ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------

NGUYỄN HỮU NHẤT

THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2016 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------

NGUYỄN HỮU NHẤT

THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN HUY TƢỞNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận Văn học Mã số: 60.22.01.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS Phạm Thành Hƣng Hà Nội - 2016 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực

hiện dưới dự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thành

Hưng.

Các nội dung nghiên cứu và kết quả của đề tài này là trung thực và

chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.

Học viên Nguyễn Hữu Nhất

3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình với Phó Giáo sư,

Tiến sĩ Phạm Thành Hưng, người thầy đã định hướng và luôn quan tâm, tận

tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.

Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo trong Khoa Văn học, nhà

trường, gia đình và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận

văn thạc sĩ này./.

Học viên Nguyễn Hữu Nhất

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………………………………………….…. 3

1. Lý do chọn đề tài……................................................................ 3

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………… 4

3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu……………………. 8

4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………… 9

5. Cấu trúc của luận văn…………………………………………. 10

Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ

MẢNG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY

TƯỞNG……………………………………………………………….... 11

1.1. Khái lược về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy

Tưởng…………………………………………………………………... 11

1.1.1. Khái lược về thi pháp học.....………………………… 11

1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng....................................................................................................... 13

1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng……….... 15

1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng……...……… 15

1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng

trong dòng chảy văn học thiếu nhi………...…………………….. 20

Chương 2: THI PHÁP NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN…. 24

2.1. Thi pháp nhân vật…….…………………………………..…. 24

2.1.1. Khái niệm nhân vật………………………….……….. 24

2.1.2. Nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn

Huy Tưởng…..…………………………………………………... 25

2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi…….………………………...... 26

2.1.2.2. Nhân vật anh hùng……………………………….. 30

2.1.2.3. Nhân vật từ thế giới loài vật…….……………..… 37

1

2.1.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật: …………...…… 40

2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua hành động và xung đột….. 40

2.1.3.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình……………….. 43

2.1.3.3. Khắc họa nhân vật bằng mô tả và phân tích tâm

lý…………………………………………………………………. 45

2.2. Tổ chức cốt truyện…………………………………..……… 50

2.2.1. Khái niệm cốt truyện………………..………………... 50

2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện của Nguyễn Huy

Tưởng………………………………………………………….… 51

Chương 3: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN KỂ.…. 57

3.1. Người kể chuyện……..………………………….………….. 57

3.1.1. Khái lược về người kể chuyện…………...……….….. 57

3.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện thiếu nhi của

Nguyễn Huy Tưởng……...……………………………………… 58

3.1.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn

trần thuật trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng………………………………………………………….… 60

3.1.2. Người kể trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng…..…. 63

3.1.2.1. Người kể chuyện lịch sử…………………………. 63

3.1.2.2. Người kể chuyện hướng đạo……………………... 74

3.2. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Tưởng……...……… 79

3.2.1. Khái lược ngôn ngữ kể chuyện………………..……... 79

3.2.2. Ngôn ngữ truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng… 80

KẾT LUẬN…………….…………………………………………….… 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………… 91

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Với một di sản văn học phong phú, trải rộng trên khá nhiều lĩnh vực,

Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng là một đại diện xuất sắc của nền văn học Việt

Nam hiện đại. Ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, soạn kịch, cả kịch bản sân

khấu lẫn kịch bản phim. Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành công

nhất định. Với những đóng góp sáng tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã và

đang ngày càng thu hút được sự chú ý, tìm hiểu, lí giải, đánh giá không chỉ

trong giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trong nước, mà cả ở nước ngoài.

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đã dành trọn đời để sáng tác về các đề tài lịch

sử, kháng chiến, về thủ đô Hà Nội, nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nói đến

mảng văn chương mà nhà văn đã dành tâm huyết để viết cho tuổi thơ như:

Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến sĩ, Cô bé gan dạ, đặc biệt là những truyện lịch sử

như: An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu

sáu chữ vàng… đã góp phần tạo lập một “văn hiệu” thực sự đáng kính trọng

mang tên ông.

Ở mảng đề tài lịch sử trong các truyện viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy

Tưởng đã hướng các em vào những thời kỳ hào hùng, trọng đại trong lịch sử

chống ngoại xâm của dân tộc, mà ở đấy những người anh hùng đã viết nên

những bản anh hùng ca chói lọi, vang vọng mãi non sông Việt Nam. Dù đấy

là những câu chuyện kể về những người anh hùng thời kỳ trung cận đại như:

Quang Trung, Trần Quốc Toản, hay là thời kỳ cổ đại như An Dương Vương

… Tất cả hiện vẫn không thể nào phai mờ trong ký ức của người dân đất Việt.

Việc nghiên cứu về con người, sự nghiệp và những sáng tác của ông đã

có khá nhiều các công trình nghiên cứu. Ở đây chúng tôi có thể kể đến một số

tác giả như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phong Lê, Bích Thu, Tôn Thảo

Miên… hay những nhà văn nổi tiếng nhận xét về các tác phẩm của Ông như

3

Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyên Ngọc… Qua các công trình

nghiên cứu và bài viết phê bình đó chúng ta thấy được những thành quả và

đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học nước nhà qua các tác

phẩm kịch, tiểu thuyết đặc biệt là truyện viết cho thiếu nhi. Mặc dù vậy, cho

đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đi sâu vào tìm hiểu

đầy đủ toàn diện về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tưởng trong

truyện viết cho thiếu nhi. Để làm rõ những đặc điểm nổi bật trong thi pháp

văn xuôi tự sự của ông, xuất phát từ thực tế, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thi

pháp văn xuôi tự sự trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng”. Với đề tài này, thông qua sự lý giải những thành công của văn

xuôi thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng từ bình diện thi pháp tự sự, chúng tôi có

kỳ vọng được góp một phần nhỏ vào việc đánh giá chung và khẳng định tài

năng cùng những đóng góp của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Huy Tưởng được dư luận công chúng quan tâm như một tài

năng nghệ thuật ngay từ trước cách mạng tháng Tám, khi ông cho ra đời Vũ

Như Tô, An Tư công chúa. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu thực thụ về

Nguyễn Huy Tưởng phải được tính từ chuyên luận Nguyễn Huy Tưởng (1912-

1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966.

Trong công trình này các tác giả đã dành trọn chương Một để khảo sát sự

chuyển biến tư tưởng, con đường đến với văn chương và những bước đường

sáng tạo nghệ thuật của nhà văn từ một thanh niên yêu nước phấn đấu trở

thành một nhà văn cộng sản trên mặt trận văn nghệ. “Con đường đi của anh

không phải là thẳng tắp, dễ dãi. Có lúc anh bi quan, dao động, có lúc lòng tin

của anh bị lung lay nhưng nói chung con người đôn hậu, trung thực và đầy ý

thức trách nhiệm đó luôn luôn hướng về chân lý, hướng về Đảng. Ngòi bút

của anh lúc nào cũng đứng ở hàng đầu của cuộc chiến đấu cách mạng” [2, tr.

4

21]. Điều đáng ghi nhận trong công trình nghiên cứu này là các tác giả đã có

sự khảo sát kỹ về tư liệu, gắn tác phẩm với bối cảnh thời đại, trong hoàn cảnh

sáng tác cụ thể để thấy được ý nghĩa xã hội, tính thời sự và những hiệu ứng

tích cực trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Dựa trên nguyên lý và

phương pháp nghiên cứu theo quan điểm Mácxít, nghiêng về đánh giá, thẩm

bình những giá trị nội dung với những mô típ, kết cấu quen thuộc như: Hoàn

cảnh sáng tác, hình ảnh thời đại, thành công và một vài tồn tại, tinh thần dân

tộc trong tác phẩm, vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử, vài nét về

nghệ thuật…các tác giả chuyên luận đã đi sâu phân tích nội dung xã hội của

tác phẩm trong sự tương quan, gắn kết với hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên

chúng tôi thấy trong chuyên luận đầu tay, có tính khai phá đầu tiên này, hai

nhà nghiên cứu còn thiên về miêu tả lại tác phẩm, tường thuật diễn biến cốt

truyện mà chưa đi sâu tìm hiểu những giá trị nghệ thuật, những nét đặc sắc

của một cây bút tài hoa.

Với độ lùi của thời gian, sự thông thoáng, đổi mới trong tư duy đánh

giá, nhìn nhận các hiện tượng văn học thời kỳ trước đổi mới, những vấn đề

đặt ra trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tiếp tục trở thành đề tài được

bàn luận, nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học với các bài viết công phu

nhiều phát hiện mới của các nhà nghiên cứu Phong Lê, Hà Minh Đức, Bích

Thu, Tôn Thảo Miên, Đỗ Đức Hiểu, Phạm Vĩnh Cư, Trần Đăng Suyền,

Nguyên Ngọc, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu… Bên cạnh đó là các Hội thảo

khoa học về cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng thu hút sự quan tâm của

giới nghiên cứu, phê bình đã đưa ra những đánh giá khách quan nhằm khẳng

định vai trò, vị thế văn chương Nguyễn Huy Tưởng đối với sự phát triển của

văn chương dân tộc.

Năm 1996, bộ sách Nguyễn Huy Tưởng toàn tập do Nhà xuất bản Văn

học ấn hành, ra mắt bạn đọc, đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ các tác

5

phẩm của nhà văn trên tất cả các thể loại, giúp người đọc có điều kiện thuận

lợi khi tiếp cận văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng.

Năm 2006, bộ ba Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng được Nhà xuất bản

Thanh niên xuất bản đã giúp người đọc có những hình dung rõ hơn về quá

trình lao động nghệ thuật miệt mài và những khát vọng lớn của nhà văn muốn

cống hiến cho văn học dân tộc. Đây là tập nhật ký được nhà văn cần mẫn ghi

chép trong suốt những năm cầm bút, bắt đầu từ ngày 02/11/1930 khi ông còn

là cậu học sinh trường Bonnal - Hải Phòng và kết thúc ngày 21/06/1960 với

những dòng cuối được ghi chép ngay trên giường bệnh Bệnh viện Việt - Xô

chỉ ít hôm trước khi nhà văn qua đời. Tập nhật ký đã “thâu tóm, phản ánh

toàn bộ sự nghiệp văn chương và cách mạng của ông, bắt đầu từ việc tìm

đường cho đến khi đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, một chiến sĩ của

Đảng hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ, với tất cả những đam mê và khát

khao sáng tạo, những thành tựu đã đạt được và cả những hẫng hụt của một

nhà văn không bao giờ bằng lòng với mình, những phơi phới lạc quan và

những băn khoăn, trăn trở của một người cả nghĩ” [20, tr. 6].

Tiêu biểu như cuốn Nguyễn Huy Tưởng về tác gia, tác phẩm (Bích

Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn giới thiệu); Nguyễn Huy Tưởng khát vọng

một đời văn (Phương Ngân tuyển chọn và biên soạn)… Và đặc biệt phải kể

tới những công trình do Nguyễn Huy Thắng - con trai nhà văn, người đã dành

nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về những trước tác của cha mình, về

những tâm sự, suy nghĩ khó nói của ông với mong muốn khắc họa một cách

chân thực, rõ nét gương mặt nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng trong

cuộc sống đời thường và trong sáng tạo văn chương. Đó là các ấn phẩm có giá

trị như: Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ; Nguyễn Huy Tưởng

trước khi là nhà văn; Nguyễn Huy Tưởng với người thân; Nguyễn Huy Tưởng

văn và người…

6

Gần đây cuốn Nguyễn Huy Tưởng một nhà văn Hà Nội (Nxb Hà Nội,

2011) ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội và 50

năm ngày mất nhà văn. Cuốn sách tập hợp những bài viết, bài tham luận của

các học giả, các nhà nghiên cứu trong Hội thảo khoa học “Nguyễn Huy Tưởng

với Hà Nội” (do Hội Nhà văn, Viện Văn học và Nhà xuất bản Kim Đồng tổ

chức) đã nhấn mạnh đến những đóng góp và cống hiến to lớn của Nguyễn

Huy Tưởng - người nối dài những vẻ đẹp của Thăng Long, của Hà Nội dấu

xưa. Cuốn sách giới thiệu nhiều bài viết hay của các nhà nghiên cứu như:

Nguyễn Huy Tưởng, một nhà văn Hà Nội (Phạm Xuân Nguyên), Thăng Long

- Hà Nội trong kịch và truyện của Nguyễn Huy Tưởng (Phong Lê), Cốt cách

của một người viết sử (Dương Trung Quốc), Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với

tuổi thơ Hà Nội (Lê Phương Liên)… Những nhận định, đánh giá của các nhà

nghiên cứu đã nói lên tầm vóc và những đóng góp của “một nhà văn Hà Nội”,

người đã mang đến cho đất kinh kỳ những trang văn hay nhất đời mình.

“Nguyễn Huy Tưởng vĩnh biệt Hà Nội khi thành phố Thủ đô vào tuổi chín

trăm năm mươi. Ông đã viết nhiều về Thăng Long - Hà Nội, nhưng hình như

điều sâu xa nhất ông vẫn chưa nói hết, nói trọn, nói xong. Ông ra đi mang

theo tất cả những trăn trở và ước vọng của một người con Hà Nội, một con

người Hà Nội và một nhà văn Hà Nội cho xứ kinh kỳ - kẻ chợ đẹp hơn lên,

văn hóa hơn lên, phong phú hơn lên, cả trên mặt đất và trong hồn người.

Tưởng như bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay, và ngày mai,

vẫn khiến ông xúc động và lo lắng, dù đã tan vào cõi thinh không nửa thế kỷ

nay. Và những con chữ trên trang viết của ông về Hà Nội, cho Hà Nội, vì Hà

Nội đọc lên dịp nghìn năm Thăng Long vẫn thấy động cựa, xôn xao. Trên tất

cả, Nguyễn Huy Tưởng yêu Hà Nội, yêu những con người dám sống và chết

cho Hà Nội.” [17, tr. 204].

7

Ở mỗi công trình nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh

tiêu biểu, nổi bật trong những tác phẩm cụ thể, đồng thời có sự đối sánh với

tác phẩm của tác giả khác cùng viết về một thể loại để chỉ ra những nét đặc

trưng riêng và sự thành công trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở hai

bình diện nội dung tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.

Ngoài các công trình nghiên cứu được xuất bản còn có những luận văn

thạc sĩ về sáng tác Nguyễn Huy Tưởng đã bảo vệ thành công gần đây như:

“Thể tài lịch sử - dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng” (Trần Thị

Hồng Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); “Mạch lạc trong văn bản kịch

Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng” ( Đỗ Thị Bích Phượng, Đại học Sư

phạm Hà Nội, 2011); “Điểm nhìn trong kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy

Tưởng” (Bùi Thị Tú, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012)… Ở mỗi công trình

nghiên cứu các tác giả đã đề cập đến những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật trong

những tác phẩm cụ thể.

Tuy nhiên vấn đề thi pháp tự sự trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy

Tưởng vẫn để bỏ ngỏ, như là vùng đất trống mà chúng tôi hy vọng mình có

thể góp được một tiếng nói riêng.

3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn sẽ hướng trọng tâm vào tìm hiểu thi pháp văn xuôi tự sự

truyện thiếu nhi như: Cô bé gan dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám,

Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An

Dương Vương xây thành Ốc, Hai bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng

em, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết cho thiếu nhi để

thấy được tài năng của nhà văn qua bình diện thi pháp tự sự như: người kể

chuyện, ngôn ngữ kể, tổ chức cốt truyện và hệ thống nhân vật. Cùng với khảo

sát 12 truyện nêu trên, ở đây chúng tôi còn khảo sát nhật ký của ông để làm rõ

8

hơn quan điểm, nghệ thuật truyện viết cho thiếu nhi mà ông đã dành cho độc

giả trẻ.

3.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Với đề tài đã chọn, luận văn của chúng tôi nhằm đem lại cách nhìn hệ

thống, chỉ ra những đặc điểm riêng biệt về các truyện ngắn viết cho thiếu nhi

của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng chảy văn học viết cho thiếu nhi nói chung

của nước ta. Đồng thời, qua nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của ông

chúng tôi cũng thử nghiệm vận dụng lý thuyết thi pháp văn xuôi tự sự vào

nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.

3.3. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi kiến thức: Vận dụng lý thuyết tự sự học và các phương pháp

nghiên cứu cụ thể để làm rõ vấn đề về thi pháp văn xuôi tự sự như người kể

chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức cốt truyện và ngôn ngữ kể

trong văn xuôi mảng đề tài viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy

Tưởng. Đề tài được thực hiện cũng là dịp chúng tôi củng cố thêm kiến thức

văn học sử về văn học Việt Nam hiện đại.

- Phạm vi tư liệu: Thực hiện đề tài Thi pháp văn xuôi tự sự trong truyện

viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng chúng tôi tập trung khảo

sát :

+ Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng – sách

xuất bản tại Nxb Kim Đồng, năm 2013;

+ Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, Nxb Văn học; năm 2012.

+ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, 3 tập, Nxb Thanh niên; 2016.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã được xác định, đề tài sử dụng

phương pháp tiếp cận thi pháp học và lý thuyết tự sự học. Ngoài ra, cũng như

mọi luận văn chuyên ngành lý luận văn học khác, chúng tôi không thể không

9

sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp phân

tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.

5. Cấu trúc của luận văn

Về cấu trúc luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,

phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự và mảng truyện

viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.

Chương 2: Hệ thống nhân vật và tổ chức cốt truyện.

Chương 3: Ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ truyện kể.

10

Chƣơng 1

KHÁI LƢỢC VỀ THI PHÁP VĂN XUÔI TỰ SỰ VÀ MẢNG

TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG

1.1. Khái lƣợc về thi pháp văn xuôi tự sự của Nguyễn Huy Tƣởng.

1.1.1. Khái lược về thi pháp học.

Trong việc định nghĩa thi pháp và thi pháp học, cũng như hầu hết các

phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu văn học và nhiều bộ môn của khoa

học nhân văn, ta gặp phải một tình hình chung: ở trình độ phát triển hiện nay,

các khoa học này chưa có khả năng đưa ra được những định nghĩa “đơn

nghĩa” về đối tượng nghiên cứu của mình. Chính điều này đã liệt hầu hết khoa

học nhân văn vào lớp các khoa học “chưa trưởng thành”. Nếu như toán học

hoặc vật lý học đã có thể xây dựng những định nghĩa “đúng duy nhất” về

điểm, đường thẳng, vận tốc âm thanh, trị số mét,… thì ngược lại, có thể nói

rằng có bao nhiêu nhà nghiên cứu về truyện kể và thi pháp văn xuôi thì có gần

như bấy nhiêu định nghĩa về thể loại và về thi pháp với tư cách một phân

ngành khoa học. Xét về mặt định nghĩa, “thân phận của thi pháp học không

khác gì mấy so với thân phận tiểu thuyết”. Vì thế, cái dung sai mà viện sĩ M.

Khrapchenco đã dành cho các định nghĩa về thi pháp học của ông lại phải

cộng thêm những dung sai rất đa dạng mà mỗi người sử dụng. Tuy nhiên, có

thể nói định nghĩa của M. Khrapchenco vẫn là một trong những định nghĩa

tổng quát nhất và thuyết phục nhất về thi pháp học. Ông viết: “Không hề kỳ

vọng một định nghĩa thật đầy đủ, thật bao quát, tôi cho rằng có thể xác định

thi pháp học như một bộ môn khoa học nghiên cứu của các phương thức và

phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng

hình tượng” [10, tr. 242].

Thi pháp học là khoa học về hình thức nghệ thuật. Ngay luận điểm xuất

phát đó đã chứa đựng một đặc trưng rất cơ bản của cách tiếp cận đối tượng

11

trong bộ môn này. Thi pháp học cần phát hiện ra những quy luật chi phối cái

thế giới hết sức đa dạng và phong phú các hiện tượng nghệ thuật.

Với tư cách là một khoa học, sự tiếp cận của thi pháp học với các đối

tượng của nó luôn có những xu hướng vươn đến tính hệ thống. Điều này tuyệt

nhiên không phải do ngẫu hứng của các nhà nghiên cứu hay thôi thúc của thời

thượng vì càng ngày tiếp cận hệ thống càng trở thành một phương pháp khoa

học tiên tiến và hữu hiệu. Tính hệ thống như là một đặc điểm cơ bản mang ý

nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ sở từ trong bản thân đối tượng

của khoa học này: những hiện tượng hình thức nghệ thuật.

Thi pháp học có nhiệm vụ phát hiện ra những liên hệ đó dưới dạng các

quy luật và trong những trường hợp sáng rõ nhất – các hệ thống. Khả năng hệ

thống hóa – khả năng xây dựng và sắp xếp nhận thức trong một hệ thống, tức

là một tổ chức chặt chẽ, nhất quán theo những nguyên tắc nhất định – là một

đòi hỏi và một biểu hiện của sự trưởng thành khoa học. Mỗi trình độ nhận

thức mới của khoa học lại được đánh dấu bởi những cấp độ mới, những tầm

vóc mới của năng lực hệ thống.

Không chỉ có nhiệm vụ thống kê và mô tả đơn thuần các phương diện,

các thành tố cụ thể hiện tồn của hình thức nghệ thuật. Nó còn phải nghiên cứu

hình thức đó trong chức năng tổ chức và thể hiện nội dung. Đồng thời, nó cần

đi ngược lên phát hiện ra những cơ sở và ảnh hưởng vô cùng phức tạp đã quy

định sự lựa chọn của người nghệ sĩ, đã định hướng và dẫn dắt anh ta rốt cục

đến những giải pháp hình thức cụ thể trong số vô vàn khả năng có thể có. Thi

pháp học đồng thời là một kiểu “triết luận” về hình thức nghệ thuật.

Tựu trung, thi pháp học hiện thân như một khoa học về kỹ nghệ văn

chương, lấy đối tượng nghiên cứu của mình không phải là văn học chung

chung, mà nói như Jakobson, là “tính văn học của tác phẩm văn chương”. Nó

giải thích vì sao một văn bản ngôn từ lại trở thành tác phẩm nghệ thuật.

12

Thi pháp học phát triển theo ba hướng chính là thi pháp học quy phạm,

thi pháp học lịch sử và thi pháp học cấu trúc. Căn cứ trên những thành tựu

nghiên cứu về lý thuyết và kết quả ứng dụng vào khảo cứu, phê bình các hiện

tượng văn học cụ thể, ngày nay chúng ta đã có một hệ thống điểm nhìn thi

pháp mới, như: thi pháp thể loại, thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, thi pháp

trào lưu… Thi pháp học hiện đại đã khẳng định hướng nghiên cứu rất hiệu

quả của nó trong lĩnh vực nghiên cứu văn xuôi tự sự. Kết quả là tự sự học ra

đời và phát triển theo xu hướng “xin ở riêng”, tách lập như một phân ngành

khoa học độc lập bên cạnh thi pháp học truyền thống.

Do vậy, thi pháp văn xuôi tự sự được hiểu một cách giản dị như là kỹ

thuật kể, hay hệ thống thủ pháp, cách thức trần thuật và xây dựng hình tượng

trong các thể truyện ngắn và tiểu thuyết.

1.1.2. Thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng.

Việc tiếp nhận và khảo cứu mảng truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng có thể được tiến hành từ nhiều góc độ khác nhau. Có một

số nhà sử học (như Dương Trung Quốc) tiếp cận di sản văn chương của

Nguyễn Huy Tưởng từ tiêu chí thẩm định về tư liệu lịch sử. Đối với các

truyện lịch sử viết cho thiếu nhi, các nhà sử học cũng có thể trân trọng rút ra

từ đó tính chân thực lịch sử và ý nghĩa giáo dục truyền thống của văn chương

Nguyễn Huy Tưởng. Nhiều công trình nghiên cứu văn học sử khi tiếp cận

hiện tượng Nguyễn Huy Tưởng cũng chủ yếu đánh giá đóng góp của nhà văn

về tính thời sự, ý nghĩa chính trị của đề tài và chủ đề tác phẩm. Phần lớn các

nghiên cứu đó đã ghi nhận những đóng góp của nhà văn ở phương diện nội

dung tư tưởng và tính hiện thực của tác phẩm. Trong luận văn này chúng tôi

quan tâm chủ yếu tới phương diện hình thức nghệ thuật như: ngôn ngữ, thủ

pháp dàn dựng kết cấu, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, loại hình xây dựng

13

nhân vật. Tạm thời chúng tôi có những đánh giá sơ bộ về đặc điểm thi pháp tự

sự của Nguyễn Huy Tưởng gắn với các tác phẩm cụ thể sau:

Ngôn ngữ trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, có

đặc điểm riêng khác để nhận ra với các tác giả cùng thời khác, một kiểu ngôn

ngữ mộc mạc, dân dã, dễ hiểu, cú pháp đơn giản, cơ bản, mang đặc trưng

chung của ngôn ngữ viết cho độc giả thanh thiếu niên, bộc lộ rõ nhất trong

truyện Tìm Mẹ; Giọng kể chuyện thân tình, mang tính đối thoại trực tiếp thể

hiện rõ trong truyện Hai bàn tay chiến sỹ; Chú trọng thông tin sự kiện, không

thi vị hóa kiểu Tô Hoài - truyện Điện Biên Phủ của chúng em. Với truyện về

đề tài lịch sử, ngôn ngữ và giọng điệu kể có thay đổi theo đối tượng, theo đề

tài: thâm trầm, trang trọng hơn trong truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng.

