ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THU NGA
THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Hà Nội-2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
PHẠM THU NGA
THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội-2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Giáo sư – Tiến sỹ Trần Ngọc Vương. Đề tài không
trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào. Những vấn đề trình bày trong luận
văn này là kết quả do chúng tôi nghiên cứu, bảo đảm tính trung thực. Tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những luận điểm khoa học nêu ra trong công
trình này.
Tác giả luận văn
3
Phạm Thu Nga
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS Trần
Ngọc Vương, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Văn học Việt
Nam và Khoa Văn học, Phòng quản lí khoa học trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo diều kiện động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian qua.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Người viết
Phạm Thu Nga
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 7
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7
3. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 13
5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THƠ NÔM
ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM ........................................................................ 15
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật ........................................................... 15
1.2. Điều kiện hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật ........... 16
1.2.1. Về ngôn ngữ và thể loại ....................................................................... 16
1.2.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng ..................................................................... 19
1.3. Tiến trình phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật ................................... 20
1.3.1. Giai đoạn hình thành. .......................................................................... 21
1.3.2. Giai đoạn phát triển ............................................................................. 21
1.3.3. Giai đoạn phát triển ở đỉnh cao ........................................................... 24
Chƣơng 2: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN
TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG....................................................................... 28
2.1. Bà Huyện Thanh Quan – con ngƣời và di văn .................................... 28
2.1.1. Con người và cuộc đời. ........................................................................ 28
2.1.2. Vấn đề văn bản thơ Bà Huyện Thanh Quan. .................................... 36
2.2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ Nôm Đƣờng luật
Việt Nam. ........................................................................................................ 43
2.2.1. Về hệ thống chủ đề - đề tài .................................................................. 43
2.2.2. Về cảm hứng chủ đạo và hình tượng cơ bản ...................................... 57
5
Chƣơng 3: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN
TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................ 72
3.1. Về hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật .......................................................... 72
3.1.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đường thi ............................................... 72
3.1.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc ................................................................. 77
3.2. Về hệ thống kết cấu Đƣờng luật và nhịp điệu thơ. ............................. 79
3.2.1. Hệ thống kết cấu Đường luật. ............................................................. 79
3.2.2. Nhịp điệu thơ ........................................................................................ 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, Đường Thi vẫn được coi là thành tựu tiêu biểu của thơ ca cổ điển
Trung Quốc. Ảnh hưởng của thơ Đường rộng khắp các nền văn hóa Đông Á,
trong đó có Việt Nam. Có người cho rằng người Việt bắt chước làm thơ Đường
giống như người Trung Hoa đã làm bởi ở Việt Nam thời xưa, thông qua thi cử
mọi nhà Nho đều có thể làm thơ Đường luật. Thật ra khi tiếp nhận, các nhà thơ
Việt đã chuyển hóa nó thành của riêng mình, nghĩa là tiếp nhận với tinh thần độc
lập, sáng tạo, làm cho thơ Nôm Đường luật thấm đượm tinh thần dân tộc.
Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật, trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà việc bảo tồn,
chấn hưng, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức cấp thiết, lại trở thành
quan trọng.
Bà Huyện Thanh Quan được đánh giá là một trong những thi sĩ làm thơ
Nôm Đường luật hay nhất ở Việt Nam. Đã có không ít bài viết về Bà Huyện
Thanh Quan và thơ ca của bà, nhưng mỗi người lại đánh giá theo một cách khác
nhau, đồng thời, vẫn thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu về nữ tác gia
này. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ làm nổi bật được vẻ đẹp cũng như đóng
góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong lịch sử văn học nói chung và với thơ
Nôm Đường luật nói riêng.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng vào giải quyết những vấn đề sau:
- Tìm hiểu vị trí của thơ bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ Nôm
Đường luật cũng như trong thơ ca trung đại
- Những thành tựu và đóng góp của bà Huyện Thanh Quan vào sự phát
7
triển của thơ Nôm Đường luật và văn học dân tộc
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Do vấn đề tác quyền của một số văn bản thơ bà Huyện Thanh Quan vẫn
chưa được thống nhất nên việc giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng chỉ ở mức độ
tương đối. Chúng tôi quyết định nghiên cứu tất cả những bài thơ được coi là của
Bà Huyện Thanh Quan. Về sách chữ Nôm chúng tôi lựa chọn cuốn Quốc văn
tùng kí. Cuốn sách này do Nguyễn Văn San, hiệu là Hải Châu Tử, người xã Đa
Ngưu, huyện Văn Giang (tỉnh Hải Hưng trước đây) - một nhà sưu tầm sống vào
khoảng thời Tự Đức (1848-1833) biên soạn. Trong cuốn sách này ông cho biết
Bà Huyện Thanh Quan để lại 6 bài thơ. Về sách quốc ngữ chúng tôi lựa chọn hai
cuốn: Văn đàn bảo giám do Trần Trung Viên biên soạn (theo cuốn sách này thì
Bà Huyện Thanh Quan còn lại bảy bài thơ, hai đôi câu đối) và cuốn Hợp tuyển
thơ văn Việt Nam tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1978 mà ở đây các soạn giả
cho biết nữ sĩ có sáu bài thơ Nôm Đường luật.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Vấn đề thơ Nôm Đƣờng luật
Đây không phải là một vấn đề xa lạ vì đã có nhiều công trình nghiên cứu
về sự hình thành và phát triển của thể loại văn học có truyền thống lâu đời này.
Theo dõi lịch sử của việc nghiên cứu thơ Nôm Đường luật, chúng tôi nhận thấy
có ba hướng chính :
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong quá trình nghiên cứu chung về
nền văn chương chữ Nôm.
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên quan với
tổng thể là tác phẩm, tác giả.
- Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong sự giao lưu với văn học Trung
Quốc.
3.1.1. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong quá trình nghiên cứu
chung về nền văn chương chữ Nôm.
Vào đầu thế kỷ XX, có cuốn Quốc văn tùng ký, do Nguyễn Văn San, hiệu
Hải Châu Tử biên soạn bằng chữ Nôm. Ông đã tập hợp và phân loại thơ văn,
trong đó có thơ Nôm Đường luật. Khi nói về các sáng tác Nôm, ông có nhận xét 8
“Ấy là lối văn chương nước ta, non sông tinh tú vẽ ra biết bao nhiêu nhân tài chứ
không đâu được thế vậy”. Vào những năm cuối thập kỷ thứ hai, Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến (1875 - 1941) biên soạn Cổ xúy nguyên âm, quyển 1 năm
1916 và quyển 2 năm 1918. Trong lời Tựa, ông viết “lối văn chương Nôm nước
mình (...) thể cách cũng chẳng khác chi văn Tàu mà lại có lối đặc biệt riêng của
ta vậy” [69, 13]. Cũng năm 1918, Phan Kế Bính (1875 - 1921) viết Việt Hán văn
khảo. Đây là “công trình nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật có giá trị về nghệ
thuật văn chương(...) gồm 8 tiết, trong đó dành 5 tiết để nghiên cứu nguồn gốc,
nguyên lý văn chương, các thể loại văn học và(...)” [85-II, 19]. Năm 1943, cuốn
Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm xuất hiện lần đầu. Trong công
trình này, tác giả có đề cập đến các thể văn. Ông nhận định về thơ Đường luật
như sau: “Thơ Nôm ta làm theo phép tắc thơ tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng
tương tự tiếng Tàu (cũng là thứ tiếng đan âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng
trắc) nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ ta cũng
phỏng theo thơ Tàu cả” [16, 122]. Rõ ràng cách nhìn của tác giả là có hạn chế.
Tuy nhiên, từ sự phân tích, tác giả cũng đã rút được một số kết luận quan trọng,
chẳng hạn “Văn Nôm của ta về thế kỷ thứ XIX, so với trước, thật có tiến bộ
nhiều (...) các thể thơ, hát nói, song thất, lục bát đều có phần khởi sắc và các văn
sĩ ta đã nhiều khi thoát ly cái ảnh hưởng của thơ văn Tàu mà diễn đạt tư tưởng,
tính tình một cách thành thực để sáng tạo một nền văn đặc biệt của dân tộc ta”
[16, 399]. Năm 1953, Thanh Lãng viết Văn chương chữ Nôm, ông đã chia quá
trình phát triển của văn chương chữ Nôm ra làm ba thời kỳ là khá hợp lý: phôi
thai thời đại (1225 - 1430), phát đạt thời đại (1430 - 1750) và toàn thịnh thời đại
(1750 - 1900). Tuy nhiên, trong cái nhìn của tác giả dường như chưa nhìn thấy vị
trí xứng đáng của thơ Nôm bên cạnh truyện Nôm. Nhìn chung những công trình
trên chỉ vận dụng thi luật học Trung Quốc để tìm hiểu thơ Nôm Đường luật.
3.1.2. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật như là bộ phận trong mối liên
quan với tổng thể là tác phẩm, tác giả
Hướng nghiên cứu này góp phần khám phá về thơ Nôm và cả thơ Hán luật
9
Đường như chuyên khảo Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ do Nguyễn Huệ
Chi chủ biên. Lê Chí Dũng trong bài viết Sáng tạo trong thơ Đường luật đã
khẳng định “Trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến, về mặt thể tài, nhà thơ thành công
cả trong thơ luật Đường, cả trong thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói và câu
đối, nhưng thơ luật Đường quả đã có vị trí nổi bật, xét về phương diện đặc trưng
cho phong cách của ông cũng như mặt thống kê định lượng” [4, 268]. Trong
cuốn sách Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm luật Đường, Lê Chí Dũng cũng
khẳng định: “Tài năng của Nguyễn Khuyến là ở chỗ ông chiếm lĩnh được thơ
Đường luật, chiếm lĩnh được quan niệm “thi trung hữu họa”, chiếm lĩnh được
khả năng đạt tới đỉnh cao trong sự hòa trộn tài tình hình ảnh sự vật khách quan
và tình cảm gắn bó với quê hương đất nước” [8, 107]. Trong chuyên đề sau đại
học Thơ Hồ Xuân Hương, Lê Trí Viễn đã chỉ ra 7 phong cách Xuân Hương trong
phong cách thể loại xét từ cấp độ xây dựng hình tượng với cả một hệ thống ngôn
ngữ tương ứng và từ phương diện cấu trúc của thể thơ. Đặng Thanh Lê cũng đã
đặt những bài thơ Hồ Xuân Hương trong sự phát triển của dòng thơ Nôm Đường
luật, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu
bật những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và bút pháp nghệ thuật.
Dựa vào quan điểm thi pháp học của Jakobson, Đỗ Đức Hiểu đã tìm hiểu ý nghĩa
thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương từ cấu trúc biểu đạt trong bài Thế giới
thơ Nôm Hồ Xuân Hương và ông kết luận “Hồ Xuân Hương sáng tạo một phong
cách thơ Đường luật mới” [22, 87]. Nhìn chung những công trình này có nhiều
gợi ý đáng kể cho luận văn của chúng tôi.
3.1.3. Nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trong sự giao lưu với văn học
Trung Quốc
Hướng nghiên cứu này thường sử dụng thao tác so sánh với Đường thi
hoặc văn học, văn hóa Trung Quốc để tìm ra những nét đặc thù dân tộc. Bài viết
sớm nhất có lẽ là bài Mối quan hệ mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc của Đặng Thai Mai. Ông cho rằng “Ngay trong lúc họ vận dụng thể
văn và văn tự Trung Quốc để biểu hiện tình cảm và tư tưởng của họ, nhiều nhà
thơ chúng ta vẫn luôn luôn cố gắng bảo vệ đặc sắc của dân tộc và cá tính của con
10
người sáng tác”. Tuy nhiên, ông đã không chỉ ra chỗ đặc sắc, nét riêng ấy, lại
cho rằng: “Trong các thể loại vay mượn của Trung Quốc thì thơ ca(...) thơ
Đường luật thất ngôn, ngũ ngôn(...) trong lối thơ ca trữ tình, thi sĩ cổ điển ta vẫn
khai thác bấy nhiêu long mạch: tình yêu thiên nhiên, tình yêu người yêu bè bạn,
vợ con và nhất là tình yêu nước” [43, 11]. Năm 1973, Trương Chính có bài viết
Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung quốc như thế nào vào thơ
Nôm? Ông viết: “Cha ông chúng ta khi chuyển sang sáng tác bằng chữ Nôm,
đồng thời muốn cởi xiềng xích ra, bắt đầu từ Hàn Thuyên” [6, 3]. Khi đối chiếu
hiện tượng thất ngôn xen lục ngôn ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Bỉnh Khiêm với thể Đường thi ở Trung Quốc, ông cho biết Trung Quốc
“không có thể câu bảy từ xen câu sáu từ hoặc câu sáu từ xen câu bảy từ” và theo
ông thì hiện tượng này của thơ Việt Nam “chắc đó là một thể loại mới do cha
ông chúng ta tạo ra trên cơ sở câu thất ngôn, trong lúc niêm luật, đối, gieo vần
theo luật Đường" [6, 4]. Mãi cho đến năm 1991, tại Hội thảo khoa học Nghiên
cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực, Nguyễn Huệ Chi
đã nhấn mạnh vấn đề “cố gắng tìm ra những nét nghĩa khu biệt giữa thơ Đường
luật dân tộc với thơ Đường” và khẳng định vai trò quan trọng của những công
trình nghiên cứu này “nếu có thể cùng nhau góp sức tìm ra một lời giải đáp
chung: như thế nào là mã thơ Đường Việt Nam (...) thì mọi sự mắc míu về thi
pháp thể loại thơ cổ chắc sẽ khai thông dễ dàng” [89, 22]. Tại hội thảo, Bùi Duy
Tân có bài Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt
Nam rung đại: tiếp nhận - cách tân - sáng tạo và cho rằng “Những thể loại ngoại
nhập mà được viết bằng chữ Nôm thì sự Việt hóa dễ được tăng trưởng”. Năm
1993, trong luận án PTS Thơ Nôm Đường luật từ Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi đến thơ Hồ Xuân Hương, Lã Nhâm Thìn đã nghiên cứu thơ Nôm Đường
luật như một thể loại quan trọng trong hệ thống thể loại văn học trung đại Việt
Nam và kết luận “Có thể thấy bội số chung nhỏ nhất của các yếu tố cấu thành
thơ Nôm Đường luật là tính chất đời thường, sự giản dị, tinh thần tự do và xu
hướng tâm trạng hóa. Nói một cách khái quát và ngắn gọn, mã của thơ Nôm
11
Đường luật được xác định bởi tính chất Nôm của thể loại” [69, 142-143].
3.2. Vấn đề thơ Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan được khẳng định là một trong những thi sĩ làm thơ
luật Đường hay nhất trong văn chương Việt Nam. Với một tài năng như vậy, hẳn
không thể thiếu những nghiên cứu về thơ của nữ sĩ này. Dương Quảng Hàm
trong Việt Nam văn học sử yếu cho rằng “những bài thơ Nôm của bà phần nhiều
là tả cảnh, tả tình nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là người có tính tình đoan
chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước.
Lời văn rất trang nhã, điêu luyện” [18, 396 – 397], Thanh Lãng trong Bản lược
đồ văn học Việt Nam cũng cho rằng: “Thơ bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ.
Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ”. Ngoài những
nhận xét mang tính khái quát trong những công trình trên, cũng có một số công
trình chuyên sâu hơn về cuộc đời, con người và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan
như các cuốn: Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều:
Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn,
nghiên cứu Việt Nam và thế giới, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991 của Vũ Tiến
Quỳnh – Khánh Hòa; Người đẹp Nghi Tàm: Cuộc đời và thơ bà Huyện Thanh
Quan, NXB Giáo dục, 1995 của Bội Tỉnh; Bà Huyện Thanh Quan, Nguyên Gia
Thiều, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1997
của Hồ Sĩ Hiệp; Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Anh:
Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà
văn, nhà nghiên cứu Việt Nam, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999 của Vũ
Tiến Quỳnh…Các công trình trên hầu hết là hợp tuyển những bài phê bình, bình
luận của các nhà nghiên cứu văn học liên quan đến sáng tác thơ Bà Huyện Thanh
Quan.
Ở Tạp chí Nghiên cứu văn học, chúng tôi tìm thấy 4 bài nghiên cứu về thơ
bà Huyện Thanh Quan, đó là: Thử tìm tên thật của Bà Huyện Thanh Quan, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, số 12 (36), tháng 12/1962 của Bùi Văn Nguyên; Góp
thêm tài liệu về tiểu sử và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 10(70), tháng 10/1965 của tác giả Tảo Trang; Thơ Bà Huyện Thanh
12
Quan – niềm vui và nỗi buồn, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 1(247), tháng
1&2/1991 của tác giả Trần Thị Băng Thanh; Về bài thơ “Qua Đèo Ngang” – các
dị bản, các vấn đề, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4(386), tháng 4/2004 của tác
giả Nguyễn Hùng Vĩ.
Là một trong số ít những tác giả nữ Hán Nôm Việt Nam, thơ Bà Huyện
Thanh Quan nhận được không ít sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu văn học
cũng như những người yêu thơ Đường luật. Tuy nhiên do sự tìm kiếm còn hạn
chế nên chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu mang tính tổng quát nhất
về thơ bà. Có thể nói, việc nghiên cứu đóng góp của thơ bà trong tiến trình phát
triển của thơ Nôm Đường luật với tư cách một công trình chuyên sâu vẫn chưa
được chú ý một cách đúng mức. Với luận văn này, chúng tôi sẽ bước đầu thực
hiện công việc đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống và phương pháp cấu trúc: là hai phương pháp
được vận dụng để nghiên cứu, phân tích hệ thống đề tài – chủ đề, ngôn ngữ, nhịp
thơ và bố cục một bài thơ.
- Phương pháp liên ngành: liên ngành ngôn ngữ và văn học để khảo sát hệ
thống ngôn ngữ
- Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, phương
pháp tiểu sử, phương pháp tiếp cận văn hoá học kết hợp với các thao tác:
+ Thống kê, phân tích, tổng hợp những khía cạnh độc đáo về nội dung và
nghệ thuật thơ Bà Huyện Thanh Quan
+ Đối chiếu, so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan với thơ văn của các tác
giả khác nhằm mục đích cuối cùng là rút ra những đóng góp của tác giả.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của luận văn được cấu trúc
thành ba chương:
Chương một: Khái quát tiến trình phát triển của thơ Nôm Đường luật ở
13
Việt Nam
Chương hai: Đóng góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ
Nôm Đường luật về phương diện nội dung.
Chương ba: Đóng góp của thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ
14
Nôm Đường luật về phương diện nghệ thuật.
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm thơ Nôm Đƣờng luật
Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại có lịch sử lâu dài, số
lượng tác giả sáng tác nhiều vào bậc nhất của văn học Việt Nam. Đó là thể loại
tiếp thu từ nước ngoài nhưng trong quá trình phát triển lại trở thành thể loại văn
học dân tộc, với chức năng thẩm mĩ mới, mang đặc trưng, bản chất riêng của thể
loại. Không những thế thơ Nôm Đường luật cũng là một trong những thể loại có
thành tựu lớn trong nền văn học dân tộc, với nhiều tác phẩm nổi tiếng của các
cây bút tên tuổi như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi
tập của Lê Thánh Tông cùng các tác giả thời Hồng Đức, Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan,
thơ Nôm Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương…Thơ Nôm Đường luật có vị trí quan
trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Nắm được bản chất của thơ Nôm Đường luật
giúp ta có được chiếc chìa khóa để tìm hiểu những sáng tác nằm trong phạm vi
thể loại này.
Xung quanh khái niệm thơ Nôm Đường luật đã từng có nhiều quan niệm
khác nhau. “Có ý kiến cho rằng chỉ gọi là thơ Nôm Đường luật đối với những
bài thơ Nôm viết theo thể luật Đường hoàn chỉnh. Đã gọi là “luật” thì không thể
chấp nhận việc xen câu thơ năm chữ hoặc sáu chữ vào bài thơ thất ngôn tứ tuyệt
hay thất ngôn bát cú. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng thơ Nôm Đường luật là
bao hàm cả những bài thơ viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật hoàn chỉnh và
những bài viết theo thơ Đường luật phá cách – những bài thơ thất ngôn có xen
câu ngũ ngôn hoặc lục ngôn. Bởi tuy bài thơ có phá cách nhưng những “luật” cơ
bản nhất của Đường luật vẫn được giữ vững” (Lã Nhâm Thìn, [80, 650]). Về tên
gọi, để chỉ những bài thơ chữ Nôm làm theo quy tắc của thể thơ Đường luật có
xen câu lục ngôn, các nhà nghiên cứu có những cách gọi: thể thất ngôn xen lục
ngôn (Bùi Văn Nguyên), thơ Nôm Đường luật biến thể (Lã Nhâm Thìn)…Tên
15
gọi thơ Nôm Đường luật có thể ra đời từ khi văn học Việt Nam xuất hiện những
bài thơ Đường luật viết bằng chữ quốc ngữ để phân biệt hai thể thơ Đường luật
cùng viết bằng Tiếng Việt.
Trong luận văn này, khái niệm thơ Nôm Đường luật được hiểu là những
bài thơ viết bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo
thơ Đường luật phá cách – những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào bài thơ
thất ngôn.
1.2. Điều kiện hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật
Sự xuất hiện văn học chữ Nôm nói chung và thơ Nôm Đường luật nói
riêng là bước nhảy vọt của quá trình văn học, đồng thời thể hiện tinh thần tự lập
tự cường về mặt văn hóa của dân tộc Việt Nam trong tương quan với văn học,
văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, để tạo nên một diện mạo mới cho thơ Đường
luật ở nước ta là cả một quá trình, vừa kế thừa Đường luật Hán, vừa tiếp biến và
sáng tạo theo tinh thần dân tộc hóa, dân chủ hóa thể loại.
1.2.1. Về ngôn ngữ và thể loại
“Đối với một dân tộc, trên con đường tiến lên của lịch sử nói chung, của
nền văn hóa nói riêng, bao giờ sự xuất hiện của văn tự cũng được coi như là một
cái mốc có tầm quan trọng đáng kể và có tác dụng khá quyết định. Đặc biệt, nếu nó là một văn tự chuyên dùng để ghi tiếng nói dân tộc thì lại càng có ý nghĩa”1.
Bởi vậy, một trong những tiền đề quan trọng đưa đến sự ra đời của thơ Nôm
Đường luật đó là sự xuất hiện chữ Nôm – văn tự riêng của người Việt Nam thời
trung đại.
Có trước trong nền văn học thành văn ở nước ta là văn học viết bằng chữ
Hán, do tầng lớp trí thức phong kiến dùng để viết tác phẩm và hầu hết được viết
theo các thể loại văn học Trung Quốc. Văn học chữ Hán, trong đó có Đường luật
Hán có phạm vi đề tài rộng từ những vấn đề chung của dân tộc đến những vấn đề
riêng của con người. Tuy nhiên, vì viết bằng chữ Hán nên những tác phẩm này bị
1 Dẫn theo Trần Quang Dũng [9, 1]
16
hạn chế trong việc phản ánh hiện thực sinh động và cụ thể của đất nước Việt,
tâm tư sâu xa, thầm kín của con người Việt. Đây là thực tế bức xúc của nền văn
học viết dân tộc, là một đòi hỏi thiết thực trong xu thế tiến lên của xã hội, của
nhu cầu giao lưu văn hóa – văn học và thưởng thức thẩm mĩ, là khoảng trống mà
văn học viết chữ Hán không thể lấp đầy. Đó là những tiền đề và động lực quan
trọng cho sự ra đời dòng văn học Tiếng Việt (văn học viết bằng chữ Nôm) vào
thế kỉ XIII, trong đó có thơ Nôm Đường luật.
Trước thế kỉ X, chữ Nôm chưa thực sự xuất hiện với tư cách là một hệ
thống văn tự. Bởi lẽ “chưa thấy có vết tích nào chứng tỏ là đã có cách viết Nôm
các hư từ. Chưa có cách viết hư từ thì nhất định chưa thể viết được những câu
hoàn toàn Nôm thực sự”, “chỉ từ cuối thế kỉ X trở đi thì chữ Nôm với tư cách là
một hệ thống văn tự thực thụ mới dần dần hình thành. Thế kỉ XI, XII nó tiếp tục
phát triển, tự hoàn chỉnh thêm và ngày càng trưởng thành. Cuối cùng, đến giữa
thế kỉ XIII thì về cơ bản nó đã được khẳng định thực sự” [3, 35]. Sự xuất hiện
chữ Nôm là mốc văn hóa lớn trong lịch sử văn minh của nhà nước phong kiến
Đại Việt. Là văn tự ghi tiếng nói dân tộc nên ngay sau khi ra đời, chữ Nôm đã
phục vụ nhu cầu ghi chép, sáng tác văn học và nghiễm nhiên trở thành chữ viết
của dân tộc, được mọi tầng lớp xã hội chấp nhận và góp phần xây đắp. Sự ra đời
của nó đã đáp ứng được phần nào nhu cầu biểu hiện, tự biểu hiện và giao tiếp
ngày càng phức tạp trong đời sống tinh thần và văn hóa của người Việt mà chữ
Hán và văn chương cử tử không đáp ứng được. Chữ Nôm ra đời kéo theo đó là
những thể loại văn học sáng tác bằng chữ Nôm mà thơ Nôm Đường luật là thành
tựu tiêu biểu nhất.
Bên cạnh sự ra đời hệ thống văn tự viết bằng chữ Nôm, thơ Nôm Đường
luật còn phát triển bởi nó có sự gần gũi với tiếng Hán ở một số phương diện.
Theo nhà nghiên cứu văn học Lã Nhâm Thìn trong bài viết Thơ Nôm Đường luật
in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX, những vấn đề lí luận và lịch sử,
Tiếng Việt và tiếng Hán có sự gần gũi tương đồng ở ba phương diện cơ bản nhất:
không biến hình, tính âm tiết, tính chất tuyến tính, thêm vào đó lại có sự gần gũi
17
về thanh điệu. Sự tương đồng này có thể nói rất quan trọng và cần thiết cho sự ra
đời của thơ Nôm Đường luật bởi thơ Đường vốn có kết cấu rất chặt chẽ, có tính
ổn định khá cao về cả thanh, vần, câu, từ.
Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có một vị trí khá
đặc biệt. Thời đó, các ngành nghệ thuật đều phát triển (hội họa, âm nhạc, kiến
trúc, điêu khắc…) trong đó phát triển nhất là hội họa và văn học. Trong văn học
thì thơ là bộ phận có nhiều thành tựu hơn cả. Có thể nói thơ Đường là một trong
những đỉnh cao của thơ Trung Quốc và thơ ca nhân loại. Về mặt thể loại, thơ
Đường là một thể thơ độc đáo và sâu sắc, nội dung cực kì phong phú được thể
hiện bằng hình thức hoàn mĩ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường
đều đạt đến đỉnh cao. Lựa chọn thơ Đường luật làm đối tượng tiếp nhận để sáng
tạo nên thơ Nôm Đường luật – một trong những thành tựu được xem là xuất sắc
nhất của nền văn học dân tộc là sự vay mượn hoàn toàn đúng quy luật. Bên cạnh
đó, chế độ khoa cử cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của thể loại này
bởi thông qua việc học và thi cử, ngày càng có nhiều người sáng tác được thơ
Đường luật. Về vấn đề này, các nhà nghiên cứu văn học Nam Trân và Trương
Chính cùng có những nhận xét khẳng định tác dụng của chế độ khoa cử: “Truyền
thống sáng tác thơ Đường ở Việt Nam đã có từ nghìn năm nay. Qua các triều đại,
chế độ khoa cử đã thúc đẩy sáng tác thơ ca bằng chữ Hán, một môn quan trọng trong chương trình thi”2, “có thể nói thơ luật Đường là hình thức chủ yếu của thơ chữ Hán cha ông ta làm. Rất dễ hiểu: đó là chế độ khoa cử”3. Việc đưa thơ
Đường luật vào thi cử là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thơ chữ Hán và
sau đó là sự ra đời của thơ Nôm Đường luật.
Như vậy với các điều kiện văn học như trên, thơ Nôm Đường luật có cơ
sở để hình thành và phát triển, đáp ứng những nhu cầu bức thiết của nền văn học
2 Thơ Đường, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987, tr16. Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 656]
3 Trương Chính, Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm, Tạp chí Văn học, Số 2, 1973. Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 656]
18
dân tộc.
1.2.2. Tiền đề văn hóa tư tưởng
Sự hình thành và phát triển của một nền văn học, một dòng văn học hay
đơn thuần là một tác phẩm văn học bao giờ cũng gắn liến với những tiền đề văn
hóa – tư tưởng nhất định. Thơ Nôm Đường luật ra đời cũng không nằm ngoài
quy luật phổ quát ấy.
Một đặc điểm đáng lưu ý của thơ Đường luật là sự gắn bó khăng khít của
nó đối với tư tưởng. Sự gắn bó này thể hiện ở nội dung và hình thức, trong tổng
thể cũng như ở từng chi tiết. Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ
Đường là tư duy quan hệ. Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ
chín muồi của tư duy Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến
(nhà Đường). Ở đó có sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu
của phương Đông là Nho, Phật, Lão. Sự hội nhập này là một quá trình biện
chứng, nó dung hội ưu điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của
Nho gia, tính chất huyền diệu, vô vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của
Phật giáo. Đồng thời nó cũng ước chế lẫn nhau, không có một kiểu tư duy nào
độc chiếm ưu thế khiến cho tư duy Trung Quốc thời kì này đã đạt đến sự quân
bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng không hề viển vông, nó hợp lý và thực
tiễn nhưng không dung tục tầm thường. Nó đã tìm được sự hài hòa trong những
quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự hòa diệu.
