ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN VĂN HIỆU
THƠ ĐƯỜNG LUẬT Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI
Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN VĂN HIỆU
THƠ ĐƯỜNG LUẬT Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI
Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ LỆ THANH
Thái Nguyên – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, 20 tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn
TRẦN VĂN HIỆU
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn
học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo
đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn TS. Trần Thị Lệ Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn
TRẦN VĂN HIỆU
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu. ..................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu. ............................................................ 5
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. ...................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu. .................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn. ................................................................................. 7
7. Đóng góp của luận văn. ........................................................................... 8
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................................... 9
Chương 1: THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI ............................. 9
1.1. Bối cảnh văn học nửa đầu thế kỷ XX. ..................................................... 9
1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1930. ................................................... 9
1.1.2. Giai đoạn từ 1930 – 1945. .................................................................... 13
1.2. Môi trường văn hóa Hán và điều kiện sáng tác thơ Đường luật. ............. 15
1.3. Á Nam Trần Tuấn Khải cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. ........................ 18
1.4. Vị trí của thơ Đường luật Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX. ........... 20
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ
ĐƯỜNG LUẬT Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI ............................................ 26
2.1. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải. .......... 26
2.2. Cảm hứng yêu nước trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải. ...... 38
2.3. Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải. ......... 57
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ, THỂ LOẠI TRONG THƠ ĐƯỜNG
LUẬT Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI ....................................................................... 64
3.1. Đặc trưng nghệ thuật thơ Đường luật Việt Nam. ..................................... 64
3.1.1. Đặc trưng thể loại. ................................................................................ 64
3.2. Á Nam Trần Tuấn Khải và nghệ thuật thơ Đường luật. .......................... 70
3.2.1. Thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải và chữ Quốc ngữ. ................ 71
3.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải. ............. 76
3.3. Đặc điểm thể loại trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải ........... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 95
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thơ Đường luật Việt Nam là một thể loại có vị trí nổi bật trong di
sản văn học quá khứ. Từ Đường luật Hán những thời kỳ đầu đến thế kỷ XV đã
tiến đến một bước phát triển độc đáo qua sự xuất hiện Đường luật Nôm. Đột
biến lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã tác động đến bước phát triển
loại hình văn học Việt Nam. Tuy nhiên, là một lĩnh vực thuộc thiết chế tinh
thần của cấu trúc xã hội, nền văn học trung đại trong đó có thơ Đường luật Việt
Nam tuy mất dần vị trí chủ đạo nhưng những giá trị ưu tú vẫn hiện diện trong
cuộc sống. Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một minh chứng
cho quy luật đó. Nghiên cứu thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX với các bộ
phận và từng tác giả của nó là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa cập nhật để
đóng góp vào công việc tổng kết lịch sử văn học đã qua và tiếp cận những giá
trị tương lai của thể loại đặc biệt này.
1.2. Sáng tác thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải, tuy không
được nhiều người biết đến và đón nhận rầm rộ như những bài hát nói của ông,
nhưng trong ngót 70 năm cầm bút, thời kỳ sáng tác được xem là sung sức nhất
(những năm 20 đầu thế kỷ), cũng là thời kỳ ông sáng tác nhiều thơ Đường luật
nhất. Trong bối cảnh thể thơ Đường luật đang bị đánh giá là lỗi thời, việc một
nhà thơ vẫn có tới 112 bài Đường luật trên tổng số 315 tác phẩm được xem là
một hiện tượng văn học. Bên cạnh đó, những câu thơ được xem là tuyên ngôn
nghệ thuật của buổi giao thời “Đời không duyên nợ thà không sống – Văn có
non sông mới có hồn” lại chính là những câu thơ Đường luật của ông. Thiết
nghĩ một hiện tượng văn học, bao gồm cả số lượng và chất lượng, gắn với một
tên tuổi nổi bật như thế tự nó trở thành một đề tài nghiên cứu khoa học có giá
trị.
1.3. Đương thời, thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải được rất nhiều người
biết đến. Thậm chí ngay sau khi tập thơ đầu tiên được xuất bản năm 1921, thơ
2
của ông đã “nhanh chóng nổi tiếng và được lưu tuyền khắp Trung, Nam, Bắc,
từ nơi đầu chợ, bến sông, đến miền phồn hoa đô hội” [6]. Rất tiếc các công
trình, bài viết, nghiên cứu đánh giá thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải nói chung
còn khá mỏng, chưa tương xứng với những gì tác giả để lại. Đặc biệt, đối với
bộ phận thơ Đường luật của ông thì tình hình nghiên cứu càng hạn chế hơn.
Cho đến nay chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu riêng về vấn đề
này để đưa ra những đánh giá thỏa đáng và mang tính hệ thống. Đề tài “Thơ
Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX” vì thế là một đề tài
mang tính cấp thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu.
2.1. Những nghiên cứu đánh giá chung về thơ Đường luật Việt Nam trong
dòng văn học yêu nước nửa đầu thế kỷ XX.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ Đường luật là một trong những thể
loại Văn học có lịch sử lâu đời nhất và đạt được nhiều thành tựu nhất. Đặc biệt,
trong nền Văn học Trung đại Việt Nam, thơ Đường luật có một vị trí đặc biệt
và đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Thật đúng như Tiến sĩ Trần Thị
Lệ Thanh đã khẳng định: “Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được
người Việt Nam sử dụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường
luật - Nguyễn Trãi đã tạo nên một “niềm ưu ái” đầy tâm huyết; Nguyễn Bỉnh
Khiêm tạo nên một phong cách trữ tình trào phúng, “thi trung hữu quỷ”; Bà
Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực...
Nghĩa là trong suốt mười thế kỷ ấy, nền thơ Việt Nam đã đạt đến những đỉnh
cao của nghệ thuật thơ ca cổ điển, một phần có sự đóng góp của thể loại độc
đáo này” [38].
Bước sang nửa đầu thế kỷ XX, trước sự biến động vô cùng mạnh mẽ của
đời sống xã hội do thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa,
những thay đổi về văn hóa giáo dục đã tạo ra khả năng làm mất đi môi trường
tồn tại và phát triển của thơ Đường luật Việt Nam. Nhưng, cũng chính trong
3
lúc mà tưởng chừng như thơ Đường luật Việt Nam đang dần mất vị thế ấy thì
người ta vẫn thấy được sức sống vô cùng mạnh mẽ của nó ngay trong lòng của
một nền thơ Mới. Trong hoàn cảnh ấy, những người còn sáng tác bằng thể thơ
Đường luật vẫn không phải là ít. Trong đó, phải kể đến các sáng tác thơ Đường
luật của Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông không chỉ là người có công giữ lửa mà
còn là người thổi lửa và truyền lửa cho thơ Đường luật Việt Nam. Thật đúng
như nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã nhận định trong bài “Thơ Mới” đăng trên
Tiểu thuyết thứ bẩy số 31 - 1934 trong khi ngợi ca xu thế phát triển của thơ
Mới vẫn phải thừa nhận rằng: “Tôi thấy phần nhiều các ông làm thơ Mới đều
có biết làm thơ cũ ... một đôi khi khi vui vui, họ cũng làm thử lối thơ cũ thì thơ
họ hay lắm” [37].
2.2. Những nghiên cứu đánh giá về Á Nam Trần Tuấn Khải và thơ Đường
luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
Sáng tác thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ
XX khá phong phú về đề tài, chủ đề và những quan niệm mới về thời cuộc. Từ
góc nhìn thể loại, thơ Á Nam có đóng góp vô cùng to lớn đối với thể thơ Đường
luật dân tộc. Tuy nhiên, cho đến tận bây giờ, những gì còn lưu giữ lại về những
đóng góp của ông thật quá ít ỏi, những công trình nghiên cứu về ông còn ít, có
chăng đó chỉ là một vài bài viết, hay vài lời nhận xét, đánh giá về đóng góp của
ông như:
- Bài viết mở đầu “Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải”, nhà thơ Xuân Diệu
viết: “Đây là một cuộc đời dài lâu và phong phú, những sáng tác thành công
của thi sĩ gắn liền với thời văn thơ quốc ngữ bắt đầu; những thi sĩ có tài “thác
là thể phách, còn là tinh anh”, còn là những bài thơ, những đoạn thơ, những câu
thơ có sức nặng của Á Nam là làm trong thời đau khổ của xã hội trước cách
mạng. Á Nam đã tự mình an ủi: “Nước đời khe khắt ai hay/ Vàng khôn biết lắm,
càng khôn biết lắm càng cay đắng nhiều” [57].
4
- Trong bài viết “Hình tượng anh Khóa trong thơ Á Nam Trần Tuấn
Khải”, Thạc sĩ Phạm Văn Hưng đánh giá: “Trong dòng chảy của thời gian, số
tác giả còn đứng được với lịch sử không nhiều, số tác giả được mọi người nhớ
đến cùng hình tượng do mình sáng tạo ra lại càng ít. Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn
Khải (1894 - 1983) là một trong số ít những người đứng lại và lưu dấu ấn trong
lịch sử văn học với hình tượng anh Khóa trong Tiễn đưa anh Khóa xuống tàu
(1914), Mong anh Khóa (1915), Gửi thư cho anh Khóa (1922) và Mừng anh
Khóa về (1975). Có lẽ còn xa lắm, trong thời điểm của ông và trong tư duy của
ông cũng như tư duy của những người đương thời để nói đến sự kết hợp của
hai khái niệm nhân vật điển hình và hoàn cảnh điển hình nhưng rõ ràng sức
sống của hình tượng anh Khóa đã nói lên tính đại diện của hình tượng này cho
cả một thế hệ,một dân tộc, một thời đại lịch sử của dân tộc Việt Nam” [21].
- Trong bài “Á Nam Trần Tuấn Khải - nhà thơ của dòng văn học yêu
nước trong những năm 1920” [10], Lê Chí Dũng viết: “Đọc Á Nam Trần Tuấn
Khải, độc giả bắt gặp trong thơ ông cái tôi nội cảm (le moi intérieur). Cái tôi
nội cảm này man mác trong những bài thơ thể hiện lòng yêu nước của thi nhân
và nổi rõ trong những bài thơ bộc lộ cái nhìn ái ân phong tình của ông đối với
con người và những hiện tượng trong thực tại, như trong bài thơ:
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân !
Nhớ cô hàng quạt chợ Đồng Xuân.
Tờ mây phong kín lời sơn hải,
Tin gió bay tàn lửa ái ân.
Hương hỏa ba sinh tình khắc cốt,
Can tràng trăm đoạn lúc rời chân.
Thói đời nóng lạnh coi mà ngán,
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân.
(Nhớ cô hàng quạt)
5
- Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Thị Liên Tâm cũng có những trang viết thật
sâu sắc về Á Nam Trần Tuấn Khải: “Nhà thơ của Gánh nước đêm, Anh Khóa
xuống tàu, Tráng sĩ hành... và những bài Phong dao đã đi về cõi xa xôi, nhưng
tên tuổi cùng những bài thơ tuyệt hay của ông, nhất là bài thơ Gánh nước đêm.
Á Nam đã tạc nên hình tượng người đàn bà gánh nước đêm - ẩn dụ về người
trượng phu với tấm lòng yêu non yêu nước sẽ ở lại mãi với chúng ta, nhất là
những con người bình dân một nắng hai sương bên bờ ao gốc rạ.” [35]
- Trong bài “Á Nam Trần Tuấn Khải: Mượn tiếng văn chương gọi giống
nòi”, Hoài Anh đánh giá: “Gần một thế kỉ cống hiến cho sự nghiệp của đất
nước và văn học, Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện trọn vẹn đúng như tâm
nguyện của cụ buổi đầu: “Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết, Gửi với sơn hà một
áng văn”.
Đặc biệt, nghiên cứu về thơ Đường luật của ông giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX vẫn còn là vấn đề hoàn toàn mới. Trong cuốn “Nhà văn hiện đại, tập I,
NXB Văn học” của tác giả Vũ Ngọc Phan cũng đã nghiên cứu về các nhà văn
hiện đại Việt Nam, nhưng trong cả mấy trăm trang viết ấy cũng chỉ có vài trang
viết về Á Nam Trần Tuấn Khải. Trong vài trang viết ấy cũng chỉ có vẻn vẹn vài
dòng nhận xét về thơ Đường Luật của ông chứ chưa hề có sự nghiên cứu. Tuy
nhiên, những nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan còn chưa tương xứng với
những gì mà Á Nam Trần Tuấn Khải đã đóng góp trong dòng thơ yêu nước nửa
đầu thế kỷ XX. Chẳng hạn như: “Ông không sở trường về lối Đường luật, nên
những bài Đường luật khác của ông phần nhiều chỉ được cái lưu loát, không
hay mà cũng không dở” [ 32 ].
Chính vì những lẽ đó mà đề tài “Thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải
trong dòng thơ yêu nước nửa đầu thế kỷ XX” càng mang tính cấp thiết hơn.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ những sáng tác thơ Đường luật của Á
Nam Trần Tuấn Khải giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX (1900 - 1945).
6
3.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá những đóng góp của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải
trong văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX và trong chính sự nghiệp sáng
tác của tác giả.
- Tìm hiểu thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải trên cả hai phương
diện nội dung và hình thức nghệ thuật, từ đó chỉ ra những đặc điểm của thơ
Đường luật Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nắm vững và biết vận dụng những lý thuyết cơ bản liên quan đến thơ
Đường luật và thơ Đường luật Việt Nam để phân tích và nhận diện đặc điểm
của một hiện tượng văn học sử.
- Trên cơ sở thống kê, phân tích và tổng hợp đề tài sẽ nghiên cứu, đánh
giá nhằm đi đến những kết luận có giá trị về những khuynh hướng cảm hứng
chủ đạo, đặc điểm ngôn ngữ, thể loại trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn
Khải, từ đó xác định vị trí của thơ Đường Á Nam Trần Tuấn Khải trong dòng
thơ yêu nước nửa đầu thế kỷ XX.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là một đề tài nghiên cứu văn học sử vì thế trong quá trình triển khai
thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học sử
là chủ yếu như:
- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
Ngoài ra, muốn làm sáng rõ vấn đề, luận văn sẽ kết hợp sử dụng thêm
các thao tác phân tích tác phẩm văn học.
7
5. Phạm vi nghiên cứu.
Sự nghiệp sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải trong bộ phận thơ ca
công khai đầu thế kỷ XX tuy không đồ sộ, nhưng khá phong phú với hầu hết
các thể loại thơ ca Việt Nam (Đường luật, lục bát, song thất lục bát, hát ví, hát
xẩm, sa mạc, hát nói…) và tồn tại ở nhiều trạng thái khác nhau (như các sách
báo công khai từ Nam chí Bắc hồi nửa đầu thế kỷ XX, các báo, tạp chí công
khai như: Khai hóa, Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn, Đông Dương
tạp chí, Nam Phong tạp chí (Hà Nội), Tiếng dân (Huế), Đông pháp thời báo,
Phụ nữ tân văn (Sài Gòn)…và các sách, báo ). Thơ Đường luật cũng tồn tại ở
tất cả các trạng thái đó. Trong điều kiện thời gian và khuôn khổ một luận văn
thạc sĩ, đề tài xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu là thơ Đường luật trong
cuốn Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, Nxb Văn học TP. Hồ Chí Minh 1993
(Xuân Diệu giới thiệu, Lữ Huy Nguyên sưu tầm tuyển chọn) trong đó có các
tập Duyên nợ phù sinh I (1921), Duyên nợ phù sinh II (1923), Bút quan hoài I
(1927), Bút quan hoài II (1927), Với sơn hà I, Với sơn hà II gồm 112 bài. Những
sáng khác chưa có điều kiện sưu tầm tập hợp, chúng tôi sẽ chỉ quan tâm khi cần
thiết phải so sánh.
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và sự hiện diện của
Á Nam Trần Tuấn Khải.
1.1. Bối cảnh văn học nửa đầu thế kỷ XX.
1.2. Môi trường văn hóa Hán và điều kiện sáng tác thơ Đường luật.
1.3. Á Nam Trần Tuấn Khải cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
1.4. Vị trí của thơ Đường luật Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX.
8
Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn
Khải.
2.1. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
2.2. Cảm hứng yêu nước trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
2.3. Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ, thể loại thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
3.1. Đặc trưng nghệ thuật thơ Đường luật Việt Nam.
3.2. Á Nam Trần Tuấn Khải và nghệ thuật thơ Đường luật.
3.3. Đặc điểm thể loại trong thơ Đường luật Á Nam.
7. Đóng góp của luận văn.
- Luận văn bước đầu nghiên cứu một cách hệ thống về thơ Đường luật
Á Nam Trần Tuấn Khải, từ đó để chỉ ra những đặc điểm về nội dung và nghệ
thuật của thể loại này trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ.
- Từ việc tìm hiểu về thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, làm
sáng tỏ vị trí và những đóng góp của thơ Đường Á Nam Trần Tuấn Khải trong
dòng thơ yêu nước nửa đầu thế kỷ XX .
KẾT LUẬN
9
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1
THƠ ĐƯỜNG LUẬT VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI
1.1. Bối cảnh văn học nửa đầu thế kỷ XX.
1.1.1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1930.
Đây là chặng đường thể hiện rõ tính chất giao thời của hai phạm trù văn
học. Chặng đường này có thể phân chia thành hai giai đoạn nhỏ: Từ đầu thế kỉ
XX đến 1920 và từ 1920 đến 1930.
1.1.1.1. Từ đầu thế kỉ XX đến 1920.
Vào đầu thế kỉ XX, sau khi cơ bản đã dẹp xong các cuộc nổi dậy chống
Pháp của các sĩ phu yêu nước, thực dân Pháp ra sức củng cố sự thống trị của
chúng trên đất nước ta và khẩn trương bắt tay vào khai thác thuộc địa. Cơ cấu
kinh tế, xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến đổi theo hướng tư bản chủ
nghĩa ở một nước thuộc địa. Nền văn học cũng bước vào giai đoạn giao thời.
Văn chương của các nhà nho vẫn giữ vị trí quan trọng nhưng phân hoá và ít
nhiều đã có biến đổi về cả tư tưởng lẫn nghệ thuật. Các tác giả cuối cùng của
văn học trung đại như Nguyễn Khuyến, Tú Xương vẫn tiếp tục sáng tác trong
những năm đầu của thế kỉ mới nhưng với tâm trạng của kẻ lạc thời. Tam
Nguyên Yên Đổ về ẩn dật tại làng quê, cam chịu cuộc sống nghèo túng, vắng
vẻ, khước từ mọi sự dụ dỗ, đe doạ, bất hợp tác với giặc để giữ chữ “tiết” của
nhà nho nhưng vẫn âm thầm mang nỗi đau của người dân mất nước trong những
vần thơ tự trào. Tú Xương đập thẳng vào cái nhăng nhố của xã hội bằng những
vần thơ mang tiếng cười gằn chua chát. Một lớp nhà nho thức thời đã tìm đến
tư tưởng dân chủ, khoa học của phương Tây và những nhà cải cách ở Trung
Hoa qua những “tân thư”. Những phong trào yêu nước theo đường lối mới dấy
10
lên mạnh mẽ như Duy Tân hội, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục. Văn chương
trong tay họ lúc này đã thực sự trở thành một lợi khí để thức tỉnh quần chúng và
tầng lớp trí thức nho học, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức tự cường và khát vọng
canh tân đất nước. Tuy vẫn sử dụng chữ Hán và các thể loại truyền thống là chủ
yếu, nhưng bộ phận văn học này đã có sự đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng, về quan
niệm văn chương và ở một số trường hợp sử dụng những thể loại và ngôn ngữ
gần với quần chúng.
Trong khu vực văn học hợp pháp cũng xuất hiện những yếu tố của nền văn
học mới, vượt ra khỏi phạm vi của văn học trung đại. Ở Nam Bộ, chữ quốc ngữ
đã được dùng phổ biến từ những thập kỉ cuối thế kỉ XIX (với sự xuất hiện của
báo chí) và được sử dụng để sáng tác văn học. Sự xuất hiện của các tờ báo Đông
Dương tạp chí, Nam phong và hàng loạt các tờ báo khác như Hữu thanh, Tiếng
dân, Phụ nữ tân văn, Đông Pháp thời báo,… Báo chí chính là nơi thảo luận,
trao đổi, thí nghiệm cách làm giàu ngôn ngữ, cách sưu tầm câu văn xuôi, giới
thiệu văn học Trung Quốc và văn học Pháp, quan trọng hơn, nó là nơi rèn bút
của các nhà văn. Tiểu thuyết sáng tác bằng chữ quốc ngữ xuất hiện sớm nhất là
Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (in năm 1887). Những năm đầu
của thế kỉ XX, phong trào sáng tác văn xuôi quốc ngữ phát triển mạnh với hàng
chục gương mặt điển hình: Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình Phú Đức, Trần Chánh
Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Quang Nghiệp… Tiểu thuyết quốc ngữ Nam
Bộ thời kì này còn mang khá nhiều yếu tố của văn xuôi trung đại nhưng cũng
đã có nhiều nét mới về đề tài, đối tượng miêu tả (chủ yếu tập trung vào đời sống
và con người Nam Bộ), về việc sử dụng ngôn ngữ (dùng thứ ngôn ngữ gần với
tiếng nói thường ngày, mang đặc điểm phương ngữ Nam Bộ). Vào thập niên
thứ hai, phong trào sáng tác văn xuôi quốc ngữ đã lan rộng ra miền Bắc cùng
với sự xuất hiện của nhiều tờ báo và tạp chí ở đó.
Thành tựu văn học nổi bật nhất trong chặng đường này là văn học cách
mạng sản sinh trong các phong trào yêu nước như Đông Du, Đông Kinh nghĩa
11
thục, Duy Tân… Các tác giả tiêu biểu cho dòng văn học cách mạng này là Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng… Có
thể nói, đây chính là sự tiếp nối dòng văn học yêu nước chống Pháp xâm lược
ở nửa cuối thế kỉ XIX nhưng đã được nuôi dưỡng trong phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc sôi nổi đầu thế kỉ XX. Nội dung văn học yêu nước cách
mạng thời kì này thể hiện tinh thần yêu nước sôi sục, khí phách anh hùng được
soi sáng bởi tinh thần dân chủ, canh tân, lí tưởng và tầm nhìn rộng mở hơn,
dồi dào cảm hứng lãng mạn. Tuy vậy, về mặt thể loại, ngôn ngữ, thi pháp…
thì hầu như vẫn không có gì mới, vẫn vận động trong quán tính phạm trù văn
học trung đại.
Nhìn chung, văn học giai đoạn này đã có những biến chuyển đáng kể về
mặt nội dung. Chịu sự chi phối bởi ý thức hệ tư sản, nội dung yêu nước trong
văn học từ đầu thế kỉ cũng gắn với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản. Mặc dù
thế, các tác giả vẫn chưa thực sự thoát khỏi quan niệm mỹ học thời phong kiến.
Về mặt nghệ thuật, các tác phẩm vẫn nằm trong khuôn khổ thi pháp văn học
trung đại. Các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của
nhà nho trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều
tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật
cũ. Các tác giả còn ít dùng chữ Quốc ngữ để sáng tác, chưa bỏ được lối văn
biền ngẫu; thơ vẫn là một thể loại được ưa chuộng, ngôn ngữ vẫn còn mang
tính chất cầu kỳ, bóng bẩy... Trường hợp những bài thơ bị pha trộn một vài câu
hoặc một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ, khó hiểu khá phổ biến trong giai đoạn này.
1.1.1.2. Từ 1920 đến 1930.
Sang những năm hai mươi của thế kỉ trước, diện mạo văn học nước nhà có
những chuyển biến rõ rệt hơn theo hướng hiện đại. Không chỉ đổi mới về mặt nội
dung, văn học giai đoạn này còn có những chuyển biến mạnh mẽ về mặt nghệ thuật
và đạt được rất nhiều thành tựu. Nhiều tác phẩm có giá trị, nhiều tác giả thể hiện
được tài năng và sức sáng tạo dồi dào của mình.
12
Trong khu vực văn học hợp pháp, văn xuôi quốc ngữ phát triển mạnh cả ở
Nam Bộ và miền Bắc. Hồ Biểu Chánh là cây bút tiêu biểu nhất Nam Bộ với hàng
loạt các tiểu thuyết. Tuy nội dung các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn đậm tính
chất đạo lí và yếu tố nghệ thuật vẫn chưa thật hiện đại nhưng ông vẫn được xem là
một trong những nhà văn khơi dòng cho khuynh hướng hiện thực trong văn học
thời kì này. Truyện ngắn xuất hiện nhiều, tiêu biểu là tác phẩm của Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học. Đặc biệt, năm 1925, tiểu thuyết Tố Tâm ra đời đã tạo ra một tiếng
vang lớn trên diễn đàn và công chúng từ Bắc chí Nam. Tố Tâm được coi là cái mốc
quan trọng trong sự hình thành tiểu thuyết tâm lí Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó,
phải kể đến một số tiểu thuyết khác như Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm, Quả dưa
đỏ của Nguyễn Trọng Thuật và nhiều tác phẩm khác của Đặng Trần Phất, Nguyễn
Tử Siêu.
Trong lĩnh vực thơ, khuynh hướng lãng mạn nảy nở khá phong phú gắn liền
với một số tên tuổi như Đông Hồ, Tương Phố, Đoàn Như Khuê, đặc biệt là Tản Đà,
Trần Tuấn Khải. Tản Đà – thi sĩ được coi là “viên gạch nối” hai thời đại thi ca, là
“con người của hai thế kỉ”, có công lớn trong việc ươm mầm cho phong trào Thơ
mới. Với hồn thơ lãng mạn, đa tình, cái tôi u sầu, không đánh mất cốt cách của một
nhà nho nhưng nhiều khi vẫn phóng túng, tìm cách vượt lên chính mình, Tản Đà
thể hiện sự bứt phá khỏi khuôn khổ nghệ thuật thi ca trung đại. Trần Tuấn Khải
xuất hiện với một phong cách khác. Ông luôn biểu lộ tình cảm với đất nước trong
những điệu thơ đậm tính dân gian, dân tộc.
