mẹ già nua bất

hạnh. Trong đám tang mẹ, hắn vật vã khóc than tưởng như đau đớn lắm.

Nhưng không, đó chỉ là những giọt nước mắt của sự tức giận trước hành động

ngu ngốc của bà mẹ và nỗi lo lắng bí mật sẽ bị con gái mình bóc trần.

Không chỉ là một kẻ cơ hội, thực dụng, Hiếu còn là một kẻ gian dâm, bỉ

ổi, trơ trẽn. Hắn cảm thấy nhục nhã bị vợ cắm sừng, nhưng hắn lại ăn nằm với

Nho như vợ chồng. Sau này khi bỏ Xuyến, hắn lại lấy Hiền, đứa con gái đầu

của Nho. Lợi dụng sự tin tưởng của vợ đối với “đứa cháu” Linh Chi, hắn qua

lại và thường xuyên kiếm cớ đi nước ngoài học hỏi kinh nghiệm để ăn nằm

với “cô cháu” bằng tuổi con mình. Khi biết Linh Chi là con gái của đội Lăng

năm xưa, kẻ trăng gió với Xuyến vợ cũ của hắn, hắn thực hiện ý đồ trả thù

ông bằng việc cho ông tận mắt chứng kiến cảnh hắn đang làm tình với con gái

ông ngay trên chiếc giường của ông. Như vậy, có thể nói sự bỉ ổi, vô liêm sỉ

của tên Hiếu thực sự là không có giới hạn. Nên nếu gọi hắn là “Lưu Manh

Hiếu” thì phù hợp hơn với bản chất bẩn thỉu của hắn, của người mà “cái mồm

là mồm thằng tán gái thành thần. Con kiến trong lỗ cũng phải chui ra với nó.

Còn cái mặt lạnh tanh, bạc. Kinh. Cái mắt gian ngoan xảo quyệt, mưu mẹo và

tàn nhẫn lắm. Nhưng tất cả những cái ấy lại được giấu kín đi ở những cái

nhìn thường xuyên khép hờ, kiểu kín kín, hở hở, rất khó ai phát hiện ra con

người thật của hắn” [24, tr.299].

Một điều dễ nhận thấy ở con người đạo đức giả đó là danh vọng và

quyền lực hắn đạt được không xuất phát từ tài năng mà nhờ thủ đoạn lươn

lẹo, với những âm mưu xảo quyệt. Tham vọng cộng với dốt nát của hắn đã để

lại những hậu quả thê thảm. Khi leo lến đến chức Bí thư Huyện ủy, hắn đã tỏ

ra “năng động nhạy bén”, cộng với “kinh nghiệm học tập được sau chuyến

tham quan hai mươi bảy ngày ở nước bạn” để quyết tâm xây dựng mô hình

65

“một liên hiệp công nông sản xuất theo chu trình khép kín trong quy mô toàn

huyện” trên “một cơ sở vật chất kiệt quệ” [24, tr.389]. Cung cách làm ăn lớn

ấy không những không đem lại lợi lộc gì mà còn bắt người dân phải gánh chịu

những thiệt hại nặng nề từ việc bán chuối hay việc đổi tiền lẻ mà hắn đề

ra…Nhưng bằng đầu óc mưu mô hắn vẫn cứ thăng chức. Lần này hắn đã trở

thành Phó chủ tịch, và hắn lại tiếp tục thất bại trong các chính sách, làm ăn của

mình. Nhưng không hiểu sao người ta vẫn không nghi ngờ hắn mà vẫn đặt lòng

tin ở một tương lai tốt đẹp trước đầu óc được khai sáng vì được đi học đây đó

của hắn.

Qua nhân vật tha hóa này, Lê Lựu đã phơi bày sự băng hoại đạo đức ở con

người trong xã hội. Ông chiêm nghiệm rằng “Sự văn minh của nền khoa học thực

nghiệm biến con người thành những vật chất biết nói, sống căng cứng trong cơ

chế tinh vi hết sức lạnh lẽo, dửng dưng với con người. Biến tình cảm của con

người thành những hiệu quả có thể sờ nắn được, tính đếm lỗ lãi được” [18]. Đây

dường như là căn bệnh nguy hiểm, đang bào mòn tình cảm thiêng liêng của con

người, làm mai một nhân cách và lối sống của con người.

Nhưng xét một cách khách quan, với hình tượng nhân vật Hiếu và

những nhân vật khác trong Chuyện làng Cuội, Lê Lựu đã có cái nhìn thiếu

niềm tin vào bản chất con người. Dưới ngòi bút của ông con người dường như

đã mất hết nhân tính, con người chỉ sống với nhau bằng lừa lọc, giả dối. Dẫu

biết rằng, nhà văn muốn dùng ngòi bút của mình để bóc trần xã hội với nguy

cơ đi xuống về mặt đạo đức nhưng cái nhìn của tác giả vẫn mang sự định kiến

nhất định nên nó thiếu sự khách quan. Vì vậy, những ý tưởng của tác giả chưa

thoát ra được. Tác phẩm chưa làm nổi bật được tư tưởng mà tác giả muốn

hướng tới. Người đọc khi tìm hiểu tác phẩm chưa tìm thấy được ý nghĩa nhân

văn về con người, về cuộc đời mà cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng khi khám

66

phá làng Cuội có phần ngột ngạt, âm u, thiếu ánh sáng tình người.

2.2.2.3. Tha hóa do giả dối, lừa lọc

Nếu như ông Đại (Sóng ở đáy sông) là điển hình của kiểu nhân vật tha

hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc, Lê Minh Hiếu (Chuyện làng

Cuội) là kiểu nhân vật tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội thực dụng thì những

người phụ nữ như Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà) lại tiêu biểu cho

kiểu nhân vật tha hóa do sự giả dối, lừa lọc.

Là những cô gái thành thị, cả Châu và Linh Anh đều có vẻ bề ngoài

xinh đẹp, hấp dẫn. Nhưng đằng sau cái vẻ hình thức bắt mắt ấy là một tâm

hồn giả dối, với lối sống buông thả, đê tiện. Châu đến với Sài, Linh Anh đến

với Tâm đều bằng sự giả dối, lừa lọc, họ tìm cách hợp lý hóa cái thai - kết quả

của những ngày tháng “tự do yêu đương” đang lớn dền lên trong bụng. Với bộ

mặt ngây thơ vẻ thiên thần, với câu chuyện tình yêu quá khứ đầy đau khổ,

được dàn dựng một cách hoàn hảo Châu đã làm cho Sài phải đau đớn, phải

thông cảm sâu sắc với một người con gái “mạnh mẽ và sòng phỏng”, “không

che giấu, không lẩn tránh sự lầm lỡ đã qua”, hết sức “nghiêm khắc” và “thành

thật với tình yêu của mình” [26, tr.203]. Và rồi Sài đã yêu Châu, “anh cảm thấy

hạnh phúc đến với mình nó ào ạt, gấp rút”, “anh thấy như đang bơi mênh mang

trong hạnh phúc, trong niềm sung sướng đến ngạt thở” [26, tr.213] mà không

ngờ rằng mình đang bị cô ta lừa dối để che đậy cho cái “danh dự” của mình.

Nhưng bản chất thật sự thì khó lòng che đậy. Cưới nhau về, càng sống với

nhau, Châu càng dần bộc lộ bản chất ích kỉ, xem thường và coi khinh người

khác. Trong mắt Châu “không một kẻ đầy tớ nào hầu hạ lý tưởng bằng chồng,

khi anh ta còn có sức lực và tự nguyện hết lòng, hết sức, hết hơi vì vợ con. Dù

sao thì anh ta cũng hiểu mình hơn một thằng ở. Dễ sai bảo, không e ngại bất

cứ công việc gì, không cần ý tứ gìn giữ bất cứ một trường hợp nào. Được

giận dỗi xỉ vả hết mức, cũng đồng thờ lại được vuốt ve thương yêu hết lòng”

67

[26, tr.258]. Cô tự xem mình là cao quý, thông minh, tự cho mình cái quyền

xem thường người nhà quê, xem thường gia đình chồng. Bằng sự “khôn

ngoan lịch lãm của mình cô biết cách sai khiến hàng chục người đàn ông”

nhưng vẫn giữ được cái đứng đắn của người phụ nữ “đảm đang” biết chiều

chồng nuôi con. Và người phụ nữ ấy lại có đủ tư cách để có thể “dạy bảo các

cháu gái phải nghiêm túc và kinh tởm lên án những người đàn bà lăng

nhăng” [26, tr.277]. Ở cô hình thành hai con người “Phần ở cơ quan, ngoài

đường gặp ai, làm gì cũng duyên dáng, lịch thiệp cười nói phóng khoáng mà

vẫn tế nhị, một cô gái nết na hiền dịu có thể gọi là người phụ nữ lý tưởng hiện

nay. Phần ở nhà thì cau có, quyết đoán, thô lỗ, bất chấp và lạnh lùng” [26,

tr.277]. Với bản tính tham lam, ích kỉ nên những cố gắng, những công lao của

chồng dường như chưa bao giờ là đủ đối với cô. Có một người chồng thật thà,

hết lòng thương yêu, chăm sóc vợ con, nhưng Châu vẫn không hề thõa mãn.

Chồng càng cố gắng nhường nhịn, vun vén, chăm sóc gia đình bao nhiêu thì

Châu lại càng sống buông thả, giả dối bấy nhiêu. Dù Sài đã dốc hết sức lực

chăm nuôi con nhưng thay vì biết ơn và trân trọng chồng thì cô lại qua lại với

Toàn - bố đẻ của con cô. Những lần qua lại đó, cô đều hợp thức hóa với

những lí do hết sức chính đáng bằng việc dặn dò đứa con một cách kĩ lưỡng

những câu hỏi sau khi đến nhà bác Toàn mà có thể Sài sẽ hỏi. Nhưng dù Sài

cố gắng thế nào thì bi kịch gia đình vẫn không tránh khỏi sự đổ vỡ bởi sự

tham lam, đòi hỏi vô bờ bến của Châu.

Cũng giống như Châu, Linh Anh (Hai nhà) cũng lợi dụng một người

đàn ông thật thà, cả tin để che đậy cái “hậu quả” bởi lối sống buông thả, sa

đọa của mình. Cô là hiện thân của lối sống thực dụng, giả dối. Hơn ai hết cô

ta biết Tâm là một người tốt, một người thật thà nhưng với cô ta những thứ

anh có đều thừa “những cái tôi mong, tôi cần anh lại thiếu…cái thừa ở anh

làm tôi thấy nhàm chán, cái thiếu của anh làm tôi thất vọng” cho nên dù đã

68

thành vợ chồng nhưng cô ta chỉ sống với Tâm như là “sự gá buộc tạm bợ để

chờ đợi một người nào khác, một nơi chốn nào khác” [25, tr.137]. Cả một quá

khứ sa đọa, những mối tình với chú lái xe hay anh Phó tiến sĩ đều được Linh

Anh lôi ra so sánh với với Tâm, bởi cô ta cho rằng Tâm không “có tính quyết

đoán, có thể là độc ác, tàn nhẫn nhưng rất đàng hoàng, minh bạch và kiên

quyết” như người yêu đầu của cô, anh cũng không tinh ranh và hiểu tâm lý

đàn bà, biết được tất cả những gì cô ta cần, cô ta thích như Phó tiến sĩ nói

ngọng, trưởng giả học làm sang ấy. Biết rõ Tâm không phải là cha của đứa con

trong bụng mình, nhưng khi sinh con ra, trước mặt chồng cô không hề cảm thấy

hổ thẹn mà còn thản nhiên nói với chồng “con chúng ta giống “ông du kích”

lắm…Mẹ và các em khen con có cái mắt như bóng rợp của mẹ, còn cái miệng

tươi như hoa là của bố, nhưng em thấy con giống anh nhiều hơn” [25, tr.24].

Khi sự thật về đứa con bị lộ, cô ta trơ trẽn công khai thừa nhận. Nhưng cái

bản tính dâm đãng của cô vẫn không hề thay đổi “bằng thói quen của đứa đàn

bà lúc nào cũng khao khát đàn ông” [25, tr.148], cô ta tiếp tục lối sống buông

thả, vì cho rằng mình vẫn còn trẻ trung, xinh đẹp, vẫn “thèm muốn ao ước

nhiều thứ nên không thể yên ổn được”, và cô ta lại lừa dối chồng đi lại với

Thiệt “ban ngày chủ yếu là buổi trưa và chiều ân ái như là vợ chồng với

Thiệt”, còn ban đêm “về sống với chồng như hai người khách thuê chung một

nhà, như sự gá buộc tạm bợ” [25, tr.160]. Kết quả là đứa con thứ hai ra đời,

Tâm lại là kẻ “tráng men”. Được người chồng tha thứ về sai lầm mình, nhưng

Linh Anh vẫn không hề biết trân trọng và cảm thấy hối lỗi về những gì mình

đã làm. Trong khi chồng cô đang nỗ lực xây dựng lại hạnh phúc gia đình thì

cô lại trả ơn bằng cách ngủ ngay với lão hàng xóm đáng tuổi bố mình, người

mà chồng cô vẫn coi như anh em ruột thịt.

Lối sống giả dối, lừa lọc, đê tiện của những người phụ nữ như Châu,

Linh Anh là hồi chuông báo động cho sự tuột dốc tha hóa ở nhân cách con

69

người. Lê Lựu qua đó đã vạch ra một căn bệnh nguy hiểm đang ảnh hưởng

nghiêm trọng đến con người và xã hội lúc bấy giờ. Trong cái xã hội đang phát

triển nhưng cũng đầy cám dỗ này thì con người càng khó khăn hơn trong việc

phải đối mặt với nguy cơ tha hóa đang có chiều hướng lan rộng. Viết về thực

tế này, Lê Lựu đã tỏ ra rất sắc sảo và thể hiện được sự nỗ lực cao trong việc

góp phần hướng thiện con người và thanh lọc xã hội. Ông đã sống và viết

đúng như quan niệm mà ông từng nêu về vai trò và chức năng của nhà văn:

“Người viết tiểu thuyết bao giờ cũng mong muốn đem lại cái tốt đẹp cho cuộc

đời bằng các trang viết của anh ta. Tiểu thuyết, theo tôi giúp tự hiểu mình,

hiểu người khác và giúp đỡ nhau sống tốt hơn” [ 23, tr.551].