Công thức thơ Đường luật, như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, là
sự thể hiện mô hình vũ trụ, theo quan niệm của người Trung Quốc thời trung đại.
Mô hình này tạo nên bởi những mối quan hệ. Bao trùm là mối quan hệ thống
nhất giữa các mặt đối lập, giữa sự vĩnh hằng và sự thay đổi. “Sở dĩ thơ Đường
trở thành phong cách là vì nó phát hiện ra sự thống nhất giữa con người với vũ
trụ và khẳng định tính bất biến của những quy luật của vũ trụ đối lập lại mọi sự
thay đổi nhất thời ở con người”4. “Mỗi thể thơ có một nội dung riêng của chính
nó không lặp lại ở các thể thơ khác. Ví dụ nội dung của thơ bát cú Đường luật là
4 Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 659]
19
gì? Nó là ở chỗ khẳng định một sự bất biến mà con người phát hiện ra…Nó xây
dựng nội dung này bằng cách đặt bốn câu thành hai cặp cân đối cực kì nghiêm
túc bị bao quanh bởi trên hai câu, dưới hai câu và các câu niêm với nhau thành
một khối rắn chắc. Tất cả các cách tổ chức này không thể là ngẫu nhiên”5.
Trên thực tế, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về tư
tưởng văn hóa. Nước Việt đã từng chịu nghìn năm Bắc thuộc nên ảnh hưởng của
văn hóa phương Bắc ít nhiều du nhập vào nước ta. Từ thế kỉ X, khi đất nước
giành được quyền tự chủ, bên cạnh yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa, người Việt
cũng chủ động trong giao lưu văn hóa với bên ngoài nhằm phát triển một nền
văn hóa – văn học phong phú, toàn diện. Những điều này khiến cho văn hóa và
tư tưởng Trung Hoa có điều kiện du nhập vào nước ta dễ dàng hơn. Tuy nhiên,
khi tiếp nhận những tư tưởng này, người Việt vẫn có ý thức cách tân và sáng tạo,
vừa mở cửa trong giao lưu văn hóa nhưng vẫn không hề bị đồng hóa.
` 1.3. Tiến trình phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật
N.G.Tsenưshevsky từng nói rằng nếu không có lịch sử của đối tượng thì
cũng sẽ không có lý luận về nó. D.X.Likhasev cũng nhận thấy tầm quan trọng
của lịch sử thể loại, khẳng định thể loại văn học “là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ
xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi
và được thay thế” [20, 204]. Từ điển thuật ngữ văn học cũng gợi ý: “Vì vậy khi
tiếp cận các thể loại văn học, cần tính đến thời đại lịch sử của văn học và những
biến đổi, thay thế của chúng” [20, 204]. Nhìn tổng quát về những biến đổi trên
những chặng đường phát triển của thơ Nôm Đường luật, chúng tôi thấy nó từng
bước được hoàn thiện cùng với nền văn chương chữ Nôm nói chung, cụ thể là
trải qua ba giai đoạn: giai đoạn hình thành (thế kỷ XIII đến Quốc âm thi tập vào
đầu thế kỷ XV), giai đoạn phát triển (từ Quốc âm thi tập đến hết thế kỷ XVIII)
và giai đoạn phát triển ở đỉnh cao (thế kỷ XIX) với sự mở đầu của thơ Hồ Xuân
5 Dẫn theo Lã Nhâm Thìn [80, 659]
20
Hương và kết thúc với thơ Trần Tế Xương
1.3.1. Giai đoạn hình thành.
Thơ Nôm Đường luật có lẽ ra đời vào cuối thế kỷ XIII, song về mặt văn
bản, cho đến nay, vẫn chưa sưu tầm được. Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
“Nhâm Ngọ (Thiên Bảo), năm thứ tư (1282). Mùa thu, tháng tám...Bấy giờ có cá
sấu đến sông Lô, vua Trần Nhân Tông sai Thượng thư Hình bộ là Nguyễn
Thuyên làm văn ném xuống sông. Con cá sấu tự đi mất. Vua cho là việc này
giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ
phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đây” [31,
48]. Sáng tác đầu tiên lưu lại được là vào đầu thế kỷ XIV, bài thơ tương truyền là
của nàng Điểm Bích trong câu chuyện với sư Huyền Quang. Tác giả cuốn Văn
chương chữ Nôm gọi đây là phôi thai thời đại (1225 - 1430), trong đó Nguyễn Sĩ
Cố với Quốc âm thi phú, “có tài làm thơ quốc âm và khéo khôi hài”, Chu Văn
An (? - 1370) với Quốc ngữ thi tập , Hồ Qúy Ly làm phú bằng quốc âm...Tuy
nhiên vẫn phải nói lại rằng Quốc âm thi tập là sáng tác Nôm Đường luật đầu tiên
hiện còn chứ nhất định không phải là sáng tác đầu tiên bằng thơ Nôm Đường
luật. Theo Lã Nhâm Thìn, sự ra đời của thơ Nôm Đường luật gắn liền với tên
tuổi của Hàn Thuyên. Nhà nghiên cứu phân tích: “Thứ nhất, về mặt lịch sử, Đại
Việt sử kí toàn thư là một bộ sử chính thức của nhà nước phong kiến chắc không
nói một cách hàm hồ. Thứ hai, cách gọi thơ Hàn luật thì chữ “luật” có thể hiểu là
luật thơ do Hàn Thuyên làm ra và phải chăng còn có thể hiểu là Hàn Thuyên đã
làm thơ Nôm theo thể cách luật? Thứ ba, về mặt ngôn ngữ, như nhiều nhà nghiên
cứu đã chỉ ra, đến thế kỉ XIII chữ Nôm có đầy đủ khả năng để trở thành ngôn
ngữ văn học. Thứ tư, sự xuất hiện của Quốc âm thi tập là một “đột ngột lịch sử”
nhưng tập đại thành này không thể bắt đầu từ con số không. Chắc chắn phải có
sự chuẩn bị cho Quốc âm thi tập ra đời. Chỉ có điều do nhiều nguyên nhân, ngày
nay chúng ra chưa biết được sự chuẩn bị đã diễn ra như thế nào” [80, 661].
1.3.2. Giai đoạn phát triển
Giai đoạn phát triển thơ Nôm Đường luật là từ Quốc âm thi tập của
21
Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ XV) đến hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX). Nói một cách khái quát, trải qua bốn thế kỷ, thể loại này
đã từ chỗ thể nghiệm đi đến ổn định, từng bước và về nhiều mặt, trong đó có vấn
đề cấu trúc bài thơ, số lượng âm tiết (chữ) trên mỗi dòng thơ. Nếu Nguyễn Trãi
là người mở đầu con đường Việt hóa thì Hồ Xuân Hương đã tạo nên bước ngoặt
lớn đưa thơ Nôm Đường luật vào con đường Việt hóa hoàn toàn ở thế kỷ XIX.
Đi vào cụ thể, chúng tôi nhận định về quá trình phát triển giai đoạn này thông
qua các tập thơ tiêu biểu.
Một là, với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã tô đậm xu hướng dân tộc
hóa ở hình thức nghệ thuật lẫn nội dung thể loại. Đúng như Đặng Thai Mai đã
khẳng định Nguyễn Trãi là người đầu tiên có công lớn: một cố gắng để xây dựng
một lối thơ Việt Nam. Đinh Gia Khánh cũng thấy Nguyễn Trãi là nhà thơ rất có
ý thức trên con đường tìm tòi một thể thơ dân tộc ít nhiều thoát ly Đường luật
trong khi vẫn giữ phong cách chung của thơ Đường luật. Biểu hiện nổi bật của
xu hướng dân tộc hóa là ở hai điểm sau đây: “Về mặt nội dung, nhìn bao quát thì
254 bài thơ trong Quốc âm thi tập trước hết là thơ về chủ đề thiên nhiên. Nguyễn
Trãi ca ngợi cảnh vật đất nước với tấm lòng tin yêu, rộng mở...” [85–II, 258].
Về mặt hình thức, Nguyễn Trãi có rất nhiều sáng tạo. “Về thể loại, trong thơ
quốc âm Nguyễn Trãi có một số bài làm theo luật Đường; nhưng rất nhiều bài
không phải luật Đường. Đó là thơ Việt đang trên xu hướng định hình, có sự tiếp
thu cả thơ Đường lẫn thơ ca dân gian dân tộc (...) câu 6 chữ xen vào những câu 7
chữ (...) Có những câu tuy là 7 chữ, nhưng cách ngắt nhịp 3/4 cho phép ta hiểu
đó không phải là câu 7 chữ của thơ Trung Quốc (vốn ngắt nhịp 4/3 là chính)
Nguyễn Trãi đã sử dụng một vốn từ tiếng Việt phong phú bậc nhất vào thời ấy
để sáng tác thơ (...) Nguyễn Trãi cũng rất thích dùng thành ngữ, tục ngữ của
quần chúng...”[85– II, 258 - 259]. Lê Trí Viễn cũng nhận thấy: “Thể thơ lục
ngôn, nói đúng hơn là thể thất ngôn bát cú có chen vào những câu lục ngôn, đó
là một sự thay đổi có thể là một thí nghiệm tìm tòi một âm điệu mới ra ngoài
khuôn phép luật Đường” [77, 54].
Hai là Hồng Đức quốc âm thi tập, vào nửa sau thế kỷ XV một mặt
22
kế thừa nội dung dân tộc ở Quốc âm thi tập, mặt khác cũng có những tìm tòi mở
hướng về phía xã hội hóa. Tất nhiên là tập thơ có nhiều hạn chế: đề tài thông tục
nhưng lại mang khẩu khí cao sang, thi tập có vẻ nặng nề tính chất cung đình.
Tuy vậy, “...nhiều thành ngữ, tục ngữ, từ lấp láy được sử dụng (...) Tính ước lệ
tượng trưng là phổ biến trong tác phẩm nhưng cũng có xu hướng tả thực với
những chi tiết cụ thể, sinh động” [85-I, 323]. Về nhịp 3/4, có nhà nghiên cứu cho
rằng: “Một vài câu có cắt nhịp 3/4 hoặc có vần bằng ở giữa câu, thì có thể là do
ngẫu nhiên chứ không phải dụng ý của nhà thơ” [62, 79]. Chúng tôi không nghĩ
như vậy mà cho rằng nhịp 3/4 là một hiện tượng độc đáo rất Việt Nam, rất có ý
nghĩa. Ngoài ra, tập thể tác giả đã có những thể nghiệm trong việc vận dụng thơ
Đường luật để tự sự và để trào phúng, tuy sự tìm tòi chưa được rõ nét nhưng
cũng gây được ấn tượng. Nó đã giúp đỡ các nhà thơ sau đó rút ra bài học không
thành công khi dùng Đường luật để tự sự và bài học thành công khi dùng Đường
luật để trào phúng.
Ba là Bạch Vân thi tập (thường được gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi) của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) – “một cây đại thụ rợp bóng suốt thế kỷ
XVI”. Nếu trong thơ chữ Hán, các thể tài đề vịnh, thù tạc, trữ tình đều được bảo
lưu rất đậm thì ngược lại dường như trong thơ chữ Nôm chủ yếu là thơ ngôn chí.
Gần gũi với Nguyễn Trãi về nội dung tư tưởng nhưng nếu như thơ Nguyễn Trãi
thiên về sự tinh tế trong khi miêu tả những rung động thầm kín của trái tim thì
thơ Tuyết Giang phu tử thiên về vẻ uyên thâm trầm lắng những nghĩ suy về thế
sự. Cùng với chân dung một con người luôn tự chủ, bình tĩnh, ung dung, thư
thái, thường lạc quan, yêu thích thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên là âm
vang của những dòng thơ tiếng Việt giản dị, trong sáng, vừa có cái cụ thể sinh
động khi tiếp cận cuộc sống, vừa nâng lên tầm khái quát, cô đúc như những chân
lý. Quả thật tập thơ đã có những đóng góp mới cho xu hướng Việt hóa và quá
trình dân chủ hóa thể loại này. Bùi Duy Tân viết: “Thơ Nôm Đường luật của
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Việt hóa thêm một bước, nhất là về mặt ngôn ngữ,
rất gần với thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, thậm chí Nguyễn Khuyến thời sau, trong
những bài thơ đó, không tự giác mà nhà thơ đã phá vỡ truyền thống khuôn sáo,
23
cầu kỳ, ước lệ trong phong cách thơ Nôm thời Lê Thánh Tông (...) xét về phong
cách ngôn ngữ thì thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng phản ánh rất rõ tác động
ngày càng mạnh của thơ ca dân gian vào dòng văn học viết của trí thức phong
kiến.” [62, 155 - 156]. Đỗ Kim Thịnh, trên tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ
thuật số 6/1991 có bài Quan niệm đạo đức và thẩm mỹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong đó ông chỉ ra bản sắc văn hóa, tâm hồn Việt Nam ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm “Sự gắn bó với các ngạn ngữ dân ca Việt được ông thể hiện trong các bài
thơ Nôm - thứ quốc ngữ đầu tiên của dân tộc càng chứng tỏ sức sống của văn
hóa cội nguồn, nối mạch thơ văn ông truyền đạt cho đời sau. Ngôn ngữ trong thơ
ông trong sáng ghi lại được phong vị, bản sắc của đời sống rất Việt Nam”.
Chặng đường từ sau Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước Hồ Xuân Hương
dường như có sự giảm sút chất giá trị không chỉ riêng thể loại thơ Nôm Đường
luật mà nói chung, dường như mọi sáng tác văn chương bấy giờ, mặc dù số
lượng tác phẩm rất nhiều và thơ Đường luật cũng rất được ưa chuộng (Chẳng
hạn riêng Trịnh Doanh đã có 241 bài thơ Nôm trong Càn nguyên ngự chế thi
tập). Tuy nhiên, sự xuất hiện của ba truyện thơ Nôm khuyết danh (cho đến nay
vẫn không biết chắc thời điểm xuất hiện) trong đó tác giả "kết" những bài thơ
Đường luật lại để tự sự là một thể nghiệm cần thiết. Truyện Vương Tường gồm
39 bài thơ thất ngôn bát cú và 10 bài thất ngôn tứ tuyệt. Tô công phụng sứ gồm
24 bài thất ngôn bát cú. Lâm tuyền kỳ ngộ (còn gọi là Bạch Viên Tôn Các) gồm
146 bài thất ngôn bát cú, 1 bài thất ngôn tuyệt cú ở cuối truyện (ngoài ra còn có
bài Thạch tuyền ca khúc phỏng theo thể hát nói). Thơ Nôm Đường luật thời kì
này có sự mâu thuẫn không thể giải quyết giữa hình thức thế loại với yêu cầu của
tự sự. Nhìn lại cả giai đoạn phát triển từ Quốc âm thi tập đến trước Hồ Xuân
Hương, thì xu hướng chung của thơ Nôm Đường luật là dân tộc hóa và xã hội
hóa. Bên cạnh những đóng góp lớn, những thành tựu nghệ thuật là những thể
nghiệm, tìm tòi nhưng chưa thành công.
1.3.3. Giai đoạn phát triển ở đỉnh cao
Sau hơn một thế kỉ phát triển với nhịp điệu bình thường, vắng bóng những
24
tên tuổi lớn, sang thể kỉ XVIII – XIX thơ Nôm Đường luật khởi sắc trở lại với
hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định
thơ Nôm Đường luật từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương là giai đoạn phát
triển ở đỉnh cao của thể loại này. Hoàng Hữu Yên viết: “nhất là từ nửa thế kỷ thứ
XVIII về sau, thơ Nôm nói chung đều viết theo thể luật Đường hoàn chỉnh. Với
những thành tựu rực rỡ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nhất là thơ Hồ Xuân
Hương thì thể thơ Nôm Đường luật ổn định, đạt đến đỉnh cao nghệ thuật” [30,
123]. Tất nhiên, để đạt được đến đỉnh cao nghệ thuật, sự thành tựu rực rỡ ấy, có
thể có nhiều yếu tố, chẳng hạn, những chặng đường trước đó như những thể
nghiệm và đặc biệt là mấy chục năm cuối thế kỷ XVIII như một chặng chuyển
tiếp. Chặng đường chuyển tiếp vắt qua hai thế kỷ ấy có Phạm Thái (1777 - 1813)
và Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825), một trong Gia Định tam gia. Đây là một bài
thơ tiêu biểu, bài Tự trào của Phạm Thái: “Năm bảy năm nay những loạn ly/
Cũng thì duyên phận cũng thì thì/ Ba mươi tuổi lẻ là bao nả/ Năm sáu đời vua
khéo chóng ghê!/ Một tập thơ dày ngâm sảng sảng/ Vài nai rượu kếch ních tì tì/
Chết về tiên bụt cho xong kiếp/ Đù ỏa trần gian sống mãi chi?”. Bên cạnh qui
luật phát triển của bản thân thể loại, chúng tôi còn nghĩ đến sự tác động mạnh
mẽ, sự xâm nhập và thấm sâu của văn hóa dân gian vào thơ Nôm Đường luật,
hay nói đúng hơn là sự chuyển hóa, có tác dụng tương hỗ từ cả hai phía. Thực ra,
trong dân gian, từ cuối thế kỷ XIV, trong câu chuyện Hà Ô Lôi (Lĩnh Nam Chích
Quái của Trần Thế Pháp) đã có ba bài tứ tuyệt (chữ Nôm) ghi lại như sau: Bài
thứ nhất: “Chỉn đà náu đến nguyện làm tôi/ Hai chữ Thiên- Tiên để cha Lôi”. Bài
thứ hai: “Sương kế đầu sương vẹn được mười/ Những nơi quyền quý thiếu chi
người/ Bởi vì thanh sắc nên say đắm/ Khá tiếc cho mà lại khá cười!”. Bài thứ ba
: “Sinh tử là trời sá quản bao/ Nam nhi miễn được tiếng anh hào/ Chết vì thanh
sắc cam là chết/ Chết đáng là nên cơm cháo nào”. Văn học dân gian thế kỷ
XVIII cũng có nhiều bài làm theo thể Đường luật, như một số bài thơ cho là của
Trạng Quỳnh. Tuy nhiên, hiện tượng phổ cập hóa, dân gian hóa của thơ Nôm
Đường luật vào thế kỷ XIX dường như đã trở nên một nét đặc trưng của đời sống
văn hóa dân tộc. Có thể nói thêm rằng đây chính là giai đoạn vàng son của thể
25
loại thơ Nôm Đường luật. Trần Thanh Đạm nhận định: “Riêng thể thơ luật, tính
từ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan cho đến các bài thơ trường thiên liên
hoàn của Nguyễn Đình Chiểu (Điếu Trương Định, Điếu Phan Tòng), các bài
xướng họa giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị đến các tác phẩm của Nguyễn
Khuyến, Tú Xương về sau, chúng ta cũng chứng kiến một sự nở rộ, đa dạng về
nghệ thuật...” [11, 13]. Để đạt đến đỉnh cao của sự phát triển, thơ Nôm Đường
luật đã kiên trì tiếp tục xu hướng dân tộc hóa của nhiều thế kỷ trước, đồng thời,
chuyển nhanh trên con đường dân chủ hóa cả nội dung lẫn hình thức thể loại. Xu
hướng dân chủ hóa thể Đường luật là xu hướng mạnh mẽ nhất ở hiện tượng thơ
Hồ Xuân Hương. Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương có lẽ là
trường hợp duy nhất không viết dưới ánh sáng của học thuyết chính trị, tôn giáo
nào. Hiện tượng này đã mang đến cho thơ Nôm Đường luật ở ta một diện mạo
rất mới, không kiêu kì đài các mà tự nhiên, trần tục, đầy bản năng, đồng thời từ
đây người ta bắt đầu thấy phong cách riêng của tác giả.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng, có tính chất bước ngoặt của thơ Hồ
Xuân Hương, chúng ta còn thấy sự góp mặt của những cây bút khác tiêu biểu
như Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan và đặc biệt là hai tác giả ở giai
đoạn cuối cùng: Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Hai tác giả này tiếp tục xu
hướng trào phúng của thơ Nôm Đường luật. Đến thơ Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, thơ Nôm Đường luật Việt Nam thực sự đã đạt đến trình độ điêu luyện.
Thế nhưng hoàn cảnh xã hội đã khiến cho dòng thơ này không có điều kiện để
tiếp tục phát triển. Thực dân Pháp xâm lược kéo theo đó là một nền văn hóa, văn
học mới được hình thành. Chữ Hán, chữ Nôm không đóng vai trò quan trọng
trong đời sống mới mà thay vào đó là chữ quốc ngữ. Hơn nữa, tầng lớp công
chúng mới với những nhu cầu và thị hiếu mới đặt ra yêu cầu đổi mới một cách
toàn diện nền văn học, những thể loại mới ra đời với chức năng xã hội và chức
năng thẩm mĩ mà Đường luật Nôm chưa có. Thơ Nôm Đường luật gần như mất
hẳn chỗ đứng trong sáng tác văn học nhưng thơ Đường luật sáng tác bằng chữ
quốc ngữ thì vẫn tiếp tục tồn tại.
Trong bài viết Suy nghĩ về thể loại thơ song thất lục bát, Phan Ngọc đã có
26
một ý kiến như sau: “Một thể loại với tính cách một cấu trúc nghệ thuật, không
thể ngay lập tức có ngay được toàn bộ các yếu tố của nó từng yếu tố một phải
hình thành dần dần trong lịch sử, cho đến một giai đoạn nào đó, thường là do tài
năng của một nhà thơ lớn, các yếu tố này tìm được sự kết hợp trọn vẹn. Lúc đó,
nó thành cấu trúc và lúc đó thể thơ bước vào giai đoạn thực sự hình thành. Sau
đó nó tiếp tục phát triển đến thời toàn thịnh của nó, trong giai đoạn đó, nó vừa
biểu lộ năng lực diễn đạt cao nhất, vừa có tác dụng phát huy ưu thế của nó sang
các thể loại khác. Đó là giai đoạn điểm đỉnh (...) Lúc này (...) có một bước
chuyển trong lịch sử của hình thức văn học. Sau đó sang giai đoạn mới, nó vẫn
giữ những đặc điểm cũ nhưng lại thêm một vài đặc điểm mới, phần nào khác
trước, làm cho thể loại càng thêm đa dạng. Cuối cùng, thể loại chuyển sang một
thể loại khác, nhưng trước khi chuyển, nó cố gắng lần cuối cùng để phát huy hết
thế mạnh của nó, (...). Không phải chỉ có lịch sử song thất lục bát là thế, mà lịch
sử thơ bát cú Đường luật, phú, văn tế, văn học chữ Hán ở Việt Nam cũng đều
thế”. [43, 71 - 72]. Có thể nói toàn bộ quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật
mà chúng tôi vừa trình bày ở những trang vừa qua là có sự trùng khớp với nhận
định của Phan Ngọc. Sự tồn tại và phát triển của thơ Nôm Đường luật trong suốt
sáu thế kỉ góp phần khẳng định nó là một thành tựu tiêu biểu của văn học dân
tộc, đồng thời văn chương thế kỷ XIX tuy “quan niệm văn học, phương pháp văn
học, ngôn ngữ văn học, không khí và tập quán văn học có tính chất trung cổ
truyền thống” [61, 70] nhưng đang chuyển hướng mạnh cả nội dung lẫn hình
27
thức về một nền văn chương cận - hiện đại.
Chƣơng 2: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Bà Huyện Thanh Quan – con ngƣời và di văn
2.1.1. Con người và cuộc đời.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ ở thế kỉ XIX mà lâu nay người ta
chưa biết đích xác tên họ là gì, thân thế ra sao. Tiểu sử của bà, của chồng bà có
nhiều sách chép, nhưng thường không nhất quán với nhau.
Trong một cuốn sách văn học sử tương đối cũ nhan đề là Littérature
annamite (Văn học Việt Nam) xuất bản năm 1914, G.Cordie chép: “Chúng ta
chưa biết tên của bà, một nữ sĩ hình như sống vào thời Tự Đức, có làm chức
cung trung giáo tập ở trong triều” [86, 126]. Sau đó, trong cuốn Cảo thơm toàn
tập xuất bản năm 1919 Hải Nam Đoàn Như Khuê nói rằng bà “lấy chồng người
huyện Thanh Trì, làng Nguyệt Áng, tên là Lưu Hân, đỗ cử nhân ân khoa năm thứ
hai vua Minh Mệnh, làm quan đến tri huyện bị cách…” [27, 19]. Hải Nam cũng
nói thêm rằng bà được vua nghe tiếng, vời vào cung nhưng không nói vua nào.
Trong cuốn Nam thi hợp tuyển của Nguyễn Văn Ngọc có đưa ra một số tư liệu
về chồng nữ sĩ: “chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn người làng Nguyệt Áng,
huyện Thanh Trì (Hà Đông), sinh năm Giáp Tí đời Gia Long (1804) thi đỗ tú tài
năm Ất Dậu (1825), đỗ cử nhân thứ tư năm Mậu Tí đời Minh Mạng (1828), làm
tri huyện phó nhậm tại huyện Thanh Quan (tức Thái Ninh – Thái Bình bây giờ),
can án phải cách bổ làm bát phẩm thơ lại bộ Hình sau thăng lên chức Viên ngoại
lang”[46, 431]. Những tài liệu trên đều được gia phả họ Lưu xác nhận (ngoài
điểm ghi nhầm tên Lưu Nguyên Ôn thành Lưu Nguyên Uẩn). Trong cuốn Nữ lưu
văn học xuất bản năm 1929, Sở Cuồng Lê Dư chép: “Tính danh Bà Huyện
Thanh Quan là gì chưa tìm ra được, chỉ biết bà hiệu là Nhàn Khanh, nguyên
người làng Nghi Tàm, lấy chồng là ông Lưu Nguyên Uân, người làng Nguyệt
Áng, làm tri huyện huyện Thanh Quan, cho nên thời nhân quen gọi bà là Bà
Huyện Thanh Quan”[10, 46]. Trong cuốn Quốc văn trích diễm, Dương Quảng
28
Hàm chép: “Tính danh phu nhân là gì không rõ, là con ông nho Dương, người
làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long (thuộc tỉnh Hà Đông bây giờ), lấy ông Lưu
Nghi, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì (cũng tỉnh ấy), đậu cử nhân
khoa Tân Tỵ (1821) đời Minh Mệnh, làm tri huyện Thanh Quan, tức phủ Thái
Ninh (tỉnh Thái Bình bây giờ), nên thường được gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Sau phu nhân vào làm cung trung giáo tập, vua Tự Đức có ban thơ chữ và thơ
nôm, phu nhân đều họa được, vua quý trọng lắm. Còn truyền lại nhiều bài thơ
của phu nhân rất hay”[19, 16]. Sau đó trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, bản
in lần thứ nhất năm 1943, ông chép cũng giống như thế trừ vài chỗ có lược bớt
đi, như bỏ chi tiết “con ông nho Dương” và chi tiết “vua Tự Đức có ban thơ
khen”, ông chỉ chép: bà có được vời vào trong kinh làm “cung trung giáo tập”
[17, 378].
Đến cuốn Thi văn bình chú, bản in lần đầu năm 1943 (Nha học chính
Đông – Pháp xuất bản) thì Ngô Tất Tố đã chép một cách tương đối chi li hơn:
“Chưa rõ chính tên là gì, người ta chỉ biết bà nguyên họ Dương, con gái một nhà
túc nho, quê ở làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là huyện Hoàn Long,
thuộc tỉnh Hà Đông) sau lấy ông Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng huyện
Thanh Trì, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ (1982) đời Minh Mệnh, ông có làm tri huyện ở huyện Thanh Quan..”6. Sau đó, Ngô Tất Tố có nói bà được vua Tự Đức
vời vào làm “cung trung giáo tập” và có ban thơ, bà có họa lại.
Quyển Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (Tập II) của nhóm Lê Qúy
Đôn, xuất bản năm 1957, căn bản chép giống như Dương Quảng Hàm trong Việt
Nam văn học sử yếu. Riêng ở đoạn sau, các soạn giả có chữa lại: “Đời Minh
Mệnh, nhà vua có mời bà vào làm cung trung giáo tập…” [12, 263]
Ở những cuốn sách trên, chúng ta thấy có một vài chi tiết khác nhau,
nhưng căn bản ghi chép giống nhau và không có vấn đề gì mới.
Đến quyển Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỉ XIX, xuất bản ở Hà Nội
thời tạm chiếm, Nguyễn Tường Phượng và Bùi Hữu Sủng chép thêm rằng: “Cha
6 Dẫn theo Bùi Văn Nguyên [48,83]
29
là Nguyễn Lý (1755 – 1837), học trò của Phạm Qúy Thích. Chồng bà Huyện
Thanh Quan là Lưu Nghị, người làng Nguyệt Áng, ông đỗ cử nhân năm 1821.
Can án, Lưu Nghị bị giáng chức, bổ làm bát phẩm thơ lại bộ hình, sau lại thăng
lên chức viên ngoại lang. Một cố lão cho biết rằng một hôm bà giảng Kinh Thi cho các cung phi, bị vua Minh Mệnh quở trách…”7. Các soạn giả Văn học sử
Việt Nam tiền bán thế kỉ XIX đã dựa vào tài liệu của ông Long Điền Nguyễn Văn
Minh trong Tri tân số 28 xuất bản tháng 12 – 1941. Ông Long Điền phê bình
ông Nguyễn Sĩ Đạo trong cuốn Đại Việt văn học lịch sử là đã dựa vào Lê Dư
trong Nữ lưu văn học mà nhầm lẫn Bà Huyện Thanh Quan với bà Nhàn Khanh.