Giai đoạn này cũng đã có sự xuất hiện của kịch nói hiện đại. Một số vở kịch
gây được sự chú ý như: Chén thuốc độc, Toà án lương tâm (Vũ Đình Long), Ông
Tây An Nam (Nam Xương), Bạn và vợ (Nguyễn Hữu Kim).
Đóng góp vào sự hình thành của nền văn học giai đoạn này phải kể đến sự
phát triển mạnh mẽ của hoạt động biên khảo, dịch thuật. Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh là những dịch giả tiêu biểu, có công lớn trong việc giới thiệu, dịch thuật
nhiều tác phẩm văn học Pháp và những quan niệm văn chương của phương Tây,
13
các thể loại tiểu thuyết, kịch nói. Các tiểu thuyết cổ điển của văn học Trung Quốc
cũng được lựa chọn, dịch và giới thiệu khá nhiều ở Nam Bộ, nhất là những tiểu
thuyết võ hiệp, tài tử, giai nhân. Xuất hiện một số công trình biên khảo khá công
phu, nghiêm túc về văn học, văn hoá như công trình của Phan Kế Bính, Bùi Kỷ,
Nguyễn Văn Ngọc.
Trong những năm này, bộ phận văn học cách mạng theo khuynh hướng dân
chủ tư sản tuy không còn thật sôi nổi, mạnh mẽ nhưng vẫn tiếp tục phát triển, chủ
yếu là thơ ca trong tù của các chí sĩ cách mạng. Nhiều tác phẩm xuất sắc như: Ngục
trung thư, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Xăng Tê thi tập của Phan Châu
Trinh. Đặc biệt là đóng góp của Nguyễn Ái Quốc với hàng loạt các sáng tác trong
thời kì hoạt động ở Pháp (truyện ngắn, kí, kịch, tiểu phẩm, chính luận). Sáng tác
của Nguyễn Ái Quốc trong thời kì này không chỉ đã mở ra một hướng đi mới gắn
với tư tưởng cách mạng vô sản cho phong trào giải phóng dân tộc, mà còn là một
thành tựu nổi bật của văn học cách mạng, đồng thời là một đóng góp quan trọng
cho quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Có thể nói, ở chặng này, nền văn học đã tiến mạnh hơn trên con đường hiện
đại hoá với nhiều thành tựu. Tuy nhiên, nhiều yếu tố của nền văn học cổ vẫn còn
tồn tại. Việc sử dụng các thể thơ luật Đường, đề tài thơ, hình ảnh thơ đôi khi cũ
mòn, sáo rỗng; thể loại tiểu thuyết chương hồi, lối văn biền ngẫu, văn xuôi thường
pha lẫn văn vần, dùng nhiều chữ Hán cầu kì, tối nghĩa…là minh chứng cho việc
đổi mới chưa thật sự toàn diện và sâu sắc của văn học giai đoạn này.
1.1.2. Giai đoạn từ 1930 – 1945.
Giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến sự phát triển sôi nổi, phong phú và
hết sức mau lẹ của nền văn học dân tộc theo hướng hiện đại, làm thay đổi hẳn
diện mạo nền văn học. Hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực trong văn học
hợp pháp đều có sự phát triển mạnh mẽ. Các thể loại văn học đã biến đổi sâu
sắc, đạt tới tính hiện đại và thể hiện sự kết tinh trong nhiều tác phẩm. Sự phát
14
triển của nền văn học giai đoạn này còn thể hiện ở sự đa dạng trong phong cách
nghệ thuật của nhiều tác giả.
Về lĩnh vực văn xuôi: vốn đã có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống
văn học, văn xuôi giai đoạn này phát triển mạnh mẽ ở hai khuynh hướng hiện
thực và lãng mạn. Manh nha từ những năm 1930, chính thức ra đời năm 1933,
Tự lực văn đoàn có những đóng góp quan trọng cho văn xuôi nghệ thuật hiện
đại và cho khuynh hướng lãng mạn. Các tác gia tiêu biểu: Nhất Linh, Khái
Hưng, Thạch Lam... Văn xuôi hiện thực phê phán cũng phát triển mạnh với
những tên tuổi rạng rỡ, phong cách thể hiện khác nhau: Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Bùi Hiển…
Phong trào thơ Mới khởi lên từ những năm 1932, nhanh chóng chiếm lĩnh
thi đàn, đóng vai trò quyết định trong công cuộc hiện đại hoá thi ca ở Việt Nam.
Chỉ gói gọn trong vòng hơn mười năm, thơ Mới đã đi trọn con đường của nó
và để lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với thơ ca Việt Nam hiện đại. Cá tính
sáng tạo được giải phóng, hàng loạt tiếng thơ trẻ trung, tài năng ra đời với nhiều
sắc điệu khác nhau: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Bính, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…
Hoạt động phê bình văn học phát triển khá mạnh, trở thành một hoạt động
chuyên biệt, đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hoá nền văn học. Những
cây bút phê bình quan trọng là Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải
Triều… Từ những năm 40 đã xuất hiện những công trình phê bình, nghiên cứu
có quy mô bao quát nhằm tổng kết thành tựu một giai đoạn văn học. Công trình
tiêu biểu: Thi nhân Việt Nam (1942, Hoài Thanh và Hoài Chân); Nhà văn hiện
đại (4 tâp, 1942-1945, Vũ Ngọc Phan); Việt Nam văn học sử yếu (1943, Dương
Quảng Hàm); Việt Nam cổ văn học sử (1942, Nguyễn Đổng Chi).
Kịch nói du nhập vào nước ta từ giai đoạn trước, giai đoạn này khá phát
triển. Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Đình Long, Nguyễn Huy Tưởng đã có
những kịch bản gây được tiếng vang.
15
Văn học cách mạng từ đầu những năm ba mươi đã chuyển hẳn theo khuynh
hướng vô sản và vẫn là một dòng chảy mãnh liệt, chưa hề đứt đoạn: thơ ca trong
phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), thơ văn trong tù, văn học cách
mạng thời kì Mặt trận Dân chủ, thời kì Việt Minh, Nhật kí trong tù của Hồ Chí
Minh, Từ ấy của Tố Hữu, phê bình và tranh luận văn chương của Hải Triều,
phê bình văn học của Đặng Thai Mai, thơ Sóng Hồng, Xuân Thuỷ… là những
thành tựu tiêu biểu của văn học cách mạng giai đoạn này.
Tóm lại, văn học giai đoạn này đã có sự phát triển mạnh mẽ, phong phú,
đạt đến tính hiện đại và có sự kết tinh ở nhiều phương diện tiêu biểu, nhiều tác
phẩm xuất sắc. Văn học Việt Nam trong không đầy nửa thế kỉ đã tạo ra được
sự biến đổi toàn diện và sâu sắc, chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang nền
văn học hiện đại.
1.2. Môi trường văn hóa Hán và điều kiện sáng tác thơ Đường luật.
Phải khẳng định một điều là những đổi thay về văn hoá xã hội là nguyên
nhân chính làm mất dần nền văn hoá phương Đông, văn hoá Hán và chế độ thi
cử bằng chữ Hán, sau nữa là thói quen sáng tác và thưởng thức thơ, trong đó chủ
yếu thơ Đường luật của người Việt. Tuy nhiên, có một điều cũng không thể phủ
nhận là, chính ngay trong bối cảnh đổi thay đó, nền văn hoá cổ truyền của Việt
Nam trong đó có văn hoá từng chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Hán, nền thơ ca
cổ truyền Việt Nam trong đó có thơ Đường luật đã không hoàn toàn mất hết cơ
sở tồn tại.
Mặc dù những chủ chương chính sách văn hoá xã hội mà thực dân Pháp áp
dụng vào Việt Nam tuy không nhằm vào thơ Đường luật, song dù trực tiếp hay
gián tiếp, cũng tạo ra khả năng đã làm mất môi sinh, môi trường tồn tại của thơ
Đường luật ở nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, những chính sách ấy không phải
một sớm một chiều có thể thực hiện được. Những nhà Nho yêu nước, những
người theo phái cũ đã không ngừng đấu tranh để gìn giữ những giá trị truyền
16
thống của dân tộc trong đó có thể thơ từng giữ địa vị độc tôn trên thi đàn là thơ
Đường luật.
Tuy không phản đối quan điểm duy tân, cũng không hề phủ nhận quan điểm
cổ động chữ quốc ngữ, nhưng đối với chữ Hán thì Phan Bội Châu quả quyết khẳng
định rằng: “Hán học ở nước ta không thể bỏ được. Chẳng những không bỏ, mà lại
cần phải bảo tồn nữa kia”1. Vậy, lý do nào khiến nước ta không thể bỏ được chữ
Hán và nền Hán học ? Theo Phan Bội Châu, trong bài “Vấn đề Hán học ở nước ta
ngày nay”, cụ đã nêu ra hai lý do không thể bỏ được chữ Hán và nền Hán học. Một
là: “Xét hiện trạng trình độ của quốc dân, trừ ra một số ít là những người lưu học
bên Pháp và ở các trường Cao đẳng các nơi, cùng một ít học sinh đã học tom tem
năm ba chữ Pháp, thì vẫn có thể lấy những sách Pháp văn thay sách Hán văn...
Chứ đến như hương thôn, bách tính, đa số quốc dân, chẳng những đàn bà trẻ con
là bọn mù Pháp văn, mà những đầu mục, hào lý, lên đến những bậc gọi bằng trung
lưu, cũng còn vô số người mù Pháp văn. Nếu có bảng thống kê “Quốc dân thức
tự” điều tra cho đích xác, trừ nơi thành thị ra, cả nam, phụ, lão, ấu, chắc trong
một ngàn người phải có 999 người không biết chữ Pháp. Như thế mà muốn đem
Pháp văn làm Quốc dân giáo dục phổ cập, cái hy vọng thật quá viển vông... Vì
những cớ ấy mà muốn bỏ hết Hán văn, toàn dùng Pháp văn thì chắc Quốc dân ta
không khỏi mang cái họa chết vì dốt”2. Hai là: “Nếu một ngày mà toàn phế Hán
học, thì bao nhiêu điển chương văn vật ở sử cũ, tất phải gieo vào ngọn lửa Tần
Hoàng... mà người nước ta từ đây về sau thảy là người mù Hán văn, điếc Hán văn
luôn nữa...”3.
Ngay cả nhà cách mạng, nhà Hán học Huỳnh Thúc Kháng cũng vậy. Trong
khi hô hào học chữ Pháp chữ Quốc ngữ, phế bỏ chữ Hán vẫn tự hào vì mình thuộc
gốc Nho và biết chữ Nho. Đó là một thực tế càng chứng tỏ những gì đang diễn ra
ở nền văn hóa nước ta lúc này là vô cùng phức tạp.
1 Chương Thâu (1990), Phan Bội Châu toàn tập Tập 4, Nxb Thuận Hoá, Huế tr 280 2 SĐD 3 SĐD
17
Còn Phan Khôi thì sao? Với bài Tình già, ông được coi là người nổ phát
súng đầu tiên vào thành trì thơ cũ để từ đó một lối thơ Mới ra đời. Nếu xét về cái
vẻ bên ngoài, ta tưởng chừng như Phan Khôi đã “dứt tình” với Nho học để đi theo
Tây học, nhưng thực ra, cái cốt cách trong ông vẫn là một nhà Nho. Người đã
sớm phát hiện ra điều ấy chính là Lưu Trọng Lư. Trong Tao Đàn số 4 năm 1939,
Lưu Trọng Lư viết: “Thực ra những tư tưởng của tiên sinh, đã Âu hoá một cách
cực đoan, nhưng những tư tưởng ấy không phải là ông Phan Khôi, tất cả ông
Phan Khôi. Ông Phan Khôi cắt cái búi tó hay mặc bộ đồ Tây, ông Phan Khôi vẫn
là một nhà Nho đặc biệt. Ông say mê văn minh Âu Mỹ, ông cũng không thể đổi
được ông. Cái tinh thần Nho học ấy, ông đã có từ trong máu. Nó đã tạo ông ra
thế nào thì đến nay ông vẫn thế ấy, và mãi mãi vẫn là thế. Những tư tưởng của
người ta chỉ là cái áo khoác ngoài thân mà thôi... Trong đời tiên sinh có một sự
tương phản rõ rệt là những tư tưởng của tiên sinh hoàn toàn Âu hoá, thế mà cái
nhân cách của tiên sinh vẫn đào tạo bởi Nho học.”4.
Từ đó có thể thấy, trong suốt mấy chục năm đầu thế kỷ XX, ta tưởng chừng
như sự học Hán văn và nền Hán học nói chung đang dần bị đào thải và quên lãng,
nhưng ẩn sâu trong lòng xã hội vẫn thấy được sự tồn tại của dòng Hán văn, nền
văn hoá Hán. Trên báo chí, vô số các tác phẩm Hán văn vẫn xuất hiện. Không chỉ
vậy, những tác phẩm thơ văn bằng chữ Hán được dịch ra tiếng Việt ngày càng
nhiều. Tất cả là những minh chứng không thể chối cãi để khẳng định: tuy ở nửa
đầu thế kỷ XX nền Hán học bị phủ nhận, nhưng trong đời sống nó vẫn tồn tại.
Chính sự tồn tại ấy là một trong những cơ sở khiến cho thơ Đường luật vẫn có
thể hiện diện và đạt được những thành tựu rực rỡ ở ngay trong thời đại mới.
1.3. Á Nam Trần Tuấn Khải cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
Trần Tuấn Khải (tiểu tự Đông Minh, Đông A Thị), ngoài bút danh Á
Nam (thường dùng), còn có các bút hiệu khác như Tiêu Hoa Nhân, Lâm Tuyền
4 Nguyễn Ngọc Thiện, Lữ Huy Nguyên (1998), Tao Đàn tập I + II, Nxb Văn Học, Hà Nội
18
Khách, Giang Hồ Tản Nhân, Lôi Hoàng Cư Sĩ. Ông sinh ngày 04 tháng 11 năm
1895 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong gia
đình nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước và hiếu học. Cha ông là Trần
Văn Hoán, đỗ cử nhân khoa thi Hương tại Nam Định năm Canh Tý (1900). Cụ
là người có tư tưởng canh tân, từng rất ngưỡng mộ hai nhà chí sĩ cách mạng
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Bởi vậy, thầy học của Á Nam không ai khác,
chính là người cha của mình. Nhờ sự chỉ bảo của cha, năm lên 6 tuổi, Trần
Tuấn Khải đã bắt đầu học chữ Hán. Bên cạnh đó, ông còn được thân mẫu là bà
Nguyễn Thị Sính - một người học hành nền nếp, tính tình hiền hậu, thông minh,
thuộc nhiều ca dao, thi phú, hết lòng dạy dỗ. Năm 12 tuổi, Trần Tuấn Khải đã
biết làm đủ các thể văn thơ bằng chữ Hán. Do thông minh, hiếu học, nên dù
chẳng theo trường ốc và đậu bằng cấp gì, sau này Trần Tuấn Khải vẫn dịch
được cả văn chương chữ Hán và văn chương chữ Pháp. Tuổi thơ Trần Tuấn
Khải trải qua những năm bản lề của hai thế kỷ. Đến năm 19 tuổi, khi cha ông
lâm bệnh và mất (Giáp Dần 1914), Trần Tuấn Khải mới rời gia đình và bắt đầu
sự nghiệp sáng tác văn học của mình.
Có một điểm nổi bật ở con người Á Nam Trần Tuấn Khải, đó chính là tấm
lòng yêu nước thương nòi. Năm 1927 Trần Tuấn Khải dự tính sang Pháp. Trước
khi đi, ông có đến liên hệ các nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc
Kháng ở Huế và những nhà hoạt động lưu vong như Đào Trinh Nhất, Hoàng
Tích Chu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Trường Tam ở Sài Gòn... Nhà cầm quyền
Pháp dò la biết ông có ý định trên, nên cho người lùng bắt ông nhưng không
được. Sau này khi sống ở miền Nam (1954), làm việc tại Thư viện Quốc gia,
Viện Khảo cổ, Trần Tuấn Khải đã cùng một số nhân sĩ trí thức yêu nước, ký
một văn bản gửi chính quyền Việt Nam Cộng hòa, yêu cầu họ hiệp thương với
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hoà bình. Vì việc đó mà
cụ bị buộc thôi việc.
19
Về thành tựu sáng tác, mặc dù đến với sự nghiệp văn chương khá sớm
(1914), nhưng phải đến năm 1921, Trần Tuấn Khải mới xuất bản tập thơ đầu
tiên Duyên nợ phù sinh (tức Kim sinh lụy) quyển thứ nhất. Ngay sau khi xuất
bản, tập thơ đã được giới văn chương đương thời chú ý. Năm sau, ông được
mời vào Ban biên tập nhật báo Khai hóa tại Hà Nội và nhận lời cộng tác với
hầu hết các tờ báo lớn khắp trong Nam ngoài Bắc như: Khai hóa, Thực nghiệp
dân báo, Trung Bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí (Hà
Nội), Tiếng dân (Huế), Đông pháp thời báo, Phụ nữ tân văn (Sài Gòn)…. Năm
1922, khi ông cho xuất bản Duyên nợ phù sinh (quyển thứ nhì) thì nhiều bài
trong Duyên nợ phù sinh (quyển thứ nhất) đã nổi tiếng khắp ba miền Bắc,
Trung, Nam. Đặc biệt, khi Bút quan hoài (quyển thứ nhất) ra đời và được nhiều
người hoan nghênh, thì Pháp đã phải ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ thơ Trần
Tuấn Khải vì sợ sự ảnh hưởng sâu rộng của nó.
Cuộc đời 88 năm đi qua hai thế kỷ với gần 70 năm cầm bút, Á Nam Trần
Tuấn Khải đã để lại một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ với đủ các thể loại
như: thơ (Duyên nợ phù sinh I (1921), Duyên nợ phù sinh II (1922), Bút quan
hoài I (1924), Hồn tự lập I (1924), Bút quan hoài II (1927), Hồn tự lập II
(1927), Với sơn hà I (1936), Với sơn hà II (1949), Hậu anh Khóa (1975); văn
xuôi (Gương bể dâu I (1922), Hồn hoa (1925), Thiên thai lão hiệp (1935-
1936); dịch thuật (Hán văn có Liêu trai chí dị, Thủy Hử, Giai anh hùng - gái
thuyền quyên, Hồn hoa, Đặng Khấu Chí, Mạnh Tử, Hồng lâu mộng, Hồng tú
toàn… Pháp văn có Truyện ngụ ngôn La-phông-ten, Thơ Vic-tor Huy-go…)…
Ngoài ra còn kịch, phóng tác…
1.4. Vị trí của thơ Đường luật Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX.
Á Nam Trần Tuấn Khải bước vào làng văn (1914) đúng vào thời điểm xã
hội Việt Nam đang đổi thay hàng ngày, hàng giờ trước tác động của công cuộc
bình định và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sự đổi thay kinh tế, chính
trị, xã hội, kéo theo những đổi thay về môi trường văn hoá Việt Nam đã làm
20
mất dần nền văn hoá phương Đông, văn hoá Hán và chế độ thi cử bằng chữ
Hán. Điều này đã tác động tới thói quen sáng tác và thưởng thức thơ, trong đó
chủ yếu là thơ Đường luật của người Việt.
Xét về vị trí và những đóng góp của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn
Khải trong dòng thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, trước hết cần
phải so sánh sự khác biệt về lực lượng sáng tác thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ
XX, với lực lượng sáng tác thơ Đường luật thời trung đại. Nếu trong văn học
trung đại, thơ Đường luật chủ yếu là sản phẩm của một loại tác giả, thuộc một
dòng văn học (gọi là dòng bác học chính thống của các nhà Nho), thì bước sang
đầu thế kỷ XX, với xự xuất hiện cùng một lúc 3 thứ văn tự (chữ Hán, chữ Nôm
và chữ Quốc ngữ), sự chuyên nghiệp hóa phương thức sáng tác và cách thức
lưu hành, thơ Đường luật là sản phẩm của nhiều loại tác giả trong nhiều bộ
phận, nhiều loại hình văn học khác nhau. Có thể kể đến ba loại tác giả tiêu biểu
là: loại các chí sĩ Nho gia thuộc bộ phận văn học cách mạng (bất hợp pháp),
loại các nhà Nho vứt bút lông cầm bút sắt trong văn học công khai và loại các
nhà thơ Mới.
Á Nam Trần Tuấn Khải thuộc loại các nhà Nho vứt bút lông cầm bút sắt,
nhưng là bộ phận các nhà Nho lỡ thời ở thành thị (giống như Tản Đà, Đoàn
Như Khuê), chứ không phải các nhà Nho thất thế ở nông thôn. Ông không tự
lập những thi xã, thi quán nhằm duy trì sáng tác và thưởng thức thơ Đường luật.
Ông cũng không nuối tiếc con đường khoa cử và văn chương cử tử (trong đó
chủ yếu dùng thơ Đường luật) như các nhà Nho vốn có dòng dõi Hoàng tộc
như: Viên Thành Thượng Nhân (Ông sinh năm 1879, mất năm 1928, là cháu
nội hoàng tử Nguyễn Phúc Bính, chắt nội vua Gia Long). ông là một thi nhân
tài hoa, thường giao du rộng rãi với các chư vị Tôn túc trong chốn Thiền lâm
và với rất nhiều bậc văn nhân, thi sĩ, Phật tử ở kinh đô; Ưng Bình Thúc Giạ
Thị (Ông sinh năm 1877, mất năm 1961, là cháu nội Tuy Lý Vương). Ông
không chỉ là một văn nhân mà còn là nhà soạn tuồng tài ba; hoặc con cháu
21
những bậc thâm Nho, đã mấy đời gắn bó với khoa cử như: Cao Ngọc Anh (Bà
sinh năm 1878, mất năm 1970, là con gái nhà sử học Cao Xuân Dục). Cao Ngọc
Anh là một nữ sĩ tài danh với các áng thi văn đủ mọi thể loại cả bằng chữ Hán
và chữ Nôm; hay như Sương Nguyệt Anh (Bà sinh năm 1864, mất năm 1921,
là con gái cụ Nguyễn Đình Chiểu). Bà là nhà thơ, đồng thời là chủ bút nữ đầu
tiên của Việt Nam...
Là một người vừa có gốc Hán học, vừa có chút Tây học, sáng tác của Trần
Tuấn Khải mang dấu ấn của sự pha trộn văn hoá Đông – Tây và hướng vận
động ngòi bút của ông là dần dần khước từ văn hoá truyền thống để nhập cuộc
với văn hoá hiện đại. Ông tỏ ra rất nhậy cảm về những đổi thay của thời cuộc,
dẫn đến những đổi thay trong sáng tác, đặc biệt là đổi thay thị hiếu trong việc
lựa chọn thể loại phù hợp với tư tưởng mới của thời đại. Tuy nhiên, có một điều
kỳ lạ là, từ năm 1921 đến 1945, trong bối cảnh thể thơ Đường luật đang bị đánh
giá là lỗi thời, hết mùa, Trần Tuấn Khải vẫn có tới 112 tác phẩm, trên tổng số
hơn 200 tác phẩm viết bằng thể thơ Đường luật. Thậm chí những câu thơ được
xem là tuyên ngôn nghệ thuật của buổi giao thời “Đời không duyên nợ thà
không sống – Văn có non sông mới có hồn” của Á Nam lại chính là những câu
thơ Đường luật của ông. Đây là lý do khiến không ít người cho rằng, Á Nam
Trần Tuấn Khải vốn thuộc về thơ cũ. Tâm trạng bồn chồn, day dứt của một nhà
Nho bất đắc chí như Á Nam Trần Tuấn Khải hình như chưa thích hợp với tiết
tấu vừa nhanh vừa linh hoạt của thể thơ tự do.
Ông không tham gia lên án hay tiếp tục ủng hộ thơ Đường luật, nhưng vẫn
dùng thể thơ Đường luật như một thói quen. Số còn lại hầu hết là hát nói, từ
khúc, hát xẩm... những thể thơ dân gian truyền thống rất phù hợp để nỗi niềm
da diết thương nước thương nòi của ông. Việc một nhà thơ vẫn dành nhiều ưu
ái và có những đóng góp nhất định cho hồn thơ Việt bằng những bài thơ Đường
luật phải được xem là một hiện tượng văn học cần được đánh giá thỏa đáng.
Bên cạnh đó, thiết nghĩ một hiện tượng văn học, bao gồm cả số lượng và chất
22
lượng, gắn với một tên tuổi nổi bật như thế tự nó trở thành một đề tài nghiên
cứu khoa học có giá trị.
Đương thời, thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải được rất nhiều người biết
đến. Thậm chí ngay sau khi tập thơ đầu tiên được xuất bản năm 1921, thơ của
ông đã “nhanh chóng nổi tiếng và được lưu tuyền khắp Trung - Nam - Bắc; từ
nơi đầu chợ, bến sông, đến miền phồn hoa đô hội”. Rất tiếc các công trình, bài
viết, nghiên cứu đánh giá thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải nói chung còn khá
mỏng, chưa tương xứng với những gì tác giả để lại. Đặc biệt, đối với bộ phận
thơ Đường luật của ông thì tình hình nghiên cứu càng hạn chế hơn. Cho đến
nay chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu riêng về vấn đề này để đưa
ra những đánh giá thỏa đáng và mang tính hệ thống.
