ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LƢƠNG THỊ THU THẢO
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN TỪ GÓC NHÌN
TƢ DUY NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LƢƠNG THỊ THU THẢO
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN TỪ GÓC NHÌN
TƢ DUY NGHỆ THUẬT
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Viê ̣t Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn này, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của bản thân,
tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô
Viện văn học, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Nguyễn Bá Thành –
giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận văn
của mình.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới những người đã giúp đỡ, động
viên tôi trong suốt thời gian qua. Tôi xin gửi lời kính chúc sức khỏe và hạnh
phúc tới thầy, cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Thơ Nguyễn Việt Chiến từ góc nhìn tư
duy nghệ thuật” là công trình do tôi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Bá Thành. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu xót. Vì vậy tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy
cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 22 tháng 12 năm 2016
Học viên
Lƣơng Thị Thu Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
5. Đóng góp khoa học của đề tài .................................................................... 6
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 7
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN
NIỆM THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN ........................................................... 8
1.1. Một số vấn đề về lý luận về tư duy nghệ thuật .......................................... 8
1.1.1. Tư duy nghệ thuật ................................................................................... 8
1.1.2. Tư duy thơ ............................................................................................... 9
1.2. Quan niệm thơ và quá trình sáng tác của Nguyễn Việt Chiến ................. 11
1.2.1. Vài nét về tiểu sử ................................................................................... 11
1.2.2. Quá trình sáng tác .................................................................................. 12
1.2.3. Quan niệm thơ Nguyễn Việt Chiến ....................................................... 15
CHƢƠNG 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN ..................................................... 18
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Việt Chiến ................................... 18
2.1.1 Cảm hứng về Tổ quốc, nhân dân ........................................................... 18
2.1.2 Cảm hứng về tình yêu lứa đôi ................................................................ 29
2.2. Nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến ...................................... 39
2.2.1. Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ .......................................... 39
2.2.2. Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến ........................ 39
2.2.2.1. Cái tôi chiêm nghiệm - triết lý, suy tư về cuộc đời ............................ 40
2.2.2.2. Cái tôi đằm thắm, nồng nàn trong tình yêu ........................................ 43
2.2.2.3. Cái tôi luôn thường trực với tình yêu quê hương, đất nước............... 46
2.2.3. Những nhân vật trữ tình khác trong thơ Nguyễn Việt Chiến ................ 49
2.2.3.1. Người mẹ ............................................................................................ 49
2.2.3.2. Nhân vật em ....................................................................................... 50
2.2.3.3. Người chiến sĩ .................................................................................... 51
CHƢƠNG 3. THỂ LOẠI, NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG TRONG
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN ..................................................................... 55
3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 55
3.1.1. Thể thơ tự do ......................................................................................... 55
3.1.2. Thể thơ lục bát: ..................................................................................... 58
3.1.3. Thể thơ 8 chữ: ....................................................................................... 62
3.1.4. Thể thơ 5 chữ ........................................................................................ 63
3.2. Cấu tứ thơ ................................................................................................. 65
3.2.1. Khái niệm về cấu tứ trong thơ ............................................................... 65
3.2.2. Những cấu tứ đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến ............................ 66
3.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 71
3.3.1. Ngôn ngữ trong tư duy thơ .................................................................... 71
3.3.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến ........................................ 71
3.4. Biểu tượng ................................................................................................ 78
3.4.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 78
3.4.2. Phân biệt hình tượng với biểu tượng ..................................................... 78
3.4.3. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến ..................... 80
3.4.3.1. Con tàu ............................................................................................... 80
3.4.3.2. Trăng .................................................................................................. 81
3.4.3.3. Hoa hồng ............................................................................................ 87
3.4.3.4. Hoa sen ............................................................................................... 89
3.4.3.5 . Cỏ ...................................................................................................... 92
3.4.3.6. Cát ...................................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đặc trưng của tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế
giới khách quan, quan hệ giữa con người với con người và quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng, truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các
phương tiện ngôn ngữ. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ tư duy nghệ thuật là một yêu
cầu toàn diện và khá phức tạp đối với các hiện tượng thi ca. Nghiên cứu thơ từ góc
độ tư duy tạo những khả năng tiếp cận mới, khám phá phong cách nghệ thuật của
nhà thơ từ nhiều góc độ khác nhau.
Tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng, hay nói cách khác tư duy nghệ thuật
nhằm phản ánh hiện thực có tính thẩm mỹ. Để làm rõ hơn về vấn đề này, tác giả
Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ hiện đại Việt Nam nhấn mạnh: “Tư duy
nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng
hóa hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan” [35,tr. 62]. Điều này đã làm
sáng rõ hơn về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được
phản ánh trong lĩnh vực thơ ca, nghệ thuật.
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, là một vấn
đề lý luận mới mẻ và đầy sức hấp dẫn. Nó có khả năng mở ra những cánh cửa để đi
vào thế giới nghệ thuật phong phú và bí ẩn.
Tư duy thơ không chỉ có yếu tố cá nhân mà còn bao hàm cả yếu tố dân tộc,
nhân loại và thời đại. Nó nằm trên bình diện nội dung và hình thức, nằm trong mối
tương tác giữa chủ thể và khách thể. Cho nên tiếp nhận thơ ca dưới góc nhìn tư duy
là một hướng tiếp cận có chiều sâu, mang tính hệ thống và toàn diện.
Nguyễn Việt Chiến (1952), là nhà thơ xuất hiện không sớm trong văn đàn,
bởi ông xuất thân là một nhà báo. Tuy nhiên, thơ mới là cách để ông hoàn thiện
chính mình. Bốn mươi tuổi, ông mới cho ra mắt tập thơ đầu tiên (Mưa lúc không
giờ) và hơn chục năm sau, qua những Ngọn sóng thời gian; Cỏ trên đất; Những con
ngựa đêm và đặc biệt là Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Viễn Chiến đã chính thức để
1
lại những dấu ấn khó phai trong lòng độc giả về hành trình sáng tạo, đổi mới và
cách tân cho thơ ca.
Nguyễn Việt Chiến đã có những đóng góp lớn vào dòng chảy thơ Việt Nam
đương đại.Với 5 tập thơ đã xuất bản, ông đã tạo được dấu ấn riêng trong lòng độc
giả.
Mặc dù bắt đầu sự nghiệp sáng tác không sớm, nhưng đến nay ông đã gặt hái
được những thành công nhất định như: Giải nhì Cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, Hội
Nhà Văn Việt Nam (1989-1990); Giải nhì cuộc thi Thơ hay về biển của Vũng Tàu
(1992); Giải nhì cuộc thi Thơ Tạp chí Văn nghệ 1998 – 1999; Giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội (2004) và Hội Nhà văn Việt Nam (2004) cho tập thơ Những con
ngựa đêm.
Tiếp nối những bài viết nghiên cứu về thơ Nguyễn Việt Chiến, luận văn sẽ đi
từ góc độ tư duy nghệ thuật nhằm phát hiện ra những tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo
nghệ thuật của Nguyễn Việt Chiến, khẳng định phong cách thơ Nguyễn Việt Chiến.
Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ đưa đến cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về
thơ Nguyễn Việt Chiến cũng như góp phần khẳng định vị trí và những đóng góp của
ông cho nền thơ ca nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Qua việc tìm hiểu những bài nghiên cứu của các tác giả về thơ của Nguyễn
Việt Chiến, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bài viết đều tập trung khẳng định nội
dung đặc sắc trong các tác phẩm thơ của Nguyễn Việt Chiến và đặc biệt là ý thức
cách tân rõ nét của nhà thơ qua từng thời kỳ, từng tác phẩm.
Theo thống kê của chúng tôi, tính đến thời điểm năm 2016, đã có khoảng
hơn 40 bài viết trên các tạp chí, báo và mạng internet về thơ của Nguyễn Việt
Chiến. Có thể kể đến một số bài tiêu biểu như: Khách mời quán văn - Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến của Đoàn Văn Mật; Nguyễn Việt Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển;
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến háo hức lên con tàu tìm bến đỗ mới cho thi ca của Đỗ
Ngọc Yên…
2
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông, chưa thật xứng
đáng. Hầu hết đó là những bài viết ngắn, những cảm nhận, những nhận xét mang
tính khái quát, đăng rải rác ở một số tờ báo.Sau đây, chúng tôi sẽ điểm qua một số ý
kiến tiêu biểu.