2.2.3. Nhân vật lưỡng diện

Lê Lựu và những trang văn của ông sẽ chưa thực sự sâu sắc nếu chỉ

mới dừng lại ở việc thể hiện con người dưới góc độ bi kịch hay tha hóa. Mà

điều đáng ghi nhận, là qua những sáng tác của mình ông đã chạm đến những

giá trị chân thực nhất ở con người bằng hình tượng những nhân vật có tính

cách lưỡng diện. Đọc tiểu thuyết Lê Lựu, ta có thể bắt gặp những người thông

minh, giỏi giang, cũng có những kẻ vô cùng giả dối, lừa lọc, có những người

thật thà, cả tin lại có những kẻ thực dụng, đê hèn…Tuy nhiên bản thân mỗi con

người không hề đơn giản một chiều mà luôn ẩn chứa những bí mật sâu kín, rối

rắm, nhiều chiều. Bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai

mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện- ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng - tăm tối, hạnh

phúc - khổ đau… Con người có lúc là thần thánh song cũng có lúc là quỷ dữ,

một người lương thiện có lúc lại suy nghĩ đê tiện, một người độc ác nhưng có lúc

trong tâm hồn lại lấp lánh ánh sáng của thiên lương. Kiểu nhân vật đan xen giữa

trắng và đen, thật và giả, tốt và xấu ấy gọi là nhân vật lưỡng diện.

Nhân vật Núi (Sóng ở đáy sông) là kiểu nhân vật lưỡng diện với hai

mặt tốt - xấu. Dù xuất thân là đứa con “loại hai” nhưng Núi lại học rất giỏi,

70

luôn đứng nhất nhì trường. Dù đang sống trong sự chăm lo của mẹ nhưng mới

16 tuổi hắn đã “có đầy đủ phẩm chất của người lớn biết lo toan học hành,

nuôi dạy các em” [27, tr.31]. Xung quanh hắn ai cũng hết lời khen ngợi dù

“vừa phải tắm rửa giặt giũ, vừa lo liệu cho các em học mà vẫn ăn đứt cả đám

học sinh vùng này” [27, tr.32]. Phải sống xa mẹ từ nhỏ, nhưng hắn luôn là

người anh mẫu mực, hết lòng lo lắng, thương yêu các em từ chuyện ăn ở đến

chuyện học hành. Hắn sẽ lớn lên, trưởng thành như một con người đúng nghĩa

nếu như hắn được gia đình quan tâm, bao bọc, được xã hội chấp nhận và mở

ra một con đường sống để hắn có thể đến với tình yêu đích thực của đời hắn.

Thế nhưng cuộc đời hắn, ngay từ khi biết đến mùi vị tình yêu đã phải nếm trải

cay đắng. Mối tình đẹp đẽ đầu đời của hắn lại trở thành “một mối tình như

một phát súng khai hóa cuộc đời tội lỗi của hắn”, và nơi bấu víu duy nhất của

hắn khi mẹ hắn mất là cha hắn nếu không lạnh lùng, hắt hủi và bỏ bê anh em

hắn thì hắn sẽ không sống với “thói quen trộm cắp tù đầy” suốt hai mươi lăm

năm qua.

Xây dựng hình tượng nhân vật Núi, Lê Lựu một mặt vừa thể hiện sự

phê phán trước sự tha hóa, đánh mất nhân cách nhưng một mặt lại xót thương

cho cuộc đời của một con người biến chất dần dần bởi sự tha hóa của xã hội.

Cuộc đời Núi được tác giả miêu tả qua các chặng đường và làm rõ nguyên

nhân dẫn đến sự tha hóa của hắn. Ngòi bút tinh tế, khéo léo của Lê Lựu đã

dựng nên một nhân vật không hẳn là xấu nhưng cũng không phải là tốt. Trong

con người ấy luôn tồn tại những mặt đối lập. Có thể người đọc sẽ chê trách

Núi nhưng vẫn không khỏi cảm thương cho hoàn cảnh của hắn.

Từ nhỏ hắn và các em đã phải sống xa gia đình, hắn một mình chăm

sóc và dạy bảo các em. Là một người anh, chỗ dựa của các em lúc này, hắn đã

phải trằn trọc, suy nghĩ nhiều, chuyện học hành cũng vì thế trở nên sa sút

“bệnh mất ngủ xuất hiện. Hàng tuần, hàng tháng hắn không ngủ được. Hắn

71

mắc bệnh đau đầu. Lại phải nghỉ học. Ai cũng hiểu hắn lo nghĩ nhiều suy

nhược thần kinh” [27, tr.83]. Bí quá hắn tìm đến cha hắn nhưng ông vẫn kiên

quyết bảo hắn phải tự lo, cuối cùng một đứa học giỏi như hắn cũng phải bỏ

học đi làm thuê “trong khi cha hắn vẫn yên trí con ông học vào loại nhất nhì

của lớp thì hắn đều đặn tối đi làm, sáng về ngủ, đầu tháng bỏ hai ngày về

thành phố đong gạo đem về cho các em” [27, tr.91].

Như vậy, nếu xét về phương diện tình cảm của người anh đối với các

em thì Núi xứng đáng là người anh tốt, có trách nhiệm, hết mực thương yêu

và chăm lo cho các em. Hắn cũng là con người tự lập, không ỷ lại vào gia

đình. Dù rất thích đi học nhưng vì hoàn cảnh, vì không có tiền, các em không

có ăn nên hắn đành phải giấu cha, nghỉ học đi làm thuê kiếm tiền đong gạo

nuôi em. Hoàn cảnh của Núi thực sự rất đáng xót thương.

Nhưng căn nguyên nào lại biến một người anh mẫu mực như Núi trở

thành một tên ăn cắp chuyên nghiệp. Nguyên nhân trực tiếp chính là cha hắn

với cái bản tính lạnh lùng, vô cảm, vô trách nhiệm đã thẳng tay cứt đứt quan

hệ cha con khi biết hắn bỏ học và bị giam vì hiểu nhầm. Và rồi cái lần hắn

đứng trước mộ mẹ hắn đã trở thành ngày tháng lương thiện cuối cùng của

hắn, chính từ giây phút ấy, hắn quyết định phó mặc số phận cho dòng đời xô

đẩy. Những lời hắn khấn trước mộ mẹ hắn như một lời tố cáo sâu sắc đến

người cha sắt đá, đến cái xã hội tàn nhẫn đã đẩy con người đến bước đường

cùng. Hắn buông xuôi bởi vì hắn không còn con đường nào khác “bây giờ con

không biết sẽ đi đến đâu, không biết sẽ kiếm được việc gì làm để sống, có khi

con phải đi ăn cắp đấy mẹ ơi” [27, tr.109].

Sau đêm ấy, hắn bắt đầu lao vào con đường ăn cắp, đầu tiên hắn còn rất

sợ hãi “mỗi khi định thò vào sự hớ hênh, sơ ý của ai đó, tay hắn run lên, khắp

người như có luồng khí lạnh tràn vào” [27, tr.101], nhưng dần dần khi lần đầu

trót lọt thì những lần sau có là gì nữa “hành động đầu tiên là ăn cắp bánh mì

72

ở sọt của cô mậu dịch viên lúc đông khách. Sau vài hôm là đôi dép nhựa Tiền

Phong màu trắng. Rồi áo mưa bộ đội. Rồi mũ cối. Rồi ba lô con cóc”… đến

một ngày “hắn thấy một chị để tiền sát miệng túi xách treo ở xe đạp. Hắn móc

và đem ra chỗ bán quần áo” [27, tr.125]…Con đường ăn cắp chuyên nghiệp

của hắn bắt đầu từ sự ăn cắp vặt ấy và con đường tù tội cứ thế đón chào hắn.

Hết lần này đến lần khác “đi móc túi, đi trai gái và đánh nhau”, ngựa quen

đường cũ nên dù bị bắt nhiều lần, các em hắn cũng khuyên ngăn nhưng hắn

vẫn không bỏ “nghề” được. Chính thức từ đây hắn trở thành một tên nguy

hiểm trong mắt mọi người. Như vậy từ một người con ngoan, một người anh

tốt hắn trở thành một tên ăn cắp chuyên ngiệp, và chặng đường sau này của

hắn là chặng đường ra tù vào tội như cơm bữa.

Dù là một tên ăn cắp nguy hiểm nhưng trong sâu thẳm con người hắn

không phải là con người mất hết nhân tính, mà ngược lại, hắn chính vì thương

em, sau này vì thương con mà phải sống bám vào cái nghề ấy. Nhưng suy cho

cùng, dù hoàn cảnh có tàn nhẫn đến đâu thì căn nguyên sâu xa nữa vẫn ở

chính con người hắn. Hắn sống buông thả, mặc cho đời cuốn đi bởi hắn thiếu

quyết đoán, hắn không đủ mạnh mẽ và nghị lực để vượt lên những cám dỗ

của cuộc đời. Hơn ai hết hắn biết mình sống như thế là sai, sống như vậy là

sống trái với những gì hắn được mẹ hắn dạy bảo, hắn cũng không thể làm

gương cho các em và cho con hắn sau này nhưng dường như căn bệnh ỷ lại,

bản tính tham lam đã giết chết những ý nghĩ lương thiện còn lại trong con

người hắn. Cuộc đời hắn bị chi phối bởi tính cách của hắn. Khi hắn sống với

một ả giang hồ thì bản tính giang hồ của hắn trỗi dậy nhiều hơn. Nhưng khi

hắn gặp được người phụ nữ tốt như Hồng thì hắn lại nuôi ý nghĩ trở về làm ăn

lương thiện. Rồi lại vì hoàn cảnh gà trống nuôi con, con lại đau ốm triền

miên, hắn lại “quen tay” đi ăn cắp, nhưng khi vào tù, đi cải tạo và gặp được

người tốt, hướng cho hắn hoàn lương thì hắn lại quyết chí làm lại cuộc đời

73

mình.

Sau nửa chặng đường của cuộc đời ăn cơm tù, hắn chua xót, hổ thẹn vì

cách sống của con người mình. Rồi hắn nhận ra, đâu đó trong xã hội này vẫn

còn những người tốt, quan tâm, lo lắng cho hắn và cuộc đời chưa hẳn đã khép

cảnh cửa đưa hắn trở về con đường lương thiện. Dù là một đứa con bị hắt hủi,

không có được tình thương yêu của cha nhưng hắn lại là một người bố rất

mực yêu thương con. Sống hơn nửa đời người, lúc này hắn mới nhận ra giá trị

của cuộc sống, chính những đứa con là “những giọt máu trong sạch và thành

thật nhất của cuộc đời hắn lại hiện ra xoa dịu nỗi đau và thắp trong tâm hồn

cặn bã khô kiệt của hắn mỗi tia sáng hy vọng” [27, tr.315]. Cuối cùng hắn đã

chạm được cái đích của cuộc sống lương thiện. Hắn đi theo nghề mộc, vì hắn

cũng khéo tay nên hắn học nghề rất nhanh. Sau nhiều cố gắng hắn trở thành

anh chủ xưởng mộc.

Cái bản tính lương thiện của hắn vẫn chưa mất đi. Dù trước đây hắn bị

người cha vô tình hắt hủi, cắt đứt tình cha con, thậm chí viết đơn xin tòa xử

chung thân trước những tội lỗi của hắn…nhưng khi biết cha hắn bệnh nặng,

hắn vẫn cho con gái hắn về chăm sóc cha hắn. Điều đó có thể thấy rằng, trong

con người tha hóa ấy vẫn sáng những tia sáng của lòng bao dung và lương

thiện. Dù bị sa ngã nhưng hắn không mất nhân tính, dù là tên trộm cắp nhưng

hẵn vẫn giàu tình thương với gia đình…Trong con người hắn dường như luôn

tồn tại những khía cạnh, tính cách đối lập. Phải chăng chính sự nhập nhằng

nhân cách ấy đã buộc hắn phải đấu tranh, phải tự quyết định lấy cuộc đời của

chính mình. Có những lúc hắn sai lầm nhưng hắn đã biết nhận ra sai lầm,

hoàn cảnh đã đẩy hắn đến con đường tội lỗi nhưng vẫn trừ cho hắn một

đường đi đến sự hoàn lương, gia đình đối xử tàn nhẫn với hắn nhưng không vì

thế mà hắn mất niềm tin về thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Hắn sa ngã dường

như là một tất yếu của xã hội, nhưng hắn hoàn lương lại được quyết định bởi

74

chính con người hắn.

Qua hình tượng nhân vật Núi, Lê Lựu thực sự đã thể hiện một cái nhìn

chân xác và sâu sắc về con người. Không chịu ảnh hưởng của cách miêu tả

con người ở thời kỳ trước, thời kỳ mà con người luôn phân định rạch ròi “tốt -

xấu”, mà giờ đây con người đã được trở về với đúng nghĩa hai từ con người,

con người có cả phần “con” và phần “người”. Rõ ràng với kiểu nhân vật này,

Lê Lựu đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào con người. Dù xã hội đang

đứng trước nguy cơ tha hóa nhưng con người nếu có bản lĩnh vượt lên được

chính mình thì họ vẫn có thể chiến thắng được hoàn cảnh, để giữ mình đứng

bên bờ hoàn lương, trong sạch dù con đường ấy có mong manh đi chăng nữa.

Ở một số tác phẩm khác, Lê Lựu không khắc họa kiểu nhân vật tự đánh

mất mình với lối sống buông xuôi để rồi phạm vào con đường tội lỗi như Núi

mà ông tiếp tục xây dựng kiểu nhân vật lưỡng diện, nhập nhằng hai chiều tính

cách ấy ở mức thể hiện nhẹ nhàng hơn. Nếu ở Núi là con đường dẫn đến sự

tha hóa từ bản thân một con người lương thiện thì ở Sài (Thời xa vắng), Tâm,

Địa (Hai nhà) lại luôn tồn tại con người hèn mọn, nhu nhược, thiếu bản lĩnh

song song với cái bản chất lương thiện ấy.

