ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ HÀ
THẾ GIỚI QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI QUA
TÁC PHẨM “ QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”
VÀ “ QUỐC ÂM THI TẬP”
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
6 quyển – X
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ HÀ
THẾ GIỚI QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI QUA
TÁC PHẨM “ QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP”
VÀ “ QUỐC ÂM THI TẬP”
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
6 quyển – XB 16
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hạnh
HÀ NỘI – 2014
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Hạnh.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với
các đề tài khác.
Hà nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
0
Phạm Thị Hà
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Triết học là một khoa học ra đời sớm dựa trên sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của sự phân hóa xã hội. Vấn đề lớn nhất mà mọi triết học
quan tâm là vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vì lẽ đó, nghiên cứu thế giới quan
và phương pháp luận triết học mang lại ý nghĩa quan trọng trong việc định
hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người, từ đó con người xác lập lý
tưởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống của mình. Đây cũng là một trong những
tiêu chuẩn cơ bản đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của
mỗi cộng đồng xã hội.
Thế giới quan có thể hiểu đơn giản là cái nhìn về các mặt của thế giới,
là bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ của con người và tự nhiên, của con
người và con người. Thế giới quan bao gồm những nguyên tắc, quan điểm,
niềm tin, khái niệm, biểu tượng về toàn bộ thế giới, sự vật, hiện tượng, những
quy luật chung, là sự chỉ dẫn phương hướng hoạt động của con người.
Trong triết học phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, vấn đề
vũ trụ quan, nhân sinh quan có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng nặng về
vấn đề nhân sinh quan, xã hội quan hơn là các vấn đề về tự nhiên và các hình
thức của tư duy. Mục đích của thế giới quan triết học phương Đông nói chung
và triết học Việt Nam nói riêng là xây dựng lý lẽ cho chính trị - xã hội và luân
lý nhằm giáo dục đạo đức cho con người.
Ở Việt Nam, tư tưởng về thế giới quan được hình thành rất sớm tuy
chưa mang tính hệ thống song các nhà tư tưởng đã đưa ra những quan niệm sơ
khai về thế giới quan như quan niệm của Lý Thường Kiệt, Lý Công Uẩn…
Và đến Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tư tưởng về thế giới quan đã được hình
thành một cách rõ nét, và hệ thống. Bởi thông qua thế giới quan của mình,
1
Nguyễn Trãi đã phản ánh được tương đối hoàn chỉnh hiện trạng xã hội Đại
Việt cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Ngoài ra, thế giới quan của Nguyễn
Trãi còn mang lại những bài học giá trị về: cách xử thế của con người với tự
nhiên, về đạo thông qua mối quan hệ giữa con người với con người. Tuy
nhiên, tính đến thời điểm hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về thế
giới quan của Nguyễn Trãi, do đó chúng tôi quyết định chọn hai tác phẩm
“Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập” trong di sản của Nguyễn Trãi
làm đề tài nghiên cứu, bởi trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy ẩn
đằng sau những tư tưởng thiên mệnh, con người, đạo đức …đó chính là lòng
yêu nước, thương dân, là nỗi niềm đau đáu được ra giúp dân, giúp đời của
Nguyễn Trãi từ lúc ông còn trẻ đến lúc tuổi già. Đó là nhân cách cao quý của
một con người vĩ đại.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Thế giới quan của Nguyễn
Trãi qua tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập” làm đề
tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Nguyễn Trãi là một đề tài lớn
đối với các nhà nghiên cứu, việc nghiên cứu này chính thức được bắt đầu từ
năm 1464, khi Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, được chia thành
các loại công trình nghiên cứu sau:
- Loại công trình nghiên cứu thứ nhất: nghiên cứu triết học phương
Đông thì khá nhiều, song chưa có công trình nào cụ thể tìm hiểu về thế giới
quan triết học của phương Đông nói chung, ngoài công trình Luận án tiến sĩ
“Thế giới quan trong triết học Trung Quốc cổ đại”(2002) của Nguyễn Văn
Vịnh, nội dung chủ yếu là nghiên cứu thế giới quan của triết học Trung Quốc
bao gồm vũ trụ quan, xã hội quan và nhân sinh quan thông qua xem xét một
số học thuyết tiêu biểu làm nên đặc trưng của thế giới quan triết học Trung
2
Quốc. Trên cơ sở đó đưa ra sự so sánh và nêu rõ sự khác nhau về đặc trưng
của thế giới quan triết học Trung Quốc cổ đại với thế giới quan của các nền
triết học cổ đại khác. Công trình đã có vai trò khái quát chung nhất về về thế
giới quan triết học Trung Quốc.
- Loại công trình thứ hai nghiên cứu về một số luận điểm có tính chất
làm cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành: Lịch sử tư
tưởng Việt Nam; tập 1 (Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993), trong cuốn sách có phần trình bày, phân tích khái quát thân thế,
sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đồng thời đi nghiên cứu một số tư tưởng triết học
được thể hiện qua thơ văn của Nguyễn Trãi. Cuốn Đại cương triết học Việt
Nam (Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Chính trị quốc gia, 2010) nghiên cứu về tư
tưởng của các nhà triết học Việt Nam, trong đó có Nguyễn Trãi, nhằm góp
phần tìm về cội nguồn của dân tộc, tìm ra cái logich ngầm trong sự phát triển
của dân tộc.
- Loại công trình thứ ba là những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp
của Nguyễn Trãi.
+ Nhóm thứ nhất là tổng tập, tuyển tập thơ văn của Nguyễn Trãi được
sưu tầm, phiên âm và chú giải: Quốc âm thi tập (Trần Văn Giáp và Phạm
Trọng Điền phiên âm và chú giải, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956); Nguyễn
Trãi toàn tập (Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1976) ; Nguyễn Trãi toàn tập,
Tân biên tập1; 2, (Nxb Văn hóa, 2000). Trong luận văn của mình, chúng tôi
sử dụng bản Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1976) để
nghiên cứu thế giới quan của Nguyễn Trãi.
+ Nhóm thứ hai là các công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp
của Nguyễn Trãi: Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi: nhân kỉ
niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất (của nhiều nhà nghiên cứu, Nxb Khoa
học, Hà Nội, 1963). Đây là những bài viết, những nhận định sâu sắc về
3
Nguyễn Trãi nhân kỷ niệm 520 năm ngày mất của ông – người anh hùng dân
tộc, nhà quân sự lỗi lạc thông qua thơ văn của ông; Văn chương Nguyễn Trãi
(Bùi Văn Nguyên, Nxb Đại học và trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội, 1984);
Kỉ niệm sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (của Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp..., Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982). Đây là tập kỷ yếu của hội thảo
khoa học nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, gồm các bài
viết, tham luận của các giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học... đọc tại hội thảo, trong
đó có rất nhiều đánh giá xác đáng về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của
Nguyễn Trãi; Sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (của nhiều tác giả, Nxb thành
phố mới hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 1980); Tư tưởng Nguyễn Trãi trong
tiến trình lịch sử Việt Nam (Võ Xuân Đàn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
1996). Công trình này đưa đến một cái nhìn khái quát về tiến trình lịch sử
Việt Nam và vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi; Nguyễn Trãi cuộc đời và sự
nghiệp (Trần Huy Liệu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000). Cuốn sách tái
hiện lại bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, gia đình,
thân thế, sự nghiệp và các hoạt động của Nguyễn Trãi; nguồn gốc và nội dung
tư tưởng của Nguyễn Trãi, sự chỉ đạo chiến thuật trong thời kỳ kháng chiến
chống quân Minh và ý tưởng xây dựng đất nước của ông; Nguyễn Trãi và Nho
giáo, Nguyễn Trãi và văn hóa Việt Nam trung cận đại (Trần Đình Hượu, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000). Các công trình nghiên cứu này chủ yếu tìm
hiểu về cuộc đời, sự nghiệp về thế giới quan của Nguyễn Trãi, chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần dân tộc, đạo đức trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Cuốn
“Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước” (Nguyễn Lương Bích, NXB Quân đội
nhân dân, 1973). Tác phẩm trình bày toàn bộ sự nghiệp đánh giặc, cứu nước
và những hoạt động của Nguyễn Trãi trong suốt 15 năm từ khi chiến thắng
giặc Minh đến lúc ông mất. Nội dung trong tác phẩm thể hiện ở những điểm
sau. Thứ nhất, Nguyễn Trãi là một người yêu nước, thương dân. Ông tận
trung với nước, tận hiếu với dân. Đây là tư tưởng về đạo làm người lớn, hiếm
4
thấy trong thời đại trước. Thứ hai, Nguyễn Trãi không chỉ là nhà tư tưởng
quân sự mà ông còn là một nhà chính trị lỗi lạc.Tư tưởng chính trị của ông
ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng chính trị thời kỳ ông sống và cho đến tận
ngày nay. Thứ ba là, Nguyễn Trãi là một nhà yêu nước tha thiết, đồng thời là
một nhà dân chủ chính trị kiên cường. Ở ông, tư tưởng đi kèm với hành động.
- Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí: Nhân cách nhà Nho
trong con người Nguyễn Trãi, của Nguyễn Văn Bình, Tạp chí Triết học số 4
(104), T8 – 1998; Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, của Doãn Chính,
Tạp chí Triết học số 9 (220), 2009, Nguyễn Bá Cường (2013), Con người
trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Tạp chí Triết học, số 7 (266), tr. 61 – 67, Nguyễn
Bá Cường (2013), Quan niệm về tự nhiên trong tư tưởng của Nguyễn Trãi,
Tạp chí Khoa học xã hội tp Hồ Chí Minh, số 9 (181), tr. 6-12...
Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp
văn thơ và tư tưởng của Nguyễn Trãi, rất ít công trình nghiên cứu chuyên về
tư tưởng thế giới quan của Nguyễn Trãi. Vì vậy, trên cơ sơ kế thừa và phát
triển những thành quả của các nhà nghiên cứu trước đó, nhưng do điều kiện
hạn chế, nên chúng tôi chỉ nghiên cứu thế giới quan của Nguyễn Trãi qua tác
phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập”.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Phân tích, làm rõ nội dung thế giới quan trong tư tưởng
Nguyễn Trãi thông qua hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm
thi tập”, từ đó đưa ra đánh giá về thế giới quan của Nguyễn Trãi.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu điều kiện, tiền đề hình thành thế giới quan của Nguyễn
Trãi.
- Phân tích nội dung các quan niệm trong thế giới quan của Nguyễn
5
Trãi.
- Đưa ra một số giá trị về thế giới quan của Nguyễn Trãi
4. Cơ sở lí luận và phạm vi nghiên cứu
* Cơ sở lí luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận Mácxít để nghiên
cứu những quan điểm, quan niệm trong thế giới quan của Nguyễn Trãi.
* Phạm vi nghiên cứu: trong luận văn của mình, chúng tôi nghiên cứu
thế giới quan của Nguyễn Trãi thông quan hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh
tập” và “Quốc âm thi tập”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu của khoa học xã
hội, phương pháp Logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp… để
hoàn thành nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
* Về mặt lí luận: Luận văn chỉ ra và phân tích nội dung các quan niệm
về thế giới quan của Nguyễn Trãi, góp phần nghiên cứu cơ bản lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV.
* Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tham khảo cho những nghiên
cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi nói riêng, và nghiên cứu về tư tưởng
triết học Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
6
gồm hai chương, sáu tiết.
NỘI DUNG
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CƠ BẢN HÌNH THÀNH THẾ GIỚI
QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1 Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội Đại Việt cuối
thế kỳ XIV đầu thế kỷ XV
Trải qua các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, triều đình phong kiến
tuy có lúc hưng lúc suy, song nhìn chung nó có những bước phát triển mạnh
mẽ, nhà nước phong kiến ngày càng được củng cố và trưởng thành về mọi
mặt, đặc biệt giai đoạn nhà Trần được đánh giá là một trong số thời kỳ hưng
thịnh của triều đại phong kiến.
Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIV, địa vị thống trị của nhà Trần có dấu
hiệu lung lay, xã hội bước vào giai đoạn khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực.
Về kinh tế, sau một thời gian phát triển, chế độ điền trang thái ấp và
chế độ nông nô, nô tỳ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Mặt khác, sự phát triển của địa chủ làm lung lay chế độ điền trang thái ấp.
Bên cạnh đó, từ giữa thế kỷ XIV, nước ta liên tiếp gặp thiên tai mất
mùa, nạn đói thường xuyên xảy ra, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ.
Theo tài liệu sử học ghi chép: nạn đói thường xuyên diễn ra, đặc biệt vào
những năm 1358; 1362; 1370; 1375, “chết đói nhiều nơi, triều đình phải kêu
gọi nhà giàu, các phủ nộp thóc để chuẩn cứu dân nghèo”. Ngô Thì Sĩ phải thốt
lên rằng “Mười năm năm đã sáu lần nhật thực, ba lần thủy tai, ba lần hạn hán,
một lần sâu cắn lúa, lại luôn năm mất mùa đói kém. Đến đây từ mùa xuân đến
mùa thu nào là núi lở, nào là động đất, không tháng nào không có tai biến”.
[15; 284].
Về chính trị - xã hội, tầng lớp quý tộc nhà Trần từ vua cho đến vương
hầu, quan lại sa vào ăn chơi sa đọa, chỉ lo bóc lột, vơ vét của nhân dân để
7
sống xa hoa, phóng túng. Trong khi đó, nông dân bị bóc lột tô thuế, lao dịch
nặng nề, ruộng đất bị địa chủ cướp. Điều này làm cho mâu thuẫn trong xã hội
trở nên gay gắt. Các cuộc khởi nghĩa xảy ra ở nhiều nơi, tuy thất bại, song đã
giáng những đòn đả kích quyết liệt vào nền thống trị của nhà Trần, vào chế độ
điền trang thái ấp và chế độ nông nô, nô tỳ.
Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng xuất hiện nhiều biến động. Phật giáo
sau một thời gian hưng thịnh đã bắt đầu suy thoái cùng với đó là sự ủng hộ
nhà chùa thái quá của triều đình. Những công thần như Trương Hán Siêu, Lê
Quát … bắt đầu công kích thế lực Phật giáo, tố cáo việc dựng chùa quá nhiều,
lãng phí nhân lực, vật lực, các ông muốn “dùng đạo Thánh để giáo hóa dân
chúng” nhưng không được Trần Minh Tông chấp thuận. Đến thời kỳ của Trần
Dụ Tông đã xây dựng xã hội theo mô hình của Nho giáo nhưng mang tính
chất kỳ thị, thay thế thái độ mềm dẻo bằng một thái độ cứng ngắc, thay thế
tinh thần khoan dung bằng một tinh thần nghiêm khắc, thay thế tinh thần hòa
đồng tự do bằng một tinh thần độc tôn.
Như vậy, tính đến cuối thế kỷ XIV, tình hình kinh tế - xã hội nhà Trần
đã khủng hoảng nay lại càng khủng hoảng hơn. Tình thế này đặt ra một yêu
cầu cấp thiết cần phải thủ tiêu chế độ điền trang thái ấp và quan hệ nông nô,
nô tỳ, thay đổi về đường lối trị nước để mở đường cho chế độ phong kiến tiến
lên một giai đoạn mới, cao hơn.
Trong hoàn cảnh đó, năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, dựng
triều Hồ, tiến hành cải cách về mọi mặt.
Hồ Quý Ly thi hành chính sách hạn điền hạn nô và thanh lọc sư tăng,
bắt nhà sư chưa đến năm mươi tuổi phải hoàn tục. Về ruộng đất, Hồ Quý Ly
ra quy định “Đại vương, trưởng công chúa không có hạn đình, dưới đến thứ
dân không được có quá mười mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép lấy
8
ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công” [15] .
Với chính sách này Hồ Quý Ly đã thu hẹp thế lực của quý tộc tôn
thất, phân tán quyền chiếm hữu ruộng đất của một số đại địa chủ, giải phóng
cho nông nô và nô tỳ trở thành những người dân được sử dụng đất công, tạo
đà cho sản xuất.
Ngoài ra Hồ Quý Ly còn tiến hành cải cách thuế, kiểm kê tài sản, cải
cách tiền tệ, phát hành tiền giấy. Những cải cách này đã tác động mạnh vào sở
hữu của quý tộc, địa chủ, làm suy yếu tầng lớp thương nhân.
Về văn hóa , tư tưởng, Hồ Quý Ly vừa muốn thanh lọc Phật giáo, vừa
muốn phê phán, xét lại Nho giáo, nhưng ông cũng chưa xây dựng được ý thức
hệ mới, làm cốt lõi cho nền văn hóa Việt Nam. Ông cho mở khoa thi đầu tiên,
Nguyễn Trãi ra thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ). Sau khi thi đỗ, Nguyễn Trãi
được Hồ Quý Ly trao chức Ngự sử đài chánh chưởng.
Những cải cách của Hồ Quý Ly mang tính nửa vời, thiếu triệt để,
không giải quyết được đời sống cực khổ của nhân dân, đặc biệt là bộ phận
nông dân, nông nô, không cố kết được nhân tâm, không lấy được lòng dân.
Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Họ Hồ dùng gian trí để cướp lấy nước, lấy gian trí
để hiếp lòng dân. Lệnh sao ban bố mà mọi người oán nỗi thương sinh, việc di
dân thi hành mọi người kêu bề thất sở. Gia dĩ thuế mà phiền, giao dịch nặng,
pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm, chỉ vụ ích kỷ, phì gia, chẳng nghĩ khổ dân,
lại nước, yêu gần vị tình riêng. Họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu
nhân mà nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt
giết. Người trung phải khóa miệng, kẻ lương thiện thì ngậm oan” [15; 237].
Sự thất bại của hai triều đại Trần – Hồ cho thấy vai trò to lớn của nhân
dân trong việc dựng và giữ nước. Bên cạnh đó là vai trò của nhà cầm quyền,
của quan lại trong việc hoạch định đường lối trị nước, nhằm đem lại cuộc
9
sống bình yên cho nhân dân và sự vững chắc của triều đại. Điều này đã được
Nguyễn Trãi nhận thấy và hoạch định trong “Bình ngô sách” dâng cho Lê Lợi
sau này.
Trước tình hình đất nước ngày càng rối ren do nhà nước và các tầng
lớp trong xã hội không có lợi ích thống nhất, năm 1406, quân Minh mang
quân sang xâm lược nước ta. Từ năm 1407 đến năm 1427, nhà Minh chính
thức đặt ách thống trị lên nước ta. Về chính trị - xã hội, chúng đổi tên nước ta
thành quận Giao Chỉ, tổ chức chính quyền gồm ba ty, lệ thuộc trực tiếp vào
triều đình nhà Minh. Bên cạnh đó, chúng ra sức đào tạo đội ngũ tay sai người
bản xứ gọi là thổ quan, nhằm phục vụ đắc lực cho việc áp bức, bóc lột nhân
dân ta.
Về kinh tế, chúng đặt ra vô số thứ thuế nặng nề đánh vào mọi hạng
người và mọi nghề nghiệp. Chúng nắm độc quyền mua bán một số ngành
nghề quan trọng như nghề làm muối. Ngoài ra, chúng còn bắt nhân dân ta đi
phu, đi lao dịch nhằm khai thác nguồn tài nguyên của đất nước.
Về văn hóa, chúng thủ tiêu nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta, đồng
thời tiến hành đồng hóa về mặt phong tục, tập quán. Chúng bắt nhân dân ta
thay đổi cách ăn mặc, phong tục tập quán theo phong tục và lễ giáo của nhà
Minh. Đối với Phật giáo, Đạo giáo chúng đốt kinh, sách, tuyên truyền mê tín
dị đoan trong nhân dân.
Về giáo dục, nhà Minh ra sức hạn chế việc học, việc thi, biến nhà
trường thành nơi đào tạo tay sai, phục vụ cho chính quyền đô hộ.