Phùng Hiệu – Nguyên Pháp trong bài Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến
kể về những dự cảm trong đời đã viết: “Có thể nói, anh đã vượt lên nỗi đau đời
thường của chính mình, bỏ qua những hiềm nghi tầm thường tự sự để nghĩ về Tổ
quốc, để xúc động theo cách một nhà thơ đang cảm nhận sự tự do qua mỗi ngày
đang sống và nhìn nhận những nguy cơ, những hiểm họa đang đến gần trên vùng
biển đảo của Tổ quốc thân yêu. Và chính từ những cảm xúc lớn lao, trách nhiệm ấy,
anh đã viết Tổ quốc nhìn từ biển như viết từ chính bằng máu và nước mắt của mình
– như lời Nguyễn Việt Chiến tâm sự. Và không gì vui sướng, thỏa chí hơn khi bài
thơ nhận được sự tri âm, đồng điệu từ triệu triệu người yêu nước đúng vào thời
điểm “đất nước gian lao”. Ngay sau đó, anh cho ra đời luôn tập trường ca Tổ quốc
nhìn từ biển gồm hơn 1.000 câu thơ và mười chương, trong đó có 4 chương viết về
biển đảo và 6 chương viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới
phía Bắc. Tác phẩm này đã được trao giải thưởng Văn học 5 năm của Bộ Quốc
phòng giành cho những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài chiến tranh, cách mạng
và bảo vệ Tổ quốc. Thế mới gọi là tài chứ – chữ của một nhà văn”[46].
Đỗ Ngọc Yên trong bài Nguyễn Việt Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển cho rằng:
“Với 50 bài thơ gói gọn trong gần 200 trang của Tổ quốc nhìn từ biển có khá nhiều
bài trực tiếp đề cập đến chủ đề biển đảo và Tổ quốc như: Tổ quốc nhìn từ biển, Tổ
quốc là tiếng mẹ, Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra, Mẹ - Tổ quốc, Tổ quốc nơi
biên thùy, Tổ quốc bên bờ biển cả, Đất nước, Ta như cỏ trên ngược trần Tổ quốc,
Chuông chùa vọng tiếng trống đồng Trường Sa, Gió Hoàng Sa,... Như vậy có thể
coi Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ của những đề tài lớn mang tính chất thế sự. Có
người cho rằng sở dĩ Nguyễn Việt Chiến khá thành công ở mảng đề tài này vì nó
gắn liền với công việc làm báo của anh, vốn rất cần một sự tinh nhạy đối với những
3
biến động xã hội và lịch sử. Và hầu hết các giải thưởng thơ của anh cũng đều thuộc
về đề tài này” [49].
Trong bài báo về Buổi ra mắt thơ ấm áp của Nguyễn Việt Chiến, nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo chia sẻ: “Tôi cảm giác Nguyễn Việt Chiến 'lên đồng' với chủ đề
về Tổ quốc, tình yêu đất nước. Mỗi bài một cảm xúc, cái thì tinh tế, cái thì hào
hùng... Hình như sự 'lên đồng' của anh cũng quá mạnh mẽ, vì thế anh in thêm tập
Hoa hồng không vỡ đầy tính dịu dàng... Hai tập như một cặp phạm trù nhưng không
đối lập nhau. Hoa hồng không vỡ cho thấy Nguyễn Việt Chiến là cây thơ tình nồng
nàn, đắm đuối bên cạnh tác giả của thể loại chính sự. Nguyễn Việt Chiến đã truyền
tải tinh thần đó thành tứ thơ lãng mạn, day dứt qua: Cát đợi, Mùa thu không trở lại,
Hoa hồng không vỡ, Có một người bị ướt thức trong ta, Để nhớ về em...” [48].
Đỗ Ngọc Yên trong bài Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến: Háo hức lên con tàu tìm
bến đỗ mới cho thi ca thì nhận định: “Nguyễn Việt Chiến coi diễn trình đổi mới thi
ca Việt như những chuyến tầu lao mãi về phía trước không ngừng nghỉ. Chuyến du
hành ấy chẳng bao giờ là sớm và cũng chẳng bao giờ là muộn. Chỉ có điều, không
thể không ra đi để tìm bến đỗ mới cho thơ… Khách quan mà nói, thơ Nguyễn Việt
Chiến là sự pha trộn của cả ba khuynh hướng thơ đương đại: khuynh hướng truyền
thống, khuynh hướng cách tân trên cơ sở truyền thống, và khuynh hướng cách tân
hoàn toàn ảnh hưởng thơ của các trường phái Hiện đại, Hậu hiện đại, Tân hình thức,
Tân cổ điển… từ các nước phương Âu- Mỹ” [50].
Tuy nhiên các bài viết chỉ mới khai thác về một vấn đề nhỏ hoặc về một tập
thơ lẻ của tác giả chứ chưa có một bài viết nào tìm hiểu tác phẩm của Nguyễn Việt
Chiến một cách có hệ thống và toàn diện.
Vì thế, việc nghiên cứu thơ Nguyễn Việt Chiến dưới góc nhìn tư duy nghệ
thuật sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn về thế giới nghệ thuật của nhà thơ, làm rõ cái tôi trữ
tình của nhà thơ và khẳng định những đóng góp của Nguyễn Việt Chiến trên các
phương diện biểu tượng, ngôn ngữ, giọng điệu trong sáng tạo thơ ca.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Việt Chiến nhằm tìm hiểu về tư
duy thơ của tác giả. Chỉ ra những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn
Việt Chiến thông qua nội dung và các phương thức biểu hiện như: những biểu
tượng đặc sắc, ngôn ngữ, cấu tứ, thể loại…
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ thơ Nguyễn Việt Chiến và những tác phẩm
phê bình về thơ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những tập thơ tiêu biểu của ông như:
+ Mưa lúc không giờ (thơ, NXB Hội nhà văn, 1992)
+ Ngọn sóng thời gian (thơ, NXB Thanh niên, 1998)
+ Những con ngựa đêm (thơ, NXB Hội nhà văn, 2004)
+ Trăng và thơ đọc chậm (thơ, NXB Hội nhà văn, 2012)
+ Tổ quốc nhìn từ biển (thơ, NXB Phụ nữ, 2015)
+ Hoa hồng không vỡ (thơ, NXB Phụ nữ, 2015)
Ngoài ra chúng tôi còn liên hệ với thơ của các tác giả khác để có cái nhìn đối
sánh và lý giải.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp những
kiến thức về lí luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủyếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Chúng tôi dùng phương pháp này để đi
sâu vào đặc trưng, thể loại trong thơ Nguyễn Việt Chiến.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Vận dụng phương pháp này để tìm hiểu
những đặc trưng về thơ Nguyễn Việt Chiến trong bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi dùng phương pháp này để thiết
lập hệ thống luận điểm. Từ sự phân tích cụ thể tác phẩm, người viết tổng hợp khái
quát để có những kết hợp, nhận định, tránh lối áp đặt chủ quan không cần thiết.
5
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê các thể loại thơ trong sáng tác
của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.
- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại: Chúng tôi so sánh sự vận động tư
duy thơ qua các tập thơ của Nguyễn Việt Chiến, mặt khác, so sánh tư duy thơ
Nguyễn Việt Chiến với một số tác giả cùng thời hoặc cùng viết về một đề tài để tìm
ra những đặc trưng riêng của thơ ông.
- Đồng thời, luận văn vận dụng những thành tựu khoa học của các ngành: Lí
luận văn học, lí thuyết tiếp nhận, thi pháp học, phương pháp luận nghiên cứu văn
học… trong quá trình nghiên cứu và triển khai.
5. Đóng góp khoa học của đề tài
Luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống và khá toàn diện tư duy thơ
của Nguyễn Việt Chiến. Tìm hiểu thơ Nguyễn Việt Chiến dưới góc độ tư duy nghệ
thuật nhằm khám phá những nét mới trong thế giới nghệ thuật nói chung và thế giới
thơ Nguyễn Việt Chiến nói riêng.
Nghiên cứu tư duy thơ qua sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, qua
hệ thống biểu tượng, cấu tứ, ngôn ngữ và giọng điệu, nhằm tìm ra những nét khác
biệt trong cách cảm, cách nghĩ, những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật của thơ Nguyễn
Việt Chiến.
