ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
NGUYỄN HỮU NHẤT
THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2016 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
NGUYỄN HỮU NHẤT
THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận Văn học Mã số: 60.22.01.20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS Phạm Thành Hƣng Hà Nội - 2016 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới dự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thành
Hưng.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả của đề tài này là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Học viên Nguyễn Hữu Nhất
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình với Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Phạm Thành Hưng, người thầy đã định hướng và luôn quan tâm, tận
tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo trong Khoa Văn học, nhà
trường, gia đình và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận
văn thạc sĩ này./.
Học viên Nguyễn Hữu Nhất
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………….…. 3
1. Lý do chọn đề tài……................................................................ 3
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………… 4
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu……………………. 8
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………… 9
5. Cấu trúc của luận văn…………………………………………. 10
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ
MẢNG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY
TƯỞNG……………………………………………………………….... 11
1.1. Khái lược về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy
Tưởng…………………………………………………………………... 11
1.1.1. Khái lược về thi pháp học.....………………………… 11
1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng....................................................................................................... 13
1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng……….... 15
1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng……...……… 15
1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng
trong dòng chảy văn học thiếu nhi………...…………………….. 20
Chương 2: THI PHÁP NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN…. 24
2.1. Thi pháp nhân vật…….…………………………………..…. 24
2.1.1. Khái niệm nhân vật………………………….……….. 24
2.1.2. Nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn
Huy Tưởng…..…………………………………………………... 25
2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi…….………………………...... 26
2.1.2.2. Nhân vật anh hùng……………………………….. 30
2.1.2.3. Nhân vật từ thế giới loài vật…….……………..… 37
1
2.1.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật: …………...…… 40
2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua hành động và xung đột….. 40
2.1.3.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình……………….. 43
2.1.3.3. Khắc họa nhân vật bằng mô tả và phân tích tâm
lý…………………………………………………………………. 45
2.2. Tổ chức cốt truyện…………………………………..……… 50
2.2.1. Khái niệm cốt truyện………………..………………... 50
2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện của Nguyễn Huy
Tưởng………………………………………………………….… 51
Chương 3: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN KỂ.…. 57
3.1. Người kể chuyện……..………………………….………….. 57
3.1.1. Khái lược về người kể chuyện…………...……….….. 57
3.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện thiếu nhi của
Nguyễn Huy Tưởng……...……………………………………… 58
3.1.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn
trần thuật trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng………………………………………………………….… 60
3.1.2. Người kể trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng…..…. 63
3.1.2.1. Người kể chuyện lịch sử…………………………. 63
3.1.2.2. Người kể chuyện hướng đạo……………………... 74
3.2. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Tưởng……...……… 79
3.2.1. Khái lược ngôn ngữ kể chuyện………………..……... 79
3.2.2. Ngôn ngữ truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng… 80
KẾT LUẬN…………….…………………………………………….… 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………… 91
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với một di sản văn học phong phú, trải rộng trên khá nhiều lĩnh vực,
Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng là một đại diện xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, soạn kịch, cả kịch bản sân
khấu lẫn kịch bản phim. Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành công
nhất định. Với những đóng góp sáng tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã và
đang ngày càng thu hút được sự chú ý, tìm hiểu, lí giải, đánh giá không chỉ
trong giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trong nước, mà cả ở nước ngoài.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đã dành trọn đời để sáng tác về các đề tài lịch
sử, kháng chiến, về thủ đô Hà Nội, nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nói đến
mảng văn chương mà nhà văn đã dành tâm huyết để viết cho tuổi thơ như:
Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến sĩ, Cô bé gan dạ, đặc biệt là những truyện lịch sử
như: An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu
sáu chữ vàng… đã góp phần tạo lập một “văn hiệu” thực sự đáng kính trọng
mang tên ông.
Ở mảng đề tài lịch sử trong các truyện viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy
Tưởng đã hướng các em vào những thời kỳ hào hùng, trọng đại trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc, mà ở đấy những người anh hùng đã viết nên
những bản anh hùng ca chói lọi, vang vọng mãi non sông Việt Nam. Dù đấy
là những câu chuyện kể về những người anh hùng thời kỳ trung cận đại như:
Quang Trung, Trần Quốc Toản, hay là thời kỳ cổ đại như An Dương Vương
… Tất cả hiện vẫn không thể nào phai mờ trong ký ức của người dân đất Việt.
Việc nghiên cứu về con người, sự nghiệp và những sáng tác của ông đã
có khá nhiều các công trình nghiên cứu. Ở đây chúng tôi có thể kể đến một số
tác giả như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phong Lê, Bích Thu, Tôn Thảo
Miên… hay những nhà văn nổi tiếng nhận xét về các tác phẩm của Ông như
3
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyên Ngọc… Qua các công trình
nghiên cứu và bài viết phê bình đó chúng ta thấy được những thành quả và
đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học nước nhà qua các tác
phẩm kịch, tiểu thuyết đặc biệt là truyện viết cho thiếu nhi. Mặc dù vậy, cho
đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đi sâu vào tìm hiểu
đầy đủ toàn diện về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tưởng trong
truyện viết cho thiếu nhi. Để làm rõ những đặc điểm nổi bật trong thi pháp
văn xuôi tự sự của ông, xuất phát từ thực tế, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thi
pháp văn xuôi tự sự trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng”. Với đề tài này, thông qua sự lý giải những thành công của văn
xuôi thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng từ bình diện thi pháp tự sự, chúng tôi có
kỳ vọng được góp một phần nhỏ vào việc đánh giá chung và khẳng định tài
năng cùng những đóng góp của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Huy Tưởng được dư luận công chúng quan tâm như một tài
năng nghệ thuật ngay từ trước cách mạng tháng Tám, khi ông cho ra đời Vũ
Như Tô, An Tư công chúa. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu thực thụ về
Nguyễn Huy Tưởng phải được tính từ chuyên luận Nguyễn Huy Tưởng (1912-
1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966.
Trong công trình này các tác giả đã dành trọn chương Một để khảo sát sự
chuyển biến tư tưởng, con đường đến với văn chương và những bước đường
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn từ một thanh niên yêu nước phấn đấu trở
thành một nhà văn cộng sản trên mặt trận văn nghệ. “Con đường đi của anh
không phải là thẳng tắp, dễ dãi. Có lúc anh bi quan, dao động, có lúc lòng tin
của anh bị lung lay nhưng nói chung con người đôn hậu, trung thực và đầy ý
thức trách nhiệm đó luôn luôn hướng về chân lý, hướng về Đảng. Ngòi bút
của anh lúc nào cũng đứng ở hàng đầu của cuộc chiến đấu cách mạng” [2, tr.
4
21]. Điều đáng ghi nhận trong công trình nghiên cứu này là các tác giả đã có
sự khảo sát kỹ về tư liệu, gắn tác phẩm với bối cảnh thời đại, trong hoàn cảnh
sáng tác cụ thể để thấy được ý nghĩa xã hội, tính thời sự và những hiệu ứng
tích cực trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Dựa trên nguyên lý và
phương pháp nghiên cứu theo quan điểm Mácxít, nghiêng về đánh giá, thẩm
bình những giá trị nội dung với những mô típ, kết cấu quen thuộc như: Hoàn
cảnh sáng tác, hình ảnh thời đại, thành công và một vài tồn tại, tinh thần dân
tộc trong tác phẩm, vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, vài nét về
nghệ thuật…các tác giả chuyên luận đã đi sâu phân tích nội dung xã hội của
tác phẩm trong sự tương quan, gắn kết với hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên
chúng tôi thấy trong chuyên luận đầu tay, có tính khai phá đầu tiên này, hai
nhà nghiên cứu còn thiên về miêu tả lại tác phẩm, tường thuật diễn biến cốt
truyện mà chưa đi sâu tìm hiểu những giá trị nghệ thuật, những nét đặc sắc
của một cây bút tài hoa.
Với độ lùi của thời gian, sự thông thoáng, đổi mới trong tư duy đánh
giá, nhìn nhận các hiện tượng văn học thời kỳ trước đổi mới, những vấn đề
đặt ra trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tiếp tục trở thành đề tài được
bàn luận, nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học với các bài viết công phu
nhiều phát hiện mới của các nhà nghiên cứu Phong Lê, Hà Minh Đức, Bích
Thu, Tôn Thảo Miên, Đỗ Đức Hiểu, Phạm Vĩnh Cư, Trần Đăng Suyền,
Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu… Bên cạnh đó là các Hội thảo
khoa học về cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu, phê bình đã đưa ra những đánh giá khách quan nhằm khẳng
định vai trò, vị thế văn chương Nguyễn Huy Tưởng đối với sự phát triển của
văn chương dân tộc.
Năm 1996, bộ sách Nguyễn Huy Tưởng toàn tập do Nhà xuất bản Văn
học ấn hành, ra mắt bạn đọc, đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ các tác
5
phẩm của nhà văn trên tất cả các thể loại, giúp người đọc có điều kiện thuận
lợi khi tiếp cận văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng.
Năm 2006, bộ ba Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng được Nhà xuất bản
Thanh niên xuất bản đã giúp người đọc có những hình dung rõ hơn về quá
trình lao động nghệ thuật miệt mài và những khát vọng lớn của nhà văn muốn
cống hiến cho văn học dân tộc. Đây là tập nhật ký được nhà văn cần mẫn ghi
chép trong suốt những năm cầm bút, bắt đầu từ ngày 02/11/1930 khi ông còn
là cậu học sinh trường Bonnal - Hải Phòng và kết thúc ngày 21/06/1960 với
những dòng cuối được ghi chép ngay trên giường bệnh Bệnh viện Việt - Xô
chỉ ít hôm trước khi nhà văn qua đời. Tập nhật ký đã “thâu tóm, phản ánh
toàn bộ sự nghiệp văn chương và cách mạng của ông, bắt đầu từ việc tìm
đường cho đến khi đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, một chiến sĩ của
Đảng hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ, với tất cả những đam mê và khát
khao sáng tạo, những thành tựu đã đạt được và cả những hẫng hụt của một
nhà văn không bao giờ bằng lòng với mình, những phơi phới lạc quan và
những băn khoăn, trăn trở của một người cả nghĩ” [20, tr. 6].
Tiêu biểu như cuốn Nguyễn Huy Tưởng về tác gia, tác phẩm (Bích
Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn giới thiệu); Nguyễn Huy Tưởng khát vọng
một đời văn (Phương Ngân tuyển chọn và biên soạn)… Và đặc biệt phải kể
tới những công trình do Nguyễn Huy Thắng - con trai nhà văn, người đã dành
nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về những trước tác của cha mình, về
những tâm sự, suy nghĩ khó nói của ông với mong muốn khắc họa một cách
chân thực, rõ nét gương mặt nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng trong
cuộc sống đời thường và trong sáng tạo văn chương. Đó là các ấn phẩm có giá
trị như: Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ; Nguyễn Huy Tưởng
trước khi là nhà văn; Nguyễn Huy Tưởng với người thân; Nguyễn Huy Tưởng
văn và người…
6
Gần đây cuốn Nguyễn Huy Tưởng một nhà văn Hà Nội (Nxb Hà Nội,
2011) ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và 50
năm ngày mất nhà văn. Cuốn sách tập hợp những bài viết, bài tham luận của
các học giả, các nhà nghiên cứu trong Hội thảo khoa học “Nguyễn Huy Tưởng
với Hà Nội” (do Hội Nhà văn, Viện Văn học và Nhà xuất bản Kim Đồng tổ
chức) đã nhấn mạnh đến những đóng góp và cống hiến to lớn của Nguyễn
Huy Tưởng - người nối dài những vẻ đẹp của Thăng Long, của Hà Nội dấu
xưa. Cuốn sách giới thiệu nhiều bài viết hay của các nhà nghiên cứu như:
Nguyễn Huy Tưởng, một nhà văn Hà Nội (Phạm Xuân Nguyên), Thăng Long
- Hà Nội trong kịch và truyện của Nguyễn Huy Tưởng (Phong Lê), Cốt cách
của một người viết sử (Dương Trung Quốc), Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với
tuổi thơ Hà Nội (Lê Phương Liên)… Những nhận định, đánh giá của các nhà
nghiên cứu đã nói lên tầm vóc và những đóng góp của “một nhà văn Hà Nội”,
người đã mang đến cho đất kinh kỳ những trang văn hay nhất đời mình.
“Nguyễn Huy Tưởng vĩnh biệt Hà Nội khi thành phố Thủ đô vào tuổi chín
trăm năm mươi. Ông đã viết nhiều về Thăng Long - Hà Nội, nhưng hình như
điều sâu xa nhất ông vẫn chưa nói hết, nói trọn, nói xong. Ông ra đi mang
theo tất cả những trăn trở và ước vọng của một người con Hà Nội, một con
người Hà Nội và một nhà văn Hà Nội cho xứ kinh kỳ - kẻ chợ đẹp hơn lên,
văn hóa hơn lên, phong phú hơn lên, cả trên mặt đất và trong hồn người.
Tưởng như bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay, và ngày mai,
vẫn khiến ông xúc động và lo lắng, dù đã tan vào cõi thinh không nửa thế kỷ
nay. Và những con chữ trên trang viết của ông về Hà Nội, cho Hà Nội, vì Hà
Nội đọc lên dịp nghìn năm Thăng Long vẫn thấy động cựa, xôn xao. Trên tất
cả, Nguyễn Huy Tưởng yêu Hà Nội, yêu những con người dám sống và chết
cho Hà Nội.” [17, tr. 204].
7
Ở mỗi công trình nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh
tiêu biểu, nổi bật trong những tác phẩm cụ thể, đồng thời có sự đối sánh với
tác phẩm của tác giả khác cùng viết về một thể loại để chỉ ra những nét đặc
trưng riêng và sự thành công trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở hai
bình diện nội dung tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
Ngoài các công trình nghiên cứu được xuất bản còn có những luận văn
thạc sĩ về sáng tác Nguyễn Huy Tưởng đã bảo vệ thành công gần đây như:
“Thể tài lịch sử - dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng” (Trần Thị
Hồng Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); “Mạch lạc trong văn bản kịch
Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng” ( Đỗ Thị Bích Phượng, Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2011); “Điểm nhìn trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy
Tưởng” (Bùi Thị Tú, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012)… Ở mỗi công trình
nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật trong
những tác phẩm cụ thể.
Tuy nhiên vấn đề thi pháp tự sự trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy
Tưởng vẫn để bỏ ngỏ, như là vùng đất trống mà chúng tôi hy vọng mình có
thể góp được một tiếng nói riêng.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn sẽ hướng trọng tâm vào tìm hiểu thi pháp văn xuôi tự sự
truyện thiếu nhi như: Cô bé gan dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám,
Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An
Dương Vương xây thành Ốc, Hai bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng
em, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết cho thiếu nhi để
thấy được tài năng của nhà văn qua bình diện thi pháp tự sự như: người kể
chuyện, ngôn ngữ kể, tổ chức cốt truyện và hệ thống nhân vật. Cùng với khảo
sát 12 truyện nêu trên, ở đây chúng tôi còn khảo sát nhật ký của ông để làm rõ
8
hơn quan điểm, nghệ thuật truyện viết cho thiếu nhi mà ông đã dành cho độc
giả trẻ.
3.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi nhằm đem lại cách nhìn hệ
thống, chỉ ra những đặc điểm riêng biệt về các truyện ngắn viết cho thiếu nhi
của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng chảy văn học viết cho thiếu nhi nói chung
của nước ta. Đồng thời, qua nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của ông
chúng tôi cũng thử nghiệm vận dụng lý thuyết thi pháp văn xuôi tự sự vào
nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi kiến thức: Vận dụng lý thuyết tự sự học và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể để làm rõ vấn đề về thi pháp văn xuôi tự sự như người kể
chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức cốt truyện và ngôn ngữ kể
trong văn xuôi mảng đề tài viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng. Đề tài được thực hiện cũng là dịp chúng tôi củng cố thêm kiến thức
văn học sử về văn học Việt Nam hiện đại.
- Phạm vi tư liệu: Thực hiện đề tài Thi pháp văn xuôi tự sự trong truyện
viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng chúng tôi tập trung khảo
sát :
+ Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng – sách
xuất bản tại Nxb Kim Đồng, năm 2013;
+ Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, Nxb Văn học; năm 2012.
+ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, 3 tập, Nxb Thanh niên; 2016.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã được xác định, đề tài sử dụng
phương pháp tiếp cận thi pháp học và lý thuyết tự sự học. Ngoài ra, cũng như
mọi luận văn chuyên ngành lý luận văn học khác, chúng tôi không thể không
9
sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp phân
tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
5. Cấu trúc của luận văn
Về cấu trúc luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự và mảng truyện
viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.
Chương 2: Hệ thống nhân vật và tổ chức cốt truyện.
Chương 3: Ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ truyện kể.
10
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ MẢNG
TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG
1.1. Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tƣởng.
1.1.1. Khái lược về thi pháp học.
Trong việc định nghĩa thi pháp và thi pháp học, cũng như hầu hết các
phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu văn học và nhiều bộ môn của khoa
học nhân văn, ta gặp phải một tình hình chung: ở trình độ phát triển hiện nay,
các khoa học này chưa có khả năng đưa ra được những định nghĩa “đơn
nghĩa” về đối tượng nghiên cứu của mình. Chính điều này đã liệt hầu hết khoa
học nhân văn vào lớp các khoa học “chưa trưởng thành”. Nếu như toán học
hoặc vật lý học đã có thể xây dựng những định nghĩa “đúng duy nhất” về
điểm, đường thẳng, vận tốc âm thanh, trị số mét,… thì ngược lại, có thể nói
rằng có bao nhiêu nhà nghiên cứu về truyện kể và thi pháp văn xuôi thì có gần
như bấy nhiêu định nghĩa về thể loại và về thi pháp với tư cách một phân
ngành khoa học. Xét về mặt định nghĩa, “thân phận của thi pháp học không
khác gì mấy so với thân phận tiểu thuyết”. Vì thế, cái dung sai mà viện sĩ M.
Khrapchenco đã dành cho các định nghĩa về thi pháp học của ông lại phải
cộng thêm những dung sai rất đa dạng mà mỗi người sử dụng. Tuy nhiên, có
thể nói định nghĩa của M. Khrapchenco vẫn là một trong những định nghĩa
tổng quát nhất và thuyết phục nhất về thi pháp học. Ông viết: “Không hề kỳ
vọng một định nghĩa thật đầy đủ, thật bao quát, tôi cho rằng có thể xác định
thi pháp học như một bộ môn khoa học nghiên cứu của các phương thức và
phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng
hình tượng” [10, tr. 242].
Thi pháp học là khoa học về hình thức nghệ thuật. Ngay luận điểm xuất
phát đó đã chứa đựng một đặc trưng rất cơ bản của cách tiếp cận đối tượng
11
trong bộ môn này. Thi pháp học cần phát hiện ra những quy luật chi phối cái
thế giới hết sức đa dạng và phong phú các hiện tượng nghệ thuật.
Với tư cách là một khoa học, sự tiếp cận của thi pháp học với các đối
tượng của nó luôn có những xu hướng vươn đến tính hệ thống. Điều này tuyệt
nhiên không phải do ngẫu hứng của các nhà nghiên cứu hay thôi thúc của thời
thượng vì càng ngày tiếp cận hệ thống càng trở thành một phương pháp khoa
học tiên tiến và hữu hiệu. Tính hệ thống như là một đặc điểm cơ bản mang ý
nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ sở từ trong bản thân đối tượng
của khoa học này: những hiện tượng hình thức nghệ thuật.
Thi pháp học có nhiệm vụ phát hiện ra những liên hệ đó dưới dạng các
quy luật và trong những trường hợp sáng rõ nhất – các hệ thống. Khả năng hệ
thống hóa – khả năng xây dựng và sắp xếp nhận thức trong một hệ thống, tức
là một tổ chức chặt chẽ, nhất quán theo những nguyên tắc nhất định – là một
đòi hỏi và một biểu hiện của sự trưởng thành khoa học. Mỗi trình độ nhận
thức mới của khoa học lại được đánh dấu bởi những cấp độ mới, những tầm
vóc mới của năng lực hệ thống.
Không chỉ có nhiệm vụ thống kê và mô tả đơn thuần các phương diện,
các thành tố cụ thể hiện tồn của hình thức nghệ thuật. Nó còn phải nghiên cứu
hình thức đó trong chức năng tổ chức và thể hiện nội dung. Đồng thời, nó cần
đi ngược lên phát hiện ra những cơ sở và ảnh hưởng vô cùng phức tạp đã quy
định sự lựa chọn của người nghệ sĩ, đã định hướng và dẫn dắt anh ta rốt cục
đến những giải pháp hình thức cụ thể trong số vô vàn khả năng có thể có. Thi
pháp học đồng thời là một kiểu “triết luận” về hình thức nghệ thuật.
Tựu trung, thi pháp học hiện thân như một khoa học về kỹ nghệ văn
chương, lấy đối tượng nghiên cứu của mình không phải là văn học chung
chung, mà nói như Jakobson, là “tính văn học của tác phẩm văn chương”. Nó
giải thích vì sao một văn bản ngôn từ lại trở thành tác phẩm nghệ thuật.
12
Thi pháp học phát triển theo ba hướng chính là thi pháp học quy phạm,
thi pháp học lịch sử và thi pháp học cấu trúc. Căn cứ trên những thành tựu
nghiên cứu về lý thuyết và kết quả ứng dụng vào khảo cứu, phê bình các hiện
tượng văn học cụ thể, ngày nay chúng ta đã có một hệ thống điểm nhìn thi
pháp mới, như: thi pháp thể loại, thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, thi pháp
trào lưu… Thi pháp học hiện đại đã khẳng định hướng nghiên cứu rất hiệu
quả của nó trong lĩnh vực nghiên cứu văn xuôi tự sự. Kết quả là tự sự học ra
đời và phát triển theo xu hướng “xin ở riêng”, tách lập như một phân ngành
khoa học độc lập bên cạnh thi pháp học truyền thống.
Do vậy, thi pháp văn xuôi tự sự được hiểu một cách giản dị như là kỹ
thuật kể, hay hệ thống thủ pháp, cách thức trần thuật và xây dựng hình tượng
trong các thể truyện ngắn và tiểu thuyết.
1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng.
Việc tiếp nhận và khảo cứu mảng truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng có thể được tiến hành từ nhiều góc độ khác nhau. Có một
số nhà sử học (như Dương Trung Quốc) tiếp cận di sản văn chương của
Nguyễn Huy Tưởng từ tiêu chí thẩm định về tư liệu lịch sử. Đối với các
truyện lịch sử viết cho thiếu nhi, các nhà sử học cũng có thể trân trọng rút ra
từ đó tính chân thực lịch sử và ý nghĩa giáo dục truyền thống của văn chương
Nguyễn Huy Tưởng. Nhiều công trình nghiên cứu văn học sử khi tiếp cận
hiện tượng Nguyễn Huy Tưởng cũng chủ yếu đánh giá đóng góp của nhà văn
về tính thời sự, ý nghĩa chính trị của đề tài và chủ đề tác phẩm. Phần lớn các
nghiên cứu đó đã ghi nhận những đóng góp của nhà văn ở phương diện nội
dung tư tưởng và tính hiện thực của tác phẩm. Trong luận văn này chúng tôi
quan tâm chủ yếu tới phương diện hình thức nghệ thuật như: ngôn ngữ, thủ
pháp dàn dựng kết cấu, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, loại hình xây dựng
13
nhân vật. Tạm thời chúng tôi có những đánh giá sơ bộ về đặc điểm thi pháp tự
sự của Nguyễn Huy Tưởng gắn với các tác phẩm cụ thể sau:
Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, có
đặc điểm riêng khác để nhận ra với các tác giả cùng thời khác, một kiểu ngôn
ngữ mộc mạc, dân dã, dễ hiểu, cú pháp đơn giản, cơ bản, mang đặc trưng
chung của ngôn ngữ viết cho độc giả thanh thiếu niên, bộc lộ rõ nhất trong
truyện Tìm Mẹ; Giọng kể chuyện thân tình, mang tính đối thoại trực tiếp thể
hiện rõ trong truyện Hai bàn tay chiến sỹ; Chú trọng thông tin sự kiện, không
thi vị hóa kiểu Tô Hoài - truyện Điện Biên Phủ của chúng em. Với truyện về
đề tài lịch sử, ngôn ngữ và giọng điệu kể có thay đổi theo đối tượng, theo đề
tài: thâm trầm, trang trọng hơn trong truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Về thủ pháp dàn dựng kết cấu, đặc điểm dễ nhận thấy trong truyện viết
cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng là ông tổ chức cốt truyện theo trình tự
phát triển tự nhiên của thời gian theo lịch sử cụ thể, sự việc trong truyện xảy
ra tuần tự từ đầu đến cuối và không bị đứt quãng, liên tục phát triển và tiếp
diễn. Những đặc điểm đó thể hiện rõ qua cốt truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng,
Kể chuyện Quang Trung, Điện Biên Phủ của chúng em . Đó cũng là những
truyện tuân thủ mẫu kết cấu chương hồi; mỗi chương hồi gắn với một giai
đoạn phát triển nào đó của cốt truyện. Truyện Điện Biên Phủ của chúng em
được tác giả xây dựng kết cấu làm ba phần: phần một “Đường lên Điện Biên
Phủ”, phần hai “Điện Biên Phủ lịch sử”, phần ba “Điện Biên Phủ xây dựng
chủ nghĩa xã hội”. Ở mỗi phần nội dung của truyện được tác giả nêu cụ thể
theo tiến trình thời gian của lịch sử dẫn dắt chúng ta con đường đi lên Điện
Biên - những địa danh, những trận đánh và địa danh các trận đánh giành giật
của bộ đội ta với địch và sự chiến thắng oai hùng của bộ đội. Cuối câu chuyện
tác giả đưa chúng ta tới một Điện Biên đang ngày đêm xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
14
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện các truyện viết cho thiếu nhi Nguyễn
Huy Tưởng trên cơ sở khảo sát 12/12 truyện thì cốt truyện đơn tuyến theo trật
tự thời gian tuyến tính, tác giả hạn chế sự hồi cố, hoài niệm vì trong các tác
phẩm này thường chỉ có một nhân vật chính, đóng vai trò là trung tâm của cốt
truyện; truyện phần nhiều ít kịch tính, và kết thúc có hậu (truyện Thằng Quấy,
Tìm Mẹ). Kết thúc truyện có phân biệt rõ các giá trị “Thiện - Ác”, “Tốt -
Xấu”, “Địch - Ta” như Cô bé gan dạ, hai bàn tay chiến sĩ, Lá cờ thêu sáu chữ
vàng, Kể chuyện Quang Trung; Cốt truyện tổ chức trên nguyên tác các mâu
thuẫn xã hội, mâu thuẫn địch ta, tuy nhiên chưa phát triển thành xung đột cao
trào.