Có thể nói Sài là người anh hùng trong chiến tranh nhưng lại là kẻ thất

bại khi hòa bình. Dù không yêu Tuyết nhưng vì không đủ can đảm chống lại

gia đình, dòng họ nên Sài vẫn phải cưới Tuyết làm vợ. Rất yêu Hương nhưng

vì không vượt qua được “dư luận” Sài đánh mất tình yêu đầu đời. Vì muốn

kết nạp Đảng nên Sài lại để cấp trên quyết định cuộc đời mình bằng cách

quay về “yêu vợ” thật sự, để cuối cùng bẽ bàng khi sự không thành. Vì quá

mù quáng trong tình yêu được mình tự lựa chọn, Sài lại sai lầm trở thành kẻ

đổ vỏ cho người ăn ốc mà không hay. Vì cả tin, nhu nhược Sài để Châu xem

thường, lấn át. Vì sợ thiên hạ cười chê nên dù biết mình hụt hơi bơi trong

hạnh phúc giả tạo nhưng Sài vẫn hết lần này đến lần khác âm thầm nhẫn

nhục, chịu đựng…và vì cái bản tính yếu đuối, thiếu bản lĩnh, không dám chịu

75

trách nhiệm trước cuộc đời mình nên Sài trở thành người thất bại. Thất bại

trong tình yêu, thất bại trong hạnh phúc gia đình và thất bại trước chính bản

thân mình.

Theo cách nói của Nguyễn Minh Châu: “Sự phức tạp trong tính cách của

Sài là sản phẩm của cuộc đấu tranh trong buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới,

giữa ánh sáng và bóng tối, giữa nhân cách và phi nhân cách” [39, tr.186].

Những thăng trầm của cuộc đời Sài mang rõ dấu ấn của một thời mà cả xã hội

và con người không tránh khỏi những sai lầm do ngây thơ, ấu trĩ nên nhiều

khi vô tình tàn nhẫn với nhau. Tính chất phân đôi hai mặt trong tính cách của

Sài cũng khá tiêu biểu cho một thế hệ luôn khát khao vươn tới sự hoàn thiện

nhưng phải trải qua nhiều va chạm, cọ xát dữ dội trong đời sống nhiều mặt và

cái giá phải trả bao giờ cũng rất đắt.

Cũng giống như Sài, Tâm trong Hai nhà cũng vì thiếu bản lĩnh, nhu

nhược nên họ dễ dàng bị lừa dối, bị phản bội trong tình cảm. Khi biết đứa con

mà anh nuôi nấng chăm sóc không phải là con mình, biết người vợ sống với

mình hằng ngày là một đứa đàn bà lăng loàn, luôn thèm khát đàn ông nhưng

vì quá nhu nhược, vì không dám đối diện với thực tế và cứ chìm sâu trong quá

khứ đẹp đẽ nên anh không dứt khoát bỏ vợ được. Sự rộng lượng của anh nào

ngờ đâu lại mở đường cho người đàn bà ấy tiếp tục lừa dối, biến anh trở thành

món đồ để cô ta liên tiếp “tráng men” cái hậu quả ăn chơi dâm đãng của

mình…Anh ngây thơ tin vào sự hối hận, thay đổi ở vợ và ra sức vun đắp, xây

lại hạnh phúc gia đình thì một lần nữa chính anh lại đẩy mình vào bi kịch bị

phản bội tiếp theo. Đau đớn hơn, chua xót hơn, sự phản bội ấy lại do người vợ

lăng loàn và lão hàng xóm thân thiết như anh em ruột thịt gây ra. Sự cả tin,

rộng lượng và hèn nhát của anh, đã biến anh trở thành một con người đáng

trách. Giá như anh quyết đoán hơn, giá như anh sâu sắc hơn và giá như anh

dám nhìn thẳng vào cái sự thật khắc nghiệt ấy thì cuộc đời anh sẽ không lâm

76

vào bi kịch liên tiếp bị phản bội như vậy.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu nhân vật Sài hay nhân vật Tâm, nếu chỉ nhìn họ

ở góc độ là những người thiếu quyết đoán thì chưa thực sự sâu sắc. Khi viết

về những nhân vật này, ta có thể thấy được rằng, quan niệm đạo đức đã chi

phối sâu sắc đến ngòi bút của tác giả. Dù Sài hay Tâm đều biết vợ phản bội,

cuộc sống gia đình ngột ngạt, không có hạnh phúc nhưng tại sao họ vẫn cứ

chìm đắm trong đó, chần chừ không dứt khoát tìm lối ra. Đó là vì họ nghĩ cho

gia đình, nghĩ cho những đứa con. Lối suy nghĩ vì gia đình, tình thương cho

gia đình dường như đã ăn sâu vào máu thịt của những người tốt như Sài và

Tâm. Một bên là cuộc sống tù túng, ngột ngạt, đầy giả dối, lừa lọc khiến con

người cảm thấy chán nản, muốn thoát ra, nhưng một bên là tình nghĩa, là

những kỉ niệm đẹp đẽ, là tình yêu thương con cái, mong muốn xây dựng gia

đình hạnh phúc khiến cho nhân vật quay cuồng với suy nghĩ mâu thuẫn, giằng

xé trong sự lựa chọn ấy. Quan niệm đạo đức đã hình thành trong họ lối sống

cam chịu. Xây dựng những nhân vật này, Lê Lựu đã làm nổi bật được nét

đáng quý của con người Việt Nam trong mối quan hệ với gia đình và xã hội.

Những tưởng rằng chỉ những người ngây thơ, cả tin như Tâm mới dễ bị

lừa gạt trong tình cảm, nhưng có những kẻ dù rất tinh ranh, sâu sắc, thậm chí

hiểu đời nhưng nếu thiếu bản lĩnh thì cuối cùng họ vẫn bị coi thường, bị phản

bội. Địa trong Hai nhà là một minh chứng tiêu biểu. Trong con mắt mọi

người, Địa là người học cao, là nhà tri thức kiểu mẫu, cái gì ông cũng nói như

hiểu biết rất rõ, rất hiểu đời. Chính ông là người chỉ dạy cho Tâm nhiều cách

ứng xử trong cuộc sống. Nhưng kì lạ thay, sống với người vợ lăng loàn, bỉ ổi

ngang nhiên “cắm sừng” chồng nhưng ông vẫn luôn xem như không có

chuyện gì, im lặng cho qua một cách hèn nhát. Chính ông đã biện hộ cho cái bản

tính nhu nhược, hèn hạ của mình bằng những triết lý tưởng chừng rất đúng đắn

rằng “là thằng đàn ông có bản lĩnh không phải chỉ biết tỏ ra mạnh mẽ, đàng

hoàng, dứt khoát không tự ái vặt, chấp chi vặt mà phải biết nhẫn nhục nuốt vào

77

bụng mình hết sự nhơ nhuốc, đểu giả của một con vợ ma quái như con yêu tinh.

Thằng đàn ông cãi cọ, quát mắng được vợ là thằng đàn ông nông nổi. Chịu

nhẫn nhục một cách hèn hạ, vui vẻ chấp nhận sự bỉ ổi, vô học, thậm chí cả sự

phản bội của vợ mình mới là thằng đàn ông sâu sắc, am hiểu sự đời” [25, tr.19].

Cả cuộc đời ông sống với vỏ bọc là nhà tri thức kiểu mẫu nhưng đi sâu vào cuộc

sống gia đình thì ông luôn đóng vai một người chồng bị bội bạc, bị lừa dối. Ông

không cả tin, ngây thơ như Tâm, ông biết rất rõ, thậm chí nhiều lần tận mắt

chứng kiến cảnh lăng loàn của vợ mình nhưng ông lại quay đi nhịn nhục một

cách hèn hạ, và xem mọi chuyện như chưa có gì xảy ra.

Mặc dù không phải là người thật thà, nhiệt tình như Tâm, nhưng bác

Địa cũng xem Tâm như anh em thân thiết, quan tâm, giúp đỡ gia đình Tâm.

Ông cũng là một người khôn ngoan, hiểu đời, không gì qua được mắt ông,

ông nhẫn nhục, chịu đựng sự loăng loàn của vợ như “một thằng đần, ngu

hoặc bị bệnh tâm thần rất nặng” nhưng trong ông luôn ấp ủ, nuôi cái ý định

trả thù, bởi ông nhận ra rằng: “những con đàn bà lúc nào cũng lồng lên như

bò động đực kiểu vợ tôi thì khi nào tàn tạ nhan sắc, kiệt quệ sức lực nó mới

chịu thất bại. Mình muốn là kẻ chiến thắng phải nhẫn nhục, kiên trì mà chờ

đợi, mà lặng lẽ tìm kiếm một con đàn bà khác còn sức lực, còn nhan sắc trước

mặt con vợ tàn phai, kiệt quệ của mình thì mới là thằng đàn ông có trí lực cao

cường” [25, tr.282]. Cuối cùng ông đã chọn chính vợ của người bạn thân thiết

là Tâm để thực hiện cái ý định trả thù đê hèn của mình. Đến lúc này, người

đọc không thể có cái nhìn cảm thông hay tiếc rẻ cho một con người nhu

nhược, luôn bị vợ cắm sừng nữa, mà thay vào đó là cái nhìn kinh bỉ đối với

loại người ích kỉ, bất chấp tình cảm bạn bè, láng giềng thân thiết để thỏa mãn

cơn dục vọng và lòng căm thù trắc ẩn của mình. Không dám nhìn mặt Tâm

sau những gì mình đã làm, Ông để lại lá thư và tìm đến cái chết. Đến lúc này

ông vẫn tin rằng mình “đã chiến thắng”: “tôi đã đau khổ, đã mất quá nhiều,

78

đã kiên trì mai phục quá lâu và rất may mắn là tôi đã giành thắng lợi trước

vợ tôi và tôi may mắn hạnh phúc hơn hàng nghìn hàng vạn người khác, tóm

lại là tôi đã mãn nguyện” [25, tr.286].

Với nhân vật Địa ta khó có thể nói rằng ông là một người tốt cũng

không thể nói ông là người hoàn toàn xấu. Đằng sau con người tỏ ra sâu sắc,

hiểu đời, khôn ranh, lọc lõi ấy, cũng có lúc là người bạn tri kỉ, thân thiết, là

người hàng xóm tốt bụng nhưng cả cuộc đời ông lại phải sống trong khổ sở,

đau đớn, nhẫn nhục để chờ ngày trả thù và giành chiến thắng người vợ bội

bạc, dâm đãng. Trong suy nghĩ quái gở của ông, dù kết cục phải tìm đến cái

chết, dù phản bội người hàng xóm tốt bụng như ruột thịt nhưng ông vẫn là

người chiến thắng và là người may mắn hơn so với nhiều người. Đến đây ta

dường như lại bắt gặp kiểu nhân vật tha hóa do những suy nghĩ nông cạn, sai

lầm trong những sáng tác khác của Lê Lựu. Là một người đàn ông, là người

chồng, người bố trong gia đình, Địa đã sai khi chọn cách sống như vậy. Suy

cho cùng ở ông cái bản tính nhu nhược, hèn nhát đã đẩy ông rơi vào bi kịch bị

phản bội và phản bội người khác.

Cả Sài, Tâm và Địa đều rơi vào bi kịch bị phản bội, là những người đàn

ông vì cam chịu, nhẫn nhục, cả tin, thiếu quyết đoán nên họ đều thất bại trong

cuộc sống hôn nhân, gia đình. Nhưng mỗi người đã chọn cho họ một con

đường riêng. Nếu Sài quyết định dứt khoát thoát khỏi cuộc sống gia đình ngột

ngạt, trở về làng Hạ vị với hai bàn tay trắng và bắt đầu lại từ đầu thì Địa lại

tìm đến cái chết với ý nghĩ rằng mình là người chiến thắng sau những ngày

tháng đau khổ, chịu đựng cuộc sống nhơ nhuốc, giả tạo. Qua kiểu nhân vật

này, Lê Lựu đã thực sự đã chạm được đến chỗ trung thực nhất trong bản chất

con người. Ngòi bút của ông đã vô cùng tinh tế và sâu sắc, đã len lỏi đến tận

cùng nơi sâu thẳm nhất, bí ẩn nhất của con người, ông đã khám phá được con

79

người ở chiều sâu nhân bản nhất.

Tiểu kết chương 2

Có thể nói rằng, sự đổi mới đặc sắc nhất trong Tiểu thuyết Lê Lựu thời

kỳ này chính là sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người được

thể hiện qua cách xây dựng hình tượng nhân vật. Đọc sáng tác của Lê Lựu, ta

bắt gặp một thế giới nhân vật đặc sắc, đó là những người tốt nhưng vì nhiều lý

do mà cuộc đời luôn chìm sâu trong những bi kịch đau buồn, là những kẻ tha

hóa xấu xa nhưng vẫn sống nhởn nhơ nhờ sự may mắn, có những con người

luôn tồn tại với sự đấu tranh giằng xé giữa hai mặt tốt - xấu, lại có những

người giàu yêu thương, cam chịu nhưng chỉ nhận được nỗi cô đơn, bất

hạnh…Qua những hình tượng nhân vật, Lê Lựu đã thể hiện được những tư

tưởng lớn lao. Tuy có lúc tác giả còn chịu ảnh hưởng của những định kiến cá

nhân, nhưng những đóng góp của Lê Lựu vẫn hết sức to lớn. Viết về con

người, nhà văn đã chĩa ngòi bút vào hiện thực, bóc trần và tố cáo nó, từ đó

đánh thức con người, giúp họ nhận ra giá trị của cuộc sống đích thực, kêu gọi

80

họ hãy sống có trách nhiệm với chính mình và với xã hội.

Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình

Để xây dựng được những hình tượng chân thực như Giang Minh Sài

trong Thời xa vắng, hay Núi trong Sóng ở đáy sông, kể cả những nhân vật xấu

xa nhưng rất thật như Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà)…Lê Lựu đã

sử dụng nhiều biện pháp xây dựng nhân vật độc đáo. Nhân vật trong tiểu

thuyết Lê Lựu hiện lên rất đầy đặn ở cả chân dung bên ngoài và đời sống nội

tâm bên trong. Có những nhân vật được miêu tả tỉ mỉ, có những nhân vật chỉ

được phác thảo bằng một vài chi tiết. Nhưng tất cả được hiện lên rất sống

động. Sự thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê

Lựu không phải ở sự mới lạ mà nằm ở khả năng vận dụng kỹ thuật xây dựng

nhân vật giàu chất truyền thống. Những sáng tác của Lê Lựu thời kỳ đổi mới

tập trung xoáy sâu vào những vấn đề của đời sống cá nhân. Nghệ thuật miêu

tả ngoại hình nhân vật là một trong những cách tiếp cận làm nổi bật hình

tượng nhân vật. Có thể khái quát cách xây dựng nhân vật của Lê Lựu ở hai

đặc điểm, đó là xây dựng ngoại hình nhân vật tương xứng với tính cách và

nhân vật có ngoại hình không tương xứng với tính cách.

Kiểu nhân vật có ngoại hình tương xứng với tính cách có khi được

miêu tả trực tiếp qua điểm nhìn của người trần thuật, có khi được miêu tả gián

tiếp thông qua điểm nhìn của các nhân vật khác trong tác phẩm.

Đọc Thời xa vắng hẳn người đọc không thể quên hình ảnh anh nông

dân Sài hiền lành, chất phác. Tính cách này của Sài dường như đi theo anh

đến hết cuộc đời, dù cuộc sống của anh trải qua nhiều thay đổi, dù đất nước

đang trong chiến tranh hay hòa bình, sống ở nông thôn hay đô thị thì bản tính

81

thật thà của một anh nhà quê chân chất vẫn không hề mất đi. Với Giang Minh

Sài, Lê Lựu không dùng nhiều trang viết miêu tả ngoại hình, nhưng qua

những nét đặc tả về nhân vật người đọc vẫn hình dung ra một anh Sài đúng

chất nông dân. Sài hiện lên với vẻ đẹp ngoại hình tương xứng với tính cách,

đó là một anh thanh niên “đẹp trai, khỏe mạnh, thông minh mà lại hiền”.

Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì Sài sẽ không có gì đặc biệt mà sẽ dễ bị nhạt

nhòa, hòa lẫn với nhiều nhân vật và con người khác. Vì vậy, để nhân vật của

mình trở nên đặc biệt và nổi bật, Lê Lựu đã khoác cho Sài “một bộ áo cánh

nâu”, cho anh “đội nón” và đi “chân đất” với “một chiếc túi dết đã vá hai

miếng” [26, tr.48] cộng với dáng dấp “tất bật, quê mùa” nữa thì đây đích thị

là một anh nông dân không lẫn vào đâu được. Miêu tả ngoại hình nhân vật

không chỉ để người đọc hình dung hay mường tượng về nhân vật đó thế nào,

mà tác giả qua đó muốn khắc họa chân dung bên trong của nhân vật. Ngoại hình

đó phần nào thể hiện được cuộc đời của một anh nông dân cam chịu nhiều khổ

đau, bất hạnh, yếu đuối, không dấu được với “đôi mắt buồn xa xôi…đôi môi dày

mím lại lặng lẽ mà vẫn như gợi mọi người phải nhìn vào nó, tìm ở phía trong nó

một cái duyên thầm và bao nhiêu điều sâu xa” [26, tr.173]. Những điều sâu xa

đó được minh chứng qua cuộc đời Sài sau này. Điều đặc biệt của Lê Lựu

chính là chỗ đó. Không kể nhiều, tả nhiều nhưng với những nét đặc trưng, ông

đã làm nổi bật được đời sống, tính cách nhân vật trước hết qua cách khắc họa

ngoại hình nhân vật.

Vẫn với nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngoại hình, Lê Lựu dành

nhiều ưu ái cho nhân vật Hương. Ở Hương tác giả không chỉ xây dựng hình

ảnh một người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn mà còn có ngoại hình xinh đẹp.

Ngoại hình của Hương hiện lên chủ yếu qua cảm nhận của nhân vật Giang

Minh Sài. Khi còn học cấp hai, Sài đã phải tìm cách tránh xa cô vì một lẽ giản

đơn: “Cho đến hôm ấy, Sài mới thấy một cô gái đẹp như thế”, đó là vẻ đẹp

82

của một cô gái quê thanh khiết, trong trắng. Lần đầu tiên gặp cô, anh đã

không thể nào quên được cô gái có “cái gáy nõn nà do hai hàng tóc rẽ ra cặp

gọn gẽ thành hai mảng đen mướt trùm xuống hai bờ vai” [26, tr.48]. Trước vẻ

đẹp của Hương, Sài luôn cảm thấy tự ti vì mình “là thằng bé quê mùa đã có

vợ” [26, tr.48] nên dù học chung lớp nhưng hầu như chưa lần nào Sài dám

nhìn thẳng vào Hương. Nhưng cái ấn tượng về người con gái duyên dáng,

xinh đẹp luôn sống mãi trong tâm trí Sài. Với “đôi mắt long lanh lúc nào

cũng như cười, cái miệng với hàm răng rất trắng và đều đặn” mỗi lần Hương

nở nụ cười thì khiến người đối diện không thể nào quên. Vẻ đẹp trong sáng,

dịu dàng, thuần khiết của người con gái đó đã cho thấy một tâm hồn trong

sáng, một tình yêu thủy chung nhưng không kém phần mãnh liệt. Có thể nói

Hương là hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ vừa đẹp người lại đẹp nết,

vừa có nhan sắc lại giàu phẩm hạnh. Đặt Hương trong mối quan hệ gắn bó với

nhân vật Sài, Lê Lựu càng soi rọi, làm nổi bật bi kịch cuộc đời của nhân vật

Sài. Sự đối lập về tính cách của hai nhân vật, một bên là người con gái mạnh

mẽ, chung thủy, sẵn sàng làm tất cả để giữ lấy tình yêu, một bên là chàng trai

nông dân chất phác, thụ động, thiếu bản lĩnh, không quyết định được hạnh

phúc cuộc đời mình nên cuối cùng đánh mất tình yêu đích thực của mình và

cả cuộc đời phải hứng chịu thất bại.

Ông Đại trong Sóng ở đáy sông là kiểu nhân vật có tính cách khác

người, dị biệt. Để làm nổi bật tính cách đó, Lê Lựu đã miêu tả nhân vật với ngoại

hình cũng khá đặt biệt, có thể nói là ấn tượng. Về ngoại hình đó là một “người

cao to, hồng hào, không có râu nên rất khó đoán tuổi và không biết lúc nào đang

vui hay đang buồn vì rất ít khi ông nói cười với vợ con” [33, tr.6]. Khuôn mặt

của ông dường như thiếu sự biểu cảm, điều đó khiến người đọc hình dung về

một con người khô khan, thiếu tình cảm. Vẫn là khuôn mặt không vui không

buồn ấy, trong đám tang người vợ “ông lặng lẽ với những cái bắt tay đều đều,

83

với những lời lẽ rất đều đều trên khuôn mặt không ai biết là buồn hay vui.

Ông không thắm thiết với ai, cũng chẳng ghẻ lạnh với ai” [27, tr.78]. Ông

luôn tạo cho mình một ngoại hình chải chuốt, khó ai có thể thấy ông ăn mặc

“nhầu nhĩ, xốc xách, rối bù” bao giờ, và “kể cả ngồi trong hầm trú ẩn, ông

vẫn giữ được đường ngôi trên đầu mượt và thẳng” [27, tr.103]. Miêu tả nhân

vật này, tác giả tập trung diễn tả khuôn mặt, với những nét đặc tả, đó là khuôn

mặt khó nắm bắt được cảm xúc. Không ai có thể đoán được những suy nghĩ,

hay tình cảm gì qua khuôn mặt ấy. Khắc họa chân dung nhân vật với những

nét dị biệt, Lê Lựu đã thành công khi đi sâu làm nổi bật tính cách, bản chất

nhẫn tâm, máu lạnh, khô khan, cứng nhắc và vô cảm của con người này.

Như vậy, trong các sáng tác của mình, Lê Lựu đã thành công khi sử

dụng ngòi bút miêu tả chân dung bên ngoài để làm nổi bật đời sống nội tâm

bên trong của nhân vật. Nhưng bên cạnh những nhân vật có ngoại hình tương

xứng với tính cách nhân vật, thì tác giả còn tạo được nét riêng trong những

sáng tác của mình thông qua loại nhân vật có ngoại hình không tương xứng

với tính cách. Chính sự đối lập giữa bên ngoài và bản chất bên trong đã làm

cho nhân vật hiện lên độc đáo hơn và gây ấn tượng mạnh hơn. Lê Minh Hiếu

(Chuyện làng Cuội), Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà)… là những

kiểu nhân vật như vậy.

Với Lưu Minh Hiếu, tác giả không tập trung miêu tả nhiều ngoại hình,

nhưng chỉ vài nét đặc tả, nhân vật hiện lên khá đặc biệt. Khó ai có thể đoán được

cái bản chất thật của con người giả dối, độc ác ấy qua khuôn mặt có duyên, qua

nụ cười lúc nào của nở trên môi: “cái miệng rộng và sang. Hàm răng hơi nhô

vừa vừa đủ để làm người có duyên, xởi lởi, không vổ” [24, tr.153]. Ngoại hình

đó trở thành trợ thủ đắc lực để hắn lấy lòng mọi người. Trong mắt mọi người

hắn không chỉ tài giỏi mà còn rất vui vẻ, thân tình, hết lòng vì dân làng. Sự

nhẫn tâm, giả dối, bản chất bỉ ổi, nham hiểm của hắn ẩn giấu sau cái nụ cười

84

duyên dáng, xởi lởi ấy một cách hoàn hảo, khéo léo. Vì thế hắn đã có những

cú lừa ngoạn mục đối với tất cả mọi người. Với những nét ngoại hình đặc

biệt, Lê Lựu đã dần vén bức màn về tính cách nhân vật thông qua sự đối lập

về ngoại hình và nội tâm nhân vật.

Viết về những nhân vật có ngoại hình đối lập với tính cách nhân vật, Lê

Lựu dành nhiều đất diễn cho những người phụ nữ đẹp nhưng giả dối. Đó là

những cô gái thành thị, thuộc tầng lớp tri thức như Châu hay Linh Anh. Họ

giống nhau ở lối sống giả dối, buông thả, ở bản tính lăng loàn, mất nết nhưng

họ lại được trời phú cho một lớp bọc hoàn hảo, một nhan sắc mĩ miều.

Nếu Hương đẹp ở vẻ đẹp đoan trang, trong sáng, thuần khiết thì Châu

lại mang vẻ đẹp sắc sảo, cuốn hút với “đôi mắt lúc nào cũng bốc lên ngọn lửa

ngùn ngụt sức trẻ trung” [26, tr.199], đôi mắt ấy đã hút mất hồn vía của Sài,

khiến anh quên hết tất cả và chỉ muốn đắm chìm trong tình yêu với cô gái

“đẹp như tiên, thông minh và dịu dàng”, có đôi mắt đẹp hút hồn ấy. Với vẻ

đẹp của mình, Châu đã lừa dối và lao vào cuộc tình với biết bao người đàn

ông, nhưng có lẽ thành công nhất của cô là khiến Sài u mê trong sự lừa dối ấy

và từng bước hủy hoại cuộc sống của một người lính đầy bỡ ngỡ như Sài khi

tiếp xúc với cuộc sống thành thị. Bản chất mộc mạc, thật thà của người nông

dân như Sài đã hoàn toàn thất bại khi chung sống với cô gái thành thị xinh

đẹp nhưng giả dối, hư hỏng như Châu. Sự tan rã của cuộc hôn nhân chông

chênh ấy dường như là một tất yếu.

Cũng giống như Châu, Linh Anh cũng được trời phú cho vẻ đẹp cuốn

hút, đầy ma lực với “đôi mắt sáng bất kể lúc nào cũng trở thành giông bão,

làm cho lật những gã đàn ông si tình như chiếc thuyền nan lênh đênh chìm

nổi giữa khơi xa mù mịt. Hai mi mắt dài, đen ẩm ướt của đôi mắt sóng sánh

ấy, chỉ cần một cái liếc nhẹ cũng làm tan nát, rụng rời bất cứ kẻ nào mon men

đến trêu đùa, tán tỉnh” [25, tr.103]. Cô còn sở hữu một đặc sản, ấy là “cái má

85

lúm đồng tiền ở bên má trái…khi cô cười tủm hay cười thành tiếng, thậm chí

chỉ hơi nhếch mép lên một chút thì cái lúm đồng tiền đã xoáy tròn lại, nói

không ngoa, nó như cái xoáy nước ở sông Cái, tạo nên những hũm rất sâu, có

thể hút hàng trăm người chìm nghỉm cùng một lúc” [25, tr.103]. Nhưng trái

với ngoại hình xinh đẹp ấy lại là một tính cách lăng loàn, hư hỏng. Cô ta sẵn

sàng trao thân cho bất cứ người đàn ông nào, kể cả già lẫn trẻ, để rồi ngụy

trang bằng vẻ ngoài hoàn hảo lừa dối chồng mình. Hai đứa con, kết quả của

những ngày tháng ăn chơi sa đọa, những cuộc tình vụng trộm sau lưng chồng.

Cái khuôn miệng xinh đẹp, duyên dáng ấy là nguồn gốc của những lời nói

thất học, giả dối.

Miêu tả đối lập gay gắt giữa vẻ đẹp bên ngoài và bản chất nội tâm bên

trong khi viết về những người phụ nữ như Châu hay Linh Anh có thể gây ấn

tượng mạnh đối với người đọc khi khám phá tác phẩm. Nhưng với một cách

nhìn nhận khác, đây cũng là hạn chế trong đánh giá con người của nhà văn. Ở

đây, cảm xúc chủ quan thái quá đã chi phối cách miêu tả nhân vật của Lê

Lựu. Nhưng điều đó vẫn không làm mất đi giá trị của tác phẩm, bởi những

đứa con tinh thần ấy đã đứng vững trong lòng người đọc bởi một thế giới nội

tâm có chiều sâu và rất sắc sảo.