(Trang 102 quyển Đại Việt văn học lịch sử xuất bản năm 1941 có chép: “Bà
Huyện Thanh Quan hiệu là Nhàn Khanh, người làng Nghi Tàm, cạnh Hà Nội. Bà
có tập thơ Nôm gọi là Nhàn Khanh thi tập…”). Tiếp đó, ông Long Điền chép:
“Theo chỗ chúng tôi tra cứu, thì Bà Huyện Thanh Quan họ Nguyễn, con gái ông
Nguyễn Lý, đỗ thủ khoa năm Qúy Mão (1783), Lê Cảnh Hưng 44. Ông Nguyễn
Lý sinh năm Ất Hợi (1755), mất ngày 21 tháng 8 năm Đinh Dậu (1837) đời
Minh Mệnh 18, thọ 82 tuổi, làm quan đốc học Sơn Tây và Hải Dương. Còn tên
húy bà là gì, chúng tôi chưa tham khảo được ra. Chúng tôi đã tìm hỏi ông bạn
Nguyễn Triệu là cháu bà, mà cũng chưa ra, vì ngọc phả không chua rõ tên con
gái” (Bài Văn hành công khí, trang 9 và 10, Tri tân số 28 tháng 12 – 1941).
Qua cách ghi chép tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan ở các sách nói trên,
chúng ta thấy có những điểm không đồng nhất. Thứ nhất, tên chồng Bà Huyện
Thanh Quan ở các sách có sự khác nhau. Đoàn Như Khuê chép là Lưu Hân, Lê
Dư chép là Lưu Nguyên Uân, Dương Quảng Hàm chép là Lưu Nghi, Nguyễn
Tường Phượng chép là Lưu Nghị. Chỉ một người mà bốn sách chép tên khác
nhau. Bùi Văn Nguyên sau này đã căn cứ vào bảy cuốn gia phả (hai cuốn ở Thư
viện Khoa học trung ương (Hà Nội) là Nguyệt Áng Lưu tộc thế phả (kí hiệu
A.650), Nguyệt Áng Lưu thị gia phả (kí hiệu A.811) và năm cuốn của họ Lưu ở
làng Nguyệt Áng) để xác minh về tên chồng Bà Huyện Thanh Quan. Qua sự so
7 Mục: Ngó lại giang sơn lúc bóng tà. Dẫn theo Bùi Văn Nguyên [48, 83].
30
sánh, đối chiếu tác giả Bùi Văn Nguyên đã xác định rằng chính tên chồng Bà
Huyện Thanh Quan là Lưu Ôn, hoặc Lưu Nguyên Ôn. Trong tất cả bảy bản trên,
không có ai tên là Lưu Hân hay Lưu Nghi, chỉ có một người tên là Lưu Văn
Nghị. Như vậy chỉ có ông Lê Dư chép trong Nữ lưu văn học là tương đối chính
xác: Lưu Nguyên Uân (chữ Ôn có người đọc nhầm là Uân hay Uẩn). Trong cuốn
Lưu thị gia phả (chép từ đời Cảnh Hưng của dòng họ Lưu) chép tên chồng Bà
Huyện Thanh Quan là Lưu Ôn. Cuốn Lưu thị gia phả thông ngữ (soạn từ đời
Cảnh Hưng và được chép tiếp từ đời Minh Mệnh) có chép là năm Minh Mệnh 12
(1832), trong số những người chép tiếp gia phả từ đời Cảnh Hưng thì có cử nhân
Lưu Nguyên Ôn. Cuốn Quốc triều hương khoa lục và Quốc triều hương khoa
tập biên (sách ở thư viện Khoa học trung ương) đều chép là Lưu Nguyên Ôn.
Như thế có thể đưa ra một số giả thiết về sự không đồng nhất tên chồng Bà
Huyện Thanh Quan thế này: Có lẽ ông Đoàn Như Khuê cũng chép là Uân,
nhưng nhà in đã viết nhầm chữ U thành chữ H. Ông Dương Quảng Hàm chắc
cũng chép là Lưu Nghị, nhưng khi in thiếu dấu nặng, mãi sau mới được các soạn
giả Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỉ XIX chép đúng. Nhưng sự thật Lưu
Văn Nghị là ông nội của Lưu Ôn. Văn Nghị chỉ là tên thụy (tên đặt sau khi đã
chết), các sách gia phả thường dùng tên thụy mà ít dùng tên húy. Ông chính tên
Lê Cảnh Hưng, làm đốc trấn xứ Cao Bình kiêm hàn lâm viện thị độc, sống cùng
thời với Bùi Huy Bích. Ông có hai vợ, vợ kế là Đào Thị Cẩn có bảy người con
trai. Người con trai thứ hai là Lưu Áo, thụy là Liêm Trực, lấy Nguyễn Thị
Phương sinh được hai con trai thì Lưu Ôn là con đầu. “Lưu Ôn (hoặc Nguyên
Ôn) tên tự là Ái Liên sinh năm Giáp Tý (1804), đỗ tú tài năm Ất Dậu (1825)
cùng một lần với em là Lưu Mạo. Đến năm Mậu Tý (1828) thì ông đỗ cử nhân
thứ tư, làm tri huyện huyện Thanh Quan, rồi can án bị giáng làm bát phẩm thơ
lại bộ Hình, sau làm đến viên ngoại lang. Như vậy theo sự tìm hiểu này của Bùi
Văn Nguyên thì tất cả các sách trước đều ghi sai năm ông Lưu Ôn đỗ cử nhân.
Ông đỗ năm Mậu Tý (1828) chứ không phải ân khoa năm Tân Tỵ (1821). Theo
Quốc triều hương khoa lục và Quốc triều hương khoa tập biên, thì ông thi đỗ
khoa Mậu Tý ở trường Nam Định. Thủ khoa khoa ấy là Nguyễn Kim Xuyến
31
người làng Nhân Mục (cùng huyện) và người đội bảng là Ngô Thế Vinh (sau đỗ
tiến sĩ). Quốc triều hương khoa lục cũng ghi là Lưu Nguyên Ôn sau làm đến viên
ngoại. Đến ngày 10 tháng 10 năm Đinh Vị (1847) thì ông mất thọ 44 tuổi, hiệu là
Trại Quán Quân, thụy là Ôn Trực, táng ở xã Đại Áng và đến năm Mậu Thân
(1848) thì được tăng phong là Lang trung. Ông lấy vợ người phường Nghi Tàm
huyện Vĩnh Thuận, tên là Nguyễn Thị Hinh (Hinh nghĩa là thơm), sinh được con
trai là Tuân, Cung, con gái là Thị Chỉnh, Thị Lương, lại lấy người thiếp là
Nguyễn Thị Độc, sinh được con trai là Cấp, Sóc, con gái là Thị Đoan”.
Thứ hai, họ và huyện Bà Huyện Thanh Quan ở, triều vua mà bà được vời
vào làm cung trung giáo tập cũng không nhất trí. Qua nghiên cứu gia phả họ
Lưu, Bùi Văn Nguyên cho rằng: “Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn Thị Hinh
người huyện Vĩnh Thuận chứ không phải họ Dương huyện Thọ Xương như Ngô
Tất Tố đã chép trong Thi văn bình chú. Ở Nghi Tàm không có họ Dương”.
Dương Quảng Hàm chép trong Quốc văn trích diễm là con ông nho Dương chứ
không phải ông nho họ Dương, sau Dương Quảng Hàm cũng bỏ không dùng chi
tiết này. Lê Dư dựa vào Quốc văn tùng ký của Hải Châu Tử nhầm Bà Huyện
Thanh Quan với bà Nhàn Khanh, có lẽ nhân đó Ngô Tất Tố nhầm với họ Dương
của bà Nhàn Khanh. Về nơi ở thì theo cuốn Nghi Tàm phường nghi tiết tế văn
(sách của thư viện Khoa học, ký hiệu A.2865), thời Lê Cảnh Hưng, phường Nghi
Tàm thuộc Tiền Qúy khu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, đến đầu đời Gia
Long thì phường đó thuộc Thượng Tổng, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức (nay
thuộc xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Về việc bà được vời vào cung thì
tất cả các sách trước cuốn Văn học Việt Nam tiền bán thế kỉ XIX đều chép là ở
thời Tự Đức. Riêng các soạn giả sách này đã căn cứ vào lời một cố lão mà cho là
thời Minh Mệnh. Sau đó các sách Lược thảo văn học sử và Sơ thảo văn học sử
cũng theo đó mà chép là thời Minh Mệnh. Theo Bùi Văn Nguyên, bà được vời
vào cung thời Tự Đức chứ không phải thời Minh Mệnh. “Thời Minh Mệnh,
chồng bà bị giáng từ tri huyện xuống thơ lại, sau mới dần dần lên chức viên
ngoại lang thì chết (1847). Đến năm Tự Đức thứ hai (1848), chồng bà mới được
tặng phong. Tự Đức là một ông vua tự cho là hay chữ nhất triều Nguyễn, cho
32
nên rất chú ý đến việc học, thấy bà là một nữ sĩ hay chữ, muốn mời bà vào cung
nên đã tặng phong cho chồng bà để xúy xóa việc Minh Mệnh xưa giáng chức
chồng bà. Quả vậy, bà còn sống và dạy học ở triều Tự Đức cho mãi đến vụ dân
làng Nghi Tàm đấu tranh chống việc tiến cống sâm cầm năm 1870 (Tự Đức
23)”. Cụ Doãn Kế Thiện có chép việc này trong quyển Cổ tích và thắng cảnh
Hà Nội: “Ông Lý Râu Nguyễn Hữu Khang (chính là Nguyễn Danh Khang) là
thân sinh ra cụ Nguyễn Dư Khương. Cụ Khương là con trai út thứ 10 của cụ
Khang. Theo cụ Khang kể lại thì lúc nhỏ cụ có nghe nói việc ông bố bàn định
mưu kế vào kinh liên lạc với Bà Huyện Thanh Quan để nhờ làm tay trong cho vụ
đấu tranh chống việc tiến cống sâm cầm. Lúc này Bà Huyện Thanh Quan cũng
đã ngoài 60 tuổi” [68, 103].
Còn lại vấn đề Bà Huyện Thanh Quan con ai? Như trên chúng ta đã biết là
trong báo Tri tân, ông Nguyễn Văn Minh cho là con ông Nguyễn Lý (1755 –
1837) và lại nói gia phả họ không ghi rõ tên con gái. Có lẽ ông Nguyễn Văn
Minh đã nghe một người nào đó trong họ ông Nguyễn Lý kể lại, do đó không có
căn cứ. Bùi Văn Nguyên cũng đã tìm về Nghi Tàm và xem được bốn cuốn gia
phả họ đó, thấy có chép tên con gái. Trong bốn cuốn đó có một cuốn dịch ra
quốc ngữ và một cuốn chép sơ lược ít có giá trị. Riêng có cuốn của ông Nguyễn
Khôi giữ và cụ Nguyễn Mạo giữ là chép đằng tả, rõ ràng, giống nhau, có giá trị.
Cuốn ông Nguyễn Khôi giữ có nói rõ thêm là gia phả này được soạn từ năm
Minh Mệnh 14, đến năm Tự Đức 31 có sao chép lại và chép thêm. Căn cứ vào
gia phả sau thì Nguyễn Lý là cháu Nguyễn Tín (đỗ hương cống thời Lê). Nguyễn
Lý (1755 – 1837) đỗ giải nguyên khoa Qúy Mão (1783) làm đốc học Sơn Tây và
Hải Dương, học trò ông có tậu cho ông một khu vườn dài 25 trượng, rộng 8
trượng, còn ghi rõ trong cái bia mốc đá xanh. Nguyễn Lý có hai vợ, vợ đầu họ
Nguyễn không có con, vợ thứ là Đỗ Thị Thiều sinh được 4 con trai (người con
trai đầu là Nguyễn Trăn, đỗ cử nhân thời Minh Mệnh) và một người con gái là
Nguyễn Thị Năm, thụy là Diểu Hạnh. Nguyễn Thị Năm là vợ một người họ
Nguyễn, làm tri phủ phủ Ninh Giang (tỉnh Hải Dương). Như vậy Bà Huyện
Thanh Quan không phải là con ông Nguyễn Lý vì Nguyễn Thị Hinh không phải
33
là Nguyễn Thị Năm. Nguyễn Thị Hinh là bà huyện Thanh Quan còn Nguyễn Thị
Năm là bà phủ Ninh Giang, chồng bà Hinh họ Lưu, chồng bà Năm họ Nguyễn.
Kết luận cuối cùng của Bùi Văn Nguyên về thân thế Bà Huyện Thanh Quan
dừng lại ở những điểm sau: “Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn Thị Hinh, người
làng Nghi Tàm, lấy ông Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng cùng huyện”
[48, 87]. Những chi tiết khác còn chưa có căn cứ để xác thực.
Năm 1965 trong bài viết Góp thêm tài liệu về tiểu sử và thơ văn Bà Huyện
Thanh Quan, Tảo Trang có đính chính một vài chỗ sai lầm và bổ sung thêm một
số điểm về thân thế và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan. Về gia thế của Lưu
Nguyên Ôn (hay Lưu Ôn) chồng Bà Huyện Thanh Quan, Bùi Văn Nguyên ghi
rằng: “Ông nội của Lưu Ôn là Lưu Văn Nghị. Văn Nghị chỉ là tên thụy. Ông
chính là Lưu Nịnh hiệu là Uyên Hòa, đỗ tam giáp đồng tiến sĩ đời Lê Cảnh
Hưng”. Câu này theo tác giả Tảo Trang có những điểm nhầm lẫn. Trong gia phả
họ Lưu, ông tổ đời thứ bảy hiệu là Uyên Hòa, tên hiệu là Nạnh (không phải
Nịnh). Lưu Nạnh cũng không hề đỗ tam giáp đồng tiến sĩ và cũng không phải
ông nội Lưu Nguyên Ôn, đúng ra ông là tằng tổ (ông tổ bốn đời) Lưu Nguyên
Ôn. Văn Nghị cũng không phải là tên thụy của Lưu Nạnh mà là tên thụy của Lưu
Tiệp (con trai thứ hai của Lưu Nạnh). Lưu Tiệp được 7 con trai, con thứ hai là
Lưu Áo sinh Lưu Ôn là chồng Bà Huyện Thanh Quan, con thứ ba hiệu là Ôn
Hầu, sinh 5 con trai trong đó có Lưu Qũy (1809 – 1844) đỗ tiến sĩ năm 1835 thời
Minh Mạng là một trong những bạn thân của nhà thơ Cao Bá Quát. Về con Bà
Huyện Thanh Quan, Bùi Văn Nguyên ghi tên con trai là Tuân và Cung, con gái
là Thị Chỉnh, Thị Lương. Tảo Trang bổ sung thêm: “Thị Chỉnh lấy Nguyễn Di,
đóng suất đội ở xã Vĩnh An, huyện Khoái Châu (Hưng Yên) sinh con là Hiệp và
Xanh. Thị Lương lấy Hoàng Kế Viêm làm “tổng đốc đại thần” người tỉnh Quảng
Bình, sinh con là Bảy và Tám” [73, 104].
Như vậy có thể thấy rõ, mặc dù là thi sĩ nổi tiếng trong lịch sử văn học
dân tộc song cuộc đời Bà Huyện Thanh Quan lại không được ghi chép tường tận
và rõ ràng. Những tư liệu về cuộc đời bà còn lại đến nay rất sơ sài, chỉ biết bà
tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, thuộc huyện Vĩnh Thuận,
34
nay là phường Quảng Bá, quận Tây Hồ, Hà Nội. Bà thành hôn với ông Lưu
Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì (Hà Đông). Căn cứ vào
gia phả của dòng họ Lưu (chồng bà) và thơ xướng họa với bạn bè có thể xác
định được Bà Huyện Thanh Quan sống vào khoảng từ đầu đến nửa cuối thế kỉ
XIX. Họ Lưu ở làng Nguyệt Áng vốn nổi tiếng về đường học hành, đỗ đạt. Lưu
Nguyên Ôn chồng Bà Huyện Thanh Quan sinh năm Giáp Tý (1804) đời vua Gia
Long. Ông đỗ tú tài khoa Ất Dậu (1825) và đỗ cử nhân khoa Mậu Tý (1828) đời
vua Minh Mạng, sau đó được bổ làm tri huyện Thanh Quan (tức huyện Thái
Ninh, nay là Huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, cho nên bà Hinh được gọi là Bà
Huyện Thanh Quan có lẽ từ đó. Trong thời gian phó nhậm tại huyện Thanh
Quan, vì liên quan đến một vụ án, Lưu Nguyên Ôn bị giáng chức làm Thư lại tại
Bộ hình, rồi cuối cùng ông cũng được thăng chức Viên Ngoại lang, làm việc tại
kinh đô Huế. Ông mất năm 1847 cuối đời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn.
Qua giai thoại dân gian truyền tụng, Bà Huyện Thanh Quan là người
không chỉ có tài thơ mà còn có tài “cai trị”, khiến dân chúng phải “tâm phục khẩu phục”. Ví như câu chuyện phê vào lá đơn của ông Cống xin mổ trâu8, hoặc phê vào lá đơn của một góa phụ xin đi lấy chồng9, vừa dí dỏm lại vừa đầy ắp
tình người.
Chắc chắn phải xuất thân trong một gia đình gia giáo và được học hành,
lại thêm tài thơ nức tiếng một thời, Bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức
8 Có một ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ cha. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này mà chồng thì đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ: “Người ta thì chẳng được đâu "Ừ " thì ông Cống làm trâu thì làm”.
Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về. 9 Lúc ông huyện Thanh Quan đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đã đệ đơn lên trình bày rằng chồng cô đã ruồng bỏ cô để xin được ly dị, lấy chồng khác. Vì thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan đã thay chồng phê đơn cho phép ly hôn bằng mấy câu thơ:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai? Chữ rằng: Xuân bất tái lai Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!
Hay chuyện, chồng cô Đào kiện quan trên. Quan trên ăn của đút, giáng chức ông huyện Thanh Quan.
35
triệu vào cung, ban cho chức “Cung trung giáo tập”, dạy chữ nghĩa cùng những
nghi lễ phép tắc cho các cung nữ. Tương truyền khi vào dạy trong cung, vua ban
thơ chữ Hán bà đều họa được. Ngoài ra bà còn làm một số bài thơ Nôm còn lưu
lại ngày nay, tuy không nhiều song củng đủ đánh dấu một thi tài lỗi lạc, và tạo
thành một thi nghiệp có giá trị vững vàng trong văn học sử.
2.1.2. Vấn đề văn bản thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Về tư liệu Hán Nôm, hiện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ một số
văn bản có chép thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cụ thể như sau:
- Liệt truyện thi ngâm, kí hiệu AB.147
- Quốc âm thi tập, kí hiệu AB.649
- Thi ca quốc âm tạp lục, kí hiệu VHv.266
- Quốc văn tùng thư, kí hiệu VHv.2248
- Quốc văn tùng kí, kí hiệu AB.383
Trong năm văn bản nêu trên, trừ Quốc văn tùng kí, còn bốn văn bản chỉ
chép hai, ba bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, vả lại cách chép cũng tùy tiện,
chữ cũng có những dị biệt. Trong luận văn này,chúng tôi dựa vào bản Quốc văn
tùng kí mang kí hiệu AB.383 do nhà nghiên cứu văn học Đỗ Thị Hảo khảo sát.
Quốc văn tùng kí do Nguyễn Văn San, tự là Văn Sơn, tên hiệu là Hải
Châu Tử biên soạn. Về tiểu sử nữ sĩ, Hải Châu Tử ghi: “Xét về đàn bà nước ta
thời đó có bà Nguyễn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan không rõ tên, chỉ biết
người làng Nghi Tàm, chồng là Lưu Huân (hoặc Hân), làm tri huyện triều Minh
Mạng, bà có làm bộ Nhàn Khanh thi tập. Sau vua Tự Đức triệu vào cung dạy
cung nữ”. Về tập Nhàn Khanh thi, Hải Châu Tử cho biết chỉ còn sáu bài. Trong
quá trình khảo sát, chúng tôi thấy có những dị biệt ở từng câu chữ với những bài
thơ đã từng được công bố trước đây, kể cả sự khác nhau về tên bài. Ví dụ như
Tức cảnh chiều thu trong Quốc văn tùng kí chép là Đi đò buổi chiều.
Về sách quốc ngữ thì Văn đàn bảo giám là cuốn sớm nhất có ý định công
bố toàn bộ di cảo của Bà Huyện Thanh Quan. Sách do Trần Trung Viên biên
soạn, gồm ba tập, xuất bản lần đầu năm 1926, in lại lần thứ ba năm 1934, có sự
36
tham gia chỉnh lí của Tản Đà, Trần Trọng Kim…Theo Văn đàn bảo giám thì Bà
Huyện Thanh Quan còn lại bảy bài thơ, hai câu đối (một dán Tết, một đề kiểu vẽ
ở bộ chén). Tuy nhiên việc xác định vấn đề tác quyền vẫn chưa được ngã ngũ, lí
do nguồn gốc tư liệu trong cuốn Văn đàn bảo giám không được ghi rõ và Quốc
văn tùng kí lại không phải bản gốc, hơn nữa một trong số sáu bài được hai sách
trên sưu tập lại thấy rải rác trong các thi tập của Xuân Hương.
Trước Văn đàn bảo giám, Tạp chí Nam Phong, số 7 tháng 1-1918 cũng có
công bố năm bài của Bà Huyện Thanh Quan: Đi đò buổi chiều, Buổi chiều đi đò
nhớ nhà, Vịnh chùa Trấn Bắc, Hoài cổ, Qua Đèo Ngang.
Cuốn sách công bố tác phẩm của bà được xuất bản gần đây nhất là Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam, tập III. Ở đây, các soạn giả cũng cho biết nữ sĩ có sáu
bài thơ Nôm Đường luật, đó là: Chiều hôm nhớ nhà, Qua Đèo Ngang, Thăng
Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Chơi Khán đài xuân Trấn Võ, Tức cảnh chiều
thu. Tuy nhiên con số này vẫn chưa được xem là ổn định. Các nhà nghiên cứu
vẫn có ý kiến khác nhau. Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học nói là “gần mười
bài”. Một số ý kiến căn cứ vào các thi tập của Hồ Xuân Hương và cả văn phong
ngờ rằng trong số sáu bài vừa dẫn ở trên, có một số bài thuộc quyền tác giả Xuân
Hương. Những bài hay được đưa ra tranh luận là Chùa Trấn Bắc, Chơi đài Khán
Xuân và Tức cảnh chiều thu. Có điều, nguồn gốc văn bản làm căn cứ để đi đến
xác nhận hay nghi ngờ quyền tác giả của nữ sĩ Thanh Quan vẫn chưa được chỉ
rõ. Cũng chính vì thế mà trước khi đi vào những đóng góp của Bà Huyện Thanh
Quan trong tiến trình thơ Nôm Đường luật, chúng tôi thấy việc bàn lại về vấn đề
37
văn bản tác phẩm là cần thiết.
Chúng tôi xin đưa ra một bảng thông kê đối chiếu về những tác phẩm của
Bà Huyện Thanh Quan có trong một số cuốn sách:
SÁCH QUỐC NGỮ SÁCH CHỮ NÔM
Hợp Văn đàn Quốc Xuân Hương thi Xuân Xuân Xuân
tuyển thơ bảo giám văn tùng sao Hương Hương Hương
kí di cảo thi tập thi tập văn Việt
(1921) (1922) Nam
1. Chiều Buổi Trời hôm
hôm nhớ chiều đi nhớ nhà
nhà đò nhớ
nhà
2. Qua Qua Đèo Qua Đèo Vịnh Đèo Ngang
Đèo Ngang Ngang (Bà Huyện Thanh
Ngang Quan làm thay)
3. Thăng Hoài cổ Thăng Thăng Long thành Quá phu Quá phu
Long Long hoài cổ quân cố quân cố
hoài cổ hoài cổ lị cảm tác lị cảm tác
4. Chùa Chơi Qua chùa Vịnh chùa Trấn Đề chùa Đề chùa Chùa
Trấn Bắc chùa Trấn Bắc Bắc Trấn Bắc Trấn Bắc Trấn
Trấn (chỉ có 4 (chỉ có 4 Quốc
Quốc câu giữa) câu giữa)
5. Chơi Chơi đài Chơi
đài khán khán khán đài
xuân xuân
Trấn Võ Trấn Võ
6. Tức Tức cảnh Đi đò Vịnh sơn tự ngọ Nhị hà Nhị hà
cảnh chiều thu buổi vũ tức cảnh tức cảnh
chiều thu chiều
7. Nhớ
38
nhà
Từ bảng thống kê trên có thể đưa đến một vài nhận xét:
- Ba cuốn Quốc văn tùng kí, Văn đàn bảo giám và Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam, tập III tương đối thống nhất về di cảo của thơ Bà Huyện Thanh Quan.
- Các bài Chiều hôm nhớ nhà, Qua Đèo Ngang, Chơi đài khán xuân Trấn
Võ không có nghi vấn gì về mặt văn bản
- Bài Chùa Trấn Bắc có tần số xuất hiện lại trong các thi tập của Xuân
Hương cao nhất.
- Bài Thăng Long hoài cổ xuất hiện ba lần và hai lần mang đầu đề Quá
phu quân cố lị cảm tác. Đầu đề thứ hai này cho phép có một cách suy đoán khác
cách hiểu quen thuộc lâu nay về hoàn cảnh ra đời bài thơ và tâm sự tác giả.
- Các bản Xuân Hương thi tập không thống nhất với nhau về cả số lượng
tác phẩm và các bài thơ cụ thể (trừ trường hợp Xuân Hương thi tập bản in 1921
và Xuân Hương di cảo. Bản in 1921 thực ra là tái bản của Xuân Hương di cảo,
chỉ bổ sung thêm hai bài). Điều đó cho biết di cảo của Xuân Hương rất biến
động, đã vậy trong các thi tập còn lẫn nhiều thơ của người khác như Lê Thánh
Tông, Nguyễn Khuyến…
- Trong sáu văn bản Nôm được đưa vào bảng , trừ Xuân Hương thi sao là
bản chép tay chưa xác định được ngày tháng, Quốc văn tùng kí có niên đại biên
soạn sớm nhất. Tuy nhiên ở cuốn này cùng có một vài điểm cần làm sáng tỏ:
Quốc văn tùng ký có chép cả tác phẩm của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Dương
Khuê. Như vậy Hải Châu Tử không chỉ sống dưới thời Tự Đức hoặc nói như
Hoàng Xuân Hãn, sách đã bị “vơ quàng” trong khi sao chép. Hải Châu Tử còn
nói bà Huyện Thanh Quan có làm bộ Nhàn Khanh thi tập nhưng về sau trên Nam
phong tạp chí và Văn đàn bảo giám lại thấy giới thiệu bà Nhàn Khanh và một số
tác phẩm nôm cả Đường luật, lục bát và song thất lục bát. Điều nghi vấn này có
thể giải thích bởi lẽ thơ bà Nhàn Khanh mà Nam phong tạp chí và Văn đàn bảo
giám công bố không có bài nào trùng với Nhàn Khanh thi tập, hơn thế văn
phong lại rất khác nhau. Trong trường hợp này có thể là hai nữ sĩ ngẫu nhiên có
chung bút danh, hoặc người chép đã nhầm lần khi cho rằng Bà Huyện Thanh
39
Quan chính là Nhàn Khanh. Vấn đề còn lại chỉ là Quốc văn tùng kí có vơ quàng
thơ Hồ Xuân Hương cho Nhàn Khanh thi tập hay không? Điều này khó có câu
trả lời chắc chắn được, song chính các thi tập của Hồ Xuân Hương đã bác bỏ lẫn
nhau. Theo lập luận của tác giả Trần Thị Băng Thanh trong bài viết Niềm vui và
nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan thì “bản thi tập khắc in muộn nhất
(1922) chỉ còn giữ lại một bài Chùa Trấn Bắc, trong khi bản in trước đó một
năm có đến ba bài. Phải chăng đó là một cách lí giải của người biên soạn? Và
như vậy, nếu tin các bản Xuân Hương di cảo, Thi sao thì lấy cớ gì để bác bỏ
Xuân Hương thi tập, bản 1922?”.
Vấn đề tìm cho thật chính xác tác giả của những bài thơ được cho là của
Xuân Hương hay Thanh Quan quả thực là một vấn đề phức tạp. Có người căn cứ
vào tần số xuất hiện của bài thơ hoặc văn phong để phân giải. Chẳng hạn bài thơ
Cảnh thu vẫn là đối tượng tranh cãi của các nhà nghiên cứu:
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh om cổ thụ tròn xoa tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu rót giang sơn say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
Đây là một bài thơ tả cảnh, nhưng ngay hai câu thơ đầu cảnh được tả đã
khác xa với những cảnh thường thấy trong thơ Xuân Hương rồi. Tàu lá chuối ở
đây gọi là “tàu tiêu” – một từ Hán Việt, và những giọt mưa thì rơi “thánh thót”,
nghĩa là rơi từng giọt một. Tả cảnh như thế đúng là “tiêu sơ”, nhưng cảnh của
Xuân Hương thì chẳng bao giờ tiêu sơ cả. Đến giọt sương của bà cũng còn đầm
đìa nữa là giọt mưa. Và thái độ của nhà thơ trong bài mới dè dặt làm sao: “Bút
thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ!”. Hồ Xuân Hương là một nhà thơ bao giờ cũng tự tin
ở mình. Đối với nhà thơ, khó khăn gì một cảnh tiêu sơ mà không vẽ được. Hồ
Xuân Hương chẳng đã bảo với lũ học trò: “Lại đây cho chị dạy làm thơ” đó là
40
gì? Hai câu ba và bốn của bài thơ tả cảnh rất đẹp. Nhưng đó dường như là cái
đẹp đứng yên, tĩnh lặng chứ không phải cái đẹp ngồn ngộn sức sống, lúc nào
cũng muốn cựa quậy bật dậy. Những câu tiếp theo vẫn có những từ Hán Việt
trang trọng, đài các, sắp đặt, không phải cách dùng từ Hán Việt của Hồ Xuân
Hương. Còn hai câu cuối, cái tư thế ngạc nhiên đến bần thần trước cảnh vật thì
chẳng giống Xuân Hương chút nào. Nhà thơ bao giờ cũng chủ động, táo tợn chứ
chẳng bao giờ ngơ ngẩn trước bất cứ một cái gì. Rõ ràng nếu nhìn từ cách sử
dụng ngôn ngữ hay xét từ cái nhìn cuộc sống, cách miêu tả hoàn toàn không
giống với phong cách của Xuân Hương.