Về loại hình nhân vật: các nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được hình thành qua ba tuyến nhân vật chính:
nhân vật thiếu nhi tiêu biểu là nhân vật Trần Quốc Toản truyện Lá cờ thêu
sáu chữ vàng, nhân vật cô Thứ truyện Cô bé gan dạ, nhân vật em Nhà và em
Gạo truyện Tìm mẹ; nhân vật anh hùng như An Dương Vương - truyện An
Dương Vương xây thành Ốc, nhân vật Quang Trung trong Kể chuyện Quang
Trung, nhân vật từ thế giới loại vật như con Cóc – truyện Con cóc là cậu ông
Giời, chim vàng anh truyện Tấm Cám…
1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.
1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 06/5/1912, tại làng Dục Tú,
phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Cha
là một ông Tú nghèo, sống nhờ vợ tần tảo buôn bán. Khi Nguyễn Huy Tưởng
lên 7 tuổi thì cha mất, mẹ gửi ông ra Hải Phòng sống cùng gia đình người chị,
học tiểu học ở trường Bonnal. Năm 1932, khi 20 tuổi, ông đậu bằng Thành
Chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Ra trường, sau 3 năm vất vả tìm việc,
đến 1935 ông thi đậu vào ngạch thư ký Nhà Đoan (cơ quan hải quan). Năm
15
1939, ông cưới vợ, là tiểu thư con một vị quan ở Hải Phòng. Dù sống cuộc
sống công chức Nhà Đoan, nhưng Nguyễn Huy Tưởng có một đời sống nội
tâm phong phú, ông chăm đọc sách, chịu khó tìm ý tưởng, hàng ngày viết
nhật ký.
Từ năm 1938, Nguyễn Huy Tưởng đã hoạt động cho hội Truyền bá
quốc ngữ. Cuối năm 1944, bắt đầu tham dự các buổi họp bí mật của hội Văn
hóa cứu quốc. Tháng 4/1944, ông chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội công tác
và được gặp các trí thức Hà thành như Nguyễn Xuân Huy, Như Phong,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Huyền Trân... Tháng 6/1945, Nguyễn Huy
Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Sau
đó hai tháng, Nguyễn Huy Tưởng đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào, Tuyên
Quang. Ông còn là đại biểu Văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ
giải phóng, Tiên Phong. Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung
ương Vận động đời sống mới. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn
Huy Tưởng trở thành một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn
hóa cứu quốc. Ông qua đời ngày 25/7/1960, tại Hà Nội, khi mới 48 tuổi.
Trong kí ức của những bạn văn cùng thời - những người cùng hoạt động
cách mạng, cùng gắn bó, sẻ chia những vui buồn trong hành trình sáng tạo,
Nguyễn Huy Tưởng luôn để lại ấn tượng và hình ảnh đẹp về một người chân
thành, giản dị, cởi mở và đôn hậu. Nói về Nguyễn Huy Tưởng, đa số các văn
nghệ sĩ đều nhận thấy những phẩm chất tốt đẹp tỏa ra từ cuộc đời và những
trang viết của ông. Nhà văn Nguyễn Minh Châu khi soi chiếu cuộc đời và
những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã chỉ ra một đặc điểm thống nhất
trong con người và văn nghiệp của nhà văn: “Những cái tên sách của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng cũng như toát lên từ tính nết của ông thường kín đáo,
điềm đạm, thủ thỉ và giản dị.” [16, tr. 582]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì
16
cho rằng: “Nguyễn Huy Tưởng, con người ấy, nhà văn ấy, như tôi biết là một
con người chí tình…đối với bạn bè anh là một người trung hậu.”[16, tr. 562].
Là người cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, nhiều năm gắn
bó với Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Như Phong nhận định: “Anh Tưởng
người cao lớn, khỏe mạnh, nhưng có vẻ rất hiền. Đôi mắt lim dim dưới một
cặp lông mày thường nhướng cao lên như lúc nào cũng đương ngạc nhiên,
một cặp môi luôn luôn hé mở hoặc tủm tỉm cười làm cho anh có vẻ thật thà,
cả tin hết sức. Anh có một đức tính hiếm có ở một người đã ở vào một lứa
tuổi già dặn là hết sức khâm phục, dễ hâm mộ những chuyện gì hay, những
người nào tốt, hoặc anh cho là hay, là tốt…Có lẽ đó là nguyên nhân làm cho
sáng tác của anh về sau này phần nhiều thiên về ca ngợi, ca ngợi với tất cả
lòng chân thành, trọn vẹn và trong sáng không vẩn một chút dè dặt nào…
Anh Tưởng là một người say mê lý tưởng và rất lạc quan tin tưởng ở bản chất
tốt đẹp của con người”[16, tr. 532 - 540].
Với nhà văn Lưu Văn Lợi, người bạn học cùng trường Bonnal, từng có
những năm tháng làm việc với Nguyễn Huy Tưởng đã có nhận xét tinh tế về
người bạn thân của mình: “Trong lao động nghệ thuật, Tưởng có hai nét đặc
biệt: viết khó khăn, nhưng say sưa như không biết có gì xung quanh, viết viết,
gạc gạc, suy nghĩ tập trung mặt thẫn thờ, cho nên Nguyên Hồng mới đặt cho
Tưởng cái tên ông Mao Thuẫn (mặt thuỗn ra)” [17, tr. 31].
Bằng lối nói giàu hình ảnh, nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận: “Huy Tưởng
không ánh chói, không làm người ta choáng phục ngay; nhưng anh chầm
chậm nói chuyện rất có duyên, và dần dần mới hay anh có một sức hấp dẫn
sâu sắc”[16, tr. 508].
Sau này trong Điếu văn của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đọc
khi Nguyễn Huy Tưởng mất, nhà thơ Nguyễn Đình Thi xúc động viết:
“Khiêm tốn trong đời sống hằng ngày, trong cách cư xử, trong khi viết
17
văn…Thật thà với từng ý nghĩ, với từng dòng chữ viết ra…anh là nhà văn của
lòng yêu và niềm tin cậy, anh hay nói đến niềm vui trong cuộc sống, miệng
anh cười nhân hậu, mắt anh mở nhìn về phía ánh sáng” [16, tr. 501-502].
Gần đây, khi đánh giá về con người và văn nghiệp của Nguyễn Huy
Tưởng, nhà nghiên cứu Phong Lê đã phác thảo rõ nét chân dung, con người
Nguyễn Huy Tưởng bằng những câu văn ngắn gọn, ấn tượng: “Con người
Nguyễn Huy Tưởng, gương mặt Nguyễn Huy Tưởng: Hiền. Và lành. Chân
thành. Và đôn hậu.” (Báo Văn nghệ 16/5/1992).
Còn trong hồi ức của những người thân trong gia đình, Nguyễn Huy
Tưởng là người con chí hiếu, nặng tình, sống có trách nhiệm với gia đình.
Đặc biệt qua những trang Nhật ký chân thực, sinh động mà ông ghi chép cần
mẫn, bền bỉ suốt 30 năm, người đọc thấy hiện lên những phẩm chất đáng quý
trong con người Nguyễn Huy Tưởng.
Ông là người giàu lòng yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương. Tuổi
mười tám đôi mươi ông đã ý thức rõ về trách nhiệm, bổn phận của bản thân
trước vận mệnh quốc gia, “Viết văn để tỏ lòng yêu nước”. Trải qua những
thăng trầm, của đời sống cách mạng và kháng chiến, không lúc nào ông
không trăn trở, thao thức về nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng phải viết được
những tác phẩm lớn nói lên được sức sống mạnh mẽ, trường tồn của văn hóa
dân tộc; cái vĩ đại của đất nước, con người Việt Nam.
Nguyễn Huy Tưởng là người có khát vọng lớn, khát vọng viết được
những tác phẩm có thể đạt giải Nobel như lời tâm sự ông ghi trong Nhật ký
ngày 29-3-1945: “Mơ mộng viết một truyện dài, những truyện dài. Khao khát
một phần thưởng Nobel”, Tác phẩm ấy phải nói lên được tinh thần Việt Nam;
ngợi ca, đề cao, tôn trọng con người. Ông muốn mỗi người dân Việt Nam
phải hiểu sâu sắc về lịch sử dân tộc mình, nhất là trong những năm tháng chịu
kiếp nô lệ, tù đày, vì “Người không biết lịch sử nước mình là một con trâu đi
18
cầy ruộng. Cầy với ai cũng được, mà cầy ruộng nào cũng được” (Nhật ký
ngày 13-01-1932).
Với Nguyễn Huy Tưởng, công việc viết văn không dễ mà là hành trình
đầy gian nan, vất vả nhưng không vì thế mà ông nản lòng. Ông luôn cố gắng,
nỗ lực tìm tòi, sáng tạo. Không bao giờ ông bằng lòng, thỏa mãn với những gì
đã làm được mà luôn lắng nghe, bình tĩnh suy xét, chỉnh sửa, bổ sung những
điều mà ông cảm thấy còn khiếm khuyết, hạn chế trong từng câu chữ, trang
văn.
Một đặc điểm nổi bật trong con người Nguyễn Huy Tưởng là đức tính
chân thành, tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh những
vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Với quan điểm đúng đắn, tiến bộ về con
người, về nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng kiên trì đấu tranh với những tư
tưởng tập thể giản đơn, công thức, những hành động nhất thời làm tổn thương
tình cảm, cuộc đời con người dù ông biết hậu quả sẽ phải nhận là những hiểu
lầm, những thiệt thòi, day dứt.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho
đời sau nhiều tác phẩm có giá trị về văn chương và lịch sử. Về tiểu thuyết có
Đêm hội Long Trì (1942), An Tư công chúa (1944), Truyện Anh Lục (1955),
Bốn năm sau (1959), Sống mãi với Thủ đô (1960)... Về kịch có Vũ Như Tô
(1943), Cột đồng Mã Viện (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948),
Anh Sơ đầu quân (tập kịch - 1949), Lũy hoa (1960)... Về truyện ký có Ký sự
Cao Lạng (1951), Chiến sĩ ca nô... Ngay trong lĩnh vực truyện thiếu nhi, ông
để lại những dấu ấn sâu sắc, có lẽ bởi ông chính là Giám đốc đầu tiên của Nhà
xuất bản Kim Đồng; với Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến
sĩ, Con cóc là cậu ông giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện
Quang Trung, Cô bé gan dạ... và một tập Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, dày
1.700 trang.
19
Có thể nói con người Nguyễn Huy Tưởng có sự kết hợp hài hòa những
phẩm chất tốt đẹp của một người giàu lòng yêu nước, yêu lịch sử dân tộc;
không ngừng tìm tòi, sáng tạo để vươn tới những giá trị tốt đẹp của chân -
thiện - mỹ. Đường đời, đường cách mạng và đường văn chương Nguyễn Huy
Tưởng có sự song hành, bổ sung, thống nhất. Điều đó đã làm nên một chân
dung, phong cách Nguyễn Huy Tưởng độc đáo, ấn tượng.
1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng
chảy văn học thiếu nhi.
Nếu nhìn vào chiều sâu lịch sử của văn hóa dân tộc, chúng ta đều thấy
rằng văn học dành cho trẻ em ở ta đã tồn tại từ lâu đời dưới dạng văn chương
truyền miệng qua những bài hát đồng dao, trò chơi dân gian, truyện cổ tích,
giai thoại và truyện dã sử về các nhân vật anh hùng... Khi công cuộc truyền bá
chữ quốc ngữ được các nhà văn hóa yêu nước Việt Nam dấy lên thành một
phong trào rộng lớn, mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng là một thành viên
tích cực của phong trào này, nhu cầu phổ biến văn hóa cho thế hệ trẻ có lẽ đã
thúc đẩy sự ra đời một thể loại văn học mới, hiện hình như một loại sách
riêng: Tủ sách Truyền bá, Tủ sách Hoa Xuân, Tuổi Hồng, Tuổi Xanh... dành
cho lứa tuổi thanh thiếu nhi, ra đời trong những năm 1940, 1941, 1942...
Cũng chính từ đây, tác phẩm bất hủ Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài đã xuất
hiện và một số truyện viết cho thiếu nhi khác.
Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình sáng tác của mình ông đã viết rất
nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch… đặc biệt với tuổi thơ ông đã dành tình
cảm nhiệt huyết nhất với thiếu nhi và đã sáng tạo và viết các truyện Cô bé gan
dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là
cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An Dương Vương xây thành Ốc, Hai
bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng em, Kể chuyện Quang Trung, Lá
cờ thêu sáu chữ vàng.
20
Trong lời giới thiệu tập Cô bé gan dạ, anh Nguyễn Huy Thắng, con trai
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã cho bạn đọc biết, nhà văn khi ấy 27 - 28 tuổi
đời, đã hăng hái tham gia phong trào hướng đạo, một tổ chức tập hợp những
thanh thiếu niên giàu nhiệt huyết, yêu đời, tràn đầy lòng tự hào dân tộc... Từ
sở trường riêng sớm xác định cho mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã
hướng suy tư thẩm mỹ của mình vào việc tìm hiểu kho tàng truyện lịch sử và
cổ tích của dân tộc. Không chỉ làm công việc sưu tầm Kho tàng truyện cổ
tích như nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi, hay sưu tầm Tục ngữ phong dao như
học giả Nguyễn Văn Ngọc, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với ý thức sáng tạo
đã xuất phát từ truyện cổ tích sưu tầm ở dân gian như Cô bé gan dạ và sau
này là Tìm mẹ, viết nên những truyện ngắn như huyền thoại, làm ra một bản
sắc riêng trong văn học cho thiếu nhi.
Có thể nói rằng trong các tác phẩm này, dưới ngòi bút của nhà văn,
tiếng Việt đã trở nên tinh xảo và sinh động, có sức gợi mở trí tưởng tượng cho
người đọc. Truyện Cô bé gan dạ thể hiện hình ảnh một cô con gái liễu yếu
đào tơ, dám liều mình nhận làm vật hiến sinh cho con quái vật, để rồi đối mặt
chiến đấu với mãng xà và cuối cùng đã chiến thắng, diệt trừ được mối tai họa
cho dân làng. Tấm lòng của Nguyễn Huy Tưởng khi ông tâm niệm: “Văn
chương viết cho thiếu niên phải cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm
lòng bồng bồng bột bột, mà vẫn biết lẽ phải, và vẫn biết thương nhau”. Điều
này sẽ còn được tác giả thể hiện rõ nét hơn, hào hùng hơn trong Lá cờ thêu
sáu chữ vàng sau này.
Đã có nhiều bài nói về các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng, những bài của đồng nghiệp, bạn bè, nhà nghiên cứu như Tô Hoài, Vũ
Ngọc Bình, Văn Hồng, Vân Thanh... và cũng đã có nhiều hội thảo về sự
nghiệp văn học của ông trong đó có phần sáng tác cho thiếu nhi. Nhưng hình
như mỗi lần đọc lại tác phẩm của ông, ta lại thấy sáng ra một điều gì khác. Rõ
21
ràng nhờ có nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhờ có sáng tác về mảng truyện
viết cho thiếu nhi của ông ta mới có thể khẳng định được sự đóng góp đặc
sắc, phong phú cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Tìm đọc những sáng tác của
ông, ta mới càng thấy việc viết cho thiếu nhi là một sự nghiệp đòi hỏi công
phu, tinh tế và có ý nghĩa lâu dài, bởi nó tác động vào tâm hồn, tạo nên nhân
cách văn hóa cho những con người còn măng tơ. Hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Huy Tưởng là hành trình của sự kiếm tìm, sáng tạo không
mỏi mệt nhằm tạo ra những tác phẩm có giá trị thẩm mĩ, tiến tới sự hoàn mĩ
về nội dung và hình thức biểu hiện, đem đến cho công chúng những món ăn
tinh thần bổ ích, nhiều giá trị và giá trị lớn hơn cả là tinh thần dân tộc.
Như vậy, với hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng
khép lại ở tuổi 49 với gần 20 năm cầm bút mà điểm đầu xuất phát là kịch Vũ
Như Tô, kết thúc ở tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô còn dang dở. Đó là một
hành trình đầy gian nan, vất vả. Nhiều lúc ông nghẹn ngào “Đời nhiều việc
quá, thấy viết không được như mình muốn, viết khó quá. Và ứa nước mắt
khóc” (Nhật ký, ngày 13-18/8/1946). Nhưng với những nỗ lực và niềm đam
mê sáng tạo, khát khao cống hiến, Nguyễn Huy Tưởng đã có nhiều công lao
to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền văn học dân tộc. Nổi bật lên
trong văn nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng là nguồn cảm hứng mãnh liệt về
lịch sử dân tộc với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng đặc biệt là truyện viết
cho thiếu nhi Việt Nam ta.
*
Tiểu kết: Sáng tác cho thiếu nhi là một thành tựu nghệ thuật quan trọng
trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng. Hướng tới độc giả trẻ tuổi
với động cơ giáo dục nhân cách đạo đức và tình yêu quê hương đất nước cho
thế hệ tương lai chính là con đường nghệ thuật chân chính và cao đẹp của mỗi
người cầm bút viết văn. Nguyễn Huy Tưởng đã vững bước trên con đường ấy,
22
và trở thành một trong những cây bút mở đường, khai phá cho dòng văn học
Việt Nam hiện đại viết cho tuổi trẻ. Đối với mỗi kiểu độc giả, nhà văn chắc
chắn phải tìm một lối viết riêng mang tính đặc thù, phù hợp với thị hiếu, tâm
lý và khả năng của độc giả. Thi pháp truyện kể cho người trẻ có những đặc
điểm riêng, khác biệt với độc giả lớn tuổi. Trong chương viết trên, chúng tôi
đã có những nhận diện ban đầu về thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của nhà
văn. Trong hai chương tiếp theo dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những
đặc điểm thi pháp truyện thiếu nhi của nhà văn trên các bình diện thi pháp tự
sự cơ bản như: Kiểu nhân vật, Tổ chức cốt truyện, Người kể và Ngôn ngữ
truyện kể.
23
Chƣơng 2
THI PHÁP NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN
2.1. Thi pháp nhân vật
2.1.1. Khái niệm nhân vật
Có thể khái quát như sau: “nhân vật chính là nơi chứa đựng nội dung,
phản ánh tư tưởng tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân
sinh của nhà văn. Phân tích nhân vật trở thành một con đường quan trọng để
đi đến giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mỹ
của nhà văn. Nhân vật được coi là đứa con tinh thần của nhà văn, nên phân
tích nhân vật để nhận ra tài năng, đặc điểm, bút pháp nghệ thuật của nhà văn”
[15, tr. 1].
Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ,
đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện qua những đặc
điểm mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu
sử, nghề nghiệp. Thực ra, khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một
phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên
hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong
tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loại vật khác ít nhiều mang bóng
dáng con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện
con người. Đó là nhân vật Dế Mèn, võ sĩ Bọ Ngựa trong truyện thiếu nhi của
Tô Hoài. Đó là con Cóc, chim Trĩ, vàng anh trong truyện thiếu nhi của
Nguyễn Huy Tưởng, hay vầng trăng, bông hoa trong thơ Bác... cũng có khi
đó không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng về
con người hoặc có liên quan đến con người được thể hiện nổi bật trong tác
phẩm, chẳng hạn như nói “nhân dân” là nhân vật chính trong tác phẩm hay
“thời gian” là nhân vật chính trong tác phẩm.
24
Các tác phẩm thuộc thể văn xuôi tự sự (như truyện ngắn, tiểu thuyết)
không thể thiếu nhân vật, vì đó là phương diện cơ bản để nhà văn khái quát
hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận
thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn
đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một
thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Các loại hình
nhân vật trong tác phẩm rất đa dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm,
có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm...
2.1.2. Nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng.
Nhân vật là hình tượng trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc thể
hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Mỗi nhà văn trong quá trình
sáng tạo đều cố gắng tạo ra những nhân vật điển hình đại diện cho số phận,
tính cách của một giai cấp, một cộng đồng trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử
nhất định. “Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ
bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo
nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại
người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người
dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch
sử nhất định.” [8, tr. 160]. Nhân vật trong truyện Nguyễn Huy Tưởng rất đa
dạng, đó là những con người nhỏ bé như nhân vật em Nhà và em Gạo trong
Tìm Mẹ, nhân vật cô Thứ trong Cô bé gan dạ, những người anh hùng gắn liền
với những chiến công thời đại như nhân vật Quang Trung trong Kể chuyện
Quang Trung, nhân vật Trần Quốc Toản trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng,… tất
cả đều được chọn lựa, phản ánh qua cách xử lý, sáng tạo tài tình của nhà văn.
Nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng mang sắc màu, cá tính
riêng qua điểm nhìn nghệ thuật và cách miêu tả, phản ánh độc đáo. Nếu coi
25
“Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo của nhà văn, sự
hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về cuộc sống, của cách nhìn của nhà văn
đối với thế giới” [8, tr. 272] thì việc xây dựng thành công hình tượng các
nhân vật lịch sử, các gương người tốt việc tốt, nhân vật anh hùng cũng phần
nào thể hiện quan điểm, cách nhìn của nhà văn về cuộc sống, con người.
Chúng tôi tiến hành khảo sát các kiểu nhân vật trong sáng tác nghệ thuật của
Nguyễn Huy Tưởng để thấy được những nét riêng và những đóng góp, sáng
tạo của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật - một yếu tố quan trọng
góp phần làm nên nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng.
Nhìn chung có thể nhận thấy có ba tuyến nhân vật chủ yếu nổi lên trong
thế giới nhân vật truyện thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sự phân
định ra ba tuyến nhân vật này chỉ có tính tương đối, vì không thể lấy ra một
tiêu chí chung để phân loại, chọn lọc mà đưa vào hệ thống. Có những nhân
vật có tính giao thoa, chồng lấn sang tuyến nhân vật bên cạnh, có thể xếp vào
cả hai tuyến kiểu trong ba tuyến nhân vật: nhân vật thiếu nhi, nhân vật anh
hùng và nhân vật từ thế giới loài vật.
2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi.
Nhân vật thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng trong các truyện Lá cờ thêu
sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Cô bé gan dạ là các nhân vật chính trung
tâm. Đây là những gương mặt tiêu biểu cho lòng quả cảm, ý chí sắt đá, kiên
cường, vượt lên hoàn cảnh số phận, vượt lên chính bản thân mình để chiến
thắng kẻ thù, để tìm về với hạnh phúc, cao hơn nữa là khẳng định cho tình
yêu với đất nước khi có giặc ngoại xâm.
Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản - một thiếu niên yêu nước thời
Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn lựa những chi tiết phù hợp với tính cách
nhân vật, đáp ứng được tâm lý của trẻ em khi đọc tác phẩm. Trần Quốc Toản
là một thiếu niên sớm có ý thức trách nhiệm với non sông. Trước thái độ
26
nghênh ngang, hợm hĩnh coi thường “phép nước Nam” của sứ giả nhà
Nguyên, lòng dân vô cùng căm giận. Nỗi uất giận đó cũng xen vào giấc ngủ
trẻ thơ. Trần Quốc Toản mơ bắt được Sài Thung (tên sứ giả hống hách của
nhà Nguyên) nhốt vào cũi giải về kinh. Trong mơ, Sài Thung đớn hèn chắp
tay lạy như tế sao, làm Trần Quốc Toản bật cười tỉnh dậy và biết đây là một
giấc mơ. Bực tức vì nhỏ tuổi không được dự bàn việc nước, Hoài Văn Hầu
Trần Quốc Toản đã nhịn đói, rong ruổi ngựa suốt một ngày dưới nắng hè tìm
nơi họp bàn việc nước của nhà vua. Bị quân lính Thánh Dực ngăn cản, Quốc
Toản đã liều mình rút kiếm đe dọa. Sự khảng khái đó thể hiện tinh thần yêu
nước thiết tha khiến chú bé chẳng nghĩ gì đến tính mạng của mình.