Trong bối cảnh công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật đã có những thành tựu
đáng kể và đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong nước, luận văn góp thêm cái nhìn
toàn diện, khoa học và khách quan về toàn bộ sáng tác thơ Nguyễn Việt Chiến trong
nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua đó khẳng định được hướng tiếp cận nghiên cứu
từ góc độ tư duy nghệ thuật đối với các hiện tượng văn học thực sự có nhiều ưu thế
cần được tiếp tục và phát triển.
Bên cạnh đó, luận văn còn đòng góp thêm một tiếng nói trong việc khẳng
định vị trí của thơ Nguyễn Việt Chiến trong nền thơ hiện đại nói riêng và nền thơ
Việt Nam nói chung.
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nguyễn Việt Chiến từ góc nhìn
tư duy nghệ thuật.
6
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật và quan niệm thơ
Nguyễn Việt Chiến
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Việt
Chiến
Chương 3: Ngôn ngữ và biểu tượng trong thơ Nguyễn Việt Chiến
7
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN
1.1. Một số vấn đề về lý luận về tư duy nghệ thuật
1.1.1. Tư duy nghệ thuật
Tư duy là một thuật ngữ có tính chất mở, với một nội hàm khá rộng. Nói đến
tư duy là liên quan đến lĩnh vực triết học, tâm lý học… trong đó có lĩnh vực nghệ
thuật.
Trong Từ điển triết học của M.Rodentan, P.Iudin có định nghĩa về tư duy
như sau: “Tư duy là một hoạt động nhận thức lý tính của con người. Khí quan của
tư duy chính là bộ óc người với một hệ thống tinh vi gần 16 tỷ tế bào thần kinh”
[42, tr.676].
Đặc trưng tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế giới
khách quan, quan hệ con người với con người và quan hệ giữa các sự vật hiện
tượng; Truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng phương tiện
ngôn ngữ. Đó là toàn bộ của chức năng nhận thức của tư duy.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là cái vỏ vật chất của tư tưởng. Tư duy làm
cho ngôn ngữ phát triển tinh xảo, ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu vào bản
chất sự vật.
Tư duy nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ
thuật và có nhiều quan niệm khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái
quát những vấn đề về tư duy nghệ thuật, tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư
duy thơ hiện đại Việt Nam đã bàn nhiều về vấn đề tư duy nghệ thuật nói chung, tư
duy thơ nói riêng và đi đến kết luận: “Tư duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo
các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hoá hiện thức khách quan theo nhận thức
chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân
sinh quan của người sáng tạo” [35, tr.39].
Khác với tư duy khoa học, ở tư duy nghệ thuật “Tư tưởng tình cảm không
chỉ là năng lượng của tư duy mà còn là đối tượng nhận thức của tư duy”.
8
1.1.2. Tư duy thơ
Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nằm trong phương thức biểu hiện trữ tình.
Nó được nuôi dưỡng trong cảm xúc của con người với nhân sinh quan, gắn với
những cảm xúc ở sâu trong tâm hồn con người, với phương thức biểu đạt thông qua
ngôn ngữ để giãi bày những cảm xúc đó, trở thành một tác phẩm nghệ thuật.
Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Tư duy thơ
là phương thức nhận thức và biểu lộ tình cảm của con người bằng hình tượng ngôn
ngữ. “Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ tình, cái
tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai
dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ
tình coi trọng biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài
thơ... Do sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại
mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định… Tư duy thơ phản ánh
những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại” [35, tr. 44].
So với tư duy logic thì tư duy hình tượng có được một phạm vi rộng rãi hơn
cho sự liên tưởng và quyền tưởng tượng của người sáng tạo. Tư duy thơ chấp nhận
một khả năng tưởng tượng dường như vô tận của nhà thơ. Trí tưởng tượng là biểu
hiện trực tiếp của năng lượng tư duy hình tượng.
Sóng Hồng cũng đã thừa nhận: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí
tưởng tượng”. Trí tưởng tượng của nhà khoa học khác với nhà thơ ở chỗ, nhà khoa
học thì mã hóa các tài liệu cảm tính, quy chúng về các đại lượng, các ký hiệu và
con số, quan sát và biểu diễn sự vận động của hiện thực thành sự vận động của khái
niệm, của kí hiệu. Khả năng tưởng tượng của tư duy khoa học là ở chỗ trừu tượng
hóa, vô hình hóa các sự vật và hiện tượng. Còn nhà thơ thì cụ thể hóa, hình tượng
hóa hiện thực khách quan theo một đường dây liên tưởng. Tư duy thơ là sự kết hợp
giữa hướng nội và hướng ngoại. Hướng ngoại là nhằm vào đối tượng miêu tả, trình
bày nó dưới ánh sáng của một quan niệm thẩm mỹ. Hướng nội là tác giả tự nghĩ về
mình, tự quan sát và biểu hiện cái tôi nội cảm của mình. Tìm hiểu tư duy thơ là tìm
9
hiểu sự vận động của hình tượng thơ. Ngôn ngữ đối với nhà thơ vừa có ý nghĩa
phương tiện vừa có ý nghĩa mục đích, nó là một thứ “công cụ” trực tiếp của tư duy.
Khả năng tự do của tư duy thơ phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu
trúc thể loại…
Sự vận động của hình tượng thơ không phải là tùy tiện và vô hướng, tuy rằng
tính chất ngẫu nhiên và tự do của trí tưởng tượng thơ ca là rất cao. Khả năng tự do
của tư duy thơ còn phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu trúc thể loại.
“Khả năng tự do của tư duy thơ thể hiện trong khả năng co dãn của dòng thơ,
khả năng kéo dài của lời thơ, ý thơ, câu thơ. Những cấu trúc thể loại truyền thống
giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong hành trình vận động của hình tượng thơ.
Thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, thơ lục bát…là những thể thơ ổn định, lâu đời đã làm đa
dạng hóa nhưng đồng thời cũng đơn điệu hóa các kiểu tư duy thơ” [35, tr. 8]. Tư
duy thơ thường được biểu hiện thành từng dòng phát ngôn trên văn bản và từng
quãng ngắt hơi trong khi đọc.
Như vậy, sự tồn tại của dòng thơ đã làm ảnh hưởng đến tư duy thơ, tính nhạc
điệu của ngôn ngữ cũng chi phối đến tư duy thơ. Muốn tìm hiểu thơ và tư duy thơ
của các thời đại, các dân tộc hay các tác giả khác nhau, chúng ta cần tìm hiểu những
đặc trưng tư duy của từng chủ thể ở mỗi dân tộc và thời đại. Mặt khác, chúng ta
cùng tìm hiểu thơ ở mỗi người, mỗi thời kỳ lịch sử. Quan niệm thơ sẽ chi phối tư
duy thơ. Nếu coi thơ là một thứ vũ khí thì tư duy thơ phải mạnh mẽ, ngôn ngữ thơ
phải sắc nhọn. Nếu coi thơ là món ăn tinh thần, thơ phải ngọt ngào, phải nhuần nhị.
Vậy thì quan niệm nghệ thuật có một thứ vai trò quan trọng trong việc xác định bản
chất của thơ và tư duy thơ.
Tư duy thơ phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại. Về mặt
nội dung nhận thức, có thể coi tư duy thơ là biểu hiện cụ thể và sinh động của
những tư tưởng triết học, chính trị, đạo đức dưới dạng phổ biến nhất của một cộng
đồng người. Tư duy thơ là sự khôi phục và sáng tạo ra các biểu tượng trực quan, vai
trò của nhận thức cảm tính là vô cũng quan trọng, nhưng không phải quyết định.
Những quan niệm về thơ, về nhân sinh, về thời đại sẽ làm cho nhà thơ chú ý nhiều
10
hơn đến loại biểu tượng này hay biểu tượng khác. Một quan niệm mới về nhân sinh,
về thế sự, về nghệ thuật ra đời sẽ làm thay đổi hướng tư duy thơ. Những tình cảm
mạnh mẽ và sâu sắc, nhu cầu bộc lộ những tư tưởng mới, ý thức về sự vận động và
phát triển của thời đại, của dân tộc, quốc gia…tất cả đều chi phối đến tư duy thơ.
Như vậy có thể thấy, tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói riêng gần
với đời sống hiện thực hơn so với tư duy khoa học vì tính chất trực quan của các
biểu tượng. Công việc nghiên cứu tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói
riêng là một quá trình khám phá, tìm hiểu hoạt động sáng tạo, bước đầu nghiên cứu
thế giới nghệ thuật trong một tác phẩm thơ ca của một nhà thơ tiêu biểu.