Về thủ pháp dàn dựng kết cấu, đặc điểm dễ nhận thấy trong truyện viết

cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng là ông tổ chức cốt truyện theo trình tự

phát triển tự nhiên của thời gian theo lịch sử cụ thể, sự việc trong truyện xảy

ra tuần tự từ đầu đến cuối và không bị đứt quãng, liên tục phát triển và tiếp

diễn. Những đặc điểm đó thể hiện rõ qua cốt truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng,

Kể chuyện Quang Trung, Điện Biên Phủ của chúng em . Đó cũng là những

truyện tuân thủ mẫu kết cấu chương hồi; mỗi chương hồi gắn với một giai

đoạn phát triển nào đó của cốt truyện. Truyện Điện Biên Phủ của chúng em

được tác giả xây dựng kết cấu làm ba phần: phần một “Đường lên Điện Biên

Phủ”, phần hai “Điện Biên Phủ lịch sử”, phần ba “Điện Biên Phủ xây dựng

chủ nghĩa xã hội”. Ở mỗi phần nội dung của truyện được tác giả nêu cụ thể

theo tiến trình thời gian của lịch sử dẫn dắt chúng ta con đường đi lên Điện

Biên - những địa danh, những trận đánh và địa danh các trận đánh giành giật

của bộ đội ta với địch và sự chiến thắng oai hùng của bộ đội. Cuối câu chuyện

tác giả đưa chúng ta tới một Điện Biên đang ngày đêm xây dựng chủ nghĩa xã

hội.

14

Nghệ thuật tổ chức cốt truyện các truyện viết cho thiếu nhi Nguyễn

Huy Tưởng trên cơ sở khảo sát 12/12 truyện thì cốt truyện đơn tuyến theo trật

tự thời gian tuyến tính, tác giả hạn chế sự hồi cố, hoài niệm vì trong các tác

phẩm này thường chỉ có một nhân vật chính, đóng vai trò là trung tâm của cốt

truyện; truyện phần nhiều ít kịch tính, và kết thúc có hậu (truyện Thằng Quấy,

Tìm Mẹ). Kết thúc truyện có phân biệt rõ các giá trị “Thiện - Ác”, “Tốt -

Xấu”, “Địch - Ta” như Cô bé gan dạ, hai bàn tay chiến sĩ, Lá cờ thêu sáu chữ

vàng, Kể chuyện Quang Trung; Cốt truyện tổ chức trên nguyên tác các mâu

thuẫn xã hội, mâu thuẫn địch ta, tuy nhiên chưa phát triển thành xung đột cao

trào.

Về loại hình nhân vật: các nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của

nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được hình thành qua ba tuyến nhân vật chính:

nhân vật thiếu nhi tiêu biểu là nhân vật Trần Quốc Toản truyện Lá cờ thêu

sáu chữ vàng, nhân vật cô Thứ truyện Cô bé gan dạ, nhân vật em Nhà và em

Gạo truyện Tìm mẹ; nhân vật anh hùng như An Dương Vương - truyện An

Dương Vương xây thành Ốc, nhân vật Quang Trung trong Kể chuyện Quang

Trung, nhân vật từ thế giới loại vật như con Cóc – truyện Con cóc là cậu ông

Giời, chim vàng anh truyện Tấm Cám…

1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tƣởng.

1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 06/5/1912, tại làng Dục Tú,

phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Cha

là một ông Tú nghèo, sống nhờ vợ tần tảo buôn bán. Khi Nguyễn Huy Tưởng

lên 7 tuổi thì cha mất, mẹ gửi ông ra Hải Phòng sống cùng gia đình người chị,

học tiểu học ở trường Bonnal. Năm 1932, khi 20 tuổi, ông đậu bằng Thành

Chung và cũng bắt đầu học chữ Hán. Ra trường, sau 3 năm vất vả tìm việc,

đến 1935 ông thi đậu vào ngạch thư ký Nhà Đoan (cơ quan hải quan). Năm

15

1939, ông cưới vợ, là tiểu thư con một vị quan ở Hải Phòng. Dù sống cuộc

sống công chức Nhà Đoan, nhưng Nguyễn Huy Tưởng có một đời sống nội

tâm phong phú, ông chăm đọc sách, chịu khó tìm ý tưởng, hàng ngày viết

nhật ký.

Từ năm 1938, Nguyễn Huy Tưởng đã hoạt động cho hội Truyền bá

quốc ngữ. Cuối năm 1944, bắt đầu tham dự các buổi họp bí mật của hội Văn

hóa cứu quốc. Tháng 4/1944, ông chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội công tác

và được gặp các trí thức Hà thành như Nguyễn Xuân Huy, Như Phong,

Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Huyền Trân... Tháng 6/1945, Nguyễn Huy

Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Sau

đó hai tháng, Nguyễn Huy Tưởng đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào, Tuyên

Quang. Ông còn là đại biểu Văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ

giải phóng, Tiên Phong. Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung

ương Vận động đời sống mới. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn

Huy Tưởng trở thành một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn

hóa cứu quốc. Ông qua đời ngày 25/7/1960, tại Hà Nội, khi mới 48 tuổi.

Trong kí ức của những bạn văn cùng thời - những người cùng hoạt động

cách mạng, cùng gắn bó, sẻ chia những vui buồn trong hành trình sáng tạo,

Nguyễn Huy Tưởng luôn để lại ấn tượng và hình ảnh đẹp về một người chân

thành, giản dị, cởi mở và đôn hậu. Nói về Nguyễn Huy Tưởng, đa số các văn

nghệ sĩ đều nhận thấy những phẩm chất tốt đẹp tỏa ra từ cuộc đời và những

trang viết của ông. Nhà văn Nguyễn Minh Châu khi soi chiếu cuộc đời và

những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã chỉ ra một đặc điểm thống nhất

trong con người và văn nghiệp của nhà văn: “Những cái tên sách của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng cũng như toát lên từ tính nết của ông thường kín đáo,

điềm đạm, thủ thỉ và giản dị.” [16, tr. 582]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì

16

cho rằng: “Nguyễn Huy Tưởng, con người ấy, nhà văn ấy, như tôi biết là một

con người chí tình…đối với bạn bè anh là một người trung hậu.”[16, tr. 562].

Là người cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, nhiều năm gắn

bó với Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Như Phong nhận định: “Anh Tưởng

người cao lớn, khỏe mạnh, nhưng có vẻ rất hiền. Đôi mắt lim dim dưới một

cặp lông mày thường nhướng cao lên như lúc nào cũng đương ngạc nhiên,

một cặp môi luôn luôn hé mở hoặc tủm tỉm cười làm cho anh có vẻ thật thà,

cả tin hết sức. Anh có một đức tính hiếm có ở một người đã ở vào một lứa

tuổi già dặn là hết sức khâm phục, dễ hâm mộ những chuyện gì hay, những

người nào tốt, hoặc anh cho là hay, là tốt…Có lẽ đó là nguyên nhân làm cho

sáng tác của anh về sau này phần nhiều thiên về ca ngợi, ca ngợi với tất cả

lòng chân thành, trọn vẹn và trong sáng không vẩn một chút dè dặt nào…

Anh Tưởng là một người say mê lý tưởng và rất lạc quan tin tưởng ở bản chất

tốt đẹp của con người”[16, tr. 532 - 540].

Với nhà văn Lưu Văn Lợi, người bạn học cùng trường Bonnal, từng có

những năm tháng làm việc với Nguyễn Huy Tưởng đã có nhận xét tinh tế về

người bạn thân của mình: “Trong lao động nghệ thuật, Tưởng có hai nét đặc

biệt: viết khó khăn, nhưng say sưa như không biết có gì xung quanh, viết viết,

gạc gạc, suy nghĩ tập trung mặt thẫn thờ, cho nên Nguyên Hồng mới đặt cho

Tưởng cái tên ông Mao Thuẫn (mặt thuỗn ra)” [17, tr. 31].

Bằng lối nói giàu hình ảnh, nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận: “Huy Tưởng

không ánh chói, không làm người ta choáng phục ngay; nhưng anh chầm

chậm nói chuyện rất có duyên, và dần dần mới hay anh có một sức hấp dẫn

sâu sắc”[16, tr. 508].

Sau này trong Điếu văn của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đọc

khi Nguyễn Huy Tưởng mất, nhà thơ Nguyễn Đình Thi xúc động viết:

“Khiêm tốn trong đời sống hằng ngày, trong cách cư xử, trong khi viết

17

văn…Thật thà với từng ý nghĩ, với từng dòng chữ viết ra…anh là nhà văn của

lòng yêu và niềm tin cậy, anh hay nói đến niềm vui trong cuộc sống, miệng

anh cười nhân hậu, mắt anh mở nhìn về phía ánh sáng” [16, tr. 501-502].

Gần đây, khi đánh giá về con người và văn nghiệp của Nguyễn Huy

Tưởng, nhà nghiên cứu Phong Lê đã phác thảo rõ nét chân dung, con người

Nguyễn Huy Tưởng bằng những câu văn ngắn gọn, ấn tượng: “Con người

Nguyễn Huy Tưởng, gương mặt Nguyễn Huy Tưởng: Hiền. Và lành. Chân

thành. Và đôn hậu.” (Báo Văn nghệ 16/5/1992).

Còn trong hồi ức của những người thân trong gia đình, Nguyễn Huy

Tưởng là người con chí hiếu, nặng tình, sống có trách nhiệm với gia đình.

Đặc biệt qua những trang Nhật ký chân thực, sinh động mà ông ghi chép cần

mẫn, bền bỉ suốt 30 năm, người đọc thấy hiện lên những phẩm chất đáng quý

trong con người Nguyễn Huy Tưởng.

Ông là người giàu lòng yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương. Tuổi

mười tám đôi mươi ông đã ý thức rõ về trách nhiệm, bổn phận của bản thân

trước vận mệnh quốc gia, “Viết văn để tỏ lòng yêu nước”. Trải qua những

thăng trầm, của đời sống cách mạng và kháng chiến, không lúc nào ông

không trăn trở, thao thức về nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng phải viết được

những tác phẩm lớn nói lên được sức sống mạnh mẽ, trường tồn của văn hóa

dân tộc; cái vĩ đại của đất nước, con người Việt Nam.

Nguyễn Huy Tưởng là người có khát vọng lớn, khát vọng viết được

những tác phẩm có thể đạt giải Nobel như lời tâm sự ông ghi trong Nhật ký

ngày 29-3-1945: “Mơ mộng viết một truyện dài, những truyện dài. Khao khát

một phần thưởng Nobel”, Tác phẩm ấy phải nói lên được tinh thần Việt Nam;

ngợi ca, đề cao, tôn trọng con người. Ông muốn mỗi người dân Việt Nam

phải hiểu sâu sắc về lịch sử dân tộc mình, nhất là trong những năm tháng chịu

kiếp nô lệ, tù đày, vì “Người không biết lịch sử nước mình là một con trâu đi

18

cầy ruộng. Cầy với ai cũng được, mà cầy ruộng nào cũng được” (Nhật ký

ngày 13-01-1932).

Với Nguyễn Huy Tưởng, công việc viết văn không dễ mà là hành trình

đầy gian nan, vất vả nhưng không vì thế mà ông nản lòng. Ông luôn cố gắng,

nỗ lực tìm tòi, sáng tạo. Không bao giờ ông bằng lòng, thỏa mãn với những gì

đã làm được mà luôn lắng nghe, bình tĩnh suy xét, chỉnh sửa, bổ sung những

điều mà ông cảm thấy còn khiếm khuyết, hạn chế trong từng câu chữ, trang

văn.

Một đặc điểm nổi bật trong con người Nguyễn Huy Tưởng là đức tính

chân thành, tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh những

vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Với quan điểm đúng đắn, tiến bộ về con

người, về nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng kiên trì đấu tranh với những tư

tưởng tập thể giản đơn, công thức, những hành động nhất thời làm tổn thương

tình cảm, cuộc đời con người dù ông biết hậu quả sẽ phải nhận là những hiểu

lầm, những thiệt thòi, day dứt.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại cho

đời sau nhiều tác phẩm có giá trị về văn chương và lịch sử. Về tiểu thuyết có

Đêm hội Long Trì (1942), An Tư công chúa (1944), Truyện Anh Lục (1955),

Bốn năm sau (1959), Sống mãi với Thủ đô (1960)... Về kịch có Vũ Như Tô

(1943), Cột đồng Mã Viện (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948),

Anh Sơ đầu quân (tập kịch - 1949), Lũy hoa (1960)... Về truyện ký có Ký sự

Cao Lạng (1951), Chiến sĩ ca nô... Ngay trong lĩnh vực truyện thiếu nhi, ông

để lại những dấu ấn sâu sắc, có lẽ bởi ông chính là Giám đốc đầu tiên của Nhà

xuất bản Kim Đồng; với Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Hai bàn tay chiến

sĩ, Con cóc là cậu ông giời, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện

Quang Trung, Cô bé gan dạ... và một tập Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, dày

1.700 trang.

19

Có thể nói con người Nguyễn Huy Tưởng có sự kết hợp hài hòa những

phẩm chất tốt đẹp của một người giàu lòng yêu nước, yêu lịch sử dân tộc;

không ngừng tìm tòi, sáng tạo để vươn tới những giá trị tốt đẹp của chân -

thiện - mỹ. Đường đời, đường cách mạng và đường văn chương Nguyễn Huy

Tưởng có sự song hành, bổ sung, thống nhất. Điều đó đã làm nên một chân

dung, phong cách Nguyễn Huy Tưởng độc đáo, ấn tượng.

1.2.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng trong dòng

chảy văn học thiếu nhi.

Nếu nhìn vào chiều sâu lịch sử của văn hóa dân tộc, chúng ta đều thấy

rằng văn học dành cho trẻ em ở ta đã tồn tại từ lâu đời dưới dạng văn chương

truyền miệng qua những bài hát đồng dao, trò chơi dân gian, truyện cổ tích,

giai thoại và truyện dã sử về các nhân vật anh hùng... Khi công cuộc truyền bá

chữ quốc ngữ được các nhà văn hóa yêu nước Việt Nam dấy lên thành một

phong trào rộng lớn, mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng là một thành viên

tích cực của phong trào này, nhu cầu phổ biến văn hóa cho thế hệ trẻ có lẽ đã

thúc đẩy sự ra đời một thể loại văn học mới, hiện hình như một loại sách

riêng: Tủ sách Truyền bá, Tủ sách Hoa Xuân, Tuổi Hồng, Tuổi Xanh... dành

cho lứa tuổi thanh thiếu nhi, ra đời trong những năm 1940, 1941, 1942...

Cũng chính từ đây, tác phẩm bất hủ Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài đã xuất

hiện và một số truyện viết cho thiếu nhi khác.

Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình sáng tác của mình ông đã viết rất

nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch… đặc biệt với tuổi thơ ông đã dành tình

cảm nhiệt huyết nhất với thiếu nhi và đã sáng tạo và viết các truyện Cô bé gan

dạ, Chiếc bánh chưng, Truyện Tấm Cám, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là

cậu ông Giời, Con chim Trĩ lông trắng, An Dương Vương xây thành Ốc, Hai

bàn tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng em, Kể chuyện Quang Trung, Lá

cờ thêu sáu chữ vàng.

20

Trong lời giới thiệu tập Cô bé gan dạ, anh Nguyễn Huy Thắng, con trai

nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã cho bạn đọc biết, nhà văn khi ấy 27 - 28 tuổi

đời, đã hăng hái tham gia phong trào hướng đạo, một tổ chức tập hợp những

thanh thiếu niên giàu nhiệt huyết, yêu đời, tràn đầy lòng tự hào dân tộc... Từ

sở trường riêng sớm xác định cho mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã

hướng suy tư thẩm mỹ của mình vào việc tìm hiểu kho tàng truyện lịch sử và

cổ tích của dân tộc. Không chỉ làm công việc sưu tầm Kho tàng truyện cổ

tích như nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi, hay sưu tầm Tục ngữ phong dao như

học giả Nguyễn Văn Ngọc, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với ý thức sáng tạo

đã xuất phát từ truyện cổ tích sưu tầm ở dân gian như Cô bé gan dạ và sau

này là Tìm mẹ, viết nên những truyện ngắn như huyền thoại, làm ra một bản

sắc riêng trong văn học cho thiếu nhi.

Có thể nói rằng trong các tác phẩm này, dưới ngòi bút của nhà văn,

tiếng Việt đã trở nên tinh xảo và sinh động, có sức gợi mở trí tưởng tượng cho

người đọc. Truyện Cô bé gan dạ thể hiện hình ảnh một cô con gái liễu yếu

đào tơ, dám liều mình nhận làm vật hiến sinh cho con quái vật, để rồi đối mặt

chiến đấu với mãng xà và cuối cùng đã chiến thắng, diệt trừ được mối tai họa

cho dân làng. Tấm lòng của Nguyễn Huy Tưởng khi ông tâm niệm: “Văn

chương viết cho thiếu niên phải cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm

lòng bồng bồng bột bột, mà vẫn biết lẽ phải, và vẫn biết thương nhau”. Điều

này sẽ còn được tác giả thể hiện rõ nét hơn, hào hùng hơn trong Lá cờ thêu

sáu chữ vàng sau này.

Đã có nhiều bài nói về các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng, những bài của đồng nghiệp, bạn bè, nhà nghiên cứu như Tô Hoài, Vũ

Ngọc Bình, Văn Hồng, Vân Thanh... và cũng đã có nhiều hội thảo về sự

nghiệp văn học của ông trong đó có phần sáng tác cho thiếu nhi. Nhưng hình

như mỗi lần đọc lại tác phẩm của ông, ta lại thấy sáng ra một điều gì khác. Rõ

21

ràng nhờ có nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhờ có sáng tác về mảng truyện

viết cho thiếu nhi của ông ta mới có thể khẳng định được sự đóng góp đặc

sắc, phong phú cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Tìm đọc những sáng tác của

ông, ta mới càng thấy việc viết cho thiếu nhi là một sự nghiệp đòi hỏi công

phu, tinh tế và có ý nghĩa lâu dài, bởi nó tác động vào tâm hồn, tạo nên nhân

cách văn hóa cho những con người còn măng tơ. Hành trình sáng tạo nghệ

thuật của Nguyễn Huy Tưởng là hành trình của sự kiếm tìm, sáng tạo không

mỏi mệt nhằm tạo ra những tác phẩm có giá trị thẩm mĩ, tiến tới sự hoàn mĩ

về nội dung và hình thức biểu hiện, đem đến cho công chúng những món ăn

tinh thần bổ ích, nhiều giá trị và giá trị lớn hơn cả là tinh thần dân tộc.

Như vậy, với hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng

khép lại ở tuổi 49 với gần 20 năm cầm bút mà điểm đầu xuất phát là kịch Vũ

Như Tô, kết thúc ở tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô còn dang dở. Đó là một

hành trình đầy gian nan, vất vả. Nhiều lúc ông nghẹn ngào “Đời nhiều việc

quá, thấy viết không được như mình muốn, viết khó quá. Và ứa nước mắt

khóc” (Nhật ký, ngày 13-18/8/1946). Nhưng với những nỗ lực và niềm đam

mê sáng tạo, khát khao cống hiến, Nguyễn Huy Tưởng đã có nhiều công lao

to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền văn học dân tộc. Nổi bật lên

trong văn nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng là nguồn cảm hứng mãnh liệt về

lịch sử dân tộc với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng đặc biệt là truyện viết

cho thiếu nhi Việt Nam ta.

*

Tiểu kết: Sáng tác cho thiếu nhi là một thành tựu nghệ thuật quan trọng

trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng. Hướng tới độc giả trẻ tuổi

với động cơ giáo dục nhân cách đạo đức và tình yêu quê hương đất nước cho

thế hệ tương lai chính là con đường nghệ thuật chân chính và cao đẹp của mỗi

người cầm bút viết văn. Nguyễn Huy Tưởng đã vững bước trên con đường ấy,

22

và trở thành một trong những cây bút mở đường, khai phá cho dòng văn học

Việt Nam hiện đại viết cho tuổi trẻ. Đối với mỗi kiểu độc giả, nhà văn chắc

chắn phải tìm một lối viết riêng mang tính đặc thù, phù hợp với thị hiếu, tâm

lý và khả năng của độc giả. Thi pháp truyện kể cho người trẻ có những đặc

điểm riêng, khác biệt với độc giả lớn tuổi. Trong chương viết trên, chúng tôi

đã có những nhận diện ban đầu về thi pháp truyện kể cho thiếu nhi của nhà

văn. Trong hai chương tiếp theo dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những

đặc điểm thi pháp truyện thiếu nhi của nhà văn trên các bình diện thi pháp tự

sự cơ bản như: Kiểu nhân vật, Tổ chức cốt truyện, Người kể và Ngôn ngữ

truyện kể.

23

Chƣơng 2

THI PHÁP NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN

2.1. Thi pháp nhân vật

2.1.1. Khái niệm nhân vật

Có thể khái quát như sau: “nhân vật chính là nơi chứa đựng nội dung,

phản ánh tư tưởng tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân

sinh của nhà văn. Phân tích nhân vật trở thành một con đường quan trọng để

đi đến giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mỹ

của nhà văn. Nhân vật được coi là đứa con tinh thần của nhà văn, nên phân

tích nhân vật để nhận ra tài năng, đặc điểm, bút pháp nghệ thuật của nhà văn”

[15, tr. 1].

Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ,

đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện qua những đặc

điểm mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu

sử, nghề nghiệp. Thực ra, khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một

phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên

hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong

tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loại vật khác ít nhiều mang bóng

dáng con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện

con người. Đó là nhân vật Dế Mèn, võ sĩ Bọ Ngựa trong truyện thiếu nhi của

Tô Hoài. Đó là con Cóc, chim Trĩ, vàng anh trong truyện thiếu nhi của

Nguyễn Huy Tưởng, hay vầng trăng, bông hoa trong thơ Bác... cũng có khi

đó không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng về

con người hoặc có liên quan đến con người được thể hiện nổi bật trong tác

phẩm, chẳng hạn như nói “nhân dân” là nhân vật chính trong tác phẩm hay

“thời gian” là nhân vật chính trong tác phẩm.

24

Các tác phẩm thuộc thể văn xuôi tự sự (như truyện ngắn, tiểu thuyết)

không thể thiếu nhân vật, vì đó là phương diện cơ bản để nhà văn khái quát

hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận

thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn

đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một

thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Các loại hình

nhân vật trong tác phẩm rất đa dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm,

có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm...

2.1.2. Nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng.

Nhân vật là hình tượng trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc thể

hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Mỗi nhà văn trong quá trình

sáng tạo đều cố gắng tạo ra những nhân vật điển hình đại diện cho số phận,

tính cách của một giai cấp, một cộng đồng trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử

nhất định. “Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ

bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo

nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại

người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người

dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch

sử nhất định.” [8, tr. 160]. Nhân vật trong truyện Nguyễn Huy Tưởng rất đa

dạng, đó là những con người nhỏ bé như nhân vật em Nhà và em Gạo trong

Tìm Mẹ, nhân vật cô Thứ trong Cô bé gan dạ, những người anh hùng gắn liền

với những chiến công thời đại như nhân vật Quang Trung trong Kể chuyện

Quang Trung, nhân vật Trần Quốc Toản trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng,… tất

cả đều được chọn lựa, phản ánh qua cách xử lý, sáng tạo tài tình của nhà văn.

Nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng mang sắc màu, cá tính

riêng qua điểm nhìn nghệ thuật và cách miêu tả, phản ánh độc đáo. Nếu coi

25

“Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo của nhà văn, sự

hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về cuộc sống, của cách nhìn của nhà văn

đối với thế giới” [8, tr. 272] thì việc xây dựng thành công hình tượng các

nhân vật lịch sử, các gương người tốt việc tốt, nhân vật anh hùng cũng phần

nào thể hiện quan điểm, cách nhìn của nhà văn về cuộc sống, con người.

Chúng tôi tiến hành khảo sát các kiểu nhân vật trong sáng tác nghệ thuật của

Nguyễn Huy Tưởng để thấy được những nét riêng và những đóng góp, sáng

tạo của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật - một yếu tố quan trọng

góp phần làm nên nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng.

Nhìn chung có thể nhận thấy có ba tuyến nhân vật chủ yếu nổi lên trong

thế giới nhân vật truyện thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sự phân

định ra ba tuyến nhân vật này chỉ có tính tương đối, vì không thể lấy ra một

tiêu chí chung để phân loại, chọn lọc mà đưa vào hệ thống. Có những nhân

vật có tính giao thoa, chồng lấn sang tuyến nhân vật bên cạnh, có thể xếp vào

cả hai tuyến kiểu trong ba tuyến nhân vật: nhân vật thiếu nhi, nhân vật anh

hùng và nhân vật từ thế giới loài vật.

2.1.2.1. Nhân vật thiếu nhi.

Nhân vật thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng trong các truyện Lá cờ thêu

sáu chữ vàng, Tìm mẹ, Thằng Quấy, Cô bé gan dạ là các nhân vật chính trung

tâm. Đây là những gương mặt tiêu biểu cho lòng quả cảm, ý chí sắt đá, kiên

cường, vượt lên hoàn cảnh số phận, vượt lên chính bản thân mình để chiến

thắng kẻ thù, để tìm về với hạnh phúc, cao hơn nữa là khẳng định cho tình

yêu với đất nước khi có giặc ngoại xâm.

Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản - một thiếu niên yêu nước thời

Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn lựa những chi tiết phù hợp với tính cách

nhân vật, đáp ứng được tâm lý của trẻ em khi đọc tác phẩm. Trần Quốc Toản

là một thiếu niên sớm có ý thức trách nhiệm với non sông. Trước thái độ

26

nghênh ngang, hợm hĩnh coi thường “phép nước Nam” của sứ giả nhà

Nguyên, lòng dân vô cùng căm giận. Nỗi uất giận đó cũng xen vào giấc ngủ

trẻ thơ. Trần Quốc Toản mơ bắt được Sài Thung (tên sứ giả hống hách của

nhà Nguyên) nhốt vào cũi giải về kinh. Trong mơ, Sài Thung đớn hèn chắp

tay lạy như tế sao, làm Trần Quốc Toản bật cười tỉnh dậy và biết đây là một

giấc mơ. Bực tức vì nhỏ tuổi không được dự bàn việc nước, Hoài Văn Hầu

Trần Quốc Toản đã nhịn đói, rong ruổi ngựa suốt một ngày dưới nắng hè tìm

nơi họp bàn việc nước của nhà vua. Bị quân lính Thánh Dực ngăn cản, Quốc

Toản đã liều mình rút kiếm đe dọa. Sự khảng khái đó thể hiện tinh thần yêu

nước thiết tha khiến chú bé chẳng nghĩ gì đến tính mạng của mình.