Vua Thiệu Bảo ngợi khen và ban cho cam quý. Uất giận vì giặc cướp
nước, tủi hổ vì vẫn bị coi là trẻ con, Trần Quốc Toản đã bóp nát cam quý vua
ban lúc nào không biết. Những chấn động trong tình cảm đã khiến chú bé có
những hành động vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Sức mạnh của lòng
căm thù có thể biến thành một sức mạnh vật chất lớn lao. Trần Quốc Toản đã
tự dựng cờ nghĩa với sáu chữ vàng đã nhanh chóng thu phục được hơn sáu
trăm trai tráng thành lập quân đội, luyện tập võ nghệ, lên đường đánh giặc…
Những hành động đó thể hiện ý thức tự lập, tự cường cao cả của người anh
hùng nhỏ tuổi. Trận Hàm Tử Quan là trận phản công đầu tiên của nhà Trần
nhằm bẻ gãy sự phối hợp của hai cánh quân đường bộ do Thoát Hoan chỉ huy,
đường thủy do Toa Đô chỉ huy. Trần Quốc Toản đã xung phong đi đánh Toa
Đô với những lời khẳng khái “Một Toa Đô chứ mười Toa Đô cháu cũng
không sợ”, “Nếu không lấy được đầu Toa Đô cháu xin nộp đầu mình dưới
trướng”. Thái độ cương quyết của Trần Quốc Toản đã khiến Trần Hưng Đạo
hết sức hài lòng, tin tưởng giao nhiệm vụ là tướng tiên phong trong trận Hàm
Tử Quan. Trong cuộc giao tranh với lão tướng nhà Nguyên, Trần Quốc Toản
đã ba lần chủ động tấn công sang thuyền Toa Đô với một ý chí ngoan cường.
27
Bằng những chi tiết tiêu biểu, sinh động nhà văn đã khắc họa thành công tấm
gương thiếu nhi yêu nước: “Hoài Văn tuổi trẻ chí cao/ Cờ đề sáu chữ quyết
vào lập công”.
Tìm Mẹ là truyện cổ tích xuất sắc, hấp dẫn nhiều thế hệ bạn đọc bởi
tính cách nhân vật và truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc là: ác giả, ác báo,
ở hiền gặp lành … ngay vào đầu câu chuyện, người đọc bắt gặp cái tên của
hai nhân vật chính thật đặc biệt thằng Nhà và con Gạo. Tác giả viết: “Thôi,
đặt tên cho nó là Nhà để nó sau này nó có cái nhà trú mưa trú nắng… thôi, đặt
tên cho nó là Gạo để nó sau này nó còn có hột gạo mà ăn”. [24, tr. 67].
Có nhà để ở, có gạo để ăn đó là ước muốn cháy bỏng ngàn đời của cha
ông và dường như đến nay câu chuyện ấy vẫn là khát vọng, mong ước không
dễ thực hiện với bao người. Truyện kể thằng Nhà và con Gạo có hoàn cảnh
khốn khó, phải sống dưới sự cai trị của chúa làng gian ác. Hai anh em phải
trải qua bao gian truân, khổ cực, lạc mất mẹ, đói khát, rơi vào nanh vuốt hổ.
Nhưng được sự giúp đỡ của Rận, của Đại Bàng, các em đã tìm thấy mẹ, được
trở về mái ấm gia đình. Với mong ước nhỏ nhoi, bình dị: “Trở về làng từ nay
có nhà, có gạo, có mẹ có con. Con ơi con ngủ cho ngoan…” [24, tr. 96] . Câu
hát à ơi của người mẹ vang lên khi kết thúc truyện chứa đựng bao tình cảm
thiết tha, lòng yêu thương con vô bờ bến với khát vọng về một tương lai no
ấm, sum vầy đó là khát vọng của nhân dân ta. Tìm Mẹ xứng đáng được xếp
vào một trong những truyện viết cho thiếu nhi xuất sắc nhất, một đỉnh cao của
văn học hiện đại Việt Nam.
Sau truyện Tìm Mẹ phải kể đến truyện Cô bé gan dạ, một câu chuyện
mới được phát triển in trong tủ sách Hoa Xuân được Nguyễn Huy Tưởng viết
vào những năm 1940 của thế kỷ trước khi ông tham gia phong trào hướng
đạo. Truyện kể về một cô bé gan dạ đã vượt lên sự mê muội, mê tín của dân
làng khi ông Tiên chỉ cho biết thần làng báo mộng mỗi tháng phải nộp một
28
con lợn sống và mỗi năm phải cống nộp một người con gái tân. Làng Thần
Quyết hai mươi năm nay phải sống trong khủng bố, đe dọa với tâm lí nơm
nớp lo sợ. Năm nay cô Thứ con gái cụ Trương Nghiêm – một gia đình khốn
khó, hiếm hoi chỉ có một mụn con gái tới lượt phải nộp cho hung thần theo sự
bốc thăm của làng. Nhưng trái với tâm lí sợ sệt của thầy u, dân làng, cô Thứ
không hề run sợ, không sợ đối mặt với cái chết, cô chỉ thương cha mẹ già
không có ai chăm nom, lo liệu sớm hôm. Với bản lĩnh cứng cỏi, trí thông
minh, tinh thần dũng cảm, cô Thứ tưởng lúc đi vào cõi chết chỉ xin thầy u một
điều hãy rèn cho hai con dao thực sắc để nàng quyết sống chết với con ác thú.
Không tin vào những tin đồn nhảm, cô Thứ linh cảm và biết chắc trong hang
động không có thần thánh nào tác oai, tác quái mà chỉ có con thú dữ ăn thịt
người.
Nguyễn Huy Tưởng bằng tài quan sát, miêu tả, nghệ thuật kể chuyện
dẫn dắt độc đáo, khéo léo đã tái hiện cuộc chiến giữa người với ác thú, giữa
chính nghĩa với tàn bạo, hủ tục. Cuộc vật lộn, tấn công giữa một bên là người
con gái trẻ đẹp, đơn độc với một bên là con cá sấu dũng mãnh, phi thường
mình dài hơn một trượng được miêu tả chi tiết, gay cấn: “Mắt nó đang tìm tòi,
thì vụt một cái, giữa lúc cổ nó vừa ra khỏi miệng hang, một chiếc dao nhọn
của cô bé can đảm đã đâm thẳng vào chỗ hiểm ấy. Con vật bị đánh bất thình
lình kêu rít lên; nó định quay đầu lại để cắn kẻ thù nhưng không được vì con
dao đã cắm ngập cổ nó, mà mình nó còn bị giam hãm trong hang nên nó thiếu
đà” [24, tr. 19]. Cuối cùng bằng tài năng nghị lực và niềm tin vào cái thiện sẽ
chiến thắng, cô Thứ đã giải được cơn u mê, diệt trừ mối tai họa cho dân làng,
được nhân dân kính phục và ngưỡng mộ.
Viết cho thiếu nhi mảng măng non, Nguyễn Huy Tưởng còn mang đến
cho các em những câu chuyện cổ tích thần kỳ, những xứ sở thần tiên. Nhưng
thấp thoáng và ẩn sâu sau những chi tiết li kì, kì ảo như truyện An Dương
29
Vương xây thành Ốc, bạn nhỏ có thể bắt gặp những hình ảnh, con người trong
câu chuyện ở ngay giữa cuộc đời.
2.1.2.2. Nhân vật anh hùng.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đã dành nhiều tâm huyết cho đề tài lịch
sử. Các tác phẩm của ông về đề tài này đã tái hiện thành công những mốc lịch
sử của dân tộc. Ngay từ khi còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng đã có ý thức sâu sắc,
tầm quan trọng của việc am hiểu lịch sử trong đời sống tinh thần dân tộc,
cũng như trong sự phát triển của từng cá nhân, đặc biệt đối với thiếu niên nhi
đồng. Bằng những tác phẩm như An Dương Vương xây thành ốc, Lá cờ thêu
sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung, Hai bàn tay chiến sĩ…Nguyễn Huy
Tưởng đã đưa các em trở về với những năm tháng đầy hào hùng trong lịch sử
dân tộc. Điều hấp dẫn trẻ thơ từ những tác phẩm này chính là nghệ thuật khắc
họa các nhân vật anh hùng lịch sử.
Đề tài lịch sử không hề dễ viết nhưng bằng vốn kiến thức sâu rộng
bằng việc căn cứ vào các sử liệu và phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo
trong khi viết, Nguyễn Huy Tưởng đã giúp trẻ em hình dung một cách rõ nét,
sinh động về các giai đoạn lịch sử, các nhân vật lịch sử nhiều khi bị lớp bụi
thời gian làm mờ nhòa. Nhà văn đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc
trong việc khắc họa các nhân vật lịch sử đem lại sự thích thú cho thiếu nhi khi
được đọc tác phẩm của ông.
Nguyễn Huy Tưởng đã lựa chọn những tình huống truyện nhiều ý
nghĩa để khắc họa chân dung nhân vật lịch sử. Các nhân vật được đặt trong
những biến cố lịch sử dân tộc để bộc lộ phẩm chất. Bản lĩnh và tài năng của
Thục Phán - An Dương Vương trong việc xây thành, ghi lại hoàn cảnh đầy
thử thách, cam go của cả dân tộc. Giặc Triệu Đà đang tiến gần bờ cõi, làm
cách nào để chiến thắng giặc ngoại xâm, An Dương Vương cùng nhân dân Âu
Lạc đã dốc sức, đồng lòng để xây thành trì kiên cố chống giặc. Chuỗi truyền
30
thuyết về An Dương Vương có nhiều sự kiện lịch sử nhưng Nguyễn Huy
Tưởng đã chọn công việc xây thành để nhân vật vua An Dương Vương bộc lộ
phẩm chất và tài năng. Nhà văn đã mượn giấc mơ của An Dương Vương được
thần núi Thất Diện bày cách xây thành Ốc. “Thành này không có bốn cửa
đông, tây, nam, bắc. Quân Triệu Đà không biết đánh vào chỗ nào. Thành này
có nhiều lần tường. Thành này chỉ có một con đường đi vào, càng vào càng
heo hút, thẳm cùng. Vào không dễ mà ra. Vào ít thì không có sức mà đánh,
vào nhiều thì tắc nghẽn. Nhà vua đắp được thành này thì đánh được Triệu Đà.
Đấy gọi là thành Ốc” [24, tr. 136].
Giấc mơ kỳ diệu là kết quả của những trằn trọc, cân nhắc, An Dương
Vương cùng toàn dân bắt tay vào công cuộc xây thành. Hằng đêm, nhà vua có
mặt nơi diễn ra việc xây thành. Nhà vua mừng ra mặt khi bức thành vững chãi
hiện dần qua thời gian, lo lắng tái mặt, toát mồ hôi lúc gần sáng, có tiếng gà
gáy thành lại sụp đổ. Nhà vua bồn chồn ngày không ăn, đêm không ngủ,
người gầy như xác ve. Tấm lòng yêu nước đau đáu của nhà vua đã được
muôn dân chia sẻ, được thần linh cảm động giúp đỡ. Những người dân tự
nguyện giết hết gà trống để không còn tiếng gáy quái ác làm sụp thành. Gạt
bỏ những yếu tố kì ảo của một truyện cổ tích, các chi tiết của truyện vẫn giúp
trẻ hình dung ra tâm trạng, hành động, ý nghĩa xây dựng thành giữ nước của
An Dương Vương.
Nếu Lá cờ thêu sáu chữ vàng tái hiện lại giai đoạn lịch sử thế kỷ XIII
thì Kể chuyện Quang Trung lại đưa trẻ thơ đến với giai đoạn lịch sử thế kỷ
XVIII người anh hùng áo vải được đặt trong cuộc tiến công ra Bắc với nhiệm
vụ quyết sạch hai mươi vạn Quân Thanh. Bản lĩnh lãnh đạo, tầm nhìn, đức độ
của người chỉ huy được bộc lộ trong hoàn cảnh lịch sử này.
Chỉ bằng vài nét chấm phá với kể chuyện Quang Trung, Nguyễn Huy
Tưởng giúp trẻ em hiểu hơn tầm vóc của người anh hùng. Đọc xong tác phẩm
31
trẻ thơ không thể quên một ông vua tài năng, đức độ, có tài cầm quân đánh
đồn, hạ trại siêu phàm. Đoàn quân áo vải từ Nam ra Bắc với biết bao khó
khăn nhưng Quang Trung đều động viên được tinh thần quân sĩ, tạo nên cuộc
hành quân thần tốc, bất ngờ, bí mật. Đoàn quân qua dòng sông Gianh vào lúc
nửa đêm giữa mùa đông giá rét, Quang Trung đã “vi hành”, giả vờ ngủ để
hiểu tâm tư quân sĩ. Khi mọi người lính đều tuân theo lá cờ lệnh, ào ào vượt
sông sang bờ bắc, quyết tâm đánh giặc, ông mới trình bày kế hoạch vào thành
Thăng Long và cho quân ăn tết sớm. Quang Trung đã thương yêu quân sĩ như
những người thân trong gia đình. Nhà vua chia đội thành những nhóm nhỏ ba
người, dùng cáng để hành quân hai người khiêng và một người nằm nghỉ rồi
lại thay phiên nhau. Cách hành quân thần diệu đó vừa giữ sức cho quân lính,
vừa đảm bảo thần tốc.
Bạn đọc nhỏ tuổi nhớ mãi hình ảnh Quang Trung mặt sạm đen với
chiếc áo chiến bào tối như mực bên lá cờ hiệu cũng đen vì thuốc súng, cùng
quân sĩ lao vào đồn địch. Trận Hạ Hồi chỉ bằng việc ra oai gây thanh thế mà
kẻ thù khiếp sợ, lũ lượt ra hàng. Trận Ngọc Hồi, giặc trong đồn dùng súng
thần công bắn ra như mưa, khói đen mù mịt. Quang Trung đã đưa ra những
quyết định sáng suốt, kịp thời. Nhà vua dựa vào dân quanh vùng làm những
khiên lớn bằng gỗ nhồi rơm, cử mười người lính khiêng một chiếc mở đường
vượt thành lũy hạ đồn giặc. Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả hết sức cụ thể
những trận đánh hào hùng của nghĩa quân áo vải, qua đó ngợi ca tài thao lược
quân sự của Quang Trung. Không chỉ là người giỏi cầm quân, Quang Trung
còn là người có tầm nhìn xa, trông rộng biết trọng người tài. Hành quân đến
vùng Nghệ An, biết La Sơn phu tử là Nguyễn Thiếp đang ở ẩn trên núi,
Quang Trung không hề giữ sĩ diện cá nhân đã ba lần đích thân lên núi mời
Nguyễn Thiếp cùng tham gia giúp quân Tây Sơn. Ngay lúc đoàn quân áo vải
với sức mạnh như chẻ tre làm cho giặc kinh hoàng, Quang Trung đã nhờ
32
người viết thư cầu hòa với nhà Thanh để giữ hòa hiếu lâu dài tránh hao tổn
xương máu…
Cảm động hơn cả là mỗi lần đọc lại Hai bàn tay chiến sĩ người đọc
không thể kìm nén nổi cảm xúc trước những trang văn miêu tả sinh động tinh
thần dũng cảm hi sinh, quyết tâm đánh đuổi quân thù của một người nông dân
– đảng viên mang trong mình cái tên giản dị, mộc mạc như đất đai quê hương:
Bẩm. Với cách kể chuyện dung dị, Nguyễn Huy Tưởng đã dẫn dắt người đọc
đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với những sự kiện, chi tiết, hình ảnh gây
xúc động mạnh. Vào truyện là cảnh tưng bừng của hội nghị chiến sĩ thi đua.
Anh chiến sĩ nông dân, quê Nam Định lên báo cáo thành tích trước hội nghị
và câu chuyện về hai bàn tay của Bẩm được tiếp diễn qua các sự việc: cảnh
buồng giam, cuộc đối thoại giữa Bẩm và đồng chí bí thư chi bộ xã với những
lời dặn dò, cảnh hai người bị tra tấn, họ bị đốt hai bàn tay và bị trôi sông. Tiếp
đến là dồn dập những cảnh tượng và hình ảnh đau đớn, ghê rợn: Bẩm bị lũ
quạ xúm xít vào rỉa chỗ bị thương, cảnh Bẩm dúi tay vào cát nóng, cảnh đàn
kiến lửa bu vào người Bẩm, rúc vào đôi bàn tay đã thối rữa.
Cuối cùng Bẩm vẫn chiến thắng. “Anh còn sống. Phải sống để chiến
đấu thay người đã chết” [25, tr. 53]. Bẩm vượt qua được những thử thách ấy
“Anh vượt được, không phải vì có xương đồng da sắt, mà vì anh có một lòng
tin sắt đá vào Đảng, vào các đồng chí của anh, vào chính bản thân anh”. [25,
tr. 53].
Là nhà văn cách mạng, theo sát từng bước đi của kháng chiến, gắn bó
mật thiết với nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng ý thức rõ về thiên chức của người
nghệ sĩ với quan niệm nghệ thuật tiến bộ: “Phàm văn chương mục đích thứ
nhất là để dạy dỗ thiếu niên… cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm
lòng bồng bồng, bột bột, mà vẫn biết lẽ phải và biết thương nhau”; vì thế khi
viết truyện thiếu nhi, nhà văn rất nhạy cảm, tinh tế trong việc lựa chọn đối
33
tượng phản ánh, khơi gợi được trong các em những tình cảm trong sáng, vị
tha, học tập những tấm gương anh hùng cách mạng để sống, học tập xứng
đáng với kỳ vọng của người đã ngã xuống, của gia đình, nhà trường, xã hội.
Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, mỗi hành động nhỏ, có ích của
các em đều góp phần làm cho quê hương thêm tươi đẹp…
Là cây bút chuyên viết đề tài về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả,
khắc họa thành công nhiều nhân vật anh hùng - những người đã được lưu
danh trong sử sách. Bằng nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí, xây
dựng kết cấu, cốt truyện, tác giả đã làm sống dậy cuộc đời, sự nghiệp của các
nhân vật lịch sử gắn liền với những chiến công hiển hách. Nhân vật lịch sử
cũng như nhiều nhân vật khác đều được xây dựng trong những mối quan hệ
đa chiều, trong sự phức tạp của bối cảnh, sự phong phú của thế giới nội tâm.
Điều này khác hẳn với lối miêu tả nhân vật lịch sử của một số tiểu thuyết gia
cùng thời. Xây dựng hình tượng nhân vật Quân vương, tướng sĩ, tác giả đảm
bảo được tính chân thực, khách quan của lịch sử, đồng thời tôn trọng quy luật
của đời sống nội tâm. Vì thế nhân vật lịch sử vừa truyền tải được âm vang,
không khí thời đại, vừa gần gũi, thân quen với người đọc.
Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, nhân vật lịch sử thường được
đặt làm tên nhan đề cho tác phẩm như: An Dương Vương - An Dương Vương
xây thành Ốc, Quang Trung - Kể chuyện Quang Trung, hay những địa danh
gắn liền với những sự kiện trọng đại, gợi nhắc hình tượng nhân vật: “Him
Lam là trận mở màn và cũng là trận đánh thắng đầu tiên của chiến dịch Điện
Biên Phủ… Him Lam còn ghi mãi hình ảnh của anh hùng Phan Đình Giót,
người đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng đội tiến lên tiêu diệt một
tiểu đoàn lê dương tinh nhuệ và chọc thẳng cái cửa sắt của tập đoàn cứ điểm
Điện Biên [25, tr. 70]. Viết về nhân vật lịch sử, tác giả thể hiện lòng biết ơn,
kính trọng, ngợi ca, tự hào. Ngay từ thuở nhỏ thông qua các tích truyện lịch
34
sử, nhà văn đã có những xúc động mạnh về hình ảnh các vị anh hùng. Nhà
văn muốn nêu công lao, sự nghiệp các vị ấy trong các trang văn để người đời
ngưỡng mộ, tôn thờ, thắp lên niềm tin, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bởi vậy
hình tượng nhân vật lịch sử thường được khai thác ở phương diện thái độ,
tinh thần, trách nhiệm đối với non sông, đất nước.
Đó là hình ảnh An Dương Vương trong buổi đầu dựng nước, dù nhiều
lần giao chiến thất bại nhưng không vì thế mà nản chí, nhà vua quyết tâm
dựng xây Loa thành, huy động tinh thần đoàn kết, sáng tạo của nhân dân để
bảo vệ non sông. Đó là hình ảnh vua Thiệu Bảo - một vị vua nhân từ đức độ,
cùng đau với nỗi đau của dân chúng, ngày đêm lo bàn mưu kế chống lại yêu
sách của giặc. Và cảm động hơn cả là câu chuyện giữa vua và người lính hầu
Trần Lai. Trong một lần chở nhà vua đi thị sát tình hình quân giặc trên sông
Cái, thấy vua sau một ngày vất vả, Trần Lai dâng lên nhà vua một nắm cơm
đỏ bọc lá chuối xanh. Nhà vua cảm động, mắt rơm rớm lệ cảm kích trước tấm
lòng thơm thảo của người lính. Có thể nói, Vua Thiệu Bảo hiện lên trong tác
phẩm là hình ảnh cao đẹp của tấm lòng yêu nước thương dân, căm thù giặc
sâu sắc. Tấm lòng ấy được thể hiện qua lời nguyền: “Dẹp giặc mạnh xong
nguyện xin thề phát xuất gia, phổ độ chúng sinh, cầu cúng cho oan hồn kẻ sĩ.”
Bên cạnh hình ảnh các vị vua, Nguyễn Huy Tưởng còn đi sâu miêu tả,
khắc họa hình ảnh các tướng lĩnh, nhất là các tráng sĩ nhà Trần. Từ dáng vẻ bề
ngoài, hành động, cử chỉ, lời nói đến những diễn biến tâm trạng đều toát lên
vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ, dũng cảm, tràn đầy tinh thần yêu nước. Xây
dựng hình tượng nhân vật Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nhà văn tập
trung khắc họa vẻ đẹp ngoại hình: “Đại vương như tất cả đàn ông họ Trần,
người cao lớn, nhưng đặc biệt nhất là vai rất nở, mắt rất tinh, tuổi già càng
thêm quắc thước”.
35
Như vậy, đằng sau tướng mạo oai phong lẫm liệt của một vị tướng từng
xông pha chiến trận, làm nên những chiến công hiển hách lại là một con
người với những suy tư trăn trở, có những đêm trằn trọc, lo lắng khi trong
quân ngũ xuất hiện những tư tưởng dao động, nhiều binh sĩ đảo ngũ, mải mê
với thú vui tầm thường mà sao nhãng việc nhà binh. Trước tình hình đó, Quốc
Công viết Hịch tướng sĩ với những câu văn thấm thía: “Ta nay ngày thì quên
ăn, đêm thì quên ngủ, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, lúc nào cũng bực
tức rằng sao chưa xả thịt lột da chúng được...”[25, tr. 42].
Còn với nhân vật Chiêu Thành Vương, nhà văn cũng dành nhiều trang
văn để tô đậm hình ảnh tráng kiện, vẻ đẹp ngoại hình của một vị Đại vương
chức trọng quyền cao: “Vương đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng thân hình nở
nang, bắp thịt rắn như sắt, người chắc như một hòn đá tảng” [25, tr. 109].
Với nhân vật Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, nhà văn dành cả một thiên
truyện, tương đương như một truyện vừa, để khắc họa vẻ đẹp, cuộc đời của
người anh hùng tuổi trẻ tài cao, chí lớn có những hành động quả cảm, lập nên
những chiến công hiển hách. Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã tạo được ấn tượng
sâu đậm trong lòng bạn đọc, nhất là các bạn nhỏ tuổi. Tuy còn trẻ tuổi nhưng
những hành động đầy quả quyết như: bóp nát quả cam vua ban khi không
được tham dự hội nghị bàn việc nước ở bến Bình Than; phất cao lá cờ “Phá
cường địch, báo hoàng ân”, chiêu binh mãi mã, ngày đêm luyện tập binh thư
yếu lược, cùng anh em người Mán là Thế Lộc đuổi bắt quân thù trên đồi Ma
Lục với những kế sách, mưu tính chính xác, khôn lường khiến quân thù khiếp
sợ… đã nói lên tinh thần, khí phách, vẻ đẹp dũng mãnh của chàng trai trẻ thời
Trần.
Với đối tượng hướng tới là thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt chú ý
đến việc sử dụng câu chữ, ngôn từ để làm nổi bật hình tượng nhân vật, phù
hợp với tâm lí và khả năng tiếp nhận của bạn đọc. Lá cờ thêu sáu chữ vàng
36
với những câu văn trang trọng, trong sáng, gợi không khí thời đại, vừa giản
dị, gần gũi, giàu chất thơ như: “Con đi phen này đã thề sống chết với giặc.
Bao giờ đất nước thanh bình, bốn phương bể lặng trời im, con mới trở về. Xin
mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để cho con được yên lòng xông pha trận mạc”
[25, tr. 116] đã gieo vào lòng người đọc niềm tự hào về những trang anh hùng
của dân tộc. Nhưng nổi bật và ấn tượng hơn cả là hình ảnh cao đẹp, kỳ vĩ của
những bậc anh hùng, những người đã hy sinh cho Tổ quốc, làm nên những
trang sử oai hùng như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,
Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng, Nguyễn Khoái, Lê Phụ Trần, Trần Quốc
Toản…Qua những tác phẩm viết về lịch sử với hình tượng các nhân vật anh
hùng, tác giả đã làm sống dậy bức tranh lịch sử của các triều đại đã qua gắn
liền với những con người tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh toàn dân tộc. Đồng
thời bộc lộ niềm trân trọng, ngợi ca với mối cảm hoài sâu sắc về truyền thống
anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, xây dựng hình tượng quân vương, tướng sĩ, nhà văn vừa đảm
bảo được tính chân thực lịch sử, tinh thần và âm vang thời đại, vừa có những
sáng tạo, hư cấu hợp lí, đi sâu phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thông qua
ngôn ngữ, hành động và các mối quan hệ đa chiều. Nhân vật được đặt trong
bối cảnh, không khí cuộc chiến tranh ác liệt. Qua đó khẳng định sức mạnh, vẻ
đẹp của con người Việt Nam, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo
vệ bờ cõi thiêng liêng với lòng yêu nước nồng nàn.