1.2. Quan niệm thơ và quá trình sáng tác của Nguyễn Việt Chiến
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Nguyễn Việt Chiến sinh 8/10/1952, quê quán Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà
Nội, thường trú tại quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, uỷ
viên Ban chấp hành Hội nhà văn Hà Nội (2011-2015), uỷ viên Ban chấp hành Hội
Liên hiệp VHNT Hà Nội (2011-2015). Có thơ in báo trung ương từ năm học lớp 9 -
lớp chuyên văn đầu tiên của Hà Nội ở Trường Chu Văn An năm 1969.
Thời chiến tranh, Nguyễn Việt Chiến đi bộ đội, sau đó xuất ngũ, học đại học
rồi công tác trong ngành bản đồ. Cùng với đó, ông theo học khóa bồi dưỡng viết
văn trẻ, học khóa nghiệp vụ báo chí nâng cao sau đại học. Năm 1991, Nguyễn Việt
Chiến công tác ở báo Văn Nghệ, năm 1993, ôngvề công tác tại Báo Thanh Niên
(Hội Liên hiệp Thanh niên VN) cho đến nay.
Trong suốt quá trình sáng tác, Nguyễn Việt Chiến đã có rất nhiều đóng góp
cho nền văn học nước nhà, tên tuổi và những sáng tác của ông không chỉ thu hút
được độc giả yêu văn thơ trên khắp mọi miền tổ quốc, thậm chí có những bạn văn,
bạn thơ, thích thơ ông và thuộc nhiều thơ ông.
Mặc dù vậy, nhưng tên tuổi Nguyễn Việt Chiến chỉ thực sự được đông đảo
bạn đọc biết đến nhờ những sáng tác về biển đảo, gắn với sự kiện mang tính thời sự
của đất nước. Trong những ngày hàng triệu trái tim Việt Nam đang sục sôi hướng ra
11
biển Đông, ông đã liên tiếp cho ra đời những sáng tác nóng hổi, mang tính thời sự
làm hàng triệu trái tim Việt Nam ngân rung, được nhiều bạn trẻ tìm nghe trên mạng.
Những vần thơ trong bài Thời đất nước gian lao; Tổ quốc nhìn từ biển vang lên, nó
như lời hiệu triệu, thúc giục hàng trăm nghìn trái tim yêu nước cùng hòa nhịp.
Chính đề tài bắt kịp xu hướng chung của thời đại, mang tính thời sự nóng bỏng này
đã khiến cho tên tuổi nhà thơ đến gần hơn với độc giả và khiến những lời thơ ấy còn
sống mãi với thời gian.
Các giải thưởng văn học của Nguyễn Việt Chiến: Giải nhì cuộc thi thơ Báo
Văn Nghệ năm 1989-1990, Giải nhì cuộc thi thơ hay về biển năm 1992, Giải nhì
cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1998-1999, Tặng thưởng thơ hay Tạp
chí VNQĐ năm 2000, Giải thưởng thơ Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004 cho tập thơ
Những con ngựa đêm, Tặng thưởng thơ Hội Nhà văn VN năm 2004 cho tập thơ
Những con ngựa đêm, Giải nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2008-
2009, Giải ba cuộc thi thơ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội năm 2010, Giải nhì cuộc
thi thơ Đây biển Việt Nam năm 2012 của báo Vietnamnet và báo Văn nghệ, Giải
thưởng văn học 5 năm 2010-2014 cho trường ca về biển của Bộ Quốc phòng.
1.2.2. Quá trình sáng tác
Cho đến nay, đã hơn 40 năm sau chiến tranh và gần 30 năm đổi mới, cùng
với bước ngoặt đổi mới quan trọng của nền văn học Việt Nam đương đại, cả một
thời kỳ mới đáng ghi nhận của thơ ca đất nước đã mở ra với sự xuất hiện của hàng
loạt tác giả, tác phẩm mới mang dấu ấn của một giai đoạn văn học sau chiến tranh.
Điều đáng mừng, cả thế hệ các nhà thơ đã trưởng thành và khẳng định tên tuổi trong
chiến tranh cũng hăm hở và nhiệt thành bước vào giai đoạn cách tân - đổi mới tự
thân thơ của mình trong giai đoạn này.
Nhìn lại chặng đường gần 30 năm qua (1986-2016), có thể thấy thơ ca đương
đại vừa có sự tiếp nối gánh nặng văn chương từ thế hệ các nhà thơ đã hành trình
trong suốt 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975), vừa có sự bứt
phá ngoại mục để đưa thơ ca sải bước những bước dài trên con đường hiện đại hóa.
Và hành trình thơ ấy có sự góp mặt của nhiều thế hệ.
12
Ấn tượng đầu tiên là các nhà thơ thành danh trong chiến tranh, vẫn tiếp tục
viết và tiếp tục được khắng định: Lưu Quang Vũ (mất 1988); Hoàng Hưng; Phùng
Khắc Bắc; Ý Nhi; Thanh Thảo; Nguyễn Trọng Tạo… Đây là lớp người trưởng
thành từ những năm chiến tranh nhưng vẫn giàu nội lực sáng tạo, tìm tòi, đổi mới
chính thơ mình trong giai đoạn Hậu chiến. Không chỉ cách tân về hình thức nghệ
thuật, lớp nhà thơ kháng chiến đã đổi mới cách phản ánh bản chất đời sống của thơ
bằng chính những cảm nhận về cuộc đời trầm luôn khó nhọc với những suy tưởng
đớn đau và nhân bản về một thế giới đang phải tự hàn gắn những đổ vỡ sau đêm dài
chiến tranh và bạo lực. Một Hoàng Hưng với những thể nghiệm thơ gây khá nhiều
tranh cãi. Một Thanh Thảo luôn trăn trở với những tìm tòi, thể nghiệm trên con
đường tìm nguồn – nước- thi- ca…
Song hành với những nhà thơ nói trên là thế hệ của các nhà thơ mới, họ là
những gương mặt của thời kỳ hậu chiến tiếp nối đến hôm nay. Họ đã làm nên dòng
chảy đầy sức sáng tạo và đa dạng của nền thơ ca đương đại. Trước hết phải kể đến
nhóm tác giả thành danh sau năm 1986. Ấy là “một Nguyễn Lương Ngọc bừng cháy
và ngạo nghễ trong tìm tòi; một Nguyễn Quang Thiều đã tạo từ - trường – thơ mới;
một Dư Thị Hoàn độc đáo trong sáng tạo thơ; một Mai Văn Phấn đang hành trình
đến bến bờ của sự cách tân; một cõi thơ lạ đến say đắm của Nguyễn Bình Phương;
một Phan Thị Vàng Anh đang cố gắng vượt lên bằng một bản lĩnh thơ mới...”
[6, tr34]. Điểm nổi bật trong sáng tác của họ là sự trẻ trung, tươi mới và giàu chất trí
tuệ. Những cây bút đương đại được nhắc tới nhiều có thể kể đến một số tên tuổi
như: Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly… Điểm chung nhất ở họ là sự
khát khao thể hiện tiếng nói thế hệ mình như một giá trị. Và giá trị ấy được đảm bảo
bằng cái mới, cái hiện đại trong quan niệm về thơ, trong bút pháp, hình thức thể
hiện… Dù những tìm tòi, cách tân chưa dễ được đồng thuận trong đánh giá và tiếp
nhận của người đọc nhưng vẫn có thể cảm nhận được nguồn sinh lực trong thế hệ
nhà thơ đương đại hôm nay.
Trong số những thế hệ nhà thơ, những gương mặt vừa kể trên, có thể nói
Nguyễn Việt Chiến là một trong những gương mặt thơ khá nổi bật trong nền thơ
13
Việt Nam Đương đại. Nguyễn Việt Chiến đã gây ấn tượng mạnh trong thơ Việt đặc
biệt là mảng đề tài thế sự, biển đảo.
Cũng như thế hệ mình, Nguyễn Việt Chiến sớm rời ghế nhà trường để bước
vào chiến trường. Những trải nghiệm ngắn ngủi nhưng khốc liệt của cuộc chiến đã
hằn sâu vào kí ức người cầm bút, tạo tiền đề, cơ sở cho những sáng tác của ông sau
này.