Dưới ách đô hộ của nhà Minh, xã hội Đại Việt bị kìm hãm sự phát
triển, đời sống nhân dân lâm vào tình trạng lầm than, cơ cực. Điều nà y làm
cho nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, như cuộc khởi nghĩa của Phạm Trân - một
thổ hào ở Đông Triều (Hải Dương) đã lãnh đạo nhân dân nổi lên lập Trần
Nguyệt Hồ làm vua, và tổ chức quân khởi nghĩa gọi là “Trung nghĩa Quân”.
10
Khởi nghĩa của Trần Giản Định (1407 – 1409) - một tôn thất nhà Trần, nổi
lên khởi nghĩa ở Yên Mô (Ninh Bình), sau lui về Nghệ An, được hào kiệt
khắp nơi theo về hưởng ứng rất đông, trong đó có cả những cựu thần nhà Trần
như Đặng Tất, Trần Triệu Cơ đã làm quan cho nhà Minh cũng quay lại tham
gia nghĩa quân. Tuy các cuộc khởi nghĩa đều thất bại song nó đã khơi gợi tinh
thần yêu nước trong nhân dân, đồng thời cho thấy sự khủng hoảng trong việc
tìm ra người có đủ đức, đủ tài đánh giặc cứu nước.
Năm 1396, khởi nghĩa Lam Sơn (Thanh Hóa) nổ ra, đã được toàn thể
nhân dân hưởng ứng. Khởi nghĩa đã tập hợp được những hào kiệt trong nước
tham gia. Trải qua hơn ba mươi năm chiến đấu gian khổ, năm 1427, khởi
nghĩa giành thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế, lập ra
nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền, lấy tên nước là Đại Việt. Đây là
một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình từ nền quân chủ quý tộc
thời Lý – Trần, mang đậm tính Phật giáo, sang nền quân chủ tập quyền thời
Lê sơ. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là chiến thắng của sự gắn bó sâu sắc và
kết hợp hài hòa trong thể thống nhất của tướng lĩnh với quân dân, của tập thể
anh hùng và toàn thể dân tộc, mà đứng đầu là Lê Lợi, và người tham mưu kiệt
xuất Nguyễn Trãi. Sau khi giành thắng lợi, Nguyễn Trãi tiếp tục cống hiến
sức mình giúp Lê Lợi xây dựng và quản lý đất nước.
Về mặt hành chính: Lê Thái Tổ chia đất nước thành năm đạo, sau đó
Lê Thái Tông cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi thành 13 thừa tuyên), đứng
đầu là các tuyên phủ sứ. Số lượng được bổ sung thông qua các kỳ thi. Như
vậy, chế độ phong kiến phân quyền quý tộc bị thủ tiêu, thay vào đó là chế độ
phong kiến trung ương tập quyền. Vua là biểu hiện tối cao của quyền lực, là
người toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong việc trị nước thì dựa
trên học thuyết của Nho giáo, bài xích Phật giáo và Đạo giáo, bên cạnh mặt lễ
giáo, các vua thời Lê Sơ còn rất chú trọng đến việc chế định pháp luật. Thời
11
kỳ này, nhà vua Lê Thánh Tông đã ban hành bộ luật Hồng Đức.
Song song với việc kiện toàn nhà nước về mặt hành chính, nhà nước
Lê sơ còn tiến hành cải cách về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Về kinh tế: Nhà
Lê kế thừa những cải cách của Hồ Quý Ly, hạn chế tối đa sự tồn tại và hình
thành của những điền trang, bằng cách ban hành chế độ lộc điền trong triều
đình và chế độ quân điền ở làng xã. Điều này đã góp phần tích cực làm ổn
định kinh tế tiểu nông, hạn chế việc phân hóa ruộng đất. Về thủ công nghiệp,
chủ yếu mở rộng quân xưởng chuyên sản xuất tiền tệ, vũ khí, đồ trang sức,
xác lập một nền sản xuất bao cấp. Về thương nghiệp, thi hành chính sách ức
thương.
Về văn hóa thì xa rời vốn liếng dân gian. Từ sách giáo khoa, việc học,
việc thi, việc “bảng vàng bia đá đề danh”, cho đến âm nhạc, mỹ thuật đều
nhất nhất mô phỏng theo thể chế nhà Minh.
Chính sách cai trị như vậy gây ra sự tranh giành địa vị, nạn tham ô
diễn ra ở nhiều nơi. Nhân dân lao động chưa vui mừng được bao nhiêu thì lại
phải hứng chịu sự vơ vét của quan lại và triều đình, trong hoàn cảnh này xuất
hiện một nhà tư tưởng lớn – Nguyễn Trãi. Tư tưởng của ông vượt qua ranh
giới của giai cấp, vượt lên trên tư tưởng của đại đa số các nhà Nho lúc bấy
giờ, để hướng tới con người, tới những người lao động cực khổ. Ông dành hết
cuộc đời mình đấu tranh chống bọn giặc cướp nước, chống bọn quan lại tham
ô, kêu gọi trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với nhân dân, trách nhiệm xây
dựng một xã hội tốt đẹp như xã hội Nghiêu, Thuấn.
1.2 Tiền đề tƣ tƣởng hình thành thế giới quan của Nguyễn Trãi
1.2.1 Khái luận chung về thế giới quan
Theo Từ điển Triết học Nga (chủ biên: Rodentan), Nxb Sự thật 1976
thì “Theo nghĩa tổng quát nhất, thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về
thế giới, về các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, các quan điểm triết học,
12
xã hội, chính trị, mỹ học, khoa học” [42; 960].
Giáo trình Triết học Mác – Lênin: “Thế giới quan là toàn bộ những
quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và
vị trí của con người trong thế giới đó” [2; 12].
Cuốn Triết học, hỏi và đáp của Trường Đại học Quốc gia Lômônôxốp
(Trần Nguyên Việt dịch), Nxb Đà Nẵng 2004, không đưa ra một khái niệm cụ
thể về thế giới quan. Nhưng trong chương “Con người trong vũ trụ: bức tranh
của triết học, của tôn giáo và khoa học thế giới” đã cho rằng “Cơ cấu của sự
hiểu biết thế giới có thể được hiểu là sự thống nhất bốn yếu tố: nguyên tắc
xuất phát của hệ thống hóa tri thức về thế giới, và về con người, phương thức
hay phương pháp nhận thức chỉnh thể, cơ sở triết học và định hướng thế giới
quan, đạo đức” [43; 171].
Công trình Luận án tiến sĩ “Thế giới quan trong triết học Trung Quốc
cổ đại”(2002) của Nguyễn Văn Vịnh đưa ra định nghĩa về thế giới quan như
sau: “Thế giới quan triết học là hệ thống lý luận về tồn tại và vận động của thế
giới khách quan, mang tính định hướng cho con người trong hoạt động thực
tiễn” [55; 20].
Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ
biên cũng phân tích khá rõ về thế giới quan triết học Việt Nam, chỉ rõ sự khác
biệt của thế giới quan triết học Việt Nam so với thế giới quan của triết học
phương Tây. Theo đó, “thế giới quan triết học Việt Nam thuộc loại thế giới
quan phức hợp, nó khác với thế giới quan phương Tây bởi nó là một thể kết
hợp Nho, Phật, Đạo”. “Thế giới quan triết học Việt Nam khác với các thế giới
quan khác. Nó nặng về các vấn đề xã hội và nhân sinh mà nhẹ về các vấn đề
tự nhiên và các hình thức của tư duy con người, nó chú trọng xây dựng lý lẽ
cho chính trị - xã hội và luân lý hơn là xét mối quan hệ giữa các chủ thể và
khách thể, giữa các thành phần của tư tưởng để hình thành nhận thức luận và
logich học, nó thiên về giáo dục đạo làm người hơn là cung cấp cho con
13
người những nhận thức mới mẻ về thế giới giới khách quan bên ngoài cũng
như thế giới nội tâm, nó thường xuất phát từ những định đề có sẵn hơn là từ
sự phát triển của thực tế khách quan để khái quát lên thành các nguyên lý
khác trước làm cơ sở cho luận chứng,…” [35; 22-23].
Trên cơ sở đưa ra các định nghĩa về thế giới quan trong dòng lịch sử
tư tưởng nhân loại, chúng tôi lấy định nghĩa “thế giới quan là toàn bộ những
quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và
vị trí của con người trong thế giới đó” làm cơ sở để từ đó tìm hiểu rõ hơn về
thế giới quan trong tư tưởng của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai tác phẩm
“Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tâp”.
1.2.2. Ảnh hưởng của truyền thống dân tộc đến thế giới quan của
Nguyễn Trãi
Chủ nghĩa yêu nước, ý thức về một dân tộc độc lập, có chủ quyền
được hình thành trong mỗi con người Việt Nam, trở thành tư tưởng chủ đạo
trong dòng chảy tư tưởng triết học Việt Nam. Tinh thần đó được thể hiện qua
các câu chuyện thần thoại về Thánh Gióng đánh giặc Ân, truyền thuyết Mỵ
Châu – Trọng Thủy; hay các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
của Lý Bí, Ngô Quyền… Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện trong khí tiết
khẳng khái của các anh hùng thời kỳ Lý – Trần. Tất cả chứng minh tinh thần
yêu nước, ý thức đoàn kết, đồng thời mang lại cho thế hệ con cháu những bài
học to lớn về nghệ thuật giành và giữ nước của cha ông.
Trong thời kỳ đó, cha ông ta đã hình thành quan niệm sơ khai về thế
giới quan, tiêu biểu trong số đó là quan niệm của Lý Thường Kiệt, thể hiện
qua bài thơ.
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rõ ràng phân định ở sách trời
14
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”[15; 289]
Với trình độ nhận thức đương thời, Lý Thường Kiệt quy mọi sự về
mệnh trời. Ông cho rằng cơ sở để xác lập chủ quyền, ranh giới đó chính là ý
trời, mệnh trời. Lý Thường Kiệt đã khéo vận dụng tư tưởng mệnh trời để củng
cố niềm tin cho quân dân. Đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa quan niệm này
của cha ông, song đề cao hơn vai trò của con người trong cuộc đấu tranh
giành và giữ nước của dân tộc.
Tinh thần khoan dung, đạo lý nhân nghĩa, đặc biệt là tư tưởng lòng
dân và ý dân được coi là cơ sở của mọi quốc sách của mọi đất nước. Trong
Chiếu dời đô năm 1010, Lý Công Uẩn khẳng định việc dời đô là “trên vâng
mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên vận nước lâu
dài, phong tục phồn thịnh” [56; 50]. Chiếu rời đô đánh dấu sự trưởng thành
trong tư duy chính trị Việt Nam, phản ánh ý chí, chủ quyền dân tộc.
Lý Thường Kiệt cũng khẳng định “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt
hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân” [44; 16].
Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn khẳng định nhân dân là cơ sở để
tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước “….khoan thư sức dân để làm kế
sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước” [14]. Như vậy, trong lịch sử tư
tưởng dân tộc, yêu nước đồng nghĩa với việc lấy ý dân làm gốc. Và đến với tư
tưởng Nguyễn Trãi chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, vì dân, ý dân
được ông tiếp thu và phát triển đến đỉnh cao.
1.2.3 Ảnh hưởng của Nho giáo đến thế giới quan của Nguyễn Trãi
Nho giáo là học thuyết do Khổng Tử sáng lập thế kỷ thứ 5 TCN. Sự
phát triển của Nho giáo trải qua các thời kỳ từ Nho giáo nguyên thủy (với các
tên tuổi tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử), đến thời kỳ Hán Nho (Đổng Trọng
15
Thư, Vương Sung), và đến thời Tống Nho (với tên tuổi của Chu Đôn Di,
Trương Tải, Trình Hạo,Trình Di) … dần dần đã biến đổi làm cho Nho giáo
trở lên phong phú, đa dạng so với hệ thống khác đương thời.
Vấn đề trọng tâm mà các nhà Nho ở các thời kỳ khác nhau quan tâm
đó chính là vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới, vạn vật và con người,
về sự vận động, biến hóa của vạn vật. Từ đó các nhà Nho đưa ra vai trò của
con người trong thế giới ấy, được biểu hiện qua các thuật ngữ mà các nhà
Nho sử dụng là trời, đất, càn khôn, mệnh trời, đạo.
Quan niệm của Nho giáo về nguồn gốc của thế giới, vạn vật. Trải qua
các thời kỳ khác nhau thì quan niệm của các nhà Nho chia làm hai quan điểm:
quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật.
Theo quan điểm duy tâm khẳng định nguồn gốc của thế giới, vạn vật
và con người “Vạn vật hồ thiên, nhân bản hồ tổ” nghĩa là thế giới, vạn vật có
nguồn gốc từ trời, gốc của con người là tổ tiên, mà tổ tiên của con người đều
có nguồn gốc từ trời. Như vậy gốc của thế giới, vạn vật và con người đều từ
trời.
Trên cơ sở đó, Khổng Tử trong tư tưởng của mình còn khẳng định
quyền năng của trời đất. Ông cho rằng trời là lực lượng hóa sinh ra muôn vật,
trời là thực thể có ý chí, có nhân cách và quyền năng vô hạn, tối cao. Số của
con người là do trời quyết định “Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời” [11].
Ông còn khẳng định tiêu chuẩn cơ bản để trở thành người quân tử là phải biết
“tri thiên mệnh, úy thiên mệnh”[11]. Bên cạnh đó, trời trong quan niệm của
Khổng Tử còn được hiểu như là quy luật của tự nhiên “Trời có nói gì đâu mà
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông xoay vần, vạn vật cứ sinh hóa mãi”[11].
Đến thời kỳ của Đổng Trọng Thư, quan niệm về trời tuy vẫn chịu ảnh
hưởng của các nhà Nho đi trước, nhưng đã mang tính chất duy tâm thần bí và
yếu tố cực đoan. Ông khẳng định “Trời là tổ của vạn vật, vạn vật không có
16
trời thì không sinh. Trời làm ra cái tính mệnh của con người, khiến người làm
điều nhân nghĩa”. Ông cho rằng trời đất sinh ra vạn vật để nuôi sống con
người. Hình dáng, tinh thần, đạo đức của con người đều do trời tạo ra theo
hình mẫu của trời “Cái đầu tròn của con người là tượng dung mạo của trời,
tóc là tượng các vì sao, tai mắt tượng mặt trời, mặt trăng, mũi miệng là tượng
gió, mưa. Lòng tốt, lòng xấu của con người là tương hợp với sự nóng lạnh,
ẩm ráo của trời”. Từ đây ông có quan niệm cực đoan khi cho rằng mọi hiện
tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội là biểu hiện của sự vui
buồn, mừng giận và là sự trừng phạt của trời.
Thời kỳ Tống Nho, đại diện tiêu biểu là Trình Hạo, Trình Di và Chu
Hy, với quan niệm về “lý” và “khí”. Nhị Trình đều đồng nhất “lý” với “trời”
“trên trời chỉ có một lý”, “cái gọi là trời chính là lý vậy”. Hai ông cho rằng
trời – “lý là cái tuyệt đối vĩnh cửu, ta không thể thêm bớt, không thể sờ thấy
cũng không thể nghe thấy, nhưng nó vẫn tồn tại. Lý như là hư không, chẳng
có gì mà lại đủ cả, cái ấy làm sao nói được còn mất, thêm bớt” [39]. Từ đây
hai ông khẳng định vũ trụ, giới tự nhiên, con người không chỉ có nguồn gốc
từ trời, mà bị chi phối bởi trời.
Tiếp tục phát triển tư tưởng của Nhị Trình về “lý” và “khí”, Chu Hy
cho rằng “lý” là nguồn gốc, là cơ sở tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng trong
vũ trụ. Cho nên loài người và muôn vật sinh ra phải bẩm thụ cái lý, cái khí ấy,
sau đó mới có hình và thể của người và muôn vật. “Lý” là cái bản nguyên, cái
có trước của trời đất, vạn vật.
Như vậy tư tưởng của đa số các nhà Nho từ thời kỳ của Khổng –
Mạnh qua thời kỳ Hán nho, Tống nho đều khẳng định thế giới vạn vật và con
người đều có nguồn gốc từ trời.
Đối lập với quan điểm duy tâm, một số nhà Nho theo quan điểm duy
17
vật có những lý giải khác về nguồn gốc của thế giới, van vật và con người.
Theo Kinh Dịch, nguồn gốc của thế giới vạn vật và con người được lý
giải như sau: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quát, bát quát sinh vạn vật, trong đó thái cực được hiểu là cực lớn, là
cái hỗn độn ban đầu, được gọi là khí, lưỡng nghi trong đó một nghi là những
khí đục, nặng rơi xuống tạo thành đất (âm), còn nghi kia là những khí nhẹ,
trong, lơ lửng trong không trung hợp thành trời (dương). Sự kết hợp âm
dương tạo ra vạn vật, con người. Trong Kinh dịch còn ghi có trời đất rồi mới
có muôn vật, có muôn vật rồi mới có gái trai, có gái trai mới có vợ chồng, có
vợ chồng mới có cha con, có cha con mới có vua tôi, từ đó mới có trên dưới,
và lễ nghĩa được.
Tuân Tử cho rằng toàn bộ thế giới gồm ba bộ phận “Trời có bốn mùa,
đất có sản vật, người có văn trị” [41], như vậy Tuân Tử cho rằng trời chỉ là
một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành biến hóa của
vạn vật. Đồng thời, ông khẳng định con người không thể tùy tiện thay đổi quy
luật của tự nhiên mà con người nên nhận thức và tuân thủ theo quy luật của tự
nhiên, như vậy con người sẽ có được hạnh phúc “Trời không vì người ta ghét
cái lạnh mà bỏ mùa đông, đất không vì người ta ngại xa mà bỏ bề rộng” [41].
Điều này đã được Nguyễn Trãi đã tiếp thu trong tư tưởng của mình sau này.
Từ đây ông đưa ra quy luật phát triển của thế giới vạn vật: mọi vật trong tự
nhiên đều nằm trong quá trình phát triển từ thấp đến cao, con người có nguồn
gốc từ giới tự nhiên, đồng thời là thực thể cao nhất “nước lửa có khí nhưng vô
sinh, cỏ cây có sinh nhưng vô tri, cầm thú có tri những vô lễ nghĩa, con người
có khí, có tri, có sinh và có cả lễ nghĩa” [41].
Như vậy đến với tư tưởng của Tuân Tử thì thế giới quan của Nho giáo
đã được bổ sung và phát triển mang nhiều yếu tố duy vật trong việc giải thích
18
nguồn gốc của thế giới vạn vật và con người.
Quan niệm của các nhà Nho về sự vận động, biến hóa của thế giới
vạn vật. Đây được coi là nội dung chủ yếu trong thế giới quan Nho giáo. Về
quan niệm này, nhìn chung các nhà nho đều khẳng định vũ trụ, vạn vật luôn
vận động và biến đổi không ngừng. Khổng Tử cho rằng quá trình biến đổi của
vạn vật như dòng chảy không ngừng, không có điểm khởi đầu hay kết thúc
“Cũng như nước sông chảy đi, mọi vật đều qua đi không có gì ngừng nghỉ”
[11].
Khi bàn về nguồn gốc của sự vật động và biến hóa ấy, các nhà nho có
các tư tưởng khác nhau. Trong Kinh Dịch thì cho rằng nguồn gốc là do sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập “cương, nhu tương thôi nhi sinh
biến hóa”. Có nhà nho như Đổng Trọng Thư thì luôn khẳng định nguồn gốc
của sự vận động và biến hóa ấy là từ trời “thiên bất biến, đạo diệc bất biến”.
Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng nó thể hiện một bước tiến quan
trọng trong thế giới quan Nho giáo thời kỳ bấy giờ.
Quan niệm của Nho giáo về vị trí và vai trò của con người trong thế
giới. Với quan niệm này, chúng ta xem xét ở hai khía cạnh. Một là vai trò của
con người đối với trời đất và vạn vật. Trong quan niệm của các nhà Nho, con
người là một bộ phận cao nhất của tự nhiên, con người đứng trên vạn vật. Vì
vậy, vai trò của con người có thể sánh ngang cùng trời đất hóa sinh muôn vật.
Tuy nhiên để có được vị trí đó con người cần phải “biết thực hành đúng theo
đạo trời, mệnh trời, kính trời, phải bẩm thụ được đạo đức nhân, lễ, nghĩa, tín
mà trời ban cho”[4; 26]. Như vậy trong quan niệm của Nho giáo, vai trò của
con người chỉ có thể có khi con người phục tùng theo quyền uy tối cao của
trời, phải tuân theo đạo, theo mệnh trời “Lớn thay đạo của thánh nhân! Mênh
mông vô bờ bến, phát dục muôn vật, cao vút tận trời, đầy đủ mà dồi dào thay”
[11]. Mệnh trời trong quan niệm của Nho giáo chính là quyền uy tối cao, thể
hiện vai trò của trời với sự sinh thành và phát triển của vạn vật, con người,
19
cho nên cái tính, cái đức của con người, việc con người trở nên thiện nhân và
sang – hèn, sinh – tử … đều do trời quyết định. “Người quân tử căn cứ vào
địa vị của mình mà hành động, không được ham cái ở ngoài bổn phận. Ở địa
vị giàu sang thì làm theo cách giàu sang, ở địa vị nghèo hèn thì làm theo cách
nghèo hèn, ở thân di dịch thì phải chịu thân di dịch… Quân tử dù ở cảnh nào
cũng tự tìm thấy niềm vui của mình” [12].
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về vai trò của con người trong mối
quan hệ với trời về cơ bản mang tính duy tâm. Trước trời con người chỉ là lực
lượng thụ động, con người chỉ có giới hạn ở việc đem cái đạo, cái mệnh của
trời lưu hành khắp vũ trụ mà thôi. Đây là điểm hạn chế trong thế giới quan
Nho giáo. Nguyên nhân cơ bản xuất phát từ quan niệm phân biệt đẳng cấp của
xã hội lúc bấy giờ. Và đến với Nguyễn Trãi, ông đã đưa ra những tư tưởng
khắc phục điều này khi thấy được vai trò của con người tác động trở lại trời
đất, vũ trụ. Tuy nhiên, tư tưởng thiên – nhân hợp nhất vẫn là tư tưởng chủ đạo
trong thế giới quan Nguyễn Trãi.
Hai là vai trò của con người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản. Nho
giáo đưa năm mối quan hệ cơ bản trong xã hội, trong đó mối quan hệ vua –
tôi, cha – con, chồng – vợ là ba mối quan hệ rường cột của Nho giáo. Từ đây,
Nho giáo đưa ra những quy phạm, chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách
nhiệm của con người trong xã hội, mà các nhà Nho gọi đó là đạo làm người,
với năm đức chủ yếu: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy, tuy chịu ảnh hưởng của Nho
giáo song Nho giáo của Nguyễn Trãi là một thứ “Nho học khai phóng”, với
nhiều nội dung vượt lên trên Nho giáo chính thống, không còn mang tính chất
kinh viện nữa mà luôn gắn với thực tiễn xã hội Việt Nam, luôn xuất phát từ
lòng yêu nước, thương dân không biết mệt mỏi của Nguyễn Trãi. Điều đó đã
20
làm nên những mới mẻ, tiến bộ trong tư tưởng về thế giới quan của ông.
1.2.4 Ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo gia đến thế giới quan của
Nguyễn Trãi
* Phật giáo và thế giới quan của Nguyễn Trãi.
Phật giáo được ra đời vào thế kỷ thứ VI TCN, dựa trên nền tảng xây
dựng một học thuyết giúp con người tìm ra nguyên nhân và cách thức diệt của
nỗi đau khổ nhân thế.
Theo Phật giáo, thế giới này do danh và sắc kết hợp với nhau mà
thành. Hai yếu tố này liên hệ mật thiết với nhau, không có cái này thì cũng
không có cái kia và ngược lại. Vì mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên
sinh nên thế giới này sinh ra không nhớ một đấng sáng tạo nào, mà do nhân
quả nối tiếp nhau thành.
Từ đây, Phật giáo đưa ra quan niệm về vô thường, vô ngã, vô tạo giả,
trong đó, vô thường tức là mọi vật thường hằng, thường sinh, có diệt, biến
đổi, trôi chảy không ngừng, không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn, có sống tất
có chết. Sự biến đổi này theo chu kỳ “thành – trụ - hoại – không”. Từ đây,
Phật giáo đi đến khái niệm vô ngã, tức là không có cái tôi, cái ta. Thế giới
quan Phật giáo phủ định con người là sản phẩm của Barhman, và giải thích về
các yếu tố hình thành nên con người theo thuyết Danh – Sắc. Theo thuyết này,
con người được cấu tạo bởi hai yếu tố danh và sắc, hay vật chất và tinh thần,
trong đó danh chỉ yếu tố tinh thần, sắc chỉ yếu tố vật chất. Thuyết lục đại cũng
giải thích nguồn gốc hình thành con người bởi sáu yếu tố: Địa – Thủy – Hỏa –
Phong – Không – Thức, trong đó năm yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu
tố thứ sáu thuộc về tinh thần.
Thuyết Ngũ uẩn cho rằng con người được cấu tạo bởi năm yếu tố: Sắc
– Thụ - Tưởng – Hành –Thức.
Phật giáo đưa ra quan niệm về cuộc đời con người, cách thức giải thoát
21
cho con người trong Tứ diệu đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
Như vậy, từ quan niệm về thế giới quan đên nhân sinh quan của Phật
giáo đều hướng con người đạt tới một trạng thái thanh tịnh, an nhàn, ung
dung, tự tại. Tuy nhiên khi du nhập vào Việt Nam, thế giới quan Phật giáo
mang thêm những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, thế giới quan Phật giáo mang tính dân gian, có sự giao thoa
với tín ngưỡng bản địa.
Thứ hai, thế giới quan Phật giáo là sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đời và
việc đạo.
Thứ ba, thế giới quan Phật giáo có mối quan hệ chặt chẽ với thế giới
quan Nho – Đạo, tạo nên sự dung thông tam giáo.
Vì lẽ đó “Phật giáo Việt Nam xuất phát từ dân gian, ăn sâu vào tâm
thức quảng đại quần chúng, trở thành một yếu tố tâm lý dân tộc, và vì vậy
mang tính dân tộc xuyên suốt lịch sử. Đó là một sự thực khách quan” [16;
19]. Và đây cũng là lí do để Nguyễn Trãi - một nhà Nho đã lựa chọn triết lý
của Phật giáo, nhằm đem lại cho ông sự thư thái cũng như một triết lí nhân
sinh mới bổ sung cho nhân cách của một nhà Nho. Sau hơn ba mươi năm,
Nguyễn Trãi thấy được sự đời không diễn biến như những gì sách thánh hiền
đã xây dựng. Những lí tưởng mà ông và các nhà Nho không quản ngại khó
khăn xây dựng lại quá xa vời. Ông nhận ra rằng mọi công danh chỉ là hão
huyền, tỉnh rồi phải có những quyết định dứt khoát cho bước đi tiếp theo của
cuộc đời. Vì vậy, ông tự nhủ mình hãy lui vào thủ phận, để tìm ra cho mình
phương pháp tu thân mới là Phật giáo, là đạo Lão – Trang chứ không phải là
Nho giáo nữa. Từ đây ông đưa ra lẽ sống cho mình là trước hết phải chú ý đến
hành thiện, bởi vì “họa phúc gây mầm không một chốc”, mà cả một quá trình
lâu dài. Sửa mình làm điều thiện, dù là việc nhỏ hay việc lớn – đây cũng
22
chính là tinh thần của Phật giáo, khuyên con người nên hành thiện để tạo ra
một cái nghiệp tốt. Điều đó đã giúp Nguyễn Trãi như thấy mình nhẹ nhõm khi
rời bỏ chốn quan trường, bởi ông không còn phải chịu lụy cái danh “hão
huyền”. Tinh thần tự do, tự tại giúp ông hứng thú hơn với cuộc sống đạm bạc,
với mái lều tranh nơi rừng núi Côn Sơn.
Tuy Nguyễn Trãi là một nhà Nho song ông lại quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu nền Phật học, đặc biệt là Thiền học Lý - Trần và tỏ rõ sự hiểu biết
sâu sắc với triết lý uyên thâm của đạo Thiền. Điều đó cho thấy một trí tuệ và
một cách nhìn hơn người của Nguyễn Trãi so với nhiều nhà Nho lúc bấy giờ
khi đã kế thừa những giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư cách là di sản văn
hóa dân tộc theo phương châm “gạn đục khơi trong”, khi mà chính quyền và
giới Nho sĩ đang ra sức kỳ thị, đả kích và có ý định phủ định sạch trơn tất cả
những gì mà nền Phật học nước nhà dày công xây dựng nên. Đó là công lao
của Nguyễn Trãi và một số nhà Nho tiến bộ bấy giờ.
* Đạo Lão – Trang và thế giới quan của Nguyễn Trãi
Đạo Lão – Trang có nguồn gốc từ Trung Quốc do Lão Tử sáng lập.
Nền tảng chung của tư tưởng Lão – Trang là quan niệm về “đạo” và “đức”.
Quan niệm chính của Lão Tử là quay trở về với thiên nhiên, sống tự do,
không màng đến quyền lợi, danh vọng, kẻ cầm quyền phải lấy đức tự nhiên để
cảm hóa dân chúng, dùng hạnh phúc,vô sự để thu phục dân chúng.
Đạo Lão – Trang được truyền bá vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc.
Những tư tưởng của nó ít nhiều phù hợp với nhà nước phong kiến tập quyền,
với tâm lí, tín ngưỡng, và đáp ứng được nhu cầu tâm lí của con người. Chính
tư tưởng của Đạo gia về cuộc đời, về công danh, về thái độ đối với cuộc sống
làm người, đã làm cho Nguyễn Trãi nói riêng và các nhà Nho nói chung tìm
thấy thú vui, nhất là tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn, nhất là khi những tư
23
tưởng nhân nghĩa, đạo trung hiếu, tấm lòng vì dân, vì nước, chủ nghĩa nhân
đạo của ông gặp phải sự đối kháng với tư tưởng tập quyền chuyên chế ích kỷ
giai cấp của tầng lớp quý tộc Lê.
Như vậy, tìm đến tư tưởng của đạo Lão – Trang là Nguyễn Trãi tìm
đến một phương tiện tự an ủi, tự giải tỏa khỏi những trớ trêu, bế tắc trong
cuộc đời cũng như là một phương thức giúp ông vượt qua nỗi thất vọng khi
hoài bão giúp đời của ông không có cách nào thực hiện được.
Giống như Phật giáo, ảnh hưởng của đạo Lão – Trang chỉ giữ vai trò
thứ yếu tuy có tính hệ thống. Trước hoàn cảnh xã hội, Nguyễn Trãi cảm thấy
bất lực, ông tự nhận mình là kẻ kém đức, kém tài, không dám ra làm quan, chỉ
ở nhà sống ẩn dật.
Nguyễn Trãi muốn trở thành một cư sĩ, một đạo sĩ sống với tự nhiên;
từ đó phóng tầm mắt ra nhìn những đám mây trắng bay từ trong núi ra một
cách vô tâm. Đây là bước ngoặt quan trọng của bậc đại phu ưu thời mẫn thế,
đó là sự thức tỉnh bởi nhận ra danh lợi chỉ là “gió thổi hoa”, Nguyễn Trãi đã
chuyển cuộc đời mình gắn bó với tự nhiên, tự tại, cảm thấy nhẹ nhõm và tự
nhận thấy mình là “người cày trong thanh nhàn” và câu “trong hiu quạnh” .
Ông nhận ra rằng cuộc đời chỉ như là một giấc mộng, không thực, danh phận
chỉ là hão huyền, vô nghĩa.
Từ quan niệm đời là hư vô, giá trị cuộc sống là tương đối, ông đi đến
thái độ bất tranh, mà bất tranh là nguyên tắc quan trọng nhất trong triết lí sống
của đạo Lão – Trang, việc thực hiện nguyên tắc này sẽ đạt tới cuộc đời tự do,
dứt mọi ưu phiền của cuộc sống và có thái độ sống ưu việt nhất. Đây là điều
mà Nguyễn Trãi và các nhà nho đương thời tìm được khi dung thông với quan
niệm của Đạo gia.
Từ quan niệm sống bất tranh, Nguyễn Trãi chọn lối sống tu tiên, tiêu
24
dao, hoà mình với tự nhiên giống như quan điểm của Đạo gia. Ông nâng niu
từng cành cây, ngọn cỏ, quý sự hài hòa của thiên nhiên mà không nỡ chặt cây
làm mất chỗ của chim muông.
Tư tưởng yếm thế của Đạo gia được Nguyễn Trãi thể hiện một cách
khá đầy đủ và hệ thống. Tuy nhiên, nó chỉ ảnh hưởng trong một phạm vi nhất
định trong cuộc đời của Nguyễn Trãi khi ông gặp những bước hoạn nạn, truân
chuyên. Bởi mặc dù xác định lối sống vô vi, nhàn tản, lãng quên nhưng toàn
bộ trí tuệ, tâm khảm của Nguyễn Trãi vẫn hướng tới cuộc đời, mong ước
được sử dụng, được cống hiến cho đời theo đúng nghĩa của một nhà Nho chân
chính.
Đây chính là cơ sở cho sự dung thông Nho – Phật – Đạo của Nguyễn
Trãi, dung thông để giải quyết vấn đề tạm thời nhưng không quên đi bản chất
của mình là một nhà Nho, và lí tưởng của mình là giúp đời, giúp nước. Tư
tưởng vô vi, hoà mình với tự nhiên chỉ là cái nền để khẳng định thêm tấm
lòng trung với nước, yêu thương dân chúng của Nguyễn Trãi mà thôi.
1.2.5 Ảnh hưởng của truyền thống gia đình và tài năng của Nguyễn
Trãi
Nguyễn Trãi là một con người đầy tài năng, với một truyền thống gia
đình đáng tự hào - một môi trường thuận lợi cho lòng yêu nước, tinh thần
thương dân phát triển trong tư tưởng của ông. Dòng họ nội của Nguyễn Trãi
ngay từ xưa đã có nhiều người làm quan cho triều đình với những chức vụ
quan trọng. Tiến sĩ Nguyễn Quốc đời Lý Anh Tông, từng làm Thượng thư bộ
Hình, từng làm Đại tư đồ, đi sứ nhà Tống năm 1158. Cuối cùng vì đấu tranh
cho công lí mà bị Đỗ Anh Vũ buộc uống thuốc độc chết. Ở chi thứ ba, tức chi
Nguyễn Phúc có Tiến sĩ Nguyễn Thuyên làm Thượng thư bộ Hình ở thời vua
Trần Nhân Tông. Ông còn là người biết áp dụng luật thơ Đường vào thơ quốc
25
âm, mà về sau người ta gọi là thơ Hàn luật. Cách làm thơ quốc âm đó được
nhiều người hưởng ứng như Chu An, Hồ Quý Ly... Và Nguyễn Trãi đã nối chí
ông tổ mình để lại cho chúng ta một tập thơ mấy trăm bài bằng chữ Nôm.
Dòng họ ngoại của Nguyễn Trãi là dòng dõi tôn thất nhà Trần. Ông
ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Đán - cháu bốn đời của Trần Quang
Khải, một người vốn tính thâm trầm, nhưng lại giàu lòng thương người. Tuy
ngồi ngôi Tể tướng, sống trong dinh nguy nga, nhưng vẫn nghĩ đến đời sống
lầm than của dân. Lối sống và tâm hồn của ông ngoại có ảnh hưởng rất lớn
đến Nguyễn Trãi.
Mẹ của Nguyễn Trãi, bà Trần Thị Thái là một người phụ nữ dòng dõi
quý tộc, được giáo dục lề lối, nề nếp, văn hóa . Lối sống và cách sử dụng chữ
Nôm của Nguyễn Trãi là được kế thừa từ người mẹ của mình.
Cha của Nguyễn Trãi - Nguyễn Phi Khanh, là người có tài. Ông là một
người giàu lòng yêu nước, thương dân.
Với một truyền thống gia đình hết sức tốt đẹp, Nguyễn Trãi đã được
hình thành và phát triển cho mình ý thức về lòng yêu nước, về phương châm
sửa mình, phong cách xử thế.
Hơn nữa, bản thân Nguyễn Trãi là người có trí thông minh và đức tính
chăm học “Lục tuế nhi đồng phả ái thư” [22; 398]. Đến tuổi thanh niên, ông
đã nổi tiếng học giỏi trong giới Nho học “thanh niên phương dự ái Nho lâm”
[45; 364]. Tuy nhiên, tuổi thơ của Nguyễn Trãi cũng đầy sóng gió. Lên tám
tuổi, ông đã mồ côi mẹ. Năm ông mười tuổi, Trần Nguyên Đán qua đời, ông
mất đi người luôn ở bên ông để nuôi dạy ông bằng truyền thống dân tộc và
đạo lý làm người. Ông theo cha trở về làng quê sống cuộc sống bình dân. Tại
đây, cuộc sống của Nguyễn Trãi được hòa vào cuộc sống của bao tầng lớp lao
động nghèo khổ, cùng sống và lao động với họ. Điều này làm cho ông càng
cảm thấy yêu quý và mang ơn họ “Ăn lộc nhờ ơn kẻ cấy cày”. Cuộc sống
26
bình thường nơi thôn dã đã giúp Nguyễn Trãi tìm hiểu được đời sống, tâm tư,
tình cảm và nguyện vọng của người dân lao động, cộng với lòng yêu nước,
thương dân của mình đã giúp xây dựng lên một Nguyễn Trãi suốt đời chỉ trăn
trở làm sao để xây dựng một xã hội như thời Ngu, Thuấn.
Như vậy, nhân tố chủ quan thiên tài cộng với truyền thống yêu nước
quý báu của dân tộc đã góp phần tạo nên vóc dáng nhà tư tưởng vĩ đại -
Nguyễn Trãi một nhà Nho có bản lĩnh, giàu lòng yêu nước, vừa là một nhà
thơ, nhà văn, nhà chiến lược, một nhà tư tưởng kiệt xuất. Sự vĩ đại của nhà tư
tưởng này không chỉ dừng lại ở những học thuyết, những tư tưởng cao siêu
mà còn thể hiện qua hành động của việc biến những tư tưởng thành hiện thực.
“Sự học của tiên sinh vốn khởi phát tự gia đình, nhưng sâu sa và rộng rãi,
ngay thẳng, lớn lao, cứng rắn, vuông vắn thì tự mình bấm chí đi tới” [22;
107]. Ngoài ra, tư tưởng của Nguyễn Trãi còn được hình thành thông qua việc
tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực thế giới quan của Nho – Phật –
Đạo. Chính ba học thuyết này đã tạo nên một hệ tư tưởng thống nhất trong đa
dạng, tạo sức mạnh cố kết cộng đồng, bồi đắp cho triết lý khoan dung, khoan
hòa của người Việt. Cùng với dân tộc, cùng với lịch sử, Nguyễn Trãi đã biết
chọn lọc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm tư duy
của bản thân, tạo nên nền tảng tư tưởng của mình với những sắc thái và giá trị
riêng biệt trong dòng tư tưởng lịch sử của dân tộc.
