ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THU HÀ
THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THU HÀ
THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG HỒ CHÍ MINH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ LỆ THANH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết
quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố
trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thu Hà
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo của trường Đại học Khoa
học đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học
tập và nghiên cứu và thực hiện đề tài tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Lệ Thanh
- người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn BGH, các thầy cô giáo trường
THPT Hùng An, người thân trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài, luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được những đóng góp chỉ bảo của thầy cô và các
bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Thu Hà
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết đầy đủ Viết tắt
1 Đường luật ĐL
2 Nhà xuất bản Nxb
3 Sách đã dẫn Sđd
4 Thơ Đường luật TĐL
5 Trào phúng TP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
6 Trang Tr
iv
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................iii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 11
6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 11
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11
NỘI DUNG ..................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 12
1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” và “Thơ Đường luật trào phúng” .............. 12
1.1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” ................................................................. 12
1.1.2. Khái niệm “Thơ Đường luật trào phúng” .............................................. 16
1.2. Sự vận động và phát triển của thơ Đường luật trào phúng Việt Nam ...... 19
1.2.1. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam trước thế kỉ XX ........................ 19
1.2.2. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX ................. 34
1.3. Khái quát về thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh............................ 36
1.3.1. Cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh ............. 36
1.3.2. Bối cảnh sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh ................. 44
1.3.3. Cảm hứng sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh .............. 46
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
v
CHƯƠNG 2: NÉT MỚI TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO
PHÚNG HỒ CHÍ MINH ............................................................................... 55
2.1. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hiện tượng thẩm mỹ
độc đáo ..................................................................................................... 55
2.1.1. Cấu trúc thẩm mỹ trong không gian ngục tù ......................................... 55
2.1.2. Khả năng phát hiện giá trị thẩm mỹ từ những cái xấu, những điều
bình thường ............................................................................................ 61
2.2. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hình thái phê phán đặc
biệt có cảm xúc ........................................................................................ 68
2.3. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh - một phương tiện phát hiện
những mâu thuẫn, xung đột ..................................................................... 76
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 84
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ BÚT PHÁP VÀ NGÔN NGỮ TRONG
THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG HỒ CHÍ MINH ............................ 85
3.1. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại ................... 85
3.1.1. Đặc trưng nghệ thuật của thể thơ Đường luật ....................................... 85
3.1.2. Đề tài ...................................................................................................... 91
3.1.3. Hình ảnh thơ .......................................................................................... 93
3.1.4. Nhân vật trữ tình .................................................................................... 96
3.2. Những đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh 100
3.2.1. Đặc điểm về từ ngữ .............................................................................. 100
3.2.2. Đặc điểm về cú pháp ........................................................................... 107
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 110
KẾT LUẬN ................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ Đường luật là một trong số những thể thơ tồn tại lâu đời nhất
trong lịch sử văn học viết Việt Nam. Nếu những bài thơ thiền thời nhà Lý (thế
kỷ X) được cho là những sáng tác thơ Đường luật Việt Nam đầu tiên, thì
những bài thơ Đường luật của Hồ Chí Minh (thế kỷ XX) lại được ghi nhận
như là thành tích cuối cùng của thể loại này. Có khá nhiều khía cạnh trong thơ
Đường luật của Bác được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đánh
giá và đưa ra những kết luận xác đáng. Tuy nhiên về khả năng kết hợp giữa
thơ Đường luật và loại hình trào phúng của Bác thì lại chưa thấy có công trình
nào tương xứng. Nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh vì thế
vẫn được xem là vấn đề còn bỏ ngỏ.
1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tác gia văn học Việt Nam
thường xuyên sử dụng yếu tố trào phúng trong sáng tác văn học. Với mỗi thể
loại, Bác đều tìm ra một cách kết hợp riêng, khiến tiếng cười trở nên vô cùng
phong phú, đa dạng. Trong truyện ký (Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922),
Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Bác đã
đem đến tiếng cười trào phúng tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu
cay. Trong thơ chữ Hán (chủ yếu là thơ Đường luật), Bác lại cho thấy sự kết
hợp tài tình giữa một hình thức nghiêm chỉnh với một cách nói không nghiêm
chỉnh đạt hiệu quả như thế nào. Làm rõ được nét phong cách độc đáo trong
thơ Đường luật trào phùng của Bác chính là góp phần nhận diện những thành
tựu trong sáng tác của Bác nói chung.
Mặc dù có rất nhiều công trình, bài viết về thơ Đường luật nói chung và
tập Nhật kí trong tù nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng cho tới nay,
việc nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng của Người vẫn là vấn đề còn bỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngỏ. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ đường luật trào
2
phúng Hồ Chí Minh làm nội dung nghiên cứu với mong muốn góp phần tạo
thêm một tư liệu mới về thơ đường luật trào phúng Hồ Chí Minh.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua quá trình thu thập tư liệu tham khảo, chúng tôi nhận thấy, có một số
ít công trình, bài viết bàn về thơ Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, trong số ấy, chưa có công trình, bài viết hay tài liệu nào nghiên cứu
chuyên biệt về nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Người.
Các nguồn tư liệu được chúng tôi quan tâm chủ yếu khảo cứu, tập hợp,
giới thiệu một số nội dung liên quan đến thơ Hồ Chí Minh như sau:
2.1. Các công trình, bài viết về thơ đường luật Hồ Chí Minh
Trong công trình nghiên cứu Đường thi từ góc nhìn vòng đời tác phẩm:
Lý luận phê bình văn học, nhà giáo Lê Đình Sơn đã dành một chương để bàn
về thi phẩm Đường luật Hồ Chí Minh nối xưa và nay. Tác giả đi sâu tìm hiểu
về bối cảnh lịch sử, đặc điểm kết cấu và ngôn ngữ thơ Đường luật Hồ Chí
Minh; sự đổi mới trong sáng tác thơ Đường luật Hồ Chí Minh; Hiệu ứng giáo
dục từ một số vần thơ Bác Hồ và Thơ Đường luật Hồ Chí Minh về người lính
vệ quốc [32].
Cuốn Thơ Đường luật Việt Nam - Hành trình đất nước (Hương Thu -
chủ biên) đã khái quát quá trình phát triển và hình thành của thể thơ Đường
luật Việt Nam từ thế kỉ XX đến nay, trong đó có giới thiệu một số bài thơ
Đường luật chọn lọc Hồ Chí Minh [37].
Tại Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đường Luật Việt Nam” do
Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, Bảo
tàng Hồ Chí Minh, Hội thơ Đường luật Việt Nam phối hợp tổ chức diễn ra
ngày 23/10/2015, tại Hà Nội, Lê Đình Sơn, giảng viên khoa Ngữ văn Đại
học Vinh nhấn mạnh: “Bác Hồ đã thể hiện sự phá cách thơ tứ tuyệt ở nhiều
hình thức khác nhau. Có những bài thơ Bác phá luật bằng trắc, phá luật thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như Văn cảnh, Báo tiệp. Có những bài thơ làm người đọc ngạc nhiên trước
3
hiện tượng đổi mới thơ tứ tuyệt luật Đường như bài Vô đề, bài ngụ ngôn tứ
tuyệt bằng chữ Hán ở đầu tập thơ Nhật ký trong tù, sau đó là nhiều tác phẩm
khác. Qua đó cho thấy, Bác đã tiếp thu một cách sáng tạo di sản thơ Đường
Trung Quốc, làm cho thể loại này ngày càng phong phú hơn” [51].
Trong bài viết Hồ Chí Minh với thơ Đường luật, ThS. Võ Quang Huy đã
nhận xét: “Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 133 bài thơ tứ tuyệt và thất ngôn bát
cú được viết bằng chữ Hán thể hiện sự am hiểu tuyệt vời về Hán tự cũng như
thể thơ Đường luật của Bác. Đọc Nhật kí trong tù, ta nhận ra sự ảnh hưởng
đậm đặc của chất Đường thi, bút pháp cổ điển trong phong cách thơ của
Người. Nghệ thuật đối, bút pháp ẩn dụ, điệp từ đã được Bác sử dụng rất tài
tình và khéo léo” [52].
Trong bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đường luật, nhà thơ Huỳnh
Đức Trung cho rằng, “làm thơ Đường đã khó, làm thơ Đường luật bằng chữ
Hán lại càng khó hơn. Ở Nước ta thời xưa chỉ có những nhà Nho uyên thâm,
hay những thầy đồ giỏi chữ Hán mới làm được, như Vua Thánh Tông, vua Tự
Đức hay những nhà nho nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình
Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan. Bác là người sau cùng làm thơ Đường luật
bằng chữ Hán ở Việt Nam ta”. “Bác có rất nhiều bài thơ viết bằng chữ Hán,
và khá thành công trong lối chơi tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, sâu sắc chẳng
thua gì thơ đời Đường Trung Quốc”[53].
Bài viết Quanh mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đường luật của GS.
Nguyễn Khắc Phi đã khẳng định: nhiều bài viết và công trình trước nay đã cố
gắng làm nổi bật tinh thần dân tộc và tính hiện đại sâu sắc trong thơ Đường
luật của Bác, song vẫn cần bàn luận thêm về mối quan hệ giữa Người, thơ của
Người với thơ Đường luật. Trong bài viết, tác giả trình bày khá chi tiết về tiêu
chí để xác định Thơ Đường luật trong thơ Bác, về việc vận dụng thể thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đường luật của Hồ Chí Minh, về bài thơ Khán Thiên gia thi hữu cảm, bài viết
4
khép lại với kết luận: “chiếm lĩnh được mảng tuyệt cú là một trong những
cách nắm bắt được nhanh nhất, hữu hiệu nhất cái tinh tuý của thơ Đường!
Thơ tuyệt cú của Bác Hồ là kết quả của một quá trình tiếp biến độc đáo cái
tinh tuý ấy trên một nền tảng tư tưởng mới, trong một điều kiện lịch sử
mới”[28].
TS. Phạm Thị Xuân Châu - Chi hội Thơ Đường luật tỉnh Điện Biên,
trong bài Bút pháp của Bác Hồ trong sáng tác thơ Đường Luật, đã nhận xét:
“Dù khi cải biên, phá cách, biến thể, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ
Đường, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con người Bác: không thụ động, không
sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong tư duy và tự
chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách thơ Đường luật của
Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách mạng, làm đẹp thêm cho di
sản thơ Đường luật của dân tộc” [50].
Trong bài “Thơ Đường luật chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, TS.
Nguyễn Minh San - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam đi sâu tìm
hiểu về di sản thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận
xét về thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác giả viết:
“Những bài thơ Đường luật làm bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tiêu biểu là tập Nhật ký trong tù, là những hòn ngọc văn hóa chói lọi trong di
sản văn hóa vĩ đại của dân tộc ta. Di sản thơ này đã góp phần khẳng định: Chủ
tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, dân tộc ta; một con người
Đại nhân, Đại trí, Đại dũng; một Danh nhân Văn hóa Thế giới; là Bác Hồ
muôn vàn kính yêu của dân tộc ta” [56].
Như vậy, các công trình, bài viết trên mới chỉ dừng lại ở phạm vi thơ
Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chưa đi sâu tìm hiểu về thơ Đường
luật trào phúng của Người. Nhưng, những hướng nghiên cứu trong các công
trình, bài viết trên là những gợi ý quí báu để tác giả luận văn thực hiện nhiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vụ mà đề tài đã nêu ở trên.
5
2.2. Các công trình, bài viết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Chí
Minh
Từ lâu, nghệ thuật trào phúng trong các tác phẩm văn chương, báo chí
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đề cập, nghiên cứu đây đó trong các bài
viết, công trình. Tuy nhiên, các công trình bài viết về nghệ thuật trào phúng
trong thơ Hồ Chí Minh lại khá hiếm.
Cuốn sách Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Tú là công trình nghiên cứu đầu tiên trình bày một cách hệ thống,
phong phú và toàn diện nhất các khía cạnh của nghệ thuật trào phúng Hồ Chí
Minh, từ tác phẩm văn xuôi đến tác phẩm thơ và tác phẩm báo chí, chính
luận. Với hơn 400 trang sách, PGS.TS Nguyễn Thanh Tú đã đi vào khám
phá nhiều khía cạnh, chi tiết của tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh qua
những luận điểm: Hình thức tương phản, Nghệ thuật kéo độc giả vào truyện,
Nguyên tắc suồng sã, Kịch hoá trần thuật, Mâu thuẫn trào phúng, Nguyên
tắc “lột mặt nạ”, Ngụ ngôn trào phúng, Phương thức nhại, Ẩn dụ trào phúng,
So sánh trào phúng, Chơi chữ trào phúng, Tập cổ, lẩy Kiều.
Trong quá trình phân tích, để làm rõ những luận điểm của mình, tác giả
luôn chọn được những ví dụ rất điển hình. Chẳng hạn, ví dụ về hình thức
tương phản nhân vật: “Hình tượng người tù trong Nhật kí luôn tương phản với
hình tượng người tiên, người tự do, người khách quý… giữa tư cách tù nhân
và tư cách thi nhân: “Ngâm thơ ta vốn không ham, / Nhưng vì trong ngục biết
làm chi đây” (Mở đầu tập nhật ký)”. Hay ví dụ về mâu thuẫn giữa lời nói và
bản chất hành động của chủ nghĩa thực dân về vấn đề nhân quyền: “Chính vì
quyền con người mà hàng triệu con người đã bị giết hại trong thời đại chiến.
Cái quyền mà họ đã hi sinh vì nó, cùng với những xác chết thảm thương của
họ, nay bị vùi sâu vào lãng quên.
Hồi đó, các chính sách còn gào to hơn cả tiếng đại bác cho khắp bốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phương gầm trời nghe: quyền! quyền! quyền! Nhưng lập tức, sau khi cuộc
6
chém giết đã chấm dứt, lập tức sau khi tai hoạ đã qua, thì không còn ai nghe
thấy nói đến cái con vật ấy nữa. Ở Véc-xây, ở Giơ-ne-vơ, ở Bu-lô-nhơ cũng
như ở Oa-sinh-tơn quyền con người đã được thay thế bằng than đen, than đá,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dầu hoả, thuộc địa”. Hoặc những so sánh tạo hình, gợi cảm:
7
“Nhà lao mà giống tiểu gia đình,
Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước mỗi phòng giam bày một bếp,
Suốt ngày lụi cụi với cơm, canh”
(Nhà lao Quả Đức – Huệ Chi dịch) [43].
Năm 1974, nhà xuất bản Văn học cho phát hành cuốn Thơ văn trào
phúng Việt Nam do nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh sưu tầm, biên soạn. Đây
là cuốn sách giới thiệu một cách khá đầy đủ về thơ văn trào phúng Việt Nam
từ thế kỉ XIII đến năm 1945, trong đó có nói đến thơ văn trào phúng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Ở phần thứ ba - Thơ văn trào phúng hiện đại (từ đầu thế
kỉ đến 1945) - tác giả đã nhận xét: “Nhìn tổng thể, nụ cười châm biếm trong
phong cách Nguyễn Ái Quốc là một nụ cười đa dạng. Đây vừa là nụ cười tố
cáo, đánh gục kẻ thù, nụ cười thức tỉnh đồng đội, nụ cười lạc quan vô úy của
bản thân” [15, tr.382]. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu khái quát về nội dung châm biếm sắc sảo và một vài tác phẩm văn
thơ có yếu tố trào phúng của Hồ Chí Minh mà chưa đi sâu nghiên cứu về
nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Người.
2.3. Các công trình, bài viết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật
Hồ Chí Minh
Trong Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Thanh Tú có dành một số trang nghiên cứu về nghệ thuật trào phúng trong thơ
Đường luật Hồ Chí Minh qua tập Nhật kí trong tù. Tác giả phát hiện: “Tiếng
cười ẩn dụ trong Nhật kí trong tù luôn là tiếng cười phủ nhận hiện thực để
vươn tới một thế giới khác, thế giới của sự sang trọng, tự do, thế giới của
nghệ thuật, thế giới của tình yêu thương, tôn trọng tuyệt đối giữa con người
với con người”[43].
Ở chương II, phần thứ nhất của cuốn “Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
GS. Nguyễn Huệ Chi, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Phạm Hùng đã viết: “bút pháp
8
trào lộng của Nhật kí trong tù vẫn mang được nét chung của nghệ thuật gây
cười có tính hướng ngoại truyền thống, là việc tạo dựng sự đối lập, xung đột
giữa nội dung của đối tượng (xấu xa, hèn kém, lạc hậu, mất sức sống…) với
hình thức của chính đối tượng (hào nhoáng, đẹp đẽ, cao thượng, thanh nhã…)
trong trạng thái bất ngờ nhất làm bật ra tiếng cười”[45, tr.169-170]. Cuối bài
viết, các tác giả nhận định: “Đến với Nhật kí trong tù là đến với một tiếng
cười mới – tiếng cười hướng nội mà nghệ thuật của nó có đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển của nghệ thuật trào lộng trong văn học Việt
Nam” [45, tr. 183].
Chương XXIV, cuốn giáo trình Văn học Việt Nam (1900-1945) đã giới
thiệu khái quát những nét đặc sắc về nội dung và giá trị cách tân trong nghệ
thuật ở các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, trong đó có tập Nhật kí trong tù.
Nhận xét về nghệ thuật châm biếm của tập nhật kí, các tác giả viết: “Nhật kí
trong tù đã kế tục nghệ thuật châm biếm trong các bài văn xuôi của Nguyễn
Ái Quốc. Đối tượng châm biếm ở đây là chế độ Quốc dân đảng tàn bạo, thối
nát” [5, tr.648].
Bài Chất trào lộng trong bài thơ “Lai Tân” (Rút trong Nhật kí trong tù)
của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Giọng điệu của bài thơ bình thản,
khoan thai tạo cảm giác như đang nghe một câu chuyện đã làm cho tinh thần
của bài thơ dễ ngấm sâu vào lòng người đọc. Bằng việc sử dụng bút pháp
châm biếm, trào lộng, tác giả đã vạch trần bộ mặt của một xã hội đang kỳ rối
ren, mọt ruỗng qua đó lên tiếng bảo vệ công lí và bình đẳng cho đời sống con
người [54].
Trần Xuân Toàn trong bài viết Tính hài hước, châm biếm trong tập thơ
“Nhật kí trong tù của Bác Hồ cũng nhận xét: “hài hước châm biếm ở “Nhật
ký trong tù” là rất đa dạng. Một mặt đó là sự đa dạng về sắc thái, về cung bậc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đây vừa là nụ cười tố cáo đả kích, đánh gục kẻ thù, vừa là nụ cười châm biếm,
9
mỉa mai vào những hiện tượng, tính cách lỗi thời, phản động, vừa là nụ cười
thức tỉnh đồng đội và là nụ cười lạc quan của bản thân” [41].
Nhận xét về tiếng cười trong Nhật kí trong tù của Bác, trong bài Tiếng
cười lạc quan trong “Nhật kí trong tù”, Lê Xuân đã viết: tiếng cười
trong Nhật ký trong tù cũng có nghĩa là tìm hiểu một nét về phong cách Hồ
Chí Minh, một nét về thi pháp trong thơ Bác. Tiếng cười lạc quan của Bác
luôn thể hiện sự làm chủ tình huống, nắm chắc chân lý. Tiếng cười ấy còn
hàm chứa chất “thép” và chất “tình” để đem lại niềm hứng khởi cho người
đọc, người nghe và ngược lại kẻ bị cười khó tìm đường chối cãi, nguỵ biện.
Tiếng cười ấy có khi nhắm vào kẻ thù, có khi tự diễu bản thân, hoặc ngụ ý
khuyên răn người khác để họ vươn tới cái đẹp, cái cao cả, xoá đi cái xấu, cái
lạc hậu, thấp hèn. Tiếng cười trong Nhật ký trong tù càng làm sáng đẹp hơn ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, chủ nghĩa nhân đạo cao cả trong con người Hồ Chí
Minh [55].
Như vậy, tìm hiểu về văn thơ của Người đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu. Tuy nhiên, để bao quát và chuyên sâu về Thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh thì luận văn là công trình đầu tiên làm rõ vấn đề này.
Những bài viết và công trình trên đã giải quyết các vấn đề liên quan đến đề tài
một cách khoa học. Đây chính là những chỉ dẫn, góp ý quý báu cho việc triển
khai nội dung nghiên cứu của luận văn.
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu đã có, tác giả luận văn tập trung tìm
hiểu về thơ Đường luật trào phúng của Người và những đóng góp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp văn học nước nhà.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá nghệ thuật trào phúng trong thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đường luật Hồ Chí Minh, từ đó xác định những đóng góp tiêu biểu của thơ
10
Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh trong trong nền văn học Việt Nam
hiện đại nói chung, dòng thơ Đường luật trào phúng Việt Nam nửa đầu thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kỷ XX nói riêng.
11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những bài thơ trào phúng được
sáng tác bằng thể thơ Đường luật của Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu 45 bài thơ Đường
luật trào phúng trong Nhật ký Trong tù của Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính:
- Phương pháp thống kê, mô tả: chúng tôi tiến hành thống kê, tổng hợp
dẫn chứng, số liệu trong những tác phẩm thơ Đường luật trào phúng trong tập
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh và những tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh với thơ Đường luật trào phúng
của một số nhà thơ khác. Qua đó thấy được những đóng góp mới mẻ của thơ
Đường luật trào phúng Hồ Chủ Tịch.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Nét mới trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Chương 3. Đặc điểm bút pháp và ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh
7. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh được khảo sát,
phân tích một cách hệ thống
- Kết luận của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
thơ Đường luật trào phúng trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trường phổ thông và chuyên nghiệp.
12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” và “Thơ Đường luật trào phúng”
1.1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng”
Để hiểu khái niệm “Thơ trào phúng”, trước hết, chúng tôi xin cắt nghĩa
hai khái niệm con: thơ và trào phúng.
Trên thế giới, từ xưa đến nay, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác
nhau về khái niệm thơ.
Percy Bysshe Shelley – nhà thơ, nhà triết học Anh, một trong những nhà
thơ lớn nhất của thế kỷ XIX nhận định: “Thơ thực sự là một điều gì đó rất
thiêng liêng. Nó vừa là trung tâm, đồng thời là chu vi của tri thức, là bao gồm
các khoa học, nguồn gốc và thành quả của các hệ thống tư tưởng. Đó là sự hồi
sinh của mùa xuân…”
Theo Robert Frost, một nhà thơ Mỹ từng bốn lần đoạt giải Pulitzer:
“Thơ ra đời khi cảm xúc đã tìm thấy suy nghĩ của mình và suy nghĩ thì đã
tìm ra lời để diễn đạt chúng”; “Thơ ca là những gì đã thất lạc trong quá trình
chuyển đổi”.
Nhà thơ người Italia, Salvatore Quasimodo nổi tiếng nhờ những vần thơ
trữ tình với ngôn ngữ tinh lọc và đẹp đẽ một cách chuẩn mực. Ông nói: “Thơ
là sự mặc khải rằng người làm thơ tin rằng cảm xúc của họ chính là tiếng lòng
của độc giả”.
Edgar Allan Poe được gọi là “nhà thơ điên” cũng là một cây bút kỳ tài
trong thể loại văn chương trinh thám và hình sự. Ông là tác giả của những
phát ngôn nổi tiếng như: “Nỗi buồn là giọng điệu phù hợp nhất của thơ ca”;
“Tôi định nghĩa rất ngắn về thơ ca, ngôn ngữ thơ là nhịp điệu thẫm mỹ. Trọng
tài duy nhất của chúng là khẩu vị. Trí khôn và nhận thức chỉ khiến nó trở
thành một tài sản. Trừ yếu tố tình cờ, thơ không quan tâm tới bất cứ điều gì,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dù là nghĩa vụ hay chân lý”.
13
T.S. Eliot, chủ nhân giải Nobel 1948 cũng là nhà thơ vĩ đại của nước
Anh thế kỷ XX. Sinh thời, ông từng nói: “Thơ không phải là một vòng quay
chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc, không phải là sự biểu
hiện của tính cách, nhưng một lối thoát cho cá tính. Nhưng, tất nhiên là chỉ
những người có cá tính và cảm xúc biết ý nghĩa của việc muốn thoát khỏi
những điều này”.
Ở Việt Nam, “thi ngôn chí” là quan niệm chính thống về thơ trong Nho
giáo đã chi phối thơ suốt chiều dài nền Văn học trung đại. Cho đến những
năm gần đây, khái niệm về thơ vẫn được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa
như Hà Minh Đức, Phan Ngọc…
Trong cuốn “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, GS Hà
Minh Đức đã khảo sát hàng trăm định nghĩa về thơ để xác định được quan
niệm đúng đắn về thơ. Với ông, thơ là sự kết tinh cái đẹp của tâm hồn và tạo
vật, bài thơ hay là sự kết tinh của kết tinh. Vì thế, khi phê bình thơ, ông luôn
tìm những điểm cốt lõi tạo nên phong cách riêng của nhà thơ đó. GS Hà Minh
Đức coi trọng các tư liệu cuộc sống trong thơ và tìm ra mối liên hệ giữa nhà
văn và cuộc sống, tác phẩm và cuộc sống: “Thiếu đi chất liệu thực tế phong
phú thì cho dù một cách nhìn đúng vẫn chưa đủ tạo nên thơ hay”[6].
Còn theo Phan Ngọc, “Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái
đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính
hình thức tổ chức ngôn ngữ này”. Ông lý giải: “nói rằng hình thức tổ chức
ngôn ngữ của thơ hết sức quái đản là nói rằng trong ngôn ngữ giao tiếp không
ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Trong ngôn ngữ hàng ngày, chẳng ai tổ chức
ngôn ngữ theo âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm, luật... hết”… [25, tr.23].
“Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự
chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình
thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm
mỹ cho người đọc, người nghe. Từ thơ thường được đi kèm với từ câu để chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một câu thơ, hay với từ bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình thức
14
câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa cho người đọc,
và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một
mình. Một bài thơ là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ,
tính tượng hình và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức
nghệ thuật độc đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác” [57].
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thơ là hình thức sáng tác văn
học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”[10]. Định nghĩa
này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ
thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn
ngữ trong những thể loại văn học khác.
Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa về thơ, song chữ thơ vẫn là một câu
hỏi mở chưa có đáp án thống nhất.
Trào phúng là một từ gốc Hán gồm hai từ tố: trào - nghĩa là cười nhạo,
giễu cợt và phúng - nghĩa là lời bóng gió bẩy để khen chê, khuyên răn hoặc
dùng cái này để nói cái khác. Trong thói quen ngôn ngữ, trào phúng bao hàm
cả hai yếu tố: tiếng cười và răn bảo, đấu tranh chống lại cái xấu.
Theo “Từ điển tiếng Việt”, trào phúng “có tính chất gây cười để châm
biếm, phê phán” [26]. Còn theo “Từ điển thuật ngữ Văn học”, “trào phúng
là một dạng đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên
tắc nghệ thuật, trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm,
phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố
cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời độc ác trong xã hội”
[10, tr. 1124].
Nói cách khác, trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười nhằm châm
biếm, phê phán xã hội. Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng
nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức thơ làm nổi bật mâu thuẫn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Theo các nhà mĩ học, cái hài là một trong những phạm trù mĩ học, được bật ra
15
khi người ta phát hiện mâu thuẫn trái với lẽ tự nhiên. Mâu thuẫn đó có thể là
những rung động cảm xúc, sáng tạo; sự phê phán, giáo huấn và tiếng cười.
Thơ trào phúng còn được gọi là thơ châm biếm (cũng có khi là thơ đả
kích, thơ hài hước, thơ nhại, thơ vui…) mang những đặc điểm của thơ trữ tình
như hình tượng cảm xúc, giọng điệu, vần, nhạc điệu… nhưng do mục đích
phúng thích xã hội nên thơ trào phúng hướng tới việc tạo ra tiếng cười châm
biếm, đả kích với đối tượng trào phúng (cái xấu, cái vô dụng không có giá trị
của con người hay văn học). Vì thế, thơ trào phúng luôn là vũ khí sắc bén để
đấu tranh với kẻ thù.
Như vậy, thơ trào phúng là loại thơ dùng ngôn từ ví von, bóng gió để
châm biếm, đả kích những mâu thuẫn, những thói hư, tật xấu trái với đạo đức,
trái với lương tri, không chỉ lên án những bất công, xấu xa của xã hội mà các
nhà thơ còn tự cười chính mình, tự chê trách chính bản thân mình. Trong đó,
tiếng cười trào phúng mang nhiều sắc thái, nhiều cung bậc khác nhau như Hài
hước, châm biếm, đả kích.
Hài hước là một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng chủ
yếu gây cười, mua vui trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa cân đối giữa nội dung
và hình thức, bản chất và hiện tượng đặc biệt là lí tưởng và thực tế… Hài
hước khác cái nghịch dị (một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào sự
huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại [10; tr.203] ở tính chất kín đáo, thâm
trầm không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý.
Hài hước bao hàm giọng điệu cười vui, vô tư, mang ý nghĩa giải trí, giải thoát
con người khỏi sự trang nghiêm căng thẳng của đời thường, hoặc xuất hiện
khi con người có ý muốn hoàn thiện mình hay hoàn thiện hơn một cái mới
nào đó vừa ra đời còn chưa mang hình hài hoàn chỉnh.