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm

Xuất phát từ quan niệm “tiểu thuyết là tiểu thuyết của tính cách, của số

phận con người” [23, tr.548], nên Lê Lựu đã dành trọng tâm trong những

sáng tác của mình bằng cách diễn tả số phận con người. Nét đặc sắc làm cho

tiểu thuyết của ông mãi thu hút người đọc chính là sự tái hiện số phận con

người thông qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Lê Lựu chú ý diễn tả

những trạng thái cá nhân như một nhu cầu tự nhận thức của con người. Lê

Lựu ít chú ý đến hành động bên ngoài mà chú ý nhiều hơn đời sống bên trong

của nhân vật. Ông “tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến chân tơ, kẽ tóc, đến cả

86

ngọn ngành sâu thẳm nhất của tình cảm và suy nghĩ” [23, tr.577].

Với nghệ thuật miêu tả nội tâm, Lê Lựu đã chọn cho mình một phong

cách dễ nhận ra đó là đặt nhân vật vào những hoàn cảnh sống khắc nghiệt,

buộc nhân vật phải thường xuyên phán xét, tự nhận thức bản thân trong sự

vênh lệch giữa khát vọng sống cao đẹp và thực tại tầm thường, giả dối. Lê

Lựu đặc biệt quan tâm đến những dằn vặt, suy nghĩ, những trải nghiệm của

nhân vật trước cuộc sống, tức là chú ý đến quá trình tự ý thức và đời sống nội

tâm nhân vật. Ngòi bút của ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách trái tim nhân

vật để phát hiện ra những sự thật trong tâm hồn họ và chạm đến những điều bí

ẩn trong con người họ. Ông khai thác nội tâm đó một cách chân thực khi đặt

nhân vật của mình rơi vào những bi kịch. Họ không được sống là chính mình,

không dám là mình.

Ở nhân vật Giang Minh Sài (Thời xa vắng), thế giới nội tâm chính là

quá trình tự ý thức diễn ra song hành với đường đời của nhân vật. Thế giới

nội tâm ấy được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, một phương tiện

biểu hiện hữu hiệu thế giới bên trong con người. Thông qua độc thoại nội

tâm, thế giới bên trong của Giang Minh Sài với tất cả những hoài bão, ước

mơ, những đau khổ, cay đắng, dằn vặt đã hiện lên chân thực, sinh động. Vốn

là một người thông minh nên ngay từ bé, khi bị áp đặt với cuộc hôn nhân

không mong muốn anh đã sớm nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Khi chạm

đến ngưỡng cửa tình yêu, anh bẽ bàng nhận ra “ôi tình yêu, anh biết rằng anh

cũng có một nỗi khát khao đối với một người con gái như tất cả bạn bè. Chỉ

có khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho đúng là anh không được phép

có một tình yêu” [26, tr.98]. Suy nghĩ của Sài vừa cho thấy cảnh ngộ của anh

thật đáng thương, nhưng cũng qua đó cho thấy trái tim yếu đuối của Sài. Anh

khao khát được thoát khỏi Tuyết, anh mong có “một ông giời nào xuống đây

để cho hai người ly hôn” mà không hiểu rằng việc đó có thể làm được bằng

87

chính bản thân anh, nếu anh có đủ bản lĩnh, vượt qua sự hèn nhát, yếu đuối

của chính mình. Muốn trốn chạy cuộc hôn nhân, anh tham gia chiến tranh, vì

anh nghĩ nếu vậy anh sẽ được yên thân và chẳng ai có thể hành hạ anh chuyện

vợ con. Nhưng một lần nữa, vì thiếu sự quyết đoán, vì quá yếu mềm nên anh

lại làm theo ý của cấp trên “yêu vợ” và khi điều đó thành sự thật thì anh lại

buồn cho chính mình và lo cho cả số phận của đứa con sau này rồi không biết

sẽ ra sao. Bản thân con người anh không phải không nhận ra bi kịch của cuộc

đời mình, mà ngược lại anh nhận thức rất rõ về nó. Nhưng tất cả chỉ dừng lại

ở những suy nghĩ, dằn vặt và đau khổ của anh khi cuộc sống không như anh

mong muốn. Anh cứ thể để mình bị cuốn trôi và chìm sâu trong bi kịch đó hết

lần này đến lần khác. Bởi anh quá yếu đuối, bởi anh không dám quyết định

bất cứ điều gì liên quan đến cuộc đời mình, bởi anh không dám sống là mình.

Trong chiến tranh, anh luôn sống hộ người khác, để người khác quyết định

cuộc đời mình nên anh rơi vào bi kịch. Nhưng đến thời bình, khi anh được

quyết định chọn lựa cho cuộc sống của mình thì một lần nữa anh lại lựa chọn

sai và sai lầm lớn nhất của anh là lựa chọn nửa kia còn lại của cuộc đời mình.

Trong cuộc hôn nhân với một cô gái thành thị xinh đẹp như Châu, Sài thấy

mình ở trong trạng thái chới với, nhiều lúc anh nhận ra mình không còn là

mình. Một lần nữa anh lại để người khác điều khiển, anh đã dẫm lên vết xe đổ

của chình mình. Những mâu thuẫn liên tiếp xảy ra với Châu, khiến Sài dần

dần tự ý thức được cuộc sống của chính mình, và đến lúc anh đủ tỉnh táo để

nhận ra “anh không thể tiếp tục cuộc sống không phải là mình, không còn là

mình, cái có thì thừa, cái không có thì phải ứng xử hàng ngày, cố mãi từng

ngày vẫn thấy thiếu hụt” và anh quyết định “phải tìm cách sống khác thôi”

[26, tr.282]. Sai lầm nối tiếp sai lầm, trải qua từng chặng đường cuộc đời,

cuối cùng chính Sài đã dần trưởng thành hơn trong sự tự ý thức của chính

mình và anh chua xót nhận ra “giá như ngày ấy em cứ sống với tình cảm của

88

chính mình, mình có thế nào cứ sống như như thế…” [26, tr.332] thì giờ mọi

chuyện sẽ khác. Cuộc đời Sài là cả một sự trải nghiệm trong bi kịch thất bại,

đó là cả một quá trình chiêm nghiệm và từng trải qua cuộc đời của chính

mình. Cái tài tình của Lê Lựu chính là qua sự trải nghiệm, sự tự ý thức của

nhân vật để lột tả tận cùng nội tâm sâu kín của nhân vật. Những uẩn khúc,

những dằn vặt, đau khổ và quá trình tự ý thức của Sài đã được Lê Lựu tái hiện

một cách đầy thuyết phục.

Khi miêu tả nhân vật Hương tác giả lại tập trung khắc họa nội tâm qua

ngôn ngữ nhân vật. Tính cách của nhân vật này được thể hiện đậm nét nhất

bằng những lời nói và suy nghĩ qua những bức thư mà Hương gửi cho Sài hay

cuộc trò chuyện với chú Hà. Hình thức những bức thư được Lê Lựu sử dụng

như một phương tiện nghệ thuật đặc sắc. Lời đối thoại, độc thoại của nhân vật

được thể hiện chân thực và sâu sắc nhất qua những bức thư. Trong những bức

thư gửi cho Sài, Hương đã thẳng thắn bộc lộ những tình cảm mãnh liệt của

mình qua những lời tâm sự dành cho Sài: “Gần một tháng nay kể từ khi đến

lớp, em bị tai tiếng đi theo. Nhưng em cần gì. Ai muốn xa lánh khinh bỉ em,

em xa hẳn và khinh họ luôn. Em chỉ cần có một mình anh yêu em, anh ở bên

em…Hầu như không đêm nào em không khóc và đã có lần nằm mơ thấy anh

đang bị bủa vây (…) em hét lên lao đến, ôm chầm lấy anh” [26, tr.65], điều đó

cho thấy Hương là một cô gái mạnh mẽ, dám làm tất cả để bảo vệ hạnh phúc

của chính mình. Những câu đối thoại của Hương với chú Hà càng thể hiện

được khát khao bảo vệ tình yêu của cô, mong muốn dùng tình yêu trong sáng

để chiến thắng dư luận, vượt qua những lời dị nghị “Cháu nghĩ nếu chú đứng

ra giải quyết việc này thì anh Sài sẽ được cứu thoát”. Cô cho rằng “dư luận

chỉ lên án những việc làm sai trái với lương tâm và pháp luật” nên cô luôn

muốn chiến thắng dư luận, sống không cần quan tâm đến dư luận. Những câu

hỏi cô đặt ra cho chú Hà, càng thể hiện được tính cách của một người con gái

89

yêu hết mình và sẵn sàng bảo vệ tình yêu của mình.

Với Hai nhà, hình thức nhật ký lại được tác giả sử dụng để làm sáng tỏ

chân dung, tính cách đời sống nội tâm nhân vật. Ở tác phẩm này, tác giả dành

trọn chương ba trong số năm chương của tác phẩm với nhan đề “Sự nhấm

nháp độc ác” để làm nổi bật tính cách và con người thật của Linh Anh qua

những trang nhật ký của cô. Quá khứ xấu xa, hư hỏng, giả dối của cô bị lật tẩy

hoàn toàn. Sự thật về chân dung của một con người do chính cô vẽ lên có sức

thuyết phục mạnh mẽ. Đến cuối tác phẩm hình thức bức thư lại được Lê Lựu

sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật đắc lực thể hiện bộ mặt và tính cách của

nhân vật Địa. Bức thư tuyệt mệnh là lời trăn trối, là lời giải bày tâm sự của

Địa đối với người anh em hàng xóm là Tâm. Với hình thức này, thế giới bên

trong của nhân vật Địa được tái hiện chân thực. Đọc bức thư, người đọc sẽ vỡ

lẽ ra nhiều điều, rằng tại sao một con người hiểu đời như Địa lại chấp nhận

cuộc hôn nhân với người vợ phụ bạc và tại sao Địa thân thiết với Tâm như thế

lại lén lút qua lại với vợ Tâm… Những suy nghĩ của nhân vật dần được mở ra

qua những dòng kể và những lời tường thuật của nhân vật trong bức thư. Từ

đây tính cách nhân vật hiện ra từng tý một, chân dung bên trong của nhân vật

vì vậy hiện lên chân thực hơn bao giờ hết.

Nội tâm nhân vật bà Đất (Chuyện làng Cuội) lại được thể hiện qua sự

đấu tranh giằng xé trong suy nghĩ và hành động nhân vật. Nét nổi bật về tính

cách của nhân vật này là sức chịu đựng ghê gớm. Bên trong cái vẻ nhu mì,

hiền lành là một thế giới nội tâm đầy giằng xé và mâu thuẫn. Khi bị chà đạp,

đau đớn đến tột cùng, cô muốn tìm đến cái chết nhưng ngay phút giây ấy cô

đau xót nhận ra cảnh ngộ của mình: sống không nổi mà chết cũng chẳng xong

bởi cô “sợ để lại tai tiếng cho mẹ, cho các anh, cô không dám xuất hiện một ý

nghĩ liều lĩnh nào nữa” [24, tr.71]. Dù không thiết sống nhưng nghĩ đến gia

đình cô lại không dám nghĩ đến cái chết. Chỉ bấy nhiêu suy nghĩ cũng đủ lột

90

tả được tấm lòng hiếu thảo, nhân hậu của cô. Khi sinh con không có bố, trở về

làng với danh nghĩa vợ Việt minh, sống trong sự yêu thương, cảm thông của

gia đình và hàng xóm nhưng chưa lúc nào cô cảm thấy thật sự hạnh phúc bởi

trong lòng luôn day dứt và dằn vặt về sự giả dối của mình “đến bao giờ mình

mới không là kẻ ăn cắp tấm lòng ngay thẳng, thật thà của bạn bè, hàng xóm”

[24, tr.76]. Nỗi đau đớn được đẩy đến đỉnh điểm khi nhà văn đặt nhân vật vào

tính thế phải lựa chọn vô cùng khó khăn “giữa chồng bị tù đày và có thể

người ta xử bắn với con suốt đời bị lạnh nhạt khinh bỉ”. Sự lựa chọn ấy đã tạo

nên nhiều mâu thuẫn trong con người cô, vừa thương chồng lại vừa thương

con. Cô tự nhủ: “Thôi xấu thì xấu rồi còn gì để xấu thêm mà phải trốn tránh.

Khai được chuyện này bao nhiêu chuyện khác có thể gỡ ra được, chồng mụ

không phải bị buộc tội oan …nhưng khi nghĩ đến con mụ lại run lên không

nói được gì” [24, tr.243]. Sự đấu tranh giằng xé để chọn lựa đó đã làm nổi bật

được tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của bà Đất và trái tím nhân hậu, tình

yêu sâu sắc với chồng. Sống trong xã hội tàn nhẫn, bà Đất dường như quá sợ hãi,

không đủ sáng suốt để đưa ra lựa chọn đúng đắn. Cuối cùng bà phải trả giá cho

sự sai lầm đó bằng chính tính mạng của người chồng mà bà hết lòng yêu thương,

trân trọng. Rồi sai lầm nối tiếp sai lầm, vì quá thương yêu con nên bà đã không

đủ tỉnh táo để phân biệt đúng sai, nhất mực làm theo ý muốn của con mình và

hết lần này lần khác bà phải đóng vai ác, sống không còn là chính mình. Bà chấp

nhận làm mọi chuyện, thậm chí cắn răng chịu đựng sự ghẻ lạnh, khinh miệt của

làng xóm nhưng cuối cùng bà lại bị chính đứa con ấy phản bội. Với số phận

nhân vật này, có lẽ cái chết chính là sự giải thoát nhẹ nhàng và hợp lý nhất để

chấm dứt cả chuỗi đời sống trong đau đớn, dằn vặt với những nỗi đau mất mát,

tận cùng.