1.3 Cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi
1.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi – vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là một
nhà Nho tiêu biểu nhất của thế kỷ XV, đồng thời là một nhà tư tưởng vĩ đại
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Cuộc đời của nhà tư tưởng vĩ đại này gắn
27
với những thăng trầm và biến cố của dân tộc.
Nguyễn Trãi tên hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê ở xã Chi Ngại,
huyện Phương Sơn, tức Phương Nhãn, nay là huyện Chí Linh (Hải Dương),
sau mới dời đến làng Nhị Khê. Là cháu ngoại của quan tư đồ Trần Nguyên
Đán. Là con của Trần Thị Thái và Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên thành
Nguyễn Phi Khanh. Cha Nguyễn Trãi là một người có tài. Năm 1374, đời vua
Trần Huệ Tông mở khoa thi ở trong hành cung, Nguyễn Phi Khanh đỗ đệ nhất
giáp, đệ nhị danh tức bảng nhãn. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho rằng
ông là con thường dân, lại lấy con gái họ tôn thất nên không bổ nhiệm ông ra
làm quan. Vì vậy, trong suốt hai bảy năm trời, Nguyễn Phi Khanh làm thầy đồ
dạy học. Năm 20 tuổi, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh dưới triều Hồ, rồi
sung chức ngự sử đài chánh chưởng.
Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, nhà Hồ sụp đổ. Cha con Hồ Quý
Ly và các triều thần bị bắt và giải về Trung Quốc trong đó có Nguyễn Phi
Khanh. Được tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng người em là Nguyễn Phi Hùng
đến chỗ quân Minh giam giữ tìm cha, rồi hai anh em lên ải Nam Quan với ý
định sang bên kia biên giới để phụng dưỡng cha. Nhưng Nguyễn Phi Khanh
đã nói với Nguyễn Trãi rằng:
“Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù
cho cha, như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn
bà ấy mới là hiếu hay sao?” [28].
Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về thành Đông Quan, bị giặc Minh bắt.
Biết ông là người có tài, giặc Minh mời ông ra làm quan nhưng ông kiên
quyết và khẳng khái từ chối. Việc Nguyễn trãi nghe lời cha trở về và lời từ
chối với giặc Minh đánh dấu một sự trưởng thành trong tư tưởng đồng thời
khẳng định tấm lòng yêu nước của Nguyễn Trãi.
Trong khoảng thời gian ông ở thành Đông Quan, các cuộc khởi nghĩa
28
của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng ở vùng Thanh – Nghệ đã có ảnh hưởng lớn
đến tư tưởng Nguyễn Trãi, thôi thúc ông tìm đường cứu nước. Trong khi
Nguyễn Trãi chưa tìm được những người cùng ý chí, cùng quan điểm để cùng
nhau xả thân cứu nước, thì tại Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã lan
rộng khắp nơi, vang dội khắp đất nước và đến với Nguyễn Trãi. Ông tìm cách
thoát khỏi thành Đông quan, cùng Trần Nguyên Hãn lặn lội núi rừng, đi tìm
gặp nghĩa quân Lê Lợi – người lãnh tụ của phong trào đó. Việc Nguyễn Trãi
đến với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa là sự kiện có tính chất bước ngoặt trong
cuộc đời ông, vì đến với Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã từ bỏ giai cấp của mình để
đến với nhân dân và tầng lớp địa chủ mới, đang là lực lượng tiến bộ lúc bấy
giờ.
Năm 1420, Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô Sách”, gồm ba kế sách lớn
đáh giặc. Tiếc rằng bản “Bình Ngô Sách” không còn lại tới ngày nay, nhưng
chắc chắn nó là kế hoạch tốt với những đường lối sáng suốt và tài giỏi để đẩy
mạnh cuộc đấu tranh giải phóng đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Người đời sau
lưu truyền lại rằng “Bình Ngô Sách”: “hiến mưu chước lớn, ông không nói
đến việc đánh thành mà lại nói đến việc đánh vào lòng người, cuối cùng nhân
dân, đất đai của mười lăm đạo nước ta sẽ đem về cho ta tất cả”.
Điều này chứng tỏ Nguyễn Trãi là một hiểu thời cuộc. Ông đã vận
dụng “Bình Ngô Sách” để trù tính, giải quyết việc quân, việc nước. Đường lối
cơ bản của ông là nhân nghĩa, nhân dân, dân chủ, đoàn kết. Với tư tưởng và
đường lối của Nguyễn Trãi, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh giặc bằng mọi cách
quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận tạo thành một sức mạnh to lớn, thế
tiến công và cuối cùng đã chiến thắng.
Năm 1428, sau khi toàn bộ quân xâm lược đã rút khỏi nước ta,
Nguyễn Trãi vô cùng phấn khởi, thay mặt Lê Lợi, ông viết Cáo Bình Ngô – là
bản tuyên cáo đánh thắng giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời là
29
bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta sau này.
Từ đây, Nguyễn Trãi muốn thực hiện lí tưởng dựng nước của mình, là
phải làm thế nào để cho “dân yêu”, “thế nước yên”, Nguyễn Trãi đã cùng Lê
Lợi lo ngay việc củng cố nền độc lập dân tộc, giữ vững khối thống nhất tổ
quốc, xây dựng lại đất nước. Nguyễn Trãi mơ ước về một xã hội lí tưởng như
thời vua Nghiêu, vua Thuấn.
Sau khi Lê Lợi lên ngôi, Nguyễn Trãi được ban quốc tính, được phong
tước quan phục hầu, Nhập nội hành khiển Lại bộ thượng thư kiêm quản công
việc Khu Mật viện. Nhưng chức vụ này chỉ ở bậc trung của triều đình, không
cho phép ông trổ tài kinh bang tế thế. Hơn nữa, những sách lược “tâm công”
của ông lại vấp phải sự phản đối trong bộ máy quan lại triều đình, gây ra
những điều dị nghị về ông.
Năm 1430, bọn gian thần thấy ý thức dân chủ của vua quan triều thần
có chiều hướng đi lên, đe dọa nghiêm trọng đến địa vị, quyền lợi và vận mệnh
của chúng. Chúng tìm mọi cách hãm hại những công thần vì nước như việc
vua cho bắt Trần Nguyên Hãn, khiến ông phải nhảy ông tự tử. Bản thân
Nguyễn Trãi theo sử cũ Dương Bá Cung cho biết Nguyễn Trãi từng có việc hạ
ngục rồi lại được tha. Mặc dù Lê Lợi tha cho Nguyễn Trãi, nhưng không còn
tin Nguyễn Trãi nữa. Vì vậy, một thời gian sau, ông lui về ở ẩn ở Côn Sơn ở
ẩn. Cuộc sống của Nguyễn Trãi ở đó nghèo túng cực khổ.
Sau khi Lê Thái Tổ chết, Lê Thái Tông mời Nguyễn Trãi ra làm quan,
giữ chức Tả Gián nghị đại phu ở Môn hạ sảnh.
Năm 1437, Lê Thái Tông giao cho hoạn quan Lương Đãng cùng hành
khiển Nguyễn Trãi trông nom công việc làm xe loan, làm nhạc cụ, dạy nhạc.
Một người có tài kinh bang tế thế, giỏi chăm dân, trị nước như Nguyễn Trãi
mà chỉ để làm như vậy thật uổng công sức, nhưng Nguyễn Trãi vẫn vui lòng
nhận. Ông tranh thủ thời cơ để nói về nguyên lí của nhạc và khuyên vua phải
30
lo cho đời sống của nhân dân.
Trong thời gian này, Nguyễn Trãi có bất đồng với Lương Đãng nên
ông xin thôi, và về tạm nghỉ ở Côn Sơn. Hơn mười năm làm quan, Nguyễn
Trãi tuy phải gánh chịu nhiều bất công nhưng ông kiên trì đấu tranh cho lí
tưởng của mình.
Năm 1438, vua Lê Thái Tông lại ra chiếu mời ông ra làm quan với
chức cũ và coi việc quân và dân ở hai đạo Đông Bắc.
Năm 1439, vừa tuổi sáu mươi, ông cáo quan, Lê Thái Tông muốn giữ
ông không cho ông về hưu, nhưng bọn hoạn quan, gian thần không muốn ông
can thiệp vào việc triều chính. Lê Thái Tông trao cho ông làm đề cử chùa Tư
Phúc ở Côn Sơn.
Năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm Viện thừa chỉ
kiêm Quốc Tử giám ra chủ trì kỳ thi tiến sĩ, và đã lấy Nguyễn Trực đỗ trạng
nguyên. Ngày 19, tháng 9, năm 1442, vụ án Lệ chi viên xảy ra, Nguyễn Trãi
và Nguyễn Thị Lộ cùng các con chịu họa chu di tam tộc. Sau này, vua Lê
Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi và hết lòng ca ngợi con người và sự
nghiệp của ông “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.
Về sự nghiệp văn chương: Nguyễn Trãi viết nhiều, nhưng sau vụ án
thảm án Trại vải, nhiều tác phẩm của ông bị bè lũ triều thần thiêu hủy. Nay
còn lại những tác phẩm tiêu biểu sau:
- Băng hồ di sự lục (1428)
- Bình ngô đại cáo (1428)
- Văn bia Vĩnh lăng (1433)
- Dư địa chí (1435) là tác phẩm địa lí xưa nhất Việt Nam, có 54 đoạn
văn ngắn gọn, xúc tích, Nguyễn Trãi đã tổng kết khái quát về địa lí… là cơ sở
31
cho kế hoạch xây dựng đất nước thời Lê.
- Thạch khánh đồ và bài biểu (1437)
- Biểu tạ ơn (1440 – 1441)
- Ức trai thi tập (1441 – 1442)
Ngoài ra còn có một số bài phú: Chí Linh sơn, một số bức thư gửi
Nguyễn Thị Lộ...
Đáng giá chung về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi, chúng ta
có thể nhất trí với khẳng định rằng: “Văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm
thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn, là tự tiên sinh rèn luyện và phát huy
được. Tiên sinh vốn không có ý đức chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói
thổ lộ đều sáng sủa, đẹp đẽ, mạnh mẽ, dồi dào không có cái gì có thể che lấp
được…Những lời nói đó có thể làm bài học dạy cho đời bấy giờ và lưu truyền
mãi mãi đời sau” [17; 266]. “… Một nhà chính trị, một nhà chiến lược thiên
tài, một nhà ngoại giao lão luyện, và đồng thời cũng là một học giả uyên bác,
một nhà văn và một nhà thơ lỗi lạc; một đời sống lộng lẫy và… một kết cục
quá tàn nhẫn. Đó là vận mệnh của Nguyễn Trãi. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là
một con người mà sự nghiệp, tên tuổi đã vượt qua tất cả sự bất công của “vận
mệnh” để sống mãi một đời sống huy hoàng trong lịch sử nước nhà, trong tâm
hồn biết ơn của mọi thế hệ ngày sau” [25; 20].
1.3.2 Tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập”
* “Quân trung từ mệnh tập” được viết năm 1423, gồm các thư từ viết
cho tướng lĩnh quân Minh hoặc cho bọn ngụy quân, vừa là biểu cầu phong,
hoặc bài dụ gửi tướng sỹ ta ở Thanh Hóa, Nghệ An để khen thưởng vì có
công đánh giặc. Theo Ức Trai di tập, Quân trung từ mệnh tập có tất cả 42 bài.
Đến năm1961, trong Quân trung từ mệnh tập do Nhà xuất bản Sử học xuất
bản có them 4 bài do ông Phan Duy Tiếp và Đinh Gia Khánh sưu tầm.
Trong thời gian gần đây, ông Trần Văn Giáp phát hiện thêm 30 bài
32
văn của Nguyễn Trãi, biên tập thành Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên.
Như vậy, những văn kiện tìm thấy đã đưa số bài trong Quân trung từ mệnh
tập thành 69 bài, gồm
1. Thư xin hàng
2. Thư cho tổng binh cùng quan phủ vệ Thanh Hóa
3. Thư cho Thái giám sơn thọ
4. Thư cho Phương Chính
5. Thư trả lời Phương Chính
6. Lại thư trả lời Phương Chính
7. Lại thư cho Phương Chính
8. Lại thư trả lời Phương Chính
9. Thư trả lời bọn tổng binh Vương Thông thái giám Sơn Thọ
10. Thư gửi bọn Hoa đại nhân
11. Thư cho Thái công
12. Thư cho Hình nội quan cùng bọn Đả Trung và Lương Nhữ Hốt
13. Lại thư cho Đả Trung và Lương Nhữ Hốt
14. Lại thư trả lời Vương Thông
15. Lại thư gửi cho Vương Thông Sơn Thọ
16. Lại thư cho Vương Thông
17. Lại thư cho Vương Thông
…. 69. Chiếu về việc làm bài “Hậu tự huấn” để răn bảo thái tử
* “Quốc âm thi tập” là một tập thơ chữ Nôm, gồm 254 bài chia làm ba
phần lớn
33
*Phần Vô đề gồm
- Thủ vĩ ngâm
- Ngôn chí (21 bài)
- Mạn thuật (14 bài)
- Trần tình (9 bài)
- Thuật hứng (25 bài)
- Tự thán (41 bài)
- Tự thuật (11 bài)
- Tức sự (4 bài)
- Tự giới
- Bảo kính cảnh giới (61 bài)
- Về Côn Sơn ngẫu tác ngỳ trùng cửu
- Răn sắc
- Răn giận
- Dạy con trai
* Môn thì lệnh (9 bài)
* Môn hoa mộc (23 bài)
* Môn cầm thú (7 bài)
Với tập thơ này, Nguyễn Trãi trở thành nhà thơ Nôm đầu tiên
trong lịch sử nước văn học nước nhà. Hầu hết các bài thơ trong tập thơ được
Nguyễn Trãi sáng tác trong thời gian ông lui về ở ẩn ở Côn Sơn. Một số bài
thơ được làm khi Nguyễn Trãi rơi vào tâm trạng buồn bã, vô liêu. Toát lên
toàn bộ tập thơ là những suy tư về thời cuộc của một con người nặng lòng với
đất nước, chân dung của một nhà Nho chân chính, thâu nhận tất cả các dư âm
34
của cuộc đời khi lánh đời, tìm về với thiên nhiên, với Phật giáo, với tư tưởng
vô vi của Đạo gia. Tập thơ cũng là bức tranh sống động về sự mâu thuẫn
trong tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Tiểu kết chƣơng 1: Nguyễn Trãi được sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh xã hội đầy những biến động phức tạp: sự suy thoái của nhà Trần, sự đảo
chính của nhà Hồ, sự xâm lược của nhà Minh, và sự đấu tranh giành độc lập
của nghĩa quân Lam Sơn, cộng với một truyền thống gia đình tốt đẹp và tài
năng bẩm sinh và việc tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng Nho – Phật – Đạo
đã tạo lên một cốt cách của Nguyễn Trãi mang tầm vóc của thời đại, trở thành
một nhà tư tưởng – chính trị - văn hóa … lớn của dân tộc, được mọi thế hệ
biết đến. Thế giới quan của ông không chỉ là việc chỉ ra mối quan hệ đơn
thuần giữa trời – con người – vạn vật, mà thông qua đó là những lời răn về
chữ “thời”, về những chuẩn mực đạo đức, là yêu cầu trách nhiệm của nhà cầm
quyền, quan lại, và của những con người với nhau, để xây dựng một nhà hội
tốt đẹp như thời kỳ vua Nghiêu, Thuấn. Đây chính là nỗi niềm đau đáu trong
35
tấm lòng trung với nước, hiếu với dân của Nguyễn Trãi.
Chƣơng 2: MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG THẾ GIỚI QUAN
CỦA NGUYỄN TRÃI QUA TÁC PHẨM “QUÂN TRUNG TỪ MỆNH
TẬP” VÀ “QUỐC ÂM THI TẬP”
2.1 Quan niệm của Nguyễn Trãi về thế giới
2.1.1 Quan niệm của Nguyễn Trãi về tự nhiên
Nguyễn Trãi xuất thân từ một nhà Nho, tư tưởng về tự nhiên của ông
chịu ảnh hưởng nhiều từ Nho giáo.
Theo quan niệm của người Trung Hoa thượng cổ, vũ trụ lúc đầu là cõi
hỗn mang, mờ tịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là “thái cực” – chứa
hai mặt tiềm ẩn, đối lập, liên hệ với nhau là âm – dương. Sự tương tác,
chuyển hóa giữa âm – dương gọi là đạo biến hóa của trời đất. Âm – dương tạo
ra thanh khí và trọng khí. Thanh khí làm trời, trọng khí làm đất, sự điều hòa
giữa âm – dương, trời đất sẽ sinh ra vạn vật, tùy theo độ đậm nhạt của thanh
khí và trọng khí mà làm quỷ, làm người hay làm vật.
Trong quan niệm của người Trung Hoa cổ đại, thế giới được xếp ngôi
thứ gồm trời, quỷ thần, người và vạn vật, trong đó trời không phải là đấng
sáng tạo ra vũ trụ mà chỉ giữ ngôi cao nhất trong vũ trụ.
Dưới ảnh hưởng của người Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử cho rằng vạn
vật đều có chung nguồn gốc, và vận động không ngừng theo “đạo” của nó.
Khổng Tử rất tin ở trời. Ông coi trời như một quan tòa công minh,
cầm cân nảy mực. Trời quyết định sự thành bại của cuộc đời con người. Vì
vậy, Khổng Tử khuyên con người phải phục tùng ý chí đó. Ông coi việc hiểu
biết mệnh trời như một điều kiện trở thành con người lý tưởng và gọi đó là
thiên mệnh. Trong Luận ngữ, Khổng Tử viết “Đắc tội với trời không thể cầu
vào đâu được”. Ông khuyên “người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ
36
bậc đại nhân, sợ lời thánh nhân” [11; 314].
Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, tự nhiên được Nguyễn Trãi gọi bằng
các tên khác nhau: Trời (Thiên), Trời đất (Thiên địa), sông núi, cỏ cây, muôn
thú…. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng về tự nhiên của Nguyễn Trãi được ông
phản ánh qua các khái niệm: Thiên địa, càn khôn, thiên đạo, thiên lý, thiên cơ,
âm dương… và cả các khái niệm huyền bí: mệnh trời, ý trời, số… mà theo
nhận xét của Nguyễn Tài Thư cho rằng: Các khái niệm lẽ trời, vận trời, lòng
người …sức người, sức mình thì trước đó đã có, nhưng trình bày chúng trong
quan hệ gắn bó hữu cơ và giải thích một cách phù hợp với thực tế thì Nguyễn
Trãi là người đầu tiên. Sự giải thích của ông vừa có lợi ích cho hành động,
vừa có tác dụng chống thái độ tùy tiện, chủ quan duy ý chí cũng như chống cả
chủ nghĩa duy tâm mệnh trời thần bí.
Về vai trò của trời đất, Nguyễn Trãi khẳng định trời đất rất linh thiêng.
“Tôi cùng các ngài ngày trước đã có lời giao ước với nhau, trên có trời đất
quỷ thần tưởng đã chứng giám” [33; 122], luôn luôn vận động và biến hóa
không ngừng. Trong thư gửi cho các tướng giặc là Đả Trung, Lương Như
Hốt, Vương Thông. Ông viết “Vả lại vận trời tuần hoàn đi rồi lại lại, từ xưa
đến nay bao giờ cũng thế” [33; 122]. Nguyễn Trãi nhấn mạnh vai trò sản sinh
ra con người và muôn vật “Trời đất sinh muôn vật” “ơn tạo hóa của trời
đất”[33; 102].
