ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Thành
Hà Nội - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi, Nguyễn Thị Vân Anh, lớp Cao học Văn K56,
khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan công trình
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
là công trình do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS. Nguyễn Bá Thành.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung
khoa học trong công trình này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014
Người cam kết
3
Nguyễn Thị Vân Anh
LỜI CẢM ƠN
Cuối cùng, luận văn của chúng tôi cũng hoàn thành
một cách tốt đẹp. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Thầy giáo Nguyễn Bá Thành, người đã tận tình hướng
dẫn, động viên, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Văn
học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội, cảm ơn những người bạn đã nhiệt tình
giúp đỡ chúng tôi hoàn thành công trình này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014
Tác giả
4
Nguyễn Thị Vân Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
5. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 7
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 7
NỘI DUNG
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới .................................................................................................... 8
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới ............................................... 8
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới ........................................................ 10
1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết ...................... 16
1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu ........................................................... 16
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ......................................................................... 18
1.3.3. Những đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết
cho nền văn học đương đại Việt Nam ..................................................... 22
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
2.1. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết ............................................................. 26
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người .......................................... …26
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết ............................................................. 27
2.2. Phân loại nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới .............. 30
2.2.1. Nhân vật bi kịch ............................................................................. 31
2.2.1.1. Bi kịch do hoàn cảnh ............................................................... 31
2.2.1.2. Bi kịch do bản thân tự đánh mất mình ..................................... 42
5
2.2.2. Nhân vật tha hóa ............................................................................ 48
2.2.2.1. Tha hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc .................. 48
2.2.2.2. Tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng ................................ 53
2.2.2.3. Tha hóa do giả dối, lừa lọc ...................................................... 61
2.2.3. Nhân vật lưỡng diện ....................................................................... 64
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
thời kỳ đổi mới ................................................................................................. 75
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình .................................................................... 75
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm ......................................................................... 80
3.3. Xây dựng nhân vật trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật .. 89
3.4. Yếu tố tự truyện........................................................................................... 92
3.5. Giọng điệu trần thuật ................................................................................... 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 99
6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 101
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 1986 đất nước bước sang một thời kỳ mới, cuộc sống thay da đổi
thịt trên nhiều phương diện. Văn học là tấm gương phản chiếu chân thực xã
hội. Không nằm ngoài quy luật đó, nó cũng từng bước làm mới và thay đổi
bản thân. Các thế hệ nhà văn đã có những cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực
và con người phong phú, đa dạng, nhiều chiều, nhiều phương diện chân thực
và toàn diện hơn.
Nhân vật là trọng tâm của tác phẩm. Nó là sự thể hiện chân xác và toàn
diện nhất bộ mặt của tác phẩm và bản chất, lý tưởng của thời đại. Thể loại
tiểu thuyết với tầm vóc và khả năng khái quát rộng lớn là mảnh đất màu mỡ
để nhà văn tái hiện cuộc sống và con người thời đại.
Cùng với các nhà văn lớn như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình
Phương, Hồ Anh Thái, Bảo Ninh, Chu Lai, Dương Hướng…thì Lê Lựu với
thể loại tiểu thuyết đã đưa ông lên vị trí danh dự của những nhà văn xuất sắc
thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn suốt đời hướng về con người, Lê Lựu đã gây
dựng nên một thế giới nhân vật phong phú, đa sắc màu. Từ những người lính
trở về sau chiến tranh khó khăn khi hòa nhập với cuộc sống đổi thay, đến
những người nông dân còn lạc hậu bị ràng buộc với những quan niệm phi lý,
những con người tự đánh mất chính mình gây ra những bi kịch đau buồn đến
những con người tha hóa bởi lòng tham vật chất, chức quyền…Xót xa hơn là
những người phụ nữ luôn khát khao tình yêu, hạnh phúc nhưng lại bị xã hội
đè nén và những con người do hoàn cảnh mà trở nên lừa lọc, giả dối…Tất cả
hiện lên chân thực từ tấm lòng chân thành, giàu tình thương yêu của Lê Lựu,
ông không hề thương thay khóc mướn mà trải lòng mình dưới từng trang
7
sách. Suốt cuộc đời Lê Lựu “chỉ theo đuổi một nguyên tắc là Thật”, ông
“không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. Đó chính là nét độc đáo
trong văn chương Lê Lựu.
Sự hấp dẫn của tiểu thuyết Lê Lựu và một thế giới nhân vật sinh động,
chân thực đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu đề tài: “Thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới”. Mặt khác, qua đây chúng tôi cũng muốn bày
tỏ tình cảm, sự kính trọng, ngưỡng mộ trước tài năng của một nhà văn tiêu
biểu của nền văn học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong sự phát triển không ngừng của văn học đương đại, Lê Lựu ngày
càng khẳng định được vị trí chắc chắn của mình trong lòng độc giả và thu hút
sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình. Về vấn đề thế giới nhân vật trong
tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới đã có một vài nhà nghiên cứu quan tâm
nhưng chỉ mới dừng ở mức nhận định, khái quát. Sau đây chúng tôi xin đề
cập đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Cuốn Lê Lựu tạp văn (2002) là một công trình tổng hợp những bài viết,
những bài phê bình văn học của Lê Lựu đối với các nhà văn, nghề văn. Đặc
biệt ở phần 4 cuốn sách đã tập hợp khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu,
phê bình về tác giả. Đó là Phong Vũ với “Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút
viết truyện ngắn”, là Lê Thành Nghị với “Thời xa vắng - một tâm sự nóng
bỏng”, tác giả Thiếu Mai “nghĩ về một “Thời xa vắng chưa xa””, Nguyễn
Hòa “Suy tư từ một “Thời xa vắng””, Nguyễn Ngọc Thiện nhấn mạnh đến
“khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - những tìm tòi và thể nghiệm”, Trần
Đăng Khoa tìm hiểu “Lê Lựu - chân dung văn học”… Khi tìm hiểu về vấn đề
xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Phan Vũ nhận định: “Lê Lựu có
ý thức rõ rệt trong việc tạo nên những cảnh ngộ, việc miêu tả cuộc đời, số
phận của mỗi nhân vật. Ở mỗi người anh muốn tìm hiểu khai thác và diễn tả
8
cả mặt nổi bên ngoài, lẫn mặt chìm bên trong. Điều đó ít nhiều làm cho các
nhân vật tiểu thuyết Mở rừng có dáng vẻ khác nhau” [23, tr.526]. Bài viết còn
khẳng định sở trường của Lê Lựu khi khắc họa những nhân vật người
lính:“anh dễ thành công khi miêu tả những người lính trẻ, nhất là những
người lính có gốc gác ở một vùng quê. Loại nhân vật này anh rất thuộc, anh
thân thiết và tri kỉ” [23, tr.529].
Tìm hiểu tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Thiếu Mai đã khẳng
định tài năng xây dựng nhân vật của Lê Lựu:“Lê Lựu tỏ ra hiểu nhân vật của
mình đến chân tơ, kẽ tóc đến tận những ngọn ngành, sâu thẳm nhất của tình
cảm, suy nghĩ” [23, tr.577].
Lê Tất Cứ tìm hiểu về Lê Lựu và tiểu thuyết Ranh giới (1979) đã đặc
biệt nhấn mạnh đến ngòi bút xây dựng nhân vật của Lê Lựu thông qua hình
tượng trung tâm của tác phẩm - nhân vật Ngân:“Điều đáng nói trước tiên trong
Ranh giới là tác giả đã không để cho các nhân vật mải miết chạy theo cốt truyện
làm mờ đi tính cách, mờ đi tư tưởng mà anh muốn truyền đến bạn đọc. Anh đã
lấy việc xây dựng một hệ thống tính cách để chuẩn bị cho quá trình phát triển
của cốt truyện” [23, tr.622]. Tác giả nhấn mạnh:“Ngòi bút Lê Lựu đã lách vào
một chỗ khó khăn của hiện thực tâm lý nhân vật” [23, tr.624].
Lê Hồng Lâm khi nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê
Lựu đã cho rằng: “Ông luôn viết hết mình như ông sống, yêu ghét rạch ròi và
đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách của nhân vật. Ở mức độ nào đó nhà văn
Lê Lựu đã tạo ra những nhân vật điển hình cho những hoàn cảnh điển hình”
[23, tr.703]. Nhà phê bình Hồng Thái cũng có quan điểm tương tự khi tìm
hiểu tác phẩm Hai nhà:“tiểu thuyết Hai nhà đọc rất “vào” vì ngòi bút phân
tích tâm lý của Lê Lựu đạt đến trình độ lão luyện” [23, tr.717].
Cuốn Thời xa vắng - tiểu thuyết và phim (2004) tiếp cận tác phẩm Thời
xa vắng trên hai phương diện: phim và tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu Văn học
9
Việt Nam Norico Kato trong bài “Về Thời xa vắng” đã khẳng định: “Thời xa
vắng là cuốn tiểu thuyết rất thành công trong việc miêu tả nội tâm của những cá
nhân đang phải gánh chịu những thương tổn và lo toan và là một cuốn tiểu thuyết
mà nền văn học mới đang tìm kiếm trong mớ hỗ độn của xã hội” [33, tr.355].
Trong công trình Tiểu thuyết đương đại (2005), Bùi Việt Thắng nhận
định đóng góp của Lê Lựu khi bàn về kiểu nhân vật bi kịch: “Từ sau 1975,
trong điều kiện mới cái bi kịch được vận dụng như một hình thức hữu hiệu để
tái hiện đời sống trong toàn bộ tính chất bi tráng của nó vốn là một đặc trưng
của lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Nhà văn Lê Lựu là người đã thành công
trong nhiệm vụ xây dựng một kiểu nhân vật bi kịch mới của văn học - bi kịch
lạc quan” [39, tr.134] và“tác giả đã quan tâm đến số phận con người cụ thể:
phát hiện và miêu tả quá trình tâm lý phức tạp của con người thụ động, méo
mó và cơ hội tới con người chủ động, hoàn thiện và trung thực là nhiệm vụ
chính mà tác giả đã thực hiện thành công một cách căn bản” [39, tr.187].
Những sáng tác của Lê Lựu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều luận văn tốt nghiệp Đại học và Sau đại học. Các công trình đã tiếp cận
Lê Lựu trên các bình diện như: không gian, thời gian, nghệ thuật trần thuật,
nghệ thuật tự sự…Có thể kể đến một số công trình sau:
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hiền “Tiểu thuyết Lê Lựu thời
kỳ đổi mới” (2002), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) đã
tìm hiểu sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông và những nỗ lực hiện đại
hóa thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu. Luận văn đã làm nổi bật được cảm hứng
bi kịch và sự nhận thức lại hiện thực trong tiểu thuyết Lê Lựu qua bộ ba tác
phẩm trên.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Võ Thị Mỹ Hạnh “Nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu” (2008), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
10
Chí Minh) đã tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nghệ thuật thông
qua việc tìm hiểu về người trần thuật, kết cấu lời văn trần thuật và giọng điệu
trần thuật. Từ đó thể hiện được sự sáng tạo nghệ thuật và đóng góp của tác giả
đối với nền văn học dân tộc.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đào Thị Cúc “Không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” (2010), (Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tiếp cận nghệ
thuật tiểu thuyết Lê Lựu trên bình diện không gian, thời gian nghệ thuật. Luận
văn đã trình bày được những dạng thức, mô hình của không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu…Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc nghệ
thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình khác như: Nghệ thuật viết
tiểu thuyết Lê Lựu (2006) - luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Hồng Vân, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tư duy nghệ thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu (2013) - luận văn thạc sỹ Mai Thị Liên, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội…
Có thể nói, Lê Lựu và tiểu thuyết của ông thu hút nhiều luận văn
nghiên cứu ở các phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Nhưng vấn đề
mà chúng tôi đi sâu tìm hiểu thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về Lê Lựu đều có tiếng nói khá
thống nhất, khẳng định tài năng và tinh thần miệt mài lao động của nhà văn
trên con đường tìm tòi, sáng tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới. Tuy nhiên, vấn đề mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu là “thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” chỉ mới dừng lại ở mức
khái quát, sơ lược, thường thì tác giả chỉ kết hợp nhận xét trong những phê
11
bình, nghiên cứu chung về Lê Lựu. Vì vậy, trên cơ sở những công trình đã
nghiên cứu chúng tôi sẽ kế thừa, tiếp thu để hoàn thành luận văn của mình với
mong mỏi khẳng định hơn nữa giá trị văn chương Lê Lựu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
thời kỳ đổi mới trên các khía cạnh như: các kiểu nhân vật, tính cách, đặc điểm
nhân vật thể hiện trong tác phẩm và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê
Lựu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung tìm hiểu 5 cuốn tiểu thuyết tiêu
biểu của Lê Lựu thời kỳ đổi mới. Đó là:
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1990)
- Chuyện làng cuội (1991)
- Sóng ở đáy sông (1994)
- Hai nhà (2000)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Sử dụng phương pháp này để tiếp cận
trực tiếp với tác phẩm trên mọi phương diện, từ đó khái quát làm nổi bật vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Công trình đi sâu tìm hiểu về thể
loại Tiểu thuyết. Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc của Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ
đổi mới nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tác giả và tác phẩm trong
sự đối chiếu với những tác giả và tác phẩm khác là hết sức cần thiết vì qua đó
sẽ làm nổi bật được nét riêng, nét độc đáo của đối tượng.
- Phương pháp phân tích: Trên cơ sở hai phương pháp trên chúng tôi
tiến hành phương pháp này để làm rõ vấn đề. Từ đó để khái quát, tổng hợp lại
12
những vấn đề đã nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội: Văn học nói chung và tiểu
thuyết Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Vì vậy tìm hiểu tiểu
thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới không thể không nói đến sự tất yếu phải đổi
thay, chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn này. Sử dụng
phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội nhằm lý giải cơ sở thực tiễn và quá trình
chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của Lê Lựu.
5. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã sử dụng những kiến thức về thi pháp học và tự sự học để
đi sâu phân tích sự mới mẻ trong quan niệm cũng như nghệ thuật tiểu thuyết
của Lê Lựu khi khắc họa nhân vật. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng
góp của tác giả cho nền văn học dân tộc nói chung và văn học Việt Nam
đương đại nói riêng.
Với đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn góp thêm tiếng nói, cách
tiếp cận về tác giả, tác phẩm và góp thêm một tài liệu cho việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy Lê Lựu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì phần
Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời
13
kỳ đổi mới.
Chương 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Nền văn học Việt Nam là một nền văn học phong phú, đa dạng về thể
loại. So với các thể loại như thơ hay truyện ngắn thì tiểu thuyết phát triển
chậm hơn, tìm thấy hướng đi muộn hơn, nhưng những đóng góp của nó trong
thời kỳ này vẫn không thể phủ nhận.
Trong giai đoạn 1930 - 1945 qua những sáng tác của nhóm Tự lực văn
đoàn và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, tiểu thuyết thực sự được quan tâm
và phát triển khá mạnh mẽ. Đến những năm 50 tiểu thuyết ngày càng khẳng
định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.
Nền văn học sau cách mạng tháng Tám gắn bó mật thiết với vận mệnh
dân tộc. Nó hướng vào phục vụ những nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu
cầu của từng giai đoạn cách mạng nên văn học giai đoạn này là một nền văn
học mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nền văn học
hướng về đại chúng. Cùng với các thể loại khác, tiểu thuyết giai đoạn này góp
phần cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, phản ánh được hiện thực lịch sử dân tộc, xây dựng nên
những nhân vật anh hùng cách mạng, kết tinh những phẩm chất của dân tộc
và tinh thần của thời đại.
Thời kỳ này văn học đã thoát khỏi cái nhìn bế tắc về con người để
hướng tới cái nhìn con người làm chủ vận mệnh đất nước, dân tộc và cả vận
mệnh của chính mình. Với quan niệm này con người được thể hiện chủ yếu
trong văn học là con người phơi phới lạc quan, dù gặp muôn ngàn khó khăn
gian khổ nhưng cuối cùng nhất định chiến thắng. Đấy là những con người
14
luôn luôn quên mình về sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, quên mình
vì tập thể, là những con người đầy ý chí, nghị lực, đầy niềm tin với tấm lòng
vì tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Điểm lại những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết giai đoạn này, ta có
thể thấy rằng, với quy mô rộng lớn của mình, tiểu thuyết thực sự đã phản ánh
chân thực bức tranh rộng lớn của hiện thực cuộc sống thông qua những hình
tượng điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Khác với giai đoạn đầu thế
kỷ XX, ở giai đoạn lịch sử hào hùng, mang âm hưởng và màu sắc sử thi này,
con người tập thể, con người lý tưởng được đề cao hơn bao giờ hết. Nền văn
học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng dù sinh ra và lớn lên
trong khói lửa chiến tranh nhưng lại vô cùng hào hùng và rực rỡ. Những Sống
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn đất của Anh Đức, Bão biển
của Chu Văn, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu…thực sự đã tái
hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, thống nhất nước nhà.
Văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã xứng đáng
với sứ mệnh cao cả của một nền văn học cách mạng hướng về đại chúng nhân
dân, phục vụ chiến đấu và đã đóng góp được những thành tựu xuất sắc, góp
phần quan trọng cho sự phát triển văn học dân tộc trong thời đại mới. Tiểu
thuyết thời kỳ này đã ghi lại được những hình ảnh không thể phai mờ về một
thời kỳ lịch sử đầy gian lao, hy sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc ta.
Những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng
lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống dân tộc vừa
đậm nét thời đại hiện lên chân thực, sinh động trên từng trang văn, ngọn bút.
Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Anh Đức, Nguyễn Khải,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu…đã tạo nên những hình tượng đẹp đẽ
15
và có chiều sâu về người lính, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ,… Hình
tượng nhân vật quần chúng, hình ảnh những người lao động mới, của mọi
tầng lớp nhân dân nổi lên với phẩm chất cơ bản là lòng yêu nước và căm thù
giặc. Sự phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp của đất nước và
con người Việt Nam trong khói lửa chiến tranh. Đấy không phải là vẻ đẹp cổ
xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, cũng không phải là vẻ đẹp đìu hiu đượm buồn
của thơ mới mà là vẻ đẹp hào sảng, khỏe khoắn của con người “rũ bùn đứng
dậy sáng lòa” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).
Như vậy, văn học thời kỳ này đã vượt lên những mất mát đau thương,
gác lại những cảm xúc nỗi buồn cá nhân để hướng đến khí thế hào hùng, hăng
say đánh giặc, ngợi ca những thành tích, chiến công, những hành động tốt đẹp
của con người trong chiến đấu, trong lao động, hướng tới một cuộc sống mới
với con người mới, yêu mến chế độ, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng,
tin tưởng vào tương lai của đất nước. Nhưng một nền văn học chỉ hướng đến
cái chung, gạt đi cái riêng, ý thức cá nhân bị tan biến vào ý thức cộng đồng
nên đời sống thế sự và riêng tư ít được quan tâm, thể hiện. Mặt khác, vì coi
trọng việc phản ánh hiện thực trong phát triển cách mạng nên văn học thời kỳ
này không đủ để bao quát toàn bộ sự phong phú và phức tạp của đời sống.
Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối
về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên nó cũng hạn chế sự sáng tạo của
người cầm bút, làm nghèo đi khả năng và sức mạnh của hư cấu tưởng tượng,
hạn chế sự đa dạng của các thủ pháp nghệ thuật.
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Đại thắng mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng
đưa tới một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Trong suốt những
năm tháng đấu tranh giành độc lập cho đất nước, nền văn học Việt Nam luôn
16
đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng
trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo
của một giai đoạn văn học mới. Mặc dù giai đoạn văn học ấy cũng đang tiếp
diễn, nhưng đến những năm đầu thế kỷ XXI đã đặt ra một nhu cầu tự đổi mới,
người cầm bút cảm thấy không thể tiếp tục những lối viết như trước, mà cần
hướng đến một sự đổi thay.
Khi bước vào một giai đoạn lịch sử - xã hội mới, cả nước đứng trước
một yêu cầu “phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường”. Sự thay đổi ấy
đã tác động đến giới sáng tác. Cuối năm 1986, Đại hội Đảng lần tứ VI được
tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, trước hết ở
quan niệm đề cao thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, phát
huy tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, chống sức ì và tính bảo
thủ của quan niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới cho sự sáng tạo. Đảng khuyến
khích và yêu cầu văn nghệ sĩ cần có những thể nghiệm mạnh bạo và sáng tạo
nghệ thuật ở loại hình cũng như các hình thức biểu hiện. Nghị quyết 05 của
Bộ Chính trị (ngày 28.11.1987) yêu cầu: “Thực hiện chủ trương đổi mới của
Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra với quy mô
và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các
nền văn hóa ngày càng mở rộng… nền văn hoá, văn nghệ nước ta cũng phải
đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Điều này đã tạo cho
người cầm bút sự tự tin và mạnh dạn hơn trong những tìm tòi, sáng tạo nghệ
thuật khi viết về đời sống, hiện thực, những tình huống, sự kiện xã hội.
Văn học thời kỳ này cũng thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy nghệ
thuật. Một hiện thực mới, một công chúng mới nên đòi hỏi một cách viết,
cách nhìn nhận và phản ánh mới. Sự đổi mới của các nhà văn trở thành tất yếu
sống còn của chính họ. Văn học thời kỳ này vì thế không chỉ đổi mới ở phạm
vi đề tài, mà còn đổi mới về tư duy nghệ thuật, về cảm hứng, cách viết… Giờ
17
đây, những người cầm bút hiểu rõ hơn ai hết sứ mệnh của văn chương đối với
cuộc sống. Thời kỳ đổi mới với những biến động phức tạp thực sự là mảnh đất lý
tưởng cho sự sáng tạo của tiểu thuyết: “Thời nay rộng cửa, gợi được rất nhiều
thứ để viết…cái hôm nay, cái ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ
với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất
phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ” (Nguyễn Khải) [41].
Trước hết có thể thấy rõ bước phát triển của văn học trên bình diện tư
duy nghệ thuật. Giờ đây văn chương không chỉ là sự ngợi ca, khâm phục mà
còn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng của hiện thực. Nếu trước đây chủ
yếu cách nhìn đơn điệu, rạch ròi thiện ác, địch ta, cao cả, thấp hèn…thì giờ
đây cách nhìn nhiều chiều hơn, đa diện và phức tạp hơn. Với xu hướng nhìn
thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực, đi vào tiêu
điểm nóng hổi nhất của đời sống. Trong tác phẩm, họ đã ý thức cần phải bóc
trần thế giới, phơi bày sự thật. Nhiều cây bút đã nêu ra những mặt trái còn bị
che khuất, lên án những lực lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử
lạc hậu lỗi thời, làm cản trở quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người cũng như sự phát triển của xã hội. Những tác phẩm Thời xa vắng, Hai
nhà (Lê Lựu), Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn
Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn Khải), Đi về nơi hoang dã (Nhật
Tuấn), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Thiên sứ (Phạm Thị
Hoài), Trả giá, Sóng lừng, Cõi mê (Triệu Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí
Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, Phố,
Cuộc đời dài lắm (Chu Lai)…là những minh chứng tiêu biểu, đóng góp
không nhỏ vào sự đổi mới của tiểu thuyết thời kỳ này.
Các thế hệ nhà văn thời kỳ này ngày càng ý thức về sự đổi mới trong
sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, và cuối cùng họ đã để lại cho nền văn
18
học dân tộc những trang tiểu thuyết theo đúng nghĩa của nó, góp phần làm
cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn, đồng thời tiếng nói về
cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn:
Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn (Nguyễn Bình
Phương), Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung
chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Cơ hội của chúa, Khải
huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy
Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Tường thành (Võ Thị Xuân Hà), Ngụ cư
(Thuỳ Dương), Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh), Bóng của
cây sồi (Đỗ Bích Thuý), Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ (Nguyễn Ngọc
Thuần), Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai)…
Nếu như trước đây các nhà tiểu thuyết hướng tới những bức tranh hiện
thực hoành tráng thì giờ đây họ “trở về xem xét con người Việt Nam một cách
sáng tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn” [3, tr.2], họ nhận thấy rằng cần phải
viết về cái gì đó của con người, cho con người. Đất nước chuyển sang giai
đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay. Con người trong tổng hoà
của những mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên
mà đề tài thế sự, đời tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực
sáng tạo” trong tiểu thuyết đương đại. Phan Cự Đệ cũng đã từng nhận định:
“Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào
nhau hoặc tự khám phá mình như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã
qua…Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán
xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện” [10, tr. 153]. Sự
đổi mới trong nhận thức của nhà văn thực sự đã mang đến cho văn học một
cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc khi viết về con người. Con người với đầy
đủ các phẩm chất, bản năng, ý thức, phần con, phần người, từ con người tập
thể mang tính cộng đồng chuyển sang con người cá thể đời thường với những
19
mâu thuẫn phức tạp, con người bi kịch, con người sám hối, con người thức
tỉnh, con người nhận đường, con người suy tư dằn vặt, con người cô đơn, cay
đắng, con người anh hùng, con người hèn hạ... đã đi vào văn chương một cách
chân thực, nhân bản, giàu tính hướng thiện, được soi rọi dưới cái nhìn đa diện
nhiều chiều. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những
bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo, qua
giọng điệu phê phán, tự vấn. Những mặt trái của đời sống, sự tha hóa về nhân
cách, những số phận bi kịch, những nỗi đau khắc khoải, những mất mát tổn
thương…được đặc tả vô cùng chân thực trên từng trang viết. Vẫn là những
người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ, trí thức, nông dân... nhưng giờ đây
họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau, được đặt vào trong nhiều vòng
quay của cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất với đầy đủ các sắc
màu, các cực đối lập: nhân tính và phi nhân tính, đạo lý và thất đức, bản ngã
và phi bản ngã... và cũng không né tránh những mặt khuất lấp của cuộc đời,
kể cả “góc tăm tối cuối cùng”. Giờ đây con người không phải sống vì cộng
đồng, xả thân vì nghĩa lớn, con người quen sống với đám đông, ít đối diện với
bản thân mà là con người với tư cách cá nhân, sống với nội tâm và suy nghĩ
của chính mình, con người với thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp. Số
phận con người bình thường với những bi kịch của cuộc đời hiện lên chân
thực, đa dạng. Đó là bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữ cái muốn vươn
lên và cái kìm hãm, giữa thanh lọc và tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân bản.
Tiểu thuyết thời kỳ này không chỉ đi sâu vào thân phận con người qua
cách nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong những môi
trường đời sống bình thường mà còn đề cập tới khát vọng về đời sống, về
hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự
nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc sống riêng tư.
Những tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Khắc
20
Trường, Dương Hướng…đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung và
hạnh phúc riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Việc đi sâu vào
thế giới tinh thần của con người, vào quá trình tự ý thức của nó đã góp phần
củng cố thêm sự hình thành con người cá nhân trong xã hội, làm cho văn học
thời kỳ này đứng cao hơn văn học trước cách mạng, khi mà ở đó vấn đề tự do
cá nhân chủ yếu chỉ mới đặt ra trong phạm vi tự do tình cảm của con người.
Tiểu thuyết sau đổi mới vì vậy đã quan niệm con người cá nhân như “một
nhân cách, một nhân cách kiểu mới”. Con người với sự hòa hợp giữa con
người tự nhiên, con người tâm linh và con người xã hội. Con người đó vừa
đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ, thánh thiện, luôn khao khát và hướng tới cái
đẹp. Đó chính là nét nổi bật mang đậm tính nhân văn của tiểu thuyết thời kỳ
này khi nhìn nhận về con người.
Sự đổi mới về tư duy, quan niệm nghệ thuật về con người kéo theo sự
đổi mới về phong cách và ý thức nghệ thuật. Văn học thời kỳ này đã xuất hiện
một số cây bút mới với lối viết thực sự khác trước. Sự biến đổi của ý thức
nghệ thuật đang chuyển từ quan niệm về văn học như hình thức giáo dục
tuyên truyền sang quan niệm văn học như hoạt động sáng tạo, nhận thức và
tác động vào cuộc sống. Vào những năm 30 của thế kỷ XX sự xuất hiện của
các tác phẩm với tên tuổi của Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng
Phụng…đã tái hiện bức tranh đa dạng về hiện thực xã hội, giúp độc giả hiểu
thêm về con người và những cảnh sống xung quanh. Đến giai đoạn 1945 -
1975 do yêu cầu của cuộc kháng chiến, văn học lại chuyển hướng sang hoạt
động tuyên truyền chính trị, giáo dục, tư tưởng, động viên cổ vũ quần chúng.
Mãi đến thời kỳ đổi mới sáng tác văn học với hoạt động nhận thức và tự nhận
thức mới thực sự phát triển. Người đọc có thể tiếp cận hình tượng từ nhiều
phía, có thể rút ra những kết luận khác nhau từ một tác phẩm.
Bên cạnh tính đa nghĩa của hình tượng và sự phong phú về chủ đề,
21
giọng điệu của tác phẩm cũng được viết theo lối mới. Không còn là chất
giọng ngợi ca, khâm phục, mang tính răn dạy mà là một thứ giọng kể có vẻ
không nghiêm túc, thậm chí như đùa giỡn, vừa coi điều mình kể là thành thực,
vừa coi nó như chẳng có gì quan trọng. Chính điều này đã làm tăng sự phong
phú, lôi cuốn, hấp dẫn của giọng kể. Cách kể chuyện như thế chỉ có thể có
được trên cơ sở của một quan niệm mới về văn học, quan niệm xem văn học
như một hoạt động sáng tạo, một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ của con
người đối với thế giới.
Như vậy, văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã
thực sự được cởi trói, chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép trong
khuôn khổ hay giới hạn. Văn học tìm về với con người đời thường, con người
cá nhân nhưng vẫn “mới”, vẫn đầy sáng tạo. Văn học được trả lại thiên chức
của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh
trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả.
1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết
1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu
Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông là thành viên của Hội nhà văn Việt
Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn. Hiện nay, ông đang
đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội.
Lê Lựu trưởng thành giữa lúc: “Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa
mượt đồng ấm áp làng quê” (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu). Tất cả
những niềm vui, nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy ông đều chứng kiến. Vốn là
một người nông dân mặc áo lính, ông luôn nghĩ về quê hương, gần gũi với
người nông dân và nông thôn, nên ông xem nó là cội nguồn, là quê hương văn
học của mình từ khi bắt đầu cầm bút cho đến tận bây giờ.