2.1.2.3. Nhân vật từ thế giới loài vật.
Trong kho tàng văn học dân gian của các dân tộc đều có sự tồn tại của
một bộ phận truyện kể về loài vật, được gọi là truyện cổ tích loài vật. Các nhà
nghiên cứu văn học dân gian không lập mảng truyện này thành một thể loại
riêng mà xem nó là một tiểu loại của truyện cổ tích.
37
Theo nhận định chung, mảng truyện cổ tích loài vật được hình thành từ
rất sớm. Ban đầu, nó được dành chung cho tất cả mọi người. Nhưng về sau,
khi nhân loại đã đi qua thời thơ ấu, trình độ hiểu biết được nâng lên thì những
câu chuyện về loài vật như vậy không còn hấp dẫn nữa. Nó chỉ còn thích hợp
với trẻ em, vẫn được trẻ em yêu thích. Chính từ những câu chuyện giản đơn
mà hấp dẫn đó, trẻ em tìm được con đường đi tới hiểu biết về thế giới loài vật
xung quanh mình. Với đặc điểm về nghệ thuật (nhân cách hóa loài vật) và đối
tượng tiếp nhận (trẻ em), truyện cổ tích loài vật hoàn toàn xứng đáng là
truyện đồng thoại dân gian. Như vậy, truyện đồng thoại dân gian là một hình
thức truyện kể lấy con vật làm đối tượng phản ánh để nhận thức những đặc
điểm tự nhiên của chúng trong quan hệ xã hội - thẩm mỹ với con người. Nó là
sản phẩm sáng tạo của quần chúng nhân dân, là món ăn tinh thần không thể
thiếu của trẻ em ở mọi thời đại.
Nét mới mẻ của truyện đồng thoại hiện đại thể hiện ở việc xây dựng
hình tượng nhân vật. Nhân vật loài vật trong truyện đồng thoại hiện đại
thường được nhà văn gắn cho những đường nét tính cách, tâm hồn trẻ em. Vì
vậy, nhân vật hiện ra trong tác phẩm đồng thoại không đơn thuần chỉ để tái
hiện mặt tự nhiên của chính nó, mà còn là hình tượng ẩn dụ về trẻ em trong
cuộc sống hiện nay. Đây là một trong những lí do làm nên sức hấp dẫn của
truyện đồng thoại. Khi tiếp xúc với các nhân vật, các em dễ nhận ra bóng
dáng cuộc sống của mình, của bạn bè mình được thể hiện trong đó.
Từ lòng mong muốn đưa tâm hồn trẻ thơ tới những đỉnh cao đẹp trong
tư tưởng tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn chủ đề theo lối riêng của
mình để thể hiện những mô típ cổ tích, xây dựng nhân vật từ thế giới loài vật
một cách sinh động đầy hấp dẫn.
Chẳng hạn, chỉ mấy nét phác họa về dáng vẻ và suy nghĩ của Cóc,
Nguyễn Huy Tưởng đã làm cho câu chuyện trở lên mới mẻ, sinh động hẳn:
38
“Cóc ngồi xổm trong hang con, cái miệng rộng há ra, cổ họng khan như cháy
bỏng. Cóc biết cây cỏ, chim muông thú vật chết gần hết rồi... Nhìn ra ngoài
hang, chỉ thấy giời mênh mông bao la đỏ chói. Cóc mở to đôi mắt rồi nhìn
trừng trừng lên giời, miệng rộng nghiến lại, Cóc giận Giời lắm,…” [24, tr.
117]. Chính sự kết hợp nhịp nhàng giữa ngoại hình và tính cách như vậy đã
làm cho nhân vật truyện đồng thoại hiện đại mất dần tính chất loại hình và có
khả năng chuyển hóa thành nhân vật cổ tích.
Tuy truyện Tấm Cám nhân vật chim vàng anh xuất hiện là lần hóa kiếp
đầu tiên sau khi Tấm bị mẹ con Cám hãm hại, mượn tiếng hót của mình, vàng
anh đã khiến cho Cám sợ chết khiếp, nhờ tiếng hót của mình vàng anh lấy
được trọn vẹn tình cảm yêu thương của nhà vua và cũng chính tiếng hót ấy đã
khiến vàng anh phải chết đau đớn dưới bàn tay độc ác của mẹ con Cám.
Mượn hình ảnh con vật để nói lên tiếng nói con người là mô típ thường
gặp trong các câu chuyện cổ tích. Nguyễn Huy Tưởng phần nào thể hiện ý
nghĩa câu chuyện, gửi gắm ước mơ mong muốn của mình đến với các em
bằng đôi cánh của trí tưởng tượng hư cấu, lãng mạn nhưng lại có giá trị hiện
thực, giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó từng câu chuyện, từng dòng văn nhẹ
nhàng, lôi cuốn các em khiến các em không sao quên nổi hình ảnh con người
xấu xí mà gan dạ tốt bụng dám làm những điều mà kẻ mạnh gấp trăm lần
không dám. Chim vàng anh có tiếng hót trong trẻo say sưa dịu dàng nhưng vô
cùng quyết liệt khi đấu tranh với cái ác, bênh vực cái thiện. Hình ảnh con
chim Trĩ lông trắng lại được Nguyễn Huy Tưởng xây dựng giống như biểu
tượng của một con người với một tình yêu quê hương, đất nước không gì thay
đổi được. Vẻ đẹp và tiếng hót của chim Trĩ lông trắng chỉ tỏa sáng nơi miền
quê ấm áp yêu thương trong khu vườn bốn mùa hoa lá tốt tươi: “Những ngày
nắng vàng rực rỡ, lông chim càng mượt, tiếng nó hót càng hay. Nó chuyền
cành nọ sang cành kia, nó bay nó lượn trong ánh nắng” [24, tr. 130]. Còn khi
39
đến với đất nước xa lạ kia, đến khu vườn lạnh giá của phương Bắc thì nó lại
lãnh cảm và ủ rũ: “Nó đậu trên một cành cây, nó xù lông rũ cánh. Nó nghĩ tới
cái vườn của nó ở xa tít phương Nam, xanh ngắt một màu với dàn trầu, cây
cau, khóm tre, rặng chuối. Mà sao ở đây rét tệ. Trời lúc nào cũng tối sầm. Con
chim Trĩ càng thấy nhớ quê hương”[24, tr. 131]. Phải chăng tình cảm là thứ
mà không phải sự giàu sang đầy đủ, sự nâng niu chiều chuộng có thể mua
chuộc được, mà đó lại là thứ tình cảm thiêng liêng, gần gũi nhất đối với mỗi
con người.
Xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn không sa vào việc miêu tả, tường
thuật tỉ mỉ mà chọn những điểm sáng, những đặc điểm tiêu biểu trong cuộc
đời, số phận nhân vật để phản ánh. Nhân vật luôn được soi chiếu trong những
mối quan hệ đa chiều, trong mối tương quan với vận mệnh quốc gia, dân tộc,
trong những vấn đề, sự kiện trọng đại, lớn lao của lịch sử để thấy được ý thức
trách nhiệm của mỗi cá nhân trước số phận cộng đồng. Nhân vật trong sáng
tác của nhà văn vừa có những nét chân thực đời thường, vừa mang tính khái
quát, điển hình. Đó là những người có lý tưởng, khát vọng lớn lao mang tầm
thời đại. Nhân vật lịch sử hiện lên không khô cứng, máy móc, một chiều mà
luôn sống động, tự nhiên. Những con người của một thời nhưng qua nghệ
thuật miêu tả của nhà văn lại như đang hiện diện trong cuộc sống hiện tại để
đối thoại với người đọc. Đây là một biệt tài nghệ thuật, là nét độc đáo trong
sáng tác của nhà văn.
2.1.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật
2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua hành động và xung đột
Nhân vật là hình tượng trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc
thể hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Nhân vật trong sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng mang sắc màu riêng, cá tính riêng qua điểm nhìn nghệ
thuật và cách miêu tả, phản ánh độc đáo. Hướng về những nhân vật lịch sử có
40
thật trong đời sống dân tộc, Nguyễn Huy Tưởng đã lựa chọn những tình
huống truyện nhiều ý nghĩa để khắc họa chân dung nhân vật một cách chân
thực nhưng lại rất sinh động và hấp dẫn với bạn đọc nhỏ tuổi. Để miêu tả tính
cách hành động của nhân vật anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản, nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng đã kể về sự kiện giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước
ta lần thứ hai (năm 1285), vua quan, binh lính nhân dân thời Trần đều đứng
lên đánh giặc. Đây là giai đoạn lịch sử hào hùng với hào khí Đông A tỏa sáng.
Trần Thủ Độ với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng
lo”. Trần Bình Trọng với câu trả lời đanh thép “Ta thà làm quỷ nước Nam
chứ không thèm làm vương đất Bắc”, Trần Hưng Đạo với câu nói nổi tiếng:
“Xin bệ hạ trước hãy chém đầu thần đi rồi hãy ra hàng” những người lính tự
thích vào vai hai chữ “Sát Thát” [25, tr. 145] với lời thề thiêng liêng sống
đánh giặc, chết cũng đánh giặc … Trần Quốc Toản là một thiếu nhi chưa đầy
mười sáu tuổi, bằng những việc làm cụ thể góp sức mình bảo vệ non sông.
Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản một thiếu niên yêu nước Thời
Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn lựa những chi tiết phù hợp với tính cách
nhân vật, đáp ứng được tâm lí của trẻ em khi đọc tác phẩm. Trần Quốc Toản
là một thiếu niên sớm có ý thức trách nhiệm với non sông. Trước thái độ
nghênh ngang hợm hĩnh coi thường phép nước của sứ giả nhà Nguyên tất
thảy mọi người dân đất Việt đều vô cùng căm giận. Nỗi uất ức căm giận đó
cũng xen vào giấc ngủ trẻ thơ. Trần Quốc Toản mơ bắt được Sài Thung (tên
sứ giả hống hách của nhà Nguyên) nhốt vào cũi, giải về kinh. Sài Thung đớn
hèn chắp tay lạy như tế sao, làm Trần Quốc Toản bật cười tỉnh dậy và biết
đây là một giấc mơ. Bực tức vì nhỏ tuổi không được dự bàn việc nước của
nhà vua. Bị quân lính Thánh Dực ngăn cản, Quốc Toản đã liều mình rút kiếm
đe dọa “Không buông ra ta chém, rồi chạy xồng xộc xuống bến, quỳ trước
nhà vua tiếng nói như thét “Xin quan gia cho đánh, cho giặc mượn đường là
41
mất nước” [25, tr. 101] yêu nước tha thiết khiến chú bé chẳng màng gì đến
tính mạng của mình. Vua Thiệu Bảo ngợi khen và ban cho cam quý, uất giận
vì giặc cướp nước, tủi hổ vì vẫn bị coi là trẻ em, Trần Quốc Toản bóp nát quả
cam qúy vua ban lúc nào không biết. Những chấn động trong tình cảm đã
khiến chú bé có những hành động vượt ra ngoài sự kiểm soát của lí trí. Sức
mạnh của lòng căm thù có thể biến thành một sức mạnh vật chất lớn lao. Trần
Quốc Toản đã tự dựng cờ nghĩa với sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng
ân” [25, tr. 112], nhanh chóng thu phục hơn sáu trăm trai tráng thành lập quân
đội, luyện tập võ nghệ, lên đường đánh giặc … Những hành động đó thể hiện
ý thức tự lập, tự cường cao cả của người anh hùng nhỏ tuổi. Trần Quốc Toản
đã xung phong đi đánh Toa Đô với những lời khẳng khái “Một Toa Đô chứ
mười Toa Đô cháu cũng coi thường. Xin Quốc công cho cháu đi theo hoàng
thúc. Cháu sẽ cùng tướng quân Nguyễn Khoái đánh cho Toa Đô mảnh giáp
không còn. Cháu xin làm một tờ giấy cam đoan. Không đánh được Toa Đô,
cháu xin nộp đầu dưới trướng” [25, tr. 152]. Thái độ cương quyết của Trần
Quốc Toản đã khiến Trần Hưng Đạo hết sức hài lòng, tin tưởng giao nhiệm
vụ là tướng tiên phong trong trận Hàm Tử Quan. Trong cuộc giao tranh với
lão tướng nhà Nguyên, Trần Quốc Toản đã ba lần chủ động tấn công sang
thuyền Toa Đô với một ý chí ngoan cường. Bằng những chi tiết tiêu biểu, sinh
động nhà văn đã khắc họa thành công tấm gương thiếu nhi yêu nước.
Cùng với nghệ thuật tạo dựng tình huống, lựa chọn các chi tiết tiêu
biểu, Nguyễn Huy Tưởng còn sử dụng rất thành công biện pháp đối lập khi
khắc họa chân dung, tài năng, tính cách của các nhân vật anh hùng. Ở An
Dương Vương là sự đối lập giữa khả năng có hạn của con người và khát
vọng, hoài báo lớn lao, trong một thời gian ngắn xây dựng được thành trì kiên
cố chống giặc ngoại xâm. Vì thế nhà vua đã dốc lòng, dốc sức hết lòng vì
nước, vì dân. Khắc họa Trần Quốc Toản, nhà văn lại chú ý sự đối lập giữa
42
ngoại hình có phần yếu liễu đào tơ “Da trắng, môi đỏ, mắt xanh biếc”, khuôn
mặt ngây thơ còn bụ sữa với những suy nghĩa sâu sắc, chín chắn mong được
dời non, lấp biển; đối lập giữa tuổi đời còn rất nhỏ là những ý chí kiên định,
hành động quyết đoán; đối lập giữa con người quyết đoán mạnh mẽ trong
hành động hết sức giàu tình cảm, dễ mủi lòng, dễ xúc động.
Hành động và xung đột giữa cô Thứ và con ác thú trong truyện Cô bé
gan dạ được tác giả miêu tả: “Nhanh như cắt, cô thuận tay trái, giáng thẳng
con dao thứ hai vào giữa đầu con quái vật. Lần này con dao cắm ngập đến
chuôi. Vì nàng tự chủ được mình, và vì thế điều khiển được tay, nên hai lưỡi
dao đâm trúng chỗ nàng nhằm, mà trúng rất mạnh.”[24, tr. 19]. Và hành động
trước tình huống xảy ra khi đang kéo pháo vào trận địa được tác giả viết: “Cả
người anh đã lao vào bánh xe thay cho khúc gỗ, Bánh xe bị chặn và bẻ quặt
về bên núi đá… Nhưng thân thể anh hùng Tô Vĩnh Diện đã bị nát nhừ. Gương
khi sinh chói lọi ấy đã làm tăng thêm quyết tâm của những chiến sĩ kéo pháo
và làm phấn khởi những người xung kích ở Điện Biên” [25, tr. 75].
2.1.3.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình.
Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ hình dáng diện mạo trang phục,
cử chỉ, tác phong…là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của
nhân vật. Nhà văn có thể khắc họa ngoại hình nhân vật một cách trực tiếp
thông qua ngôn ngữ người kể chuyện. Cũng có khi ngoại hình nhân vật được
miêu tả một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của một nhân
vật khác trong tác phẩm. Ngoại hình nhân vật có thể được nhà văn tập trung
miêu tả trong một đoạn văn ngắn gọn cũng có thể được miêu tả một cách rải
rác, xen kẽ giữa các chương, đoạn qua những tình huống và hoạt động khác
nhau của nhân vật. Nhìn chung ngoại hình nhân vật được thể hiện sinh động
sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, đặc biệt nó có tác dụng khá rõ trong
việc cá biệt hóa nhân vật.
43
Viết cho lứa tuổi thiếu nhi, đặc biệt là viết về nhân vật thiếu nhi, nhân
vật anh hùng, Nguyễn Huy Tưởng luôn chú trọng đến việc miêu tả ngoại hình
nhân vật để bộc lộ tính cách và phẩm chất của họ. “Đấy là một thiếu nhi thì
đúng hơn, vì Hoài Văn chưa tròn mười sáu tuổi. Bộ áo vóc lùng thùng, chưa
bó sát vào tấm thân mảnh khảnh. Tay áo chét theo kiểu nhà võ còn quá rộng
so với cổ tay. Hầu vấn khăn nhiễu kiểu người lớn. Nhưng búi tóc còn quá
nhỏ, tinh ý mới nhìn thấy được” [25, tr. 94 - 95].
Vẻ ngoài hình thức trái ngược với tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của vị
anh hùng nhỏ tuổi này. Lòng căm thù giặc khiến cho Trần Quốc Toản càng
trở lên dũng cảm, gan dạ, muốn thể hiện bản lĩnh của mình, quyết tâm một
lòng đánh giặc. Hoài Văn đã thích hai chữ “Sát thát” vào tay chàng không
thấy đau chỉ thấy say sưa rạo rực như đang hăng máu trên chiến trường: “Tiết
chế cho cháu đi đánh trận này. Trận nào cháu cũng xin đi, huống nữa là trận
đầu ?” [25, tr. 152]. Tác phẩm đã hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân
vật lịch sử Trần Quốc Toản, là hình tượng danh tiếng thiếu nhi anh hùng,
người có nhiệt huyết nóng bỏng của tuổi thơ, là người dũng cảm, có lòng yêu
nước, sống và hi sinh vì dân tộc.
Hai bàn tay chiến sĩ là một trong những truyện của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, xuất hiện ngay trong những ngày đầu thành lập
Nhà xuất bản Kim Đồng. Nhân vật chính của truyện có nguyên mẫu là chiến
sĩ Nguyễn Văn Bẩm mà tác giả có dịp gặp gỡ trong Hội nghị chiến sĩ toàn
quân năm 1952. Trong một trận càn ác liệt của địch, anh bị địch bắt. Chúng
dùng nhiều cực hình dã man, thậm chí đốt cả hai bàn tay anh để bắt anh khai
đồng chí của mình. Với nghị lực phi thường, anh Bẩm đã vượt qua mọi thử
thách để trở về với đồng đội, tiếp tục tham gia chiến đấu. Sau những trang văn
miêu tả sinh động, chi tiết hình ảnh gây xúc động mạnh, tác giả viết: “Cả hội
trường cảm động nhìn đôi bàn tay tàn tật của anh. Đôi bàn tay còng queo, teo
44
lại. Các ngón tay đều cụt, một hai ngón tay còn lại thì dại đờ như mấy cây trơ
trụi trong một cái vườn đã cháy hết” [25, tr. 42]. Tiếp đến là dồn dập những
cảnh cụ thể: Bẩm bị lũ quạ xúm xít vào rỉa chỗ bị thương, cảnh Bẩm dúi tay
vào cát nóng, cảnh đàn kiến lửa bu vào người Bẩm, rúc vào đôi bàn tay thối
rữa. Cuối cùng Bẩm cũng chiến thắng, Bẩm vượt qua thử thách bằng chính
bản lĩnh và nghị lực của mình, qua nhân vật Bẩm, tác giả đã khắc họa rất sắc
nét chân dung người chiến sĩ cách mạng thời kỳ chống Pháp, nó như một biểu
tượng của lòng dũng cảm, kiên trung, của tinh thần dân tộc bất diệt trước kẻ
thù. Người chiến sỹ ấy, dù phải vượt qua bao sự tra tấn dã man của kẻ thù thì
lòng quả cảm, tinh thần yêu nước của anh lại càng được nhân lên bấy nhiều.
Trong truyện Chiếc bánh chưng, Hoàng Tử với tấm lòng nhân đức hay
giúp đỡ người nghèo và bênh vực những người hèn yếu được người dân yêu
mến. Tuy là con vua Hùng Vương nhưng hoàng tử có cuộc sống trong hòa
hợp với dân: “ Hoàng tử từ bấy giờ chỉ chuyên tâm làm việc đồng áng, ăn ở
với bọn nhà quê và như một người nhà quê, sống một cuộc đời bình dị, ngày
ngày nón lá áo vải ra đồng cày cấy” [24, tr. 27].
Với Kể chuyện Quang Trung, hình ảnh Quang Trung xuất hiện:
“Quang Trung cười, mắt sáng quắc vụt lên một ánh chớp lạ lùng” [24, tr. 211]
tinh thần hành quân thần tốc và tài dùng quân của Quang Trung cũng như
kinh nghiệm trong các trận hạ đồn giặc đã tạo thế mạnh cho quân sĩ, sự bình
tĩnh tự tin như vậy là điều chiến thắng to lớn trong cuộc tiến công ra bắc để
đại phá quân Thanh.
2.1.3.3. Khắc họa nhân vật bằng mô tả và phân tích tâm lý.
Các nhà nghiên cứu văn học nhấn mạnh thành công trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật của nhà văn ở cả hai phương diện “Biện chứng pháp hành
động” và “Biện chứng pháp tâm hồn”. Điều đó cũng có nghĩa là tính tất yếu
45
trong hành động của nhân vật thường liên quan chặt chẽ với tính tất yếu trong
hoạt động nội tâm của nhân vật.
Ở đây khái niệm “nội tâm” chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân
vật, đó là những tâm trạng suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản ứng tâm
lí của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật chứng kiến
hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình. Nhà văn có thể trực tiếp biểu
hiện nội tâm của nhân vật bằng ngôn ngữ của chính mình với tư cách người
kể; nhưng biện pháp mà nhà văn hay dùng nhất là biểu hiện độc thoại nội tâm
và đối thoại trong nội tâm nhân vật. Những đoạn này được thực hiện bằng
chính ngôn ngữ của nhân vật, chúng “vang lên” một cách thầm lặng trong tâm
tư của nhân vật. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày những diễn biến trong tâm
trạng của mình qua những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể.
Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản, một thiếu nhi yêu nước thời
nhà Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã biết cách lựa chọn những chi tiết phù hợp
với tâm lí lứa tuổi thiếu niên để các em hình dung và hiểu rõ tâm trạng nhân
vật này trong từng phần của truyện. Đặc biệt tác giả miêu tả tâm trạng của
Trần Quốc Toản, khi chàng thức trắng đêm để “thiết kế” lá cờ ra trận: “Chữ
đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho
kẻ địch kinh hồn”. [25, tr. 112].
Rồi Trần Quốc Toản ngày đêm nghiên cứu binh thư và đọc lại bài hịch
“Đã ba lần, lính hầu rót đầy dầu vào đĩa đèn. Đã ba lần đĩa dầu cạn nhưng hai
người vẫn cắm cúi đọc những lời vàng ngọc trong cuốn binh thư mới” [25, tr.
143]. Chàng chiêu binh và ra sức tập luyện ngày đêm, say mê luyện tập võ và
học cách bài binh bố trận.
Hoài Văn coi binh sĩ như anh em một nhà, không phân biệt sang hèn,
ăn chung một mâm và nằm trên một chiếc giường, tình nghĩa ngày càng thắm
thiết.
46
Hoài Văn là một người trọng tình nghĩa, không muốn rời xa anh em
người Mán. Lúc chia tay Thế Lộc: “Cháu chia tay với Thế Lộc sao nên?”,
“Hoài Văn bậm môi lại. Vẻ ngây thơ hiện rõ trên khuôn mặt đã nhuốm màu
sương gió”, “Anh Thế Lộc ơi, Toản cũng chẳng muốn về đâu”, “Lòng Hoài
Văn thổn thức, nhịp theo vó ngựa ruổi trên đường núi gập ghềnh, khúc
khuỷu…”. [25, tr. 138 –141].
Khi người tướng già đỡ nhát kiếm cho Hoài Văn, Hoài Văn muốn ở lại
lo cho ông “Hoài Văn ôm lấy người tướng già, lòng Hoài Văn đau như cắt.
Cánh tay phải của người tướng già bị chém đã lìa khỏi vai, máu chảy lênh
láng” [25, tr. 166]. Hoài Văn nói “Ta nhờ ông dạy dỗ nên mới có ngày nay,
lại chính nhờ có ông mà hôm nay ta thoát chết, ta bỏ ông đây sao được” [25,
tr. 167]. Tình cảm chân thành sâu sắc gắn bó với Thế Lộc và người tướng già
thật cảm động. Tác giả đã đánh thức trong sâu thẳm trong tình cảm mỗi con
người trước những tình cảm thiêng liêng đó.
Một chàng thiếu niên trẻ tuổi nhưng có sự suy nghĩ và cách ứng xử với
mọi người lại chín chắn và từng trải vô cùng. Chàng luôn tỏ ra thật dũng cảm,
gan dạ, bản lĩnh, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Nhưng với mẹ, Trần Quốc Toản
lại là một chú bé vô cùng yêu thương mẹ, luôn lo lắng cho mẹ. Khi chia tay
mẹ Hoài Văn thấy thương mẹ nhiều hơn vì chưa làm tròn nghĩa vụ của người
con. “Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để cho con được yên lòng xông pha
trận mạc” [25, tr. 116]. Khi nghe Võ Ninh quê hương, nơi mẹ già đang ở, đã
bị quân giặc tàn phá, Hoài Văn thấy lo cho mẹ nhiều hơn, không biết mẹ như
thế nào “Không biết mẹ già nay lưu lạc ở đâu. Lòng Hoài Văn nóng như lửa
cháy” [25, tr. 142].