Sáng tác thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ XX
khá phong phú về đề tài, chủ đề và những quan niệm mới về thời cuộc. Từ góc
nhìn thể loại, thơ Á Nam có đóng góp vô cùng to lớn đối với thể thơ Đường
luật dân tộc.
Trong bài viết mở đầu “Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải”, nhà thơ Xuân
Diệu viết: “Đây là một cuộc đời dài lâu và phong phú, những sáng tác thành
công của thi sĩ gắn liền với thời văn thơ quốc ngữ bắt đầu; những thi sĩ có tài
“thác là thể phách, còn là tinh anh”, còn là những bài thơ, những đoạn thơ,
những câu thơ có sức nặng của Á Nam là làm trong thời đau khổ của xã hội
trước cách mạng. Á Nam đã tự mình an ủi: “Nước đời khe khắt ai hay/ Vàng
khôn biết lắm, càng khôn biết lắm càng cay đắng nhiều”.
Trong bài “Á Nam Trần Tuấn Khải - nhà thơ của dòng văn học yêu nước
trong những năm 1920”5, Lê Chí Dũng viết: “Đọc Á Nam Trần Tuấn Khải, độc
giả bắt gặp trong thơ ông cái tôi nội cảm (le moi intérieur). Cái tôi nội cảm này
man mác trong những bài thơ thể hiện lòng yêu nước của thi nhân và nổi rõ
5 Trần Văn Giáp (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam (Tập 1), Nxb, Hà Nội
23
trong những bài thơ bộc lộ cái nhìn ái ân phong tình của ông đối với con người
và những hiện tượng trong thực tại, như trong bài thơ:
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân !
Nhớ cô hàng quạt chợ Đồng Xuân.
Tờ mây phong kín lời sơn hải,
Tin gió bay tàn lửa ái ân.
Hương hỏa ba sinh tình khắc cốt,
Can tràng trăm đoạn lúc rời chân.
Thói đời nóng lạnh coi mà ngán,
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân.
(Nhớ cô hàng quạt)
Trong bài “Á Nam Trần Tuấn Khải: Mượn tiếng văn chương gọi giống
nòi”, Hoài Anh đánh giá: “Gần một thế kỉ cống hiến cho sự nghiệp của đất
nước và văn học, Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện trọn vẹn đúng như tâm
nguyện của cụ buổi đầu: “Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết, Gửi với sơn hà một
áng văn”6.
Như vậy, cùng với các tác giả khác như: Phan Lãng, Trần Huy Liệu, Tao
Đàn, Nguyễn Thúc Nghiêm, Nguyễn Tử Siêu... các sáng tác thơ của Á Nam
Trần Tuấn Khải góp phần không nhỏ tạo nên dòng chảy của văn học yêu nước
Việt Nam giai đoạn này. Có thể nói rằng: yêu nước, thương giống nòi chính là
tuyên ngôn nghệ thuật của thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Có lẽ, chính vì vậy mà
trong những năm sung sức nhất, hồn thơ ông mang nặng tâm sự của người dân
trước cảnh nước mất nhà tan. Và ngay cả trong những ngày tháng cuối của cuộc
đời, tâm nguyện ấy của ông vẫn còn vẹn nguyên như thuở ban đầu:
Ta nghĩ mình ta cũng nực cười,
6 SĐD
24
Sống trong thanh bạch vẫn yên vui.
Lấy câu trung nghĩa khuyên con cháu,
Mượn tiếng văn chương gọi giống nòi.
Nghĩa cả giang sơn ghi đáy dạ,
Chuyện đời danh lợi gác ngoài tai.
Tám mươi tám tuổi xuân còn mãi,
Còn vững lòng son chẳng đổi dời.
(Tám mươi tám tuổi tự vịnh)
Các sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải thể hiện một cách sâu sắc và
chân thành tâm sự yêu nước, thương dân nên có sức chiến đấu mạnh mẽ (Tiễn
chân anh khóa xuống tàu, Trường thán thi, Hai chữ nước nhà, Hỡi cô bán nước,
bài thơ đề đầu cuốn “Hồn tự lập” tập II...). Khi đất nước cơ cực, lầm than thì
ông đau xót, uất hận nghẹn ngào (Hai chữ nước nhà, Tiễn chân anh khóa xuống
tàu...). Và khi đất nước độc lập, Tổ quốc huy hoàng thì ông hả hê:
Dẫu chưa quen biết vẫn chung hồn
Cùng nặng tâm tình tựa Thái sơn
Mừng bạn sẵn ưa văn bất khuất
Gặp nhau như dự tiệc tân hôn
Góp dòng văn hiến vui sum họp
Sạch giống xâm lăng hết tủi hờn
Tổ quốc nay lừng danh độc lập
Bõ công vượt biển với trèo non.
(Á Nam phụng họa, đầu mùa thu Ất Mão - 1975)
Thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải bình dị, đậm chất dân gian mà sâu sắc vô
cùng động đến tận tâm can con người khắp cõi Bắc trời Nam, nhất là tâm sự
của những người đồng cảnh, đồng tâm, càng đọc càng thấm thía. Thi sĩ Á Nam
25
Trần Tuấn Khải đã ra đi nhưng các sáng tác của ông còn sống mãi cùng với
một nhân cách cao đẹp vẹn nguyên như thuở ban đầu ! Thật đúng là:
Đời không duyên nợ thà không sống,
Văn có non sông mới có hồn.
(Nhàn bút – Với Sơn hà I)
Không phải không có lý khi nhà thơ Xuân Diệu luôn luôn đặt Á Nam Trần
Tuấn Khải bên cạnh Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: “một thời kỳ phôi thai của thơ
viết bằng chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ cho đến khi xuất hiện phong trào thơ Mới
1932 – 1945 còn đứng lại được Nguyễn Khắc Hiếu và Trần Tuấn Khải. Não
cân, da thịt, xương cốt và hồn vía văn thơ của hai thi sĩ này bền bỉ trường tồn
lắm. Thơ của hai vị đã đứng thế tấn trong thời gian. Á Nam bổ sung cho Tản
Đà và Tản Đà bổ khuyết cho Á Nam. Cả hai thi sĩ là cái gạch nối quý báu từ
thơ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương sang thơ thật là mới của các nhà thơ Mới”.
Chương 2
NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI
Trong cuốn Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, TS.
Trần Thị Lệ Thanh đã đưa ra nhận xét: "Là một thể loại vốn mang nặng tính
chất cổ điển, thơ Đường luật không thể không tiếp tục khai thác những nội dung
26
mang tính truyền thống. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng bởi “không khí” Âu
hoá,... người sáng tác dẫu còn ưu ái với thể loại cũ, vẫn không thể không có tư
tưởng mới, tâm thế mới" [7]. Như vậy, để khám phá cho hết những đặc điểm
của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng tôi kết hợp khai thác những
tác động qua lại giữa nội dung và hình thức. Từ việc tìm hiểu hệ thống đề tài
trong thơ Đường luật Á Nam, luận văn sẽ tìm ra những đặc điểm về nội dung
và đánh giá khả năng thích ứng của một thể loại cụ thể (thơ Đường luật) với
những nội dung ít nhiều mang tính thời đại, trên cơ sở đó chỉ ra nét khác biệt
cơ bản của thơ Đường luật Á Nam so với các tác giả cùng thời và các tác giả
trong dòng văn học yêu nước.
2.1. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
Từ xa xưa, người phương Đông đã biết dựa vào tự nhiên để sống. Điều
này ánh xạ vào tôn giáo, triết học rồi đi vào văn chương và thơ ca. Đứng trong
nguồn mạch chung, thiên nhiên là một mạch ngầm xuyên suốt của văn học
phương Đông từ xưa đến nay. Đề tài thiên nhiên trong thơ Đường là một minh
chứng rõ nét phản ánh quy luật đó. Có bao nhiêu cảnh sắc thiên nhiên thì có
bấy nhiêu cảm hứng về thiên nhiên. Dường như, các nhà thơ trung đại hễ làm
thơ Đường là sẽ nhất định có ít nhiều bài viết về đề tài này, nếu không có sáng
tạo của riêng mỗi người thì liệu ta có thể có được một kho tàng Đường thi
phong phú và giàu màu sắc về mảng đề tài cảm hứng thiên nhiên như ta còn
thấy đến nay ?
Tuy nhiên, bước sang đầu thế kỷ XX, trước những chính sách cai trị, khai
thác và bóc lột của thực dân Pháp, đời sống văn hóa xã hội Việt Nam có những
biến đổi sâu sắc: cơ cấu xã hội biến đổi, các giai cấp và tầng lớp mới ra đời;
văn hóa Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung
Quốc, mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp; tầng lớp sĩ phu
7 Trần Thị Lệ Thanh (2012), Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
27
Nho học có sự biến chuyển lớn về tư tưởng, chính trị. Do chịu ảnh hưởng của
xu hướng hiện đại hóa, văn học thời kỳ này cũng dần thoát khỏi hệ thống thi
pháp Trung đại và đổi mới theo hình thức văn học phương Tây. Chính vì vậy,
bước sang thời kỳ này, trong thơ Đường luật, đề tài thiên nhiên phần nào đã bị
những biến động xã hội, biến động chính trị lấn át. Tuy nhiên có một thực tế
khác khá lý thú là, ở giai đoạn này, lại có những tác giả cả đời gần như chỉ sáng
tác đúng một thể loại và với chỉ một đề tài, đó là thể loại thơ Đường luật với đề
tài thiên nhiên. Điều đó cho thấy, thiên nhiên vốn vẫn có duyên với thơ Đường
luật và cái duyên ấy ở nửa đầu thế kỷ XX này vẫn còn đằm thắm lắm.
Đối với thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, đề tài thiên nhiên cũng
chiếm một tỷ lệ khá cao: 36 bài trên tổng số 112 bài thơ Đường luật được khảo
sát (32%) . Đây là con số khẳng định sự thích ứng giữa đề tài thiên nhiên với
thể thơ Đường luật bằng tiếng Việt ở cái thời mà văn học đang chuyển mình
theo hướng hiện đại hoá.
Tả cảnh ngụ tình cũng vốn là bút pháp nghệ thuật hết sức quen thuộc trong
thơ văn Việt Nam. Đến nay không ai có thể trả lời được rằng bút pháp này được
hình thành từ bao giờ nhưng ta thấy rõ biểu hiện của nó ở chỗ nó thường dùng
những hình ảnh, hiện tượng thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của chủ thể cảm
nhận, quan sát những hình ảnh, hiện tượng ấy và bất kì điều gì, khi qua lăng
kính cảm nhận của mỗi con người thì đều mang dấu ấn chủ quan của riêng tác
giả. Thơ Đường luật với đề tài thiên nhiên của Á Nam thật đa dạng sắc màu.
Những bài tả vẻ đẹp thiên nhiên thuần túy tuy chỉ có 02 bài in trong tập Duyên
nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú, nhưng
thực đã để lại ấn tượng tốt và trung thực:
Gớm cái phong tình khéo dắt diu ?
Để mình nay đuổi lại mai theo.
Con thuyền vô trạo đi quanh quất,
28
Ngọn nước đa tình chảy ngoắt ngoeo.
Bốn mặt non sông chiều bảng lảng,
Một giời cây cỏ cảnh đèo heo.
Xa trông núi Ngọc rêu chen đá,
Lác đác thuyền ai một mái chèo.
(Đi tàu thủy qua chơi núi Ngọc)
Vơ vẩn ai xui đến chốn này ?
Sài Sơn phong cảnh tức là đây.
Lối chân Tạo hóa in trong động,
Buổi chợ Kiền khôn họp dưới mây.
Hòn đá ngậm ngùi xa đất bắc,
Bóng non ngơ ngẩn lặng giời tây,
Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ ?
Cửa động rêu chen giếng nước đầy...
(Chơi núi Sài Sơn)
Chiếm số lượng nhiều nhất Thơ Đường luật với đề tài thiên nhiên của Á
Nam là những bài mượn thiên nhiên để nói tâm trạng (21 bài) trong đó riêng
trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), đã có 09 bài. Trong đó, thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt, có 04 bài, đó là: Mai nở dưới trăng; Rặng liễu; Cây thông;
Diều đậu đỉnh núi. Thể thơ thất ngôn bát cú, có 03 bài: Thu, Hỏi núi Thầy, Bến
sông đêm ngồi câu. Thể thơ tự do, có 02 bài: Chơi động Huyền Không, Qua
cảnh Huế. Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 05 bài: Thể
thơ thất ngôn bát cú, có 04 bài: Qua chốn ở cũ; Chơi thành Cổ Loa; Vào chùa
Hương; Đất khách đêm mưa xuân. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên, có
bài Nhớ bạn.
29
Không gian làng quê là một không gian gần gũi thân thuộc, nơi đó có gốc
đa, sân đình, có ruộng lúa, nương dâu, con đò, có dòng sông bến nước, có non
xanh nước bạc, và đó còn có hội hè, lễ tết và các phong tục tập quán thuần chất
Việt Nam. Trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, làng quê Việt Nam
cũng được cảm nhận từ những dáng vẻ cổ truyền của nó:
Khóm trúc rì rào trận gió đưa,
Ba gian nhà lá cảnh quê mùa.
Đàn gà ổ xuống khua giời sáng,
Lũ trẻ đồng về rộn lúc trưa.
Khúc hát bên chuôm con cuốc hoạ
Câu cười dưới nguyệt cái ve thưa.
Côm ngày ba bữa rau, tôm, cá;
Xe ngựa di về mặc nắng mưa
(Ở nhà quê)
Trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, những kí ức về cây cỏ, hoa
lá, trăng mây cũng trở đi trở lại, ví như trong bài:
Lối cũ trông về dạ ngẩn ngơ!
Ngẩn ngơ nhớ chốn ở từ xưa.
Ngàn nho nguyệt hé câu cười nói,
Gác kín canh tàn cuộc phú thơ.
Cây cỏ ta xưa từng bón tưới,
Quả hoa ai đến để trèo khua?
Thương tâm đàn sáo đi về trước
Tìm chủ ra chiều đậu vẩn vơ...
(Qua chốn ở cũ)
30
Và ở bài thơ Nhớ bạn cũng vậy, đó là hình ảnh của “Sông Vị mênh mông
ngọn nước tràn/Non côi man mác bóng mây tan”. Cái cảnh ấy đã gợi lên trong
lòng người lữ khách biết bao nhiêu nỗi niềm tâm sự.
Không chỉ là những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, trong thơ Đường luật
của Á Nam Trần Tuấn Khải, cảnh sắc quê hương còn được cảm nhận trong
dáng vẻ thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Trong tập Duyên
nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có 02 bài. Trong đó, thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt, có 01 bài: Qua thành Nam. Thể thơ ngũ ngôn bát cú, có 01 bài: Bến sông
chiều đất khách.
Bảng lảng trời hôm vắng,
Buồn trông mặt sóng khơi.
Thế tình cơn gió thoảng,
Trần mộng ngọn triều xuôi.
Mây khói mê lòng khách,
Giang hồ cám cảnh chơi.
Buồm ai qua bến đó?
Nước cũ nhắn đôi lời...
(Bến xuân chiều đất khách)
Á Nam Trần Tuấn Khải đặc biệt say mê, yêu mến phong cảnh của quê
hương Việt Nam. Cảnh vật, danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước còn
được thi sĩ miêu tả trong một loạt những sáng tác của mình. Ông đã tiếp nối
truyền thống của thơ ca dân gian để đưa vào thơ ca những hình ảnh thiên nhiên
tươi đẹp về non sông đất nước. Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhất (Trích),
có 03 bài. Thể thơ thất ngôn bát cú, có 02 bài: Đề động Tam Thanh, Độc ẩm
Lạng Sơn thành. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên: có bài Cùng bạn chơi
Vịnh Hạ Long. Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhì (Trích), có 02 bài đều
là thể thơ thất ngôn bát cú, đó là Hoa Lư hoài cổ và bài: Bông hoa sen.
31
Thiên nhiên trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải đặc biệt còn
hiện lên với những cảnh sắc thật hài hòa. Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển
thứ nhì bài Hội Phủ Chanh là một bài để lại nhiều cảm xúc:
Chín chục thiều quang đã bốn mươi.
Vui xuân quan hội phủ Chanh chơi (1)
Một tòa cổ miếu trên sông dựng,
Bốn tượng long cung tựa khám ngồi.
Bóng cậu đồng cô lên trước án,
Sắc cờ vẻ tán rực phương trời.
Phong thanh cố quốc còn nguyên đó,
Hỏi khách du quan được mấy người?
(Hội Phủ Chanh)
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhất (Trích), có 01 bài viết ở thể thơ
thất ngôn bát cú là bài Thú lâm tuyền. Nguyễn Trãi từng ca ngợi “thú lâm
tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn sơn ca. Đó là
cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ bất lực trước thực tế xã hội muốn “lánh
đục về trong”, tự tìm đến cuộc sống “an bần lạc đạo”. Ở bài thơ này, ẩn trong
cảnh sắc thiên nhiên tươi vui ấy vẫn là tâm sự của người dân trước cảnh đất
nước đang trong cảnh lầm than.
Không chỉ là cảnh sắc tươi vui, thiên nhiên trong thơ Á Nam Trần Tuấn
Khải cũng thật thanh bình, êm ái (có 05 bài thơ). Trong đó, trong tập Bút quan
hoài, quyển thứ nhất (Trích), có 03 bài, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên,
có 02 bài là bài: Mùa hè nhà quê và Thăm thú làm vườn.
Trong đó đặc biệt bài Mùa hè nhà quê vẽ ra trước mắt chúng ta khung
cảnh làng quê lúc vào mùa. Giữa vài nắng của “Bầu lửa giời nung, lúa đỏ hoe”
thì bỗng đâu, “Một trận nam phong đâu kéo đến”, người nông phu tất bật gắt
hái ra về. Thật đúng là “Rõ ràng bát gạo bát màu hôi”. Và sau tất cả những khó
32
khăn vất vả ấy, người nông phu lại trở về sống cuộc sống yên bình. Khung cảnh
làng quê thật thanh bình biết bao với cảnh “Trẻ con thích chí lúc diều lên”, và
vui sao cái cảnh:
Chiều tắm ao sen, hóng mát chơi,
Xem mây bay lượn dưới chân giời.
Việc đời thôi cũng như mây nổi,
Bôn tẩu chi cho tiếng để đời !
(Mùa hè nhà quê)
Đến với bài Thăm thú làm vườn, ta lại thấy được cái không khí làng quê
Việt Nam thật gần gũi, quen thuộc. Nơi ấy có:
Một khu vườn đất chừng mười mẫu,
Tre trúc trồng quanh xây làm giậu.
Ở trong có mấy lớp lớp nhà tranh,
Mươi đứa tiểu đồng một ông lão.
(Thăm thú làm vườn)
Và thật đẹp sao cái cảnh:
Ngày nắng bóng cây lồng bóng nước,
Dịp cầu ngang nước bắc thon thon.
(Thăm thú làm vườn)
Khung cảnh thiên nhiên làng quê không chỉ yên ả, thanh bình, mà cuộc
sống người dân quê cũng thật no ấm với đầy sản vật hoa trái như:
Trước cửa nhà tranh trồng dãy hoa,
Hoa lan, hoa cúc lẫn hoa trà.
Hoa ngâu, hoa mộc giàn thiên lý,
Hồng tía xuân sang đủ mặn mà.
Hai bên tả hữu trồng chè cau,
33
Cây cao, cay thấp chen lẫn nhau.
Giữa vườn có mấy cái ao nhỏ,
Dưới ao thả cá, bờ trồng rau.
(Thăm thú làm vườn)
Ở nơi ấy, tình làng nghĩa xóm mới đầm ấm làm sao:
Quanh năm vui thú với sơn khê,
Mùa nào thức ấy không thiếu chi,
Ngày rỗi tìm cách ướp hoa quả,
Ăn thừa đem đãi khắp thôn quê.
Có khi gọi trẻ hát xuống chơi,
Pha ấm chè khô ướp mọi mùi,
Đánh cá, giết gà thết bè bạn,
Anh em đàm đạo chuyện trên đời.
(Thăm thú làm vườn)
Thể thơ thất ngôn bát cú, có 01 bài: Vịnh anh thợ bừa. Bài thơ là một khúc
ca về người lao động, là cái nhìn đầy nhân ái với người nông dân. Á Nam Trần
Tuấn Khải viết về họ với một tình cảm đặc biệt quý mến. Hình ảnh của những
con người cùng cực của xã hội đã đi vào trong thơ ca. Đó chính là tấm lòng
nhân đạo sâu sắc ông dành cho người nông dân. Viết về anh thợ bừa, bằng tình
cảm ưu ái và những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, Á Nam Trần Tuấn Khải đồng thời
thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của mình:
Ra tay san sẻ vì non nước,
Tìm cách ươm giâm lấy giống nòi.
(Vịnh anh thợ bừa)
Cùng viết về đề tài thiên nhiên, qua khảo sát, chúng tôi còn thấy trong tập
Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 01 bài viết bằng thể thơ thất
34
ngôn bát cú: Ở nhà quê. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), có 01
bài viết ở thể thơ thất ngôn bát cú: Chiều qua sông Nhuệ.
Trong số những bài thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải viết về đề
tài thiên nhiên, chúng tôi nhận thấy thiên nhiên cũng thật sinh động, bay bổng,
lãng mạn, trẻ trung và tình tứ. Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất có
01 bài viết ở thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang vẻ đẹp ấy:
Trải mấy nghìn thu bóng chửa tàn,
Khối tình xoay mãi với giang san.
Thế nhân muốn biết ta bao tuổi,
Chờ tối hôm rằm sẽ hỏi han.
(Chị Nguyệt).
Sinh ra trong buổi đất nước nguy nan, lại là người luôn nặng lòng vì nước.
Chính vì vậy, thiên nhiên trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải cũng mang tâm
trạng buồn, u uất. Trong đó, tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có
02 bài: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên, có 01 bài (Chơi thuyền Hồ Gươm);
Thể thơ thất ngôn bát cú, có 01 bài (Lên chợ giời).
Đọc bài thơ Lên chợ giời, ta không khỏi không liên tưởng tới bài thơ Muốn
làm thằng Cuội của Tản Đà. Tản Đà “Muốn làm thằng Cuội” bởi chán ngán
cảnh trần thế. Ông muốn lên tiên, thoát khỏi cuộc đời trước mắt để cười cợt cái
bát nháo, nhố nhăng của một xã hội bất như ý trong cái nhìn của ông. Cái cuộc
đời mà trong bài thơ Năm hết hữu cảm, ông đã cho rằng: “Sự nghiệp nghìn thu
xa vút mắt /Tài tình một gánh nặng trên vai”. Chính vì vậy, Tản Đà đã thổ lộ
tâm trạng của mình không quanh co, giấu giếm:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa ?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
35
(Muốn làm thằng Cuội – Tản Đà)
Á Nam Trần Tuấn Khải muốn “Lên chợ giời” vì: “Chợ trần đi mãi chán
chân rồi/Ta thử lên xem cảnh chợ giời”. Nhưng đổi lại, nhà thơ cũng chỉ nhận
được một sự thất vọng:
Muốn mua mấy cái không tìm thấy,
Toan hỏi dăm câu nọ giả nhời.
Lò Tạo bán buôn hay thật nhỉ !
Mối hàng danh lợi để chờ ai ?
(Lên chợi giời)
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhì (Trích), có bài Nỗi đời nhưng
không phải bài thơ thổ lộ tâm trạng chán chường và thất vọng mà lại là những
chiêm nghiệm của chính bản thân tác giả về sự vô thường của cuộc đời con
người. Ngoài ra, Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có 01 bài
viết ở thể thơ thất ngôn bát cú (Vịnh cảnh Hồ Tây).
Trong số những bài thơ viết về thiên nhiên, ngoài những bài thơ có nội
dung tả cảnh thiên nhiên mang cảnh sắc tươi vui, thanh bình, trẻ trung, tình
tứ, lãng mạn... qua khảo sát thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng
tôi nhận thấy thiên nhiên còn mang màu sắc hoang vắng, rợn lạnh. Trong tập
Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), viết bằng thể thơ ngũ ngôn bát cú,
có bài:
Rừng xanh cây cỏ biếc,
Bốn mặt cảnh tiêu tao,
Hổ thét kinh hồn tục,
Chim kêu gọi bạn hào.
Lòng quê vương đất lạ,
Nhà cũ khuất non cao,
36
Hỏi khách trên sông Nhị:
Năm nay nước thế nào ?
(Cảnh ở rừng)
Cái hoang vắng “Bốn mặt cảnh tiêu tao”, “Nhà cũ khuất non cao”, cùng
với tiếng “hổ thét kinh hồn”... giữa chốn non cao rừng thẳm, thật không khỏi
làm cho kẻ lữ khách cảm thấy rợn lạnh. Tình cảnh ấy của người lữ khách phải
chăng cũng chính là tình cảnh thời cuộc lúc bấy giờ ?
Ngoài ra, qua khảo sát 112 bài thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn
Khải chúng tôi còn nhận thấy thiên nhiên với những nét phác khỏe khắn, sự
vận động tích cực, qua đó biểu hiện một cảm quan mới về thiên nhiên. Trong
tập Bút quan hoài, quyển thứ nhì (Trích), có bài Mùa xuân nhà quê, viết bằng
thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên:
Non xanh nước biếc cảnh xinh thay,
Vua chúa khua trâu hộc cấy cày,
Ngày mảng việc công quên hết tự,
Thanh minh chừng đã tới đâu đây ?