- Bốn mươi tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, Mưa lúc không giờ (1992).
Gần chục năm sau, ông cho ra đời tiếp tác phẩmNgọn sóng thời gian (1998) và Cỏ
trên đất (2000), 3 năm sau, Nguyễn Viễn Chiến đã chính thức ra mắt tập thơNhững
con ngựa đêm(thơ, NXB Hội nhà văn, 2004); Trăng và thơ đọc chậm (thơ, NXB
Hội nhà văn, 2012); Tổ quốc nhìn từ biển (thơ, NXB Phụ nữ, 2015); Hoa hồng
không vỡ (thơ, NXB Phụ nữ, 2015).
- Cũng chính sự nhạy cảm cách tân trong sáng của tập thơ trên mà liền đó,
Nguyễn Việt Chiến, với tư cách là người tuyển chọn và thẩm bình, đã làm nên tập
tiểu luận Thơ Việt tìm tòi và cách tân 1975 – 2005.
- Đặc biệt hơn, điều đã làm nên tên tuổi Nguyễn Việt Chiến trong bước
đường thơ ca ấy chính là những tác phẩm viết về đề tài tổ quốc như Thời đất nước
gian lao - tháng 6/2008; Tổ quốc nhìn từ biển - tháng 4/2009.
Những bài thơ này đã làm lay động hàng triệu độc giả với những câu hỏi đau
đáu lo lắng, đồng hành với vận mệnh đất nước. Chính bản thân nhà thơ cũng từng
nhận định rằng: “Tổ quốc nhìn từ biển và Thời đất nước gian lao có thể nói là hai
bài thơ hay nhất về đất nước mà tôi từng viết, trong đó tôi đã vận dụng hết năng lực
sáng tạo, toàn bộ tài năng và vốn sống trải nghiệm của tôi trong suốt 40 năm qua.
Sự khái quát đó, trải nghiệm đó, tôi cũng chỉ mong đánh thức được tình yêu đất
nước trong tâm hồn mỗi con người hôm nay” [48].
14
1.2.3. Quan niệm thơ Nguyễn Việt Chiến
Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ có một cuộc sống sôi nổi và thăng trầm. Với
hàng loạt những tập thơ đã xuất bản của mình, ông đã khẳng định một thương hiệu
Nguyễn Việt Chiến trong nền thơ Việt đương đại, đầy dựcảm và sáng tạo.
- Ông quan niệm: “Trong những giây phút ngã lòng yếu đuối nhất của cuộc
đời, chính thơ ca đã cứu rỗi tôi, đã cho tôi có được niềm tin vào cuộc sống” [48].
- Trong một buổi ra mắt hai tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển và Hoa hồng không
vỡ hồi đầu tháng 11/2015, trả lời trên báo chí, Nguyễn Việt Chiến cho rằng: “Thơ
hay phải đánh thức con người, không phải ở góc độ mỹ học mà là chiêm nghiệm nỗi
đau, chia sẻ với con người những mất mát, hạnh phúc. Tôi rất thích lời nói của một
nhà thơ nước ngoài, đại ý “thơ là nền nghệ thuật chia sẻ với con người", ông nói
[47].
- Nguyễn Việt Chiến quan niệm: “Đòi hỏi cách tân thơ như một nhu cầu bức
thiết và tự thân của những cây bút trẻ”[48]. Và “bản chất của sự cách tân và đổi mới
thơ không chỉ nằm ở sự tìm tòi về mặt hình thức nghệ thuật cấu trúc của ngôn ngữ
thơ mà điều thiết yếu căn cốt là ở sự đổi mới nội dung đời sống được phản ánh
trong thơ” [48].
- Ông nhấn mạnh rằng: “Đời sống thi ca trong thơ trẻhiện nay còn mỏng
quá” [48]. Ông khuyến khích các cây bút trẻ không nên ngoảnh mặt với đời sống
thực đang chuyển động không ngừng, mà hãy coi đó là tư liệu sinh động để thỏa sức
sáng tạo.
- Đề tác phẩm văn học có sức thuyết phục và lôi cuốn, Nguyễn Việt Chiến
quan niệm: “Ngoài việc khắc họa thành công cái tôi, các nhà thơ phải hướng đến
những chân trời lớn lao hơn, hướng đến cộng đồng, hướng đến nỗi đau và khát vọng
của chính dân tộc mình – và phải khắc họa được chính đời sống đang diễn ra xung
quanh mình. Điều đó khó khăn và đòi hỏi nhiều thứ lắm.Nó đòi hỏi sự trải nghiệm
nhiều, đau đớn nhiều, vốn sống nhiều, và cả tài năng – là điều không thể thiếu”
[44].
15
Có thể nói những quan niệm về thơ của Nguyễn Việt Chiến khá phong phú,
ngoài những nhận định về thơ trên bề nổi, Nguyễn Việt Chiến còn đi sâu vào tìm
hiểu thi pháp của thơ, ông đưa ra những nhận định và quan niệm về ngôn ngữ thơ,
biểu tượng thơ rất sâu sắc. Chính sự thấu hiểu thơ ca trong chiều sâu của nguồn gốc
và sự sáng tạo như vậy nên Nguyễn Việt Chiến có ý thức cách tân rất rõ rệt. Ý thức
cách tân thơ của ông không chỉ dừng lại ở việc xác định ở hình thức bên ngoài của
khái niệm cách tân mà sâu sắc hơn còn là ở sự đổi mới nội dung, là sự phản ánh hơi
thở của cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu cầm bút
Nguyễn Việt Chiến đã tạo ra một giọng thơ lạ cho riêng mình. Những tác phẩm ra
đời như một sự minh chứng cho quan điểm nghệ thuật của một thi nhân dám sống
hết mình, cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Đặc biệt, dám hướng đến nỗi đau và
những khát vọng sục sôi của dân tộc. Ông là một nhà thơ có công lớn trong sự vận
động của thơ hiện đại Việt Nam.
TIỂU KẾT: Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Việt Chiến đã ghi dấu mạnh mẽ trong lòng độc giả với những tác phẩm
mang đậm chất thế sự, đặc biệt trong mảng đề tài về tổ quốc, biển đảo. Nguyễn Việt
Chiến là nhà thơ không xuất hiện sớm trên văn đàn, nhưng ông đã có những đóng
góp không nhỏ vào nền thơ ca hiện đại, cả về mặt nội dung và hình thức lẫn quan
niệm thơ ca. Với tư duy hướng ngoại tích cực, Nguyễn Việt Chiến đã cất cao tiếng
nói khẳng định chủ quyền của đất nước, gợi mở cho người đọc nhiều suy ngẫm về
vấn đề chủ quyền của đất nước, về vai trò của quan trọng của biển đảo đối với một
quốc gia và trách nhiệm của một người công dân trong việc giữ gìn đất đai Tổ
quốc…
Trước đó, khi còn là một người lính bước ra từ chiến trận, Nguyễn Việt
Chiến viết về đồng đội và tâm sự chính mình bằng những suy tư, trăn trở về cuộc
đời, về tình yêu đôi lứa, về hạnh phúc… Tư duy thơ của Nguyễn Việt Chiến đã
chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại. Đây có thể coi là một hành trình chuyển
động ngược với xu thế. Bởi trước kia, các nhà thơ thường hướng ngòi bút của mình
đến những vấn đề lớn lao mang tính lịch sử, thời đại, như viết về tổ quốc, về chiến
16
tranh… rồi lại hướng ngòi bút của mình đến những tâm tư, trăn trở cá nhân, thì đến
với Nguyễn Việt Chiến, ông lại đi ngược xu thế ấy. Sự vận động này được đánh dấu
bằng một hành trình dài với tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển và Thời đất nước gian
lao…Trước kia, tư duy thơ hướng nội cùng chất lãng mạn của nỗi buồn thảng thốt,
của những dự cảm, bất chợt đến với Nguyễn Việt Chiến, thì nay, vẫn ngòi bút ấy,
ông đã hướng đến những con người thực tại, hướng đến những vấn đề lớn lao mang
tính cộng đồng, thời đại.