Một bài khác cũng được nhiều người cho là của Xuân Hương, bài Chơi
đền Khán Xuân:
Êm ái chiều xuân đến khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười
Giống như bài trên, đây là một bài thơ nghệ thuật rất điêu luyện, có thể
xếp vào “số thơ lành mạnh và tiến bộ” như Trần Thanh Mại nói, nhưng về mặt
phong cách vẫn có những điểm khác biệt với lối thơ của Xuân Hương. Bài thơ
có rất nhiều từ Hán Việt trang trọng, đó là điều đáng nghi ngờ, Hồ Xuân Hương
rất ít dùng từ Hán Việt. Thái độ của nhà thơ trong bài cũng cần lưu ý. Nhà thơ
trong bài không phải đi ngoạn cảnh vào bất cứ lúc nào mà chọn một buổi chiều
xuân êm ả, và nhà thơ cảm thấy sung sướng như muốn reo lên vì lòng không
vướng bụi trần. Một thái độ như thế đối với Xuân Hương xa lạ biết bao. Xuân
Hương là một nhà thơ trần tục, thì bụi trần đối với bà có gì là xấu? Những câu
ba, bốn, năm, sáu hơi thơ trang trọng, câu thơ có tư thế đĩnh đạc, đối nhau rất
chỉnh, từ Nôm xen với từ Hán một cách hài hòa, đồng thời làm tăng thêm cảm
41
giác về sự đăng đối. Hai câu cuối, giọng thơ có chút ít tính cách ỡm ờ kiểu Xuân
Hương, nhưng không sắc sảo, mà quá hiền lành đến nỗi miền cực lạc mà nhà thơ
nói đến dễ khiến người đọc nghĩ đến tính chất vĩnh cửu của tôn giáo hơn là cái ý
nửa kín nửa hở thường thấy trong thơ Xuân Hương. Nhiều người cho hai bài thơ
này là của Bà Huyện Thanh Quan, điều này cũng chưa có căn cứ thật rõ ràng,
nhưng nếu không phải của Bà Huyện Thanh Quan, thì phong cách của nó ít ra
cũng gần với phong cách của Bà Huyện Thanh Quan hơn là gần với phong cách
của Hồ Xuân Hương.
Như vậy, căn cứ vào tính thống nhất của phong cách, chúng ta có thể làm
một sự đối chiếu so sánh để loại trừ, như thế có thể tìm ra những bài thơ của Bà
Huyện Thanh Quan. Tuy nhiên phong cách của một nhà văn không phải đứng
yên, mà có thay đổi. Nghiên cứu phong cách trong tính thống nhất tĩnh tại, có
khả năng bỏ sót thơ của người này hay vơ quàng thơ của người này cho người
khác. Hơn nữa làm sao dám chắc một nhà thơ nào đó khi đã làm những vần thơ
nghiêm trang, thâm trầm thì không bao giờ còn viết thơ vui, bỡn cợt và ngược
lại? Nguyễn Trãi ngoài những bài như Bảo kính cảnh giới chẳng đã từng có bài
được liệt vào loại thơ tình đặc sắc cổ kim đó sao? Và Tú Xương cùng với Chúc
Tết, Hỏng thi ngược ngạo, cay cú chẳng đã từng có Nhớ bạn phương trời, Sông
lấp thâm trầm, đằm thắm đó sao? Ngay cả bài Chùa Trấn Bắc, bài thơ từng được
coi là có thể dùng đặc điểm văn phong để phân xử thì cũng không tránh khỏi tình
trạng bế tắc. Câu kết của bài có vẻ không hợp với phong cách điềm đạm của
Thanh Quan. Thế nhưng lẽ nào nỗi đau kim cổ thâm trầm được diễn tả trong bảy
câu trên lại thích hợp với tính trẻ trung, sôi nổi và ngạo ngược của Xuân Hương?
Vì sự không chắc chắn của các chứng cứ, chúng tôi tạm theo sự xác nhận
của Quốc văn tùng kí cũng có nghĩa là đồng ý với Hợp tuyển thơ văn Việt Nam.
Ngoài ra, bổ sung thêm bài Nhớ nhà, một phát hiện của Văn đàn bảo giám. Bài
thơ này và Chiều hôm nhớ nhà thực chất cùng một nội dung, cùng cách cấu tứ,
chỉ khác cách gieo vần và thay đổi một số chữ hoặc vị trí một số câu. Ví như hai
cặp câu thực và luận sau đây:
Ngàn mai lác đác chim về tổ
42
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
Còi mục thét trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
(Nhớ nhà)
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
(Chiều hôm nhớ nhà)
Có thể Nhớ nhà mới chỉ là bản thảo và đã được nữ sĩ hoàn chỉnh thành
Chiều hôm nhớ nhà.
2.2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan trong tiến trình thơ Nôm Đƣờng luật Việt Nam.
2.2.1. Về hệ thống chủ đề - đề tài
Lý luận văn học đã chỉ ra rằng: “Thể loại văn học là sự thống nhất giữa
một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời
sống” [20, 204]. Như vậy, trước khi khảo sát hình thức văn bản và phương thức
chiếm lĩnh đời sống của thể loại thơ Nôm Đường luật, chúng tôi sẽ tìm hiểu
trước hết là nội dung thể loại, đúng hơn là tiếp cận nội dung thơ Nôm Bà Huyện
Thanh Quan thông qua hệ thống đề tài, chủ đề.
Với Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ sống vào nửa đầu thế kỉ XIX – khi
đạo Nho đã không còn nhiều hấp dẫn với tầng lớp trí thức, đặc biệt là khi người
ta đã cảm nhận sâu sắc, thấm thía những đổi thay của thời cuộc cũng như thấu
hiểu nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh thì dễ hiểu, đề tài, chủ đề trong thơ bà cũng
khác nhiều so với thơ của các nhà nho thế kỉ trước. Rời xa chủ đề, đề tài trung
quân, ái quốc, thơ Bà Huyện Thanh Quan gắn liền với đề tài về thiên nhiên,
những tâm sự, khát vọng cá nhân, và đặc biệt có sự trở lại của đề tài vịnh sử
Nam.
Cũng như những thể loại khác thuộc phạm trù văn chương trung đại, thơ
43
Nôm Đường luật thế kỉ XIX cũng có nhiều bài lấy cảm hứng từ đề tài văn
chương, lịch sử cổ xưa và do vậy, có xu hướng hướng về quá khứ, tôn trọng
những giá trị cổ xưa, coi đó là mẫu mực lý tưởng, thực hiện đúng câu nói khiêm
tốn của Khổng Tử: “Thuật nhi bất tác”. Đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan ta thấy
có sự trở lại của đề tài vịnh sử Nam với một phong cách có phần khác về nội
dung và cách biểu hiện so với Hồng Đức quốc âm thi tập thời kì trước và thơ
Nguyễn Đình Chiểu sau này. Cụ thể hơn, nếu thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc
âm thi tập tràn đầy niềm tự hào về “địa linh nhân kiệt” đất nước, được xuất phát
từ ý thức phong kiến và tinh thần dân tộc thì cảm hứng lịch sử trong thơ Bà
Huyện Thanh Quan lại thấm đượm nỗi buồn cô đơn, xót xa, tiếc nuối, một tâm
trạng u hoài bao trùm cảm hứng lịch sử, xuất phát từ sự tự ý thức và sự thức tỉnh
cá nhân: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua Đèo
Ngang)…Và con người cá nhân nhà thơ đã đối diện với trường kì lịch sử mà
cảm nhận tất cả nỗi cô đơn, bé nhỏ của mình: “Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường” (Thăng Long hoài cổ)…Cho nên, đến Bà
Huyện Thanh Quan, chủ đề vịnh sử trong thơ Nôm Đường luật không còn giới hạn
trong phạm vi cuộc sống và tâm sự tác giả mà đã hướng đến chiếm lĩnh một “thời
gian nghệ thuật” dài hơn cũng như những “không gian nghệ thuật rộng lớn hơn”.
Với thể thơ Đường luật nghiêm trang, sang trọng, bà đã gieo những giọt lệ
thiết tha, khóc cho hình bóng một triều đại suy vong. Năm 1802, Gia Long cho
dời đô từ Thăng Long về Phú Xuân. Các nho sĩ của chốn nghìn năm văn vật
bỗng thấy mình bị mất địa vị thượng tri kể từ thời Lý đến nay. Thủ đô giờ ở Phú
Xuân, Bắc Hà từ nay không còn là trung tâm chính trị và văn học nữa. Vì đó, các
nho sĩ mặc cảm như là dân mất nước và đều phát biểu trong thi văn những nỗi
nhớ nhung, tiếc nuối, chán chường. Tất cả những niềm tha thiết đó tạo nên một
khuynh hướng mới trong văn học Nguyễn sơ: hoài niệm Lê triều. Điều này bắt
nguồn từ quan niệm của các nho sĩ thời xưa: vua là nước, triều đại đồng nhất với
quốc gia. Song vấn đề đặt ra là Bà Huyện Thanh Quan có phải nho sĩ đâu mà lại
có tâm trạng tương đồng? Nên biết rằng ảnh hưởng của Nho học thấm vào tư
44
tưởng quần chúng sâu đậm vô cùng. Dù không được tham dự vào hàng ngũ văn
thân, người Việt Nam từ xưa vẫn nghĩ, nói, làm theo đúng quy điều Nho học.
Hơn nữa, Bà Huyện Thanh Quan cũng là một người phụ nữ có học thức, từng
giữ chức “cung trung giáo tập” trong triều, rồi lại làm vợ một vị hiển nho, lẽ nào
lại không nặng về Nho giáo. Quan niệm đồng nhất nước với triều đại cũng thấy ở
Nguyễn Khuyến khi ông viết: “Khứ quốc khởi vô bằng bối tại” (bỏ nước mà về
đâu phải vì không còn bạn bè tử tế). Nguyễn Khuyến coi chuyện ông từ quan là
khứ quốc, tức là bỏ nước, bỏ triều đại, bỏ triều đình mà về chứ không phải là khứ
quốc theo nghĩa di tản. Trong bài Thu vịnh, Nguyễn Khuyễn cũng có câu thơ với
cảm thức tương tự:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
“Hoa năm ngoái” gợi cảm giác về sự ngưng trệ của không thời gian còn
“nước nào” ấy phải hiểu theo nghĩa triều đại. Nước nào ở đây là nước Đinh?
Nước Lê? Nước Trần? chứ không phải theo nghĩa ngỗng từ ngoại quốc bay sang.
Ngỗng nước nào là ngỗng của triều đại nào.
Cùng tư tưởng, quan niệm đồng nhất triều đại với quốc gia, Bà Huyện
Thanh Quan cũng có tâm trạng hoài niệm về cố quốc:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Đèo Ngang trở thành không gian gợi nhớ về cựu triều bởi nơi đây không
chỉ ngăn chia địa giới Đàng Trong và Đàng Ngoài mà còn ngăn chia hai triều
đại, bên này là quá khứ vàng son của triều Lê, bên kia là hiện tại tân triều nhà
Nguyễn. “Qua Đèo Ngang đâu phải đơn giản là vượt qua một địa danh, một địa
giới. Qua Đèo Ngang còn là vượt qua một triều đại, vượt qua chính mình. Cái
tên Đèo Ngang đối với bà Huyện cũng có thể có chút ý vị ngang trái nào đó. Đạo
đức phong kiến không thừa nhận một thần dân có thể thờ hai vua, hai triều đại
nhưng nó vẫn cần sự cộng tác của thần dân triều đại cũ. Qua Đèo Ngang thời ấy
là rời bỏ đất cũ vào đất mới, chúa mới. Điều làm cho bà không hổ thẹn là bà vẫn
không thôi thương tiếc cựu triều. Qua Đèo Ngang là thuận theo thời thế, còn tình
45
riêng thì trời cao, sông núi biết cho ta” [57, 81].
Nếu như ở bài thơ Qua Đèo Ngang, đề tài vịnh sử bắt nguồn từ nỗi niềm
tiếc thương với cựu triều thì ở Thăng Long thành hoài cổ, đề tài này lại được gợi
từ cảm hứng mĩ học hướng về quá khứ, cảm hứng nhân văn trước lẽ đời dâu bể.
Tâm lí sùng cổ, hướng về quá khứ vàng son là nét phổ biến ở con người thời
trung đại. Chẳng vậy mà Nguyễn Trãi khi nói lên lý tưởng yêu nước thương dân
vẫn lấy vua Nghiêu, vua Thuấn làm hình mẫu. Hoài niệm về quá khứ là hoài
niệm về cái đẹp, tiếc thương cho cái đẹp đã bị tàn phai. Ở đây, cảm hứng thẩm
mĩ đã bắt gặp cảm hứng nhân văn: cảnh vật, con người…tất cả đều đổi thay
trước lẽ đời dâu bể. Trương Hán Siêu khi nhìn cảnh sông Bạch Đằng đã “đứng
lặng giờ lâu” mà suy tư: “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết
luống còn lưu”. “Bên cạnh niềm tự hào trước chiến công oai hùng trên dòng
sông lịch sử, tác giả không khỏi buồn đau, nuối tiếc khi chiến trường xưa một
thời oanh liệt, nay trơ trọi hoang vu, dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết”
(Lã Nhâm Thìn, [41, 223]).
Đặt nỗi niềm hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan trong cảm hứng nhân
văn của một thời thi ca trung đại ấy mới thấy hết ý nghĩa giá trị của nó. Ở Thăng
Long thành hoài cổ, mạch cảm xúc của tác giả là từ cảm nhận sự đổi thay, muốn
níu kéo lại dĩ vãng nhưng cuối cùng đành ngậm ngùi trước lẽ đời dâu bể:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Hai chữ “gây chi” cho thấy nhà thơ cảm nhận sự đổi thay trong niềm oán
trách con tạo. Từ hiện tại, nữ sĩ tìm về quá khứ, mong tìm lại dĩ vãng:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn cho rằng, câu thơ này có hai cách hiểu:
“lối xưa xe ngựa giờ chỉ còn là hồn thu thảo, hoặc lối xưa xe ngựa còn ghi dấu ở
hồn thu thảo; nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dương, hoặc nền cũ lâu đài giờ
chỉ còn bóng tịch dương chứng kiến. Dù hiểu theo cách nào thì cũng là quá khứ
tìm cách đổ bóng xuống hiện tại. Hiểu theo cách nào thì cũng là tâm trạng ai
46
hoài, nuối tiếc” [41, 223]. Thăng Long một thời phồn hoa giờ đã trở thành quá
vãng. Tâm trạng “Thăng Long hoài cổ” ở bài thơ này không hẳn là hoài Lê mà
có lẽ là hoài tưởng về một thời vàng son của vùng đất vốn là quê của bà. Thật ra
từ 1786 Hà Nội đã thực không còn là kinh đô nữa. Họ Nguyễn mạnh lên ở trong
Huế và Quang Trung lên ngôi thì đóng đô ở Phú Xuân. Phải đến năm 1888 khi
người Pháp chọn Hà Nội để đặt trụ sở chính thì nơi đây không những trở lại là
kinh đô mà còn là thủ phủ của cả nước. Gần 100 năm Hà Nội mất vị trí của mình
(tên Hà Nội là triều Nguyễn cố tình làm cho nó bé đi). Như vậy, thơ bà Huyện
Thanh Quan là sự hoài tưởng về một vùng đất văn vật, mà cái dấu ấn của nó
đúng là thời kì vàng son của đế kinh. Có người cho rằng bà hoài niệm nhà Lê vì
chịu ảnh hưởng của cha ông vốn đã làm quan với nhà Lê. Dù như vậy thì tâm sự
nhớ nhà Lê cũng không thể sâu sắc đến vậy. Có phải chăng cái quá khứ vàng son
mà bà nhớ tới đã không còn giới hạn trong tình cảm đối với một triều đại mà là
quá khứ đẹp nói chung của đất nước và của thành Thăng Long mà những người
như bà thường hướng về. Dường như trong tiềm thức, trong nếp nghĩ quen thuộc
của bà, Thăng Long vẫn là kinh đô của thuở ban đầu không dễ gì quên được.
Thăng Long luôn gắn với hình ảnh ngôi vua lộng lẫy, gắn với những gì đẹp đẽ,
rực rỡ nhất – nơi tụ hội của bốn phương đất nước. Bà nặng lòng nuối tiếc quá
khứ ấy, cũng là nuối tiếc thời kì rực rỡ của vùng đất nghìn năm văn hiến. Vì vậy,
trong nỗi hoài niệm của bà, bóng dáng của thành Thăng Long cổ kính một đi
không trở lại vẫn còn vương vấn mãi:
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
(Chùa Trấn Bắc)
Có thể nói vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên cũng như những sự việc đang
diễn ra trong đời sống không phải là chủ đích miêu tả của nữ sĩ mà trở thành
những hình ảnh liên tưởng và những tượng trưng có ý nghĩa sâu sắc. Ngọn cỏ
mùa thu trên lối xưa đã một thời nhộn nhịp, ánh chiều le lói trên nền cung điện
47
cũ hay một hành cung dãi dầu mưa nắng, những tòa sen, thức mây…đều không
phải đặc tả cái hiện hữu mà lặng lẽ một nỗi buồn dịu dàng, man mác về cái đã
trôi qua. Tiếng thơ của bà vì thế vừa là những hoài niệm ngậm ngùi, vừa là tiếng
nói âm thầm phản kháng những gì làm mất mát vẻ đẹp của Thăng Long.
Rõ ràng thơ Bà Huyện Thanh Quan không da diết một nỗi đau nhân tình
như trong thơ Nguyễn Du, cũng không có niềm khao khát sống như trong thơ
Xuân Hương. Có điều mảnh tình riêng băn khoăn trống trải trong thơ bà đã đi từ
tình cảm thương nhà, thương mình đến một tình cảm rộng lớn là niềm thương
nhớ nước. Với nhà thơ nữ tên tuổi này, mối quan tâm đến thời cuộc và chính sự
đã trở thành một nỗi niềm sâu sắc mà kín đáo. Nỗi niềm đó khi thì được thể hiện
bằng nỗi cô đơn trước cảnh phế hưng:
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Chùa Trấn Bắc)
Khi thì được thể hiện bằng tấm lòng ai hoài cố quốc:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua Đèo Ngang)
Không còn đâu âm hưởng hào hùng vốn có trong những vần thơ của các
tác giả thời Trần, thời Lê khi giai cấp phong kiến đang ở thời kì thịnh trị. Những
hoài niệm ngậm ngùi đã thấm sâu vào thơ Bà Huyện Thanh Quan một âm hưởng
buồn thương man mác, phảng phất như có nỗi u hoài của người dân mất nước.
Phải chăng, nước đã thu về một mối trong tay nhà Nguyễn nhưng đó không phải
là “nước cũ” trong niềm tự hào của những người yêu nước chân chính. Nếu với
Trần Minh Tông đời Trần, ngay cả đến ráng đỏ của buổi chiều cũng gợi nhớ
những chiến công của dân tộc:
Giang sơn sau trước hai phen rạng,
Hồ Việt hơn thua một chớp bày.
Đỏ rực ráng chiều in đáy nước,
Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây.
48
(Bạch Đằng Giang)
thì với Bà Huyện Thanh Quan, bóng chiều thường hắt hiu tàn tạ gợi dậy
một niềm thương nhớ cũ. Nỗi buồn trong thơ quả có cái nhạy cảm của tâm hồn
thi sĩ, có cái sâu sắc, kín đáo của một tình cảm riêng tư, song không thể không kể
đến tình cảm quán xuyến trong khá nhiều bài thơ của bà, đó là nỗi buồn thời đại,
niềm đau trước thế sự tang thương:
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Vẫn là cảnh đấy người đây nhưng là một sự hòa nhập trọn vẹn: tâm sự
buồn khiến cho bà nhìn vào cảnh vật thì cảnh vật cũng nhuốm màu tiêu sơ của
tâm trạng. Nhưng dù thất vọng trước thực tại, cô đơn với nỗi niềm riêng, thơ Bà
Huyện Thanh Quan không bao giờ có nỗi buồn tuyệt vọng hay nỗi đắng cay
khắc nghiệt với cuộc đời. Ngay cả khi nhìn vào hí trường của xã hội phong kiến
và đau lòng trước sự thay màn đổi lớp của các triều đại, bà vẫn một niềm yêu
mến thiên nhiên đất nước và có khi còn cảm nhận được sự vững vàng “trơ gan
cùng tuế nguyệt” của thiên nhiên trước mọi đổi thay của thời thế.
Nếu so sánh với Đường thi và thơ Nôm Đường luật ở những thế kỉ trước
chúng tôi thấy hệ thống đề tài chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của các tác gia
thế kỉ XVIII – XIX nói chung và thơ Bà Huyện Thanh Quan nói riêng có sự khác
nhau ở những nét cơ bản, ngay cả khi cùng xuất phát từ một đề tài giống nhau
như đề tài thiên nhiên chẳng hạn – chúng vẫn mang những hình thức khác nhau
trong vẻ đẹp và sự khác biệt về chủ đề.
Cũng như Đường thi, sơn thủy hữu tình bao giờ cũng là nguồn cảm hứng
vô tận của thi ca. Sự hiện diện của thiên nhiên trong thơ Nôm Đường luật chứng
tỏ thiên nhiên là một loại đề tài vĩnh cửu luôn phát ngôn cho những tâm sự, nhất
là những tâm sự u uẩn, có khả năng làm khuây khỏa những nỗi buồn. Nó là cái
đẹp, là cõi bình yên có thể làm lắng dịu những bão giông của cuộc đời con
người, nhất là trong xã hội cũ. Cách xử lí đề tài thiên nhiên thường có một nét
49
chung là chọn lọc để miêu tả một số nét tiêu biểu gợi lên bản chất, cái thần của
cảnh vật, đồng thời những cảnh thiên nhiên ấy luôn thấp thoáng bóng dáng con
người. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, thiên nhiên có những nét u hoài rất
Đường thi, đẹp như những bức tranh thủy mặc:
Thánh thót tàu tiêu mấy giọt mưa
Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
(Tức cảnh chiều thu)
Nét bút tả cảnh ở đây là thi trung hữu họa, nhẹ nhàng thoáng qua như nét
cọ của một họa sĩ tài hoa vừa thâu tóm cái hồn của cảnh vật:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
(Qua Đèo Ngang)
Hầu hết trong thơ của bà, chúng ta có thể tìm thấy những đường nét hao
hao giống tám bức cổ hoạ của Trung Hoa: Bình sa lạc nhạn (đàn chim nhạn bay
xuống bãi cát), Sơn thị tình lam (cảnh chợ chiều dưới chân núi), Viễn phố quy
phàm (thuyền buồm ở phố xa về), Ngư thôn tịch mịch (cảnh xóm thuyền chải
buổi chiều), Sơn tự hàn chung (tiếng chuông chùa văng vẳng trên núi), Động
Đình thu nguyệt (trăng thu trên hồ Động Đình), Giang biên mộ tuyết (cảnh gần tối
tuyết sa ở bên sông), Tiêu Tương dạ vũ (cảnh đêm mưa trên sông Tiêu Tương).
Đôi khi, cảnh chỉ là ước lệ nhưng lại khêu gợi được tình cảm của con người:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Như vậy là thiên nhiên trong mảng thơ này luôn thống nhất với con người.
50
Thiên nhiên và con người – hoặc là những gì mang tính chất con người – soi vào
nhau, hòa vào nhau, đồng hóa lẫn nhau. Con người trước thiên nhiên thường gán
cho thiên nhiên cái tâm sự của mình. Ngay cả trong thơ Hồ Xuân Hương, trong
bức tranh thiên nhiên có cái nét sinh động kì lạ, nhiều màu sắc, có khi bật dậy
những nỗi bực dọc, ngỗ ngược nhưng bên trong lúc nào cũng ẩn chứa những u tình:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
(Tự tình, II)
Thiên nhiên trở thành bầu bạn, thành tri âm tri kỉ, gần gũi thân quen,
mang linh hồn, tư tưởng như con người, thậm chí có khi con người không những
gửi gắm tình cảm suy nghĩ của mình cho thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu
bạn, mà còn như biến mình vào thiên nhiên, làm một mảnh vụn của thiên nhiên,
tan hẳn vào thiên nhiên. Đọc Qua Đèo Ngang, người ta chẳng thấy hình bóng
một người phụ nữ một mình đối diện với thiên nhiên, gởi gắm tâm tình của mình
trong ấy và cô đơn đến như muốn hòa cả vào thiên nhiên đó sao:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Mặt khác, thơ Nôm Đường luật ở Bà Huyện Thanh Quan lại có những nét
đặc trưng không thấy ở Đường thi. Thứ nhất, thiên nhiên trong thơ bà là thiên
nhiên – cụ thể chứ không hẳn chỉ là thiên nhiên – quan hệ như ở Đường thi, là
thiên nhiên – khách thể chứ không chỉ là thiên nhiên – chủ thể. Đọc thơ bà có thể
bắt gặp hàng loạt những địa danh, thắng cảnh của thiên nhiên đất nước Việt Nam
như Đèo Ngang, thành Thăng Long, chùa Trấn Bắc, đài Khán Xuân, chùa Trấn
Vũ…Thứ hai, thiên nhiên trong thơ Bà Huyện Thanh Quan không phải luôn bất
biến, đúng như Chế Lan Viên có lần từng nói: “Dù tả một làn mây, cũng là mây
thời đại”. Thật vậy, trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, thiên nhiên dường như
thiên về tính chất trữ tình – cá nhân và trữ tình – thế sự.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn là những bức tranh vẽ cảnh tàn tạ nữa. Đề
tài của bà gói trọn trong mấy yếu tố chính: chiều tà, cảnh hoang vu, cảnh điêu
tàn, cảnh thu. Tất cả là cảnh đi xuống và tàn tạ. Trong thi văn, nhất là thi văn
51
phương Đông, chiều là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ: từ ca dao, qua
thơ cổ, thơ Đường, thơ mới, mỗi khi lòng khơi sầu, khơi nhớ, thi nhân không
mấy ai chối bỏ yếu tố hấp hối của buổi chiều…Huống nữa Bà Huyện Thanh
Quan lại gắn liền thời gian với không gian đổ nát: một tòa thành cổ, một ngôi
chùa hoang vắng, một cảnh đèo heo hút, hoang vu…Có lẽ cảnh vật đã nhuốm
màu tâm trạng của chính nhà thơ, bởi bà là người quý mến quá khứ, một quá khứ
đã vụn nát. Bà cô độc ở cái hiện tại không thích hợp và đôi khi muốn trốn tránh
nó, thoát ra khỏi nó. Trước mắt bà hầu như chỉ có: hồn thu thảo, bóng tịch
dương, bóng xế tà, viễn phố, cô thôn. Những hình ảnh, âm thanh đó tạo nên
những ấn tượng buồn sầu, tàn tạ. Tình và cảnh trong thơ là hai yếu tố thâm nhập
dung hòa tạo nên những kích động sâu xa cho người đọc, nhìn cảnh qua tấm lòng bi
thương chán chương, cảnh điêu tàn ủ rũ ở ngoài càng làm cho tình thêm đau xót.
Cũng giống như nhiều tác giả văn học nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế
kỉ XIX, thơ Bà Huyện Thanh Quan còn hướng tới đề tài tự vịnh, tự thuật và chủ
đề tâm sự, khát vọng cá nhân. Thật ra ở những thế kỉ trước, trong những bài thơ
tự thuật, cảm hoài, ngôn hoài, thuật hoài…nhà thơ nói về tâm sự của mình nhưng
dường như chủ yếu vẫn là những nét rất chung, nặng về đạo lý, cho nên có thể
nói có tâm sự, tâm trạng nhưng không phải là tâm trạng riêng tư, nhân vật trữ
tình chưa phải là cái tôi trữ tình. Đến cuối thế kỉ XVIII, nhà thơ Nguyễn Gia
Thiều có những dòng thơ tức khẩu về một mối tình riêng hết sức tự nhiên, bình dị:
Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào
Miếng tình nghẹn mãi biết làm sao?
Muốn kêu một tiếng cho to lắm
Rằng ối ai ôi, nó thế nào
(Khối tình)
Vào cuối thế kỉ XVIII và nhất là đầu thế kỉ XIX như là có sự bùng nổ về
đề tài số phận cá nhân, đặc biệt là số phận người phụ nữ, những con người tài
hoa và những khát vọng chân chính như khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng
tình yêu, hạnh phúc…Sự phát hiện ra con người cá nhân đối lập với con người
của quan hệ phong kiến Nho giáo, vấn đề giải phóng cá nhân, những đòi hỏi
52
hưởng thụ cá nhân trở thành chủ đề nổi bật của thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX,
chưa từng có trong Đường thi, Đường luật Hán, và cả Đường luật chữ Nôm ở
những thế kỉ trước.