Nhà tranh giậu trúc cảnh riêng vui,
Thôn ổ ra vào hỏi những ai ?
Mưa tưới vườn xuân cây cỏ tốt,
Trên cành con én vút đưa thoi.
Gió gió mưa mưa khéo não nùng,
Hoa cười hớn hở với non sông.
Véo von ai hát trên đồng vắng ?
Có phải cô mình cắt cỏ không ?
Đã chán vui chơi với cảnh nhà,
37
Rủ nhau thăm thú khắp gần xa,
Đường về man mác xuân đua nở,
Rẽ bước ngàn sông ngắt đóa hoa.
(Mùa xuân nhà quê)
Có thể thấy, nếu những cây chuối, rậu mùng tơi, vườn rau muống, hoa
soan... trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm từng được coi là những
khám phá gây kinh ngạc của Nôm Đường luật, nhờ vẻ đẹp bình dị của nó, thì
trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải nét đẹp mới mẻ lại là sự cảm
nhận tinh tế về đời sống riêng với vô vàn trạng thái phong phú của tất cả những
sự vật bình thường ấy. Và nếu như tất cả những cố gắng của các tác giả Nôm
Đường luật, từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương đối với đề tài thiên nhiên, là
tạo nên những “bức tranh xinh xắn, những bức tranh lụa mượt mà, những bức
ký họa tự nhiên mộc mạc” [tr50 – Lã Nhâm Thìn], hay “những bức ký họa với
đường nét khỏe khoắn, với những khối, những mảng gân guốc đầy sức sống”...
thì với thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải thiên nhiên lại khác hẳn ở vẻ
đẹp nhạy cảm, ở cái nhìn tinh tế giàu cảm xúc. Nó khác nhau rất xa ở chỗ một
đằng quan tâm tới việc phát hiện những đối tượng mới, một đằng quan tâm tới
việc thể hiện cái nhìn mới về đối tượng. Nghĩa là thiên nhiên giờ đây đã được
chú ý không chỉ bằng vẻ đẹp vốn có, sức sống vốn mà hơn thế, nó còn được mĩ
hoá, được phú cho những vẻ đẹp và sức sống mà người thi sĩ muốn có.
Tóm lại, thiên nhiên quê hương đất nước là một đề tài lớn trong thơ Á
Nam Trần Tuấn Khải. Đó không chỉ là vẻ đẹp sơn thủy hữu tình, những danh
lam thắng cảnh, những truyền thuyết của lịch sử dân tộc, những sản vật của mỗi
miền quê... mà qua đó, nhà thơ đã kín đáo gửi gắm nỗi niềm tâm sự yêu quê
hương đất nước và những chiêm nghiệm về cuộc sống của bản thân mình.
2.2. Cảm hứng yêu nước trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
38
Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất
của mỗi người dân Việt Nam. Tình cảm ấy thấm đẫm trong tâm hồn dân tộc và
dạt dào lai láng trên những trang thơ văn. Ngay từ bài Quốc tộ (Vận nước) - bài
thơ cổ nhất còn giữ lại được từ thời Lý Trần đến nay, trong văn học dễ có đến
hàng ngàn tác phẩm đề cập đến vận nước, hồn nước và thái độ của người dân
đối với vận nước hồn nước... Riêng với thơ Đường luật, yêu nước cũng là một
trong những nội dung chủ đạo có thể sánh với nội dung thiên nhiên và nội dung
cảm khái. Và tuy tinh thần chung của yêu nước đều hội tụ ở một điểm là lòng
căm thù giặc, là tình cảm đối với quê hương đất nước, là tinh thần đấu tranh để
gìn giữ non sông... nhưng nội dung cụ thể của yêu nước ở mỗi thời đại lại có
những điểm rất khác nhau” [8].
Trước đây do ảnh hưởng bởi quan niệm mệnh trời về ngôi vua: “Trời giao
nước và dân cho vua, theo mệnh trời vua nuôi dân và trị nước; dân là thần tử
của vua, theo lòng trung nghĩa phụng sự vua...” cho nên yêu nước chính là phải
trung với vua, và phục vụ vua cũng chính là vì dân. Vì thế chúng ta thấy trong
văn học trung đại, các tác giả khi hướng tới đề tài yêu nước hầu hết thường
hướng tới những nội dung cụ thể như hình tượng người trung nghĩa, người ẩn
dật, hình tượng vua sáng tôi hiền... Bước sang đầu thế kỷ XX, cục diện chính
trị thay đổi, vua không đại diện cho dân, không chăn dắt dân theo quan niệm
Nho giáo, trái lại còn trở thành công cụ của giặc để hại dân. Vì thế yêu nước
không thể đồng nghĩa với trung quân, thậm chí vì yêu nước, căm phẫn trước
hành động bán nước của vua mà lên tiếng phản đối, mạt sát vua:
Ai về địa phủ hỏi Gia Long,
Khải Định thằng này phải cháu ông.
...
Bảo hộ trau giồi nên tượng gỗ,
8 Trần Thị Lệ Thanh (2002), Thơ Đường Luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
39
Vua thời còn đó nước thời không!
(Hỏi Gia Long – Ngô Đức Kế)
Lúc này muốn cứu nước người dân phải tự mình giành lấy quyền làm chủ
đất nước, phải tự cứu lấy mình.
Một số thể loại không bị hạn chế về khuôn khổ như thơ lục bát, hò, vè…
đã kịp thời hướng tới đề tài yêu nước qua những nội dung mới mẻ như: Cổ
động, duy tân, khích lệ tinh thần yêu nước, hô hào mọi người nêu cao vai trò
của dân trong sự nghiệp cứu nước... Và sự thay đổi này, đã làm cho người đọc
cảm thấy ở những thể loại ấy như phát ra một nguồn sinh khí mới. Không những
nội dung yêu nước so với trước có nhiều điểm mới mẻ, mà xét về ý nghĩa cũng
mang ý nghĩa tiến bộ rất rõ rệt.
Tuy nhiên, cũng chính do những nội dung yêu nước lúc này so với truyền
thống là hoàn toàn mới mẻ, và đối với chính những người sáng tác, nó còn chưa
được xác định cho thấu đáo, nên phần lớn các tác phẩm lục bát, hò, vè… đều
chỉ có tính chất hô hào chung chung, ít nội dung cụ thể.
Với Á Nam Trần Tuấn Khải, thơ văn cũng chính là một thứ vũ khí vô cùng
sắc bén để ông chiến đấu chống lại quân xâm lược. Thơ văn của ông khiến
người ta không khỏi gợi nhớ tới thơ văn của các nhà nho yêu nước trong văn
học trung đại Việt Nam như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh..., đó là quan niệm “Văn dĩ tải đạo”:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
(Nguyễn Đình Chiểu)
Đó là coi văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, và trên mặt trận đặc
biệt ấy, các nhà văn, nhà thơ chính là những chiến sĩ, trong tập Bút quan hoài
Quyển thứ nhì có bài Nhắn bạn Tiên Long:
Năm châu đất chật buổi người đông,
40
Chen bước sinh tồn phải gắng công.
Vì nước đừng e cơn sóng gió,
Thương nhà nên giữ nếp cha ông.
Chớ ham xa mã ưa luồn cúi,
Mà để giang san chịu lạnh lùng.
Hăm mấy triệu người chung một bọc,
Sao cho khỏi nhục giống Tiên Long.
(Nhắn bạn Tiên Long)
Ngoài ra, cũng trong tập thơ này, bài Hựu thể của Á Nam Trần Tuấn Khải,
nỗi lòng của nhà thơ lo lắng cho vận nước bộc lộ, trĩu nặng qua từng câu chữ:
Thu tới đông qua chừng mấy độ,
Ngoảnh đi ngoảnh lại tết rồi đó.
Đức tài còn kém đừng ngồi lo,
Công nghiệp chưa xong xoay giở khó
Một tuổi một già một kém xuân,
Trăm năm trăm tết trăm đường khổ.
Lọt lòng ví biết nước non này,
Thì đã xoay mau theo vận đỏ.
(Hựu thể)
Á Nam Trần Tuấn Khải sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau như: viết văn,
viết kịch, tiểu thuyết, làm báo, sáng tác thơ và tự xem đó là một con đường để
cải tổ luân lý, phát huy tính dân tộc, gìn giữ và chuyển tiếp ngọn lửa yêu nước
thiêng liêng. Quan niệm nghệ thuật của Trần Tuấn Khải thể hiện minh bạch lý
tưởng của người cầm bút:
Đời không duyên nợ thơ không sống
Văn có non sông mới có hồn.
41
(Nhàn bút – Với Sơn hà I)
Trong mấy chục năm đầu của thế kỷ XX, là một nhà thơ sáng tác trên văn
đàn công khai chịu sự kiểm duyệt gắt gao của thực dân Pháp, Á Nam vẫn một
lòng trung thành với quan niệm về nghệ thuật tiến bộ ấy.
Trong tổng số hơn 200 tác phẩm của Á Nam Trần Tuấn Khải nói chung
có đến 142 bài có nội dung yêu nước. Thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải thực sự
lay động tới người đọc cả nước với loạt bài thơ Anh Khóa, Gánh nước đêm in
trong tập Duyên nợ phù sinh (1921). Đó không chỉ là những bài thơ chứa chan
nặng tình non nước mà hình tượng thơ cũng thật sâu sắc vô cùng. Bài thơ Gánh
nước đêm, mượn chuyện một cô gái gánh nước vào đêm khuya để qua đó kín
đáo gửi gắm tâm sự của nhà thơ đối với những chiến sĩ cách mạng, những vị
anh hùng dân tộc, qua đó thức tỉnh tinh thần yêu nước, bảo vệ dân tộc.
Trong thơ Đường luật, Á Nam Trần Tuấn Khải còn là một nhà nho yêu
nước và thức thời. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, dòng dõi
Hưng Đạo Vương ở Nam Định, cha là cụ Trần Thụy Giáp có tham gia phong
trào yêu nước nên Trần Tuấn Khải sớm chịu ảnh hưởng của các phong trào Duy
Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục. Ngay từ tuổi thanh niên, Á Nam đã từng nuôi chí
lớn muốn vượt biên ra nước ngoài tìm kiếm bạn đồng tâm để cùng nhau bàn kế
cứu giang sơn Tổ quốc, nhưng không thành. Không trở thành nhà cách mạng,
Trần Tuấn Khải dốc lòng vào hoạt động văn nghệ, gửi gắm tâm sự, ước mơ,
hoài bão của mình vào các áng văn thơ. Thậm chí vào đầu mùa thu năm 1932,
cuốn sách Chơi xuân năm Nhâm Thân bị khép vào loại “văn chương phiến
loạn”, vừa in xong đã bị tịch thu và cả tác giả lẫn người in sách đều bị chính
quyền thực dân bắt giam, hơn một năm sau mới được thả.
Thời gian bị giam cầm, ông viết Ngục trung vịnh tỏ nỗi bất bình có xen
buồn tủi nhưng vẫn giữ niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Ra tù, ông lại tiếp
tục viết báo, làm thơ, in sách Với sơn hà I (1935), Với sơn hà II (1949)…
42
Từ sau 1954, đây là thời kỳ mà Á Nam Trần Tuấn Khải di cư vào Nam.
Có thể thấy, đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Thời kỳ này,
ông làm ở Thư viện Quốc gia, Viện Khảo cổ, làm chuyên viên Hán học tại Nha
Văn hóa và viết bài cho các báo Đuốc nhà Nam, Văn hóa nguyệt san,… với
khuynh hướng tiến bộ của tri thức yêu nước. Trong ông luôn nung nấu trong
lòng Hai chữ nước nhà. Trong hoàn cảnh bị bủa vây bởi những thế lực phản
động, ông vẫn giữ vững khí tiết thanh cao của nhà văn hóa yêu nước.
Một thực tế là, mỗi khi vận nước gặp cơn dâu bể thì truyền thống lịch sử
của cha ông lại được khơi dậy mạnh mẽ trong lòng mỗi người dân yêu nước.
Bởi vậy, trong sáng tác thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX, đề tài lịch sử được sử
dụng rộng rãi. Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã triệt để sử dụng đề tài lịch sử
vào mục đích tuyên truyền cách mạng. Á Nam Trần Tuấn Khải cũng như một
số nhà thơ trữ tình yêu nước khác, trong đó có Tản Đà, thì khai thác đề tài lịch
sử như một cái cớ để nói xa xôi bóng gió, nói kín đáo những điều muốn nhắn
gửi.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, trong số 112 bài thơ Đường luật của Á
Nam Trần Tuấn Khải, có đến 37 bài có nội dung yêu nước. Những Cổ Loa, Hồ
Gươm, đền Hùng Vương, Thăng Long, Lạng Sơn thành, xứ Huế,... hiện hữu
trong thơ Á Nam luôn gắn liền với nỗi niềm hoài cổ của chủ thể trữ tình. Mượn
đề mục ở lịch sử, các nhân vật và sự kiện quan trọng của lịch sử dân tộc Việt
Nam để làm nên hệ thống chủ đề, đề tài trong thơ của mình, có thể nói đây là
mảng đề tài quan trọng trong thơ Đường luật của ông. Chơi thành Cổ Loa là
một bài thơ vịnh sử. Đọc bài thơ, ta lại như thấy dáng điệu như một bài tâm
tình. Di tích cổ xưa được nhà thơ đặt vào giữa thiên nhiên với “bao gió táp với
sương sa” khiến cho những sự vật tưởng chừng vô tri như thành quách, đá gạch
cũng phải rung động. Hoàng Ngọc Phách gọi bài Chơi thành cổ Loa là “giọt lệ
khóc người xưa đã giọn lại tám câu thơ làm được lòng người cảm động” [Dẫn
theo Xuân Diệu - 10].
43
Vẫn trong mạch cảm xúc ấy, Duyên nợ phù sinh quyển thứ nhì có hai bài
thơ Đề đền vua Hùng Vương. Cổ Loa hoang phế dễ khiến người ta mủi lòng đã
đành, còn ở đây đền Hùng trang nghiêm là thế cũng hé “cảnh thương tâm”!
Đây là lôgic cảm xúc tất yếu của tâm hồn yêu nước, trong xã hội thương đau
mà bất lực. Tấm gương dựng nước bốn nghìn năm của tiên tổ còn đó mà có kẻ
đã vội quên mình là dòng dõi con Lạc cháu Hồng. Đoạn kết bài 2 là lời nhắc
nhở đau xót:“Anh em Nam Việt ai đâu đấy/ Nhớ tổ vương đây kẻo nữa lầm...”.
Khi đọc hai bài thơ trên, trong bài Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, thi sĩ
Xuân Diệu đã có lời nhận xét: “Ý tứ rõ ràng quá, thống trị Pháp cho dạy trong
các trường bài học bằng tiếng Pháp, với câu trứ danh: Nos ancêtres étaient les
Gaulois, “Tổ tiên chúng ta xưa là người Gô-loa”, bọn chúng cố tình dạy như
vậy, là quyền của chúng; chỗ thương tâm, là thuở mất nước đó, có những người
quên mất tổ tiên chúng ta; Á Nam dạy lại cho họ bài học như học đánh vần. Tổ
tiên ta là Hùng Vương, ta là con Lạc cháu Hồng !” [tr.44].
Hướng về quá khứ oai hùng của dân tộc, nhiều khi Á Nam tìm thấy ở đấy
sức mạnh tinh thần cha ông truyền lại. Trong Bút quan hoài, quyển thứ nhì
(Trích), ta thấy một cố đô Hoa Lư oai hùng một thủa:
Gió hạc như reo quân Mục dã,
Tinh kỳ khôn rạng vẻ Nam lâu.
(Hoa Lư hoài cổ)
Vẫn nguồn cảm hứng ấy, trong Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích),
ta lại thấy hình ảnh Hồ Gươm hiện lên thật đẹp với những “con sóng”, những
“Gợn nước long lanh rỡn bóng đèn”. Và thấp thoáng đâu đó là hình ảnh “gươm
vàng” cùng với người anh hùng Lê Lợi với niềm hân hoan chiến thắng giặc
Minh xâm lược:
Đèn theo lấp lánh soi làn nước,
Tưởng bóng gươm vàng lúc mới gieo.
44
...
Tưởng lúc trung hưng quân dẹp loạn,
Lưng giời phảng phất ngọn cờ Lê.
(Chơi thuyền Hồ Gươm)
Bên cạnh đó, không ít bài thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải thời kỳ
này bộc lộ sâu sắc khí tiết, đồng thời gửi gắm tâm sự yêu nước thương dân. Qua
khảo sát cho thấy, có 07 bài viết về nội dung này. Trong đó riêng Duyên nợ phù
sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 03 bài (Thể thơ thất ngôn bát cú có 02 bài:
Thuật hoài, Con ve; thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, có 01 bài: Đề cái nón). Ở những
bài thơ này, một lần nữa, ta thấy được một Á Nam luôn nặng lòng với non sông
đất nước:
Trót dấn thân vào đất Việt xưa !
Hai mươi năm lẻ đến bây giờ...
Áo dày cơm nặng, tình lai láng,
Bút mới văn tàn dạ thẩn thơ.
(Thuật hoài)
Vẫn là cái khí tiết của một người yêu nước, thương dân, trong tập Duyên nợ
phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có 03 bài viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên:
Lời chị Nguyệt, Gọi đò đêm, Trách gà gáy. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất
(Trích), có 01 bài viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú: Với sơn hà. Bao trùm những
bài thơ này vẫn là tâm sự nặng lòng với nước, với dân:
Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết,
Gửi với sơn hà một áng văn,
Không lợi, không danh: nên đủng đỉnh,
Có nhà, có nước: phải băn khoăn.
(Với sơn hà)
45
Nếu trong thơ của các nhà Nho yêu nước hồi nửa đầu thế kỷ XX, những
bài bộc lộ khí tiết, gửi gắm tâm sự yêu nước thương nhà, bày tỏ lòng ngưỡng
mộ với những tấm gương kiên cường bất khuất trong thử thách gian nan...
không được quan tâm nhiều thì thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải lại
sâu vào đời sống riêng, vào thế giới nội tâm của nhiều loại người trong xã hội
và phác hoạ những hình tượng yêu nước mới. Trình bày những tư tưởng, tình
cảm khác nhau trước tình trạng nước mất nhà tan, ông đã đem đến cho nội dung
yêu nước những điểm hiện thực sắc sảo và cái nhìn tiến bộ đối với nhiều vấn
đề mà thơ Đường luật thời trung đại chưa có được.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Đông
Dương về mặt quân sự và bắt đầu triển khai kế hoạch bình định trên các lĩnh
vực khác như chính trị, kinh tế, văn hoá… Trường học được mở ở khắp nơi để
dạy tiếng Pháp và đào tạo ra thế hệ quan lại bản xứ tay sai thân Pháp. Sự bành
trướng nhanh chóng của nền giáo dục thực dân đã đẩy lùi nền giáo dục truyền
thống dựa trên nền tảng đạo Nho có từ lâu đời ở nước ta. Theo bước chân của
đạo quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa cũng tràn vào nước
ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định hình hàng ngàn năm.
Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung lay dữ dội. Nhiều giá
trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí thống soái, chi phối toàn bộ
cuộc sống của con người.
Bên cạnh những bài thơ Đường luật bộc lộ khí tiết, gửi gấm tâm sự yêu
nước thương dân có tới 20 bài thơ mang nội dung u uất và lắng đọng, nỗi bi
phẫn, day dứt, đau đớn cùng tiếng thét căm giận với tư tưởng bất đắc chí.
Trong đó, tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 04 bài. Thể
thơ thất ngôn bát cú, có 02 bài: Khóc cái quạt, Nhớ cô hàng quạt. Thể thơ thất
ngôn tứ tuyệt, có 02 bài: Cái gương, Gà trống thiến.
Ý chí lớn nhưng không thể thực hiện được, lại thêm cái cảnh “Nước đời
xấu đẹp đã từng quen – Khuôn xếp vuông tròn phó tự nhiên”, nhà thơ thể hiện
46
sự bất bình. Tuy nhiên, Á Nam vẫn luôn giữ trọn tấm lòng thanh sạch của mình.
Mượn chuyện cái gương, nhà thơ bộc bạch:
Một mảnh lòng trong chưa chút gợn,
Mặc người đổi trắng với thay đen.
(Cái gương)
Những uất ức trong lòng, dồn nén, phẫn uất để rồi nhà thơ mong sự giải
tỏa. Mượn tiếng gà trống thiến, thi sĩ ước mong một đổi thay, xóa tan đi đêm
trường mộng mị:
Mình áo cà sa vẻ lấp lo,
Lòng từ mong trọn kiếp chân tu.
Khua tan mộng mị năm canh vắng,
Gọi tỉnh sơn hà một tiếng cu.
(Gà trống thiến)
Lời thơ nhẹ nhàng mà gợi biết bao là tình. Đó chính là tấm lòng sắt son
với núi sông và ước vọng về một ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Vẫn tâm trạng ấy, trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có
bài Mặt trời được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú. Lời thơ sâu cay, thấm thía.
Tâm trạng phẫn uất như được giải tỏa. Nhà thơ thấy hả hê trước cái cảnh:
Lầu son gác tía cao muôn trượng,
Ấn ngọc đai vàng sáng một trời.
Mấy lũ trăng sao kinh khiếp vía,
Bốn phương non nước rạng mầu tươi.
(Mặt trời)
Trong hoàn cảnh ấy, ông biết rằng con đường đấu tranh của dân tộc còn
muôn vàn gian khổ, khốc liệt. Chính vì vậy, qua những vần thơ của mình, Á
Nam Trần Tuấn Khải không nhắn nhủ mọi người không chỉ biết đấu tranh mà
47
đồng thời còn phải biết vững chí trên còn đường tranh đấu vì ngày mai tươi
sáng của dân tộc. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), ông viết:
Anh hùng càng trải cơn chìm nổi
Càng vững gan xoay há chịu đời!
(Thuyền đánh cá)
Ngoài ra, còn phải kể đến hai bài thơ khác trong tập này là: Giọt lệ anh
hùng (Thất ngôn tứ tuyệt trường thiên), Ngày xuân ở Hà Thành (Thất ngôn bát
cú).
Mượn khung cảnh thiên nhiên “gió thét, mưa gầm” và tiếng “Trống tuồng
thiên diễn giục thâu canh”, nhà thơ như gợi nhắc mọi người về trước tình cảnh
lầm than của dân tộc. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhì (Trích), ông viết:
Hỏi ai trong giấc hoàng lương đó:
Sấm sét năm châu có giật mình.
(Đề tập “Hồn tự lập” thứ nhất)
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhất (Trích), lời thơ của ông nghe mà
chua xót, nghẹn ngào biết nhường nào:
Nghĩ trách Hoàng thiên khéo dở dang !
Sinh ta chi giữa buổi tang thương ?
...
Đã toan tu quách cho xong chuyện.
Giận cái tơ tầm khéo vẩn vương !
(Trách Hoàng thiên)
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhất, trước những cảnh cười ra nước
mắt trong hội Tây do thực dân Pháp tổ chức mà người bản xứ tham gia các trò
chơi tỏ ra vui vẻ đến vô tâm trước nỗi nhục nô lệ, ông phê phán lũ người làm
tay sai cho giặc và nói lên nỗi nhục của người dân mất nước:
48
Nô nức đua nhau hội với hè,
Văn mình Nam Việt tiến mau ghê !
Nhảy đầm, ăn tiệc, ông tây sướng,
Liếm chảo, leo đu, đứa trẻ mê...
Giờ nắng lợi riêng phường bán nước,
Bụi lầm khổ chết lũ buôn xe.
Anh mù nỏ biết trò chi cả,
Cứ bập bùng bung, cứ cỏ ke...
(Xem hội Tây)
Phẫn uất trước những đổi thay, đen bạc của thói đời, trong tập Bút quan
hoài, quyển thứ nhì (Trích), Á Nam Trần Tuấn Khải đã khinh bỉ, vạch mặt bọn
Việt gian bán nước và ví bộ mặt của chúng chẳng khác chi mặt mèo:
Đã thua chó ngựa lòng trung nghĩa,
Còn học sói hùm lối ngoắt ngoeo.
Rõ chuột không hay, hay đánh vụng,
Giờ hồn!!! Không nữa chết cò queo”.
(Con mèo)
So với bài Xem hội Tây, giọng đả kích của Á Nam ở bài này đạt đến mức
cay độc.
Vẫn giọng ngụ ngôn như thế, bài Chuột tranh ăn lại nói đến cảnh “Bóc
lột lẫn nhau quen thói chuột” - nhằm vào những kẻ chuyên sống trên mồ hôi
nước mắt của chính nhân dân mình, không biết rằng mình cũng chỉ là quân cờ
trong tay kẻ khác. Á Nam mắng chúng:
Giống đâu nhí nhắt dại khờ ghê !
Rúc rích tranh ăn chẳng nghĩ gì.
Bóc lột lẫn nhau quen thói chuột,
49
Liệu hồn! Mèo nó vẫn rình kia.
(Chuột tranh ăn)
Trong đó, tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 03 bài; thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt, có 02 bài: Hỏi người trong trong tranh, Lúc chia tay và bài Cái
quạt giấy; thể thơ thất ngôn bát cú, có 01 bài: Vịnh ông hộ pháp.
Không chỉ vậy, qua khảo sát 112 bài thơ Đường luật của Á Nam, chúng
tôi còn thấy những bài thơ có nội dung cổ động, duy tân. Trong đó, tập Với sơn
hà, quyển thứ nhất (Trích), có 04 bài. Tiêu biểu như bài Nhàn bút viết ở thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt. Qua bài thơ, chúng ta nhận thấy ở ông một ý thứ rất rõ về
con đường nghệ thuật mà mình đang theo đuổi: “Đời không duyên nợ đời không
sống/ Văn có non sông mới có hồn” (Nhàn bút).