17
CHƢƠNG 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG
THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Việt Chiến
2.1.1 Cảm hứng về Tổ quốc, nhân dân
Trong mỗi trái tim thi sĩ đều thường trực một tình yêu Tổ quốc như là một
điểm tựa tinh thần, một niềm kiêu hãnh. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong Việt Nam
quê hương ta”với nhịp lục bát thong thả, mênh mang mở ra một bát ngát của đồng
quê thôn Việt, bát ngát của những mùa màng ấm no: “Việt Nam đất nước ta ơi/
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/ Cánh cò bay lả rập rờn/ Mây mờ che đỉnh
Trường Sơn sớm chiều”. Còn nhà thơ Đỗ Trung Quân, ông vẽ ra một phần đất nước
thu nhỏ, quê hương hiện ra thật cụ thể, mộc mạc, đơn sơ mà thấm thía nghĩa tình
trong Quê hương: “Quê hương là chùm khế ngọt/ Cho con trèo hái mỗi ngày”. Cũng
như trong trường ca Những người đi tới biển”nhà thơ Thanh Thảo đã từng hơn một
lần tự vấn, tự day dứt và tự giải đáp: “Chúng tôi đi không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi
hai mươi ai mà không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”.
Ngay cả nhà thơ HữuThỉnh, trong trường ca Đường tới thành phố ông cũng đã có
lần day dứt thốt lên: “Nếu kẻ thù chiếm được/ Một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn/
Thì Tổ quốc sẽ ra sao Tổ quốc”… Cho đến nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa –
người đã nổi tiếng từ bé với Góc sân và khoảng trời khi anh đã thành người lính thì
đất nước hiện hữu trong anh như một biểu tượng của tình yêu và cao hơn cả tình
yêu lứa đôi: “Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên/ Bão thổi chưa ngưng trong
những vành tang trắng/ Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng/ Biển một bên và em
một bên”(Thơ tình người lính biển). Cùng một cảm hứng đầy tính thế sự nhưng
nồng nàn và ẩn chứa bao trăn trở. Chân thành trước lịch sử, đắm đuối với lòng mình
nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong tập thơ Tổ Quốc nhìn từ biển đã có những phát
hiện thật tinh tế và bất ngờ.
Ở đây, Nguyễn Việt Chiến vừa tiếp tục làm công việc của các thi sĩ thuộc thế
hệ chiến tranh trước đây, vừa đề cập kịp thời đến những vấn đề nóng bỏng của đất
18
nước và dân tộc hôm nay.Chiến tranh không ngừng ám ảnh người đàn ông cao lớn
có mái tóc rối và dáng vẻ quả quyết – người mang một cái tên đặc biệt - Nguyễn
Việt Chiến.
Trả lời với báo chí, Nguyễn Việt Chiến đã từng khẳng định rằng, gia tài của
ông là bài thơ yêu nước. Nhà thơ từ chia sẻ: “Trong những bài thơ viết ra, tôi
không muốn nói về nỗi đau cá nhân mình. Tôi viết về nỗi mất mát của cuộc chiến
tranh đã đi qua và nỗi đau của dân tộc. Tổ quốc nhìn từ biển, rồi Thời đất nước gian
lao, tôi đã dồn hết mọi tâm trạng của riêng mình xuống tận cùng, đã nén mọi bi kịch
cá nhân để không còn một chút gì là nỗi đau riêng của mình, để viết về đồng đội,
bạn bè tôi đã hy sinh. Những người bạn của tôi đang nằm dọc dãy Trường Sơn,
ngày hôm nay, lại hướng mình về biển”.
Hoàng Đức Diễn từng nhận xét: “Có thể nói, nếu không có một tình yêu lớn
đối với Tổ quốc thì không có một nhà thơ nào viết nổi những câu thơ lay động tâm
hồn như vậy. Và đó cũng chính là điều ta nhận thấy ở Nguyễn Việt Chiến. Bài thơ
Tổ quốc nhìn từ biển, vì vậy là một thông điệp về tình yêu Tổ quốc và sứ mạng
công dân…” [9,tr.4 ].
Ở mỗi khổ thơ trong Tổ quốc nhìn từ biển, tác giả đều đưa đến cho chúng ta
nhiều suy ngẫm về vấn đề chủ quyền của đất nước, về vai trò của quan trọng của
biển đảo đối với quốc gia và trách nhiệm của mỗi một người công dân Việt Nam
trong việc giữ gìn đất đai, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Bài thơ được xây dựng trên cấu tứ nền tảng là những giả định về Tổ quốc
gắn với những hình ảnh về biển đảo: “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển…”,
“Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển…”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo…”,
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích…”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa…”,
“Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả…”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát…”.
Hình tượng Tổ quốc được Nguyễn Việt Chiến đặt trong điểm nhìn “từ biển”, khiến
cảm nhận về Tổ quốc của ông khác với các nhà thơ khác khi viết về đề tài này.
Nhưng cái độc đáo hơn là ở chỗ nhà thơ gợi nhắc chúng ta về một truyền thuyết
đáng yêu của buổi bình minh Tổ quốc, khi Lạc Long Quân và Âu Cơ với trăm
19
người con, theo mẹ lên rừng, theo cha xuống biển, vẽ nên hình hài đất nước cho
cháu con muôn đời:“Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/Mẹ lên rừng thương
nhớ mãi Trường Sa”.
Khẳng định chủ quyền của đất nước, ông gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long
Quân và Âu Cơ chia con lên rừng, xuống biển mà làm nên hình hài đất nước. Theo
nhà thơ, dòng máu Rồng Tiên đã cho ta Tổ quốc, cho ta tiếng nói, để tiếng nói đầu
tiên mà con dân nước Việt cất lên là tiếng nói đánh giặc bảo vệ cõi bờ Tổ quốc thân
yêu. Nguyễn Việt Chiến đã hình tượng hóa Tổ quốc bằng truyền thuyết, với điểm
nhìn xuyên suốt “từ biển”, và những “bão giông”, những “hiểm họa”, những “mất
mát” từ đó hiển hiện trong những chiều kích khác nhau. Ta bắt gặp ở đây sự giao
cảm, sự đồng điệu của Nguyễn Việt Chiến với Trần Đăng Khoa:
“Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành khăn trắng”
(Thơ tình của người lính biển)
Hình ảnh Tổ quốc chưa một ngày bình yên với âm hưởng thơ trầm hùng, bi
tráng như hối thúc, giục giã suy nghĩ trong tâm hồn mỗi người:
“Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn”
Trong điểm nhìn “từ biển”, Tổ quốc là biển và biển cũng là Tổ quốc. Thanh
Thảo, trong trường ca Những người đi tới biển cũng đã viết:
“Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển
ôm những quần đảo trong vòng tay thương mến
mắt dõi nhìn hút cánh hải âu bay”
Tổ quốc vì thế mà rộng dài trong cả không gian lẫn thời gian, rộng dài trong
tình yêu vô biên của con dân nước Việt đối với Tổ quốc. Nguyễn Việt Chiến đã nói
hộ chúng ta về tình yêu Tổ quốc. Ông cảm nhận được những giông bão rình rập,
20
những mất mát đau thương, những hiểm họa khôn lường đến với Tổ quốc từ phía
biển và ông thể hiện tình yêu Tổ quốc bằng một thứ tình cảm máu thịt:
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa”
... “Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân”
Tổ quốc dưới góc nhìn “từ biển” trong bài thơ của Nguyễn Việt Chiến vừa
trải qua ngàn năm đau thương, mất mát với bao nhiêu hiểm họa, nhưng cũng từ
ngàn năm ấy, Tổ quốc đã bất khuất ngẩng cao đầu chiến thắng quân thù:
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng”
Nguyễn Việt Chiến đã thay chúng ta nói lên niềm tự hào, kiêu hãnh chính
đáng về một Tổ quốc anh hùng. Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống đấu tranh
dựng nước và giữ nước của cha ông nhưng không có quyền quên đi trách nhiệm giữ
gìn đất đai Tổ quốc. Ý thức rất rõ trách nhiệm của người cầm bút chân chính, ông
đã nói hộ chúng ta về tinh thần trách nhiệm công dân cao cả đối với đất nước:
“Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi”
Tổ quốc trong tâm thức con người Việt Nam là một giá trị đã được kiến tạo bằng
xương máu, bằng công sức của biết bao thế hệ, trải rộng dài trong thời gian hàng
ngàn năm. Với tổ quốc trong lòng, con người Việt Nam sẵn sàng dâng hiến máu
xương của mình:
“đất nước đẹp mênh mang
đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
chỉ riêng cho Người, chúng tôi dám chết!”