Bên cạnh đó, trời đất còn có đức hiếu sinh, có nhân cách, có tình cảm,
giống như tình cảm của cha mẹ đối với con cái.“Thành thực yêu vật là lòng
trời đất, thành thực yêu con là lòng cha mẹ. Nếu yêu vật không thành thực thì
cơ sinh hóa có lúc đình, yêu con không thành thực thì niềm từ ái có khi thiếu.
Vì thế nên trời đất đối với muôn vật, cha mẹ đối với con cái chẳng qua chỉ vì
một chữ “thành” mà thôi” [33; 127]. “Xua mạng người vào trong đám dáo
mác, ta sợ rằng lòng hiếu sinh của thượng đế tất không để làm cho như thế
đâu” [33; 152]. Quan niệm này của Nguyễn Trãi tuy ảnh hưởng bởi yếu tố tôn
37
giáo, song mang lập trường dân tộc và nhân dân. Ông khẳng định sự chuyển
hóa của tự nhiên tuân theo quy luật mà con người chỉ có thể nhận biết được,
mà không thể cưỡng lại được. Mệnh trời quyết định đến vận nước, mệnh vua
và sự thành bại của cuộc đời con người “nước thịnh hay suy quan hệ ở trời”
[33; 130], quyết định số mệnh của con người.
“Mới biết doanh hư là có số
Ai mà cãi được lòng trời” [33; 424]
Nguyễn Trãi cho rằng con người phải nhận thức được quy luật, biết
tuân theo lẽ trời, mệnh trời thì sẽ có thể chuyển bại thành thắng, chuyển nguy
thành an. Còn nếu con người không theo ý trời thì có thế “biến thân thiết làm
thù địch, chuyển yên thành nguy” [33; 174], “tự rước họa vào thân” [33; 175].
Trong tư tưởng của mình, Nguyễn Trãi đôi khi cho rằng số trời, mệnh
trời như một sự tất yếu dẫn đường cho số phận con người. Ông lấy mệnh trời
để tự răn mình, để từ đó tìm ra con đường đi riêng cho mình. Theo ông, trời
như một quan tòa công minh, vì vậy, con người phải biết an phận, không nên
bon chen, làm điều trái với đạo đức.
“Được thua phú quý dầu thiên mệnh
Lăn lóc làm chi cho nhọc nhằn” [33; 404]
Tuy khẳng định vai trò quan trọng của trời, song trời trong quan niệm
của Nguyễn Trãi không phải là đấng siêu nhiên, thần bí, mà trở thành một quy
luật, một thời để con người nhận thức và hành động theo quy luật ấy. Và
Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng mệnh trời để thuyết phục giặc và tạo niềm
tin trong quân dân ta.
Quan niệm về tự nhiên của Nguyễn Trãi tuy chưa bao quát tất cả các
phương diện của tự nhiên, song đã mang tính khách quan, tiến bộ của các nhà
Nho không bị bó buộc hoàn toàn vào thiên mệnh, số mệnh. Bên cạnh đó, việc
38
tìm hiểu về giới tự nhiên không chỉ giúp con người lý giải về các hiện tượng
tự nhiên, mà có ý nghĩa giáo dục ý thức, phương cách, kinh nghiệm ứng xử
của con người đối với tự nhiên.
2.1.2 Quan niệm của Nguyễn Trãi về con người
Trải dài suốt hai tập thơ văn từ “Quân trung từ mệnh tập” – lúc ông
hăng hái tham gia cuộc kháng chiến cùng với Lê Lợi để xây dựng một xã hội
lý tưởng thời Nghiêu – Thuấn cho đến “Quốc âm thi tập” – lúc ông cáo quan
về ở ẩn thì hình ảnh con người trong những tác phẩm của ông đầy sinh động
lúc háo hức sôi động, lúc trầm tĩnh suy tư.
Nguyễn Trãi tiếp cận vấn đề con người ở nhiều phương diện khác
nhau. Thứ nhất, ông quan tâm đến những người lao động, đó là dân, dân
chúng, kẻ cấy cày, dân đen… Ông không chỉ thể hiện tình yêu thương với họ
mà Nguyễn Trãi còn khẳng định trách nhiệm phải chăm lo đời sống cho họ.
Thứ hai, con người trong tư tưởng Nguyễn Trãi được thể hiện ở các
thân phận xã hội khác nhau từ tầng lớp vua chúa, quan lại, tứ dân. Với mỗi
tầng lớp người, ông đều đưa ra sự nhìn nhận và đánh giá về thân phận của họ.
Thứ ba, ông đề cao vai trò của những người mang trách nhiệm giáo
hóa dân. Đó là những nhà Nho, tùy vao chức phận của họ mà ông nêu lên
trách nhiệm tương ứng.
Thứ tư, Nguyễn Trãi đặt con người trong các mối quan hệ khác nhau:
con người và tự nhiên, con người và con người. Thông qua các mối quan hệ
này, Nguyễn Trãi đưa ra những bài học đạo đức để con người hoàn thiện nhân
cách của mình. Như vậy, tuy Nguyễn Trãi chưa đưa ra một định nghĩa hoàn
chỉnh về con người, song ông đã thể hiện sự suy tư, chiêm nghiệm, sự phản
ảnh của mình về đời sống hiện thực của con người. Cách tiếp cận về con
người của Nguyễn Trãi mang tính tiến bộ, phản ánh sự kế thừa, và phát triển
39
dòng chảy tư duy triết học của dân tộc.
Về nguồn gốc hình thành con người ở Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng
bởi quan niệm Nho giáo đặc biệt là Nho giáo Việt Nam. Theo tư tưởng triết
học phương Đông, con người là kết quả, hội tụ, kết tinh mọi tinh hoa trong
trời đất, muôn vật, là một trong ba yếu tố “tam tài” (Thiên – Địa – Nhân),
trong con người có đủ cả “hình” và “thần”, “tâm” và “thân”. Theo Nho giáo,
con người là đức của trời đất, là sự giao hợp của âm dương, là hội tụ của quỷ
thần, là khí tinh tú của ngũ hành.
Nguyễn Trãi cho rằng con người là kết quả của sự vận hành, sinh hóa
không ngừng của trời đất. Ông lí giải số phận con người là do mệnh trời quyết
định, song sự sống – chết của con người được ông lí giải dựa trên quan điểm
“sinh – tử là lẽ thường”. Nguyễn Trãi cho rằng con người sinh ra và mất đi là
tất yếu, không thay đổi được, vì vậy con người phải thuận theo tự nhiên, phải
sống có ích với đời. Con người phải biết lựa chọn cái chết cho xứng đáng
“Huống chi nói đến cái chết, chết mà có ích cho nước thì dẫu chết cũng đáng,
còn nếu chết vô bổ thì chỉ là chết uổng mà thôi. Biết thế bài là có ích, thế nào
là vô ích…Nếu chỉ bo bo giữ cái khí tiết nhỏ mọn của con người mà làm hại
tính mệnh của dân chúng trong cả một thành, thì lòng của con người nhân
quyết không làm thế [33; 762].
Đến với Nguyễn Trãi, cái chết được gắn liền với vận mệnh đất nước.
Nó thể hiện tinh thần yêu nước, thương dân, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân.
Điểm tiến bộ trong tư tưởng Nguyễn Trãi về con người đó là một mặt ông cho
rằng cuộc sống con người do trời quyết định, một mặt ông khẳng định vai trò,
sức mạnh của con người có thể vượt lên trên số phận “Tôi thường nghe: thời
có thịnh suy, quan hệ ở vận trời, việc có thành bại ở thực tại người làm” [33;
173].
Ông biến trời trở thành một quan tòa kiểm soát mọi hành động của
40
con người “Những việc tôi làm đều là tình ý thực thà, có trời đất, quỷ thần soi
xét trên đầu, giám sát ở bên” [33; 123]. Ông khuyên kẻ là tướng trước hết
phải biết “trên xét thời trời, dưới suy việc người”, nên “tuân theo lẽ phải của
trời, không thể theo ý của riêng mình được” [33; 157]. Còn đối với quân lính,
ông kêu gọi “Nay trời mượn tay ta, việc không đừng được, ai theo mệnh ta thì
phá giặc, sống mà có công, ai không theo mệnh ta thì chết, chẳng được việc
gì” [33; 144]. Tư tưởng về nguồn gốc con người của Nguyễn Trãi mang lại
những giá trị lý luận sâu sắc, tiến bộ trong việc khẳng định con người là kết
quả sinh thành của tự nhiên, là tinh hoa của trời đất, con người vận động theo
quy luật của tự nhiên, chịu sự chi phối của tự nhiên. Song ông cũng khẳng
định vai trò, sức mạnh của con người để chiến thắng tự nhiên.
Về bản tính con người, Nguyễn Trãi cho rằng “Tôi nghe: Người Việt
kiêu bạc, người Tề trí trá, ấy là bởi khí đất sinh ra, tính người bẩm thụ đó là lẽ
thường xưa nay…” [33; 110]. “Tính người bẩm thụ” mà Nguyễn Trãi đề cập
ở đây chính là cái thiên tính, là sự hiện diện của mệnh trời trong con người.
Từ đây, Nguyễn Trãi cho rằng việc con người hiểu và tuân theo đạo
trời có nghĩa là con người đang thực hiện đạo người. Quan niệm về bản tính
con người của Nguyễn Trãi phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ, bởi theo
ông, vai trò của hoàn cảnh sống tác động đến sự thay đổi tính người.
“Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì rắp khuôn
Lân cận nhà giàu no bữa cám
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại
Kết mấy người khôn học nết khôn
Ở đấng thấp thì nên đấng thấp
41
Đen gần mực, đỏ gần son” [33; 445]
Theo Nguyễn Trãi tính người có những điểm chung nhất định, đó là
ham thích những lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần “Người ham phú quý,
người hằng trọng” [26; 668]. Chính vì lòng tham này khiến cho tình nghĩa,
đạo đức biến đổi. Ông khuyên con người cần phải giữ gìn bản tính vốn có,
không nên chạy theo những lợi ích đó bởi sự giàu sang không tồn tại mãi.
“Lòng chẳng mắc tham là của báu
Người mà hết lụy ấy thần tiên” [33; 420]
Và chỉ khi đó con người mới đạt đến sự hài hòa, tự do, tự tại trong tâm
hồn
“Phú quý lòng người hơn phú quý danh
Thân hòa tự tại thú hòa thanh” [33; 810]
Tính người ham sống, sợ chết “Ghét chết, thích sống, tìm vinh tránh
nhục, đó là thường tình của người ta” [33; 358].
Tuy khẳng định tính người là thiện, thấy được sự thay đổi tính người
do tác động của hoàn cảnh xã hội, song Nguyễn Trãi vẫn chưa thấy được tính
người là hoạt động thực tiễn, là sản phẩm hình thành từ thời đại của họ. Ông
cũng chưa thấy được mối quan hệ giữa hoàn cảnh và hoạt động thực tiễn
trong việc tạo ra tính người. Chính vì vậy, tư tưởng về tính người của Nguyễn
Trãi chưa nêu được cách giải quyết thực tiễn xã hội đương thời, từ đó phát
huy sức mạnh, bản chất tốt của con người, hoàn thiện tính người nhằm cải tạo
và xây dựng xã hội ngày càng tiến bộ. Hạn chế này xuất phát từ hoàn cảnh xã
hội Đại Việt có những chuyển biến lớn về thời đại.
“Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
42
Lòng người quanh nữa nước non quanh” [33; 441]
Vì vậy, Nguyễn Trãi chú trọng đến nhu cầu tinh thần, ông kêu gọi
con người lấy tinh thần thay thế cho nhu cầu vật chất, hoặc có thái độ thờ ơ,
lảng tránh danh lợi để cầu sự thanh nhàn. Bản thân Nguyễn Trãi cũng tìm đến
Phật giáo, Đạo gia trước hoàn cảnh xã hội đầy biến động, song với tấm lòng
trung hiếu, ông luôn đau đáu nỗi niềm với dân, với nước, luôn nhắc nhở mình
tu dưỡng đạo đức, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn, thử thách hay thế
lực cường quyền nào.
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng” [33; 412]
2.2 Quan niệm của Nguyễn Trãi về mối quan hệ giữa con ngƣời và
tự nhiên; quan hệ giữa con ngƣời và con ngƣời
2.2.1 Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
Quan hệ giữa trời và người là một trong những vấn đề trung tâm trong
thế giới quan triết học. Trong tư tưởng Nguyễn Trãi, mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên được ông giải quyết hài hòa, dưới ảnh hưởng của tư tưởng
Nho – Phật – Đạo.
Tự nhiên trong mối quan hệ đó được Nguyễn Trãi thể hiện với vẻ
tuyệt đẹp bằng đủ đường nét, màu sắc, âm thanh.
“Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu
Khói chìm thủy quốc nguyên phẳng
43
Nhạn triện hư không gió thâu” [33; 399]
Ông coi thiên nhiên như con người thực thụ, có tình, có ý, có cá tính,
có tâm tư, khi kín đáo, khi sôi sục, lúc trìu mến, lúc mỉa mai, nhưng tất cả đều
trong trắng tinh khiết, trung hậu, hiền hòa.
Và thiên nhiên ấy trở thành người bạn, trở thành nơi tâm sự, nâng niu,
vỗ về, an ủi tâm hồn đau khổ của con người.
“Khánh đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè liên nước ghin nguyệt đeo về” [33; 411]
Hay
“Chè tiên nước ghím bầu in nguyệt
Mai rụng hoa đeo bóng cách song” [33; 412]
Đôi khi tự nhiên trở thành người thân, là con cái của con người.
“Dẫu người đi là đá mòn
Đường hoa vướng vắt trúc luồn
…. Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn
U ấp cùng ta làm cái con” [33; 402]
Ông yêu cầu con người cần nhận thức được quy luật của tự nhiên, biết
trân trọng, giữ gìn và bảo vệ tự nhiên.
“Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây” [33; 405]
Nguyễn Trãi không nỡ thả cá vì sợ nó quẫy làm tan mất vầng trăng, vì
thương loài chim nên ngại phát cây, hay thương cá mà không dám câu.
“Người tri âm ít, cầm nên lặng
44
Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu” [33; 436]
Nhờ có thiên nhiên, Nguyễn Trãi nhận ra những triết lý của vạn vật.
Ông thấy cuộc sống của mình ung dung, tự tại hơn trong hoàn cảnh xã hội đầy
những biến động lúc bấy giờ. Đó cũng là lí do, Nguyễn Trãi tiếp thu và dung
thông tư tưởng Phật – Đạo trong hệ tư tưởng của mình. Đồng thời, nó thể hiện
tình yêu quê hương, đất nước trong con người Nguyễn Trãi.
Thông qua việc tìm hiểu mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
Nguyễn Trãi khẳng định con người phải biết tuân theo mệnh trời, tuân theo
quy luật của thiên nhiên.“Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ linh mà tiếng
là nước thi thư, những bực trí mưu tài đức đời nào cũng có. Vì thế phàm
những việc ta làm đều là đúng theo lễ nghĩa, hợp trời thuận người” [33; 127].
Từ đây, Nguyễn Trãi đưa ra quan niệm về chữ “thời”.“Tôi từng xem
Kinh Dịch 384 hào mà cốt yếu ở chữ “thời”, cho nên người quân tử theo thời
thông biến, nghĩa chữ “thời” to tát sao” [33; 129] để con người nhìn vào đó
mà hành động.
Ở đây ta thấy được yếu tố biện chứng trong tư tưởng Nguyễn Trãi
thông qua sự kết hợp yếu tố khách quan là lẽ trời, vận trời, với yếu tố chủ
quan lòng người. Nói theo ngôn ngữ ngày nay đó là xu thế lịch sử, xu thế thời
đại, lòng người, sức dân. Theo Nguyễn Trãi có hai yếu tố đảm bảo thành
công trong hoạt động của con người đó là:
Thứ nhất: Phải thuận lòng trời, mới hợp lòng người. [33; 201]
Thứ hai. Bản thân con người hoạt động, ngoài sự hiểu biết của mình.
nắm được những điều kiện bên ngoài thì cần phải biết được sức lực của mình,
khả năng của mình, quan tâm để thực hiện mục đích đó.“Cái điều đáng quý ở
người quân tử là biết thời thông biến, lượng sức xử mình” [33; 128].
Ông cũng chỉ ra rằng trong hai điều kiện đó, loại thứ nhất là điều kiện
cần, là điều kiện quyết định hoạt động của con người. Còn loại thứ hai là điều
45
kiện đủ, phải kết hợp cả hai điều kiện này mới có thể thành công.
Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố chủ quan vag khách quan đúng đắn
đã giúp ông tìm và phát hiện ra thời cơ – là hoàn cảnh khách quan thuận lợi
nhất để hoạt động của con người đạt đến thắng lợi. Điều này chứng tỏ tư duy
lý luận của ông thời kỳ đó hoàn toàn đúng và nó có ý nghĩa lý luận về sau.
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được Nguyễn Trãi giải quyết
khác với triết học phương Tây, bởi ông không bàn nhiều đến khía cạnh con
người với tư cách là sản phẩm phát triển cao của giới tự nhiên, từ đó cải tạo tự
nhiên phục vụ nhu cầu của mình, mà chủ yếu xem xét con người nằm trong
mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân hợp nhất. Tuy tư tưởng này của Nguyễn Trãi
chưa được hình thành một cách hệ thống, song điểm chung lại Nguyễn Trãi
chủ trương giáo dục trách nhiệm con người phải tôn trọng tự nhiên, nhận thức
quy luật của tự nhiên để sống hài hòa với tự nhiên.
2.2.2 Mối quan hệ giữa con người với con người
Nếu như triết học phương Đông xuất phát từ quan niệm thế giới quan
“thiên nhân hợp nhất” lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính
chất hướng nội, nghiên cứu thế giới để làm rõ con người. Do đó, vấn đề bản
thể luận trong triết học phương Đông dường như bị mờ nhạt. Ngược lại, triết
học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng
ngoại, vấn đề con người được nghiên cứu nhằm mục đích giải thích thế giới,
cho nên triết học phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người,
nghiên cứu chủ yếu mặt đạo đức, thì ở Phương Tây ít quan tâm đến mặt xã
hội của con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý
giải phóng con người về mặt nhận thức.
Dưới ảnh hưởng của thế giới quan triết học phương Đông, thế giới
46
quan triết học Việt Nam thiên về các vấn đề xã hội, nhân sinh, nhằm xây dựng
lý lẽ cho chính trị - xã hội và luân lý qua đó giáo dục đạo làm người. Do đó,
mối quan hệ giữa con người với con người trở thành vấn đề chủ đạo trong thế
giới quan triết học Việt Nam. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, mối quan hệ
này được ông giải quyết thông qua các quan hệ nhân sinh, trước hết là quan
hệ trong danh – phận thể hiện thông qua mối quan hệ vua – tôi, cha – con,
chồng – vợ, anh – em, bằng hữu.
2.2.2.1 Mối quan hệ vua – tôi trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Mối quan hệ vua – tôi được biểu hiện thông qua phạm trù trung. Theo
Nho giáo, trung là một khái niệm chính trị - đạo đức, thể hiện tấm lòng với
vua của quân thần, theo đó vua được coi là thiên tử, có sứ mệnh thay trời giáo
hóa dân. Nghĩa vụ của bề tôi là phải tận trung với vua. Đồng thời với đó nhà
vua phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức, phải yêu thương dân. “Vua mà coi bề
tôi như tay chân, ắt tôi sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi bề tôi như chó
ngựa, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường. Vua mà coi tôi như bùn rác, ắt tôi
coi vua như kẻ cướp, người thù” [12; 41].
Các ông còn chủ trượng bề tôi phải biết chọn vua xứng đáng để thờ.