Trong nhiều bài thơ, bên cạnh niềm tin vào tương lai độc lập dân tộc, nội
dung bài thơ còn gắn liền với lời kêu gọi quyết tâm hành động. Có lúc là giọng
khẩu khí. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất, có bài Gửi bạn viết bằng thể
thất ngôn bát cú. Con đường tranh đấu “Vì non sông cướp lại tự do quyền” đầy
chông gai, thử thách. Xác định rõ như vậy nên không chỉ kêu gọi tranh đấu, Á
Nam còn kêu gọi mọi người bền gan vững chí trên con đường khó khăn hiểm
nguy ấy:
Anh hùng càng trải cơn chìm nổi,
Càng vững gan xoay há chịu đời!
(Thuyền đánh cá)
Tương tự như vậy còn thấy ở nhiều bài thơ khác: Thể thơ thất ngôn bát
cú, có 03 bài: Khuyên bạn, Gửi bạn, Cùng bạn văn học. Trong tập Bút quan
hoài, quyển thứ nhì (Trích), có bài Nhắn bạn Tiên Long, viết bằng thể thơ thất
ngôn bát cú. Bài thơ là những lời cảnh tỉnh tới những ai đang còn lầm đường,
lạc lối, trót làm tay sai cho giặc:
Vì nước đừng e cơn sóng gió,
50
Thương nhà nên giữ nếp cha ông.
Chớ ham xa mã ưa luồn cúi,
Mà để giang san chịu lạnh lùng.
(Nhắn bạn Tiên Long)
Và cuối cùng là nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết, chân thành:
Hăm mấy triệu người chung một bọc,
Sao cho khỏi nhục giống Tiên Long.
(Nhắn bạn Tiên Long)
Năm 1926, Á Nam viết: Trường thán thi với lời đề từ: “Nghĩ thay lời bà
Trưng Trắc nhủ em là bà Trưng Nhị khi nổi quân đánh đuổi tên thái thú tham
tàn là Tô Định”. Bài thơ viết theo điệu “thập thủ liên hoàn”, gồm 10 bài liên
hoàn. Vẫn giọng tâm huyết ấy nhưng lời văn của Trường thán thi đanh thép,
uất hận:
Em ơi ruột chị rối như tơ:
Nướt mất, nhà tan cám cảnh chưa?
Đất tổ làm hang nuôi hổ báo,
Con tiên lộn kiếp hóa trâu lừa...
... Chịu yên sao được? Hỡi em ơi!
Trông đến giang san chết nửa người.
Mất mẹ, gà con ngẩn ngơ bóng,
Gặp thì, chó dại nguẩy ngoe đuôi...
... Trông anh em đó như điên dại,
Còn ruột gan nào hưởng đỉnh chung?
51
Xé yếm may cờ dù thỏa chí,
Kiếp này khỏi phụ với cha ông...
(Trường thán thi)
Sáng tác Trường thán thi, cảm xúc của nhà thơ đạt đến độ mãnh liệt. Bài thơ
chính là tâm sự “nóng ran lò lửa bốc” của Á Nam xứng đáng được coi là áng thơ
văn yêu nước xuất sắc của văn học đầu thế kỷ XX. Cảm hứng bi hùng tạo nên sức
lôi cuốn, hấp dẫn mạnh mẽ, có giá trị kêu gọi, khích lệ tinh thần yêu nước căm thù
giặc và ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước ở mọi người.
Tình bạn tri âm tri kỷ và tình vợ chồng... là những phạm trù tình cảm riêng
tư có tính bền chặt, sâu nặng. Mượn những tình cảm riêng tư này để nói tình
yêu đất nước, Á Nam đã bộc bạch được tâm sự của mình một cách tha thiết
nhất. Đây cũng chính là những bài thơ Đường luật có nội dung yêu nước theo
tinh thần thời đại mới.
Chúng tôi xin đơn cử bài thơ trường thiên Nhớ bạn (Duyên nợ phù sinh -
quyển thứ nhất):
Sông Vị mênh mông ngọn nước tràn,
Non côi man mác bóng mây tan.
Càng trông mây nước càng thương nhớ,
Nhớ bạn tri âm cách dặm ngàn.
Nhớ bạn tri âm cách dặm ngàn,
Cùng ai khuya sớm chuyện tâm can
Đoái trông non nước còn nguyên cũ,
Ngán nỗi văn chương đến cuộc tàn.
Ngán nỗi văn chương đến cuộc tàn
52
Nhân tình thế thái buổi ba lan
Thương cho chim én nền Vương Tạ,
Xào xạc xa kêu tiếng lạc đàn.
Xào xạc xa kêu tiếng lạc đàn
Cánh hồng bay liệng biết đâu an!
Cành tùng ngọn bách cơn mưa gió,
Mặt biển sườn non giọng thở than.
Mặt biển sườn non giọng thở than,
Lạnh lùng đêm vắng khách Cô đan
Bốn phương ai kẻ tri âm đó?
Luống để anh hùng lệ chứa chan.
Luống để anh hùng lệ chứa chan,
Thấu chăng! chăng hỡi, bạn giang san?
Non côi sông vị còn mây nước,
Còn nặng ân tình với thế gian.
(Nhớ bạn)
Bài thơ gồm sáu khổ thất ngôn tứ tuyệt, câu cuối của khổ trên được lặp lại
nguyên vẹn, làm câu đầu của khổ thơ dưới, cứ thế đến hết bài, tạo ấn tượng về
tâm trạng khắc khỏai không dứt của chủ thể trữ tình. Diễn biến cảm xúc của
chủ thể bài thơ trải qua nhiều trạng thái phong phú: Thương nhớ, buồn tủi, đau
xót. Có lúc tâm sự trào dâng khiến chủ thể thốt lên tha thiết: “Thấu chăng!
Chăng hỡi, bạn giang san?”. Và ẩn trong nỗi Nhớ bạn ấy là nỗi niềm thế sự:
“Nhân tình thế thái buổi ba lan”.
53
Cảm phục trước đức hạnh của bà Tú Xương, Á Nam đã dành cho bà những
vần thơ đẹp đẽ vô cùng. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), nhà thơ
viết:
Bia miệng đã nên trang khổn phạm,
Nếp nhà không thẹn dấu văn chương.
Tấm thân tuy thác danh nào thác,
Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng.
(Viếng bà Tú Xương)
Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có bài thơ Ngâu viết
bằng thể thơ thất ngôn bát cú. Đọc bài thơ, ta thấy Á Nam như đang xót xa, nhỏ
lệ cùng đôi vợ chồng Ngâu. Mỗi năm, đôi vợ chồng chỉ được gặp nhau có một
lần vào ngày mồng 09 tháng 9 âm lịch. Vậy mà, họ vẫn giữ trọn tấm tình thủy
chung son sắt, năm nào họ cũng chờ đợi để chỉ gặp nhau có một lần:
Một giọt mưa thu mấy giọt sầu?
Nước đời tan hợp nghĩ mà đau!
Ví không một bước qua cầu Thước,
Chi để ngàn thu thấm lệ Ngâu?
(Ngâu)
Có khi, đó lại là những lời đầy đau xót, nghẹn ngào, uất hận của người
con gái “kén chồng”:
Chém cha cái thói vô liêm sỉ,
Ai cũng ân tình cũng núi sông !
(Lời con gái kén chồng)
Yêu thương là tình cảm vô cùng đẹp đẽ của con người. Nhưng cũng chính
bởi tình yêu thương mà cũng sinh ra cho người ta bao nhiêu nỗi khổ đau, nhất
là khi phải chia lìa. Yêu thương càng sâu nặng thì khi chia lìa lại càng khổ đau
bấy nhiêu. Năm 1932, ngay sau khi tác phẩm Chơi xuân năm Nhâm Thân được
54
xuất bản, chính quyền thực dân Pháp đã ra lệnh tịch thu, khám nhà và bắt giam
Trần Tuấn Khải cùng với chủ nhà sách Nam Ký. Ông bị bắt giam hơn hai tháng
về tội viết sách “phá rối trị an, xúi dân nổi loạn”. Ra tù, vợ và con nhỏ chết,
lòng ông càng thêm buồn đau, uất hận. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất
(Trích), nỗi lòng nhà thơ lúc phân ly thật đau đớn vô cùng. Chỉ có những ai
từng trải qua cái cảnh ly biệt mới thấy hết được cái nỗi đau đến tái tê cõi lòng
trước cái cảnh:
Lược gẫy, gương tan, người rẽ cầu:
Nơi ăn, chốn ở, biết tìm đâu ?
Hai hàng lụy tiếc nhòa thanh nhỡn,
Một bước chân đưa cách địa cầu.
Chuyện cũ lúc bàn khôn thấy tiếng,
Mảnh hồn khi mộng họa còn nhau.
Đời người thảm nhất cơn ly biệt:
Ngoảnh lại non sông một sắc sầu...
(Lúc phân ly)
Như vậy, những nếp sống thủy chung, ân nghĩa của nhân dân ta đã được
Á Nam thể hiện với thái độ nâng niu và trân trọng. Trong hoàn cảnh đạo đức
xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đang biến đổi sâu sắc, mọi giá trị đạo đức đang
bị lung lay, thậm chí bị đảo lộn, tư tưởng ấy của ông đã góp phần vun đắp cho
nền đạo đức truyền thống của dân tộc ta.
Ngoài những bài thơ Đường luật kể trên, còn có 63 bài viết ở thể loại
khác có nội dung yêu nước như: Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất
(Trích), có 20 bài; Văn xuôi, có 02 bài: Hồn lụy, Trinh tình tân thuyết; Văn lục
bát, có 01 bài: Đề ảnh năm người; Thi ca liên hành, có 03 bài: Duyệt văn hữu
cảm, Xuân nữ thán, Phong dao; Câu hát vặt, có 03 bài: Tiễn anh khóa xuống
tàu, Gánh nước đêm, Đêm mưa; Văn tế, có 01 bài: Chiêu hồn; Ngâm khúc, có
55
02 bài: Lâm Giang khúc, Xuân tứ; Hát xẩm, có 04 bài: Anh đồ, Bác xẩm, Khách
Bình Khang, Mong chồng; Ca lý mới, có 04 bài: Hành vân, Nam ai, Cổ bản,
Tứ đại cảnh; Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), có 16 bài;
Văn lục bát, có 03 bài: Đêm thu, Phong dao, Ngồi buồn; Câu hát vặt, có 02 bài:
Mong anh khóa, Con hoàng oanh; Hát ả đào, có 03 bài: Đề quyển “Duyên nợ
phù sinh”, Đêm đi tìm bạn, Chơi xuân; Từ khúc, có 02 bài: Trầm hoa khúc,
Cuồng ngâm; Ca lý mới, có 2 bài: Hành vân, Nam bằng; Văn xuôi, có 01 bài:
Một bức thư; Hát xẩm, có 03 bài: Anh xẩm, Bạc giấy, Nhắn khách sông Hương;
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhất (Trích), có 07 bài; Văn lục bát, có 01
bài: Cùng bạn chơi núi Sài Sơn; Câu hát vặt, có 02 bài: Gửi thư cho anh khóa,
Nỗi chị khuyên em; Lục bát, có 01 bài: Phong dao; Song thất lục bát, có 01 bài:
Hai chữ nước nhà; Hát ả đào, có 02 bài: Cái thuyền, Mắng bù nhìn; tập Bút
quan hoài, quyển thứ nhì (Trích), có 16 bài; Văn lục bát, có 03 bài: Hỡi cô bán
nước, Đề ảnh hai người, Khuyên gái nhà nông; Câu hát vặt, có 02 bài: Lên núi
Ba Vì, Mong chồng; Song thất lục bát, có 02 bài: Nga quốc tam nữ cách mệnh
đề từ, Hồn văn; Hát ả đào, có 04 bài: Phỗng đá, Bên giời gặp bạn, Nhắn xuân,
Hát nói; Văn tế, có 01 bài: Bà Trưng tế chồng; Ca lý mới, có 03 bài: Nhớ bạn,
Non sông gánh nặng, Nạn hồng thủy; Lục bát, có 01 bài: Phong dao; Trong tập
Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), có 19 bài; Hát ả đào, có 02 bài: Non nước
trách, Gặp khách thương tâm; Thất ngôn xen lục bát, có 04 bài: Khi tỉnh giấc,
Đi thuyền bể, Đêm không ngủ, Ngục trung vịnh; Thất ngôn xen lục ngôn, có 01
bài: Qua cảnh Huế; Tự do, có 08 bài: Đêm nghe người hàng xóm khóc, Chim
bằng lại bay, Tráng sĩ hành, Ta nhớ, Thấy xuân mong bạn, Mong chồng, Anh
đi đâu, Trời mưa hỏi cô hàng gánh; Lục bát, có 04 bài: Xem hoa nhớ người,
Bức thư đêm, Gửi bạn ở Huế, Phong dao; Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhì
(Trích), có 01 bài viết ở thể thất ngôn tứ tuyệt trường thiên: Con dơi.
Nhìn chung lại, Trần Tuấn Khải là người có tư tưởng thức thời, biết vượt
thoát quá khứ nặng nề, tù túng để sống thực tế với đất nước, và tìm cách thể
56
hiện lòng yêu nước. Ông còn truyền bá tư tưởng thiết tha vận nước, thiết tha
với độc lập dân tộc. Ông đã giữ vững ngòi bút chân chính trên mặt trận văn hóa
dân tộc.
Nhiều đánh giá xác đáng về giá trị thơ Trần Tuấn Khải đã được đưa ra.
Đương thời có các tác phẩm Việt Nam thi nhân tiền chiến (Sống Mới – Sài
Gòn, 1969) nhận xét: “Những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng không
ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí ngùn ngụt,
một nghĩa vụ thiết yếu của con người, đúng với danh nghĩa “làm người”. Từ
điển văn học (Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) nói tới cái thần thái, chủ yếu là
nếp sống, cũng là đạo đức truyền thống của dân tộc: “Thơ Trần Tuấn Khải
thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng
chủng, lòng thủy chung, nhân ái”. Có sự cắt nghĩa, sự yêu thích, tán thưởng của
quần chúng: “Và thơ ông đều có ngụ ý nhắc nhở về non sông đất nước. Đấy là
cái nhìn ưu thời mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ
biến của nhiều người lúc bấy giờ thiết tha với độc lập dân tộc…”.
Như vậy, có thể thấy, đã có một sự chuyển hướng thống nhất và sâu sắc
trong tư tưởng, trong nhận thức cũng như trong quan niệm về tinh thần yêu
nước của các chí sĩ cách mạng hồi nửa đầu thế kỷ XX. Cho dù đó là thân hào,
sĩ phu, hay chiến sĩ cách mạng thì cũng đều xuất phát từ tinh thần quyết chiến,
quyết thắng, quyết đấu tranh để gìn giữ và bảo vệ đất nước, bảo vệ quyền làm
chủ đất nước của chính mình. Những bài thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX với đề tài yêu nước vì thế có sức lay động mãi không thôi.
2.3. Cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
Cảm hứng thế sự đời tư vốn là cảm hứng quen thuộc, phổ biến trong tiến
trình phát triển của thơ ca Việt Nam nói chung. Đặc biệt, ở vào những giai đoạn
mà lịch sử xã hội có nhiều biến động (nạn ngoại xâm, thay đổi triều chính, cơ cấu,
thể chế....), nó còn được coi là cảm hứng trung tâm của thời đại. Đối với thể thơ
57
Đường luật, nội dung này còn gần như là sở trường, khiến các tác giả nhờ nó mà
đạt được những kỳ tích trong sáng tác.
Riêng với cảm hứng thế sự đời tư, tuy nó không đủ sức để hấp dẫn những
thể loại mới, nhưng nó vẫn có một sức hấp dẫn riêng đối với một thể loại mà ở
nửa đầu thế kỷ XX này cũng đang có nguy cơ bị đào thải - đó là thể thơ Đường
luật. Sự kết hợp “ăn ý” này đã giúp thơ Đường luật làm tốt nhiệm vụ lịch sử “ghi
lại những vui buồn thời đại” mà các thể loại khác không làm được.
Với bối cảnh lúc bấy giờ, xã hội đang có nhiều biến động dữ dội đã tác động
không nhỏ vào thế giới quan của các nhà thơ, mà ngay việc người sáng tác nói
chung đa phần bị thành thị hoá, cũng đã tạo cho họ một cảm giác không thể ngồi
im, ít hoạt động như các nhà Nho thời trung đại. Trái lại, họ phải sống sôi động
(hay chính xác là bị cuốn theo cái vòng quay đầy sôi động ấy). Và khi, những cái
xấu xa của xã hội tư sản mà thực dân mang vào cuộc sống Việt Nam, đang hàng
ngày hàng giờ trở nên quen thuộc, “bình thường hóa” trong từng căn nhà ngõ phố,
thì nhiều người đã hoang mang đổ vỡ trước những lời giáo huấn về đạo lý cương
thường. Đã đến lúc họ không thể thoả mãn với những giáo huấn ấy. Họ muốn hiểu
rõ, hiểu kỹ hơn cuộc sống mới mẻ mà họ đang sống. Sự đổi trắng thay đen, sự đảo
lộn tốt xấu, đã gây cho họ cảm giác tò mò, thoả mãn, hơn là đúc kết, chiêm nghiệm.
Họ bắt đầu miêu tả hiện thực và đánh giá hiện thực bằng cái nhìn chủ quan, hơn
là khái quát hiện thực bằng con mắt khách quan với hàng loạt những quan niệm
có sẵn.
Cho nên, nếm trải những cái có thật, đúc rút những bài học quý báu từ những
điều mắt thấy tai nghe về cuộc sống, là hứng thú khá phổ biến ở nhiều sáng tác.
Vì thế, nhìn lại lịch sử thơ Đường luật Việt Nam, chưa bao giờ thơ với cảm hứng
thế sự đời tư lại nhiều, và bao quát một nội dung đa dạng đến thế.
Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), có 11 bài viết bằng
cảm hứng thế sự đời tư. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, quan hệ tư bản phát triển
58
mạnh mẽ trên đất nước ta khiến đồng tiền trở thành kẻ lật lọng, “đổi trắng thay
đen”. Chính vì vậy, bài thơ như lời kết tội thói bạc bẽo của đồng tiền:
Duyên nợ lăng nhăng mãi với đời,
Sao em bạc thế ? Hỡi em ơi !
(Trách đồng bạc)
Tâm sự này của ông trải dài qua nhiều tác phẩm, có thể kể đến như: Gặp
bạn cũ; Thương người sầu; Nhớ ai; Đời người; Nhớ cô hàng quạt... Theo như
lời của Xuân Diệu, “Cô hàng quạt ở chợ Đồng Xuân Hà Nội là cố nhân của
Trần Tuấn Khải ở Nam Định; hai người đã viết thư cho nhau, thề hẹn, phong
kín, bởi ngày xưa thầm lậu ra thì rất nguy hiểm, ấy thế mà có vẻ vẫn phao tin
gió đến nỗi rẽ thúy chia uyên ! Hai bên khắc cốt mối tình, lúc xa nhau, ruột
gan trăm đoạn đứt ! Nóng lạnh là trách thói đời, chứ đâu có trách người yêu.
Thế thủ vĩ ngâm, câu cuối nhắc lại câu đầu, nhấn mạnh nỗi nhớ” [tr 24].
Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất (Trích), Á Nam đã bộc lộ sâu
sắc giọng điệu mỉa mai, chua xót trước cảnh thế sự đổi thay, trắng đen lẫn lộn:
Cửa thiền đủng đỉnh vài cô thõa,
Đám hát ra vào mấy bác sư.
Văn kém hơi đồng không vẻ thú;
Chuyện thò ngón bạc lắm người ưa.
(Cảm hoài)
Có khi, giọng thơ của ông cũng thật hóm hỉnh. Nó tựa như một liều thuốc
giúp Á Nam giải sầu, cho vơi đi nỗi lòng căm giận. Khi ông Để râu thì:
Mẹ mày chắc cũng không ghen nữa,
Tớ đã râu ria đứng đắn rồi.
(Để râu)
Thế nhưng, khi Á Nam Cạo râu thì lại khác:
59
Cũng tưởng ngồi buồn để vuốt chơi,
Tước giời trọng đãi há riêng ai !
Dè đâu các chị hằng nga ghét,
Bất nhược đem mà cạo quách thôi.
(Cạo râu)
Trong tập Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhì (Trích), Á Nam viết hai bài
thơ về Đền vua Hùng Vương. Thật đúng như thi hào Nguyễn Du từng nhận xét:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đất nước bị giặc đô hộ, nhân dân sống
kiếp đời nô lệ lầm than, xã hội thì đen bạc, đổi thay, khi ấy, Đền Hùng vốn là
chốn trang nghiêm thì cũng trở nên u uất biết bao:
Phảng phất xuân đưa ngọn khói trầm,
Miếu lăng ai vẽ cảnh thương tâm !
(Đề đền Hùng Vương)
Và đây là lời nhắn nhủ về cội nguồn con Lạc cháu Hồng với bao tự hào:
Anh em Nam Việt ai đâu đấy !
Nhớ tổ vương đây kẻo nữa lầm.
(Họa nguyên vận bài thơ trên)
Và hình ảnh của một Thăng Long “ngàn năn hiến” nay cũng chỉ còn là:
Gươm báu mất tăm, trâu cũng lặn.
Gánh tình ai sẻ với non sông !
(Thăng Long hoài cổ)
Còn đây là câu chuyện Hà thành:
Non nước riêng thương đàn mặt phấn,
Bên lầu còn hát khúc Nam ai !
(Chuyện Hà thành)
60
Có khi, Á Nam lại mượn tâm sự của con ĩnh ương để nói lên tâm của chính
mình:
Chẳng hay mình oán khách trên đời ?
Mấy vạn nghìn muôn ức triệu người.
Nô nức đua nhau danh với lợi,
Tấm lòng trung nghĩa nào có ai ?
(Hỏi ĩnh ương)
Trình Xuyên là một trong số những người bạn thân thiết của Á Nam. Trình
xuyên ít tuổi, chưa có vợ con. Trên thì còn bố mẹ, dưới lại đông anh em, trước
cũng phong trần lạc phách, sau đỗ thông ngôn rồi làm ở phủ Thống sứ Hà Nội,
được mấy năm, sau đổi đi Quảng Yên rồi mất ở đó. Trong bài Khóc bạn Trình
Xuyên, ông đã bộc lộ nỗi niềm chua cay của mình trước thời thế:
Chẳng hay anh giận dân tộc này ?
Yếu hèn ngu ngược nhiều đắng cay.
Tấc lưỡi kinh luân khôn hiệu nghiệm.
Mà toan vượt biển qua Âu tây ?
(Khóc bạn Trình Xuyên)
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt trường thiên còn có các bài khác như: Tống vịnh
bộ tiểu thuyết “Gương bể dâu”, Mưa mãi, Qua nhà giám, Hội Phủ Chanh, Con
cóc vàng, Buồn, Đàn bầu. Mỗi bài lại chứa đựng những nỗi niềm riêng. Nỗi
niềm thời thế ở ông có nặng nề bao nhiêu thì cũng khó lòng được giải tỏa. Bởi
vậy nỗi đau dồn nén trong ông thành một bệnh. Trong bài Bệnh trung tác (Bút
quan hoài), Á Nam viết:
Nóng lạnh xoay chi lắm nỗi phiền ?
Luống thân hồ hải cảm bao phen !
Mắt lòe thế sự trông nhường chán,
61
Óc choáng nhân tình nghĩ chẳng yên.
(Bệnh trung tác)
Nỗi niềm không những không được giải tỏa, mà dường như, mỗi lúc nó
càng đè nặng tâm can Á Nam:
Tâm sự nóng ran lò lửa bốc,
Nhân tình lạnh ngắt hạt mưa tuôn.
Càng buồn càng nghĩ càng thêm chán,
Kìa cái đồng hồ tích tắc luôn.
(Buồn)
Trong bài Lại ốm, ta vẫn thấy nỗi niềm đó của Á Nam Trần Tuấn Khải:
Vận chẳng chiều người: khôn cũng dại,
Đời chưa xong việc, chết sao yên ?
(Lại ốm)
Nỗi niềm thời thế ấy còn được Á Nam thể hiện trong một số tác phẩm như:
Trong tập Bút quan hoài, quyển thứ nhì (Trích), có 06 bài. Trong đó, thể thơ thất
ngôn tứ tuyệt trường thiên, có 01 bài: Nông thương vấn đáp; Thể thơ thất ngôn bát
cú, có 05 bài): Chuyện tết, Hựu thể, Nỗi đời, Ông nghè tháng tám, Viếng mả ông
Lê Chất. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhất (Trích), có 10 bài. Trong đó, thể
thơ thất ngôn tứ tuyệt, có 06 bài): Ngẫu đề, Cười, Gặp bạn thôn quê, Qua thành
Sơn, Gửi bạn, Cùng bạn văn học. Trong tập Với sơn hà, quyển thứ nhì (Trích), có
01 bài viết ở thể thơ thất ngôn bát cú: Cảnh chợ nhà.
Có thể thấy, trong thơ Đường luật Á Nam, từ những sự kiện bình thường
diễn ra hàng ngày, đến những sự kiện to tát trong xã hội, tất thảy đều được các
tác giả ghi lại rất rõ nét cụ thể. Nào là cảnh nhiều người chen chúc nhau, bị hấp
dẫn trước những trò chơi giải trí nhốn nháo, ô hợp (Xem hội Tây), đến cảnh
người học trò nghèo đứng trước gương ngậm ngùi vì không có nổi một manh
áo lành để mặc, tự nêu ra lý do để an ủi. Cảnh những nhà Nho hết thời sống
62
nghèo nàn đạm bạc, “chữ nghĩa thánh hiền rao bán chẳng ai mua”, sự nghiệp
công danh không thể trông chờ ở con đường thi cử; Cảnh một em bé mồ côi đi
tu không phải vì những vướng víu đời thường mà vì không có nơi nương tựa....