Sau khi rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ những năm sáu mươi,
22
Lê Lựu lao vào công việc, sống và tìm hiểu cuộc sống quân đội. Cảm hứng về
sự thay đổi của miền Bắc đã thôi thúc ông cầm bút ghi lại những điều mình
thích, nói lên những điều mình muốn nói với mọi người. Sau này càng đi
nhiều, ông càng được mở rộng tầm mắt và có thêm nhiều mảng đề tài mới.
Sau chiến tranh, ông trở về làm ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ quân đội
trong nhiều năm. Lúc làm biên tập, khi đi sáng tác, với quân hàm đại tá, là
một sỹ quan của làng văn nhưng ông vẫn luôn là người lính binh nhì trong đời
thường, vừa chân chất, thật thà, vừa xuề xòa, cởi mở…Với một lòng say mê
sống và viết, Lê Lựu lần lượt cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị và từng
bước khẳng định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.
Cuộc đời Lê Lựu gặp nhiều bất hạnh, ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm”,
ông đang mang trong mình rất nhiều thứ bệnh. Hàng ngày ông uống thuốc
nhiều hơn ăn cơm, coi bệnh viện gần như là nhà của mình. Không chỉ mang
trong mình nhiều căn bệnh quái ác mà đời sống tinh thần của ông cũng mang
nhiều nỗi buồn. Cuộc sống gia đình không trọn vẹn, hạnh phúc. Ông có hai
người vợ, người vợ đầu là mối tình sắp đặt từ phía gia đình ở Hưng Yên.
Cuộc hôn nhân không như ông mong muốn và hai người đã chia tay từ 40
năm trước. Sau đó, ông lên Hà Nội, người vợ cũ ở quê đã âm thầm chuyển tên
mảnh đất hương hỏa của tổ tiên sang tên mình. Chính ông đã ví rằng, người
vợ cũ này giống như cô Tuyết - vợ đầu của Giang Minh Sài trong tác phẩm
Thời xa vắng viết năm 1986. Tuy nhiên “thời xa vắng” của Lê Lựu còn xót xa
hơn Giang Minh Sài. Người vợ thứ hai của ông có hai người con, một trai,
một gái. Nhưng cuộc hôn nhân thứ hai này cũng kết thúc trong đau buồn. Giờ
đây, tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn phải tá túc ở trụ sở của trung tâm Văn
hóa doanh nhân, nơi ông sáng lập và làm lãnh đạo nhiều năm liền. Hơn 70
năm cuộc đời, với hai đời vợ và ba người con, giờ đây ông phải cậy nhờ vào
23
những người không phải là ruột thịt của mình.
Với hơn 50 năm cầm bút, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm, hầu hết
những nhân vật ông viết đều có sự bất trắc, vất vả trên con đường tìm đến
hạnh phúc của mình. Một Giang Minh Sài trong Thời xa vắng với những đấu
tranh cho hạnh phúc riêng, nhưng cũng không đến được với Hương - người
mà Sài yêu hết mực, cuối cùng cả cuộc đời lại phải chịu thất bại trong hạnh
phúc gia đình. Một Núi trong Sóng ở đáy sông bị cha đẻ ghẻ lạnh từ nhỏ, cuộc
đời lận đận, cuối cùng phải buông xuôi, trượt dài trên con đường tội lỗi, ra tù
vào tội, vất vả mưu sinh. Là Tâm trong Hai nhà chân thật, hiền lành, thương
yêu vợ con nhưng hết lần này đến lần khác bị vợ phản bội, để cuối cùng cay
đắng nhận tin rằng những đứa con anh thương yêu là con của kẻ khác…
Những nỗi buồn, những niềm đau trong cuộc sống khiến Lê Lựu tìm
đến văn chương như một cứu cánh, như món ăn tinh thần không thể thiếu.
Càng đau ông càng cố viết, càng viết ông càng khiến người đọc thấm thía hơn
về cuộc đời với muôn mặt của nó. Với Lê Lựu văn thực sự là đời, là người.
Ông đã sống và viết hết mình, cống hiến không mệt mỏi cho văn chương, cho
nghệ thuật.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết gặt hái nhiều thành công thì Lê Lựu
là một cây bút truyện ngắn. Là một nhà văn trực tiếp đứng trong hàng ngũ của
những anh lính Cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh nên
ông thấu hiểu những mất mát của con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Lê
Lựu luôn trăn trở về tình đời, tình người.
Khởi nghiệp từ thể loại truyện ngắn, Lê Lựu để lại một số tác phẩm có
giá trị. Năm 1964 ông trình làng tác phẩm mang tên Tết làng Mụa, sau đó
hàng loạt tác phẩm khác ra đời, như Trong làng nhỏ, Người cầm súng phía
mặt trời, Truyện kể từ đêm trước…và đến Người về đồng cói thì Lê Lựu thực
24
sự trở thành một cây bút viết văn kỳ cựu. Đây là một tác phẩm xuất sắc trong
thời kỳ chống Mỹ, nó mang dáng dấp và hơi hướng tiểu thuyết. Phải chăng
tác phẩm này đã trở thành bước đệm cho Lê Lựu thành công hơn ở thể loại
tiểu thuyết sau này.
Lê Lựu viết chậm, mỗi ngày vẻn vẻn vài trang, nhưng tác phẩm của
ông vẫn rất có sức hút: “sáng tác của Lê Lựu đã đem đến cho người đọc một
không khí khác, toát ra từ chất liệu của đời, từ hiện thực khách quan. Anh
không giải bày mà để cho sự sống giãi bày. Anh không biểu hiện mà để cho
cuộc sống tự kể. Tuy quá trình vào nghề của anh có chậm nhưng người đọc
thấy rõ bước đi của anh không có những hụt hẫng, với cái nguy cơ đơn điệu,
tự lặp lại mình” [40, tr.110]. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông ra đời vào năm
1975, có tên là Mở rừng. Qua tác phẩm này, Lê Lựu như muốn phô bày,
muốn diễn tả và cắt nghĩa những vấn đề có ý nghĩa triết lý về chiến tranh, về
con người Việt Nam trong những năm chống Mỹ ở nhiều lớp người, nhiều
cảnh sống…Qua đây tác giả đã tái hiện cuộc sống với muôn vẻ đa dạng và
phức tạp như chính cuộc sống vốn có, như chính con người thường có. Giữa
cái anh hùng với cái thấp hèn, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái hài và cái
bi…dường như luôn đan xen và đấu tranh với nhau. Con người phải luôn
không ngừng đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh, vươn tới lý tưởng, để giải
quyết những mặt nan giải trong cuộc đời. Có thể coi đây là cuốn tiểu thuyết
vào loại khá của văn học Việt Nam những năm 70. Tuy nhiên, do một số lý
do nên nó không được người đọc hưởng ứng và giới phê bình quan tâm.
Sau tiểu thuyết Mở rừng thì Ranh giới (1979) là một cố gắng mới của
Lê Lựu. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện lực lượng an ninh cách mạng tiếp
tục truy bắt bọn tình báo CIA, bọn tướng tá ngụy đang âm mưu vượt đường
biển trốn ra nước ngoài mang những tài liệu về quân sự, kinh tế mà chúng thu
thập được ở Việt Nam. Chúng đang tìm mọi cách chống phá cách mạng sau
25
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Với tác phẩm này, Lê Lựu đã phản ánh
hiện thực trên một bình diện mới. Vấn đề tư tưởng được ông đặt ra trong
Ranh giới khá mới mẻ và mang tính thời sự ở một mức độ nhất định.
Mãi đến những năm 80, khi đất nước đã yên tiếng súng, chiến tranh đã
ngưng hẳn trong tâm trí mọi người, những dư âm dai dẳng của nó cũng tạm
lắng xuống, cả nước đang chung tay hướng đến một sự đổi mới toàn diện trên
mọi lĩnh vực…thì Lê Lựu lại nhìn thấy trong đó những vấn đề nhức nhối của
thời đại, vấn đề số phận và nhân cách con người. Trong hoàn cảnh ấy tiểu
thuyết Thời xa vắng ra đời và trở thành một “hiện tượng văn học”: “Tiểu
thuyết Thời xa vắng ra đời như một sự bất ngờ với bạn đọc. Tác phẩm đã gây
nên một sự xôn xao, sửng sốt trong mọi người. Người khen, kẻ chê cũng
không phải là quá hiếm…một tác phẩm ra đời, gây được sự chú ý và nhiều ý
kiến tranh cãi, chứ không rơi vào tình trạng im ắng rồi bị quên lãng bao giờ
không ai hay như số phận của nhiều tác phẩm thường thường bậc trung khác”
[23, tr. 572, 573]. Tác phẩm đã nhận thức lại một thời mới đây thôi mà tưởng
như xa vắng từ thuở nào. Lê Lựu đã chỉ ra khía cạnh bi kịch, những nỗi đau
riêng tư của con người trong và sau chiến tranh. Nó không chỉ là sự phản ánh
quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận và đánh giá lại thực tại, không chỉ
là một bi kịch tình yêu không thành mà còn làm nổi cộm lên những vấn đề
tâm lý - xã hội chung của cả một thời đại.
Sau thành công vang dội của Thời xa vắng, Lê Lựu lại được một phen
khốn đốn vì Chuyện làng Cuội (1991). “Nếu mỗi cuốn sách ra đời như một
người nô bộc trung thành, một đứa con tinh thần của nhà văn, thì tiếc thay,
Chuyện làng Cuội lại là một đứa con bất hiếu của ông bố chất phác, nhân từ.
Nó mang cho Lê Lựu bao điều tai bay vạ gió” (Trần Đăng Khoa). Mặc dù Lê
Lựu viết Chuyện làng Cuội với ý đồ nghiêm túc, thậm chí muốn thể hiện
những vấn đề nhức nhối của thời đại, mang đậm tính thời sự như ông đã tâm
26
sự: “Tôi muốn nói lên rằng nhân dân có thể chịu đựng tất cả mọi sự chà đạp,
lừa dối của đế quốc, phong kiến, chịu mọi hy sinh, mất mát trong bước thăng
trầm của đất nước và của chính cuộc đời họ. Nhưng đến khi bị chính người
thân yêu ruột thịt chà đạp, lừa dối thì họ đã không sống nổi. Xã hội ta hiện
đang có mầm mống anh em ruột thịt, thậm chí bố con chà đạp, lừa dối lẫn
nhau. Đây là hiện tượng đáng báo động, cần phải ngăn chặn và lên án” [23,
tr.649], nhưng thực tế tác phẩm dường như chỉ mới dừng lại ở ý tưởng và ý
tưởng của Lê Lựu cũng vẫn chỉ là ý tưởng mà thôi. Nghĩa là nó chưa lặn được
vào cốt truyện, vào số phận nhân vật, nhân vật như những con rối thụ động
dưới bàn tay điều khiển khá lộ liễu của tác giả.
Sau thất bại của Chuyện làng Cuội Lê Lựu cho ra đời nhiều tác phẩm
có giá trị. Đó là Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000), Truyện ngắn Lê Lựu
(2003), Thời loạn (2009)…Hầu hết những sáng tác của ông vẫn trung thành
với vấn đề hiện thực, với con người trong những mối quan hệ phức tạp, với
những yếu tố tâm lý sâu sắc…Qua những sáng tác này, nhà văn đã tái hiện
một cách chân thực sâu sắc gương mặt lịch sử và đời sống xã hội. Muôn mặt
của cuộc sống trước những thay đổi do chiến tranh, cách mạng, cải cách
ruộng đất, hợp tác hóa, cải tạo xã hội, những khẩu hiệu, thành tích, những sai
lầm ấu trĩ, những cay đắng, bất hạnh, ngang trái của cuộc đời…tất cả hiện lên
đầy ám ảnh qua những trang văn của tác giả.
Với nội dung sâu sắc, bám chắc sự thật, kết hợp với những nét độc đáo
về bút pháp nghệ thuật, những sáng tác của Lê Lựu từ những năm sau đổi mới
là những minh chứng tiêu biểu về tài năng và những đóng góp của nhà văn
cho nền văn học dân tộc.
Từ truyện ngắn xuất hiện đầu tiên vào năm 1964, đến nay Lê Lựu đã
viết được gần hai mươi đầu sách và có nhiều tập có tiếng, trong đó Thời xa
vắng là một đỉnh cao “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt
27
Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu tiểu thì Lê Lựu là một trong
tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy ba mươi
tác phẩm thì có mặt Thời xa vắng” [23, tr.663]. Như vậy trong nền văn học
Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí nhất định.
Từ những trang viết đầu tiên, Lê Lựu đã thể hiện sự cần mẫn nghiêm
túc của một ngòi bút hết lòng với nghề. Nhà văn không chấp nhận sự nhạt
nhẽo, tầm thường mà ở bất cứ tác phẩm nào ông cũng muốn gửi gắm những
giá trị nào đó. Vì vậy, nhìn lại cả chặng đường sáng tác của Lê Lựu ta lại bắt
gặp những trang văn thấm đẫm tình đời, tình người. Ngòi bút giản dị và sâu
sắc ấy đã đi sâu vào lòng người đọc như minh chứng cho những giá trị tốt
đẹp.
1.3.3. Đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết trong nền văn
học Việt Nam đương đại
Lê Lựu là một trong những cây bút có nhiều đóng góp đối với nền văn
học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Với khuynh hướng nhận thức lại hiện thực
cùng với sự trở lại của cảm hứng bi kịch, những thay đổi trong quan niệm về
hiện thực và con người, cùng những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, Lê Lựu
đã góp phần làm đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Lê Lựu qua các tác phẩm của mình đã nhìn nhận hiện thực xã hội một
cách tỉnh táo, khách quan, phơi bày những cái tiêu cực, xấu xa, mô tả và tố
cáo nó. Đó có thể là những quan niệm duy ý chí, lối tư duy bảo thủ hay những
thói vị kỉ, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng… Không chỉ dừng lại ở đó, Lê Lựu
còn nhận thấy sự lầm lẫn, hạn chế của một thời. Ông chỉ ra rằng chính những
quan niệm, lối tư duy ý chí đã trở thành sợi dây trói buộc đời sống tinh thần,
triệt tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của con người, gây ra bi kịch xót xa
cho mỗi số phận. Bằng cái nhìn sắc sảo, Lê Lựu đã lý giải được những biến
động của đời sống xã hội và sự tác động của nó đến số phận con người. Nhận
28
thức quá khứ và thực trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự
báo xu thế phát triển tất yếu và những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là
sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết
nước ta mà trước đó chưa có. Lê Lựu đã dùng ngòi bút của mình đi tìm cái
muôn màu của sự sống thông qua khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đó
không chỉ là sự mở rộng phạm vi hiện thực được phản ảnh, không chỉ là sự
tiếp nhận kỹ thuật hiện đại mà còn là tư duy mới mẻ về đời sống. Qua cái
nhìn trực diện vào những mặt trái trong xã hội, với thái độ phê phán sự xấu
xa, tha hóa của con người, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhức nhối của thời
đại với những thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tiểu thuyết của Lê
Lựu đã mở rộng thế giới hiện thực sống động nhưng cũng vô cùng phức tạp.
Một đóng góp không nhỏ của Lê Lựu cho nền văn học đương đại đó là
sự trở lại của cảm hứng bi kịch. Nếu như trong văn học thời kỳ kháng chiến
cảm hứng bi kịch cá nhân bị làm mờ nhạt thì giờ đây Lê Lựu đã khai thác nó
trong số phận mỗi cá nhân bằng những phân tích kỹ càng, không đơn giản,
phiến diện. Tiểu thuyết Lê Lựu, mà khởi đầu là Thời xa vắng đã lấy cảm hứng
bi kịch cá nhân làm đối tượng, đưa đến cho người đọc hứng thú suy nghĩ và
say sưa chiêm nghiệm về cuộc sống. Vấn đề bi kịch cá nhân đã từng là nguồn
cảm hứng lớn của nhân loại, nhưng suốt một thời gian dài nó chỉ thấp thoáng
xuất hiện trong văn học ta, bởi vậy không thể phủ nhận vai trò đi đầu của
Thời xa vắng đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch nhân văn trong giai đoạn
văn học mới. Với những đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã nhìn thẳng vào những
đau khổ, mất mát, những bất hạnh, ngang trái của con người, những bi kịch
đời thường ấy đầy rẫy trong cuộc sống phức tạp, nó làm cho con người loay
hoay trong vòng luẩn quẩn đầy khổ đau, biến con người trở thành nô lệ cho
cuộc đời, dần đánh mất mình mà không hay. Viết về bi kịch có thể tác giả
29
chưa đưa ra được những giải pháp để giải quyết bi kịch nhưng qua đó ông đã
giúp người đọc ý thức hơn về ý nghĩa của cuộc sống và mong muốn con
người hãy sống có trách nhiệm hơn với chình mình.
Mặc dù không có nhiều cách tân trong lối viết nhưng Lê Lựu vẫn luôn
có ý thức tìm tòi, thay đổi về mặt nghệ thuật trong từng tác phẩm, điều đó làm
cho tiểu thuyết của ông tránh khỏi sự đơn điệu, trùng lặp. Những sáng tác của
Lê Lựu đã có những đóng góp nhất định về phương diện nghệ thuật như cách
xây dựng tình huống truyện bất ngờ, kịch tính, không - thời gian nghệ thuật,
thủ pháp đồng hiện, giọng điệu trần thuật, khuynh hướng triết luận, ngôn
ngữ… Thời xa vắng là “lịch sử một số phận” với những đoạn đường đời cụ
thể dưới cái nhìn chiêm nghiệm, từng trải. Sóng ở đáy sông lại có vẻ như hồ
sơ của một phạm nhân được lần giở từng sự kiện qua sự phân tích chặt chẽ
những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới hành vi phạm tội. Ở Chuyện
làng Cuội, sự đan xen quá khứ và hiện tại làm cho mạch truyện thêm linh
hoạt, người đọc tuy khó nắm bắt truyện hơn nhưng cũng chủ động hơn trong
tiếp nhận tác phẩm. Nếu như ở Hai nhà, Lê Lựu thay đổi điểm nhìn trần thuật
bằng việc đưa những trang nhật ký vào tác phẩm để người đọc có thể hiểu rõ hơn
tâm trạng, cảm xúc, động cơ... của nhân vật thì trong Đại tá không biết đùa, nhà
văn chuyển hẳn đối thoại vào đoạn trần thuật, kể chuyện bằng nhiều điểm nhìn.
Không thoát ly khỏi tiểu thuyết truyền thống nhưng Lê Lựu đã cố gắng làm mới
cách viết của chính mình và điều đó cũng ít nhiều đem lại thành công.
Bảo Ninh, một nhà văn thuộc thế hệ cầm bút kế tiếp đã từng khẳng
định: “Cánh cửa mà nhà văn Lê Lựu đã mở ra cho tiểu thuyết thời Đổi mới
tuy rằng đã cũ nhưng mà vẫn vô cùng mới đối với các nhà văn lứa kế sau
ông. Những quan niệm về tiểu thuyết có thể đúc rút được từ Thời xa vắng
cũng không lạ thường gì song với những người viết văn trẻ tuổi hồi đó thì vẫn
có tác dụng gần như sự bừng tỉnh”. Bằng những thay đổi trong quan niệm về
30
hiện thực và con người cũng như những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, tiểu
thuyết Lê Lựu đã góp phần đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, trở thành
một “gương mặt” riêng trong bức tranh đa dạng của nền văn học dân tộc.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 luận văn đã khái quát đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam
trước thời kỳ đổi mới và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới để từ đó thấy
được sự vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết qua các thời kỳ. Cũng
trong chương này chúng tôi đi sâu tìm hiểu về Lê Lựu qua cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác và những đóng góp của tác giả đối với thể loại tiểu thuyết và
đối với nền văn học đương đại Việt Nam. Với những nỗ lực sáng tạo nghệ
thuật cộng với những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, Lê
Lựu đã khẳng định vai trò tiên phong trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết.
Những sáng tác của ông với thể loại tiểu thuyết đã đưa ông lên vị trí danh dự
31
những nhà văn xuất sắc thời kỳ đổi mới.
Chương 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các lĩnh vực, khoa học, lý
luận, kinh tế, quản lý… Khi là đối tượng của văn học, con người được nhìn
nhận như một nhân cách đích thực và toàn vẹn, được soi ngắm dưới nhiều
hoàn cảnh, nhiều mối quan hệ, được thừa nhận ở mọi giá trị liên quan tới nó.
Vì vậy quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học khác với quan niệm
Cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu,
về con người trong các hình thái ý thức xã hội khác.
song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách định
nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau:
Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách
cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của
nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[36, tr.15].
Huỳnh Như Phương cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể
hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm” [16, tr 210].
Cũng với vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật
ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là
hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm.
Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của
nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy
nghệ thuật” [15, tr.275].
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm
32
trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con
người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái
quát như sau: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn,
cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là
quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ
cũng gắn liền với cách cảm nhận và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể,
ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Khi nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong từng tác
phẩm, ta thấy điểm nhìn khác nhau giữa các nhà văn, giữa từng giai đoạn, thời
kỳ. Những thay đổi về quan niệm nghệ thuật qua các chặng đường sáng tác,
thể hiện qua ý thức của nhà văn về việc miêu tả con người. Qua đó làm nổi
bật tư tưởng, quan niệm của tác giả về xã hội, về thời đại, về con người trong
giai đoạn đó.
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể có tên
riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như
thằng bán tơ, một mụ nào…Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng
như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ là một hiện
tượng nào đó trong tác phẩm. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái
quát tính cách của con người. Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên
nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của
cuộc sống.
Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm
mỹ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn với chủ đề của tác
phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua những biến cố, xung đột, mâu
33
thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu
thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân
vật khác. Cho nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện.
Ta có thể hiểu một cách khái quát, nhân vật văn học là nhân vật trong
tác phẩm văn học được nhà văn xây dựng với những nét tính cách tiêu biểu và
đời sống nội tâm phong phú. Nhân vật văn học hiện lên trong tác phẩm vừa là
những con người văn học để qua đó nhà văn thể hiện và chuyển tải ý đồ nghệ
thuật, vừa là những con người chân thực như con người thật của cuộc đời.
Nhân vật văn học vì thế bao giờ cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng người đọc.
Vấn đề nhân vật là vấn đề hàng đầu quyết định diện mạo một nền văn
học, đặc biệt là tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết nhân vật hầu như luôn được nhà văn
miêu tả tỉ mỉ từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Vai trò của nhân vật trong
tiểu thuyết cũng vô cùng quan trọng: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết
tiểu thuyết là miêu tả con người và con đường đi của họ trong xã hội. Người
viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề phải thông qua nhân vật, xuất phát từ nhân
vật hơn là từ sự việc. Một cuốn tiểu thuyết có đứng được hay không là ở chỗ
nó có tạo ra được những nhân vật làm cho bạn đọc nhớ được hay không”
(Nguyễn Đình Thi) [13]. Vì thế việc nhận diện nhân vật văn học, đặc biệt là
nhân vật tiểu thuyết luôn là công việc quan trọng của công tác nghiên cứu,
phê bình văn học. Nghiên cứu nhân vật, chính là nghiên cứu cách nhà văn
nhìn nhận, cắt nghĩa, lý giải về con người như thế nào và bằng cách nào trong
tác phẩm của mình, “nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của
mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó
của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới
riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [32, tr.126]. Người ta
sẽ tìm thấy bộ mặt đầy đủ của con người trong các nhân vật của tiểu thuyết.
34
Nếu trong tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thì nhân vật cũng
vừa là cơ thể vừa là linh hồn. Nhân vật trong tiểu thuyết không hề xa lạ mà
được đặt trong những mối quan hệ cụ thể, đời thường. Nó không gì khác hơn
chính là hình ảnh của con người đời thường với những nỗi niềm suy tư, trăn
trở được phản chiếu thông qua lăng kính văn học. Những nhân vật tiểu thuyết
thường không nguyên phiến, một chiều mà nó lại hiện lên với tất cả sự phong
phú, sâu sắc, nó không chỉ có một tính cách duy nhất mà nó có thể mang
trong mình tất cả những đức tính tốt xấu đời thường như những con người
thật của cuộc đời.
Nhìn một cách khái quát, ta có thể thấy trước năm 1975, nhân vật trong
tiểu thuyết Việt Nam bị chi phối bởi khuynh hướng sử thi và được xây dựng
theo nguyên tắc phân tuyến thiện - ác, ta - địch, tốt - xấu… rạch ròi. Về cơ
bản, nhân vật được xây dựng nhằm thực hiện chức năng xã hội nhất định.
Những sáng tác của Lê Lựu trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài xu
hướng ấy. Trước đổi mới, Lê Lựu tập trung khắc họa nhân vật theo mô hình
con người tích cực của cộng đồng. Ông đặc biệt dành ưu ái cho hình tượng
người chiến sĩ.
Sau 1975, nhất là sau năm 1986, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam có nhiều thay đổi. Nhân vật không nằm trong thể khép kín và được định
sẵn về số phận như trước nữa mà luôn mang tính bất ngờ, không thể dự báo.
Nhân vật nhiều khi xuất hiện như một trạng thái đời sống, một dòng chảy tư
tưởng, một tiếng nói, một cách nhìn. Trong giai đoạn này nó được thể hiện
một cách sinh động, sâu sắc, có chiều sâu, thoát khỏi cái nhìn khô cứng, một
chiều, đơn tuyến trước đây. Không nằm ngoài đặc điểm ấy, qua việc xây dựng
những hình tượng nhân vật đặc sắc, sáng tác của Lê Lựu thời kỳ này đã thực
sự thể hiện cái nhìn nhân bản và sâu sắc nhất về con người với một niềm day
dứt khôn nguôi. Đến đây, ông thực sự xứng đáng là “nhà văn của tính cách,
35
của số phận con người”.
2.2. Phân loại nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, dựa trên các góc độ khác nhau có thể
chia nhân vật thành những kiểu loại khác nhau. Nếu dựa vào nội dung và cốt
truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và
nhân vật phụ. Dựa vào đặc điểm tính cách, việc truyền đạt lý tưởng của nhà
văn, có thể chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Dựa vào
thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. Dựa
vào cấu trúc hình tượng nhân vật, nhân vật được chia thành nhân vật chức
năng (hay mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về các loại nhân vật trong tiểu
thuyết Lê Lựu, chúng tôi đã dựa vào đặc điểm tính cách và cấu trúc hình
tượng để tiến hành phân loại nhân vật. Các nhân vật trong sáng tác của ông
không nghiêng hẳn về một loại nhân vật cụ thể nào như trên, nhưng xét thấy
nó gần với kiểu nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. Ở đó nhân vật không
chỉ được mô tả như một tính cách, nhân cách, một cá nhân có tính nổi bật mà
nó còn thể hiện một ý thức, một tư tưởng tồn tại trong đời sống tinh thần của
xã hội. Dựa vào những tiêu chí trên chúng tôi phân loại các kiểu nhân vật
trong tiểu thuyết Lê Lựu như sau: Nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và nhân
vật lưỡng diện.
2.2.1. Nhân vật bi kịch
Nếu như trong nền văn học chiến tranh, cảm hứng bi kịch cá nhân gần
như không được nhắc đến thì sau thời kỳ đổi mới, nó trở lại với nhiều màu
sắc và có chiều sâu hơn. Có thể nói Tiểu thuyết Lê Lựu với khởi đầu là Thời
xa vắng có vai trò đi đầu đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, Lê Lựu đã thành công khi xây dựng nhân vật bi
kịch trên nhiều phương diện. Đó có thể là bi kịch do hoàn cảnh gây nên, cũng
36
có thể bi kịch do chính bản thân nhân vật tự tạo ra. Tất cả được Lê Lựu cắt
nghĩa, lý giải hết sức sâu sắc bằng một trái tim hết lòng tin yêu con người và
đầy ưu tư, trăn trở vể cuộc đời.
2.2.1.1. Bi kịch do hoàn cảnh
Con người là trung tâm của xã hội và luôn bị chi phối và ràng buộc bởi
hoàn cảnh. Khi không đủ bản lĩnh đấu tranh chống lại hoàn cảnh, họ rơi vào
bi kịch, thậm chí trở thành nô lệ của hoàn cảnh. Trong văn học Việt Nam ta
đã bắt gặp loại nhân vật này ở các tác phẩm của các nhà văn hiện đại như
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao…Đến những năm tiền đổi mới,
hình ảnh con người là nạn nhân của hoàn cảnh sống, con người với số phận riêng
tư nhiều trắc trở đã hiện lên khá day dứt qua những trang văn của Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng…Bước sang thời kỳ đổi mới, với nhu cầu
“nhận thức lại hiện thực” thì kiểu nhân vật bi kịch được xây dựng chân thật, sinh
động, sắc nét hơn và Lê Lựu được xem là một trong những nhà văn tiên phong
với sự ra đời của “hiện tượng văn học” - Thời xa vắng.
Câu chuyện về một thời mà Lê Lựu gọi là “thời xa vắng” là một câu
chuyện buồn mà suốt một thời gian dài người ta cố tình không nhắc tới. Đó là
cái thời mà sự yêu ghét của con người bị định đoạt một cách thô bạo, khiến
người ta muốn tồn tại thì phải tự gọt đẽo mình, phải “sống hộ ý định người
khác”. Tất cả những sai lầm một thời đó in rõ trong số phận và tính cách của
nhân vật chính Giang Minh Sài một cách ám ảnh. Suốt nửa cuộc đời, Sài loay
hoay giữa muôn vàn đau khổ do sức ép từ nhiều phía. Chưa đầy mười tuổi,
Sài đã bị gia đình bắt cưới Tuyết, “đứa con gái hơn Sài ba tuổi” mà anh “ghét
bỏ từ đầu đến chân”, nhưng cái ý định bỏ vợ của anh chưa kịp ló ra thì nó đã
bị dập tắt bởi quan niệm mang tính áp đặt của người cha “Chưa có khi nào
con cái lại trái ý cha mẹ”. Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình,
dòng họ. Đến tuổi trưởng thành, Sài lại phải cố gồng mình lên để chịu đựng,
37
phải “tự giết chết đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự”, anh
cắn răng chịu đựng, âm thầm chôn vùi tình cảm mãnh liệt với Hương, người
con gái anh yêu tha thiết. Khi vào quân ngũ, Sài lại phải theo ý các thủ trưởng
là phải “yêu vợ”, nhưng phải yêu thực sự để có đầy đủ cơ sở kết nạp Đảng.