Châm biếm là “dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thúy để vạch trần thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chất xấu xa của những đối tượng và những hiện tượng này hay hiện tượng
16
khác của xã hội” [10, tr.37]. Châm biếm thường sử dụng biện pháp nghệ
thuật: cường điệu, phóng đại, ngoa dụ, nghịch lý, giễu nhại… làm sống dậy
những giá trị chân, thiện, mĩ. Nếu hài hước chủ yếu khai thác mâu thuẫn trong
quan hệ có tính chất riêng tư, cá nhân, thái độ chế giễu thường đi kèm với nỗi
buồn, nước mắt thì châm biếm chủ yếu khai thác mâu thuẫn trong quan hệ
công dân, xã hội, thái độ chế giễu luôn song hành cùng sự công phẫn, tố cáo.
Không nên hiểu châm biếm là phê phán, tố cáo, trào phúng. Châm biếm là
biểu hiện của phê phán nhưng nó là biểu hiện cực đoan của phê phán.
Đả kích là chỉ trích, phản đối gay gắt hoặc dùng hành động chống lại làm
cho bị tổn hại. Nếu châm biếm là sự phủ định chưa hoàn toàn thì đả kích phủ
định hoàn toàn, phủ nhận một cách triệt để, quyết liệt. Tiếng cười đả kích
thường gắn với một lý tưởng xã hội tích cực, tiến bộ.
Tóm lại, hài hước, châm biếm, đả kích là ba sắc điệu được sắp xếp
theo cấp độ của tiếng cười trào phúng có ý nghĩa trong việc thể hiện thái độ
của người viết với đối tượng mình hướng đến. Tuy nhiên, trong thực tế, sự
biểu hiện của tiếng cười trong thơ trào phúng không phải lúc nào cũng
phân định rạch ròi, mà có sự chuyển hóa linh hoạt từ sắc điệu này sang sắc
điệu khác. Do đó, việc phân chia các sắc điệu trong thơ trào phúng chỉ có
giá trị tương đối.
1.1.2. Khái niệm “Thơ Đường luật trào phúng”
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật có
nguồn gốc từ thơ ca thời nhà Đường (Trung Quốc). Không chỉ phát triển
mạnh mẽ tại chính quê hương của nó, thơ Đường luật còn lan tỏa ra nhiều
quốc gia lân bang, trong đó có Việt Nam. Với tư cách là một thể loại tiêu biểu
nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung, thơ
Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không theo cách luật ấy.
17
Về khái niệm thơ Đường luật, “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa:
“Thơ Đường luật, còn gọi là thơ cận thể. Thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất
ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc. Thơ Đường luật có ba dạng
chính: thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ tứ tuyệt (mỗi bài bốn câu) và thơ bài
luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thơ thất
ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ) được coi là dạng cơ bản, vì từ
nó có thể suy ra các dạng khác của thơ Đường luật. Vì vậy, chỉ cần nêu rõ cấu
tạo của thơ thất ngôn bát cú là đủ” [10, tr.23].
Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu đã có, luận văn xin nhắc lại một
số đặc điểm của thơ Đường luật. Với dung lượng câu chữ hạn chế, thơ Đường
luật thường nắm bắt những khoảnh khắc đặc biệt của tâm trạng và hiện thực
nhưng lại có ý nghĩa lớn đối với con người. Hơn nữa, do yêu cầu của niêm,
luật, đối mà thơ Đường luật có một cấu trúc âm thanh rất độc đáo, đó là sự
phối hợp của âm thanh trầm bổng tạo nên chất nhạc du dương vừa dễ thuộc,
vừa dễ nhớ và lôi cuốn người đọc.
Thơ Đường luật trào phúng là một loại hình đặc biệt của sáng tác văn
học - tuân thủ nghiêm về niêm, luật, đối chặt chẽ của thơ Đường luật nhưng
hướng tới phản ánh, phơi bày bản chất xấu xa, giả tạo ẩn sâu trong cái vẻ bề
ngoài hào nhoáng bằng tiếng cười với nhiều cung bậc: châm biếm, đả kích,
mỉa mai, bông đùa, hài hước. Do đó, tiếng cười trong thơ Đường luật trào
phúng thường gắn liền với ý nghĩa phê phán xã hội.
Khi nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng, ta cần phân biệt hai vấn đề
về mức độ trào phúng: yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng. Tác phẩm
trào phúng có mục đích chính là trào phúng, xây dựng được hình tượng trào
phúng hoàn chỉnh. Các tác giả xây dựng hình tượng trào phúng thông qua thái
độ và tâm trạng của quan của mình. Khi chủ thể trữ tình đồng nhất với hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tượng nghệ thuật trong trào phúng thì xuất hiện thơ tự trào. Khi hình tượng
18
nghệ thuật là đối tượng khách thể, ta có thơ trào phúng khách thể. Đó là tác
phẩm trào phúng hoàn chỉnh. Còn yếu tố trào phúng là trong một tác phẩm, có
đoạn, có câu bật ra tiếng cười có ý nghĩa trào phúng mà mục đích chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không phải gây ra tiếng cười để khẳng định hay phủ định một điều gì.
19
1.2. Sự vận động và phát triển của thơ Đường luật trào phúng Việt Nam
1.2.1. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam trước thế kỉ XX
1.2.1.1. Quá trình hình thành và thể nghiệm của Thơ Đường luật trào phúng
Việt Nam (từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII)
Cho đến nay, các nghiên cứu đều chưa đưa ra được câu trả lời chính xác
rằng, TĐL nhập vào Việt Nam năm nào, do ai sáng tác. Tuy nhiên qua những
văn bản chữ viết cổ nhất còn giữ lại, có thể tạm thời đi đến nhận xét rằng, các
thiền sư thời Lý, chính là những người đầu tiên sử dụng thể TĐL để sáng tác.
Những tác phẩm như Vãn Quảng trí thiền sư (Đoàn Văn Khâm), Ngư nhàn
(Dương Không Lộ), Cảm hoài (Vương Hải Thiềm)… đều là những bài
Đường luật đáp ứng đủ cả niêm, luật, vần, đối đến bố cục tình ý.
Về nghệ thuật, tuy mới ở thời kỳ manh nha, nhưng TĐL thời Lý xét cả
thể cách lẫn nội dung, đều không thua kém về trình độ so với những bài luật
tuyệt sau này. Một bài như Ngư nhàn của Dương Không Lộ nếu không nói rõ
bối cảnh sáng tác, khó có thể hình dung nó xuất hiện ở giai đoạn sơ khai này.
Hình ảnh: “Ngư ông thụy trước” (Ông chài ngủ say) đến nỗi “tuyết mãn
thuyền” (tuyết rơi đầy thuyền) không hay biết, vừa lãng mạn phóng khoáng,
vừa cô đọng, dồn nén nhiều ý tưởng. Nó gợi đến không hẳn là cái phiêu diêu
chất ngất của một thiền sư muốn quên đời thoát tục, mà là một thái độ yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống. Hành động thì vô tình nhưng cách ứng xử lại đầy
tình ý, khiến bài thơ đã đẹp lại vô cùng sâu lắng.
Tuy nhiên, nếu nói đến sự kết hợp giữa TĐL với loại hình trào phúng thì
có vẻ như giai đoạn này chưa hề xuất hiện. Do các nhà thơ hầu hết là các
thiền sư, cho nên sáng tác thơ với họ chủ yếu để bày tỏ những quan niệm triết
lý của đạo Phật, chứ không phải là những quan điểm, thái độ sống hay phản
ánh thế sự đời tư như giai đoạn sau này. Họ sử dụng thể TĐL vì cái khuôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khổ “tiết kiệm nhất về mặt ngôn từ” của nó cùng với những quy định nghiêm
20
ngặt về niêm, luật, vần, đối rất phù hợp với yêu cầu nói ngắn và khúc triết của
nhà Phật. Yếu tố trào phúng chưa xuất hiện trong TĐL thời kỳ này.
Bước sang thời Trần, việc sáng tác thơ ca không gắn với nhu cầu “truyền
đạo” như thời kỳ trước. Hàm súc không còn là yếu tố duy nhất mà các nhà thơ
chú ý khai thác khi sử dụng thể TĐL. Để thích ứng với phạm vi đề tài đã bắt
đầu phong phú hơn, các tác giả chú ý khai thác những đặc trưng khác của thể
TĐL như tính cân đối, hài hoà, ổn định về thanh điệu bên cạnh tính tương
phản của nó. Những bài viết về đời sống xã hội phần lớn xoay quanh cuộc
sống nơi cung đình, phẩm chất của người quân tử, thành công của kẻ chí hoặc
cuộc sống thanh bình nơi thôn dã chứ chưa trào lộng thói đời, thói người. Lời
thơ, ý thơ và cả tư tưởng trong TĐL đã bắt đầu phóng khoáng hơn rất nhiều
nhưng yếu tố trào lộng vẫn chưa xuất hiện. Mặc dù cũng có ý kiến cho rằng ở
thời Trần, Nguyễn Sĩ Cố có làm thơ hài hước, nhưng hiện nay thơ quốc âm
của ông không còn nên khó có thể đưa ra những ý kiến thuyết phục.
Bước sang thế kỷ XV, cùng với quá trình thể nghiệm và dần hoàn thiện
của văn học Nôm, thơ Đường luật Nôm với sự đóng góp của Quốc âm thi tập
(Nguyễn Trãi) và Hồng Đức quốc âm thi tập (Lê Thánh Tông và hội Tao
đàn), chính thức trở thành bộ phận quan trọng, hợp với TĐL chữ Hán tạo nên
diện mạo vẻ vang cho TĐL Việt Nam thế kỷ XV. Và điều đáng nói là, cùng
với sự xuất hiện đầy thuyết phục của văn học Nôm, TĐLTP Việt Nam cũng
xuất hiện và nhanh chóng trở nên vô cùng hấp dẫn. Ngôn ngữ Hán với đặc
điểm trang trọng, thanh nhã, hàm súc và tinh luyện thời điểm này chưa được
khai thác để thể hiện nội dung châm biếm, đả kích, những cái xấu xa tiêu cực,
lỗi thời, lạc hậu trong xã hội. Trong khi cái chất “nôm na” dân dã của ngôn
ngữ Nôm lại cho phép người viết thỏa sức bông lơn, mỉa mai, phóng đại gây
cười. Và sự kết hợp tài tình giữa loại hình trào phúng với Đường luật Nôm đã
biến một thể loại vốn trang trọng đài các của dòng văn học bác học, trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thứ thơ tự nhiên giản dị, phù hợp với lối sống lối nghĩ của nhân dân.
21
Cho nên xét trong tiến trình lịch sử văn học viết Việt Nam, Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi vừa là tác phẩm Nôm quy mô đầu tiên của nước ta, vừa
là tập thơ Việt Nam đầu tiên có những tác phẩm TĐLTP. Mặc dù trong Quốc
âm thi tập, Nguyễn Trãi chỉ mới có đôi nét trào phúng, nhưng việc những câu
thơ 6 chữ (lục ngôn) xen với những câu 7 chữ (thất ngôn), (vốn không phải
của thơ Đường luật đích thực) trở nên phổ biến trong Quốc âm thi tập, khiến
Nguyễn Trãi trở thành người “khai sơn phá thạch” cho việc giải tỏa những
quy định gò bó của thể cách luật để xây dựng một lối TĐL Việt Nam, mang
đậm bản sắc dân tộc. Tuy chưa thể nói đến sự chính thức ghi nhận dòng
Đường luật trào phúng, nhưng kết hợp với chữ Nôm, đặc biệt là dùng lối phá
cách, TĐL từ một thể loại trang trọng, khúc triết, khép kín... trở nên một một
thể loại linh hoạt biến ảo khôn lường. Nó vừa vẫn đảm bảo đặc trưng hàm
súc, cô đọng, với độ dồn nén giàu ý tưởng “ít lời nhiều ý”, nhưng đồng thời
lại có khả năng thể hiện những tình cảm, cảm xúc, hứng thú bất ngờ không
theo một khuôn hình có sẵn. Nguyễn Trãi giống như một người khởi xướng
cho một hướng đi, một diện mạo hoàn toàn khác của TĐL Việt Nam nói
chung, thơ Nôm Đường luật nói riêng. Đây cũng là một trong những bước
phát triển độc đáo của TĐL Việt Nam ở giai đoạn này, tạo ra sự khác biệt của
Đường luật Nôm so với Đường luật Hán. Mặc dù với 30 bài TĐL có yếu tố
trào phúng trên tổng số 254 bài thơ Đường luật trong Quốc âm thi tập,
TĐLTP Nguyễn Trãi chưa chiếm tỷ lệ ưu trội, nhưng với một người vốn rất
mực thước như Nguyễn Trãi thì con số này quả là bước đột phá trong chặng
đường đầu tiên này.
Về nội dung, TĐLTP Nguyễn Trãi phần lớn là tự trào và hài hước.
Những bài hài hước, đả kích chưa nhiều và chưa thể độc đáo như Hồ Xuân
Hương sau này, nhưng chất hài hước nhẹ nhàng trong thơ ông đã mở ra
một lối viết mới, tạo được nhiều tình huống bất ngờ, gây hứng thú cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người đọc.
22
Ðường thông thuở chống một cày,
Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây.
Bẻ cái trúc hòng phân suối,
Quét con am để chứa mây.
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,
Ông này đã có thú ông này.
(Mạn thuật bài 6)
Rõ ràng ý tưởng quét am để chứa mây, giữ yên lặng mặt ao để chờ
trăng, không chặt cây để chim có chỗ đậu.. xuất phát từ tấm lòng ưu ái với
thiên nhiên, nhưng cách nói, cách diễn tả thì vô cùng dí dỏm. Ông nói
“tham’, nói “ngại” là muốn hài hước cho cái sự không nỡ can thiệp vào quy
luật và vẻ đẹp của tự nhiên của mình. Những câu thơ như thế đúng là ẩn giấu
nụ cười dung dị.
Trong bài Tích cảnh (bài 4), cũng bằng một chút hóm hỉnh nhẹ nhàng,
Nguyễn Trãi đã vô tình hé lộ chất hài hước trong thơ ông. Không than thở vì
tuổi xuân qua đi, trái lại vui với cảm giác của một người có tuổi, nhưng vẫn
lạc quan yêu đời:
Tiếc thiếu niên qua lật hạn lành
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc
Đầu bạc xưa này có thuở xanh
(Tích cảnh , bài 4)
Bước sang nửa cuối thế kỉ XV, trong bối cảnh trật tự phong kiến đang
củng cố vững mạnh, Nho học được đặc biệt đề cao, văn học nhìn chung sáng
tác theo quan điểm chính thống, nặng về ca ngợi, thù phụng, thơ Đường luật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trào phúng có vẻ không có đất để phát triển. Hồng Đức quốc âm thi
23
tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn có tới 283 bài thơ Đường
Luật, nhưng những bài thơ Đường luật có yếu tố trào phúng không nhiều
(41/283). Tuy nhiên, điều đặc biệt khiến bộ phận này không hoàn toàn mờ
nhạt vì HĐQATT có hẳn một mảng thơ đề vịnh mang màu sắc tiếu lâm (Phẩm
vật môn), và yếu tố trào phúng không chỉ là hài hước nhẹ nhàng mà còn trào
lộng rất rõ nét:
Miệng cười hớn hở hoa in nhị,
Má đỏ hồng hồng tóc vén mây.
Ấy rắp phất cờ trêu ghẹo tiểu,
Hay toan bốc gạo thử thung thầy.
(Tượng Bà Đanh)
Lòng bòng vó cất bên kia bãi,
Đủng đỉnh chày đâm mái nọ non.
Cắm, nhổ đầu ghềnh sào mấy cỗi,
Nhấp nhô mặt nước đá hay hòn.
(Vụng Bàn than)
Tế hậu thổ khom khom cật
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Cột nhổ đem về lỗ bỏ không
(Cây đánh đu)
Đọc những câu thơ trên, không ai ngờ trong dòng thơ cung đình vốn rất
trang nhã của nhị thập bát tú thời Lê lại có thể bắt gặp lối trào phúng đầy ám
ảnh như thế. Những từ ngữ táo bạo như “vén”, “ghẹo”, “bốc”, “vó cất”, “chày
đâm”, “cắm, nhổ”, “nhấp nhô”, không chỉ khiến người đọc giật mình liên
tưởng tới lối trào lộng gai góc của Hồ Xuân Hương sau này, mà còn mơ hồ
cảm thấy, chính bút pháp trào lộng của bà chúa thơ Nôm hình như là sự kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thừa và hoàn thiện lối trào phúng có từ thời Hồng Đức. Tác giả Trần Quang
24
Dũng khẳng định: “Nếu văn học dân tộc ở các thế kỷ XVIII – XIX giành
được những đỉnh cao chói lọi của thơ trào phúng bởi một Hồ Xuân Hương,
một Tú Xương, Nguyễn Khuyến... thì đâu phải nó không được bắt đầu từ
những viên gạch lát của trường thơ Hồng Đức cách đây ba bốn thế kỷ? Đâu
phải những câu thơ tuyệt tác họ Hồ không được đào luyện nên từ trong bút
pháp trào phúng, ngôn ngữ trào phúng của cái cung đình thi ca mà người
đứng đầu là Lê Thánh Tông Hoàng đến”[1]. Trong bài Thi pháp hoàng gia
của văn học thời Hồng Đức, tác giả Hoàng Thị Tuyết Mai cũng nhận xét:
“Hồng Đức Quốc âm thi tập là tác phẩm mở đầu cho thể tài thơ Nôm vịnh
Nam sử và mở đầu cho xu hướng pha trộn màu sắc tiếu lâm trong thơ đề vịnh
như là một cách gia tăng vị thế của dân tộc. Đây là nét mới mẻ của tập thơ, là
mảng khu biệt về đề tài so với những sáng tác văn học Nôm trước đó”[24].
Do đặc điểm tác giả (là sáng tác tập thể) HĐQATT ít bài tự trào (ngoài
bài Trường An xuân mộ là thơ tự trào của Thái Thuận) còn lại hầu hết là trào
lộng nhẹ nhàng. Những bài như: Vịnh tượng Bà Banh; Vịnh con cóc; Con
giận; Con muỗi; Cái quạt; Cối xay; Cây đánh đu..., đều là bước phát triển tiếp
theo của lối Đường luật phá cách có từ Nguyễn Trãi. Sự tiếp biến đầy sáng
tạo của các tác giả thời Hồng Đức về thể cách và nội dung trào lộng, cách trào
lộng thêm một lần nữa khẳng định khả năng kết hợp giữa cốt cách trang trọng,
cổ kính của thơ Đường luật với yếu tố trào phúng trong bộ phận văn học
chính thống.
Như vậy, đến HĐQATT, sự hiện diện của dòng TĐLTP Việt Nam
dường như đã chính thức được xác nhận. Mặc dù tỷ lệ TĐLTP còn khiêm tốn,
nhưng những gì mà HĐQATT làm được phần nào đã “khiến cho tính chất
cung đình của lối văn chương quan phương, điển phạm của tập thơ mang một
sắc thái mới, tạo được không khí chân tình, gần gũi giữa tác giả và độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giả”[1].
25
Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII, văn học nói chung, thơ Đường
luật nói riêng sáng tác trong bối cảnh chế độ phong kiến bắt đầu suy thoái.
Diện mạo, tính chất và đặc điểm của văn học do những tác động của xã hội
cũng có những biến đổi quan trọng. Nội dung các sáng tác thì chuyển từ ca
ngợi đất nước thái bình sang đấu tranh chống phong kiến. Lực lượng sáng tác
ngoài các Nho sĩ trốn cung đình, còn xuất hiện ngày càng nhiều những Nho sĩ
ẩn dật và Nho sĩ bình dân. Thể tài, ngôn ngữ do tiếp thu từ văn học dân gian có
những sáng tạo đáng kể. “Việc nâng cao thể loại thơ ca dân gian thành thể thơ
dân tộc, lục bát và song thất lục bát chứng minh một cách hùng hồn ảnh hưởng
to lớn của văn học dân gian đối với việc xây dựng những thể loại mới của văn
học viết dân tộc”[14]. Nhưng tất cả những thay đổi đáng kể đó đều chưa làm
mờ được vị trí chủ đạo của thơ Đường luật. Phát triển cả ở hai bộ phận chữ
Hán và chữ Nôm, Đường luật thời kỳ này vẫn được xem là nở rộ. Tiêu biểu
cho Đường luật Nôm là Bạch Vân Quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (170
bài) và Ngự đề thiên hòa doanh bách vịnh của Trịnh Căn (100 bài). Còn Đường
luật Hán ngoài Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (ban đầu gồm
hàng ngàn bài), Việt giám vịnh sử của Đặng Minh Khiêm, Ngôn chí thi tập,
Huấn đồng thi tập, Mai lĩnh sứ Hoa thi tập và Sứ Hoa bút thủ trạch thi của
Phùng Khắc khoan (gồm hơn 600 bài) còn có tới hơn 30 tập thơ của gần 30 tác
giả với vài ngàn bài thơ về đạo lý, vịnh sử, bang giao... Trong con số khổng lồ
này, TĐLTP xuất hiện ở hầu hết các cây bút.
Do “biện pháp trào phúng, châm biếm xuất hiện trong các tác phẩm
nhiều hơn các thế kỷ trước. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Kịch bản tuồng,
phú Nguyễn Hàng, Nguyễn Bá Lân, Vè Nguyễn Cư Trinh, diễn ca lịch sử,
một số thơ vịnh sử... đều có ít nhiều chất trào lộng hài hước, châm biếm, mỉa
mai” (14, tr.409), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, NXB Giáo
dục), cho nên TĐLTP nếu nhìn vào tiến trình có thể xem đây là thời kỳ bắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đầu nở rộ. Điều đặc biệt là, lần đầu tiên trong lịch sử thơ Đường luật Việt
26
Nam, yếu tố trào phúng xuất hiện cả trong Đường luật Hán và Đường luật
Nôm. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi và các nhà thơ thời Hồng Đức chưa làm
được điều này. Đường luật Nôm ghi nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
Khoan, Hoàng Sĩ Khải, Bùi Vịnh... Nhưng đánh giá công lao và sự sáng tạo,
thì chủ yếu nhìn vào Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Mặc dù Đường luật trào phúng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tiếp tục phát triển
lối thơ Đường luật phá cách mà Nguyễn Trãi và Hội Tao Đàn đã tạo nên,
nhưng đến Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có thể coi là đã hoàn tất một quá trình
thể nghiệm. Với nội dung này, Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng những chứng
minh, ưu thế của sự kết hợp giữa một nội dung “không nghiêm chỉnh” với
một “hình thức nghiêm chỉnh” có thể gây hiệu quả nghệ thuật, mà còn chứng
minh rằng, với thể ĐL, không phải chỉ tìm đến một lối thơ phá cách, mới có
thể tạo cảm giác thoải mái cho bài thơ. Ngược lại, sự thoải mái lại tìm thấy
ngay trong chính những quy định ngặt nghèo nhất về thể cách. Chẳng hạn
ông đã phát huy mạnh mẽ ưu thế “đối” để trào phúng, trong khi ai cũng nghĩ
“đối” là yêu cầu khắt khe nhất trong thơ Luật (vì nó buộc hai vế phải đối
nhau cả về ý, thanh, từ loại...) và vì có “đối” bài thơ càng tăng thêm vẻ trang
trọng, nghiêm chỉnh.
Có lẽ ngay từ thời đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hiểu rất rõ “kiểu kết cấu
song hành” này có thể đem đến nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau, trong đó hai
sắc thái căn bản là: đồng nghĩa và trái ngược phản đề. Với sắc thái thứ nhất,
“đối” làm cho cấu trúc bài thơ thêm cân đối hài hoà vì tự nó xác lập quan hệ
giữa các liên thơ, ý thơ mà không cần các từ quan hệ. Có nhiều câu thơ, ngoài
ý nghĩa tự thân nó còn có một phần ý nghĩa được gửi gắm ở câu đối diện. Với
sắc thái thứ hai, “đối” đem đến những quan hệ mâu thuẫn đối lập, hai câu thơ
như bị chia ra trong cái thế tách bạch vừa ghép đôi với nhau nhưng vừa đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lập nhau. Vì thế nhiều bài trào phúng của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy vẫn
27
nghiêm chỉnh thực hiện “đối” mà người đọc lại có cảm giác cấu trúc của nó
đang bị phá vỡ mất cân bằng.
1.2.1.2. Thơ Đường luật trào phúng thời kỳ phát triển rực rỡ (TK XVIII -
TK XIX)
So với tám thế kỷ văn học trước đó, ở nửa cuối thế kỷ XVIII, lịch sử
TĐL Việt Nam chưa bao giờ chứng kiến, một sự phát triển mạnh mẽ cả về
chất và lượng như thế. Công tác thống kê học gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ
riêng bộ phận TĐL Nôm đã bao gồm một số lượng tác giả lớn. Còn với bộ
phận TĐL bằng chữ Hán thì ngay đến tên của các thi tập còn không dễ dàng
thống kê hết, huống hồ là TĐL trong các thi tập đó.
Có thể kể ra đây một số trường hợp tiêu biểu như sau: Cuốn Hồ Xuân
Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm và giai thoại NXB Văn Hoá thông tin Hà Nội
1999, có 120 bài TĐL trên tổng số 137 đơn vị tác phẩm; cuốn Thơ chữ Hán
Nguyễn Du Nxb Văn học Hà Nội 1988, có 224 bài TĐL trên tổng số 249 đơn
vị tác phẩm; cuốn Thơ văn Nguyễn Công Trứ Nxb Văn học Hà Nội, 1883 có
46 bài TĐL trên tổng số 108 đơn vị tác phẩm; cuốn Thơ văn Hán Cao Bá
Quát Nxb Văn học, Hà Nội, 1997 có 121 bài TĐL trên tổng số 166 đơn vị tác
phẩm; cuốn Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn Nxb Văn hoá Viện văn học 1961, có
107 bài TĐL trên tổng số 121 đơn vị tác phẩm; cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến
NXB Văn học Hà Nội 1979 có 224 bài TĐL trên tổng số 289 đơn vị tác
phẩm; cuốn Tú Xương con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn 1997, có 90
bài TĐL, trên tổng số 113 đơn vị tác phẩm; cuốn Thơ văn yêu nước nửa sau thế
kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, có 214 bài TĐL trên tổng số 269 đơn vị tác
phẩm (của 51 tác giả)...
Có thể nói, thơ Đường luật từ khi nhập vào Việt Nam đến giữa thế kỷ
XVIII đã trải qua một chặng đường dài phát triển và đóng góp nhiều thành
tựu rực rỡ. Tuy lịch sử luôn luôn biến động và đi kèm với những biến động ấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là diễn biến phức tạp của những yếu tố tư tưởng, chính trị, tình cảm, thị hiếu...
28
liên tục tác động đến quá trình sáng tác văn học (trong đó có quá trình sáng
tác TĐL), nhưng thơ Đường luật với những đặc điểm khá ổn định của nó lại
tỏ ra khá linh hoạt khi thích ứng với nhiều loại tư tưởng, tình cảm ở nhiều
giai đoạn khác nhau. Và khả năng này đã được phát huy đến cao độ ở giai
đoạn cuối của văn học trung đại – giai đoạn từ giữa thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ XIX khi nó kết hợp với loại hình trào phúng.
Các nhà nho tài tử đầu tiên, mở màn cho dòng thơ tự trào là Phạm Thái,
Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát... Nguyễn Công Trứ có khá nhiều thơ trào
phúng, nhưng rất tiếc ông lại rất ít khi dùng TĐL. Vì thế dòng ĐL trào phúng
không ghi nhận đóng góp của ông. Cao Bá Quát ngược lại, chẳng những dùng
nhiều thể TĐL mà hầu hết những bài có yếu tố trào phúng cũng đều là TĐL.
TĐL TP Cao Bá Quát có chút phong vị riêng. Không đả kích hoặc châm biếm
những thói hư tật xấu của xã hội, ông tự vẽ mình bằng những nét vẽ ngông
cuồng giống như một người kiêu bạc ngã mạn không chấp thói đời . Sau này
thơ ngông Cao Bá Quát cũng được xem là một trong đóng góp lớn cho dòng
thơ trào phúng thời kỳ này.
Tất nhiên, để đánh giá sự nở rộ và đỉnh cao của dòng TĐLTP Việt Nam
thời trung đại, không ai không thừa nhận Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,
Tú Xương là ba cây bút trào phúng bậc thầy của văn học dân tộc. Chưa kể về
số lượng không hơn kém nhau bao nhiêu (Hồ Xuân Hương với 117/120,
Nguyễn Khuyến 142/224, Tú Xương 94/134) mà về chất lượng cũng khó
phân cao thấp. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy nhận xét: “Người Việt tuy hay
cười, nhưng ít cười hay. Bởi thế cho đến nay, thơ Việt chỉ có ba cái cười đáng
kể/nể. Đó là cười Xuân Hương, cười Nguyễn Khuyến và cười Tú Xương”[39].
Nếu đánh giá tiến tiến trình phát triển của dòng TĐLTP từ góc độ thể loại,
chắc chắn sẽ thấy, khi kết hợp với loại hình trào phúng, thơ của họ đã bỏ xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trình độ sáng tác TĐLTP của những thế kỷ trước đó. Mỗi người theo mỗi
29
cách khác nhau, đã đem đến cho dòng TĐLTP những phong cách riêng vô
cùng độc đáo.