Nghĩa là, rất nhiều việc lớn nhỏ trước đây vốn ít được nhắc tới, đến lúc này
bỗng xuất hiện và xuất hiện khá phong phú trong thơ Đường luật của Á Nam
và những người cùng thời. Thậm chí có nhiều bài còn gây bất ngờ về tính chân
thật của nó (Xem hội Tây - Á Nam Trần Tuấn Khải; Thơ vịnh tết mười hạng
người – Phan Bội Châu; Tình cảnh đứa đi ở – Nhị Đông Đoàn Tịnh Canh)...
Còn nhiều bài thì gây xúc động vô cùng.
Như vậy, theo cách riêng của mình, Á Nam Trần Tuần Khải đã đưa ra
những đánh giá, bày tỏ những thái độ rất khác nhau về những diễn biến phức tạp
của cuộc sống. Và điều này làm cho thơ Đường luật của ông ở nửa đầu thế kỷ
XX chẳng những phong phú về giọng điệu và cảm hứng, mà về nội dung nó cũng
tạo thành những dòng riêng khá đa dạng. Thơ tự trào, tâm sự đời tư, thói đời,
nhàn tản, đều có dấu ấn riêng. Có lẽ, phải dùng từ “nhan nhản” để nói việc khắp
đây đó trên các mặt báo những tiêu đề như Trò đời, Tự thán, Than sầu, Cảm tác,
Tự trào, Buồn, Tương tư, Không sầu, Phẫn chí, Muốn già ... xuất hiện liên tục
và xuất hiện với số lượng nhiều chưa từng có từ trước đến nay. Nhưng đến với
Trần Tuấn Khải cảm giác này không còn nữa.
* Tiểu kết:
Như vậy, qua nghiên cứu cảm hứng thiên nhiên, cảm hứng yêu nước và
cảm hứng đời tư, thế sự trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải có thể nhận thấy nội
dung thơ Á Nam Trần Tuấn Khải phản ánh một tâm hồn yêu nước, yêu quê
hương đến thắt lại, muốn gắn bó với tình người đến vô cùng. Cũng vì lẽ đó, tuy
mang hình thức của thơ Đường luật và có những nét tiến bộ, mới mẻ do bối
cảnh xã hội nhưng thơ Á Nam Trần Tuấn Khải lại giữ nguyên nét thuần nhất
của người con yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc vốn có.
63
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ, THỂ LOẠI
TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI
3.1. Đặc trưng nghệ thuật thơ Đường luật Việt Nam.
3.1.1. Đặc trưng thể loại.
Khi nghiên cứu đặc điểm về hình thức, nội dung, thi pháp của thể thơ
Đường luật, nhiều người nhận thấy đây là thể loại có tính định hình nghiêm
ngặt (về số câu, số chữ trong câu, luật bằng trắc, cách hợp vần, luật đối và niêm)
hơn bất cứ một thể loại thơ nào khác trong lịch sử thơ ca nhân loại. Tính định
hình này đặc biệt phù hợp để thể hiện những tư tưởng cảm xúc và những quan
niệm vốn hay theo khuôn thước của văn hóa Á Đông thời trung đại. Cho nên
bước sang đầu thế kỷ XX, khi cái tôi cảm xúc của thi nhân trỗi dậy, được giải
phóng để vươn theo hướng tự do thoải mái thì việc chối tiếp tục dùng thể thơ
64
Đường luật hay không trở thành một câu hỏi lớn. Nhiều người, (chủ yếu theo
phong trào thơ Mới) đã gần như chối bỏ thể thơ Đường luật để đến với một lối
thơ tự do, phóng khoáng, không câu nệ cả nội dung và hình thức. Tuy nhiên,
bên cạnh một phong trào rầm rộ và thắng thế như thơ Mới, vẫn còn những cây
bút lặng lẽ khai thác những tầng vỉa khác, những khả năng thích nghi chưa từng
được biết đến của thể loại này. Và họ vẫn thành công. Quách Tấn, Á Nam Trần
Tuấn Khải là những người như thế. Việc làm của họ khiến không chỉ khiến
những nhà thơ theo phái cũ lấy lại được chút tự tin trong sáng tác, mà ngay đến
những ôm trùm của làng thơ Mới cũng phải giật mình đặt câu hỏi: tại sao một
thể thơ có thi luật, thi pháp gò bó, khắt khe cao độ như thế lại có thể thích ứng
với tư tưởng cảm xúc của thời đại mới? Tại sao đúng vào lúc thơ Đường luật
đã bị xem như hết mà, lỗi thời, Quách Tấn vẫn có Mùa cổ điển, Một tấm lòng,
Á Nam Trần Tuần Khải vẫn có Khối tình con I, Khối tình con II thu hút được
bạn đọc? Hình như có một khả năng tiềm ẩn nào đó của thể loai này khiến nó
có sức sống vượt thời gian. Không phải không có lý do khi tìm hiểu thể thơ
Đường luật, Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn chương lỗi lạc của Trung Hoa
bật thốt: “Ôi! Luật thơ Đường chẳng phải là sự cấu tạo tốt đẹp của một thời
mà vốn là tuyệt xướng của ngàn bậc thánh” [tr144 – 51]. Và Will Durant - một
học giả phương Tây trong cuốn sách Lịch sử văn minh Trung Quốc cũng phải
thừa nhận: “Khắp nơi trên thế giới không đâu thấy được một thứ thơ nào so
sánh được với thứ thơ đó về cách diễn tả thanh nhã, tế nhị, về những tình cảm
dịu dàng điều độ, về sự bình dị và cô đọng của một câu ngắn thôi mà bao trùm
được một tư tưởng cân nhắc kỹ lưỡng” [tr 146 – 51].
Cho nên thơ Đường luật đúng là có những đặc trưng riêng không lẫn với
bất kỳ thể loại thơ ca nào khác. Và những nét riêng không lẫn đó được tác giả
Trần Thị Lệ Thanh phát hiện và khái quát thành những nét đặc trưng nghệ thuật
lớn và khẳng định: “Nó là thể thơ tạo nên giá trị kết tinh trong nghệ thuật thơ
thông qua con đường vượt hiểm, ở đây là vượt sự nghiêm ngặt, gò bó trong thi
65
luật, thi pháp mang tính định hình cực đoan, cao độ... Nó cũng là thể thơ có
tính ưu việt nhất trong việc thể hiện một nguyên tắc tối thượng và muôn đời
của nghệ thuật văn chương nói chung, nghệ thuật thơ ca nói riêng là sự súc
tích, cô đúc, lời ít ý nhiều...”. Đặc biệt tác giả còn phát hiện thấy: “khả năng
thích ứng đa dạng của thể thơ Đường luật trong việc thể hiện đời sống cảm xúc
– thẩm mĩ của người làm thơ vốn cũng rất đa dạng” và điều quan trọng tác giả
Trần Thị Lệ Thanh còn chỉ ra: “Thể thơ Đường luật ngoài khả năng trữ tình,
vẫn có khả năng tự sự trào phúng, dĩ nhiên là trong phạm vi khả năng của nó.
Không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, không chỉ thời trung đại mà cả thời
hiện đại, loại hình thơ trào phúng đã kết duyên hơn bất cứ thể thơ nào khác với
thể thơ Đường luật. Ấy là bởi trong thi pháp thơ Đường luật có luật đối đã cung
cấp cho nó phương tiện đối lập tối ưu để gây cười, để lật tẩy cái xấu, cái lố
bịch”.
Như vậy, không thể chỉ xem tính định hình nghiêm ngặt trong thi pháp là
đặc trưng nghệ thuật duy nhất của thể thơ Đường luật mà phải nhìn đặc trưng
nghệ thuật của thi pháp thơ Đường luật trong độ phức tạp, kỳ diệu của nó để từ
đó có cơ sở cho việc nhận thức về khả năng tồn tại của thể thơ Đường luật trong
phạm vi khu vực mà nó đã từng có sức sống phi thường. 3.1.2. Đặc điểm ngôn
ngữ.
Ngôn ngữ thơ ca là các phương tiện ngôn ngữ được dùng trong thơ ca,
mang đặc trưng riêng, thường có sắc thái biểu cảm, có hình ảnh. Trong việc sử
dụng ngôn ngữ thơ ca, thơ Đường luật là thể thơ chịu sự chi phối khắt khe nhất
về thanh âm cũng như bố cục tình ý. Khác với yêu cầu thuần túy về vần trong
thơ lục bát, ngôn ngữ thơ Đường luật đòi hỏi cả niêm, luật, vần đối. Luật thơ
Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc áp dụng cho các chữ thứ 2 - 4 - 6
và 7 trong một câu thơ để xây dựng. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền
hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng. Nếu chữ thứ 2 của
câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu
66
đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và
chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia.
Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay
ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi
"thất luật".
Chính vì những quy định khắt khe này mà khi sáng tác thơ Đường luật,
người làm thơ vừa phải cân nhắc từng chữ một cho đúng luật, lại vừa phải dụng
công làm sao cho chữ thật tinh, thật đắt.
Tìm hiểu thơ Đường luật Việt Nam xét từ góc độ ngôn ngữ, tác giả Trần
Thị Lệ Thanh trong cuốn Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX đã nhận xét: “đối với mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể, hệ thống ngôn ngữ trong
thơ Đường luật Việt Nam lại có sự biến đổi theo nhịp độ phát triển của tư duy
con người. Đặc biệt, ở vào những thời điểm mà hệ thống ngôn ngữ dân tộc
đang có xu hướng thay đổi hoặc đang thay đổi lớn thì ngôn ngữ trong thơ
Đường luật cũng thay đổi theo một cách phong phú và đa dạng”.
Thơ Đường luật Việt Nam xét yếu tố văn tự bao gồm ba bộ phận: thơ
Đường luật chữ Hán, thơ Đường luật chữ Nôm và thơ Đường luật chữ Quốc
ngữ. Chưa nói đến những yếu tố thi pháp, tư tưởng, quan niệm khác nhau giữa
các thời đại, mà chỉ riêng yêu tố văn tự thôi cũng khiến cho thơ Đường luật khi
gắn với các loại văn tự khác nhau có màu sắc khác nhau.
Về thơ Đường luật Hán, chữ Hán ở Việt Nam tuy có nguồn gốc Trung
Quốc nhưng cách sử dụng thì mang đậm tư duy của người Việt, cho nên dù
muốn hay không muốn nó là chữ Hán Việt. Cho nên cho dù cùng một chữ Hán
với một nghĩa cụ thể giống nhau, nhưng khi đọc thì người Hán và người Việt
lại đọc khác nhau. Sự khác biệt này bắt nguồn từ hai hệ thống ngữ âm tiếng
Hán và tiếng Việt hoàn toàn khác nhau. Khác nhau từ hệ thống phụ âm và
nguyên âm đến hệ thống thanh điệu. Ví dụ ta đọc “A di đà Phật” thì họ đọc “A
di khồ phồ”. Sự khác biệt cách đọc và ngữ âm cho thấy chữ Hán Việt Nam là
67
một hiện tượng Việt Nam, một sáng tác Hán Việt, không thể đồng nhất với chữ
Hán nói chung. Như thế, thơ Đường luật chữ Hán của Việt Nam so với thơ
Đường luật Trung Quốc đã là hai phong cách rồi.
Đến thơ Đường luật chữ Nôm thì lại là một sự chuyển đổi hoàn toàn mới
mẻ. Chữ Nôm là một thứ chữ đọc theo âm Việt, nhưng lại được cấu tạo bằng
các yếu tố chữ Hán, trong đó có rất nhiều chữ Hán nguyên mà chữ Nôm chỉ lợi
dụng âm đọc Hán Việt của nó hoặc đọc chệch đi theo âm Việt mà thành. Mặc
dù nhìn hình thức vẫn là chữ Hán. Như vậy nói cho đúng thì chữ Nôm tuy nói
sản phẩm ngôn ngữ đặc sản của Việt Nam nhưng thực ra vẫn là một văn tự Hán
Việt hỗn hợp. Nói cho đúng, nó chưa thể độc lập với chữ Hán.
Sự kết hợp và tồn tại song song ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ Nôm trong
nền văn học trong đại cho chúng ta hai dòng thơ, Đường luật Hán và Đường
luật Nôm vốn mang hai phong cách khác hẳn nhau. Thơ Đường luật Hán trang
trọng cổ kính, thơ Đường luật Nôm phóng khoáng, tự do. Ngay cả đối với một
tác giả thì phong cách thơ Đường luật khi gắn với các loại ngôn ngữ khác nhau
phong cách thơ cũng khác nhau.
Bước sang đầu thế kỷ XX, khi chúng ta có thêm loại văn tự thứ ba (không
kể tiếng Pháp) là chữ quốc ngữ, thơ Đường luật cũng có thêm dòng thơ Đường
luật tiếng Việt. Lúc này dòng đường luật Nôm mờ hẳn. Trên các báo công khai
và bộ phận thơ ca bất hợp pháp, chúng ta thấy nổi lên hai dòng thơ Đường luật
là Đường luật chữ Hán và Đường luật tiếng Việt. Thơ Đường luật Hán chủ yếu
nằm trong bộ phận văn học yêu nước (tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...), thơ Đường luật tiếng Việt
chủ yếu của các tác giả trong bộ phận thơ ca công khai (tiêu biểu Tản Đà, Á
Nam Trần Tuấn Khải, Quách Tấn, Vân Đài, Hằng Phương, Anh Thơ, Mộng
Tuyết...).
Trong khi thơ Đường luật Hán trong bộ phận thơ ca yêu nước tiếp tục có
chỗ đứng với vai trò tuyên truyền nội dung yêu nước thì sự xuất hiện hàng ngàn
68
bài thơ Đường luật tiếng Việt trên các báo công khai lúc đó trong một thời gian
dài chưa thu hút được bạn đọc. Sự kết hợp giữa một thể loại đặc sản của văn
học trung đại là thể thơ Đường luật với một thứ văn tự mới là sản phẩm của văn
hóa phương Tây hiện đại đúng là chưa có sự hòa quyện để cho ra những bài thơ
có chất lượng.
Khác với chữ Hán du nhập bằng con đường xâm lược văn hóa, sự hình
thành chữ quốc ngữ ở Việt Nam gắn với sự truyền giáo của các giáo sĩ phương
Tây. Mặc dù chữ Quốc Ngữ được chế tác từ năm nào, đến nay vẫn chưa rõ. Chỉ
biết rằng, năm 1593 đã có một giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất Quảng
Nam và ở đây ba năm. Ròng rã hơn 30 sau đó, chữ Quốc ngữ đã được hoàn
chỉnh dần, cho đến khi A. de Rhodes xuất bản cuốn từ điển Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum (Rome, 1651) thì chữ Quốc ngữ đã có dạng
hoàn chỉnh. Lúc này mỗi người sẽ dựa theo bản sắc tiếng nói của họ mà ghi âm
tiếng Việt. Những ưu điểm và khuyết điểm của chữ Quốc ngữ là tuỳ ở điểm
này. Đây là điều cần xét đến mỗi khi chúng ta muốn có ý kiến, hoặc là phê bình
một kiểu ghi âm nào mà ta cho là “khác thường”. Chữ viết là những bình đựng
tiếng nói, vậy thì giá trị của những cái bình là ở chỗ nó có chuyên trở được tiếng
nói một cách rõ ràng chính xác hay không.
Như vậy, nếu so sánh chữ Quốc ngữ với các loại chữ được sử dụng để
sáng tác thơ Đường luật Việt Nam có thể thấy chữ Quốc cũng giống như chữ
Nôm, đều là những hệ thống chữ viết vay mượn của người nước ngoài. Tuy
nhiên để thể hiện ý chí sống còn của tinh thần dân tộc về mặt ngôn ngữ văn tự,
người Việt Nam đã dùng chính những nét viết của văn hóa ngoại lai để ghi lại
tiếng nói của dân tộc, dõng dạc nói lên ý chí giống nòi, quyết vươn lên độc
lập. Dù là mượn nét viết của chữ Hán hay của bộ chữ cái La-tinh, thì các hệ
thống chữ viết của ta đều có một điểm giống nhau, đều là hệ thống chữ viết ghi
âm, tức là dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài
69
người. Nguyên tắc của loại chữ viết kí âm là “mỗi âm một kí hiệu”, “nói sao
viết vậy”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa lại “địa vị ngôn ngữ
chính thức của quốc gia” cho tiếng Việt. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh
chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở
Việt Nam. Tuy nhiên trước khi có được điều đó, tình thế ngôn ngữ, tức là thế
tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự cho thấy, hệ thống ngôn ngữ mới này
đang ở trạng thái phôi thai. Việc dùng nó chưa thể nhuyễn càng chưa thể tinh
sảo trong sáng tác thơ Đường luật. Điều này khiến thơ Đường luật tiếng Việt
chưa được đánh giá cao trong bạn đọc.
Khi phân tích hệ thống từ vựng của thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX, tác giả Trần Lệ Thanh đã chỉ ra: “cho dù là cùng sử dụng một lớp từ
(thuần Việt, Hán Việt) giống nhau thì sắc thái của chúng trong hai bộ phận thơ
Đường luật tiếng Hán và thơ Đường luật tiếng Việt cũng không hoàn toàn giống
nhau. Cho nên chúng tôi sẽ vừa quan tâm đến việc phân loại để khu biệt vừa
quan tâm đến việc phát hiện những đặc điểm ngôn ngữ trên các khía cạnh
chung nhất như: Từ vựng, Ngữ âm, Ngữ pháp và đặc biệt là sắc thái tu từ của
những đặc điểm này trong hai bộ phận thơ Đường luật bằng chữ Hán và thơ
Đường luật bằng quốc ngữ”.
Từ những phân tích trên có thể thấy, đối với thơ Đường luật, việc nghiên
cứu phải luôn kết hợp cả hai yếu tố: đặc trưng ngôn ngữ và đặc điểm thể loại.
Hai yếu tố này vốn không thể tách rời nhau như các thể loại thơ ca khác. Hệ
thống ngôn từ trong thơ Đường luật không chỉ đáp ứng nhu cầu thể hiện ý tưởng
của tác giả mà còn phải đáp ứng những yêu cầu về thi pháp thể loại như niêm,
luật, vần, đối. Bên cạnh đó ngoài việc phân tích nghĩa của từng từ còn phải nhìn
nó qua những yêu cầu về thi pháp và quan niệm của tác giả.
3.2. Á Nam Trần Tuấn Khải và nghệ thuật thơ Đường luật.
70
Trong luận văn này chúng tôi cũng sẽ không đi quá sâu và nghiên cứu kỹ
tất cả các cấp độ ngôn từ trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải. Trên
cơ sở thống kê và bằng cái nhìn tổng quát, chúng tôi sẽ chỉ ra mấy điểm khác
biệt cơ bản về từ vựng và từ loại mà vì những điểm này thơ Đường luật Á Nam
có những đặc điểm khác so với thơ Đường luật thời trung đại, mang dấu ấn
riêng của thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX.
Trong văn học trung đại Việt Nam, thơ Đường luật ngay từ buổi đầu vốn
chịu ảnh hưởng bởi hệ thống thi pháp, những quy định cách luật, cả hệ thống
ngôn từ của thơ Đường luật Trung Quốc, nên những từ vựng và từ loại mang
tính khái quát ước lệ (từ thi ca, từ Hán Việt) xuất hiện nhiều hơn. Mặt khác lớp
từ này vốn cũng rất thích hợp để đáp ứng nhu cầu bày tỏ tư tưởng tình cảm
bằng những quan niệm có sẵn, những thuộc tính có sẵn của sự vật hiện tượng
trong một trạng thái cân bằng và ổn định của người Việt Nam thời trung đại.
Cho nên dù là sử dụng nhiều lớp từ này thơ Đường luật cũng không nhạt nhẽo
khuôn sáo. Tuy nhiên càng về sau trong thơ Đường luật lớp từ này càng có xu
hướng giảm nhẹ vì, bộ phận thơ Nôm (trong đó có Nôm Đương luật) thời trung
đại vốn không được thừa nhận là thứ thơ của dòng văn học chính thống. Nó chỉ
được coi là một thứ nôm na mách qué của lớp người bình dân hoặc có tư tưởng
bình dân. Như vậy, sáng tác Nôm Đường luật chính là để phục vụ lớp người
bình dân hoặc người có tư tưởng bình dân thưởng thức. Đó là lý do khiến các
tác giả từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đến Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, đều muốn có những thay đổi (đặc biệt là thay đổi hệ thống
ngôn từ) để thể loại vốn trang trọng đài các của dòng văn học bác học này trở
thành thứ thơ tự nhiên giản dị vừa phù hợp với lối sống lối nghĩ của nhân dân.
3.2.1. Thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải và chữ Quốc ngữ.
Trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, thơ Đường luật đã đạt được
những thành tựu vô cùng rực rỡ và trở thành một bộ phận không thể thiếu của
văn học Việt Nam thời kỳ này. Những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
71
Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… đã để lại những dấu ấn sâu
đậm trong làng thơ Việt Nam. Mỗi nhà thơ, bằng vốn sống, tài năng và hoàn
cảnh khác nhau, qua tác phẩm đã tạo nên cho mình một phong thái riêng. Thật
đúng như TS. Trần Thị Lệ Thanh đã nhận xét trong tác phẩm Đặc điểm thơ
Đường luật Việt Nam đầu thế kỷ XX đến năm 1945: “Không ai quên với Đường
luật – Nguyễn Trãi đã tạo nên một “niềm ưu ái” đầy tâm huyết; Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã tạo nên một phong cách triết gia trầm tĩnh, nhuần nhị; Hồ Xuân
Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng, “thi trung hữu quỷ”; Bà
Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực…”.
[15]
Lại nói về đề tài thiên nhiên. Xưa nay, thiên nhiên là đề tài luôn dành được
nhiều tình cảm của các thi nhân, bởi lẽ, đó là mảnh đất để các nhà thơ gieo mầm
cảm xúc, mượn cảnh để gửi tình. Thật đúng như Nguyễn Du từng nhận xét:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Qua khảo sát và nghiên cứu thiên nhiên trong thơ Đường luật chữ Hán của
Nguyễn Trãi trong Ức Trai thi tập, chúng ta nhận thấy, bằng ngôn ngữ Hán,
Nguyễn Trãi đã vẽ lên những bức tranh thiên nhiên đầy kỳ vĩ, hoành tráng
nhưng cũng đồng thời diễm lệ, thi vị… Trong bài Vãn hứng, ông viết:
Cùng hạng u cư khổ tịch liêu,
Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu.
Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ.
Dã kính nhân hy, thuỷ một kiều.
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.
72
Quy lai độc bẵng lan can toạ,
Nhất phiến băng thiềm quải bích tiêu.
(Vãn hứng - Ức Trai thi tập)
Hai câu “Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu hận diệp tiêu
tiêu” (tạm dịch là: Xưa nay thời gian không cùng như sông chảy xuôi mờ mịt,
Anh hùng mang hận như tiếng gió thổi cây lá nghe vu vu) phải chăng đã có thể
nói lên được tư tưởng chủ đạo trong thơ chữ Hán viết về thiên nhiên của Nguyễn
Trãi. Thật đúng là “tả cảnh mà ngụ tình”. Thiên nhiên mà thi nhân tìm đến luôn
tràn đầy sức sống và thanh cao như chính tâm hồn ông vậy ! Qua đó, hiện lên
khá rõ chân dung của một con người hội tụ đầy đủ không chỉ “khí phách của
dân tộc” mà còn có cả “tinh hoa của thời đại”.
Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.
Là một trí thức Nho học lỗi lạc của Việt Nam ở thế kỉ XVI, ông là một con
người có khí tiết, có nhân cách và trí tuệ hơn người. Trong nhiều bài thơ Nôm,
ông thường viết về thiên nhiên chốn thôn quê với lòng tha thiết của ông đối với
cuộc sống ẩn cư. Viết về thiên nhiên, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không có nhiều
những nét bút hào hứng, hoành tráng như thơ Nguyễn Trãi, mà thơ ông thường
thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó giữa con người và
cảnh vật với nét đẹp giản dị, tươi đẹp, đồng thời “tạo nên một phong cách triết
gia trầm tĩnh, nhuần nhị”:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
73
(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Với niềm yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước, bằng ngôn ngữ
thơ Nôm bình dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nên những lời thơ thật bình dị
mà triết lý vô cùng để từ đó toát lên tấm lòng yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc
đời sâu nặng biết nhường nào !
Vẫn bằng ngôn ngữ thơ Nôm bình dị, đọc thơ Nôm Đường luật của
Nguyễn Khuyến, ta lại thấy ngôn ngữ dân tộc được nhà thơ sử dụng và nâng
lên với những giá trị mà trước đó chưa có được. Bằng bút pháp tả thực, giàu
hình ảnh với chất liệu ngôn ngữ rất đỗi đời thường, thơ Nôm Đường luật
Nguyễn Khuyến mang một hình thức trong trẻo, đẹp đẽ và hiếm có. Đọc thơ
Nôm Đường luật của ông, người đọc dễ dàng nhận thấy những hình ảnh rất gần
gũi và giản dị gắn liền với cuộc sống con người. Điều đó như là một sự kế thừa,
tiếp nối của nghệ thuật thơ Nôm Đường luật Nguyễn Bỉnh Khiêm, đồng thời
cũng chính là sự sáng tạo để từ đó kết tinh lại tạo thành giá trị nghệ thuật rất
riêng trong thơ ca Nguyễn Khuyến mà hiếm nhà thơ cùng thời nào có được.