Nhưng cuối cùng vì sống hộ người khác, để người khác quyết định cuộc đời
mình nên anh đã đánh mất đi tình yêu và cũng không được kết nạp Đảng vì lý
lịch nhà vợ. Đến khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai với Châu, tuy là người
tự do lựa chọn và được sống theo ý mình thì Sài lại phải sống “không phải là
mình, không còn là mình, cái mình có thì thừa ra, cái không có thì phải ứng
xử hàng ngày, có mãi từng ngày vẫn thấy thiếu hụt” [26, tr. 282]. Cách sống
ấy của anh vẫn là hệ quả của những tháng ngày “sống hộ ý định người khác”
thuở trước. Hôn nhân đổ vỡ là kết quả của một thời “yêu cái mình không có”
của anh. Rõ ràng cuộc đời Sài từ khi bắt đầu đã là bi kịch. Đó là bi kịch của
một con người “nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa đời còn lại
đi yêu cái mình không có” [26, tr. 332]. Cuộc đời sống hộ người khác, yêu
thương, ghét bỏ cũng vì người khác nên anh đã không còn là chính mình.
Những người thay Sài quyết định số phận của anh không phải là người xấu,
thậm chí họ rất yêu mến anh. Nhưng đó lại là những tình cảm sai lầm, vô tình
biến Sài thành một con rối bị giật dây, đẩy cuộc đời anh từ bi kịch này đến bi
kịch khác. Sài không được là chính mình, không được sống theo ý mình, cũng
không thể đi theo tiếng gọi của tình yêu đích thực bởi vì sao? Bởi trong cái
thời ấy, không ai cho Sài cái quyền được làm như vậy. Danh dự của gia đình,
của dòng họ ông đồ Khang, cái uy tín cán bộ của ông Hà, của anh Tính không
cho phép Sài “thò ra cái ý định bỏ vợ”. Cái sự yêu thương, quý mến của anh
Hiền, của anh Hiểu và những người khác trong quân ngũ cũng không cho
phép Sài đến với tình yêu của đời mình, không thể sống với suy nghĩ riêng tư
38
của mình. Thế nên trong cái thời ấy, Sài “không được là mình, không dám là
mình”, Sài phải “dựa vào dư luận mà sống”. Vì thế suốt cuộc đời mình, Sài bị
trôi đi trong những dòng bi kịch nghiệt ngã.
Cắt nghĩa bi kịch do hoàn cảnh, Lê Lựu dành nhiều ưu ái cho số phận
những người phụ nữ có hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chịu mất mát trong
tình yêu và hạnh phúc gia đình. Nếu nói đến sự ưu ái khi xây dựng nhân vật,
thì có lẽ Hương trong Thời xa vắng là nhân vật được Lê Lựu dành nhiều thiện
cảm hơn cả. Ở cô kết tinh cả nét đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp trong tính cách,
tâm hồn. Hương là hình ảnh của một con người sống có bản lĩnh, có trách
nhiệm, với một nhân cách trung thực, thẳng thắn rất đáng quý, giản dị chân
thành, nết na, hiền dịu. Lê Lựu qua hình tượng người phụ nữ này, đã thể hiện
được sự trân trọng, quý mến, đồng cảm với một cô gái yêu hết mình, luôn ra
sức bảo vệ tình yêu nhưng lại thất bại. Bởi cái xã hội luôn coi dư luận như là
lẽ sống thì con người dù cố gắng đến đâu vẫn không thể được sống với những
mong muốn, khát khao của chính mình. Xét cho cùng, cuộc đời Hương cũng
rất đáng thương. Người phụ nữ ấy, muốn sống trong tình yêu nhưng lại phải
sống một cuộc sống gia đình nặng về trách nhiệm, khao khát yêu đương
nhưng lại thất bại khi bảo vệ tình yêu ấy… Trong cái xã hội khắt khe, với
những lề lối cổ hủ, lạc hậu, với lối suy nghĩ hẹp hòi, nông cạn làm biến đổi
con người ấy, vẫn còn đâu đó những cô gái đẹp đẽ và đáng quý như Hương.
Nhân vật ấy hiện lên trong tác phẩm như một sự cân bằng, như một tia sáng
soi rọi cái không khí u ám của một thời xa vắng mênh mông.
Nếu Hương là nhân vật phụ nữ được Lê Lựu dành nhiều ưu ái, thì với
Tuyết, Lê Lựu lại có cái nhìn thiếu thiện cảm, lạnh lùng và hơi khắt khe.
Tuyết hiện lên trong tác phẩm xấu xí ở cả diện mạo và tính tình, được tác giả
miêu tả gần như là kẻ thù của Sài, như một bóng ma ám ảnh suốt quãng đời
thanh niên của Sài. Tuy nhiên, đọc Thời xa vắng, ta vẫn không thôi suy nghĩ
về nhân vật này. Xét cho cùng Tuyết là người đáng thương hơn đáng trách.
39
Cô cũng như Sài không được quyết định lựa chọn cuộc sống của mình nên cô
cũng là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Cô cam chịu tục lệ “cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, chấp nhận làm vợ một đứa trẻ còn chưa đến tuổi
dậy thì, sống lặng lẽ chịu đựng mọi đắng cay, tủi nhục của người vợ bị chồng
ghẻ lạnh, hắt hủi. Nếu Sài cảm thấy khó chịu và ngột ngạt trong cuộc sống với
người mà anh ghét cay ghét đắng thì ngược lại Tuyết lại rất yêu Sài, và vì quá
yêu Sài nên cả cuộc đời cô cũng chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ, cô đơn trong
tình yêu, bất lực trong cuộc sống hôn nhân gia đình. Tuyết cũng giống như
bao cô gái khác, luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình nhưng lại bị
chồng coi như cái gai trong mắt. Cô luôn phải sống trong nỗi khát khao và cô
đơn của cô gái tuổi mười bảy: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày
như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái căng
đầy lên đã thấy khát khao đến cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm
đăm của con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chạy về”
[26, tr.38]. Có nhiều lúc cô thèm lắm một “câu quát mắng, thèm một quả
đấm, một cái tát, bởi những cái đấy là tục tằn, thô lỗ vẫn được tiếng là có
chồng, chồng đánh, chồng chửi, chồng giận hờn, hắt hủi…”[26, tr.144].
Nhưng đáp lại niềm khao khát đó là sự ghẻ lạnh “hai người gặp nhau như là
gỗ xếp vào đá, không bao giờ nhếch mép nói lấy nửa câu, trông thấy mình
như trông thấy một con hủi anh ấy phải né người quay đi lối khác” [26,
tr.144]. Người phụ nữ với vai trò là người vợ và người mẹ ấy cũng khao khát
hạnh phúc như bao nhiêu người khác nhưng cuối cùng vẫn phải sống trong
cô đơn và bất hạnh: “cả một thời con gái được chồng nhòm ngó đến một lần
rồi nuôi con một mình” để rồi “cứ phải ép mình xuống giường chịu cho qua
hết đêm này đến đêm khác” và “đêm nào cũng phải nghĩ một mình, ôm con
khóc mà nghĩ” [26, tr.144, 145]. Dù có với nhau đứa con nhưng Sài chỉ nhớ
đến con mà quên mất sự tồn tại của người sinh ra nó.
Người phụ nữ như Tuyết lẽ ra nhận được sự thương cảm của nhà văn
40
nhưng Lê Lựu lại có cái nhìn định kiến, thiếu công bằng. Lối suy nghĩ định
kiến cá nhân đã chi phối ngòi bút tác giả khi thể hiện nhân vật này. Đây cũng
là hạn chế trong ngòi bút của nhà văn khi viết Thời xa vắng, nó làm giảm bớt
giá trị nhân văn của tác phẩm.
Suy cho cùng, cả Hương và Tuyết đều là những người phụ nữ đáng
thương. Họ đều không được sống như mình mong muốn. Cái tôi cá nhân,
những khát vọng sống giản dị chân thực của họ bị lấn át, bị trói buộc bởi sức
ép của dư luận, của những người xung quanh, bởi những định kiến chung. Họ
không quyết định được số phận của mình và phải hứng chịu mọi khổ đau. Lê
Lựu qua hình tượng những nhân vật này, đã dấy lên một lời phê phán, lên án
sâu sắc xã hội và lên tiếng kêu cứu và bênh vực con người.
Với Thời xa vắng, Lê Lựu đã thể hiện một nỗi niềm thổn thức về giá trị
con người, ông mang đến cho chúng ta những bài học sâu sắc, giàu tính nhân
bản rằng chúng ta hãy sống là mình, hãy chịu trách nhiệm về bản thân mình
và hãy tự mình quyết định cuộc đời mình. Đừng nên “yêu cái người khác
yêu”, cũng đừng nên đi “yêu cái mà mình không có”. Nói về một thời xa vắng
ấy, Lê Lựu muốn hướng tới một cuộc sống bình thường, một xã hội nhân văn
tôn trọng cá nhân và ở đó con người phải có ý thức sâu sắc hơn nữa về vị trí
và giá trị của mình trong các mối quan hệ gia đình, xã hội và dám chịu trách
nhiệm về nhân cách của mình. Cái thời xa vắng ấy, vì vậy chưa bao giờ là xa
vắng bởi vì giá trị nhân văn của nó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nếu Thời xa vắng là chuỗi bi kịch của con người bị áp đặt bởi lối tư
duy sai lầm, ấu trĩ thì Chuyện làng Cuội lại là bi kịch của những con người bị
quyền lợi giai cấp, bị chính sách chế độ chèn ép, dồn đuổi đến tận cùng nỗi
khổ đau, mất mát. Chuyện làng Cuội bắt đầu và kết thúc bởi cái chết bất ngờ
và không bình thường của bà Đất, người phụ nữ mà cả cuộc đời là chuỗi
những bi kịch, bi kịch bởi quá giàu yêu thương. Suốt cả cuộc đời bà giành hết
41
tình yêu cho chồng, cho con, câm lặng hy sinh, chịu đủ mọi tai tiếng nhục
nhã… nhưng cuối cùng lại phải chết trong đau đớn vì chính sự tàn nhẫn, sự
phản bội, cạn tình của đứa con mình.
Hồi còn trẻ Đất vốn là một cô gái xinh đẹp, hiền dịu, vừa bước vào cái
tuổi 18 đẹp đẽ, chưa biết thế nào là tình yêu, là hạnh phúc thì cô đã bị Tổng
Lỡi, một kẻ có quyền hành cưỡng hiếp, cuộc đời trước mắt trở thành địa ngục
tối tăm. Một thân một mình, bụng mang dạ chửa cô phải lưu lạc khắp nơi. Dù
cực khổ, tủi nhục như cô vẫn gắng gượng vì đứa con. Sinh ra nó cô phải sống
chui lủi 10 năm trời rồi mới dám về làng. Sau này về làng, Đất gặp và lấy
Kiêm, một chiến sĩ giàu lòng yêu nước. Tưởng như hạnh phúc đã mỉm cười
với cô nhưng cuối cùng Kiêm bị bắt. Đến khi có bầu đứa thứ ba, cô bị bọn
“lòng lang dạ thú” áp dụng luật lệ khắc nghiệt, trói cô lại, lột hết quần áo và
bắt cô đi từ đầu làng đến cuối xã, bị đánh đập, sỉ mắng đến khi ngất đi vì cái
tội chửa hoang. Hòa bình lập lại, vợ chồng đoàn tụ chưa được bao lâu thì biến
cố lại xảy đến với gia đình bà. Chồng bà từ một con người yêu nước, hôm qua
vừa là “người đứng đầu xã” mà hôm nay bỗng nhiên trở thành người phản
bội, kẻ phản quốc, thuộc giai cấp bóc lột. Bà bị mọi người hắt hủi, xa lánh vì
sợ liên lụy. Ngay cả con trai và con dâu cũng không dám lại gần bà. Chồng bị
bắn chết, bà sống trong nỗi đau đớn tột cùng, thời gian trôi đi, khi chồng được
minh oan, đang sống trong hạnh phúc vì có người con đánh giặc giỏi chưa bao
lâu thì bà lại phải chịu nỗi nhục rằng Mai - thằng con trai thứ hai của bà theo
giặc. Đứa con út là Sau vì muốn lấy lại danh dự cho mẹ, cũng hăng hái ra
chiến trường. Thế nhưng hạnh phúc ngắn ngủi tày gang, nỗi đau kế tiếp nỗi
đau, cùng một lúc bà nhận được hai giấy bảo tử của hai đứa con trai mình
trong lúc đang nhận bằng khen bà mẹ chiến sĩ xuất sắc nhất xã Ngoại
Thượng. Bà dù đau đớn vẫn không dám khóc, vẫn phải nói với mọi người
rằng phải noi theo các bà mẹ anh hùng miền Nam, dù con bà đã hy sinh, dù
42
mất mất là quá lớn nhưng bà không gục ngã…
Nhưng chưa hết, cuộc đời bà một lần nữa vì con lại phải mang tiếng ác.
Hiếu, thằng con trai mà bà hết mực yêu thương, vì muốn bỏ vợ nhưng lại sợ
ảnh hưởng đến danh tiếng, địa vị nên bắt bà viết đơn tố cáo con dâu, bắt bà
lạnh nhạt với Xuyến, không chấp nhận một đứa con dâu theo trai, hắn buộc bà
vu oan cho Xuyến xô mẹ chồng ngã gãy chân…để tòa giải quyết cho hắn
được li dị. Một lần nữa người phụ nữ bạc phận ấy lại gánh lấy mọi tội lỗi xấu
xa, bà bị mọi người xa lánh vì “ác độc quá”, vì bà mà gia đình con cái phải
tan đàn xẻ nghé, con mất mẹ, vợ mất chồng.
Khi hòa bình lập lại, con trai bà làm ăn thuận lợi, địa vị danh cao,
những tưởng rằng bà sẽ được bù đắp cho những năm tháng khổ đau, tủi nhục,
nào ngờ bà lại như một kẻ đi ở, cả ngày giúp việc hậu hạ vợ con thằng Hiếu.
Chăm sóc, phục vụ chúng nó ngày đêm nhưng thay vì những lời cảm ơn, bà
chỉ nhận được sự xỉa xói, đay nghiến của đứa con dâu lăng loàn.
Nhưng tất cả những nỗi đau kia chưa hẳn là tột cùng, bi kịch đời bà đẩy
lên cao hơn khi bà bị chính đứa con mình thương yêu nhất phản bội. Cả đời
ngậm đắng nuốt cay, hy sinh, tủi nhục vì nó, xem nó “như ngọn đèn soi sáng
cho cái thân phận nhục nhã” của bà để “nương tựa” mà sống thế mà nó lại
xem bà như cái gai, như vật cản, như là một mối nguy hiểm đe dọa đến cuộc
đời nó, “có ý định làm hại” nó. Những lời nói cay độc, đay nghiến của nó:
“nếu chết được bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ. Bà tưởng tôi cần bà
lắm đấy hả? Nhưng mọi chuyện vỡ lở ra, có chết bà cũng không yên với tôi
đâu” [24, tr.507] như những nhát dao đâm thẳng vào tim bà. Đến nước này bà
không thiết sống nữa. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi bà bấu víu vào để sống đến giờ
này đã bị thằng con chặt đứt, còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau này và bà tìm
đến cái chết như một sự giải thoát khỏi cuộc đời đầy tăm tối. Niềm hy vọng
cuối cùng, cái ngọn đèn tưởng là soi sáng đời bà lại chính là ngọn lửa tàn ác
43
thiêu cháy cả cuộc đời của người đàn bà tội nghiệp.
Suốt cả cuộc đời bà Đất là những bi kịch nối tiếp nhau, nỗi đau này
chưa dứt nỗi đau kia đã đến, tủi nhục này chưa qua, nhục nhã khác đã hành
hạ. Những dòng chữ của Lê Lựu thẫm đẫm nước mắt, như khóc thương cho
số phận người phụ nữ tội nghiệp, đáng thương ấy. Bi kịch của bà Đất là bi
kịch của một người phụ nữ có sắc nhưng thân phận bạc bẽo, giàu tình yêu
thương nhưng chỉ được đáp lại bằng sự vô ơn, bội bạc, là bi kịch của những
nỗi oan do chính xã hội, chính giai cấp tạo ra, là bi kịch của một người mẹ
cam chịu, nhẫn nhục, hết lòng vì con cái nhưng đáp lại chỉ là sự đay nghiến,
hằn học… Bi kịch đời bà thực sự được đẩy lên đỉnh điểm bằng cái chết
“không bình thường” ở đầm Cuội. Nhưng khi chết họ vẫn không cho bà yên
nghỉ mà phải chờ đợi mọi người trong cơ quan và những mối quan hệ khác
của thằng con trai bà viếng thăm. Với cuộc đời đen tối, khổ cực ấy, phải
chăng chỉ có cái chết mới chấm dứt hết những nỗi đau, mới là sự giải thoát
duy nhất? Cuộc đời bi thảm của bà Đất như một lời lên án, buộc tội, tố cáo
đanh thép cái xã hội tàn ác ấy. Cái xã hội mà số phận con người bị chèn ép, áp
đặt bởi những quan điểm giai cấp hẹp hòi, máy móc, chúng đã nhân danh giai
cấp, nhân danh quyền lực để bóp méo các mối quan hệ, hủy hoại những giá trị
đạo đức thiêng liêng nhất. Chúng đã khiến cho con người đánh mất nhân tính
vì nỗi sợ hãi, khiếp đảm những luật lệ, những định kiến cố hữu, ẫu trĩ, giáo
điều, làm cho con người tha hóa, biến chất để rồi họ lao vào hành hạ, chơi xỏ
nhau, giả dối, lừa lọc, phản bội nhau. Cuối cùng những người hiền lành, chất
phác lại trở thành nạn nhân “xấu số” phải gánh chịu hàng ngàn nỗi đau
thương, tủi nhục.
Vẫn một tấm lòng không thôi day dứt trước số phận những con người
bất hạnh, khổ đau, vẫn bằng cảm hứng bi kịch xuyên suốt, Lê Lựu một lần
nữa thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Núi, nhân vật trung tâm của
44
tác phẩm Sóng ở đáy sông. Núi thuộc kiểu người lầm đường lạc lối vì thiếu
vắng tình thương, sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình và xã hội nên từ một con
người hiền lành, học giỏi, sống có trách nhiệm với các em trở thành một tên
đầu trộm đuôi cướp, ra tù vào tội hết lần này đến lần khác.
Sinh ra là đứa con của vợ lẽ, hiểu rõ thân phận mình, Núi luôn tỏ ra là
đứa con ngoan, chăm chỉ và học giỏi. Nhưng vì là những đứa con “hạng hai”
nên hắn và các em ngay từ nhỏ đã phải nhận sự đối xử thiếu công bằng của
người cha. Đến khi mẹ chết, lại bị người cha cắt bớt chỉ tiêu lương thực ít ỏi
hàng tháng, vì thương các em, Núi đành bỏ học đi làm thuê kiếm tiền. Khi bị
người cha phát hiện anh đã bỏ học và đang bị tạm giam giữ tại đồn, ông đã
không cần suy nghĩ, quyết tâm từ con, cắt đứt mối quan hệ cha con. Cánh cửa
gia đình hoàn toàn khép lại, nơi bấu víu mỏng manh cuối cùng bị cắt đứt,
không còn chỗ dựa, Núi tự buông mình theo dòng đời khắc nghiệt. Khi chân
đã nhúng chàm thì khó lòng rút ra được, hoàn cảnh ấy càng ngày càng đẩy
Núi trượt xa hơn trên con đường tội lỗi. Hắn trở thành kẻ ăn cắp, lợi dụng
lòng tốt của mọi người để kiếm ăn, hắn ra tù vào tội như cơm bữa.
Nhưng cuộc đời hắn cũng rất đáng thương, ngay khi chạm đến ngưỡng
cửa tình yêu hắn đã bị những quan niệm, định chế khắt khe đè bẹp, hắn phải
từ bỏ tình yêu với người “cô” có “họ hàng tám đời”. Lề thói cổ hủ phong kiến
không cho phép họ đến với nhau, không đủ sức mạnh chống chọi với dư luận,
với điều tiếng, cô gái mang theo giọt máu của hắn bỏ xứ ra đi. Khi người mẹ
qua đời, mọi gánh nặng đè lên vai hắn, một cậu học trò lớp 9 đang ở tuổi học,
tuổi chơi. Hắn bỏ học kiếm tiền nuôi em, rồi vì quá bí bách, túng quẫn, lại
không nơi bấu víu, nương tựa hắn trở thành kẻ ăn cắp. Khi có ý định xây đắp
gia đình, tu chí làm ăn, hắn lại lấy phải người vợ “giang hồ”, sống với nhau
không lâu ả bỏ hắn đi theo trai. Thời gian đó hắn gặp Hồng, người phụ nữ
hiền lành, đảm đang, chăm sóc hắn tận tình. Ngỡ rằng cuộc đời đã đổi khác,
45
hạnh phúc hình như đã gõ cửa cuộc đời hắn thì ả giang hồ lại bế con về nhận
cha. Hắn lại đánh mất hạnh phúc, quay về sống những ngày tháng tồi tệ, rồi
không lâu người vợ bỏ hắn và đứa con đi theo trai, để hắn một thân một mình
“gà trống nuôi con”, đứa con thiếu sữa mẹ, lại không có ăn ốm lên ốm xuống,
hắn đi khắp nơi tìm mẹ cho con, vì con, hắn không muốn nhưng vẫn phải làm
cái nghề tán tận lương tâm, đi khắp nơi trộm cắp. Cuộc đời hắn hết lần này
đến lần khác bị hoàn cảnh xô đẩy, chèn ép. Khi hắn có ý định ngoi lên với hy
vọng nhỏ nhoi thì lại bị dập tắt phũ phàng, khi gia đình, mà tiêu biểu là bố
hắn, nơi bấu víu cuối cùng lại giơ chân đạp phăng hắn vào cái xã hội bẩn thỉu
một cách không thương tiếc. Thử hỏi một con người như hắn còn biết làm gì
trước hoàn cảnh đó. Sức người là hữu hạn, sự chống chọi với thực tế ngày
càng yếu ớt, mong manh, hắn không thể vượt qua được và hắn hư hỏng như là
một điều tất yếu, hiển nhiên trong cái xã hội này. Rõ ràng nhân tố làm cho
cuộc đời Núi bước vào con đường lầm lạc, biến số phận hắn trở nên trớ trêu
như vậy nguyên nhân chính là từ người bố tàn nhẫn và nhân tố phụ là hoàn
cảnh xã hội lúc bấy giờ.
So với Thời xa vắng thì Sóng ở đáy sông nhẹ nhàng hơn khi soi chiếu
số phận con người qua góc độ gia đình với những biến cố, thăng trầm của xã
hội. Trong cái môi trường sống mà tình cảm trở nên khô cứng, người ta chỉ
biết đến những quy tắc, định chế cứng nhắc thì con người biết nương tựa vào
đâu. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi đáng ra phải chất chứa tình thương
để đùm bọc, chở che cho nhau lại cạn tình, nhẫn tâm, cự tuyệt nhau, cha mẹ
đáng ra phải có trách nhiệm, thương yêu con cái lại lạnh lùng cắt đứt, viết đơn
xin toàn xử tội “tù chung thân” khi con phạm lỗi lầm…Trong cái xã hội ấy,
con người với sức chống chọi yếu ớt đã sa chân vào con đường lầm lạc, họ lợi
dụng nhau, lừa dối và chà đạp nhau để sống, để tồn tại. Đó là hệ quả, là tất
46
yếu mà thôi.
Trở lại với những bi kịch gia đình, trong Hai nhà, Lê Lựu đã miêu tả
một cách khá chân thực những nghịch cảnh, những oái ăm khó lường của
cuộc sống. Đó là bi kịch trong hôn nhân gia đình ở thời kỳ mà con người phải
đối mặt với cuộc sống mưu sinh nghiệt ngã, hạnh phúc dường như rất mỏng
manh, dù họ cố gắng thế nào vẫn không tránh được sự đổ vỡ. Tâm là một nhà
báo yêu nghề nhưng vẫn phải cố viết những bài báo “không đăng thì thiếu”
mà đăng lên thì “nhạt như nước ao bèo”, vì hầu như thời gian của anh dành
hết cho những việc nhà vặt vãnh, anh chỉ có thể ngồi vào bàn viết khi đã hoàn
thành nghĩa vụ mà vợ giao là hứng nước, giặt quần áo, dọn dẹp nhà cửa…
Sống hết mình vì gia đình nhưng cuộc đời chỉ trả lại anh đầy những khổ đau,
đổ vỡ. Anh không hề biết rằng vợ anh luôn cặp kè, ăn nằm với thằng đàn ông
khác và những đứa con anh nuôi nấng, chăm sóc đều không phải là con của
anh cho đến khi anh đọc được quyển nhật ký của vợ. Nhưng sau phần vì quá
yêu thương con và phần nghĩ vợ đã hối hận vì sự phản bội thì anh lại quay lại
sống với gia đình. Vì mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn nên anh xa
gia đình vào Sài Gòn làm thuê kiếm sống, chắt chiu từng đồng với ý tưởng tốt
đẹp rằng sẽ sửa nhà để vợ con đỡ phải khổ sở trong căn nhà lụp xụp. Thế
nhưng cuộc đời là một dãy những sự bất ngờ, anh trở về trong tình trạng tinh
thần sụp đổ hoàn toàn khi hay tin vợ mình ngủ với bác Địa - người bạn thân
chí cốt mà anh rất mực tin tưởng và quý trọng.
Với Hai nhà, Lê Lựu đã đi sâu khai thác hiện thực đời sống thành thị
với những vấn đề gai góc, đầy biến động. Nếu như ở Thời xa vắng, quãng đời
bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế quan liêu
bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở Hai nhà, phạm vi và cấp độ
phản ánh hiện thực được mở rộng hơn, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời
thiếu thốn và khó khăn, Lê Lựu đã nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã
47
hội. Lối sống ích kỷ, thực dụng đang dần hình thành, nó tấn công mạnh mẽ
vào tế bào gia đình làm tan rã nét đẹp gia đình truyền thống xưa nay. Qua tác
phẩm này, Lê Lựu không chỉ phân tích, lý giải sự tác động của đời sống xã
hội đến số phận con người, không chỉ là sự phê phán sự tha hóa, trượt dốc của
con người, không chỉ cảnh báo về nguy cơ đổ vỡ và suy thoái đạo đức gia
đình mà ông còn thấm thía được những hạn chế, nhẫm lẫn của cả một thời.
Qua những tác phẩm trên, Lê Lựu đã vạch ra được căn bệnh và hạn chế
của cả một thời. Cái thời mà ý thức cá nhân bao giờ cũng được đặt sau tinh
thần tập thể, cá thể dường như không được tồn tại mà tất cả phải sống vì đoàn
thể, vì dư luận, ở đó con người chỉ tôn sùng ý chí, dùng ý chí chủ quan để áp
đặt người khác, không cho phép ai vượt khỏi cái khuôn đã đúc sẵn. Với
những bi kịch đau buồn, Lê Lựu đã chỉ ra rằng chính những quan niệm,
những lối tư duy ý chí đó đã trở thành sợi dây trói buộc tinh thần con người,
triệu tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của họ và gây ra bi kịch cho biết
bao số phận.
2.2.1.2. Bi kịch do bản thân tự đánh mất chính mình
Lê Lựu khi xây dựng kiểu nhân vật bi kịch, ông không hoàn toàn đổ lỗi
do hoàn cảnh mà cho rằng con người rơi vào bi kịch một phần do bản thân họ
tự đánh mất chính mình. Ông chỉ ra căn nguyên sâu xa thuộc về yếu tố chủ
quan con người. Từ đó ông muốn con người phải chịu trách nhiệm về nhân
cách và cuộc đời mình.
Những số phận như Sài, như Tâm, như Núi hay bà Đất, qua cái nhìn
sâu sắc của Lê Lựu, cuộc đời họ là những bi kịch và những bi kịch đó không
chỉ do hoàn cảnh, do xã hội chi phối mà còn do chính bản thân họ. Họ không
có chính kiến, họ sống và phụ thuộc vào người khác, để người khác giật dây
và kéo đi, họ không đủ mạnh mẽ để quyết liệt chống trả, họ không phản ứng
để chống lại hoàn cảnh nên cả cuộc đời họ cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm
48
khác, chịu nỗi đau này đến nỗi đau khác.
Khi nhắc tới nhân vật Sài, chúng ta nghĩ ngay đến bi kịch của một kẻ
“một đời lầm lẫn, một đời thất bại”. Bi kịch đó một phần do hoàn cảnh nhưng
về phía mình, chính Sài lại quá nhu nhược, thụ động, không đủ dũng cảm để
chống lại hoàn cảnh. Giai đoạn đầu đời, Sài đã không dám chống lại sự áp đặt
của gia đình, không dám vượt qua dư luận, không dám phá bỏ những ràng
buộc để sống với con người thật của mình mà phải sống hai cuộc đời giả và
thật. Đến khi gặp Hương, Sài bị giằng xé giữa một bên là bổn phận, trách
nhiệm với một bên là khát vọng hạnh phúc của đời mình. Cuối cùng vì không
đủ bản lĩnh, không dám đấu tranh để đến với tình yêu, anh đánh mất hạnh
phúc thực sự của đời mình. Anh hèn nhát, không dám đối mặt, không dám
phản kháng, hay nói đúng hơn sự phản kháng ở anh quá yếu ớt. Muốn trốn
khỏi cuộc hôn nhân với Tuyết, người mà anh ghét cay, ghét đắng, Sài tìm đến
quân ngũ. Nhưng trong quân ngũ anh vẫn không thể quên được Hương. Nhận
được thư Hương, biết ơn tình yêu của cô, vậy mà Sài vẫn không dám lên
tiếng, mặc dù anh biết đó là việc “hèn nhát” và “ngu xuẩn”. Sống tại đơn vị,
Sài cố gắng rèn luyện, phấn đấu, Sài được đi học đại học, được bồi dưỡng để
có thể trở thành đảng viên…và đến đây một lần nữa Sài lại không vượt khỏi
“nếp nghĩ tập thể” là phải “yêu vợ”, phải gắn bó với vợ, anh nghe lời cấp trên
và “yêu vợ” nhưng cuối cùng vẫn không được kết nạp Đảng vì lí lịch nhà vợ
không trong sạch. Điều đó càng làm anh chua xót, chán nản. Sau này, khi thoát
khỏi cuộc hôn nhân với Tuyết, Sài choáng ngợp trong tự do được làm chủ cuộc
đời mình. Anh gặp Châu một cô gái thành thị xinh đẹp, anh lại gục gã và bị đắm
chìm trong tình yêu mà sau nó là sự lừa lọc, giả dối mà không hề hay biết. Sống
với Châu, anh để vợ lấn át, xem thường. Mặc dù nhiều lúc anh nhận ra “mình
không còn là mình. Xử sự việc gì cũng không phải là mình, vì mình, tự mình
quyết định. Tất cả là của cô ta, phải làm theo ý cô ta” [26, tr.243], anh tìm cách
49
biện bạch cho sự nhu nhược của mình với một tư tưởng rất AQ “nhưng yêu
nhau phải biết làm thế nào”, “thành ra anh cứ phải cố” [26, tr.243], và hết lần
này nhường nhịn đến lần khác chịu đựng, một lần nữa anh lại đánh mất chính
mình. Dù cuộc hôn nhân này là do anh lựa chọn nhưng anh vẫn “có cảm giác
như mình đang cố sức leo cây cứ ngửa mặt cố lên mãi đến lúc tưởng rằng chỉ
cần giơ tay ra là hái được quả mới ngớ ra rằng nó vẫn còn mờ xa mà mình
thì kiệt sức, hết hơi, thụt xuống sợ cười chê mà leo lên nữa thì không đủ sức”
[26, tr.271]. Cuối cùng khi trở về làng Hạ Vị với hai bàn tay trắng anh mới
thực sự thấm thía nỗi đau của cuộc đời mình với hai từ “giá như”, giá như anh
“cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế,
không chiều theo ý ai, sống hộ ý định của người khác” [26, tr.332] thì đâu đến
nỗi. Đến giờ anh mới nhận ra mình phải “bình tĩnh hơn”, “tỉnh táo hơn” để
“không phải lao đao”, “không cảm thấy hụt hơi” như những năm qua.