Với Hồ Xuân Hương, nếu chỉ xét riêng những đóng góp cho tiến trình
vận động thể loại TĐL, bà đã có công biến TĐL trở thành một loại hình nghệ
thuật bình dân, xa rời những hình thức ước lệ, tượng trưng, gò bó. Chính Hồ
Xuân Hương chứ không phải ai khác đã làm cho những quy định nghiêm ngặt
của thể TĐL trở nên linh hoạt, biến hoá khôn lường. Từ cách ngắt nhịp, gieo
vần đến nghệ thuật xắp chữ vốn vẫn là thao tác quen thuộc của TĐL, đều
được Hồ Xuân Hương làm cho trở nên một nghệ thuật chơi chữ rất tài tình,
lời đan ý vô cùng hiệu quả. Còn nếu xét những đóng góp của Hồ Xuân Hương
cho dòng TĐL TP thì phải thấy Hồ Xuân Hương thực sự là một bước tiến
vượt bậc trong lịch sử TĐL TP trung đại Việt Nam. Nếu như trước đây, sáng
tác thơ thường gắn với phong cách thời đại, phong cách thể loại, thì với Hồ
Xuân Hương, bằng Nôm Đường luật trào phúng bà đã tạo nên phong cách tác
giả. Nôm Đường luật trào phúng Hồ Xuân Hương, hoàn toàn thoát ra khỏi lối
thơ trang nghiêm cổ kính để đi theo lối bình dân hóa. Tiếng cười trào phúng
trong TĐL Hồ Xuân Hương tuy là tiếng cười hồn nhiên, dân dã, tiếng cười
của niềm vui sống, khát khao sống đến tận cùng chân thực, nhưng lời lẽ lại vô
cùng hiểm hóc. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ Tản Đà đã phải kinh ngạc thốt
lên: “Thơ Xuân Hương thật là tinh quái, những câu hay đọc lên đến ghê
người. Người ta thường có câu thi trung hữu họa, nghĩa là trong thơ có vẽ;
như thơ Xuân Hương thời lại là thi trung hữu quỷ, nghĩa là trong thơ có ma ”
[11]. “Ma” ở đây chắc hẳn là ma lực, là ám ảnh.
Sau Hồ Xuân Hương, TĐLTP với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, có ý
nghĩa như một vạch nối giữa thơ ĐL thời trung đại và thơ ĐL thời hiện đại.
Mặc dù những thay đổi chưa phải là lớn nhưng vô cùng quan trọng. Mỗi nhà
thơ có nét đặc sắc riêng nhưng họ gặp nhau ở chỗ đã đưa chính mình vào thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
để cười cợt, chế giễu. Mảng sáng tác này giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về
30
tâm hồn, nhân cách của những nhà nho yêu nước nhưng bất lực trước thời
cuộc. Tinh thần phản tỉnh và ý thức tự phê phán là đóng góp mới của cả
Nguyễn Khuyến và Tú Xương ở mảng văn chương trào phúng. Đồng thời trở
thành tiền đề cho dòng văn học hiện thực phê phán sau này phát triển mạnh
mẽ và ghi dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam.
Điều dễ nhận thấy nhất trong những đóng góp của Nguyễn Khuyến cho
TĐL là ngôn ngữ, là lối nói, cách diễn đạt, là việc phát triển những yếu tố đời
thường. Bên cạnh đó, về thể loại, Nguyễn Khuyến còn kích thích để sự chặt
chẽ, hoàn thiện của TĐL trở nên rộng rãi cởi mở hơn. Ông đã thêm vào nội
dung phản ánh của thể thơ này những tương quan mới mà trước đó các tác giả
khác đã dùng như một quy ước.
Riêng về Đường luật trào phúng, thơ Nguyễn Khuyến không chỉ xuất
hiện trong dòng Đường luật Nôm mà xuất hiện cả trong bộ phận thơ Đường
luật bằng chữ Hán. Khác với tiếng cười hồn nhiên dân dã của Hồ Xuân
Hương, nếu với Nôm Đường, Nguyễn Khuyến ẩn mình vào đời sống nơi thôn
dã để quan sát thời cuộc và cho ra đời những câu thơ tự trào tinh tế, sắc sảo,
thì với Đường luật Hán, ông mỉa mai phê phán sự bạc nhược, rệu rã của thói
đời. Đúng là khi một người uyên bác cất tiếng cười thì tiếng cười thật sâu và
ngấm. Mặc dù không phải là người đầu tiên viết thơ Đường luật trào phúng
bằng chữ Hán vì: “Nguyễn Khuyến đã tiếp nối và phát triển nụ cười hài hước
trong thơ tự trào nhà Nho của Nguyễn Như Đổ (1423 – 1525), Phùng Khắc
Khoan (1528 – 1613), Nguyễn Hành (1771 – 1824) cũng như tiếng cười
phúng thích thế sự trong thơ các tác gia Hán Nôm như Chu Đường Anh(?),
Trần Nguyên Đán (1325 -1390), Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), Cao Bá Quát
(1809 – 1854)... Cả hai tiếng cười (tự trào và phúng thích thế sự) từ thơ trào
phúng chữ Hán truyền thống đã thâm nhập vào thơ Nguyễn Khuyến để rồi
được tái tạo với nội dung hiện thực mới và hình thức trào lộng chơi chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phúng dụ” [39]. Nhưng Nguyễn Khuyến vẫn được ghi nhận như là người đầu
31
tiên có công lớn nhất khi đưa nội dung trào phúng vào TĐL Hán để sau này
nó tiếp tục phát triển trong TĐL Hán của Phan Bội Châu và Nhật ký trong tù
của Hồ Chí Minh.
Đại biểu và cũng là đỉnh cao cuối cùng của TĐLTP Việt Nam thời trung
đại là Tú Xương. Mặc dù hầu hết các học giả khi nghiên cứu thơ Tú Xương
đều khẳng định: Tú Xương là bậc thầy của nghệ thuật thơ trào phúng Việt
Nam. Nhưng xét về thể loại có lẽ cần khẳng định thêm: Tú xương là bậc thầy
của TĐLTP Việt Nam thời trung đại. Không dừng lại ở việc điểm mặt, phóng
đại, lố bịch hóa những thói hư tật xấu trong xã hội như Hồ Xuân Hương và
Nguyễn Khuyến, nhà thơ Tú Xương muốn lôi ra ngoài ánh sáng và lột trần
bản chất của những cái xấu xa trong xã hội bằng những câu trào phúng sâu
cay. Đặc biệt nếu TĐL trào phúng Nguyễn Khuyến vẫn còn vướng víu với
quan điểm Nho, nên trào lộng trong sự mực thước của mình, thì ngược lại,
TĐL trào phúng Tú Xương gần như “khước từ tính ngôn chí, tính giáo hóa,
răn đời chung chung kiểu nhà nho, mà quan tâm đến cái cụ thể, cái đời
thường, một đặc trưng của tính hiện đại” [39].
Để trả lời cho câu hỏi: thơ Đường luật du nhập Việt Nam vào năm nào,
tác giả Ngô Văn Phú, trong cuốn “Thơ Đường ở Việt Nam”, đã xác định thời
điểm thơ Đường (trong đó có thơ Đường luật) du nhập vào Việt Nam vào thế
kỉ thứ X. Và thơ Đường luật đã xuất hiện ngay trong những bài thơ thiền thời
nhà Lý. “Quốc tộ” của Đỗ Pháp Thuận và “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường
Kiệt (?) là những bài thơ đầu tiên của nước ta được sáng tác theo đúng quy
định của bài thơ cách luật. Tuy nhiên, khi mới xuất hiện, thơ Đường luật được
các nhà sư (nhà thơ) sáng tác với mục đích dùng thơ để truyền đạo của nhà
Phật [dẫn theo 48].
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát thơ Đường luật trung đại Việt Nam,
chúng tôi nhận thấy, yếu tố trào phúng trong thơ Đường luật đã được quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tâm từ thời tiền Lê và thời Lý. Theo Vũ Ngọc Phan, Đại Việt sử ký toàn thư
32
chép rằng: “vào khoảng cuối thế kỉ X, trong cung nhà vua đã có người giao
việc làm hề để mua vui cho triều đình. Tên người hề đó là Liêu Thủ Tâm,
phục vụ cho vua Lê Ngọa Triều. Tiếp đó, sử lại chép một câu chơi chữ rất tục.
Chuyện xảy ra dưới thời Lý Anh Tông. Đỗ Anh Vũ chuyên quyền, bị các
triều thần phản đối, bắt y giam giữ. Y đem tiền của ra đút lót cho quan Điện
tiền Vũ Đái. Vũ Đái nhận lợi lộc, bị các quan chửi bới thậm tệ. Họ bảo Điện
tiền là Vũ Cứt chứ không phải Vũ Đái” [49, tr.36]. Như vậy, tính chất trào
phúng đã xuất hiện thông qua nghệ thuật chơi chữ nhưng còn mờ nhạt, ít ỏi.
Ở đời nhà Trần, trong sách Toàn Việt thi lục chép hai bài thơ chữ Hán
của Nguyễn Sĩ Cố có ý vị hài hước, đó là bài Tùng giá Tây chinh yết Tản Viên
từ và Tùng giá Tây chinh yết Uy Hiển Vương từ. Cũng ở đời Trần, bài thơ Đề
Đường Minh Hoàng dục mã đồ của Chu Đường Anh (hiệu là Liêu Thủy),
chép trong Hoàng Việt thi tuyển do nhóm Lê Quý Đôn phiên âm và dịch năm
1957, có tính chất trào phúng khá đậm nét. Như vậy, tuy tác phẩm không
nhiều, nhưng điểm qua vài tác giả, ta thấy mầm mống của trào phúng đã xuất
hiện trong văn học Việt Nam từ đời Lý -Trần.
Sau ba tác giả trên, sử sách không ghi lại tác phẩm trào phúng của các
tác giả khác. Phải đến thế kỉ thứ XV, tiếng cười trào phúng mới thấy xuất hiện
rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Trãi, đặc biệt là thơ Nôm. Riêng về thơ
Nôm Đường luật trào phúng, ta không thể không nhắc tới Quốc Âm thi tập,
của Nguyễn Trãi (tỉ lệ thơ trào phúng chiếm 11,8%), Hồng Đức quốc âm thi
tập của Lê Thánh Tông (tỉ lệ thơ trào phúng chiếm 12,5%), và các tác giả thời
Hồng Đức, Thánh Tông di thảo và Thập giới cô hồn quốc ngữ văn tương
truyền của Lê Thánh Tông, đây là những tác phẩm có chất trào phúng tương
đối đậm nét.
Sang thế kỉ thứ XVI, trước tình cảnh suy tàn của xã hội, đối tượng trào
phúng đã cụ thể và có ý nghĩa xã hội cao trong thơ trào phúng chữ Hán trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đó. Bài thơ Tăng thử của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ví dụ. Đến thế kỉ thứ
33
XVII, tiếng cười trào phúng xuất hiện trong Thiên Nam ngữ lục – tác phẩm có
đoạn thơ kể về câu chuyện: trời sai quỷ sứ xuống bắt Hạ Hầu Cai – kẻ hung
dữ nhưng bị Hầu Cai đuổi đánh, quỷ sứ sợ trời phạt nên bắt Phạm Khả Tri –
người hiền lành thế mạng. Nguyễn Sĩ Thành, khi đó đang làm chức giám sinh,
tính tình cương trực, ở gần nhà Hầu Cai và Khả Tri, thấy sự bất công nên làm
bài thơ gửi lên thiên đình công kích trời. Sau khi hỏi rõ đầu đuôi, trời tìm cách
giết Hạ Hầu Cai, đền đáp cho Phạm Khả Tri. Bài thơ đã thể hiện hàm ý phê
phán những bất công trong xã hội của người xưa.
Đến thế kỉ XVIII, tiếng cười trào phúng phát triển mạnh mẽ hơn, rõ nét
hơn, vang dội hơn, lôi cuốn được nhiều tác giả hơn, ta có thể kể đến các nhà
thơ như: Đoàn Thị Điểm (tập Truyền kì tân phả), Nguyễn Bá Lân (Giai cảnh
hứng tình và Ngã ba Hạc phú), Ngô Ngọc Du (Đề tranh Lê Thánh Tông),
Phạm Thái (Tự trào), Nguyễn Du (Phản chiêu hồn, Tần Cối tượng)…
Thơ trào phúng cuối thế kỉ XVIII – giữa thế kỉ XIX thiên về phúng thích
xã hội, cười nhạo sự trớ trêu của đời người, của nền chính trị suy thoái. Nghệ
thuật trào phúng thời điểm này nghiêng về tiếng cười hài hước, mỉa mai bóng
gió, chưa đến mức gay gắt. Sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ
Nôm với 37/40 bài thơ trào phúng (chiếm tỷ lệ 92,5%) cùng với những tên
tuổi như Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ… đã viết lên những
trang thơ Nôm trào phúng rực rỡ cho nền văn học trung đại Việt Nam.
Từ giữa thế kỉ XIX đến cuối thế kỉ XIX, từ nỗi đau mất nước, ngòi bút
trào phúng của Nguyễn Khuyến (trước khi về Yên Đổ: 11 bài, sau khi về Yên
đổ khoảng trên dưới 20 bài), Nguyễn Hữu Huân (1 bài), Nguyễn Xuân Ôn (11
bài),… tập trung đả kích bọn thực dân xâm lược và bè lũ quan lại đớn hèn,
bán nước cầu vinh cùng những thói hư tật xấu trong xã hội.
Như vậy, thơ Đường luật trào phúng Việt Nam đã hình thành và phát
triển lâu dài, từ thế kỉ X với đến thế kỉ XIX với những thi phẩm trào phúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
độc đáo và đầy ấn tượng. Và không dừng lại ở đó, thơ Đường luật trào phúng
34
trước thế kỉ XX còn được tiếp nối, phát triển trong văn học Việt Nam cận hiện
đại sau này.
1.2.2. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX
Bước sang thế kỉ XX, nền Hán học dần bị thay thế bởi văn học chữ quốc
ngữ. Tuy nhiên, tỉ lệ thơ Đường luật vẫn chiếm một số lượng ưu trội với đội
ngũ sáng tác đa thành phần (nhà Nho cũ, nhà Nho mới, tri thức tân học, nông
dân lao động…). Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, thơ Đường
luật nửa đầu thế kỉ XX ra mặt bạn đọc với số lượng nhiều chưa từng có, nhất
là từ năm 1917 trở đi.
Theo thống kê của TS. Trần Thị Lệ Thanh trong cuốn Đặc điểm thơ
Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỉ KK đến năm 1945, “từ năm 1917 đến
năm 1922: Vũ Tích Cống 45 bài, Nguyễn Ái Hoa 15 bài, Vũ Khắc Tiệp 10
bài, Lê Đình Huyến 36 bài, Nguyễn Mạnh Xứng 23 bài... Từ 1923 đển 1926:
Dưong Đình Tẩy 28 bài, Trần Huy Liệu 37 bài, Nguyễn Trung Khuyến 37
bài, Tạ Quang Ninh 23 bài, Nguyễn Văn, Năng 52 bài, Bùi Hữu Diên 23 bài,
Đỗ Khẳc Sương 10 bài, Lê Mạnh Trinh 12 bài, Đặng Xuân Quýnh 12 bài,
Phảc Ngọc Phạm Thấu 38 bài, Đoàn Tịnh Canh 75 bài, Đoàn Nhữ Nam 43
bài, Nguyễn Hữu Chiếu 22 bài, Minh Phượng 13 bài...”[48, tr.102].
Thơ Đường luật có giảm đi đôi chút từ năm 1927, nhưng cường độ sáng
tác ở một số tác giả lại có phần tăng lên. Ví dụ, chỉ trong hai năm, “Bùi Hữu
Yên có tới 40 bài, Lê Bạch Như 37 bài, Nhàn Vân Đình 54 bài... Thậm chí,
chỉ một năm (1931), Đông Hồ có 42 bài, Vị Thường Vũ Bắc có 32 bài, Mộng
Lan 31 bài... hoặc chỉ một số báo (số 154), Thiện Trường có 22 bài, Từ Vân
có 10 bài, Nguyễn Sĩ An có 15 bài, Mộng Lan 31 có bài [48, tr.102], Tản Đà
có 66 bài, Trần Tuấn Khải có tới 108 bài…
Thời điểm từ 1929 đến 1945, số lượng thơ Đường luật rất khó xác định.
Trong cuốn “Thơ ca cách mạng 1925 - 1945”, Hoàng Thị Đậu đánh giá:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“Riêng phần văn thơ cách mạng... từ 1925 trở về sau, số lượng thơ văn sưu
35
tầm được hãy còn quá ít. Ngoài thơ văn Xô viết Nghệ tĩnh, là được nhìều
người chú ý, còn rất nhiều phong trào cách mạng như phong trào khởi nghĩa
Nam kỳ, Bắc sơn, Đô lương, phong trào du kích Ba tơ, phong trào tiền khởi
nghĩa... số thơ ca sưu tầm được còn rất ít”[3, tr.5-29]. Cho nên, ngoài Phan
Bội Châu với 573 bài thơ Đường luật bằng quốc ngữ và 15 bài thơ Đường luật
Hán (sáng tác trong thời kỳ làm ông già Bến Ngự (1926-1940) và Hồ Chí
Minh với hơn 200 bài thơ Đường luật bằng chữ Hán được coi là đáng kể nhất
thì các tác giả khác tuy vẫn sáng tác bằng thơ Đường luật nhưng số lượng
giảm hẳn.
Như vậy, mấy trăm bài thơ Đường luật của thời kỳ này so với mấy ngàn
bài thơ Đường luật của thời kỳ trước, cho thấy, thơ Đường luật nửa đầu thế kỉ
XX quá ít ỏi, nhất là thơ Đường luật trào phúng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của
Tú Xương (98 bài), Tản Đà (109 bài), Tú Mỡ (199 bài), Huỳnh Thúc Kháng
(03 bài), Phan Bội Châu (228 bài), Phan Chu Trinh (11 bài), Nguyễn Xuân
Ôn (11 bài), Hồ Chí Minh (50 bài)… đã làm cho số lượng thơ Đường luật trào
phúng Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX nhích lên một chút.
Tiếng cười trào lộng trong thơ Tản Đà xuất hiện với tần số cao trong các
công trình nghiên cứu. Tầm Dương nhận xét: “tiếng cười của Tản Đà không
chỉ dừng lại ở mức độ khôi hài ý nhị nhẹ nhàng, mà có khi nó là tiếng cười
phúng thích khá cay độc…”[47, tr,23].
Tú Mỡ - bậc thầy của thể loại thơ trào phúng ở nửa đầu thế kỉ XX cũng
được nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Trước Cách mạng, ông cười bọn
quan lại tham và dốt, những “ông đồng, bà cốt” gieo rắc mê tín dị đoan cùng
là kẻ dửng mỡ khoe của hoặc sống lố lăng khác đời. Trong kháng chiến chống
Pháp, ông giễu bọn tướng tá thực dân cùng các hạng tay sai. Vì thế, khi nhận
xét về thơ trào phúng của Tú Mỡ, Phạm Thế Ngũ đánh giá: “… trên khắp các
báo, người ta làm thơ trào phúng nhan nhản, nhưng dễ chừng ít ai bắt chước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tác giả Giòng nước ngược in thơ trào phúng của mình ra”[30, tr.616]. Nhà
36
nghiên cứu Hà Văn Đức cũng kết luận: “… nhà thơ Tú Mỡ đã đóng góp phần
quan trọng không thể thay thế được của mình trong nền văn học Việt Nam”
[5, tr.522].
“Nếu Tú Mỡ thường gây được tiếng cười sảng khoái thì thơ Đồ Phồn có
giọng mỉa mai mạnh bạo và cay độc” [44, tr.150]. Tuy không được giới
nghiên cứu quan tâm như Tú Mỡ, song thơ trào phúng của Đồ Phồn (Bùi Huy
Phồn) được giới thiệu nhiều trong Văn học trào phúng Việt Nam, Sơ lược lịch
sử văn học Việt Nam, Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945…
Khảo sát thơ Đường luật Phan Bội Châu, chúng tôi nhận thấy, ông viết
khá nhiều bài thơ trào phúng, đả kích. Tuy trào phúng nhưng thơ Phan Bội
Châu thường dùng ngụ ngôn để phê phán đạo đức hơn là mô tả cái hài lố bịch.
Vì thế, nhắc nhiều tới sự cười (Cười mình, Tự trào, Tự giễu mình, Nực
cười…) nhưng là cười gằn trong hoàn cảnh cay đắng, cười mà đau hơn khóc.
Tiếng cười trong thơ Đường luật Hồ Chí Minh, nhất là tập Nhật kí trong
tù, cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình lớn nhỏ. Trong bài viết
“Bút pháp trào lộng trong Nhật kí trong tù”, Nguyễn Phạm Hùng, Đặng Thị
Thảo nhận xét: “tiếng cười của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù đã đóng
góp vào kho tàng nghệ thuật gây cười một giọng điệu mới”, “góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển của nghệ thuật trào lộng trong văn học Việt
Nam”[13]…
Nhìn lại thơ Đường luật trào phúng Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XX, chúng tôi thấy, việc lật những trang sách cũ để tìm hiểu tiếng cười
trong văn chương là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa tích cực, bởi đây là
những tiền đề lý luận quan trọng, để từ đó, chúng tôi có thể kế thừa trong việc
nghiên cứu và thực hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn hơn đề tài “Thơ đường
luật trào phúng Hồ Chí Minh.
1.3. Khái quát về thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.3.1. Cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
37
1.3.1.1. Cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh
Nguyễn Sinh Cung, tên thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày
19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù
(còn gọi là làng Trùa), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - nơi có truyền thống đấu tranh kiên
cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự
giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung lại theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm
1901, sau khi mẫu thân qua đời, Nguyễn Sinh Cung lại theo cha trở về Nghệ
An, rồi lấy tên Nguyễn Tất Thành. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành lại theo cha
vào Huế, thoạt đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế.
Khoảng cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng
8/1910 vào Phan Thiết, làm giáo viên trường Dục Thanh.
Ngày 05/6/1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người
đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ.
Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc
thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và
nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng
đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây,
Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong
phong trào công nhân Pháp. Tháng 6/1919, thay mặt những người Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
yêu nước, Người gửi bản yêu sách gồm 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới
38
Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (nước Pháp), đòi chính phủ các
nước họp Hội nghị phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênnin. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp tháng
12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành
phố Tours, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Từ năm 1921 đến đầu tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc triển khai nhiều
hoạt động, tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội
lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong câu lạc bộ
Phôbua, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ. Đặc biệt, Người
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực
dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài
viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng
lớp nhân dân.
Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt
động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về
cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; học tập tại
trường Đại học Phương Đông; tham gia đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng Sản;
tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp…
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách
39
mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về
trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng
sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và
có những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xác định đường lối đấu
tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo
Việt Nam độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách
mạng, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam
Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị
toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ
lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngộn độc
lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa
I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp
40
tục cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Tháng 7 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp
định Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng, miền Nam bị đế quốc
Mỹ xâm lược. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng
Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa
nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập. Tên tuổi của Người đã đi vào
lịch sử cách mạng thế giới như là người khởi xướng cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa trong thế kỷ XX.
Năm 1990, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc
(UNESCO) đã tôn vinh Người danh hiệu: Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh
nhân Văn hóa thế giới.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của
một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc
tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc,
cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
41
Với tư cách là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc, Hồ Chí Minh đã để lại
một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc, đa dạng về thể loại và đặc sắc về
phong cách, được viết bằng các ngôn ngữ như tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng
Việt. Nhìn tổng thể, sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh kết tinh trên các
lĩnh vực sau:
Văn chính luận của Hồ Chí Minh bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức
văn hóa, gắn lí luận với thực tiễn, giàu tính luận chiến và vận dụng có hiệu
quả nhiều phương thức biểu hiện. Có khi là những lập luận hùng hồn, đanh
thép, có lúc lại kết hợp hào hoà giữa tình với lý, giọng điệu ôn tồn, thân
mật…Tác phẩm tiêu biểu: “Bản án chế độ thực dân Pháp” và những bài báo
bằng tiếng Pháp với bút danh Nguyễn Ái Quốc đăng trên các tờ báo ở Pari như
báo Người cùng khổ, báo Nhân đạo… Từ sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
những tác phẩm chính luận của Bác thường bám sát từng chặng đường cách
mạng với các tác phẩm tiêu biểu như: “Tuyên ngôn độc lập” (1945), “Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến” (1946), tuyên bố bất hủ “Không có gì quý hơn
độc lập tự do” (1966), “Di chúc”…
Truyện ngắn của Hồ Chí Minh nổi bậc với chất trí tuệ và tính hiện đại.
Người cũng rất linh hoạt trong việc sử dụng các hình thức nghệ thuật khi viết
truyện. Khi viết cho công chúng Pháp đọc, Người sử dụng bút pháp rất Pháp,
rất phương Tây (Pa-ri (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Varen và
Phan Bội Châu” 1925).) Lời than vãn của bà Trưng Trắc… Lúc viết cho
đồng bào ta đọc, Người lại trở về với lối viết truyền thống, rất Việt Nam.
Những trang kí của Nguyễn Ái Quốc đem đến cho người đọc ấn tượng về cái cái
tôi trẻ trung và hồn nhiên, giản dị, say mê, ham học hỏi, có khiếu quan sát sắc
sảo và mau lẹ.
Thơ ca: nhiều bài cổ thi hàm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thuật – thơ hiện đại vận dụng nhiều thể loại và phục vụ có hiệu quả cho nhiệm
42
vụ cách mạng như: “Nhật kí trong tù”, thơ làm ở Việt Bắc (1941-1945) và
trong kháng chiến chống Pháp (“Nguyên tiêu”, “Báo tiệp”, “Cảnh khuya”)…
1.3.1.2. Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có chủ ý trở thành nhà thơ, nhà
văn, nhưng trên con đường hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh nhận thấy văn
chương nghệ thuật là thứ vũ khí sắc bén, phục vụ có hiệu quả cho cuộc cách
mạng và Người đã nắm chắc thứ vũ khí ấy, mài sắc nó và trở thành thành nhà
thơ, nhà văn ngoài ý định của mình.
Trong sự nghiệp văn học, Hồ Chí Minh đã có hệ thống quan điểm sáng
tác tiến bộ, vừa đảm bảo tính nghệ thuật của văn chương vừa gắn văn chương
với đời sống nhân dân, dân tộc.
Là nhà nhà văn, nhà thơ cách mạng, với ham muốn tột bậc: đấu tranh
giành độc lập, tự do cho đất nước, Hồ Chí Minh coi văn học là vũ khí chiến
đấu lợi hại, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Để hoàn thành
xuất sắc trọng trách con dân, Hồ Chí Minh cho rằng: vị trí của nhà văn là ở
giữa cuộc đời để thực hiện sứ mệnh góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát
triển xã hội. Văn thơ phải có chất thép, có xu hướng cách mạng và tiến bộ về
tư tưởng, có cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực, trở thành vũ khí đấu tranh
cách mạng. Vì thế, chúng ta hiểu vì sao Hồ Chí Minh từng khẳng định:
“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”
(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi” – Nam Trân dịch)
Chất thép ấy là bản lĩnh cách mạng, tính chiến đấu, tinh thần chiến sĩ ở
trong thơ. Thực chất, quan điểm sáng tác của Bác chính là sự kế thừa tư tưởng
văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí truyền thống và nâng quan điểm văn chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc (Trần Thái Tông), Chở bao đạo thuyền
43
không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà (Than đạo - Nguyễn Đình
Chiểu) của cha ông lên tầm cao mới của cách mạng.
Về sau, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ 1951, Người
lại khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em (văn
nghệ sĩ) là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc
của văn chương. Người coi tính chân thật là thước đo của giá trị nghệ thuật.
Theo Hồ Chí Minh, văn chương phải có nội dung chân thật (chống giả dối),
phản ánh hùng hồn những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, nêu
gương tốt, phê phán cái xấu. Văn chương phải có tính dân tộc, phát huy cốt
cách dân tộc. Để tuyên truyền cách mạng nhằm vào đối tượng công nông binh,
Người quan niệm văn chương cần có hình thức giản dị, trong sáng, ngôn từ
chọn lọc, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề thì quần chúng mới dễ hiểu, thích
đọc, đồng thời, người nghệ sĩ cũng cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Hồ Chí Minh quan niệm văn chương là một bộ phận và là vũ khí sắc bén
của sự nghiệp cách mạng, nên khi sáng tác, Người luôn xuất phát từ mục đích
sáng tác và đối tượng tiếp nhận văn học để lựa chọn và quyết định nội dung,
hình thức của tác phẩm. Mỗi khi cầm bút, Người luôn đặt ra các câu hỏi: viết
cho ai? (xác định đối tượng), viết để làm gì? (xác định mục đích) rồi mới xác
định viết cái gì? (xác định nội dung) và cách viết thế nào? (xác định hình thức
nghệ thuật). Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa Người coi nhẹ tính nghệ thuật
của văn chương. Người luôn căn dặn văn nghệ sĩ phải là người sáng tạo và có
vai trò định hướng nâng cao trình độ thưởng thức văn nghệ cho quảng đại
quần chúng.
Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh phù hợp với nhu cầu cách mạng.
Quan điểm đó vừa kế thừa, phát huy quan niệm truyền thống của cha ông văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dĩ tải đạo vừa thống nhất với quan điểm của văn học Mácxít. Quan điểm sáng
44
tác của Hồ Chí Minh trở thành định hướng sáng tác cho các văn nghệ sĩ nước ta
và góp phần không nhỏ vào thực hiện những nhiệm vụ của thời đại, đất nước:
Dùng cán bút làm đòn chuyển xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền
(Là thi sĩ – Sóng Hồng).