21
(Thử nói về hạnh phúc - Thanh Thảo - 1972)
Truyền thống ấy bất chấp thời gian, luôn hiện hữu dưới mọi hình thái xã hội,
không gì có thể tước bỏ, dập tắt, làm con người Việt Nam buông bỏ tình yêu quê
hương, đất nước, tổ quốc của mình. Người đang sống yêu tổ quốc bằng hơi thở,
bằng máu nóng, bằng cái chết, người nằm xuống vẫn yêu tổ quốc bằng thịt xương
đang ước ao tái sinh thành cỏ, thành đất, đắp bồi thêm lên quê hương, xứ sở. Cứ
tiếp nối không ngừng như thế, tổ quốc vừa sục sôi vừa âm thầm sinh sôi trong lòng
người, trong mọi thời đại:
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời”
Và ông nhắc đến một câu chuyện thời sự về việc người dân huyện đảo Lý
Sơn, Quảng Ngãi vừa tìm thấy sắc chỉ của vua triều Nguyễn năm 1835 - cử dân
binh ra canh đảo Hoàng Sa – để lay động trong nhận thức của chúng ta về ý nghĩa
sống còn của biển đảo đối với Tổ quốc và nhiệm vụ thiêng liêng trong việc bảo vệ
toàn vẹn vùng lãnh thổ mà ông cha chúng ta để lại:
“Một sắc chỉ về Hoàng Sa thủa trước
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh”
“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”
Nhà thơ Anh Ngọc đã nói rất ngắn gọn, nhưng khá đầy đủ tầm vóc về sức
mạnh của thi ca, trong đó có thơ Nguyễn Việt Chiến, rằng: “... chỉ với một bản tráng
ca Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến đã cắm lên một ngọn cờ trang trọng,
trong rừng cờ của thi ca đang tung bay trên ngọn sóng Biển Đông, vào thời khắc mà
cả Đất, Trời, Biển cả của Tổ quốc đang cần đến tiếng lòng của chúng ta hơn bao giờ
hết” [9, tr.4].
Hình tượng Tổ quốc trong thơ Nguyễn Việt Chiến khác với hình tượng thơ
về Tổ Quốc sau 1975 trong Nhìn từ xa… Tổ quốc của nhà thơ Nguyễn Duy. Hình
tượng Tổ quốc khi đó chỉ toàn những đau thương, u buồn và đói nghèo: “Xứ sở
nhân tình sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu/nạng gỗ khua rỗ mặt đường
22
làng / Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện/ ma cụt đầu phục kích nhà quan”; “Xứ
sở thông minh/ sao thật lắm trẻ con thất học/ lắm ngôi trường xơ xác đến tang
thương / Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt/ tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe
đạp /tuổi thơ bay như lá ngã tư đường”…
Sau bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển, với bài thơ Tổ quốc bên bờ biển cả,
Nguyễn Việt Chiến lại một lần nữa có dịp cất cao tiếng lòng thổn thức của người
sáng tác, chứng tỏ cái tâm của những người làm thơ nơi đất liền hướng đến đảo
xa.Trong Tổ quốc bên bờ biển cả, Nguyễn Việt Chiến đã thuyết phục được người
đọc bằng,những tứ thơ gai góc, đẹp đẽ, và đắt giá: “Nơi đất mẹ tựa lưng vào biển
cả/ Những người con như sóng cuộn dưới trời/ Lồng ngực trẻ căng đầy hơi thở sớm/
Như ngọn buồm khát vọng cuốn ra khơi...”.
Giọng thơ hào hùng, mang đậm chất sử thi và xu hướng anh hùng ca. Lời thơ
ca ngợi vẻ đẹp sáng ngời của đất nước. Tâm thế hào hùng, sức mạnh đoàn kết của
toàn dân tộc ùa vào thơ. Những lời thơ lúc này như trái tim đập những nhịp đập
chung của dân tộc. Qua tâm hồn chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề sự
kiện chính trị liên quan tới vận mệnh của dân tộc trở thành nguồn xúc cảm nghệ
thuật mãnh liệt. Nỗi đau chia cắt, khát vọng về một đất nước hòa bình, vững mạnh
là nỗi niềm tình cảm, khát vọng chung của cả dân tộc. Đi từ tình cảm chung ấy, thơ
Nguyễn Việt Chiến viết về đề tài Tổ quốc đậm đà chất sử thi…
Không chỉ có sóng gió, bão giông, không chỉ có sự khô cằn, bỏng rát, biển đảo còn
gắn cả với tình yêu lứa đôi còn giang dở. Bởi lẽ, người lính ấy phải ra biên cương,
tạm xa mối tình đầu đầy hứa hẹn, mang theo sứ mệnh cao cả hơn – bảo vệ tổ quốc:
“Anh ra biển, mang tình em lên đảo
Ngày chia tay chỉ có sóng theo cùng
Sóng thương nhớ quặn lòng trong giông bão
Em trở về với đất mẹ thủy chung”
Tình yêu lứa đôi bất ngờ hòa cùng tình yêu đất nước. Chàng trai nhắn nhủ cô
gái nhớ tới biển khơi, cũng chính là nhớ tới tình yêu của mình: “Nơi mịt mù bão tố
23
giữa đảo xa/ Em đừng quên phía ấy có Trường Sa/ Anh ra biển, mang tình em lên
đảo/ Biển yêu thương vẫn sâu nặng thiết tha/ Ngay cả lúc biển cồn lên giông bão”.
Tình yêu với biển vì thế mà ngày một lớn dần. Tình yêu đó khiến cho bao người thà
hy sinh thân mình, chứ nhất quyết không để biển, đảo quê hương rơi vào tay kẻ thù.
Cũng bởi lẽ, nhà thơ đã dành cả trái tim mình cho biển đảo quê hương, ông mới có
thể viết lên những dòng thơ xuất phát tự đáy lòng, mới dám khẳng định thật đanh
thép:
“Anh gắn bó đời anh cùng biển cả
Những tên làng, tên đảo hóa quê hương
Nơi thân thuộc từng dấu chân trên cát
Từng cánh chim xao động mỗi hoàng hôn”
Nguyễn Việt Chiến đã ghi lại niềm tự hào dân tộc, cảm nhận được nhịp đập
chung trong trái tim Việt Nam và chuyển tải cảm xúc chân thành của mình tới công
chúng. Bi tráng, trầm hùng, thơ ca biển đảo hôm nay không còn là tiếng lòng riêng
của cá nhân thi sĩ mà đã trở thành sự thổn thức chung của hàng triệu trái tim Việt
Nam, trở thành thơ ca của lòng yêu nước”.
Có thể nói, với Tổ quốc bên bờ biển cả, Nguyễn Việt Chiến đã tiếp nối mạch
thơ Tổ quốc nhìn từ biển của anh trước đó, khẳng định chủ quyền biển đảo của đất
nước với niềm xúc động thật lớn lao và có thể coi đây gần như một bản tuyên ngôn
của thi ca yêu nước với khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Cảm hứng về tình yêu quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Việt Chiến còn
là ở những nỗi đau, niềm xót xa vô hạn của ông đối với những người lính đã ngã
xuống, những đau thương mất mát mà chiến tranh đã gây ra:
“Đại bác nổ cuộc chiến tranh thứ nhất
Đất chiến hào cỏ chưa kịp nhú xanh
Thì lựu đạn và lưỡi lê cường tập
Lần thứ hai cỏ lại thấm máu mình”
(Về khổ đau và đại bác)
24
Ông tiếc thương cho những chàng trai trẻ - những người lính đã bỏ cả tuổi
thanh xuân, rời xa quê hương và cả những tình yêu đầu đời tươi đẹp nhất của mình
để bước vào trận chiến. Trong trận chiến đầy hiểm nguy ấy, đã có biết bao chàng
trai đã phải nằm lại nơi bom đạn, chiến trường… Quên làm sao được những tiếng
lòng không khỏi thổn thức, không khỏi xót xa khi Nguyễn Việt Chiến nhắc đến
những người lính – những người đồng đội. Không thể không dừng lại để dành một
khoảng lặng cho “ngẫm” và “nghĩ! Rơi nước mắt ở một số câu, một số khúc, nhức
nhối, nghẹn lòng… sôi sục niềm xót xa và thức dậy lòng yêu nước:
“Họ sinh ra không phải để làm lính
Đứa con nào của mẹ cũng vậy thôi
Bởi sữa mẹ nghìn năm không giọt đắng
Và hoà bình là vú mẹ bên nôi”
(Về khổ đau và đại bác)
Để tưởng nhớ những chiến sĩ hy sinh ở biên giới năm 1979, Nguyễn Việt
Chiến cũng từng dành những lời thơ tri ân tha thiết đến họ trong bài thơ Tổ quốc nơi
biên thùy:
“Mùa này biên giới hoa sim
Tím quanh mộ chí im lìm các anh
Bao người lính trận vô danh
Hiến dâng đất nước tuổi xanh của mình”
Để bảo vệ nơi vùng biên với bao nỗi vất vả trong cuộc sống đời thường lẫn
khi thực hiện nhiệm vụ, những người chiến sĩ biên phòng đôi khi phải đánh đổi cả
tuổi thanh xuân lẫn hạnh phúc cá nhân của mình.