Có thể nói cuộc đời Sài là sản phẩm của một hoàn cảnh đáng buồn, đầy
bất công phi lý thời quá khứ. Hoàn cảnh khiến Sài phải tự bào mòn, gọt đẽo
mọi cá tính của mình cho vừa với khuôn mẫu chung của cộng đồng xã hội,
biến Sài thành kẻ nhu nhược, hèn nhát. Tính cách hèn nhát, nhu nhược của
anh một phần do sự “bó buộc của hoàn cảnh”, phần nữa xuất phát từ căn
nguyên sâu xa là tâm lý cố hữu của người nông dân làm thuê “sẵn cơm thì ăn,
sẵn việc thì làm, chỉ hong hóng chờ chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán,
định đoạt một việc gì” và “không dám cựa mình giẫy giụa, chỉ hong hóng chờ
đợi, thấp thỏm cầu may” [26, tr.182]. Với nhân vật Sài, Lê Lựu đã xây dựng
thành công một hình tượng điển hình sống động, sâu sắc, có sức ám ảnh to
lớn đối với mọi thế hệ độc giả.
Sau Thời xa vắng, Lê Lựu mang đến cho bạn đọc nhân vật trí thức Tâm
trong Hai nhà như một bản sao của Sài. Tâm là một con người thật thà, tốt
bụng, nhiệt tình nhưng khuyết điểm lớn nhất của anh là cả tin, nhu nhược. Vì
50
nhu nhược nên ngay từ đầu cuộc đời anh đã trở thành bi kịch của người đổ vỏ
cho những kẻ ăn ốc mà không hay. Khi đọc những dòng nhật ký của Linh
Anh, anh cảm thấy “như một lưỡi dao cứa vào ruột anh trong những đêm
khuya vắng” và “anh không tự biết là mình còn đang sống hay đã chết”. Có
những đêm nhìn vào “đám tóc cứng xanh, dầy bộn” của đứa con so với mái
tóc “cum cúp, lưa thưa mềm” của mình, “anh lại thấy như đang nhìn những
sợi dây thắt vào cổ mình làm cho hơi thở nghẽn lại” [25, tr.185]. Nhưng anh
không đủ dũng khí để chấm dứt với Linh Anh. Dù tất cả bạn bè đều khuyên
ngăn anh “phải bỏ thôi” nhưng “nó khốn nạn ở chỗ anh rất thích sống bằng
những ấn tượng và kỷ niệm của quá khứ. Cái quá khứ của Linh Anh là một cô
bé xinh, có duyên, cả mắt và miệng cười như một ngọn lửa sáng bừng lên…
lại thông minh, hóm hỉnh” [25, tr.229]… tất cả làm anh liêu xiêu và cuối cùng
anh lại “câm lặng ngậm bồ hòn làm ngọt nuốt nỗi ấm ức vào ngực mình để
bắt đầu chịu đựng những chuỗi ngày nặng nề căng thẳng” [25, tr.236]. Rồi
anh lại nhận “sự âu yếm, ban phát của cô ta như những kẻ ăn mày nhận của
bố thí” [25, tr.120]. Niềm tin mù quáng và sự tha thứ rộng lượng của anh đã
đặt không đúng chỗ, lại một lần nữa anh bị vợ phản bội. Sự phản bội này còn
tàn ác và đau đớn hơn. Cái bản tính lẳng lơ, thói quen buông thả của Linh
Anh vẫn không hề thay đổi, khi Tâm vào Sài Gòn kiếm sống, ở nhà cô ta lại
ngủ với bác Địa, người bạn mà Tâm xem như anh em ruột thịt. Tâm càng
chăm sóc, nín nhịn vợ thì cô ta càng lăng loàn, anh càng tin tưởng, thân thiết
với người hàng xóm thì càng tạo cơ hội cho ông ta ngoại tình với vợ mình, và
đau đớn hơn đứa con của một người bạn thân mà anh hết mực yêu quý lại
chết oan trong cái trò gian dâm của vợ anh. Như vậy, bi kịch của Tâm không
chỉ là bi kịch đánh mất mình, mà còn là bi kịch của con người bị phản bội.
Xót xa hơn là chính những người mà anh gần gũi, thương yêu và trân trọng
nhất là chính là những kẻ phản bội tàn nhẫn nhất đối với anh. Chính sự nhẹ dạ
51
cả tin của anh đã tạo điều kiện cho những kẻ cơ hội lợi dụng, chà đạp. Chính
sự dùng dằng, không dứt khoát, chính sự mê muội thiếu tỉnh táo đã đẩy anh tự
mình dẫm vào hố sâu bi kịch cuộc đời mình đến lần này đến lượt khác. Sự trả
giá cho niềm tin mù quáng của anh quả thực là quá đắt.
Số phận bi đát của bà Đất (Chuyện làng Cuội) cũng tương tự như Tâm,
hay Sài. Cuộc đời đầy tủi nhục, bất hạnh, khổ đau của bà, phần vì do định
kiến, chế độ xã hội, phần cũng vì bản tính cam chịu, nhẫn nhục, ngây thơ, cả
tin của bà gián tiếp gây ra chính bi kịch của cuộc đời bà. Khi bị tổng Lỡi hãm
hiếp nhưng bà không đủ tỉnh táo để nhận ra bản chất của hắn mà vẫn ngây thơ
tin vào lời hứa suông sẽ được “làm bà bốn” của hắn, để rồi bà bị đẩy đi xa,
phải một mình nuôi con và sống trong đau đớn, tủi nhục. Khi anh Kiêm,
chồng bà bị vu oan, nếu bà dám thẳng thắn nói cho mọi người hiểu rằng
chồng mình vô tội, rằng cái nhà tổng Lỡi xây cho mẹ con bà là vì bà đang
nuôi đứa con của hắn thì chồng bà đã không phải chết trong oan ức. Nếu bà
không hy sinh mù quáng cho đứa con trai của mình, không chiều theo ý nó,
vu oan cho vợ nó xô ngã gãy chân bà thì bà đâu bị mang tiếng ác, bị mọi
người xa lánh. Đến khi bị chính đứa con phản bội, niềm hy vọng cuối cùng bị
dập tắt, bà tìm đến cái chết. Cả cuộc đời bà là bi kịch của lối suy nghĩ, tư duy
sai lầm. Chính bản tính nhu nhược, chính sự yếu hèn, nỗi khiếp sợ trước
những định kiến gay gắt đã khiến bà không có đủ bản lĩnh để nói lên sự thật,
thậm chí sống sai sự thật để rồi biến mình thành kẻ tàn nhẫn, kẻ độc ác trong
mắt mọi người. Cái chết của bà thực ra cũng là sự trốn chạy trước thực tại, cái
thực tại mà ở đó bà đã trở nên đuối sức, không thể gồng mình chống chọi
được nữa. Nhưng với cuộc đời đầy bi kịch của con người tận cùng khổ đau
này, có lẽ cái chết chính là sự giải thoát duy nhất.
Nhân vật Núi trong Sóng ở đáy sông cũng rơi vào bi kịch tự đánh mất
mình. Từ một đứa con ngoan, học giỏi hắn trở thành một tên ăn cắp chuyên
52
nghiệp và nguyên nhân chính có lẽ chính là người cha tàn nhẫn, máu lạnh. Dù
rằng cuộc sống khắc nghiệt, dù rằng hắn sống thiếu thốn tình cảm của người
cha tàn ác nhưng nếu như hắn mạnh mẽ hơn, hắn chịu khó và kiên nhẫn hơn,
hắn quyết tâm hơn thì chắc rằng cuộc đời hắn sẽ không rơi vào bi kịch đau
buồn như thế. Trượt dài trên con đường tội lỗi, nhưng hắn không bị cự tuyệt
như Chí Phèo, mà bên cạnh hắn vẫn có những người lương thiện, yêu thương
hắn như bà tổ trưởng dân phố, anh công an, anh dân phòng và nhiều người
dân khu phố…ban tình thương và sự quan tâm cho hắn, mong hắn quay về
làm người lương thiện. Nhưng “ngựa quen đường cũ”, thói quen trộm cắp đã ăn
sâu vào xương tủy, đâu có dễ dàng tẩy rửa. Vì hắn lười nhác, không đủ nghị lực
vượt lên lòng tham của chình mình, và cũng vì hắn ngại phải bắt đầu lại cuộc
sống, vì “đơn giản là nó nặng nhọc, vất vả nên hắn không quen. Mà lại ít tiền.
Làm hùng hục cả tháng có khi không bằng chớp mắt một cái đã có số tiền gấp
hai ba chục lần như thế” [27, tr.217]. Với tư tưởng ăn sẵn, nhác lao động, lại
không đủ quyết đoán để chiến thắng hoàn cảnh, hắn cứ thế dần dần tự đánh mất
chính mình và suốt cuộc đời cứ trượt dài trong vũng bùn tội lỗi.
Mỗi nhân vật trong tác phẩm của Lê Lựu là một mảnh đời riêng nhưng
lại có sức khái quát cao về tấn bi kịch đa dạng của con người trong xã hội
mới. Với cách lý giải nguyên nhân dẫn đến bi kịch con người ở hai khía cạnh
là khách quan và chủ quan, với sự xót thương, đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã
nhìn thẳng vào những đau khổ, bất hạnh của con người, những bi kịch đầy rẫy
trong cuộc sống. Không nhằm mục đích to tát là chỉ ra giải pháp giải quyết bi
kịch nhưng ông qua tác phẩm của mình đã giúp người đọc ý thức hơn về ý
nghĩa của cuộc sống và sống có trách nhiệm với chính mình.
Không chỉ dừng lại ở vấn đề bi kịch cá nhân, ngòi bút của Lê Lựu còn
hướng tới một kiểu dạng con người khác. Đó là hình ảnh con người bị tha
hóa. Chân dung của loại người này cũng hiện lên hết sức chân thực và hấp
53
dẫn.
2.2.2. Nhân vật tha hóa
Tha hóa được hiểu một cách đơn giản có nghĩa là sự biến chất đi thành
xấu. Từ đó ta có thể hiểu một cách khái quát, tha hóa là sự chuyển hóa của
những hiện tượng và quan hệ nào đó thành một cái gì khác với bản thân nó
theo chiều hướng xấu đi. Tìm kiểu kiểu nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết Lê
Lựu chúng tôi dựa vào cách hiểu trên về sự tha hóa.
Tha hóa là một hiện tượng dễ thấy trong cuộc sống con người, nhất là
trong xã hội hiện đại, khi mà những giá trị vật chất có xu hướng lấn át giá trị
tinh thần. Trước sự cám dỗ của những giá trị vật chất ấy, nếu con người
không đủ bản lĩnh thì sẽ rơi vào vòng xoáy của nó, thỏa hiệp với nó, từ đó
biến chất và đánh mất mình lúc nào không hay. Đối với tiểu thuyết thời kỳ đổi
mới, kiểu nhân vật tha hóa cũng đã xuất hiện khá nhiều. Ta có thể kể đến
Năm Thành trong Ba lần và một lần, Huấn trong Vòng tròn bội bạc, Ba
Sương trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, hay Lại, Cầm, Dương trong Đám
cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Thủ trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường…Trong tiểu thuyết của Lê Lựu
kiểu nhân vật này cũng xuất hiện khá phong phú qua cái nhìn có tính chất phê
phán trào lộng sâu sắc.
2.2.2.1. Tha hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc
Căn bệnh duy ý chí là căn bệnh tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong
quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn quy luật khách quan, nhận thức sai
lầm, xa rời thực tế. Những sai lầm này thể hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển.
Lê Lựu qua những sáng tác của mình đã thể hiện thái độ phê phán gay
gắt cái lối tư duy bảo thủ và thói vị kỉ, suy nghĩ lầm lạc ấy. Những kẻ nhân
danh gia đình, đoàn thể, nhân danh xã hội áp đặt suy nghĩ của mình cho người
54
khác, bắt người khác phải yêu cái mình yêu, ghét cái mình ghét, thậm chí tự
cho mình cái quyền quyết định cuộc sống của người khác, áp đặt họ phải vo
tròn, gọt đẽo bản thân trong lối tư duy, suy nghĩ hạn hẹp, cứng nhắc, giáo điều
của mình.
Xây dựng kiểu nhân vật này, Lê Lựu đã mang đến cho người đọc một
hình ảnh mang tính chất điển hình, hình ảnh ông Đại trong Sóng ở đáy sông.
Ông là kẻ luôn tạo cho mình vỏ bọc bề ngoài danh giá, trí thức nhưng thực
chất bên trong lại hết sức bỉ ổi. Ông luôn áp đặt, bắt mọi người trong gia đình
phải sống theo cách sống phi lí, giả tạo đó. Nhưng con người “danh giá” ấy,
qua hành động của mình lại dần lộ ra bản chất xấu xa. Khi vợ ở cữ, “sự dư
thừa trong cơ thể ông không thể kìm hãm trước con ở 19 tuổi có đôi má như
đốt cháy người khác. Cả bộ ngực đang vút lên, đôi môi đang thời bừng dậy
rừng rực đốt hết sự lạnh lùng của ông”, và đến khi “nguy hiểm đang dầy lên
trong cơ thể cô, ông cho cô 20 đồng để về quê” [27, tr.20, 21]. Nhưng sự
không thành, ông chấp nhận lấy con ở thấp kém làm vợ hai. Dẫu vậy thì cái
danh giá của gia đình ông không thể vì thế mà bị hủy hoại được, “thành ra,
cái “danh giá” của người có học thức cao sang ông phải giữ, để riêng ra,
ông để nó ở trên tầng trên, còn cái hạ đẳng tầm thường, lúc “cần đến” vào
giữa đêm tối vắng vẻ không ai nhìn thấy, ông mới ban xuống” [27, tr.21].
Ông có một điểm rất đặc biệt, đó là cái gì ông cũng biết trước, “biết
mà”. “Tôi đã biết trước là nó sẽ như thế”. “Bao giờ tôi cũng biết trước chuyện
này rồi sẽ đi đến đâu” và “dù việc to hay nhỏ, nói gì, làm gì thì ông luôn luôn
là người có lý. Mà cái lý của ông thì chỉ có từ đúng trở lên” [27, tr.238]. Đến
khi nhận được tin Núi, con trai ông bị bắt thì ông cũng cho rằng “điều đó tôi
đã biết trước từ lâu, tôi đã nghĩ như thế”. Nhưng sự thật đâu phải vậy, ông
không chịu hiểu rằng cái căn nguyên sâu xa khiến con ông lâm vào con đường
tù tội vì trộm cắp phần lớn là do ông. Một người cha quá keo kiệt, khắt khe,
55
vô tâm và thiếu trách nhiệm. Vợ mất, thay vì dành nhiều tình thương và sự
quan tâm cho con cái thì ông lại đi cắt bớt trợ cấp vốn đã ít ỏi hàng tháng cho
các con. Núi vì thương em, vì không có tiền lo cho các em nên đã phải bỏ học
kiếm sống, rồi dần dần trượt ngã, trở thành tên đầu trộm đuôi cướp. Biết được
tin này, ông đã không cần suy nghĩ lấy một giây quyết định viết đơn từ con,
“từ giờ phút này trở đi tôi không công nhận nó là con tôi nữa” [33, tr.98], đã
vậy ông còn trút bỏ mọi trách nhiệm giáo dục con cho xã hội “xin các đồng
chí giáo dục cháu. Còn gia đình chúng tôi từ nay coi như không có cháu” [27,
tr.99]. Ông còn tự bao biện cho sự lạnh lùng, vô trách nhiệm của mình, xem
việc mình từ nó là do nó gây ra, chính nó đã lừa dối ông, nên “ông đã không
là không. Nhất định là không bao giờ ông nhận nó”, “chấp nhận nó để rồi cả
đời ông bị nó lừa à? Nó với ông chỉ có cách: còn người này thì không còn
người kia hoặc ngược lại. Không thể bố bố con con gì nữa” [27, tr.101]. Ông
rũ sạch trách nhiệm, xem như nó với ông không có một mối liên hệ tình cảm
gia đình nào. Nó hư hỏng là do nó chứ đâu phải lỗi gì ở ông. Bởi ông đâu có
dạy nó “mày hãy đi ăn cắp mà kiếm sống”. Nó là kẻ “đầu trộm đuôi cướp” là
vì chính nó muốn như vậy. Do đó việc viết ngay đơn không nhận nó của ông
là việc “đúng đắn” và “chính xác”. Nhưng là một người biết tính toán trước
sau, ông “đã nghĩ cách đề phòng” những “kẻ xấu bụng, không ưa ông” với
một cách hết sức “mĩ mãn và không còn kẽ hở”, đó là “ông sẽ chọn đúng ngày
mưa bão để về quê. Họ hàng bên ngoại nhìn thấy ông mò mẫm đi trong mưa
bão, lặn lội đêm hôm về với các con thì có ai dám bảo ông là lạnh nhạt vô
trách nhiệm với con cái được nữa không” [27, tr.103]. Hành động và đầu óc
xảo quyệt của ông, càng bộc lộ cái bản chất xấu xa, vô trách nhiệm đằng sau
bộ mặt “danh giá” giả tạo. Cái tư duy bảo thủ, cái suy nghĩ vô lý cho đến chết
ông cũng không thay đổi, ngay cả cái suy nghĩ về đứa con “loại hai” của
mình. Khi con ông lại phạm sai lầm, ông còn nhẫn tâm hơn lần trước. Đâu chỉ
56
dừng lại ở tờ giấy từ con, lần này ông tàn ác ban hẳn cho con mình cái bản án
chung thân trong khi tội trạng của nó chỉ đáng mấy năm tù giam. Ông giải
thích việc làm đó cũng có “cái lý” của ông là để nó khỏi “đục rỗng cái xã hội
tươi đẹp của chúng ta”. Nhưng thực chất là để ông khỏi bị nó làm phiền và hủy
hoại danh dự của ông lần nữa. Nhưng dù có biết trước, có tính toán cặn kẽ đến
đâu thì “người tính cũng không bằng trời tính”, cuối cùng ông cũng rơi vào bi
kịch do chính mình tạo ra. Ông bị đột tử vì nhận ra cái điều không nằm trong khả
năng “biết trước” của mình. Đó chính là hình phạt xứng đáng cho con người
lạnh lùng, vô cảm, thậm chí phi nhân tính ấy. Đáng tiếc là khi ông ý thức được
sự quý giá của tình phụ tử, của tình cảm gia đình thì đã quá muộn.
Vẫn là kiểu nhân vật tha hóa do lối tư duy ý chí, bảo thủ, ta lại bắt gặp
hình ảnh nhân vật Đại tá Hoàng Thủy trong Đại tá không biết đùa. Ông là
một người cha tốt, hết lòng vì sự trưởng thành của con cái, không bao giờ
quên trách nhiệm răn dạy, bảo ban con mình theo con đường mà ông đã vạch
sẵn. Nhưng ông lại là người rất bảo thủ, đơn giản đến cứng nhắc, thô bạo,
luôn nhìn nhận, xử lý vấn đề theo một khuôn mẫu định sẵn, vì vậy cuối cùng
ông đã thất bại khi lấy mình là thước đo chân lý, khi áp đặt ý tưởng nhân danh
“thiện chí”, “có trách nhiệm” lên người khác một cách “quan liêu vất vả”.
Vì sợ con theo bạn bè hư hỏng, nên ông quyết định rèn luyện con theo
cách của mình. Ông yêu cầu công an huyện cho Tùy, con trai ông đi tập trung
cải tạo, tự xin hoãn đi học đại học ở nước ngoài để làm công nhân, bắt con
phải từ bỏ tình yêu với cô gái đã từng yêu một người khác vì cho rằng “người
ta đã bỏ được người thứ nhất thì cũng dễ dàng bỏ đến người thứ một trăm.
Thói quen mà. Nó giống như cái bậc thềm nhà mình ấy. Hồi nhỏ khi con đã
bỏ qua được một lần thì những lần sau có gì là cản trở nữa” [22, tr.26]. Cứ
thế, hết lần này đến lần khác, ông áp đặt con mình, bắt nó làm theo ý mình,
thay nó quyết định mọi chuyện và đương nhiên ông nghĩ những gì ông làm
57
đúng và tất cả là vì con ông, vì mong muốn cho nó thành người đúng nghĩa,
thành người tốt, có ích cho tổ quốc, cho xã hội. Nhưng chính lối suy nghĩ lầm
lạc, bảo thủ của mình, ông đã tự đẩy mình vào bi kịch. Ông sai lầm từ quan
niệm đến phương pháp giáo dục con cái, buộc con cái phải sống theo cách của
mình, nhưng con trai ông dù làm theo ý ông nhưng vẫn đeo đuổi những ý định
riêng, ngầm chống đối lại ông, nhằm bảo vệ tình yêu đôi lứa do anh ta tạo
dựng. Khi con ông bị mất tích không rõ lý do, với nhiều tin đồn không biết
đúng sai nên đầu ông cứ quanh quẩn với nhiều ý nghĩ. Có khi nghe tin đồn
con mình đã chết ông vẫn cứ cố che giấu “để chứng tỏ mình là con người
vững vàng sắt đá”, “khi gặp đau thương mất mát ông luôn tỏ ra là người có
bản lĩnh, không hề nao núng trước những sự cố mà ông cho là thử thách”, vì
“ở đời thử thách càng lớn thì càng chứng tỏ người bản lĩnh cao”, “đó là thói
quen của người tiến lên sự cao thượng, khác người thì dễ, quay lại sự bình
thường của chính mình, ở cái điểm xuất phát ban đầu thì vô cùng khó”, bởi
“ông đã quen nói những lời `to tát nghiêm trọng” nên bây giờ “bộc lộ tình
cảm nhỏ nhoi yếu đuối như người bình thường là rất dễ trở nên trơ trẽn,
gượng gạo” [22, tr.86]. Nhưng với ông thà con ông hy sinh vì danh dự, vì tổ
quốc còn hơn là sống với giặc gấp nhiều lần. Dẫu biết rằng, tính cách và lối
suy nghĩ có phần cứng nhắc của ông không phải là xấu, nó được hình thành
trong những năm tháng chiến tranh, đánh giặc. Sự nghiêm túc, quyết đoán là
điều cần thiết khi cầm súng đánh kẻ thù nhưng ông lại áp dụng nó một cách
máy móc, điều này hoàn toàn không phù hợp khi răn dạy con cái. Mỗi người
đều có những suy nghĩ, những mục đích và lý tưởng riêng và con trai ông
cũng vậy. Thế nhưng, dù là một người chiến sĩ luôn đúng đắn khi quyết đem
thân mình bảo vệ đất nước nhưng ông lại sai lầm khi áp đặt tư tưởng nghiêm
khắc, kỉ cương lên người con trai của mình. Ông luôn cố gắng lý giải mọi việc
theo chiều hướng sai lệch đó, để rồi ông tự đánh mất người con trai duy nhất,
58
cái chết của con ông là lời kết án dành cho ông.
Qua kiểu nhân vật này Lê Lựu đã chỉ ra rằng chính quan niệm, lối tư
duy ý chí, những suy nghĩ một chiều bảo thủ, những nguyên tắc cứng nhắc
giáo điều, cái lối suy nghĩ “quen ra mệnh lệnh cho người khác bất cứ năm
tháng nào, ở bất cứ việc nào, hoàn cảnh nào cũng chỉ có một vẻ mặt ra lệnh,
một cách nghĩ của bề trên, một cách hò hét của người phải được trân trọng,
kính nể, một cách nói theo thói quen, theo người trên mình đã nói. Thành ra
nó đơn điệu một chiều. Nhiều tháng nhiều năm như thế, nó nghèo nàn mòn
mỏi mà vẫn tưởng mình giàu có phong phú. Không nói được điều gì mới mẻ
vẫn tưởng là người sâu xa, không nghe được những lời dân dã khác mình vẫn
tưởng mình hiểu biết mọi ngọn nguồn” [22, tr.45] đã triệt tiêu mọi khát vọng
chính đáng của con người, trở thành sợi dây trói buộc đời sống tinh thần của
họ, gây ra bi kịch cho mỗi số phận.
2.2.2.2. Tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng
Chủ nghĩa cơ hội là luồng tư tưởng rình rập, canh chừng, không chịu
hành động tích cực, tranh thủ, lợi dụng thời cơ để chiếm lợi thế hoặc lợi ích
bằng công sức người khác. Những người có tư tưởng và hành động như vậy
gọi là “kẻ cơ hội” hay “người chủ nghĩa cơ hội”.
Quyền lực và danh vọng là cái đích chân chính mà mỗi con người đều
muốn vươn tới. Nhưng có những kẻ vì muốn đạt được nó mà bất chấp mọi thủ
đoạn. Khi ấy lòng tham quyền lực và danh vọng sẽ đẩy con người đến sự tha
hóa. Quan nhân vật Lê Minh Hiếu (Chuyện làng Cuội), Lê Lựu muốn đi thẳng
vào vấn đề này như một sự thức tỉnh con người.
Lê Minh Hiếu được xem là tín đồ của chủ nghĩa cơ hội. Hiếu là kết quả
của một mối tình vụng trộm. Lớn lên dưới tình yêu thương của người mẹ hiền
lành, tội nghiệp, khi còn nhỏ Hiếu tỏ ra là một đứa con ngoan, có hiếu, yêu
thương mẹ. Nhưng càng lớn lên hắn lại càng trở nên tha hóa, biến chất. Sự tha
59
hóa của Hiếu không phải hình thành một sớm, một chiều, mà đó là cả một quá
trình. Sinh ra là đứa trẻ chịu nhiều thiệt thòi nhưng Hiếu lại sớm hiểu chuyện.
Dù nhỏ hơn so với các bạn cùng tuổi nhưng trong các cuộc thi Hiếu đều luôn
đứng nhất, được làm người chỉ huy và chỉ huy đâu vào đấy, khi bị xua đuổi,
đánh đập Hiếu cũng rất gan dạ, sẵn sàng bảo vệ các em và là chỗ dựa cho
người mẹ đơn thân… Nhưng dần lớn lên, ý thức và suy nghĩ của một đứa trẻ
như Hiếu đã nhận thức được những phức tạp của cuộc sống. Từ bé đến lớn,
nó chứng kiến bao nhiêu biến cố của gia đình, những khổ sở mà mẹ của nó
phải chịu đựng… Khi lớn lên Hiếu làm trưởng ban phụ trách thiếu nhi xã
nhưng càng ngày do càng muốn thăng quan tiến chức nên Hiếu dần dần đánh
mất mình, trở nên khôn ngoan, lọc lõi. Vậy sự tha hóa của Hiếu bắt đầu từ khi
xã hội có những sự đổi thay, con người lúc này đã bắt đầu lo cho cuộc sống
của riêng mình, nuôi trong mình những khát khao làm giàu, muốn khẳng định
chỗ đứng và vị trí của mình trong xã hội. Để đạt được mục đích, vì quá đắm
chìm trong danh vọng mà con người đánh mất mình lúc nào không hay. Từ
một đứa trẻ ngoan Hiếu dần biến thành một kẻ cơ hội, trục lợi cho mình, sẵn
sàng làm tất cả để đạt được mục đích và tham vọng. Lúc đầu sự tha hóa của
hắn chỉ biểu hiện ở thói “háo danh”, lấy lòng cấp trên để thăng quan tiến
chức, hắn ra sức tô vẽ, dựng nên những thành tích giả cho xã Đại Thắng.
Nhưng tham vọng của hắn chưa dừng lại ở đó, và tất nhiên thủ đoạn của hắn
cũng không chỉ có vậy. Càng về sau khi đã leo lên được nấc thang danh vọng,
hắn càng bộc lộ bản chất gian giảo, quỷ quyệt. Sự tha hóa biến chất ấy được
che đậy dưới bộ mặt đạo đức nhân nghĩa giả tạo. Để đạt được những gì mong
muốn, trước hết hắn tạo cho mình một vỏ bọc hoàn hảo. Trong mắt mọi người
hắn luôn là một mẫu người lý tưởng, một người luôn “khiêm nhường, kín
đáo”, sống “tình nghĩa trước sau”, “biết kính trên nhường dưới”, hơn nữa hắn
lại là người rất “có năng lực”, “giàu sáng kiến”, luôn “tận tình, xốc vác” [24,
60
tr.266] mọi công việc lớn nhỏ của làng, xã. Nhưng đằng sau cái vẻ mặt hoàn
hảo ấy là bản chất của một kẻ lọc lõi, cơ hội, lắm mưu mô, quỷ kế. Trong hắn,
sự thèm khát danh vọng đã chi phối tất cả mọi hành động, nên dù những việc
nhỏ nhặt nhất, hắn cũng phải tính toán một cách chi li, cặn kẽ, hắn tính những
“đường đi nước bước cho hàng mười năm, mười lăm năm sau” chứ không
phải ngày một, ngày hai. Hắn cân nhắc cả “từng cái cười to nhỏ, chỉ cười mỉm
hay phô cả hàm răng xởi lởi ra. Cả cái bắt tay, cả lúc ôm vào người thì hờ
hững hay nồng nhiệt” [24, tr.344]. Cái nguy hiểm trong con người lọc lõi ấy
chính là sẵn sàng làm tất cả, kể cả việc chà đạp lên lương tâm của những
người thân yêu nhất để đạt được mục đích. Khi chú Kiêm, chồng của mẹ hắn
bị bắt vì bị nghi oan, khi cả làng hắt hủi mẹ hắn, thì hắn cũng tìm cách tránh
mặt mẹ hắn vì sợ bị liên lụy. Sau này khi chú Kiêm được minh oan, hắn đề ra
kế hoạch sửa sai để “rửa oan” cho người mà giờ đây hắn mới gọi bằng “Bố”.