Lý giải hiện tượng thơ Bà Huyện Thanh Quan lâu nay nhiều ý kiến vẫn
cho rằng bà thuộc lớp người mang tâm sự hoài Lê. Vì thương nhớ nhà Lê mà
không đậm đà với nhà Nguyễn, thậm chí đứng giữa sân chầu nhà Nguyễn mà
lòng vẫn nhớ những ngày vàng son Thăng Long cũ. Sự phân tích ấy có thể đúng
với Nguyễn Du, hoặc những nhà thơ khác có nhiều gắn bó với nhà Lê xưa. Song
với Bà Huyện Thanh Quan thì không chắc chắn. Bà sống vào khoảng sáu, bảy
thập niên đầu của thế kỉ XIX, dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Bấy giờ, vương triều nhà Nguyễn đã vững vàng, đã được khẳng định là một triều
đại chính thống trong lịch sử, đủ tư cách đại diện cho quốc gia để đến vài thập
niên sau, những người trí thức có lòng tự trọng chỉ còn mong giữ được danh hiệu
là “quan nhà Nguyễn”:
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.
(Nguyễn Khuyến – Dặn con)
Bà Huyện Thanh Quan và chồng đều làm quan nhà Nguyễn, chưa có tư
liệu nào đủ chứng tỏ sự gắn bó sâu nặng của gia đình bà với vương triều Lê. Vả
chăng nếu có thì bà cũng không thuộc thế hệ có quá nhiều ràng buộc với quá
khứ. Lại nữa, nữ thi sĩ đã từng có lúc vui, từng khẳng định cõi “cực lạc” giữa
cuộc đời này. Vậy thì có thể lí giải tậm sự u hoài, nét thay đổi lớn lao trong tâm
trạng nữ sĩ bằng một nguyên nhân nào khác chăng? Rõ ràng trong cả sáu bài thơ
còn lại của bà đều không thấy nữ sĩ có bạn. Nhưng đặc biệt ở các bài: Qua Đèo
Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà, nữ sĩ rất cô đơn, bà chỉ có một
mình. Và nếu để ý ta thấy hầu hết các bài thơ của bà đều kết thúc với một mảnh tình:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
53
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu
(Chùa Trấn Bắc)
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang)
Kẻ chốn chương đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Ô hay cảnh cũng ưa người nhỉ!
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
(Tức cảnh chiều thu)
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
(Chiều hôm nhớ nhà II)
Phải chăng Lưu Ôn không thể là một người chồng tri kỉ? Hay chăng
những ngày xa nhà, dù là đi làm quan thì đối với một người đàn bà cũng có biết
bao nhiêu nỗi niềm. Hay phải chăng Lưu Ôn sớm qua đời, cảnh góa bụa đã khiến
bà đơn chiếc và luôn luôn nhớ về một quá khứ không bao giờ trở lại? Hai giả
thiết sau có vẻ nhiều cơ sở hữu lí hơn. Mặc dù ở hai bài Thăng Long hoài cổ và
Chùa Trấn Bắc, cái ý nghĩa xã hội, cái hoài cảm về sự hưng vong khá rõ. Tuy
nhiên, vẫn có thể nghĩ rằng nữ sĩ Thanh Quan từ bi kịch cá nhân mình có thể liên
tưởng xa rộng đến những vấn đề căn bản, chung nhất của cuộc đời trần thế. Đó
là sự biến thiên, sự đổi đời của thiên nhiên, xã hội, nó như một quy luật khắc
nghiệt, cứ vận hành mà con người không có cách gì ngăn giữ được. Sự biến thiên
đó nhiều khi có sức tàn phá thật dữ dội, nó khiến cho những ai có lòng nhân ái,
có trái tim dễ rung cảm phải nuối tiếc xót xa. Hơn nữa, bài Thăng Long hoài cổ
từng còn mang tên là Quá phu quân cố lị cảm tác (Qua chốn chồng làm quan
cũ). Và nếu quả đúng bài thơ ban đầu có tên như thế mà người sao chép Xuân
Hương thi tập tìm được thì lại càng chứng tỏ nữ sĩ đang nghĩ về cảnh ngộ của
54
mình, những kỉ niệm riêng tư và một thời gia đình hạnh phúc. Nhìn chung thì để
dẫn đến một tâm trạng có thể bởi rất nhiều nguyên nhân, hà tất chỉ là nỗi lòng
người đó gửi gắm cho một triều đại nào!
Trong tương quan với Hồng Đức quốc âm thi tập và thơ Nôm Đường luật
thế kỉ XVI – XVII, xét trên phương diện đề tài của thơ Nôm Đường luật thời kì
này có thể thấy rõ xu hướng giảm dần đề tài chủ đề mang nội dung Nho giáo,
đặc biệt là đề tài triết lý nhân sinh, răn dạy đạo lý. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương,
Bà Huyện Thanh Quan và Tú Xương ít xuất hiện đề tài triết lý nhân sinh, răn dạy
đạo lý. Đề tài này ở thơ Nôm Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến cũng rất mờ
nhạt (thơ Nôm Nguyễn Công Trứ có 3/25 bài, thơ Nôm Nguyễn Khuyến có 2/70
bài).
Lý giải hiện tượng giảm dần đề tài Nho giáo trong thơ Nôm thời kì này
trong tương quan với thơ Nôm thế kỉ XV, XVI cần chú ý đến đời sống tư tưởng
và quan niệm văn học của tác giả. Có thể nói, ở thế kỉ XV, XVI, các tác giả đang
sống trong giai đoạn mà niềm tin vào khả năng xây dựng thế giới của đạo Nho
vẫn còn rất mạnh. Và người cầm bút bằng sáng tác của mình phải chuyển tải
được đạo lý Nho giáo, hướng tới ổn định trật tự xã hội và xây dựng nền thái bình
thịnh trị. Nhưng từ đầu thế kỉ XVII trở đi, nhất là bước vào thế kỉ XVIII các nhà
văn nhà thơ đã không còn nhiều niềm tin ở đạo Nho nữa, nhiều người cảm thấy
vỡ mộng về những học thuyết, đạo lý mà họ từng theo đuổi. Sự thay đổi trong
nhận thức tư tưởng đó đã đưa đến những thay đổi về bản chất, chức năng văn
học dẫn đến sự đổi mới trong sự lựa chọn đề tài, chủ đề cũng như xây dựng hệ
thống nhân vật, ngôn ngữ. Như vậy, trong sự biến đổi chung của lịch sử thời đại,
sự biến đổi của đời sống tư tưởng và quan niệm văn học, thơ Nôm Đường luật
cũng nằm trong quy luật vận động, biến đổi ấy. Vì thế, nếu quan niệm văn học
chính thống thế kỉ XV, XVI là “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí”, thì đến đây chủ
yếu đã chuyển sang quan niệm thơ nói tình, hướng về những vấn đề thiết thực,
những khát vọng trần tục của đời sống con người. Chẳng hạn:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
55
Năm thì mười họa chăng hay chớ.
Một tháng đôi lần có cũng không”
(Hồ Xuân Hương – Làm lẽ).
Hay:
“Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi.
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi.
Nhắn con tạo hóa xoay thời lại.
Để khách tang bồng rộng đất chơi”
(Nguyễn Công Trứ - Đời người thấm thoắt)
Sự thay đổi quan niệm và chức năng văn học dẫn đến sự thay đổi ý thức
hệ ở người cầm bút, vì thế trong thơ Nôm thời kì sau này còn xuất hiện một đề
tài không được xem là chính thống của văn chương nhà nho: đề tài hành lạc theo
mẫu nhà nho tài tử trong thơ Nguyễn Công Trứ. Hành lạc với họ đồng nghĩa với
những thú chơi thanh tao thuộc về nghệ thuật để di dưỡng tính tình. Chẳng hạn,
các tác giả Hồng Đức đã viết: “Tuyết nguyệt phong hoa xui hứng khách. Cầm kì
thi tửu gợi lòng người” (Vịnh bát khởi ngâm). Nhưng với Nguyễn Công Trứ,
hành lạc vừa có yếu tố truyền thống, vừa có “yếu tố phi truyền thống”. Chẳng hạn:
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó.
Đàn còn phím trúc tính tình đây.
Ai say ai tỉnh ai thua được.
Ta mặc ta mà ai mặc ai
(Nguyễn Công Trứ - Cầm kì thi tửu)
Như vậy có thể thấy, mặc dù tác phẩm chỉ còn lại rất ít song thơ Bà Huyện
Thanh Quan vẫn rất phong phú về đề tài, chủ đề. Bên cạnh những đề tài về thiên
nhiên, về người phụ nữ với những tâm sự cá nhân, thơ của nữ sĩ còn thể hiện sự
quan tâm đến thời cuộc và chính sự qua đề tài vịnh sử Nam. Đóng góp ấy của nữ
sĩ góp phần làm phong phú thêm nội dung cho văn học trung đại thế kỉ XIX và
56
càng khẳng định vị trí của nữ sĩ trong văn chương chữ Nôm thế kỉ này.
2.2.2. Về cảm hứng chủ đạo và hình tượng cơ bản
2.2.2.1. Về cảm hứng chủ đạo
Xưa nay nhiều nhà phê bình văn học đã xếp Bà Huyện Thanh Quan vào
khuynh hướng hoài cổ bởi tất cả các bài thơ của bà đều xuất phát từ cảm hứng
này. Nhà nghiên cứu văn học Lã Nhâm Thìn cho rằng: “Ở giai đoạn cuối của văn
học trung đại Việt Nam thì sự xuất hiện gương mặt hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan là hợp lý, hợp quy luật. Bởi lẽ vào thời điểm tiễn đưa một triều đại vàng
son đã từng vang bóng trở thành quá khứ thì nỗi niềm bâng khuâng nuối tiếc
càng sâu sắc cũng là lẽ tự nhiên. Chính ở giai đoạn cuối thời trung đại, tiếng nói
hoài cổ càng có sức tỏa lan, vang vọng bởi độ dài của thời gian lịch sử, bởi độ
rộng của không gian quá vãng. Tất cả đã hội tụ lại trong tiếng thơ Thanh Quan”.
[41, 221]. Trước cảnh hoang tàn của đất Bắc thời nhà Nguyễn, bà đau lòng tiếc
nhớ một quá khứ xa xưa, một quá khứ có lẽ chính bà cũng không tường tận lắm
và cũng chưa thụ hưởng ân huệ gì, nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia
đình, của quê hương mình, cho nên tình cảm dễ nhuốm màu hoài niệm. Là người
giàu tình cảm như Bà Huyện Thanh Quan làm sao quên được Thăng Long quê
hương bản quán, đất đế kinh ngàn năm văn vật.
Không còn thấy những cung son điện ngọc, mà chỉ còn trơ lại những cột
gãy tường xiêu, sân rêu mái đổ, bà phải cất tiếng kêu:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
(Thăng Long hoài cổ)
Một quá khứ vàng son đã biến đi đâu mất chỉ còn lại cỏ mùa thu trên đường
mà ngựa xe vắng bóng, chỉ còn bóng chiều tà trên sân khấu của văn võ bá quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Hơn nữa Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại đầy biến động
với những cuộc nội chiến triền miên: Nhà Lê/Mạc, vua Lê/chúa Trịnh, Tây
Sơn/Nguyễn Ánh. Bởi vậy thi nhân trách con tạo biến cuộc đời thành sàn diễn
57
(hý trường) của những đổi thay. Ngày tháng trôi đi kéo theo những đổi thay của
thế giới con người, còn tự nhiên thì vẫn bất biến (trơ gan, cau mặt), soi vào tấm
gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống con người càng trở nên giả tạm và
thoáng chốc. Con người đối diện với cảnh tượng này (cảnh đấy, người đây) được
thức nhận, tỉnh táo nhưng chính vì thế mà cũng đau khổ hơn và cô đơn hơn. Ở
bài thơ này, cảm hứng hoài cổ hiện lên từ nhan đề “Thăng Long hoài cổ” cho
đến từng câu chữ, hình ảnh: “dấu xưa xe ngựa”, “nền cũ lâu đài” và nó cũng
mang một đặc điểm riêng: con người hướng về quá khứ nhưng không phải để
trốn tránh hiện tại mà là để tìm lại mình, khẳng định mình trong hiện tại. Ý nghĩa
nhân bản trong cảm hứng hoài cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan phải chăng là ở đó?
Chú ý rằng nhà Nguyễn, nhất là ở đời Gia Long rất khao khát được thừa
nhận là kẻ thừa kế chính thống và chính đáng của nhà Lê. Nhà Nguyễn chỉ triệt
để phủ định Tây Sơn, phủ định bán phần đối với họ Trịnh còn với nhà Lê cố
gắng giữ vẻ nuối tiếc, xót thương. Vậy nên Qua Đèo Ngang mới công khai bày
tỏ nỗi ưu tư, quyến luyến với “nước cũ” mà vẫn được triều đình nhà Nguyễn và
tầng lớp “tri thức đời mới” chấp nhận, không hề có hành vi làm khó dễ.
Như vậy có thể khẳng định cảm hứng chủ đạo bao trùm hầu như toàn bộ
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan chính là tâm trạng hoài cổ. Nó tạo nên ở thơ
bà nét bàng bạc, u hoài khó lẫn và cũng rất phù hợp với nét tính cách đài các,
nghiêm nghị ở người phụ nữ này.
2.2.2.2. Về hệ thống hình tượng nghệ thuật.
Trong giáo trình Thi pháp học, Trần Đình Sử viết: “Tác phẩm nghệ thuật
là một thế giới – thế giới nghệ thuật. Đã là thế giới thì có con người tồn tại và
vận động trong không gian và thời gian” [56, 38]. Như vậy nếu quan niệm hình
tượng nghệ thuật là “sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo
hiện thực theo quy luật của nghệ thuật” thì khi nói về hình tượng – tức hình
tượng nghệ thuật là nói về hình tượng tác giả, hình tượng nhân vật (hay hình
58
tượng con người), hình tượng không gian và hình tượng thời gian.
2.2.2.2.1. Hình tượng nhân vật trung tâm.
Trong thời kỳ ổn định và phát triển của nhà nước phong kiến, mối quan
tâm hàng đầu của văn học chính là hình tượng con người công dân gắn bó với
những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và công cuộc xây dựng đất
nước. Ý thức trách nhiệm, những tình cảm công dân lớn lao được đặc biệt đề
cao. Bên cạnh đó, con người cá nhân với ý thức cá tính, tài năng với nhu cầu tự
khẳng định và khát vọng mãnh liệt về tự do, tình yêu, hạnh phúc lại là hình
tượng trung tâm của các tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự
chuyển biến từ chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người công dân đến
chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét đặc
trưng của văn học Việt Nam trung đại. Con người cá nhân trong văn học là sự
phản ánh cái tôi của tác giả, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm
riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự
tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những
tác phẩm mà họ sáng tác. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan ta thấy một cái tôi cá
nhân cô đơn đến nao lòng, chỉ một mình mình biết, một mình mình hay. Bóng
dáng người phụ nữ cô độc với ngổn ngang nỗi cảm hoài là hình tượng trung tâm
trong sáng tác của nữ sĩ.
Có thể nói người phụ nữ chính là hình tượng nhân vật trung tâm trong
sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. Nếu ở những thế kỉ trước, người phụ nữ
vẫn xuất hiện nhưng chủ yếu được sáng tác theo tinh thần “văn dĩ tải đạo”, “thi
ngôn chí” thì người phụ nữ trong sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan và Hồ
Xuân Hương lại được xây dựng từ chính cuộc đời từng trải và những nghiệm suy
về cuộc sống của họ. Với Hồ Xuân Hương, nó là sự uẩn ức, bế tắc không giải thoát
được trong con người, bật lên thành những vần thơ nghịch ngợm, quấy phá, chống
đối còn ở Bà Huyện Thanh Quan lại là những suy ngẫm rất sâu xa về thời thế và
những uẩn khúc tâm tình qua những vần thơ hết mực đài các, trang nghiêm.
Tình cảm của người phụ nữ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan hướng về
hai đối tượng: là dĩ vãng và gia đình. Người đàn bà vốn hay ngoái lại dĩ vãng, dù
59
chỉ là một thứ dĩ vãng mơ hồ:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Bà tiếc một dĩ vãng không rõ rệt, không có bằng cớ gì để nói bà luyến tiếc
nhà Lê. Hoài cổ trong Bà Huyện Thanh Quan phải chăng chỉ là một lối mơ
mộng, một lối giải thoát? Nhớ thương quá khứ, nhất là cái quá khứ của người
khác, hoặc là quá khứ tưởng tượng là đặc tính của một tình cảm ủy mị, yếu đuối:
tình cảm đàn bà. Lối hoài cổ là biện pháp thoát tục của Bà Huyện Thanh Quan
song bà còn tìm một hạnh phúc khác trong tục lụy của hiện tại, là hạnh phúc gia
đình. Bà thường nhớ nhà và nhớ quê hương:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Nỗi nhớ nhà nhớ quê không phải chỉ riêng gì người phụ nữ mới có, nhưng
lòng nhớ nhung ấy là một ám ảnh thường xuyên trong thơ Bà huyện Thanh
Quan. Gia đình đối với bà, là một nhu cầu tâm lý cần thiết; không những nhớ mà
thôi, mà còn đòi hỏi một cách thiết tha và cấp bách:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Một tình cảm tế nhị nhưng đằm thắm, có lẽ chỉ có người đàn bà mới có
những rạo rực sâu xa và sôi nổi như thế. Tả nỗi nhớ nhung của một phụ nữ,
Nguyễn Du có những câu tuyệt khéo:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
Nhưng Nguyễn Du chỉ tả được cái dáng điệu nhớ nhung hoặc cái ý tưởng
nhớ nhung như khi Kiều nhớ người yêu, còn nỗi hoài mong thật sự, trong sự rộn
rực của từng thớ thịt phải là người đàn bà mới cảm thấy và diễn tả nổi. Khi
mượn dĩ vãng và gia đình làm điểm bấu víu, Bà Huyện Thanh Quan để lộ ra hai
tâm trạng: niềm e sợ thời gian trôi qua và sự cô đơn lạnh lẽo. Run sợ thời gian là
tâm trạng đặc biệt của phụ nữ thời xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên đi sớm về trưa một mình.
60
(Ca dao)
Ý niệm thời gian cũng rất dồi dào trong Chinh phụ ngâm. Đặng Trần Côn
và Đoàn Thị Điểm đã mô tả rất sát tâm sự của một người đàn bà nóng lòng trước
bóng câu qua cửa sổ:
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc mà ra nạ dòng
Bà huyện Thanh Quan khi nghĩ tới quá khứ, thường đau xót, và thỉnh
thoảng giật mình run sợ, run sợ đến đứt ruột:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Không thể hiểu bà tiếc thành Thăng Long đến “đoạn trường”, tình cảm
nhức nhối đó phải có liên hệ trực tiếp đến thân phận mới làm bà thốt lên tiếng
nấc cuối cùng thảm thiết như thế. Nỗi run sợ thời gian đó, chúng tôi cho là một
khía cạnh của nữ tính ngày xưa. Trong tâm sự của nam giới, có lúc tính nhẩm
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” như Cao Bá Quát, nhưng đó chỉ là cớ hưởng thụ
hối hả cuộc đời, chứ không phải là niềm đau nhức của tâm tư trước bước chân
vội vã của thời gian.
Đồng thời với niềm e ngại trước cuộc sống mong manh, Bà huyện Thanh
Quan còn ghi lại niềm e ngại phải cô đơn hiu quạnh. Thơ Bà Huyện Thanh Quan
phần lớn đều mang âm hưởng buồn. Âm hưởng ấy gợi ra từ cảnh chiều tà bóng
xế, vắng lặng đìu hiu. Nhưng dường như cảnh trong thơ bà không còn là đối
tượng để thưởng ngoạn nữa mà nữ sĩ chỉ mượn cảnh để nói lên nỗi nhớ nhà khắc
khoải, nỗi đau “cảm cổ thương kim” và sự xót xa một quá vãng đã mất. Hằn lên
rõ nét hơn cả là tâm trạng cô đơn – cô đơn đến tuyệt đối. Ở Bà Huyện Thanh
Quan bây giờ là “nỗi niềm tâm sự” không được chia sẻ. Giữa bà với thế nhân là
một sự gián cách:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
61
(Chiều hôm nhớ nhà)
Hoặc:
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!
(Chùa Trấn Bắc)
Ngay cả với thiên nhiên, nhà thơ cũng không còn tìm thấy sự giao hòa,
nơi gửi gắm như phần lớn các tác giả trong truyền thống thơ phương Đông mà
vẫn là sự chia biệt đấy, đây (mặc dù không đến nỗi đối lập):
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Đỉnh cao của trạng thái cô đơn có lẽ được thể hiện ở bài Qua Đèo Ngang.
Thiên nhiên trải ra trước mắt bà bao la, tràn đầy âm thanh màu sắc. Rõ ràng tự
bản thân chúng không tiêu điều xác xơ, chúng hòa quyện với nhau, điểm xuyết
cho nhau: “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” và trong ánh chiều vang vọng tiếng
chim, rồi thêm vào đó là bóng dáng con người: dưới chân núi mấy chú tiều phu
hái củi, bên sông thấp thoáng mấy quán chợ…Vậy mà trước tâm trạng nữ sĩ, tất
cả bỗng trở nên xa vắng, khắc khoải. Đến khi bà “dừng chân đứng lại” thì vũ trụ
đã không còn hòa hợp “nước lẫn trời” như xưa mà chia ra từng khoảng riêng rẽ:
trời, non, nước. Và nữ sĩ đơn độc, một mình với tâm sự riêng mình:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Thực ra mỗi con người là một thế giới nhỏ, vì thế không thể lúc nào cũng
sẵn tri âm, cho nên tâm trạng cô đơn, nỗi buồn riêng là điều từng gặp trong thơ
cổ. Có điều khắc nghiệt lạnh lùng đến như Bà Huyện Thanh Quan thì không
nhiều. Đã từng có vị sư chùa Đọi của Nguyễn Khuyến sống cách biệt hẳn với
trần thế nhưng vẫn còn có khói mây:
Sư cụ nằm chung với khói mây
(Tức cảnh chùa Đọi)
Đã từng có những đêm Tú Xương một mình với ngọn đèn xanh trong
tiếng trống cầm canh thưa thớt, nhưng Tú Xương vẫn có một người bạn phương
trời để nhớ:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm nhớ ta không?
62
(Nhớ bạn phương trời)
Cũng từng có những đêm nào đó Hồ Xuân Hương bớt dữ dội hơn, đối mặt
với riêng mình, nhưng dù không còn ai để nhớ thương, thậm chí để khinh ghét
thì bà vẫn còn cùng với non nước:
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
(Tự tình)
Chỉ có Bà Huyện Thanh Quan thì không. Bà chịu đựng nỗi buồn một
mình và tâm hồn bà dường như khép lại, lặng lẽ. Tư thế nữ sĩ đứng sững trên
đỉnh Đèo Ngang trong chiều tà là một hình tượng độc đáo trong văn học cổ. Tác
giả tạc tượng nỗi cô đơn của mình vào đất trời, vũ trụ. Đành rằng trong thơ cổ
không hiếm những bài thơ về đề tài “lên cao”. Lý Bạch ngồi một mình trên núi
Kính Đình (Độc tọa Kính Đình sơn), Trần Nhân Tông trên núi Bảo Đài (Đăng
Bảo Đài sơn), Nguyễn Trãi trên non Yên Tử (Vịnh Yên Tử sơn Hoa Yên
tự)…Nhưng trong những tác phẩm loại ấy phần lớn mối quan hệ giữa tác giả và
thiên nhiên thường vẫn bộc lộ sự giao hòa và dẫu có buồn thì nó vẫn thể hiện cái
hùng, cái mạnh của bậc mày râu. Nó vẫn rất khác với sự đơn độc, lẻ loi đến nao
lòng của một “nhi nữ” trên Đèo Ngang giữa cung đường nghìn dặm.
Vậy tình cảm nồng nàn và thắm thiết đó của nữ sĩ được diễn tả bằng cách
nào? Trước hết là qua những cảm giác của tác giả. Bà huyện Thanh Quan ưa
ngắm cảnh vật vào những lúc thiếu ánh sáng, một buổi hoàng hôn còn sót lại một ít
nắng tà bảng lảng, hay một ngày mưa lác đác. Đó là thứ không gian mờ nhạt, ảm đạm
hay ẩm đục, khác với những khoảng “trời xanh ngắt” của Nguyễn Khuyến.
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Âm thanh trong cảnh vật ảm đạm ấy là một thứ âm thanh buồn bã như
tiếng mưa nhỏ đều trên những tờ lá chuối, hay thê thảm hơn nữa là tiếng trống
rời rạc, tiếng tù và bi thiết. Những âm thanh xa xăm, lạc loài ấy càng gợi thêm ấn
tượng vắng vẻ và quạnh hiu.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
63
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Cảnh vật trong thơ Bà huyện Thanh Quan là thứ cảnh vật nhìn dưới nhãn
quan của phái yếu. Những xao xuyến nhẹ nhàng thầm kín trong tâm tư phải đi
tìm những nét buồn vời vợi, mông lung. Phong cảnh ở đây không thể là một vật
rõ rệt, mà phải là một miền khoáng dã, một bãi bình sa, phải là một cảnh vừa
mênh mông vừa mơ hồ mới có thể biến chuyển theo nhịp thở của tâm tư, và
phản chiếu những màu sắc của nội giới. Như thế, vũ trụ ảm đạm kia là một nhu
cầu của nữ tính: một vũ trụ êm ả, mềm yếu, thầm lặng vì được nhận thức qua
những giác quan cũng êm ả, mềm yếu, thầm lặng như thế, nghĩa là những giác
quan của đàn bà. Tả cảnh mưa gió, Bà huyện Thanh Quan chọn một tàng cây
đứng dầm mưa, và tàng cây ấy có một vẻ đẹp đặc biệt, một vẻ đẹp rũ rượi, ủ ê,
rất phù hợp với tâm tính yếu đuối của người đàn bà.
Thấp thoáng tàu tiêu mấy hạt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ
(Tức cảnh chiều thu)
Phong cảnh trong thơ Thanh Quan là những đường nét mênh mông, mơ
hồ, màu sắc rộng rãi nhưng mờ nhạt, âm thanh u hoài và xa vắng; ngoài ra còn
có cảm giác ẩm ướt, lạnh lẽo bao trùm cả bài thơ: Người đọc cảm thấy rõ cảm
xúc của một người đa cảm, một người đàn bà. Bức tranh của Bà huyện Thanh
Quan vừa là một bức tranh thiên nhiên tả thực, cũng lại mang những nét thuỷ
mặc chấm phá. Có thể nói đó là những bức tranh rất ấn tượng, phảng phất một ít
u sầu lãng mạn. Bà huyện Thanh Quan là nhà thơ của những cảm giác, và của
một thứ cảm giác nào đó, thuần tuý phụ nữ. Đó là đặc tính của sự nhận thức phụ
nữ, của nỗi buồn phụ nữ. Một lần nữa khuôn mặt người đàn bà muôn thuở lại
thoáng qua trong tâm hồn người đọc.
2.2.2.2.1. Hình tượng không gian
Hình tượng không gian hay không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về
không gian, nên mang tính chủ quan. Nó là yếu tố quan trọng góp phần xác lập
thế giới nghệ thuật của thể loại, và tất nhiên “các yếu tố của hình tượng chỉ có ý
64
nghĩa trong thế giới nghệ thuật của nó” [20, 202]. “Sự miêu tả, trần thuật trong
nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn
nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính, bộc lộ toàn bộ quảng tính
của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần,
rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật [20, 109]. Nghiên cứu hình tượng
không gian nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX có thể tìm thấy quan
niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của nhà thơ đồng thời của một giai đoạn văn
học hậu kì trung đại. Nó cũng góp phần cho thấy tính độc đáo, đặc trưng của thế
loại thơ Nôm Đường luật. Cũng như nhiều thể loại khác, ngoài không gian vật
thể còn có không gian tâm tưởng: không gian của cảm xúc, của hồi tưởng, của
ước vọng…Ở đây chúng tôi nhận thấy hai lớp không gian nổi bật trong thơ Bà
Huyện Thanh Quan đó là không gian vũ trụ và không gian lữ thứ.
Không gian vũ trụ
Chịu ảnh hưởng sâu nặng của triết học phương Đông, đặc biệt là của Đạo,
các nhà thơ sáng tác thơ luật Đường thường xuất phát từ một điểm nhìn giống
nhau và có tương tự một trường nhìn: hoặc là từ mặt đất lên trời cao, nhìn mây,
trăng, sao…hoặc là từ trên đèo cao, đỉnh núi, phóng tầm mắt nhìn xa, nhìn
xuống. Do vậy, không gian trong thơ Nôm Đường luật trước hết cũng là không
gian vũ trụ, thứ không gian cao và xa. Bởi vì nhà thơ quan niệm rằng vẻ đẹp cao
quý nhất là sự sống của vạn vật trong trời đất, cảm thức không gian của họ là
không gian hướng ngoại ấy. Bao giờ nhà thơ cũng khao khát hòa nhập, giao tiếp
với vũ trụ, có khát vọng chiếm lĩnh không gian. Nói cách khác, không gian nghệ
thuật trong thơ Nôm Đường luật vẫn mang tính chất mở, có xu hướng giãn nở để
đưa tâm hồn con người vượt không gian chật chội của đời thường. Với mục đích
chiếm lĩnh không gian vũ trụ, con người thích lên cao và đi xa, tạo nên trong thơ
không gian cao – viễn như trong Đường thi. Tiêu biểu nhất là không gian nghệ
thuật thơ Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
65
(Qua Đèo Ngang)
Đúng như Lê Trí Viễn đã chỉ ra: “Không gian thẩm mĩ cũng là không gian
bao quát, trời đất là vô cùng, cánh bằng chín vạn dặm, phải đứng lên cao mà thu
vào mắt mình vũ trụ, là “đăng cao”, “đăng lâu”, nhìn xa bốn mặt” [74, 4]. Có thể
nói chiều cao là ưu thế nổi bật trong thơ Đường luật, là chiều có giá trị nhất. Nhà
thơ từ sự cảm nhận về cái hữu hạn của đời người bao giờ cũng khát khao về cái
vô hạn. Khao khát được lên cao, vì càng lên cao càng bao quát, càng chiếm lĩnh
được không gian rộng lớn để hòa điệu cùng vũ trụ. Nhưng với Bà Huyện Thanh
Quan, khát vọng ấy dường như vô vọng bởi có lên cao thì nhà thơ vẫn một mình
đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Phải chăng cũng chính vì con người
đứng ở vị trí trung tâm của một không gian mênh mông vô hạn nên con người
càng cảm nhận cái thân phận bé nhỏ, cô độc của mình?