1.3.2. Bối cảnh sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Mở đầu tập thơ “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây?
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
(Nam Trân dịch)
Thật vậy, sự nghiệp văn chương không phải là sự nghiệp mà Người
muốn theo đuổi. Với tấm lòng chứa chan tình cảm yêu nước, thương dân,
Người chỉ có một ham muốn, đó là “Nước nhà được độc lập, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, được học hành”. Nhưng trên con đường hoạt động cách
mạng để thực hiện ham muốn vì dân, vì nước ấy, Người nhận thức được tầm
quan trọng của văn nghệ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nó là
vũ khí đấu tranh đắc lực trên mặt trận văn hóa tư tưởng và cũng là nơi để Bác
bày tỏ tâm hồn đa cảm, tinh tế của mình.
Thơ Đường luật của Bác được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Quốc
ngữ, trong đó, nổi bật nhất là tập thơ “Nhật ký trong tù”, những bài thơ sáng
tác khi hoạt động cách mạng ở Việt Bắc và các bài thơ chúc tết... dù thể hiện
bằng ngôn ngữ nào, thơ Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ được
những yêu cầu cơ bản, khắt khe của thể thơ này và chuyển tải được tâm hồn,
cốt cách của một nhà thơ hiện đại, cách mạng Việt Nam.
Theo khảo sát của chúng tôi, những bài thơ trào phúng được sáng tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bằng thể thơ Đường luật của Hồ Chí Minh tập trung chủ yếu trong tập Nhật kí
45
trong tù – tập nhật kí bằng thơ được viết trong thời gian Người bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt ở phố Túc Vinh, thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc vì tình nghi là gián điệp. Từ đây, Người bị giải quanh co
khắp 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc, bị giam ở nhiều nhà lao
trong suốt mười bốn tháng, từ mùa thu năm 1942 (27/8/1942) đến mùa thu
năm 1943 (10/9/1043) trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch: Quảng Tây
giải khắp mười ba huyện,/Mười tám nhà lao đã ở qua (Đến cục Chính trị
Chiến khu IV). Tập thơ “Nhật ký trong tù” được viết bằng chữ Hán đã ra đời
trong bối cảnh này.
Trong 135 bài thơ của Nhật kí trong tù, có 45 bài thơ trào phúng không
chỉ ghi lại những cảnh sinh hoạt trong tù, cảnh trên đường chuyển lao mà
còn có ý nghĩa tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng
Giới Thạch.
Khảo sát những bài thơ trào phúng Đường luật Hồ Chí Minh, ta thấy, dù
trong hoàn cảnh nào: bị trói, bị đói khát hành hạ, bị áp bức cả về thể các lẫn
tinh thần, Bác vẫn giữ phong thái ung dung tự tại và vẫn làm thơ. Qua thống
kê, phân loại, chúng tôi nhận thấy, thơ trào phúng Hồ Chí Minh được sáng tác
trong những bối cảnh cụ thể, có thể tạm chia thành ba nhóm bối cảnh như sau:
Bối cảnh trên đường chuyển lao, bị xiềng xích, giải đi hết ngày này qua
ngày khác, từ nhà lao này sang nhà lao khác vô cùng cực khổ: Điền Đông,
Nhà lao Quả Đức, Trên đường, Pha trò, Cảnh binh khiêng lợn cùng đi I,II, Đi
Nam Ninh Hụt chân ngã, Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh…;
Bối cảnh Bác tận mặt chứng kiến những bất công ngang trái trong chốn
lao tù: Đánh bạc, Tù cờ bạc, Cái cùm, Dây trói, Cấm hút thuốc, Tiền công,
Quán trọ, Lai Tân, Tiền đèn, Cháu bé trong ngục Tân Dương…;
Bối cảnh sinh hoạt nơi nhà lao: Chia nước, Sinh hoạt trong tù; Bị hạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chế, Ghẻ lở, Bốn tháng rồi…
46
Cách phân chia này chỉ mang tình chất tương đối để thuận tiện cho việc
nghiên cứu. Qua đó, ta thấy Nhật ký trong tù đã phản ánh khá chân thực về
bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mặt khác, qua
tập thơ, độc giả cũng thấy được vất vả, gian khổ của Bác trong chốn ngục tù:
từ cảnh đói rét, bệnh tật cho đến những cuộc chuyển lao đầy gian khổ… và dù
trong hoàn cảnh nào, Người cũng vượt lên với một ý chí nghị lực kiên cường
để chiến thắng hoàn cảnh.
1.3.3. Cảm hứng sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh sâu sắc, tinh tế, tự nhiên
mà sâu cay và rất đa dạng về đề tài và cảm hứng sáng tác. Để làm nổi bật cảm
hứng sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh, tác giả luận văn tiếp
cận theo ba hướng: cảm hứng đả kích, châm biếm; cảm hứng tự trào; cảm
hứng lạc quan.
1.3.3.1. Cảm hứng đả kích, châm biếm
Cảm hứng đả kích, châm biếm bắt đầu xuất hiện rõ nét nhất trong thơ
trào phúng Hồ Xuân Hương - điều mà ở các tập thơ trào phúng trước hầu như
không có. Theo thống kê của chúng tôi, tiếng cười đả kích, châm biếm trong
thơ Hồ Xuân Trong hướng tới mọi đối tượng, không bỏ một ai, từ bọn vua
chúa, quan lại đến những kẻ “hiền nhân quân tử”, bọn sư mô núp bóng cửa
chùa làm việc xấu. Đó là những lời đả phá, chế giễu một cách gay gắt những
thói hư tật xấu, những bộ mặt giả nhân giả nghĩa, “ngụy quân tử”. Ta cũng
thấy tiếng cười châm biếm sâu cay của Nguyễn Khuyến tập trung vào lũ vua
quan bán nước và bọn thực dân Pháp; hay tiếng cười dữ dội, quyết liệt của Tú
Xương chĩa vào cả một xã hội điên đảo…
Khám phá tiếng cười trào phúng trong thơ Đường luật Hồ Chí Minh,
chúng tôi thấy, cảm hứng đả kích, châm biếm vừa phơi bày bộ mặt đen tối,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhem nhuốc của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc, vừa thể tâm hồn cao
47
đẹp của người tù vĩ đại, một hồn thơ vừa bất khuất kiên cường, vừa mềm
mại tinh tế.
Hoàn cảnh tù đày có thể khiến người ta trở nên bi quan, nhưng với Hồ
Chí Minh, mọi thứ lại thật nhẹ nhàng và hình ảnh Người tù luôn cất tiếng
cười, có cái cười mỉa mai giễu cợt, có cái cười chấm biếm, đả kích tố cáo.
Dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, những mục nát, thối rỗng của thế giới nhà tù
Tưởng Giới Thạch (những năm 1942 - 1943) đã bị phơi bày trên từng trang
nhật kí với âm hưởng đả kích, châm biếm.
Vì sao người ta bị đi tù? Vì một lý do rất đơn giản: bị nghi ngờ vô căn
cứ, bị gông cùm giải đi hết ngày này qua ngày khác mà không được xét hỏi.
Có người vào tù vì đánh bạc, nhưng trớ trêu thay, trong tù, họ lại được đánh
bạc một cách công khai (Đánh bạc, Tù đánh bạc):
Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai;
Bị tù, con bạc ăn năn mãi,
Sao trước không vô quách chốn này.
(Đánh bạc – Nam Trân dịch)
Bút pháp trào lộng, đả kích châm biếm đã phơi bày mặt trái của nhà tù
dưới chế độ Tưởng Giới Thạch qua bức tranh tả thực có sức khái quát sâu
rộng: cùng là đánh bạc, nhưng đánh bạc ở ngoài tù thì có tội, còn đánh bạc
trong tù lại vô tội. Vì thế, con bạc ăn năn: sao không vào đây sớm để được
đánh bạc công khai. Tiếng cười vang lên ở câu cuối giúp ta phát hiện ra bản
chất giả dối được che đậy bởi vỏ bọc là nhà tù.
Nhà tù không chỉ là “sòng bạc công khai” mà còn là cái chợ, nơi diễn ra
mọi việc đổi trác, mua bán với giá cắt cổ:
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
48
Giá cả trong tù định rõ sao.
(Tiền công – Nam Trân dịch)
Không khoa trương, phóng đại, Hồ Chí Minh chỉ cần đưa ra phép so
sánh: phải bỏ ra “một đồng” để mua hàng chỉ đáng giá sáu hào là có thể bật ra
tiếng cười đả kích, châm biếm ở câu kết: Giá cả trong tù định rõ sao.
Trong nhà lao chật hẹp, bẩn thỉu, người tù cũng phải bỏ tiền ra để mua
chỗ ngủ, nếu không phải ngủ “cạnh cầu tiêu”:
Lệ thường tù mới đến,
Phải nằm cạnh cầu tiêu;
Muốn ngủ cho ngon giấc,
Anh phải trả tiền nhiều.
(Quán trọ – Nam Trân dịch)
Vẫn biết bị cùm chân lại là giam cầm, là khổ nhục, nhưng những người
tù vẫn tranh nhau cái cùm được cùm chân trước, bởi được “cùm chân mới” thì
mới mong được ngủ yên giấc:
Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu?
(Cái cùm – Nam Trân dịch)
Thậm chí, đứa trẻ nửa tuổi cũng phải theo mẹ vào tù vì người cha không
chịu đi lính quốc gia (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương). Trong bài thơ
khác, ta lại bắt gặp tiếng nói của người phụ nữ vừa xót xa thương cảm, vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mang tính chất mỉa mai chua xót (Gia quyến người bị bắt lính). Qua cảnh ngộ
49
của bản thân và của những nạn nhân tù tội, Hồ Chí Minh dùng tiếng cười
nhằm đả kích, phê phán, châm biếm chế độ xã hội tàn bạo, vô nhân tính của
chính quyền Tưởng Giới Thạch, ở xã hội ấy, mặt ngoài thì cường quyền ngự
trị nhưng lại bị đồng tiền lung lạc (Lai tân, Tiền vào trại giam…). Bởi có
những sự việc tưởng như có lý nhưng hoá ra vô lý:
Hút thuốc nơi này cấm gắt gao,
Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao;
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,
Anh hút, còng đây, ghé tay vào.
(Cấm hút thuốc – Nam Trân dịch)
Như vậy, cảm hứng đả kích, châm biếm không chỉ dừng lại ở việc mỉa
mai, châm chọc, phê phán chế độ nhà tù thối nát của Tưởng Giới Thạch mà
nhằm vào cả thể chế chính trị thối nát đương thời. Sự vận dụng và kết hợp
nhuần nhuyễn các cấp độ của giọng đả kích, châm biếm đã góp phần gia tăng
hiệu quả phê phán, tố cáo của tập thơ. Song sự giễu nhại nhẹ nhàng, thâm
thúy ấy lại gợi lên bao suy nghĩ về chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, về thực
trạng của xã hội Trung Hoa.
1.3.3.2. Cảm hứng tự trào
Trong lịch sử văn học trào phúng, nhà thơ nào cũng có vài bài để tự
thuật, tự trào. Cảm hứng tự trào trong thơ trào phúng thường xuất hiện khi các
nhà thơ tự cười mình, tự chế giễu mình để tự răn mình.
Xưa kia, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...
cũng tự trào, nhưng đa phần tiếng cười ở họ chứa đựng nỗi u hoài, chua xót
buông xuôi, thấy đời vô nghĩa, thấy mình vô ích, cười ra nước mắt. Đó là
tiếng cười tự trào ý nhị, kín đáo của Nguyễn Khuyến: Vịnh tiến sĩ, Thân già,
Ông ngỗng đá; là tiếng cười Tú Xương tự cười, tự chế giễu sự bất lực của
mình trước hoàn cảnh thực tại một cách chua xót: Tự cười mình, Quan tại gia,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ta chẳng ra chi, Thương vợ… Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta thấy có cái gì đó
50
thật đắng cay, chua chát trong nụ cười tự trào của “Bà chúa thơ nôm”, tự ví
mình như quả mít đầy gai:
“Thân em như quả mít trên cây
Vỏ nó xù xì, múi nó dày
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay” (Hồ Xuân Hương)
Hay, cái cười trong thơ Tản Đà có cái ngông của kẻ chán đời, mơ thoát
ly lên cõi tiên:
“Để rổi mỗi năm rằm tháng Tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. (Tản Đà)
Còn tiếng cười tự trào trong thơ Hồ Chí Minh vừa sắc ngọt, vừa thâm
thúy, là kết tinh văn hóa Đông Tây, là nụ cười chiết xuất từ cảm xúc trí tuệ,
vừa sâu lắng suy tư, vừa bồi hồi xao xuyến.
Đọc 45 bài thơ trào phúng trong Nhật ký trong tù, chúng tôi nhận thấy
rõ: hạt nhân của tiếng cười tự trào không phải là mối căm hờn hay uất hận, bi
quan như các nhà thơ trào phúng khác, mà tiếng cười ấy xuất phát từ chính
lòng yêu cuộc sống và tính chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong chốn lao tù Tĩnh Tây ấy, Hồ Chí Minh tự nhận mình là “khách
tiên”, “khách tự do”, “khách quý”!
“Trong lao từ cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do”
(Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây – Nam Trân dịch)
Trong lao tù, cảnh bị trói, bị đói khát hành hạ, bị áp bức cả thể xác lẫn
tinh thần, thế mà, “từ những sinh hoạt đời thường rất đỗi bình dị ấy, tiếng
cười nhẹ nhàng đã cất lên phá bỏ mọi xiềng xích, xua tan mệt nhọc, buồn lo,
xua đi cái u ám, nặng nề của địa ngục trần gian với bốn bức tường xám xịt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đôi khi tiếng cười tự trào có chút cay đắng:
51
“Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,
Một giấc miên man suốt mấy giờ;
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tính ra trong ngục vẫn nằm trơ.”
(Buổi trưa – Nam Trân dịch)
Hồ Chí Minh mơ thấy mình “cưỡi rồng lên thượng giới”, không phải
Người muốn muốn thoát ly lên cõi trời, mà vì khát vọng tự do luôn thường
trực trong tâm thức, Người luôn mong ngóng đến ngày “Nhà lao mở cửa ắt
rồng bay”. Ta hãy nghe người làm thơ tự cười khi thân thể được “trang điểm”
bằng dây trói:
Rồng quấn vòng quanh chân với tay,
Trông như quan võ đủ tua, đai;
Tua đai quan võ bằng kim tuyến
Tua của ta là một cuộn gai.
(Dây trói – Nam Trân, Băng Thanh dịch)
Tiếng cười tự trào vừa thâm thúy vừa sắc ngọt của Bác như muốn phá
tan cái đạo mạo giả dối, cái không khí lễ nghi kiểu cách trái tự nhiên của xã
hội phong kiến.
Chất hài hước, tự trào của Bác cũng được cài đặt vào trong bài thơ “Mới
đến nhà lao Thiên Bảo”:
Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ
Ngồi trên hố xí đợi ngày mai.
(Nam Trân dịch)
Sự tự trào của Bác thể hiện ở câu thơ thứ tư. Nguyên tác của nó là: Xí
khanh thượng tọa đãi triêu lai. Nhưng ta không không xét theo mặt chữ (chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hán thì “ xí” là nơi đi vệ sinh, “khanh” là cái hố, cái hầm), mà quan tâm ở
52
cách phát âm. Nếu phát âm ra hai tiếng “xí khanh”, ta có thể khai thác phép
đồng âm dị nghĩa: Xí là trù tính việc xã hội (như xí nghiệp…); khanh là một
chức quan to (như quan thượng khanh, quốc vụ khanh). Gộp hai tiếng “xí
khanh” lại, nó có dị nghĩa là một chức quan to đảm nhận việc trù tính đại sự
cho xã hội, cho đất nước, mà vị quan to này lại được “thượng tọa” trên cái
“hố xí”. Sau khi đọc xong cả câu thơ, sự tự trào lại được chuyển sang ý nghĩa
nghiêm túc, lạc quan, tin tưởng “đợi ngày mai” (đãi triêu lai), trời sẽ sáng.
Như vậy, cảm hứng tự trào trong thơ trào phúng Hồ Chí Minh là kết quả
của sự quan sát tinh tường, của cảm xúc trí tuệ, nụ cười ấy phá bỏ mọi xiềng
xích và nhà tù trở nên bất lực trước phong thái u của người làm thơ. Tiếng
cười vút lên từ người có tâm hồn phóng khoáng, yêu đời, biết trào lộng, hóm
hỉnh ngay trong hoàn cảnh khốn khổ nhất khơi gợi trong tiềm thức chúng ta
niềm vui, niềm tin tưởng lạc quan vào sự thành công của cách mạng.
1.3.3.3. Cảm hứng lạc quan
Mượn việc ngâm thơ, làm thơ với tác giả Nhật ký trong tù là để “khuây
khỏa” phút giây “nhàn rỗi” nơi chốn lao tù. Tiếng cười trong tập bắt nguồn từ
những sự việc, hiện tượng hết sức đời thường, nhưng lại chứa đựng niềm vui
rất đỗi lạc quan, trẻ trung. Tiếng cười ấy vang lên thoải mải, thể hiện sự yêu
đời, yêu cuộc sống của Hồ Chí Minh. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao
Người có thể cười vui trong hoàn cảnh nhà tù, nơi ngự trị của bóng tối và cái
ác vô cùng tàn bạo của bọn phản động Quốc dân đảng Trung Quốc.
Trong hoàn cảnh cực khổ, thiếu thốn của nhà tù Tưởng Giới Thạch,
người tù ở bẩn, bị ghẻ lở là điều không tránh khỏi, mà ghẻ thì gãi. Có điều,
chuyện gãi ghr đi vào thơ Bác với giọng điệu bông đùa vui, thoải mãi:
Đẩy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gẩy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.
53
(Ghẻ lở – Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Tiếng cười đã làm nổi bật không khí lạc quan yêu đời, lấp đầy mọi
khoảng trống, vượt lên hoàn cảnh nghiệt ngã mà Người phải hứng chịu. Với
cái nhìn hóm hỉnh, người tù biến thành hào kiệt phong lưu:
Ăn cơm nhà nước, ở nhà công,
Lính tráng thay phiên đển tháp tùng;
Non nước dạo chơi tùy sở thích,
Làm trai như thể thật hào hùng.
(Pha trò – Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Tiếng cười lạc quan còn vang lên trong bài “Chia nước”, Bác cứ lặp đi
lặp lại một ý “pha trà” và “rửa mặt” một cách hóm hỉnh:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà.
(Chia nước - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
Tiếng cười có lúc được bật ra từ những chi tiết rất đời thường:
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.
(Bị hạn chế - Nam Trân dịch)
Tiếng cười hồn nhiên, trong sáng, đầy niềm tin đã giúp người tù vượt lên
những cuộc chuyển lao đầy gian khổ:
Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.
54
(Đi Nam Ninh - Nam Trân dịch)
Bác từng khẳng định: “Mặc dù bị trói chân tay/ Chim ca rộn núi hương
bay ngát rừng” (Đi đường). Vì thế, với cái nhìn lạc quan, tiếng xiềng xích
leng keng theo mỗi bước chân, Bác nghe như “tiếng ngọc rung”. Cũng trong
nguồn cảm hứng đó, bài Đáp xe lửa đi Lai Tân cho thấy, dù chỉ ngồi trên
đống than trên xe lửa, nhưng còn sung sướng gấp nhiều lẩn so với cảnh trèo
đèo, lội suối với xiềng xích, cùm gông.
Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.
(Đáp xe lửa đi Lai Tân - Nam Trân dịch)
Tiếng cười lạc quan của Bác luôn thể hiện sự làm chủ tình huống, nắm
chắc chân lý. Tiếng cười ấy còn hàm chứa chất “thép” và chất “tình” để đem
lại niềm hứng khởi cho người đọc, người nghe và ngược lại kẻ bị cười khó
tìm đường chối cãi, nguỵ biện. Tiếng cười ấy có khi nhắm vào kẻ thù, có khi
tự diễu bản thân, hoặc ngụ ý khuyên răn người khác để họ vươn tới cái đẹp,
cái cao cả, xoá đi cái xấu, cái lạc hậu, thấp hèn. Tiếng cười trong Nhật ký
trong tù càng làm sáng đẹp hơn ý nghĩa nhân văn sâu sắc, chủ nghĩa nhân đạo
cao cả trong con người Hồ Chí Minh.
Tiểu kết Chương 1
Trong chương này, chúng tôi khái quát khái niệm về “Thơ trào phúng”
và “Thơ Đường luật trào phúng”; tìm hiểu sự vận động và phát triển của thơ
Đường luật trào phúng Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XX. Bên cạnh
đó, chúng tôi cũng tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Hồ
Chí Minh để qua đó có những nhận định về bối cảnh và cảm hứng sáng tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh.
55
CHƯƠNG 2
NÉT MỚI TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG
HỒ CHÍ MINH
2.1. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hiện tượng thẩm mỹ
độc đáo
2.1.1. Cấu trúc thẩm mỹ trong không gian ngục tù
Không gian nghệ thuật của tập Nhật ký trong tù là một hệ thống hình
tượng nghệ thuật có tính thống nhất về tư tưởng và thẩm mỹ. Trong tổng số
45 bài thơ trào phúng, có đến 2/3 bài thơ phản ánh không gian xã hội chốn
ngục tù. Đó là các kiểu cấu trúc thẩm mỹ không gian mang tính đặc thù như:
không gian trong ngục tù và không gian vừa trong tù vừa ngoài tù. Đây là một
mảng độc đáo và đặc sắc trong cấu trúc thẩm mỹ của toàn tập thơ.
2.1.1.1. Kiểu không gian vừa trong ngục tù
Khảo sát 45 bài thơ trào phúng trong Nhật ký trong tù, chúng tôi thấy có
khoảng 30 bài thơ ghi lại những sự việc trên nền không gian ngục tù chật
chội, mất tự do, không gian sống đầy muỗi, rệp, điều kiện sinh hoạt khó khăn,
thiếu thốn của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc... Không gian ấy được phản
ánh rõ nét trong các bài: Một người tù cờ bạc “chết cứng”, Đánh bạc, Bị hạn
chế, Tiền đèn, Tù cờ bạc, Nhà lao Quả Đức, Lại một người nữa, Cấm hút
thuốc, Sinh hoạt trong tù, Chia nước, Nhà ngục Nam Ninh…
Từ cái chung của không gian thực của nhà tù, thực trạng chốn ngục tù
bẩn thỉu, chật chội, bức bối đáng lên án hiện lên trong thơ Bác:
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Bị hạn chế - Nam Trân dịch)
56
Sự nhếch nhác của nhà tù được phản ánh qua các hoạt động sinh hoạt
trong tù:
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
(Sinh hoạt trong tù - Nam Trân dịch)
Không chỉ nói lên sự tù túng, bức bối, trong bốn bức tường lạnh lẽo của
nhà tù, cảnh người tù phải sống trong thiếu thốn cũng được Bác ghi lại trong
thơ một cách sinh động:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà.
(Chia nước - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
Bên cạnh việc tạo ấn tượng về sự nhếch nhác, mất tự do, có một lần Hồ
Chí Minh miêu tả một cách cụ thể, xác thực về khuôn khổ chật chội của nhà
tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch:
Ba bước chiều dài, hai bước rộng,
Bốn người giam đó, thực bàng hoàng;
Duỗi chân một chút, không sao được,
Khám hẹp người đông, khổ đủ đàng!
(Nhà giam của Cục Chính trị - Huệ Chi dịch).
Trong không gian ngục tù tàn bạo, người tù còn phải chịu bao bất công
ngang trái:
Quan không cấp bữa cho tù bạc,
Để họ mau chừa tội cũ hơn;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt,
57
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Tù đánh bạc - Nam Trân, Huệ Chi dịch)
58
Hệ quả là tù nhân đã chết vì không gian ấy:
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét, hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng!
(Một người tù cờ bạc “chết cứng” - Nam Trân dịch)
2.1.1.2. Kiểu không gian vừa trong tù vừa ngoài tù
Cấu trúc thẩm mỹ của kiểu không gian vừa trong tù vừa ngoài tù được
Hồ Chí Minh miêu tả với ba đặc điểm tiêu biểu: thứ nhất là trong tù bức bối,
người tù trong cảnh nghiệt ngã mà ngoài tù thì hoàn cảnh xã hội biến động;
thứ hai là trong tù thiếu thốn, người tù vẫn giao cảm với thiên nhiên tự do bên
ngoài; thứ ba là, người tù tự do ngay trong cảnh ngục tù giao cảm tương liên
với vũ trụ tự do bên ngoài. Kiểu không gian này xuất hiện qua các bài như:
bài thơ đề từ chép ở ngoài bìa tập Nhật kí trong tù, Vào nhà ngục huyện Tĩnh
Tây, Chiều hôm, Người bạn tù thổi sáo, Ngắm trăng, Trung thu, Buổi sớm
(bài I), Buổi trưa, Quá trưa, Ốm nặng, Cảnh chiều hôm, Tiền đèn, Tiết thanh
minh, Đêm không ngủ, Cảm thu, Nhớ bạn, Đánh bạc, Buồn bực, Nắng sớm,...
Ở mảng không gian này, quan niệm và tư tưởng nghệ thuật thể hiện hai
miền thân thể và tinh thần, trong lao và ngoài lao đã được bộc lộ ở ngay bài
thơ đề từ trên trang bìa tập thơ Nhật ký trong tù:
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn lên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao (Nam Trân dịch).
Bốn câu thơ đã khẳng định: Xiềng xích có thể giam cầm được thân xác
người tù “trong lao”, nhưng không thể ngăn được tinh thần quả cảm, một lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hướng về dân về nước của Bác.
59
Tuy thể xác bị giam cầm trong chốn lao tù, nhưng tâm hồn của Người tù
luôn hướng về thế giới bên ngoài cánh cửa nhà lao với bao cảm xúc:
Thanh minh lất phất mưa phùn
Tù nhân nghe thấm nỗi buồn xót xa
Tự do, thử hỏi đâu là ?
Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường
(Tết thanh minh - Nam Trân dịch)
Hơn nữa, trong khi hoàn cảnh ngoài xã hội luôn biến động, người tù thì
phải chịu cảnh tù đày đầy bức bối, nghiệt ngã:
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,
Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.
(Buồn bực - Nam Trân dịch)
Trong bài thơ, Bác liên tưởng đến các vị tráng sĩ ngày xưa “đua nhau”
xuất trận với khí thế hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh, họ đi bảo vệ quê hương,
đất nước. Còn bây giờ, Bác đang phải ngồi trong tù với tâm trạng bực tức vì
không có cơ hội cùng các đồng chí tham gia bảo vệ quê hương đất nước.
Bên ngoài cánh cửa nhà lao, trăng tròn vành vạnh, sáng khắp nhân gian,
nhà nhà sum họp vui tết trung thu, còn Bác đón trung thu trong ngục tù, nơi
chỉ có giam cầm và đau khổ:
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu,
Sáng khắp nhân gian bạc một màu;
Sum họp nhà ai ăn tết đó,
Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu.
Trung thu ta cũng tết trong tù,
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,
60
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
(Trung thu - Nam Trân dịch)
Bùi ngùi trước cảnh đoàn viên của mọi nhà, Bác xót xa cho cảnh ngộ của
mình, nhưng Người vẫn luôn giữ cho mình một tinh thần lạc quan, vẫn đón
Tết tù và mong ngóng ngày tự do.
Thực ra, trong chốn lao tù u tối, ta chứng kiến nhiều cuộc “vượt ngục”
bằng tinh thần của Bác để giao cảm với thiên nhiên tự do bên ngoài. Khi thì
Người rung động trước ánh nắng mai rọi chiếu nơi cửa ngục tăm tối:
Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,
Đốt tan khói đặc với sương dày;
Đất trời phút chốc tràn sinh khí,
Tù phạm cười tươi nở mặt mày.
(Nắng sớm – Huệ Chi dịch)
Lúc thì Người thả hồn vào một cảnh làng xóm ven sông:
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh - Nam Trân dịch)
Và hơn thế nữa, đôi lúc Hồ Chí Minh quên đi thực tại phũ phàng, nghiệt
ngã chốn lao tù để tâm hồn thảnh thơi, tự do ngắm trăng qua song sắt nhà lao:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Ngắm trăng - Nam Trân dịch)
61
Dù trong cảnh bị giam, bị trói, bị giải đi khắp các nhà lao ở các huyện lỵ
như Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Lai Tân,… nhưng người tù nhân ấy cứ
bình thản giao cảm tương liên với vũ trụ tự do bên ngoài. Bởi vì, Người
không coi mình là tù nhân, mà là “khách tự do” trong nhà tù:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
(Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây - Nam Trân dịch)
Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.
(Đi Nam Ninh - Nam Trân dịch)
Tóm lại, cấu trúc thẩm mỹ của kiểu không gian ngục tù này có đặc điểm
là đối ứng, tương phản và song điệu: trong lao - ngoài lao; trong ngục - trên
trời; núi cao - đường phẳng; bóng tối - ánh sáng; nhà ai sum họp ăn tết trung
thu - người trong ngục nuốt sầu tủi; trong song sắt - ngoài song sắt; bị tình
nghi là gián điệp - như khanh tướng vẻ ung dung... cấu trúc thẩm mỹ của của
không gian ngục tù trong Nhật ký trong tù thể hiện bản lĩnh người chiến sĩ,
nghệ sĩ cách mạng bậc thầy Hồ Chí Minh.