Tâm lý nhân vật Núi (Sóng ở đáy sông) được Lê Lựu miêu tả qua quá

trình đấu tranh bên trong nội tâm để thoát khỏi con đường tội lỗi. Sau những

91

tháng ngày lang thang, trộm cắp, qua những sa ngã, trượt dốc, với sự đấu tranh

để lựa chọn con đường sống cho tương lai gắn với những biến cố của cuộc đời,

cuối cùng Núi đã quyết định đi trại cải tạo lao động dành cho thanh niên chậm

tiến. Núi ao ước “có được một việc làm” bởi “hắn sợ lang thang lắm rồi”. Trước

những khó khăn của cuộc sống, hắn đã về cầu cứu tình thương của cha nhưng bị

từ chối, hắn thương các em và thầm nghĩ “mỗi lần về kiếm ăn ở nhà nhục lắm.

Mình được miếng vào bụng nhưng các em thì nước mắt vòng quanh thương anh.

Rồi vụng vụng, trộm trộm, trông khổ thân chúng nó lắm” [27, tr.110]. Điều đó có

nghĩa là bản chất của Núi là một người anh tốt, hết lòng thương yêu và lo cho

các em. Xuất phát từ con người hiền lành, lương thiện nhưng vì quá khổ cực, vì

gánh nặng trên vai quá lớn, hắn hy sinh tương lai của mình. Giây phút hắn khóc

bên mộ mẹ là quãng thời gian đau đớn nhất của một người lương thiện khi biết

rằng từ ngày mai mình đã biến thành một người khác, một kẻ ăn cắp. Hắn khóc

vì thương cho các em, thương cho chính mình và cảm thấy có lỗi với người mẹ

hiền lành. Đến đây thực sự Lê Lựu đã chạm đến tận cùng nỗi đau của một con

người lương thiện biết mình sai nhưng vẫn mặc cho dòng đời cuốn trôi vào vòng

tội lỗi. Nhiều lúc trước lời khuyên của các em, hắn cũng ý thức được rằng “đây

là cơ hội duy nhất hắn có thể trở thành người lương thiện nếu như hắn nghe em

gái, nếu như hắn có đủ nghị lực vượt lên khỏi nỗi chán ngán, nếu như hắn vứt bỏ

sự thèm thuồng tội lỗi đã ngấm ngầm trở thành thói quen, để biến hắn thành kẻ

nghiện ngập bụi bậm, háo hức đầy hứng thú” [27, tr.128]. Qua những trang miêu

tả nội tâm, Lê Lựu đã cho nhân vật tự nói về con đường tội lỗi của chính mình.

Núi lầm đường lạc lối một phần do hoàn cảnh, phần khác do bản thân Núi không

vượt lên được chính mình. Thói “ngựa quen đường cũ” như một chân lý, được

tác giả sử dụng phù hợp trong trường hợp của Núi, bởi tất cả đã trở thành thói

quen, dường như đã ngấm vào máu nên nếu không đủ bản lĩnh và nghị lực thì sẽ

không bước chân ra khỏi vũng bùn đen tối ấy được. Nhưng dù có lên án, chê

92

trách tội lỗi của nhân vật thế nào thì Lê Lựu vẫn không mất lòng tin vào bản tính

con người. Sự lương thiện vẫn tồn tại trong tên ăn cắp ấy khi hắn nghĩ về gia

đình, nghĩ về đứa con. Những năm tháng tù đày, hắn luôn nghĩ về con, lo lắng

cho con “buổi sáng có ai đỡ con dậy hay lại lăn xuống đất? Buổi trưa, buổi tối

con có ăn được không? Đến đêm ai buông màn, bắt muỗi cho con? Ai dỗ dành

con mỗi khi khóc gào lên nhớ bố” [27, tr.246]. Ra ngoài xã hội hắn là thành phần

xấu xa nhưng khi về với con hắn lại là một người bố tốt, chăm lo cho con từng li

từng tí. Rõ ràng trong sâu thẳm tâm hồn tên tội đồ ấy vẫn luôn le lói những tia

sáng của tình yêu thương, của bản tính lương thiện. Điều sâu sắc của Lê Lựu

chính là chỗ đó, ngòi bút của ông cứ nhẹ nhàng len lỏi vào tâm hồn nhân vật để

nói lên nỗi niềm, tình cảm của nhân vật. Chính trái tim vẫn biết yêu thương ấy đã

soi sáng, mở đường cho Núi quay trở về con đường lương thiện. Và lúc này hắn

cảm thấy rằng, quanh hắn vẫn còn nhiều người tốt, nhiều sự cảm thông và yêu

thương, hắn là “ứa nước mắt, muốn kêu lên: “Các ông cán bộ ơi, con vô cùng

biết ơn các ông. Xin các ông cứ tin ở con, không bao giờ con trở lại kẻ ăn cắp

gây tội lỗi, gây ra nỗi khốn khổ cho mọi người” [27, tr.286]. Giờ đây, hắn đã

thực sự thức tỉnh, mặc dù hắn đã phải đánh đổi cả cuộc đời để trả giá cho những

lỗi lầm của mình trong tù ngục nhưng điều đó chưa bao giờ là muộn. Vì giờ đây

khi đã chạm đến ngưỡng cửa lương thiện một lần nữa, hắn mới nhận ra giá trị

đích thực của cuộc sống. Trải qua những chặng đường, từ một người lương thiện

trở thành tên ăn cắp chuyên nghiệp và từ một tên ăn cắp trở về làm người lương

thiện của Núi đã được Lê Lựu tái hiện một cách chân thực và hợp lôgic. Ngòi

bút miêu tả nhân vật được thể hiện sâu sắc nên nhân vật hiện lên rất chân thực.

Đến Hai nhà, thế giới nội tâm nhân vật tri thức trong mối quan hệ gia đình

được khai thác triệt để ở trạng thái bi kịch hôn nhân. Trong cuộc sống vợ chồng,

Tâm là người thất bại, anh luôn sống với sự nhẫn nại, chịu đựng, anh ý thức

được sự hèn hạ của mình “chỉ một mình phải sợ, chính là kẻ yếu thế để cô ấy lấn

93

tới hành hạ mình không bao giờ biết cái chỗ để dừng lại” [25, tr.30]. Anh chưa

một lần cảm thấy hạnh phúc được trọn vẹn và chắc chắn bởi trong “những khi

anh được ngây ngất trong sự vỗ về của người vợ” thì cái dự cảm về sự đỗ vỡ vẫn

cứ chập chờn trong anh “những giây phút như thế này sẽ được bao lâu? Sẽ có

bao giờ lặp lại” [25, tr.69]. Trước người vợ anh luôn ý thức mình là người yếu

thế vì “cô ta quá đẹp, anh muốn chiếm đoạt, như là vật sở hữu riêng của mình,

nhưng có rất nhiều nguy cơ tuột khỏi tay mình, nên cứ phải cố, phải nén chịu,

lầm lũi cầu nguyện, cả đời phấp phỏng chờ đợi sự may rủi” [25, tr.71]. Như vậy,

ngay chính trong cuộc sống hàng ngày Tâm luôn cảm thấy có một sự bấp bênh,

anh không làm chủ được, không nắm giữ được nó. Ngay cả khi phát hiện sự thật

về những đứa con, dù đau khổ, tuyệt vọng nhưng anh vẫn tìm cách bao biện “đã

là bố con với nhau thì cần gì nó cứ phải như cái mặt của mình, đem đi phô tô

mới là con mình”, không chấp nhận được sự thật phũ phàng về người vợ lăng

loàn, anh ra đi nhưng lòng thì vẫn chưa dứt được. Tâm không thể chấp nhận

được thực tế xấu xa của vợ nhưng anh lại không đủ nghị lực để vứt bỏ nó. Sự

thiếu nhất quán giữa suy nghĩ và hành động ở Tâm đã một lần đẩy Tâm rơi vào

bi kịch tiếp theo trong đời sống hôn nhân. Ngòi bút Lê Lựu đã hết sức sâu sắc

khi miêu tả trạng thái đẫy mâu thuẫn trong tâm hồn nhân vật này. Có thể nói bản

tính vị tha ở anh là đáng quý nhưng nó như con dao hai lưỡi, một lần nữa nó đã

cứa vào tim anh một nỗi đau chí mạng. Tha thứ cho vợ, trở về với các con, anh

mong ước và hy vọng ở tương lai đầm ấm nhưng vợ anh lại nhẫn tâm chà đạp

cái hy vọng mong manh ấy bằng cuộc tình vụng trộm với người bạn thân thiết

như máu mủ của anh. Quay lại với cuộc sống gia đình mà anh biết là mình phải

“chịu đựng những chuỗi ngày nặng nề căng thẳng” để rồi cuối cùng anh mất tất

cả.

Khi miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật hầu như Lê Lựu để cho nhân

vật tự suy nghĩ, nhìn nhận và tự ý thức về chính mình, điều đó làm cho nhân vật

94

hiện lên chân thực và sâu sắc hơn. Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, nhà

văn đã chạm đến tận sâu thẳm trái tim con người, phát hiện ra những thanh âm

đa dạng của cảm xúc nhân vật. Vì thế chân dung nhân vật trong những sáng tác

của ông hiện lân đầy đặn và sắc nét.

3.3. Xây dựng nhân vật trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách

nhân vật

Khi xây dựng nhân vật trong các tác phẩm của mình, Lê Lựu đặc biệt chú

ý đến việc cắt nghĩa vai trò của hoàn cảnh sống trong sự tác động đến tính cách

con người. Thế giới nhân vật của ông hầu hết đều là nạn nhân của một hoàn cảnh

sống đáng buồn với đầy rẫy những điều phi lý, những hủ tục, những quan niệm

sai lệch, lỗi thời. Ở xã hội đó, cái đẹp, cái lương thiện bị cái xấu, cái ác lấn át,

chà đạp. Con người bị biến thành nô lệ của những định kiến hẹp hòi, của những

nguyên tắc chủ quan, giáo điều. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội dồn đẩy

con người đến bước đường tha hóa, biến con người trở thành nô lệ của danh

vọng, vật chất. Nhân cách con người dần bị bóp méo, suy nghĩ nhận thức cũng

sai lệch và hoàn cảnh đó đẩy con người rơi vào những bi kịch, những mất mát

đau đớn thậm chí đánh mất chính mình.

Bản tính yếu ớt, nhu nhược, thiếu bản lĩnh của Sài một phần được nhào

nặn từ thói quen lâu đời của người dân làng Hạ Vị “sẵn cơm thì ăn sẵn việc thì

làm, chỉ hong hóng chờ chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán, định đoạt một

việc gì” [26, tr.182]. Đó là thói quen của những con người “thích được người

khác mắng mỏ”, “chỉ im thin thít mà ước (…), chỉ dám ủng hộ thôi (…) không

nói ra được” [26, tr.31]. Nửa đầu cuộc đời của mình Sài đã sống và làm theo

những điều người khác muốn, anh không dám nói ra nỗi đau và sự chịu đựng

của mình. Những mơ ước anh chỉ dám dãi bày trong nhật ký. Nhưng khi chính

mình được lựa chọn cuộc đời, Sài lại không tự giải thoát ra khỏi cuộc hôn nhân

không tình yêu với Tuyết mà phải nhờ sự can thiệp của chính ủy Đỗ Mạnh và

95

chú Hà. Bước vào cuộc hôn nhân thứ hai do chính anh lựa chọn, một lần nữa bản

tính nhu nhược, thụ động lại bám riết lấy anh. Anh làm việc gì cũng phải theo ý

vợ, nhìn biểu hiện của vợ, anh cảm thấy không còn là chính mình, để rồi cuối

cùng bị vợ phản bội, cắm sừng mà không hay. Bản tính của anh có căn nguyên,

nguồn gốc từ tâm lí ỉ lại, thụ động của người dân Hạ Vị. Dù anh được học hành,

thông minh, hiểu biết nhưng chính anh lại bị hạ gục bởi sự yếu đuối, nhu nhược,

thụ động của chính mình. Điều đó có nghĩa bản tính của Sài bị chi phối bởi hoàn

cảnh, bởi tâm lý, lối suy nghĩ định kiến của làng xã, của xã hội. Những quan

niệm duy ý chí, những lề thói gia phong cổ hủ cứng nhắc, những tàn dư của tư

tưởng hủ lậu phong kiến cộng với chủ nghĩa ích kỉ thiển cẩn của một thời đã

buộc con người luôn trong tình trạng sống theo, sống hộ người khác, sống vì dư

luận, chiều lòng dư luận. Ở đây, Sài hoàn toàn hành động theo dư luận, cốt đẹp

mặt mọi người nên anh “chẳng khác gì một nhánh khô trông trong khung dàn,

sống theo khung dàn” [23, tr.595]. Chính hoàn cảnh đó đã bào mòn tâm hồn và

tính cách con người theo chiều hướng xấu đi. Trong hoàn cảnh đó, nếu con

người thiếu bản lĩnh thì sẽ bị hoàn cảnh cuốn trôi, đưa đẩy. Hình tượng nhân vật

Sài không chỉ là một cá nhân nằm ngoài vòng xoáy của thời đại mà qua đó tác

giả đã gửi gắm cả một nỗi niềm day dứt về một sự đổi thay tận gốc rễ cái tư

tưởng nô lệ, quen sống theo ý người khác và cuối cùng đánh mất chính mình.

Nếu như Sài luôn phải gánh chịu những thất bại bởi tính cách nhu nhược,

thụ động của mình và một phần do bản tính có căn nguyên sâu xa từ xã hội với

những suy nghĩ lạc hậu, những lề thói cứng nhắc thì với Núi (Sóng ở đáy sông)

lại rơi vào bi kịch cũng bởi thiếu bản lĩnh nhưng lại bị chi phối nhiều bởi hoàn

cảnh gia đình và môi trường giáo dục. Vốn là một cậu bé thông minh, học giỏi,

bản tính lương thiện, thật thà. Dù phải sống xa gia đình từ nhỏ nhưng Núi luôn tỏ

ra là người anh gương mẫu, hết lòng chăm lo cho các em. Đến khi mẹ mất,

không còn điều kiện để tiếp tục đi học, Núi đã cố kiếm một việc làm lương thiện

96

để nuôi các em, hắn sẵn sàng từ bỏ tương lai của mình với ý nghĩ “cốt làm thế

nào để kiếm được miếng ăn cho các em tiếp tục đi học”. Một con người với

những tính cách đáng quý như vậy tại sao lại sa chân vào con đường tội lỗi.