Ông yêu cầu nhà vua là người đại diện cho dân, nên phải tạo được niềm tin
trong dân. “Như vua có phạm lỗi lớn, thì quan khanh can gián. Nếu đã can
gián nhiều lần mà vua chẳng nghe, ắt quan khanh phải hội triều đình và tông
tộc để tôn một người tài đức hơn thay thế” [12; 141]. Nhà cầm quyền phải
luôn giữ cốt cách cho nghiêm trang, đối với cha mẹ phải hiếu thuận, với con
cái phải từ hiếu, phải tận tụy, lao lực vì dân, nghĩa là phải biết tu thân, sửa
mình.
Tuy nhiên sang thời kỳ Tống nho, mối quan hệ vua – tôi được đẩy lên
mức độ cực đoan, khi cho rằng quyền uy của vua là quyền uy của trời, mọi
người đều phải phục tùng vô điều kiện “Rõ ràng từ Đổng Trọng Thư trở đi,
vai trò của vua, của kẻ thống trị được đề cao đến mức tuyệt đối, còn vai trò
47
của người bị thống trị thì chỉ là thể hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với vua” [3; 32].
Đến Đổng Trọng Thư, chữ trung quân bị xuyên tạc giá trị nhân văn
của chữ trung nguyên thủy.
“Quân xử thần tử
Thần bất tử bất trung”
Khi Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam, phạm trù trung có những
chuyển biến phức tạp, với nhiều nội dung mới, đáp ứng yêu cầu thực tế của xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đối với nhà cầm quyền, họ nhận rõ trách nhiệm
của mình là phải tu tâm dưỡng tính, làm việc vì dân, vì nước để từ đó có được
lòng tin yêu của dân. “Trẫm là người ít đức, đứng đầu thần dân, dậy sớm thức
khuya, lúc nào cũng lo sợ như lội vực sâu chưa biết lấy đạo gì để thấu trời đất,
lấy sức gì để kịp Nghiêu, Thuấn” [20; 297].
Đối với tầng lớp quan lại, nho sĩ, sự tiếp nhận phạm trù trung của Nho
giáo cũng hoàn toàn khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan lẫn
khách quan. Có người lấy lợi ích của dân, của nước làm cơ sở, nhưng cũng có
người lại dựa trên những quan điểm tôn quân, cực đoan của Nho giáo thời kỳ
Hán Nho, Tống Nho làm tiêu chuẩn chữ trung của mình.
Đối với dân chúng, chữ trung như một đức hạnh quan trọng, là một
trong những thước đo phẩm giá của xã hội đối với đạo đức con người. Nó
được kết hợp với chữ hiếu, tạo ra một chuẩn mực hình thành nên nhân phẩm
và đạo đức của người dân Việt Nam.
“Chữ hiếu, chữ trung là trung với mẹ
Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân”
Như vậy, nội dung chữ trung của Nho giáo ngày càng xa dần với nghĩa
khởi thủy và mang trong mình nhiệm vụ chính trị. Khi vào Việt Nam, nó
mang khuôn mẫu của Trung Quốc thời Hán Nho, Tống Nho, mất đi tính nhân
văn vốn có của nó. Tuy nhiên, một số nhà tư tưởng vượt lên trên quan điểm
của thời đại, để mang lại cho chữ trung nội dung mới, tiến bộ và nhân bản,
48
phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam, tiêu biểu trong số đó có tư tưởng của
Nguyễn Trãi thể hiện trong mối quan hệ vua – tôi. Mối quan hệ này được
Nguyễn Trãi giải quyết thông qua hai khía cạnh.
* Mối quan hệ vua – quan.
Với vua, Nguyễn Trãi cho rằng nhà vua phải trung. Chữ trung đó được
ông hiểu chính là yêu cầu đạo đức, tài năng, đồng thời là trách nhiệm của vua
với dân, với nước. Ông khẳng định nhà cầm quyền phải có đức, có tài. Ông
đưa ra đòi hỏi người đứng đầu của một quốc gia phải đạt được nhân đạo và
thiên đạo. Trong tờ “Chiếu giáng Tư Tề làm quận vượng, đặt con thứ là
Nguyên Long nối nghiệp” ông viết “Thiên hạ rất lớn, công việc rất nhiều, vì
thế trẫm đã nhọc sức nhọc lòng, chức thành bệnh tật, đem ngày cố gắng, sự
không thể kham. Hoàng thái tử tuy tuổi còn non, mà có tiếng nhân hiếu ” [33;
200].
Học tập tư tưởng tiến bộ của các nhà Nho đi trước, Nguyễn Trãi cho
rằng ngôi vua nhất thiết phải được truyền cho người có đủ đức, đủ tài.“Truyền
ngôi là việc lớn của quốc gia… thờ trời đất phải hết thành; thờ tôn miếu phải
nghĩ hết hiếu. Cùng anh em phải thân mến, đối tôn tộc phải thuận hòa. Cả đến
coi trăm quan, trị muôn dân, không việc gì không là lo hết đạo … chớ gần
thanh sắc và tham của tiền, chớ ham chơi săn và thích dâm đãng, chớ nghe
sàm nịnh mà bỏ lời trung trực, chớ dung tân tiền mà bỏ kẻ cựu thần… để thay
ta coi trị nước nhà, để gốc nước vững bền, để lòng dân yên ổn, Ôi! Nghiêu
Thuấn truyền tâm, chấp trung làm cốt, Vũ Văn đạo lớn, kế tự không quyên”
[33; 201 -202].
Về những yêu cầu cụ thể đối với vua, nhà vua phải có nghĩa vụ “lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Vua phải luôn rủ lòng
thương và chăm lo đến muôn dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không
49
có một tiếng hờn giận, oán sầu.
Khi thay Lê Thái Tổ làm tờ “Chiếu về việc làm bài hậu tự huấn để răn
bảo thái tử”, một lần nữa Nguyễn Trãi nói rõ trách nhiệm của kẻ làm vua.
“Nay con nhờ công lao của ta, nối cơ nghiệp của ta, phàm những phép
giữ nước cầm quân, những phương giữ mình trị nước, thi hành nên cố sức,
chăm chỉ chớ ham vui. Hòa thuận tôn thân, nhớ giữ một lòng hữu ái, thương
yêu dân chúng, nghĩ làm những việc khoan nhân” [33; 203].
Nhà vua còn phải biết trọng dụng nhân tài, phải rộng lượng, anh minh
đối với người cộng sự của mình “Chớ thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư
nộ… cố theo người trước. Vậy có lời huấn giới”[33;203]. Nguyễn Trãi cũng
đòi hỏi những người có chức phận coi quân, trị dân phải thực hiện phép công
bằng trong quan hệ với mọi người “Ngày nay từ các đại thần tổng quản, cho
đến đội trưởng cùng các quan ở viện, sảnh, cục, phàm người có chức vụ coi
quan trị dân, đều phải theo phép công bằng làm việc cần mẫn” [33;197].
Như vậy, trong mối quan hệ vua – quan, Nguyễn Trãi khẳng định
quan phải trung với vua, vua phải có nhân, có được lòng tin của quan cũng là
trung vậy. Nguyễn Trãi đã biết khéo léo kết hợp những điểm hợp lí của Nho
giáo để đưa ra cho mình một quan niệm “trung” mang tính chất phát triển và
tiến bộ. Ông đưa ra cho mình một tư tưởng mang tính chất tuyên ngôn: phải
trung với vua, vì trung với vua là yêu nước, thương dân.
“Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả
Qua ngày qua thán được an nhàn” [33; 440].
“Làm người thì giữa đạo trung dung
Khăn khắn dặn dò thuở lòng” [33; 438].
Ông luôn nhắc nhở mình phải nhớ ơn của vua, mà mang sức mình ra
phục vụ đất nước, nhân dân.
50
“Có con mới biết ơn cha nặng
Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều” [33; 451].
“Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con mới cảm đức cha” [33; 408].
Có những lúc, Nguyễn Trãi còn cụ thể hóa lòng cảm ơn của mình
xuống mức thấp hơn đấng bề trên, để thấy được sự bền vững của nó trong chế
độ mà ông đang phụng sự.
“Ăn lộc nhà quan chịu việc quan
Chớ tham tiểu lợi phải gian nan” [33; 444].
Nguyễn Trãi như một tấm gương sáng về trung với vua, với nước. Tuy
nhiên cũng cần khẳng định rằng, trung trong tư tưởng Nguyễn Trãi là trung
với một ông vua sáng, bề tôi chỉ phụng sự những ông vua biết chăm lo đến
đời sống của nhân dân, chứ không phải trung một cách mù quáng. Chính điểm
mới mẻ và tiến bộ so với thời đại đã giúp Nguyễn Trãi có quyết định đúng khi
tham gia chính sự cho nhà Hồ, và sau đó đi theo Lê Lợi chống giặc cứu nước,
cứu dân, để xây dựng một xã hội lí tưởng như thời vua Nghiêu, vua Thuấn.
“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền” [33; 420].
Ngoài việc đưa ra quan niệm “trung” đối với tầng lớp quan lại.
Nguyễn Trãi còn phê phán bọn quan tham lam lười biếng, đục khoét của
nhân dân“chia bản phủ, ban thái ấp, chung ngựa trắng ăn thề, mua ghen ghét,
chuốc dèm pha, chợt nhặng xanh nhơ vết … quần môn mặc kệ dèm pha;
thánh ý cứ bền tín nhiệm” [17; 206]. Ông đưa ra những tấm gương của người
xưa để dạy dỗ tầng lớp quan lại.
“Bá Di người rặng thanh là thú
51
Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề
Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp
Cầu ai khen liễn lệ ai chê” [33; 412]
Ông khinh ghét bọn quan nịnh hót, tham ô, luôn đấu tranh không mệt
mỏi với cái xấu, đau xót trước sự xuống cấp của xã hội đương thời.
“Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ
Áo người vô nghĩa, mặc chẳng thà” [33; 408]
Như vậy, đạo làm quan được Nguyễn Trãi tổng kết như sau: “Ngày
nay từ các đại thần tổng quản cho đến đội trưởng cùng các cơ quan ở viện,
sảnh, cục, phàm có người chức vụ coi quan, trị dân đều phải theo phép công
bằng, làm việc ần mẫn, thờ vua thì hết trung, đối dân thì hết hòa, đổi bỏ tham
ô, sửa trừ tệ lười biếng” [17; 199]. Nếu được như vậy thì chữ trung mới trọn
đạo, thiên hạ được bình an.
“Rầy mừng thiên hạ hai của
Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh” [33; 417]
* Mối quan hệ vua – dân
Cả cuộc đời Nguyễn Trãi chỉ mong muốn được mang lại hạnh phúc và
sự bình yên cho dân. Trong những năm sống một cuộc sống nghèo khổ ở quê
nhà cùng với cha, cùng với những người nông dân nghèo khổ đã làm cho
Nguyễn Trãi gần gũi, nhận thức và thông cảm cho cuộc sống của người nông
dân. Không những thế, Nguyễn Trãi còn thấy được một vai trò, một sức mạnh
to lớn của dân.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của Nho học Khổng Mạnh, nhưng tư tưởng về
dân của Nguyễn Trãi được bổ sung, phát triển hơn, mang đậm tính chất nhân
văn, tính nhân dân, và tính dân tộc. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi về dân,
ta luôn nhìn thấy ông có một cái nhìn thân thiện, gần gũi, một tình cảm
52
thương dân từ đáy lòng.
Dân trong tư tưởng Nguyễn Trãi bao hàm một nội dung rộng rãi bao
gồm tất cả các cộng đồng “dân nước Việt”, không loại trừ thành phần xã hội
nào, kể cả nô lệ, nô tỳ. Đây là điều tương đối khác so với Nho giáo, bởi theo
Nho giáo, dân là đối tượng bị cai trị, bị sai khiến. Từ đây, Nguyễn Trãi đưa ra
một số cách hiểu về “Dân” như sau:
Dân là những người bình dị nhất trong xã hội, họ là những người nông
dân nghèo khổ và đang làm ra của cải để nuôi sống toàn xã hội. Cuộc sống
nơi thôn quê trong những năm sống ở quê nội đã giúp Nguyễn Trãi có một cái
nhìn gần gũi và độ lượng hơn với người dân quê. Ông ngợi ca những con
người bình dị trong cuộc sống mà sau này theo ông, họ là những người đóng
vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Điều này
không phải ai cũng làm được.
Rõ ràng ở phương diện này, dân được Nguyễn Trãi đề cập bao gồm tất
cả những người lao động trong xã hội. Đó là bốn hạng người: Sĩ, Nông, Công,
Thương. Cả bốn hạng người này đang lao động để duy trì cuộc sống cho xã
hội, họ đều là con dân của đất Việt, đều là bề tôi của nhà vua, nên cần phải
được nhà vua chăm sóc.
“Bốn dân nghiệp có cùng cao thấp
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng” [33; 438].
Những người dân tưởng chừng như vô danh đó, theo ông là những
người sẽ giúp cho nhà vua kháng chiến cứu nước. Bởi trong dân chúng theo
ông có những “hào kiệt ẩn náu nơi đồng nội”, những “hào kiệt ẩn náu hàng
binh lính”. Những hào kiệt này là điển hình cho tài năng và trí tuệ của nhân
dân, của dân tộc, sẽ giúp nhà vua xây dựng một xã hội tốt đẹp. Điều này đã
được chứng minh trong cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. Nói như
vậy để thấy được rằng, với Nguyễn Trãi,dù là những giai cấp, tầng lớp bình
53
dân nhất của xã hội cũng chứa đựng trong đó những người tài giỏi nhất. Vì
vậy, chúng ta phi biết trân trọng và yêu quý họ vì “chở thuyền cũng là dân.
Mà lật thuyền cũng là dân”. Đây là khởi nguồn cho tư tưởng bình đẳng trong
xã hội của Nguyễn Trãi.
Dân là những người bị bóc lột nặng nề nhất trong xã hội, đặc biệt là
khi triều đại phong kiến rơi vào khủng hoảng hay khi đất nước lâm vào hoàn
cảnh chiến tranh.
Sống vào những năm cuối cùng của triều Trần, chứng kiến cảnh suy
vong của chế độ đã đẩy nhân dân vào cảnh bị bần cùng hóa, trong khi tầng
lớp quan lại vơ vét cho riêng mình, vua chúa thì ăn chơi, hưởng lạc. Đến khi
nhà Hồ lên ngôi, Nguyễn Trãi đã không ngần ngại ra làm quan nhà Hồ với hi
vọng đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng thực tế nhà Hồ là
làm mất lòng dân, “chẳng nghĩ khổ dân hại nước”. Hơn hai mươi năm giặc
Minh thống trị nhân dân ta là hơn hai mươi năm của những trang sử đen tối,
đau thương và cũng oanh liệt của dân tộc. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã chịu
những cảnh giam lỏng ở thành Đông Quan, nên ông giành hết tình cảm của
ông, với những lời lẽ thông cảm nhất khi nói về dân, nghĩ đến dân.
Như vậy, khác với tư tưởng Nho giáo Tiên Tần, Nguyễn Trãi không
đứng trên lập trường của giai cấp trên để nói về dân, mà ông đã thực sự đứng
vào hàng ngũ của người dân, để chia sẻ nỗi khổ của họ. Đây là một sự khác
biệt và tiến bộ vượt bậc của ông so với Nho sĩ đương thời.
Từ sự thấu hiểu đó Nguyễn Trãi đã nhận thức rõ vai trò của dân đối
với sự tồn vong và phát triển của đất nước.
Nhân dân trong tư tưởng Nguyễn Trãi là một lực lượng lao động sản
xuất, tạo ra của cải, nuôi sống xã hội. Với Nguyễn Trãi, nhân dân là đối tượng
phải biết ơn, phải đền ơn, phải ca ngợi và khâm phục. Ông đã nâng sự nhận
54
thức này nên một mức khái quát cao: quan tâm đến dân là đạo đức của nhà
vua, trách nhiệm của kẻ cầm quyền là phải “an dân”, “phải trừ độc, trừ tham,
trừ bạo ngược”.
Dân là yếu tố quyết định sự hưng vong của một triều đại. Họ có thể
lập ra một chế độ này hay đánh đổ một chế độ khác. Nếu Khổng Tử và Mạnh
Tử nhắc đến vai trò của dân, để yêu cầu nhà vua, người càm quyền phải biết
giáo hóa, giáo dục dân, và chỉ cho họ cách cai trị dân, khiến dân tin để nhằm
duy trì vương triều của mình, thì Nguyễn Trãi lại chỉ cho các nhà vua thấy
được vai trò của dân để biết trân trọng và giữ gìn dân. “Vả lại, mến người có
nhân là dân mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân, giúp người có đức là
trời mà khó tin và không thường cũng là trời” [33; 203].
Từ đây, Nguyễn Trãi hăm hở thực hiện lí tưởng chính trị của mình,
xây dựng một chính quyền vì dân, “yên dân”, vì hạnh phúc của nhân dân để
“trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận, oán sầu”. Ông mong
muốn một xã hội trên có vua hiền, dưới có tôi giỏi, mọi người đều sống hạnh
phúc, ấm no, thanh bình bằng sức lao động của mình
“Cày ruộng cuốc vườn đều hết khỏe
Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu” [33; 410].
Nói về dân, vai trò của dân, ta còn nói đến chính sách thân dân của
ông được hình thành trên cơ sở tiếp thu truyền thống yêu nước, những yếu tố
tích cực của Nho –Phật – Đạo, truyền thống gia đình và đặc biệt trong thực tế
chống quân Minh, thực tế những năm tháng làm quan dưới triều Lê.
Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi phản ánh xu thế để cho nô tỳ,
nông nô thoát khỏi chế độ đại điền trang thái ấp, trở thành nông dân tự canh,
những tá điền. Nguyễn Trãi xứng đáng được coi là nhân vật lịch sử có tư
tưởng nhân dân cao quý nhất, không những vượt xa những người đương thời,
bỏ qua những nhân vật lịch sử trước, mà còn hơn nhiều những nhà tư tưởng
55
sau đó trong suốt thời kỳ chế độ phong kiến.
Trong mối quan hệ vua – dân, Nguyễn Trãi đưa ra trách nhiệm của
nhà vua đối với nhân dân đó là dưỡng dân, giáo dân và an dân.
Đầu tiên là trách nhiệm dưỡng dân. Nguyễn Trãi cho rằng của cải
trong xã hội là do dân lao động tạo ra, cho nên nhà vua phải coi dân như con,
nuôi dưỡng và thương yêu dân chúng.“Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng
mệnh Triều đình, chăn nuôi dân chúng, ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết
lòng thương yêu” [33; 103].
Tư tưởng của Nguyễn Trãi về trách nhiệm dưỡng dân của nhà cầm
quyền mang giá trị đạo đức sâu sắc, vượt qua tư tưởng Nho giáo đang ảnh
hưởng trong xã hội lúc bấy giờ, bởi nếu tư tưởng Nho giáo cũng đặt ra trách
nhiệm của nhà vua là phải dưỡng dân, nhưng dưỡng dân để duy trì và củng cố
địa vị của nhà vua. Còn với Nguyễn Trãi dưỡng dân là coi dân như con, phải
yêu thương, nâng đỡ cho dân.
Tiếp đó, Nguyễn Trãi cho rằng nhà vua phải biết giáo dân, bởi tầng
lớp quần chúng nhân dân có vai trò vô cùng to lớn, tuy nhiên họ còn chịu ảnh
hưởng bởi các hủ tục lạc hậu. Do đó trách nhiệm của người cai trị là phải xây
dựng hệ thống giáo dục, đào tạo nhiều người tài giỏi cho đất nước. Nếu như
Nho giáo cho rằng, dân chỉ là tầng lớp tiểu nhân, nên chỉ cần giáo hóa họ lễ
nghĩa để người dân biết phép tắc mà phục tùng, cho xứng đáng những ân huệ
mà nhà vua đã ban cho họ, thì đến với Nguyễn Trãi, ông lại có quan điểm
hoàn toàn khác. Ông thương cảm với nhân dân lao động lam lũ, không được
học hành nên phạm lỗi lầm, ông chủ trương phát triển hệ thống trường lớp,
tạo điều kiện cho nhân dân mở rộng hiểu biết cả các giá trị luân lý và hiểu biết
để phục vụ sản xuất, cống hiến cho đất nước. Ở đây ta nhận thấy sự khác biệt
về tính chất và động cơ trong trách nhiệm giáo hóa dân chúng của nhà cầm
56
quyền.