Tác phẩm đã hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân vật lịch sử
Trần Quốc Toản là hình tượng danh tướng thiếu nhi anh hùng, người có nhiệt
huyết nóng bỏng của tuổi trẻ, là người dũng cảm, có lòng yêu nước, sống và
47
hi sinh vì dân tộc. Tác phẩm vỗ cánh trên cái nền vững chắc của sử học để lấp
lánh tỏa sáng bằng một thứ ánh sáng rạng rỡ bởi sự trung thực, khả tín.
Nhân vật chiến sĩ Bẩm trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ là một minh
chứng tiêu biểu. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo với bản chất thực
thà, chất phác, yêu lao động. Nếu được sống trong hòa bình, có lẽ Bẩm cũng
không có gì khác với những người bình thường khác: anh cặm cụi làm ăn,
hiền lành tốt bụng, cuộc sống bình yên say lũy tre làng. Nhưng “Giặc Pháp
xâm lược chiếm đóng tỉnh anh, chúng giết người, cướp của, hãm hiếp đàn bà,
con gái. Chúng biến nhiều ruộng nương màu mỡ, nhiều xóm làng tươi vui
thành những vòng đai trắng um tùm cỏ mọc, không có bóng người mà chỉ có
đồn bốt” [24, tr. 150]. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, Bẩm vào du kích, trong
phong trào giết giặc lập công, anh mỗi ngày một thêm dày dạn, lập được
nhiều thành tích. Anh được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.
Trong một trận càn quét dữ dội của giặc, anh bị bắt và cùng bị giam với
đồng chí bí thư chi bộ xã. Ánh mắt của đồng chí bí thư đã khiến Bẩm hiểu ý,
hoạt động vẫn bí mật, kẻ thù chưa biết đấy là cán bộ cách mạng. Và cũng
chính ở nơi này Bẩm mới thấu hiểu được hết sự khổ cực của dân ta trong nhà
giam của bọn thực dân Pháp dã man, tàn bạo. Sự dũng cảm lòng kiên trung
được thử thách cao độ, trở về buồng giam người như một cái xác chết “Hai
bàn tay bị đốt đen thui, thịt đã cháy gần hết, chỉ còn xương và gân như các em
thấy trên bản đồ vẽ bộ xương người” [24, tr. 152].
Hình ảnh đôi bàn tay của đồng chí bí thư chi bộ và lời dặn dò đêm
trước Bẩm bị giải đi đã tiếp thêm sức mạnh cho anh vượt qua sự đau đớn về
thể xác, vượt qua mọi hiểm nguy gian khổ, kiên trì bám trụ, quyết tâm giữ
làng. Cũng có lúc anh chợt thoáng nghĩ đến mẹ già, nghĩ đến đôi bàn tay lành
lặn, những việc anh đã làm. Hai bàn tay của anh rồi đây sẽ ra sao? Anh nhắm
mắt lại, chờ đợi cái cực hình ghê gớm rồi anh quyết tâm, rồi anh nhớ lời đồng
48
chí bí thư đã dặn. Anh thấy thương yêu đồng chí hơn bao giờ hết. Anh quyết
vượt qua cơn thử thách. Chết, anh cũng vui lòng vì đã không làm điều gì hại
Đảng. Bằng việc phân tích tâm trạng nhân vật Bẩm, nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã chứng minh cho bạn đọc thấy rõ chân dung của người chiến sĩ kiên
trung bất khuất vượt qua mọi thử thách.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã đem được cả nghìn năm lịch sử dựng
nước chói lọi, hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng trong các truyện kể
cho lứa tuổi thanh thiếu nhi Việt Nam. Ông cũng muốn viết lại cuộc trường kì
kháng chiến chống Pháp như một pho truyện trường thiên cực kì hấp dẫn, một
lần đã đọc qua suốt đời không thể quên. Và trên những trang sách huyền ảo
của một trong những tượng đài văn học lớn của văn học Việt Nam, các em
thiếu nhi sẽ gặp vô vàn trường hợp éo le trần đời mà trong ấy lồng lộng những
tình cảm cao quý, những người vừa có chí, có gan, dám nghĩ, dám làm, đầy
nghị lực, đầy tinh thần cách mạng, vừa anh hùng vừa cao thượng, lúc nào
cũng tin tưởng và yêu đời.
Qua các truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng ở từng đề tài
những con người vĩ đại gắn với lịch sử dân tộc ta và cùng đó là những nhân
vật tuy bé nhỏ nhưng đáng yêu đã được tác giả đưa đến để trò chuyện cùng
các em, khiến các em ngưỡng mộ. Tác giả có lẽ đã tin rằng, với sức tưởng
tượng tuyệt vời không hề có bến bờ, các em sẽ cảm phục, lại càng muốn bắt
chước, nhất định học theo để nối thêm những tấm gương sáng ngời. Hầu hết
các sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết cho các em điều ấp ủ
những mong muốn to lớn đó. Điều đó không nằm ngoài tình cảm của ông đối
với tình yêu đất nước. Tình cảm mà ông đã dành cho thiếu nhi kết hợp với tài
năng kể chuyện hết sức sáng tạo đã làm cho thế giới tâm hồn tuổi thơ trở
thành thế giới của thi ca, cũng là thế giới của những tình cảm đạo đức cao
đẹp.
49
2.2. Tổ chức cốt truyện
2.2.1. Khái niệm cốt truyện.
Khái niệm cốt truyện được hiểu như sau: “Cốt truyện là một hệ thống
các sự kiện, phản ánh những diễn biến cuộc sống và nhất là các xung đột xã
hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong
những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng
tác phẩm.” [12, tr. 172 - 173].
Nhìn nhận một cách tổng quát, cốt truyện có ba đặc điểm chính: tính
lịch sử - cụ thể, tính kịch và tính hoàn chỉnh. Một quy luật tất yếu của văn học
là bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong một giai đoạn của lịch sử. Vì thế,
khi nói đến tính lịch sử - cụ thể của cốt truyện là người ta muốn nói đến mức
độ chân thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong đó. Nói như
Đôxtôiépxki từng khuyên một nhà văn trẻ “Anh hãy nhớ lấy lời tôi. Đừng bao
giờ bịa ra sườn truyện, các tuyến truyện. Anh hãy lấy những cái do bản thân
cuộc sống cung cấp. Cuộc sống phong phú hơn tất thẩy những điều bịa đặt
của chúng ta” [12, tr. 174].
Cùng với tính lịch sử - cụ thể, cốt truyện còn có tính kịch. Đặc điểm
này được tạo thành từ những xung đột của hiện thực, đó là xung đột giữa các
lực lượng xã hội, giữa cá nhân này với cá nhân khác về quan điểm tư tưởng,
về quyền lợi kinh tế, về tâm lí tính cách, có khi là xung đột trong từng con
người giữa lí trí và tình cảm, giữa tình cảm và nghĩa vụ. Tất nhiên không phải
cốt truyện nào cũng có sự phát triển cao trào của xung đột. Phần lớn các cốt
truyện trong văn xuôi tự sự chỉ dừng lại ở mức độ mâu thuẫn, xung khắc.
Một đặc điểm nữa của cốt truyện là tính hoàn chỉnh. Đặc điểm này
được tạo nên do yêu cầu của văn học phải phản ánh sự vận động của cuộc
sống một cách hợp lôgic. Nói cụ thể hơn, cốt truyện, với tư cách là một hệ
thống sự kiện, phải được tổ chức một cách chặt chẽ, tránh tình trạng phân tán,
50
rời rạc, thừa hoặc thiếu, sao cho các sự kiện trước là nguyên nhân của sự kiện
sau, sự kiện này phát triển thông qua sự kiện khác. Đúng như Arixtốt đã viết
trong nghệ thuật thơ ca : “Cốt truyện phải là sự miêu tả một hành động hoàn
chỉnh và các sự kiện cần phải sắp xếp như thế nào để khi thay đổi hay bỏ đi
một sự kiện thì chính cái chính thể cũng biến động theo. Cái gì mà có hoặc
thiếu nó cũng được thì cái đó không phải là bộ phận hữu cơ của một chỉnh thể
thống nhất” [12, tr. 175].
2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện của Nguyễn Huy Tưởng:
Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác
phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu thành nội dung của tác
phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất
định. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật là sự kết hợp lối kết cấu
của văn xuôi phương Tây với kết cấu kiểu chương hồi phương Đông, tạo vẻ
đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại cho tác phẩm. Tuy nhiên ở mỗi thể loại, lối kết
cấu lại mang những màu sắc khác nhau.
Ở thể loại truyện thiếu nhi, lối kết cấu theo mô típ truyền thống với kết
thúc có hậu là đặc điểm nổi bật. Trong truyện có sự xuất hiện của những yếu
tố li kì, kì ảo, hoang đường, nhân vật chính thường là những người hiền lành,
thật thà, chất phác nhưng cuộc sống nghèo khó phải đi làm thuê, kiếm mướn,
bị bọn cường hào, ác bá bóc lột, đàn áp. Được sự trợ giúp của thần tiên, cuối
cùng kẻ gian ác bị trừng trị, người nghèo hèn có cuộc sống sum vầy, hạnh
phúc (Tìm mẹ). Đây cũng là mô hình chung cho kết cấu của nhiều truyện khác
như Thằng Quấy, Cô bé gan dạ... Ở những truyện lịch sử hay viết về gương
người tốt việc tốt (Truyện bánh chưng, Hai bàn tay chiến sĩ,…) thông qua
cuộc đời, số phận những tấm gương dũng cảm, nhà văn muốn gửi những
thông điệp nhân văn và gieo vào tâm trí các em những tình cảm trong sáng,
những bài học đạo lí làm người. Với lối kết cấu quen thuộc, giản dị với hai
51
tuyến nhân vật song song tồn tại, có sự đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và
cái ác đã tạo nên sức hấp dẫn lớn cho những câu chuyện viết cho tuổi thơ.
Một đặc điểm nổi bật trong hư cấu lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng là
ông không quá lệ thuộc vào các tài liệu lịch sử. Vì ông viết về lịch sử không
phải chỉ để kể, tả mà là tư duy về lịch sử. Trên cơ sở các chi tiết, sự kiện có
tính chất “gợi hứng”, ông tái hiện lại không gian, bối cảnh thời đại và lồng
vào trong đó những vấn đề của cuộc sống hiện thời. Nguyễn Huy Tưởng là
nhà văn có trí tưởng tượng mạnh, có tài sắp xếp, tổ chức tư liệu, kết cấu tác
phẩm trên bình diện không gian rộng với sự xuất hiện của nhiều nhân vật.
Bên cạnh nguồn sử liệu mà sử sách ghi chép lại cùng với những trải nghiệm
thực tế thăm lại những dấu tích chiến công xưa, nhà văn đã hư cấu và có
những sáng tạo hợp lí để bù khuyết những tri thức mà lịch sử còn bỏ ngỏ. Đây
cũng là nét đặc trưng trong sáng tạo nghệ thuật nhằm cung cấp cho bạn đọc
cái nhìn toàn diện, bao quát hơn về các thời đại lịch sử đã qua, đúng như nhà
văn Pháp Marcel Proust nhận định: “Thế giới được tạo lập không phải một
lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được
tạo lập” [8, tr. 139].
Viết về lịch sử dân tộc nhưng nơi mà Nguyễn Huy Tưởng chọn làm
không gian nghệ thuật là vùng đất Thăng Long – Hà Nội. Sáng tác của ông đã
tái hiện một cách chân thực, sinh động về Thủ đô Hà Nội từ thủa An Dương
Vương xây thành ốc đến Thăng Long thời đại nhà Trần, thời vua Lê, chúa
Trịnh và Hà Nội trong những năm kháng chiến, xây dựng cuộc sống mới.
Dòng chảy lịch sử nghìn năm của thủ đô hiện lên một cách rõ nét qua lối viết
tài hoa, giàu hình ảnh, màu sắc, lấp lánh những nét đẹp của truyền thống lịch
sử - văn hóa ngàn đời. Nếu Thạch Lam viết về Hà Nội qua nét đẹp của những
thức quà dân dã, thanh tao, Tô Hoài ngắm nhìn Hà Nội trong những nét sinh
hoạt văn hóa đời thường thì Nguyễn Huy Tưởng hướng về Hà Nội trong chiều
52
sâu lịch sử với những biến cố, thăng trầm, những con người đã đi vào lịch sử,
những cảnh đẹp nên thơ, quyến rũ gợi nhắc về một “Hà Nội dấu xưa”.
Nhà văn Tô Hoài đã nói: “Dưới ngòi bút đầm ấm của Nguyễn Huy
Tưởng, con người, cuộc sống, đất nước, tất cả đều đáng quý, đáng ca ngợi và
chan chứa tin yêu. Và khi viết cho thiếu nhi ông cũng vậy” [6, tr. 57]. Nguyễn
Huy Tưởng quan niệm về nghệ thuật văn chương như sau: “Phàm văn
chương, mục đích thứ nhất là để dạy dỗ thiếu niên – văn chương viết cho
thiếu niên phải tươi cười mà nghiêm khắc, cảm động nhưng vẫn nhẹ nhàng.
Bao giờ cũng phải mãnh liệt để kích thích tấm lòng. Nhưng, cũng vẫn coi
chừng cho họ về những nết xấu, cốt làm sao để họ bao giờ cũng có một tấm
lòng bồng bồng bột bột mà vẫn có lẽ phải và vẫn biết yêu thương” [17, tr. 73].
Truyện Con Cóc là cậu ông Giời, Thằng Quấy, Tìm mẹ, An Dương
Vương xây thành ốc thực sự là những câu chuyện cổ tích “vừa lạ lùng xanh
biếc, vừa mênh mông những tưởng tượng kì ảo” chất chứa những tình cảm
yêu thương, những chí khí dời sông lấp biển của người Việt Nam, có tác động
sâu sắc tới những tâm hồn trẻ.
Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Hai bàn tay chiến
sĩ…mỗi truyện là một anh hùng đời đời của dân tộc ta từ ngàn xưa hoặc mới
đây trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, như tinh thần dũng cảm
đến tột cùng của nhân vật chiến sĩ Bẩm trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ. Từ
lòng mong muốn đưa tâm hồn các em tới những đỉnh cao đẹp trong tư tưởng
tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng chọn chủ đề theo lối riêng của mình, thể hiện
qua những đề tài cổ tích và lịch sử để hướng các em về những con người anh
hùng lịch sử về những con người yêu quê hương đất nước.
Nghệ thuật kết cấu chính là nghệ thuật tạo tình huống, tình huống càng
giàu tính kịch thì khả năng bộc lộ những đặc điểm bản chất của tính cách càng
lớn như Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, An Dương Vương
53
xây thành ốc, tất cả tình huống truyện được nhà văn miêu tả cụ thể, sinh động
làm người đọc không thể không tập trung theo mạch truyện mà tác giả miêu
tả. Điều đó đã mang đến nghệ thuật mà bút pháp Nguyễn Huy Tưởng mới tạo
dựng được qua chất liệu của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Với sự kết hợp tài tình, Nguyễn Huy Tưởng không quá lệ thuộc vào
những sự kiện đã được ghi chép trong các sách biên niên sử, mà ông biết cách
nảy ra trong vô vàn những chi tiết, sự kiện lịch sử được cho là có thật ấy,
những tình huống, câu chuyện đặc sắc rồi thổi vào đấy những cảm xúc, trí
tưởng tưởng bay bổng, phù hợp với tâm lý, suy nghĩ của trẻ thơ, gợi mở cho
các em nhiều điều thú vị nhằm giúp các em tiếp cận một cách dễ dàng lịch sử,
hiểu lịch sử để từ đó thêm yêu, thêm quý truyền thống hào hùng trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Cho dù ở mảng đề tài nào, viết về lịch sử hay cổ tích, Nguyễn Huy
Tưởng cũng đem đến cho các em niềm thích thú, say mê đến kỳ lạ bằng một
giọng kể chuyện vừa giản dị, chân thành, vừa gần gũi với cuộc sống thường
ngày của các em, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ. Từ đây ông nhen
nhóm và truyền cho các em lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Đấy chính là nét nổi bật nhất của nhà văn tài hoa này.
Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, nổi bật là sự kết hợp lối kết
cấu theo cấu trúc của văn phong phương Tây với tư duy truyền thống kiểu
chương hồi phương đông, tạo vẻ vừa cổ tích vừa hiện đại cho tác phẩm. Tuy
nhiên ở mỗi thể loại, lối kết cấu lại mang màu sắc khác nhau. Ở mảng truyện
viết cho thiếu nhi, nhất là truyện cổ tích, nhà văn tuân thủ lối kết cấu theo mô
típ truyền thống, cốt truyện đơn tuyến theo trật tự thời gian tuyến tính với lối
kết thúc có hậu, phân minh rõ các giá trị Thiện – Ác, Tốt – Xấu, Địch – Ta.
Truyện Thằng Quấy của Nguyễn Huy Tưởng là một truyện kết cấu theo
nhu cầu và trình độ thẩm mỹ của độc giả thiếu nhi: lối kết cấu đơn giản, mộc
54
mạc, dễ theo dõi, theo hướng giả cổ tích. Toàn bộ câu chuyện viết về cuộc đời
Quấy gợi cho ta nhớ tới chuyện chú Cuội mồ côi, nói dối, thông minh, lên
được cả cung trăng chăn trâu, gặp chị Hằng Nga… Bản thân cách đặt tên
truyện bằng tên nhân vật chính: thằng Quấy đã chứng tỏ ý đồ nghệ thuật của
tác giả. Cái tên Quấy vừa có ý khái quát tính cách nhân vật, vừa gợi ý cho độc
giả nhớ tới nhân vật dân gian quen thuộc: Chú Cuội ngồi gốc cây đa…
Truyện của Quấy được xâu chuỗi bằng các tình tiết và mô típ truyện dân gian
quen thuộc: Chàng ngốc gặp may, chàng trai mồ côi bị áp bức bóc lột đến
cùng cực, một người nông dân khôn ngoan, láu cá đánh lừa được cả thú dữ,
tiếp xúc và đánh lừa cả thần mặt trăng, mặt trời; các chiến công của chàng trai
mồ côi thường có được sự cổ vũ, hậu thuẫn của dân làng v.v. Câu chuyện kết
thúc theo kiểu có hậu: kẻ ác bị trừng trị, người tốt dù bị hãm hại cuối cùng
vẫn sống và hưởng hạnh phúc. Tuy nhiên cũng cần khẳng định là: Thằng
Quấy là câu chuyện cho thiếu nhi. Ở đây tác giả đã tổ chức kết cấu gắn với tư
tưởng đấu tranh giai cấp, giáo dục ý thức căm thù giai cấp bóc lột khá rõ.
Có một điều khi Nguyễn Huy Tưởng viết lại truyện cổ tích Tấm Cám,
một truyện cổ tích kinh điển, truyện gối đầu giường thường được vang lên
trước mỗi giấc ngủ của trẻ thơ qua giọng kể đầm ấm của bà của mẹ, nay được
Nguyễn Huy Tưởng chắp bút viết lại, thêm một số chi tiết thú vị. Ở cuối tác
phẩm, Nguyễn Huy Tưởng không để cho Tấm tự tay giết và làm mắm Cám
mà ông đề xuất một hướng kết thúc khác nhưng vẫn luôn tuân thủ lối kết cấu
của văn bản cũ, bổ sung thêm một số chi tiết mới với những sáng tạo hợp lí
mang tính nhân văn. Phải chăng khi viết lại tác phẩm này, nhà văn đã dự tính
được những quan điểm bất đồng của người tiếp nhận ngày nay khi đánh giá,
thẩm bình tác phẩm văn học dân gian và đến nay, câu chuyện tranh luận về
Tấm Cám vẫn chưa có hồi kết.
*
55
Tiểu kết: Với nghệ thuật về thi pháp nhân vật và tổ chức cốt truyện,
Nguyễn Huy Tưởng đã thấy khả năng xây dựng nhân vật trong các mảng
truyện thiếu nhi như các tuyến nhân vật thiếu nhi, nhân vật anh hùng và nhân
vật từ thế giới loài vật. Ở mỗi tuyến nhân vật cho ta thấy được nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong truyện của nhà văn, qua đó làm nổi bật những giá trị và
những tình cảm của tác giả gửi tới cho lứa tuổi thiếu nhi yêu quí. Cùng với
nghệ thuật xây dựng nhân vật nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật rõ nét
qua hành động xung đột, ngoại hình và đặc biệt là mô tả và phân tích tâm lý
nhân vật để từ đó thể hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề tác phẩm khẳng định
được sắc màu riêng, cách miêu tả, phản ánh độc đáo trong từng câu chuyện.
Cùng với đó thì nghệ thuật thi pháp tổ chức cốt truyện được kết cấu theo mô
típ truyền thống đã thể hiện tài năng sáng tạo của nhà văn trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật, tạo sức
hấp dẫn cho tác phẩm, đồng thời gợi lên trong tâm trí người đọc niềm tin
tưởng, hy vọng vào sức mạnh của con người sẽ làm nên chiến thắng.
56
Chƣơng 3
NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN KỂ
3.1. Ngƣời kể chuyện
3.1.1. Khái lược về người kể chuyện
Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học,
được xem là khái niệm trung tâm trong phân tích trần thuật. Khi tiếp cận về
vấn đề người kể chuyện, chúng tôi cho rằng người kể chuyện là chủ thể của
những lời kể về câu chuyện nào đó trong tác phẩm văn học. Chủ thể đó là một
nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra để dẫn dắt, gợi mở hay sắp đặt câu
chuyện được kể, là người kể lại câu chuyện trong tác phẩm bằng một chỗ
đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ sáng tạo của nhà văn.
Người kể chuyện chính là chủ thể trần thuật trong sáng tác tự sự, một
loại nhân vật được nhà văn xây dựng trong tác phẩm nhằm thực hiện chức
năng kể chuyện. Tác phẩm tự sự không thể thiếu loại nhân vật này. Bởi vì:
”Người kể chuyện, dù có mặt bất cứ dưới hình thức nào, đều là thành tố quan
trọng tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự” [9, tr. 109]. Trong tiểu
thuyết, truyện ngắn, cùng các tiểu thể văn xuôi tự sự nói chung, “người kể
chuyện giữ một vai trò hết sức quan trọng: là cầu nối để tạo nên mối quan hệ
khắng khít: nhân vật- người kể chuyện - độc giả” [3, tr. 7].
Bên cạnh thuật ngữ người kể chuyện còn có thuật ngữ người trần thuật.
Hai thuật ngữ này đến nay cũng chưa có sự thống nhất trong cách dùng, bởi
có những quan niệm khác nhau. Trần Đình Sử xem người kể chuyện và người
trần thuật trong tác phẩm là một. Thế nhưng, các tác giả quyển Từ điển thuật
ngữ văn học lại có sự phân biệt rạch ròi hai khái niệm người kể
chuyện và người trần thuật. Người trần thuật được giải thích là “Một nhân vật
hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo
thành” [1, tr. 221]. Người kể chuyện khác với người trần thuật bởi đó là
57
“Hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện
khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [1, tr.
221]. G.N.Pospelov có viết: “Những người trần thuật cũng hoàn toàn có thể
xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “Tôi” nào đó. Những người
trần thuật được nhân vật hóa như vậy, kể câu chuyện từ “ngôi thứ nhất”, của
chính mình có thể gọi một cách tự nhiên là người kể chuyện” [15, tr. 66 - 67].
Thế nhưng, ngay cùng trang sách, lại có dòng chú thích: “Sự phân biệt các
khái niệm đề xuất ở đây chưa được chấp nhận phổ biến. Các từ người trần
thuật và người kể chuyện cũng thường được dùng như là đồng nghĩa” [15, tr.
66 - 67]. Nhìn chung, vấn đề còn nhiều mâu thuẫn. Bởi xét cho cùng, hai khái
niệm cùng để giải thích một đối tượng, nói về một đối tượng có vai trò, đặc
điểm giống nhau. Có khác chăng chỉ là ở hình thức xuất hiện của đối tượng
trong tác phẩm (lộ diện hay không lộ diện). Thuật ngữ người kể chuyện hàm
ẩn là để chỉ kiểu người trần thuật không lộ diện, người trần thuật theo ngôi
thứ ba.
3.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng.
Dựa vào cách nhận thức khách thể và nội dung vấn đề được nhận thức,
có thể chia ra nhiều dạng điểm nhìn trong nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn
không gian; điểm nhìn thời gian; điểm nhìn bên trong; điểm nhìn bên trên,
điểm nhìn bên ngoài…truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng đã đạt được
tính chân thật, sinh động trong việc tái hiện bức tranh cuộc sống, lịch sử dân
tộc; thể hiện cái nhìn khách quan. Đó là nhờ ở sự kết hợp khéo léo nhiều dạng
điểm nhìn trần thuật và sự dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt trong nghệ thuật
trần thuật. Điểm nhìn trần thuật tất yếu có sự gắn bó với người kể chuyện. Vì
“Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần
thuật” (Trần Đình Sử và ctv, 2012). Các thuật ngữ người kể chuyện, người
58
trần thuật “Cũng thường được dùng như là đồng nghĩa” (G.N.Pospelov,
1985). Căn cứ theo quan điểm của Trần Đình Sử (nêu trong Lí luận văn học,
tập 2, tr 101) và G.N.Pospelov (nêu trong Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2,
tr 67), chúng ta có thể xem hai thuật ngữ này nói về một đối tượng. Bởi xét
cho cùng, hai khái niệm cùng để giải thích một đối tượng, nói về một đối
tượng có vai trò, đặc điểm giống nhau, khác chăng chỉ là ở hình thức xuất
hiện của đối tượng trong tác phẩm, lộ diện hay giấu mặt mà thôi.