Vua Thiệu Bảo ngợi khen và ban cho cam quý. Uất giận vì giặc cướp

nước, tủi hổ vì vẫn bị coi là trẻ con, Trần Quốc Toản đã bóp nát cam quý vua

ban lúc nào không biết. Những chấn động trong tình cảm đã khiến chú bé có

những hành động vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Sức mạnh của lòng

căm thù có thể biến thành một sức mạnh vật chất lớn lao. Trần Quốc Toản đã

tự dựng cờ nghĩa với sáu chữ vàng đã nhanh chóng thu phục được hơn sáu

trăm trai tráng thành lập quân đội, luyện tập võ nghệ, lên đường đánh giặc…

Những hành động đó thể hiện ý thức tự lập, tự cường cao cả của người anh

hùng nhỏ tuổi. Trận Hàm Tử Quan là trận phản công đầu tiên của nhà Trần

nhằm bẻ gãy sự phối hợp của hai cánh quân đường bộ do Thoát Hoan chỉ huy,

đường thủy do Toa Đô chỉ huy. Trần Quốc Toản đã xung phong đi đánh Toa

Đô với những lời khẳng khái “Một Toa Đô chứ mười Toa Đô cháu cũng

không sợ”, “Nếu không lấy được đầu Toa Đô cháu xin nộp đầu mình dưới

trướng”. Thái độ cương quyết của Trần Quốc Toản đã khiến Trần Hưng Đạo

hết sức hài lòng, tin tưởng giao nhiệm vụ là tướng tiên phong trong trận Hàm

Tử Quan. Trong cuộc giao tranh với lão tướng nhà Nguyên, Trần Quốc Toản

đã ba lần chủ động tấn công sang thuyền Toa Đô với một ý chí ngoan cường.

27

Bằng những chi tiết tiêu biểu, sinh động nhà văn đã khắc họa thành công tấm

gương thiếu nhi yêu nước: “Hoài Văn tuổi trẻ chí cao/ Cờ đề sáu chữ quyết

vào lập công”.

Tìm Mẹ là truyện cổ tích xuất sắc, hấp dẫn nhiều thế hệ bạn đọc bởi

tính cách nhân vật và truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc là: ác giả, ác báo,

ở hiền gặp lành … ngay vào đầu câu chuyện, người đọc bắt gặp cái tên của

hai nhân vật chính thật đặc biệt thằng Nhà và con Gạo. Tác giả viết: “Thôi,

đặt tên cho nó là Nhà để nó sau này nó có cái nhà trú mưa trú nắng… thôi, đặt

tên cho nó là Gạo để nó sau này nó còn có hột gạo mà ăn”. [24, tr. 67].

Có nhà để ở, có gạo để ăn đó là ước muốn cháy bỏng ngàn đời của cha

ông và dường như đến nay câu chuyện ấy vẫn là khát vọng, mong ước không

dễ thực hiện với bao người. Truyện kể thằng Nhà và con Gạo có hoàn cảnh

khốn khó, phải sống dưới sự cai trị của chúa làng gian ác. Hai anh em phải

trải qua bao gian truân, khổ cực, lạc mất mẹ, đói khát, rơi vào nanh vuốt hổ.

Nhưng được sự giúp đỡ của Rận, của Đại Bàng, các em đã tìm thấy mẹ, được

trở về mái ấm gia đình. Với mong ước nhỏ nhoi, bình dị: “Trở về làng từ nay

có nhà, có gạo, có mẹ có con. Con ơi con ngủ cho ngoan…” [24, tr. 96] . Câu

hát à ơi của người mẹ vang lên khi kết thúc truyện chứa đựng bao tình cảm

thiết tha, lòng yêu thương con vô bờ bến với khát vọng về một tương lai no

ấm, sum vầy đó là khát vọng của nhân dân ta. Tìm Mẹ xứng đáng được xếp

vào một trong những truyện viết cho thiếu nhi xuất sắc nhất, một đỉnh cao của

văn học hiện đại Việt Nam.

Sau truyện Tìm Mẹ phải kể đến truyện Cô bé gan dạ, một câu chuyện

mới được phát triển in trong tủ sách Hoa Xuân được Nguyễn Huy Tưởng viết

vào những năm 1940 của thế kỷ trước khi ông tham gia phong trào hướng

đạo. Truyện kể về một cô bé gan dạ đã vượt lên sự mê muội, mê tín của dân

làng khi ông Tiên chỉ cho biết thần làng báo mộng mỗi tháng phải nộp một

28

con lợn sống và mỗi năm phải cống nộp một người con gái tân. Làng Thần

Quyết hai mươi năm nay phải sống trong khủng bố, đe dọa với tâm lí nơm

nớp lo sợ. Năm nay cô Thứ con gái cụ Trương Nghiêm – một gia đình khốn

khó, hiếm hoi chỉ có một mụn con gái tới lượt phải nộp cho hung thần theo sự

bốc thăm của làng. Nhưng trái với tâm lí sợ sệt của thầy u, dân làng, cô Thứ

không hề run sợ, không sợ đối mặt với cái chết, cô chỉ thương cha mẹ già

không có ai chăm nom, lo liệu sớm hôm. Với bản lĩnh cứng cỏi, trí thông

minh, tinh thần dũng cảm, cô Thứ tưởng lúc đi vào cõi chết chỉ xin thầy u một

điều hãy rèn cho hai con dao thực sắc để nàng quyết sống chết với con ác thú.

Không tin vào những tin đồn nhảm, cô Thứ linh cảm và biết chắc trong hang

động không có thần thánh nào tác oai, tác quái mà chỉ có con thú dữ ăn thịt

người.

Nguyễn Huy Tưởng bằng tài quan sát, miêu tả, nghệ thuật kể chuyện

dẫn dắt độc đáo, khéo léo đã tái hiện cuộc chiến giữa người với ác thú, giữa

chính nghĩa với tàn bạo, hủ tục. Cuộc vật lộn, tấn công giữa một bên là người

con gái trẻ đẹp, đơn độc với một bên là con cá sấu dũng mãnh, phi thường

mình dài hơn một trượng được miêu tả chi tiết, gay cấn: “Mắt nó đang tìm tòi,

thì vụt một cái, giữa lúc cổ nó vừa ra khỏi miệng hang, một chiếc dao nhọn

của cô bé can đảm đã đâm thẳng vào chỗ hiểm ấy. Con vật bị đánh bất thình

lình kêu rít lên; nó định quay đầu lại để cắn kẻ thù nhưng không được vì con

dao đã cắm ngập cổ nó, mà mình nó còn bị giam hãm trong hang nên nó thiếu

đà” [24, tr. 19]. Cuối cùng bằng tài năng nghị lực và niềm tin vào cái thiện sẽ

chiến thắng, cô Thứ đã giải được cơn u mê, diệt trừ mối tai họa cho dân làng,

được nhân dân kính phục và ngưỡng mộ.

Viết cho thiếu nhi mảng măng non, Nguyễn Huy Tưởng còn mang đến

cho các em những câu chuyện cổ tích thần kỳ, những xứ sở thần tiên. Nhưng

thấp thoáng và ẩn sâu sau những chi tiết li kì, kì ảo như truyện An Dương

29

Vương xây thành Ốc, bạn nhỏ có thể bắt gặp những hình ảnh, con người trong

câu chuyện ở ngay giữa cuộc đời.

2.1.2.2. Nhân vật anh hùng.

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn đã dành nhiều tâm huyết cho đề tài lịch

sử. Các tác phẩm của ông về đề tài này đã tái hiện thành công những mốc lịch

sử của dân tộc. Ngay từ khi còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng đã có ý thức sâu sắc,

tầm quan trọng của việc am hiểu lịch sử trong đời sống tinh thần dân tộc,

cũng như trong sự phát triển của từng cá nhân, đặc biệt đối với thiếu niên nhi

đồng. Bằng những tác phẩm như An Dương Vương xây thành ốc, Lá cờ thêu

sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung, Hai bàn tay chiến sĩ…Nguyễn Huy

Tưởng đã đưa các em trở về với những năm tháng đầy hào hùng trong lịch sử

dân tộc. Điều hấp dẫn trẻ thơ từ những tác phẩm này chính là nghệ thuật khắc

họa các nhân vật anh hùng lịch sử.

Đề tài lịch sử không hề dễ viết nhưng bằng vốn kiến thức sâu rộng

bằng việc căn cứ vào các sử liệu và phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo

trong khi viết, Nguyễn Huy Tưởng đã giúp trẻ em hình dung một cách rõ nét,

sinh động về các giai đoạn lịch sử, các nhân vật lịch sử nhiều khi bị lớp bụi

thời gian làm mờ nhòa. Nhà văn đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc

trong việc khắc họa các nhân vật lịch sử đem lại sự thích thú cho thiếu nhi khi

được đọc tác phẩm của ông.

Nguyễn Huy Tưởng đã lựa chọn những tình huống truyện nhiều ý

nghĩa để khắc họa chân dung nhân vật lịch sử. Các nhân vật được đặt trong

những biến cố lịch sử dân tộc để bộc lộ phẩm chất. Bản lĩnh và tài năng của

Thục Phán - An Dương Vương trong việc xây thành, ghi lại hoàn cảnh đầy

thử thách, cam go của cả dân tộc. Giặc Triệu Đà đang tiến gần bờ cõi, làm

cách nào để chiến thắng giặc ngoại xâm, An Dương Vương cùng nhân dân Âu

Lạc đã dốc sức, đồng lòng để xây thành trì kiên cố chống giặc. Chuỗi truyền

30

thuyết về An Dương Vương có nhiều sự kiện lịch sử nhưng Nguyễn Huy

Tưởng đã chọn công việc xây thành để nhân vật vua An Dương Vương bộc lộ

phẩm chất và tài năng. Nhà văn đã mượn giấc mơ của An Dương Vương được

thần núi Thất Diện bày cách xây thành Ốc. “Thành này không có bốn cửa

đông, tây, nam, bắc. Quân Triệu Đà không biết đánh vào chỗ nào. Thành này

có nhiều lần tường. Thành này chỉ có một con đường đi vào, càng vào càng

heo hút, thẳm cùng. Vào không dễ mà ra. Vào ít thì không có sức mà đánh,

vào nhiều thì tắc nghẽn. Nhà vua đắp được thành này thì đánh được Triệu Đà.

Đấy gọi là thành Ốc” [24, tr. 136].

Giấc mơ kỳ diệu là kết quả của những trằn trọc, cân nhắc, An Dương

Vương cùng toàn dân bắt tay vào công cuộc xây thành. Hằng đêm, nhà vua có

mặt nơi diễn ra việc xây thành. Nhà vua mừng ra mặt khi bức thành vững chãi

hiện dần qua thời gian, lo lắng tái mặt, toát mồ hôi lúc gần sáng, có tiếng gà

gáy thành lại sụp đổ. Nhà vua bồn chồn ngày không ăn, đêm không ngủ,

người gầy như xác ve. Tấm lòng yêu nước đau đáu của nhà vua đã được

muôn dân chia sẻ, được thần linh cảm động giúp đỡ. Những người dân tự

nguyện giết hết gà trống để không còn tiếng gáy quái ác làm sụp thành. Gạt

bỏ những yếu tố kì ảo của một truyện cổ tích, các chi tiết của truyện vẫn giúp

trẻ hình dung ra tâm trạng, hành động, ý nghĩa xây dựng thành giữ nước của

An Dương Vương.

Nếu Lá cờ thêu sáu chữ vàng tái hiện lại giai đoạn lịch sử thế kỷ XIII

thì Kể chuyện Quang Trung lại đưa trẻ thơ đến với giai đoạn lịch sử thế kỷ

XVIII người anh hùng áo vải được đặt trong cuộc tiến công ra Bắc với nhiệm

vụ quyết sạch hai mươi vạn Quân Thanh. Bản lĩnh lãnh đạo, tầm nhìn, đức độ

của người chỉ huy được bộc lộ trong hoàn cảnh lịch sử này.

Chỉ bằng vài nét chấm phá với kể chuyện Quang Trung, Nguyễn Huy

Tưởng giúp trẻ em hiểu hơn tầm vóc của người anh hùng. Đọc xong tác phẩm

31

trẻ thơ không thể quên một ông vua tài năng, đức độ, có tài cầm quân đánh

đồn, hạ trại siêu phàm. Đoàn quân áo vải từ Nam ra Bắc với biết bao khó

khăn nhưng Quang Trung đều động viên được tinh thần quân sĩ, tạo nên cuộc

hành quân thần tốc, bất ngờ, bí mật. Đoàn quân qua dòng sông Gianh vào lúc

nửa đêm giữa mùa đông giá rét, Quang Trung đã “vi hành”, giả vờ ngủ để

hiểu tâm tư quân sĩ. Khi mọi người lính đều tuân theo lá cờ lệnh, ào ào vượt

sông sang bờ bắc, quyết tâm đánh giặc, ông mới trình bày kế hoạch vào thành

Thăng Long và cho quân ăn tết sớm. Quang Trung đã thương yêu quân sĩ như

những người thân trong gia đình. Nhà vua chia đội thành những nhóm nhỏ ba

người, dùng cáng để hành quân hai người khiêng và một người nằm nghỉ rồi

lại thay phiên nhau. Cách hành quân thần diệu đó vừa giữ sức cho quân lính,

vừa đảm bảo thần tốc.

Bạn đọc nhỏ tuổi nhớ mãi hình ảnh Quang Trung mặt sạm đen với

chiếc áo chiến bào tối như mực bên lá cờ hiệu cũng đen vì thuốc súng, cùng

quân sĩ lao vào đồn địch. Trận Hạ Hồi chỉ bằng việc ra oai gây thanh thế mà

kẻ thù khiếp sợ, lũ lượt ra hàng. Trận Ngọc Hồi, giặc trong đồn dùng súng

thần công bắn ra như mưa, khói đen mù mịt. Quang Trung đã đưa ra những

quyết định sáng suốt, kịp thời. Nhà vua dựa vào dân quanh vùng làm những

khiên lớn bằng gỗ nhồi rơm, cử mười người lính khiêng một chiếc mở đường

vượt thành lũy hạ đồn giặc. Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả hết sức cụ thể

những trận đánh hào hùng của nghĩa quân áo vải, qua đó ngợi ca tài thao lược

quân sự của Quang Trung. Không chỉ là người giỏi cầm quân, Quang Trung

còn là người có tầm nhìn xa, trông rộng biết trọng người tài. Hành quân đến

vùng Nghệ An, biết La Sơn phu tử là Nguyễn Thiếp đang ở ẩn trên núi,

Quang Trung không hề giữ sĩ diện cá nhân đã ba lần đích thân lên núi mời

Nguyễn Thiếp cùng tham gia giúp quân Tây Sơn. Ngay lúc đoàn quân áo vải

với sức mạnh như chẻ tre làm cho giặc kinh hoàng, Quang Trung đã nhờ

32

người viết thư cầu hòa với nhà Thanh để giữ hòa hiếu lâu dài tránh hao tổn

xương máu…

Cảm động hơn cả là mỗi lần đọc lại Hai bàn tay chiến sĩ người đọc

không thể kìm nén nổi cảm xúc trước những trang văn miêu tả sinh động tinh

thần dũng cảm hi sinh, quyết tâm đánh đuổi quân thù của một người nông dân

– đảng viên mang trong mình cái tên giản dị, mộc mạc như đất đai quê hương:

Bẩm. Với cách kể chuyện dung dị, Nguyễn Huy Tưởng đã dẫn dắt người đọc

đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với những sự kiện, chi tiết, hình ảnh gây

xúc động mạnh. Vào truyện là cảnh tưng bừng của hội nghị chiến sĩ thi đua.

Anh chiến sĩ nông dân, quê Nam Định lên báo cáo thành tích trước hội nghị

và câu chuyện về hai bàn tay của Bẩm được tiếp diễn qua các sự việc: cảnh

buồng giam, cuộc đối thoại giữa Bẩm và đồng chí bí thư chi bộ xã với những

lời dặn dò, cảnh hai người bị tra tấn, họ bị đốt hai bàn tay và bị trôi sông. Tiếp

đến là dồn dập những cảnh tượng và hình ảnh đau đớn, ghê rợn: Bẩm bị lũ

quạ xúm xít vào rỉa chỗ bị thương, cảnh Bẩm dúi tay vào cát nóng, cảnh đàn

kiến lửa bu vào người Bẩm, rúc vào đôi bàn tay đã thối rữa.

Cuối cùng Bẩm vẫn chiến thắng. “Anh còn sống. Phải sống để chiến

đấu thay người đã chết” [25, tr. 53]. Bẩm vượt qua được những thử thách ấy

“Anh vượt được, không phải vì có xương đồng da sắt, mà vì anh có một lòng

tin sắt đá vào Đảng, vào các đồng chí của anh, vào chính bản thân anh”. [25,

tr. 53].

Là nhà văn cách mạng, theo sát từng bước đi của kháng chiến, gắn bó

mật thiết với nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng ý thức rõ về thiên chức của người

nghệ sĩ với quan niệm nghệ thuật tiến bộ: “Phàm văn chương mục đích thứ

nhất là để dạy dỗ thiếu niên… cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm

lòng bồng bồng, bột bột, mà vẫn biết lẽ phải và biết thương nhau”; vì thế khi

viết truyện thiếu nhi, nhà văn rất nhạy cảm, tinh tế trong việc lựa chọn đối

33

tượng phản ánh, khơi gợi được trong các em những tình cảm trong sáng, vị

tha, học tập những tấm gương anh hùng cách mạng để sống, học tập xứng

đáng với kỳ vọng của người đã ngã xuống, của gia đình, nhà trường, xã hội.

Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, mỗi hành động nhỏ, có ích của

các em đều góp phần làm cho quê hương thêm tươi đẹp…

Là cây bút chuyên viết đề tài về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả,

khắc họa thành công nhiều nhân vật anh hùng - những người đã được lưu

danh trong sử sách. Bằng nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí, xây

dựng kết cấu, cốt truyện, tác giả đã làm sống dậy cuộc đời, sự nghiệp của các

nhân vật lịch sử gắn liền với những chiến công hiển hách. Nhân vật lịch sử

cũng như nhiều nhân vật khác đều được xây dựng trong những mối quan hệ

đa chiều, trong sự phức tạp của bối cảnh, sự phong phú của thế giới nội tâm.

Điều này khác hẳn với lối miêu tả nhân vật lịch sử của một số tiểu thuyết gia

cùng thời. Xây dựng hình tượng nhân vật Quân vương, tướng sĩ, tác giả đảm

bảo được tính chân thực, khách quan của lịch sử, đồng thời tôn trọng quy luật

của đời sống nội tâm. Vì thế nhân vật lịch sử vừa truyền tải được âm vang,

không khí thời đại, vừa gần gũi, thân quen với người đọc.

Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, nhân vật lịch sử thường được

đặt làm tên nhan đề cho tác phẩm như: An Dương Vương - An Dương Vương

xây thành Ốc, Quang Trung - Kể chuyện Quang Trung, hay những địa danh

gắn liền với những sự kiện trọng đại, gợi nhắc hình tượng nhân vật: “Him

Lam là trận mở màn và cũng là trận đánh thắng đầu tiên của chiến dịch Điện

Biên Phủ… Him Lam còn ghi mãi hình ảnh của anh hùng Phan Đình Giót,

người đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng đội tiến lên tiêu diệt một

tiểu đoàn lê dương tinh nhuệ và chọc thẳng cái cửa sắt của tập đoàn cứ điểm

Điện Biên [25, tr. 70]. Viết về nhân vật lịch sử, tác giả thể hiện lòng biết ơn,

kính trọng, ngợi ca, tự hào. Ngay từ thuở nhỏ thông qua các tích truyện lịch

34

sử, nhà văn đã có những xúc động mạnh về hình ảnh các vị anh hùng. Nhà

văn muốn nêu công lao, sự nghiệp các vị ấy trong các trang văn để người đời

ngưỡng mộ, tôn thờ, thắp lên niềm tin, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bởi vậy

hình tượng nhân vật lịch sử thường được khai thác ở phương diện thái độ,

tinh thần, trách nhiệm đối với non sông, đất nước.

Đó là hình ảnh An Dương Vương trong buổi đầu dựng nước, dù nhiều

lần giao chiến thất bại nhưng không vì thế mà nản chí, nhà vua quyết tâm

dựng xây Loa thành, huy động tinh thần đoàn kết, sáng tạo của nhân dân để

bảo vệ non sông. Đó là hình ảnh vua Thiệu Bảo - một vị vua nhân từ đức độ,

cùng đau với nỗi đau của dân chúng, ngày đêm lo bàn mưu kế chống lại yêu

sách của giặc. Và cảm động hơn cả là câu chuyện giữa vua và người lính hầu

Trần Lai. Trong một lần chở nhà vua đi thị sát tình hình quân giặc trên sông

Cái, thấy vua sau một ngày vất vả, Trần Lai dâng lên nhà vua một nắm cơm

đỏ bọc lá chuối xanh. Nhà vua cảm động, mắt rơm rớm lệ cảm kích trước tấm

lòng thơm thảo của người lính. Có thể nói, Vua Thiệu Bảo hiện lên trong tác

phẩm là hình ảnh cao đẹp của tấm lòng yêu nước thương dân, căm thù giặc

sâu sắc. Tấm lòng ấy được thể hiện qua lời nguyền: “Dẹp giặc mạnh xong

nguyện xin thề phát xuất gia, phổ độ chúng sinh, cầu cúng cho oan hồn kẻ sĩ.”

Bên cạnh hình ảnh các vị vua, Nguyễn Huy Tưởng còn đi sâu miêu tả,

khắc họa hình ảnh các tướng lĩnh, nhất là các tráng sĩ nhà Trần. Từ dáng vẻ bề

ngoài, hành động, cử chỉ, lời nói đến những diễn biến tâm trạng đều toát lên

vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ, dũng cảm, tràn đầy tinh thần yêu nước. Xây

dựng hình tượng nhân vật Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nhà văn tập

trung khắc họa vẻ đẹp ngoại hình: “Đại vương như tất cả đàn ông họ Trần,

người cao lớn, nhưng đặc biệt nhất là vai rất nở, mắt rất tinh, tuổi già càng

thêm quắc thước”.

35

Như vậy, đằng sau tướng mạo oai phong lẫm liệt của một vị tướng từng

xông pha chiến trận, làm nên những chiến công hiển hách lại là một con

người với những suy tư trăn trở, có những đêm trằn trọc, lo lắng khi trong

quân ngũ xuất hiện những tư tưởng dao động, nhiều binh sĩ đảo ngũ, mải mê

với thú vui tầm thường mà sao nhãng việc nhà binh. Trước tình hình đó, Quốc

Công viết Hịch tướng sĩ với những câu văn thấm thía: “Ta nay ngày thì quên

ăn, đêm thì quên ngủ, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, lúc nào cũng bực

tức rằng sao chưa xả thịt lột da chúng được...”[25, tr. 42].

Còn với nhân vật Chiêu Thành Vương, nhà văn cũng dành nhiều trang

văn để tô đậm hình ảnh tráng kiện, vẻ đẹp ngoại hình của một vị Đại vương

chức trọng quyền cao: “Vương đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng thân hình nở

nang, bắp thịt rắn như sắt, người chắc như một hòn đá tảng” [25, tr. 109].

Với nhân vật Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, nhà văn dành cả một thiên

truyện, tương đương như một truyện vừa, để khắc họa vẻ đẹp, cuộc đời của

người anh hùng tuổi trẻ tài cao, chí lớn có những hành động quả cảm, lập nên

những chiến công hiển hách. Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã tạo được ấn tượng

sâu đậm trong lòng bạn đọc, nhất là các bạn nhỏ tuổi. Tuy còn trẻ tuổi nhưng

những hành động đầy quả quyết như: bóp nát quả cam vua ban khi không

được tham dự hội nghị bàn việc nước ở bến Bình Than; phất cao lá cờ “Phá

cường địch, báo hoàng ân”, chiêu binh mãi mã, ngày đêm luyện tập binh thư

yếu lược, cùng anh em người Mán là Thế Lộc đuổi bắt quân thù trên đồi Ma

Lục với những kế sách, mưu tính chính xác, khôn lường khiến quân thù khiếp

sợ… đã nói lên tinh thần, khí phách, vẻ đẹp dũng mãnh của chàng trai trẻ thời

Trần.

Với đối tượng hướng tới là thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt chú ý

đến việc sử dụng câu chữ, ngôn từ để làm nổi bật hình tượng nhân vật, phù

hợp với tâm lí và khả năng tiếp nhận của bạn đọc. Lá cờ thêu sáu chữ vàng

36

với những câu văn trang trọng, trong sáng, gợi không khí thời đại, vừa giản

dị, gần gũi, giàu chất thơ như: “Con đi phen này đã thề sống chết với giặc.