Đọc chùm thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh của ông, ta sẽ thấy rõ điều đó.
Khác hẳn với Nguyễn Trãi, trong ba bài thơ trên, Nguyễn Khuyến dùng toàn
những lời nói hàng ngày của nhân dân. Ông không sử dụng một danh từ Hán-
Việt nào. Cả ba bài thơ, Nguyễn Khuyến chỉ duy nhất có một lần sử dụng điển
tích "ông Đào" ở cuối bài Thu vịnh. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng rất nhiều
những từ ngữ mà trước đó hiếm dùng trong thi ca như: “lạnh lẽo”, “veo”, “tẻo
teo”, “gợn tí”, “đưa vèo”, “lơ lửng”,“vắng teo” (Thu điếu); “le te”, “lập loè”,
“phất phơ”, “lóng lánh”, “ngắt”, “đỏ hoe”, “say nhè” (Thu ẩm); lơ thơ, hắt
hiu (Thu vịnh)...
Các bài thơ Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến là những bài
thơ chữ Nôm tuyệt tác trứ danh, được người đời truyền tụng cho đến ngày nay.
Bằng sự sáng tạo, cách tân về ngôn ngữ, chỉ với ba bài thơ Nôm Đường luật
vịnh thu cũng đủ để cho các học giả đương thời thấy được khả năng diễn đạt
74
vô cùng giàu đẹp của tiếng Việt, mở đường cho sự đổi mới về ngôn ngữ thi ca
sau này.
Về thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, xét về yếu tố văn tự, được
sáng tác hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ (sau đây gọi là tiếng Việt). Mặc dù từ
năm lên 6 tuổi, Trần Tuấn Khải đã bắt đầu học chữ Hán, năm 12 tuổi đã biết
làm đủ các thể văn thơ bằng chữ Hán, dịch được cả văn chương chữ Hán và
thậm chí tên các tập thơ vẫn mang đậm màu sắc Hán ngữ (Kim sinh lụy, Bút
quan hoài…) nhưng tuyệt nhiên các bài thơ Đường luật của Á Nam đều sáng
tác bằng tiếng Việt. Chúng ta hãy hình dung về bối cảnh của thi đàn Việt Nam
lúc đó, sẽ thấy đúng như nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Thời ấy, ngót bảy mươi
năm về trước, thơ văn mới bằng quốc ngữ hãy còn là ở giai đoạn nhen nhóm
phôi thai”. Rõ ràng năm 1906 của toàn quyền Beau, mới ban bố học quy mới
áp dụng trên toàn cõi Đông Dương. Năm 1915 đời Duy Tân, khoa thi Hương
cuối cùng được tổ chức tại Bắc kỳ. Năm 1918 đời Khải Định, việc thi Hương
ở Trung kỳ chỉ còn được tổ chức tại Nghệ An và Bình Định. Và đến năm 1919,
chế độ khoa cử cũ của nước ta đã được chấm dứt bằng khoa thi Hội cuối cùng
do thực dân Pháp tổ chức. Thời gian này thơ Mới cũng chưa chính thức khởi
sướng, (năm 1932 Phan Khôi trình làng bài Tình già, mở màn cho phong trào
thơ Mới)… Như vậy Á Nam Trần Tuấn Khải đúng là lớp tác giả đầu tiên (cùng
với Tản Đà) là những người vật vã tìm ra và vận dụng tiếng Việt để sáng tác
thơ Đường luật. Mặc dù việc dùng tiếng Việt để sáng tác thơ Đường luật ngoài
Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải còn có hàng trăm tác giả khác đăng trên các
báo công khai hồi đó. Nhưng Tản Đà và Á Nam Trần Tuấn Khải được ghi nhận
là những người có thực tài nên đã ghi dấu ấn trong lòng công chúng ngay từ
những tập thơ đầu tiên này. Không hề đơn giản để tạo nên một dấu ấn riêng
trong cách viết, lối viết và cách khai thác tinh tế thứ ngôn ngữ mới này trong
sáng tác thơ Đường luật. Nhưng ông đã thành công. Trên Trung Bắc Tân Văn
số 1282, Song An Hoàng Ngọc Phách đã nhận xét: “Tự bảo mình rằng lúc thơ
75
phú tàn canh mà còn có thơ này, lời lẽ thanh thoát, ý tứ dồi dào, cảm hoài
những việc vẩn vơ mà cao thượng”. [Xuân Diệu – Á Nam Trần Tuấn Khải].
Làm được việc này Á Nam Trần Tuấn Khải đã chứng tỏ được bản lĩnh của
mình, nhận lãnh lấy cái cái gian truân của người có công khai sơn phá thạch cho
một loại văn tự mới (chữ Quốc ngữ) khi kết hợp với một thể loại cũ (thơ Đường
luật). Cái gian truân này tuy khác với cái gian truân của Quách Tấn khi sáng tác
thơ Đường luật giữa làng thơ Mới, nhưng nó cũng không kém phần cam go bởi
nếu không đem đến một hơi thở mới, hồn cốt mới và đặc biệt là cách vận dựng
sáng tạo ngôn từ mới thì không thể kéo dài được sinh mệnh nghệ thuật của thơ
Đường luật trong bối cảnh nó đang có xu hướng tàn lụi.
3.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp kỳ diệu nhất của con người. Khác với
các loại hình nghệ thuật khác, văn học lấy ngôn từ làm chất liệu. Cho nên, để
hiểu được đặc trưng, tính chất của văn học, chúng ta phải bắt đầu với chất liệu
của nó là ngôn từ nghệ thuật mà cơ sở là các khả năng và phương tiện biểu đạt
của ngôn ngữ với các đơn vị: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các phương thức tu
từ. Chính sự phong phú, đa dạng, đầy tiềm năng của ngôn ngữ đã tạo nên tính
thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học.
Trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng ta thấy ông tập trung,
bộc lộ và phát huy tối đa tinh hoa, những điểm ưu việt của chữ Quốc ngữ trong
sáng tác thơ Đường luật. Không phải là sự sắc sảo và biến hoá khôn lường như
ngôn ngữ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương. Cũng không phải sự trang nhã,
mực thước như ngôn ngữ thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan, Á Nam
Trần Tuấn Khải đã đưa vào thơ Đường luật của mình một lối nói (giống như lối
hát) trong thơ Đường luật. Chúng ta bắt gặp một phong cách ngôn ngữ nhuần
nhị, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động:
Khóm trúc rì rào trận gió đưa,
76
Ba gian nhà lá cảnh quê mùa.
Đàn gà xuống ổ khua trời sáng,
Lũ trẻ đồng về rộn lúc trưa.
Khúc hát bên chuôm con cuốc họa,
Câu cười dưới nguyệt cái ve thưa.
Cơm ngày ba bữa rau, tôm, cá,
Xe ngựa đi về mặc nắng mưa.
(Ở nhà quê)
Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà thơ Nhà thơ Xuân Diệu đã rất tinh
tế khi phát hiện ra ngay cách dùng từ rất mới mẻ và hiện đại của ông: Trong bài
Con ve:
Biết ai mà giãi tấm lòng son,
Thương hại thân ve phận cánh chuồn !
Dầu dãi sương pha cùng tuyết nhuộm,
Ngậm ngùi gió ấp với giăng hôn.
Nghĩ căn thu để dầu cây cỏ,
Mà gọi xuân về với nước non.
Kêu mãi giời kia nay cũng thấu,
Cam công gióng giả mấy thu tròn.
(Con ve)
Câu 3: “Dầu dãi sương pha cùng tuyết nhuộm” là quá thông thường,
nhưng đối với câu 4: “Ngậm ngùi gió ấp với trăng hôn” thì các cụ ta xưa chưa
bao giờ dùng chữ “hôn” như thế. Á Nam thời trẻ đã tiếp xúc với văn hóa phương
Tây và tôi dè rằng sở dĩ đưa được chữ “hôn” vào xuất kỳ bất ý năm 1920 cũng
còn do sự đòi hỏi hữu duyên của các vần”.
Hoặc bài Ngâu có ý thơ độc đáo: “Ngọn nước hững hờ đành rẽ lứa – Mối
tình vơ vẩn vẫn giam nhau”... chữ “vơ vẩn” là một chữ táo bạo, chữ “giam nhau”
77
lại bạo hơn”. Không chỉ phát hiện ra cách dùng từ mới mẻ, Xuân Diệu còn chỉ
ra cách sử dụng ngôn liệu, văn liệu cũng khá riêng của Á Nam: “Thơ Tản Đà
Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau; thơ Á Nam Nhớ cô hàng quạt”.
Có thể nhận diện tính đổi mới trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn
Khải qua một phép thống kê từ vựng và từ loại. Qua thống kê 112 bài thơ
Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải chúng tôi thấy tỷ lệ cứ 3 câu thơ ít nhất
có 1 từ cũ (duy, chốc, mòng, vờ, dơ, quách, há...), 2 từ thi ca (non xanh, nước
biếc, én vút...), và 2 từ Hán Việt (hoàng hoa, điền viên, kim ô...). Nếu so sánh
phép thống kê này khi thực hiện với Nôm Đường luật thời trung đại, từ Nguyễn
Trãi đến Tú Xương thì có thể nhận thấy tỷ lệ các từ mang tính khái quát giảm
mạnh. Chỉ thống kê trong 45 bài thơ Đường luật của Nguyễn Trãi đã có tới 457
từ cổ, 105 từ thi ca, 31 từ Hán Việt. Cũng 45 bài Đường luật Nôm Lê Thánh
Tông có 77 từ cổ, 96 từ thi ca và 24 từ Hán Việt. Nguyễn Công Trứ cũng với 45
bài có 3 từ cổ 22 từ thi ca và 5 từ Hán Việt. Tú Xương trong 45 bài không có
một từ cổ nào, có 18 từ thi ca, 7 từ Hán Việt. Từ phép thống kê này có thể thấy,
sáng tác Nôm Đườngluật của Á Nam Trần Tuấn Khải cũng đi theo xu hướng
phục vụ lớp người bình dân hoặc người có tư tưởng bình dân thưởng thức. Sự
đổi mới này (đặc biệt là thay đổi hệ thống ngôn từ) để thể loại vốn trang trọng
đài các của dòng văn học bác học này trở thành thứ thơ tự nhiên giản dị vừa phù
hợp với lối sống lối nghĩ của nhân dân. Dòng thơ mang âm hưởng của Đường
thi nhưng lại được thổi hồn bằng ngôn ngữ bình dân, mộc mạc, không những dễ
thuộc, dễ nhớ lại hồn hậu đến không ngờ.
Không chỉ là việc khám phá những ý nghĩa mới cho lớp ngôn từ cũ, Á
Nam Trần Tuấn Khải còn mạnh dạn đưa vào thơ Đường luật bằng tiếng Việt
một số từ mượn, từ nhại, từ lóng như “xăng”, "giang san"; "doanh hoàn"; "giời
tây"; "dăm"… Giống như Tản Đà, Vân Đài, Á Nam, Quách Tấn, Đồ Phồn,
Phạm Hạnh, Đỗ Huy Nhiệm… trong việc mang đến những khả năng kết hợp
mới cho ngôn từ khiến nó trở nên giàu hình tượng, giàu cảm xúc. Hãy đọc
78
những bài như: Lên chợ giời, Chơi thành cổ Loa của Á Nam… ta sẽ thấy, tuy
do thể thức gò bó, ngôn ngữ thơ Đường luật dẫu ảnh hưởng bởi thơ Pháp cũng
không thể nhuần nhị, phong phú và linh hoạt bằng ngôn ngữ thơ tự do. Thế mà,
có lẽ ở vào thời điểm mà mọi thứ (tư tưởng, tình cảm) đều không buộc phải
theo những mô hình có sẵn, cái chuẩn có sẵn thì sự pha trộn các ngôn từ Đông
và Tây đã không giữ nổi thơ Đường luật trong những cách nói cách nghĩ phổ
biến nữa. Vì thế, hệ thống từ vựng có xu hướng bung ra một cách thoải mái. Có
khá nhiều cách dùng từ hình như chưa hề xuất hiện trong thơ Đường luật thời
trung đại.
Chợ trần đi mãi chán chân rồi,
Ta thử lên xem cảnh chợ giời.
Điếm cỏ hàng cây man mác rẫy,
Dì găng chị gió nhởn nhơ chơi.
Muốn mua mấy cái không tìm thấy,
Toan hỏi dăm câu nọ giả nhời.
Lò Tạo bán buôn hay thật nhỉ !
Mối hàng danh lợi để chờ ai ?
(Lên chợ giời)
Tác giả Trần Thị Lệ Thanh đã giải thích khi chỉ ra đặc điểm chung của thơ
Đường luật nửa đầu thế kỷ XX: “Thực ra những từ nhại, từ lóng và từ Pháp ngữ
đều không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thơ ca Việt Nam. Vào cuối thế kỷ
XIX Tú Xương với những bài như Không học vần Tây, Cô Tây đi tu đã sử dụng
Pháp ngữ trong thơ Đường luật [40]. Cho nên một người sớm được tiếp xúc với
văn hóa phương Tây như Á Nam Trần Tuấn Khải việc trong sáng tác xuất hiện
nhiều những từ ngữ đậm chất văn hóa phương Tây cũng là điều dễ hiểu. Thử đọc
bài Nhớ ai (Duyên nợ phù sinh, quyển thứ nhất):
79
Vơ vẩn nằm buồn nghĩ nhớ ai !
Nhớ ai xa cách một phương trời.
Bóng trăng như vẽ tình non nước,
Trận gió chưa phai tiếng nói cười.
Lưng thúng giang san vai gánh lẻ,
Mười năm nam bắc dạ sầu đôi.
Ai ơi! Sao chẳng tìm nhau tá ?
Mà đỡ cho nhau gánh nợ đời.
(Nhớ ai)
Câu thơ “Lưng thúng giang san vai gánh lẻ” là một câu thông thường,
nhưng đối với câu “Mười năm nam bắc dạ sầu đôi” thì ba chữ “dạ sầu đôi”
được dùng thật sáng tạo và hay.
Bên cạnh những cố gắng trong việc làm giàu thêm vốn từ cho thơ Đường
luật, còn phải kể đến những đóng góp không nhỏ Á Nam trong việc mang đến
những khả năng kết hợp mới cho ngôn từ khiến nó trở nên giàu hình tượng, giàu
cảm xúc. Đọc những bài như Nhớ ai, Đi tàu thủy qua chơi núi Ngọc, Mai nở dưới
trăng …. chúng ta sẽ thấy, tuy do thể thức gò bó, nhưng cách dùng từ có vẻ như
đang bung ra một cách thoải mái hơn. Chúng ta hệ thống từ vựng , có khá nhiều
cách dùng từ hình như chưa hề xuất hiện trong thơ Đường luật thời trung đại như
“hớn hở”, “thẩn thơ”, “vơ vẩn”, “tê tái”…
Suốt 70 năm làm thơ và viết văn, nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đã hoàn
tất nhiều tác phẩm bằng sự trăn trở của một ngòi bút đầy trách nhiệm. Đặc biệt
trong việc khai thác và sử dụng từ loại. Ông không bao giờ đặt bút dễ dãi khi
có một chữ nào đó chưa tinh hoặc không thể phù hợp trong bài thơ. Ông đã bỏ
ra rất nhiều thời gian để nghiên cứu về việc sáng tác thơ Đường luật. Trong
nhiều cuốn sách ông đã bàn luận kỹ về thơ Đường luật cổ kim đông tây. Ông
luôn luôn tự phân tích cách dùng từ của mình một cách nghiêm ngặt. Khảo
sát 112 bài thơ Đường luật của Á Nam, tuy không nhìn đặc điểm từ loại qua
80
những “trường”, những “hệ thống” mang đầy tính quan niệm, nhưng xét kỹ sắc
thái biểu hiện của từng loại từ trong các bộ phận thơ Đường luật , chúng tôi
thấy cũng có những thay đổi đáng kể.
Trong chương trước chúng tôi đã khẳng định, về nội dung, thơ Đường
luật Á Nam Trần Tuấn Khải là thơ hướng tới phản ánh hết thảy những biểu hiện
của cuộc sống trong trạng thái luôn luôn biến động không ngừng. Cho nên về
ngôn từ tỷ lệ động từ và tính từ có xu hướng cao hơn các từ loại khác. Đây cũng
là chủ ý của Á Nam vì ông muốn gia tăng tính từ trong câu thơ để nó trở nên
gợi cảm hơn, phù hợp với những cảm xúc đang tuôn trào của con người đang
bị cuốn đi trong vòng quay sôi động của cuộc sống. Trong 112 bài thơ Đường
luật của Á Nam có tới 211 lần dùng động từ, 256 lần dùng tính từ, các từ loại
khác chưa tới 100. Điều này cho thấy việc sử dụng từ loại của Á Nam đã có
phần khác biệt so với thơ trung đại. Lý do có lẽ vì con người trung đại theo
quan niệm con người vũ trụ tồn tại trong thế giới hòa đồng và tĩnh lặng. Còn
con người ở buổi mưa Âu gió Á Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ XX là con người
xã hội, vật lộn với mưu sinh đời thường cho nên sống động.
Nô nức đua nhau hội với hè,
Văn minh Nam Việt tiến mau ghê !
Nhảy đầm ăn tiệc ông Tây sướng,
Liếm chảo, leo đu, đứa trẻ mê…
(Xem hội Tây)
Bên cạnh đó, Á Nam cũng là người sống giàu nội tâm, cho nên nếu để ý
kỹ sẽ thấy các động từ ông dùng đều là những động từ chỉ hoạt động tâm thức
của tình cảm và tư duy. Chẳng hạn như:
Vơ vẩn ai xui đến chốn này ?
Sài sơn phong cảnh tức là đây.
Lối chân tạo hóa in trong động
81
Buổi chợ kiền khôn họp dưới mây
Hòn đá ngậm ngùi xa đất bắc,
Bóng non ngơ ngẩn lặng giời tây.
Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ ?
Cửa đọng rêu chen giếng nước đầy…
(Chơi núi Ngọc)
Có thể thấy, kể cả khi cùng dùng một từ loại giống nhau thì việc khai thác
nó cũng hướng tới những sắc thái, ý nghĩa khác. Cho nên ngoài chức năng ngữ
pháp, mỗi loại từ đều có những khả năng riêng của nó. Nhờ đặc điểm này tiếng
Việt của chúng ta vô cùng uyển chuyển mà các các nhà văn thì tha hồ trổ tài
dùng chữ. Vì thế không thể đánh giá giọng điệu thơ qua một cái nhìn chung đối
với cả hệ thống (thực từ hoặc hư từ), mà phải tách riêng qua những sắc thái của
từng loại. Chẳng hạn cũng là động từ lại biểu hiện những cung bậc tình cảm
khác nhau, "thương" nhưng lại không phải "thương cảm", "thương xót" mà
ngầm mang những lớp nghĩa sâu xa, thế sự.
Ới hỡi thương ôi cái quạt manh!
Cùng ta dan díu xiết bao tình?
Mảnh tiên khép mở lòng riêng nặng,
Vầng nguyệt chia phôi phận mỏng tanh.
Gió hạ bao phen ơn phổ cứu,
Xương tàn còn lại chút phong thanh.
Tấm lòng viêm nhiệt cùng ai giãi,
Nghe tiếng quyên kêu luống giật mình.
(Khóc cái quạt)
Có lẽ từ lâu nhiều người khi xem xét phương diện từ loại của ngôn ngữ
thơ, thường lấy thực từ và hư từ làm tiêu chí để thống kê và đưa ra những nhận
82
xét đánh giá đặc điểm từ loại của các tác giả. Theo đó cũng thấy thơ Đường
luật Á Nam đã không bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi quan niệm của các bậc tiền
bối (cả Trung Quốc và Việt Nam). Cùng dùng thực từ, nhưng không phải loại
thực từ nào họ cũng làm cho “câu mạnh” mà “ý giản”, ngược lại cùng dùng hư
từ nhưng không phải loại hư từ nào họ cũng khiến bài thơ có “ý phồn” mà “lời
yếu”.
Điều này thực ra không có gì là lạ, bởi thực chất việc phân chia từ loại chủ
yếu dựa vào mục đích và bản chất ngữ pháp của từ chứ không phải là ngữ nghĩa
hay sắc thái mà từ biểu hiện. Cho nên cùng là thực từ, đều có khả năng làm
thành tố chính trong cấu trúc câu, nhưng về sắc thái ý nghĩa, tính từ thì dùng để
nói rõ tính chất, hình thái, số lượng… của người hay sự vật; động từ nói chung
dùng để chỉ hành động; danh từ dùng chỉ người sự vật; số từ thì biểu thị số
lượng và số thứ tự; đại từ lại dùng để thay thế các danh từ không tiện lặp lại
hay không thể nói ra…
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa,
Trải bao gió táp với sương sa.
Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc,
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh,
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa.
Hưng vong biết chửa người kim cổ ?
Tiếng quốc năm canh bóng nguyệt tà.
(Chơi thành Cổ Loa)
Nước đời xấu đẹp đã từng quen,
Khuôn xếp vuông tròn phó tự nhiên.
Một mảnh lòng trong chưa chút gợn,
83
Mặc người đổi trắng với thay đen.
(Cái gương)
Á Nam Trần Tuấn Khải thường sử dụng những tính từ chỉ trạng thái, tức
là những thuộc tính có ý nghĩa tạm thời, dễ thay đổi để miêu tả con người và
sự vật như từ "to lớn"; "gan lỳ"; "trợn mắt"...
Quê quán nơi đâu? Tính tự gì?
Nhác trông to lớn bộ gan lỳ
Khoanh tay chống kiếm coi ai đó?
Trợn mắt trông đời biết sự chi?
Đã trót vụng về tay tế độ,
Lại còn kiếm chác khách từ bi,
Cửa không đâu có con người thế?
Thế cũng râu ria mũ áo thì?
(Vịnh ông hộ pháp)
Có thể nhận định, tuy chưa thể nói đến một sự thay đổi đồng bộ, mạnh mẽ
nhưng hệ thống từ ngữ của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải đã duy trì
màu sắc cổ điển của Đường thi vừa mang màu sắc hồn hậu của dòng thơ Việt
Nam hiện đại.
Trong các phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ tiếng Việt mà người làm thơ
có thể vận dụng, khai thác thì thanh điệu là một trong những phương tiện ngữ
âm độc đáo. Có một điểm nữa cần chú ý trong cách sử dụng ngôn ngữ của Á
Nam là sự xắp xếp các tiếng bằng, tiếng trắc trong bài thơ. Đây cũng là một
trong những thay đổi rõ nhất trong hình thức ngữ âm của thơ Đường luật Á
Nam. Tuy hiện tượng này không phải là mới mẻ (Hồ Xuân Hương với Bánh
trôi nước, Bụng làm dạ chịu, Đá ông chồng bà chồng, Đồng tiền hoẻn, Giếng
nước, Hỏi trăng; Nguyễn Khuyến với bài Đêm hè nhờ dùng nhiều thanh trắc
hoặc sử dụng vần trắc trong một bài Đường luật, đã đem đến những giai điệu
84
phong phú mới mẻ). Với thơ Đường luật Á Nam, thanh trắc vốn là hình thức
âm thanh cho phép gây ấn tượng phong phú dồi dào về nhạc điệu hơn thanh
bằng có vẻ không được ông ưa chuộng. Khảo sát tỷ lệ thanh bằng, thanh trắc
trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng tôi thấy, số bài có thanh
trắc nhiều hơn thanh bằng không nhiều (10 bài), trong khi đó số bài có thanh
bằng nhiều hơn thanh trắc lại chiếm tỉ lệ rất lớn (88 bài); một số bài khác có tỉ
lệ thanh bằng và thanh trắc ngang bằng nhau (14 bài). Những bài có thanh trắc
nhiều hơn thanh bằng 1 – 2 âm tiết thì vị trí của những thanh bằng, thanh trắc
cũng không nằm ngoài biệt lệ. Việc khai thác khả năng biểu hiện phong phú
dồi dào ở những cấp độ khác nhau của thanh trắc chỉ được Á Nam vận dụng
với thơ tự do, còn khi trở lại với thơ Đường luật thì hầu hết ông lại trầm tĩnh
trong sự cân đối bằng trắc hài hoà mềm mại.
3.3. Đặc điểm thể loại trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải
Bước sang đầu thế kỷ XX, trước những đổi thay lớn lao của thời đại, trong
đó có đổi thay văn hóa, một số thể loại văn học có xu hướng bị xem là hết mùa
lỗi thời. Thơ Đường luật cũng là một trong những thể loại như vậy. Tuy nhiên
khi nghiên cứu kỹ Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ kỷ XX,
tiến sĩ Trần Thị Lệ Thanh đã đi đến kết luận: “Đúng là ở nửa đầu thế kỷ XX,
khi xã hội thay đổi, môi trường văn hoá thay đổi, văn học Việt Nam chuyển
nhanh vào phạm trù hiện đại quả có làm mất môi trường tồn tại mang tính
truyền thống của thơ Đường luật. Tuy nhiên ở nhiều góc độ khác môi sinh của
thơ Đường luật chưa hòa toàn mất hẳn. Con số hơn 5000 bài thơ Đường luật
của gần 400 tác giả thuộc nhiều bộ phận, nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó
đặc biệt có những tên tuổi lớn như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Hồ Chí Minh, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Trần Huy
Liệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bích Khê, ... là minh chứng
hùng hồn cho sự hiện diện bề thế của thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX”[40].