2.1.2. Khả năng phát hiện giá trị thẩm mỹ từ những cái xấu, những điều
bình thường
Với những tác phẩm đỉnh cao, người ta thường ngỡ nó được xuất phát từ
một sự “thăng hoa” về cảm xúc, từ một trí tưởng tượng phong phú của người
nghệ sĩ. Nhưng trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Nhật kí trong tù hầu
như không có sự tưởng tượng mà cảm xúc thơ được xuất phát từ những câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chuyện nhỏ nhặt nhất trong đời sống hằng ngày: từ cảnh muỗi, rệp, ghẻ lở,
62
rụng răng, cảnh đun nấu, ăn uống, cảnh trẻ nhỏ khóc, người chết, bệnh tật,
đau ốm, cảnh chuyển lao đầy gian khổ cho đến cảnh đánh bạc và nhiều sự
việc khác có khi rất nhỏ nhặt, chi li… thật hiếm có tập thơ nào nói được nhiều
sự thật đến thế. Tất cả hiện lên như một thước phim sinh động để người đọc
có thể hình dung một cách đầy đủ về thế giới nhà tù Tưởng Giới Thạch vào
những năm 1942 – 1943.
Trong chuỗi điểm nhìn nghệ thuật, Hồ Chí Minh thường nhìn thực trạng
cảnh tù đày trong một kênh thẩm mĩ mới. Theo đó, Người đã phát hiện giá trị
thẩm mỹ từ những sự việc, hiện tượng hết sức đời thường, lạ hóa và gắn cho
đối tượng những giá trị mới. Với quan niệm và triết lí của một bậc minh triết,
Hồ Chí Minh nhìn ghẻ lở đỏ tía đầy cơ thể mình mà như hoa gấm, còn việc
luôn tay gãi ghẻ thì tựa như gảy đàn:
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.
(Ghẻ lở - Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Vẫn là giọng điệu hóm hỉnh, cười cợt, Bác nhìn cuộn dây gai trói quanh
mình như rồng cuốn, sợi dây đó khiến tù nhân trở thành quan võ oai phong:
Rồng quấn vòng quanh chân với tay,
Trông như quan võ đủ tua, đai;
Tua đai quan võ bằng kim tuyến,
Tua của ta là một cuộn gai.
(Dây trói - Nam Trân, Băng Thanh dịch)
Trong hoàn cảnh cực khổ của chế độ tàn bạo, Bác đã vô hiệu hóa chúng
bằng nụ cười dí dỏm mà ngạo nghễ, tiếng cười ấy giúp người tù tiếp thêm
nguồn năng lượng để vượt qua sự đọa đày. Vì thế, hai tiếng leng keng đã biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
âm thành của xiềng xích va vào nhau thành tiếng ngọc rung:
63
Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.
(Đi Nam Ninh - Nam Trân dịch)
Cái nhìn hóm hỉnh của Hồ Chí Minh cũng đã biến người tù thành ông
quan hào hoa, phong nhã: ăn cơm tù thì nói là “ăn cơm nhà nước”, bị giam thì
bảo là được “ở nhà công”, bị lính canh giữ thì nói là lính “thay phiên đến hộ
tòng”, bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác thì nói là được đi dạo núi
sông “tùy sở thích”:
Ăn cơm nhà nước, ở nhà công,
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;
Non nước dạo chơi tùy sở thích,
Làm trai như thế cũng hào hùng!
(Pha trò – Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Chiếc răng cũng trở thành một đề tài trong thơ Hồ Chí Minh. Bác nhìn
cái răng rụng trong nỗi buồn thương bởi sự gắn bó “ngọt bùi cay đắng từng
chia sẻ” với lưỡi, nay lại phải giã từ, phải ly biệt đôi đường:
Cứng rắn như anh khác thói thường,
Phải đâu mềm tựa lưỡi không xương;
Ngọt bùi, cay đắng từng chia sẻ,
Nay phải xa nhau, kẻ một đường.
(Rụng mất một chiếc răng - Nam Trân dịch)
Không hề có ý nghĩa ẩn dụ, hoán dụ thường thấy trong thơ ca, Bác nhìn
cái cùm - thứ dùng để xiềng xích, trói buộc tù nhân như một hung thần dữ
tợn, đêm đêm há hốc miệng chực nuốt chân người:
Dữ tựa hung tần miệng trực nhai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đêm đêm há hốc nuốt chân người
64
Có người bị nuốt chân bên phải
Có người bị nuốt chân bên trái.
(Cái cùm - Nam Trân dịch)
Trong tù, chuyện rất đỗi nhỏ nhặt trong sinh hoạt hằng ngày tưởng như
chẳng có gì thi vị để làm thơ, ấy thế mà, chính từ những chuyện sinh hoạt đời
thường như “đến buồn đi ỉa cũng không cho”, tiếng cười châm biếm, giễu cợt
đã cất lên:
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.
(Bị hạn chế - Nam Trân dịch)
Bằng tiếng cười bông đùa, hóm hỉnh, người tù đã đủ nghị lực, niềm tin
để vượt lên mọi cuộc chuyển lao đầy gian khổ. Cũng có lúc, tiếng cười được
bật ra khi Bác may mắn thoát hiểm vì suýt bị thụt xuống hố sâu:
Còn tối như bưng đã phải đi,
Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề;
Trượt chân nhỡ bước sa vào hố,
May nhảy ra ngoài, suýt nữa nguy!
(Hụt chân ngã - Nam Trân dịch)
Từ giấc ngủ trưa chốn ngục tù với giấc mộng huyền ảo: mơ thấy mình
“cưỡi rồng lên thượng giới”, Người có cái nhìn giễu cợt, cay đắng cho thực tại
trớ trêu: tỉnh dậy nhận ra mình vẫn là một tù nhân:
Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,
Một giấc miên man suốt mấy giờ;
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Buổi trưa - Nam Trân dịch)
65
Khảo sát thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh, ta thấy, tác giả
dường như không tưởng tượng gì cũng thành thơ, nhìn gì cũng ra thơ, nói gì
cũng là lời thơ:
“Năm mươi ba dặm, một ngày trời,
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;
Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai”.
(Mới đến nhà lao Thiên Bảo - Nam Trân dịch)
Bên cạnh đó, với bản lĩnh của bậc lão thành cách mạng và tâm hồn nghệ
sĩ, những điều bình thường đều được Bác thi vị hóa: nhìn cái gậy ở phẩm chất
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường, nên khi chiếc gậy bị lính ngục đánh cắp
thì Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương trong tình cảm trân trọng (Lính ngục
đánh cắp chiếc gậy của ta); nhìn rệp bò ngang dọc như xe cóc, muỗi lượn như
máy bay (Đêm thu)… Bên cạnh đó, Người thể hiện bản lĩnh ngay trong cảnh
tù như một thiền sư, như một triết gia tìm thấy cái có trong cái không:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
(Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây - Nam Trân dịch)
Chất hài hước thể hiện ở nghịch cảnh: mây mưa tự do đuổi nhau, còn
con người thì bị xiềng xích, giam cầm. Nghịch cảnh ấy được hóa giải bằng nụ
cười thâm thúy khi người tự nhận mình là “khách tự do”:
Hai giờ ngục mở thông hơi,
Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do;
Tự do tiên khách trên trời,
Biết chăng trong ngục có người khách tiên?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Quá trưa - Nam Trân dịch)
66
Tiếng cười nhẹ nhàng xua đi những mệt nhọc, buồn lo của ngục tù.
Đặc biệt, Người nhìn nhà ngục Tĩnh Tây từ sự hài phối âm thanh rộn ràng
của “tiếng đàn ca” với “tiếng ngâm” để biến nhà ngục thành “nhạc quán
viện hàn lâm”:
Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm,
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm;
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.
(Chiều hôm - Nam Trân dịch)
Dẫu trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế nào, Hồ Chí Minh vẫn để cho
tâm hồn thơ của mình bay bổng. Giữa đường đáp thuyền đến nhà giam Ung
Ninh, Người quên phắt tình thế cay nghiệt chân bị treo ngược, người buông
xuống sạp thuyền, để ngắm nhìn làng xóm bên sông, ngắm con thuyền câu
đang rẽ sóng giữa sông nước bao la:
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm bên sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ tênh tênh.
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh - Nam Trân dịch)
Đâu còn dáng vẻ của người tù, thay vào đó là hình ảnh một người khách
đang du ngoạn trên sông nước. Cùng trong nguồn cảm hứng đó là bài Đáp xe
lửa đi Lai Tân:
Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ (Nam Trân dịch)
Được đi xe lửa, dù chỉ ngồi trên đống than nhưng cũng sung sướng gấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhiều lần so với cảnh trèo đèo, lội suối, đi “năm mươi ba cây số một ngày”,
67
với “áo mũ dầm mưa, rách hết giầy”; với cảnh bị giải đi từ lúc “gà gáy một
lần đêm chửa tan” cho đến khi “chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” cùng gông
cùm, xiềng xích. Tâm hồn thơ bay bổng cả trong hoàn cảnh oan nghiệt:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
(Trên đường - Nam Trân dịch)
Tiếng cười trong thơ trào phúng Hồ Chí Minh có nhiều sắc thái và nó có
thể bật ra tiếng cười từ những cảnh không có gì đáng cười:
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối
Ta thì người dắt, lợn người khiêng
Con người coi rẻ hơn con lợn,
Chỉ tại người không có chủ quyền.
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do?
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
Để cho người dắt tựa trâu bò!
(Cảnh binh khiêng lợn dùng đi - Nam Trân dịch)
Với trí tuệ sâu sắc, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự đối lập vô lý: trong
xã hội phong kiến Trung Quốc, con người không có tự do thì rẻ rúm không
bằng con lợn. Phải chăng, Bác đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về những
phi lý của chế độ áp bức.
Từ một sự việc cụ thể, hết sức bình thường đến cái xấu, cái ác đều được
thi vị hóa để tạo tiếng cười sắc nhọn, góp phần cho sự phê phán bộ mặt đen
tối, nhem nhuốc của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc. Chúng tôi hy vọng
tiếp cận thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh từ góc nhìn thẩm mĩ trào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phúng sẽ đưa lại những kết quả mới, những hiệu ứng thẩm mỹ tinh tế, sâu sắc
68
từ thế giới nghệ thuật thơ của Người - một hiện tượng thẩm mỹ độc đáo “nói
mãi không cùng”.
2.2. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hình thái phê phán
đặc biệt có cảm xúc
Thơ xưa thường dùng hình thái tư tưởng, triết lí nhân sinh để lên án, phê
phán các đối tượng. Xin dẫn thơ trào phúng Nguyễn Bỉnh Khiêm làm ví dụ
với mong muốn làm nổi bật hình thái phê phán đặc biệt có cảm xúc trong thơ
Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh.
Vẫn biết sự đời thay đổi là một quy luật khách quan, nhưng Nguyễn
Bỉnh Khiên nhận ra rằng, trong thời đại mà ông đang sống, sự biến đổi ấy quá
lớn. Tất cả những giá trị đạo đức trước kia không còn nữa, thay vào đó là
quyền lực vạn năng của đồng tiền: “Còn bạc, còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết
rượu hết ông tôi”. Trước sự đổi thay ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ biết cất
tiếng than:
Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thốt hỏi
Sau vào gánh nặng, lại vui cười.
Anh anh, chú chú, cười hơ hải,
Rượu rượu, chè chè, thết tả tơi.
Người của, lấy cân ta thử nhắc,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
(Thơ Nôm, bài 74)
Sức mạnh đồng tiền thật khủng khiếp, nó khiến lẽ đời đổi trắng thay đen
tráo trở khôn cùng, mới phút trước “đến tay không, nào thốt hỏi”, phút sau
quay lại có tiền “lại vui cười”, “anh anh, chú chú” cười nói vui vẻ. Trước sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thay đổi chóng vánh ấy, nhà thơ nghi ngờ “người của, lấy cân thử nhắc”, để
69
rồi giật mình “mới hay” rằng “của nặng hơn người”. Cái giật mình thảng thốt
của tác giả đánh dấu sự đổi thay quá lớn về sự suy đồi đạo đức của xã hội.
Để có cái nhìn triết lí ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải đứng trên tư cách một
triết nhân để chiêm nghiệm, suy ngẫm tìm ra quy luật cuộc đời và phát hiện ra
quy luật bên trong nó, từ cái nhìn ấy, ông mới lên tiếng phê phán những con
người hám lợi, bán rẻ anh em bè bạn “thớt có tanh tao ruồi đậu đến, ang không
mật mỡ kiến bò chi” (Nhân tình thế thái bài 19). Tóm lại, thơ trào phúng
Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm chất triết lí, bởi đó là sự chiêm nghiệm của ông
trong bao nhiêu năm quan sát cuộc đời. Đọc thơ ông, ta phát hiện được một
Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà thơ, và một Nguyễn Bỉnh Khiêm - triết nhân.
Nếu như hình thái phê phán trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về tính
triết lí, về chất trí tuệ thì hệ hình phê phán trong thơ Đường luật trào phúng
Hồ Chí Minh là những trạng thái có cảm xúc: cảm xúc lên án, phê phán, tố
cáo những bất công, ngang trái trong tù; cảm xúc xót thương cho những số
phận bị đày đọa trong nhà tù Tưởng Giới Thạch; cảm xúc ung dung tự tại của
vị “khách tiên” trong chốn lao tù… Vì thế, sau khi đọc xong tập Nhật kí trong
tù, ta thấy thật thoải mái, thỏa mãn về tinh thần: từ chỗ bi quan thành lạc
quan, tin tưởng vào thắng lợi, vào tương lai.
Với giọng điệu nhỏ nhẹ, dí dỏm, Hồ Chí Minh đã lên án, tố cáo chế độ
xã hội đầy rẫy những bất công, vô nhân đạo. Đó là xã hội mà quyền sống của
con người không được đảm bảo, người lương thiện bị bắt giam bừa bãi, kể cả
những nạn nhân đáng thương, vô tội:
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha trốn không đi lính nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Cháu bé trong ngục Tân Dương - Nam Trân dịch)
70
Cảnh người phụ nữ với đứa con thơ vừa nửa tuổi phải đi tù thay chồng
hẳn không thể gây cười. Nhưng chi tiết gây cười nằm ở câu thơ thứ hai: “Gia
phạ đương binh cứu quốc gia”, trong hình ảnh tương phản đầy mỉa mai giữa
“gia” và “quốc gia”. Vấn đề cần phải xem xét là ở chỗ: người đàn ông hèn
nhát không tham gia đi lính cứu quốc hay chính quyền thi hành chính sách
trưng binh gia quyến cho chính sự phi nghĩa? Giọng điệu mỉa mai của bài thơ
còn ẩn hiện trong tiếng khóc cùng lời tố cáo “gia” và “quốc gia” của em bé sơ
sinh chưa biết nói.
Bài thơ Gia quyến người bị bắt lính có cấu trúc nhân quả giống bài Cháu
bé trong ngục Tân Dương:
Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.
(Nam Trân dịch)
Vì chồng (cha) trốn lính nên nhà chức trách bắt vợ (con) đi tù. Cứ coi
như trốn lính là một tội, thì theo lôgíc thông thường: ai có tội người ấy chịu,
nhưng ở đây thật phi lý, lại bắt người thân chịu tội. Ý nghĩa thứ nhất là sự mỉa
mai, đả kích xã hội thật bất công bằng, thiếu công minh; ý nghĩa thứ hai là
phê phán cách đối xử bất công đối với phụ nữ; ý nghĩa thứ ba là lên án đả
kích xã hội phi nhân tính bắt cả hài nhi mới nửa tuổi vào tù.
Nhật kí trong tù tố cáo cái tính chất phi lí, bất công, vô nhân đạo vốn là
bản chất của chế độ xã hội thối nát Tưởng Giới Thạch. Theo những bài thơ, ta
bước vào thế giới cửa quan, nơi những người vô tội trở thành phạm nhân, nơi
cai tù vi phạm pháp luật hơn cả tù nhân. Thậm chí, nhà tù, nơi giam giữ, cải tạo
người đánh bạc biến thành sòng bạc:
Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong tù đánh bạc được công khai;
71
(Đánh bạc - Nam Trân dịch)
Người tù than thở hối hận rằng, sao mình không vào nơi này từ sớm để
được chơi bạc công khai. Cũng như ở ngoài xã hội, trong ngục cũng có kẻ
thống trị và người bị trị. Kẻ thống trị thì được phạm pháp – dù là phạm pháp
nhỏ như việc hút thuốc:
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,
Anh hút, còng đây, tay ké vào.
(Cấm hút thuốc - Nam Trân dịch)
Ngòi bút trào phúng sắc sảo của Hồ Chí Minh đã phơi bày mặt trái của
của xã hội qua bức tranh tả thực có sức khái quát lớn: nhà tù như một cái quán
trọ nhếch nhác và quái gở: nếu muốn cố giấc ngủ ngon và không phải nằm
cạnh cầu tiêu, người tù phải chịu “luật rừng”:
Lệ thường tù mới đến,
Phải nằm cạnh cầu tiêu;
Muốn ngủ cho ngon giấc,
Anh phải trả tiền nhiều.
(Quán trọ - Nam Trân dịch)
Bác phê phán nhà tù giống như một cái chợ - nơi diễn ra mọi trò mua
bán, đổi trác, nơi thế lực đồng tiền giữ nguyên hiệu lực của nó:
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định rõ sao!
(Tiền công - Nam Trân dịch)
Trong cái nhà tù này, tù nhân phải bỏ một đồng để mua hàng chỉ đáng
sáu hào, bởi giá cả trong tù đã định rõ. Có lẽ, trên thế giới, chẳng đâu có thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhà tù lạ lùng đến vậy – nhà tù “giống tiểu gia đình”:
72
Nhà lao mà giống tiểu gia đình,
Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước mỗi phòng giam bày một bếp,
Suốt ngày lụi hụi với cơm canh.
(Nhà lao Quả Đức – Huệ Chi dịch)
Trong tập nhật kí, nhiều bài thơ phản ánh chân thực đời sống khắc nghiệt
trong tù ngục. Những điều kiện sống tối thiểu của con người đều bị tước bỏ
đến mức tối thiểu. Cảnh đói khát của tù nhân và cảnh hành hạ tù nhân bằng
cái đói từ nhà tù này đến nhà tù khác được Bác ghi chép lại một cách tỉ mỉ,
chi tiết. Ở nhà lao Tĩnh Tây, tù nhân phải chịu cảnh:
Không rau, không muối, canh không có,
Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là.
(Cơm tù - Nam Trân, Băng Thanh dịch)
Đến nhà lao Điền Đông, Đồng Chính, người tù cũng rơi vào cảnh đói
triền miên, mỗi bữa, họ chỉ được lưng bát cháo lót bụng:
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.
(Điền Đông - Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy,
Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào;
(Đồng Chính - Nam Trân dịch)
Nhà lao Nam Ninh tuy xây dựng rất “mô-đéc”, nhưng mỗi bữa tù nhân
cũng chỉ được lưng bát cháo. Cái đói thường xuyên đe dọa người tù, thậm chí,
người tù phải chịu cảnh:
Bốn tháng cơm không no,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bốn tháng đêm thiếu ngủ,
73
Bốn tháng áo không thay,
Bốn tháng không giặt giũ.
(Bốn tháng rồi - Nam Trân dịch)
Bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, nhà tù Tưởng Giới Thạch
hiện lên thật bẩn thỉu, chật chội, tù túng, điều kiện sinh hoạt thì khó khăn,
thiếu thốn, không gian sống đầy muỗi, rệp...
Rệp bò ngang dọc như xe cóc,
Muỗi lượn hung hăng tựa máy bay;
(Đêm thu - Nam Trân dịch)
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.
(Ghẻ lở - Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Sống trong lao khổ, tù nhân phải chịu đựng những đêm dài cô đơn lạnh
lẽo nơi khổ ải đọa đày:
Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp lưng còng ngủ chẳng an;
(Đêm lạnh - Nam Trân dịch)
Phải sống trong cảnh: từ ăn, ngủ, đi lại, hít thở… đều bị hạn chế, thậm
chí, người tù còn bị hạn chế cả những chuyện nhỏ nhất:
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.
(Bị hạn chế - Nam Trân dịch)
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Rửa mặt pha trà, tự ý ta...
74
(Chia nước - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
Không những thế, với chi phối của đồng tiền, sự bất công ngang trái diễn
ra thường xuyên trong nhà tù bởi:
Tù cứng ngày ngày no rượu thịt,
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.
(Tù cờ bạc - Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Không đánh giá cao về nhân phẩm của người tù cờ bạc, cũng không mỉa
mai châm biếm cái chết của họ, nhưng đọc hai bài thơ Bác viết về cái chết của
tù cờ bạc, ta vẫn thấy ý phê phán bao hàm trong đó, một người chết vì “không
ăn cháo Nhà nước” (Lại một người nữa), một người chết vì đói rét, khổ đau vì
không gian ngục tù ấy:
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét, hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng!
(Một người tù cờ bạc “chết cứng” - Nam Trân dịch)
Đâu chỉ có vậy, Người tù Hồ Chí Minh bị bọn tay sai Tưởng giới Thạch
giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác với cảnh ngộ:
Năm mươi ba cây số một ngày,
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày;
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ngày mai.
(Mới đến nhà lao Thiên Bảo - Nam Trân dịch)
Bị giải đi giải lại trong thân phận tù nhân, khi tù nhân bị dắt đi (“Khiêng
lợn, lính cùng đi một lối, Ta thì người dắt, lợn người khiêng” - Cảnh binh
khiêng lợn cùng đi), lúc bị giải đi bằng thuyền:
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
75
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh- Nam Trân dịch)
Người tù bị giải đi cả ngày, cả tối, đi trong giá rét với gông cùm, xiềng
xích: “Gió sắc tựa gươm mài đá núi,/Rét như dùi nhọn chích cành cây”
(Hoàng hôn). Tất cả những sự đày đọa ấy đủ biến một con người khỏe mạnh
trở thành một người gầy gò, tiều tụy:
Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
(Bốn tháng rồi - Nam Trân dịch)
Dường như trong mỗi lời thơ đều là một hình ảnh sống động, phê phán
cuộc sống thiếu thốn trong chốn lao tù thời Tưởng Giới Thạch. Một trong
những bài thơ phản ánh sâu sắc nhất sự thối nát của chính quyền Trung Quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đương thời là bài “Lai tân”:
76
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng lo công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. (Nam Trân dịch)
“Lai tân” được đánh giá là một trong những bài có nghệ thuật đặc sắc
nhất của “Nhật ký trong tù”. Ba câu đầu với câu cuối hình thành hai hình ảnh
đối lập: một bên là sự xuống cấp của bộ máy nhà nước, một bên là cảnh Lai
Tân tưởng chừng như thái bình, yên ấm. Bên cạnh đó còn có phép nhấn ở
cuối mỗi câu, nhấn mạnh vào hành động cờ bạc của ban trưởng, việc ăn hối lộ
của cảnh trưởng và huyện trưởng thì… hút thuốc phiện. Với giọng điệu mỉa
mai, châm biếm ấy, ta thấy được nội dung toàn bài: phê phán chế độ Tưởng
Giới Thạch suy đồi, bát nháo.
Sức tố cáo phê phán, lên án nhà tù chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch
của thơ Đường luật trào phúng là hết sức mạnh mẽ. Nhưng chiều sâu ý tưởng
nghệ thuật của thơ trào phúng Đường luật Hồ Chí Minh còn là ở chỗ: từ
những bài thơ trào phúng, người đọc cảm nhận được sâu sắc và sinh
động “chân dung tinh thần tự họa của một thi sĩ - chiến sĩ hài hòa chất thép và
tình của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng”. Sở dĩ Bác làm được điều ấy
chính vì Bác đã sử dụng một hình thái phê phán đặc biệt có cảm xúc.
2.3. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh - một phương tiện phát
hiện những mâu thuẫn, xung đột
Trào phúng là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án,
vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng. Tiếng cười trào phúng luôn được tạo
ra từ một mâu thuẫn, xung đột mang tính ngược đời, nghịch lý, oái oăm, trớ
trêu... nào đấy. Có thể nói, không có mâu thuẫn, xung đột trào phúng thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không thể có tiếng cười trào phúng.
77
Tiếng cười trong Nhật ký trong tù nảy sinh do mâu thuẫn giữa bản chất
và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa cái thực chất xấu xa bên trong
của chế độ thống trị và mọi hình thức ngụy trang giả dối bên ngoài.
Nhà tù là nơi giam giữ, cải tạo những kẻ phạm tội trở thành người lương
thiện, nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch thì ngược lại, nhà tù còn vi phạm pháp
luật tồi tệ hơn cả bên ngoài. Những người tù cờ bạc bị giải vào nhà lao mới
biết: nếu việc “Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội”, thì “Trong tù đánh bạc được
công khai”; cho nên, “Bị tù, con bạc ăn năn mãi: Sao trước không vô quách
chốn này?” (Đánh bạc). Đây là tiếng cười lưỡng tính, vừa hướng tới kẻ bị tù -
tức những “con bạc”: mỉa mai thói cờ bạc đến mê muội; vừa hướng tới sự phi
lý, thối nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Bài Tù cờ bạc thể hiện rõ sự vô nhân đạo, phi nhân tính của “quan tù”:
Quan không cấp bữa cho tù bạc,
Để họ mau chừa tội cũ hơn.
(Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Ngược đời vô nhân đạo ở chỗ bắt tù nhịn ăn để “mau chừa tội”, tức là
đẩy họ vào chỗ chết để cho… hết tội. Trong khi đó, “Tù “cứng” ngày ngày no
rượu thịt”, còn “Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn”.
Và đây là một sự phi lý nữa:
Mới đến nhà giam phải nộp tiền,
Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên";
Nếu anh không có tiền đem nộp,
Mỗi bước anh đi một bước phiền
(Tiền vào nhà giam - Nam Trân dịch)
Xét theo nghĩa đen, nhà tù là nơi giam giữ, giáo dục, cải tạo, thế mà vào
đây, tù nhân phải nộp tiền. Có nghĩa là nhà tù không còn là nhà tù nữa mà là
nơi... nộp tiền! Bác cũng đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch
có những sự việc tưởng như có lý nhưng hoá ra vô lý:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hút thuốc nơi này cấm gắt gao
78
Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao
Nó thì kép tẩu tha hồ hút
Anh hút, còng đây ghé tay vào.
(Cấm hút thuốc - Nam Trân dịch)
Lệnh cấm hút thuốc chỉ áp dụng với tù nhân, không áp dụng đối với cai
tù nên bọn cai ngục đã ăn cướp trắng trợn những điếu thuốc của phạm nhân.
Từ những mâu thuẫn trào phúng trong hành vi và kết quả hành động ấy, ta
thấy hiện lên bản chất thối nát của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Trong Lai Tân, tiếng cười, sự châm biếm được toát ra từ chính sự mâu
thuẫn giữa cái bề ngoài (hình thức) với cái bên trong (nội dung) ở ba con
người được gọi đích danh trong ba câu thơ đầu:
Bề ngoài (hình thức) Bên trong (nội dung)
Ban trưởng > < thiên thiên đổ
Cảnh trưởng > < tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng > < thiêu đăng biện công sự
Sự lố bịch, hài hước, đáng giễu cợt nằm ngay trong những mâu thuẫn
này. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính
quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng”
– những kẻ khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công
lý”. Cái chức “trưởng” của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ
đầy khuất tất, bất chính. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó.
Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là
những người cầm cân nẩy mực công minh, trong sạch nhưng thực chất
chúng là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc.
Ban trưởng nhà lao là một kẻ chuyên cờ bạc. Tên cảnh trưởng thì “chuyên
tâm” vào việc giải phạm nhân, song thực chất hắn là một kẻ tham lam, rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ranh ma, hắn bắt người vô tội để họ chạy vạy, lo lót, xin xỏ để ăn hối lộ.
79
Còn khi chuyển lao thì tìm cách ăn chặn tù nhân. Hành vi của hắn thật bẩn
thỉu, đê tiện.
Đặt “ban trưởng” bên cạnh “cảnh trưởng”, hai câu thơ đầu đối nhau
trong sự tương xứng, gần gũi về ý nghĩa cùng góp phần tô đậm hiện thực xấu
xa, thối nát của các vị quan chức nhà tù - những kẻ đê hèn, xấu xa, coi thường
luật pháp. Từ những mâu thuẫn giữa bề ngoài (hình thức ) với bên trong (nội
dung), Hồ Chí Minh gửi gắm vào đấy thái độ phê phán qua tiếng cười toát ra
từ sự đối lập về chuẩn mực đạo đức cần phải có với sự thực sa đọa về đạo đức
ở các kẻ quan chức trên.
Còn tên huyện trưởng, ngày ngày “chong đèn” có vẻ như là một người
chăm chỉ mẫn cán với công việc, nhưng thực chất, ngài đốt đèn hút thuốc
phiện. Theo nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai: “các quan huyện hồi ấy, bên đó
khi làm việc quan có bao giờ phải đốt đèn (thiêu đăng) đâu. Ngài đốt đèn hút
thuốc phiện đấy thôi! Đó là sự thật trong các huyện đường Quảng Tây dưới
thời Tưởng” [19, tr.192]. Cũng có người cho rằng ngài huyện trưởng chong
đèn ngoài hút thuốc phiện ra còn để làm những việc “tư” mờ ám, khuất tất
khác không thể làm vào ban ngày. Cách hiểu này làm nên sự lôgic, sự liền
mạch với ý mà câu 1, câu 2 đã triển khai và làm hoàn chỉnh thêm thực chất về
thói sa đọa, thối nát trong giới quan chức của chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Nếu ba câu đầu, sức châm biếm chưa có gì dữ dội nhưng tới câu thứ tư
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” thì bỗng nhiên toàn bộ con người và sự vật
bị phanh phui trước ánh sáng gay gắt và đổ sụp xuống. Bọn quan lại như thế
mà trời đất Lai Tân lại vẫn “thái bình”? Chữ thái bình đã xé toạc bức màn dối
trá, phơi bày những ung nhọt của xã hội thời Tưởng. Tiếng cười giễu nhại ở
câu cuối đã lật tẩy bản chất của thể chế chính trị ở Lai Tân, như một dự báo
về sự cáo chung của chế độ Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bởi vì cái gọi là “thái bình thiên” vốn đã thối nát như thế từ bao giờ.