Trong lúc cả làng chạy đuổi theo “nhét cứt vào mồm con Xuyến” vì tội vu oan
bố chồng cưỡng hiếp con dâu thì hắn lại ra sức bảo vệ vợ trước mặt mọi
người. Hắn yêu cầu vợ về xin lỗi mẹ nhưng trong đầu đã ấp ủ một âm mưu đê
hèn. Hắn giải thích cho mẹ hiểu rằng tại sao chiều hôm bắn bố hắn, thấy mẹ
bê cả rổ khoai đứng nhìn hắn chỗ bờ giếng nhưng hắn lại tránh mặt, bởi vì
“Hôm ấy mẹ có giết con, con cũng không thể nào làm gì để mẹ hiểu con được.
Con đã ra đầm Cuội tự vẫn mà không xong” [24, tr.268]. Trước mặt mẹ và
các em, hắn đã lật mặt sự trăng gió của vợ hắn với đội Lăng. Hắn giải thích
với vợ rằng, việc hắn làm lúc này “chỉ cốt để mẹ hiểu cái ngày hôm ấy con mẹ
cũng chả sung sướng gì” [24, tr.270]. Qua sự tính toán thần kỳ, cùng một lúc
hắn đã đạt được bốn thắng lợi lớn:
“Một là: Bà mẹ muốn ôm chầm lấy con trai để xoa dịu nỗi đau đớn âm
61
ỉ nhục nhã hơn cả đau đớn, khổ sở của bà.
Hai là: Hôm trước anh là cốt cán, cùng đội ngũ với giai cấp bần cố, hôm
nay anh là người của nỗi oan trái cùng cảnh ngộ với những người bị giam giữ
cùm, trói.
Ba là: Trước nhân dân và bác Văn Yến, người bí thư tỉnh ủy của những
năm sau, anh là một con người đầy bản lĩnh, biết kìm nén và chịu đựng, biết vì cái
chung mà nén nỗi đau riêng, gương mẫu đi đầu trong sửa sai.
Bốn là: Anh đã làm được phần nào của những gì anh nghiến răng lại trong
đêm cùng anh đội Quyền và anh Thó tắm ở đầm Cuội: “phải sống” [24, tr.271].
Vậy là, mối thù với sự phản bội của vợ hắn, sau những gì phải chịu đựng,
hắn đã trả thủ một cách mĩ mãn. Với sự sự việc này có thể thấy, hắn sẵn sàng chà
đạp lên người thân, đánh đổi hạnh phúc gia đình để đạt được mục đích.
Khi tổ chức lễ truy điệu cho bố hắn, hắn bày ra trò tụng kinh niệm phật
để nhằm “tạo ra sự trang trọng, linh thiêng”, nhưng hắn lại sợ “dính đến
chuyện mê tín dị đoan” nên nghĩ cách đùn đẩy trách nhiệm cho những người
xung quanh. Còn hắn thì “yên tâm mà “đau đớn”, “xót thương” và mệt mỏi vì
bắt tay, vì gật đầu khi khách “chia sẻ”” [24, tr.279]. Kết quả sau những việc
làm “đầy tình nghĩa”, hắn được cấp trên khen là người “có bản lĩnh vững
vàng. Có khả năng tập hợp quần chúng, có nhiều sáng kiến và tổ chức rất
khá”, là “trung tâm đoàn kết của xã này” [24, tr.281].
Qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, kết hợp với phương châm: phơi bày cái
tiêu cực, mô tả và tố cáo nó, Lê Lựu đã cho ta thấy một cái nhìn “trực diện”
đối với cái xấu xa, sự giả dối. Đây thực sự là căn bệnh đại họa của một thời.
Khi con người cứ mải miết chạy theo danh vọng, địa vị một cách mù quáng,
sẵn sàng dẫm đạp người khác, thậm chí lấy người thân là bia đỡ đạn để che
giấu bộ mặt giả tạo, tất cả chỉ để tiến thân. Đối với Lưu Minh Hiếu, sự phản
bội, trăng gió của vợ hắn đối với hắn, thì trả thù bằng cách vạch mặt vợ hắn
62
trước mặt mẹ và gia đình là chưa đủ, trong lòng hắn vẫn canh cánh một “nỗi
nhục” bị cắm sừng. Hắn muốn bỏ Xuyến nhưng lại không dám đứng ra tự
mình bỏ vợ được, vì như vậy “lập tức cả nước sẽ đồn ầm lên” và hắn sẽ “mất
hết”. Do vậy, hắn chuyển hướng sang thuyết phục mẹ với nguyên nhân là do
“mâu thuẫn mẹ chồng con dâu căng thẳng”, vì bà mẹ chồng “không thể nào
chấp nhận một người con dâu đã đi ngủ với đội lại vu oan giết bố chồng” [24,
tr.322]. Vậy là người mẹ thật thà, cả tin, hết mực yêu thương con ấy đã chấp
nhận làm theo lời hắn, vu oan cho con dâu cố tình xô ngã gãy chân bà để
thằng con trai bà được bỏ vợ. Nhưng bà đâu ngờ rằng sự hy sinh mù quáng
của mình chính là sự mở đường cho tội ác, cho sự sa ngã, tha hóa của người
con và cái chết thương tâm, tức tưởi của mình sau này. Như vậy, để bảo vệ cái
danh dự, địa vị của mình, hắn đã biến mẹ hắn thành kẻ bất nhân bất nghĩa,
phải đứng ra hứng chịu sự ghẻ lạnh của bà con xóm giềng, vì bà mẹ chồng ác
nghiệt mà “con mất mẹ, chồng xa vợ, gia đình con cái tan đàn, xẻ nghé…”.
Nhưng việc bỏ vợ của hắn đang mang đến tiếng xấu, có nguy cơ ảnh hưởng
đến sự nghiệp của hắn. Hắn đang đau đầu chưa nghĩ được cách dẹp im dự
luận, thì “hai cái giấy báo tử của hai thằng em” là Mai và Sau như một “cứu
cánh đắc lực” cho hắn. Vốn là “con người của những dự định cho công việc
và sự nhạy cảm với những thời cơ” [24, tr.335] nên hắn không thực hiện theo
hai phương án của tỉnh đội “Một: là tung tin bán tín bán nghi dần dần. Độ ba
bốn tháng sau nếu thấy có thể được, lựa thời điểm nào đó để báo cho bà cụ.
Hai: có thể một vài tháng nữa báo cho Mai trước. Cũng là dịp công bố với
quần chúng, thanh minh cho anh ấy. Rồi tùy theo, một hai năm sau ta lại báo
nốt trường hợp thứ hai” [24, tr.333, 334], mà quyết định tổ chức lễ truy điệu
cho hai em trước đại hội tỉnh đảng bộ vào cuối tháng sau. Vì hắn biết rằng
nếu làm theo cách này thì không ai còn nhớ đến cái việc hắn bỏ vợ nữa, bởi
“trước mất mát tang thương lớn lao của gia đình” hắn thì “không kẻ nào còn
63
đủ nhẫn tâm hại hắn” [24, tr.335]. Với mục đích đó hắn đã để cho mẹ của
mình cùng lúc nhận hai giấy báo tử của cả hai đứa con trai nhưng vẫn không
dám khóc, không dám gục ngã vì lúc này bà đang cầm trên tay bằng khen
người mẹ chiến sĩ kiên cường. Vậy là để dẹp im dư luận, để bảo vệ cái danh
tiếng bẩn thủi của mình, hắn đã lợi dụng cả nỗi đau đớn tột cùng của mẹ hắn,
chà đạp lên cả mất mát đau thương của gia đình không chút hổ thẹn.
Sự tha hóa, bỉ ổi của hắn chưa dừng lại ở đó. Bằng mưu mô, quỷ quyệt
của mình, hắn đã lợi dụng lòng tốt của mọi người, chà đạp lên người thân để
hắn ngày càng tiến xa hơn trên con đường danh vọng. Hắn giàu có, không
thiếu tiền nhưng vẫn bỉ ổi ép mẹ chép lại những bức thư hắn soạn để xin tiền
người cha đẻ đang sống ở nước ngoài - người cha cường hào ác bá mà hắn
không dám công khai thừa nhận. Thế rồi sự việc bị con gái hắn phát hiện, lo
sợ sự “nghi ngờ rắc rối” trong công việc, hắn đã lớn tiếng chửi rủa mẹ:
“- Nói đi. Nói. Sao câm mồm thế
(…) - Tại sao bà lại độc ác với tôi như thế? Chỉ có loài sức vật nó mới
ăn thịt con nó. Bà hiểu không? Mai kia mà ai biết thằng tổng Lỡi là bố tôi, tôi
thừ từ liên hệ với hắn thì bà cứ liệu hồn. Tôi nói cho bà biết: nếu có bất cứ
một sự nghi ngờ rắc rối gì trong công tác của tôi thì bà không yên thân với tôi
đâu…”
(…) Bà có nhớ lời tôi dặn phải như thế nào không?
(…) Nhưng bà là con lợn phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi [24, tr.506].
Những lời nhục mạ, sỉ vả của hắn, như những nhát dao đâm thẳng vào
trái tim người mẹ tội nghiệp. Sự biến chất tha hóa của hắn đến ghê tởm, biến
hắn thành kẻ vô nhân tính, mất hết tình người. Với người mẹ cả đời hy sinh
thầm lặng vì hắn, mà đáp lại là những lời mắng chửi vô học, cạn tình nghĩa.
Hắn đã quên rằng, mẹ hắn đã vất vả nuôi dạy hắn thế nào, đứa con ngoan, biết
nghe lời ngày nào giờ lại đâm vào tim người mẹ những nhát dao chí mạng
64
bằng những lời nói cay độc. Hắn không trực tiếp giết chết mẹ hắn nhưng
chính hắn là hung thủ gây ra cái chết thảm thương cho bà mẹ già nua bất
hạnh. Trong đám tang mẹ, hắn vật vã khóc than tưởng như đau đớn lắm.
Nhưng không, đó chỉ là những giọt nước mắt của sự tức giận trước hành động
ngu ngốc của bà mẹ và nỗi lo lắng bí mật sẽ bị con gái mình bóc trần.
Không chỉ là một kẻ cơ hội, thực dụng, Hiếu còn là một kẻ gian dâm, bỉ
ổi, trơ trẽn. Hắn cảm thấy nhục nhã bị vợ cắm sừng, nhưng hắn lại ăn nằm với
Nho như vợ chồng. Sau này khi bỏ Xuyến, hắn lại lấy Hiền, đứa con gái đầu
của Nho. Lợi dụng sự tin tưởng của vợ đối với “đứa cháu” Linh Chi, hắn qua
lại và thường xuyên kiếm cớ đi nước ngoài học hỏi kinh nghiệm để ăn nằm
với “cô cháu” bằng tuổi con mình. Khi biết Linh Chi là con gái của đội Lăng
năm xưa, kẻ trăng gió với Xuyến vợ cũ của hắn, hắn thực hiện ý đồ trả thù
ông bằng việc cho ông tận mắt chứng kiến cảnh hắn đang làm tình với con gái
ông ngay trên chiếc giường của ông. Như vậy, có thể nói sự bỉ ổi, vô liêm sỉ
của tên Hiếu thực sự là không có giới hạn. Nên nếu gọi hắn là “Lưu Manh
Hiếu” thì phù hợp hơn với bản chất bẩn thỉu của hắn, của người mà “cái mồm
là mồm thằng tán gái thành thần. Con kiến trong lỗ cũng phải chui ra với nó.
Còn cái mặt lạnh tanh, bạc. Kinh. Cái mắt gian ngoan xảo quyệt, mưu mẹo và
tàn nhẫn lắm. Nhưng tất cả những cái ấy lại được giấu kín đi ở những cái
nhìn thường xuyên khép hờ, kiểu kín kín, hở hở, rất khó ai phát hiện ra con
người thật của hắn” [24, tr.299].
Một điều dễ nhận thấy ở con người đạo đức giả đó là danh vọng và
quyền lực hắn đạt được không xuất phát từ tài năng mà nhờ thủ đoạn lươn
lẹo, với những âm mưu xảo quyệt. Tham vọng cộng với dốt nát của hắn đã để
lại những hậu quả thê thảm. Khi leo lến đến chức Bí thư Huyện ủy, hắn đã tỏ
ra “năng động nhạy bén”, cộng với “kinh nghiệm học tập được sau chuyến
tham quan hai mươi bảy ngày ở nước bạn” để quyết tâm xây dựng mô hình
65
“một liên hiệp công nông sản xuất theo chu trình khép kín trong quy mô toàn
huyện” trên “một cơ sở vật chất kiệt quệ” [24, tr.389]. Cung cách làm ăn lớn
ấy không những không đem lại lợi lộc gì mà còn bắt người dân phải gánh chịu
những thiệt hại nặng nề từ việc bán chuối hay việc đổi tiền lẻ mà hắn đề
ra…Nhưng bằng đầu óc mưu mô hắn vẫn cứ thăng chức. Lần này hắn đã trở
thành Phó chủ tịch, và hắn lại tiếp tục thất bại trong các chính sách, làm ăn của
mình. Nhưng không hiểu sao người ta vẫn không nghi ngờ hắn mà vẫn đặt lòng
tin ở một tương lai tốt đẹp trước đầu óc được khai sáng vì được đi học đây đó
của hắn.
Qua nhân vật tha hóa này, Lê Lựu đã phơi bày sự băng hoại đạo đức ở con
người trong xã hội. Ông chiêm nghiệm rằng “Sự văn minh của nền khoa học thực
nghiệm biến con người thành những vật chất biết nói, sống căng cứng trong cơ
chế tinh vi hết sức lạnh lẽo, dửng dưng với con người. Biến tình cảm của con
người thành những hiệu quả có thể sờ nắn được, tính đếm lỗ lãi được” [18]. Đây
dường như là căn bệnh nguy hiểm, đang bào mòn tình cảm thiêng liêng của con
người, làm mai một nhân cách và lối sống của con người.
Nhưng xét một cách khách quan, với hình tượng nhân vật Hiếu và
những nhân vật khác trong Chuyện làng Cuội, Lê Lựu đã có cái nhìn thiếu
niềm tin vào bản chất con người. Dưới ngòi bút của ông con người dường như
đã mất hết nhân tính, con người chỉ sống với nhau bằng lừa lọc, giả dối. Dẫu
biết rằng, nhà văn muốn dùng ngòi bút của mình để bóc trần xã hội với nguy
cơ đi xuống về mặt đạo đức nhưng cái nhìn của tác giả vẫn mang sự định kiến
nhất định nên nó thiếu sự khách quan. Vì vậy, những ý tưởng của tác giả chưa
thoát ra được. Tác phẩm chưa làm nổi bật được tư tưởng mà tác giả muốn
hướng tới. Người đọc khi tìm hiểu tác phẩm chưa tìm thấy được ý nghĩa nhân
văn về con người, về cuộc đời mà cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng khi khám
66
phá làng Cuội có phần ngột ngạt, âm u, thiếu ánh sáng tình người.
2.2.2.3. Tha hóa do giả dối, lừa lọc
Nếu như ông Đại (Sóng ở đáy sông) là điển hình của kiểu nhân vật tha
hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc, Lê Minh Hiếu (Chuyện làng
Cuội) là kiểu nhân vật tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội thực dụng thì những
người phụ nữ như Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà) lại tiêu biểu cho
kiểu nhân vật tha hóa do sự giả dối, lừa lọc.
Là những cô gái thành thị, cả Châu và Linh Anh đều có vẻ bề ngoài
xinh đẹp, hấp dẫn. Nhưng đằng sau cái vẻ hình thức bắt mắt ấy là một tâm
hồn giả dối, với lối sống buông thả, đê tiện. Châu đến với Sài, Linh Anh đến
với Tâm đều bằng sự giả dối, lừa lọc, họ tìm cách hợp lý hóa cái thai - kết quả
của những ngày tháng “tự do yêu đương” đang lớn dền lên trong bụng. Với bộ
mặt ngây thơ vẻ thiên thần, với câu chuyện tình yêu quá khứ đầy đau khổ,
được dàn dựng một cách hoàn hảo Châu đã làm cho Sài phải đau đớn, phải
thông cảm sâu sắc với một người con gái “mạnh mẽ và sòng phỏng”, “không
che giấu, không lẩn tránh sự lầm lỡ đã qua”, hết sức “nghiêm khắc” và “thành
thật với tình yêu của mình” [26, tr.203]. Và rồi Sài đã yêu Châu, “anh cảm thấy
hạnh phúc đến với mình nó ào ạt, gấp rút”, “anh thấy như đang bơi mênh mang
trong hạnh phúc, trong niềm sung sướng đến ngạt thở” [26, tr.213] mà không
ngờ rằng mình đang bị cô ta lừa dối để che đậy cho cái “danh dự” của mình.
Nhưng bản chất thật sự thì khó lòng che đậy. Cưới nhau về, càng sống với
nhau, Châu càng dần bộc lộ bản chất ích kỉ, xem thường và coi khinh người
khác. Trong mắt Châu “không một kẻ đầy tớ nào hầu hạ lý tưởng bằng chồng,
khi anh ta còn có sức lực và tự nguyện hết lòng, hết sức, hết hơi vì vợ con. Dù
sao thì anh ta cũng hiểu mình hơn một thằng ở. Dễ sai bảo, không e ngại bất
cứ công việc gì, không cần ý tứ gìn giữ bất cứ một trường hợp nào. Được
giận dỗi xỉ vả hết mức, cũng đồng thờ lại được vuốt ve thương yêu hết lòng”
67
[26, tr.258]. Cô tự xem mình là cao quý, thông minh, tự cho mình cái quyền
xem thường người nhà quê, xem thường gia đình chồng. Bằng sự “khôn
ngoan lịch lãm của mình cô biết cách sai khiến hàng chục người đàn ông”
nhưng vẫn giữ được cái đứng đắn của người phụ nữ “đảm đang” biết chiều
chồng nuôi con. Và người phụ nữ ấy lại có đủ tư cách để có thể “dạy bảo các
cháu gái phải nghiêm túc và kinh tởm lên án những người đàn bà lăng
nhăng” [26, tr.277]. Ở cô hình thành hai con người “Phần ở cơ quan, ngoài
đường gặp ai, làm gì cũng duyên dáng, lịch thiệp cười nói phóng khoáng mà
vẫn tế nhị, một cô gái nết na hiền dịu có thể gọi là người phụ nữ lý tưởng hiện
nay. Phần ở nhà thì cau có, quyết đoán, thô lỗ, bất chấp và lạnh lùng” [26,
tr.277]. Với bản tính tham lam, ích kỉ nên những cố gắng, những công lao của
chồng dường như chưa bao giờ là đủ đối với cô. Có một người chồng thật thà,
hết lòng thương yêu, chăm sóc vợ con, nhưng Châu vẫn không hề thõa mãn.
Chồng càng cố gắng nhường nhịn, vun vén, chăm sóc gia đình bao nhiêu thì
Châu lại càng sống buông thả, giả dối bấy nhiêu. Dù Sài đã dốc hết sức lực
chăm nuôi con nhưng thay vì biết ơn và trân trọng chồng thì cô lại qua lại với
Toàn - bố đẻ của con cô. Những lần qua lại đó, cô đều hợp thức hóa với
những lí do hết sức chính đáng bằng việc dặn dò đứa con một cách kĩ lưỡng
những câu hỏi sau khi đến nhà bác Toàn mà có thể Sài sẽ hỏi. Nhưng dù Sài
cố gắng thế nào thì bi kịch gia đình vẫn không tránh khỏi sự đổ vỡ bởi sự
tham lam, đòi hỏi vô bờ bến của Châu.
Cũng giống như Châu, Linh Anh (Hai nhà) cũng lợi dụng một người
đàn ông thật thà, cả tin để che đậy cái “hậu quả” bởi lối sống buông thả, sa
đọa của mình. Cô là hiện thân của lối sống thực dụng, giả dối. Hơn ai hết cô
ta biết Tâm là một người tốt, một người thật thà nhưng với cô ta những thứ
anh có đều thừa “những cái tôi mong, tôi cần anh lại thiếu…cái thừa ở anh
làm tôi thấy nhàm chán, cái thiếu của anh làm tôi thất vọng” cho nên dù đã
68
thành vợ chồng nhưng cô ta chỉ sống với Tâm như là “sự gá buộc tạm bợ để
chờ đợi một người nào khác, một nơi chốn nào khác” [25, tr.137]. Cả một quá
khứ sa đọa, những mối tình với chú lái xe hay anh Phó tiến sĩ đều được Linh
Anh lôi ra so sánh với với Tâm, bởi cô ta cho rằng Tâm không “có tính quyết
đoán, có thể là độc ác, tàn nhẫn nhưng rất đàng hoàng, minh bạch và kiên
quyết” như người yêu đầu của cô, anh cũng không tinh ranh và hiểu tâm lý
đàn bà, biết được tất cả những gì cô ta cần, cô ta thích như Phó tiến sĩ nói
ngọng, trưởng giả học làm sang ấy. Biết rõ Tâm không phải là cha của đứa con
trong bụng mình, nhưng khi sinh con ra, trước mặt chồng cô không hề cảm thấy
hổ thẹn mà còn thản nhiên nói với chồng “con chúng ta giống “ông du kích”
lắm…Mẹ và các em khen con có cái mắt như bóng rợp của mẹ, còn cái miệng
tươi như hoa là của bố, nhưng em thấy con giống anh nhiều hơn” [25, tr.24].
Khi sự thật về đứa con bị lộ, cô ta trơ trẽn công khai thừa nhận. Nhưng cái
bản tính dâm đãng của cô vẫn không hề thay đổi “bằng thói quen của đứa đàn
bà lúc nào cũng khao khát đàn ông” [25, tr.148], cô ta tiếp tục lối sống buông
thả, vì cho rằng mình vẫn còn trẻ trung, xinh đẹp, vẫn “thèm muốn ao ước
nhiều thứ nên không thể yên ổn được”, và cô ta lại lừa dối chồng đi lại với
Thiệt “ban ngày chủ yếu là buổi trưa và chiều ân ái như là vợ chồng với
Thiệt”, còn ban đêm “về sống với chồng như hai người khách thuê chung một
nhà, như sự gá buộc tạm bợ” [25, tr.160]. Kết quả là đứa con thứ hai ra đời,
Tâm lại là kẻ “tráng men”. Được người chồng tha thứ về sai lầm mình, nhưng
Linh Anh vẫn không hề biết trân trọng và cảm thấy hối lỗi về những gì mình
đã làm. Trong khi chồng cô đang nỗ lực xây dựng lại hạnh phúc gia đình thì
cô lại trả ơn bằng cách ngủ ngay với lão hàng xóm đáng tuổi bố mình, người
mà chồng cô vẫn coi như anh em ruột thịt.
Lối sống giả dối, lừa lọc, đê tiện của những người phụ nữ như Châu,
Linh Anh là hồi chuông báo động cho sự tuột dốc tha hóa ở nhân cách con
69
người. Lê Lựu qua đó đã vạch ra một căn bệnh nguy hiểm đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến con người và xã hội lúc bấy giờ. Trong cái xã hội đang phát
triển nhưng cũng đầy cám dỗ này thì con người càng khó khăn hơn trong việc
phải đối mặt với nguy cơ tha hóa đang có chiều hướng lan rộng. Viết về thực
tế này, Lê Lựu đã tỏ ra rất sắc sảo và thể hiện được sự nỗ lực cao trong việc
góp phần hướng thiện con người và thanh lọc xã hội. Ông đã sống và viết
đúng như quan niệm mà ông từng nêu về vai trò và chức năng của nhà văn:
“Người viết tiểu thuyết bao giờ cũng mong muốn đem lại cái tốt đẹp cho cuộc
đời bằng các trang viết của anh ta. Tiểu thuyết, theo tôi giúp tự hiểu mình,
hiểu người khác và giúp đỡ nhau sống tốt hơn” [ 23, tr.551].
2.2.3. Nhân vật lưỡng diện
Lê Lựu và những trang văn của ông sẽ chưa thực sự sâu sắc nếu chỉ
mới dừng lại ở việc thể hiện con người dưới góc độ bi kịch hay tha hóa. Mà
điều đáng ghi nhận, là qua những sáng tác của mình ông đã chạm đến những
giá trị chân thực nhất ở con người bằng hình tượng những nhân vật có tính
cách lưỡng diện. Đọc tiểu thuyết Lê Lựu, ta có thể bắt gặp những người thông
minh, giỏi giang, cũng có những kẻ vô cùng giả dối, lừa lọc, có những người
thật thà, cả tin lại có những kẻ thực dụng, đê hèn…Tuy nhiên bản thân mỗi con
người không hề đơn giản một chiều mà luôn ẩn chứa những bí mật sâu kín, rối
rắm, nhiều chiều. Bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai
mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện- ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng - tăm tối, hạnh
phúc - khổ đau… Con người có lúc là thần thánh song cũng có lúc là quỷ dữ,
một người lương thiện có lúc lại suy nghĩ đê tiện, một người độc ác nhưng có lúc
trong tâm hồn lại lấp lánh ánh sáng của thiên lương. Kiểu nhân vật đan xen giữa
trắng và đen, thật và giả, tốt và xấu ấy gọi là nhân vật lưỡng diện.
Nhân vật Núi (Sóng ở đáy sông) là kiểu nhân vật lưỡng diện với hai
mặt tốt - xấu. Dù xuất thân là đứa con “loại hai” nhưng Núi lại học rất giỏi,
70
luôn đứng nhất nhì trường. Dù đang sống trong sự chăm lo của mẹ nhưng mới
16 tuổi hắn đã “có đầy đủ phẩm chất của người lớn biết lo toan học hành,
nuôi dạy các em” [27, tr.31]. Xung quanh hắn ai cũng hết lời khen ngợi dù
“vừa phải tắm rửa giặt giũ, vừa lo liệu cho các em học mà vẫn ăn đứt cả đám
học sinh vùng này” [27, tr.32]. Phải sống xa mẹ từ nhỏ, nhưng hắn luôn là
người anh mẫu mực, hết lòng lo lắng, thương yêu các em từ chuyện ăn ở đến
chuyện học hành. Hắn sẽ lớn lên, trưởng thành như một con người đúng nghĩa
nếu như hắn được gia đình quan tâm, bao bọc, được xã hội chấp nhận và mở
ra một con đường sống để hắn có thể đến với tình yêu đích thực của đời hắn.
Thế nhưng cuộc đời hắn, ngay từ khi biết đến mùi vị tình yêu đã phải nếm trải
cay đắng. Mối tình đẹp đẽ đầu đời của hắn lại trở thành “một mối tình như
một phát súng khai hóa cuộc đời tội lỗi của hắn”, và nơi bấu víu duy nhất của
hắn khi mẹ hắn mất là cha hắn nếu không lạnh lùng, hắt hủi và bỏ bê anh em
hắn thì hắn sẽ không sống với “thói quen trộm cắp tù đầy” suốt hai mươi lăm
năm qua.
Xây dựng hình tượng nhân vật Núi, Lê Lựu một mặt vừa thể hiện sự
phê phán trước sự tha hóa, đánh mất nhân cách nhưng một mặt lại xót thương
cho cuộc đời của một con người biến chất dần dần bởi sự tha hóa của xã hội.
Cuộc đời Núi được tác giả miêu tả qua các chặng đường và làm rõ nguyên
nhân dẫn đến sự tha hóa của hắn. Ngòi bút tinh tế, khéo léo của Lê Lựu đã
dựng nên một nhân vật không hẳn là xấu nhưng cũng không phải là tốt. Trong
con người ấy luôn tồn tại những mặt đối lập. Có thể người đọc sẽ chê trách
Núi nhưng vẫn không khỏi cảm thương cho hoàn cảnh của hắn.
Từ nhỏ hắn và các em đã phải sống xa gia đình, hắn một mình chăm
sóc và dạy bảo các em. Là một người anh, chỗ dựa của các em lúc này, hắn đã
phải trằn trọc, suy nghĩ nhiều, chuyện học hành cũng vì thế trở nên sa sút
“bệnh mất ngủ xuất hiện. Hàng tuần, hàng tháng hắn không ngủ được. Hắn
71
mắc bệnh đau đầu. Lại phải nghỉ học. Ai cũng hiểu hắn lo nghĩ nhiều suy
nhược thần kinh” [27, tr.83]. Bí quá hắn tìm đến cha hắn nhưng ông vẫn kiên
quyết bảo hắn phải tự lo, cuối cùng một đứa học giỏi như hắn cũng phải bỏ
học đi làm thuê “trong khi cha hắn vẫn yên trí con ông học vào loại nhất nhì
của lớp thì hắn đều đặn tối đi làm, sáng về ngủ, đầu tháng bỏ hai ngày về
thành phố đong gạo đem về cho các em” [27, tr.91].
Như vậy, nếu xét về phương diện tình cảm của người anh đối với các
em thì Núi xứng đáng là người anh tốt, có trách nhiệm, hết mực thương yêu
và chăm lo cho các em. Hắn cũng là con người tự lập, không ỷ lại vào gia
đình. Dù rất thích đi học nhưng vì hoàn cảnh, vì không có tiền, các em không
có ăn nên hắn đành phải giấu cha, nghỉ học đi làm thuê kiếm tiền đong gạo
nuôi em. Hoàn cảnh của Núi thực sự rất đáng xót thương.