Để thể hiện không gian vũ trụ vô hạn vô cùng, nhà thơ thường tổ chức ngôn
từ đối nhau trong liên 2 và liên 3: dưới núi – bên sông, viễn phố - cô thôn, đồng thời
tạo ra thứ âm thanh từ xa vang vọng lại nên bao giờ cũng nghe văng vẳng:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Như vậy là từ góc độ không gian, nhà thơ tạo được “khoảng cách của tâm
lý” để đưa đến cho người đọc mĩ cảm. “Nghệ thuật ngoài việc cắt xén chọn lọc
ra, thời gian và không gian cũng là yếu tố để tạo nên khoảng cách, những đối
tượng hay sự việc càng xưa xa càng dễ đưa đến mĩ cảm, cũng giống như người
lữ hành khi mới đến một địa phương xa lạ dễ có nhiều mĩ cảm” [66, 51].
Không gian lữ thứ
Không gian lữ thứ như là phái sinh của không gian vũ trụ, do vậy cũng là
một thứ không gian nghệ thuật đáng lưu ý khi tìm hiểu thơ Nôm Đường luật.
Không gian này gắn liền với những bước chân lưu lạc của nhà thơ, xuất hiện một
cảm quan nghệ thuật, khác với cảm quan nghệ thuật trong ca dao truyền thống,
mặc dù mỗi bước đường lưu lạc là một bước đi trong nỗi nhớ, nỗi buồn:
- Anh đi anh nhớ quê nhà
- Ai đi muôn dặm non sông
66
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy
Nhưng con người vẫn chưa thấy thật sự cô đơn. Ở thơ Nôm Đường luật,
cũng như ở Đường thi, con người một mặt rất ngại xa quê cũ nhưng mặt khác lại
thích viễn du, thích làm thân lữ khách, như là một hướng đi tự do của những tâm
hồn phiêu lãng tìm kiếm sự đồng điệu giữa người với thiên nhiên tạo vật mặc dù
ở nơi xứ lạ quê người, cảnh lữ thứ tha hương bao giờ cũng làm lòng người quặn
thắt:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang)
Tuy nhiên có thể thấy rõ không gian lữ thứ trong thơ Nôm Đường luật có
khi vẫn khác Đường thi vì nó có sự gần gũi với cuộc sống. Lữ khách ra đi muôn
dặm vì nhiệm vụ phải đi hơn là cái ước mơ phiêu lãng.
2.2.2.2.2. Hình tượng thời gian
Hình tượng thời gian hay thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình
tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Từ điển Thuật ngữ văn học cho
biết: “Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ
thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái
được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần
thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật,
một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [20, 219]. Nghiên cứu
thời gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX có thể nắm bắt được
sự cảm thụ thời gian của con người Việt Nam, ít nhất là tầng lớp nhà nho Việt
trong thời kì lịch sử này: nửa trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Tiếp cận
67
được kiểu thời gian nghệ thuật riêng ở đây chính là hiểu được một nét đặc trưng
nghệ thuật của thể loại. Bởi vì trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật
xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống
trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Gắn với phương thức,
phương tiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng.
Khảo sát thời gian nghệ thuật trong thơ Nôm Đường luật của nữ sĩ Thanh
Quan, thấy có thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kì, lại có thứ thời gian của đời
thường: thời gian tâm trạng, thời gian sinh hoạt, thời gian sự kiện lịch sử, xã hội.
Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kì
Trong Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, nhà nghiên cứu S.Lisevich
đã chỉ ra rằng: “Thế giới của người Trung Quốc cổ xưa là được hiểu như một thế
giới thông với toàn vũ trụ, và vì vậy các vòng tuần hoàn của thời gian lịch sử giao hỗ với nhau trong ý thức với các vòng tuần hoàn của vũ trụ” 10. Như vậy,
chính sự tuần hoàn vũ trụ đã chi phối cảm thức thời gian của người Trung Quốc
cổ trong đó có những nhà thơ thời Đường. Nhưng cảm thức này cũng không phải
chỉ có riêng ở người Trung Quốc. Cuộc sống con người nông nghiệp kéo dài
hàng chục thế kỉ ở phương Đông đã dẫn đến cảm thức thời gian ấy. Công việc
lao động ngày xưa buộc họ phải tuân thủ quy luật trời đất mà trong đó, mỗi sự
vật, quá trình đều có tính chu kì, chẳng hạn thấy mặt trời, mặt trăng đều mọc rồi
lặn, lặn rồi lại mọc, khuyết lại tròn. Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kì, vì
vậy là thứ thời gian thiên nhiên quy phạm hóa, mang tính ước lệ rất cao. Chẳng
hạn, mùa xuân trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn là một biểu hiện cụ thể của thứ
thời gian này:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
(Tự tình II)
Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, thời gian vũ trụ này cũng chi phối
cảm xúc của nữ sĩ. “Tinh sương” là để chỉ cho hình tượng thời gian tuần hoàn
10 Dẫn theo Trần Đình Sử [56, 209]
68
theo chu kì một năm, bởi người xưa tin rằng mỗi năm sao đi hết một vòng và
sương xuống một lần. Nhà thơ đã cảm nhận thời gian với những đại lượng lớn
mang tính vĩnh cửu:
..Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,..
(Thăng Long hoài cổ)
Những xưa, cũ, nay, nghìn năm, kim cổ…đều được đo bằng năm chứ
không phải ngày, tháng như trong thơ hiện đại. Tinh sương, thu, tuế nguyệt cũng
vậy, không còn mang tính cụ thể mà ý nghĩa của nó là thể hiện thời gian dài
dằng dặc. Tất nhiên là thời gian này có quan hệ biện chứng với không gian. Ở
bài Thăng Long hoài cổ, nhà thơ đã vận dụng sự cộng hưởng giữa không gian
“cuộc hí trường” với biết bao thay đổi chóng mặt của lịch sử với thời gian “mấy
tinh sương” thấm thoắt, giữa thời gian “tuế nguyệt” với không gian dâu bể “tang
thương”. Có thể nói xuyên suốt trong tám câu thơ cứ đọng mãi và đầy ắp cảm
giác thời gian, sự thay đổi của không gian. Nhờ vậy mà cái ý vị hoài cổ, hoài
niệm dường như càng thêm đậm đặc và tâm trạng nhà thơ càng thêm lạc lõng, cô
đơn. Ở bài thơ Thu vịnh, Nguyễn Khuyến cũng vận dụng sự cộng hưởng của cảm
giác thời gian với cảm nhận không gian, tạo sự thống nhất không thời gian:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kì luôn có sự liên hệ tương thông với
không gian vũ trụ. Đây là chỗ khẳng định thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX vẫn
thuộc về nền văn chương trung đại. Thời gian này đi theo đường thẳng có tính
chất hướng tới với mũi tên thời gian chỉ có một chiều, như một dòng chảy liên
tục, không ngưng nghỉ, tuần hoàn theo chu kì và con người có cảm giác bị cuốn
69
đi theo dòng trôi của nó.
Thời gian tâm trạng
Bên cạnh thời gian tuần hoàn theo chu kì, trong thơ Nôm Đường luật thế
kỉ XIX có một bộ phận thời gian mang rõ nét cá tính nhà thơ, thời gian diễn ra
theo cảm hứng của chủ thể. Đây là thời gian được hiện thực hóa chứ không ước
lệ hóa, bởi nó đã kết tinh được sắc màu, khí vị rất riêng, chỉ nhà thơ nhìn thấy và
cảm nhận. Ở những hình tượng thời gian này, dù sao vẫn còn nét tượng trưng
nhưng chủ yếu vẫn là mang nét cụ thể, chính xác của tâm trạng nhà thơ.
Nhìn vào thời gian tâm trạng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan thấy có vài
đặc điểm sau: Thứ nhất, thời gian trong thơ bà thường đi với tốc độ chậm bởi
một người mang trong mình cảm hứng hoài cổ sâu sắc thì khi hồi tưởng, chìm
sâu trong kí ức về một thời xa xưa, sống trong hoài niệm hay trong khoảnh khắc
đợi chờ thì thời gian khó có thể quay nhanh được. Thứ hai thơ bà xuất hiện nhiều
thời gian quá khứ. Trong ý niệm, thậm chí ngay trong tiềm thức của mọi nhà thơ,
cái gì ngày xưa cũng đẹp. Tất nhiên, đây cũng là tâm lý chung của con người: cái
gì đang cầm trong tay, cái hiện tại dường như không quý, không có giá trị bằng
cái mình đã đánh mất, đã qua đi, cái quá khứ hay cái mình khao khát, ước mơ
mà chẳng bao giờ được. Tuy nhiên, ở thế kỉ XIX, với tính chất chuyển mình của
nó, cả một vùng quá khứ dường như có thêm cái màu sắc lung linh của cái đẹp:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
(Qua Đèo Ngang)
Sự xuất hiện thời gian quá khứ thường gắn bó chặt chẽ với một công thức,
cái phương thức thể hiện, miêu tả thời gian là đem đối lập quá khứ với hiện tại.
Nó thật sự không những giúp cho việc thể hiện những hoài niệm, những suy
tưởng đạt hiệu quả cao mà còn giúp tạo nên cảm giác về sự thay đổi, sự vận
động của dòng thời gian, góp phần tạo nên cái dâu bể của cuộc đời, một cảm
phức rất phổ biến, rất đậm nét trong tâm lý nhà thơ.
Ba là trong thơ Bà Huyện Thanh Quan có xuất hiện thời gian tâm trạng
riêng – chung, nghĩa là vừa có không khí, hơi thở, cảnh sắc chung của thời đại,
70
cuộc sống, của cả một thế hệ mà vừa mang dấu ấn của một mảnh tâm tình rất
riêng. Đọc Thăng Long hoài cổ và Chùa Trấn Bắc, người đọc vừa cảm nhận cái
chung: sự bể dâu, đổi thay của thời thế, vừa cảm nhận cái riêng: nỗi buồn cô đơn
của một người lúc nào cũng đối diện với nỗi đau của chính mình, không người
san sẻ.
Như vậy có thể thấy thơ Bà Huyện Thanh Quan vẫn mang những nét đặc
trưng của văn chương trung đại, thể hiện ở hình tượng không thời gian vũ trụ,
không gian lữ thứ…nhưng cũng bắt đầu có sự chuyển biến sang văn chương cận
hiện đại với sự xuất hiện của không thời gian tâm trạng cá nhân gắn với không
71
khí thời đại, xã hội.
Chƣơng 3: ĐÓNG GÓP CỦA THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN TRONG TIẾN TRÌNH THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Về hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật
Tiến trình vận động đặc thù của tư duy nghệ thuật ở mỗi thể loại đương
nhiên dẫn đến việc khai thác, huy động những tiềm năng của ngôn từ, những
quan hệ liên kết các ngôn từ có những phương diện khác nhau. Nghiên cứu về
ngôn ngữ là nghiên cứu các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách, cũng
như giá trị biểu cảm hay sức truyền cảm, khả năng tạo dựng hình ảnh, hình
tượng và bộc lộ chủ đề, phản ánh cuộc sống của nó. Nếu ở những phần trên,
chúng tôi đi sâu vào hình tượng là để tiếp cận đặc trưng thể loại về phương thức
thể hiện thì ở phần này, chúng tôi sẽ đi sâu vào hệ thống ngôn ngữ chính là tìm
hiểu đặc trưng thể loại về chất liệu.
Nói một cách tổng quát, có thể thấy trong thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX
có hai hệ thống ngôn ngữ, một gần với Đường thi và một lại xa Đường thi, gần
với văn học dân gian, với đời thường, rất Việt Nam. Thơ Bà Huyện Thanh Quan
là một trường hợp đặc biệt, mặc dù nặng lòng với quê hương đất nước nhưng
đọc thơ bà luôn thấy nét trang nghiêm và nặng về phong thái thơ Đường hơn là
thơ Nôm gần với văn học dân gian
3.1.1. Hệ thống ngôn ngữ gần với Đường thi
Đặc điểm đầu tiên có thể thấy ở ngôn ngữ này đó là sự tiết kiệm về số
lượng ngôn từ, cấu trúc chặt chẽ và ý nghĩa hàm súc, kết tinh. Để có được sức
gợi ấy, có rất nhiều biện pháp, trong đó có việc sử dụng những từ đa nghĩa. Tất
nhiên, sự hàm súc nói ở đây là ưu thế của thể thơ, được thể hiện ở nhiều cấp độ:
từ, ngữ, câu thơ và cả bài thơ. Cả một hệ thống từ hàm súc tạo nên sự hàm súc
trong từng liên thơ, nhờ đó bài thơ mới thể hiện được nét tinh tế của sự vật. Song
biểu hiện được sự vật ở thời điểm bản chất nhất thật sự là một thách đố không
phải nhà thơ nào cũng vượt qua nổi. Một biện pháp nữa góp phần tạo nên sức gợi
72
ở thơ Nôm Đường luật khiến nó gần gũi với ngôn ngữ Đương thi là sử dụng
ngôn ngữ mang tính khái quát. Ở những bài thơ này, nhà thơ muốn thể hiện cái
chung, cái vĩnh cửu, do đó luôn có khuynh hướng loại bỏ những gì là vụn vặt,
chi tiết. Nhà nghiên cứu Nhữ Thành đã có lý giải: “Cái tứ ở thơ Đường không
phải ở chỗ chạy đuổi theo sự vật mà ở chỗ thống nhất sự vật lại bằng tư duy. Một
khi đã đi theo con đường này thì bản thân các từ gần nghĩa với nhau phải thống nhất lại” 11. Có lẽ các nhà thơ muốn quay về ý nghĩa chung nhất. Ở câu kết bài
thơ Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan viết:
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Dường như “mảnh tình riêng” không phải chỉ của bà Nguyễn Thị Hinh ở
ngay nơi đã từng chứng kiến cuộc phân tranh Nam Bắc Triều và cuộc xung đột
Trịnh – Nguyễn gây chiến tranh liên miên hàng mấy thế kỉ ở vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình. Chắc chắn mỗi độc giả sẽ cảm nhận cái hay của câu thơ trong
từng hoàn cảnh riêng của mình. Bởi vì trên đời này có biết bao người mang nỗi
niềm sâu kín, chỉ biết chôn sâu tâm sự tận đáy lòng không thể thổ lộ cùng ai.
Như vậy, câu thơ đã mở ra những khả năng cảm thụ khác nhau. Nó như bài toán
có nhiều nghiệm mà mỗi người đọc sẽ tự tìm ra đáp án của riêng mình.
Một trong những yếu tố góp phần cho sự hàm súc và gợi liên tưởng của
thơ Bà Huyện Thanh Quan là ở tỷ lệ cao những từ ngữ đối lập trong bài thơ.
Chính hệ thống từ ngữ đối lập này cũng tạo ra những không gian rộng lớn: viễn
phố - cô thôn, dưới núi – bên sông và tạo ra thời gian tuần hoàn: tuế nguyệt, kim
cổ; tạo ra cả một bức tranh toàn diện của cuộc sống: xe ngựa – lâu đài…Sự đối
ngẫu trong thơ bát cú và tứ tuyệt là một trong những đặc trưng rõ nét, tạo ra một
cấu trúc vững chắc ở ngôn ngữ thơ (từ, ngữ và câu thơ).
Ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan còn gần gũi
với ngôn ngữ Đường Thi ở tính chính xác và sự tinh tế, tao nhã. Tuân thủ
nghiêm ngặt những quy luật về âm, thanh, vần, nhịp, niêm và đối, ngôn ngữ
trong bài thơ nhờ vậy vừa hàm súc, vừa chính xác. Có thể nói mỗi chữ trong bài
11 Dẫn theo Nguyễn Thanh Phúc [51, 148]
73
thơ như một hành tinh trong thái dương hệ, không thay đổi vị trí hay xóa bỏ bất
cứ một đơn vị nhỏ nào dù là một câu, một vế, thậm chí một chữ mà không tạo
nên sự hụt hẫng trong hệ thống.
Đặc điểm thứ hai khiến thơ Bà Huyện Thanh Quan gần với phong cách
ngôn ngữ Đường thi đó là sự tồn tại của hệ thống từ Hán Việt trong thơ bà. Có
thể thấy từ Hán - Việt trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần đem lại màu
sắc trừu tượng, khái quát trong tác phẩm. Ở bài thơ Thăng Long hoài cổ, hai âm
tiết cuối của cả 8 dòng thơ đều là từ Hán – Việt: hí trường, tinh sương, thu thảo,
tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường. Mở đầu bài thơ, nhà
thơ nêu lên một quan niệm về thế lực siêu nhiên vạn năng. Để thể hiện sự quan
trọng đó, tác giả không dùng từ ông trời mà dùng từ tạo hóa. Tạo hóa chi phối
nhân sinh thế sự, xoay vần cuộc sống xã hội và số phận con người. Tất cả như
luôn biến đổi, luôn bị thay thế như một sân khấu diễn trò, lớp này kế tiếp lớp
khác và từ Hán Việt hí trường như khắc đậm thêm điều đó. Thực vậy, thời đại
lịch sử mà bà Huyện Thanh Quan sống là thời khủng hoảng suy tàn của chế độ
phong kiến. Có thể nói đây là nguyên nhân tạo nguồn cảm hứng hoài cổ nơi bà.
Tuy nhiên sự gắn bó của bà với triều đại cũ không sâu sắc và mật thiết như
Nguyễn Gia Thiều hay Phạm Thái nên thái độ hoài cổ của bà nhẹ nhàng, thanh
thoát hơn. Hai câu mở đầu với cách sử dụng thành công từ Hán Việt đã ẩn chứa
một nỗi niềm luyến tiếc kín đáo của nhà thơ. Ở hai câu thực, nhà thơ thể hiện tài
nghệ điêu luyện của mình trong việc lựa chọn từ ngữ kết hợp tài tình từ thuần
Việt và Hán Việt trong một hệ thống niêm luật chặt chẽ. Nhà thơ đã khéo léo
chọn hai hình tượng không gian, cảnh vật có tính cách đối lập.
a. Lối xưa xe ngựa / Nền cũ lâu đài
b. Hồn thu thảo / Bóng tịch dương
Hệ thống a là hình ảnh của không gian nhân tạo, hệ thống b là hình ảnh
của không gian thiên tạo. Không gian nhân tạo không chống chọi nổi thời gian
và đã thuộc về thời gian quá khứ. Những hình ảnh còn lại chỉ là những tàn dư
của một quá khứ hoàng kim. Dưới bước đi mạnh mẽ của thời gian, dường như
chỉ có cảnh vật thiên nhiên là có khả năng tồn tại, nhưng đó cũng là sự tồn tại
74
trong tàn tạ bởi trong câu thơ gợi hình ảnh của ngọn cỏ thu và ánh mặt trời chiều.
Cỏ thu đã trở thành “hồn thu thảo” và mặt trời chỉ là “bóng tịch dương”. Dường
như ở các câu thơ này, từ Hán Việt là những nốt nhấn cho ý đồ nghệ thuật của
các giả. Các cụm từ Hán Việt đã tạo nên những hình bóng không gian mang màu
sắc cô liêu tàn tạ. Sự lựa chọn và kết hợp từ độc đáo trên đã tạo nên sự “hòa âm”
giữa quá khứ và hiện tại. Ở hai câu luận, tác giải tiếp tục diễn đạt nỗi niềm hoài
cổ trước sự đổi thay qua hình tượng đá trơ gan, nước cau mặt. Đá, nước là biểu
tượng của dòng chảy bất tận của vũ trụ và nhân sinh, nhưng ở đây lại mang ý
nghĩa phúng dụ cho tâm trạng phủ nhận, chống chọi lại sự đổi thay. Ở hai câu
thơ này, nhà thơ lại sử dụng “tuế nguyệt”, “tang thương” mang ý nghĩa khái quát
rất cao, tạo nên sức gợi cảm cho bài thơ. Kết thúc bài thơ là một tiếng thở dài tuy
nhẹ nhàng nhưng xuất phát từ tâm can:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Để nói về những sự phi lý ở đời như là một quy luật, thì ở trong bài thơ
này, với từ Hán Việt “kim cổ” nhà thơ cũng khái quát chuyện hưng phế như là
một chân lý ngàn đời không thể thay đổi được. Vì thế, kết thúc bài thơ là một nỗi
đau, nỗi bi thương và luyến tiếc về một thời xưa cũ. “Đoạn trường” là một từ
Hán Việt được nhà thơ dùng rất đắt để kết tụ lại nỗi đau đó. Như vậy, chính cái
lung linh của từ Hán Việt có sắc thái ý nghĩa khái quát, trừu tượng, trang trọng
của nó đã tạo nên cái vẻ mơ hồ, hư hư thực thực, cái bàng bạc muôn thuở rất
thích hợp cho một nỗi buồn hoài cổ.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc viết về ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan
rất hay và có những phát hiện rất tinh tế. Trong bài Chiều hôm nhớ nhà, nữ sĩ
dùng từ “ngư ông” chứ không phải là ông chài, “viễn phố” chứ không phải bến
xa. Nếu là bến xa thì không gây ấn tượng thẩm mĩ. Trong chiều sâu ông còn
phân tích cả cách người Việt tiếp nhận chữ Hán thế nào trong vô thức của mình.
Ông cho rằng dùng từ Hán hóa gây cảm giác lạ hóa, thậm chí là thiêng. Khi chữ
Hán dịch ra nghĩa của từ vẫn thế nhưng ý nghĩa thẩm mĩ của nó lại khác. Phan
Ngọc nhận xét: “Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đã đẩy lùi
75
bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, của ý niệm... Các từ Hán Việt nữ thi sĩ
dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn
vắng, những kẻ chăn trâu, những bến xa, những người ở đài cao, những người
khách trọ, cảnh lạnh ấm của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn
phố, những mục tử, những cô thôn? Làm gì có trang đài, người lữ thứ, nỗi hàn
ôn? Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định giá trị câu
thơ: câu cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta. Cuối nhịp ở âm tiết 4 để
bắt người ta dừng lại ở đây...Nghệ thuật là sự lựa chọn cực kỳ công phu. Bằng
cách này, bà Huyện Thanh Quan kéo ta về với cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u
hoài của nhà thơ, của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại, không
có sự cách biệt giữa tôi và anh...” [44, 52-53]. Qua thống kê, Bà Huyện Thanh
Quan có tỷ lệ sử dụng từ Hán Việt cao nhất: chỉ 6 bài thơ trong 48 câu thơ thì đã
có 32 từ Hán Việt, trung bình cứ 1,5 câu thơ thì có 1 từ Hán – Việt. Phải chăng
đây là một cơ sở khoa học để góp phần lý giải, khẳng định thế giới nghệ thuật
trong thơ bà là thế giới của sự hoài niệm?
Đặc điểm thứ ba trong hệ thống ngôn ngữ gần thơ Đường ở Bà Huyện
Thanh Quan là sự xuất hiện những câu thơ có cấu trúc độc đáo: lược bỏ chủ ngữ
(và hiện tượng vô nhân xưng). Có thể thấy xu hướng chung của ngôn ngữ văn
chương trung đại là nhằm xóa mờ đường viền cá thể, thể hiện tính vô ngã nên lời
thơ hầu như thưa vắng đại từ làm chủ ngữ. Nói rộng ra, lời thơ mang tính chất vô
nhân xưng, nghĩa là không cần biết ai nói, nói về ai và nói với ai nữa. Thử khảo
sát bài thơ Qua đèo Ngang:
- Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
- Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Ai bước tới đèo Ngang? Ai dừng chân đứng lại? Bà Huyện Thanh Quan
hay là ai khác? Điều đó không quan trọng, bởi ở đây không phải là một cá nhân
cụ thể đang bước tới, đang dừng chân mà là một cảm thức vũ trụ: cái bơ vơ lạc
lõng của con người đang hoài niệm về quá khứ giữa cái bao la, rợn ngợp của đất
trời vô hạn:
76
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Rõ ràng, “ta” không phải là “tôi” nhưng “ta với ta” cũng chỉ là cách nói
ám chỉ một sự lẻ loi, cô độc, một trạng thái cô đơn tột cùng. Sau này, trong thơ
Nguyễn Khuyến, ngay cả khi “Bạn đến chơi nhà”, nhà thơ vẫn dùng cụm từ này:
Bác đến chơi đây ta với ta.
Với những tính cách vừa kể trên: trang nhã, hàm súc, trau chuốt, thơ Bà
Huyện Thanh Quan đáng lẽ phải chịu một khuyết điểm là nặng nề hoặc cưỡng
ép. Thế nhưng không, thơ bà cổ kính mà vẫn thanh thoát nhẹ nhàng không kém
gì những bài thơ Đường của danh sĩ Trung Hoa. Tính cách nhẹ nhàng ấy là do
nghệ thuật dùng chữ, chọn âm thanh, xếp đặt nhịp điệu một phần, còn một phần
là do cảm hứng thành thật phơi phới làm cho lời thơ đưa bổng lên dễ dàng. Mối
cảm động của bà rất sâu xa nhưng nỗi buồn trong thơ bà chỉ phảng phất xa xôi,
do đó mà thơ bà tả cảnh, hoặc tả tình bao giờ cũng rất êm dịu.
3.1.2. Hệ thống ngôn ngữ dân tộc
Trong hệ thống ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật, bên cạnh thứ ngôn ngữ
gần với Đường thi, chúng tôi còn lưu ý đến bộ phận từ thuần Việt và từ Việt hóa.
Trước hết có thể thấy rằng các nhà thơ Nôm Đường luật thế kỉ XIX đã dành ưu
tiên cho lớp từ thuần Việt. Chẳng hạn tỷ lệ số từ thuần Việt ở thơ Hồ Xuân
Hương là 94,8%, ở Bà Huyện Thanh Quan là 80% và con số cũng khá cao ở
những nhà thơ Nôm Đường luật nửa sau thế kỉ XIX như Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Đình Chiểu…
Hơn nữa, chúng tôi thấy rằng hầu hết những nhãn tự, những từ đắt đều
thuộc về lớp từ thuần Việt. Đó là những từ ngữ được dùng rất chính xác, cụ thể,
lại rất cô đúc, đồng thời lột tả được cái hồn của sự vật. Ở bài Thăng Long hoài
cổ đó là các từ: “trơ” (trơ gan), “cau” (cau mặt). Tất nhiên, cái hay của những từ
đắt đòi hỏi ở nhà thơ sự xếp đặt chữ trong câu để gây một ấn tượng, gây hiệu quả
nghệ thuật, nhắm vào cảm xúc hay trí tưởng tượng của người đọc. Thử khảo sát sự
kết hợp này ở một bài thơ khác của bà, bài Chùa Trấn Bắc, trong đó có hai câu:
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
77
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
“Lớp” và “hồi” là từ thuần Việt, là những từ đắt, nhờ đứng ở giữa, một
bên là hình ảnh cụ thể “sóng”, âm thanh cụ thể “chuông”, một bên ý nghĩa trừu
tượng “phế hưng”, “kim cổ”. Đành là lớp sóng, là hồi chuông nhưng đó cũng là
lớp phế hưng, là lớp sóng phế hưng của các triều đại, là hồi chuông kim cổ hay
chính là âm thanh thời gian đang đổ hồi mau, vùn vụt qua đi mà tưởng như nhà
thơ nhìn thấy được, lắng nghe được.
Ở thơ Nôm Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan ít xuất hiện ngôn ngữ
văn học dân gian và ngôn ngữ đời thường, đặc biệt là không có khẩu ngữ (một
đặc điểm của ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật giai đoạn này). Nếu có cũng chỉ là
sự xuất hiện của các hư từ như trong bài Tức cảnh chiều thu:
Ô hay, cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
Theo Nguyễn Hữu Quỳnh trong Tiếng Việt hiện đại, phó từ (phụ từ, trạng
từ), quan hệ từ, trợ từ là những loại từ thuộc hư từ. Theo cách hiểu khác thì hư từ
gồm các loại từ: từ cảm, từ đệm, từ kèm, từ nối. Mặc dù thơ Bà Huyện Thanh
Quan không xuất hiện với tần suất cao các hư từ, nhưng sự có mặt ở một vài câu
với cảm xúc bất chợt của nữ sĩ đã khiến cho những câu thơ của nữ sĩ mang một
màu sắc khá mới lạ so với chính phong cách thường thấy ở thơ bà.
Nhìn chung trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã phát huy tinh hoa giá trị
cổ điển của ngôn từ, lại biết kết hợp với ngôn ngữ thuần Việt của dân tộc khiến
cho mỗi bài thơ của bà đều đẹp đẽ một cách lạ thường, một vẻ đài các, trang
nghiêm hiếm có trong lịch sử thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
Nói về ngôn ngữ của các nhà thơ Nôm thế kỉ XIX, chúng tôi thấy mặc dù
cũng có những điểm chung nhưng ở mỗi người lại có những nét biệt sắc riêng.