Trước nhất nếu nói nguyên do thì do chính bản tính yếu đuối, không chiến thắng

được sự hèn nhát của chính mình nên hắn bán linh hồn cho tội lỗi. Tuy nhiên căn

nguyên sâu xa đẩy hắn vào con đường ấy chính là môi trường gia đình với một

người cha thô bạo và quá “sòng phẳng” trong tình cảm, với phương pháp dạy

con hết sức sai lầm. Khi đứa con mình phạm lỗi, ông ta không cần tìm hiểu

nguyên nhân mà cho rằng một đứa trẻ đã nhúng tay vào ăn cắp thì đứa trẻ đó

hoàn toàn bỏ đi. Sự cạn tình, cạn nghĩa của người cha đã đẩy hắn lâm vào cảnh

khốn cùng và sa vào con đường tội lỗi. Đã nhiều lần hắn tìm đến người cha như

một sự cứu sinh, nhưng đáp lại chỉ là sự lạnh nhạt, hắt hủi và sự đối xử tệ bạc,

cạn tình ráo máng. Hắn mất niềm tin vào chính người cha ruột của mình nên

đánh mất luôn niềm tin vào cuộc đời. Từ đó hắn trở thành một con người khác,

tính cách nhu nhược, thụ động, lối sống ăn sẵn, bất cần đời được sinh ra từ đó.

Với Chuyện làng Cuội, Lê Lựu lại để nhân vật bộc lộ bản chất do ảnh

hưởng của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân tạo nên. Bản chất giả dối, nhẫn

tâm, độc ác của Lưu Minh Hiếu có căn nguyên sâu xa từ quá khứ không mấy tốt

đẹp. Từ nhỏ đã phải sống trong nỗi ám ảnh về người cha độc ác, không chính

thống và suốt ngày lo sự thật ấy bị bại lộ nên dần biến một cậu bé thông minh,

hiếu thảo dần trở thành một kẻ tán tận lương tâm, cơ hội, dối trá. Vì danh vọng,

địa vị và quyền lực hắn sẵn sàng làm tất cả, kể cả những việc bỉ ổi nhất, thậm chí

hắn có cạn tình, phản bội chính người mẹ đẻ rất mực thương yêu mình.

Với Hai nhà, Lê Lựu lại tập trung tái hiện cuộc sống con người dưới sự

chi phối của hoàn cảnh đời thường với đủ bộn bề, phức tạp. Các nhân vật được

đặt trong môi trường sống thời bao cấp, cái thời mà con người sống thụ động,

hong hóng trông chờ vào chế độ tem phiếu của nhà nước. Người làm công ăn

97

lương mà không sống nổi bằng tiền lương. Những người sống chân chính bị rơi

vào cuộc sống khó khăn, túng quẫn. Tâm luôn bị đè nặng bởi sự nghèo túng và

bất tài vì không lo được cuộc sống tươm tất, no đủ cho vợ con. Sự tự ti ấy dần

hình thành ở anh bản tính nhu nhược, cam chịu, luôn cảm thấy thua kém so với

vợ. Còn Linh Anh vốn được trời sinh cho nhan sắc hơn người, lại luôn cảm thấy

không can tâm vì phải sống với một người chồng bình thường, thiếu thốn. Hoàn

cảnh sống nghèo túng cộng với bản tính vốn lăng loàn nên cô ta trở thành một

con người chua ngoa, cay nghiệt và bị cám dỗ bởi những hư danh vật chất bên

ngoài, với những thói hư tật xấu ngoài xã hội. Càng ngày cô càng trở nên bất

cần, buông thả trong dục vọng thấp hèn. Ở đây Lê Lựu đã cho ta thấy được sự

ảnh hưởng nặng nề của hoàn cảnh xã hội đến cuộc sống và tính cách con người.

Hoàn cảnh khắc nghiệt đã khiến con người trở nên khô cằn, lạnh lùng và vô cảm.

Nhưng với Lê Lựu dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, con người có bị

cuốn theo dòng đời nghiệt ngã ấy, thì ông vẫn có một niềm tin và sự hy vọng vào

bản chất con người. Thoát khỏi cái nhìn truyền thống, ông đã ít nhiều chỉ ra lối

đi cho nhân vật của mình. Nếu trước đây Lão Hạc (Lão Hạc) phải chết trong đau

đớn để bảo tồn tính cách, Chị Dậu (Tắt đèn) chỉ nhìn thấy con đường tối mịt mù

phía trước thì Sài (Thời xa vắng), Núi (Sóng ở đáy sông) đã tìm thấy con đường

trong một tương lai tốt đẹp hơn. Điều đó có nghĩa Lê Lựu luôn mang trong mình

một niềm tin mãnh liệt vào con người, vào cuộc sống. Chỉ ra sự chi phối của

hoàn cảnh sống trong quá trình hình thành nhân cách con người, nhà văn đã đặt

ra vấn đề nhận thức lại hiện thực, tìm căn nguyên sâu xa của những sai lầm, ấu

trĩ của cả một thời đại, từ đó đánh thức khát vọng và bản lĩnh của con người

trước cách sống và cách nhìn nhận của mình đối với cuộc sống của chính mình

và của xã hội.

3.4. Yếu tố tự truyện

Nhà văn Mỹ Thomas Wolf cho rằng: “Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến

98

cùng đều là có tính chất tự truyện, một người nếu muốn sáng tạo một cái gì chân

thực và có giá trị thì phải sử dụng kinh nghiệm và tài liệu trong cuộc sống của

mình” [29]. Văn học Việt Nam sau đổi mới đã có những thay đổi đáng kể trong

quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ

với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Yếu tố tự truyện thể hiện ở chỗ

lấy chất liệu từ bản thân cuộc đời riêng tư của tác giả, những chi tiết mang tính

tiểu sử của chính nhà văn, bộc lộ cái tôi rõ nét. Qua yếu tố này giúp người đọc

không chỉ giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu

sử, cuộc đời thật mà qua những trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành.

Trong những sáng tác của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, Thời xa vắng là một

tác phẩm mang yếu tố tự truyện đặc sắc. Với tác phẩm này, không phải ngay từ

khi ra đời, tác phẩm đã được nhà văn dùng chất liệu đời tư và những trải nghiệm

cuộc đời thực của mình để sáng tác mà tự truyện ở đây như là một sự trùng hợp

ngẫu nhiên nhưng lại trùng khít đến bất ngờ giữa cuộc đời nhân vật Sài và cuộc

đời nhà văn sau này. Quả thực văn chương đã vận vào người tác giả như một

định mệnh. Qua hình tượng nhân vật Sài ta thấy rõ bóng dáng của chính Lê Lựu

và những bi kịch của cuộc đời Sài lại chính là bi kịch của cuộc đời Lê Lựu sau

này, đến nỗi người ta nhầm ông với Sài, có người còn gọi Lê Lựu là anh cu Sài.

Đọc Thời xa vắng, người đọc ám ảnh về một anh Sài nửa đời yêu cái

người khác yêu, nửa đời còn lại đi yêu cái người khác không có. Nếu ai hiểu đời

tư của Lê Lựu sẽ có cảm giác Lê Lựu đã dùng ngay đời tư của mình làm chất

liệu để xây dựng nên nhân vật này. Lê Lựu cũng giống như Giang Minh Sài,

phải trải qua nhưng chuyện gia đình không mấy suôn sẻ, hạnh phúc mà đầy trắc

trở. Chính Lê Lựu đã từng nói, người vợ đầu mà ông đã ly dị hơn 50 năm trước

giống hệt với cô Tuyết không được chồng yêu trong truyện, còn cái anh chồng

Giang Minh Sài mắc bệnh “dửng dưng” với vợ ấy chính là lấy nguyên mẫu từ

chính mình: “Bà vợ đầu của tôi giống hệt nhân vật Tuyết. Cũng là nông dân

99

quê mùa 100%, cũng thô vụng. Ngày ấy tôi mười mấy tuổi đầu, gia đình ép lấy

vợ. Rồi chục năm sau, dư luận lại ép phải yêu vợ, không được ruồng rẫy vợ

mới là “cán bộ gương mẫu”…Thế là tôi phải về quê ngủ với vợ, có với bà ấy

một đứa con gái. Nhưng mà vẫn không yêu nhau. Không phải vì bà ấy là nông

dân mà tôi không yêu đâu, chỉ vì tình cảm là cái thứ không ép được” [35]. Sự

trải lòng của nhà văn như một lời tự thú chân thành. Nghe tác giả nói đến đâu,

người đọc càng cảm giác đó chính là cuộc đời của nhân vật Sài đến đó. Với

người vợ đầu tiên, cuối cùng cũng bước ra cuộc đời nhà văn giống như anh Sài

được li dị cô Tuyết trong Thời xa vắng.

Bi kịch của Sài chưa dừng lại ở đó. Nếu như thất bại đầu tiên của anh là

do anh luôn sống và yêu hộ người khác thì đến khi được sống là mình anh lại

ngơ ngác, vụng về và có phần nhu nhược khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai

với một cô gái thành thị xinh đẹp, sắc sảo. Kết thúc vẫn là bản án li dị, mỗi

người chọn một hướng đi. Cả hai đứa con mà anh hết mực yêu thương anh

cũng không có quyền được nuôi. Đứa con đầu thì người vợ lạnh lùng tuyên bố

không phải là con Sài, đứa con thứ hai thì còn quá nhỏ. Nếu như ở chặng

đường đầu của nhân vật Sài ta bắt gặp chính đời tư tác giả thì đến chặng đường

tiếp theo, như một dự cảm, sau hơn 20 năm Lê Lựu lại rơi vào hoàn cảnh giống

như vậy. Sau hơn 20 năm khi hiểu về cuộc đời của Lê Lựu thì việc nói Thời xa

vắng của ông là một tác phẩm tự truyện càng có căn cứ. Dường như chuyện

văn chương chữ nghĩa đã vận vào số phận, cuộc đời nhà văn. Đến đây, Thời xa

vắng thực sự như một lời tiên đoán về số phận của chính tác giả. Dường như Lê

Lựu đã viết về cuộc đời của chính mình trong tương lai. Sự trùng hợp này quả

thực rất hiếm gặp, yếu tố tự truyện của tác phẩm này vì thế cũng rất đặc biệt.

Thời xa vắng trở thành cuốn tiểu thuyết đầy ám ảnh và có thể nói nó là

một cuốn tự truyện chân thực nhất về cuộc đời nhà văn Lê Lựu. Chính ông đã

từng tâm sự: “Người ta viết thì bao giờ cũng viết những cái mình thuộc. Mà

100

không thuộc gì bằng thuộc mình. Thế nên khi với chuyện đời thực của mình nó

cứ chen vào. Rồi những chuyện sau là hệ quả của chuyện trước, chẳng thể nào

tránh được!” [35]. Đó chính là lý do Thời xa vắng có sức sống lâu bền đến vậy.

Hình ảnh một nhà văn chân chất, thật thà, quê mùa Lê Lựu sẽ chẳng bao giờ

phai nhạt trong lòng độc giả khi người ta vẫn chưa nguôi ám ảnh về anh nông

dân Giang Minh Sài thông minh, giỏi giang như lại bất hạnh trong cuộc sống

gia đình và ngược lại.

3.5. Giọng điệu trần thuật

Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới thực sự đã tạo được dấu ấn riêng ở

kỹ thuật xử lí giọng điệu trần thuật. Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường,

tư tưởng đạo đức của nhà văn thông qua lời văn nghệ thuật và thông qua chất

giọng phổ quát của mình. Lê Lựu đã thành công khi sử dụng những giọng điệu

đa thanh giàu cảm xúc khi xây dựng thế giới nhân vật trong các sáng tác của

mình. Đó có thể là giọng hài hước bông lơn, có khi lại xót xa, thương cảm, lúc

thì khắc khoải yêu thương, có khi lại chìm sâu trong suy ngẫm, triết lý.

Ở Thời xa vắng, giọng điệu xót xa, thương cảm dường như là chất giọng

chủ yếu khi tác giả miêu tả nhân vật. Nhà văn thường di chuyển, mở rộng điểm

nhìn để bày tỏ quan niệm, thái độ của mình. Qua đây tác giả thể hiện một nỗi

đau khôn nguôi trước nỗi bất hạnh với những bi kịch của Sài, niềm trăn trở về

một cô Tuyết cô đơn, khổ hạnh, về một cô Hương yêu hết mình nhưng thất bại.

Nhiều trang văn của Lê Lựu như hòa cùng nỗi suy tư của nhân vật: “ôi tình

yêu. Anh biết rằng anh có một nỗi khát khao đối với những người con gái như

tất cả bạn bè. Chỉ có khác, anh khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho

đúng anh không được phép có một tình yêu” [26, tr.98]. Có khi giọng điệu nhà

văn lại đầy da diết, khắc khoải. Khi viết về mối tình của Sài và Hương, tác giả

đã để nhân vật thể hiện được nỗi niềm của mình qua những dòng thư hay

những trang nhật ký. Đó là những háo hức, mong chờ của Hương “liệu ở nhà

101

anh đã biết tin này chưa!...Em chỉ cần có một mình anh yêu em, anh ở bên em”,

là những nỗi lo lắng, dằn vặt “anh thân yêu ơi! Những ngày vừa qua bố mẹ,

anh Tính và họ hàng làng xóm có đay nghiến sỉ vả anh nhiều không”… [26, tr.

65]. Những câu hỏi liên tiếp dồn dập của Hương chứng tỏ con sóng tình yêu

mãnh liệt trong cô. Từ đó cũng toát lên được vẻ đẹp trong tính cách của người

con gái xinh đẹp và mạnh mẽ ấy.