Nhưng căn nguyên nào lại biến một người anh mẫu mực như Núi trở
thành một tên ăn cắp chuyên nghiệp. Nguyên nhân trực tiếp chính là cha hắn
với cái bản tính lạnh lùng, vô cảm, vô trách nhiệm đã thẳng tay cứt đứt quan
hệ cha con khi biết hắn bỏ học và bị giam vì hiểu nhầm. Và rồi cái lần hắn
đứng trước mộ mẹ hắn đã trở thành ngày tháng lương thiện cuối cùng của
hắn, chính từ giây phút ấy, hắn quyết định phó mặc số phận cho dòng đời xô
đẩy. Những lời hắn khấn trước mộ mẹ hắn như một lời tố cáo sâu sắc đến
người cha sắt đá, đến cái xã hội tàn nhẫn đã đẩy con người đến bước đường
cùng. Hắn buông xuôi bởi vì hắn không còn con đường nào khác “bây giờ con
không biết sẽ đi đến đâu, không biết sẽ kiếm được việc gì làm để sống, có khi
con phải đi ăn cắp đấy mẹ ơi” [27, tr.109].
Sau đêm ấy, hắn bắt đầu lao vào con đường ăn cắp, đầu tiên hắn còn rất
sợ hãi “mỗi khi định thò vào sự hớ hênh, sơ ý của ai đó, tay hắn run lên, khắp
người như có luồng khí lạnh tràn vào” [27, tr.101], nhưng dần dần khi lần đầu
trót lọt thì những lần sau có là gì nữa “hành động đầu tiên là ăn cắp bánh mì
72
ở sọt của cô mậu dịch viên lúc đông khách. Sau vài hôm là đôi dép nhựa Tiền
Phong màu trắng. Rồi áo mưa bộ đội. Rồi mũ cối. Rồi ba lô con cóc”… đến
một ngày “hắn thấy một chị để tiền sát miệng túi xách treo ở xe đạp. Hắn móc
và đem ra chỗ bán quần áo” [27, tr.125]…Con đường ăn cắp chuyên nghiệp
của hắn bắt đầu từ sự ăn cắp vặt ấy và con đường tù tội cứ thế đón chào hắn.
Hết lần này đến lần khác “đi móc túi, đi trai gái và đánh nhau”, ngựa quen
đường cũ nên dù bị bắt nhiều lần, các em hắn cũng khuyên ngăn nhưng hắn
vẫn không bỏ “nghề” được. Chính thức từ đây hắn trở thành một tên nguy
hiểm trong mắt mọi người. Như vậy từ một người con ngoan, một người anh
tốt hắn trở thành một tên ăn cắp chuyên ngiệp, và chặng đường sau này của
hắn là chặng đường ra tù vào tội như cơm bữa.
Dù là một tên ăn cắp nguy hiểm nhưng trong sâu thẳm con người hắn
không phải là con người mất hết nhân tính, mà ngược lại, hắn chính vì thương
em, sau này vì thương con mà phải sống bám vào cái nghề ấy. Nhưng suy cho
cùng, dù hoàn cảnh có tàn nhẫn đến đâu thì căn nguyên sâu xa nữa vẫn ở
chính con người hắn. Hắn sống buông thả, mặc cho đời cuốn đi bởi hắn thiếu
quyết đoán, hắn không đủ mạnh mẽ và nghị lực để vượt lên những cám dỗ
của cuộc đời. Hơn ai hết hắn biết mình sống như thế là sai, sống như vậy là
sống trái với những gì hắn được mẹ hắn dạy bảo, hắn cũng không thể làm
gương cho các em và cho con hắn sau này nhưng dường như căn bệnh ỷ lại,
bản tính tham lam đã giết chết những ý nghĩ lương thiện còn lại trong con
người hắn. Cuộc đời hắn bị chi phối bởi tính cách của hắn. Khi hắn sống với
một ả giang hồ thì bản tính giang hồ của hắn trỗi dậy nhiều hơn. Nhưng khi
hắn gặp được người phụ nữ tốt như Hồng thì hắn lại nuôi ý nghĩ trở về làm ăn
lương thiện. Rồi lại vì hoàn cảnh gà trống nuôi con, con lại đau ốm triền
miên, hắn lại “quen tay” đi ăn cắp, nhưng khi vào tù, đi cải tạo và gặp được
người tốt, hướng cho hắn hoàn lương thì hắn lại quyết chí làm lại cuộc đời
73
mình.
Sau nửa chặng đường của cuộc đời ăn cơm tù, hắn chua xót, hổ thẹn vì
cách sống của con người mình. Rồi hắn nhận ra, đâu đó trong xã hội này vẫn
còn những người tốt, quan tâm, lo lắng cho hắn và cuộc đời chưa hẳn đã khép
cảnh cửa đưa hắn trở về con đường lương thiện. Dù là một đứa con bị hắt hủi,
không có được tình thương yêu của cha nhưng hắn lại là một người bố rất
mực yêu thương con. Sống hơn nửa đời người, lúc này hắn mới nhận ra giá trị
của cuộc sống, chính những đứa con là “những giọt máu trong sạch và thành
thật nhất của cuộc đời hắn lại hiện ra xoa dịu nỗi đau và thắp trong tâm hồn
cặn bã khô kiệt của hắn mỗi tia sáng hy vọng” [27, tr.315]. Cuối cùng hắn đã
chạm được cái đích của cuộc sống lương thiện. Hắn đi theo nghề mộc, vì hắn
cũng khéo tay nên hắn học nghề rất nhanh. Sau nhiều cố gắng hắn trở thành
anh chủ xưởng mộc.
Cái bản tính lương thiện của hắn vẫn chưa mất đi. Dù trước đây hắn bị
người cha vô tình hắt hủi, cắt đứt tình cha con, thậm chí viết đơn xin tòa xử
chung thân trước những tội lỗi của hắn…nhưng khi biết cha hắn bệnh nặng,
hắn vẫn cho con gái hắn về chăm sóc cha hắn. Điều đó có thể thấy rằng, trong
con người tha hóa ấy vẫn sáng những tia sáng của lòng bao dung và lương
thiện. Dù bị sa ngã nhưng hắn không mất nhân tính, dù là tên trộm cắp nhưng
hẵn vẫn giàu tình thương với gia đình…Trong con người hắn dường như luôn
tồn tại những khía cạnh, tính cách đối lập. Phải chăng chính sự nhập nhằng
nhân cách ấy đã buộc hắn phải đấu tranh, phải tự quyết định lấy cuộc đời của
chính mình. Có những lúc hắn sai lầm nhưng hắn đã biết nhận ra sai lầm,
hoàn cảnh đã đẩy hắn đến con đường tội lỗi nhưng vẫn trừ cho hắn một
đường đi đến sự hoàn lương, gia đình đối xử tàn nhẫn với hắn nhưng không vì
thế mà hắn mất niềm tin về thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Hắn sa ngã dường
như là một tất yếu của xã hội, nhưng hắn hoàn lương lại được quyết định bởi
74
chính con người hắn.
Qua hình tượng nhân vật Núi, Lê Lựu thực sự đã thể hiện một cái nhìn
chân xác và sâu sắc về con người. Không chịu ảnh hưởng của cách miêu tả
con người ở thời kỳ trước, thời kỳ mà con người luôn phân định rạch ròi “tốt -
xấu”, mà giờ đây con người đã được trở về với đúng nghĩa hai từ con người,
con người có cả phần “con” và phần “người”. Rõ ràng với kiểu nhân vật này,
Lê Lựu đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào con người. Dù xã hội đang
đứng trước nguy cơ tha hóa nhưng con người nếu có bản lĩnh vượt lên được
chính mình thì họ vẫn có thể chiến thắng được hoàn cảnh, để giữ mình đứng
bên bờ hoàn lương, trong sạch dù con đường ấy có mong manh đi chăng nữa.
Ở một số tác phẩm khác, Lê Lựu không khắc họa kiểu nhân vật tự đánh
mất mình với lối sống buông xuôi để rồi phạm vào con đường tội lỗi như Núi
mà ông tiếp tục xây dựng kiểu nhân vật lưỡng diện, nhập nhằng hai chiều tính
cách ấy ở mức thể hiện nhẹ nhàng hơn. Nếu ở Núi là con đường dẫn đến sự
tha hóa từ bản thân một con người lương thiện thì ở Sài (Thời xa vắng), Tâm,
Địa (Hai nhà) lại luôn tồn tại con người hèn mọn, nhu nhược, thiếu bản lĩnh
song song với cái bản chất lương thiện ấy.
Có thể nói Sài là người anh hùng trong chiến tranh nhưng lại là kẻ thất
bại khi hòa bình. Dù không yêu Tuyết nhưng vì không đủ can đảm chống lại
gia đình, dòng họ nên Sài vẫn phải cưới Tuyết làm vợ. Rất yêu Hương nhưng
vì không vượt qua được “dư luận” Sài đánh mất tình yêu đầu đời. Vì muốn
kết nạp Đảng nên Sài lại để cấp trên quyết định cuộc đời mình bằng cách
quay về “yêu vợ” thật sự, để cuối cùng bẽ bàng khi sự không thành. Vì quá
mù quáng trong tình yêu được mình tự lựa chọn, Sài lại sai lầm trở thành kẻ
đổ vỏ cho người ăn ốc mà không hay. Vì cả tin, nhu nhược Sài để Châu xem
thường, lấn át. Vì sợ thiên hạ cười chê nên dù biết mình hụt hơi bơi trong
hạnh phúc giả tạo nhưng Sài vẫn hết lần này đến lần khác âm thầm nhẫn
nhục, chịu đựng…và vì cái bản tính yếu đuối, thiếu bản lĩnh, không dám chịu
75
trách nhiệm trước cuộc đời mình nên Sài trở thành người thất bại. Thất bại
trong tình yêu, thất bại trong hạnh phúc gia đình và thất bại trước chính bản
thân mình.
Theo cách nói của Nguyễn Minh Châu: “Sự phức tạp trong tính cách của
Sài là sản phẩm của cuộc đấu tranh trong buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới,
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa nhân cách và phi nhân cách” [39, tr.186].
Những thăng trầm của cuộc đời Sài mang rõ dấu ấn của một thời mà cả xã hội
và con người không tránh khỏi những sai lầm do ngây thơ, ấu trĩ nên nhiều
khi vô tình tàn nhẫn với nhau. Tính chất phân đôi hai mặt trong tính cách của
Sài cũng khá tiêu biểu cho một thế hệ luôn khát khao vươn tới sự hoàn thiện
nhưng phải trải qua nhiều va chạm, cọ xát dữ dội trong đời sống nhiều mặt và
cái giá phải trả bao giờ cũng rất đắt.
Cũng giống như Sài, Tâm trong Hai nhà cũng vì thiếu bản lĩnh, nhu
nhược nên họ dễ dàng bị lừa dối, bị phản bội trong tình cảm. Khi biết đứa con
mà anh nuôi nấng chăm sóc không phải là con mình, biết người vợ sống với
mình hằng ngày là một đứa đàn bà lăng loàn, luôn thèm khát đàn ông nhưng
vì quá nhu nhược, vì không dám đối diện với thực tế và cứ chìm sâu trong quá
khứ đẹp đẽ nên anh không dứt khoát bỏ vợ được. Sự rộng lượng của anh nào
ngờ đâu lại mở đường cho người đàn bà ấy tiếp tục lừa dối, biến anh trở thành
món đồ để cô ta liên tiếp “tráng men” cái hậu quả ăn chơi dâm đãng của
mình…Anh ngây thơ tin vào sự hối hận, thay đổi ở vợ và ra sức vun đắp, xây
lại hạnh phúc gia đình thì một lần nữa chính anh lại đẩy mình vào bi kịch bị
phản bội tiếp theo. Đau đớn hơn, chua xót hơn, sự phản bội ấy lại do người vợ
lăng loàn và lão hàng xóm thân thiết như anh em ruột thịt gây ra. Sự cả tin,
rộng lượng và hèn nhát của anh, đã biến anh trở thành một con người đáng
trách. Giá như anh quyết đoán hơn, giá như anh sâu sắc hơn và giá như anh
dám nhìn thẳng vào cái sự thật khắc nghiệt ấy thì cuộc đời anh sẽ không lâm
76
vào bi kịch liên tiếp bị phản bội như vậy.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu nhân vật Sài hay nhân vật Tâm, nếu chỉ nhìn họ
ở góc độ là những người thiếu quyết đoán thì chưa thực sự sâu sắc. Khi viết
về những nhân vật này, ta có thể thấy được rằng, quan niệm đạo đức đã chi
phối sâu sắc đến ngòi bút của tác giả. Dù Sài hay Tâm đều biết vợ phản bội,
cuộc sống gia đình ngột ngạt, không có hạnh phúc nhưng tại sao họ vẫn cứ
chìm đắm trong đó, chần chừ không dứt khoát tìm lối ra. Đó là vì họ nghĩ cho
gia đình, nghĩ cho những đứa con. Lối suy nghĩ vì gia đình, tình thương cho
gia đình dường như đã ăn sâu vào máu thịt của những người tốt như Sài và
Tâm. Một bên là cuộc sống tù túng, ngột ngạt, đầy giả dối, lừa lọc khiến con
người cảm thấy chán nản, muốn thoát ra, nhưng một bên là tình nghĩa, là
những kỉ niệm đẹp đẽ, là tình yêu thương con cái, mong muốn xây dựng gia
đình hạnh phúc khiến cho nhân vật quay cuồng với suy nghĩ mâu thuẫn, giằng
xé trong sự lựa chọn ấy. Quan niệm đạo đức đã hình thành trong họ lối sống
cam chịu. Xây dựng những nhân vật này, Lê Lựu đã làm nổi bật được nét
đáng quý của con người Việt Nam trong mối quan hệ với gia đình và xã hội.
Những tưởng rằng chỉ những người ngây thơ, cả tin như Tâm mới dễ bị
lừa gạt trong tình cảm, nhưng có những kẻ dù rất tinh ranh, sâu sắc, thậm chí
hiểu đời nhưng nếu thiếu bản lĩnh thì cuối cùng họ vẫn bị coi thường, bị phản
bội. Địa trong Hai nhà là một minh chứng tiêu biểu. Trong con mắt mọi
người, Địa là người học cao, là nhà tri thức kiểu mẫu, cái gì ông cũng nói như
hiểu biết rất rõ, rất hiểu đời. Chính ông là người chỉ dạy cho Tâm nhiều cách
ứng xử trong cuộc sống. Nhưng kì lạ thay, sống với người vợ lăng loàn, bỉ ổi
ngang nhiên “cắm sừng” chồng nhưng ông vẫn luôn xem như không có
chuyện gì, im lặng cho qua một cách hèn nhát. Chính ông đã biện hộ cho cái bản
tính nhu nhược, hèn hạ của mình bằng những triết lý tưởng chừng rất đúng đắn
rằng “là thằng đàn ông có bản lĩnh không phải chỉ biết tỏ ra mạnh mẽ, đàng
hoàng, dứt khoát không tự ái vặt, chấp chi vặt mà phải biết nhẫn nhục nuốt vào
77
bụng mình hết sự nhơ nhuốc, đểu giả của một con vợ ma quái như con yêu tinh.
Thằng đàn ông cãi cọ, quát mắng được vợ là thằng đàn ông nông nổi. Chịu
nhẫn nhục một cách hèn hạ, vui vẻ chấp nhận sự bỉ ổi, vô học, thậm chí cả sự
phản bội của vợ mình mới là thằng đàn ông sâu sắc, am hiểu sự đời” [25, tr.19].
Cả cuộc đời ông sống với vỏ bọc là nhà tri thức kiểu mẫu nhưng đi sâu vào cuộc
sống gia đình thì ông luôn đóng vai một người chồng bị bội bạc, bị lừa dối. Ông
không cả tin, ngây thơ như Tâm, ông biết rất rõ, thậm chí nhiều lần tận mắt
chứng kiến cảnh lăng loàn của vợ mình nhưng ông lại quay đi nhịn nhục một
cách hèn hạ, và xem mọi chuyện như chưa có gì xảy ra.
Mặc dù không phải là người thật thà, nhiệt tình như Tâm, nhưng bác
Địa cũng xem Tâm như anh em thân thiết, quan tâm, giúp đỡ gia đình Tâm.
Ông cũng là một người khôn ngoan, hiểu đời, không gì qua được mắt ông,
ông nhẫn nhục, chịu đựng sự loăng loàn của vợ như “một thằng đần, ngu
hoặc bị bệnh tâm thần rất nặng” nhưng trong ông luôn ấp ủ, nuôi cái ý định
trả thù, bởi ông nhận ra rằng: “những con đàn bà lúc nào cũng lồng lên như
bò động đực kiểu vợ tôi thì khi nào tàn tạ nhan sắc, kiệt quệ sức lực nó mới
chịu thất bại. Mình muốn là kẻ chiến thắng phải nhẫn nhục, kiên trì mà chờ
đợi, mà lặng lẽ tìm kiếm một con đàn bà khác còn sức lực, còn nhan sắc trước
mặt con vợ tàn phai, kiệt quệ của mình thì mới là thằng đàn ông có trí lực cao
cường” [25, tr.282]. Cuối cùng ông đã chọn chính vợ của người bạn thân thiết
là Tâm để thực hiện cái ý định trả thù đê hèn của mình. Đến lúc này, người
đọc không thể có cái nhìn cảm thông hay tiếc rẻ cho một con người nhu
nhược, luôn bị vợ cắm sừng nữa, mà thay vào đó là cái nhìn kinh bỉ đối với
loại người ích kỉ, bất chấp tình cảm bạn bè, láng giềng thân thiết để thỏa mãn
cơn dục vọng và lòng căm thù trắc ẩn của mình. Không dám nhìn mặt Tâm
sau những gì mình đã làm, Ông để lại lá thư và tìm đến cái chết. Đến lúc này
ông vẫn tin rằng mình “đã chiến thắng”: “tôi đã đau khổ, đã mất quá nhiều,
78
đã kiên trì mai phục quá lâu và rất may mắn là tôi đã giành thắng lợi trước
vợ tôi và tôi may mắn hạnh phúc hơn hàng nghìn hàng vạn người khác, tóm
lại là tôi đã mãn nguyện” [25, tr.286].
Với nhân vật Địa ta khó có thể nói rằng ông là một người tốt cũng
không thể nói ông là người hoàn toàn xấu. Đằng sau con người tỏ ra sâu sắc,
hiểu đời, khôn ranh, lọc lõi ấy, cũng có lúc là người bạn tri kỉ, thân thiết, là
người hàng xóm tốt bụng nhưng cả cuộc đời ông lại phải sống trong khổ sở,
đau đớn, nhẫn nhục để chờ ngày trả thù và giành chiến thắng người vợ bội
bạc, dâm đãng. Trong suy nghĩ quái gở của ông, dù kết cục phải tìm đến cái
chết, dù phản bội người hàng xóm tốt bụng như ruột thịt nhưng ông vẫn là
người chiến thắng và là người may mắn hơn so với nhiều người. Đến đây ta
dường như lại bắt gặp kiểu nhân vật tha hóa do những suy nghĩ nông cạn, sai
lầm trong những sáng tác khác của Lê Lựu. Là một người đàn ông, là người
chồng, người bố trong gia đình, Địa đã sai khi chọn cách sống như vậy. Suy
cho cùng ở ông cái bản tính nhu nhược, hèn nhát đã đẩy ông rơi vào bi kịch bị
phản bội và phản bội người khác.
Cả Sài, Tâm và Địa đều rơi vào bi kịch bị phản bội, là những người đàn
ông vì cam chịu, nhẫn nhục, cả tin, thiếu quyết đoán nên họ đều thất bại trong
cuộc sống hôn nhân, gia đình. Nhưng mỗi người đã chọn cho họ một con
đường riêng. Nếu Sài quyết định dứt khoát thoát khỏi cuộc sống gia đình ngột
ngạt, trở về làng Hạ vị với hai bàn tay trắng và bắt đầu lại từ đầu thì Địa lại
tìm đến cái chết với ý nghĩ rằng mình là người chiến thắng sau những ngày
tháng đau khổ, chịu đựng cuộc sống nhơ nhuốc, giả tạo. Qua kiểu nhân vật
này, Lê Lựu đã thực sự đã chạm được đến chỗ trung thực nhất trong bản chất
con người. Ngòi bút của ông đã vô cùng tinh tế và sâu sắc, đã len lỏi đến tận
cùng nơi sâu thẳm nhất, bí ẩn nhất của con người, ông đã khám phá được con
79
người ở chiều sâu nhân bản nhất.
Tiểu kết chương 2
Có thể nói rằng, sự đổi mới đặc sắc nhất trong Tiểu thuyết Lê Lựu thời
kỳ này chính là sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người được
thể hiện qua cách xây dựng hình tượng nhân vật. Đọc sáng tác của Lê Lựu, ta
bắt gặp một thế giới nhân vật đặc sắc, đó là những người tốt nhưng vì nhiều lý
do mà cuộc đời luôn chìm sâu trong những bi kịch đau buồn, là những kẻ tha
hóa xấu xa nhưng vẫn sống nhởn nhơ nhờ sự may mắn, có những con người
luôn tồn tại với sự đấu tranh giằng xé giữa hai mặt tốt - xấu, lại có những
người giàu yêu thương, cam chịu nhưng chỉ nhận được nỗi cô đơn, bất
hạnh…Qua những hình tượng nhân vật, Lê Lựu đã thể hiện được những tư
tưởng lớn lao. Tuy có lúc tác giả còn chịu ảnh hưởng của những định kiến cá
nhân, nhưng những đóng góp của Lê Lựu vẫn hết sức to lớn. Viết về con
người, nhà văn đã chĩa ngòi bút vào hiện thực, bóc trần và tố cáo nó, từ đó
đánh thức con người, giúp họ nhận ra giá trị của cuộc sống đích thực, kêu gọi
80
họ hãy sống có trách nhiệm với chính mình và với xã hội.
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Để xây dựng được những hình tượng chân thực như Giang Minh Sài
trong Thời xa vắng, hay Núi trong Sóng ở đáy sông, kể cả những nhân vật xấu
xa nhưng rất thật như Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà)…Lê Lựu đã
sử dụng nhiều biện pháp xây dựng nhân vật độc đáo. Nhân vật trong tiểu
thuyết Lê Lựu hiện lên rất đầy đặn ở cả chân dung bên ngoài và đời sống nội
tâm bên trong. Có những nhân vật được miêu tả tỉ mỉ, có những nhân vật chỉ
được phác thảo bằng một vài chi tiết. Nhưng tất cả được hiện lên rất sống
động. Sự thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê
Lựu không phải ở sự mới lạ mà nằm ở khả năng vận dụng kỹ thuật xây dựng
nhân vật giàu chất truyền thống. Những sáng tác của Lê Lựu thời kỳ đổi mới
tập trung xoáy sâu vào những vấn đề của đời sống cá nhân. Nghệ thuật miêu
tả ngoại hình nhân vật là một trong những cách tiếp cận làm nổi bật hình
tượng nhân vật. Có thể khái quát cách xây dựng nhân vật của Lê Lựu ở hai
đặc điểm, đó là xây dựng ngoại hình nhân vật tương xứng với tính cách và
nhân vật có ngoại hình không tương xứng với tính cách.
Kiểu nhân vật có ngoại hình tương xứng với tính cách có khi được
miêu tả trực tiếp qua điểm nhìn của người trần thuật, có khi được miêu tả gián
tiếp thông qua điểm nhìn của các nhân vật khác trong tác phẩm.
Đọc Thời xa vắng hẳn người đọc không thể quên hình ảnh anh nông
dân Sài hiền lành, chất phác. Tính cách này của Sài dường như đi theo anh
đến hết cuộc đời, dù cuộc sống của anh trải qua nhiều thay đổi, dù đất nước
đang trong chiến tranh hay hòa bình, sống ở nông thôn hay đô thị thì bản tính
81
thật thà của một anh nhà quê chân chất vẫn không hề mất đi. Với Giang Minh
Sài, Lê Lựu không dùng nhiều trang viết miêu tả ngoại hình, nhưng qua
những nét đặc tả về nhân vật người đọc vẫn hình dung ra một anh Sài đúng
chất nông dân. Sài hiện lên với vẻ đẹp ngoại hình tương xứng với tính cách,
đó là một anh thanh niên “đẹp trai, khỏe mạnh, thông minh mà lại hiền”.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì Sài sẽ không có gì đặc biệt mà sẽ dễ bị nhạt
nhòa, hòa lẫn với nhiều nhân vật và con người khác. Vì vậy, để nhân vật của
mình trở nên đặc biệt và nổi bật, Lê Lựu đã khoác cho Sài “một bộ áo cánh
nâu”, cho anh “đội nón” và đi “chân đất” với “một chiếc túi dết đã vá hai
miếng” [26, tr.48] cộng với dáng dấp “tất bật, quê mùa” nữa thì đây đích thị
là một anh nông dân không lẫn vào đâu được. Miêu tả ngoại hình nhân vật
không chỉ để người đọc hình dung hay mường tượng về nhân vật đó thế nào,
mà tác giả qua đó muốn khắc họa chân dung bên trong của nhân vật. Ngoại hình
đó phần nào thể hiện được cuộc đời của một anh nông dân cam chịu nhiều khổ
đau, bất hạnh, yếu đuối, không dấu được với “đôi mắt buồn xa xôi…đôi môi dày
mím lại lặng lẽ mà vẫn như gợi mọi người phải nhìn vào nó, tìm ở phía trong nó
một cái duyên thầm và bao nhiêu điều sâu xa” [26, tr.173]. Những điều sâu xa
đó được minh chứng qua cuộc đời Sài sau này. Điều đặc biệt của Lê Lựu
chính là chỗ đó. Không kể nhiều, tả nhiều nhưng với những nét đặc trưng, ông
đã làm nổi bật được đời sống, tính cách nhân vật trước hết qua cách khắc họa
ngoại hình nhân vật.
Vẫn với nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngoại hình, Lê Lựu dành
nhiều ưu ái cho nhân vật Hương. Ở Hương tác giả không chỉ xây dựng hình
ảnh một người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn mà còn có ngoại hình xinh đẹp.
Ngoại hình của Hương hiện lên chủ yếu qua cảm nhận của nhân vật Giang
Minh Sài. Khi còn học cấp hai, Sài đã phải tìm cách tránh xa cô vì một lẽ giản
đơn: “Cho đến hôm ấy, Sài mới thấy một cô gái đẹp như thế”, đó là vẻ đẹp
82
của một cô gái quê thanh khiết, trong trắng. Lần đầu tiên gặp cô, anh đã
không thể nào quên được cô gái có “cái gáy nõn nà do hai hàng tóc rẽ ra cặp
gọn gẽ thành hai mảng đen mướt trùm xuống hai bờ vai” [26, tr.48]. Trước vẻ
đẹp của Hương, Sài luôn cảm thấy tự ti vì mình “là thằng bé quê mùa đã có
vợ” [26, tr.48] nên dù học chung lớp nhưng hầu như chưa lần nào Sài dám
nhìn thẳng vào Hương. Nhưng cái ấn tượng về người con gái duyên dáng,
xinh đẹp luôn sống mãi trong tâm trí Sài. Với “đôi mắt long lanh lúc nào
cũng như cười, cái miệng với hàm răng rất trắng và đều đặn” mỗi lần Hương
nở nụ cười thì khiến người đối diện không thể nào quên. Vẻ đẹp trong sáng,
dịu dàng, thuần khiết của người con gái đó đã cho thấy một tâm hồn trong
sáng, một tình yêu thủy chung nhưng không kém phần mãnh liệt. Có thể nói
Hương là hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ vừa đẹp người lại đẹp nết,
vừa có nhan sắc lại giàu phẩm hạnh. Đặt Hương trong mối quan hệ gắn bó với
nhân vật Sài, Lê Lựu càng soi rọi, làm nổi bật bi kịch cuộc đời của nhân vật
Sài. Sự đối lập về tính cách của hai nhân vật, một bên là người con gái mạnh
mẽ, chung thủy, sẵn sàng làm tất cả để giữ lấy tình yêu, một bên là chàng trai
nông dân chất phác, thụ động, thiếu bản lĩnh, không quyết định được hạnh
phúc cuộc đời mình nên cuối cùng đánh mất tình yêu đích thực của mình và
cả cuộc đời phải hứng chịu thất bại.
Ông Đại trong Sóng ở đáy sông là kiểu nhân vật có tính cách khác
người, dị biệt. Để làm nổi bật tính cách đó, Lê Lựu đã miêu tả nhân vật với ngoại
hình cũng khá đặt biệt, có thể nói là ấn tượng. Về ngoại hình đó là một “người
cao to, hồng hào, không có râu nên rất khó đoán tuổi và không biết lúc nào đang
vui hay đang buồn vì rất ít khi ông nói cười với vợ con” [33, tr.6]. Khuôn mặt
của ông dường như thiếu sự biểu cảm, điều đó khiến người đọc hình dung về
một con người khô khan, thiếu tình cảm. Vẫn là khuôn mặt không vui không
buồn ấy, trong đám tang người vợ “ông lặng lẽ với những cái bắt tay đều đều,
83
với những lời lẽ rất đều đều trên khuôn mặt không ai biết là buồn hay vui.
Ông không thắm thiết với ai, cũng chẳng ghẻ lạnh với ai” [27, tr.78]. Ông
luôn tạo cho mình một ngoại hình chải chuốt, khó ai có thể thấy ông ăn mặc
“nhầu nhĩ, xốc xách, rối bù” bao giờ, và “kể cả ngồi trong hầm trú ẩn, ông
vẫn giữ được đường ngôi trên đầu mượt và thẳng” [27, tr.103]. Miêu tả nhân
vật này, tác giả tập trung diễn tả khuôn mặt, với những nét đặc tả, đó là khuôn
mặt khó nắm bắt được cảm xúc. Không ai có thể đoán được những suy nghĩ,
hay tình cảm gì qua khuôn mặt ấy. Khắc họa chân dung nhân vật với những
nét dị biệt, Lê Lựu đã thành công khi đi sâu làm nổi bật tính cách, bản chất
nhẫn tâm, máu lạnh, khô khan, cứng nhắc và vô cảm của con người này.
Như vậy, trong các sáng tác của mình, Lê Lựu đã thành công khi sử
dụng ngòi bút miêu tả chân dung bên ngoài để làm nổi bật đời sống nội tâm
bên trong của nhân vật. Nhưng bên cạnh những nhân vật có ngoại hình tương
xứng với tính cách nhân vật, thì tác giả còn tạo được nét riêng trong những
sáng tác của mình thông qua loại nhân vật có ngoại hình không tương xứng
với tính cách. Chính sự đối lập giữa bên ngoài và bản chất bên trong đã làm
cho nhân vật hiện lên độc đáo hơn và gây ấn tượng mạnh hơn. Lê Minh Hiếu
(Chuyện làng Cuội), Châu (Thời xa vắng), Linh Anh (Hai nhà)… là những
kiểu nhân vật như vậy.