Bao giờ đất nước thanh bình, bốn phương bể lặng trời im, con mới trở về. Xin

mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để cho con được yên lòng xông pha trận mạc”

[25, tr. 116] đã gieo vào lòng người đọc niềm tự hào về những trang anh hùng

của dân tộc. Nhưng nổi bật và ấn tượng hơn cả là hình ảnh cao đẹp, kỳ vĩ của

những bậc anh hùng, những người đã hy sinh cho Tổ quốc, làm nên những

trang sử oai hùng như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,

Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng, Nguyễn Khoái, Lê Phụ Trần, Trần Quốc

Toản…Qua những tác phẩm viết về lịch sử với hình tượng các nhân vật anh

hùng, tác giả đã làm sống dậy bức tranh lịch sử của các triều đại đã qua gắn

liền với những con người tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh toàn dân tộc. Đồng

thời bộc lộ niềm trân trọng, ngợi ca với mối cảm hoài sâu sắc về truyền thống

anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, xây dựng hình tượng quân vương, tướng sĩ, nhà văn vừa đảm

bảo được tính chân thực lịch sử, tinh thần và âm vang thời đại, vừa có những

sáng tạo, hư cấu hợp lí, đi sâu phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thông qua

ngôn ngữ, hành động và các mối quan hệ đa chiều. Nhân vật được đặt trong

bối cảnh, không khí cuộc chiến tranh ác liệt. Qua đó khẳng định sức mạnh, vẻ

đẹp của con người Việt Nam, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo

vệ bờ cõi thiêng liêng với lòng yêu nước nồng nàn.

2.1.2.3. Nhân vật từ thế giới loài vật.

Trong kho tàng văn học dân gian của các dân tộc đều có sự tồn tại của

một bộ phận truyện kể về loài vật, được gọi là truyện cổ tích loài vật. Các nhà

nghiên cứu văn học dân gian không lập mảng truyện này thành một thể loại

riêng mà xem nó là một tiểu loại của truyện cổ tích.

37

Theo nhận định chung, mảng truyện cổ tích loài vật được hình thành từ

rất sớm. Ban đầu, nó được dành chung cho tất cả mọi người. Nhưng về sau,

khi nhân loại đã đi qua thời thơ ấu, trình độ hiểu biết được nâng lên thì những

câu chuyện về loài vật như vậy không còn hấp dẫn nữa. Nó chỉ còn thích hợp

với trẻ em, vẫn được trẻ em yêu thích. Chính từ những câu chuyện giản đơn

mà hấp dẫn đó, trẻ em tìm được con đường đi tới hiểu biết về thế giới loài vật

xung quanh mình. Với đặc điểm về nghệ thuật (nhân cách hóa loài vật) và đối

tượng tiếp nhận (trẻ em), truyện cổ tích loài vật hoàn toàn xứng đáng là

truyện đồng thoại dân gian. Như vậy, truyện đồng thoại dân gian là một hình

thức truyện kể lấy con vật làm đối tượng phản ánh để nhận thức những đặc

điểm tự nhiên của chúng trong quan hệ xã hội - thẩm mỹ với con người. Nó là

sản phẩm sáng tạo của quần chúng nhân dân, là món ăn tinh thần không thể

thiếu của trẻ em ở mọi thời đại.

Nét mới mẻ của truyện đồng thoại hiện đại thể hiện ở việc xây dựng

hình tượng nhân vật. Nhân vật loài vật trong truyện đồng thoại hiện đại

thường được nhà văn gắn cho những đường nét tính cách, tâm hồn trẻ em. Vì

vậy, nhân vật hiện ra trong tác phẩm đồng thoại không đơn thuần chỉ để tái

hiện mặt tự nhiên của chính nó, mà còn là hình tượng ẩn dụ về trẻ em trong

cuộc sống hiện nay. Đây là một trong những lí do làm nên sức hấp dẫn của

truyện đồng thoại. Khi tiếp xúc với các nhân vật, các em dễ nhận ra bóng

dáng cuộc sống của mình, của bạn bè mình được thể hiện trong đó.

Từ lòng mong muốn đưa tâm hồn trẻ thơ tới những đỉnh cao đẹp trong

tư tưởng tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn chủ đề theo lối riêng của

mình để thể hiện những mô típ cổ tích, xây dựng nhân vật từ thế giới loài vật

một cách sinh động đầy hấp dẫn.

Chẳng hạn, chỉ mấy nét phác họa về dáng vẻ và suy nghĩ của Cóc,

Nguyễn Huy Tưởng đã làm cho câu chuyện trở lên mới mẻ, sinh động hẳn:

38

“Cóc ngồi xổm trong hang con, cái miệng rộng há ra, cổ họng khan như cháy

bỏng. Cóc biết cây cỏ, chim muông thú vật chết gần hết rồi... Nhìn ra ngoài

hang, chỉ thấy giời mênh mông bao la đỏ chói. Cóc mở to đôi mắt rồi nhìn

trừng trừng lên giời, miệng rộng nghiến lại, Cóc giận Giời lắm,…” [24, tr.

117]. Chính sự kết hợp nhịp nhàng giữa ngoại hình và tính cách như vậy đã

làm cho nhân vật truyện đồng thoại hiện đại mất dần tính chất loại hình và có

khả năng chuyển hóa thành nhân vật cổ tích.

Tuy truyện Tấm Cám nhân vật chim vàng anh xuất hiện là lần hóa kiếp

đầu tiên sau khi Tấm bị mẹ con Cám hãm hại, mượn tiếng hót của mình, vàng

anh đã khiến cho Cám sợ chết khiếp, nhờ tiếng hót của mình vàng anh lấy

được trọn vẹn tình cảm yêu thương của nhà vua và cũng chính tiếng hót ấy đã

khiến vàng anh phải chết đau đớn dưới bàn tay độc ác của mẹ con Cám.

Mượn hình ảnh con vật để nói lên tiếng nói con người là mô típ thường

gặp trong các câu chuyện cổ tích. Nguyễn Huy Tưởng phần nào thể hiện ý

nghĩa câu chuyện, gửi gắm ước mơ mong muốn của mình đến với các em

bằng đôi cánh của trí tưởng tượng hư cấu, lãng mạn nhưng lại có giá trị hiện

thực, giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó từng câu chuyện, từng dòng văn nhẹ

nhàng, lôi cuốn các em khiến các em không sao quên nổi hình ảnh con người

xấu xí mà gan dạ tốt bụng dám làm những điều mà kẻ mạnh gấp trăm lần

không dám. Chim vàng anh có tiếng hót trong trẻo say sưa dịu dàng nhưng vô

cùng quyết liệt khi đấu tranh với cái ác, bênh vực cái thiện. Hình ảnh con

chim Trĩ lông trắng lại được Nguyễn Huy Tưởng xây dựng giống như biểu

tượng của một con người với một tình yêu quê hương, đất nước không gì thay

đổi được. Vẻ đẹp và tiếng hót của chim Trĩ lông trắng chỉ tỏa sáng nơi miền

quê ấm áp yêu thương trong khu vườn bốn mùa hoa lá tốt tươi: “Những ngày

nắng vàng rực rỡ, lông chim càng mượt, tiếng nó hót càng hay. Nó chuyền

cành nọ sang cành kia, nó bay nó lượn trong ánh nắng” [24, tr. 130]. Còn khi

39

đến với đất nước xa lạ kia, đến khu vườn lạnh giá của phương Bắc thì nó lại

lãnh cảm và ủ rũ: “Nó đậu trên một cành cây, nó xù lông rũ cánh. Nó nghĩ tới

cái vườn của nó ở xa tít phương Nam, xanh ngắt một màu với dàn trầu, cây

cau, khóm tre, rặng chuối. Mà sao ở đây rét tệ. Trời lúc nào cũng tối sầm. Con

chim Trĩ càng thấy nhớ quê hương”[24, tr. 131]. Phải chăng tình cảm là thứ

mà không phải sự giàu sang đầy đủ, sự nâng niu chiều chuộng có thể mua

chuộc được, mà đó lại là thứ tình cảm thiêng liêng, gần gũi nhất đối với mỗi

con người.

Xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn không sa vào việc miêu tả, tường

thuật tỉ mỉ mà chọn những điểm sáng, những đặc điểm tiêu biểu trong cuộc

đời, số phận nhân vật để phản ánh. Nhân vật luôn được soi chiếu trong những

mối quan hệ đa chiều, trong mối tương quan với vận mệnh quốc gia, dân tộc,

trong những vấn đề, sự kiện trọng đại, lớn lao của lịch sử để thấy được ý thức

trách nhiệm của mỗi cá nhân trước số phận cộng đồng. Nhân vật trong sáng

tác của nhà văn vừa có những nét chân thực đời thường, vừa mang tính khái

quát, điển hình. Đó là những người có lý tưởng, khát vọng lớn lao mang tầm

thời đại. Nhân vật lịch sử hiện lên không khô cứng, máy móc, một chiều mà

luôn sống động, tự nhiên. Những con người của một thời nhưng qua nghệ

thuật miêu tả của nhà văn lại như đang hiện diện trong cuộc sống hiện tại để

đối thoại với người đọc. Đây là một biệt tài nghệ thuật, là nét độc đáo trong

sáng tác của nhà văn.

2.1.3. Một số biện pháp khắc họa nhân vật

2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua hành động và xung đột

Nhân vật là hình tượng trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc

thể hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Nhân vật trong sáng tác của

Nguyễn Huy Tưởng mang sắc màu riêng, cá tính riêng qua điểm nhìn nghệ

thuật và cách miêu tả, phản ánh độc đáo. Hướng về những nhân vật lịch sử có

40

thật trong đời sống dân tộc, Nguyễn Huy Tưởng đã lựa chọn những tình

huống truyện nhiều ý nghĩa để khắc họa chân dung nhân vật một cách chân

thực nhưng lại rất sinh động và hấp dẫn với bạn đọc nhỏ tuổi. Để miêu tả tính

cách hành động của nhân vật anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản, nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng đã kể về sự kiện giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước

ta lần thứ hai (năm 1285), vua quan, binh lính nhân dân thời Trần đều đứng

lên đánh giặc. Đây là giai đoạn lịch sử hào hùng với hào khí Đông A tỏa sáng.

Trần Thủ Độ với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng

lo”. Trần Bình Trọng với câu trả lời đanh thép “Ta thà làm quỷ nước Nam

chứ không thèm làm vương đất Bắc”, Trần Hưng Đạo với câu nói nổi tiếng:

“Xin bệ hạ trước hãy chém đầu thần đi rồi hãy ra hàng” những người lính tự

thích vào vai hai chữ “Sát Thát” [25, tr. 145] với lời thề thiêng liêng sống

đánh giặc, chết cũng đánh giặc … Trần Quốc Toản là một thiếu nhi chưa đầy

mười sáu tuổi, bằng những việc làm cụ thể góp sức mình bảo vệ non sông.

Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản một thiếu niên yêu nước Thời

Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã chọn lựa những chi tiết phù hợp với tính cách

nhân vật, đáp ứng được tâm lí của trẻ em khi đọc tác phẩm. Trần Quốc Toản

là một thiếu niên sớm có ý thức trách nhiệm với non sông. Trước thái độ

nghênh ngang hợm hĩnh coi thường phép nước của sứ giả nhà Nguyên tất

thảy mọi người dân đất Việt đều vô cùng căm giận. Nỗi uất ức căm giận đó

cũng xen vào giấc ngủ trẻ thơ. Trần Quốc Toản mơ bắt được Sài Thung (tên

sứ giả hống hách của nhà Nguyên) nhốt vào cũi, giải về kinh. Sài Thung đớn

hèn chắp tay lạy như tế sao, làm Trần Quốc Toản bật cười tỉnh dậy và biết

đây là một giấc mơ. Bực tức vì nhỏ tuổi không được dự bàn việc nước của

nhà vua. Bị quân lính Thánh Dực ngăn cản, Quốc Toản đã liều mình rút kiếm

đe dọa “Không buông ra ta chém, rồi chạy xồng xộc xuống bến, quỳ trước

nhà vua tiếng nói như thét “Xin quan gia cho đánh, cho giặc mượn đường là

41

mất nước” [25, tr. 101] yêu nước tha thiết khiến chú bé chẳng màng gì đến

tính mạng của mình. Vua Thiệu Bảo ngợi khen và ban cho cam quý, uất giận

vì giặc cướp nước, tủi hổ vì vẫn bị coi là trẻ em, Trần Quốc Toản bóp nát quả

cam qúy vua ban lúc nào không biết. Những chấn động trong tình cảm đã

khiến chú bé có những hành động vượt ra ngoài sự kiểm soát của lí trí. Sức

mạnh của lòng căm thù có thể biến thành một sức mạnh vật chất lớn lao. Trần

Quốc Toản đã tự dựng cờ nghĩa với sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng

ân” [25, tr. 112], nhanh chóng thu phục hơn sáu trăm trai tráng thành lập quân

đội, luyện tập võ nghệ, lên đường đánh giặc … Những hành động đó thể hiện

ý thức tự lập, tự cường cao cả của người anh hùng nhỏ tuổi. Trần Quốc Toản

đã xung phong đi đánh Toa Đô với những lời khẳng khái “Một Toa Đô chứ

mười Toa Đô cháu cũng coi thường. Xin Quốc công cho cháu đi theo hoàng

thúc. Cháu sẽ cùng tướng quân Nguyễn Khoái đánh cho Toa Đô mảnh giáp

không còn. Cháu xin làm một tờ giấy cam đoan. Không đánh được Toa Đô,

cháu xin nộp đầu dưới trướng” [25, tr. 152]. Thái độ cương quyết của Trần

Quốc Toản đã khiến Trần Hưng Đạo hết sức hài lòng, tin tưởng giao nhiệm

vụ là tướng tiên phong trong trận Hàm Tử Quan. Trong cuộc giao tranh với

lão tướng nhà Nguyên, Trần Quốc Toản đã ba lần chủ động tấn công sang

thuyền Toa Đô với một ý chí ngoan cường. Bằng những chi tiết tiêu biểu, sinh

động nhà văn đã khắc họa thành công tấm gương thiếu nhi yêu nước.

Cùng với nghệ thuật tạo dựng tình huống, lựa chọn các chi tiết tiêu

biểu, Nguyễn Huy Tưởng còn sử dụng rất thành công biện pháp đối lập khi

khắc họa chân dung, tài năng, tính cách của các nhân vật anh hùng. Ở An

Dương Vương là sự đối lập giữa khả năng có hạn của con người và khát

vọng, hoài báo lớn lao, trong một thời gian ngắn xây dựng được thành trì kiên

cố chống giặc ngoại xâm. Vì thế nhà vua đã dốc lòng, dốc sức hết lòng vì

nước, vì dân. Khắc họa Trần Quốc Toản, nhà văn lại chú ý sự đối lập giữa

42

ngoại hình có phần yếu liễu đào tơ “Da trắng, môi đỏ, mắt xanh biếc”, khuôn

mặt ngây thơ còn bụ sữa với những suy nghĩa sâu sắc, chín chắn mong được

dời non, lấp biển; đối lập giữa tuổi đời còn rất nhỏ là những ý chí kiên định,

hành động quyết đoán; đối lập giữa con người quyết đoán mạnh mẽ trong

hành động hết sức giàu tình cảm, dễ mủi lòng, dễ xúc động.

Hành động và xung đột giữa cô Thứ và con ác thú trong truyện Cô bé

gan dạ được tác giả miêu tả: “Nhanh như cắt, cô thuận tay trái, giáng thẳng

con dao thứ hai vào giữa đầu con quái vật. Lần này con dao cắm ngập đến

chuôi. Vì nàng tự chủ được mình, và vì thế điều khiển được tay, nên hai lưỡi

dao đâm trúng chỗ nàng nhằm, mà trúng rất mạnh.”[24, tr. 19]. Và hành động

trước tình huống xảy ra khi đang kéo pháo vào trận địa được tác giả viết: “Cả

người anh đã lao vào bánh xe thay cho khúc gỗ, Bánh xe bị chặn và bẻ quặt

về bên núi đá… Nhưng thân thể anh hùng Tô Vĩnh Diện đã bị nát nhừ. Gương

khi sinh chói lọi ấy đã làm tăng thêm quyết tâm của những chiến sĩ kéo pháo

và làm phấn khởi những người xung kích ở Điện Biên” [25, tr. 75].

2.1.3.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình.

Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ hình dáng diện mạo trang phục,

cử chỉ, tác phong…là toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bên ngoài của

nhân vật. Nhà văn có thể khắc họa ngoại hình nhân vật một cách trực tiếp

thông qua ngôn ngữ người kể chuyện. Cũng có khi ngoại hình nhân vật được

miêu tả một cách gián tiếp thông qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của một nhân

vật khác trong tác phẩm. Ngoại hình nhân vật có thể được nhà văn tập trung

miêu tả trong một đoạn văn ngắn gọn cũng có thể được miêu tả một cách rải

rác, xen kẽ giữa các chương, đoạn qua những tình huống và hoạt động khác

nhau của nhân vật. Nhìn chung ngoại hình nhân vật được thể hiện sinh động

sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, đặc biệt nó có tác dụng khá rõ trong

việc cá biệt hóa nhân vật.

43

Viết cho lứa tuổi thiếu nhi, đặc biệt là viết về nhân vật thiếu nhi, nhân

vật anh hùng, Nguyễn Huy Tưởng luôn chú trọng đến việc miêu tả ngoại hình

nhân vật để bộc lộ tính cách và phẩm chất của họ. “Đấy là một thiếu nhi thì

đúng hơn, vì Hoài Văn chưa tròn mười sáu tuổi. Bộ áo vóc lùng thùng, chưa

bó sát vào tấm thân mảnh khảnh. Tay áo chét theo kiểu nhà võ còn quá rộng

so với cổ tay. Hầu vấn khăn nhiễu kiểu người lớn. Nhưng búi tóc còn quá

nhỏ, tinh ý mới nhìn thấy được” [25, tr. 94 - 95].

Vẻ ngoài hình thức trái ngược với tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của vị

anh hùng nhỏ tuổi này. Lòng căm thù giặc khiến cho Trần Quốc Toản càng

trở lên dũng cảm, gan dạ, muốn thể hiện bản lĩnh của mình, quyết tâm một

lòng đánh giặc. Hoài Văn đã thích hai chữ “Sát thát” vào tay chàng không

thấy đau chỉ thấy say sưa rạo rực như đang hăng máu trên chiến trường: “Tiết

chế cho cháu đi đánh trận này. Trận nào cháu cũng xin đi, huống nữa là trận

đầu ?” [25, tr. 152]. Tác phẩm đã hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân

vật lịch sử Trần Quốc Toản, là hình tượng danh tiếng thiếu nhi anh hùng,

người có nhiệt huyết nóng bỏng của tuổi thơ, là người dũng cảm, có lòng yêu

nước, sống và hi sinh vì dân tộc.

Hai bàn tay chiến sĩ là một trong những truyện của nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng viết cho thiếu nhi, xuất hiện ngay trong những ngày đầu thành lập

Nhà xuất bản Kim Đồng. Nhân vật chính của truyện có nguyên mẫu là chiến

sĩ Nguyễn Văn Bẩm mà tác giả có dịp gặp gỡ trong Hội nghị chiến sĩ toàn

quân năm 1952. Trong một trận càn ác liệt của địch, anh bị địch bắt. Chúng

dùng nhiều cực hình dã man, thậm chí đốt cả hai bàn tay anh để bắt anh khai

đồng chí của mình. Với nghị lực phi thường, anh Bẩm đã vượt qua mọi thử

thách để trở về với đồng đội, tiếp tục tham gia chiến đấu. Sau những trang văn

miêu tả sinh động, chi tiết hình ảnh gây xúc động mạnh, tác giả viết: “Cả hội

trường cảm động nhìn đôi bàn tay tàn tật của anh. Đôi bàn tay còng queo, teo

44

lại. Các ngón tay đều cụt, một hai ngón tay còn lại thì dại đờ như mấy cây trơ

trụi trong một cái vườn đã cháy hết” [25, tr. 42]. Tiếp đến là dồn dập những

cảnh cụ thể: Bẩm bị lũ quạ xúm xít vào rỉa chỗ bị thương, cảnh Bẩm dúi tay

vào cát nóng, cảnh đàn kiến lửa bu vào người Bẩm, rúc vào đôi bàn tay thối

rữa. Cuối cùng Bẩm cũng chiến thắng, Bẩm vượt qua thử thách bằng chính

bản lĩnh và nghị lực của mình, qua nhân vật Bẩm, tác giả đã khắc họa rất sắc

nét chân dung người chiến sĩ cách mạng thời kỳ chống Pháp, nó như một biểu

tượng của lòng dũng cảm, kiên trung, của tinh thần dân tộc bất diệt trước kẻ

thù. Người chiến sỹ ấy, dù phải vượt qua bao sự tra tấn dã man của kẻ thù thì

lòng quả cảm, tinh thần yêu nước của anh lại càng được nhân lên bấy nhiều.

Trong truyện Chiếc bánh chưng, Hoàng Tử với tấm lòng nhân đức hay

giúp đỡ người nghèo và bênh vực những người hèn yếu được người dân yêu

mến. Tuy là con vua Hùng Vương nhưng hoàng tử có cuộc sống trong hòa

hợp với dân: “ Hoàng tử từ bấy giờ chỉ chuyên tâm làm việc đồng áng, ăn ở

với bọn nhà quê và như một người nhà quê, sống một cuộc đời bình dị, ngày

ngày nón lá áo vải ra đồng cày cấy” [24, tr. 27].

Với Kể chuyện Quang Trung, hình ảnh Quang Trung xuất hiện:

“Quang Trung cười, mắt sáng quắc vụt lên một ánh chớp lạ lùng” [24, tr. 211]

tinh thần hành quân thần tốc và tài dùng quân của Quang Trung cũng như

kinh nghiệm trong các trận hạ đồn giặc đã tạo thế mạnh cho quân sĩ, sự bình

tĩnh tự tin như vậy là điều chiến thắng to lớn trong cuộc tiến công ra bắc để

đại phá quân Thanh.

2.1.3.3. Khắc họa nhân vật bằng mô tả và phân tích tâm lý.

Các nhà nghiên cứu văn học nhấn mạnh thành công trong nghệ thuật

xây dựng nhân vật của nhà văn ở cả hai phương diện “Biện chứng pháp hành

động” và “Biện chứng pháp tâm hồn”. Điều đó cũng có nghĩa là tính tất yếu

45

trong hành động của nhân vật thường liên quan chặt chẽ với tính tất yếu trong

hoạt động nội tâm của nhân vật.

Ở đây khái niệm “nội tâm” chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân

vật, đó là những tâm trạng suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản ứng tâm

lí của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật chứng kiến

hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình. Nhà văn có thể trực tiếp biểu

hiện nội tâm của nhân vật bằng ngôn ngữ của chính mình với tư cách người

kể; nhưng biện pháp mà nhà văn hay dùng nhất là biểu hiện độc thoại nội tâm

và đối thoại trong nội tâm nhân vật. Những đoạn này được thực hiện bằng

chính ngôn ngữ của nhân vật, chúng “vang lên” một cách thầm lặng trong tâm

tư của nhân vật. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày những diễn biến trong tâm

trạng của mình qua những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể.

Khi xây dựng nhân vật Trần Quốc Toản, một thiếu nhi yêu nước thời

nhà Trần, Nguyễn Huy Tưởng đã biết cách lựa chọn những chi tiết phù hợp

với tâm lí lứa tuổi thiếu niên để các em hình dung và hiểu rõ tâm trạng nhân

vật này trong từng phần của truyện. Đặc biệt tác giả miêu tả tâm trạng của

Trần Quốc Toản, khi chàng thức trắng đêm để “thiết kế” lá cờ ra trận: “Chữ

đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho

kẻ địch kinh hồn”. [25, tr. 112].

Rồi Trần Quốc Toản ngày đêm nghiên cứu binh thư và đọc lại bài hịch

“Đã ba lần, lính hầu rót đầy dầu vào đĩa đèn. Đã ba lần đĩa dầu cạn nhưng hai

người vẫn cắm cúi đọc những lời vàng ngọc trong cuốn binh thư mới” [25, tr.

143]. Chàng chiêu binh và ra sức tập luyện ngày đêm, say mê luyện tập võ và

học cách bài binh bố trận.

Hoài Văn coi binh sĩ như anh em một nhà, không phân biệt sang hèn,

ăn chung một mâm và nằm trên một chiếc giường, tình nghĩa ngày càng thắm

thiết.

46

Hoài Văn là một người trọng tình nghĩa, không muốn rời xa anh em

người Mán. Lúc chia tay Thế Lộc: “Cháu chia tay với Thế Lộc sao nên?”,

“Hoài Văn bậm môi lại. Vẻ ngây thơ hiện rõ trên khuôn mặt đã nhuốm màu

sương gió”, “Anh Thế Lộc ơi, Toản cũng chẳng muốn về đâu”, “Lòng Hoài

Văn thổn thức, nhịp theo vó ngựa ruổi trên đường núi gập ghềnh, khúc

khuỷu…”. [25, tr. 138 –141].

Khi người tướng già đỡ nhát kiếm cho Hoài Văn, Hoài Văn muốn ở lại

lo cho ông “Hoài Văn ôm lấy người tướng già, lòng Hoài Văn đau như cắt.

Cánh tay phải của người tướng già bị chém đã lìa khỏi vai, máu chảy lênh

láng” [25, tr. 166]. Hoài Văn nói “Ta nhờ ông dạy dỗ nên mới có ngày nay,

lại chính nhờ có ông mà hôm nay ta thoát chết, ta bỏ ông đây sao được” [25,

tr. 167]. Tình cảm chân thành sâu sắc gắn bó với Thế Lộc và người tướng già

thật cảm động. Tác giả đã đánh thức trong sâu thẳm trong tình cảm mỗi con

người trước những tình cảm thiêng liêng đó.

Một chàng thiếu niên trẻ tuổi nhưng có sự suy nghĩ và cách ứng xử với

mọi người lại chín chắn và từng trải vô cùng. Chàng luôn tỏ ra thật dũng cảm,

gan dạ, bản lĩnh, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Nhưng với mẹ, Trần Quốc Toản

lại là một chú bé vô cùng yêu thương mẹ, luôn lo lắng cho mẹ. Khi chia tay

mẹ Hoài Văn thấy thương mẹ nhiều hơn vì chưa làm tròn nghĩa vụ của người

con. “Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để cho con được yên lòng xông pha

trận mạc” [25, tr. 116]. Khi nghe Võ Ninh quê hương, nơi mẹ già đang ở, đã

bị quân giặc tàn phá, Hoài Văn thấy lo cho mẹ nhiều hơn, không biết mẹ như

thế nào “Không biết mẹ già nay lưu lạc ở đâu. Lòng Hoài Văn nóng như lửa

cháy” [25, tr. 142].