80
Không phải chỉ ở “Lai Tân”, mà ở nhiều bài thơ khác trong “Nhật kí
trong tù”, Bác còn vạch mặt bao cái bất công, bao điều đau khổ đáng cười
trước nhiều hiện tượng đối lập giữa hình thức và nội dung trong thế giới nhà
tù ấy. Có nhà tù giống như một “quán trọ”, người tù tự mua bán với nhau:
“Giá cả trong tù định rõ sao?”. Có nhà tù, phạm nhân phải nộp “tiền đèn”
mới có ánh sáng, hoặc “tự nguyện” được cùm chân để yên bề ngủ. Đó là
“những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đánh thẳng vào kẻ thù, vạch
trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”.
Điểm chung của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc dường như là hành
hạ tù nhân bằng cái đói. Từ nhà lao Tĩnh Tây (Cơm tù), đến nhà lao Điền
Đông, người tù luôn chịu cảnh đói khát:
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.
(Điền Đông - Nam Trân dịch)
Nhà lao Bình Mã hay nhà lao Đồng Chính cũng vậy cả: khi mở cửa nhà
lao, nước và ánh sáng thì “dư dật”, nhưng bữa ăn của tù nhân thì chỉ có lưng
bát cháo:
Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy,
Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào;
Nước và ánh sáng thì dư dật,
Ngày lại hai lần mở cửa lao.
(Đồng Chính - Nam Trân dịch)
Hay ở bài “Chia nước”, Bác cứ lặp đi lặp lại một ý “pha trà” và “rửa
mặt” trong bốn câu thơ để làm nổi bật cái khẩu phần “nước lã” ít ỏi trong nhà
tù Tưởng Giới Thạch:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
81
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà. - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch -
Mâu thuẫn ở đây là người tù như được hoàn toàn tự do, với nửa chậu
nước, họ được lựa chọn tùy thích pha trà hay đừng rửa mặt. Tuy nhiên, trên
thực tế, họ chẳng chẳng có tự do để chọn lựa.
Ở bài “Bị hạn chế”, Hồ Chí Minh tô đậm bức tranh biếm hoạ:
Cửa tù khi mở, không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù”.
(Nam Trân dịch)
Như vậy, trong chốn lao tù, người tù bị tước bỏ cả những điều kiện sống
tối thiểu của con người, ăn uống thì quá thiếu thốn, cộng thêm bệnh tật, muỗi,
rệp… khiến tù nhân kiệt quệ về thể chất.
Ở nhiều bài thơ khác, ta còn thấy có những mâu thuẫn lạ, lạ mà rất thực,
rất tự nhiên, tạo nên một sự châm biếm, phê phán khi thì nhẹ nhàng, khi thì
gay gắt, nhưng cuối cùng lại gây một nụ cười mỉa mai sâu sắc:
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối,
Ta thì người dắt, lợn người khiêng;
Con người coi rẻ hơn con lợn,
Chỉ tại người không có chủ quyền.
(Cảnh binh khiêng lợn cùng đi - Nam Trân dịch)
Cảnh binh sợ người tù bỏ trốn nên bắt tù nhân cổ mang cùm, chân bị
xích, và đương nhiên là người tù bị dắt đi, còn nếu dắt con lợn, đường xa sẽ đi
rất chậm, có khi lợn lại bị gầy, nên người ta khiêng lợn là chuyện bình
thường. Đúng là Con người coi rẻ hơn con lợn, từ một việc hết sức bình
thường, Hồ Chí Minh đã lên án, tố cáo chế độ xã hội Tưởng, coi con lợn hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
con người.
82
Bài “Cái cùm” cũng làm bật lên mâu thuẫn trào phúng giữa nội dung và
hình thức, mâu thuẫn trớ trêu trong cùng một hiện tượng tưởng như phi lí mà
lại có thật: để “yên bề ngủ”, các tù nhân tranh nhau cho chân vào cái cùm:
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu?
(Nam Trân dịch)
Cảnh máy bay, cảnh chạy bom, cảnh mở tù cũng là những mâu thuẫn tạo
tiếng cười hài hước, châm biếm vì nhờ có máy bay địch mà tù nhân mới được
dịp “sổ lổng". “Máy bay địch” không phải là “cừu nhân” mà lại là “ân nhân”
của những “tù nhân” đang khao khát tự do!
Máy bay địch bỗng đến ào ào
Tất cả nhân dân chạy xuống hào,
Cửa mở cho tù ra lánh nạn,
Được ra ngoài ngục, khoái làm sao!
(Báo động - Nam Trân dịch)
Sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Hồ Chí Minh bắt nguồn từ con người của
Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Trải qua bao vất vả, khổ sở, đói rét,
nhọc nhằn về mặt vật chất kết hợp với tâm trạng lo lắng, băn khoăn, trăn trở
cho vận mệnh nước nhà nên có lúc Người bị ốm:
“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh,
“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đảng khóc mà ta cứ hát tràn
(Ốm nặng - Nam Trân dịch)
Hai câu đầu là nguyên nhân gây ra ốm nặng, câu thứ nhất là nguyên
nhân khách quan, câu thứ hai là nguyên nhân chủ quan. Câu thứ ba là một
hiện thực: ở tù đã là một cay đắng, trong tù mắc bệnh thì càng cay đắng bội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
83
phần. Có thể coi ba câu đầu là nguyên nhân để dẫn tới một tình cảnh “đảng
khóc”. Nhưng chỉ có người tù vĩ đại Hồ Chí Minh mới tạo nên một mâu thuẫn
này: Đảng khóc mà ta cứ hát tràn. Tuy nhiên, bản dịch đã không lột tả được
âm hưởng phẫn uất, dồn nén dữ dội của ba thanh trắc liền nhau (thống khốc
khước) ở bản phiên âm: “Bản ưng thống khốc khước cuồng ca”. Đây là một
thái độ phủ nhận hiện thực cay đắng, có tiếng hát nhưng không phải là tiếng
hát yêu đời hay hát để cho vui mà là hát để chế ngự hiện thực, vượt lên hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thực quá phũ phàng.
84
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, luận văn đã trình bày những nét mới trong thơ Đường
luật trào phúng Hồ Chí Minh như: thứ nhất, thơ Đường luật trào phúng Hồ
Chí Minh – một hiện tượng thẩm mỹ độc đáo, theo đó, Người đã phát hiện giá
trị thẩm mỹ từ những sự việc, hiện tượng hết sức đời thường, lạ hóa và gắn
cho đối tượng những giá trị mới; thứ hai là thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí
Minh – một hình thái phê phán đặc biệt có cảm xúc, đó là những trạng thái có
cảm xúc: cảm xúc lên án, phê phán, tố cáo những bất công, ngang trái trong
tù; cảm xúc xót thương cho những số phận bị đày đọa trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch; cảm xúc ung dung tự tại của vị “khách tiên” trong chốn lao tù…;
nét mới thứ ba là thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh - một phương tiện
phát hiện những mâu thuẫn, xung đột: mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng,
giữa nội dung và hình thức, giữa cái thực chất xấu xa bên trong của chế độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thống trị và mọi hình thức ngụy trang giả dối bên ngoài.
85
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM VỀ BÚT PHÁP VÀ NGÔN NGỮ
TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi không có tham vọng trình
bày tất cả các biểu hiện của vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong những sáng tác
của Hồ Chí Minh, mà chỉ đi sâu bàn bạc về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
bút pháp cổ điển và hiện đại trong gần 45 bài thơ trào phúng Đường luật của
tập thơ Nhật ký trong tù.
Trên cơ sở thống kê, khảo sát, chúng tôi sẽ chỉ ra một vài biểu hiện của
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại trên các phương
diện: thể thơ, đề tài, hình ảnh thơ và nhân vật trữ tình trong thơ Đường luật
trào phúng Hồ Chí Minh.
3.1.1. Đặc trưng nghệ thuật của thể thơ Đường luật
Trong cuốn “Đặc điểm thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” tác
giả Trần Thị Lệ Thanh đã phân tích và rút ra những kết luận xác đáng về Đặc
trưng nghệ thuật của thể thơ Đường luật như sau: Trước hết “Nó là thể thơ tạo
nên giá trị kết tinh trong nghệ thuật thơ thông qua con đường vượt hiểm, ở đây
là vượt sự nghiêm ngặt, gò bó trong thi luật, thi pháp mang tính định hình cực
đoan, cao độ. Chính đây là chỗ khác nhau giữa TĐL với các thể thơ khác, và
trở thành tính đặc trưng gần như là độc nhất vô nhị của thể TĐL. Đây cũng là
chỗ thể hiện sự kỳ diệu, kể cả sự bí hiểm trong tư duy sáng tạo nghệ thuật thơ
ca mà mọi sự lý giải đơn giản đều là sự bất cập trước hiện tượng kì diệu và bí
hiểm đó”. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhận xét: “Nó cũng là thể thơ có tính ưu
việt nhất trong việc thể hiện một nguyên tắc tối thượng và muôn đời của nghệ
thuật văn chương nói chung, nghệ thuật thơ ca nói riêng là sự súc tích, cô đúc,
lời ít ý nhiều. Xin được nói thêm: đây là một nguyên tắc thuộc yêu cầu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghệ thuật không phải ở một thời, mà với muôn đời, và phải coi nó là tối
86
thượng trong muôn đời. Nói thế có nghĩa là thể TĐL tuy là sản phẩm mang
tính lịch sử cụ thể của thời đại nó ra đời và tồn tại là đời nhà Đường ở Trung
Hoa, nhưng cũng mang giá trị vĩnh hằng của lịch sử thơ ca” [48].
Từ hai nét đặc trưng trên, tác giả còn chỉ ra: “khả năng thích ứng đa dạng
của thể TĐL trong việc thể hiện đời sống cảm xúc – thẩm mĩ của người làm
thơ vốn cũng rất đa dạng và có liên quan đến các loại nhu cầu như: tính chặt
chẽ, tính cân đối, tính tương phản... Thể TĐL ngoài khả năng trữ tình, vẫn có
khả năng tự sự trào phúng, dĩ nhiên là trong phạm vi khả năng của nó. Không
phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam, không chỉ thời trung đại mà cả thời hiện đại,
loại hình thơ trào phúng đã kết duyên hơn bất cứ thể thơ nào khác với thể
TĐL. Ấy là bởi trong thi pháp TĐL có luật đối đã cung cấp cho nó phương
tiện đối lập tối ưu để gây cười, để lật tẩy cái xấu, cái lố bịch” [48].
Chúng tôi đặc biệt tán thành khi tác giả rút ra kết luận: “đã đến lúc
không thể chỉ xem tính định hình nghiêm ngặt trong thi pháp là đặc trưng
nghệ thuật duy nhất của thể TĐL mà phải nhìn đặc trưng nghệ thuật của thi
pháp TĐL trong độ phức tạp, kỳ diệu của nó để từ đó có cơ sở cho việc nhận
thức về khả năng tồn tại của thể TĐL trong phạm vi khu vực mà nó đã từng
có sức sống phi thường”[48].
Những điều được nêu trên đây, chắc chắn là còn chưa thật hoàn chỉnh,
nhưng thiết tưởng cũng đã có thể cho phép người viết luận văn này tin tưởng
rằng: công việc đang được triển khai là có căn cứ – sự hiện diện của thơ
Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh là một sự thật cần được khám phá không
thể bỏ qua.
Do khối lượng tác phẩm trào phúng của các tác giả trước và sau thế kỉ
XX quá lớn, nên luận văn chỉ thống kê thể thơ Đường luật trào phúng của một
số nhà thơ tiêu biểu như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tú
Mỡ. Kết quả thống kê cho thấy, thể thơ được các nhà thơ sử dụng nhiều nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật: Nguyễn Khuyến (45 bài chữ Hán), Tú
87
Xương (52 bài chữ Nôm), Tú Mỡ (06 bài chữ quốc ngữ); thể thơ thứ hai là
thất ngôn tứ tuyệt: Hồ Xuân Hương (13 bài chữ Nôm), Nguyễn Khuyến (01
bài chữ Hán), Tú Xương (27 bài chữ Nôm), Tú Mỡ (03 bài chữ quốc ngữ);
các thể thơ thất ngôn trường thiên, ngũ ngôn bát cú,… cũng được sử dụng
nhưng tần số xuất hiện không nhiều.
Nhật ký trong tù gồm 135 bài (bao gồm cả bài đề từ ghi ở trang bìa và bài
Mới ra tù tập leo núi viết sau khi không phải giam cầm, được trả lại tự do) thì
có 133 bài thơ Đường luật, 02 bài không làm theo thể Đường thi (bài thứ 11 có
tựa là Lời hỏi gồm 12 câu, mỗi câu 5 chữ và bài thứ 103 với tiêu đề Bốn tháng
rồi có 16 câu dài, ngắn khác nhau và sử dụng 3 từ ghép “Bởi vì”, “Cho nên”,
“May mà” như những phụ từ, như vậy, hai bài thơ này được viết theo thể tự
do, không phải là Đường thi). Vậy, ta có thể khẳng định, Nhật ký trong tù là
một tập thơ Đường luật.
Trong 45 bài thơ trào phúng của Nhật kí trong tù, chúng tôi thấy có 44
bài Đường luật, 01 bài tự do (Bốn tháng rồi). Trong đó, có 03 bài ngũ ngôn tứ
tuyệt (Vợ người bạn tù đến thăm chồng, Cột cây số, Giải đi Vũ Minh), có 01
bài thất ngôn bát cú (Đêm thu), và có tới 40 bài tứ tuyệt (Đánh bạc, Dây trói,
Tiền vào trại giam, Pha trò, Tiền công, Quán trọ...).
Đọc thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh, ta nhận ra sự ảnh hưởng
đậm đặc của chất Đường thi, bút pháp cổ điển trong phong cách thơ của
Người, nhất là trong thể thơ tứ tuyệt.
Thơ tứ tuyệt có đặc điểm ngắn gọn, hàm súc (20 chữ với thể ngũ ngôn tứ
tuyệt, 28 chữ với thể thất ngôn tứ tuyệt), vì thế, nó đòi hỏi người sáng tác phải
biết “nén” tối đa thông tin, ý nghĩa biểu đạt trong một số chữ tối thiểu. Màu
sắc cổ điển trong thơ trào phúng Hồ Chí Minh cũng được tạo bởi thể thơ tứ
tuyệt với các mối quan hệ tương đồng hoặc đối lập: động – tĩnh, khả biến –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bất biến, vinh – nhục, ngoại cảnh – tâm cảnh, được – mất, không – có, xưa –
88
nay, tiên – tục…. Ta có thể bắt gặp đặc điểm đó qua một số bài tứ tuyệt như:
Quá trưa, Cái cùm, Chia nước, Đánh bạc, Bị hạn chế, Lai Tân…
Bên cạnh đó, thơ tứ tuyệt của Người còn kết hợp được tính trang nghiêm
cổ kính của thơ Đường luật với tính chiến đấu nghị luận của thơ Tống. Các
bài thơ được làm theo thể Đường thi của Người đạt đến trình độ nghệ
thuật cao. Quách Mạt Nhược - nhà phê bình người Trung Quốc - khi đọc Nhật
ký trong tù phải thừa nhận rằng: “Có một số bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một
tập các thi nhân Đường Tống thì cũng khó phân biệt”. Nhận xét này cho thấy,
Hồ Chí Minh đã kế thừa và sử dụng thành công thể thơ Đường luật. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh đã có nhiều cách tân, sáng tạo về thể thơ.
Thứ nhất, đọc thơ Đường luật của Bác, ta thấy trong tập thơ có nhiều bài
thơ phá thể trong thể thơ tứ tuyệt. Chẳng hạn như bài Tân Dương ngục trung
hài (Cháu bé trong ngục Tân Dương), đây một bài thơ tứ tuyệt luật Đường
nhưng lại mở đầu bằng một câu thơ phi Đường luật:
Tân Dương ngục trung hài
22 - 11
Oa…! Oa…! Oaa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Dịch thơ:
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
(Nam Trân dịch)
Thay vì bẩy chữ ở mỗi dòng thơ thất ngôn, Người chỉ dùng 3 tiếng Oa...!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Oa...! Oaa…!, để ghi lại tiếng khóc vì khát sữa của cháu bé trong nhà lao.
89
Câu thơ với ba chữ tượng thanh “Oa...! Oa...! Oaa...!” hoàn toàn thuần Việt đã
tạo ấn tượng mạnh mẽ về tiếng khóc của cháu bé sơ sinh – tiếng khóc trở
thành tiết thét căm hờn, tố cáo sự tàn bạo, vô nhân tính của chế độ Tưởng
Giới Thạch đương thời.
Hay trong bài Giải đi Vũ Minh, cả bài thơ có năm câu, sau bốn câu thơ
ghi lại hành trình bị chuyển lao lòng vòng, Người thêm hai chữ Bất bình!,
đứng tách riêng thành một dòng thơ độc lập thể hiện thái độ bất bình, bực tức
đến cao độ của người tù trước việc chế độ nhà tù đày ải người tù vô cớ mà
không cần xét xử:
Giải vãng Vũ Minh
Ký giải đáo Nam Ninh,
Hựu giải phản Vũ Minh;
Loan loan, khúc khúc giải,
Đồ diên ngã hành trình.
Bất bình!
Dịch thơ:
Đã giải đến Nam Ninh,
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quẹo mãi,
Kéo dài cả hành trình.
Bất bình!
(Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Sự phá cách này là hiện tượng không có trong thơ Đường luật Trung
Quốc, nhưng với Bác, sáng tạo nghệ thuật chính là phương thức nhằm biểu
đạt tư tưởng một cách giản dị, chân thực, sâu xa.
Thứ hai, mặc dù viết thơ Đường luật nhưng Bác lại không tuân thủ các
quy định về luật bằng trắc, các yêu cầu như niêm, dùng điển tích, điển cố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng bị coi nhẹ. Có bài, Bác đã sử dụng một kết cấu độc đáo, không theo
90
trình tự, lớp lang kiểu khai, thừa, chuyển, hợp của tứ tuyệt luật Đường mà
dùng cả ba câu đầu vào một nhiệm vụ, như ba mũi xung kích cùng giáp công
một tiền đồn, bài Lai Tân là một ví dụ:
Câu 1: Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Câu 2: Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Câu 3: Chong đèn huyện trưởng làm công chuyện,
Câu 4, bất ngờ hạ xuống: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, với bút pháp thâm thúy, thủ
pháp nghệ thuật đối lập, kiểu câu lặp cú pháp mà chủ ngữ là những ban
trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng cùng với những việc làm dơ dáy của
họ, bài thơ Đường luật phá cách này đã vượt khỏi khuôn phép truyền thống
bằng cách hướng đến miêu tả - phản ánh hiện thực khách quan. Thông qua
việc ghi chép những điều bản thân đã mục sở thị, Hồ Chí Minh đã “đưa thời
sự vào thơ”, vẽ nên một bức tranh hiện thực sáng rõ về lũ quan lại thối nát ở
chốn lao tù và cả trong guồng máy chính trị đương thời của xã hội Trung
Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Đồng thời giúp ta nhìn được sâu hơn vào
số phận khổ đau của nhân dân Trung Quốc cũng như tình cảnh khốn cùng của
những phạm nhân chẳng may trót sa chân vào chốn ngục tù.
Thơ Đường luật, nhất là thơ tứ tuyệt, thì đa số là bày tỏ nỗi hoài cổ, nhớ
tiếc về quá khứ đẹp đẽ. Ngược lại, thơ tứ tuyệt trong “Nhật kí trong tù” tuy có
những bài trữ tình nhưng lại gửi gắm vào câu thơ sự giễu nhại đầy thâm thúy,
ví dụ như bài: “Chia nước”, “Đánh bạc”, “Dây trói”, “Bị hạn chế”, “Viết hộ
báo cáo cho các bạn tù”, “Lên xe lửa đi Lai Tân”, “Cuộc sống trong tù”…
Như vậy, Hồ Chí Minh không chịu để cho hình thức thể loại trói buộc khi
hình thức ấy tỏ ra bất lực trước những cảm xúc mạnh mẽ, những suy nghĩ sâu
sắc của mình. Người đã mượn hình thức thơ Đường luật để diễn tả những điều
tai nghe mắt thấy một cách sinh động, tự nhiên, giản dị trong những cấu trúc
câu thơ gần với lời nói hàng ngày của con người. Sự sáng tạo này một lần nữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
minh chứng tính hiện đại trong thơ Bác.
91
3.1.2. Đề tài
Thơ xưa luôn dành một phần “thiên ái” cho đề tài thiên nhiên - thiên
nhiên là chủ thể, con người, cuộc sống là khách thể:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Và trong Nhật ký trong tù, thiên nhiên cũng "chiếm một địa vị rất danh
dự" (Đặng Thai Mai). Điều này góp phần làm nên vẻ đẹp cổ điển của tập thơ.
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)
Đọc Nhật ký trong tù, ta thường gặp những câu thơ tả cảnh buổi sớm
(Tảo, Tảo giải, Triêu cảnh); buổi trưa (Ngọ, Ngọ hậu); buổi chiều (Vãn, Vãn
cảnh, Mộ, Hoàng hôn); đêm tối (Dạ bán, Dạ lãnh)… Những hình tượng quen
thuộc của thơ xưa như trăng, hoa, núi, sông, mây, cánh chim… cũng thường
xuyên xuất hiện trong các bài Ngắm trăng, Trên đường đi…
Bên cạnh đề tài thiên nhiên, tình bạn vốn được xem là đề tài “đặc trưng”
của thơ cổ cũng xuất hiện trong Nhật ký trong tù như bài Người bạn tù thổi
sáo, Một người tù cờ bạc chết cứng, Một người tù cờ bạc chết cứng Vợ người
bạn tù đến nhà lao thăm chồng, Ông Quách, Trưởng ban họ Mạc… Đặc biệt,
bài thơ “Ức hữu” mang phong vị thơ xưa từ tên tác phẩm, đề tài đến cách
triển khai đề tài đó trong bốn câu thơ bảy chữ:
Tích quân tống ngã chí giang tân
Vấn ngã quy kỳ, chỉ cốc tân;
Hiện tại tân điền dĩ lê hảo,
Tha hương ngã tắc ngục trung nhân.
Dịch thơ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
92
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay đã gặt xong, cày đã khắp,
Quê người, tôi vẫn chốn lao lung.
(Nhớ bạn - Nam Trân dịch)
Sự xuất hiện của các đề tài quen thuộc khiến cho người đọc khi lật giở
từng trang thơ Nhật ký trong tù luôn có cảm giác thân thuộc, gần gũi, xưa cũ,
rất dễ đồng cảm.
Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy rằng, đề tài trong Nhật ký trong tù phong
phú, đa dạng và luôn bám theo dòng chảy của cuộc sống đương thời. Trong
hoàn cảnh ngục tù, Hồ Chí Minh đã dùng “nhật kí” ghi lại những ngày tháng
tê tái gông cùm, những gì mắt thấy, tai nghe trong nhà tù Tưởng Giới Thạch
một cách tỉ mỉ và chi tiết. Bác thương từ em nhỏ chưa đầy một tuổi đã phải
theo mẹ đến ở nhà tù (Cháu bé trong ngục Tân Dương), Bác ngậm ngùi, xót
xa cho người bạn tù khổ đau vừa mới chết:
Nhất cá đổ phạm "ngạnh" liễu
Tha thân chi hữu cốt bao bì,
Thống khổ cơ hàn bất khả chi.
Tạc dạ tha nhưng thuỵ ngã trắc,
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.
Dịch thơ:
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.
(Một người tù cờ bạc chết cứng - Nam Trân dịch)
Nếu như trong thơ xưa, các nhà thơ cổ điển thường dựng lên bức chân
dung tinh thần mang tính sự ước lệ, công thức (nào là chí, tỏ lòng, tóc bạc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lòng son…), thì trong thơ Bác, bức chân dung tự họa của người tù Hồ Chí
93
Minh đã hiện lên qua từng trang thơ một cách chân thực, suồng sã. Những
tháng ngày trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Bác “gầy đen như quỷ đói”, răng
thì “rụng mất một chiếc”, ghẻ lở đầy thân, nước thì phải chia “mỗi người nửa
chậu”, nếu rửa mặt thì thôi pha trà, muốn pha trà thì chớ rửa mặt, “bị hạn chế”
cả trong việc “buồn đi ỉa cũng không cho”… có thể nói, “không có vùng cấm”
trong việc Bác tự họa chính bản thân mình.
Không dừng lại ở đó, dưới ngòi bút sắc sảo của người tù Hồ Chí Minh,
mọi khía cạnh của cuộc sống hiện dần lên qua từng trang “nhật kí”: Cái cùm,
Đánh bạc, Chia nước, Dây trói, Tiền đèn, Lai Tân, Tiền vào nhà giam, Tiền
công; Gia quyến người bị bắt lính, Cháu bé trong ngục Tân Dương, Cơm tù,
Sinh hoạt trong tù, Một người tù cờ bạc chết cứng… Nói như Nguyễn Đăng
Mạnh, “thơ Bác có đầy đủ cả mắm, muối, tương cà”, đây là đặc điểm cốt lõi
khiến thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh tuy mang màu sắc cổ điển
nhưng lại thấm đẫm tinh thần hiện đại.
3.1.3. Hình ảnh thơ
Trong thơ ca cổ điển, những hình ảnh thiên nhiên đẹp với những cảnh
sắc vừa hùng vĩ vừa nên thơ đã được Bác khái quát trong bài thơ “Cảm tưởng
đọc thiên gia thi”:
Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.
Những hình ảnh ấy vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Người tạo nên
một nét cổ điển rất riêng. Thay vì những hình ảnh ước lệ, tượng trưng làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, những hình ảnh giản dị, đời thường của
cuộc sống cần lao, gian khổ với những hình ảnh cơm, nước, rau, canh tràn về
trong thơ Bác:
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cơm, nước, rau, canh đun với nấu,
94
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
(Sinh hoạt trong tù - Nam Trân dịch)
Nói những hình ảnh trong thơ Hồ Chí Minh hiện đại là bởi, nó phản ánh
khá chân thực bức tranh hiện thực cuộc sống của một thời đại nhiễu nhương
với những bất công, tàn bạo dưới chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Trong thơ
Người, ta bắt gặp hình ảnh đứa trẻ trong không gian ngục tù:
Oa...! Oa...! Oaa...!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
(Cháu bé trong ngục Tân Dương - Nam Trân dịch)
Tiếng khóc trẻ thơ là âm thanh của thực tại, của cuộc sống đương thời.
Tiếng khóc ấy dường như mang trọn nỗi đau từ trong vô thức về một tương
lai mờ mịt phải sống trong cảnh thiếu thốn tình yêu thương. Nỗi đau ấy là hệ
lụy của chế độ nhà tù tàn ác và đồi bại – nơi những con người có chức quyền
ngày đêm đắm mình vào trong những thú vui riêng, mặc cho con tạo xoay vần
cuộc sống của nhân dân:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
(Lai Tân - Nam Trân dịch)
Không còn những hình ảnh thiên nhiên đẹp, cũng vắng bóng hình ảnh
của những con người đạo mạo với cốt cách sánh ngang tầm vũ trụ, bài thơ Lai
tân thuần túy là những hình ảnh cuộc sống, là hình ảnh của những bộ mặt xấu
xí, dơ bẩn của quan lại địa phương. Con người ở đây không còn được miêu tả
qua hệ thống thi pháp ước lệ, tượng trưng mà hiện lên trần trụi qua ngòi bút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
miêu tả chi tiết, cụ thể của tác giả.
95
Theo từng hình ảnh, xã hội Lai Tân dần dần được lộ diện theo cách rất
riêng: ở ngoài đánh bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc,
Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này.
(Đánh bạc - Nam Trân dịch)
Dưới chế độ xã hội trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch mục nát, nhà tù
không còn là nơi giáo dục cải tạo, phục thiện mà là nơi tội ác phát triển, thậm
chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc, vào đây có tiền thì mua cơm mà ăn, không
có tiền thì chết đói:
Quan không cấp bữa cho tù bạc,
Để họ mau chừa tội cũ hơn;
Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt,
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.
(Tù cờ bạc - Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp
tiền giam, thổi cơm, đun nước cũng đều phải trả tiền cả:
Thổi một nồi cơm trả sáu hào
Nước sôi mỗi chậu,một đồng trao
Một đồng, của đáng sáu hào chỉ
Giá cả trong tù định rõ sao!.
(Tiền công - Nam Trân dịch)
Thơ ca cổ điển thường trọng tính thanh nhã - yếu tố này đã quyết định
đến việc lựa chọn hình ảnh của các thi nhân xưa. Thế nhưng, những hình ảnh
cầu tiêu, hố xí - vốn bị xem là thô tục trong văn học cổ lại hiện ra một cách
trần trụi trong thơ Bác:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lệ thường tù mới đến,
96
Phải nằm cạnh cầu tiêu;
Muốn ngủ cho ngon giấc,
Anh phải trả tiền nhiều.