Người kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể là kiểu người
kể chuyện nhìn và kể những thông tin tương đương với một nhân vật nào đó
trong câu chuyện. Điều đó có nghĩa là người kể chuyện dùng điểm nhìn của
nhân vật để kể lại câu chuyện xuất hiện khá phổ biến trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Tưởng mà người kể là nhân vật có mặt trong câu chuyện được
kể. Câu chuyện được kể lại theo tri giác của nhân vật.
Kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật không có nghĩa là người kể
chuyện phải là nhân vật trong câu chuyện trần thuật lại các sự kiện. Trong
truyện của Nguyễn Huy Tưởng ngay ở cả những truyện được kể bằng người
kể chuyện ngôi thứ ba cũng dựa vào điểm nhìn nhân vật. Và lúc này điểm
nhìn của người kể chuyện trở thành “Điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ
thuật”.
Dựa vào điểm nhìn của nhân vật còn xuất hiện khi người kể chuyển di
chuyển điểm nhìn sang nhân vật trong truyện với mức độ đậm nhạt khác nhau
trong tác phẩm. Trong vấn đề này chúng tôi chú trọng xem xét điểm nhìn ở
cấp độ thấp hơn văn bản. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa đã chỉ ra: “Ở
cấp độ thấp hơn tổng thể văn bản (đoạn văn, hồi, cảnh…), điểm nhìn nghệ
thuật thể hiện ở từng câu hay phát ngôn hay từng diễn ngôn: lời kể, lời thoại
của nhân vật”. Dạng thức kể chuyện này tạo ra sự di chuyển điểm nhìn trong
cách kể chuyện của nhà văn.
59
Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng có tính giáo dục sâu
sắc. Dù có di chuyển điểm nhìn trần thuật (the poin of view) từ ngôi thứ nhất
(cái tôi kể chuyện) sang ngôi thứ ba (người kể toàn năng) thì nghệ thuật
xuyên suốt mọi tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng vẫn là hướng vào một giá
trị tình yêu quê hương đất nước, gương người tốt việc tốt, tổ quốc và lịch sử
dân tộc. Tiêu biểu là hình ảnh Lá cờ thêu sáu chữ vàng vẫn là hình ảnh trung
tâm trong truyện kể về Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản; đó là hình ảnh xuyên
suốt tác phẩm, là ý chí và sự quyết tâm của cả dân tộc được hun đúc trước
mối họa xâm lược. Hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ trong Kể chuyện
Quang Trung, đã vượt bao gian khổ, sự hi sinh của quân lính, cả bản thân qua
các trận đánh ác liệt, cam go không thể kể xiết để quyết tâm bằng xương máu
giành chiến thắng đuổi giặc ra khỏi biên cương, tổ quốc mình, mang lại tự hào
dân tộc ngàn năm còn mãi.
3.1.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng.
Ở truyện kể thiếu nhi, đối tượng tiếp nhận là thiếu nhi và đối tượng
phản ánh thường cũng là thiếu nhi. Như vậy, giữa nhà văn và độc giả thiếu
nhi đã thiết lập một mối quan hệ. Mối quan hệ đó không trực tiếp thông qua
ngôn ngữ giao tiếp mà thông qua ý tưởng của nhà văn được gửi gắm qua nhân
vật người kể chuyện. Người đọc trẻ em cảm nhận câu chuyện qua vai trò
trung gian của người kể chuyện.
Một truyện kể sẽ không thể nào tồn tại nếu thiếu vắng hình tượng
người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật. Bởi vì, người kể chuyện và điểm
nhìn trần thuật là những phạm trù trung tâm của cấu trúc trần thuật, và vai trò
của nó đối với cấu trúc văn bản là rất lớn. Người kể chuyện chính là người
trần thuật lại câu chuyện, thường có hai ngôi là ngôi thứ nhất (thường là một
nhân vật) và ngôi thứ ba (có tính toàn tri). Trong khi đó, điểm nhìn trần thuật
60
là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm
thụ thế giới của một nhân vật, chủ thể nhất định. Cùng với hình tượng người
kể chuyện, điểm nhìn trần thuật cũng là một phạm trù có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc nghiên cứu cấu trúc trần thuật. Và ta có thể dễ dàng
nhận thấy giữa hai phạm trù này có mối quan hệ mật thiết với nhau: Người kể
chuyện và điểm nhìn trần thuật đa phần có sự thống nhất. Với quan điểm đa
nguyên, các nhà văn hậu hiện đại khi tạo nên tác phẩm của mình đã tạo ra
nhiều chủ thể kể chuyện và tương ứng với nó là đa điểm nhìn trần thuật. Đây
chính là xu thế trong văn học hậu hiện đại, và cũng là cơ sở đầu tiên để
Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn kết cấu đơn tuyến cho hình tượng người kể
chuyện và điểm nhìn trần thuật cho Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Mối quan hệ
giữa người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật được tác giả sử dụng một cách
linh hoạt, tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Chính sự di chuyển điểm nhìn trần
thuật tạo cho truyện sức hấp dẫn hơn, với điểm nhìn của nhân vật, có lúc
người kể chuyện di chuyển điểm nhìn từ ngôi thứ nhất, lúc kể ở ngôi thứ ba
để quan sát miêu tả nhân vật từ hành động trong các hoàn cảnh cụ thể điều
kiện cụ thể của truyện cho dù người kể chuyện có thay đổi hay nói cách khác
là di chuyển điểm nhìn trần thuật thì đó là người kể chuyện hóa thân vào các
nhân vật đó, đứng ở điểm nhìn khác nhau mà thôi.
Truyện Nguyễn Huy Tưởng có thể nói, những truyện cổ tích và huyền
thoại viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng là những truyện có cách thể
hiện mới với một văn phong giản dị và thanh nhã. Ông đã khéo léo thay đổi,
thêm bớt các tình tiết ở mỗi cốt truyện sao cho hợp lý, với giọng điệu kể
chuyện sao cho giống với giọng điệu kể chuyện dân gian đơn giản và trong
sáng, nhưng vẫn lột tả được tinh thần chủ đạo ở mỗi truyện viết mới của
ông. Truyện có kết cấu đơn tuyến, dễ hiểu. Mỗi chương là một việc, các sự
việc diễn ra theo trình tự thời gian và theo sự trưởng thành của nhân vật
61
chính. Sự việc trong truyện không li kì, dồn dập nhưng khá hấp dẫn vì người
đọc chú ý theo dõi theo số phận của nhân vật chính qua các sự việc. Giữa các
sự việc trong truyện, tác giả còn xen vào những đoạn văn tả tình, tả cảnh rất
hay, rất xúc động. Chất thơ của truyện làm cho các sự việc gắn lại với nhau
tăng thêm phần ý nghĩa. Nguyễn Huy Tưởng cũng hiếm khi tạo ra những vai
kể khác thường mang đậm tính ẩn dụ kiểu như bào thai, người điên, con
người tí hon… đóng vai trò kể chuyện trong nhiều tiểu thuyết dành cho người
lớn. Trong truyện Nguyễn Huy Tưởng, người kể chuyện hoặc là tác giả ẩn
tàng kể chuyện từ ngôi thứ ba, hoặc là tác giả hiển thị một người kể chuyện
trong vai nhà văn, xưng tôi đều là hình tượng của chính tác giả Nguyễn Huy
Tưởng. Đặc biệt, nhà văn thường chọn cách kể từ ngôi thứ nhất - người kể
chuyện “tôi”, khiến cho truyện Nguyễn Huy Tưởng có tính chất hồi ức. Ngay
cả khi người kể là một nhân vật “Tôi” được trao quyền kể chuyện như truyện
Chiếc bánh chưng, Hai bàn tay chiến sĩ thì thấp thoáng đằng sau những cái
“Tôi” ấy vẫn là bóng dáng của nhà văn.
Mở đầu câu chuyện Chiếc bánh chưng, độc giả gặp ngay một cái tôi
hồn hậu, gần gũi, chân tình lên tiếng:
“Đây là câu chuyện tôi kể riêng cho các bạn, hỡi các em nhỏ của non
nước tre xanh. Tết đã đến chân ta, bước êm như nhung và hơi thở nhẹ như hơi
thở mẹ hiền… Chẳng mấy bữa các em sẽ lại hưởng cái thú hội họp trong gia
đình, mặc quần áo mới và nhất là ăn bánh chưng xanh.
Chà bánh chưng ngày Tết !”
Tác giả như đã hóa thân vào thế giới trẻ thơ, nhìn vạn vật bằng cái nhìn
của trẻ thơ, thậm chí như sống cùng với các em nhỏ để rồi kể chuyện về thiếu
nhi cho chính thiếu nhi. Nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng là nhắc tới người nghệ
sĩ tài hoa, nhà văn của Hà Nội, và trong tâm trí của nhiều thế hệ thiếu niên,
nhi đồng, ông là nhà văn của tuổi thơ, người gieo vào tâm trí trẻ nhỏ những
62
câu chuyện lịch sử thần kì, những câu chuyện cổ tích “vừa lạ lùng xanh biếc,
vừa mênh mông những tưởng tượng kì ảo mà trong đó chất chứa cả một kho
vàng ngọc những tình cảm yêu thương, những lòng tin, những chí khí dời núi
lấp biển của người Việt Nam, của truyền thống Việt Nam” (Tô Hoài).
3.1.2. Người kể trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng.
Ngôn ngữ người kể chuyện là “Phần lời văn độc thoại thể hiện quan
điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng tạo của tác giả)
đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc
lựa chọn và sử dụng phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ” [8, tr. 212-
213]. Trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có hai
mẫu người kể chủ đạo để dẫn dắt độc giả thiếu nhi. Chúng tôi tạm định danh
đó là người kể chuyện lịch sử và người kể chuyện hướng đạo. Loại hình hóa
hai kiểu người kể này, chúng ta có thể có thuận lợi hơn khi nhìn nhận nét
riêng, phong cách độc đáo của nhà văn:
3.1.2.1. Người kể chuyện lịch sử.
Lịch sử là nguồn cảm hứng lớn, xuyên suốt hành trình sáng tạo của
Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến ông, bạn đọc thường nhắc tới danh hiệu thân
quen “Người chép sử bằng văn chương”. Dòng chảy lịch sử quá khứ và hiện
tại luôn hiện diện rõ nét từ nhan đề đến hình ảnh, chi tiết, sự kiện, nhân vật,
ngôn ngữ, dù ở thể loại tiểu thuyết, kịch, truyện thiếu nhi hay những trang tùy
búy, bút kí…, tất cả đều nhuốm sắc màu lịch sử và hơi thở thời đại.
Yêu nước, yêu lịch sử dân tộc là hai phẩm chất nổi bật trong con người
và văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng. Nó quyện hòa, thấm sâu trong từng câu
chữ thể hiện tư tưởng, quan điểm nhất quán của nhà văn trong sáng tạo nghệ
thuật. Với Nguyễn Huy Tưởng, lịch sử là niềm đam mê, viết về lịch sử là một
sở trường, là sứ mệnh, trách nhiệm thiêng liêng, nhất là trong bối cảnh đất
nước đang chìm trong bóng đêm nô lệ. Trở về cội nguồn dân tộc, người đọc
63
có thể cảm nhận được hình bóng cha ông, hồn cốt dân tộc qua những trang sử
do các sử gia ghi chép lại, và cũng có thể thông qua những trang văn của
Nguyễn Huy Tưởng để hiểu sâu sắc hơn lịch sử đất nước mình. Lịch sử là
những sự kiện đã trải qua trong quá khứ nhưng qua tài nghệ và lối viết độc
đáo của Nguyễn Huy Tưởng, những sự kiện vốn bị lớp bụi thời gian phủ mờ
bỗng trở nên sinh động, có hồn.
Có thể nói yếu tố lịch sử là một điểm nhấn quan trọng, là tín hiệu nghệ
thuật để tiếp cận thế giới nghệ thuật độc đáo và giải mã được bức thông điệp
mà nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc, và đặc biệt qua đó có thể nhận diện
được cốt cách, văn phong Nguyễn Huy Tưởng. Trong tiểu mục của phần nội
dung này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu người kể chuyện để từ đó phân tích, làm
rõ và khẳng định Nguyễn Huy Tưởng là một cây bút chuyên viết về đề tài lịch
sử, nhà văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa, độc đáo.
Là người giàu lòng yêu nước, Nguyễn Huy Tưởng tìm về với lịch sử
như một lẽ tự nhiên, tất yếu. Nhìn vào nhan đề các tác phẩm, tuy được viết
trong những giai đoạn, thời điểm khác nhau nhưng xâu chuỗi nội dung, chủ
đề được phản ánh, người đọc có thể nhận thấy một tư tưởng, quan điểm nhất
quán xuyên suốt. Nguyễn Huy Tưởng muốn mượn văn chương và qua văn
chương để tái hiện, tạo dựng bức tượng đài nghệ thuật về lịch sử dân tộc
trong bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước.
Trở về thuở bình minh lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng viết An Dương
Vương xây thành Ốc nhằm ngợi ca công lao to lớn của An Dương Vương
trong việc đắp lũy, xây thành chống lại dã tâm xâm lược của Triệu Đà. Đề cập
đến cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại ách đô hộ của giặc phương Bắc
trong những năm Bắc thuộc, Nguyễn Huy Tưởng viết Cột đồng Mã Viện. Đến
thời kỳ độc lập tự chủ, bảo vệ bờ cõi non sông, nhà văn sáng tác An Tư, Lá cờ
thêu sáu chữ vàng, Hội nghị Diên Hồng…để nói lên khí phách, tinh thần, sức
64
mạnh của quân dân nhà Trần với ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm
lược. Bước sang thời Lê - Trịnh với những lục đục, khủng hoảng, rối ren
trong cung vua phủ chúa, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại thời kỳ đầy biến động
đó của lịch sử trong các tác phẩm Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, và kết lại ở
hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân
Thanh trong Kể chuyện Quang Trung.
Khi lịch sử chuyển sang trang mới, ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có sự
chuyển hướng kịp thời, theo sát những bước chuyển mình của đời sống xã
hội. Viết về không khí nổi dậy của đồng bào miền núi những năm kháng
chiến chống Pháp, Nguyễn Huy Tưởng có Bắc Sơn. Viết về Thủ đô kháng
chiến, có Những người ở lại, Sống mãi với Thủ đô, Lũy hoa. Viết về chiến
dịch Biên giới (1950) có Ký sự Cao Lạng. Về công cuộc cải cách ruộng đất
ông có Truyện Anh Lục. Và khi đề cập đến không khí hồ hởi của nhân dân
trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, hàn gắn vết thương
chiến tranh, Nguyễn Huy Tưởng viết Bốn năm sau.
Với Nguyễn Huy Tưởng, lịch sử không chỉ được thể hiện qua những tác
phẩm nghệ thuật với những hư cấu, sáng tạo, mà còn được thể hiện trong
những ghi chép về những lần gặp Bác, trong các biên bản hội nghị tranh luận
văn nghệ ở Việt Bắc, những bản kiểm thảo cá nhân và đặc biệt là những trang
nhật ký mà ông có ý thức ghi lại từ rất sớm (bắt đầu từ ngày 2/11/1930 khi
còn là cậu học sinh trường Bonnal - Hải Phòng cho đến ngày 21/6/1960 được
viết trên giường bệnh Bệnh viện Việt - Xô, ít ngày sau khi ông qua đời). Theo
tài liệu sưu tầm của các nhà nghiên cứu, toàn bộ nhật ký Nguyễn Huy Tưởng
gồm 40 quyển, “quyển nhỏ nhất chỉ bằng hơn nửa lòng bàn tay” được nhà văn
ghi lại một cách đều đặn trong suốt quá trình sống và sáng tác. Đó là những
tâm sự về chuyện đời, chuyện nghề và cả những câu chuyện thầm kín riêng tư
không dễ sẻ chia. Nhưng bao trùm nhật ký là không khí thời đại, những biến
65
chuyển của đời sống xã hội, đời sống văn học nghệ thuật, vì thế cuốn nhật ký
còn mang dáng dấp của một cuốn biên niên sử được cảm nhận qua lăng kính
của người nghệ sĩ.
Viết về lịch sử dân tộc, Nguyễn Huy Tưởng không chạy theo thị hiếu
tầm thường, không sa vào những quan niệm hẹp hòi dân tộc chủ nghĩa, mà
trên cơ sở, lập trường của một thanh niên yêu nước sớm giác ngộ lý tưởng
cộng sản, đi theo cách mạng, kháng chiến. Vì thế, khai thác đề tài lịch sử,
Nguyễn Huy Tưởng tôn trọng sự thật như nó vốn có, không xuyên tạc, tô
hồng. Nếu như một số cây bút lãng mạn cùng thời tìm về quá khứ lịch sử để
chạy trốn, thoát li thực tại, chối bỏ trách nhiệm cá nhân; một số khác do cái
nhìn định kiến, phiến diện, chịu tác động xấu của những tư tưởng phản động
đã bẻ cong ngòi bút, viết sai sự thực, bôi nhọ hình tượng các nhân vật anh
hùng,… Trước thực trạng đó, Nguyễn Huy Tưởng không đồng tình, ông chủ
trương một lối viết trung thực với thái độ trân trọng, ngợi ca, phản ánh đúng
tinh thần lịch sử thời đại. Và những tác phẩm về đề tài lịch sử của ông đã đem
đến cho bạn đọc cái nhìn biện chứng, khách quan, hiểu rõ hơn truyền thống
lịch sử, thấy được trách nhiệm, bổn phận của bản thân trước vận mệnh quốc
gia, dân tộc.
Nhìn nhận tác phẩm về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, người
đọc có thể nhận thấy rõ những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, quan
niệm sáng tác của nhà văn qua hai giai đoạn sáng tác. Trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng thường chọn những thời điểm lịch sử đã
lùi xa trong quá khứ để phản ánh. Và những sự kiện, giai đoạn tác động mạnh
đến tình cảm, thái độ của nhà văn là những sự kiện lớn, có ý nghĩa trọng đại,
gắn liền với những bước ngoặt lịch sử. Đó là thời kỳ An Dương Vương dựng
nước, thời vua tôi nhà Trần đại phá quân Nguyên, thời vua Lê chúa Trịnh.
66
Lịch sử ở những “Khúc quanh”, những thời khắc với những chuyển
biến dữ đội trong sự đối đầu, xung đột với kẻ thù, tự nó cũng đã phản ánh
không khí thời đại, đồng thời nói lên bút lực, niềm đam mê và tư duy nghệ
thuật về lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng. Nhà văn Pháp Alexandre Dumas khi
nói về kinh nghiệm sáng tác văn chương về đề tài lịch sử có viết: “Lịch sử đối
với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi mà thôi.”
[8, tr. 67]. Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở giai đoạn sáng tác
trước cách mạng, các nhà văn học sử đều nhận thấy quan điểm này có một
phần chi phối, khi ông không quá lệ thuộc vào các tài liệu lịch sử, mặc dù
trong quá trình chuẩn bị viết ông đã cất công tìm hiểu, sưu tầm những tri thức
lịch sử về văn hóa phong tục, sinh hoạt, ngôn ngữ của những thời kỳ đã qua.
Trước những tư liệu ít ỏi mà sử gia ghi chép lại, Nguyễn Huy Tưởng đã có sự
lựa chọn những chi tiết, sự kiện, nhân vật tiêu biểu, có ý nghĩa khái quát để
phản ánh được không khí, tinh thần thời đại. Cảm hứng chính, bao trùm lên
sáng tác giai đoạn này là cảm hứng lãng mạn - trữ tình. Thông qua những câu
chuyện, biến cố lịch sử, qua cuộc đời, số phận các nhân vật, nhà văn muốn kí
thác những tâm sự thầm kín, những vấn đề về nghệ thuật và cuộc đời.
Viết về đề tài lịch sử là điều không dễ với nhiều khó khăn thách thức
đặt ra, đòi hỏi cái tâm, cái tầm và văn tài của người viết, phải vượt qua những
rào cản về không gian, thời gian với những khác biệt về ngôn ngữ, văn tự cổ
xưa, về cung cách, lối sống, văn hóa, phong tục của những giai đoạn khác
nhau. Với Nguyễn Huy Tưởng, ngay từ thuở thiếu thời, những câu chuyện
lịch sử mang sắc màu huyền thoại, cổ tích về các nhân vật lịch sử, những trận
đánh lớn của ông cha qua lời kể của người bác và anh trai đã đi vào tiềm thức,
trở thành động lực thôi thúc nhà văn tìm về với lịch sử như một lẽ tự nhiên để
thấy được sức sống của một dân tộc tuy nhỏ bé về diện tích nhưng đã kiên
cường đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược.
67
Việc nghiên cứu, nghiền ngẫm những tư liệu lịch sử giúp nhà văn có
những tri thức cần thiết để bố trí, dàn xếp kết cấu tác phẩm cũng như xây
dựng hình tượng nhân vật. Ở nhiều tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng đã có
những sáng tạo táo bạo nhưng vẫn đảm bảo được tinh thần lịch sử, gắn những
câu chuyện lịch sử với những vấn đề thời đại đang đặt ra.
Ở giai đoạn sáng tác sau cách mạng tháng Tám, đề tài lịch sử vẫn là
nguồn cảm hứng chính trong sáng tác của nhà văn. Với tình yêu lịch sử cùng
những trải nghiệm từ thực tiễn chiến đấu, Nguyễn Huy Tưởng có điều kiện để
tiếp cận với những sự kiện, con người cụ thể trong cuộc đối đầu với thực dân
Pháp để giành lấy quyền độc lập, tự do. Nếu ở giai đoạn sáng tác trước, ngòi
bút nhà văn thiên về cảm hứng lịch sử - lãng mạn thì ở giai đoạn này là cảm
hứng lịch sử - thế sự, hướng vào những vấn đề, sự kiện thời sự, cấp thiết của
đời sống xã hội.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, thật hiếm có nhà văn nào đã dành trọn
đời mình để sáng tác bền bỉ về đề tài lịch sử như Nguyễn Huy Tưởng. Lịch sử
đối với ông không phải là những sự kiện, nhân vật “khô cứng” nằm im trong
những pho sử mà đó là hồn thiêng sông núi, là người mẹ vĩ đại của Tổ quốc.
Bởi vậy, mỗi một sự kiện nhỏ của đời sống liên quan đến số phận con người
đều có tác động mạnh đến xúc cảm của nhà văn. Viết về lịch sử trong những
thời khắc trọng đại, liên quan trực tiếp tới vận mệnh quốc gia, dân tộc nói lên
mối quan tâm và tình yêu thiết tha, mãnh liệt của Nguyễn Huy Tưởng đối với
quê hương, đất nước.
Trong một bài viết về Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Nguyễn Tuân từng
tâm sự: “Tưởng hay đọc sử, những gì về sử, những con người lịch sử, sự kiện
lịch sử, những câu nói lịch sử.” Sinh thời Nguyễn Huy Tưởng rất tâm đắc với
câu nói của một nhà văn lãng mạn Châu Âu: “Ngay cả đích thân cái chết cũng
không thể làm ngừng đập trái tim những nhà thơ lớn. Cho nên những thi hào
68
là thuộc cả về hiện tại và cả của quá vãng. Chính chỗ đó là cái cơ sở để phân
biệt sự khác nhau giữa một sự kiện văn học với một sự kiện lịch sử.” [17, tr.
81]. Điều này nói lên tình yêu lịch sử, yêu đất nước của nhà văn. Việc giới
thuyết và ý thức được sự khác biệt giữa một nhà tiểu thuyết lịch sử với một
nhà chép sử thuần túy đã giúp Nguyễn Huy Tưởng xây dựng được những
nhân vật lịch sử độc đáo, vừa có tính cách của những nhân vật lịch sử, những
anh hùng thời đại vừa có những nét cá tính gần gũi, thân quen của một người
bình thường. Có người từng ví mỗi tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng là một
chuyến tàu tốc hành đưa người đọc hôm nay ngược dòng thời gian trở về với
những năm tháng hào hùng của dân tộc để cảm nhận rõ hơn những vấn đề
đang đặt ra của cuộc sống hiện thời. Và đó cũng chính là nét độc đáo riêng
của Nguyễn Huy Tưởng - một cây bút viết sử bằng văn chương.
Nếu lịch sử là đề tài lớn, xuyên suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn
Huy Tưởng thì đề tài về chiến tranh cách mạng là một điểm nhấn quan trọng
trong dòng chảy lịch sử đó. Nhà văn Tô Hoài từng cho rằng: “Đề tài truyền
thống, đề tài cách mạng trong thời kỳ chuyển biến lịch sử vốn là sở trường
của Nguyễn Huy Tưởng” [13, tr. 73], và khi điểm lại những sáng tác của ông,
một đặc điểm dễ nhận thấy là âm vang của những trận chiến lịch sử xuất hiện
đậm nét trong nhiều tác phẩm, trở thành tâm điểm phản ánh, là nền cảnh
không gian chi phối, tác động đến xung đột, hành động nhân vật. Đây là vùng
đề tài sở trường, thể hiện mối quan tâm của nhà văn trước những vấn đề, sự
kiện lớn của lịch sử dân tộc, bộc lộ tài quan sát, miêu tả trong phạm vi không
gian rộng, hướng đến cái vĩ mô, hùng tráng với âm hưởng sử thi - anh hùng.