Ngôn ngữ đời sống trong thơ Hồ Xuân Hương có tỉ lệ cao nhất, khẩu ngữ trong
thơ Nguyễn Khuyến xuất hiện nhiều nhất, Tú Xương lại có tài sử dụng ngôn ngữ
đời sống vào chức năng trào phúng một cách sắc sảo nhất, còn Bà Huyện Thanh
Quan lại là thứ ngôn ngữ trang trọng, đài các nhất vì thơ bà dù không dùng thi
78
liệu điển cố Hán nhưng vẫn còn sử dụng khá nhiều từ Hán Việt và ít khẩu ngữ
hơn cả. Đọc thơ bà lúc nào cũng có cảm giác như có một con hầu lẽo đẽo theo
sau (Xuân Diệu).
Phạm Thế Ngũ từng nhận xét: “Thơ Hồ Xuân Hương thiên về Nôm mà
bóng bảy, duyên dáng, thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà thanh thoát,
nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại diện cho cái tinh thần trào phúng bình dân vươn
lên thể hiện trong một hình thức bác học. Bà Huyện Thanh Quan đại biểu cho cái
tình thần tao nhã nho sĩ kết tinh lại cùng với tinh túy của bài Đường thi trong
một ngôn ngữ Hán Việt đã hoàn toàn Việt hóa”. [47, 294]
3.2. Về hệ thống kết cấu Đƣờng luật và nhịp điệu thơ.
3.2.1. Hệ thống kết cấu Đường luật.
Mỹ học Mác – Lênin từng chỉ ra rằng trong nghệ thuật nói chung, “nội
dung dần dần được hình thức hóa và trầm lắng thành những cấu trúc thể loại”
[90, 290]. Xét từ bình diện thể loại, cũng có một sự thống nhất không thể tách
rời một cách tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung thể loại chỉ tồn tại
bằng hình thức thể loại và qua hình thức thể loại. Những yếu tố hình thức thể
loại bao giờ cũng phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung thể loại, bởi xét
cho cùng thì “thể loại là những quy tắc tổ chức hình thức tác phẩm ứng với
những loại hình nội dung nghệ thuật của nó” [20, 167].
Thơ Bà Huyện Thanh Quan làm theo thể thất ngôn Đường luật. Thể thơ
này có tám câu, mỗi câu bảy chữ. Hai câu đầu là câu mở đề, bốn câu giữa đối với
nhau từng cặp có thể xem là cái xương sống của bài thơ, và hai câu cuối tức là
hai câu kết. Khác với thể lục bát, thể thơ này là kết quả của sự phối hợp âm
thanh và xếp đặt công phu. Làm thơ theo thể này không những khó vì vần, đối,
niêm, luật mà lời thơ lại không được non yếu, chữ dùng phải trong trẻo, và nhất
là tình ý ở đoạn chót phải vừa gọn gàng, vừa bay bổng và để lại dư vang. Một
bài thơ Đường luật có giá trị là một viên ngọc quý mà người ta đẽo gọt những
khi phong lưu nhàn tản hoặc những lúc đối cảnh mà cảm hoài. Lời chỉnh đốn, ý
hàm súc, cốt cách thanh cao, lối thơ này là lối quý phái đặc biệt. Ta không thấy
79
lạ rằng Bà Huyện Thanh Quan đã dùng thể thơ ấy để biểu lộ cảm xúc của mình.
Bà là người nho nhã, phong lưu đài các, nhiều cảm tình nhưng biết giữ tư cách
thanh cao, quý trọng thơ văn nên cẩn thận khi sáng tác, lại dùng lối thơ thất ngôn
bát cú cổ điển ít lời nhiều ý để gửi gắm cái bản ngã điều hòa cân đối của mình
vào, đó chỉ là điều tự nhiên, thích đáng vô cùng.
Để nói thêm về luật của thơ Đường, tôi dùng các kí hiệu B và T để chỉ rõ
đó là thanh bằng hay thanh trắc. Luật thơ Đường mà Bà Huyện Thanh Quan sử
dụng gồm hai thể chính là thể bằng vần bằng và thể trắc vần bằng (Thất ngôn bát
cú). Bà đã sử dụng rất thành công mà cũng rất nghiêm ngặt, không khiên cưỡng,
cũng ít vì có sự nới rộng “nhất tam ngũ bất luận” mà dễ dãi dùng gượng các
thanh này.
Thơ luật Đường du nhập vào nước ta đã hàng ngàn năm nay. Nó xuất xứ
từ đời nhà Đường – một thời đại được coi là thịnh trị nhất trong lịch sử Trung
Quốc (618 – 907). Ở đây, chúng tôi chỉ bàn về thể thất ngôn bát cú (7 chữ 8 câu).
Đây là thể thơ đòi hỏi rất khắt khe và nghiêm ngặt về: niêm, luật, vần, đối, bố
cục (5 yếu tố)
- Niêm thì dễ vì đã đúng luật thì đúng niêm
- Luật tức là B và T quy định ở vị trí từng từ trong câu
- Vần: tức là các từ cuối của các câu 1-2-4-6-8 cùng vần với nhau: tà, hoa,
nhà, gia, ta (bài Qua Đèo Ngang) hay: hôn, dồn, thôn, dồn, ôn (Chiều hôm nhớ nhà).
- Đối: đây là yếu tố khó nhất. Đối gồm 3 yếu tố:
+ Đối thanh (B với T hoặc ngược lại)
+ Đối ý: tương đối dễ, gồm đối xứng hoặc đối lập về ý tưởng trong câu 3
với câu 4 và câu 5 với câu 6.
+ Đối từ: đây là điều hóc hiểm nhất, khó đạt nhất vì vừa phải đối theo
nhịp điệu, tiết tấu, vừa phải đối đúng từ loại với nhau: danh từ với danh từ, động
từ với động từ, tính từ với tính từ. Rồi từ luyến láy, từ đơn, từ kép, từ tượng
thanh, từ tượng hình…tất cả đều phải đối nhau đúng theo vị trí của từng từ trong
câu 3 với 4, 5 với 6.
- Bố cục: gồm có Phá – Thừa – Thực – Luận – Kết.
80
+ Câu 1: Mở đề hoặc Phá đề (tức câu mở bài)
+ Câu 2: Thừa đề (tức là nối với câu mở đầu mà vào bài)
+ Hai câu 3 và 4, gọi là hai câu thực, phải đối với nhau đủ 3 yếu tố vừa
nêu ở trên
+ Hai câu 5, 6: là hai câu luận cũng phải đối với nhau đủ 3 yếu tố
+ Câu 7 và câu 8 là kết.
Bàn về cấu trúc trong kết cấu văn bản thơ trữ tình, Lý luận văn học có gợi
ý: “Trong thơ trữ tình, mối quan hệ đầu kết đặc biệt quan trọng. Mở đầu bao giờ
cũng có tác dụng đưa người đọc vào một không khí, một trạng thái cảm xúc nhất
định. Dù tả cảnh gợi tình, hoặc khoan thai kể chuyện, hoặc bâng khuâng gợi
hứng, hoặc đột ngột bàng hoàng, mở đầu của thơ thường có tác dụng gây ấn
tượng quan trọng. Phần kết thường gắn với quan niệm về sự trọn vẹn, hoàn tất,
vừa gợi lại phần thể hiện ở trên, vừa tạo được dư âm trong lòng người đọc.
Người xưa cho rằng, cái hay của một bài thơ thường đọng ở câu kết. Hoặc thu
lại, hoặc mở ra, tạo nên ý mênh mang. Ở đây bố cục bài thơ phải xử lí mối quan
hệ giữa lời thơ hữu hạn và ý thơ, tình thơ vô cùng” [57, 112]. Theo chúng tôi,
mối quan hệ mở - kết hay phá - kết là một đặc điểm thi pháp của thơ Đường luật
bát cú. Có thể là một hình ảnh, một chi tiết hay một sự kiện…xuất hiện ở liên 1
được nhắc lại hoặc có liên hệ nào đó với liên 4. Chẳng hạn như trong thơ Hồ
Xuân Hương:
- Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, (…)
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
(Đánh đu)
Nếu bài thơ bát cú nào không có được sự hô ứng như trên thì về mặt thi
luật, câu phá và câu kết vẫn niêm với nhau, tức vẫn có mối quan hệ mở - kết, tạo
nên sự hô ứng về mặt âm điệu. Khi mở rộng phạm vi khảo sát đến tất cả 8 dòng
thơ, chúng tôi thấy: Một là, không chỉ những cặp câu 1-8 niêm nhau, mà các cặp
câu 2-3, 4-5, 6-7 cũng niêm với nhau. Sự kết hợp này góp phần tạo nên một khối
rắn chắc, một sự thống nhất, một cái bất biến. Rõ ràng đó không thể là một sự
ngẫu nhiên mà có ý nghĩa thi pháp thể loại. Hai là, không chỉ cặp câu 1-8 lặp lại
81
về luật phối thanh mà cứ cách ba dòng thì có sự lặp lại ấy. Ngoại lệ, chữ cuối của
dòng 1 phải nhập vần nên khác thanh với chữ cuối của dòng 5, còn nói chung thì
dù bài thơ luật trắc vần bằng hay luật bằng vần bằng vẫn có sự lặp lại thanh điệu
bằng trắc ở các câu: 1-5, 2-6, 3-7, 4-8. Lấy bài thơ Qua đèo Ngang có luật trắc
vần bằng để khảo sát chúng ta sẽ thấy rõ điều này:
Bước 1 Đèo bóng
tới T Ngang B xế T tà B
Cỏ 2 chen lá
Lom 3 tiều
4 dưới bên rợ
Lác Nhớ 5 đau con
cây B khom B đác T nước T
6 cái Thương nhà mỏi
Dừng 7 đứng trời,
Một 8 tình ta
B chân B mảnh T đá, T núi T sông B lòng B miệng T lại: T riêng B chen B vài B mấy T quốc T gia B non, B với T hoa B chú T nhà B quốc T gia B nước, T ta B
bóng Chiều
2 xa lẫn Tiếng
3 ngư Gác về
4 mục Gõ lại
Ngàn chim gió 5
sương khách Dặm 6
lảng T đưa B ông B tử T cuốn T sa B
Chương Đài người Kẻ 7
Lấy nỗi mà 8
82
Và một bài thơ tiêu biểu khác: Chiều hôm nhớ nhà có luật bằng vần bằng hoàng bảng 1 B trống T viễn T cô B bay B bước T lữ T hàn B trời B ốc T mái T sừng B mai B liễu T chốn T ai B B kể T hôn B dồn B phố T thôn B mỏi T dồn B thứ, T ôn. B
Như vậy qua khảo sát có thể thấy cấu trúc bài thơ trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan nhìn chung vẫn đảm bảo cấu trúc chuẩn của bài Đường thi. “Bài thơ
cũng là một cơ chế có sinh mệnh. Nó cũng một cách tự nhiên, theo lẽ đất trời -
tức phải theo luật cân bằng âm dương của thiên địa, và những qan niệm về sự
vận hành của nó theo lẽ đạo. Bài luật thi là một cấu trúc chỉnh thể, một hệ thống
tuần hoàn khép kín với một “thái cực” thường do “đề” đảm trách. Hệ thống đó
được cấu trúc một cách có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ đồng thời
có mối quan hệ phong phú với thế giới bên ngoài, tạo nên sự gợi ý sâu xa mà ta
quen gọi là “ý tại ngôn ngoại” [13, 47]
Không chỉ có mối quan hệ phá - kết có tính chất chu hoàn, cấu trúc bài thơ
Nôm Đường luật vẫn đảm bảo một chuẩn mực khác của thể Đường thi là tính đối
ngẫu ở 4 dòng thơ giữa bài thơ bát cú. Những hình thức khác nhau của phép đối
ngẫu đều có mặt: công đối, lân đối, khoan đối, tá đối, ảo đối…và tự đối (tiểu
đối). Tuy nhiên có thể thấy rõ là tá đối và ảo đối, có thể coi như là khoan đối
xuất hiện khá phổ biến cùng với hình thức tự đối trong cùng một câu thơ. Lý giải
vì sao liên 2 và liên 3 cần phải có đối, Lệ Thần Trần Trọng Kim trong Việt Thi
cho rằng: “Những câu khái hay mạo và hợp hay kết đều cốt ở dùng ý, mà dùng ý
thì nói cho rõ, cho nên những câu ấy đi lẻ không đối, những câu thừa hay thực
(tình) và câu chuyển hay luận (cảnh) đều cốt dùng từ, mà dùng từ thì cần lời nói
cho đẹp, cho nên những câu ấy phải đối ngẫu”[26, 40]. Đồng thời khi bàn về ý
nghĩa thơ luật, ông nhận xét: “Thơ luật lấy tình và cảnh làm tư liệu, lấy ý và từ
làm sự vận dụng. Tình nhiều, cảnh rõ, ý cao, tứ đẹp là thơ hay”[26, 39]. Như vậy
có thể nói phép đối ngẫu ở cặp thực và luận là một đặc trưng của bài bát cú.
Chính nó đã góp phần cho vẻ đẹp đầy những liên tưởng bất ngờ, thật lung linh
của thể thơ này. Hơn nữa chính ở những dòng thơ có đối, nhà thơ như là đang
đứng trước một sự thách đố của sự sáng tạo. Trong thơ nguyên tắc tương đồng sẽ
quyết định nguyên tắc tiếp cận, việc lựa chọn các từ để tổ hợp lại phải dựa trên
nguyên tắc song hành, sóng đôi, âm tiết đi với âm tiết, từ đi với từ, dài đi với dài,
ngắn đi với ngắn, ngắt đi với ngắt...để trong thơ chúng có thể đối xứng nhau
83
hoặc đối lập nhau từng cặp. Điều này đặc biệt ý nghĩa trong Đường luật và nhất
là trong thất ngôn bát cú. Ở hai liên giữa bài thơ này, các từ giữ tính cách tự trị
khá quan trọng, nghĩa là có những vị thế được xác định và có những vai trò
riêng. Bốn dòng giữa bài thơ ấy tạo nên hai cặp cân đối cực kì nghiêm túc, bị
bao quanh bởi hai dòng đầu và hai dòng cuối mà hai cặp này lại không có đối, có
vẻ buông lỏng hơn về thi luật. Cấu trúc tổng quát này không thể là ngẫu nhiên, là vô
cớ. Đó là một khối rắn chắc, một cái bất biến, một sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Rõ ràng ở thơ Bà Huyện Thanh Quan có sự gần gũi giữa thơ Nôm Đường
luật với Đường thi và Đường luật Hán ở bình diện cấu trúc bài thơ.
3.2.1.1. Đặc điểm của liên 1 (cặp phá - thừa)
Ở cặp câu này, thông thưởng nhà thơ nêu ra một cái nhìn, một cảm tưởng
tổng quát. Tuy nhiên tùy theo từng đề tài, chủ đề, cấu trúc của liên thơ này có thể
có nhiều dạng
Nếu bài thơ có đề tài, chủ đề thiên nhiên thì một là, mặc dù nêu tổng quát
về cảnh thiên nhiên nhưng dường như câu thơ đã thấp thoáng, đã hé mở tâm tình
tác giả, thứ tâm tình gửi gắm rất kín đáo, rất xa xôi trong cảnh. Chẳng hạn, đó là
cái nhuốm buồn, cái lãng đãng mà chập chùng nỗi nhớ trong bóng hoàng hôn
lảng bảng ở bài Chiều hôm nhớ nhà:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Hai là, nếu dùng phương pháp so sánh tương hỗ thì giữa câu “phá” (dòng
1) và câu “thừa” (dòng 2) có liên quan với nhau nhưng vẫn khác nhau. Có khi
câu phá nêu khái quát trước về không gian, thời gian (thường là cả hai) và câu
thừa đi vào cụ thể hơn, chi tiết hơn:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
(Qua Đèo Ngang)
Ba là, có khi nhà thơ tìm ra một vài chi tiết đặc sắc trong cảnh thiên nhiên
để khởi hứng, đồng thời có một câu bày tỏ thái độ, tâm trạng rất thoáng qua và
84
rất khái quát của mình trước cảnh thiên nhiên:
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ!
(Tức cảnh chiều thu)
Nếu bài thơ có đề tài, chủ đề về cuộc sống xã hội, con người thì một là nếu
có câu thơ nào tả cảnh thì nó chỉ có thể xuất hiện ở dòng mở đầu. Chẳng hạn:
Trấn Bắc hảnh cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
(Chùa Trấn Bắc)
Lý do rất đơn giản: câu thừa (dòng 2) phải nói về một sự kiện hoặc một
tâm trạng để chuyển ý xuống liên 2 (cặp thực) là trình bày về cuộc sống xã hội
hay con người.
Hai là nếu có dạng câu nghi vấn thì nó thường xuất hiện ở câu thừa trong
cấu trúc bình thường, nhưng nó sẽ xuất hiện ở câu phá trong cấu trúc đặc biệt vì
đó là một câu hỏi tu từ hoặc cần phải có cái giọng đột ngột:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
(Thăng Long hoài cổ)
3.2.1.2. Đặc điểm của liên 2 và liên 3
Đặc điểm của liên 2 (cặp “thực”)
Lạc Nam trong cuốn Tìm hiểu các thể thơ cho rằng: “Hai câu 3 và 4 gọi là
thích thực, gọi tắt là hai câu thực, còn gọi là hai câu trạng có nhiệm vụ giải thích
cho đề tài rõ hơn về ý, về cảnh, về tình, về sự vật, về tính chất, cốt làm nổi bật đề
tài lên. Vì vậy, hai câu này phải gắn chặt với đề tài” [42, 109]. Dương Quảng
Hàm trong Văn học Việt Nam cũng từng chỉ ra rằng: “Thực hoặc trạng (câu 3-4)
là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là câu thơ tả cảnh thì chọn cảnh sắc xinh
đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự mà giải bày ra,
nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng, đức hạnh của người mình muốn vịnh mà kể
ra.” [18, 23]. Như vậy, có thể dễ dàng xác định nhiệm vụ của liên 2 là giải thích
cho thật rõ tinh thần, nội dung của bài thơ (thường nằm ngay trong nhan đề bài
85
thơ). Nhiều nhà thơ có khuynh hướng miêu tả cụ thể những nét tiêu biểu, chọn
lọc. Tất nhiên, trước hết, đây cùng là cái cụ thể trong cảnh thực của thiên nhiên,
sự vật, hiện tượng, chẳng hạn:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long hoài cổ)
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
(Tức cảnh chiều thu)
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông, rợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang)
Tuy nhiên, cái cụ thể ở đây hoàn toàn không hẳn là cái cụ thể - khách
quan mà có khi mang màu sắc chủ quan, nghĩa là được lọc qua lăng kính riêng
của thế giới tâm hồn nhà thơ. Do vậy, cảnh ở đây cũng chính là cửa sổ tâm hồn
tác giả. Cảnh đền đài hoang phế, dấu xưa xe ngựa là dấu ấn của một cái tôi hoài
cổ, hướng về quá khứ nhưng cũng có lúc yêu đời thiết tha, muốn hòa nhập với
cuộc sống tươi mới thể hiện ở những bức tranh cảnh nhiều màu sắc và tươi tắn.
Đặc điểm của liên 3 (cặp “luận”)
Luận nghĩa là bàn bạc, bình luận mở rộng thêm ý bài thơ “như tả cảnh thì
nói cảnh ấy xinh đẹp thế nào, cảm xúc của người ra thế nào, vịnh sử thì hoặc
khen, hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác, việc khác” [43,
23]. Như vậy, nếu liên 1 có nhiệm vụ “nhập”, liên 2 có nhiệm vụ “diễn” thì liên
3 có nhiệm vụ bàn rộng thêm cái ý đã “diễn” ấy. Do đó liên 3 có quan hệ thật
gắn bó với liên 2. Nó bàn rộng trên cơ sở liên 2 đã miêu tả đầy đủ ở đầu bài, đầy
đủ về phương diện giải nghĩa. Lê Trí Viễn cho rằng: “Trong bài bát cú, câu luận
chiếm một địa vị quan trọng. Đi sâu, mở rộng, suy luận là đây. Chiều sâu, tầm
cao của bài thơ hay cũng ở đây” [79, 199]. Trong mảng thơ thiên nhiên, chính vì
liên 3 có chức năng ấy nên cảnh ít đi mà tình nhiều hơn, thậm chí cảnh chỉ là cái
cớ để bộc lộ tâm tình. Liên 3 dường như bao giờ cũng khoác thêm sắc màu chủ
86
quan, cảm xúc, tâm trạng, những nghĩ suy của tác giả. Nếu liên 2 thiên về tả
cảnh, tất nhiên là cảnh nhịp nhàng với tâm tư thì ở liên 3 của bài thơ, tình đã
thấm đẫm trong cảnh, chủ quan trùm lên khách quan. Tuy còn là mượn cảnh,
cũng còn có thể nói là tả cảnh, nhưng chủ yếu là đã biểu hiện tâm trạng nhà thơ.
Con người và cảnh hài hòa, cảm thông với nhau. Cảnh vật thể hiện tâm tư con
người và con người thể hiện trong cảnh vật. Nhà thơ không chỉ có con mắt nhìn
mà chủ yếu là trái tim rung cảm. Liên 3 không còn phảng phất tình, hé mở tình
mà thật sự “hàm” tình. Chẳng hạn:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Đau lòng mỏi miệng cái gia gia
(Qua Đèo Ngang)
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
(Tức cảnh chiều thu)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liệu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Bể ái ngàn trung khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
(Cảnh đền Trấn Võ)
Đặc điểm thứ hai của liên 3 là nó không sát đề mà “lơi” đề hơn, đồng thời,
tính hiện thực giảm đi mà sức liên tưởng, tưởng tượng, cách diễn đạt bóng bẩy
thường được sử dụng hơn, rõ nét hơn. Do vậy, nếu liên 2 thiên về hiện thực hơn
thì liên 3 thiên về lý tưởng hơn. Những nét tác giả phác họa ở đây vị tất đã có
thực ở cuộc sống ngoài đời. Có thể là tâm trạng, lại có thể là những suy tư triết lý
có màu sắc đạo đức, thời thế, lịch sử:
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Chùa Trấn Bắc)
87
Đặc điểm liên 2 và 3
Đặc trưng nổi bật của liên 2 và liên 3 là mỗi liên gồm 2 câu thơ đối nhau,
hô ứng với nhau, cộng hưởng về ý tứ và nhạc điệu, tạo nên một chỉnh thể độc lập
trong bài thơ, một “vũ trụ” tự nó ổn định. Từng cặp biểu hiện những ý đối lập
hoặc bổ sung cho nhau mà không cần quan hệ từ. Với Bà Huyện Thanh Quan,
những bài thơ của bà đậm sắc thái Đường thi càng thể hiện rõ đặc điểm này:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ở đây, “xe ngựa” chuyển động hô ứng với “lâu đài” bất động, “hồn thu
thảo” trừu tượng cộng hưởng với “bóng tịch dương” cụ thể, thấy được. Những
hình ảnh ấy đồng hiện, vẽ ra một bức tranh của cuộc sống con người, xã hội Việt
Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX: những đổi thay chóng mặt của các triều
đại, biết bao cái biến chuyển như cảnh “thương hải biến vi tang điền” của lịch
sử. Cảm nghĩ mang cảm hứng lịch sử này chính là ở chiều sâu lòng tác giả. Đồng
thời, đặt cái lẽ thịnh suy của việc đời đầy vơi, của lịch sử thăng trầm bên quang
cảnh thiên nhiên trường cửu, bên cái vẻ lạnh lùng, vô tình của đất trời, sông núi
– mà ngoại giới ấy cũng hô ứng, cộng hưởng với nhau – 4 câu thơ càng làm nổi
bật vẻ bi thiết của kiếp người, càng âm vang tiếng kêu bi thương của con người
bé nhỏ, phù du bên bờ vĩnh cửu, vô cùng của tạo vật trong trái tim nhà thơ.
Như vậy là hai cặp câu thơ có đối ở giữa bài thơ bát cú tưởng như là
không có quan hệ gì, tưởng như là chia tách nhau, nhưng thực ra lại là có sự
thống nhất, “bởi vì đặc trưng của thơ Đường là thể hiện bằng quan hệ, đối là một
hình thức tiêu biểu của quan hệ. Và dù “chính đối” (ý nghĩa hai câu thơ tương
hợp) hay “phản đối” (ý nghĩa hai câu thơ tương phản) thì mục đích và hiệu quả
thẩm mĩ của chúng vẫn thống nhất và đều phục vụ đắc lực cho việc thể hiện sự
tương giao giữa ngoại cảnh với nội tâm, chúng là những nhịp nối khai đề với kết
đề, nối cảnh với tâm” [33, 47].
Cấu trúc đăng đối (hay kiến trúc đối xứng) ở 4 câu thơ này buộc người
88
ngâm thơ, đọc thơ phải lưu ý: vì cần phải nắm bắt ý nghĩa của cả hai câu trong
cùng một liên thơ đồng thời với nhau mới cảm nhận được nên nhịp thơ bắt buộc
phải chậm lại. Bởi vậy bốn câu giữa bài thơ mang sắc thái trang trọng khác hẳn
với mấy câu thơ khác.
Xét về mặt ngữ pháp thì cấu trúc ngữ pháp của những câu thơ này cũng có
quan hệ với cấu trúc đối xứng trong từng liên thơ. Có thể nói, có sự xuất hiện
khá phổ biến những dị thường về cú pháp, nghĩa là có sự xáo trộn, biến đổi cấu
trúc ngữ pháp thông thường, mà phổ biến nhất là kiến trúc đảo ngược cú pháp.
Nhà thơ thường sử dụng đảo từ, đảo ngữ. Chẳng hạn:
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
3.2.1.3. Đặc điểm của liên 4 (cặp kết thúc)
Nếu sức nặng của bài thơ tuyệt cú thường dồn xuống câu “hợp” thì có thể
nói linh hồn của bài bát cú thường đọng lại ở liên 4, đặc biệt là ở câu kết (dòng
8). Nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ Cẩn khẳng định: “Trong kinh nghiệm nghiên cứu
và giảng dạy thơ Đường luật, chúng tối thấy câu kết thường là câu bộc lộ rõ chủ
để bài thơ. Khảo sát các bài thơ Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long hoài cổ, Qua Đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đều thấy chủ đề tư tưởng đọng lại ở câu kết.
Cũng như câu hợp trong thơ tuyệt cú, câu kết nói riêng, cặp thúc kết nói
chung vừa có nhiệm vụ khép lại bài thơ – còn gọi là sự hồi cố, nghĩa là trở lại
vấn đề đã nêu ở hai câu đề - vừa phải làm sao cho người đọc cảm nhận được cái
dư vị khi đọc hay ngâm hết bài thơ. Vì thế cặp thúc kết thường hàm tình. Những
bài thơ có kết hay luôn có chiều hướng gợi ra những ý mới làm cho dư âm bài
thơ đọng mãi trong tâm trí người đọc, tưởng như một thứ nhạc điệu bên trong
cộng hưởng với lời thơ giàu nhạc tính. Tình ý nhờ vậy vừa gọn gàng vừa bay
bổng làm trội cả bài thơ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ Cẩn nhận xét: “Câu kết phải
viết thế nào cho khái quát, vừa níu lại được ý đầu đề, vừa nâng được ý bài thơ
89
cao hơn, gây được âm vang và liên tưởng cho người đọc. Bài thơ có câu kết hay
là bài thơ đã khép lại mà tứ thơ vẫn còn ngân vang, man mác làm cho người đọc
bồi hồi xúc động, tiếp tục suy tư” [2, 45].
Một trong những yếu tố khiến cho cây kết giàu nhạc tính là thủ pháp dồn
nén cảm xúc ở những câu thơ trên (từ dòng 1 đến dòng 6), đồng thời làm nổi bật
thanh ở chữ gieo vần dòng cuối (âm tiết sau cùng của dòng 8) tạo sự vang vọng
của âm thanh và cảm xúc. Tình cảm ở đây không lộ liễu mà kín đáo, không chân
chất thật thà mà thường gợi cảm, thậm chí có khi không phải đọc là hiểu ngay
mà phải cảm. Trong bài thơ dường như có những viên chất nổ ở câu thơ kết. Tất
nhiên, cũng là thơ Nôm Đường luật nhưng không phải bài thơ nào cũng có kết
thúc như vậy. So sánh bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với
bài thơ cùng tên của Lê Thánh Tông, chúng tôi thấy tuy Lê Thánh Tông có khả
năng quan sát tài tình, trong bài thơ có những câu thơ hay, hình tượng đẹp, thể
hiện cái nhìn trìu mến với thiên nhiên:
Thà là cúi xuống cây đòi sụt
Xô xát trông lên sóng muốn trèo.
Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ
Lanh đanh cuối vụng cá ngong triều,
Nhưng đọc xong câu kết, bài thơ cũng chấm dứt không có âm vang:
Cuộc đời kim cổ chừng bao nả
Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu
Ngược lại, bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, liên 1 và liên 2 chỉ là cảnh,
lại là cảnh khá mờ nhạt. Liên 3 bắt đầu nhói lên một chút cảm xúc ngậm ngùi
nhưng còn có vẻ chung chung, cảm xúc thật sự nén lại ở liên 4. Đọc những dòng
thơ này, chúng ta thấy thương cho cái cô đơn của nhà thơ. Bởi vì tất cả những gì
thuộc về thiên nhiên đều gắn bó, hòa hợp với nhau tạo thành một khung cảnh
thiên nhiên ít nhiều ấm cúng để đẩy nhà thơ vào tận cùng của sự lẻ loi. “Tình
riêng” của Bà Huyện Thanh Quan là tình gì vậy? Có lẽ khó xác định một cách
tuyệt đối chính xác và chắc chắn. Vậy mà cái lời thơ nhè nhẹ như tiếng thở dài
của câu thơ cuối cứ âm vang mãi trong tâm hồn, khiến tâm hôm con người bâng
90
khuâng khôn dứt.