Tác phẩm đã hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân vật lịch sử

Trần Quốc Toản là hình tượng danh tướng thiếu nhi anh hùng, người có nhiệt

huyết nóng bỏng của tuổi trẻ, là người dũng cảm, có lòng yêu nước, sống và

47

hi sinh vì dân tộc. Tác phẩm vỗ cánh trên cái nền vững chắc của sử học để lấp

lánh tỏa sáng bằng một thứ ánh sáng rạng rỡ bởi sự trung thực, khả tín.

Nhân vật chiến sĩ Bẩm trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ là một minh

chứng tiêu biểu. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo với bản chất thực

thà, chất phác, yêu lao động. Nếu được sống trong hòa bình, có lẽ Bẩm cũng

không có gì khác với những người bình thường khác: anh cặm cụi làm ăn,

hiền lành tốt bụng, cuộc sống bình yên say lũy tre làng. Nhưng “Giặc Pháp

xâm lược chiếm đóng tỉnh anh, chúng giết người, cướp của, hãm hiếp đàn bà,

con gái. Chúng biến nhiều ruộng nương màu mỡ, nhiều xóm làng tươi vui

thành những vòng đai trắng um tùm cỏ mọc, không có bóng người mà chỉ có

đồn bốt” [24, tr. 150]. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, Bẩm vào du kích, trong

phong trào giết giặc lập công, anh mỗi ngày một thêm dày dạn, lập được

nhiều thành tích. Anh được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.

Trong một trận càn quét dữ dội của giặc, anh bị bắt và cùng bị giam với

đồng chí bí thư chi bộ xã. Ánh mắt của đồng chí bí thư đã khiến Bẩm hiểu ý,

hoạt động vẫn bí mật, kẻ thù chưa biết đấy là cán bộ cách mạng. Và cũng

chính ở nơi này Bẩm mới thấu hiểu được hết sự khổ cực của dân ta trong nhà

giam của bọn thực dân Pháp dã man, tàn bạo. Sự dũng cảm lòng kiên trung

được thử thách cao độ, trở về buồng giam người như một cái xác chết “Hai

bàn tay bị đốt đen thui, thịt đã cháy gần hết, chỉ còn xương và gân như các em

thấy trên bản đồ vẽ bộ xương người” [24, tr. 152].

Hình ảnh đôi bàn tay của đồng chí bí thư chi bộ và lời dặn dò đêm

trước Bẩm bị giải đi đã tiếp thêm sức mạnh cho anh vượt qua sự đau đớn về

thể xác, vượt qua mọi hiểm nguy gian khổ, kiên trì bám trụ, quyết tâm giữ

làng. Cũng có lúc anh chợt thoáng nghĩ đến mẹ già, nghĩ đến đôi bàn tay lành

lặn, những việc anh đã làm. Hai bàn tay của anh rồi đây sẽ ra sao? Anh nhắm

mắt lại, chờ đợi cái cực hình ghê gớm rồi anh quyết tâm, rồi anh nhớ lời đồng

48

chí bí thư đã dặn. Anh thấy thương yêu đồng chí hơn bao giờ hết. Anh quyết

vượt qua cơn thử thách. Chết, anh cũng vui lòng vì đã không làm điều gì hại

Đảng. Bằng việc phân tích tâm trạng nhân vật Bẩm, nhà văn Nguyễn Huy

Tưởng đã chứng minh cho bạn đọc thấy rõ chân dung của người chiến sĩ kiên

trung bất khuất vượt qua mọi thử thách.

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã đem được cả nghìn năm lịch sử dựng

nước chói lọi, hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng trong các truyện kể

cho lứa tuổi thanh thiếu nhi Việt Nam. Ông cũng muốn viết lại cuộc trường kì

kháng chiến chống Pháp như một pho truyện trường thiên cực kì hấp dẫn, một

lần đã đọc qua suốt đời không thể quên. Và trên những trang sách huyền ảo

của một trong những tượng đài văn học lớn của văn học Việt Nam, các em

thiếu nhi sẽ gặp vô vàn trường hợp éo le trần đời mà trong ấy lồng lộng những

tình cảm cao quý, những người vừa có chí, có gan, dám nghĩ, dám làm, đầy

nghị lực, đầy tinh thần cách mạng, vừa anh hùng vừa cao thượng, lúc nào

cũng tin tưởng và yêu đời.

Qua các truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng ở từng đề tài

những con người vĩ đại gắn với lịch sử dân tộc ta và cùng đó là những nhân

vật tuy bé nhỏ nhưng đáng yêu đã được tác giả đưa đến để trò chuyện cùng

các em, khiến các em ngưỡng mộ. Tác giả có lẽ đã tin rằng, với sức tưởng

tượng tuyệt vời không hề có bến bờ, các em sẽ cảm phục, lại càng muốn bắt

chước, nhất định học theo để nối thêm những tấm gương sáng ngời. Hầu hết

các sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết cho các em điều ấp ủ

những mong muốn to lớn đó. Điều đó không nằm ngoài tình cảm của ông đối

với tình yêu đất nước. Tình cảm mà ông đã dành cho thiếu nhi kết hợp với tài

năng kể chuyện hết sức sáng tạo đã làm cho thế giới tâm hồn tuổi thơ trở

thành thế giới của thi ca, cũng là thế giới của những tình cảm đạo đức cao

đẹp.

49

2.2. Tổ chức cốt truyện

2.2.1. Khái niệm cốt truyện.

Khái niệm cốt truyện được hiểu như sau: “Cốt truyện là một hệ thống

các sự kiện, phản ánh những diễn biến cuộc sống và nhất là các xung đột xã

hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong

những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng

tác phẩm.” [12, tr. 172 - 173].

Nhìn nhận một cách tổng quát, cốt truyện có ba đặc điểm chính: tính

lịch sử - cụ thể, tính kịch và tính hoàn chỉnh. Một quy luật tất yếu của văn học

là bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong một giai đoạn của lịch sử. Vì thế,

khi nói đến tính lịch sử - cụ thể của cốt truyện là người ta muốn nói đến mức

độ chân thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong đó. Nói như

Đôxtôiépxki từng khuyên một nhà văn trẻ “Anh hãy nhớ lấy lời tôi. Đừng bao

giờ bịa ra sườn truyện, các tuyến truyện. Anh hãy lấy những cái do bản thân

cuộc sống cung cấp. Cuộc sống phong phú hơn tất thẩy những điều bịa đặt

của chúng ta” [12, tr. 174].

Cùng với tính lịch sử - cụ thể, cốt truyện còn có tính kịch. Đặc điểm

này được tạo thành từ những xung đột của hiện thực, đó là xung đột giữa các

lực lượng xã hội, giữa cá nhân này với cá nhân khác về quan điểm tư tưởng,

về quyền lợi kinh tế, về tâm lí tính cách, có khi là xung đột trong từng con

người giữa lí trí và tình cảm, giữa tình cảm và nghĩa vụ. Tất nhiên không phải

cốt truyện nào cũng có sự phát triển cao trào của xung đột. Phần lớn các cốt

truyện trong văn xuôi tự sự chỉ dừng lại ở mức độ mâu thuẫn, xung khắc.

Một đặc điểm nữa của cốt truyện là tính hoàn chỉnh. Đặc điểm này

được tạo nên do yêu cầu của văn học phải phản ánh sự vận động của cuộc

sống một cách hợp lôgic. Nói cụ thể hơn, cốt truyện, với tư cách là một hệ

thống sự kiện, phải được tổ chức một cách chặt chẽ, tránh tình trạng phân tán,

50

rời rạc, thừa hoặc thiếu, sao cho các sự kiện trước là nguyên nhân của sự kiện

sau, sự kiện này phát triển thông qua sự kiện khác. Đúng như Arixtốt đã viết

trong nghệ thuật thơ ca : “Cốt truyện phải là sự miêu tả một hành động hoàn

chỉnh và các sự kiện cần phải sắp xếp như thế nào để khi thay đổi hay bỏ đi

một sự kiện thì chính cái chính thể cũng biến động theo. Cái gì mà có hoặc

thiếu nó cũng được thì cái đó không phải là bộ phận hữu cơ của một chỉnh thể

thống nhất” [12, tr. 175].

2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện của Nguyễn Huy Tưởng:

Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác

phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu thành nội dung của tác

phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất

định. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật là sự kết hợp lối kết cấu

của văn xuôi phương Tây với kết cấu kiểu chương hồi phương Đông, tạo vẻ

đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại cho tác phẩm. Tuy nhiên ở mỗi thể loại, lối kết

cấu lại mang những màu sắc khác nhau.

Ở thể loại truyện thiếu nhi, lối kết cấu theo mô típ truyền thống với kết

thúc có hậu là đặc điểm nổi bật. Trong truyện có sự xuất hiện của những yếu

tố li kì, kì ảo, hoang đường, nhân vật chính thường là những người hiền lành,

thật thà, chất phác nhưng cuộc sống nghèo khó phải đi làm thuê, kiếm mướn,

bị bọn cường hào, ác bá bóc lột, đàn áp. Được sự trợ giúp của thần tiên, cuối

cùng kẻ gian ác bị trừng trị, người nghèo hèn có cuộc sống sum vầy, hạnh

phúc (Tìm mẹ). Đây cũng là mô hình chung cho kết cấu của nhiều truyện khác

như Thằng Quấy, Cô bé gan dạ... Ở những truyện lịch sử hay viết về gương

người tốt việc tốt (Truyện bánh chưng, Hai bàn tay chiến sĩ,…) thông qua

cuộc đời, số phận những tấm gương dũng cảm, nhà văn muốn gửi những

thông điệp nhân văn và gieo vào tâm trí các em những tình cảm trong sáng,

những bài học đạo lí làm người. Với lối kết cấu quen thuộc, giản dị với hai

51

tuyến nhân vật song song tồn tại, có sự đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và

cái ác đã tạo nên sức hấp dẫn lớn cho những câu chuyện viết cho tuổi thơ.

Một đặc điểm nổi bật trong hư cấu lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng là

ông không quá lệ thuộc vào các tài liệu lịch sử. Vì ông viết về lịch sử không

phải chỉ để kể, tả mà là tư duy về lịch sử. Trên cơ sở các chi tiết, sự kiện có

tính chất “gợi hứng”, ông tái hiện lại không gian, bối cảnh thời đại và lồng

vào trong đó những vấn đề của cuộc sống hiện thời. Nguyễn Huy Tưởng là

nhà văn có trí tưởng tượng mạnh, có tài sắp xếp, tổ chức tư liệu, kết cấu tác

phẩm trên bình diện không gian rộng với sự xuất hiện của nhiều nhân vật.

Bên cạnh nguồn sử liệu mà sử sách ghi chép lại cùng với những trải nghiệm

thực tế thăm lại những dấu tích chiến công xưa, nhà văn đã hư cấu và có

những sáng tạo hợp lí để bù khuyết những tri thức mà lịch sử còn bỏ ngỏ. Đây

cũng là nét đặc trưng trong sáng tạo nghệ thuật nhằm cung cấp cho bạn đọc

cái nhìn toàn diện, bao quát hơn về các thời đại lịch sử đã qua, đúng như nhà

văn Pháp Marcel Proust nhận định: “Thế giới được tạo lập không phải một

lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được

tạo lập” [8, tr. 139].

Viết về lịch sử dân tộc nhưng nơi mà Nguyễn Huy Tưởng chọn làm

không gian nghệ thuật là vùng đất Thăng Long – Hà Nội. Sáng tác của ông đã

tái hiện một cách chân thực, sinh động về Thủ đô Hà Nội từ thủa An Dương

Vương xây thành ốc đến Thăng Long thời đại nhà Trần, thời vua Lê, chúa

Trịnh và Hà Nội trong những năm kháng chiến, xây dựng cuộc sống mới.

Dòng chảy lịch sử nghìn năm của thủ đô hiện lên một cách rõ nét qua lối viết

tài hoa, giàu hình ảnh, màu sắc, lấp lánh những nét đẹp của truyền thống lịch

sử - văn hóa ngàn đời. Nếu Thạch Lam viết về Hà Nội qua nét đẹp của những

thức quà dân dã, thanh tao, Tô Hoài ngắm nhìn Hà Nội trong những nét sinh

hoạt văn hóa đời thường thì Nguyễn Huy Tưởng hướng về Hà Nội trong chiều

52

sâu lịch sử với những biến cố, thăng trầm, những con người đã đi vào lịch sử,

những cảnh đẹp nên thơ, quyến rũ gợi nhắc về một “Hà Nội dấu xưa”.

Nhà văn Tô Hoài đã nói: “Dưới ngòi bút đầm ấm của Nguyễn Huy

Tưởng, con người, cuộc sống, đất nước, tất cả đều đáng quý, đáng ca ngợi và

chan chứa tin yêu. Và khi viết cho thiếu nhi ông cũng vậy” [6, tr. 57]. Nguyễn

Huy Tưởng quan niệm về nghệ thuật văn chương như sau: “Phàm văn

chương, mục đích thứ nhất là để dạy dỗ thiếu niên – văn chương viết cho

thiếu niên phải tươi cười mà nghiêm khắc, cảm động nhưng vẫn nhẹ nhàng.

Bao giờ cũng phải mãnh liệt để kích thích tấm lòng. Nhưng, cũng vẫn coi

chừng cho họ về những nết xấu, cốt làm sao để họ bao giờ cũng có một tấm

lòng bồng bồng bột bột mà vẫn có lẽ phải và vẫn biết yêu thương” [17, tr. 73].

Truyện Con Cóc là cậu ông Giời, Thằng Quấy, Tìm mẹ, An Dương

Vương xây thành ốc thực sự là những câu chuyện cổ tích “vừa lạ lùng xanh

biếc, vừa mênh mông những tưởng tượng kì ảo” chất chứa những tình cảm

yêu thương, những chí khí dời sông lấp biển của người Việt Nam, có tác động

sâu sắc tới những tâm hồn trẻ.

Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Hai bàn tay chiến

sĩ…mỗi truyện là một anh hùng đời đời của dân tộc ta từ ngàn xưa hoặc mới

đây trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, như tinh thần dũng cảm

đến tột cùng của nhân vật chiến sĩ Bẩm trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ. Từ

lòng mong muốn đưa tâm hồn các em tới những đỉnh cao đẹp trong tư tưởng

tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng chọn chủ đề theo lối riêng của mình, thể hiện

qua những đề tài cổ tích và lịch sử để hướng các em về những con người anh

hùng lịch sử về những con người yêu quê hương đất nước.

Nghệ thuật kết cấu chính là nghệ thuật tạo tình huống, tình huống càng

giàu tính kịch thì khả năng bộc lộ những đặc điểm bản chất của tính cách càng

lớn như Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, An Dương Vương

53

xây thành ốc, tất cả tình huống truyện được nhà văn miêu tả cụ thể, sinh động

làm người đọc không thể không tập trung theo mạch truyện mà tác giả miêu

tả. Điều đó đã mang đến nghệ thuật mà bút pháp Nguyễn Huy Tưởng mới tạo

dựng được qua chất liệu của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Với sự kết hợp tài tình, Nguyễn Huy Tưởng không quá lệ thuộc vào

những sự kiện đã được ghi chép trong các sách biên niên sử, mà ông biết cách

nảy ra trong vô vàn những chi tiết, sự kiện lịch sử được cho là có thật ấy,

những tình huống, câu chuyện đặc sắc rồi thổi vào đấy những cảm xúc, trí

tưởng tưởng bay bổng, phù hợp với tâm lý, suy nghĩ của trẻ thơ, gợi mở cho

các em nhiều điều thú vị nhằm giúp các em tiếp cận một cách dễ dàng lịch sử,

hiểu lịch sử để từ đó thêm yêu, thêm quý truyền thống hào hùng trong lịch sử

dựng nước và giữ nước của cha ông ta.

Cho dù ở mảng đề tài nào, viết về lịch sử hay cổ tích, Nguyễn Huy

Tưởng cũng đem đến cho các em niềm thích thú, say mê đến kỳ lạ bằng một

giọng kể chuyện vừa giản dị, chân thành, vừa gần gũi với cuộc sống thường

ngày của các em, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ. Từ đây ông nhen

nhóm và truyền cho các em lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.

Đấy chính là nét nổi bật nhất của nhà văn tài hoa này.

Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, nổi bật là sự kết hợp lối kết

cấu theo cấu trúc của văn phong phương Tây với tư duy truyền thống kiểu

chương hồi phương đông, tạo vẻ vừa cổ tích vừa hiện đại cho tác phẩm. Tuy

nhiên ở mỗi thể loại, lối kết cấu lại mang màu sắc khác nhau. Ở mảng truyện

viết cho thiếu nhi, nhất là truyện cổ tích, nhà văn tuân thủ lối kết cấu theo mô

típ truyền thống, cốt truyện đơn tuyến theo trật tự thời gian tuyến tính với lối

kết thúc có hậu, phân minh rõ các giá trị Thiện – Ác, Tốt – Xấu, Địch – Ta.

Truyện Thằng Quấy của Nguyễn Huy Tưởng là một truyện kết cấu theo

nhu cầu và trình độ thẩm mỹ của độc giả thiếu nhi: lối kết cấu đơn giản, mộc

54

mạc, dễ theo dõi, theo hướng giả cổ tích. Toàn bộ câu chuyện viết về cuộc đời

Quấy gợi cho ta nhớ tới chuyện chú Cuội mồ côi, nói dối, thông minh, lên

được cả cung trăng chăn trâu, gặp chị Hằng Nga… Bản thân cách đặt tên

truyện bằng tên nhân vật chính: thằng Quấy đã chứng tỏ ý đồ nghệ thuật của

tác giả. Cái tên Quấy vừa có ý khái quát tính cách nhân vật, vừa gợi ý cho độc

giả nhớ tới nhân vật dân gian quen thuộc: Chú Cuội ngồi gốc cây đa…

Truyện của Quấy được xâu chuỗi bằng các tình tiết và mô típ truyện dân gian

quen thuộc: Chàng ngốc gặp may, chàng trai mồ côi bị áp bức bóc lột đến

cùng cực, một người nông dân khôn ngoan, láu cá đánh lừa được cả thú dữ,

tiếp xúc và đánh lừa cả thần mặt trăng, mặt trời; các chiến công của chàng trai

mồ côi thường có được sự cổ vũ, hậu thuẫn của dân làng v.v. Câu chuyện kết

thúc theo kiểu có hậu: kẻ ác bị trừng trị, người tốt dù bị hãm hại cuối cùng

vẫn sống và hưởng hạnh phúc. Tuy nhiên cũng cần khẳng định là: Thằng

Quấy là câu chuyện cho thiếu nhi. Ở đây tác giả đã tổ chức kết cấu gắn với tư

tưởng đấu tranh giai cấp, giáo dục ý thức căm thù giai cấp bóc lột khá rõ.

Có một điều khi Nguyễn Huy Tưởng viết lại truyện cổ tích Tấm Cám,

một truyện cổ tích kinh điển, truyện gối đầu giường thường được vang lên

trước mỗi giấc ngủ của trẻ thơ qua giọng kể đầm ấm của bà của mẹ, nay được

Nguyễn Huy Tưởng chắp bút viết lại, thêm một số chi tiết thú vị. Ở cuối tác

phẩm, Nguyễn Huy Tưởng không để cho Tấm tự tay giết và làm mắm Cám

mà ông đề xuất một hướng kết thúc khác nhưng vẫn luôn tuân thủ lối kết cấu

của văn bản cũ, bổ sung thêm một số chi tiết mới với những sáng tạo hợp lí

mang tính nhân văn. Phải chăng khi viết lại tác phẩm này, nhà văn đã dự tính

được những quan điểm bất đồng của người tiếp nhận ngày nay khi đánh giá,

thẩm bình tác phẩm văn học dân gian và đến nay, câu chuyện tranh luận về

Tấm Cám vẫn chưa có hồi kết.

*

55

Tiểu kết: Với nghệ thuật về thi pháp nhân vật và tổ chức cốt truyện,

Nguyễn Huy Tưởng đã thấy khả năng xây dựng nhân vật trong các mảng

truyện thiếu nhi như các tuyến nhân vật thiếu nhi, nhân vật anh hùng và nhân

vật từ thế giới loài vật. Ở mỗi tuyến nhân vật cho ta thấy được nghệ thuật xây

dựng nhân vật trong truyện của nhà văn, qua đó làm nổi bật những giá trị và

những tình cảm của tác giả gửi tới cho lứa tuổi thiếu nhi yêu quí. Cùng với

nghệ thuật xây dựng nhân vật nhà văn đã khắc họa thành công nhân vật rõ nét

qua hành động xung đột, ngoại hình và đặc biệt là mô tả và phân tích tâm lý

nhân vật để từ đó thể hiện tư tưởng, tình cảm, chủ đề tác phẩm khẳng định

được sắc màu riêng, cách miêu tả, phản ánh độc đáo trong từng câu chuyện.

Cùng với đó thì nghệ thuật thi pháp tổ chức cốt truyện được kết cấu theo mô

típ truyền thống đã thể hiện tài năng sáng tạo của nhà văn trong quá trình

phản ánh hiện thực khách quan, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật, tạo sức

hấp dẫn cho tác phẩm, đồng thời gợi lên trong tâm trí người đọc niềm tin

tưởng, hy vọng vào sức mạnh của con người sẽ làm nên chiến thắng.

56

Chƣơng 3

NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN KỂ

3.1. Ngƣời kể chuyện

3.1.1. Khái lược về người kể chuyện

Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học,

được xem là khái niệm trung tâm trong phân tích trần thuật. Khi tiếp cận về

vấn đề người kể chuyện, chúng tôi cho rằng người kể chuyện là chủ thể của

những lời kể về câu chuyện nào đó trong tác phẩm văn học. Chủ thể đó là một

nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra để dẫn dắt, gợi mở hay sắp đặt câu

chuyện được kể, là người kể lại câu chuyện trong tác phẩm bằng một chỗ

đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ sáng tạo của nhà văn.

Người kể chuyện chính là chủ thể trần thuật trong sáng tác tự sự, một

loại nhân vật được nhà văn xây dựng trong tác phẩm nhằm thực hiện chức

năng kể chuyện. Tác phẩm tự sự không thể thiếu loại nhân vật này. Bởi vì:

”Người kể chuyện, dù có mặt bất cứ dưới hình thức nào, đều là thành tố quan

trọng tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự” [9, tr. 109]. Trong tiểu

thuyết, truyện ngắn, cùng các tiểu thể văn xuôi tự sự nói chung, “người kể

chuyện giữ một vai trò hết sức quan trọng: là cầu nối để tạo nên mối quan hệ

khắng khít: nhân vật- người kể chuyện - độc giả” [3, tr. 7].

Bên cạnh thuật ngữ người kể chuyện còn có thuật ngữ người trần thuật.

Hai thuật ngữ này đến nay cũng chưa có sự thống nhất trong cách dùng, bởi

có những quan niệm khác nhau. Trần Đình Sử xem người kể chuyện và người

trần thuật trong tác phẩm là một. Thế nhưng, các tác giả quyển Từ điển thuật

ngữ văn học lại có sự phân biệt rạch ròi hai khái niệm người kể

chuyện và người trần thuật. Người trần thuật được giải thích là “Một nhân vật

hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo

thành” [1, tr. 221]. Người kể chuyện khác với người trần thuật bởi đó là

57

“Hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện

khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [1, tr.

221]. G.N.Pospelov có viết: “Những người trần thuật cũng hoàn toàn có thể

xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “Tôi” nào đó. Những người

trần thuật được nhân vật hóa như vậy, kể câu chuyện từ “ngôi thứ nhất”, của

chính mình có thể gọi một cách tự nhiên là người kể chuyện” [15, tr. 66 - 67].

Thế nhưng, ngay cùng trang sách, lại có dòng chú thích: “Sự phân biệt các

khái niệm đề xuất ở đây chưa được chấp nhận phổ biến. Các từ người trần

thuật và người kể chuyện cũng thường được dùng như là đồng nghĩa” [15, tr.

66 - 67]. Nhìn chung, vấn đề còn nhiều mâu thuẫn. Bởi xét cho cùng, hai khái

niệm cùng để giải thích một đối tượng, nói về một đối tượng có vai trò, đặc

điểm giống nhau. Có khác chăng chỉ là ở hình thức xuất hiện của đối tượng

trong tác phẩm (lộ diện hay không lộ diện). Thuật ngữ người kể chuyện hàm

ẩn là để chỉ kiểu người trần thuật không lộ diện, người trần thuật theo ngôi

thứ ba.

3.1.1.1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng.

Dựa vào cách nhận thức khách thể và nội dung vấn đề được nhận thức,

có thể chia ra nhiều dạng điểm nhìn trong nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn

không gian; điểm nhìn thời gian; điểm nhìn bên trong; điểm nhìn bên trên,

điểm nhìn bên ngoài…truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng đã đạt được

tính chân thật, sinh động trong việc tái hiện bức tranh cuộc sống, lịch sử dân

tộc; thể hiện cái nhìn khách quan. Đó là nhờ ở sự kết hợp khéo léo nhiều dạng

điểm nhìn trần thuật và sự dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt trong nghệ thuật

trần thuật. Điểm nhìn trần thuật tất yếu có sự gắn bó với người kể chuyện. Vì

“Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần

thuật” (Trần Đình Sử và ctv, 2012). Các thuật ngữ người kể chuyện, người

58

trần thuật “Cũng thường được dùng như là đồng nghĩa” (G.N.Pospelov,

1985). Căn cứ theo quan điểm của Trần Đình Sử (nêu trong Lí luận văn học,

tập 2, tr 101) và G.N.Pospelov (nêu trong Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2,

tr 67), chúng ta có thể xem hai thuật ngữ này nói về một đối tượng. Bởi xét

cho cùng, hai khái niệm cùng để giải thích một đối tượng, nói về một đối

tượng có vai trò, đặc điểm giống nhau, khác chăng chỉ là ở hình thức xuất

hiện của đối tượng trong tác phẩm, lộ diện hay giấu mặt mà thôi.