Cuối cùng là trách nhiệm an dân, Nguyễn Trãi coi đây là nhiệm vụ cơ
bản nhất của nhà cầm quyền, bởi bản thân Nguyễn Trãi là người sống trong
thời kỳ mà đất nước thường xuyên có những biến cố, chiến tranh, thiên tai.
Chính vì vậy, ước mơ lớn nhất của ông là xây dựng một xã hội như thời vua
Nghiêu, vua Thuấn để cho cuộc sống của nhân dân được an. Muốn xây dựng
một xã hội an thì không chỉ coi trọng trật tự tuyệt đối của tôn ti, phép tắc
trong xã hội, mà điều quan trọng theo Nguyễn Trãi đó chính là lối sống an
nhiên, tự tại, hòa hợp với tự nhiên.
Nếu như trong quan niệm của Nho giáo cho rằng trách nhiệm của ông
vua đối với dân nhằm duy trì chế độ đương thời, thì đến với Nguyễn Trãi, ông
lại cho rằng trách nhiệm này của nhà cầm quyền là do họ mang ơn, huệ của
dân. “Ăn lộc nhờ ơn kẻ cấy cày”. Đây là một điểm tiến bộ của Nguyễn Trãi
trong tư tưởng về dân so với các nhà tư tưởng trước đó, và được các nhà tư
tưởng sau này tiếp thu, bởi trước đây từ ơn, huệ chỉ được các nhà Nho dùng
cho tầng lớp trên (vua, quan) đối với tầng lớp dưới (dân), thì với Nguyễn Trãi,
ông đặt dân, vai trò của dân là gốc, lên trên tất cả, nhà vua phải có trách
nhiệm trả ơn, huệ đó của dân.
Vì lẽ đó, trách nhiệm của một ông vua là vô cùng nặng nề, nhà vua
không chủ có tài chính trị, mà còn phải có đạo đức cao như các bậc thánh hiền
trong lịch sử.
“Chúc thánh cho tầy Nghiêu, Thuấn nữa” [33; 22]
Như vậy, đạo làm vua trong quan niệm của Nguyễn Trãi không chỉ là
một người có đức, mà còn là một người có tài. Ông đặc biệt đề cao đó là trách
nhiệm của nhà vua là phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Từ việc nêu
ra trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với dân, Nguyễn Trãi đã thể hiện mong
57
muốn xây dựng một đất nước vua có đủ tài – đức, hết lòng chăm lo cho nhân
dân, yêu thương nhân dân như con, trong xã hội, mọi người sống no đủ, hòa
thuận, không đói khát, không chiến tranh.
2.2.2.2 Mối quan hệ cha – con trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Trong quan niệm của Nho giáo, mối quan hệ cha – con là một trong ba
mối quan hệ cơ bản của con người. Nó giúp duy trì tôn ti, trật tự trong gia
đình, cũng như ngoài xã hội. Chuẩn mực đạo đức trong quan hệ cha – con
được tập trung trong khuôn khổ của từ ,hiếu, lễ, trong đó phạm trù hiếu là
đóng vai trò quan trọng.
Hiếu trong quan niệm của Nho giáo có nội dung rất phong phú. Theo
nghĩa hẹp, hiếu là chỉ sự hiếu thuận đối với cha mẹ, thể hiện thông qua sự
kính trọng, yêu thương, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu, ốm đau. Theo nghĩa
rộng, hiếu được kết hợp với phạm trù trung, thể hiện lòng kính yêu giữa người
với người trong xã hội, bao gồm lòng hiếu với người già, kẻ dưới với người
trên, lòng trung của bề tôi với bậc quân vương, của dân với nước.
Khổng Tử cho rằng, đạo hiếu là nguyên tắc cơ bản để duy trì trật tự xã
hội “sống thì phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ, thời cúng theo
lễ”, nghĩa là con cái phải có hiếu với cha mẹ, kể cả lúc cha mẹ còn sống hay
khi cha mẹ đã mất.
Đến Mạnh Tử, chữ hiếu được mở rộng thêm nội dung mới, nó là đức
cao nhất ở đời, là biểu hiện đạo đức cao nhất của của con người.
Sau Khổng – Mạnh, đến thời nhà Hán, tư tưởng hiếu được bổ sung,
phát triển theo hướng duy tâm một chiều, cực đoan. Trong mối quan hệ giữa
bề trên và bề dưới, giữa cha mẹ và con cái thì bề dưới, người con phải phục
tùng tuyệt đối bề trên, cha mẹ.
Chữ hiếu khi vào Việt Nam đã được “việt hóa” phần nào nhằm thích
58
hợp với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Trong dân gian,
chữ hiếu được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi con người còn nằm
trong nôi.
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Chữ hiếu được thể hiện thông qua tấm lòng, phụng dưỡng cha mẹ, thể
hiện tinh thần yêu thương, chăm sóc cha mẹ của con cái. “So với các dân tộc
khác, quan niệm về chữ hiếu của dân tộc ta đã tiến bộ hơn họ rất xa... Bởi
vậy, chỉ nói đối với vấn đề hiếu, mặc dù là nước căn minh nhất trên thế giới
ngày nay, không có quốc gia nào mà người dân của họ có được một khái niệm
hoàn toàn giống đồng bào ta. Như vậy, vấn đề hiếu càng không thể không cần
và càng phải bảo tồn” [19; 97].
Tầng lớp nho sĩ Việt Nam tiếp nhận và xây dựng cho mình tư tưởng
về mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Và ở Nguyễn Trãi, ta cũng tìm thấy
tư tưởng này.
Theo Nguyễn Trãi, cha phải có trách nhiệm với con thể hiện ở hai
phương diện. Người cha phải luôn tu dưỡng đạo đức, nhân cách, hiền từ, làm
tấm gương cho con cháu học tập.
“Có của hằng cho lại có thông
Tích nhiều con cháu nọ trông
Hòa người gìn được thói cha ông” [33; 439]
Người cha có vai trò quan trọng trong việc định hướng, nâng đỡ con
cái trường thành. Vì “Người làm cha, làm anh không hiểu biết ý nghĩa ứng xử
59
trong lúc biến, tất sẽ đưa con em mình đến chỗ lỗi lầm” [33, 413].
Quan điểm này của Nguyễn Trãi có giá trị thực tiễn sâu sắc, ông đòi
hỏi người cha phải biết trau dồi hiểu biết, chứ không phải từ ý muốn chủ
quan, mù quáng để giúp con cái tránh sai lầm trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng đưa ra quan điểm về trách nhiệm và
bổn phận của con cái đối với cha mẹ, đó là sự hiếu kính, hết lòng báo đáp
công ơn của cha mẹ.
“Có con mới biết ơn cha nặng” [33; 451]
“Thờ cha lấy thảo làm phép ông” [33; 457]
Đạo làm con phải biết nghe lời cha mẹ, phải biết quan tâm, săn sóc,
phụng dưỡng. Như vậy, đạo làm con được Nguyễn Trãi, cũng như các nhà
Nho Việt Nam xây dựng thông qua việc thực hiện đạo hiếu của con cái đối
với cha mẹ.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn khuyên răn con cái phải chịu khó làm ăn,
không được tham lam, lười biếng, phải tiếp tục phát huy truyền thống cha ông
để lại.
“Nhắn bảo phô bay đạo làm con
Nghe lượm lấy, lọ chi đòn
Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết
Hà tiện đâu đang ít hãy còn
Áo mặc miễn là cho cật ấm
Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon
Xưa đà có câu truyền bảo
Làm biếng hay ăn lở non” [33; 435]
60
Gia đình Nguyễn Trãi là ví dụ điển hình về mối quan hệ hai chiều giữa
cha và con. Cha Nguyễn Trãi – Nguyễn Phi Khanh là một tấm gương cho
Nguyễn Trãi học tập. Ông là một nhà nho giàu lòng yêu nước, thương dân, có
nhiều quan điểm tiến bộ về trách nhiệm của một người làm quan. Cả hai cha
con Nguyễn Trãi sống trong thời kỳ nhà Trần, nhưng khi nhà Trần sụp đổ, họ
sẵn sàng vượt lên trên quan niệm về chữ trung thời kỳ bấy giờ, ra làm quan
cho nhà Hồ. Bản thân Nguyễn Trãi là một người con hiếu thảo. Năm 1407,
giặc Minh cướp nước ta, nhà Hồ sụp đổ. Cha con Hồ Quý Ly và các triều thần
bị bắt và giải về Trung Quốc trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Được tin cha bị
bắt, Nguyễn Trãi cùng người em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh
giam giữ tìm cha, rồi hai anh em lên ải Nam Quan với ý định sang bên kia
biên giới để phụng dưỡng cha. Nhưng Nguyễn Phi Khanh đã nói với Nguyễn
Trãi rằng: “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha, như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như
đàn bà ấy mới là hiếu hay sao?” [28]. Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về thành
Đông quan, bị giặc Minh bắt. Biết ông là người có tài, giặc Minh mời ông ra
làm quan nhưng ông kiên quyết và khẳng khái từ chối. Việc Nguyễn Trãi
nghe lời cha trở về và lời từ chối với giặc Minh đánh dấu một sự trưởng thành
trong tư tưởng của ông, với ông hiếu với cha mẹ cũng đồng nghĩa với việc
trung với nước, với nhân dân.
Tóm lại, mối quan hệ cha – con được Nguyễn Trãi xây dựng có những
chuẩn mực đạo đức gần gũi với quan điểm của Khổng Tử. Theo đó, con cái
phải biết kính trọng, biết nghe lời cha mẹ, phụng dưỡng, lập thân làm hiển
vinh cho gia đình. Đồng thời, người cha phải biết tu dưỡng đạo đức, trau dồi
hiểu biết để làm gương cho con cái, đồng thời định hướng, xây dựng cho con
cái trưởng thành.
61
2.2.2.3 Mối quan hệ chồng – vợ trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Trong tư tưởng của người phương Đông nói chung và người Việt Nam
nói riêng, gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định của gia đình có liên quan
đến sự tồn vong của xã tắc. Trong gia đình, mối qua hệ chồng – vợ là mối
quan hệ cơ bản. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc, “ở trong gia
đình, gia trưởng là một vị chủ nhân chuyên chế, cũng như một vị quân chủ
chuyên chế ở trong quốc gia vậy”, tuy không còn nặng nề khắt khe song các
nhà Nho Việt Nam đều khẳng định vợ chồng phải cung kính yêu nhau, dốc
lòng ân nghĩa, không được ghen tuông, không nên chán cảnh nghèo đói mà bỏ
nhau. Các ông chỉ ra những yêu cầu phẩm giá đối với vợ và chồng.
Theo đó, người vợ là phải tuân theo tam tòng, tứ đức, phải biết thu
vén gia đình, chăm sóc chồng con. Tuy nhiên các nhà nho cùng đã ra những
quan điểm tiến bộ về vai trò của người phụ nữ trong việc duy trì những chuẩn
mực về đạo đức và về quan hệ gia đình.
Đối với người chồng phải tu dưỡng đức tính mạnh mẽ để trở thành
người chủ gia đình. Người chồng có nghĩa vụ cưu mang, cấp dưỡng cho vợ
con, không được ngược đãi vợ con.
Tuy có nhiều quan điểm tiến bộ về mối quan hệ vợ chồng, song các
nhà nho vẫn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng bất bình đẳng giữa vợ và chồng.
Theo đó, người phụ nữ vẫn đóng vai trò là thứ yếu, ngược lại người chồng
vẫn đảm trách vai trò là người chủ của gia đình.
Đến Nguyễn Trãi, ông tiếp tục kế thừa và củng cố mối quan hệ này.
Theo Nguyễn Trãi, người vợ có vai trò trong việc giữ gìn sự bình yên trong
gia đình. Ông khuyên người chồng phải sống chung thủy, không phụ bạc
người vợ, nhất là người đã cùng đồng cam cộng khổ với mình trong suốt cuộc
đời.
62
“Kết bạn mực quên người cố cự
Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang” [33; 439].
Nguyễn Trãi đặc biệt chú trọng đến vai trò duy trì nòi giống trong
quan hệ chồng vợ. Ông khuyên con người nên tránh xa đam mê, sắc đẹp và
nhục dục, bởi nó phá hủy sự bình ổn của gia đình.
“Sắc là giặc, đam làm chi
Thuở trọng còn phòng có thuở suy
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ
… Phu phụ đạo thường chăng được chớ
Nối tông hòa phải một đôi khi” [33; 459]
Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau
trong cuộc sống hôn nhân.
“Già mặc số trời đất
Giàu ai qua vợ con
Quân tử thánh hiền, lòng tựa nước
Càng già (tra), càng ngẫm của bùi ngon” [33; 457]
Quan điểm này của Nguyễn Trãi mang nhiều điểm tiến bộ, nó vừa
khẳng định vai trò duy trì nòi giống đồng thời khẳng định vai trò của người
vợ trong việc đảm bảo hạnh phúc của gia đình. Từ đây, Nguyễn Trãi giáo dục
ý thức, trách nhiệm của người chồng đối với người vợ nói riêng và với gia
đình nói chung.
Như vậy, giống như các nhà Nho Việt Nam, Nguyễn Trãi coi trong
quan hệ chồng – vợ, từ các ứng xử, giữ gìn đạo lý chồng – vợ. Tuy nhiên, về
cơ bản các ông vẫn chỉ quan tâm nhiều đến chuẩn mực, trách nhiệm, bổn phận
63
của vợ đối với chồng mà ít quan tâm đến chuẩn mực, trách nhiệm, bổn phận
của người chồng đối với vợ. Đây là hạn chế mang tính thời đại trong tư tưởng
của Nguyễn Trãi.
2.2.2.4 Mối quan hệ anh – em trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Theo Nho giáo sơ kỳ, mối quan hệ anh em có tính chất hai chiều. Theo
đó, người anh có lòng yêu thương, người em có lòng kính mến. Tuy nhiên,
quan hệ này không còn dựa trên tình cảm yêu thương thực sự mà đã có sự
phân biệt, thực hiện nghĩa vụ với nhau.
Đến với Việt Nam, các nhà Nho xây dựng mối quan hệ này dựa trên
tình cảm cốt nhục, trách nhiệm nâng đỡ nhau.
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần ”
Anh em trong gia đình phải biết bảo ban, yêu thương, giúp đỡ nhau.
Người anh phải biết bao bọc, chở che cho người em, ngược lại người em phải
biết nghe lời, kính trong người anh. Anh em, chị em là bát máu xẻ đôi, tình
thân thiết hơn cả người khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhay. Mà muốn
cho được hòa mục mãi mãi thì lại cốt lất chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường
nhịn nhau, dẫu có kẻ ngang trái, cũng nhịn đi, rồi lất lời khôn lẽ phải mà
khuyên bảo nhay thì không đến nỗi khích bác nhau, mặt oăng mày vực với
nhau, mà trong nhà vẫn được vui vẻ, cha mẹ cũng được thỏa lòng. Tuy vậy
cũng không nên mong nhờ lẫn nhau, mà tạo thói ỷ lại, không biết tự lập, giúp
đỡ nhau.
Theo các nhà Nho, trong mối quan hệ anh – em phải lấy chữ đễ làm
đầu.
“Chữ đễ có nghĩa là nhường
64
Nhường anh, nhường chị là nhường người trên”
Tiếp thu quan điểm của những người đi trước, Nguyễn Trãi cho rằng,
anh em phải biết yêu thương nhau, không nên làm hại nhau vì đều cùng cha
mẹ sinh ra. Ông khẳng định anh em dù không ưa nhau cũng không được trách
móc, cắt đứt quan hệ.
“Bạn tác rẻ roi đà phải chịu
Anh em trách móc ấy không từ” [33; 456]
Khi xem xét mối quan hệ anh em với mối quan hệ bằng hữu, Nguyễn
Trãi khuyên con người nên coi trong mối quan hệ anh em hơn. Ông nhấn
mạnh, anh em cần phải giữ gìn hòa thuận với nhau. Đây là quan điểm tiến bộ
của Nguyễn Trãi so với quan điểm gia trưởng của Nho giáo phong kiến “Trên
bảo dưới phải nghe”. Nguyễn Trãi đã vượt lên trên những giáo lý cứng nhắc,
một chiều của Nho giáo phong kiến. Ông chủ trương xây dựng mối quan hệ
bình đẳng, sống có trách nhiệm và yêu thương lẫn nhau giữa anh và em.
2.2.2.5 Mối quan hệ bằng hữu trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Mối quan hệ bằng hữu được thể hiện thông qua phạm trù “Tín” của
Nho giáo. Trong ngũ luân thì “Tín” được coi là điều kiện đầu tiên của mối
quan hệ bạn bè. Đến với Nguyễn Trãi, ông coi tín là vật báu của nước “Tôi
nghe nói “Tín giả quốc chi bảo. Nhân nhi vô tín kỳ hà dĩ hành chi tai ?” [33;
111]. Với Nguyễn Trãi, đức tín là điều kiện cốt lõi để con người thực hiện các
đức khác “Tôi nghe trời có bốn mùa,..., người có bốn đức phải nhờ điều tín để
làm. Nếu ...điều tín không có..., việc người tất hư” [33; 120].
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn mở rộng đối tượng của mối quan hệ bằng
hữu, không chỉ nói đến bạn bè, mà còn là hàng xóm láng giềng. Ông là tấm
gương trong phong cách xử thế giữa người với người, để mọi người học tập.
Với bạn bè, ông luôn hết lòng quan tâm, giúp đỡ, đồng cam cộng khổ với họ.
65
“Nghèo ốm ta thương bạn
Ngông cuồng bạn giống ta” [33; 29].
Bên cạnh khuyên mình, răn mình, Nguyễn Trãi còn khuyên người, răn
người nên sống đúng với đạo làm người. Khác với các nhà Nho coi Lễ là đỉnh
cao của đạo làm người, Nguyễn Trãi coi khiêm nhường là đức tính cao đẹp
của lòng nhân ái
“Ngõ ốc nhường khiêm là mỹ đức
Đôi co ai dễ kém chi ai” [33; 426].
Ông nhắc nhở con người phải coi trọng nghĩa
“Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong
Người kia phú quý nỡ quên lòng” [33; 30].
Trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, Nguyễn Trãi yêu cầu ở mỗi
người phải “có nhân, có trí, có anh hùng” [13; 459]. Ông coi đó là phẩm chất
cơ bản để đánh giá và sử dụng con người.
“Khoe tiết lầu lầu nơi đạo học
Ở triều khăn, khắn chữ trung cần
Cõi phàm tục khỏi lòng phàm tục
Học thánh nhân chuyên thói thánh nhân
Trung hiếu cương thường lòng đỏ
Tự nhiên lọn nghiệp ba thân” [33; 458].
Nguyễn Trãi còn quan tâm đến chữ đức với nhiều góc độ. Ông khuyên
con người phải biết nuôi dưỡng đức, luôn tu dưỡng đức cho bản thân mình.
Trong mối quan hệ giữa đức và tài, Nguyễn Trãi luôn coi trọng đức hơn tài.
“Khó khăn phú quý học Tô Tần
66
Miễn đức hơn tài được mấy phân” [33; 489].