Với Lưu Minh Hiếu, tác giả không tập trung miêu tả nhiều ngoại hình,
nhưng chỉ vài nét đặc tả, nhân vật hiện lên khá đặc biệt. Khó ai có thể đoán được
cái bản chất thật của con người giả dối, độc ác ấy qua khuôn mặt có duyên, qua
nụ cười lúc nào của nở trên môi: “cái miệng rộng và sang. Hàm răng hơi nhô
vừa vừa đủ để làm người có duyên, xởi lởi, không vổ” [24, tr.153]. Ngoại hình
đó trở thành trợ thủ đắc lực để hắn lấy lòng mọi người. Trong mắt mọi người
hắn không chỉ tài giỏi mà còn rất vui vẻ, thân tình, hết lòng vì dân làng. Sự
nhẫn tâm, giả dối, bản chất bỉ ổi, nham hiểm của hắn ẩn giấu sau cái nụ cười
84
duyên dáng, xởi lởi ấy một cách hoàn hảo, khéo léo. Vì thế hắn đã có những
cú lừa ngoạn mục đối với tất cả mọi người. Với những nét ngoại hình đặc
biệt, Lê Lựu đã dần vén bức màn về tính cách nhân vật thông qua sự đối lập
về ngoại hình và nội tâm nhân vật.
Viết về những nhân vật có ngoại hình đối lập với tính cách nhân vật, Lê
Lựu dành nhiều đất diễn cho những người phụ nữ đẹp nhưng giả dối. Đó là
những cô gái thành thị, thuộc tầng lớp tri thức như Châu hay Linh Anh. Họ
giống nhau ở lối sống giả dối, buông thả, ở bản tính lăng loàn, mất nết nhưng
họ lại được trời phú cho một lớp bọc hoàn hảo, một nhan sắc mĩ miều.
Nếu Hương đẹp ở vẻ đẹp đoan trang, trong sáng, thuần khiết thì Châu
lại mang vẻ đẹp sắc sảo, cuốn hút với “đôi mắt lúc nào cũng bốc lên ngọn lửa
ngùn ngụt sức trẻ trung” [26, tr.199], đôi mắt ấy đã hút mất hồn vía của Sài,
khiến anh quên hết tất cả và chỉ muốn đắm chìm trong tình yêu với cô gái
“đẹp như tiên, thông minh và dịu dàng”, có đôi mắt đẹp hút hồn ấy. Với vẻ
đẹp của mình, Châu đã lừa dối và lao vào cuộc tình với biết bao người đàn
ông, nhưng có lẽ thành công nhất của cô là khiến Sài u mê trong sự lừa dối ấy
và từng bước hủy hoại cuộc sống của một người lính đầy bỡ ngỡ như Sài khi
tiếp xúc với cuộc sống thành thị. Bản chất mộc mạc, thật thà của người nông
dân như Sài đã hoàn toàn thất bại khi chung sống với cô gái thành thị xinh
đẹp nhưng giả dối, hư hỏng như Châu. Sự tan rã của cuộc hôn nhân chông
chênh ấy dường như là một tất yếu.
Cũng giống như Châu, Linh Anh cũng được trời phú cho vẻ đẹp cuốn
hút, đầy ma lực với “đôi mắt sáng bất kể lúc nào cũng trở thành giông bão,
làm cho lật những gã đàn ông si tình như chiếc thuyền nan lênh đênh chìm
nổi giữa khơi xa mù mịt. Hai mi mắt dài, đen ẩm ướt của đôi mắt sóng sánh
ấy, chỉ cần một cái liếc nhẹ cũng làm tan nát, rụng rời bất cứ kẻ nào mon men
đến trêu đùa, tán tỉnh” [25, tr.103]. Cô còn sở hữu một đặc sản, ấy là “cái má
85
lúm đồng tiền ở bên má trái…khi cô cười tủm hay cười thành tiếng, thậm chí
chỉ hơi nhếch mép lên một chút thì cái lúm đồng tiền đã xoáy tròn lại, nói
không ngoa, nó như cái xoáy nước ở sông Cái, tạo nên những hũm rất sâu, có
thể hút hàng trăm người chìm nghỉm cùng một lúc” [25, tr.103]. Nhưng trái
với ngoại hình xinh đẹp ấy lại là một tính cách lăng loàn, hư hỏng. Cô ta sẵn
sàng trao thân cho bất cứ người đàn ông nào, kể cả già lẫn trẻ, để rồi ngụy
trang bằng vẻ ngoài hoàn hảo lừa dối chồng mình. Hai đứa con, kết quả của
những ngày tháng ăn chơi sa đọa, những cuộc tình vụng trộm sau lưng chồng.
Cái khuôn miệng xinh đẹp, duyên dáng ấy là nguồn gốc của những lời nói
thất học, giả dối.
Miêu tả đối lập gay gắt giữa vẻ đẹp bên ngoài và bản chất nội tâm bên
trong khi viết về những người phụ nữ như Châu hay Linh Anh có thể gây ấn
tượng mạnh đối với người đọc khi khám phá tác phẩm. Nhưng với một cách
nhìn nhận khác, đây cũng là hạn chế trong đánh giá con người của nhà văn. Ở
đây, cảm xúc chủ quan thái quá đã chi phối cách miêu tả nhân vật của Lê
Lựu. Nhưng điều đó vẫn không làm mất đi giá trị của tác phẩm, bởi những
đứa con tinh thần ấy đã đứng vững trong lòng người đọc bởi một thế giới nội
tâm có chiều sâu và rất sắc sảo.
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm
Xuất phát từ quan niệm “tiểu thuyết là tiểu thuyết của tính cách, của số
phận con người” [23, tr.548], nên Lê Lựu đã dành trọng tâm trong những
sáng tác của mình bằng cách diễn tả số phận con người. Nét đặc sắc làm cho
tiểu thuyết của ông mãi thu hút người đọc chính là sự tái hiện số phận con
người thông qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Lê Lựu chú ý diễn tả
những trạng thái cá nhân như một nhu cầu tự nhận thức của con người. Lê
Lựu ít chú ý đến hành động bên ngoài mà chú ý nhiều hơn đời sống bên trong
của nhân vật. Ông “tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến chân tơ, kẽ tóc, đến cả
86
ngọn ngành sâu thẳm nhất của tình cảm và suy nghĩ” [23, tr.577].
Với nghệ thuật miêu tả nội tâm, Lê Lựu đã chọn cho mình một phong
cách dễ nhận ra đó là đặt nhân vật vào những hoàn cảnh sống khắc nghiệt,
buộc nhân vật phải thường xuyên phán xét, tự nhận thức bản thân trong sự
vênh lệch giữa khát vọng sống cao đẹp và thực tại tầm thường, giả dối. Lê
Lựu đặc biệt quan tâm đến những dằn vặt, suy nghĩ, những trải nghiệm của
nhân vật trước cuộc sống, tức là chú ý đến quá trình tự ý thức và đời sống nội
tâm nhân vật. Ngòi bút của ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách trái tim nhân
vật để phát hiện ra những sự thật trong tâm hồn họ và chạm đến những điều bí
ẩn trong con người họ. Ông khai thác nội tâm đó một cách chân thực khi đặt
nhân vật của mình rơi vào những bi kịch. Họ không được sống là chính mình,
không dám là mình.
Ở nhân vật Giang Minh Sài (Thời xa vắng), thế giới nội tâm chính là
quá trình tự ý thức diễn ra song hành với đường đời của nhân vật. Thế giới
nội tâm ấy được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, một phương tiện
biểu hiện hữu hiệu thế giới bên trong con người. Thông qua độc thoại nội
tâm, thế giới bên trong của Giang Minh Sài với tất cả những hoài bão, ước
mơ, những đau khổ, cay đắng, dằn vặt đã hiện lên chân thực, sinh động. Vốn
là một người thông minh nên ngay từ bé, khi bị áp đặt với cuộc hôn nhân
không mong muốn anh đã sớm nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Khi chạm
đến ngưỡng cửa tình yêu, anh bẽ bàng nhận ra “ôi tình yêu, anh biết rằng anh
cũng có một nỗi khát khao đối với một người con gái như tất cả bạn bè. Chỉ
có khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho đúng là anh không được phép
có một tình yêu” [26, tr.98]. Suy nghĩ của Sài vừa cho thấy cảnh ngộ của anh
thật đáng thương, nhưng cũng qua đó cho thấy trái tim yếu đuối của Sài. Anh
khao khát được thoát khỏi Tuyết, anh mong có “một ông giời nào xuống đây
để cho hai người ly hôn” mà không hiểu rằng việc đó có thể làm được bằng
87
chính bản thân anh, nếu anh có đủ bản lĩnh, vượt qua sự hèn nhát, yếu đuối
của chính mình. Muốn trốn chạy cuộc hôn nhân, anh tham gia chiến tranh, vì
anh nghĩ nếu vậy anh sẽ được yên thân và chẳng ai có thể hành hạ anh chuyện
vợ con. Nhưng một lần nữa, vì thiếu sự quyết đoán, vì quá yếu mềm nên anh
lại làm theo ý của cấp trên “yêu vợ” và khi điều đó thành sự thật thì anh lại
buồn cho chính mình và lo cho cả số phận của đứa con sau này rồi không biết
sẽ ra sao. Bản thân con người anh không phải không nhận ra bi kịch của cuộc
đời mình, mà ngược lại anh nhận thức rất rõ về nó. Nhưng tất cả chỉ dừng lại
ở những suy nghĩ, dằn vặt và đau khổ của anh khi cuộc sống không như anh
mong muốn. Anh cứ thể để mình bị cuốn trôi và chìm sâu trong bi kịch đó hết
lần này đến lần khác. Bởi anh quá yếu đuối, bởi anh không dám quyết định
bất cứ điều gì liên quan đến cuộc đời mình, bởi anh không dám sống là mình.
Trong chiến tranh, anh luôn sống hộ người khác, để người khác quyết định
cuộc đời mình nên anh rơi vào bi kịch. Nhưng đến thời bình, khi anh được
quyết định chọn lựa cho cuộc sống của mình thì một lần nữa anh lại lựa chọn
sai và sai lầm lớn nhất của anh là lựa chọn nửa kia còn lại của cuộc đời mình.
Trong cuộc hôn nhân với một cô gái thành thị xinh đẹp như Châu, Sài thấy
mình ở trong trạng thái chới với, nhiều lúc anh nhận ra mình không còn là
mình. Một lần nữa anh lại để người khác điều khiển, anh đã dẫm lên vết xe đổ
của chình mình. Những mâu thuẫn liên tiếp xảy ra với Châu, khiến Sài dần
dần tự ý thức được cuộc sống của chính mình, và đến lúc anh đủ tỉnh táo để
nhận ra “anh không thể tiếp tục cuộc sống không phải là mình, không còn là
mình, cái có thì thừa, cái không có thì phải ứng xử hàng ngày, cố mãi từng
ngày vẫn thấy thiếu hụt” và anh quyết định “phải tìm cách sống khác thôi”
[26, tr.282]. Sai lầm nối tiếp sai lầm, trải qua từng chặng đường cuộc đời,
cuối cùng chính Sài đã dần trưởng thành hơn trong sự tự ý thức của chính
mình và anh chua xót nhận ra “giá như ngày ấy em cứ sống với tình cảm của
88
chính mình, mình có thế nào cứ sống như như thế…” [26, tr.332] thì giờ mọi
chuyện sẽ khác. Cuộc đời Sài là cả một sự trải nghiệm trong bi kịch thất bại,
đó là cả một quá trình chiêm nghiệm và từng trải qua cuộc đời của chính
mình. Cái tài tình của Lê Lựu chính là qua sự trải nghiệm, sự tự ý thức của
nhân vật để lột tả tận cùng nội tâm sâu kín của nhân vật. Những uẩn khúc,
những dằn vặt, đau khổ và quá trình tự ý thức của Sài đã được Lê Lựu tái hiện
một cách đầy thuyết phục.
Khi miêu tả nhân vật Hương tác giả lại tập trung khắc họa nội tâm qua
ngôn ngữ nhân vật. Tính cách của nhân vật này được thể hiện đậm nét nhất
bằng những lời nói và suy nghĩ qua những bức thư mà Hương gửi cho Sài hay
cuộc trò chuyện với chú Hà. Hình thức những bức thư được Lê Lựu sử dụng
như một phương tiện nghệ thuật đặc sắc. Lời đối thoại, độc thoại của nhân vật
được thể hiện chân thực và sâu sắc nhất qua những bức thư. Trong những bức
thư gửi cho Sài, Hương đã thẳng thắn bộc lộ những tình cảm mãnh liệt của
mình qua những lời tâm sự dành cho Sài: “Gần một tháng nay kể từ khi đến
lớp, em bị tai tiếng đi theo. Nhưng em cần gì. Ai muốn xa lánh khinh bỉ em,
em xa hẳn và khinh họ luôn. Em chỉ cần có một mình anh yêu em, anh ở bên
em…Hầu như không đêm nào em không khóc và đã có lần nằm mơ thấy anh
đang bị bủa vây (…) em hét lên lao đến, ôm chầm lấy anh” [26, tr.65], điều đó
cho thấy Hương là một cô gái mạnh mẽ, dám làm tất cả để bảo vệ hạnh phúc
của chính mình. Những câu đối thoại của Hương với chú Hà càng thể hiện
được khát khao bảo vệ tình yêu của cô, mong muốn dùng tình yêu trong sáng
để chiến thắng dư luận, vượt qua những lời dị nghị “Cháu nghĩ nếu chú đứng
ra giải quyết việc này thì anh Sài sẽ được cứu thoát”. Cô cho rằng “dư luận
chỉ lên án những việc làm sai trái với lương tâm và pháp luật” nên cô luôn
muốn chiến thắng dư luận, sống không cần quan tâm đến dư luận. Những câu
hỏi cô đặt ra cho chú Hà, càng thể hiện được tính cách của một người con gái
89
yêu hết mình và sẵn sàng bảo vệ tình yêu của mình.
Với Hai nhà, hình thức nhật ký lại được tác giả sử dụng để làm sáng tỏ
chân dung, tính cách đời sống nội tâm nhân vật. Ở tác phẩm này, tác giả dành
trọn chương ba trong số năm chương của tác phẩm với nhan đề “Sự nhấm
nháp độc ác” để làm nổi bật tính cách và con người thật của Linh Anh qua
những trang nhật ký của cô. Quá khứ xấu xa, hư hỏng, giả dối của cô bị lật tẩy
hoàn toàn. Sự thật về chân dung của một con người do chính cô vẽ lên có sức
thuyết phục mạnh mẽ. Đến cuối tác phẩm hình thức bức thư lại được Lê Lựu
sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật đắc lực thể hiện bộ mặt và tính cách của
nhân vật Địa. Bức thư tuyệt mệnh là lời trăn trối, là lời giải bày tâm sự của
Địa đối với người anh em hàng xóm là Tâm. Với hình thức này, thế giới bên
trong của nhân vật Địa được tái hiện chân thực. Đọc bức thư, người đọc sẽ vỡ
lẽ ra nhiều điều, rằng tại sao một con người hiểu đời như Địa lại chấp nhận
cuộc hôn nhân với người vợ phụ bạc và tại sao Địa thân thiết với Tâm như thế
lại lén lút qua lại với vợ Tâm… Những suy nghĩ của nhân vật dần được mở ra
qua những dòng kể và những lời tường thuật của nhân vật trong bức thư. Từ
đây tính cách nhân vật hiện ra từng tý một, chân dung bên trong của nhân vật
vì vậy hiện lên chân thực hơn bao giờ hết.
Nội tâm nhân vật bà Đất (Chuyện làng Cuội) lại được thể hiện qua sự
đấu tranh giằng xé trong suy nghĩ và hành động nhân vật. Nét nổi bật về tính
cách của nhân vật này là sức chịu đựng ghê gớm. Bên trong cái vẻ nhu mì,
hiền lành là một thế giới nội tâm đầy giằng xé và mâu thuẫn. Khi bị chà đạp,
đau đớn đến tột cùng, cô muốn tìm đến cái chết nhưng ngay phút giây ấy cô
đau xót nhận ra cảnh ngộ của mình: sống không nổi mà chết cũng chẳng xong
bởi cô “sợ để lại tai tiếng cho mẹ, cho các anh, cô không dám xuất hiện một ý
nghĩ liều lĩnh nào nữa” [24, tr.71]. Dù không thiết sống nhưng nghĩ đến gia
đình cô lại không dám nghĩ đến cái chết. Chỉ bấy nhiêu suy nghĩ cũng đủ lột
90
tả được tấm lòng hiếu thảo, nhân hậu của cô. Khi sinh con không có bố, trở về
làng với danh nghĩa vợ Việt minh, sống trong sự yêu thương, cảm thông của
gia đình và hàng xóm nhưng chưa lúc nào cô cảm thấy thật sự hạnh phúc bởi
trong lòng luôn day dứt và dằn vặt về sự giả dối của mình “đến bao giờ mình
mới không là kẻ ăn cắp tấm lòng ngay thẳng, thật thà của bạn bè, hàng xóm”
[24, tr.76]. Nỗi đau đớn được đẩy đến đỉnh điểm khi nhà văn đặt nhân vật vào
tính thế phải lựa chọn vô cùng khó khăn “giữa chồng bị tù đày và có thể
người ta xử bắn với con suốt đời bị lạnh nhạt khinh bỉ”. Sự lựa chọn ấy đã tạo
nên nhiều mâu thuẫn trong con người cô, vừa thương chồng lại vừa thương
con. Cô tự nhủ: “Thôi xấu thì xấu rồi còn gì để xấu thêm mà phải trốn tránh.
Khai được chuyện này bao nhiêu chuyện khác có thể gỡ ra được, chồng mụ
không phải bị buộc tội oan …nhưng khi nghĩ đến con mụ lại run lên không
nói được gì” [24, tr.243]. Sự đấu tranh giằng xé để chọn lựa đó đã làm nổi bật
được tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của bà Đất và trái tím nhân hậu, tình
yêu sâu sắc với chồng. Sống trong xã hội tàn nhẫn, bà Đất dường như quá sợ hãi,
không đủ sáng suốt để đưa ra lựa chọn đúng đắn. Cuối cùng bà phải trả giá cho
sự sai lầm đó bằng chính tính mạng của người chồng mà bà hết lòng yêu thương,
trân trọng. Rồi sai lầm nối tiếp sai lầm, vì quá thương yêu con nên bà đã không
đủ tỉnh táo để phân biệt đúng sai, nhất mực làm theo ý muốn của con mình và
hết lần này lần khác bà phải đóng vai ác, sống không còn là chính mình. Bà chấp
nhận làm mọi chuyện, thậm chí cắn răng chịu đựng sự ghẻ lạnh, khinh miệt của
làng xóm nhưng cuối cùng bà lại bị chính đứa con ấy phản bội. Với số phận
nhân vật này, có lẽ cái chết chính là sự giải thoát nhẹ nhàng và hợp lý nhất để
chấm dứt cả chuỗi đời sống trong đau đớn, dằn vặt với những nỗi đau mất mát,
tận cùng.
Tâm lý nhân vật Núi (Sóng ở đáy sông) được Lê Lựu miêu tả qua quá
trình đấu tranh bên trong nội tâm để thoát khỏi con đường tội lỗi. Sau những
91
tháng ngày lang thang, trộm cắp, qua những sa ngã, trượt dốc, với sự đấu tranh
để lựa chọn con đường sống cho tương lai gắn với những biến cố của cuộc đời,
cuối cùng Núi đã quyết định đi trại cải tạo lao động dành cho thanh niên chậm
tiến. Núi ao ước “có được một việc làm” bởi “hắn sợ lang thang lắm rồi”. Trước
những khó khăn của cuộc sống, hắn đã về cầu cứu tình thương của cha nhưng bị
từ chối, hắn thương các em và thầm nghĩ “mỗi lần về kiếm ăn ở nhà nhục lắm.
Mình được miếng vào bụng nhưng các em thì nước mắt vòng quanh thương anh.
Rồi vụng vụng, trộm trộm, trông khổ thân chúng nó lắm” [27, tr.110]. Điều đó có
nghĩa là bản chất của Núi là một người anh tốt, hết lòng thương yêu và lo cho
các em. Xuất phát từ con người hiền lành, lương thiện nhưng vì quá khổ cực, vì
gánh nặng trên vai quá lớn, hắn hy sinh tương lai của mình. Giây phút hắn khóc
bên mộ mẹ là quãng thời gian đau đớn nhất của một người lương thiện khi biết
rằng từ ngày mai mình đã biến thành một người khác, một kẻ ăn cắp. Hắn khóc
vì thương cho các em, thương cho chính mình và cảm thấy có lỗi với người mẹ
hiền lành. Đến đây thực sự Lê Lựu đã chạm đến tận cùng nỗi đau của một con
người lương thiện biết mình sai nhưng vẫn mặc cho dòng đời cuốn trôi vào vòng
tội lỗi. Nhiều lúc trước lời khuyên của các em, hắn cũng ý thức được rằng “đây
là cơ hội duy nhất hắn có thể trở thành người lương thiện nếu như hắn nghe em
gái, nếu như hắn có đủ nghị lực vượt lên khỏi nỗi chán ngán, nếu như hắn vứt bỏ
sự thèm thuồng tội lỗi đã ngấm ngầm trở thành thói quen, để biến hắn thành kẻ
nghiện ngập bụi bậm, háo hức đầy hứng thú” [27, tr.128]. Qua những trang miêu
tả nội tâm, Lê Lựu đã cho nhân vật tự nói về con đường tội lỗi của chính mình.
Núi lầm đường lạc lối một phần do hoàn cảnh, phần khác do bản thân Núi không
vượt lên được chính mình. Thói “ngựa quen đường cũ” như một chân lý, được
tác giả sử dụng phù hợp trong trường hợp của Núi, bởi tất cả đã trở thành thói
quen, dường như đã ngấm vào máu nên nếu không đủ bản lĩnh và nghị lực thì sẽ
không bước chân ra khỏi vũng bùn đen tối ấy được. Nhưng dù có lên án, chê
92
trách tội lỗi của nhân vật thế nào thì Lê Lựu vẫn không mất lòng tin vào bản tính
con người. Sự lương thiện vẫn tồn tại trong tên ăn cắp ấy khi hắn nghĩ về gia
đình, nghĩ về đứa con. Những năm tháng tù đày, hắn luôn nghĩ về con, lo lắng
cho con “buổi sáng có ai đỡ con dậy hay lại lăn xuống đất? Buổi trưa, buổi tối
con có ăn được không? Đến đêm ai buông màn, bắt muỗi cho con? Ai dỗ dành
con mỗi khi khóc gào lên nhớ bố” [27, tr.246]. Ra ngoài xã hội hắn là thành phần
xấu xa nhưng khi về với con hắn lại là một người bố tốt, chăm lo cho con từng li
từng tí. Rõ ràng trong sâu thẳm tâm hồn tên tội đồ ấy vẫn luôn le lói những tia
sáng của tình yêu thương, của bản tính lương thiện. Điều sâu sắc của Lê Lựu
chính là chỗ đó, ngòi bút của ông cứ nhẹ nhàng len lỏi vào tâm hồn nhân vật để
nói lên nỗi niềm, tình cảm của nhân vật. Chính trái tim vẫn biết yêu thương ấy đã
soi sáng, mở đường cho Núi quay trở về con đường lương thiện. Và lúc này hắn
cảm thấy rằng, quanh hắn vẫn còn nhiều người tốt, nhiều sự cảm thông và yêu
thương, hắn là “ứa nước mắt, muốn kêu lên: “Các ông cán bộ ơi, con vô cùng
biết ơn các ông. Xin các ông cứ tin ở con, không bao giờ con trở lại kẻ ăn cắp
gây tội lỗi, gây ra nỗi khốn khổ cho mọi người” [27, tr.286]. Giờ đây, hắn đã
thực sự thức tỉnh, mặc dù hắn đã phải đánh đổi cả cuộc đời để trả giá cho những
lỗi lầm của mình trong tù ngục nhưng điều đó chưa bao giờ là muộn. Vì giờ đây
khi đã chạm đến ngưỡng cửa lương thiện một lần nữa, hắn mới nhận ra giá trị
đích thực của cuộc sống. Trải qua những chặng đường, từ một người lương thiện
trở thành tên ăn cắp chuyên nghiệp và từ một tên ăn cắp trở về làm người lương
thiện của Núi đã được Lê Lựu tái hiện một cách chân thực và hợp lôgic. Ngòi
bút miêu tả nhân vật được thể hiện sâu sắc nên nhân vật hiện lên rất chân thực.
Đến Hai nhà, thế giới nội tâm nhân vật tri thức trong mối quan hệ gia đình
được khai thác triệt để ở trạng thái bi kịch hôn nhân. Trong cuộc sống vợ chồng,
Tâm là người thất bại, anh luôn sống với sự nhẫn nại, chịu đựng, anh ý thức
được sự hèn hạ của mình “chỉ một mình phải sợ, chính là kẻ yếu thế để cô ấy lấn
93
tới hành hạ mình không bao giờ biết cái chỗ để dừng lại” [25, tr.30]. Anh chưa
một lần cảm thấy hạnh phúc được trọn vẹn và chắc chắn bởi trong “những khi
anh được ngây ngất trong sự vỗ về của người vợ” thì cái dự cảm về sự đỗ vỡ vẫn
cứ chập chờn trong anh “những giây phút như thế này sẽ được bao lâu? Sẽ có
bao giờ lặp lại” [25, tr.69]. Trước người vợ anh luôn ý thức mình là người yếu
thế vì “cô ta quá đẹp, anh muốn chiếm đoạt, như là vật sở hữu riêng của mình,
nhưng có rất nhiều nguy cơ tuột khỏi tay mình, nên cứ phải cố, phải nén chịu,
lầm lũi cầu nguyện, cả đời phấp phỏng chờ đợi sự may rủi” [25, tr.71]. Như vậy,
ngay chính trong cuộc sống hàng ngày Tâm luôn cảm thấy có một sự bấp bênh,
anh không làm chủ được, không nắm giữ được nó. Ngay cả khi phát hiện sự thật
về những đứa con, dù đau khổ, tuyệt vọng nhưng anh vẫn tìm cách bao biện “đã
là bố con với nhau thì cần gì nó cứ phải như cái mặt của mình, đem đi phô tô
mới là con mình”, không chấp nhận được sự thật phũ phàng về người vợ lăng
loàn, anh ra đi nhưng lòng thì vẫn chưa dứt được. Tâm không thể chấp nhận
được thực tế xấu xa của vợ nhưng anh lại không đủ nghị lực để vứt bỏ nó. Sự
thiếu nhất quán giữa suy nghĩ và hành động ở Tâm đã một lần đẩy Tâm rơi vào
bi kịch tiếp theo trong đời sống hôn nhân. Ngòi bút Lê Lựu đã hết sức sâu sắc
khi miêu tả trạng thái đẫy mâu thuẫn trong tâm hồn nhân vật này. Có thể nói bản
tính vị tha ở anh là đáng quý nhưng nó như con dao hai lưỡi, một lần nữa nó đã
cứa vào tim anh một nỗi đau chí mạng. Tha thứ cho vợ, trở về với các con, anh
mong ước và hy vọng ở tương lai đầm ấm nhưng vợ anh lại nhẫn tâm chà đạp
cái hy vọng mong manh ấy bằng cuộc tình vụng trộm với người bạn thân thiết
như máu mủ của anh. Quay lại với cuộc sống gia đình mà anh biết là mình phải
“chịu đựng những chuỗi ngày nặng nề căng thẳng” để rồi cuối cùng anh mất tất
cả.
Khi miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật hầu như Lê Lựu để cho nhân
vật tự suy nghĩ, nhìn nhận và tự ý thức về chính mình, điều đó làm cho nhân vật
94
hiện lên chân thực và sâu sắc hơn. Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, nhà
văn đã chạm đến tận sâu thẳm trái tim con người, phát hiện ra những thanh âm
đa dạng của cảm xúc nhân vật. Vì thế chân dung nhân vật trong những sáng tác
của ông hiện lân đầy đặn và sắc nét.
3.3. Xây dựng nhân vật trong mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách
nhân vật
Khi xây dựng nhân vật trong các tác phẩm của mình, Lê Lựu đặc biệt chú
ý đến việc cắt nghĩa vai trò của hoàn cảnh sống trong sự tác động đến tính cách
con người. Thế giới nhân vật của ông hầu hết đều là nạn nhân của một hoàn cảnh
sống đáng buồn với đầy rẫy những điều phi lý, những hủ tục, những quan niệm
sai lệch, lỗi thời. Ở xã hội đó, cái đẹp, cái lương thiện bị cái xấu, cái ác lấn át,
chà đạp. Con người bị biến thành nô lệ của những định kiến hẹp hòi, của những
nguyên tắc chủ quan, giáo điều. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội dồn đẩy
con người đến bước đường tha hóa, biến con người trở thành nô lệ của danh
vọng, vật chất. Nhân cách con người dần bị bóp méo, suy nghĩ nhận thức cũng
sai lệch và hoàn cảnh đó đẩy con người rơi vào những bi kịch, những mất mát
đau đớn thậm chí đánh mất chính mình.