Người kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể là kiểu người

kể chuyện nhìn và kể những thông tin tương đương với một nhân vật nào đó

trong câu chuyện. Điều đó có nghĩa là người kể chuyện dùng điểm nhìn của

nhân vật để kể lại câu chuyện xuất hiện khá phổ biến trong truyện ngắn của

Nguyễn Huy Tưởng mà người kể là nhân vật có mặt trong câu chuyện được

kể. Câu chuyện được kể lại theo tri giác của nhân vật.

Kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật không có nghĩa là người kể

chuyện phải là nhân vật trong câu chuyện trần thuật lại các sự kiện. Trong

truyện của Nguyễn Huy Tưởng ngay ở cả những truyện được kể bằng người

kể chuyện ngôi thứ ba cũng dựa vào điểm nhìn nhân vật. Và lúc này điểm

nhìn của người kể chuyện trở thành “Điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ

thuật”.

Dựa vào điểm nhìn của nhân vật còn xuất hiện khi người kể chuyển di

chuyển điểm nhìn sang nhân vật trong truyện với mức độ đậm nhạt khác nhau

trong tác phẩm. Trong vấn đề này chúng tôi chú trọng xem xét điểm nhìn ở

cấp độ thấp hơn văn bản. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa đã chỉ ra: “Ở

cấp độ thấp hơn tổng thể văn bản (đoạn văn, hồi, cảnh…), điểm nhìn nghệ

thuật thể hiện ở từng câu hay phát ngôn hay từng diễn ngôn: lời kể, lời thoại

của nhân vật”. Dạng thức kể chuyện này tạo ra sự di chuyển điểm nhìn trong

cách kể chuyện của nhà văn.

59

Truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng có tính giáo dục sâu

sắc. Dù có di chuyển điểm nhìn trần thuật (the poin of view) từ ngôi thứ nhất

(cái tôi kể chuyện) sang ngôi thứ ba (người kể toàn năng) thì nghệ thuật

xuyên suốt mọi tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng vẫn là hướng vào một giá

trị tình yêu quê hương đất nước, gương người tốt việc tốt, tổ quốc và lịch sử

dân tộc. Tiêu biểu là hình ảnh Lá cờ thêu sáu chữ vàng vẫn là hình ảnh trung

tâm trong truyện kể về Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản; đó là hình ảnh xuyên

suốt tác phẩm, là ý chí và sự quyết tâm của cả dân tộc được hun đúc trước

mối họa xâm lược. Hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ trong Kể chuyện

Quang Trung, đã vượt bao gian khổ, sự hi sinh của quân lính, cả bản thân qua

các trận đánh ác liệt, cam go không thể kể xiết để quyết tâm bằng xương máu

giành chiến thắng đuổi giặc ra khỏi biên cương, tổ quốc mình, mang lại tự hào

dân tộc ngàn năm còn mãi.

3.1.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật

trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng.

Ở truyện kể thiếu nhi, đối tượng tiếp nhận là thiếu nhi và đối tượng

phản ánh thường cũng là thiếu nhi. Như vậy, giữa nhà văn và độc giả thiếu

nhi đã thiết lập một mối quan hệ. Mối quan hệ đó không trực tiếp thông qua

ngôn ngữ giao tiếp mà thông qua ý tưởng của nhà văn được gửi gắm qua nhân

vật người kể chuyện. Người đọc trẻ em cảm nhận câu chuyện qua vai trò

trung gian của người kể chuyện.

Một truyện kể sẽ không thể nào tồn tại nếu thiếu vắng hình tượng

người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật. Bởi vì, người kể chuyện và điểm

nhìn trần thuật là những phạm trù trung tâm của cấu trúc trần thuật, và vai trò

của nó đối với cấu trúc văn bản là rất lớn. Người kể chuyện chính là người

trần thuật lại câu chuyện, thường có hai ngôi là ngôi thứ nhất (thường là một

nhân vật) và ngôi thứ ba (có tính toàn tri). Trong khi đó, điểm nhìn trần thuật

60

là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm

thụ thế giới của một nhân vật, chủ thể nhất định. Cùng với hình tượng người

kể chuyện, điểm nhìn trần thuật cũng là một phạm trù có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong việc nghiên cứu cấu trúc trần thuật. Và ta có thể dễ dàng

nhận thấy giữa hai phạm trù này có mối quan hệ mật thiết với nhau: Người kể

chuyện và điểm nhìn trần thuật đa phần có sự thống nhất. Với quan điểm đa

nguyên, các nhà văn hậu hiện đại khi tạo nên tác phẩm của mình đã tạo ra

nhiều chủ thể kể chuyện và tương ứng với nó là đa điểm nhìn trần thuật. Đây

chính là xu thế trong văn học hậu hiện đại, và cũng là cơ sở đầu tiên để

Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn kết cấu đơn tuyến cho hình tượng người kể

chuyện và điểm nhìn trần thuật cho Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Mối quan hệ

giữa người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật được tác giả sử dụng một cách

linh hoạt, tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Chính sự di chuyển điểm nhìn trần

thuật tạo cho truyện sức hấp dẫn hơn, với điểm nhìn của nhân vật, có lúc

người kể chuyện di chuyển điểm nhìn từ ngôi thứ nhất, lúc kể ở ngôi thứ ba

để quan sát miêu tả nhân vật từ hành động trong các hoàn cảnh cụ thể điều

kiện cụ thể của truyện cho dù người kể chuyện có thay đổi hay nói cách khác

là di chuyển điểm nhìn trần thuật thì đó là người kể chuyện hóa thân vào các

nhân vật đó, đứng ở điểm nhìn khác nhau mà thôi.

Truyện Nguyễn Huy Tưởng có thể nói, những truyện cổ tích và huyền

thoại viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng là những truyện có cách thể

hiện mới với một văn phong giản dị và thanh nhã. Ông đã khéo léo thay đổi,

thêm bớt các tình tiết ở mỗi cốt truyện sao cho hợp lý, với giọng điệu kể

chuyện sao cho giống với giọng điệu kể chuyện dân gian đơn giản và trong

sáng, nhưng vẫn lột tả được tinh thần chủ đạo ở mỗi truyện viết mới của

ông. Truyện có kết cấu đơn tuyến, dễ hiểu. Mỗi chương là một việc, các sự

việc diễn ra theo trình tự thời gian và theo sự trưởng thành của nhân vật

61

chính. Sự việc trong truyện không li kì, dồn dập nhưng khá hấp dẫn vì người

đọc chú ý theo dõi theo số phận của nhân vật chính qua các sự việc. Giữa các

sự việc trong truyện, tác giả còn xen vào những đoạn văn tả tình, tả cảnh rất

hay, rất xúc động. Chất thơ của truyện làm cho các sự việc gắn lại với nhau

tăng thêm phần ý nghĩa. Nguyễn Huy Tưởng cũng hiếm khi tạo ra những vai

kể khác thường mang đậm tính ẩn dụ kiểu như bào thai, người điên, con

người tí hon… đóng vai trò kể chuyện trong nhiều tiểu thuyết dành cho người

lớn. Trong truyện Nguyễn Huy Tưởng, người kể chuyện hoặc là tác giả ẩn

tàng kể chuyện từ ngôi thứ ba, hoặc là tác giả hiển thị một người kể chuyện

trong vai nhà văn, xưng tôi đều là hình tượng của chính tác giả Nguyễn Huy

Tưởng. Đặc biệt, nhà văn thường chọn cách kể từ ngôi thứ nhất - người kể

chuyện “tôi”, khiến cho truyện Nguyễn Huy Tưởng có tính chất hồi ức. Ngay

cả khi người kể là một nhân vật “Tôi” được trao quyền kể chuyện như truyện

Chiếc bánh chưng, Hai bàn tay chiến sĩ thì thấp thoáng đằng sau những cái

“Tôi” ấy vẫn là bóng dáng của nhà văn.

Mở đầu câu chuyện Chiếc bánh chưng, độc giả gặp ngay một cái tôi

hồn hậu, gần gũi, chân tình lên tiếng:

“Đây là câu chuyện tôi kể riêng cho các bạn, hỡi các em nhỏ của non

nước tre xanh. Tết đã đến chân ta, bước êm như nhung và hơi thở nhẹ như hơi

thở mẹ hiền… Chẳng mấy bữa các em sẽ lại hưởng cái thú hội họp trong gia

đình, mặc quần áo mới và nhất là ăn bánh chưng xanh.

Chà bánh chưng ngày Tết !”

Tác giả như đã hóa thân vào thế giới trẻ thơ, nhìn vạn vật bằng cái nhìn

của trẻ thơ, thậm chí như sống cùng với các em nhỏ để rồi kể chuyện về thiếu

nhi cho chính thiếu nhi. Nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng là nhắc tới người nghệ

sĩ tài hoa, nhà văn của Hà Nội, và trong tâm trí của nhiều thế hệ thiếu niên,

nhi đồng, ông là nhà văn của tuổi thơ, người gieo vào tâm trí trẻ nhỏ những

62

câu chuyện lịch sử thần kì, những câu chuyện cổ tích “vừa lạ lùng xanh biếc,

vừa mênh mông những tưởng tượng kì ảo mà trong đó chất chứa cả một kho

vàng ngọc những tình cảm yêu thương, những lòng tin, những chí khí dời núi

lấp biển của người Việt Nam, của truyền thống Việt Nam” (Tô Hoài).

3.1.2. Người kể trong truyện của Nguyễn Huy Tưởng.

Ngôn ngữ người kể chuyện là “Phần lời văn độc thoại thể hiện quan

điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng tạo của tác giả)

đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc

lựa chọn và sử dụng phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ” [8, tr. 212-

213]. Trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có hai

mẫu người kể chủ đạo để dẫn dắt độc giả thiếu nhi. Chúng tôi tạm định danh

đó là người kể chuyện lịch sử và người kể chuyện hướng đạo. Loại hình hóa

hai kiểu người kể này, chúng ta có thể có thuận lợi hơn khi nhìn nhận nét

riêng, phong cách độc đáo của nhà văn:

3.1.2.1. Người kể chuyện lịch sử.

Lịch sử là nguồn cảm hứng lớn, xuyên suốt hành trình sáng tạo của

Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến ông, bạn đọc thường nhắc tới danh hiệu thân

quen “Người chép sử bằng văn chương”. Dòng chảy lịch sử quá khứ và hiện

tại luôn hiện diện rõ nét từ nhan đề đến hình ảnh, chi tiết, sự kiện, nhân vật,

ngôn ngữ, dù ở thể loại tiểu thuyết, kịch, truyện thiếu nhi hay những trang tùy

búy, bút kí…, tất cả đều nhuốm sắc màu lịch sử và hơi thở thời đại.

Yêu nước, yêu lịch sử dân tộc là hai phẩm chất nổi bật trong con người

và văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng. Nó quyện hòa, thấm sâu trong từng câu

chữ thể hiện tư tưởng, quan điểm nhất quán của nhà văn trong sáng tạo nghệ

thuật. Với Nguyễn Huy Tưởng, lịch sử là niềm đam mê, viết về lịch sử là một

sở trường, là sứ mệnh, trách nhiệm thiêng liêng, nhất là trong bối cảnh đất

nước đang chìm trong bóng đêm nô lệ. Trở về cội nguồn dân tộc, người đọc

63

có thể cảm nhận được hình bóng cha ông, hồn cốt dân tộc qua những trang sử

do các sử gia ghi chép lại, và cũng có thể thông qua những trang văn của

Nguyễn Huy Tưởng để hiểu sâu sắc hơn lịch sử đất nước mình. Lịch sử là

những sự kiện đã trải qua trong quá khứ nhưng qua tài nghệ và lối viết độc

đáo của Nguyễn Huy Tưởng, những sự kiện vốn bị lớp bụi thời gian phủ mờ

bỗng trở nên sinh động, có hồn.

Có thể nói yếu tố lịch sử là một điểm nhấn quan trọng, là tín hiệu nghệ

thuật để tiếp cận thế giới nghệ thuật độc đáo và giải mã được bức thông điệp

mà nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc, và đặc biệt qua đó có thể nhận diện

được cốt cách, văn phong Nguyễn Huy Tưởng. Trong tiểu mục của phần nội

dung này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu người kể chuyện để từ đó phân tích, làm

rõ và khẳng định Nguyễn Huy Tưởng là một cây bút chuyên viết về đề tài lịch

sử, nhà văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa, độc đáo.

Là người giàu lòng yêu nước, Nguyễn Huy Tưởng tìm về với lịch sử

như một lẽ tự nhiên, tất yếu. Nhìn vào nhan đề các tác phẩm, tuy được viết

trong những giai đoạn, thời điểm khác nhau nhưng xâu chuỗi nội dung, chủ

đề được phản ánh, người đọc có thể nhận thấy một tư tưởng, quan điểm nhất

quán xuyên suốt. Nguyễn Huy Tưởng muốn mượn văn chương và qua văn

chương để tái hiện, tạo dựng bức tượng đài nghệ thuật về lịch sử dân tộc

trong bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước.

Trở về thuở bình minh lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng viết An Dương

Vương xây thành Ốc nhằm ngợi ca công lao to lớn của An Dương Vương

trong việc đắp lũy, xây thành chống lại dã tâm xâm lược của Triệu Đà. Đề cập

đến cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại ách đô hộ của giặc phương Bắc

trong những năm Bắc thuộc, Nguyễn Huy Tưởng viết Cột đồng Mã Viện. Đến

thời kỳ độc lập tự chủ, bảo vệ bờ cõi non sông, nhà văn sáng tác An Tư, Lá cờ

thêu sáu chữ vàng, Hội nghị Diên Hồng…để nói lên khí phách, tinh thần, sức

64

mạnh của quân dân nhà Trần với ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm

lược. Bước sang thời Lê - Trịnh với những lục đục, khủng hoảng, rối ren

trong cung vua phủ chúa, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại thời kỳ đầy biến động

đó của lịch sử trong các tác phẩm Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, và kết lại ở

hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân

Thanh trong Kể chuyện Quang Trung.

Khi lịch sử chuyển sang trang mới, ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có sự

chuyển hướng kịp thời, theo sát những bước chuyển mình của đời sống xã

hội. Viết về không khí nổi dậy của đồng bào miền núi những năm kháng

chiến chống Pháp, Nguyễn Huy Tưởng có Bắc Sơn. Viết về Thủ đô kháng

chiến, có Những người ở lại, Sống mãi với Thủ đô, Lũy hoa. Viết về chiến

dịch Biên giới (1950) có Ký sự Cao Lạng. Về công cuộc cải cách ruộng đất

ông có Truyện Anh Lục. Và khi đề cập đến không khí hồ hởi của nhân dân

trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, hàn gắn vết thương

chiến tranh, Nguyễn Huy Tưởng viết Bốn năm sau.

Với Nguyễn Huy Tưởng, lịch sử không chỉ được thể hiện qua những tác

phẩm nghệ thuật với những hư cấu, sáng tạo, mà còn được thể hiện trong

những ghi chép về những lần gặp Bác, trong các biên bản hội nghị tranh luận

văn nghệ ở Việt Bắc, những bản kiểm thảo cá nhân và đặc biệt là những trang

nhật ký mà ông có ý thức ghi lại từ rất sớm (bắt đầu từ ngày 2/11/1930 khi

còn là cậu học sinh trường Bonnal - Hải Phòng cho đến ngày 21/6/1960 được

viết trên giường bệnh Bệnh viện Việt - Xô, ít ngày sau khi ông qua đời). Theo

tài liệu sưu tầm của các nhà nghiên cứu, toàn bộ nhật ký Nguyễn Huy Tưởng

gồm 40 quyển, “quyển nhỏ nhất chỉ bằng hơn nửa lòng bàn tay” được nhà văn

ghi lại một cách đều đặn trong suốt quá trình sống và sáng tác. Đó là những

tâm sự về chuyện đời, chuyện nghề và cả những câu chuyện thầm kín riêng tư

không dễ sẻ chia. Nhưng bao trùm nhật ký là không khí thời đại, những biến

65

chuyển của đời sống xã hội, đời sống văn học nghệ thuật, vì thế cuốn nhật ký

còn mang dáng dấp của một cuốn biên niên sử được cảm nhận qua lăng kính

của người nghệ sĩ.

Viết về lịch sử dân tộc, Nguyễn Huy Tưởng không chạy theo thị hiếu

tầm thường, không sa vào những quan niệm hẹp hòi dân tộc chủ nghĩa, mà

trên cơ sở, lập trường của một thanh niên yêu nước sớm giác ngộ lý tưởng

cộng sản, đi theo cách mạng, kháng chiến. Vì thế, khai thác đề tài lịch sử,

Nguyễn Huy Tưởng tôn trọng sự thật như nó vốn có, không xuyên tạc, tô

hồng. Nếu như một số cây bút lãng mạn cùng thời tìm về quá khứ lịch sử để

chạy trốn, thoát li thực tại, chối bỏ trách nhiệm cá nhân; một số khác do cái

nhìn định kiến, phiến diện, chịu tác động xấu của những tư tưởng phản động

đã bẻ cong ngòi bút, viết sai sự thực, bôi nhọ hình tượng các nhân vật anh

hùng,… Trước thực trạng đó, Nguyễn Huy Tưởng không đồng tình, ông chủ

trương một lối viết trung thực với thái độ trân trọng, ngợi ca, phản ánh đúng

tinh thần lịch sử thời đại. Và những tác phẩm về đề tài lịch sử của ông đã đem

đến cho bạn đọc cái nhìn biện chứng, khách quan, hiểu rõ hơn truyền thống

lịch sử, thấy được trách nhiệm, bổn phận của bản thân trước vận mệnh quốc

gia, dân tộc.

Nhìn nhận tác phẩm về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, người

đọc có thể nhận thấy rõ những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, quan

niệm sáng tác của nhà văn qua hai giai đoạn sáng tác. Trước Cách mạng tháng

Tám năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng thường chọn những thời điểm lịch sử đã

lùi xa trong quá khứ để phản ánh. Và những sự kiện, giai đoạn tác động mạnh

đến tình cảm, thái độ của nhà văn là những sự kiện lớn, có ý nghĩa trọng đại,

gắn liền với những bước ngoặt lịch sử. Đó là thời kỳ An Dương Vương dựng

nước, thời vua tôi nhà Trần đại phá quân Nguyên, thời vua Lê chúa Trịnh.

66

Lịch sử ở những “Khúc quanh”, những thời khắc với những chuyển

biến dữ đội trong sự đối đầu, xung đột với kẻ thù, tự nó cũng đã phản ánh

không khí thời đại, đồng thời nói lên bút lực, niềm đam mê và tư duy nghệ

thuật về lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng. Nhà văn Pháp Alexandre Dumas khi

nói về kinh nghiệm sáng tác văn chương về đề tài lịch sử có viết: “Lịch sử đối

với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi mà thôi.”

[8, tr. 67]. Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở giai đoạn sáng tác

trước cách mạng, các nhà văn học sử đều nhận thấy quan điểm này có một

phần chi phối, khi ông không quá lệ thuộc vào các tài liệu lịch sử, mặc dù

trong quá trình chuẩn bị viết ông đã cất công tìm hiểu, sưu tầm những tri thức

lịch sử về văn hóa phong tục, sinh hoạt, ngôn ngữ của những thời kỳ đã qua.

Trước những tư liệu ít ỏi mà sử gia ghi chép lại, Nguyễn Huy Tưởng đã có sự

lựa chọn những chi tiết, sự kiện, nhân vật tiêu biểu, có ý nghĩa khái quát để

phản ánh được không khí, tinh thần thời đại. Cảm hứng chính, bao trùm lên

sáng tác giai đoạn này là cảm hứng lãng mạn - trữ tình. Thông qua những câu

chuyện, biến cố lịch sử, qua cuộc đời, số phận các nhân vật, nhà văn muốn kí

thác những tâm sự thầm kín, những vấn đề về nghệ thuật và cuộc đời.

Viết về đề tài lịch sử là điều không dễ với nhiều khó khăn thách thức

đặt ra, đòi hỏi cái tâm, cái tầm và văn tài của người viết, phải vượt qua những

rào cản về không gian, thời gian với những khác biệt về ngôn ngữ, văn tự cổ

xưa, về cung cách, lối sống, văn hóa, phong tục của những giai đoạn khác

nhau. Với Nguyễn Huy Tưởng, ngay từ thuở thiếu thời, những câu chuyện

lịch sử mang sắc màu huyền thoại, cổ tích về các nhân vật lịch sử, những trận

đánh lớn của ông cha qua lời kể của người bác và anh trai đã đi vào tiềm thức,

trở thành động lực thôi thúc nhà văn tìm về với lịch sử như một lẽ tự nhiên để

thấy được sức sống của một dân tộc tuy nhỏ bé về diện tích nhưng đã kiên

cường đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược.

67

Việc nghiên cứu, nghiền ngẫm những tư liệu lịch sử giúp nhà văn có

những tri thức cần thiết để bố trí, dàn xếp kết cấu tác phẩm cũng như xây

dựng hình tượng nhân vật. Ở nhiều tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng đã có

những sáng tạo táo bạo nhưng vẫn đảm bảo được tinh thần lịch sử, gắn những

câu chuyện lịch sử với những vấn đề thời đại đang đặt ra.

Ở giai đoạn sáng tác sau cách mạng tháng Tám, đề tài lịch sử vẫn là

nguồn cảm hứng chính trong sáng tác của nhà văn. Với tình yêu lịch sử cùng

những trải nghiệm từ thực tiễn chiến đấu, Nguyễn Huy Tưởng có điều kiện để

tiếp cận với những sự kiện, con người cụ thể trong cuộc đối đầu với thực dân

Pháp để giành lấy quyền độc lập, tự do. Nếu ở giai đoạn sáng tác trước, ngòi

bút nhà văn thiên về cảm hứng lịch sử - lãng mạn thì ở giai đoạn này là cảm

hứng lịch sử - thế sự, hướng vào những vấn đề, sự kiện thời sự, cấp thiết của

đời sống xã hội.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, thật hiếm có nhà văn nào đã dành trọn

đời mình để sáng tác bền bỉ về đề tài lịch sử như Nguyễn Huy Tưởng. Lịch sử

đối với ông không phải là những sự kiện, nhân vật “khô cứng” nằm im trong

những pho sử mà đó là hồn thiêng sông núi, là người mẹ vĩ đại của Tổ quốc.

Bởi vậy, mỗi một sự kiện nhỏ của đời sống liên quan đến số phận con người

đều có tác động mạnh đến xúc cảm của nhà văn. Viết về lịch sử trong những

thời khắc trọng đại, liên quan trực tiếp tới vận mệnh quốc gia, dân tộc nói lên

mối quan tâm và tình yêu thiết tha, mãnh liệt của Nguyễn Huy Tưởng đối với

quê hương, đất nước.

Trong một bài viết về Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Nguyễn Tuân từng

tâm sự: “Tưởng hay đọc sử, những gì về sử, những con người lịch sử, sự kiện

lịch sử, những câu nói lịch sử.” Sinh thời Nguyễn Huy Tưởng rất tâm đắc với

câu nói của một nhà văn lãng mạn Châu Âu: “Ngay cả đích thân cái chết cũng

không thể làm ngừng đập trái tim những nhà thơ lớn. Cho nên những thi hào

68

là thuộc cả về hiện tại và cả của quá vãng. Chính chỗ đó là cái cơ sở để phân

biệt sự khác nhau giữa một sự kiện văn học với một sự kiện lịch sử.” [17, tr.

81]. Điều này nói lên tình yêu lịch sử, yêu đất nước của nhà văn. Việc giới

thuyết và ý thức được sự khác biệt giữa một nhà tiểu thuyết lịch sử với một

nhà chép sử thuần túy đã giúp Nguyễn Huy Tưởng xây dựng được những

nhân vật lịch sử độc đáo, vừa có tính cách của những nhân vật lịch sử, những

anh hùng thời đại vừa có những nét cá tính gần gũi, thân quen của một người

bình thường. Có người từng ví mỗi tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng là một

chuyến tàu tốc hành đưa người đọc hôm nay ngược dòng thời gian trở về với

những năm tháng hào hùng của dân tộc để cảm nhận rõ hơn những vấn đề

đang đặt ra của cuộc sống hiện thời. Và đó cũng chính là nét độc đáo riêng

của Nguyễn Huy Tưởng - một cây bút viết sử bằng văn chương.

Nếu lịch sử là đề tài lớn, xuyên suốt hành trình sáng tạo của Nguyễn

Huy Tưởng thì đề tài về chiến tranh cách mạng là một điểm nhấn quan trọng

trong dòng chảy lịch sử đó. Nhà văn Tô Hoài từng cho rằng: “Đề tài truyền

thống, đề tài cách mạng trong thời kỳ chuyển biến lịch sử vốn là sở trường

của Nguyễn Huy Tưởng” [13, tr. 73], và khi điểm lại những sáng tác của ông,

một đặc điểm dễ nhận thấy là âm vang của những trận chiến lịch sử xuất hiện

đậm nét trong nhiều tác phẩm, trở thành tâm điểm phản ánh, là nền cảnh

không gian chi phối, tác động đến xung đột, hành động nhân vật. Đây là vùng

đề tài sở trường, thể hiện mối quan tâm của nhà văn trước những vấn đề, sự

kiện lớn của lịch sử dân tộc, bộc lộ tài quan sát, miêu tả trong phạm vi không

gian rộng, hướng đến cái vĩ mô, hùng tráng với âm hưởng sử thi - anh hùng.