Viết về công lao của An Dương Vương trong việc xây thành Ốc chống
lại kẻ thù (trong An Dương Vương xây thành Ốc), nhà văn đặt hành động của
nhân vật trong bối cảnh, tình thế đầy cam go khi quân giặc với sức mạnh hùng
hổ đang tiến gần đến bờ cõi, cách Phong Khê - nơi nhà vua đóng quân chưa
69
đầy sáu mươi dặm. Tác giả viết: “Thời ấy, tướng nhà Hán là Triệu Đà muốn
cướp lấy nước Âu Lạc. Quân của Triệu Đà đông như kiến, tướng của Triệu
Đà khỏe như voi. An Dương Vương đã ba lần đánh nhau với Triệu Đà, nhưng
lần nào cũng thua. Quân Triệu Đà tiến đến đâu, quân An Dương Vương tan
đến đó. Vua chưa tìm cách nào để đuổi giặc. Quân tiên phong của Triệu Đà
chỉ còn cách Phong Khê là nơi vua đóng không đầy sáu mươi dặm. Nhân dân
Âu Lạc nhốn nháo. Vua Ngồi đứng không yên, ăn không thấy ngon, đêm
không chợp mắt ngủ được.” [24, tr, 134].
Trước sức mạnh của quân thù, nhà vua đứng ngồi không yên, ăn không
thấy ngon, đêm không chợp mắt ngủ được vì lo nghĩ tìm kế sách chống lại kẻ
thù. Được thần núi Thất Diệu báo mộng phải xây được thành Ốc mới có thể
dẹp yên quân Triệu Đà, nhà vua đã huy động sức người, sức của của quân
dân, quyết tâm xây xong Loa thành trong một đêm với sự trợ giúp của các
nàng tiên. Nhưng đêm thứ nhất, thành xây sắp xong thì con Kê tinh trên đồi
ông Cô bỗng cất lên tiếng gáy rùng rợn khiến cho thành bỗng chốc sụp đổ và
tan đi. Trong khi quân tiên phong của Triệu Đà chỉ còn cách bốn mươi nhăm
dặm.
Cứ như thế, đêm thứ hai, thứ ba, thứ tư khi đêm sắp tàn canh một thì
thành lại đổ vì tiếng gà, đồng nghĩa với quân Triệu Đà càng ngày càng tiến sát
kinh thành từ hai mươi nhăm dặm đến mười dặm, uy hiếp tính mạng, số phận
của nhân dân Âu Lạc, đặt nhà vua trong tình thế đầy cam go, thử thách. Và
chỉ đến đêm thứ năm, sau khi thần Kim Quy giúp triệt hạ Kê Tinh, Loa thành
mới hiện lên rực rỡ với những bức tường xoáy trôn ốc, cao chót vót và đỏ ối
như son, vững vàng dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân.
Là truyện cổ tích pha màu truyền thuyết, viết cho đối tượng thiếu nhi,
Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn lối kết cấu giản dị, đơn tuyến, không đề cập trực
tiếp cuộc xung đột, giao chiến giữa ta và địch mà qua những dòng văn miêu tả
70
ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh, hàm chứa nhiều thông tin, đã giúp bạn đọc
nhỏ tuổi hình dung được sức mạnh to lớn của quân thù và tình thế cam go,
nhiều thử thách của vua tôi Âu Lạc. Hoàn cảnh khốc liệt càng làm nổi bật tấm
lòng vì nước, vì dân, vì xã tắc của nhà vua. Tuy thế và lực còn thua xa kẻ thù,
nhiều lần giao chiến thất bại, nhưng với ý chí, quyết tâm, tinh thần đoàn kết,
tấm lòng nhân hậu vì nghĩa lớn của An Dương Vương cùng sự trợ giúp của
thần tiên, chắc chắn nhân dân Âu lạc sẽ làm nên những chiến tích. Truyện
khép lại với hình ảnh Loa thành hiện lên rực rỡ, uy nghi - một biểu tượng của
sức mạnh quân sự và lòng người sẽ khiến quân thù run sợ.
Là cây bút có tài quan sát, bố trí dàn xếp các cảnh giao chiến đượm
không khí chiến trận, Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống dậy âm vang của
những trận đánh lịch sử năm xưa trên dòng Bạch Đằng giang. Đó là những
thước phim cận cảnh được thể hiện qua bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa,
điêu luyện, am hiểu sâu sắc về kiến thức võ trang, quân sự. Đặc tả về cuộc
chiến giữa quan quân nhà Trần với những tên tướng giặc hùng mạnh như Toa
Đô, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng những câu văn chắc khỏe, giọng văn hùng
hồn, âm hưởng hào sảng để tái hiện không khí trận mạc quyết liệt, gay go. Và
đây là đoạn văn miêu tả cảnh giao chiến, đối đầu giữa tướng nhà Trần với
tướng giặc Toa Đô: “Kẻ giáo, người đao, hai người đánh nhau dữ dội, võ khí
chạm vào nhau choang choang. Toa Đô vừa đánh vừa thở hồng hộc, ngọn
giáo của Toa Đô mỗi lúc một vụng về. Toa Đô chỉ còn sức chống đỡ [25, tr.
168].
Viết về thời đại nhà Trần với âm vang Hào khí Đông A, những tướng
lĩnh tài ba cùng những chiến công vang dội, Nguyễn Huy Tưởng đã vận dụng,
huy động nhiều kiến thức của các lĩnh vực khác nhau như sử học, địa lý, văn
hóa, quân sự. Bằng lối tư duy nghệ thuật tổng hợp, cách thức xử lý, sắp xếp
sự kiện, cách dàn, phối cảnh hợp lý, khả năng bao quát rộng lớn, trí tưởng
71
tượng mãnh liệt đã giúp nhà văn tái hiện một cách chân thực, sinh động về
một kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc.
Chiến tranh gắn liền với người chiến thắng, kẻ chiến bại, và trong niềm
vui chiến thắng có cả những nỗi buồn, những bi kịch và cả những nỗi đau
thương, mất mát. Viết về chiến tranh, Nguyễn Huy Tưởng không ngợi ca một
chiều mà phản ánh đúng hiện thực khốc liệt, tàn bạo và cái giá phải trả để đổi
lấy nền hòa bình, độc lập, tự chủ. Đây cũng là một nét riêng chi phối đến
nhiều tác phẩm viết về chiến tranh, cách mạng sau này của nhà văn.
Có thể nói triều đại nhà Trần là triều đại huy hoàng và oanh liệt nhất
trong lịch sử dân tộc với ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông - một đế quốc
hùng mạnh ở phương Bắc mà vó ngựa của chúng đi tới đâu cỏ cây đều không
mọc được đến đó. Đây cũng là triều đại ghi dấu sự xuất hiện của những vị
tướng tài giỏi đức độ, tài năng, mưu lược hơn người. Nguyễn Huy Tưởng
ngay từ thở nhỏ đã có ấn tượng đặc biệt về vương triều Trần. Hình tượng
những vị anh hùng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải,
Yết Kiêu, Dã Tượng,… đã trở thành những mẫu hình lý tưởng của tinh thần
xả thân vì nghĩa lớn. Nguyễn Huy Tưởng từng có mong ước sẽ viết được
những tác phẩm lớn về triều đại này. “Tôi vẩn vơ nghĩ đến quyển anh hùng ca
mà tôi định đem hết tâm trí tôi mà cống hiến quốc gia tôi. Quyển ấy là quyển
Thái Bình diên yến. Trong đó tôi kể chuyện bậc đại anh hùng nước ta là ông
Hưng Đạo, là cái gương nghị lực, kiên nhẫn, ái quốc trung quân, là biểu hiện
của cả tinh thần của dân tộc.”…“Câu nói của Trần Hưng Đạo, lá cờ của Trần
Quốc Toản, định chí của Ngũ Lão, khẳng khái của Khánh Dư, kể vài đoạn đã
thấy rằng đời bấy giờ nhân vật thật là kỳ khôi xuất chúng, hình như là tướng
lĩnh đầu thai ở một nguồn trong sạch để giúp giập cõi Việt bang, hình như
linh khí non sông hun đúc lại được bao nhiêu đóa hoa thơm để phù trợ đất đai.
Những nhân vật ly kì như là dòng nước trong chảy qua con sông đục, nghìn
72
thu vẫn còn dương danh.” (Nhật ký, ngày 12/10/1933). Và niềm khát vọng
muốn tái hiện không khí, thời đại nhà Trần đã được hiện thực hóa qua tác
phẩm nổi tiếng, xuất sắc Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng, với động cơ viết cho tuổi thiếu nhi, tác
giả vẫn nối tiếp mạch kể về cuộc kháng chiến của vua tôi nhà Trần chống lại
giặc Nguyên Mông, nhưng tập trung vào hình tượng nhân vật chính Hoài Văn
Hầu Trần Quốc Toản - một tráng sĩ tuổi trẻ, tài cao, chí lớn có những hành
động quả cảm, không chịu ngồi yên, khoanh tay đứng nhìn sự hung hăng,
khiêu chiến, thách thức của quân giặc. Hành động bóp nát quả cam vua ban
khi không được dự hội nghị bàn việc nước ở bến Bình Than, đứng lên chiêu
binh mãi mã, ngày đêm luyện tập võ nghệ, giương cao lá cờ “Phá cường địch,
báo hoàng ân”, đã nói lên khí phách, tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước nồng
nàn của người tướng trẻ. Hình ảnh Hoài Văn Hầu dẫn sáu trăm chàng hào kiệt
đi đuổi Toa Đô đang chạy thoát thân ra bể, với lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng
căng phồng lên trong gió hè lồng lộng thổi, là những hình ảnh đẹp chói lọi
trong trí tưởng tượng của độc giả thanh thiếu niên.
Đề cập đến những cuộc chiến, những trận giao tranh giữa ta với giặc
phương Bắc, Nguyễn Huy Tưởng còn tập trung khắc họa hình ảnh những
tướng lĩnh yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng giúp ta chống lại cái ác. Hình ảnh
Triệu Trung trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một minh chứng cho điều đó.
Đó là hành động xả thân vì nghĩa lớn. Đây cũng là những chi tiết độc đáo, đặc
sắc mà Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo lồng vào trong truyện, nói lên tinh
thần hòa hiếu, khát vọng hòa bình, căm ghét chiến tranh, chống lại phi nghĩa
của người dân hai nước. Điều này còn được thể hiện đậm nét, xuyên suốt ở
những sáng tác giai đoạn sau.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống bọn thực dân Pháp xâm lược,
Nguyễn Huy Tưởng cũng đã kịp ghi lại những biến cố lớn, những thời khắc
73
trọng đại của lịch sử trong nhiều tác phẩm với quy mô phản ánh rộng, xây
dựng được hình tượng các nhân vật điển hình đại diện cho tâm tính, số phận
của cả một cộng đồng. Trở về với hiện thực cuộc sống chiến tranh, Nguyễn
Huy Tưởng có mặt ở hầu khắp những trận đánh lớn, trực tiếp gặp những nhân
chứng lịch sử, cần mẫn tìm tòi, sưu tầm tư liệu, vì thế những trang văn của
ông vừa truyền tải được không khí, âm hưởng thời đại, vừa được bao phủ bởi
màn sương quá khứ, vừa gần, vừa xa, vừa chân thực, giản dị nhưng cũng rất
đỗi thiêng liêng, oai hùng.
Như vậy, có thể nói lịch sử dân tộc là nguồn cảm hứng chủ đạo, là đề
tài trung tâm trong sáng tác của nhà văn. Những thăng trầm của lịch sử nước
nhà đã tác động mạnh đến cảm quan sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Qua
những sáng tác đó, nhà văn muốn truyền đến cho người đọc niềm tin, lòng tự
hào, tự tôn dân tộc, bồi đắp cho thế hệ trẻ tình yêu quê hương, đất nước. Lịch
sử dân tộc là lịch sử của những cuộc đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc, vì thế khi viết
về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng dù ở ngôi kể thứ nhất hay ngôi kể thứ ba,
người kể chuyện trong sáng tác của ông vẫn là người đồng hành và chứng
nhân của lịch sử. Ý thức về sự vận động lịch sử, về bước đi khốc liệt của thời
gian qua số phận con người cá nhân cũng như số phận dân tộc đã khiến cho
cách nhìn nghệ thuật của tác giả thấm màu thời gian, giọng điệu kể chuyện
của nhà văn trở nên thâm trầm, cổ kính.
3.1.2.2. Người kể chuyện hướng đạo
Bên cạnh cảm quan lịch sử trong cách kể của Nguyễn Huy Tưởng, ta
còn nhận thấy khá rõ quan điểm giáo dục đạo lý trong cách kể, cách dẫn
truyện của ông. Chúng tôi dùng khái niệm “hướng đạo” để xác định tính chất
và động cơ tự sự của nhà văn trong các sáng tác viết cho thiếu nhi, với nội
dung định hướng đạo đức, giáo dục nhân cách tuổi trẻ. Có thể thấy rõ tính
định hướng đạo đức này ở Nguyễn Huy Tưởng nổi trội hơn nhiều so với tác
74
giả Tô Hoài. Truyện của Nguyễn Huy Tưởng giản dị, chân thành, gần gũi như
chính cuộc đời, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ để lại cho các em
niềm thích thú, say mê, nhen nhóm và truyền cho các em lòng tự hào dân tộc,
yêu quê hương, đất nước.
Là nhà văn cách mạng, theo sát từng bước đi của kháng chiến, gắn bó
mật thiết với nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng ý thức rõ về thiên chức của người
nghệ sĩ với quan niệm tiến bộ “Phàm văn chương mục đích thứ nhất là để dạy
dỗ thiếu niên… cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm lòng bồng bồng,
bột bột, mà vẫn biết lẽ phải, và biết thương nhau” [17, tr. 107]. Vì thế khi viết
truyện cho thiếu nhi, nhà văn rất nhạy cảm, tinh tế trong việc lựa chọn đối
tượng phản ánh, khơi gợi được trong các em những tình cảm trong sáng, vị
tha, học tập những tấm gương anh hùng cách mạng để sống, học tập xứng
đáng với kỳ vọng của người đã ngã xuống, của gia đình, nhà trường, xã hội.
Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, mỗi hành động nhỏ, có ích của
các em đều góp phần làm cho quê hương thêm tươi đẹp.
Viết cho lứa tuổi măng non, Nguyễn Huy Tưởng còn mang đến cho các
em những câu chuyện cổ tích thần kì, những xứ sở thần tiên. Nhưng thấp
thoáng và ẩn sâu sau những chi tiết li kì, kì ảo, bạn nhỏ có thể bắt gặp những
hình ảnh, con người trong câu chuyện ở ngay giữa cuộc đời. Tìm mẹ là truyện
cổ tích xuất sắc, hấp dẫn nhiều thế hệ bạn đọc bởi tính nhân văn và truyền
thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta: ác giả, ác báo; ở hiền gặp lành… Ngay
vào đầu câu chuyện, người đọc bắt gặp cái tên của hai nhân vật chính thật đặc
biệt: thằng Nhà và con Gạo:
Có nhà để ở, có gạo để ăn, đó là ước muốn cháy bỏng ngàn đời của cha
ông, và dường như đến nay câu chuyện ấy vẫn là khát vọng, mong ước không
dễ thực hiện với bao người. Truyện kể thằng Nhà và con Gạo có hoàn cảnh
khốn khó, phải sống dưới sự cai trị của chúa làng gian ác. Hai anh em phải
75
trải qua biết bao gian truân, khổ cực: lạc mất mẹ, đói khát, rơi vào nanh vuốt
hổ. Nhưng được sự giúp đỡ của Rận, Đại bàng, các em đã tìm thấy mẹ, được
trở về mái ấm gia đình với mong ước nhỏ nhoi, bình dị: “Trở về làng từ nay
có nhà có gạo, có mẹ, có con. Con ơi con ngủ cho ngoan…”. Câu hát à ơi của
người mẹ vang lên khi kết thúc truyện chứa đựng bao tình cảm thiết tha, lòng
yêu con vô bờ với khát vọng về một tương lai no ấm, sum vầy. Tìm mẹ xứng
đáng được xếp vào một trong những truyện viết cho thiếu nhi xuất sắc nhất,
một đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam. “Tìm mẹ của Nguyễn Huy
Tưởng chỉ có vài chục trang, Đàn chim gáy của Tô Hoài chỉ mấy chục dòng,
nhưng đều lớn và đẹp” (Nguyên Ngọc). Sức hấp dẫn của Tìm mẹ toát ra từ nội
dung tràn đầy tính nhân văn, cách kể chuyện độc đáo, thú vị, gây bất ngờ, lối
viết ngắn gọn, rõ ràng, “Ông viết kỹ từng câu, chọn từng từ, nương nhẹ như
với những cánh hoa” (Nguyên Ngọc).
Sau Tìm mẹ phải kể tới Con Cóc là cậu ông Giời, và đặc biệt là Cô bé
gan dạ - một câu chuyện mới được phát hiện, in trong tủ sách Hoa Xuân được
Nguyễn Huy Tưởng viết vào những năm 1940 của thế kỷ trước khi ông tham
gia phong trào Hướng đạo. Truyện kể về một cô bé gan dạ đã vượt lên sự ngu
muội, mê tín của dân làng khi ông tiên chỉ cho biết thần làng báo mộng mỗi
tháng phải nộp một con lợn sống nhớn, và mỗi năm phải cống nộp một người
con gái tân. Làng Thần Quyết hai mươi năm nay phải sống trong khủng bố, đe
dọa với tâm lí nơm nớp lo sợ. Năm nay, cô Thứ con gái cụ Trương Nghiêm -
một gia đình khốn khó tới lượt phải nộp mạng cho hung thần. Nhưng trái với
tâm lí sợ sệt của thầy u, dân làng, cô Thứ không hề run sợ, không sợ đối mặt
với cái chết, cô chỉ thương cha mẹ già không ai chăm nom, lo liệu sớm hôm.
Với bản lĩnh cứng cỏi, trí thông minh, tinh thần dũng cảm, cô Thứ trước lúc
đi vào cõi chết chỉ xin thầy u một điều hãy rèn cho cô hai con dao thực sắc để
nàng quyết sống chết với con ác thú. Không tin vào những tin đồn nhảm, cô
76
Thứ linh cảm và biết chắc trong hang động không có thần thánh nào tác oai
tác quái mà chỉ có con thú dữ ăn thịt người. Nguyễn Huy Tưởng bằng tài quan
sát, miêu tả, nghệ thuật kể chuyện, dẫn dắt độc đáo, khéo léo đã tái hiện rõ
cuộc chiến giữa người và ác thú, giữa chính nghĩa với tàn bạo, hủ tục. Cuộc
vật lộn, tấn công giữa một bên là người con gái trẻ đẹp, đơn độc với một bên
là con cá sấu dũng mãnh, phi thường được miêu tả chi tiết, gay cấn. Cuối
cùng, bằng tài năng, nghị lực và niềm tin vào cái thiện sẽ chiến thắng, cô Thứ
đã giải được cơn u mê, diệt trừ mối tai họa cho dân làng, được nhân dân kính
phục, ngưỡng mộ.
Với Cô bé gan dạ, Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ rõ tài năng và nghệ
thuật viết truyện cho thiếu nhi bậc thầy, bởi trong văn ông luôn đầy ắp chất
thơ của cuộc đời, chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình
thương yêu đồng loại. Đúng như những nhận xét của nhà văn Phạm Hổ:
“Trong câu văn của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta không bao giờ thấy lộ ra
bóng dáng của điều ác mặc dù anh có miêu tả kẻ ác với tất cả lòng căm ghét -
nhưng căm ghét không có nghĩa là ác. Nói rõ hơn: điều ác không có ở trong
lòng anh. Văn anh là yêu thương, là đầm ấm, là bao dung… Rõ ràng đọc
Nguyễn Huy Tưởng, càng thấy yêu văn và càng thấy yêu người” [7, tr. 112].
Nguyễn Huy Tưởng viết lại truyện cổ tích Tấm Cám - một truyện cổ
tích kinh điển, đã lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm lịch sử. Đây
không phải là một tác phẩm “giả cổ tích” hay “cổ tích hiện đại” mà thực sự là
một cổ tích viết lại, tái tạo một cách nghệ thuật. Từ một cốt truyện truyền
miệng, “phi ngã”, nhà văn đã ít nhiều cá thể hóa nhân vật, hư cấu một cách
sáng tạo. Một số chi tiết thú vị trong truyện mang dấu ấn chủ thể nhà văn
chuyên nghiệp. Ở cuối tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng không để cho Tấm tự
tay giết và làm mắm Cám mà bổ sung thêm một số chi tiết mới với những
sáng tạo hợp lí mang tính nhân văn. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy
77
Tưởng viết: “Cám nghĩ thầm rằng muốn tranh ngôi hoàng hậu, tất phải được
vua yêu, mà muốn được vua yêu, tất mình phải đẹp hơn Tấm bội phần. Cám
soi gương thấy mình vẫn đen, vẫn xấu. Đương băn khoăn thì có một người
cung nữ già đi qua. Người cung nữ thấy Cám có vẻ suy nghĩ bèn hỏi duyên
cớ. Cám kể hết nỗi riêng. Người cung nữ già vốn vẫn ghét Cám vì thường bị
Cám hành hạ, nay được dịp báo thù bèn bảo rằng: Không khó gì, lệnh bà
muốn đẹp thì ngồi xuống một cái hố sâu, rồi cho một người dội một thùng
nước thực sôi từ đầu đến gót. Tắm nước sôi xong, lệnh bà cũng trắng hơn
tuyết và đẹp hơn tiên.
Cám mừng lắm, sai lính đào ngay một cái hố và nấu một nồi nước thực
sôi. Cám ngồi xuống hố, sai người dội nước cho mình tắm. Nhưng vừa dội
được nửa nồi nước sôi bỏng thì Cám đã nhăn răng ra chết” [24, tr. 65 - 66].
Tiếp diễn câu chuyện được kể: “Bọn cung nữ và lính tráng từ xưa ai ai
cũng thâm thù Cám. Họ ghét cả bà mẹ Cám, vì bà này hay vào cung ton hót
cho con gái và xui Cám đánh đập mọi người. Bởi thế họ bàn nhau đem Cám
làm mắm và đưa về biếu người dì ghẻ độc ác, nói là của vua và Tấm ban cho.
Người dì ghẻ tưởng là mắm ngự thực, ăn lấy ăn để.
Trong lúc người đàn bà cay nghiệt kia ăn mắm thì một con quạ khoang
ở đâu bay đến đậu trước thềm, chõ mỏ vào trong nhà cất tiếng kêu rùng rợn
rằng: “Ngon ngỏn ngòn ngon, ăn thịt con có còn, cho xin một miếng.
Người dì ghẻ tức giận chồm lên, tay cầm một cái sào xua đuổi con quạ
và chửi rủa ầm ĩ. Nhưng ít lâu ăn gần hết mắm, …;bấy giờ mới biết là con quạ
khoang nói đúng. Bà ta hét lên một tiếng, ngã vật ra, chết ngay lập tức” [24,
tr. 66].
Có thể khẳng định rằng với 20 năm sáng tác, thành công trên nhiều thể
loại, nhất là thể loại viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại một dấu
ấn không thể phai mờ trong lịch sử văn học dân tộc, người mở đường dẫn lối,
78
người truyền lửa, xây đắp cho nền văn học thiếu nhi của nước ta ngày càng
vững mạnh. Cuộc sống không ngừng vận động, lớp công chúng mới xuất hiện
với những đòi hỏi cao về nhu cầu thưởng thức những món ăn tinh thần phù
hợp với tâm lí thời đại. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đặt ra cho đội ngũ
văn nghệ sĩ cần phải có những thay đổi, những nỗ lực cách tân để làm phong
phú đời sống văn học nước nhà, gieo mầm nhân cách, thắp sáng lí tưởng sống
cho đông đảo công chúng yêu văn chương.
Văn học thiếu nhi là một bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống
văn học dân tộc. Nhưng hiện nay khoảng trống về những tác phẩm viết cho
tuổi thơ ngày càng khó lấp đầy. Vì vậy trở về với quá khứ, học tập những thế
hệ đi trước, trong đó có những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng để phát huy
là hướng đi bổ ích. Cuộc sống dù bộn bề, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn
nhưng những câu chuyện trong sáng viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy
Tưởng vẫn được bạn đọc nhỏ tuổi đón nhận, trân trọng, nâng niu, bởi đó là
món quà, là viên ngọc vô giá mà ở đó các em có thể soi vào để thấy lịch sử
hào hùng, vĩ đại của dân tộc, để tâm hồn luôn trong sáng, thánh thiện.
3.2. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Tƣởng.
3.2.1. Khái lược ngôn ngữ kể chuyện.
Ngôn ngữ của người kể chuyện tập trung ở lời người kể chuyện. Nó
bao gồm phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con người; bao gồm
cả lời dẫn thoại; lời văn trữ tình. Lời người kể chuyện thường mang tính
khách quan hơn so với lời nhân vật, nó có nhiệm vụ làm nền cho sự xuất hiện
của câu chuyện và của lời nhân vật, là mối dây liên kết các yếu tố của tổ chức
tác phẩm. Lời người kể chuyện là thành tố quan trọng trong ngôn ngữ kể
chuyện, nó chiếm một tỷ trọng lớn trong lời văn nghệ thuật toàn tác phẩm.
Ngôn ngữ kể chuyện trong tác phẩm sự sự, cùng với sự tồn tại của
ngôn ngữ nhân vật, còn có cả ngôn ngữ người kể chuyện và nó chiếm một vị
79
trí hết sức quan trọng trong tác phẩm. Nó đóng vai trò tổ chức và chỉ đạo đối
với ngôn ngữ toàn tác phẩm, nó là phương tiện để bộc lộ chủ đề và tư tưởng
tác phẩm, để khắc họa đặc điểm, bản chất của tính cách, để dẫn dắt quá trình
phát triển của cốt truyện, để thực hiện nhiệm vụ kết cấu tác phẩm; đồng thời
nó tác động đến thái độ của người đọc đối với đối tượng đang được miêu tả
trong tác phẩm.