(Quán trọ - Nam Trân dịch)
Hay:
Năm mươi ba dặm, một ngày trời,
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;
Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
(Mới đến nhà lao Thiên Bảo - Nam Trân dịch)
Không chỉ phá vỡ những chuẩn mực thẩm mĩ cổ điển, Hồ Chí Minh còn
thổi hồn thời đại vào trong tác phẩm bằng những hình ảnh bình dị đời thường
như hình ảnh chiếc răng rụng, cái nốt ghẻ, chậu nước nhà pha,… Những
hình ảnh đời thường ấy đã tạo ra một phong cách mới, một sự phá cách sáng
tạo thể thơ vốn thuộc dòng thơ bác học, rất chặt chẽ về cấu trúc, niêm luật và
tạo nghĩa văn bản. Đồng thời phản ánh thực trạng nhà tù Tưởng Giới Thạch
thối nát, xấu xa đang gieo rắc cuộc sống đau thương lên cuộc sống lầm than
của dân lành.
3.1.4. Nhân vật trữ tình
Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả – nhà thơ hiện ra
từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, toàn bộ trường ca hay toàn bộ
sáng tác thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số
phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ
chân dung (mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật như
trong tác phẩm tự sự hay kịch) [10, tr.234].
Trong thơ ca cổ điển, nhân vật trữ tình thường là các nhà Nho. Dù những
con đường khác nhau: có người trung thành với lí tưởng hành đạo, có người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ẩn dật tìm sự thanh nhàn, có người lại tài tử ngất ngưỡng bông đùa với thế
97
gian nhưng điểm gặp gỡ giữa họ đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình và
chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ tư tưởng phong kiến.
Trong tập thơ Nhật kí trong tù, nhân vật trữ tình chính là hiện thân của
tác giả - bức chân dung của một người tù đang trong hành trình giải lao với
khát vọng tự do luôn sục sôi trong tâm hồn. Nhân vật trữ tình cũng là một yếu
tố làm nên vẻ đẹp hiện đại của tập thơ Nhật kí trong tù.
Tìm hiểu vẻ đẹp cổ điển của thơ Đường luật trào phúng trong Nhật ký
trong tù ở phương diện nhân vật trữ tình, chúng tôi còn nhận thấy, Hồ Chí
Minh đã tiếp nối truyền thống thương người như thể thương thân của các thi
nhân tiền bối. Tuy nhiên, nếu như các nhân vật trữ tình trong văn học cổ điển
chỉ trầm tư suy nghĩ, dằn vặt trong nỗi đau thì nhân vật trữ tình trong thơ Bác
lại hướng đến sự lạc quan. Đây là điểm khác biệt của thơ cách mạng với
những áng thơ cổ điển bất hủ.
Chốn tù đày cũng không thể ngăn con người vĩ đại Hồ Chí Minh - nhân
vật trữ tình nghiêng mình đồng cảm và sẻ chia với nỗi đau của con người: xót
xa cho cảnh ngộ đáng thương của cháu bé vừa nửa tuổi phải theo mẹ đến ở
nhà pha:
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
(Cháu bé trong ngục Tân Dương - Nam Trân dịch)
Tiếng khóc non nớt đó đã bật ra từ sự dồn nén của những điều cay đắng
trên đời tầng tầng phi lí. Ngoài ra, ta còn hiểu thêm được tấm lòng yêu thương
của Bác trong tiếng khóc của người góa phụ trong bài thơ “Nửa đêm nghe
tiếng khóc chồng”:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
98
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười mươi.
(Nguyễn Sĩ Lâm dịch)
Trong tù, Bác còn chứng kiến nhiều cảnh ngộ thương tâm, Bác đau đớn
thương tiếc trước cái chết đột ngột của người tù:
Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu
Tha thân chi hữu cốt bao bì,
Thống khổ cơ hàn bất khả chi;
Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc,
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.
Dịch thơ:
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Thân anh da bọc lấy xương
Khổ đau đói rét hết phương sống rồi…
(Một người tù cờ bạc “chết cứng” - Nam Trân dịch)
Thái độ và tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ rõ qua cách nói
đầy xót xa “tha thân chi hữu cốt bao bì”, qua giọng điệu thân thiết “tạc dạ tha
nhưng thụy ngã trắc” và thái độ bàng hoàng, sửng sốt “kim triêu tha dĩ cửu
tuyền quy”. Bốn câu tứ tuyệt không chỉ ghi lại một cảnh đời thê lương yểu
mệnh mà còn họa lại trước mắt chúng ta hình ảnh của nhân vật trữ tình - tác
giả Hồ Chí Minh, một con người có lòng nhân ái bao la.
Trong bài “Người bạn tù thổi sáo”, Bác thương người bạn tù nhớ quê
hương da diết trong âm điệu sầu não. Phải chăng, tiếng sáo của người bạn tù
cũng là tiếng lòng của Bác:
Nạn hữu xuy địch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
99
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu.
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Dịch thơ
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khuôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
(Nam Trân dịch)
Với Hồ Chí Minh, hoàn cảnh của nhân vật trữ tình đã chi phối đến con
mắt quan sát cảnh vật để thông qua đó bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ, sự nỗi
bất bình của mình khi sống trong cảnh tù ngục:
Nhập lung tiền
Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền,
Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên;
Thảng nhĩ vô tiền bất năng nạp,
Nhĩ tương bộ bộ bỉnh ma phiền.
Dịch thơ:
Mới đến nhà giam phải nộp tiền,
Lệ thường ít nhất năm mươi “nguyên!;
Nếu anh không có tiền đem nộp,
Mỗi bước anh đi, một bước phiền.
(Tiền vào nhà giam - Nam Trân dịch)
Ngục tù không giết chết được ý chí của thi nhân, tội ác không đày ải
được tấm lòng nhân đạo cao cả của Bác. Chốn tù đày không giam hãm được
đôi mắt hướng về cuộc sống của Bác:
Bang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước,
100
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan.
Huân quan đích thị kim ti tuyến,
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.
Dịch thơ
Rồng quấn vòng quanh chân với tay,
Trông như quan võ đủ tua, đai;
Tua đai quan võ bằng kim tuyến
Tua của ta là một cuộn gai.
(Dây trói - Nam Trân, Băng Thanh dịch)
Qua nhân vật trữ tình (cũng là sự hiện thân của tác giả), ta thây rõ tấm
lòng của Bác: nhân hậu, giàu yêu thương và luôn có cách xử thế ân tình.
Người luôn tìm cách giúp đỡ mọi người trong khả năng của mình và tỏ lòng
biết ơn ai đó giúp mình. Như vậy, Hồ Chí Minh đã mang lại một luồng gió
mới cho tập thơ Nhật kí trong tù: nhân vật trữ tình với những nét mới mẻ,
hiện đại, mang dấu ấn của một thời đại mới - thời kì cách mạng sục sôi của
kháng chiến.
3.2. Những đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào phúng Hồ
Chí Minh
Ngôn ngữ thơ là một phương tiện nghệ thuật quan trọng, góp phần thể
hiện tư tưởng của tác phẩm. Ngôn ngữ thơ của Hồ Chí Minh không nằm
ngoài quy luật đó. Tuy nhiên, trong nội dung phần này, chúng tôi không đi
quá sâu và nghiên cứu kỹ tất cả những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật trong
thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh, mà chỉ tìm hiểu những đặc trưng cơ
bản về từ ngữ và cú pháp để làm rõ cái hay của Bác khi sử dụng ngôn ngữ
trong thơ Đường luật trào phúng.
3.2.1. Đặc điểm về từ ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.2.1.1. Từ ngữ Hán trang trọng và sự xuất hiện của lớp từ bình dân
101
Khác với chất “nôm na” dân dã của ngôn ngữ thơ Nôm, ngôn ngữ Hán
trong thơ Đường luật là một ngôn ngữ trang trọng, thanh nhã, hàm súc, ước
lệ và tinh luyện. Vì thế, cùng là sáng tác của một tác giả, nhưng thơ chữ Hán
và thơ chữ Nôm cũng khác nhau về phong cách. Hồ Xuân Hương là một ví
dụ. nếu trong thơ Nôm, bà thoải mái sử dụng nhiều lớp từ thuần Việt mang
sắc thái bình dân, vừa tự nhiên dễ hiểu, vừa sinh động cụ thể… nhưng sang
địa hạt thơ chữ Hán, Hồ Xuân Hương phải “chững lại” với lối chơi chữ tao
nhã, với những từ ngữ cầu kì sang trọng dồn nén của các bậc thánh hiền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng nhiều ngoại ngữ, nhưng tiếng Hán là
ngoại ngữ duy nhất Người dùng để làm thơ. Trừ một số rất ít chữ là tên riêng
như Ung (Nam Ninh), Dụ (Thượng Hải)… hầu hết chữ Hán Hồ Chí Minh sử
dụng đều nằm trong bảng chữ Hán tối thiểu, thuộc số những chữ có tần số sử
dụng cao nhất (theo thống kê của nhà ngôn ngữ học Phan Văn Các, Hồ Chí
Minh đã sử dụng 1332 chữ Hán trong tổng số có ngót 5 vạn chữ Hán hiện có).
Đối tượng khảo sát của chúng tôi trong phần này là cách sử dụng từ ngữ Hán
trong những bài thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh.
Là người am hiểu ngôn ngữ thơ Luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất sành sỏi
trong việc sử dụng ngôn từ mang phong cách bác học này. Khảo sát 45 bài
thơ trào phúng trong tập Nhật kí trong tù, chúng tôi nhận thấy, nhiều bài được
viết theo lối văn ngôn (văn ngôn văn - hệ thống ngôn ngữ sách vở trên cơ sở
tiếng Hán cổ, đây là hình thức ngôn ngữ chính thống, “cao quý” trong một
thời kỳ lịch sử kéo dài mấy ngàn năm, văn ngôn trở nên khó hiểu, xa lạ với
hoạt động nói năng phổ thông của toàn dân. Người Trung Hoa, trừ những
người được đào tạo chuyên, không dễ dàng gì hiểu nổi các thư tịch, văn bản
viết bằng thứ ngôn ngữ sách vở cổ kính ấy) chặt chẽ như: Dạ lãnh, Bán lộ đáp
thuyền phó Ung, Lại sang, Thanh minh, Thu dạ… Đọc những bài thơ này, ta
không chỉ thấy sắc thái biểu cảm mang màu sắc Đường thi mà phong cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trang nhã của lớp ngôn từ trong thơ cổ cũng in đậm trong từng câu chữ của
102
Bác. Những từ, những chữ xuất hiện với tần số cao trong thơ chữ Hán của
người xưa cũng thường gặp trong thơ trào phúng của Người, ví như ngã - quân,
vân - nguyệt, du du… bản thân những chữ ấy đã toát lên chất cổ điển.
Ngục trung nhân dã thưởng trung thu,
Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu.
Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt,
Tâm tuỳ thu nguyệt cộng du du!
(Trung thu, II - Nam Trân dịch)
Bên cạnh lớp từ ngữ Hán học cầu kỳ, sang trọng, dồn nén, thơ Đường
luật trào phúng Hồ Chí Minh còn xuất hiện lớp từ mang tính bình dân như:
“bị lạp” (con bạc), “ngạnh phạm” (tù cứng), “xí khanh” (hố xí), “xuất cung”
(đi ỉa), “mộc sắt” (rệp bò), “mân trùng” (muỗi lượn)…
Tuy tỷ lệ bài có những từ loại này không nhiều, nhưng việc sử dụng
hàng loạt từ bình dân trong thơ Đường luật trào phúng cho thấy, Hồ Chí Minh
đã có ý thức trong việc bình dân hóa ngôn ngữ bác học. Thật ra, không phải
thơ Đường luật trào phúng “không phù hợp để miêu tả những diễn biến phong
phú đa dạng của đời sống thường nhật bằng thứ ngôn ngữ mộc mạc dễ hiểu.
Cái chính là người sáng tác đã không tạo cho nó một sức sống mới bằng ngôn
từ để nó có thể phát huy tối đa ưu thể thể loại của nó” [48]. Đọc những bài
như: “Cước áp” (Cái cùm), “Lại sang” (Ghẻ lở), “Bang” (Dây trói)… ta thấy
có sự thay đổi trong cảm xúc, trong cách diễn đạt, trong hệ thống từ vựng mà
ở thơ Đường luật thời trung đại còn chưa thấy. Chính sự thay đổi này đã tạo
nên trong Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh chất hiện đại.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn sử dụng những từ ngữ rất hiện đại, mang
đậm tính khẩu ngữ, thành ngữ. Trong bài “Chia nước” (Phân thủy) có hai câu:
“Thùy yếu tẩy diện vật phanh trà, Thùy yếu phanh trà vật tẩy diện” (Ai muốn
rửa mặt chớ pha trà, Ai muốn pha trà chớ rửa mặt). Chữ “yếu” chữ “tẩy” đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là từ hiện đại. Đặc biệt trong câu Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán, ở bài
103
“Độc Tưởng huấn công từ” (Lời giáo huấn của ông Tưởng) có hai từ khẩu
ngữ: “khổ cán” và “ngạnh cán”. “Khổ cán” là chấp nhận gian khổ mà làm.
“Ngạnh cán” nghĩa là làm mạnh, làm rắn, làm tới, không dao động.
Còn có mấy trường hợp trong tập thơ chữ “ngạnh” nữa mà nghĩa khác
nhau. Chữ “ngạnh” trong bài “Đổ phạm” (Tù đánh bạc) chỉ tù nhân giàu có
“Ngạnh phạm hào soạn thiên thiên hữu, Cùng phạm cơ diên cộng lệ thùy” (Tù
cứng ngày ngày no rượu thịt, Tù nghèo dãi với lệ cùng tuôn)… Nhưng chữ
“ngạnh” trong bài “Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu” lại chỉ cái “chết” của
người tù cờ bạc: Một người tù cờ bạc chết cứng. Như vậy, các từ này vừa có
tính khẩu ngữ vừa có tính chất tiếng lóng.
Trong bài Lai Tân, hai chữ thiêu đăng ở câu thơ Huyện trưởng thiêu
đăng biện công sự chính là tiếng lóng người Trung Quốc hay dùng để chỉ việc
hút thuốc phiện. Hay cụm từ xa đại pháo tài trong bài Nạn hữu họ Mạc có
câu: Xa đại pháo tài chân vĩ đại cũng là cách nói mang tính khẩu ngữ có
nghĩa là tài nói phét, khoác lác, chém gió.
Nghiên cứu sâu thêm chút nữa, chúng ta còn thấy, thành công của Hồ Chí
Minh không chỉ ở việc đưa lớp từ ngữ bình dân vào thơ Đường luật mà còn ở
khả năng sử dụng một cách tinh xác lối bạch thoại (bạch thoại văn - hệ thống
ngôn ngữ viết của tiếng Hán hiện đại. Nó được hình thành trên cơ sở khẩu
ngữ từ thời Đường Tống (thế kỷ VII-XIII) đến nay).
Nếu câu thơ cổ điển thường được danh ngữ hóa và tỉnh lược các hư từ thì
câu thơ bạch thoại lại thường được động ngữ hóa, điều đó kéo theo việc sử
dụng phổ biến các giới từ, hư từ - đây là một điều rất hiếm gặp trong thơ cổ.
Hồ Chí Minh đã đưa vào thơ Đường luật trào phúng rất nhiều câu bạch thoại
với các hư từ, giới từ như: bả, bị, tài, dã…; các giới từ phương hướng
như tòng, hướng…; các đại từ giá, na… làm cho câu thơ trở thành câu văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuôi với cách diễn đạt nôm na như lời nói thông thường.
104
Ví dụ bài “Đổ bác” (Đánh bạc) mấy chữ “bị quan la” trong câu “Dân
gian đổ bác bị quan la” tức là bị quan bắt, vừa bạch thoại, vừa khẩu ngữ. Hay
bài “Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo” (Ngày tết song thập giải đi Thiên
Bảo) cũng hoàn toàn là ngôn ngữ văn xuôi bạch thoại. Nhất là hai tiếng thế
mà trong câu: “Thế mà hôm nay ta bị trói giải đi” (Ngã khước kim
thiên bị bang giải) mang sắc thái khẩu ngữ, kể chuyện rất rõ.
Bài Cước áp số 1 cũng vậy, chữ “bả” là câu văn xuôi, “thôn liễu” chỉ
kết quả hành động trong Hán ngữ hiện đại:
Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần,
Vãn vãn trương khai bả cước thôn;
Các nhân bị thôn liễu hữu cước,
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
Dịch thơ:
Dữ tựa hung thần miệng trực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi. (Nam Trân dịch)
Hán ngữ hiện đại dùng rất nhiều từ “đích” chỉ quan hệ sở hữu, phụ
thuộc. Chữ “đích” trong bài “Dạ bán” làm cho câu thơ thành văn xuôi:
Thiện, ác nguyên lai vô định tính,
Đa do giáo dục đích nguyên nhân.
Dịch thơ:
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
(Nửa đêm - Nam Trân dịch)
Ngôn ngữ bạch thoại cũng xuất hiện trong bài “Cấm yên” (Cấm thuốc
lá), chữ “đích” thêm mấy chữ “Chỉ yên” thành “Chỉ yên đích”, nghĩa là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“thuốc lá cuốn thành điếu”.
105
Cũng theo ngôn ngữ bạch thoại, bài thơ “Đáp hỏa xa vãng Lai Tân”(Đáp
xe lửa đi Lai Tân) có câu:
Tuy nhiên chỉ đắc tọa thán thượng,
Tất cánh tỉ đồ bộ phiếu lượng.
Dịch thơ:
Tuy nhiên chỉ được ngồi trên đống than,
Rốt cuộc so với đi bộ thì đẹp chán. (Nam Trân dịch)
Các hư từ “tuy nhiên”, “chỉ đắc tọa thán thượng”, “tất cánh”, “tỉ”, “phiếu
lượng” đều là các từ ngữ văn xuôi đã được sử dụng tự nhiên, thú vị. Khi dịch
ra tiếng Việt các sắc thái ngữ nghĩa này đều biến mất, người Việt hầu như
không cảm thấy được sự phân biệt này, đã lầm tưởng thơ Bác viết hoàn toàn
theo phong cách thơ cổ điển.
Điều đáng nói là, có những bài tác giả đã sử dụng kết hợp tài tình cả hai
hệ thống văn ngôn và bạch thoại một cách tài tình, hài hòa. Trong bài “Lại
sang” (Ghẻ lở), Bác viết:
Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm,
Thành nhật lao tao tự cổ cầm;
Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách,
Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.
Dịch thơ:
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm. (Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Bài thơ Luật tuyệt với 4 câu và 25 từ, nhưng không có từ nào là từ thông
tục, hay từ lóng, trong khi đó, những từ thuộc lớp từ Hán Việt lại xuất hiện
khá nhiều và giữ vị trí trung tâm trong các câu như: “cổ cầm”; (gảy đàn),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
“xuyên cẩm” (hoa gấm), “quý khách” (khách quý), “tri âm” (bạn lòng).
106
Thông thường, với hệ thống từ vựng như thế, bài thơ ắt sẽ mang màu sắc
trang nhã, cổ kính. Vậy mà ở đây, Bác đã đem đến một phong vị gần như
ngược lại. Những từ gảy đàn, hoa gấm, khách quý, tri âm đều được Người
dùng theo nghĩa bóng: “hoa gấm” chỉ những nốt ghẻ, “gảy đàn” chỉ hành
động gãi ghẻ, trong đó “hoa gấm” (nốt ghẻ) được coi là khách quý, còn “gảy
đàn” (gãi ghẻ) được coi là “tri âm”... Việc kết hợp nhuần nhuyễn cả hai hệ
thống văn ngôn và bạch thoại như vậy đã đem đến cho thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh một màu sắc tự nhiên, hóm hỉnh.
Những ví dụ nêu trên đã chứng tỏ cách sử dụng ngôn ngữ rất dân chủ của
Người, điều này đã phá vỡ tính quy phạm, trang nhã và sùng cổ của thơ Đường
nói riêng, thơ cổ nói chung. Lối hành văn này cũng thuận tiện cho tác giả và
cho người đọc bình dân hiện đại, mà không hề ảnh hưởng tới cấu tứ bài thơ.
3.2.1.2. Lớp từ ngữ phiên âm tiếng La-tinh
Trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh, đôi lúc, ta thấy Người
còn phá cách trong việc sử dụng các từ ngữ phiên âm tiếng La-tinh. Đây là
một hiện tượng đặc biệt tạo nên tính hiện đại đậm nét trong cách sử dụng
ngôn từ của Bác.
Trong bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu mở đầu lại không
dùng kí tự tượng hình của chữ Hán mà lại dùng kí tự phiên âm la tinh: Oa…!
Oa…!...Oa…!. Đây rõ ràng không thuộc thủ pháp giễu nhại, bởi thủ pháp giễu
nhại thường đem lại cho người đọc tiếng cười với ý nghĩa hài hước, phê phán.
Cái tình sâu đậm của bài thơ là đồng cảm, xót thương cho người vợ, đặc biệt
là đứa trẻ mới nửa tuổi cùng mẹ ở nhà lao.
Trong tập thơ, đôi lần tác giả tập thơ dùng tiếng Anh song đã phiên âm
sang tiếng Hán “Ngục đinh thiết ngã chi sĩ – đích” (Lính ngục đánh cắp mất
chiếc gậy của ta), “sĩ – đích” là phiên âm tiếng Anh của chiếc gậy: stick. Hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
từ “ma – đăng” trong câu thơ “Giam phòng kiến trúc đính “ma đăng” (Nhà
107
lao xây dựng kiểu tân thời) trong bài “Nam Ninh ngục” (Nhà ngục Nam
Ninh), “ma- đăng” là phiên âm của từ tiếng Anh modern.
Trong bài Ngày 11 tháng 11, Bác lại phiên âm theo tiếng La – tinh
chữ Nazi trong câu thơ “Tội khôi tựu thị ác Na-zi” (Bọn quỷ Na-zi tội đứng
đầu). Cách phiên âm này làm cho bài thơ vừa mang tính thời sự, vừa phù hợp
với nội dung giễu nhại.
Như vậy, Nhật kí trong tù nhiều có thi phẩm phỏng cổ, là thơ làm theo
thi pháp thời trung đại, nhưng mang đậm tinh thần hiện đại. Bằng chi tiết đời
thực trong hoàn cảnh lao tù, bằng ngôn ngữ đời thường, Nhật kí trong tù ghi
lại nhiều tình huống, nhiều hình ảnh của đời sống trong tù ngục, đầy bi hài,
chua chát, u mua, hóm hỉnh. Đây là phong cách thơ bình dị rất đặc trưng cho
văn phong của Hồ Chí Minh.
3.2.2. Đặc điểm về cú pháp
Bên cạnh việc lựa chọn ngôn từ chuẩn xác, Hồ Chí Minh còn tiếp thu
cách tạo dựng cú pháp của người xưa. Trong Nhật kí trong tù, có rất nhiều bài
viết theo lối văn ngôn chặt chẽ. Từ ngữ, cú pháp và cả thi pháp đều rất điển hình theo lối thơ Đường cổ điển như bài: Bán lộ đáp thuyền phó Ung (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh), Lại sang (Ghẻ lở), Thu dạ (Đêm thu),…
Trong bài Phân thủy, ta bắt gặp kiểu cú pháp sóng đôi quen thuộc của
Đường thi:
Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn,
Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện;
Thùy yếu tẩy diện vật phanh trà,
Thùy yếu phanh trà vật tẩy diện.
Dịch thơ:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Muốn để pha trà đừng rửa mặt,
108
Muốn đem rửa mặt chớ pha trà.
(Chia nước - Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
Cùng một cú pháp, nhưng các cụm từ “rửa mặt”, “pha trà” đảo chỗ cho
nhau đã gợi lên cảm giác luẩn quẩn bế tắc của người tù. Hơn nữa, vần trắc,
dấu nặng của tiện và diện gieo vào tâm trí người nghe một ấn tượng nặng nề
đến khó chịu.
Bài Công lí bi (Một cây số) cũng được viết bằng hệ thống văn ngôn chặt
chẽ, toát lên ý vị trang trọng ngợi ca. Bởi thế, cần lưu ý kiểu cú pháp rất chặt
chẽ trong hai câu thơ cuối bài:
Nhĩ công dã bất tiểu,
Nhân nhân bất nhĩ vương (vong).
Dịch nghĩa:
Công anh không hề nhỏ,
Mọi người không quên anh.
(Cột cây số - Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Đại từ nhân xưng nhĩ làm tân ngữ của động từ vương (vong) trong câu
phủ định (có phó từ bất) nên đặt trước động từ ấy. Đây là một kết cấu cú pháp
điển hình cho tiếng Hán thời thượng cổ. Trong tương quan ấy, chúng tôi cho
rằng dã không nên hiểu là phó từ và dịch là “công anh cũng không nhỏ” mà
nên coi là trợ từ ngữ khi ngắt sau chủ ngữ của câu. Nhà nghiên cứu Phan Văn
Các cho rằng: “kết cấu cú pháp đại từ nhân xưng nhĩ làm tân ngữ của động từ
vong trong câu phủ định là kiểu kết cấu cú pháp điển hình trong tiếng Hán
thời thượng cổ”.
Tuy nhiên, trong một số bài thơ Đường luật trào phúng, ta thấy, ngôn
ngữ thì mang đậm chất ngôn ngữ thơ Đường, nhưng cú pháp bạch thoại - tính
chất khẩu ngữ lại rất rõ nét trong các kết cấu sau:
Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Một nhân tống phạm hám da nương.
109
(Tù lương - Nam Trân dịch)
Dân gian đổ bác bị quan lại.
(Đổ- Nam Trân dịch)
Sử nhân đỗ tử chiến căng căng
(Nam Ninh ngục- Nam Trân dịch)
Có bài, Hồ Chí Minh đã sử dụng tài tình cả hai hệ thống văn ngôn và
bạch thoại kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, hài hòa, bài Chính trị bộ
cấm bế thất là một ví dụ:
Nhị xích khoát hề tam xích trường,
Tứ nhân trú thử nhật bàng hoàng;
Dịch nghĩa:
Hai thước rộng và ba thước dài,
Bốn người suốt ngày quanh quẩn trong đó;
(Nhà giam của cục chính trị - Huệ Chi dịch)
Ở hai câu đầu, màu sắc văn ngôn nổi lên rất rõ với cú pháp nhắc đôi câu
chen trợ từ ngữ khí “hề” đặc trưng của Sở từ, với trạng ngữ đơn viết Nhật đặt
trước động từ song tiết bàng hoàng là một điệp vận. Nhưng ở hai câu sau,
kiểu lặp lại động từ đơn tiết trước bổ ngữ trực tiếp thân thân cước, cách dùng
phó từ dã (cũng), liên từ nhân vị và nhất là kết cấu thiểu địa phương đều đặc
trưng cho cú pháp bạch thoại.
Như vậy, dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, cú pháp cũng trở thành một
phương tiện đắc dụng để chuyển tải ý thơ. Từ cách lựa chọn việc sử dụng từ
ngữ và cú pháp, những bài thơ Đường luật trào phúng trong Nhật ký trong tù
đều rất điển hình cho Hán văn cổ. Nói rộng ra, ngôn ngữ là một yếu tố
thể hiện rõ nét màu sắc cổ điển của tập thơ này. Tập thơ của Bác đã là “nguồn
sinh lực mới làm tươi tắn trở lại dòng thơ Việt - Hán, đã tạo nên một kết cục
viên mãn ít ai ngờ tới cho tiến trình một nghìn năm thơ ca chữ Hán Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nam” (Đặng Thai Mai).
110
Tiểu kết chương 3
Ở chương 3, luận văn đã nêu đặc điểm về bút pháp và ngôn ngữ trong thơ
đường luật trào phúng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thống kê, khảo sát, chúng tôi
đã chỉ ra một vài biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ
điển và hiện đại trên các phương diện: thể thơ, đề tài, hình ảnh thơ và
nhân vật trữ tình trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh, Bên cạnh
đó, luận văn cũng làm rõ những đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Đường luật
trào phúng Hồ Chí Minh về dặc điểm về từ ngữ và cú pháp. Qua đó khẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
định những thành công của Hồ Chí Minh về thể thơ đường luật trào phúng.
111
KẾT LUẬN
1. Trước hết, chúng tôi nhận thấy, có một truyền thống thơ Đường luật
trào phúng đặc sắc và phong phú trong nền văn học của Việt Nam từ trung đại
đến hiện đại ở cả chữ Nôm và chữ Hán. Tuy nhiên, nói đến thơ Đường luật
trào phúng Việt Nam, người ta thường nghĩ đến thơ Nôm Đường luật dân tộc
với những tên tuổi nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Tú Xương… nhưng thực
tế, thơ Đường luật trào phúng bằng chữ Hán cũng không phải là hiếm. Hồ Chí
Minh là một ví dụ điển hình.