Viết về công lao của An Dương Vương trong việc xây thành Ốc chống

lại kẻ thù (trong An Dương Vương xây thành Ốc), nhà văn đặt hành động của

nhân vật trong bối cảnh, tình thế đầy cam go khi quân giặc với sức mạnh hùng

hổ đang tiến gần đến bờ cõi, cách Phong Khê - nơi nhà vua đóng quân chưa

69

đầy sáu mươi dặm. Tác giả viết: “Thời ấy, tướng nhà Hán là Triệu Đà muốn

cướp lấy nước Âu Lạc. Quân của Triệu Đà đông như kiến, tướng của Triệu

Đà khỏe như voi. An Dương Vương đã ba lần đánh nhau với Triệu Đà, nhưng

lần nào cũng thua. Quân Triệu Đà tiến đến đâu, quân An Dương Vương tan

đến đó. Vua chưa tìm cách nào để đuổi giặc. Quân tiên phong của Triệu Đà

chỉ còn cách Phong Khê là nơi vua đóng không đầy sáu mươi dặm. Nhân dân

Âu Lạc nhốn nháo. Vua Ngồi đứng không yên, ăn không thấy ngon, đêm

không chợp mắt ngủ được.” [24, tr, 134].

Trước sức mạnh của quân thù, nhà vua đứng ngồi không yên, ăn không

thấy ngon, đêm không chợp mắt ngủ được vì lo nghĩ tìm kế sách chống lại kẻ

thù. Được thần núi Thất Diệu báo mộng phải xây được thành Ốc mới có thể

dẹp yên quân Triệu Đà, nhà vua đã huy động sức người, sức của của quân

dân, quyết tâm xây xong Loa thành trong một đêm với sự trợ giúp của các

nàng tiên. Nhưng đêm thứ nhất, thành xây sắp xong thì con Kê tinh trên đồi

ông Cô bỗng cất lên tiếng gáy rùng rợn khiến cho thành bỗng chốc sụp đổ và

tan đi. Trong khi quân tiên phong của Triệu Đà chỉ còn cách bốn mươi nhăm

dặm.

Cứ như thế, đêm thứ hai, thứ ba, thứ tư khi đêm sắp tàn canh một thì

thành lại đổ vì tiếng gà, đồng nghĩa với quân Triệu Đà càng ngày càng tiến sát

kinh thành từ hai mươi nhăm dặm đến mười dặm, uy hiếp tính mạng, số phận

của nhân dân Âu Lạc, đặt nhà vua trong tình thế đầy cam go, thử thách. Và

chỉ đến đêm thứ năm, sau khi thần Kim Quy giúp triệt hạ Kê Tinh, Loa thành

mới hiện lên rực rỡ với những bức tường xoáy trôn ốc, cao chót vót và đỏ ối

như son, vững vàng dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân.

Là truyện cổ tích pha màu truyền thuyết, viết cho đối tượng thiếu nhi,

Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn lối kết cấu giản dị, đơn tuyến, không đề cập trực

tiếp cuộc xung đột, giao chiến giữa ta và địch mà qua những dòng văn miêu tả

70

ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh, hàm chứa nhiều thông tin, đã giúp bạn đọc

nhỏ tuổi hình dung được sức mạnh to lớn của quân thù và tình thế cam go,

nhiều thử thách của vua tôi Âu Lạc. Hoàn cảnh khốc liệt càng làm nổi bật tấm

lòng vì nước, vì dân, vì xã tắc của nhà vua. Tuy thế và lực còn thua xa kẻ thù,

nhiều lần giao chiến thất bại, nhưng với ý chí, quyết tâm, tinh thần đoàn kết,

tấm lòng nhân hậu vì nghĩa lớn của An Dương Vương cùng sự trợ giúp của

thần tiên, chắc chắn nhân dân Âu lạc sẽ làm nên những chiến tích. Truyện

khép lại với hình ảnh Loa thành hiện lên rực rỡ, uy nghi - một biểu tượng của

sức mạnh quân sự và lòng người sẽ khiến quân thù run sợ.

Là cây bút có tài quan sát, bố trí dàn xếp các cảnh giao chiến đượm

không khí chiến trận, Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống dậy âm vang của

những trận đánh lịch sử năm xưa trên dòng Bạch Đằng giang. Đó là những

thước phim cận cảnh được thể hiện qua bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa,

điêu luyện, am hiểu sâu sắc về kiến thức võ trang, quân sự. Đặc tả về cuộc

chiến giữa quan quân nhà Trần với những tên tướng giặc hùng mạnh như Toa

Đô, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng những câu văn chắc khỏe, giọng văn hùng

hồn, âm hưởng hào sảng để tái hiện không khí trận mạc quyết liệt, gay go. Và

đây là đoạn văn miêu tả cảnh giao chiến, đối đầu giữa tướng nhà Trần với

tướng giặc Toa Đô: “Kẻ giáo, người đao, hai người đánh nhau dữ dội, võ khí

chạm vào nhau choang choang. Toa Đô vừa đánh vừa thở hồng hộc, ngọn

giáo của Toa Đô mỗi lúc một vụng về. Toa Đô chỉ còn sức chống đỡ [25, tr.

168].

Viết về thời đại nhà Trần với âm vang Hào khí Đông A, những tướng

lĩnh tài ba cùng những chiến công vang dội, Nguyễn Huy Tưởng đã vận dụng,

huy động nhiều kiến thức của các lĩnh vực khác nhau như sử học, địa lý, văn

hóa, quân sự. Bằng lối tư duy nghệ thuật tổng hợp, cách thức xử lý, sắp xếp

sự kiện, cách dàn, phối cảnh hợp lý, khả năng bao quát rộng lớn, trí tưởng

71

tượng mãnh liệt đã giúp nhà văn tái hiện một cách chân thực, sinh động về

một kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc.

Chiến tranh gắn liền với người chiến thắng, kẻ chiến bại, và trong niềm

vui chiến thắng có cả những nỗi buồn, những bi kịch và cả những nỗi đau

thương, mất mát. Viết về chiến tranh, Nguyễn Huy Tưởng không ngợi ca một

chiều mà phản ánh đúng hiện thực khốc liệt, tàn bạo và cái giá phải trả để đổi

lấy nền hòa bình, độc lập, tự chủ. Đây cũng là một nét riêng chi phối đến

nhiều tác phẩm viết về chiến tranh, cách mạng sau này của nhà văn.

Có thể nói triều đại nhà Trần là triều đại huy hoàng và oanh liệt nhất

trong lịch sử dân tộc với ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông - một đế quốc

hùng mạnh ở phương Bắc mà vó ngựa của chúng đi tới đâu cỏ cây đều không

mọc được đến đó. Đây cũng là triều đại ghi dấu sự xuất hiện của những vị

tướng tài giỏi đức độ, tài năng, mưu lược hơn người. Nguyễn Huy Tưởng

ngay từ thở nhỏ đã có ấn tượng đặc biệt về vương triều Trần. Hình tượng

những vị anh hùng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải,

Yết Kiêu, Dã Tượng,… đã trở thành những mẫu hình lý tưởng của tinh thần

xả thân vì nghĩa lớn. Nguyễn Huy Tưởng từng có mong ước sẽ viết được

những tác phẩm lớn về triều đại này. “Tôi vẩn vơ nghĩ đến quyển anh hùng ca

mà tôi định đem hết tâm trí tôi mà cống hiến quốc gia tôi. Quyển ấy là quyển

Thái Bình diên yến. Trong đó tôi kể chuyện bậc đại anh hùng nước ta là ông

Hưng Đạo, là cái gương nghị lực, kiên nhẫn, ái quốc trung quân, là biểu hiện

của cả tinh thần của dân tộc.”…“Câu nói của Trần Hưng Đạo, lá cờ của Trần

Quốc Toản, định chí của Ngũ Lão, khẳng khái của Khánh Dư, kể vài đoạn đã

thấy rằng đời bấy giờ nhân vật thật là kỳ khôi xuất chúng, hình như là tướng

lĩnh đầu thai ở một nguồn trong sạch để giúp giập cõi Việt bang, hình như

linh khí non sông hun đúc lại được bao nhiêu đóa hoa thơm để phù trợ đất đai.

Những nhân vật ly kì như là dòng nước trong chảy qua con sông đục, nghìn

72

thu vẫn còn dương danh.” (Nhật ký, ngày 12/10/1933). Và niềm khát vọng

muốn tái hiện không khí, thời đại nhà Trần đã được hiện thực hóa qua tác

phẩm nổi tiếng, xuất sắc Lá cờ thêu sáu chữ vàng.

Trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng, với động cơ viết cho tuổi thiếu nhi, tác

giả vẫn nối tiếp mạch kể về cuộc kháng chiến của vua tôi nhà Trần chống lại

giặc Nguyên Mông, nhưng tập trung vào hình tượng nhân vật chính Hoài Văn

Hầu Trần Quốc Toản - một tráng sĩ tuổi trẻ, tài cao, chí lớn có những hành

động quả cảm, không chịu ngồi yên, khoanh tay đứng nhìn sự hung hăng,

khiêu chiến, thách thức của quân giặc. Hành động bóp nát quả cam vua ban

khi không được dự hội nghị bàn việc nước ở bến Bình Than, đứng lên chiêu

binh mãi mã, ngày đêm luyện tập võ nghệ, giương cao lá cờ “Phá cường địch,

báo hoàng ân”, đã nói lên khí phách, tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước nồng

nàn của người tướng trẻ. Hình ảnh Hoài Văn Hầu dẫn sáu trăm chàng hào kiệt

đi đuổi Toa Đô đang chạy thoát thân ra bể, với lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng

căng phồng lên trong gió hè lồng lộng thổi, là những hình ảnh đẹp chói lọi

trong trí tưởng tượng của độc giả thanh thiếu niên.

Đề cập đến những cuộc chiến, những trận giao tranh giữa ta với giặc

phương Bắc, Nguyễn Huy Tưởng còn tập trung khắc họa hình ảnh những

tướng lĩnh yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng giúp ta chống lại cái ác. Hình ảnh

Triệu Trung trong Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một minh chứng cho điều đó.

Đó là hành động xả thân vì nghĩa lớn. Đây cũng là những chi tiết độc đáo, đặc

sắc mà Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo lồng vào trong truyện, nói lên tinh

thần hòa hiếu, khát vọng hòa bình, căm ghét chiến tranh, chống lại phi nghĩa

của người dân hai nước. Điều này còn được thể hiện đậm nét, xuyên suốt ở

những sáng tác giai đoạn sau.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống bọn thực dân Pháp xâm lược,

Nguyễn Huy Tưởng cũng đã kịp ghi lại những biến cố lớn, những thời khắc

73

trọng đại của lịch sử trong nhiều tác phẩm với quy mô phản ánh rộng, xây

dựng được hình tượng các nhân vật điển hình đại diện cho tâm tính, số phận

của cả một cộng đồng. Trở về với hiện thực cuộc sống chiến tranh, Nguyễn

Huy Tưởng có mặt ở hầu khắp những trận đánh lớn, trực tiếp gặp những nhân

chứng lịch sử, cần mẫn tìm tòi, sưu tầm tư liệu, vì thế những trang văn của

ông vừa truyền tải được không khí, âm hưởng thời đại, vừa được bao phủ bởi

màn sương quá khứ, vừa gần, vừa xa, vừa chân thực, giản dị nhưng cũng rất

đỗi thiêng liêng, oai hùng.

Như vậy, có thể nói lịch sử dân tộc là nguồn cảm hứng chủ đạo, là đề

tài trung tâm trong sáng tác của nhà văn. Những thăng trầm của lịch sử nước

nhà đã tác động mạnh đến cảm quan sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Qua

những sáng tác đó, nhà văn muốn truyền đến cho người đọc niềm tin, lòng tự

hào, tự tôn dân tộc, bồi đắp cho thế hệ trẻ tình yêu quê hương, đất nước. Lịch

sử dân tộc là lịch sử của những cuộc đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc, vì thế khi viết

về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng dù ở ngôi kể thứ nhất hay ngôi kể thứ ba,

người kể chuyện trong sáng tác của ông vẫn là người đồng hành và chứng

nhân của lịch sử. Ý thức về sự vận động lịch sử, về bước đi khốc liệt của thời

gian qua số phận con người cá nhân cũng như số phận dân tộc đã khiến cho

cách nhìn nghệ thuật của tác giả thấm màu thời gian, giọng điệu kể chuyện

của nhà văn trở nên thâm trầm, cổ kính.

3.1.2.2. Người kể chuyện hướng đạo

Bên cạnh cảm quan lịch sử trong cách kể của Nguyễn Huy Tưởng, ta

còn nhận thấy khá rõ quan điểm giáo dục đạo lý trong cách kể, cách dẫn

truyện của ông. Chúng tôi dùng khái niệm “hướng đạo” để xác định tính chất

và động cơ tự sự của nhà văn trong các sáng tác viết cho thiếu nhi, với nội

dung định hướng đạo đức, giáo dục nhân cách tuổi trẻ. Có thể thấy rõ tính

định hướng đạo đức này ở Nguyễn Huy Tưởng nổi trội hơn nhiều so với tác

74

giả Tô Hoài. Truyện của Nguyễn Huy Tưởng giản dị, chân thành, gần gũi như

chính cuộc đời, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ để lại cho các em

niềm thích thú, say mê, nhen nhóm và truyền cho các em lòng tự hào dân tộc,

yêu quê hương, đất nước.

Là nhà văn cách mạng, theo sát từng bước đi của kháng chiến, gắn bó

mật thiết với nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng ý thức rõ về thiên chức của người

nghệ sĩ với quan niệm tiến bộ “Phàm văn chương mục đích thứ nhất là để dạy

dỗ thiếu niên… cốt làm sao cho bao giờ họ cũng có một tấm lòng bồng bồng,

bột bột, mà vẫn biết lẽ phải, và biết thương nhau” [17, tr. 107]. Vì thế khi viết

truyện cho thiếu nhi, nhà văn rất nhạy cảm, tinh tế trong việc lựa chọn đối

tượng phản ánh, khơi gợi được trong các em những tình cảm trong sáng, vị

tha, học tập những tấm gương anh hùng cách mạng để sống, học tập xứng

đáng với kỳ vọng của người đã ngã xuống, của gia đình, nhà trường, xã hội.

Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, mỗi hành động nhỏ, có ích của

các em đều góp phần làm cho quê hương thêm tươi đẹp.

Viết cho lứa tuổi măng non, Nguyễn Huy Tưởng còn mang đến cho các

em những câu chuyện cổ tích thần kì, những xứ sở thần tiên. Nhưng thấp

thoáng và ẩn sâu sau những chi tiết li kì, kì ảo, bạn nhỏ có thể bắt gặp những

hình ảnh, con người trong câu chuyện ở ngay giữa cuộc đời. Tìm mẹ là truyện

cổ tích xuất sắc, hấp dẫn nhiều thế hệ bạn đọc bởi tính nhân văn và truyền

thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta: ác giả, ác báo; ở hiền gặp lành… Ngay

vào đầu câu chuyện, người đọc bắt gặp cái tên của hai nhân vật chính thật đặc

biệt: thằng Nhà và con Gạo:

Có nhà để ở, có gạo để ăn, đó là ước muốn cháy bỏng ngàn đời của cha

ông, và dường như đến nay câu chuyện ấy vẫn là khát vọng, mong ước không

dễ thực hiện với bao người. Truyện kể thằng Nhà và con Gạo có hoàn cảnh

khốn khó, phải sống dưới sự cai trị của chúa làng gian ác. Hai anh em phải

75

trải qua biết bao gian truân, khổ cực: lạc mất mẹ, đói khát, rơi vào nanh vuốt

hổ. Nhưng được sự giúp đỡ của Rận, Đại bàng, các em đã tìm thấy mẹ, được

trở về mái ấm gia đình với mong ước nhỏ nhoi, bình dị: “Trở về làng từ nay

có nhà có gạo, có mẹ, có con. Con ơi con ngủ cho ngoan…”. Câu hát à ơi của

người mẹ vang lên khi kết thúc truyện chứa đựng bao tình cảm thiết tha, lòng

yêu con vô bờ với khát vọng về một tương lai no ấm, sum vầy. Tìm mẹ xứng

đáng được xếp vào một trong những truyện viết cho thiếu nhi xuất sắc nhất,

một đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam. “Tìm mẹ của Nguyễn Huy

Tưởng chỉ có vài chục trang, Đàn chim gáy của Tô Hoài chỉ mấy chục dòng,

nhưng đều lớn và đẹp” (Nguyên Ngọc). Sức hấp dẫn của Tìm mẹ toát ra từ nội

dung tràn đầy tính nhân văn, cách kể chuyện độc đáo, thú vị, gây bất ngờ, lối

viết ngắn gọn, rõ ràng, “Ông viết kỹ từng câu, chọn từng từ, nương nhẹ như

với những cánh hoa” (Nguyên Ngọc).

Sau Tìm mẹ phải kể tới Con Cóc là cậu ông Giời, và đặc biệt là Cô bé

gan dạ - một câu chuyện mới được phát hiện, in trong tủ sách Hoa Xuân được

Nguyễn Huy Tưởng viết vào những năm 1940 của thế kỷ trước khi ông tham

gia phong trào Hướng đạo. Truyện kể về một cô bé gan dạ đã vượt lên sự ngu

muội, mê tín của dân làng khi ông tiên chỉ cho biết thần làng báo mộng mỗi

tháng phải nộp một con lợn sống nhớn, và mỗi năm phải cống nộp một người

con gái tân. Làng Thần Quyết hai mươi năm nay phải sống trong khủng bố, đe

dọa với tâm lí nơm nớp lo sợ. Năm nay, cô Thứ con gái cụ Trương Nghiêm -

một gia đình khốn khó tới lượt phải nộp mạng cho hung thần. Nhưng trái với

tâm lí sợ sệt của thầy u, dân làng, cô Thứ không hề run sợ, không sợ đối mặt

với cái chết, cô chỉ thương cha mẹ già không ai chăm nom, lo liệu sớm hôm.

Với bản lĩnh cứng cỏi, trí thông minh, tinh thần dũng cảm, cô Thứ trước lúc

đi vào cõi chết chỉ xin thầy u một điều hãy rèn cho cô hai con dao thực sắc để

nàng quyết sống chết với con ác thú. Không tin vào những tin đồn nhảm, cô

76

Thứ linh cảm và biết chắc trong hang động không có thần thánh nào tác oai

tác quái mà chỉ có con thú dữ ăn thịt người. Nguyễn Huy Tưởng bằng tài quan

sát, miêu tả, nghệ thuật kể chuyện, dẫn dắt độc đáo, khéo léo đã tái hiện rõ

cuộc chiến giữa người và ác thú, giữa chính nghĩa với tàn bạo, hủ tục. Cuộc

vật lộn, tấn công giữa một bên là người con gái trẻ đẹp, đơn độc với một bên

là con cá sấu dũng mãnh, phi thường được miêu tả chi tiết, gay cấn. Cuối

cùng, bằng tài năng, nghị lực và niềm tin vào cái thiện sẽ chiến thắng, cô Thứ

đã giải được cơn u mê, diệt trừ mối tai họa cho dân làng, được nhân dân kính

phục, ngưỡng mộ.

Với Cô bé gan dạ, Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ rõ tài năng và nghệ

thuật viết truyện cho thiếu nhi bậc thầy, bởi trong văn ông luôn đầy ắp chất

thơ của cuộc đời, chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình

thương yêu đồng loại. Đúng như những nhận xét của nhà văn Phạm Hổ:

“Trong câu văn của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta không bao giờ thấy lộ ra

bóng dáng của điều ác mặc dù anh có miêu tả kẻ ác với tất cả lòng căm ghét -

nhưng căm ghét không có nghĩa là ác. Nói rõ hơn: điều ác không có ở trong

lòng anh. Văn anh là yêu thương, là đầm ấm, là bao dung… Rõ ràng đọc

Nguyễn Huy Tưởng, càng thấy yêu văn và càng thấy yêu người” [7, tr. 112].

Nguyễn Huy Tưởng viết lại truyện cổ tích Tấm Cám - một truyện cổ

tích kinh điển, đã lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm lịch sử. Đây

không phải là một tác phẩm “giả cổ tích” hay “cổ tích hiện đại” mà thực sự là

một cổ tích viết lại, tái tạo một cách nghệ thuật. Từ một cốt truyện truyền

miệng, “phi ngã”, nhà văn đã ít nhiều cá thể hóa nhân vật, hư cấu một cách

sáng tạo. Một số chi tiết thú vị trong truyện mang dấu ấn chủ thể nhà văn

chuyên nghiệp. Ở cuối tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng không để cho Tấm tự

tay giết và làm mắm Cám mà bổ sung thêm một số chi tiết mới với những

sáng tạo hợp lí mang tính nhân văn. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy

77

Tưởng viết: “Cám nghĩ thầm rằng muốn tranh ngôi hoàng hậu, tất phải được

vua yêu, mà muốn được vua yêu, tất mình phải đẹp hơn Tấm bội phần. Cám

soi gương thấy mình vẫn đen, vẫn xấu. Đương băn khoăn thì có một người

cung nữ già đi qua. Người cung nữ thấy Cám có vẻ suy nghĩ bèn hỏi duyên

cớ. Cám kể hết nỗi riêng. Người cung nữ già vốn vẫn ghét Cám vì thường bị

Cám hành hạ, nay được dịp báo thù bèn bảo rằng: Không khó gì, lệnh bà

muốn đẹp thì ngồi xuống một cái hố sâu, rồi cho một người dội một thùng

nước thực sôi từ đầu đến gót. Tắm nước sôi xong, lệnh bà cũng trắng hơn

tuyết và đẹp hơn tiên.

Cám mừng lắm, sai lính đào ngay một cái hố và nấu một nồi nước thực

sôi. Cám ngồi xuống hố, sai người dội nước cho mình tắm. Nhưng vừa dội

được nửa nồi nước sôi bỏng thì Cám đã nhăn răng ra chết” [24, tr. 65 - 66].

Tiếp diễn câu chuyện được kể: “Bọn cung nữ và lính tráng từ xưa ai ai

cũng thâm thù Cám. Họ ghét cả bà mẹ Cám, vì bà này hay vào cung ton hót

cho con gái và xui Cám đánh đập mọi người. Bởi thế họ bàn nhau đem Cám

làm mắm và đưa về biếu người dì ghẻ độc ác, nói là của vua và Tấm ban cho.

Người dì ghẻ tưởng là mắm ngự thực, ăn lấy ăn để.

Trong lúc người đàn bà cay nghiệt kia ăn mắm thì một con quạ khoang

ở đâu bay đến đậu trước thềm, chõ mỏ vào trong nhà cất tiếng kêu rùng rợn

rằng: “Ngon ngỏn ngòn ngon, ăn thịt con có còn, cho xin một miếng.

Người dì ghẻ tức giận chồm lên, tay cầm một cái sào xua đuổi con quạ

và chửi rủa ầm ĩ. Nhưng ít lâu ăn gần hết mắm, …;bấy giờ mới biết là con quạ

khoang nói đúng. Bà ta hét lên một tiếng, ngã vật ra, chết ngay lập tức” [24,

tr. 66].

Có thể khẳng định rằng với 20 năm sáng tác, thành công trên nhiều thể

loại, nhất là thể loại viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng đã để lại một dấu

ấn không thể phai mờ trong lịch sử văn học dân tộc, người mở đường dẫn lối,

78

người truyền lửa, xây đắp cho nền văn học thiếu nhi của nước ta ngày càng

vững mạnh. Cuộc sống không ngừng vận động, lớp công chúng mới xuất hiện

với những đòi hỏi cao về nhu cầu thưởng thức những món ăn tinh thần phù

hợp với tâm lí thời đại. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đặt ra cho đội ngũ

văn nghệ sĩ cần phải có những thay đổi, những nỗ lực cách tân để làm phong

phú đời sống văn học nước nhà, gieo mầm nhân cách, thắp sáng lí tưởng sống

cho đông đảo công chúng yêu văn chương.

Văn học thiếu nhi là một bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống

văn học dân tộc. Nhưng hiện nay khoảng trống về những tác phẩm viết cho

tuổi thơ ngày càng khó lấp đầy. Vì vậy trở về với quá khứ, học tập những thế

hệ đi trước, trong đó có những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng để phát huy

là hướng đi bổ ích. Cuộc sống dù bộn bề, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn

nhưng những câu chuyện trong sáng viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy

Tưởng vẫn được bạn đọc nhỏ tuổi đón nhận, trân trọng, nâng niu, bởi đó là

món quà, là viên ngọc vô giá mà ở đó các em có thể soi vào để thấy lịch sử

hào hùng, vĩ đại của dân tộc, để tâm hồn luôn trong sáng, thánh thiện.

3.2. Ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Tƣởng.

3.2.1. Khái lược ngôn ngữ kể chuyện.

Ngôn ngữ của người kể chuyện tập trung ở lời người kể chuyện. Nó

bao gồm phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con người; bao gồm

cả lời dẫn thoại; lời văn trữ tình. Lời người kể chuyện thường mang tính

khách quan hơn so với lời nhân vật, nó có nhiệm vụ làm nền cho sự xuất hiện

của câu chuyện và của lời nhân vật, là mối dây liên kết các yếu tố của tổ chức

tác phẩm. Lời người kể chuyện là thành tố quan trọng trong ngôn ngữ kể

chuyện, nó chiếm một tỷ trọng lớn trong lời văn nghệ thuật toàn tác phẩm.

Ngôn ngữ kể chuyện trong tác phẩm sự sự, cùng với sự tồn tại của

ngôn ngữ nhân vật, còn có cả ngôn ngữ người kể chuyện và nó chiếm một vị

79

trí hết sức quan trọng trong tác phẩm. Nó đóng vai trò tổ chức và chỉ đạo đối

với ngôn ngữ toàn tác phẩm, nó là phương tiện để bộc lộ chủ đề và tư tưởng

tác phẩm, để khắc họa đặc điểm, bản chất của tính cách, để dẫn dắt quá trình

phát triển của cốt truyện, để thực hiện nhiệm vụ kết cấu tác phẩm; đồng thời

nó tác động đến thái độ của người đọc đối với đối tượng đang được miêu tả

trong tác phẩm.