Nguyễn Trãi là người không coi trọng vật chất. Ông coi trọng danh dự
và sự giàu có về mặt tâm hồn hơn tiền bạc. Bởi Nguyễn Trãi quan niệm người
quân tử là người trọng danh dự. Ông nhận ra của cải không đem lại cho con
người sự sang trọng và danh dự. Đồng thời, của cải không thể đi theo khi con
người chết đi.
Quan điểm này của Nguyễn Trãi, tuy chứa đựng những yếu tố hợp lý,
song nó cũng thể hiện sự bi quan của Nguyễn Trãi trước hoàn cảnh đương
thời.
Ông phê phán những người không biết giữ chữ tín, bởi theo ông, giữ
chữ tín có vai trò quan trọng trong thành công của con người, “… đến lúc
biểu đã đệ đi mà quân chưa thấy rút, lại còn dựng thêm rào lũy, sắm sửa đồ
binh, tự cho là đắc sắc lắm. Bội ước thất tín đến thế là cùng” [33; 127].
Ông còn khuyên mọi người về cách xử thế giữa những người trong
cùng một nước phải luôn yêu thương, giúp đỡ nhau với một lời khuyên chân
thành.
“Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền
Cành Bắc, cành Nam một cội nên
Điền địa chớ tham hơn bỏ ải
Nhân luân mực lấy dưới làm trên
Chân tay dầu đứt bề khôn nối
Áo xống chẳng còn mô dễ xin
Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp
Cương nhu đều biết hết hai bên” [33; 443].
Các phạm trù đạo đức của Nguyễn Trãi đan xen với nhau, phạm trù này
67
bổ sung, hoàn thiện cho phạm trù kia, từ đó giúp con người hình thành đạo
đức, luân lý. Nguyễn Trãi khẳng định nhận thức đi đôi với việc làm, lời nói
thống nhất với hành động, có như vậy, con người mới làm nên sự nghiệp.
2.3 Giá trị của thế giới quan Nguyễn Trãi
2.3.1 Giá trị về mặt lý luận
Nhìn lại toàn bộ nội dung thế giới quan của Nguyễn Trãi, ta thấy thế
giới quan của ông luôn gắn liền với thực tiễn của đất nước, của xã hội, của
con người. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng dân chủ sơ khai, có tư tưởng canh
tân, cải cách nhất trong hoàn cảnh của thế kỷ XV.
Vấn đề tự nhiên được Nguyễn Trãi xây dựng với nhiều tên gọi khác
nhau, song tựu chung lại mục đích mà ông muốn hướng tới đó là khẳng định
tự nhiên có quy luật của nó, nhiệm vụ của con người là nhận thức và hành
động theo quy luật ấy, để đảm bảo mối quan hệ hài hòa với tự nhiên.
Vấn đề con người trong tư tưởng của Nguyễn Trãi chứa đựng những
giá trị lý luận sâu sắc. Ông khẳng định con người là kết quả sinh thành của tự
nhiên, là sự kết hợp tinh hoa của trời đất. Con người vận động và phát triển
tuân theo quy luật của tự nhiên. Như vậy, con người mà Nguyễn Trãi xây
dựng nên không phải là một con người chung chung, trừu tượng, mà là con
người hiện thực, có sự hòa quyện giữa thể chất và tinh thần, nằm trong sự tác
động của tự nhiên và chịu sự ràng buộc của các chuẩn mực, quy phạm xã hội.
Con người đó có sinh ra và chết đi, vì vậy cái chết được Nguyễn Trãi đề cao
khi con người ý thức và gắn cái chết với trách nhiệm với đất nước. Khi nói số
phận con người, Nguyễn Trãi cho rằng con người chịu sự chi phối của tự
nhiên, song con người có vai trò và sức mạnh chiến thắng tự nhiên, vượt lên
bản thân mình.
Nguyễn Trãi thừa nhận bản tính tự nhiên trong con người, nhưng ông
cũng cho rằng điều kiện sống, các mối quan hệ xã hội sẽ góp phần giúp con
68
người hoàn thiện tính người.
Từ đây, Nguyễn Trãi đưa ra đạo làm người thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và con người. Nguyễn Trãi đề
cao vai trò của các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ trong gia đình, nhấn
mạnh đến yếu tố tình cảm, trách nhiệm, ông coi trọng giáo dục noi gương
trong gia đình.
Nguyễn Trãi đã xây dựng được hệ thống phạm trù đạo đức thông qua
các mối quan hệ. Đó là “trung” đối với nhiều thành phần trong xã hội từ vua,
quan, nho sĩ đến thứ dân thông qua trách nhiệm của nhà cầm quyền, trách
nhiệm của quan lại, trách nhiệm của dân đối với nhau. Đó là “hiếu” thông qua
đạo là con, Nguyễn Trãi coi nhà là gốc của nước nên chủ lấy đạo hiếu để trị
nước. Đó là “nhân nghĩa”, “tín” trong mối quan hệ chồng – vợ, anh - em, bạn
bè. Hệ thống phạm trù đạo đức này giúp Nguyễn Trãi giải quyết đạt đến mục
đích giáo dục con người hình thành phương cách xử thế trong cả lĩnh vực tự
nhiên lẫn xã hội.
Giá trị lý luận của tư tưởng thế giới quan Nguyễn Trãi không chỉ ảnh
hưởng và được tiếp thu trong thời kỳ mà ông sống, mà nó còn được thế hệ các
nhà tư tưởng sau này kế thừa và phát huy, tiêu biểu trong số đó là tư tưởng
của Hồ Chí Minh về dân, về vai trò làm gốc của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề về thế giới quan: về cách xử thế giữa
con người với tự nhiên, giữa con người với con người trở thành một vấn đề
hết sức nóng bỏng, vì thế việc kế thừa và vận dụng các quan điểm của người
xưa đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một đất nước
Việt Nam giàu mạnh
2.3.2 Giá trị về mặt thực tiễn
Thế giới quan của Nguyễn Trãi đã góp phần hình thành và phát triển
69
thế giới quan của tầng lớp trí thức thời kỳ phong kiến nói riêng và đối với sự
phát triển tư duy lý luận của thế giới quan triết học Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, thế giới quan của Nguyễn Trãi góp phần vào chiến thắng quân
Minh, giành độc lập, xây dựng triều đình Lê Sơ. Đồng thời, với những tư
tưởng về trời đất, con người đã góp phần cố kết cộng đồng.
Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng thế giới quan của Nguyễn Trãi
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi những quan niệm duy tâm của Nho giáo nói
chung, đặc biệt là của Hán Nho và Tống Nho. Sự tác động mạnh mẽ của tư
tưởng về trời, mệnh trời của Nho giáo đã khiến họ giảm sút tinh thần phản
kháng trước những bất công của triều đình. Bởi lẽ, họ cho rằng trời chi phối
mọi hoạt động của con người, trời trao quyền cho vua cai quản thiên hạ, trời
không chỉ quyết định sự thịnh suy của một triều đại mà còn quyết định sự
thắng lợi của một cuộc khởi nghĩa, giàu sang nghèo hèn, vinh nhục, sống chết
của một con người, biết được những suy nghĩ và hành động của con người để
ban thưởng hay trách phạt, giáng tai họa. Tuy vậy, vẫn có nhiều quan điểm
tiến bộ, nhấn mạnh nỗ lực và sự hoạt động tích cực của con người. Các nhà
Nho quan niệm con người do trời sinh ra nhưng con người không thụ động
ngồi xem tạo hóa xoay vần mà bằng nỗ lực của mình, con người có thể cải
thiện được tình hình. Thừa nhận mệnh trời, tin vào mệnh trời nhưng Nguyễn
Trãi cũng cho rằng “việc có thành bại thực ở tại người làm”. Có thể thấy,
trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, bất cứ sự việc xảy ra như thế nào đều do ý
trời quyết định, nhưng trời ở đây không phải là một lực lượng siêu nhiên thần
bí nào đó mà cũng tương tự như lẽ phải, đạo lý tất phải làm thế, như quy luật
khách quan, không khác được và con người nếu biết tuân theo quy luật đó có
thể thay đổi được mọi việc. Với những điểm tiến bộ trong thế giới quan của
ông đã tạo niềm tin trong nhân dân, làm lung lay ý chí quân thù, làm nên
thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Và nó trở thành bài học kinh nghiệm đánh vào
nhân tâm, lấy ít địch nhiều cho con cháu sau này trong nghệ thuật giành và
70
giữ nước.
Tiểu kết chƣơng 2: Tư tưởng triết học về tự nhiên và mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên ở Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng của tam giáo,
nhưng đậm nét nhất là quan niệm của Nho giáo. Nguyễn Trãi đã bước đầu đề
cập đến yêu cầu về sự hiểu biết của con người đối với tự nhiên, từ đó định
hướng cho con người phong cách ứng xử với tự nhiên. Đây là một điểm mới ở
Nguyễn Trãi so với tư duy truyền thống trước đó. Nguyễn Trãi cho rằng con
người phải sống, nhận thức và hành động theo đạo trời, theo quy luật của tư
nhiên. Ông cũng đề cao vai trò của con người trong việc cải biến tự nhiên, tận
dụng các điều kiện tự nhiên, thực hiện nhiệm vụ giành và giữ nước. Tuy quan
niệm của Nguyễn Trãi chưa đạt đến trình độ xem con người là chủ của tự
nhiên, nhưng việc yêu cầu con người phải nhận thức và hành động theo quy
luật của tự nhiên, tôn trọng tự nhiên của ông có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó
làm cho quan niệm của Nguyễn Trãi về tự nhiên và mối quan hệ giữa con
người và con người vẫn luôn còn giá trị thiết thực cho đến ngày nay.
Tư tưởng về con người và mối quan hệ giữa con người và con người
được Nguyễn Trãi thể hiện một cách rõ nét, đặc sắc dưới ảnh hưởng chủ yếu
của Nho giáo. Thông qua việc bàn về tính người, nguồn gốc của con người,
Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm tiến bộ khi khẳng định tính người có
thể thay đổi được dựa vào cách thức giáo dục. Ông chỉ ra các tiêu chuẩn đạo
đức thông qua các mối quan hệ, từ đó giáo dục nhân cách con người một cách
hoàn thiện. Trong các mối quan hệ đó, Nguyễn Trãi đặc biệt chú trọng đến vai
trò của dân, ông chỉ rõ trách nhiệm của nhà cầm quyền là phải biết ơn dân,
huệ dânn, hay là tư tưởng lấy dân làm gốc được Hồ Chí Minh và Đảng ta tiếp
71
thu và phát triển sau này.
KẾT LUẬN
Nguyễn Trãi - Con người đầy tài trí, con người hiện thân cho một thời
kỳ đầy biến động của lịch sử ấy đã rời xa chúng ta rất lâu nhưng những gì ông
để lại vẫn in dấu trong lòng dân tộc ở cả nhiều giai đoạn về sau. Quả thật
“Nguyễn Trãi là sản phẩm của đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam, dân
tộc Việt Nam trong một thời đại trưởng thành và lớn mạnh nhưng đầy biến
động và bão táp của lịch sử”[15; 46]. Trong thời khắc đầy biến động ấy ông
đã dùng nhãn quan sắc bén lựa chọn cho mình lối đi đúng và cống hiến tất cả
tài năng, nghị lực cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân, xây dựng đất nước. Thực
tiễn chính cuộc đấu tranh đấy đã tác động trở lại Nguyễn Trãi làm cho tâm
hồn, tư tưởng, tình cảm, tài năng của ông càng phát huy cao độ đạt tới đỉnh
cao thời đại.
Thế giới quan của Nguyễn Trãi nói chung và qua hai tác phẩm
“Quân trung từ mệnh tập” và “Quốc âm thi tập” nói riêng đã trở thành tư
tưởng nền tảng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thời phong kiến và kéo dài
đến ngày nay.
Từng nội dung trong thế giới quan của Nguyễn Trãi đều toát lên mục
đích lớn nhất của cuộc đời ông là làm người quân tử, đem tài trí và sức lực để
trị nước, an dân đã làm cho đất nước ngày càng phồn thịnh, người dân an cư
lạc nghiệp, sống cuộc sống tự do, no ấm. Thông qua mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, mối quan hệ giữa con người và con người, Nguyễn Trãi
khẳng định hành động của con người muốn thực hiện thành công hay không
phụ thuộc vào việc con người có biết kết hợp nhận thức về thời hay quy luật
của tự nhiên với sức mạnh của bản thân mình. Nguyễn Trãi một mặt đề cao
vai trò của tự nhiên, song một mặt ông vẫn chú trọng đến vai trò của con
người, tuy chưa đạt đến trình độ coi con người là chủ của tự nhiên. Nguyễn
Trãi đưa ra yêu cầu đối với bậc quân tử là phải biết trau dồi, tu dưỡng, rèn
72
luyện đạo đức cho bản thân thông qua các mối quan hệ trong xã hội và gia
đình: Vua – tôi, cha – con, vợ chồng, anh em, bằng hữu, từ đó hoàn thiện
nhân cách của bậc quân tử.
Tìm hiểu tư tưởng về thế giới quan của Nguyễn Trãi mang lại cho
chúng ta những điều đáng suy ngẫm và học hỏi trong việc con người phải biết
sống hài hòa với tự nhiên, để đạt đến sự tự do, tự tại của tâm hoàn, phải biết
loại bỏ những hạn chế về mặt lịch sử để xây dựng các quan hệ xã hội ngày
càng nhân văn. Từ đó hoàn thiện bản tính và nhân cách con người mới, đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại trên cơ sở giữ gìn và phát huy
những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc.
Những trăn trở trong tư tưởng Nguyễn Trãi đã được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát huy cao độ và đưa vào hiện thực xã hội Việt Nam. Điều này đã
mang lại cho nhân dân ta những giá trị tư tưởng lớn kết hợp truyền thống dân
tộc, chủ nghĩa Mác - Lê nin với tư tưởng cách mạng vĩ đại của Người tạo giá
trị về sức mạnh tư tưởng, tinh thần để đạp bằng mọi sóng gió, chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược, xây dựng thành công nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
73
thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (1988), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB
Sự thật.
3. Nguyễn Văn Bình (1998), “Nhân cách nhà Nho trong con người Nguyễn
Trãi”, Tạp chí Triết học ,số 4 (104), tr. 28 – 30.
4. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo
và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX,
Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
5. Nguyễn Bá Cường (2013), Con người trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Tạp
chí Triết học, số 7 (266), tr. 61 – 67.
6. Nguyễn Bá Cường (2013), Quan niệm về tự nhiên trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi, Tạp chí Khoa học xã hội tp Hồ Chí Minh, số 9 (181), tr. 6-
12
7. Hoàng Văn Cảnh (2001), “Về ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng
Nguyễn Trãi (qua một số bài thơ chữ Hán và chữ Nôm”, Tạp chí Triết
học, số 7 (125).
8. Doãn Chính, Nguyễn Sinh Kế (2004), “Về quá trình Nho giáo du nhập
vào Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 9 (160), tr. 31 – 39.
9. Võ Xuân Đàn (1996), Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
10. Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (1982), Nguyễn Trãi người anh hùng
74
dân tộc vĩ đại nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Chu Hy (Đoàn Trung Còn dịch) (1950), Luận ngữ, NXB Trí Đức, Sài
Gòn
12. Chu Hy (Đoàn Trung Còn dịch) (1950), Mạnh Tử, NXB Trí Đức, Sài
Gòn.
13. Hồ Sỹ Hiệp (1997), Nguyễn Trãi, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
14. HV quốc gia Hồ Chí Minh, Viện KHCT (2000); Tập bài giảng chính trị
học, NXB CT QG, Hà Nội
15. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương triết học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Nguyễn Duy Hinh (2008), Mấy đặc điểm của Phật giáo Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo 8.
17. Trần Đình Hượu (2000), Nguyễn Trãi và Nho giáo, Nguyễn Trãi và văn
hóa Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. Kỉ niệm sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (1980), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
19. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, NXb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Ngô Sỹ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb Văn hóa –
Thông tin.
21. Lê Thị Lan (1998), “Thử tìm hiểu ảnh hưởng tư tưởng Lão – Trang trong thơ
chữ Hán của Nguyễn Trãi”, Tạp chí Triết học, số 4 (104), tr. 31 – 33.
22. Trần Huy Liệu (1958), Nguyễn Trãi nhà văn học và chính trị thiên tài,
Nxb Văn Sử Địa.
23. Trần Huy Liệu (1996), Nguyễn Trãi, Nxb Khoa học.
24. Trần Huy Liệu (2000), Nguyễn Trãi cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn hóa
75
thông tin, Hà Nội.
25. Đặng Thai Mai (1980), Nguyễn Trãi (1380 – 1442), (Trên đường tìm
hiểu thơ văn Nguyễn Trãi), Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi: nhân kỉ niệm 520 năm
ngày Nguyễn Trãi mất (1963), Nxb Khoa học, Hà Nội
27. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb Đại học và
trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội
28. Lê Văn Quán, “Lại bàn về tam giáo đồng nguyên”, Tạp chí Hán Nôm, số
3, tr. 15 – 21.
29. Trương Hữu Quýnh (cb), (1999), Đại cương lịch sử Việt Nam, t1, Nxb
Giáo dục.
30. Nguyễn Hữu Sơn (2001), Nguyễn Trãi về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
31. Sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi (1980), Nxb thành phố mới hội nhà văn
Việt Nam, Hà Nội.
32. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t2, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa hoc xã hội, Hà
Nội.
34. Nguyễn Tài Thư (cb), (1989), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t1, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
36. Nguyễn Tài Thư (1999), “Tam giáo đồng nguyên – hiện tượng tư tưởng
76
chung của các nước Đông Nam Á”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr. 11 – 17.
37. Nguyễn Đăng Thục (1997), Lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, t1,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Thục (1997), Lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, t2,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
39. Trình Di, Trình Hạo, Nhị trình di thư, quyển 2
40. Khổng Tử (Nguyễn Đức Lân dịch) (1998), Tứ thư tập chú, Trung dung,
c. 24, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
41. Tuân Tử (Nguyễn Hiến Lê dịch) (1992), Tuân Tử, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
42. Từ điển Triết học Nga (chủ biên: Rodentan) (1976), Nxb Sự thật 1976.
43. Trường Đại học Quốc gia Lômônôxốp (Trần Nguyên Việt dịch) (2004),
Triết học, hỏi và đáp, Nxb Đà Nẵng 2004
44. Trần Nguyên Việt (2002), Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi trong
“Quân trung từ mệnh tập”, Tạp chí Triết học, số 8.
45. Trần Nguyên Việt (2005), “Mối quan hệ tam giáo trong tư tưởng
Nguyễn Trãi”, Tạp chí Triết học, số 7 (170), tr. 23 – 29.
46. Trần Nguyên Việt (2007), “Về quyết định của Nguyễn Trãi trong quan
hệ với Thiền Phật giáo”, Tạp chí Triết học, số 9 (195), tr. 35 – 39.
47. Trần Quốc Vượng (1960), Việt Sử Lược, NXB Văn – Sử - Địa, Hà Nội
48. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học (1993), Lịch sử tư tưởng
Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập1.
49. Viện văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần (t1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Viện văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần (t2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77
51. Viện văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, t3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Viện văn học (1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn
Trãi, Nxb văn học, Hà Nội.
53. Viện văn học Việt Nam (1980), Nguyễn Trãi – khí phách và tinh hoa của
dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Viện Sử học (1980), Nguyễn Trãi thân thế và sự nghiệp, Nxb Khoa học
xã hội Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Vịnh (2002)“Thế giới quan trong triết học Trung Quốc cổ đại”.
56. Viện Văn học (1981), Văn học Việt Nam, trên chặng đường chống phong
78
kiến Trung Quốc xâm lược., NXB KHXH, Hà Nội.