Kết luận này cho thấy rõ ràng thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX là một hiện
85
tượng có diễn biến và sức sống riêng của nó. Trước sự xuất hiện và kết tinh vẻ
vang của phong trào thơ Mới, thơ Đường luật dù có lúc bị hạ bệ, coi như đã hết
thời, nhưng từng bước, đã được hưởng lộc của thời gian. Nhiều tác giả đã làm
nên kỳ tích, kéo dài sinh mệnh của nó thậm chí ngay cả khi phong trào thơ Mới
đang phát triển rầm rộ.
Thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải được sáng tác chủ yếu ở thời kỳ
thơ Mới chưa chính thức tuyên chiến. Trong các tập Duyên nợ phù sinh I
(1921), Duyên nợ phù sinh II (1922), Bút quan hoài I (1924), Hồn tự lập I
(1924), Bút quan hoài II (1927), Hồn tự lập II (1927) ông đã sáng tác tới 79 bài
Đường luật. Sau khi bài Tình già của Phan Khôi chính thức công bố, Á Nam
Trần Tuấn Khải vẫn tiếp tục cho ra mắt hai tập thơ: Với sơn hà I (1936), Với
sơn hà II (1949) trong đó còn 33 bài thơ Đường luật. Mặc dù độc giả từ Bắc
chí Nam đều ghi nhận và đánh giá cao những bài hát nói của Á Nam vì nó có
sức lay động mạnh mẽ tinh thần yêu nước của dân tộc, nhưng xét từ góc độ loại
thể, có thể thấy Á Nam Trần Tuấn Khải là người khá ưu tiên thể thơ Đường
luật. Thống kê trong 315 tác phẩm được đăng hoặc trích đăng trong các tập thơ
văn đã xuất bản của Á Nam, thấy thơ Đường luật được sử dụng nhiều nhất (112
bài), thứ đến là phong dao (105), các thể loại khác ít hơn (ca lý mới 15, hát nói
29, lục bát 12, xẩm 11, lục bát 14, văn tế, ngâm khúc, cung oán, văn xuôi, thi
ca liên hành, từ khúc, văn xuôi 17 tác phẩm).
Sự nhiều ít các tác phẩm ở mỗi thể loại đôi khi do quan niệm của mỗi tác
giả. Nhà thơ Tú Mỡ khi nói về điều này đã khẳng định: “Khi đã chộp được đề
tài rồi, tôi đặt đầu đề cho hay, . . Đặt đầu đề rồi tôi nghĩ đến việc dùng thể thơ
nào để diễn tả cho thích hợp. . . Kể chuyện thì nên dùng lục bát. . . Có tính chất
bình luận thời sự thì nên dùng thể Song thất lục bát, hoặc thể Thất thất biến thể
(hát nói). . . Có tính chất báo cáo thời sự thì nên dùng thể Vè bốn chữ. . . Để
vịnh nhân vật thì nên dùng thể Bát cú Đường luật. . . Muốn linh hoạt hơn thì
dùng Ngũ ngôn trường hiên. . . Dí dỏm thì nên dùng lối thơ Yết hậu. . .”[28].
86
Đành rằng không phải ai cũng có sự lựa chọn như nhà thơ Tú Mỡ, nhưng
đúng là ở nửa đầu thế kỷ XX, thơ Đường luật đã chịu sự đào thải khá khắc
nghiệt của một số đề tài mà ở đó nó không phát huy được tính chất “uẩn súc,
trang nhã” của mình. Những cố gắng của các trí thức trẻ, trong việc thể hiện
cái mới trong Đường luật bằng việc thay đổi nội dung, tuy có thể khai thác thêm
khả năng tiềm ẩn của thể loại, nhưng ngược lại cũng có thể làm chìm nó, trước
hiệu quả của các thể loại khác.
Việc thơ Đường luật tồn tại với số lượng khổng lồ, nhưng nội dung lại có
xu thế thu hẹp lại ở một số bộ phận, đã đặt thể loại này trước nguy cơ khiến bạn
đọc cảm thấy một sự lặp lại nhàm chán. Và tình thế đã ấy bắt buộc các tác giả
của dòng thơ này phải thổi vào những đề tài quen thuộc một nội dung mới, một
quan niệm nghệ thuật mới. Tất nhiên về điều này thì không phải ai cũng làm
được.
Đối với Á Nam Trần Tuấn Khải, ngoài những bài phong dao bốn câu, ông
có vẻ không sở trường trong việc khai thác sự hàm súc ít lời nhiều ý của thơ
Đường luật. Trong 112 bài thơ Đường luật của Á Nam, chỉ có 12 bài tứ tuyệt
còn lại đều là bát cú. Điểm này có vẻ khác với Phan Bội Châu (trong 572 bài
thơ Nôm Đường luật của Phan Bội Châu có 389 bài thất ngôn bát cú, còn lại có
tới 183 bài thất ngôn tứ tuyệt), Hồ Chí Minh (hầu như chỉ dùng tứ tuyệt). Lý
giải nội dung này, nhiều người cho rằng Á Nam ngay cả khi sáng tác thơ Đường
luật vẫn bị ảnh hưởng bởi lối hát nói, nên bài thơ thường có xu hướng kéo dài.
Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, tác giả Nguyễn Tân Long cũng khẳng định:
“Thơ Trần Tuấn Khải không chứa đựng triết lý bí hiểm, tư tưởng cao siêu, nó
giản dị như một chân tình, nó rỡ ràng như sự phơi bày trọn vẹn cả tấc lòng.
Người đọc dễ dàng đạt ý và rung động qua trực cảm. Á Nam đã cấu tạo thơ
mình bằng nhạc điệu quen thuộc của dân tộc, cho nên sức truyền cảm rất bén
nhậy”.
87
Trong các phát ngôn của mình cũng như những lời tự vấn, Á Nam không
bày tỏ quan điểm này, nhưng đúng là đọc thơ Đường luật của ông, chúng ta cứ
thấy man mác một âm hưởng dân gian, đậm đà, quen thuộc chứ không khúc
triết, khó hiểu như thơ Đường luật vốn có. Chẳng hạn những câu như:
Mấy khoảnh vườn con, mấy khoảnh ao,
Nào nơi giồng chuối, chốn trồng cau.
Xóm làng đi lại vui trưa sớm,
Khách khứa ra vào sẵn cá rau.
Hóng gió trên cây khi hái quả,
Xem trăng dưới nước lúc buông câu.
Cơn buồn dắt trẻ thăm vườn cảnh,
Chẳng lụy chi ai, cũng chẳng cầu.
(Thú lâm tuyền)
Người đọc thấy cảnh vật cứ hiện lên tự nhiên dân dã, chứ không cầu kỳ,
trang nhã như Đường luật Nôm và Đường luật Hán trước đó.
Thêm một điểm nữa, xét về vận luật, thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn
Khải có vẻ rất nghiêm túc trong việc chấp hành niêm luật vần đối. Là người
đọc khá nhiều thơ Đường luật cổ kim đông tây, Á Nam Trần Tuấn Khải hiểu
rất rõ không phải tất cả các bài thơ đúng luật đều hay. Thực tế sáng tác có những
bài không đúng luật lại hay mà đọc xong không thể quên được (trường hợp
Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương là một ví dụ). Tuy nhiên khi vận dụng âm luật
vào thơ, Trần Tuấn Khải đã khai thác những quy định ngữ âm chặt chẽ của thơ
Đường luật nhưng ở khía cạnh êm đềm, thanh tĩnh, để làm cho Đường luật của
ông trở nên ổn định và hoà điệu... Bài Đi tàu gặp người Nam Kỳ:
Cùng buổi xuân thiên một chuyến tàu,
Bắc Nam không hẹn gặp nhau chi.
Nước non đâu chẳng là tri kỷ,
88
Ngùi ngẫm mang chi một mối sầu.
(Đi tàu gặp người Nam Kỳ)
Lịch duyệt phong sương mãi với đời,
Phen này thử để bộ râu coi!
Mẹ mày chắc cũng không ghen nữa,
Tớ đã râu ria đứng đắn rồi.
(Để râu)
Cũng tưởng ngồi buồn để vuốt chơi,
Tước giời trọng đãi há riêng ai!
Dè đâu các chị hằng nga ghét,
Bất nhược đem mà cạo quách thôi.
(Cạo râu)
Về nhịp, qua khảo sát 112 bài thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải,
nhận thấy thơ ông chủ yếu vẫn sử dụng nhịp 4/3 trong thơ thất ngôn và 2/3
trong thơ ngũ ngôn, nhưng trong đó, không ít bài thơ thất ngôn lại viết theo lối
thơ đặc biệt Việt Nam. Thống kê trong 108 bài thất ngôn luật của Á Nam Trần
Tuấn Khải thấy có 106 bài ngắt nhịp 4/3 và nhịp 2/2/3, chỉ có 2 bài ngắt nhịp
3/4 (bài Hai chữ nước nhà và bài Thuật hoài). Trong đó bài Thuật hoài chỉ sử
dụng nhịp ¾ ở 2 câu đầu.
Trót dấn thân vào đất Việt xưa!
Hai mươi năm lẻ đến bây giờ...
Áo dày cơm nặng, tình lai láng,
Bút mới văn tàn dạ thẩn thơ.
Đèn sách mười thu đành chuyện hão,
89
Nôm na mấy chữ gọi duyên vờ.
Anh em Hồng Lạc ai quen biết?
Vương víu cùng nhau một mối tơ!
(Thuật hoài)
Việc thay đổi nhịp điệu (nếu có) lại không chủ yếu nhờ vào sự thay đổi
âm tiết mà là sử dụng thanh điệu hoặc dấu nghỉ, dấu cảm thán trong câu thơ. Ví
dụ như trong bài Hỏi ĩnh ương ở khổ thứ sau có một câu mang nhịp 1/1/1/1/3:
Phải chăng mình oán bóng trăng thâu ?
Bóng bẩy soi cho kiếp dãi dầu.
Nam, Bắc, Đông, Tây, người ngang dọc,
Riêng mình lủi thủi chốn hang sâu ?
(Hỏi ĩnh ương)
Hoặc trong bài Trách đồng bạc, câu trước vẫn giữ nhịp 4/3, câu sau nhờ
dấu cảm thán mà chuyển ngay sang nhịp 1/5 ở câu kết:
Duyên nợ lăng nhăng mãi với đời,
Sao em bạc thế ? Hỡi em ơi !
Giang hồ biết tiếng chừng bao kẻ ?
Thân thế chuyên tay đã mấy người ?
Mang tiếng ham mê nơi phú quý,
Vẫn còn trêu ghẹo khách ăn chơi.
Chữ đồng em biết cùng ai tạc,
Thôi ! Đám phong lưu nhẵn mặt rồi.
(Trách đồng bạc)
Hiện tượng này trong thơ Đương luật không nhiều và có lẽ là định hướng
mở để từ đó các tác giả phát triển thành hiện tượng phổ biến. Trong 110 bài
90
thất ngôn của Trần Tuấn Khải có nhiều bài xen nhịp 2/5 (ví như bài Khóc bạn
Trình Xuyên...), một số bài nhịp 2/2/3 và xen nhiều loại nhịp.
KẾT LUẬN
1. Sáng tác thơ Đường luật của Á Nam Trần Tuấn Khải ở nửa đầu thế kỷ
XX qua những nghiên cứu ban đầu của tác giả luận văn là khá phong phú về đề
tài, chủ đề và những quan niệm mới về thời cuộc. Từ góc nhìn thể loại, thơ Á
Nam có đóng góp vô cùng to lớn đối với thể thơ Đường luật dân tộc, đặc biệt ở
sự kết hợp giữa một thể thơ cổ điển với một thứ văn tự mới ở thời kỳ phôi thai
như tiếng Việt. Luận văn bước đầu đã xác định vị trí của thơ Đường Á Nam
Trần Tuấn Khải trong dòng thơ Đường luật ở nửa đầu thế kỷ XX.
2. Trên cơ sở thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá những đặc điểm
về nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải,
đề tài đã đi đến một số kết luận về những khuynh hướng, cảm hứng chủ đạo,
đặc điểm ngôn ngữ, thể loại của thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải.
3. Phải thừa nhận là ở các thể loại dân gian và gần với dân gian như hát
nói, phong dao, xẩm… Sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải nhuyễn và đằm
thắm hơn. Tuy nhiên mảng thơ Đường luật lại là bộ phận không thể thiếu được
vì nó gắn với việc thể hiện tâm tư của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên và
cuộc sống thực tại của con người. Thơ Đường luật tuy không được nhiều người
biết đến và đón nhận rầm rộ như những bài hát nói, nhưng nó lại là bộ phận ghi
nhận sự sung sức của nhà thơ ở nửa đầu thế kỷ XX.
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1998), “Cuộc cải cách thơ của Phong trào thơ mới (1932
– 1945) và tiến trình thơ tiếng Việt”, Đọc lại người trước đọc lại người
xưa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Lê Bảo (1992) Thơ lãng mạn Việt Nam, Nxb Hội nhà văn.
3. Phan Canh (1999), Thi ca Việt Nam thời tiền chiến 1932 – 1945, Nxb Đồng
Nai.
4. Hư Chu (1958), Để hiểu thơ Đường Luật, Nxb Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn.
5. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Nxb
Văn Học, Hà Nội.
6. Hồng Chương (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
7. Nguyễn Sĩ Đại (1995), Sự lặp lại của các từ hay nghịch lý giữa chữ và
nghĩa trong thơ Đường tứ tuyệt, TCVH, Số 6.
8. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Xuân Diệu (1993) “Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải”, Nxb Văn học,
TP.HCM.
10. Huỳnh Lý, Hoàng Dung (1976), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 5, Phần I
92
11. Lê Chí Dũng “Á Nam Trần Tuấn Khải - nhà thơ của dòng văn học yêu
nước trong những năm 1920” - Tham luận tại Hội thảo Á Nam Trần Tuấn
Khải do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội tổ chức năm 2006.
12. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam thi văn hợp tuyển, Nha học chính
Đông Pháp xuất bản.
13. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900-1930, Nxb ĐH và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
14. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào “Thơ mới” 1932-1945, Nxb KHXH, Hà Nội.
15. Huy Cận, Hà Minh Đức (1997), “Một bước tiến mới của thơ ca Việt Nam
trên con đường hiện đại hoá”, Nhìn lại cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb
Giáo dục.
16. Huy Cận, Hà Minh Đức (1997), “Thơ mới – cuộc nổi loạn ngôn từ”, Nhìn
lại cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb Giáo dục.
17. Huy Cận, Hà Minh Đức (1997), “Cái mới của thơ mới từ xung khắc đến
hoà giải”, Nhìn lại cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb Giáo dục.
18. Nguyễn Văn Hanh (1935), “Thi Mới Thi Cũ”, Bài nói chuỵện tại hội
khuyến học, Sài Gòn, Ous Dróit Reserves.
19. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục,
20. Nguyễn Khắc Hiếu (22-12-1934), Tính chất của thơ, TTTB, Số 30.
21. Nguyễn Khắc Hiếu (1932) An Nam tạp chí, Thơ văn cận cổ, số 3.
22. Phạm Văn Hưng (2009), “Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà thơ đã tạc hình
tượng “Người gánh nước đêm” vào văn học” - Tạp chí Nghiên cứu Văn học,
số 6/2009.
23. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến quyển hạ, Nxb
Văn Học, Hà Nội.
93
24. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến quyển trung, Nxb
Văn Học, Hà Nội.
25. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến quyển thượng,
Nxb Văn Học, Hà Nội.
26. Hà Xuân Liêm (1997), Thơ Việt Nam thơ nôm Đường Luật từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX, Nxb Thuận Hoá
27. Vũ Đình Liên (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.
28. Tú Mỡ (1996), “Tôi làm thơ trào phúng như thế nào”, Tú Mỡ toàn tập Tập
I, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
29. Lữ Huy Nguyên (1993), Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, Nxb Văn học,
TP.HCM.
30. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển
của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
31. Lê Đức Niệm (1995), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn hoá thông tin
32. Nhiều tác giả (1995), Một thế kỷ thơ Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
33. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập I, NXB Văn học.
34. Đoàn Thu Phong, Nguyễn Thị Phương (1999), Lô - gich toán học trong
niêm luật thơ Đường, Nxb Văn nghệ TP. HCM.
35. Ngô Văn Phú (1996), Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Hội nhà văn Việt Nam.
36. Phạm Quỳnh (1913), “Tân học cổ học bình luận”, Đông Dương tạp chí, Số 8.
37. Trịnh Đình Rư (1924), “Có nên chuộng thơ Đường luật không”, Phụ Nữ
Tân Văn số 24, October.
38. Hoài Thanh, Hoài Chân (1995), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
39. Vũ Thanh (1999), “Sáng tạo trong thơ Đường luật”, Nguyễn Khuyến về tác
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94
40. Trần Thị Lệ Thanh (2012), Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX đến năm 1945, Nxb Đai học Thái Nguyên.
41. Phạm Huy Toại (1952), Đường luật chỉ nam, Tác giả giữ bản quyền.
PHỤ LỤC
1. Tỉ lệ thanh bằng, thanh trắc trong thơ Đường luật Á Nam Trần Tuấn Khải:
1
Qua chốn ở cũ.
Thất ngôn bát cú.
28
28
2
Chị Nguyệt.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
3
Lúc chia tay.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
4
Để râu.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
5
Cây thông.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
6 Mai nở dưới trăng.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
7
Lúc phân ly.
Thất ngôn bát cú.
28
28
8
Gặp bạn thôn quê.
Thất ngôn bát cú.
28
28
9
Ngẫu đắc.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
10
Đề tập Hồn tự lập thứ nhất.
Thất ngôn tứ tuyệt.
14
14
11
Hội Phủ Chanh.
Thất ngôn bát cú.
28
28
12
Bệnh trung tác.
Thất ngôn bát cú.
28
28
13
Hựu thể
Thất ngôn bát cú.
28
28
14
Giọt lệ anh hùng.
TNTT trường thiên.
88
80
STT Tác phẩm Thể loại TB TT
95
Như vậy số bài có thanh bằng và thanh trắc ngang bằng nhau: 14 bài, chiếm
tỉ lệ 12,5%.
STT
Tác phẩm
Thể loại
TB
TT
Cảm hoài.
Thất ngôn bát cú.
26
30
1
Đi tàu thủy chơi núi Ngọc.
Thất ngôn bát cú.
26
30
2
Chơi thành Cổ Loa.
Thất ngôn bát cú.
26
30
3
Cái gương.
Thất ngôn tứ tuyệt.
13
15
4
Cạo râu.
Thất ngôn tứ tuyệt.
13
15
5
26
30
6
Kỉ niệm Đức Hưng Đạo Đại Vương. Thất ngôn bát cú.
Ngâu.
Thất ngôn bát cú.
25
31
7
Chiều qua sông Nhuệ.
Thất ngôn bát cú.
26
30
8
Bến sông đêm ngồi câu.
Thất ngôn bát cú.
27
29
9
10
Chuột tranh ăn.
Thất ngôn tứ tuyệt.
12
16
Số bài có thanh bằng ít hơn thanh trắc: 10 bài, chiếm tỉ lệ 8,9%.
STT
Tác phẩm
Thể loại
TB
TT
Thuật hoài.
Thất ngôn bát cú.
31
25
1
Đất khách đêm mưa xuân.
Thất ngôn bát cú.
32
24
2
Ở nhà quê.
Thất ngôn bát cú.
31
25
3
Thương người sầu.
Thất ngôn bát cú.
31
25
4
Nhớ ai.
Thất ngôn bát cú.
32
24
5
Đời người.
Thất ngôn bát cú.
39
17
6
Trách đồng bạc.
Thất ngôn bát cú.
31
25
7
Con ve.
Thất ngôn bát cú.
32
24
8
Gặp bạn cũ.
Thất ngôn bát cú.
31
25
9
Chơi núi Sài Sơn.
Thất ngôn bát cú.
29
27
10
Lên chợ giời.
Thất ngôn bát cú.
30
26
11
96
Vào chùa Hương.
Thất ngôn bát cú.
29
27
12
Khóc cái quạt.
Thất ngôn bát cú.
31
25
13
Nhớ cô hàng quạt.
Thất ngôn bát cú.
33
23
14
Cái quạt giấy.
TNBC trường thiên.
62
50
15
Vịnh ông hộ pháp.
Thất ngôn bát cú.
29
27
16
Đề cái nón.
Thất ngôn tứ tuyệt.
17
11
17
Gà trống thiến.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
18
Hỏi người trong trong tranh.
Thất ngôn tứ tuyệt.
15
13
19
Đi tàu gặp người Nam Kỳ.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
20
Nhớ bạn.
TNTT trường thiên.
94
74
21
Chơi thuyền Hồ Gươm.
TNTT trường thiên.
158
122
22
Buồn.
Thất ngôn bát cú.
30
26
23
Qua nhà giám.
Thất ngôn bát cú.
30
26
24
25 Mưa mãi.
Thất ngôn bát cú.
30
26
Đề đền vua Hùng Vương.
Thất ngôn bát cú.
29
27
26
Họa bài “Đề đền vua Hùng”.
Thất ngôn bát cú.
32
24
27
Con cóc vàng.
Thất ngôn bát cú.
39
17
28
Đàn bầu.
Thất ngôn bát cú.
32
24
29
30 Mặt trời.
Thất ngôn bát cú.
31
25
Vịnh cảnh Hồ Tây.
Thất ngôn bát cú.
29
27
31
Lời con gái kén chồng.
Thất ngôn bát cú.
31
25
32
Qua thành Nam.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
33
Chuyện Hà Thành.
Thất ngôn tứ tuyệt.
17
11
34
Thăng Long hoài cổ.
Thất ngôn tứ tuyệt.
15
13
35
Khóc bạn Trình Xuyên
TNTT trường thiên.
273
175
36
Gương bể dâu
TNTT trường thiên.
92
76
37
97
Hỏi ĩnh ương.
TNTT trường thiên.
185
151
38
Cảnh ở rừng.
Ngũ ngôn tứ tuyệt
21
19
39
Bến sông chiều đất khách.
Ngũ ngôn tứ tuyệt
21
19
40
Trách Hoàng thiên.
Thất ngôn bát cú.
29
27
41
Hựu thể
Thất ngôn bát cú.
30
26
42
Tạm biệt báo giới.
Thất ngôn bát cú.
30
26
43
Buồn.
Thất ngôn bát cú.
33
23
44
Xem hội tây.
Thất ngôn bát cú.
29
27
45
Đề động Tam Thanh.
Thất ngôn bát cú.
30
26
46
Độc ẩm Lạng Sơn thành.
Thất ngôn bát cú.
29
27
47
Thú lâm tuyền.
Thất ngôn bát cú.
30
26
48
Vịnh anh thợ bừa.
Thất ngôn bát cú.
30
26
49
50 Mùa hè nhà quê.
TNTT trường thiên.
57
55
Thăm thú làm vườn.
TNTT trường thiên.
153
127
51
Cùng bạn chơi Vịnh Hạ Long.
TNTT trường thiên.
244
204
52
Tiếng quốc kêu.
Thất ngôn bát cú.
30
26
53
Hoa Lư hoài cổ.
Thất ngôn bát cú.
34
22
54
Bông hoa sen.
Thất ngôn bát cú.
31
25
55
Nỗi đời.
Thất ngôn bát cú.
33
23
56
Chuyện tết.
Thất ngôn bát cú.
31
25
57
Ông nghè tháng tám.
Thất ngôn bát cú.
31
25
58
Con mèo.
Thất ngôn bát cú.
31
25
59
Viếng mả ông Lê Chất.
Thất ngôn bát cú.
33
23
60
Nhắn bạn Tiên Long.
Thất ngôn bát cú.
32
24
61
62 Mùa xuân nhà quê.
TNTT trường thiên.
63
49
63 Mùa thu nhà quê.
TNTT trường thiên.
43
41
98
Nông thương vấn đáp.
TNTT trường thiên.
249
227
64
Với sơn hà.
Thất ngôn bát cú.
31
26
65
Ngẫu đề.
Thất ngôn tứ tuyệt.
13
15
66
Khuyên bạn.
Thất ngôn bát cú.
32
24
67
Lại ốm
Thất ngôn bát cú.
30
26
68
Viếng bà Tú Xương.
Thất ngôn bát cú.
29
27
69
Gửi bạn.
Thất ngôn bát cú.
29
27
70
Cùng bạn văn học.
Thất ngôn bát cú.
31
25
71
Thu.
Thất ngôn bát cú.
29
27
72
Diều đậu đỉnh núi.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
73
Rặng liễu.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
74
Hỏi núi Thầy.
Thất ngôn bát cú.
29
27
75
Qua thành Sơn.
Thất ngôn bát cú.
32
24
76
Ngẫu đề 2.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
77
Nhàn bút.
Thất ngôn tứ tuyệt.
16
12
78
Thuyền đánh cá.
Thất ngôn bát cú.
32
24
79
Ngày xuân ở Hà Thành.
Thất ngôn bát cú.
31
25
80
Cười.
Thất ngôn bát cú.
31
25
81
Con dơi.
TNTT trường thiên.
189
147
82
Cảnh chợ nhà.
Thất ngôn bát cú.
29
27
83
Trường thán thi.
TNBC trường thiên.
232
328
84
29
27
85 Mong tri kỷ.
Thất ngôn bát cú.
30
26
Xuân Giáp Dần.
Thất ngôn bát cú.
86
29
27
Nhắn quân xâm lược.
Thất ngôn bát cú.
87
29
27
Tám mươi tám tuổi tự vịnh.
Thất ngôn bát cú.
88
Số bài có thanh bằng nhiều hơn thanh trắc: 88 bài, chiếm tỉ lệ 78,6%.