Bản tính yếu ớt, nhu nhược, thiếu bản lĩnh của Sài một phần được nhào
nặn từ thói quen lâu đời của người dân làng Hạ Vị “sẵn cơm thì ăn sẵn việc thì
làm, chỉ hong hóng chờ chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán, định đoạt một
việc gì” [26, tr.182]. Đó là thói quen của những con người “thích được người
khác mắng mỏ”, “chỉ im thin thít mà ước (…), chỉ dám ủng hộ thôi (…) không
nói ra được” [26, tr.31]. Nửa đầu cuộc đời của mình Sài đã sống và làm theo
những điều người khác muốn, anh không dám nói ra nỗi đau và sự chịu đựng
của mình. Những mơ ước anh chỉ dám dãi bày trong nhật ký. Nhưng khi chính
mình được lựa chọn cuộc đời, Sài lại không tự giải thoát ra khỏi cuộc hôn nhân
không tình yêu với Tuyết mà phải nhờ sự can thiệp của chính ủy Đỗ Mạnh và
95
chú Hà. Bước vào cuộc hôn nhân thứ hai do chính anh lựa chọn, một lần nữa bản
tính nhu nhược, thụ động lại bám riết lấy anh. Anh làm việc gì cũng phải theo ý
vợ, nhìn biểu hiện của vợ, anh cảm thấy không còn là chính mình, để rồi cuối
cùng bị vợ phản bội, cắm sừng mà không hay. Bản tính của anh có căn nguyên,
nguồn gốc từ tâm lí ỉ lại, thụ động của người dân Hạ Vị. Dù anh được học hành,
thông minh, hiểu biết nhưng chính anh lại bị hạ gục bởi sự yếu đuối, nhu nhược,
thụ động của chính mình. Điều đó có nghĩa bản tính của Sài bị chi phối bởi hoàn
cảnh, bởi tâm lý, lối suy nghĩ định kiến của làng xã, của xã hội. Những quan
niệm duy ý chí, những lề thói gia phong cổ hủ cứng nhắc, những tàn dư của tư
tưởng hủ lậu phong kiến cộng với chủ nghĩa ích kỉ thiển cẩn của một thời đã
buộc con người luôn trong tình trạng sống theo, sống hộ người khác, sống vì dư
luận, chiều lòng dư luận. Ở đây, Sài hoàn toàn hành động theo dư luận, cốt đẹp
mặt mọi người nên anh “chẳng khác gì một nhánh khô trông trong khung dàn,
sống theo khung dàn” [23, tr.595]. Chính hoàn cảnh đó đã bào mòn tâm hồn và
tính cách con người theo chiều hướng xấu đi. Trong hoàn cảnh đó, nếu con
người thiếu bản lĩnh thì sẽ bị hoàn cảnh cuốn trôi, đưa đẩy. Hình tượng nhân vật
Sài không chỉ là một cá nhân nằm ngoài vòng xoáy của thời đại mà qua đó tác
giả đã gửi gắm cả một nỗi niềm day dứt về một sự đổi thay tận gốc rễ cái tư
tưởng nô lệ, quen sống theo ý người khác và cuối cùng đánh mất chính mình.
Nếu như Sài luôn phải gánh chịu những thất bại bởi tính cách nhu nhược,
thụ động của mình và một phần do bản tính có căn nguyên sâu xa từ xã hội với
những suy nghĩ lạc hậu, những lề thói cứng nhắc thì với Núi (Sóng ở đáy sông)
lại rơi vào bi kịch cũng bởi thiếu bản lĩnh nhưng lại bị chi phối nhiều bởi hoàn
cảnh gia đình và môi trường giáo dục. Vốn là một cậu bé thông minh, học giỏi,
bản tính lương thiện, thật thà. Dù phải sống xa gia đình từ nhỏ nhưng Núi luôn tỏ
ra là người anh gương mẫu, hết lòng chăm lo cho các em. Đến khi mẹ mất,
không còn điều kiện để tiếp tục đi học, Núi đã cố kiếm một việc làm lương thiện
96
để nuôi các em, hắn sẵn sàng từ bỏ tương lai của mình với ý nghĩ “cốt làm thế
nào để kiếm được miếng ăn cho các em tiếp tục đi học”. Một con người với
những tính cách đáng quý như vậy tại sao lại sa chân vào con đường tội lỗi.
Trước nhất nếu nói nguyên do thì do chính bản tính yếu đuối, không chiến thắng
được sự hèn nhát của chính mình nên hắn bán linh hồn cho tội lỗi. Tuy nhiên căn
nguyên sâu xa đẩy hắn vào con đường ấy chính là môi trường gia đình với một
người cha thô bạo và quá “sòng phẳng” trong tình cảm, với phương pháp dạy
con hết sức sai lầm. Khi đứa con mình phạm lỗi, ông ta không cần tìm hiểu
nguyên nhân mà cho rằng một đứa trẻ đã nhúng tay vào ăn cắp thì đứa trẻ đó
hoàn toàn bỏ đi. Sự cạn tình, cạn nghĩa của người cha đã đẩy hắn lâm vào cảnh
khốn cùng và sa vào con đường tội lỗi. Đã nhiều lần hắn tìm đến người cha như
một sự cứu sinh, nhưng đáp lại chỉ là sự lạnh nhạt, hắt hủi và sự đối xử tệ bạc,
cạn tình ráo máng. Hắn mất niềm tin vào chính người cha ruột của mình nên
đánh mất luôn niềm tin vào cuộc đời. Từ đó hắn trở thành một con người khác,
tính cách nhu nhược, thụ động, lối sống ăn sẵn, bất cần đời được sinh ra từ đó.
Với Chuyện làng Cuội, Lê Lựu lại để nhân vật bộc lộ bản chất do ảnh
hưởng của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân tạo nên. Bản chất giả dối, nhẫn
tâm, độc ác của Lưu Minh Hiếu có căn nguyên sâu xa từ quá khứ không mấy tốt
đẹp. Từ nhỏ đã phải sống trong nỗi ám ảnh về người cha độc ác, không chính
thống và suốt ngày lo sự thật ấy bị bại lộ nên dần biến một cậu bé thông minh,
hiếu thảo dần trở thành một kẻ tán tận lương tâm, cơ hội, dối trá. Vì danh vọng,
địa vị và quyền lực hắn sẵn sàng làm tất cả, kể cả những việc bỉ ổi nhất, thậm chí
hắn có cạn tình, phản bội chính người mẹ đẻ rất mực thương yêu mình.
Với Hai nhà, Lê Lựu lại tập trung tái hiện cuộc sống con người dưới sự
chi phối của hoàn cảnh đời thường với đủ bộn bề, phức tạp. Các nhân vật được
đặt trong môi trường sống thời bao cấp, cái thời mà con người sống thụ động,
hong hóng trông chờ vào chế độ tem phiếu của nhà nước. Người làm công ăn
97
lương mà không sống nổi bằng tiền lương. Những người sống chân chính bị rơi
vào cuộc sống khó khăn, túng quẫn. Tâm luôn bị đè nặng bởi sự nghèo túng và
bất tài vì không lo được cuộc sống tươm tất, no đủ cho vợ con. Sự tự ti ấy dần
hình thành ở anh bản tính nhu nhược, cam chịu, luôn cảm thấy thua kém so với
vợ. Còn Linh Anh vốn được trời sinh cho nhan sắc hơn người, lại luôn cảm thấy
không can tâm vì phải sống với một người chồng bình thường, thiếu thốn. Hoàn
cảnh sống nghèo túng cộng với bản tính vốn lăng loàn nên cô ta trở thành một
con người chua ngoa, cay nghiệt và bị cám dỗ bởi những hư danh vật chất bên
ngoài, với những thói hư tật xấu ngoài xã hội. Càng ngày cô càng trở nên bất
cần, buông thả trong dục vọng thấp hèn. Ở đây Lê Lựu đã cho ta thấy được sự
ảnh hưởng nặng nề của hoàn cảnh xã hội đến cuộc sống và tính cách con người.
Hoàn cảnh khắc nghiệt đã khiến con người trở nên khô cằn, lạnh lùng và vô cảm.
Nhưng với Lê Lựu dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, con người có bị
cuốn theo dòng đời nghiệt ngã ấy, thì ông vẫn có một niềm tin và sự hy vọng vào
bản chất con người. Thoát khỏi cái nhìn truyền thống, ông đã ít nhiều chỉ ra lối
đi cho nhân vật của mình. Nếu trước đây Lão Hạc (Lão Hạc) phải chết trong đau
đớn để bảo tồn tính cách, Chị Dậu (Tắt đèn) chỉ nhìn thấy con đường tối mịt mù
phía trước thì Sài (Thời xa vắng), Núi (Sóng ở đáy sông) đã tìm thấy con đường
trong một tương lai tốt đẹp hơn. Điều đó có nghĩa Lê Lựu luôn mang trong mình
một niềm tin mãnh liệt vào con người, vào cuộc sống. Chỉ ra sự chi phối của
hoàn cảnh sống trong quá trình hình thành nhân cách con người, nhà văn đã đặt
ra vấn đề nhận thức lại hiện thực, tìm căn nguyên sâu xa của những sai lầm, ấu
trĩ của cả một thời đại, từ đó đánh thức khát vọng và bản lĩnh của con người
trước cách sống và cách nhìn nhận của mình đối với cuộc sống của chính mình
và của xã hội.
3.4. Yếu tố tự truyện
Nhà văn Mỹ Thomas Wolf cho rằng: “Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến
98
cùng đều là có tính chất tự truyện, một người nếu muốn sáng tạo một cái gì chân
thực và có giá trị thì phải sử dụng kinh nghiệm và tài liệu trong cuộc sống của
mình” [29]. Văn học Việt Nam sau đổi mới đã có những thay đổi đáng kể trong
quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ
với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Yếu tố tự truyện thể hiện ở chỗ
lấy chất liệu từ bản thân cuộc đời riêng tư của tác giả, những chi tiết mang tính
tiểu sử của chính nhà văn, bộc lộ cái tôi rõ nét. Qua yếu tố này giúp người đọc
không chỉ giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu
sử, cuộc đời thật mà qua những trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành.
Trong những sáng tác của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, Thời xa vắng là một
tác phẩm mang yếu tố tự truyện đặc sắc. Với tác phẩm này, không phải ngay từ
khi ra đời, tác phẩm đã được nhà văn dùng chất liệu đời tư và những trải nghiệm
cuộc đời thực của mình để sáng tác mà tự truyện ở đây như là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên nhưng lại trùng khít đến bất ngờ giữa cuộc đời nhân vật Sài và cuộc
đời nhà văn sau này. Quả thực văn chương đã vận vào người tác giả như một
định mệnh. Qua hình tượng nhân vật Sài ta thấy rõ bóng dáng của chính Lê Lựu
và những bi kịch của cuộc đời Sài lại chính là bi kịch của cuộc đời Lê Lựu sau
này, đến nỗi người ta nhầm ông với Sài, có người còn gọi Lê Lựu là anh cu Sài.
Đọc Thời xa vắng, người đọc ám ảnh về một anh Sài nửa đời yêu cái
người khác yêu, nửa đời còn lại đi yêu cái người khác không có. Nếu ai hiểu đời
tư của Lê Lựu sẽ có cảm giác Lê Lựu đã dùng ngay đời tư của mình làm chất
liệu để xây dựng nên nhân vật này. Lê Lựu cũng giống như Giang Minh Sài,
phải trải qua nhưng chuyện gia đình không mấy suôn sẻ, hạnh phúc mà đầy trắc
trở. Chính Lê Lựu đã từng nói, người vợ đầu mà ông đã ly dị hơn 50 năm trước
giống hệt với cô Tuyết không được chồng yêu trong truyện, còn cái anh chồng
Giang Minh Sài mắc bệnh “dửng dưng” với vợ ấy chính là lấy nguyên mẫu từ
chính mình: “Bà vợ đầu của tôi giống hệt nhân vật Tuyết. Cũng là nông dân
99
quê mùa 100%, cũng thô vụng. Ngày ấy tôi mười mấy tuổi đầu, gia đình ép lấy
vợ. Rồi chục năm sau, dư luận lại ép phải yêu vợ, không được ruồng rẫy vợ
mới là “cán bộ gương mẫu”…Thế là tôi phải về quê ngủ với vợ, có với bà ấy
một đứa con gái. Nhưng mà vẫn không yêu nhau. Không phải vì bà ấy là nông
dân mà tôi không yêu đâu, chỉ vì tình cảm là cái thứ không ép được” [35]. Sự
trải lòng của nhà văn như một lời tự thú chân thành. Nghe tác giả nói đến đâu,
người đọc càng cảm giác đó chính là cuộc đời của nhân vật Sài đến đó. Với
người vợ đầu tiên, cuối cùng cũng bước ra cuộc đời nhà văn giống như anh Sài
được li dị cô Tuyết trong Thời xa vắng.
Bi kịch của Sài chưa dừng lại ở đó. Nếu như thất bại đầu tiên của anh là
do anh luôn sống và yêu hộ người khác thì đến khi được sống là mình anh lại
ngơ ngác, vụng về và có phần nhu nhược khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai
với một cô gái thành thị xinh đẹp, sắc sảo. Kết thúc vẫn là bản án li dị, mỗi
người chọn một hướng đi. Cả hai đứa con mà anh hết mực yêu thương anh
cũng không có quyền được nuôi. Đứa con đầu thì người vợ lạnh lùng tuyên bố
không phải là con Sài, đứa con thứ hai thì còn quá nhỏ. Nếu như ở chặng
đường đầu của nhân vật Sài ta bắt gặp chính đời tư tác giả thì đến chặng đường
tiếp theo, như một dự cảm, sau hơn 20 năm Lê Lựu lại rơi vào hoàn cảnh giống
như vậy. Sau hơn 20 năm khi hiểu về cuộc đời của Lê Lựu thì việc nói Thời xa
vắng của ông là một tác phẩm tự truyện càng có căn cứ. Dường như chuyện
văn chương chữ nghĩa đã vận vào số phận, cuộc đời nhà văn. Đến đây, Thời xa
vắng thực sự như một lời tiên đoán về số phận của chính tác giả. Dường như Lê
Lựu đã viết về cuộc đời của chính mình trong tương lai. Sự trùng hợp này quả
thực rất hiếm gặp, yếu tố tự truyện của tác phẩm này vì thế cũng rất đặc biệt.
Thời xa vắng trở thành cuốn tiểu thuyết đầy ám ảnh và có thể nói nó là
một cuốn tự truyện chân thực nhất về cuộc đời nhà văn Lê Lựu. Chính ông đã
từng tâm sự: “Người ta viết thì bao giờ cũng viết những cái mình thuộc. Mà
100
không thuộc gì bằng thuộc mình. Thế nên khi với chuyện đời thực của mình nó
cứ chen vào. Rồi những chuyện sau là hệ quả của chuyện trước, chẳng thể nào
tránh được!” [35]. Đó chính là lý do Thời xa vắng có sức sống lâu bền đến vậy.
Hình ảnh một nhà văn chân chất, thật thà, quê mùa Lê Lựu sẽ chẳng bao giờ
phai nhạt trong lòng độc giả khi người ta vẫn chưa nguôi ám ảnh về anh nông
dân Giang Minh Sài thông minh, giỏi giang như lại bất hạnh trong cuộc sống
gia đình và ngược lại.
3.5. Giọng điệu trần thuật
Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới thực sự đã tạo được dấu ấn riêng ở
kỹ thuật xử lí giọng điệu trần thuật. Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường,
tư tưởng đạo đức của nhà văn thông qua lời văn nghệ thuật và thông qua chất
giọng phổ quát của mình. Lê Lựu đã thành công khi sử dụng những giọng điệu
đa thanh giàu cảm xúc khi xây dựng thế giới nhân vật trong các sáng tác của
mình. Đó có thể là giọng hài hước bông lơn, có khi lại xót xa, thương cảm, lúc
thì khắc khoải yêu thương, có khi lại chìm sâu trong suy ngẫm, triết lý.
Ở Thời xa vắng, giọng điệu xót xa, thương cảm dường như là chất giọng
chủ yếu khi tác giả miêu tả nhân vật. Nhà văn thường di chuyển, mở rộng điểm
nhìn để bày tỏ quan niệm, thái độ của mình. Qua đây tác giả thể hiện một nỗi
đau khôn nguôi trước nỗi bất hạnh với những bi kịch của Sài, niềm trăn trở về
một cô Tuyết cô đơn, khổ hạnh, về một cô Hương yêu hết mình nhưng thất bại.
Nhiều trang văn của Lê Lựu như hòa cùng nỗi suy tư của nhân vật: “ôi tình
yêu. Anh biết rằng anh có một nỗi khát khao đối với những người con gái như
tất cả bạn bè. Chỉ có khác, anh khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho
đúng anh không được phép có một tình yêu” [26, tr.98]. Có khi giọng điệu nhà
văn lại đầy da diết, khắc khoải. Khi viết về mối tình của Sài và Hương, tác giả
đã để nhân vật thể hiện được nỗi niềm của mình qua những dòng thư hay
những trang nhật ký. Đó là những háo hức, mong chờ của Hương “liệu ở nhà
101
anh đã biết tin này chưa!...Em chỉ cần có một mình anh yêu em, anh ở bên em”,
là những nỗi lo lắng, dằn vặt “anh thân yêu ơi! Những ngày vừa qua bố mẹ,
anh Tính và họ hàng làng xóm có đay nghiến sỉ vả anh nhiều không”… [26, tr.
65]. Những câu hỏi liên tiếp dồn dập của Hương chứng tỏ con sóng tình yêu
mãnh liệt trong cô. Từ đó cũng toát lên được vẻ đẹp trong tính cách của người
con gái xinh đẹp và mạnh mẽ ấy.
Giọng điệu này còn được thể hiện đậm nét khi nhà văn xây dựng nhân
vật bà Đất (Chuyện làng Cuội). Chứng kiến những chặng đường trong cuộc đời
tận cùng đau khổ của một người mẹ, Lê Lựu đã không cầm được lòng mình:
“Với bà, được run rẩy yêu thương hay bị cào xé hành hạ, được ngẩng mặt tươi
cười nhìn chúng bạn hay cứ mãi mãi cắn hai hàm răng lại nuốt nước mắt vào
trong, cho đến lúc này đều vô nghĩa. Khi bà cần sự cưu mang vớt vát thì chẳng
thấy ai, cứ lầm lũi một mình chịu đựng” [24, tr.30]. Trước sự ra đi đầy oan
khuất của người chồng, tiếng kêu của bà chẳng thấu được trời xanh, nhưng
dường như nó đã dày vò trái tim nhà văn: “Nhưng trời thì cao, mà đất thì dày.
Tiếng kêu của ba mẹ con mụ, dù có là thống thiết bi ai, có là xé ruột xé gan,
nát lòng nát dạ hàng trăm người đứng ở đầu nhà hướng về phía nhà mụ lặng lẽ
lau thầm nước mắt thì vẫn không thể thấu đến tận trời cao và đất dày” [24,
tr.263]. Giọng điệu đầy xót xa, thương cảm lại da diết, khắc khoải ấy đã giúp
nhà văn thâm nhập vào thế giới tình cảm sâu kín của nhân vật, khiến cho nhân
vật hiện lên chân thực hơn qua những tâm tư, cảm xúc sâu kín của chính mình.
Những sáng tác của Lê Lựu còn cuốn hút người đọc ở chất giọng hài
hước, châm biếm. Khi viết về một Lưu Minh Hiếu (Chuyện làng Cuội) luôn
ôm trong mình ước mơ trở thành một anh hùng thời đổi mới, ham muốn lập
thành tích cá nhân, tác giả đã sử dụng giọng điệu mỉa mai để làm bật lên cái
mộng tưởng hão huyền của kẻ bất tài ấy, nhà văn còn chỉ ra kết quả tất yếu của
căn bệnh thành tích bằng một giọng điệu giễu cợt đầy chua cay: “Có lẽ quán
102
triệt ý định của bí thư phải làm nổi bật lên viễn cảnh tương lai, hay thực chất
nó là thế, mà những con số so sánh về mọi mặt nó chỉ bằng hoặc kém hơn hồi
chết đói ăm 1945. Chẳng hạn một lao động chính làm quần quật hai sương một
nắng từ sáng sớm đến tối nhọ mặt người bình quân giá trị ngày công chỉ mua
được bốn phần mười que kem, nghĩa là đi cày bừa, cuốc đất ròng rã hai ngày
rưỡi trời mới được một que kem” [24, tr.391].
Đọc những trang văn của Lê Lựu người đọc còn nhận ra những trăn trở,
suy tư của ông từ những dòng triết lý xuất phát từ hiện thực cuộc sống, từ
những giai đoạn xã hội cụ thể. Đó có thể là những chiêm nghiệm mang tính
khái quát về một thói hư, tật xấu của những con người quen ỉ lại, tham lam và
lười nhác. Khi viết về bản tính và nguyên nhân ngày càng sa ngã của Núi với
thói “ngựa quen đường cũ” tác giả cho rằng “ngựa chỉ quen đường cũ khi
không có đường mới thôi” [27, tr.322]. Từ đó tác giả làm nổi bật lên bản tính
thiếu mạnh mẽ, quyết đoán của nhân vật. Khi xây dựng nhân vật người cha của
Núi, ngoài giọng điệu có lúc châm biếm, mỉa mai thì không ít lần Lê Lựu tỏ ra
trằn trọc, suy tư “Nhưng nghĩ đến con người đối với nhau sao mà tán tận lương
tâm đến thế. Đã không chết được thì phải sống. Đã sống dù ở đâu, làm gì cũng
phải xứng đáng với con người” [27, tr.291] và ông cho rằng “một người mà vô
giáo dục thì không giáo dục được ai đâu” [27, tr.280]. Từ những chất giọng đó
bản chất tán tận lương tâm, cạn tình ráo máng của ông Đại càng hiện lên rõ nét
và sinh động.
Giọng điệu mỉa mai, chua chát còn xuất hiện ở những trang văn tác giả
nói về những người phụ nữ lăng loàn, hư hỏng như Châu (Thời xa vắng) hay
Linh Anh (Hai nhà): Đàn bà vốn có cái tật là không bao giờ khen chồng trước
mặt người khác. Cũng như tất cả những người con gái quen thân chồng mình
bao giờ cũng là những con bé lăng nhăng, đĩ thõa” [26, tr.258] hay “đàn bà chỉ
103
quyết đập phá tan tành gia đình này khi họ đã có chỗ bấu víu vào một gia đình
khác, quyết chí dứt bỏ thằng đàn ông này nghĩa là họ đã nắm chặt một thằng
đàn ông khác” [25, tr.225].
Đọc những sáng tác của Lê Lựu chúng ta không chỉ ấn tượng với ngòi
bút miêu tả nhân vật qua ngoại hình và nội tâm nhân vật, qua mối liên hệ giữa
hoàn cảnh và tính cách nhân vật mà còn yêu mến cái chất giọng đa thanh, giàu
màu sắc của tác giả. Chất giọng đó càng tô đậm hơn nữa tấm lòng trân trọng,
yêu thương, đồng cảm của ông đối với con người. Đó cũng là lý do vì sao
những trang văn của Lê Lựu lại có sức mê hoặc lòng người lâu như vậy.
Tiểu kết chương 3
Lê Lựu đã xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng, chân thực thông qua
những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm không chỉ
qua ngòi bút miêu tả ngoại hình với những nét đặc tả mà tác giả còn đi sâu khai
thác, lột tả chiều sâu tâm lý, thế giới bên trong tâm hồn họ. Có những tác phẩm
lại có sức sống bền lâu bởi khuynh hướng tự truyện, với sự trùng hợp đến bất
ngờ giữa chính cuộc đời nhà văn và cuộc đời của nhân vật. Sự thành công trong
tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ này không thể không nhắc đến vai trò của giọng
điệu trần thuật đa thanh giàu cảm xúc, lúc thì hài hước, buông lơn, lúc lại thâm
trầm, xót xa, có lúc lại chiêm nghiệm triết lý lúc lại suồng sã, thân mật…Tất cả
những thủ pháp nghệ thuật được tác giả kết hợp một cách tài tình, tạo nên một
104
thế giới nghệ thuật phong phú.
KẾT LUẬN
1. Lê Lựu là một nhà văn có tài. Ông không chỉ là một cây truyện ngắn
đặc sắc mà còn là một nhà tiểu thuyết xuất sắc thời kỳ đương đại. Lê Lựu
không “hấp dẫn độc giả bằng những trang trữ tình, mềm mại, uyển chuyển
như Đỗ Chu, chưa có cái sắc sảo có tính chất phát hiện như Nguyễn Khải,
chưa thể hiện được cái cân bằng mực thước như Nguyễn Minh Châu, cũng
không nghiêng hẳn về cái xô bồ, gân guốc như Triệu Bôn. Ông lôi cuốn người
đọc bằng chính sự chân thành, mộc mạc, dí dỏm và có tình” [23, 118]. Những
trang văn của Lê Lựu vì thế cứ đi vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng,
càng ngẫm nghĩ càng sâu sắc, càng tìm hiểu càng thu hút. Đó là những trang
đậm màu sắc hiện thực, vừa giàu tình đời lại vừa thấm đẫm tình người. Với
khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng với sự trở lại của cảm hứng bi
kịch, những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, cùng với
những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật, Lê Lựu đã có những đóng góp không
nhỏ trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2. Sự cách tân, sáng tạo trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới thể
hiện sâu sắc nhất qua sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, về cách
xây dựng hình tượng nhân vật. Đi sâu vào thế giới nhân vật trong sáng tác của
Lê Lựu là đi sâu khám phá về con người muôn màu, đa diện, với những số
phận, những mảnh đời đáng thương, nó bí ẩn và mang chiều sâu tâm lý, nó
phức tạp nhưng lại chân thực vô cùng…Đọc tiểu thuyết Lê Lựu chúng ta
không tìm thấy trong đó hình tượng con người mang tầm vóc lớn lao, mang
vẻ đẹp hoàn thiện và lý tưởng…Ta bắt gặp trong tác phẩm của ông những con
người với hai mặt tốt - xấu, thiện - ác… những con người bản thân là người
tốt nhưng lại bị xã hội giật dây và lôi kéo nên không tránh khỏi sự trượt dốc
105
của tha hóa, là những con người khờ dại, thiếu bản lĩnh, nửa đời “yêu cái
người khác yêu”, nửa đời còn lại “yêu cái mình không có”, đó là những con
người mùa quáng, duy ý chí suy nghĩ sai lầm nên cả đời lầm lạc, đó còn là
những người phụ nữ lâm vào bi kịch vì không biết đấu tranh, chỉ biết cam
chịu, giàu tình thương những vẫn không tránh khỏi bất hạnh…Nhưng dù họ là
ai, dù tốt hay xấu thì Lê Lựu vẫn hướng về họ bằng tấm lòng chân thành, cảm
thông sâu sắc, có lúc ông đã lay động và thức tỉnh họ, tìm cho họ một lối đi
tốt đẹp hơn trong cuộc đời.
3. Nói đến thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu không thể không
nói đến những phương thức nghệ thuật độc đáo được thể hiện trong đó. Khi
xây dựng thế giới nhân vật, tác giả đi sâu khai thác, lột tả chiều sâu tâm lý,
những cảm xúc trong tâm hồn họ, cũng có lúc nhà văn làm nổi bật hình tượng
qua con mắt quan sát ngoại hình nhưng điểm đến cuối cùng vẫn là để thể hiện
thế giới nội tâm sâu thẳm, đầy bí ẩn. Yếu tố tự truyện pha với giọng điệu trần
thuật lúc hài hước, mỉa mai, khi lại ngầm ngụi, xót xa, lúc chiêm nghiệm triết
lý, khi lại thân mật, suồng sã,…đã làm cho thế giới nhân vật trong tác phẩm
hiện lên đa dạng hơn, chân thực và gần gũi hơn.
Lê Lựu với những tác phẩm của mình đã góp phần làm phong phú hơn
diện mạo văn học dân tộc thời kỳ đổi mới. Ông đã để lại trong lòng người đọc
những ấn tượng tốt đẹp về một nhà văn chân chính, luôn khát vọng cháy bỏng
cống hiến sức mình cho nghệ thuật, cho cuộc sống. Và đó cũng chính là khát
vọng được khẳng định tiếng nói riêng của mình trong dòng chảy của nền văn
106
học dân tộc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Nguyễn Minh Châu (1983), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết, Báo Văn nghệ,
số 39, tr.2.
4. Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Đặng Anh Đào (tái bản), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây
hiện đại, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
6. Đặng Anh Đào (2008), Việt Nam và phương Tây tiếp nhận và giao thoa
trong văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Phan Cự Đệ (chủ biên), (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục.
11. Hà Minh Đức (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (2002), Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Văn Giá, Nguyễn Đình Thi, Nghĩ về lao động viết văn, vietvan.vn,
http://vietvan.vn/vi/bvct/id400/Nguyen-Dinh-Thi-nghi-ve-lao-dong-viet-van,
107
31/3/2004.
14. Cao Xuân Hải (2010), Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu, Luận án Tiến
sĩ, Đại học Vinh.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2009),
Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - vấn
đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục.
17. Vũ Thị Hạnh (2001), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận, NXB
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái nguyên, tập 87, số 11.
18. Nguyễn Thị Hiền, Luận văn Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới,
tailieu.com,http://tai-lieu.com/tai-lieu/luan-van-tieu-thuyet-le-luu-thoi-
ky-doi-moi-10869, 8/6/2013.
19. Cao Thị Hồng (2011), Luận án Lý luận văn học Việt Nam từ 1986 đến
nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
20. Nguyễn Thị Kỳ (2009), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn
Khải, NXB Văn hóa Sài Gòn.
21. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2009), Văn học Việt
Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục.
22. Lê Lựu (1989), Đại tá không biết đùa, NXB Thanh niên, Hà Nội.
23. Lê Lựu (2002), Lê Lựu tạp văn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Lê Lựu (2006), Chuyện làng Cuội, NXB Văn học.
25. Lê Lựu (2010), Hai nhà, NXB Thời đại.
26. Lê Lựu (2012), Thời xa vắng, NXB Thời đại, Hà Nội.
27. Lê Lựu (2011), Sóng ở đáy sông, NXB Văn hóa thông tin.
28. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
108
nhà văn, NXB giáo dục.
29. Đỗ Hải Ninh, Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đươngđại, tapchisonghuong.com.vn, http://tapchisonghuong.com.vn/
tapchi/c196/n4496/Khuynh-huong-tu-truyen-trong-tieu-thuyet-Viet-
Nam-duong-dai.html, 31/12/2009.
30. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Văn học.
31. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
32. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, NXB Giáo dục.
33. Nhiều tác giả (2004), Thời xa vắng tiểu thuyết và phim, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Mai Hải Oanh (2010), Những cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại giai đoạn 1986 - 2006, NXB Hội nhà văn.
35. Bảo Phương, Nguyễn Phượng, Nhà văn Lê Lựu: oan nghiệt ở cuối con
đường, tuanvietnam.net, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-06-05-
nha-van-le-luu-oan-nghiet-o-cuoi-con-duong, 03/07/2012.
36. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận giáo trình thi pháp học, NXB Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Luận án “Con người trong tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sĩ, Đại học khoa học xã hội và
nhân văn Hà Nội.
38. Ngô Thảo (2001), Văn học về người lính, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
39. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
40. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Lý Hoài Thu, Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học thời kỳ
đổimới, tapchisonghuong.com.vn, http://tapchisonghuong.com.vn/
tapchi/c175/n3401/Su-van-dong-cua-cac-the-van-xuoi-trong-van-hoc-
109
thoi-ky-doi-moi.html, 07/09/2009.