3.2.2. Ngôn ngữ trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng

Trong sáng tạo văn chương, ngôn ngữ có vai trò quan trọng, là chất liệu,

là phương tiện đặc trưng của văn học…Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà

văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố

xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm; có lẽ vì thế

M .Gorki viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của

nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn

học” [2, tr. 206].

Với người nghệ sĩ, việc sáng tạo, sử dụng linh hoạt ngôn ngữ có vai trò

quan trọng, quyết định đến sự thành công của tác phẩm. Đây cũng là yếu tố

tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn và để lại ấn tượng cho người đọc. Qua một đoạn

văn, bạn đọc có thể nhận biết được tác giả của nó là ai, nhờ vào những tín

hiệu ngôn ngữ, giọng điệu toát lên từ những câu từ của đoạn văn đó. Vì

“Những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm về

giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ

vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những tác phẩm

ấy.” [9, tr. 297]. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt của ngôn ngữ trong sáng tạo

văn chương, và cũng có thể nói, mỗi nhà văn lớn đều là những bậc thầy của

ngôn từ.

Ở thể loại truyện viết cho thiếu nhi, nhất là truyện cổ tích, điểm nổi bật

là giọng văn đầm ấm tràn đầy tình thương. Trong Tìm mẹ, ngay mở đầu câu

80

chuyện tác giả đã gợi ra tình cảnh đáng thương của một gia đình nông dân

nghèo, quanh năm phải làm thuê kiếm sống cho chúa làng. Mong ước bình dị

của họ gửi gắm vào những đứa con thơ qua cách đặt tên con thật giản dị mà ý

nghĩa: “Thôi, đặt tên cho nó là Nhà để nó sau này nó có cái nhà trú mưa trú

nắng” … thôi, đặt tên cho nó là Gạo để nó sau này nó còn có hột gạo mà ăn”

[24, tr. 67].

Và trong các câu chuyện khác như Thằng Quấy, Cô bé gan dạ… sau khi

miêu tả cuộc xung đột giữa cái thiện với cái ác, giữa những người nông dân

hiền lành, thấp cổ bé họng với bọn cường hào ác bá, những tên chúa làng, nhà

văn khẳng định sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, người hiền lành, lương

thiện sẽ có cuộc sống đầm ấm, sum vầy. Vì vậy, viết về “những mơ ước ngàn

đời” của người dân lao động xưa, về thế giới của tuổi thơ bất hạnh nhọc nhằn

nhưng dũng cảm, mưu trí, gan dạ, nhà văn thường chọn lựa những câu văn

nhẹ nhàng với giọng điệu đầm ấm tràn đầy tình yêu thương.

Với đối tượng hướng tới là thiếu nhi, hình tượng nhân vật chính tuổi

còn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt chú ý đến việc sử dụng câu chữ, ngôn từ

để làm nổi bật hình tượng nhân vật, phù hợp với năng lực, trình độ và tâm lí

tiếp nhận của bạn đọc. Lá cờ thêu sáu chữ vàng với những câu văn trang

trọng, trong sáng, gợi không khí thời đại, vừa giản dị, gần gũi, giàu chất thơ

như: “Con đi phen này đã thề sống chết với giặc. Bao giờ đất nước thanh

bình, bốn phương bể lặng trời im con mới trở về. Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn

vàng để cho con được yên lòng xông pha trận mạc” [25, tr. 116], đã gieo vào

lòng người đọc niềm tự hào về những trang anh hùng của dân tộc. Viết về lịch

sử trong quá khứ với độ lùi khá xa về không - thời gian, Nguyễn Huy Tưởng

đã rút ngắn khoảng cách đó, đưa lịch sử trở về gần với cuộc sống hiện tại

bằng lớp từ vừa cổ kính, trang nghiêm, vừa giản dị, đời thường.

81

Thế mạnh của từ Hán Việt là tính gợi hình, tạo âm hưởng, nhịp điệu cho

câu văn, vì thế khi miêu tả các trận đánh lớn, hay khi khắc họa vẻ đẹp ngoại

hình của các tráng sĩ, Nguyễn Huy Tưởng đã vận dụng có hiệu quả lớp từ này.

Tiêu biểu có thể kể tới những đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của các nhân vật lịch

sử như Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc

Tuấn, Quang Trung…Việc vận dụng sáng tạo từ ngữ Hán Việt góp phần quan

trọng trong việc làm nổi bật phẩm chất, tính cách nhân vật, đồng thời tạo

không khí sử thi, sắc màu lịch sử, thời đại cho tác phẩm.

Với ngôn ngữ trong sáng, ấm áp, đôn hậu giàu tình thương, lối kết cấu

quen thuộc, giản dị với hai tuyến nhân vật song song tồn tại, có sự đấu tranh

quyết liệt giữa cái thiện và cái ác đã tạo nên sức hấp dẫn lớn cho những câu

chuyện viết cho tuổi thơ. Đánh giá về những tác phẩm viết cho thiếu nhi của

Nguyễn Huy Tưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Trong văn học

cho thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây giờ chưa ai

chuyên và đã thành công như Nguyễn Huy Tưởng… Truyện Con Cóc là cậu

ông Giời, truyện Tìm mẹ, truyện An Dương Vương xây thành Ốc, những

truyện cổ tích vừa lạ lùng xanh biếc, vừa mênh mông những tưởng tượng kỳ

ảo mà trong đó chứa chất cả một kho vàng ngọc những tình cảm yêu thương,

những lòng tin, những chí khí dời núi lấp biển của người Việt Nam, của

truyền thống Việt Nam.” [16, tr. 317] và “Ngòi bút của ông thấm đượm tình

yêu thương của một người cha, người ông. Ông viết kỹ từng câu, chọn từng

từ, nương nhẹ như với những cánh hoa.” [16, tr. 153]

Ngôn ngữ vừa thân tình, mang tính đối thoại trực tiếp đó là đặc điểm

nổi bật trong truyện Hai bàn tay chiến sĩ . Với cách kể chuyện tự nhiên, dung

dị, Nguyễn Huy Tưởng đã dẫn dắt người đọc đến bất ngờ này đến bất ngờ

khác, sự kiện, chi tiết gây xúc động mạnh. Với các đối tượng khác nhau như

nói với đồng chí bí thư, với bọn Việt gian, với bọn quan tây và với mẹ của

82

mình, ngôn ngữ được tác giả diễn tả phù hợp với tình cảm và hoàn cảnh trong

truyện.

Khi nghe đồng chí bí thư chi bộ rỉ tai nói: “Đây là lúc thử thách lòng

trung thành của chúng ta đối với Đảng, với nhân dân. Chúng ta được nhân

dân tin cậy hay không, chính là ở những lúc gian khổ này. Cốt nhất là thắng

được cái đau đớn lúc đầu.” Bẩm hỏi làm thế nào chịu được đau đớn. Đồng chí

nói: “Cứ nhớ những lời đã thề trước lá cờ Đảng.” [24, tr. 153]. Nghe đối thoại

giữa đồng chí bí thư và Bẩm chúng ta không hết xúc động với tình cảm chân

thành và nghiêm khắc với đồng chí mình, câu hỏi của Bẩm đối với đồng chí

bí thư làm thế nào chịu được đau đớn, được đồng chí bí thư trả lời rất ngắn

gọn và cũng là lời chỉ bảo của đồng chí, của tổ chức đảng đối với mình. Chính

những điều đó, mà Bẩm đã vượt qua mọi sự tra tấn dã man của kẻ thù, vượt

qua sự đau đớn tột cùng về thể xác con người. Nhờ vậy Bẩm đã chiến thắng

chính bản thân mình để bảo vệ bí mật hoạt động cho tổ chức mà đồng chí bí

thư căn dặn trước khi bị địch tra tấn.

Khi đối đáp trực tiếp với bọn Việt gian. Anh bảo thằng Việt gian: “Các

anh muốn nói gì thì nói. Tôi có biết gì đâu mà khai báo” [24, tr. 156]. Câu nói

của Bẩm thật dứt khoát làm bọn Việt gian không còn cách nào để khai thác từ

Bẩm. Ý chí lòng quyết tâm vượt qua nỗi đau về thể xác cùng ý kiến kiên

cường của anh làm bọn Việt gian phải chịu thua, không khai thác được gì sau

những cực hình mà chúng tra tấn Bẩm, cũng như đối với đồng chí bí thư. Tinh

thần yêu nước, sự đấu tranh kiên trì đã giúp Bẩm vượt qua những thời khắc

gian khổ.

Trải qua bao thử thách khó khăn, Bẩm trở đã sống và trở về quê nhà.

Cảnh đối thoại trực tiếp với hai mẹ con thật xúc động, không cầm được nước

mắt, thẫm đẫm tình cảm của hai mẹ con, của quê hương trong đó. Những

đoạn văn và ngôn ngữ đầy ý nghĩa này cho chúng ta thấy được tình cảm gắn

83

bó giữa con người với con người, giữa người mẹ và người con hơn lúc nào

hết và không gì so sánh được. Đượm tình thương và giàu sức biểu cảm thật

trân trọng những từ, câu và trang viết của Nguyễn Huy Tưởng đã đem lại cho

chúng ta, các em thiếu nhi những tấm gương kiên trung chiến thắng kẻ thù dù

trong chông gai, gian khó. Tiêu biểu nhất ở đây là tình huống thử thách cam

go nhất mà nhân vật Bẩm phải trải qua trước sự tin tưởng của đồng chí Bí thư

chi bộ.

Khi viết về chiến thắng Điện Biên ( trong Điện Biên Phủ của chúng

em) tác giả chú trọng thông tin sự kiện, không thi vị hóa kiểu Tô Hoài. Ông

đã sử dụng ngôn ngữ kể rất gần gũi như chính là người trực tiếp dẫn dắt các

bạn nhỏ đi thăm lại Điện Biên Phủ. Và ở truyện này, tác giả đặc biệt chú

trọng đến thông tin các sự kiện gợi lại những mốc lịch sử, nhân vật anh hùng

chấp nhận hi sinh cá nhân để đem lại chiến thắng cho sự nghiệp giải phóng

dân tộc trong truyện từ tuyến đường, tên các nhân vật anh hùng và các trận

đánh ác liệt.

Có đoạn tác giả viết: “Có hai con đường chính ô tô đi được. Đường số

13, từ Yên Bái đi, qua Than Uyên, Nghĩa Lộ, Quang Huy rồi bắt sang đường

số 41. Hồi tôi lên Tây Bắc thì đi con đường chính thứ hai trước gọi là đường

số 41, nay đổi là đường số 6. Từ Hà Nội đi qua Hòa Bình, suối Rút, Mộc

Châu, Yên Châu, Nà Sản, Sơn La, Thuận Châu – thủ phủ tạm thời của Khu tự

trị. Từ Thuận Châu qua đèo Pha Đin tới Tuần Giáo và đi Lai Châu. Ở Tuần

Giáo có một con đường rẽ dài 80 ki-lô-mét, gọi là đường số 42. Đấy là con

đường vào Điện Biên”. [25, tr. 61].

Những con đường đã gợi lên trong tâm trí chúng ta những ngày hành

quân lên kháng chiến tại Điện Biên bao khó khăn, vất vả phải trả bằng xương

máu của các chiến sĩ. Một câu chuyện được tác giả kể lại thật xúc động, sự hi

sinh cao cả của các anh bất chấp mọi gian khó, hi sinh tính mạng của mình để

84

phục vụ cuộc kháng chiến: “Đêm ấy, họ vượt qua chặng đường đi. Vì thế gạo

tới Điện Biên Phủ vừa kịp lúc một số đơn vị xung kích đã phải nhịn đói nửa

ngày. Nhưng các em ơi! Đồng chí cán bộ ấy thì sao? Tờ mờ sáng, khi toán

dân công cuối cùng vừa đi khỏi, đồng chí sắp bước theo thì bom nổ. Đoạn

đường ấy là nơi yên nghỉ của người anh hùng lặng lẽ ấy!”. [25, tr. 65].

Các địa danh và các anh hùng được gắn với lịch sử của các trận đánh

Him Lam, ghi mãi hình ảnh của người anh hùng Phan Đình Giót, người đã lấy

thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng chí mình tiến lên tiêu diệt địch. Tô Vĩnh

Diện lấy thân mình chèn pháo, cả thân mình bị nát nhừ. Tấm gương hi sinh

của anh cùng biết bao đồng đội khích lệ tinh thần chiến đấu của bộ đội ta tại

chiến trường.

Những trận đánh ác liệt đều được kể lại rất cụ thể như đang hiện ra

trước mắt mình, làm cho người đọc được sống trong tinh thần của Điện Biên.

Các vị trí chiến đấu ác liệt trên đồi A1 đã nói lên sự chiến đấu dũng cảm:

“Trên đồi A1, chúng ta dựng lên một đài liệt sĩ. Dưới chân đài ấy, còn lại xác

một xe tăng 18 tấn, giáp sắt của nó bị lỗ chỗ vết đạn. Một bông hoa rừng mọc

trên xích sắt đã gỉ... Xung kích ào ào tiến lên và buổi sáng hôm sau thì giải

quyết hoàn toàn đồi A1” [25, tr. 78]. Quyết giành giật từng mét đất, sự hi sinh

để chiến thắng kẻ địch, chiến thắng đó là niềm khích lệ to lớn để giải phóng

Điện Biên.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên đi vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Các trận đánh, địa điểm ác liệt xưa giờ đã được bàn tay các anh xây

dựng lại trên mảnh đất đã thẫm đẫm xương máu của đồng đội mình. Sự thay

đổi mới tại Điện Biên là điều kiện để cả vùng Tây Bắc nước ta thành một khu

vực văn minh và sung túc trong hòa bình. Mỗi ngày càng một đổi mới tiến lên

xây dựng chủ nghĩa xã hội.

85

Với truyện viết về đề tài lịch sử cho thiếu nhi, tác giả dùng ngôn ngữ và

giọng điệu kể chuyện thay đổi theo đối tượng, theo đề tài vừa thâm trầm vừa

trang trọng như Lá cờ thêu sáu chữ vàng lại kể về sự kiện giặc Nguyên Mông

sang xâm lược nước ta lần thứ 2 (năm 1285). Vua quan, binh lính, nhân dân

thời Trần đều đứng lên đánh giặc. Đây là giai đoạn lịch sử hào hùng với hào

khí Đông A tỏa sáng. Trần Thủ Độ với câu nói bất hủ: “Đầu tôi chưa rơi

xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, Trần Bình Trọng với câu trả lời đanh thép: “Ta

thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”, Trần Hưng Đạo

với câu nói nổi tiếng: “Xin bệ hạ trước hãy chém đầu thần đi đã rồi hãy ra

hàng”; những người lính tự thích vào vai hai chữ “Sát Thát” với lời thề thiêng

liêng sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc; những người dân cùng đồng lòng

“Đánh. Thưa, chỉ có đánh” khi được vua Trần hỏi ý kiến… Trần Quốc Toản

là một thiếu niên chưa đầy mười sáu tuổi, bằng những việc làm cụ thể góp sức

mình bảo vệ non sông.

Song song với Lá cờ thêu sáu chữ vàng là tác phẩm Kể chuyện Quang

Trung. Tác phẩm ngợi ca sức mạnh thần tốc của đoàn quân áo vải Tây Sơn

với hình ảnh cao đẹp, hùng dũng, uy phong của người anh hùng Quang Trung

- Nguyễn Huệ. Miêu tả những trận đánh vũ bão, câu văn Nguyễn Huy Tưởng

cũng nhanh, mạnh, gấp gáp, phản ánh không khí thời cuộc và ý chí quyết tâm,

tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của quân dân, đã đánh bại quân

Thanh, dẹp yên tập đoàn Lê Chiêu Thống.

Viết về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng không lệ thuộc máy móc vào các

những sự kiện mà luôn tinh nhạy, biết nảy ra trong vô vàn những chi tiết, sự

kiện lịch sử, những tình huống, câu chuyện đặc sắc, gợi mở nhiều thú vị để

gây dựng, bồi đắp, tổ chức, sắp xếp thành một tác phẩm hoàn chỉnh, giúp trẻ

thơ tiếp cận một cách dễ dàng lịch sử, hiểu lịch sử, để từ đó thêm yêu, thêm

86

quí lịch sử nước nhà. Đó là những thành tựu và đóng góp to lớn của Nguyễn

Huy Tưởng cho văn học thiếu nhi Việt Nam.

*

Tiểu kết: Viết cho thiếu nhi với nghệ thuật trần thuật nhà văn, Nguyễn

Huy Tưởng đã hướng vào một giá trị đó là tình yêu quê hương, đất nước,

gương người tốt việc tốt, tổ quốc và lịch sử hào hùng của dân tộc kể cả có di

chuyển điểm nhìn trần thuật ở các ngôi khác nhau từ ngôi thứ nhất sang ngôi

thứ ba những hình ảnh trung tâm vẫn là những giá trị to lớn ấy. Cùng với

nghệ thuật di chuyển điểm nhìn đã nêu trên với ngôn ngữ linh hoạt được tác

giả sáng tạo trong các truyện đã đem lại thành công cho tác giả, tạo được sức

hấp dẫn, lôi cuốn cho bạn đọc nhỏ tuổi. Điều đó cho thấy được ngôn ngữ có

vai trò quan trọng và đặc biệt hơn nữa là ngôn ngữ mà nhà văn Nguyễn Huy

Tưởng đã dành cho lớp tuổi măng non là đầm ấm và giản dị trong từng câu

chuyện, đó chính là sáng tạo đặc sắc nhất của nhà văn./.

87

KẾT LUẬN

Trong văn xuôi tự sự, tác giả “tư duy bằng nhân vật”. Nói đến thi pháp

văn xuôi trước hết là nói đến kiểu nhân vật với những đặc trưng kiến tạo và

nghệ thuật xây dựng đặc thù của mỗi nhà văn. Xuất phát từ quan điểm nghệ

thuật tiến bộ nên khi viết với cảm hứng ngợi ca hay phê phán thì truyện viết

cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng đều là những câu thấm thía về những

con người cụ thể của Tổ quốc thân yêu. Yêu nước và yêu lịch sử là hai phẩm

chất nổi bật, hòa quyện trong con người và văn chương Nguyễn Huy Tưởng.

Hướng về lịch sử để phản ánh miêu tả, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được

một hệ thống nhân vật đa dạng từ những con người đã đi vào lịch sử như các

bậc quân vương, tướng sĩ đến những nhân vật nhỏ bé, bình dân trong cuộc

sống đời thường. Tất cả hiện lên một cách sinh động, mỗi nhân vật đều mang

gương mặt, bóng dáng của lịch sử, phù hợp với hoàn cảnh, tầng lớp xuất thân,

lại vừa có những nét giản dị thường ngày. Nhân vật trong sáng tác của nhà

văn luôn được đặt trong môi trường đầy thử thách, trong những mối quan hệ

đa chiều, trước những lựa chọn nghiệt ngã giữa sự sống - cái chết, tự do - nô

lệ, cao cả - thấp hèn. Không giống với nhân vật trong sáng tác của Nam Cao

phải vật lộn với đời sống cơm áo gạo tiền để tồn tại hay những nhân vật tôn

sùng chủ nghĩa xê dịch, đối lập với cuộc đời để khẳng định chất tài tử, chất

ngông trong những trang văn Nguyễn Tuân, nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng

mang hình bóng những anh hùng thời đại, số phận của họ được đặt trong mối

tương quan với vận mệnh dân tộc, vừa mang những nét chân thực lịch sử vừa

mang tính điển hình, khát quát. Đó là những con người có lý tưởng, hoài bão

cao đẹp với khát vọng được cống hiến, sáng tạo, được hy sinh cho độc lập dân

tộc và sự trường tồn, bất diệt của văn hóa nước nhà. Dù nhân vật chính trong

truyện Nguyễn Huy Tưởng là nhân vật thiếu nhi hay nhân vật của thế giới loài

vật tự nhiên, tính chất loại hình thi pháp của chúng cũng bộc lộ một cách

88

thống nhất, đúng theo kiểu Nguyễn Huy Tưởng: mực thước, quy chuẩn mà

vẫn trong sáng, hồn nhiên, đậm chất trữ tình.

Là cây bút chép sử bằng văn chương, Nguyễn Huy Tưởng đã đem đến

cho người đọc cách nhìn, cách tiếp cận độc đáo về lịch sử. Khai thác lịch sử,

Nguyễn Huy Tưởng lựa chọn những thời điểm trọng đại, đầy biến cố khi cả

dân tộc phải đương đầu chống chọi với giặc ngoại xâm. Tôn trọng sự thật lịch

sử đến từng chi tiết nhưng không quá lệ thuộc vào các tư liệu lịch sử mà có

những hư cấu, sáng tạo hợp lí đảm bảo được tinh thần lịch sử - thời đại. Vì thế

những tác phẩm viết về triều đại rất xa nhưng người đọc lại có cảm giác rất

gần. Hiệu ứng thẩm mĩ ấy nhờ vào năng lực tổ chức, kết cấu tác phẩm vừa cổ

điển vừa hiện đại, phản ánh hiện thực trong quy mô rộng mang âm hưởng thời

đại cùng giọng điệu trầm thống, bi hùng thấm đẫm trong nhiều thể loại.

Không cầu kì, trau chuốt như văn Nguyễn Tuân, không suy tưởng, triết luận

như văn Nguyễn Đình Thi, văn phong Nguyễn Huy Tưởng là thứ văn gợi sự

cổ kính, trang nghiêm, uyên thâm, lịch lãm song cũng rất dung dị, đời thường.

Thi pháp văn xuôi trước tiên là thi pháp của truyện kể, là nghệ thuật tự

sự, được hiểu như cách kể, lối kể của người kể chuyện trong văn bản. Nếu

như K. Andercen là “ người kể chuyện hay nhất châu Âu” thế kỷ 19, thì ở

Việt Nam thế kỷ sau, chúng ta cũng có những người kể chuyện hay nhất nước

Nam cho các em: Tô Hoài và Nguyễn Huy Tưởng. Dù kể về những truyện đã

chìm sâu trong quá khứ dân tộc hay về những con người sự kiện của đời sống

đương đại, lối kể của Nguyễn Huy Tưởng vẫn là lối kể cảm khái về lịch sử.

Người kể chuyện trong văn viết cho thiếu nhi của tác giả luôn là người nhìn

thế giới bằng nhãn quan lịch sử. Ông đọc được lịch sử ngay trong lát cắt đồng

đại, nhìn thấy cái hiện tại đang “nhú mầm”, biến thành lịch sử. Cảm hứng lịch

sử đã trở thành cảm hứng sáng tạo thường trực trong cách kể của ông. Có thể

khái quát: Người kể truyện Nguyễn Huy Tưởng là người kể chuyện lịch sử

89

đôn hậu, chân thành. Người kể chuyện đó cũng là người kể hướng đạo, mang

trọng trách của bậc huynh trưởng trong văn chương giáo hóa tuổi thơ.

Với những nỗ lực, cách tân trong sáng tác về đề tài lịch sử, ngay từ

kịch Vũ Như Tô, viết trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng đã

đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách riêng, độc đáo, từ cách nhìn,

cách tiếp cận và thể hiện những vấn đề về lịch sử. Nguyễn Huy Tưởng thường

suy nghĩ bằng lịch sử, trình bày lịch sử để chiêm nghiệm, nhận thức, đắm

mình trong cảm thức thời gian. Quan điểm thẩm mỹ và kiểu tư duy lịch sử

này đã tạo ra một phong cách nghệ thuật vững chãi và thi pháp tự sự nhất

quán trong văn chương viết cho người lớn lẫn văn học dành cho thiếu nhi.

Những đóng góp của ông cho nền văn học dân tộc là rất lớn trên cả hai

bình diện tư tưởng và nghệ thuật, và chắc chắn khi nhắc tới những gương mặt

tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại không thể không nhắc tới nhà văn,

nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng một cây bút chép sử bằng văn chương, nhà

văn của Hà Nội với những trang viết tài hoa.

Nguyễn Huy Tưởng xứng đáng với đánh giá: Người dẫn đầu gương

mẫu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam [18, tr. 231]./.

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân chủ biên (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Phan Cư Đệ, Hà Minh Đức (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960),

Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Hà Minh Đức chủ biên (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2007), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

6. Tô Hoài (1996), Lời giới thiệu "Truyện viết cho thiếu nhi" của Nguyễn

Huy Tưởng, Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Phạm Hổ (1982), Nguyễn Huy Tưởng và những truyện viết cho thiếu

nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

8. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát

triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

9. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận

nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10. M. B. Khrapchenco (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người,

Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Phương Lựu chủ biên (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La

Khắc Hòa, Thanh Thế Thái Bình đồng chủ biên (2012), Lí luận văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Phương Ngân tuyển chọn và biên soạn (2001), Nguyễn Huy Tưởng

khát vọng một đời văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

91

14. Đỗ Hải Phong (2004), Vấn đề nguời kể chuyện trong thi pháp tự sự

hiện đại, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

15. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

16. Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu (1997), Nguyễn

Huy Tưởng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Nguyễn Huy Thắng tuyển chọn và giới thiệu (2011), Nguyễn Huy

Tưởng một nhà văn Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

18. Nguyễn Huy Tưởng (2000), Về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

19. Nguyễn Huy Tưởng (2005), Tìm mẹ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

20. Nguyễn Huy Tưởng (2006), Nhật ký (3 tập), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

21. Nguyễn Huy Tưởng (2010), An Dương Vương xây thành Ốc, Nxb Kim

Đồng, Hà Nội.

22. Nguyễn Huy Tưởng (2011), Cô bé gan dạ, Nxb Văn học và trung tâm

văn hóa, ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

23. Nguyễn Huy Tưởng (2012), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

24. Nguyễn Huy Tưởng (2015), Những truyện ngắn hay viết cho thiếu

nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

25. Tri Thức Việt (2012), Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, Nxb Văn học, Hà

Nội.

92