Tiếng cười trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh được ra đời
trong bối cảnh đặc biệt: trong thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam, bị trói, bị đói khát hành hạ, bị áp bức cả về thể xác lẫn tinh
thần. Tiến hành khảo sát tiếng cười trào phúng của Hồ Chí Minh trong tập
Nhật kí trong tù, chúng tôi thấy, quan điểm sáng tác của Bác gắn liền với cảm
hứng sáng tác. Do đó, bên cạnh cảm hứng đả kích, châm biếm bộ mặt xấu xa,
đen tối của chế độ nhà tù, chúng ta còn thấy, với cảm hứng tự trào, tiếng cười
không chỉ nhắm vào kẻ thù mà còn hướng vào chính chủ thể cười để tạo ra
tiếng cười tự trào hài hước, vui vẻ; cảm hứng lạc quan với nhiều cung bậc
giúp Người tù vươn tới cái đẹp, cái cao cả, xoá đi cái xấu, cái thấp hèn và
hướng con người về phía ánh sáng của niềm tin, của tình người… Dù ở trạng
thái cảm hứng nào, tiếng cười trào phúng của Người luôn hàm chứa chất
“thép” và chất “tình”, đem lại niềm hứng khởi cho người đọc, người nghe.
Tiếng cười trào phúng trong Nhật ký trong tù càng làm sáng đẹp hơn ý nghĩa
nhân văn sâu sắc trong con người Hồ Chí Minh.
2. Trong nhà tù của bọn đế quốc - nơi “dừng chân bất đắc dĩ” của người
chiến sỹ cách mạng Hồ Chí Minh, nỗi dằn vặt lớn nhất của Người không phải
chỉ là bị giam cầm trong bốn bức tường vôi lạnh, bị đòn roi, cùm kẹp, bị tra
tấn tàn bạo mà nỗi dằn vặt lớn nhất của Người là nỗi đau bị mất tự do. Vì thế,
không gian ngục tù là một cấu trúc thẩm mỹ độc đáo. Không gian ấy phơi bày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
112
những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng, từ phòng giam chật hẹp
đến bên ngoài xã hội rộng lớn. Bên cạnh đó, Bác thường nhìn cảnh tù đày
trong một kênh thẩm mĩ mới. Theo đó, Người đã phát hiện giá trị thẩm mỹ từ
những bất công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, từ những
hiện tượng hết sức đời thường ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua, từ
chuyện cái cùm, dây trói hay cảnh em bé theo mẹ vào nhà lao, cảnh người tù
cờ bạc bị chết đến cảnh đói rét, bệnh tật… Từ những việc hết sức bình thường
đến cái xấu, cái ác chốn lao tù đều được Hồ Chí Minh thi vị hóa để tạo tiếng
cười sắc nhọn, góp phần cho sự phê phán bộ mặt đen tối, nhem nhuốc của nhà
tù Quốc dân đảng Trung Quốc.
Mặt khác, thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh còn là một hình thái
phê phán đặc biệt có cảm xúc: cảm xúc lên án, phê phán, tố cáo những bất
công, ngang trái chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch; cảm xúc xót thương, thấu
hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con
người; cảm xúc ung dung tự tại, tràn trề tinh thần lạc quan của vị “khách tiên”
trong chốn lao tù…
Tiếng cười trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh hướng vào
mọi đối tượng đáng cười và được tạo ra từ những mâu thuẫn giữa bản chất và
hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa cái thực chất xấu xa bên trong
của chế độ thống trị và mọi hình thức ngụy trang giả dối bên ngoài. Sở dĩ Hồ
Chí Minh làm được điều ấy chính vì Bác đã sử dụng một hình thái phê phán
đặc biệt có cảm xúc trong thơ Đường luật trào phúng.
3. Các nhà thơ trào phúng không bao giờ tạo nên tiếng cười dễ dãi, Hồ
Chí Minh cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Với một tâm hồn vĩ đại, một
trí tuệ kiệt xuất, Hồ Chí Minh lấy tiếng cười để vạch trần những thối nát bất
công và tàn bạo của nhà tù dưới chế độ Tưởng. Đó là một tiếng cười đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
về sắc thái đề tài, linh hoạt về bút pháp, đậm đà trí tuệ về ngôn ngữ…
113
Sức mạnh của tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà
nhất vẻ đẹp văn hoá dân tộc với tinh hoa văn hoá thế giới; sự kết tinh giữa
truyền thống cổ điển và đổi mới hiện đại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút
pháp cổ điển và hiện đại trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh được
thể hiện trên các phương diện: thể thơ, đề tài, hình ảnh thơ và nhân vật trữ
tình. Ngôn ngữ thơ Đường luật là thứ ngôn ngữ luôn đòi hỏi sự lựa chọn tinh
xảo nhất. Tiến hành tìm hiểu đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh, chúng tôi phát hiện, từ cách lựa chọn từ ngữ đến cú
pháp, những bài thơ Đường luật trào phúng trong Nhật ký trong tù đều rất
điển hình cho Hán văn cổ.
Tìm hiểu thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh là tìm hiểu về một
trạng thái tinh thần vừa thông thường vừa đặc biệt, về tiếng cười đậm chất
“thép” và chất “tình”. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên khi chủ thể của tiếng
cười ấy – Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là “Anh hùng giải phóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”.
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu sách, báo
1. Trần Quang Dũng (2005), Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến trình thơ
Nôm Đường luật Việt Nam, NXB ĐHSP, Hà Nội, tr 198
2. Trần Quang Dũng (2008), “Sự vận động và phát triển của thơ Nôm
Đường luật theo xu hướng kế thừa, tiếp biến và sáng tạo với Đường luật
Hán trên tinh thần dân tộc hóa, dân chủ hóa thể loại”, Hội thảo Quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam hội nhập và phát triển, Tuyển tập
báo cáo tóm tắt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 575
3. Hoàng Thị Đậu (1973), Thơ ca cách mạng 1925 – 1945, Nxb. Khoa học
xã hội và nhân văn, Hà Nội.
4. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường, Nxb. Văn học, Hà Nội
5. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trắc, Nguyễn Hoành Khung, Lê
Chí Dũng, Hà Văn Đức (1999), Văn học Việt Nam (1990 – 1945), Nxb.
Giáo dục.
6. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (1979), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà thơ lớn của dân tộc,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
8. Hà Minh Đức (1995), Hồ Chí Minh nhà thơ lớn của dân tộc, Nxb. Giáo dục.
9. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb. KHXH, Hà Nội.
10. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Khắc Hiếu (1932) An Nam tạp chí, Thơ văn cận cổ, số 3
12. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tả (2005),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Từ điển Văn học, Nxb. Thế giới.
115
13. Nguyễn Phạm Hùng, Đặng Thị Thảo (1992), “Bút pháp trào lộng trong
Nhật kí trong tù”, Tạp chí Văn học (3), tr.28-34.
14. Đinh Gia Khánh (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XVIII,
NXB Giáo dục, tr409
15. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb. Văn học.
16. Trần Thị Hoa Lê (2006), Hình ảnh “hồng hoang” và giọng điệu trào
phúng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến”, Tạp chí Hán Nôm, Số 3
(76) tr23
17. Phong Lê (1986) , Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại,
Nxb. KHXH, tr.133.
18. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu, phân
tích thơ Hồ Chủ tịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
19. Đặng Thai Mai (1979), Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb.
Khoa học xã hội.
20. Hồ Chí Minh (2003), Nhật ký trong tù, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh (1984), Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
22. Hoàng Xuân Nhị (1980), Chung quanh việc dịch thơ chữ Hán của Hồ
Chủ tịch, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
23. Nhiều tác giả (1990), Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá, Nxb. Hội nhà
văn, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (1998), Hoàng Đế Lê Thánh Tông: nhà chính trị tài năng,
nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội
25. Phan Ngọc (1995), "Thơ là gì?", Cách giải thích Văn học bằng Ngôn
ngữ học, Nxb. Trẻ, TP. HCM.
26. Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh (1979), Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
27. Hoàng Phê (chủ biên) (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức.
116
28. Nguyễn Khắc Phi (2016), Quanh mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ
Đường luật, tạp chí Nghiên cứu khoa học, (10).
29. N.I.Niculin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, Tạp
chí Văn học, số 3, 1974. Nguồn Tạp chí Langbian.
30. Phạm Thế Ngũ (1961), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3,
Nxb. Đồng Tháp tái bản 1997.
31. Roger Đemix, Nghiên cứu, học tập thơ văn Hồ Chủ tịch. Sđd, tr.532.
32. Lê Đình Sơn (2015), Đường thi từ góc nhìn vòng đời tác phẩm: Lý luận
phê bình văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
33. Trần Thị Lệ Thanh (1999), Sự giao lưu văn hoá Đông – Tây và số phận
của thể thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX, tạp chí Văn hoá nghệ thuật số
178/1999.
34. Trần Thị Lệ Thanh (1999), Những tiếp giao chuyển đổi giữa cái cũ và
cái mới trong thơ Đường luật và thơ mới ở nửa đầu thế kỷ XX, Thông
báo khoa học, số 5/1999, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
35. Trần Thị Lệ Thanh (2000), Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX: một số lượng đáng kinh ngạc, Thông báo khoa học, số 5/2000,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
36. Chương Thâu, Triệu Dương, Nguyễn Đình Chú (1976), Văn thơ yêu
nước và cách mạng đầu thế kỷ XX, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
37. Hương Thu (chủ biên), (2009), Thơ Đường luật Việt Nam - Hành trình
đất nước, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Thị Phương Thùy (2004), Vần thanh điệu, nhịp điệu trong câu
thơ mới bảy chữ, Tạp chí. Ngôn ngữ số 11.
39. Đỗ Lai Thúy (2007), “Người Việt cười” trong Phân tâm học và tính
cách dân tộc, Tri Thức
40. Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nxb. Sự thật, 1975, tr.38.
117
41. Trần Xuân Toàn (2017), “Tính hài hước, châm biến trong tập thơ “Nhật
kí trong tù” của Bác Hồ”, Tạp chí Cửa Việt online.
42. Hoàng Tranh (Trung Quốc) (1992), Chú thích về tập thơ trong tù của Hồ
Chí Minh, Nxb. Quảng Tây.
43. Nguyễn Thanh Tú (2011), Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
44. Viện Văn học (1964), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
45. Viện Văn học (1997), Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
46. Vũ Thị Kim Xuyến (2006), Ngục trung nhật ký: Khảo sát văn bản và
nghiên cứu từ góc độ nhật ký, Nxb. Văn hoá Thông tin.
II. Luận văn, luận án
47. Trần Thị Hoa Lê (2007), Thơ trào phúng Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX –
nửa đầu thế kỉ XX (diện mạo và đặc điểm), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
ĐHSP Hà Nội.
48. Trần Thị Lệ Thanh (2012), Đặc điểm Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, trường Đại học Thái Nguyên.
49. Ngô Gia Võ (2002), Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào
phúng, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
III. Tài liệu Internet
50. Phạm Thị Xuân Châu (2015), “Bút pháp của Bác Hồ trong sáng tác thơ
Đường Luật”, nguồn vanhien.vn.
51. Hội thơ Đường luật Việt Nam (2015), “Bác Hồ với thơ Đường Luật Việt
Nam”, Hội thảo khoa học, Báo Điện tử Thể thao & Văn hóa, TTXVN.
52. Võ Quang Huy 92015), “Hồ Chí Minh với thơ Đường luật”, nguồn
vanhien.vn.
53. Huỳnh Đức Trung (2016), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đường luật”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nguồn vanhien.vn.
118
54. Trang https://sachgiai.com.
55. Trang http://nhavantphcm.com.vn
56. Trang http://vanhien.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
57. Trang http://vi.wikipedia.org
PHỤ LỤC
Thống kê thơ Đường luật trào phúng của Hồ Chí Minh
STT Bản phiên âm Hán Việt Bản dịch thơ
1
Buổi trưa Trong tù khoan khoái giấc ban trưa, Một giấc miên man suốt mấy giờ; Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.
Ngọ Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục, Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung. Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ, Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung.
(Nam Trân dịch)
2
Ngọ hậu Nhị điểm khai lung hoán không khí Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên Tự do thiên thượng thần tiên khách Tri phủ lung trung dã hữu tiên.
Quá trưa Hai giờ ngục mở thông hơi, Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do; Tự do tiên khách trên trời, Biết chăng trong ngục có người khách tiên?
(Nam Trân dịch)
Tù lương
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn, Vô diêm, vô thái, hựu vô thang; Hữu nhân tống phạn, ngật đắc bão, Một nhân tống phạn, hán gia lương.
3
Cơm tù Không rau, không muối, canh không có, Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là; Có kẻ đem cơm còn chắc dạ, Không người lo bữa đói kêu cha.
(Nam Trân, Băng Thanh dịch)
Cướp áp I
Cái cùm I
Dữ tựa hung thần miệng trực nhai, Đêm đêm há hốc nuốt chân người; Mọi người bị nuốt chân bên phải, Co duỗi còn chân bên trái thôi
4
Tranh ninh ngã khẩu tự hung thần, Vãn vãn trương khai bả cước thôn; Các nhân bị thôn liễu hữu cước, Chỉ thặng tả cước năng khuất thân. II
II
Nghĩ việc trên đời thật lạ kỳ, Cùm chân sau trước cũng tranh nhau; Được cùm chân mới yên bề ngủ, Không được cùm chân biết ngủ đâu.
Thế gian gian cánh hữu ly kỳ sự, Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm; Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy, Vô kiềm một xứ khả an miên.
(Nam Trân dịch)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phân Thủy
Chia nước
Mỗi nhân phân đắc thủy bán bồn, Tẩy diện, phanh trà các tùy tiện; Thùy yếu, tẩy diện, vật phanh trà, Thùy yếu phanh trà, vật tẩy diện.
Mỗi người phần nước vừa lưng chậu, Rửa mặt đun trà tự ý ta; Ai muốn đun trà đừng rửa mặt, Ai cần rửa mặt chớ đun trà.
(Nam Trân, Trần Đắc Thọ dịch)
5
Trung Thu I
Trung Thu I Trung thu thu nguyệt viên như kính, Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân; Gia lý đoàn viên ngật thu tiết, Bất vong ngục lý ngật sầu nhân.
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu, Sáng khắp nhân gian bạc một màu; Sum họp nhà ai ăn tết đó, Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu.
6
II
Trung thu ta cũng tết trong tù, Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu; Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt, Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
II Ngục trung nhân dẫn thưởng trùng thu, Thu nguyệt, thu phong đới điểm sầu; Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt, Tâm tùy thu nguyệt cộng du du!
(Nam Trân dịch)
Đổ
Đánh bạc
Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội, Trong tù đánh bạc được công khai; Bị tù, con bạc ăn năn mãi, Sao trước không vô quách chốn này!
Dân gian đổ bác bị quan lạp, Ngục lý đổ bác khả công khai. Bị lạp đổ phạm thường ta hối, Hà bất tiên đáo giá lý lai!
(Nam Trân dịch)
7
Đổ phạm
Tù cờ bạc
Quan không cấp bữa cho tù bạc, Để họ mau chừa tội cũ hơn; Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt, Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.
Công gia bất cấp đổ phạm phạn, Dục linh tha mẫn hối tiền phi. "Ngạnh" phạm hào soạn thiên thiên hữu, Cùng phạm cơ diên cộng lệ thuỳ.
(Nam Trân, Huệ Chi dịch)
8
tối
9
Dạ túc Long Tuyền Bạch thiên "song mã" bất đình đề, Dạ vãn thường thường "ngũ vị kê". Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích, Cách lân hân thính hiểu oanh đề.
Đêm ngủ ở Long Tuyền "Đôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân, Món "gà năm vị", thường ăn; Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh, Mừng sớm nghe oanh hót xóm gần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Nam Trân, Huệ Chi dịch)
Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Nhật hành ngũ thập tam công lý, Thấp tận y quan phá tận hài. Triệt dạ hựu vô an thuỵ xứ, Xí khanh thượng toạ đại triêu lai.
10
Mới đến nhà lao Thiên Bảo Năm mươi ba dặm, một ngày trời, Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi; Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ, Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
(Nam Trân dịch)
Điền Đông
Điền Đông
Mỗi xan nhất uyển công gia chúc, Đỗ tử thì thì tại thán hu; Bạch phạn tam nguyên bất câu bão, Tân như quế dã mễ như châu.
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát, Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu; Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ, Củi thì như quế, gạo như châu.
(Nam Trân, Huệ Chi dịch)
11
Nạn hữu chi thê thám giam
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
Quân tại thiết song lý, Thiếp tại thiết song tiền; Tương cận tại chỉ xích, Tương cách tự thiên uyên; Khẩu bất năng thuyết đích, Chỉ lại nhãn truyền nghiên (ngôn); Vị ngôn lệ dĩ mãn, Tình cảnh chân khả liên!
Anh ở trong song sắt, Em ở ngoài song sắt; Gần nhau chỉ tấc gang, Mà cách nhau trời vực; Miệng nói chẳng nên lời, Chỉ còn nhờ khoé mắt; Chưa nói, lệ tuôn tràn, Cảnh tình đáng thương thật!
(Nam Trân, Hoàng Trung Thông dịch)
12
Quả Đức ngục
Nhà lao Quả Đức
Giam phòng dã thị tiểu gia đình, Sài, mễ, du, diêm tự kỷ doanh; Mỗi cá lung tiền nhất cá táo, Thành thiên chử phạn dữ điều canh.
Nhà lao mà giống tiểu gia đình, Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh; Trước mỗi phòng giam bày một bếp, Suốt ngày lụi hụi với cơm, canh.
(Huệ Chi dịch)
13
Đồng Chính (ngày 2 tháng 11)
14
Đồng Chính (thập nhất nguyệt nhị nhật) Đồng Chính chính đồng Bình Mã ngục, Mỗi xan nhất chúc đỗ không không;
Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy, Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào; Nước và ánh sáng thì dư dật,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngày lại hai lần mở cửa lao.
(Nam Trân dịch)
Thuỷ hoà quang tuyến hẩn sung túc, Nhật nhật hoàn khai lưỡng thứ lung. Dạ lãnh
Thu thâm vô nhục diệc vô chiên, Súc hình cung yêu bất khả miên; Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí, Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.
15
Đêm lạnh Đêm thu không đệm cũng không chăn, Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an; Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh, Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang.
(Nam Trân dịch)
Bang
Dây trói
Rồng quấn vòng quanh chân với tay, Trông như quan võ đủ tua, đai; Tua đai quan võ bằng kim tuyến, Tua của ta là một cuộn gai.
Hỉnh tý trường long hoàn nhiễu trước, Uyển như ngoại quốc vũ huân quan; Huân quan đích thị kim ti tuyến, Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.
(Nam Trân, Băng Thanh dịch)
16
Rụng mất một chiếc răng
17
Lạc liễu nhất chích nha Nhĩ đích tâm tình ngạnh thả cương, Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường; Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ, Hiện tại đông tây các nhất phương.
Cứng rắn như anh chẳng kém ai, Chẳng như lão lưỡi dẻo và dài; Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ, Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.
(Nam Trân dịch)
Lộ thượng
Trên đường
Hĩnh tý tuy nhiên bị khẩn bang, Mãn sơn điểu ngữ dữ hoa hương; Tự do lãm thưởng vô nhân cấm, Lại thử chinh đồ giảm tịch lương.
Mặc dù bị trói chân tay, Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng; Vui say, ai cấm ta dừng, Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu. (Nam Trân dịch)
18
Trưng binh gia quyền
Gia quyền người bị bắt lính
Lang quân nhất khứ bất hồi đầu, Sử thiếp khuê trung độc bão sầu; Đương cục khả liên dư tịch mịch, Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.
Biền biệt anh đi không trở lại, Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu; Quan trên xót nỗi em cô quạnh, Nên lại mời em tạm ở tù.
(Nam Trân dịch)
19
Pha trò
20
Giải trào Ngật công gia phạn, trú công phòng, Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng;
Ăn cơm nhà nước, ở nhà công, Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngoạn thuỷ du sơn tuỳ sở thích, Nam nhi đáo thử diệc hào hùng!(1)
Non nước dạo chơi tùy sở thích, Làm trai như thế cũng hào hùng!
(Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Vãng Nam Ninh
Đi Nam Ninh
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói, Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung; Tuy bị tình nghi là gián điệp, Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(Nam Trân dịch)
Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn, Bộ bộ đinh đang hoãn bội thanh; Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm, Nghi dung khước tượng cựu công khanh.
21
Cảnh binh đảm trư đồng hành I
Cảnh binh khiêng lợn đi cùng I
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu, Trư do nhân đảm, ngã nhân khiên; Nhân nhi phản tiện ư trư tử, Nhân vị nhân vô tự chủ quyền!
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối, Ta thì người dắt, lợn người khiêng; Con người coi rẻ hơn con lợn, Chỉ tại người không có chủ quyền!
22
II
II
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng, Cay đắng chi bằng mất tự do ? Mỗi việc mỗi lời không tự chủ, Để cho người dắt tựa trâu bò!
Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ, Mạc như thất khước tự do quyền! Nhất ngôn nhất động bất tự chủ, Như ngưu, như mã, nhậm nhân khiên.
(Nam Trân dịch)
ĐIỆT LẠC
HỤT CHÂN NGÃ
Còn tối như bưng đã phải đi, Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề; Trượt chân nhỡ bước sa vào hố, May nhảy ra ngoài suýt nữa nguy!
(Nam Trân dịch)
Dạ nhưng hắc ám dĩ đăng trình, Lộ hựu kỳ khu thậm bất bình; Điệt nhập thâm khanh nguy hiểm thậm, Hạnh năng dược xuất liễu thâm khanh.
23
Bán lộ tháp thuyền phó ung
Thừa chu thuận thuỷ vãng Ung Ninh, Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình; Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm,
24
Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh, Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình; Làng xóm ven sông đông đúc thế, Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Nam Trân dịch)
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Nam Ninh ngục
25
Nhà ngục Nam Ninh Nhà lao xây dựng kiểu tân thời, Đèn điện thâu đêm sáng rực trời; Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo, Cho nên cái bụng cứ rung hoài.
Giam phòng kiến trúc đính "ma đăng", Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng; Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc, Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.
(Nam Trân dịch)
Nhất cá đỗ phạm “ngạnh” liễu
Một người tù cờ bạc “chết cứng”
Tha thân chỉ hữu cốt bao bì, Thống khổ cơ hàn bất khả chi; Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc, Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.
Thân anh da bọc lấy xương, Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi; Đêm qua còn ngủ bên tôi, Sáng nay anh đã về nơi suối vàng!
(Nam Trân dịch)
26
Hựu nhất cá…
Lại một người nữa…
Di, Tề bất thực Chu triều túc, Đổ phạm bất ngật công gia chúc; Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn, Đổ phạm ngã tử công gia ngục.
Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu, Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước; Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương, Tù bạc chết đói trong nhà ngục.
(Nam Trân dịch)
27
Cấm yên (chỉ yên đích)
Cấm hút thuốc (Thuốc lá)
Yên cấm thử gian hẩn lệ hại, Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao; Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu, Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.
Hút thuốc nơi này cấm gắt gao, Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao; Nó thì kéo tẩu tha hồ hút, Anh hút, còng đây, tay ghé vào.
(Nam Trân dịch)
28
Công kim
Tiền công
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào, Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao; Một đồng của đáng sáu hào chỉ, Giá cả trong tù định rõ sao!
(Nam Trân dịch)
Chử nhất oa phạn lục mao tiền, Nhất bồn khai thuỷ ngân nhất nguyên; Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác, Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.
29
Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
30
Viết hộ báo cáo cho các bạn tù Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Viết thay báo cáo dám từ nan; "Chiểu theo", "thừa lệnh" nay vừa học, Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Thế hữu biên tu báo cáo thư; "Phụng thử", "đẳng nhân" kim thuỷ học, Đa đa bác đắc cảm ân từ.
(Nam Trân dịch)
Ghẻ lở
31
Lại sang Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm, Thành nhật lao tao tự cổ cầm; Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách, Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm, Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn; Mặc gấm, bạn tù đều khách quý, Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.
(Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Song thập nhất I
Thế lộ nan ngày 11 tháng 11 I
Thuở trước nơi nơi đều kỷ niệm, Mừng ngày đình chiến ở Châu Âu; Năm châu nay lại đang tuôn máu, Bọn quỷ Na-zi tội đứng đầu.
Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất, Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ; Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến, Tội khôi tựu thị ác Na-zi.
(Nam Trân dịch)
32
Cảnh báo
Báo động
Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung, Tỵ tập nhân dân bào nhất không; Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập, Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.
Máy bay địch bỗng đến ào ào Tất cả nhân dân chạy xuống hào, Cửa mở cho tù ra lánh nạn, Sổ lồng, ai nấy khoái làm sao
(Nam Trân dịch)
33
Lữ quán
Quán trọ
Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu Tất tu thụy tại xí khanh biên; Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy, Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.
Lệ thường tù mới đến, Phải nằm cạnh cầu tiêu; Muốn ngủ cho ngon giấc, Anh phải trả tiền nhiều.
(Nam Trân dịch)
34
Giải vãng Vũ Minh
Giải đi Vũ Minh 18-11
Ký giải đáo Nam Ninh, Hựu giải phản Vũ Minh; Loan loan, khúc khúc giải, Đồ diên ngã hành trình. Bất bình!
Đã giải đến Nam Ninh, Lại giải về Vũ Minh; Giải đi quanh quẹo mãi, Kéo dài cả hành trình. Bất bình!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
35
(Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương, Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương; Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng, Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường, Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương; Giận kẻ gian kia gây cách biệt, Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
(Nam Trân dịch)
36
Công lý bi
37
Cột cây số Chẳng cao cũng chẳng xa, Không đế cũng không vương; Một phiến đá nho nhỏ, Đứng sừng sững bên đường; Người nhờ anh chỉ lối, Đi đúng hướng đúng phương; Anh chỉ cho người biết, Nào dặm ngắn, dặm trường; Mọi người nhớ anh mãi, Công anh chẳng phải thường.
Bất cao diệc bất viễn, Phi đế diệc phi vương; Tiểu tiểu nhất phiến thạch, Ngật lập đại đạo bàng; Nhân lai nhĩ chỉ thị, Bất tẩu thác hướng phương; Nhĩ cấp nhân chỉ thị, Đồ lộ chi đoản trường; Nhĩ công dã bất tiểu, Nhân nhân bất nhĩ vương.
(Văn Trực, Văn Phụng dịch)
Tân Dương ngục trung hài
Cháu bé trong ngục Tân Dương
Oa...! Oa...! Oaa...! Gia phạ đương binh cứu quốc gia; Sở dĩ ngã niên tài bán tuế, Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Oa...! Oa...! Oaa...! Cha sợ sung quân cứu nước nhà; Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi, Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
(Nam Trân dịch)
38
Tiền đèn
39
Đăng quang phí Nhập lung yếu nạp đăng quang phí, Quế tệ nhân nhân các lục nguyên; Bộ nhập mông lung u ám địa, Quang minh trị đắc lục nguyên tiền!
Vào lao phải nộp khoản tiền đèn, Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu "nguyên"; Vào chỗ tối tăm mù mịt ấy, Quang minh đáng giá bấy nhiêu tiền.
(Nam Trân dịch)
Sinh hoạt trong tù
40
Ngục trung sinh hoạt Mỗi nhân các hữu nhất hoả lô, Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi, Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chử phạn chử trà hựu chử thái, Thành thiên yên hoả một thì vô.
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu, Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
(Nam Trân dịch)
Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ, Kim thiên đắc tháp hoả xa hành; Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thượng, Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lương.
41
Đáp xe lửa đi Lai Tân Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả, Hôm nay được bước lên xe hỏa; Dù rằng chỉ ngồi trên đống than, Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.
(Nam Trân dịch)
Lai Tân
Lai Tân
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc, Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh; Chong đèn, huyện trưởng làm công việc, Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ, Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền; Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự, Lai Tân y cựu thái bình thiên.
(Nam Trân dịch)
42
Tứ cá nguyệt liễu
Bốn tháng rồi
"Nhất nhật tù, thiên thu tại ngoại", Cổ nhân chi thoại bất sai ngoa! Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt, Sử dư tiều tuỵ thập niên đa. Nhân vị: Tứ nguyệt ngật bất bão, Tứ nguyệt thuỵ bất hảo, Tứ nguyệt bất hoán y, Tứ nguyệt bất tẩy tảo. Sở dĩ: Lạc liễu nhất chích nha, Phát bạch liễu hứa đa, Hắc sấu tượng ngã quỷ, Toàn thân thị lại sa. Hạnh nhi: Trì cửu hoà nhẫn nại, Bất khẳng thoái nhất phân,
"Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài", Lời nói người xưa đâu có sai; Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời. Bởi vì: Bốn tháng cơm không no, Bốn tháng đêm thiếu ngủ, Bốn tháng áo không thay, Bốn tháng không giặt giũ. Cho nên: Răng rụng mất một chiếc, Tóc bạc thêm mấy phần, Gầy đen như quỷ đói, Ghẻ lở mọc đầy thân. May mà: Kiên trì và nhẫn nại, Không chịu lùi một phân,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
43
Vật chất tuy thống khổ, Bất động dao tinh thần.
Vật chất tuy đau khổ, Không nao núng tinh thần.
(Nam Trân dịch)
Nhập lung tiền
Tiền vào nhà giam
Sơ lai yếu nạp nhập lung tiền, Chí thiểu nhưng tu ngũ thập nguyên; Thảng nhĩ vô tiền bất năng nạp, Nhĩ tương bộ bộ bỉnh ma phiền.
Mới đến nhà giam phải nộp tiền, Lệ thường ít nhất năm mươi "nguyên"! Nếu anh không có tiền đem nộp, Mỗi bước anh đi, một bước phiền.
(Nam Trân dịch)
44
Hạn chế
Bị hạn chế
Một hữu tự do chân thống khổ, Xuất cung dã bị nhân chế tài; Khai lung chi thì đỗ bất thống, Đỗ thống chi thì lung bất khai.
Đau khổ chi bằng mất tự do, Đến buồn đi ỉa cũng không cho; Cửa tù khi mở, không đau bụng, Đau bụng thì không mở cửa tù.
(Nam Trân dịch)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
45