Giọng điệu này còn được thể hiện đậm nét khi nhà văn xây dựng nhân

vật bà Đất (Chuyện làng Cuội). Chứng kiến những chặng đường trong cuộc đời

tận cùng đau khổ của một người mẹ, Lê Lựu đã không cầm được lòng mình:

“Với bà, được run rẩy yêu thương hay bị cào xé hành hạ, được ngẩng mặt tươi

cười nhìn chúng bạn hay cứ mãi mãi cắn hai hàm răng lại nuốt nước mắt vào

trong, cho đến lúc này đều vô nghĩa. Khi bà cần sự cưu mang vớt vát thì chẳng

thấy ai, cứ lầm lũi một mình chịu đựng” [24, tr.30]. Trước sự ra đi đầy oan

khuất của người chồng, tiếng kêu của bà chẳng thấu được trời xanh, nhưng

dường như nó đã dày vò trái tim nhà văn: “Nhưng trời thì cao, mà đất thì dày.

Tiếng kêu của ba mẹ con mụ, dù có là thống thiết bi ai, có là xé ruột xé gan,

nát lòng nát dạ hàng trăm người đứng ở đầu nhà hướng về phía nhà mụ lặng lẽ

lau thầm nước mắt thì vẫn không thể thấu đến tận trời cao và đất dày” [24,

tr.263]. Giọng điệu đầy xót xa, thương cảm lại da diết, khắc khoải ấy đã giúp

nhà văn thâm nhập vào thế giới tình cảm sâu kín của nhân vật, khiến cho nhân

vật hiện lên chân thực hơn qua những tâm tư, cảm xúc sâu kín của chính mình.

Những sáng tác của Lê Lựu còn cuốn hút người đọc ở chất giọng hài

hước, châm biếm. Khi viết về một Lưu Minh Hiếu (Chuyện làng Cuội) luôn

ôm trong mình ước mơ trở thành một anh hùng thời đổi mới, ham muốn lập

thành tích cá nhân, tác giả đã sử dụng giọng điệu mỉa mai để làm bật lên cái

mộng tưởng hão huyền của kẻ bất tài ấy, nhà văn còn chỉ ra kết quả tất yếu của

căn bệnh thành tích bằng một giọng điệu giễu cợt đầy chua cay: “Có lẽ quán

102

triệt ý định của bí thư phải làm nổi bật lên viễn cảnh tương lai, hay thực chất

nó là thế, mà những con số so sánh về mọi mặt nó chỉ bằng hoặc kém hơn hồi

chết đói ăm 1945. Chẳng hạn một lao động chính làm quần quật hai sương một

nắng từ sáng sớm đến tối nhọ mặt người bình quân giá trị ngày công chỉ mua

được bốn phần mười que kem, nghĩa là đi cày bừa, cuốc đất ròng rã hai ngày

rưỡi trời mới được một que kem” [24, tr.391].

Đọc những trang văn của Lê Lựu người đọc còn nhận ra những trăn trở,

suy tư của ông từ những dòng triết lý xuất phát từ hiện thực cuộc sống, từ

những giai đoạn xã hội cụ thể. Đó có thể là những chiêm nghiệm mang tính

khái quát về một thói hư, tật xấu của những con người quen ỉ lại, tham lam và

lười nhác. Khi viết về bản tính và nguyên nhân ngày càng sa ngã của Núi với

thói “ngựa quen đường cũ” tác giả cho rằng “ngựa chỉ quen đường cũ khi

không có đường mới thôi” [27, tr.322]. Từ đó tác giả làm nổi bật lên bản tính

thiếu mạnh mẽ, quyết đoán của nhân vật. Khi xây dựng nhân vật người cha của

Núi, ngoài giọng điệu có lúc châm biếm, mỉa mai thì không ít lần Lê Lựu tỏ ra

trằn trọc, suy tư “Nhưng nghĩ đến con người đối với nhau sao mà tán tận lương

tâm đến thế. Đã không chết được thì phải sống. Đã sống dù ở đâu, làm gì cũng

phải xứng đáng với con người” [27, tr.291] và ông cho rằng “một người mà vô

giáo dục thì không giáo dục được ai đâu” [27, tr.280]. Từ những chất giọng đó

bản chất tán tận lương tâm, cạn tình ráo máng của ông Đại càng hiện lên rõ nét

và sinh động.

Giọng điệu mỉa mai, chua chát còn xuất hiện ở những trang văn tác giả

nói về những người phụ nữ lăng loàn, hư hỏng như Châu (Thời xa vắng) hay

Linh Anh (Hai nhà): Đàn bà vốn có cái tật là không bao giờ khen chồng trước

mặt người khác. Cũng như tất cả những người con gái quen thân chồng mình

bao giờ cũng là những con bé lăng nhăng, đĩ thõa” [26, tr.258] hay “đàn bà chỉ

103

quyết đập phá tan tành gia đình này khi họ đã có chỗ bấu víu vào một gia đình

khác, quyết chí dứt bỏ thằng đàn ông này nghĩa là họ đã nắm chặt một thằng

đàn ông khác” [25, tr.225].

Đọc những sáng tác của Lê Lựu chúng ta không chỉ ấn tượng với ngòi

bút miêu tả nhân vật qua ngoại hình và nội tâm nhân vật, qua mối liên hệ giữa

hoàn cảnh và tính cách nhân vật mà còn yêu mến cái chất giọng đa thanh, giàu

màu sắc của tác giả. Chất giọng đó càng tô đậm hơn nữa tấm lòng trân trọng,

yêu thương, đồng cảm của ông đối với con người. Đó cũng là lý do vì sao

những trang văn của Lê Lựu lại có sức mê hoặc lòng người lâu như vậy.

Tiểu kết chương 3

Lê Lựu đã xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng, chân thực thông qua

những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm không chỉ

qua ngòi bút miêu tả ngoại hình với những nét đặc tả mà tác giả còn đi sâu khai

thác, lột tả chiều sâu tâm lý, thế giới bên trong tâm hồn họ. Có những tác phẩm

lại có sức sống bền lâu bởi khuynh hướng tự truyện, với sự trùng hợp đến bất

ngờ giữa chính cuộc đời nhà văn và cuộc đời của nhân vật. Sự thành công trong

tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ này không thể không nhắc đến vai trò của giọng

điệu trần thuật đa thanh giàu cảm xúc, lúc thì hài hước, buông lơn, lúc lại thâm

trầm, xót xa, có lúc lại chiêm nghiệm triết lý lúc lại suồng sã, thân mật…Tất cả

những thủ pháp nghệ thuật được tác giả kết hợp một cách tài tình, tạo nên một

104

thế giới nghệ thuật phong phú.

KẾT LUẬN

1. Lê Lựu là một nhà văn có tài. Ông không chỉ là một cây truyện ngắn

đặc sắc mà còn là một nhà tiểu thuyết xuất sắc thời kỳ đương đại. Lê Lựu

không “hấp dẫn độc giả bằng những trang trữ tình, mềm mại, uyển chuyển

như Đỗ Chu, chưa có cái sắc sảo có tính chất phát hiện như Nguyễn Khải,

chưa thể hiện được cái cân bằng mực thước như Nguyễn Minh Châu, cũng

không nghiêng hẳn về cái xô bồ, gân guốc như Triệu Bôn. Ông lôi cuốn người

đọc bằng chính sự chân thành, mộc mạc, dí dỏm và có tình” [23, 118]. Những

trang văn của Lê Lựu vì thế cứ đi vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng,

càng ngẫm nghĩ càng sâu sắc, càng tìm hiểu càng thu hút. Đó là những trang

đậm màu sắc hiện thực, vừa giàu tình đời lại vừa thấm đẫm tình người. Với

khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng với sự trở lại của cảm hứng bi

kịch, những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, cùng với

những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, Lê Lựu đã có những đóng góp không

nhỏ trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

2. Sự cách tân, sáng tạo trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới thể

hiện sâu sắc nhất qua sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, về cách

xây dựng hình tượng nhân vật. Đi sâu vào thế giới nhân vật trong sáng tác của

Lê Lựu là đi sâu khám phá về con người muôn màu, đa diện, với những số

phận, những mảnh đời đáng thương, nó bí ẩn và mang chiều sâu tâm lý, nó

phức tạp nhưng lại chân thực vô cùng…Đọc tiểu thuyết Lê Lựu chúng ta

không tìm thấy trong đó hình tượng con người mang tầm vóc lớn lao, mang

vẻ đẹp hoàn thiện và lý tưởng…Ta bắt gặp trong tác phẩm của ông những con

người với hai mặt tốt - xấu, thiện - ác… những con người bản thân là người

tốt nhưng lại bị xã hội giật dây và lôi kéo nên không tránh khỏi sự trượt dốc

105

của tha hóa, là những con người khờ dại, thiếu bản lĩnh, nửa đời “yêu cái

người khác yêu”, nửa đời còn lại “yêu cái mình không có”, đó là những con

người mùa quáng, duy ý chí suy nghĩ sai lầm nên cả đời lầm lạc, đó còn là

những người phụ nữ lâm vào bi kịch vì không biết đấu tranh, chỉ biết cam

chịu, giàu tình thương những vẫn không tránh khỏi bất hạnh…Nhưng dù họ là

ai, dù tốt hay xấu thì Lê Lựu vẫn hướng về họ bằng tấm lòng chân thành, cảm

thông sâu sắc, có lúc ông đã lay động và thức tỉnh họ, tìm cho họ một lối đi

tốt đẹp hơn trong cuộc đời.

3. Nói đến thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu không thể không

nói đến những phương thức nghệ thuật độc đáo được thể hiện trong đó. Khi

xây dựng thế giới nhân vật, tác giả đi sâu khai thác, lột tả chiều sâu tâm lý,

những cảm xúc trong tâm hồn họ, cũng có lúc nhà văn làm nổi bật hình tượng

qua con mắt quan sát ngoại hình nhưng điểm đến cuối cùng vẫn là để thể hiện

thế giới nội tâm sâu thẳm, đầy bí ẩn. Yếu tố tự truyện pha với giọng điệu trần

thuật lúc hài hước, mỉa mai, khi lại ngầm ngụi, xót xa, lúc chiêm nghiệm triết

lý, khi lại thân mật, suồng sã,…đã làm cho thế giới nhân vật trong tác phẩm

hiện lên đa dạng hơn, chân thực và gần gũi hơn.

Lê Lựu với những tác phẩm của mình đã góp phần làm phong phú hơn

diện mạo văn học dân tộc thời kỳ đổi mới. Ông đã để lại trong lòng người đọc

những ấn tượng tốt đẹp về một nhà văn chân chính, luôn khát vọng cháy bỏng

cống hiến sức mình cho nghệ thuật, cho cuộc sống. Và đó cũng chính là khát

vọng được khẳng định tiếng nói riêng của mình trong dòng chảy của nền văn

106

học dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

3. Nguyễn Minh Châu (1983), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết, Báo Văn nghệ,

số 39, tr.2.

4. Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học,

NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

5. Đặng Anh Đào (tái bản), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây

hiện đại, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

6. Đặng Anh Đào (2008), Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao thoa

trong văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Phan Cự Đệ (chủ biên), (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục.

11. Hà Minh Đức (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Hà Minh Đức (2002), Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Văn Giá, Nguyễn Đình Thi, Nghĩ về lao động viết văn, vietvan.vn,

http://vietvan.vn/vi/bvct/id400/Nguyen-Dinh-Thi-nghi-ve-lao-dong-viet-van,

107

31/3/2004.

14. Cao Xuân Hải (2010), Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật

trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu, Luận án Tiến

sĩ, Đại học Vinh.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2009),

Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - vấn

đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục.

17. Vũ Thị Hạnh (2001), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận, NXB

Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái nguyên, tập 87, số 11.

18. Nguyễn Thị Hiền, Luận văn Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới,

tailieu.com,http://tai-lieu.com/tai-lieu/luan-van-tieu-thuyet-le-luu-thoi-

ky-doi-moi-10869, 8/6/2013.

19. Cao Thị Hồng (2011), Luận án Lý luận văn học Việt Nam từ 1986 đến

nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

20. Nguyễn Thị Kỳ (2009), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn

Khải, NXB Văn hóa Sài Gòn.

21. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2009), Văn học Việt

Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục.

22. Lê Lựu (1989), Đại tá không biết đùa, NXB Thanh niên, Hà Nội.

23. Lê Lựu (2002), Lê Lựu tạp văn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Lê Lựu (2006), Chuyện làng Cuội, NXB Văn học.

25. Lê Lựu (2010), Hai nhà, NXB Thời đại.

26. Lê Lựu (2012), Thời xa vắng, NXB Thời đại, Hà Nội.

27. Lê Lựu (2011), Sóng ở đáy sông, NXB Văn hóa thông tin.

28. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

108

nhà văn, NXB giáo dục.

29. Đỗ Hải Ninh, Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam

đươngđại, tapchisonghuong.com.vn, http://tapchisonghuong.com.vn/

tapchi/c196/n4496/Khuynh-huong-tu-truyen-trong-tieu-thuyet-Viet-

Nam-duong-dai.html, 31/12/2009.

30. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Văn học.

31. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng

Tám, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

32. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, NXB Giáo dục.

33. Nhiều tác giả (2004), Thời xa vắng tiểu thuyết và phim, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

34. Mai Hải Oanh (2010), Những cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại giai đoạn 1986 - 2006, NXB Hội nhà văn.

35. Bảo Phương, Nguyễn Phượng, Nhà văn Lê Lựu: oan nghiệt ở cuối con

đường, tuanvietnam.net, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-06-05-

nha-van-le-luu-oan-nghiet-o-cuoi-con-duong, 03/07/2012.

36. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận giáo trình thi pháp học, NXB Đại học

Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Luận án “Con người trong tiểu thuyết

Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sĩ, Đại học khoa học xã hội và

nhân văn Hà Nội.

38. Ngô Thảo (2001), Văn học về người lính, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

39. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

40. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Lý Hoài Thu, Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học thời kỳ

đổimới, tapchisonghuong.com.vn, http://tapchisonghuong.com.vn/

tapchi/c175/n3401/Su-van-dong-cua-cac-the-van-xuoi-trong-van-hoc-

109

thoi-ky-doi-moi.html, 07/09/2009.