3.2.2. Ngôn ngữ trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng
Trong sáng tạo văn chương, ngôn ngữ có vai trò quan trọng, là chất liệu,
là phương tiện đặc trưng của văn học…Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà
văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố
xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm; có lẽ vì thế
M .Gorki viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của
nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn
học” [2, tr. 206].
Với người nghệ sĩ, việc sáng tạo, sử dụng linh hoạt ngôn ngữ có vai trò
quan trọng, quyết định đến sự thành công của tác phẩm. Đây cũng là yếu tố
tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn và để lại ấn tượng cho người đọc. Qua một đoạn
văn, bạn đọc có thể nhận biết được tác giả của nó là ai, nhờ vào những tín
hiệu ngôn ngữ, giọng điệu toát lên từ những câu từ của đoạn văn đó. Vì
“Những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm về
giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ
vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những tác phẩm
ấy.” [9, tr. 297]. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt của ngôn ngữ trong sáng tạo
văn chương, và cũng có thể nói, mỗi nhà văn lớn đều là những bậc thầy của
ngôn từ.
Ở thể loại truyện viết cho thiếu nhi, nhất là truyện cổ tích, điểm nổi bật
là giọng văn đầm ấm tràn đầy tình thương. Trong Tìm mẹ, ngay mở đầu câu
80
chuyện tác giả đã gợi ra tình cảnh đáng thương của một gia đình nông dân
nghèo, quanh năm phải làm thuê kiếm sống cho chúa làng. Mong ước bình dị
của họ gửi gắm vào những đứa con thơ qua cách đặt tên con thật giản dị mà ý
nghĩa: “Thôi, đặt tên cho nó là Nhà để nó sau này nó có cái nhà trú mưa trú
nắng” … thôi, đặt tên cho nó là Gạo để nó sau này nó còn có hột gạo mà ăn”
[24, tr. 67].
Và trong các câu chuyện khác như Thằng Quấy, Cô bé gan dạ… sau khi
miêu tả cuộc xung đột giữa cái thiện với cái ác, giữa những người nông dân
hiền lành, thấp cổ bé họng với bọn cường hào ác bá, những tên chúa làng, nhà
văn khẳng định sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, người hiền lành, lương
thiện sẽ có cuộc sống đầm ấm, sum vầy. Vì vậy, viết về “những mơ ước ngàn
đời” của người dân lao động xưa, về thế giới của tuổi thơ bất hạnh nhọc nhằn
nhưng dũng cảm, mưu trí, gan dạ, nhà văn thường chọn lựa những câu văn
nhẹ nhàng với giọng điệu đầm ấm tràn đầy tình yêu thương.
Với đối tượng hướng tới là thiếu nhi, hình tượng nhân vật chính tuổi
còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt chú ý đến việc sử dụng câu chữ, ngôn từ
để làm nổi bật hình tượng nhân vật, phù hợp với năng lực, trình độ và tâm lí
tiếp nhận của bạn đọc. Lá cờ thêu sáu chữ vàng với những câu văn trang
trọng, trong sáng, gợi không khí thời đại, vừa giản dị, gần gũi, giàu chất thơ
như: “Con đi phen này đã thề sống chết với giặc. Bao giờ đất nước thanh
bình, bốn phương bể lặng trời im con mới trở về. Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn
vàng để cho con được yên lòng xông pha trận mạc” [25, tr. 116], đã gieo vào
lòng người đọc niềm tự hào về những trang anh hùng của dân tộc. Viết về lịch
sử trong quá khứ với độ lùi khá xa về không - thời gian, Nguyễn Huy Tưởng
đã rút ngắn khoảng cách đó, đưa lịch sử trở về gần với cuộc sống hiện tại
bằng lớp từ vừa cổ kính, trang nghiêm, vừa giản dị, đời thường.
81
Thế mạnh của từ Hán Việt là tính gợi hình, tạo âm hưởng, nhịp điệu cho
câu văn, vì thế khi miêu tả các trận đánh lớn, hay khi khắc họa vẻ đẹp ngoại
hình của các tráng sĩ, Nguyễn Huy Tưởng đã vận dụng có hiệu quả lớp từ này.
Tiêu biểu có thể kể tới những đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của các nhân vật lịch
sử như Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc
Tuấn, Quang Trung…Việc vận dụng sáng tạo từ ngữ Hán Việt góp phần quan
trọng trong việc làm nổi bật phẩm chất, tính cách nhân vật, đồng thời tạo
không khí sử thi, sắc màu lịch sử, thời đại cho tác phẩm.
Với ngôn ngữ trong sáng, ấm áp, đôn hậu giàu tình thương, lối kết cấu
quen thuộc, giản dị với hai tuyến nhân vật song song tồn tại, có sự đấu tranh
quyết liệt giữa cái thiện và cái ác đã tạo nên sức hấp dẫn lớn cho những câu
chuyện viết cho tuổi thơ. Đánh giá về những tác phẩm viết cho thiếu nhi của
Nguyễn Huy Tưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Trong văn học
cho thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây giờ chưa ai
chuyên và đã thành công như Nguyễn Huy Tưởng… Truyện Con Cóc là cậu
ông Giời, truyện Tìm mẹ, truyện An Dương Vương xây thành Ốc, những
truyện cổ tích vừa lạ lùng xanh biếc, vừa mênh mông những tưởng tượng kỳ
ảo mà trong đó chứa chất cả một kho vàng ngọc những tình cảm yêu thương,
những lòng tin, những chí khí dời núi lấp biển của người Việt Nam, của
truyền thống Việt Nam.” [16, tr. 317] và “Ngòi bút của ông thấm đượm tình
yêu thương của một người cha, người ông. Ông viết kỹ từng câu, chọn từng
từ, nương nhẹ như với những cánh hoa.” [16, tr. 153]
Ngôn ngữ vừa thân tình, mang tính đối thoại trực tiếp đó là đặc điểm
nổi bật trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ . Với cách kể chuyện tự nhiên, dung
dị, Nguyễn Huy Tưởng đã dẫn dắt người đọc đến bất ngờ này đến bất ngờ
khác, sự kiện, chi tiết gây xúc động mạnh. Với các đối tượng khác nhau như
nói với đồng chí bí thư, với bọn Việt gian, với bọn quan tây và với mẹ của
82
mình, ngôn ngữ được tác giả diễn tả phù hợp với tình cảm và hoàn cảnh trong
truyện.
Khi nghe đồng chí bí thư chi bộ rỉ tai nói: “Đây là lúc thử thách lòng
trung thành của chúng ta đối với Đảng, với nhân dân. Chúng ta được nhân
dân tin cậy hay không, chính là ở những lúc gian khổ này. Cốt nhất là thắng
được cái đau đớn lúc đầu.” Bẩm hỏi làm thế nào chịu được đau đớn. Đồng chí
nói: “Cứ nhớ những lời đã thề trước lá cờ Đảng.” [24, tr. 153]. Nghe đối thoại
giữa đồng chí bí thư và Bẩm chúng ta không hết xúc động với tình cảm chân
thành và nghiêm khắc với đồng chí mình, câu hỏi của Bẩm đối với đồng chí
bí thư làm thế nào chịu được đau đớn, được đồng chí bí thư trả lời rất ngắn
gọn và cũng là lời chỉ bảo của đồng chí, của tổ chức đảng đối với mình. Chính
những điều đó, mà Bẩm đã vượt qua mọi sự tra tấn dã man của kẻ thù, vượt
qua sự đau đớn tột cùng về thể xác con người. Nhờ vậy Bẩm đã chiến thắng
chính bản thân mình để bảo vệ bí mật hoạt động cho tổ chức mà đồng chí bí
thư căn dặn trước khi bị địch tra tấn.
Khi đối đáp trực tiếp với bọn Việt gian. Anh bảo thằng Việt gian: “Các
anh muốn nói gì thì nói. Tôi có biết gì đâu mà khai báo” [24, tr. 156]. Câu nói
của Bẩm thật dứt khoát làm bọn Việt gian không còn cách nào để khai thác từ
Bẩm. Ý chí lòng quyết tâm vượt qua nỗi đau về thể xác cùng ý kiến kiên
cường của anh làm bọn Việt gian phải chịu thua, không khai thác được gì sau
những cực hình mà chúng tra tấn Bẩm, cũng như đối với đồng chí bí thư. Tinh
thần yêu nước, sự đấu tranh kiên trì đã giúp Bẩm vượt qua những thời khắc
gian khổ.
Trải qua bao thử thách khó khăn, Bẩm trở đã sống và trở về quê nhà.
Cảnh đối thoại trực tiếp với hai mẹ con thật xúc động, không cầm được nước
mắt, thẫm đẫm tình cảm của hai mẹ con, của quê hương trong đó. Những
đoạn văn và ngôn ngữ đầy ý nghĩa này cho chúng ta thấy được tình cảm gắn
83
bó giữa con người với con người, giữa người mẹ và người con hơn lúc nào
hết và không gì so sánh được. Đượm tình thương và giàu sức biểu cảm thật
trân trọng những từ, câu và trang viết của Nguyễn Huy Tưởng đã đem lại cho
chúng ta, các em thiếu nhi những tấm gương kiên trung chiến thắng kẻ thù dù
trong chông gai, gian khó. Tiêu biểu nhất ở đây là tình huống thử thách cam
go nhất mà nhân vật Bẩm phải trải qua trước sự tin tưởng của đồng chí Bí thư
chi bộ.
Khi viết về chiến thắng Điện Biên ( trong Điện Biên Phủ của chúng
em) tác giả chú trọng thông tin sự kiện, không thi vị hóa kiểu Tô Hoài. Ông
đã sử dụng ngôn ngữ kể rất gần gũi như chính là người trực tiếp dẫn dắt các
bạn nhỏ đi thăm lại Điện Biên Phủ. Và ở truyện này, tác giả đặc biệt chú
trọng đến thông tin các sự kiện gợi lại những mốc lịch sử, nhân vật anh hùng
chấp nhận hi sinh cá nhân để đem lại chiến thắng cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc trong truyện từ tuyến đường, tên các nhân vật anh hùng và các trận
đánh ác liệt.
Có đoạn tác giả viết: “Có hai con đường chính ô tô đi được. Đường số
13, từ Yên Bái đi, qua Than Uyên, Nghĩa Lộ, Quang Huy rồi bắt sang đường
số 41. Hồi tôi lên Tây Bắc thì đi con đường chính thứ hai trước gọi là đường
số 41, nay đổi là đường số 6. Từ Hà Nội đi qua Hòa Bình, suối Rút, Mộc
Châu, Yên Châu, Nà Sản, Sơn La, Thuận Châu – thủ phủ tạm thời của Khu tự
trị. Từ Thuận Châu qua đèo Pha Đin tới Tuần Giáo và đi Lai Châu. Ở Tuần
Giáo có một con đường rẽ dài 80 ki-lô-mét, gọi là đường số 42. Đấy là con
đường vào Điện Biên”. [25, tr. 61].
Những con đường đã gợi lên trong tâm trí chúng ta những ngày hành
quân lên kháng chiến tại Điện Biên bao khó khăn, vất vả phải trả bằng xương
máu của các chiến sĩ. Một câu chuyện được tác giả kể lại thật xúc động, sự hi
sinh cao cả của các anh bất chấp mọi gian khó, hi sinh tính mạng của mình để
84
phục vụ cuộc kháng chiến: “Đêm ấy, họ vượt qua chặng đường đi. Vì thế gạo
tới Điện Biên Phủ vừa kịp lúc một số đơn vị xung kích đã phải nhịn đói nửa
ngày. Nhưng các em ơi! Đồng chí cán bộ ấy thì sao? Tờ mờ sáng, khi toán
dân công cuối cùng vừa đi khỏi, đồng chí sắp bước theo thì bom nổ. Đoạn
đường ấy là nơi yên nghỉ của người anh hùng lặng lẽ ấy!”. [25, tr. 65].
Các địa danh và các anh hùng được gắn với lịch sử của các trận đánh
Him Lam, ghi mãi hình ảnh của người anh hùng Phan Đình Giót, người đã lấy
thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng chí mình tiến lên tiêu diệt địch. Tô Vĩnh
Diện lấy thân mình chèn pháo, cả thân mình bị nát nhừ. Tấm gương hi sinh
của anh cùng biết bao đồng đội khích lệ tinh thần chiến đấu của bộ đội ta tại
chiến trường.
Những trận đánh ác liệt đều được kể lại rất cụ thể như đang hiện ra
trước mắt mình, làm cho người đọc được sống trong tinh thần của Điện Biên.
Các vị trí chiến đấu ác liệt trên đồi A1 đã nói lên sự chiến đấu dũng cảm:
“Trên đồi A1, chúng ta dựng lên một đài liệt sĩ. Dưới chân đài ấy, còn lại xác
một xe tăng 18 tấn, giáp sắt của nó bị lỗ chỗ vết đạn. Một bông hoa rừng mọc
trên xích sắt đã gỉ... Xung kích ào ào tiến lên và buổi sáng hôm sau thì giải
quyết hoàn toàn đồi A1” [25, tr. 78]. Quyết giành giật từng mét đất, sự hi sinh
để chiến thắng kẻ địch, chiến thắng đó là niềm khích lệ to lớn để giải phóng
Điện Biên.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên đi vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Các trận đánh, địa điểm ác liệt xưa giờ đã được bàn tay các anh xây
dựng lại trên mảnh đất đã thẫm đẫm xương máu của đồng đội mình. Sự thay
đổi mới tại Điện Biên là điều kiện để cả vùng Tây Bắc nước ta thành một khu
vực văn minh và sung túc trong hòa bình. Mỗi ngày càng một đổi mới tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
85
Với truyện viết về đề tài lịch sử cho thiếu nhi, tác giả dùng ngôn ngữ và
giọng điệu kể chuyện thay đổi theo đối tượng, theo đề tài vừa thâm trầm vừa
trang trọng như Lá cờ thêu sáu chữ vàng lại kể về sự kiện giặc Nguyên Mông
sang xâm lược nước ta lần thứ 2 (năm 1285). Vua quan, binh lính, nhân dân
thời Trần đều đứng lên đánh giặc. Đây là giai đoạn lịch sử hào hùng với hào
khí Đông A tỏa sáng. Trần Thủ Độ với câu nói bất hủ: “Đầu tôi chưa rơi
xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, Trần Bình Trọng với câu trả lời đanh thép: “Ta
thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”, Trần Hưng Đạo
với câu nói nổi tiếng: “Xin bệ hạ trước hãy chém đầu thần đi đã rồi hãy ra
hàng”; những người lính tự thích vào vai hai chữ “Sát Thát” với lời thề thiêng
liêng sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc; những người dân cùng đồng lòng
“Đánh. Thưa, chỉ có đánh” khi được vua Trần hỏi ý kiến… Trần Quốc Toản
là một thiếu niên chưa đầy mười sáu tuổi, bằng những việc làm cụ thể góp sức
mình bảo vệ non sông.
Song song với Lá cờ thêu sáu chữ vàng là tác phẩm Kể chuyện Quang
Trung. Tác phẩm ngợi ca sức mạnh thần tốc của đoàn quân áo vải Tây Sơn
với hình ảnh cao đẹp, hùng dũng, uy phong của người anh hùng Quang Trung
- Nguyễn Huệ. Miêu tả những trận đánh vũ bão, câu văn Nguyễn Huy Tưởng
cũng nhanh, mạnh, gấp gáp, phản ánh không khí thời cuộc và ý chí quyết tâm,
tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của quân dân, đã đánh bại quân
Thanh, dẹp yên tập đoàn Lê Chiêu Thống.
Viết về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng không lệ thuộc máy móc vào các
những sự kiện mà luôn tinh nhạy, biết nảy ra trong vô vàn những chi tiết, sự
kiện lịch sử, những tình huống, câu chuyện đặc sắc, gợi mở nhiều thú vị để
gây dựng, bồi đắp, tổ chức, sắp xếp thành một tác phẩm hoàn chỉnh, giúp trẻ
thơ tiếp cận một cách dễ dàng lịch sử, hiểu lịch sử, để từ đó thêm yêu, thêm
86
quí lịch sử nước nhà. Đó là những thành tựu và đóng góp to lớn của Nguyễn
Huy Tưởng cho văn học thiếu nhi Việt Nam.
*
Tiểu kết: Viết cho thiếu nhi với nghệ thuật trần thuật nhà văn, Nguyễn
Huy Tưởng đã hướng vào một giá trị đó là tình yêu quê hương, đất nước,
gương người tốt việc tốt, tổ quốc và lịch sử hào hùng của dân tộc kể cả có di
chuyển điểm nhìn trần thuật ở các ngôi khác nhau từ ngôi thứ nhất sang ngôi
thứ ba những hình ảnh trung tâm vẫn là những giá trị to lớn ấy. Cùng với
nghệ thuật di chuyển điểm nhìn đã nêu trên với ngôn ngữ linh hoạt được tác
giả sáng tạo trong các truyện đã đem lại thành công cho tác giả, tạo được sức
hấp dẫn, lôi cuốn cho bạn đọc nhỏ tuổi. Điều đó cho thấy được ngôn ngữ có
vai trò quan trọng và đặc biệt hơn nữa là ngôn ngữ mà nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã dành cho lớp tuổi măng non là đầm ấm và giản dị trong từng câu
chuyện, đó chính là sáng tạo đặc sắc nhất của nhà văn./.
87
KẾT LUẬN
Trong văn xuôi tự sự, tác giả “tư duy bằng nhân vật”. Nói đến thi pháp
văn xuôi trước hết là nói đến kiểu nhân vật với những đặc trưng kiến tạo và
nghệ thuật xây dựng đặc thù của mỗi nhà văn. Xuất phát từ quan điểm nghệ
thuật tiến bộ nên khi viết với cảm hứng ngợi ca hay phê phán thì truyện viết
cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng đều là những câu thấm thía về những
con người cụ thể của Tổ quốc thân yêu. Yêu nước và yêu lịch sử là hai phẩm
chất nổi bật, hòa quyện trong con người và văn chương Nguyễn Huy Tưởng.
Hướng về lịch sử để phản ánh miêu tả, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được
một hệ thống nhân vật đa dạng từ những con người đã đi vào lịch sử như các
bậc quân vương, tướng sĩ đến những nhân vật nhỏ bé, bình dân trong cuộc
sống đời thường. Tất cả hiện lên một cách sinh động, mỗi nhân vật đều mang
gương mặt, bóng dáng của lịch sử, phù hợp với hoàn cảnh, tầng lớp xuất thân,
lại vừa có những nét giản dị thường ngày. Nhân vật trong sáng tác của nhà
văn luôn được đặt trong môi trường đầy thử thách, trong những mối quan hệ
đa chiều, trước những lựa chọn nghiệt ngã giữa sự sống - cái chết, tự do - nô
lệ, cao cả - thấp hèn. Không giống với nhân vật trong sáng tác của Nam Cao
phải vật lộn với đời sống cơm áo gạo tiền để tồn tại hay những nhân vật tôn
sùng chủ nghĩa xê dịch, đối lập với cuộc đời để khẳng định chất tài tử, chất
ngông trong những trang văn Nguyễn Tuân, nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng
mang hình bóng những anh hùng thời đại, số phận của họ được đặt trong mối
tương quan với vận mệnh dân tộc, vừa mang những nét chân thực lịch sử vừa
mang tính điển hình, khát quát. Đó là những con người có lý tưởng, hoài bão
cao đẹp với khát vọng được cống hiến, sáng tạo, được hy sinh cho độc lập dân
tộc và sự trường tồn, bất diệt của văn hóa nước nhà. Dù nhân vật chính trong
truyện Nguyễn Huy Tưởng là nhân vật thiếu nhi hay nhân vật của thế giới loài
vật tự nhiên, tính chất loại hình thi pháp của chúng cũng bộc lộ một cách
88
thống nhất, đúng theo kiểu Nguyễn Huy Tưởng: mực thước, quy chuẩn mà
vẫn trong sáng, hồn nhiên, đậm chất trữ tình.
Là cây bút chép sử bằng văn chương, Nguyễn Huy Tưởng đã đem đến
cho người đọc cách nhìn, cách tiếp cận độc đáo về lịch sử. Khai thác lịch sử,
Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn những thời điểm trọng đại, đầy biến cố khi cả
dân tộc phải đương đầu chống chọi với giặc ngoại xâm. Tôn trọng sự thật lịch
sử đến từng chi tiết nhưng không quá lệ thuộc vào các tư liệu lịch sử mà có
những hư cấu, sáng tạo hợp lí đảm bảo được tinh thần lịch sử - thời đại. Vì thế
những tác phẩm viết về triều đại rất xa nhưng người đọc lại có cảm giác rất
gần. Hiệu ứng thẩm mĩ ấy nhờ vào năng lực tổ chức, kết cấu tác phẩm vừa cổ
điển vừa hiện đại, phản ánh hiện thực trong quy mô rộng mang âm hưởng thời
đại cùng giọng điệu trầm thống, bi hùng thấm đẫm trong nhiều thể loại.
Không cầu kì, trau chuốt như văn Nguyễn Tuân, không suy tưởng, triết luận
như văn Nguyễn Đình Thi, văn phong Nguyễn Huy Tưởng là thứ văn gợi sự
cổ kính, trang nghiêm, uyên thâm, lịch lãm song cũng rất dung dị, đời thường.
Thi pháp văn xuôi trước tiên là thi pháp của truyện kể, là nghệ thuật tự
sự, được hiểu như cách kể, lối kể của người kể chuyện trong văn bản. Nếu
như K. Andercen là “ người kể chuyện hay nhất châu Âu” thế kỷ 19, thì ở
Việt Nam thế kỷ sau, chúng ta cũng có những người kể chuyện hay nhất nước
Nam cho các em: Tô Hoài và Nguyễn Huy Tưởng. Dù kể về những truyện đã
chìm sâu trong quá khứ dân tộc hay về những con người sự kiện của đời sống
đương đại, lối kể của Nguyễn Huy Tưởng vẫn là lối kể cảm khái về lịch sử.
Người kể chuyện trong văn viết cho thiếu nhi của tác giả luôn là người nhìn
thế giới bằng nhãn quan lịch sử. Ông đọc được lịch sử ngay trong lát cắt đồng
đại, nhìn thấy cái hiện tại đang “nhú mầm”, biến thành lịch sử. Cảm hứng lịch
sử đã trở thành cảm hứng sáng tạo thường trực trong cách kể của ông. Có thể
khái quát: Người kể truyện Nguyễn Huy Tưởng là người kể chuyện lịch sử
89
đôn hậu, chân thành. Người kể chuyện đó cũng là người kể hướng đạo, mang
trọng trách của bậc huynh trưởng trong văn chương giáo hóa tuổi thơ.
Với những nỗ lực, cách tân trong sáng tác về đề tài lịch sử, ngay từ
kịch Vũ Như Tô, viết trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng đã
đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách riêng, độc đáo, từ cách nhìn,
cách tiếp cận và thể hiện những vấn đề về lịch sử. Nguyễn Huy Tưởng thường
suy nghĩ bằng lịch sử, trình bày lịch sử để chiêm nghiệm, nhận thức, đắm
mình trong cảm thức thời gian. Quan điểm thẩm mỹ và kiểu tư duy lịch sử
này đã tạo ra một phong cách nghệ thuật vững chãi và thi pháp tự sự nhất
quán trong văn chương viết cho người lớn lẫn văn học dành cho thiếu nhi.
Những đóng góp của ông cho nền văn học dân tộc là rất lớn trên cả hai
bình diện tư tưởng và nghệ thuật, và chắc chắn khi nhắc tới những gương mặt
tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại không thể không nhắc tới nhà văn,
nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng một cây bút chép sử bằng văn chương, nhà
văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa.
Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng với đánh giá: Người dẫn đầu gương
mẫu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam [18, tr. 231]./.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân chủ biên (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Phan Cư Đệ, Hà Minh Đức (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960),
Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức chủ biên (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2007), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Tô Hoài (1996), Lời giới thiệu "Truyện viết cho thiếu nhi" của Nguyễn
Huy Tưởng, Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Phạm Hổ (1982), Nguyễn Huy Tưởng và những truyện viết cho thiếu
nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
8. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
9. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. M. B. Khrapchenco (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người,
Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Phương Lựu chủ biên (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hòa, Thanh Thế Thái Bình đồng chủ biên (2012), Lí luận văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Phương Ngân tuyển chọn và biên soạn (2001), Nguyễn Huy Tưởng
khát vọng một đời văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
91
14. Đỗ Hải Phong (2004), Vấn đề nguời kể chuyện trong thi pháp tự sự
hiện đại, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
15. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
16. Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu (1997), Nguyễn
Huy Tưởng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Huy Thắng tuyển chọn và giới thiệu (2011), Nguyễn Huy
Tưởng một nhà văn Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
18. Nguyễn Huy Tưởng (2000), Về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
19. Nguyễn Huy Tưởng (2005), Tìm mẹ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
20. Nguyễn Huy Tưởng (2006), Nhật ký (3 tập), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
21. Nguyễn Huy Tưởng (2010), An Dương Vương xây thành Ốc, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
22. Nguyễn Huy Tưởng (2011), Cô bé gan dạ, Nxb Văn học và trung tâm
văn hóa, ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
23. Nguyễn Huy Tưởng (2012), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Nxb Kim Đồng,
Hà Nội.
24. Nguyễn Huy Tưởng (2015), Những truyện ngắn hay viết cho thiếu
nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
25. Tri Thức Việt (2012), Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, Nxb Văn học, Hà
Nội.
92