3.2.2. Nhịp điệu thơ
Làm nên tính trọn vẹn của thơ luật Đường không chỉ ở các yếu tố niêm,
luật…mà còn có sự góp phần của nhịp thơ. Mỗi thể thơ đều có nhịp thơ riêng và
với thơ Nôm Đường luật cũng không là ngoại lệ. Từ điển thuật ngữ văn học quan
niệm nhịp điệu “là sự lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện
tượng ngôn ngữ, hình ảnh, mô típ…nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mỹ về thế
giới, tạo ra cảm giác vận động của sự sống, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của
văn bản nghệ thuật” [20, 165]. Vì vậy có nhịp điệu của thể thơ và nhịp điệu của
luật thơ. “Ở cấp độ tổ chức văn bản, đơn vị cơ bản của sự lặp lại trong thơ là
dòng thơ với độ dài của nó gồm số tiếng và vần như là điểm ngắt của nó. Vì vậy,
mọi thể thơ có một nhịp điệu riêng. Dòng thơ lại có kiểu ngắt nhịp của luật thơ,
có độ dài ngắn cân đối hoặc không cân đối khác nhau. Nhịp điệu của thể thơ và
luật thơ tạo thành cái nền nhịp điệu…” [20, 165]. Ở cấp độ thứ nhất – cấp độ tổ
chức văn bản – nhịp điệu tổng quát trong cả bài thơ tạo nên sự khăng khít, điều
hòa của bài thơ dường như không khác gì so với một bài thổ Đường thi hay
Đường luật chữ Hán. Tuy nhiên ở cấp độ thứ hai, nhịp điệu trong từng dòng thơ
thì vừa giống vừa khác nhau. Đây là nhịp điệu của luật thơ và mang ý nghĩa thi
pháp rất rõ, góp phần cho thấy cái mã của thể loại thơ Nôm Đường luật.
Nói một cách hình ảnh thì nhịp thơ là cái dáng đi, cái chuyển động của
dòng thơ khi mau, khi chậm, lúc nghỉ, lúc dứt. Ở thơ Anh, thơ Đức, yếu tố nhịp
điệu rất rõ. Nó gây nên bởi sự trở lại đều đặn của những âm thanh cần phải đọc
mạnh vào (stress). Ở thơ Pháp, yếu tố “rythme” ấy chỉ hơi rõ. Còn trong thơ Việt
Nam, bởi tiếng Việt không có “stress” nên khi ngâm thơ người ta ngân dài giọng
ở chữ trước chỗ ngắt và ở chữ mang vần, hay tùy thuộc tình ý trong câu thơ mà
đọc mạnh, cao giọng vào một vài chữ, nhờ đó gây ra trạng thái đều đặn về âm
hưởng. Lý do chúng tôi không khảo sát nhịp điệu của thể thơ là vì ở thơ Nôm
Đường luật thế kỉ XIX nói chung và thơ Bà Huyện Thanh Quan nói riêng, mỗi
dòng thơ đã ổn định số âm tiết, chỉ lẫn lộn một số ít câu lục ngôn không đáng kể.
Nếu Nguyễn Trãi và tiếp đó là các tác gia Hồng Đức, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể
91
hiện mạnh mẽ tinh thần phá cách thơ luật thì Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương lại thể hiện khuynh hướng trở về với hình thức kết
cấu ban đầu của thơ Đường luật. Vì thế, đến nửa sau thế kỉ XVIII, câu thơ lục ngôn
không còn giữ vai trò là “cái mã” để nhận diện thơ Nôm Đường luật nữa.
Sự thể nghiệm ở các thế kỉ trước, kể từ Quốc âm thi tập thường được các
nhà nghiên cứu cho là mang tính chất độc đáo của nhịp điệu trong thơ Việt Nam.
Có người căn cứ vào nhịp ngắt của thơ lục bát để lý giải nhịp ngắt của câu lục
ngôn. Đó là Nguyễn Văn Xung trong bài viết “Những cố gắng nhằm li khai thơ
Việt Nam ra khỏi thơ Tàu” đăng trên tạp chí Tư tưởng (Sài Gòn),số 1 năm 1973.
Ông viết: “Vậy thì thơ lục ngôn xuất hiện vào thượng kì đời hậu Lê đã bắt đầu li
khai với nhịp điệu thất ngôn của Tàu và nhận chịu ảnh hưởng của thể lục bát
trong văn chương dân gian Việt Nam để thể hiện cá tính dân tộc của nó trong
nhịp điệu và nhạc tính”. Để lý giải sự vắng mặt của hiện tượng này trong thơ
Nôm Đường luật thế kỉ XVIII và XIX, ông cho rằng: “Lý do có lẽ là vì lục ngôn
này nhịp điệu tuy có sinh động nhưng âm điệu lại có tính chất khô khan và thô
cộc, chưa phù hợp với tâm hồn Việt Nam, cho nên đã bị đào thải..”. Tất nhiên
theo chúng tôi, đây là một khát khao xây dựng một lối thơ Việt Nam để bộc lộ cá tính
dân tộc, muốn tự khẳng định mình bằng cách làm khác với Đường thi Trung Quốc.
Ở cấp độ thứ 2, về nhịp điệu trong từng dòng thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn
Thái Hòa cho rằng: “Thể thất ngôn bát cú có nhịp lẻ, nếu tính từ phần cuối 4/3
hoặc 2/2/3. Ví dụ:
Bước tới đèo Ngang / bóng xế tà
Cỏ cây chen đá / lá chen hoa
Nhịp khá đơn điệu và chỉ dùng để ngâm, dường như tạo một chỗ ngừng
nhỏ để làm giàu âm hưởng chứ không có vai trò quan trọng” [28, 229]. Thật ra
nhịp điệu thơ Nôm Đường luật theo chúng tôi là khá sinh động. Chỉ riêng dạng
thất ngôn, ngoài nhịp 4/3, 2/2/3 còn có nhịp 2/5 và 3/4 …và ở chỗ ngững giữa
dòng thơ, không chỉ là làm giàu âm hưởng mà còn tạo liên tưởng, gợi những mối
liên hệ rất tinh tế giữa hai vế câu (hay ba vế) nhờ nhịp ngắt, có thể là mối liên hệ
92
tương phản, cũng có thể là mối liên hệ thống nhất, hòa hợp.
Ở những dòng thơ có nhịp ngắt 4/3, dừng lại ở nới ngắt nhịp, người đọc có
thể cảm nhận những xúc động, những suy nghĩ không nói nên lời, không thể nói
hết được của nhà thơ. Tất nhiên ở đây có nhiều gần gũi với thi pháp thơ Đường.
Một dẫn chứng tiêu biểu về mối quan hệ tương phản:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long hoài cổ)
Lời thơ thể hiện cái không nói được của nữ sĩ khi bà chứng kiến một cảnh
tưởng thay đổi đến không ngờ. Cái rộn ràng ngựa xe một thời đã tan biến để
nhường chỗ cho cái hiu quạnh, cái trống không. Những công trình nhân tạo dẫu
huy hoàng đến đâu cũng không thể nào trường cửu, chỉ còn hồn cỏ thu, chỉ còn
bóng chiều tà, nghĩa là chỉ còn cái vĩnh cửu của trời đất. Chính ở chỗ ngừng, nhà
thơ có thể diễn đạt những hàm ý mà ngôn ngữ thơ trong khuôn khổ hạn định của
thể thơ cũng không nói được, là một trong những thủ pháp để bộc lộ “ý tại ngôn
ngoại”, ở hai dòng thơ này là: cái khắc nghiệt vô tình ghê gớm của thời gian, cái
biến đổi cũng gớm ghê của thế sự và cái mong manh bé nhỏ của kiếp người…
Mặt khác, ở những chỗ ngừng giữa dòng thơ, lại có thể là mối liên hệ
thống nhất, hòa hợp rất tinh tế giữa hai vế, giữa những hình ảnh bề ngoài tưởng
như đối lập hoặc độc lập, không có quan hệ với nhau:
Ngàn mai gió cuốn / chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa / khách bước dồn.
(Chiều hôm nhớ nhà)
Giữa “ngàn mai” với “cánh chim”, giữa “dặm liễu” với “lữ khách” tưởng
như không có quan hệ gì, nhưng thật ra, chính nhờ chỗ ngừng, lời thơ gợi liên
tưởng đến cái trở ngại cách ngăn, đến con đường xa xăm vời vợi. Đằng sau hình
ảnh sương sa đầy dặm liễu, chính là chỗ ngưng, người đọc bỗng cảm nhận được
cái lạnh đã bắt đầu thấm vào người mà con đường thì còn quá xa xôi, lẽ nào lữ
khách chẳng dồn chân bước? Như vậy, đây cũng chính là đặc điểm thể hiện âm
93
vang Đường thi trong thơ Nôm Đường luật.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan trang nhã, đài các và điêu luyện là vậy, thế
nhưng sự tiếp nhận thơ bà ở mỗi người và mỗi thời kì lại khác nhau. Có người
thích thơ bà, chê thơ Hồ Xuân Hương sống sượng, dâm tục. Có người lại thích
sự trẻ trung, tươi mới ở thơ Xuân Hương mà phê bình lối thơ chải chuốt, khuôn
sáo ở nữ sĩ Thanh Quan. Các nhà thơ mới đã có thời kì đánh giá rất khắt khe thơ
Bà Huyện Thanh Quan, cho rằng thơ bà dù hay nhưng lại thiếu sự sáng tạo và có
cảm giác khô cứng. Ông Phạm Thượng Chi trong Nam phong tạp chí, số 5 nhận
xét bài thơ Qua Đèo Ngang: “Rằng hay thì thực là hay. Nhưng hay quá, khéo
quá, phần nhân công nhiều mà vẻ tự nhiên ít, quả là một bức tranh cảnh vậy”
[63, 19]. Bình thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Vũ Quần Phương trong cuốn Bình
thơ, NXB Văn học, 2012 đã “góp ý” thẳng thắn với thơ tiền nhân: “Câu sáu:
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia là một câu thơ độn. Nó tồn tại như một hình
nhân làm vế đối cho câu năm, không có hồn vía gì. […] Thơ đường của bà
Thanh Quan nổi tiếng là có ngôn ngữ sang trọng, đài các mà đến lúc phong trần
thì cũng phong trần như ai. Tiếc thế” [tr 149]. Là một nhà thơ có ý thức cao về
nghề nghiệp, Vũ Quần Phương mỗi khi bình không chỉ nói toàn cái hay, cái đẹp
của đối tượng. Nhà bình thơ cũng không ngại nói ra những điều bất cập hoặc còn
non lép. Có điều cách nói của người bình là cách nói chân thành, không phải cao
ngạo hay "bới lông tìm vết" nên dễ được đồng tình, cảm thông. Việc chỉ ra
những hạn chế, những "tì vết" trên viên ngọc cũng góp phần vào nâng cao thị
hiếu thẩm mĩ và năng lực thưởng thức của bạn đọc. Đây cũng là một công lao
cần ghi nhận ở nhà bình thơ Vũ Quần Phương.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết Địa vị lịch sử của phong trào
thơ mới cũng nhận xét: “cho đến hết thời Trung đại thơ tiếng Việt, dù đã có
không ít đỉnh cao ở các thể tự sự, ngâm khúc, hát nói, nhưng người Việt chưa có
thể loại thơ trữ tình của mình. Toàn bộ thơ trữ tình hoàn toàn làm theo khuôn
mẫu Trung Quốc, luẩn quẩn trong vòng Đường luật, không ai vượt qua các đỉnh
cao Lý, Đỗ. Thơ tiếng Việt Đường luật dù điêu luyện như Nguyễn Khuyến, bà
94
Huyện Thanh Quan vẫn đi theo một lối thơ đã vạch sẵn, không có sáng tạo mới.”
Tuy vậy, theo chúng tôi, sự sáng tạo ở các nhà thơ Nôm nước ta trong đó
có thơ Bà Huyện Thanh Quan chính là đã đưa vào thể thơ có nguồn gốc ngoại
sinh này những nét tính cách, tâm hồn rất Việt Nam. Nếu ở Nguyễn Trãi, thơ
Nôm cố gắng phá cách bằng việc sáng tạo những câu thơ lục ngôn chen thêm
vào bài thơ luật Đường nhưng đến Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan…thơ Nôm đã quay về kết cấu quen thuộc nhưng thêm vào đó là lối tư duy
và cách biểu hiện tình cảm của người Việt, gắn với những vấn đề bức thiết của
dân tộc. Thế giới nghệ thuật này xét đến cùng là có những chỗ tương đồng
nhưng chủ yếu là những nét dị biệt với thế giới nghệ thuật Đường thi và cả với
Đường luật Hán. Trong sự giao lưu văn hóa ở đây, rõ ràng ảnh hưởng của Đường
thi có để lại dấu vết trong thơ Nôm Đường luật nhưng rõ ràng có những dấu hiệu
của Đường thi đã được hòa tan trong sức sáng tạo của các nhà thơ Nôm Đường
luật với tư cách chủ thể tiếp nhận. Thể loại này do vậy tiêu biểu cho hiện tượng
vượt gộp hay tiếp biến trong thi ca, rộng hơn là là sự vượt gộp hay tiếp biến văn
hóa. Nó vừa chấp nhận cái chân lý vĩnh viễn tồn tại xuyên qua những thay đổi
bên ngoài nhưng cũng có xu hướng phủ định hệ tư tưởng và phá vỡ tính quy
phạm của Đường thi. Đó là vì sao người ta vẫn yêu và trân trọng những sáng tác
95
thơ Nôm Đường luật như những viên ngọc quý của nền văn học dân tộc.
KẾT LUẬN
Về tiến trình phát triển thơ Nôm Đường luật, rõ ràng thơ Nôm Đường luật
không thể không chịu ảnh hưởng của tư duy nghệ thuật cổ trung đại phương
Đông. Sự vay mượn chất liệu nghệ thuật và cả kĩ thuật làm thơ là một quy luật,
rất phổ biến trong giao lưu văn hóa, nhưng dường như chủ yếu là do mối quan hệ
tương đồng về điều kiện lịch sử, xã hội, đặc điểm chung của tâm hồn con người
Á Đông. Nguyễn Văn Dân trong công trình Những vấn đề lý luận của văn học so
sánh đã khẳng định: “Người ta chỉ có thể vay mượn những gì đồng điệu với quan
niệm tư tưởng của mình” [tr 46,47]. Tuy nhiên các nhà thơ của ta đã tiếp nhận
bằng con đường Việt Nam hóa, biết gạt bỏ những gì xa lạ với cảm thức của
người Việt Nam, nghĩa là tiếp nhận có cách tân và sáng tạo. Phải chăng chính vì
vậy, mặc dù sinh mệnh nghệ thuật của thể loại thơ Nôm Đường luật đã chấm dứt
vào đầu thế kỉ XX nhưng tinh hoa của nó vẫn mãi tồn tại.
Nhà nghiên cứu văn học sử Phạm Thế Ngũ nhận xét: “Thơ luật qua đời
Nguyễn Sơ ở các tác phẩm của hai nữ sĩ Hồ Xuân Hương và Thanh Quan, như
vậy quả đã tiến đến cao độ mĩ diệu như chưa hề thấy”. Dùng từ “mĩ diệu” để nói
về thơ của hai nữ sĩ như vậy hẳn thơ Đường luật lúc này đã đạt đến một vẻ đẹp
hiếm có trong văn học cổ. Không rõ thơ Hồ Xuân Hương hay hơn hay thơ Bà
Huyện Thanh Quan hay hơn vì hay dở còn do cảm nhận và đánh giá của từng
người. Tuy nhiên khó có thể phủ nhận rằng với Bà Huyện Thanh Quan, thơ Nôm
Đường luật đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật Đường thi cũng như đạt đến đỉnh
cao của tâm trạng cô đơn và nỗi niềm hoài cổ. Ở thơ bà có sự hòa trộn một cách
tự nhiên giữa xúc cảm chính trị và xúc cảm trữ tình. Điều đó làm nên nét đặc sắc
riêng trong thơ bà và cũng là đóng góp riêng của bà trong tiến trình thơ Nôm
Đường luật của văn học trung đại.
Với thơ Bà Huyện Thanh Quan, vì có sự hòa hợp mật thiết giữa hình thức
và nội dung nên có thể nói bà là thi sĩ làm thơ Đường luật hay nhất trong văn
chương Việt Nam. Những bài thơ Đường luật của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn
Khuyến, Trần Tế Xương tuy đúng niêm luật nhưng ý tứ có lúc hằn học, mỉa mai,
96
châm biếm, kém vẻ thanh tao, lời văn nôm na, không kiểu cách, trau chuốt, nên
hình thức thì là thơ Đường nhưng tinh thần thơ Đường thì lại khác xa. Thơ Bà
Huyện Thanh Quan hay vì bà đã gửi vào thế vay mượn của Trung Quốc một tinh
thần phù hợp với thể thơ ấy. Như vậy là thơ bà với tính cách diễm lệ và đài các
của nó, chỉ có những người theo đòi Hán học, văn nhân thi sĩ thưởng thức, không
thể phổ cập đến đại chúng. Trái lại thơ của Trần Tế Xương chẳng hạn, với giọng
điệu hóm hỉnh như lời nói chuyện, đọc lên ai cũng hiểu, cũng cảm được tình ý là
một loại thơ rất gần bình dân và rất dễ truyền bá. Thơ Bà Huyện Thanh Quan cao
nhã duyên dáng thì lại kém tính cách phổ thông, thơ Trần Tế Xương được cái dễ
lưu hành trong quần chúng, nhưng chỉ là thơ Đường ở tại cái vỏ. Với Hồ Xuân
Hương, thơ luật Đường chỉ còn là cái vỏ, là tấm áo khoác để nữ sĩ phô diễn hết
tài năng sáng tạo độc đáo của mình. Nó đã mất hẳn tính chất cung đình, đài các
và trang trọng vốn có. Còn thể thơ này ở Bà Huyện Thanh Quan nó vẫn giữ
nguyên được vẻ đài các, trang nhã của mình. Với cách diễn tả thâm trầm, điềm
đạm bằng những lời lẽ thanh tao, quý phái, bà vẫn phả được vào thơ cái hồn, cái
chất riêng của mình. Đó là một tâm trạng cô đơn trước thời cuộc, luôn cảm thấy
mình lẻ loi, quạnh quẽ trước thiên nhiên, trước những thịnh suy phế hưng diễn ra
trước mắt. Bất lực trước lẽ vô thường, vô ngã của định mệnh, bà đã mượn thơ để
kí thác nỗi niềm hoài hương, hoài cổ, hoài quốc của mình.
Sánh vai với Xuân Hương và hoàn toàn khác xa với Xuân Hương trong
phong cách là Bà Huyện Thanh Quan. Nguyễn Lộc đánh giá cao thơ Nôm
Đường luật của hai nhà thơ nữ này: “Dung lượng của thể tài hạn chế và cách luật
của nó chặt chẽ . Tuy vậy các nhà thơ Nôm viết bằng thể thơ Đường Luật vẫn có
những thành lựu rất đánh kể, như Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan”.
Riêng về bà Nguyễn Thị Hinh, nhà nghiên cứu nhận xét: “Còn thơ Đường luật
của Bà huyện Thanh Quan, xuất hiện dưới dạng cổ điển, niêm luật chặt chẽ, nội
dung trang nhã, đặc biệt về âm hưởng thì thơ bà hết sức dồi dào, hấp dẫn. Bà
huyện Thanh Quan chỉ còn lại có mấy bài thơ Đường luật, về phương diện nghệ
thuật, có thể nói là những viên ngọc được một người thợ lành nghề mài giũa kỹ
lưỡng nên nó lóng lánh trăm nghìn màu sắc”. Xét từ góc độ thể loại, sự có mặt
97
của hai nhà thơ nữ này đã chứng minh sự phong phú, đa dạng của phong cách
thể loại, đồng thời khẳng định rằng dòng thơ Nôm Đường luật đến đầu thế kỷ
XIX đã có những bước phát triển vượt bậc, đã xuất hiện phong cách tác giả.
Chúng tôi thấy rằng ở giai đoạn trước, dòng thơ Nôm Đường luật chỉ xuất hiện
phong cách thời đại và phong cách thể loại. Đến bây giờ, đã có thể khẳng định
98
có một phong cách Xuân Hương và một phong cách Nguyễn Thị Hinh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Kế Bính (1938), Việt Hán văn khảo, NXB Nam Ký, Hà Nội.
2. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam,
NXB GD, Hà Nội.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1992), Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ
(chuyên khảo), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Trương Chính (1978), Sổ tay văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
6. Trương Chính, Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như
thế nào vào thơ Nôm?, Tạp chí Văn học số 2, 1973.
7. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
8. Lê Chí Dũng (2001), Tính cách Việt Nam qua thơ Nôm Đường luật, NXB
Văn học, Hà Nội
9. Trần Quang Dũng (2008), Sự vận động và phát triển của thơ Nôm Đường
luật theo hướng kế thừa, tiếp biến và sáng tạo với Đường luật Hán trên tinh
thần dân tộc hóa, dân chủ hóa thể loại,
http://minhtam051205.blogspot.com/2011/05/su-van-ong-va-phat-trien-cua-
tho-nom.html.
10. Sở Cuồng Lê Dư (1929), Nữ lưu văn học, NXB Đông Tây, Hà Nội.
11. Trần Thanh Đạm (1995), Sự chuyển tiếp của văn chương Việt Nam thời kì
hiện đại (chuyên đề) ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
12. Lê Qúy Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (Tập II)
13. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa, Huế.
14. Nguyễn Thị Bích Hải (2003), Giáo trình thi pháp thơ Đường, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
15. Đỗ Thị Hảo (2010), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam, NXB Khoa học Xã
99
hội, Hà Nội.
16. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo dục
xuất bản.
17. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Nha học chính
Đông – Pháp.
18. Dương Quảng Hàm (1968), Văn học Việt Nam, Bộ GD (Sài Gòn), Trung
tâm học liệu tái bản.
19. Dương Quảng Hàm (1933), Quốc văn trích diễm, NXB Tân Dân, Hà Nội.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ Văn học,
NXB GD, Hà Nội, 1992.
21. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Bà Huyện Thanh Quan, Nguyên Gia Thiều, Đặng Trần
Côn, Phan Huy Ích, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
22. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB KHXH – NXB Mũi
Cà Mau.
23. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
24. Đinh Gia Khánh (1964), Văn học cổ Việt Nam, tập I, NXB GD, Hà Nội.
25. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2008), Văn học Việt Nam (thế kỉ X – nửa đầu
thế kỉ XVIII), NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Trần Trọng Kim (1949), Việt thi, NXB Tân Việt, Sài Gòn.
27. Hải Nam Đoàn Như Khuê (1927), Cảo thơm toàn tập, NXB Quảng Thịnh,
Hà Nội.
28. Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách Tiếng Việt, NXB GD, Hà Nội.
29. Thanh Lãng (1953), Văn chương chữ Nôm, Phong trào Văn hóa xuất bản,
Sài Gòn.
30. Đặng Thanh Lê (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế
kỉ XIX, NXB GD, Hà Nội.
31. Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử kí toàn thư, tập II, NXB KHXH tái bản, Hà
Nội.
32. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ
100
XIX, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
33. Nguyễn Lộc (1995), Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX, TTĐTTX Đại học Huế xuất bản.
34. Nguyễn Lộc (2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.
35. Phạm Luận (2012), Quốc âm thi tập/ Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Đặng Thai Mai, Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và
văn học Trung Quốc, Nghiên cứu văn học số 7/ 1961.
37. Long Điền Nguyễn Văn Minh, Bài Văn hành công khí, trang 9 và 10, Tri tân
số 28 tháng 12 – 1941
38. Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện
tượng Hồ Xuân Hương
http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=32
98%3Ac-im-ting-ci-trong-th-nom-truyn-tng-thuc-hin-tng-h-xuan-
hng&catid=63%3Avn-hc-vit-nam&Itemid=106&lang=vi
39. Bùi Ngọc Minh, Vấn đề "Dâm tục” trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương, http://vandanvn.net/vi/news/Tieu-luan-Bien- khao/Van-de-Dam-tuc-trong-tho-nom-truyen-tung-thuoc-hien-tuong-Ho- Xuan-Huong-Bui-Ngoc-Minh-195/
40. Bùi Ngọc Minh, Vấn đề tiểu sử Hồ Xuân Hương, hiện tượng giao thoa giữa
văn hóa bác học và folklore, http://newvietart.com/index4.1108.html
41. Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2013), Văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
42. Lạc Nam (1993), Tìm hiểu các thể thơ, từ thơ cổ phong đến thơ luật, NXB
Văn học, Hà Nội.
43. Phan Ngọc, Suy nghĩ về thể loại thơ song thất lục bát, Tạp chí Sông Hương
số 9/1984.
44. Phan Ngọc (1991), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, NXB Đà Nẵng.
45. Phan Ngọc (2009), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, NXB KHXH, Hà Nội.
46. Nguyễn Văn Ngọc (2000), Nam thi hợp tuyển, NXB Văn hóa Thông tin, Hà
101
Nội.
47. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập II, Quốc
học tùng thư xuất bản, Sài Gòn
48. Bùi Văn Nguyên, Thử tìm tên thật của Bà Huyện Thanh Quan, Tạp chí
NCVH, số 12 (36), tháng 12/1962
49. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Mấy vấn đề về thi pháp thơ Đường,
NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
50. Nguyễn Đình Phúc (2013), Thi pháp thơ Đường, NXB Đại học Quốc gia TP
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
51. Nguyễn Thanh Phúc, Thơ Nôm Đường luật (Từ Hồ Xuân Hương đến Trần
Tế Xương), Luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn.
52. Nguyễn Tường Phượng, Bùi Hữu Sủng, Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỉ
XIX,
53. Vũ Tiến Quỳnh – Khánh Hòa (1991), Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều: Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình, bình
luận văn học của các nhà văn, nghiên cứu Việt Nam và thế giới, Nxb Tổng
hợp Khánh Hòa
54. Vũ Tiến Quỳnh (1999), Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Sương
Nguyệt Anh: Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn
học của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí
Minh
55. Nguyễn Văn San, Quốc văn tùng ký (Kí hiệu AB 383 Thư viện thông tin
KHXH)
56. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh xuất bản.
57. Trần Đình Sử (1987), Lý luận văn học (3 tập), NXB GD, Hà Nội.
58. Trần Đình Sử (1995), Bình giảng tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
59. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
102
NXB Giáo dục, Hà Nội.
60. Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Kính, Trần Thị An (2010), Thi pháp học ở Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
61. Bùi Duy Tân, Vấn đề thể loại trong Văn học Việt Nam thời cổ, tạp chí Văn
học số 3 – 1976.
62. Bùi Duy Tân (1995), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVII
(Giáo trình), Đại học Huế.
63. Hoài Thanh, Hoài Chân (2005), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
64. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (1918), Cổ xúy nguyên âm,cuốn 2, Đông kinh
ấn quán, Hà Nội
65. Bội Tỉnh (1995), Người đẹp Nghi Tàm: Cuộc đời và thơ bà Huyện Thanh
Quan, Nxb Giáo dục
66. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý Văn nghệ - Khổng Đức Đinh Tấn Dung
dịch, NXB TP. HCM.
67. Trần Thị Băng Thanh, Thơ Bà Huyện Thanh Quan – niềm vui và nỗi buồn,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, SỐ 1(247), tháng 1&2/1991
68. Doãn Kế Thiện (1959), Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội, NXB Văn hóa, Hà
Nội.
69. Lã Nhâm Thìn, Thơ Nôm Đường luật từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
đến thơ Hồ Xuân Hương, Luận án PTS. ĐHSP Hà Nội I, 1993.
70. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, NXB Văn học, Hà
Nội
71. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
NXB Giáo dục, Hà Nội
72. Đỗ Lai Thúy, Bà Huyện Thanh Quan, người đi dọc những Đèo Ngang,
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=372026
73. Tảo Trang, Góp thêm tài liệu về tiểu sử và thơ văn Bà Huyện Thanh Quan,
Tạp chí NCVH, số 10(70), tháng 10/1965
74. Ngô Tất Tố (1943), Thivăn bình chú, Nha học chính Đông – Pháp xuất bản
75. Nguyễn Hùng Vĩ, Về bài thơ “Qua Đèo Ngang” – các dị bản, các vấn đề,
103
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4(386), tháng 4/2004
76. Trần Trung Viên (2004), Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, Hà Nội.
77. Lê Trí Viễn (1995), Giáo trình tổng quan văn chương Việt Nam, TTDTTX
Đại học Huế xuất bản.
78. Lê Trí Viễn (1995), Đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam (chuyên đề
NCS) ĐH Sư phạm TP. HCM.
79. Lê Trí Viễn (1982), Những bài giảng văn ở Đại học, NXB GD, Hà Nội.
80. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX, những
vấn đề lí luận và lịch sử, NXB giáo dục, Hà Nội.
81. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
82. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
83. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các toạ độ chữ, NXB Tri
thức, Hà Nội
84. Nhiều tác giả (1978), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III, NXB Văn học,
Hà Nội.
85. Từ điển văn học (2 tập), tập I (1983), tập II (1984), NXB KHXH, Hà Nội.
86. Codier, Littérature annamite (Văn học Việt Nam) (1914), NXB Hà Nội –
Hải Phòng.
87. Likhatrôp, A.X, Thi pháp văn học Nga cổ xưa, NXB Văn học, Leeningrat,
1967. Bản dịch của Phan Ngọc, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1970.
88. Lisevich, I.S. (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trần Đình Sử
dịch, NXB ĐHSP. Tp HCM.
89. Bakhtin, M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,
Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.
90. Ôp-xi-a-nhi-cốp, M.F. (1987), Mỹ học Mác – Lê nin (tập I) – Phạm Văn
104
Bích dịch, NXB Văn hóa, Hà Nội.
105