Tổ quốc nơi biên thùy không chỉ là Tổ quốc của những người đang sống mà
của các liệt sĩ, những người anh hùng đã hiến máu xương mình cho mỗi tấc đất quê
hương. Các anh sống mãi với non sông, đất nước. Các anh sống mãi trong lòng Mẹ
Tổ Quốc Việt Nam. Để rồi thế hệ mai sau khi nhìn lại, họ không chỉ biết ơn các anh,
tri ân các anh mà còn phải nghiêng mình kính cẩn: “Lặng thinh không thể lặng
thinh/ Trước bao xương máu hy sinh giống nòi/ Quên ư! Không lẽ quên rồi?/
25
Đường lên biên giới một trời hoa sim/ Màu hoa chẳng chịu lặng im/ Lẫn vào sỏi đá
thắp nghìn nén hương” (Tổ quốc nơi biên thùy).
Cảm hứng về tình yêu quê hương, đất nước ấy cũng chính là kết tinh cho
niềm hy vọng, niềm mơ ước về một tương lai phía trước, tươi sáng hơn, bình yên
hơn và quan trọng hơn, những người lính – họ được trở về bên mẹ, bên gia đình và
bên quê hương nơi “chôn nhau cắt rốn”:
“Con sẽ gọi: Mẹ ơi! Mẹ hãy tin
Rằng ngày ấy chúng con về trở lại
Dẫu đồng làng hiếm hoi từng vụ trái
Đất cày lên chỉ thấy sỏi và bùn
Đất cày lên bao mùa vụ nhọc nhằn
Nhưng con sẽ trở về bên mẹ”
(Ta như cỏ trên ngực trần đất nước)
Cái không khí nhuốm đầy niềm hy vọng, ngậm ngùi, nỗi thương nhà, thương
thân trong cảnh nghèo kém xác xơ hòa lẫn với lòng thương quê, thương nước trong
cơn binh đao khói lửa có một sức lay động lòng người khó tả. Chiến tranh đã lùi xa
hàng chục năm, tức là cho tới tận giờ này, cảnh tình và tâm thế của một người lính
thời nhục nhằn tao loạn ấy dường như vẫn còn thao thức ở đâu đấy trong tâm hồn
của thế hệ chúng tôi. Niềm mong ước giản đơn của người lính năm xưa ấy tự như
một vết thương sâu thẳm, qua sự thăng hoa của thời gian nay đã thành một vết sẹo
có sức liên tưởng và gợi nhớ không nguôi: “Máu của người nơi hồn tôi cuộn đỏ/ Sẽ
một ngày vàng chín lúa đồng ta/Sẽ một ngày từ bùn đất nở ra/Loài chim ấy với lời
ca của chúng/ Và mọi người sẽ rời gươm buông súng/Quay trở về nhà mình/ Mùa
cầy vỡ đầu tiên” (Ta như cỏ trên ngực trần đất nước).
Tình yêu quê hương đất nước còn là nguồn cảm hứng vô tận để Nguyễn Việt
Chiến viết lên những vần thơ vô cùng xúc động, tri ân tới những người lính đã ngã
xuống, đã hy sinh vì biển đảo, vì nền hòa bình hôm nay của dân tộc:
“Các con đứng như tượng đài quyết tử
Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra
26
Dòng máu Việt chảy trong hồn người Việt
Đang bồn chồn thao thức với Trường Sa”
Lời thơ vừa hào hùng nhưng cũng thật bi tráng biết bao! Tổ quốc mình đã
bao lần rướm máu nhưng trong tận cùng của nỗi bi thương ấy, ngọn lửa quật khởi
của dân tộc chưa bao giờ lụi tắt. Tổ quốc sinh ra cùng với tượng đài quyết tử.
Nguyễn Việt Chiến đã dùng những từ ngữ chỉ huyết thống như “Mẹ - con –
cháu – ông – cha” thậm chí là “máu”, để nhấn mạnh mối quan hệ với Tổ quốc,
nhân dân sắt son như ruột thịt.
Tiếp nối Tổ quốc nhìn từ biển, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã viết tiếp Thêm
một lần Tổ quốc được sinh ra tưởng nhớ các liệt sĩ hy sinh ở vùng biển Gạc Ma
năm 1988. Những vần thơ bi tráng đã tạc nên tượng đài của những người con đất
Việt đã nằm xuống trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo: “Các con đứng như
tượng đài quyết tử/Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra”… Giây phút “quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh” của những người lính đảo được nhà thơ đặc tả như thước phim
quay chậm, bằng những hình ảnh hết sức chân thực: “Khi hy sinh ở đảo đá Gạc
Ma/Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn/Máu của anh thấm vào lòng biển thẳm/Để một
lần Tổ quốc được sinh ra” (Thêm một lần tổ quốc được sinh ra). Với mỗi người
Việt Nam, đó là một trang sử bi tráng không bao giờ quên. Từ sự kiện cụ thể, nhà
thơ đã gợi nhắc đến lịch sử của dân tộc Việt Nam - đất nước mà máu đã thấm vào
từng thớ đất, từng trang sử đỏ:
“Có nơi nào như đất nước chúng ta
Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ
Khi giặc đến vạn người con quyết tử
Cho một lần Tổ quốc được sinh ra”
Đau thương đến vô cùng và tự hào cũng tột độ. Những ngày này, khi Trung
Quốc đặt giàn khoan HD-981 trên vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam, nhiều
người Việt đã chia sẻ cho nhau những bài hát, vần thơ về biển, đảo. Bên cạnh những
vần thơ của Nguyễn Việt Chiến còn là những vần thơ của Trần Đăng Khoa trong
bài thơ Đợi mưa trên đảo sinh tồn:
27
“Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong đập trái tim người”…
hay những vần thơ chất chứa bao nỗi lòng tâm sự của nhà thơ Nguyễn Thế
Kỷ trong Thao thức trường sa: “Trường Sa ơi, ngày mai tàu cập bến/ Ta lại về phố
thị thân thương/ Vòng tay ấm, bữa cơm sum họp/ Và riêng, chung bao chuyện vui
buồn/ Biển dẫu yên mà lòng ta lại động/ Lắng tin xa những cơn bão chập chờn/
Bỗng hiển hiện trang sử thời mở cõi/ Máu cha ông còn bầm đỏ hoàng hôn”.
Những câu thơ tưởng như rất riêng tư đã mở ra cả một chân trời rộng mở,
tình cảm gia đình được lồng vào tình yêu đất nước. Nỗi nhớ hậu phương ở đất liền
được chuyển thành quyết tâm giữ biển, đảo.
Nhà thơ đã bày tỏ quyết tâm của người lính đảo, cũng là của người Việt, nhất
là khi kẻ thù luôn tìm mọi cách xâm phạm chủ quyền biển đảo của ta, bất chấp công
ước quốc tế về luật biển và đạo lý con người, chính vì vậy bảo vệ chủ quyền biển
đảo không chỉ là nhiệm vụ của các cán bộ, chiến sĩ mà còn của bao ngư dân anh
dũng, kiên cường bám biển, giữ vững ngư trường. Máu đỏ nhuộm nước biển xanh
không chỉ một lần:
“Máu của họ ngân bài ca giữ nước
Để một lần Tổ quốc được sinh ra”
Sức mạnh tổng hòa của dân tộc cứ ngân mãi “bài ca giữ nước” tự ngàn đời,
truyền lửa cho những thế hệ mai sau. Để rồi mở ra một không gian tươi sáng đầy
tinh thần lạc quan:
“Sớm mai này nắng ấm ở Trường Sa
Tiếng gà gáy bình yên trên ngực đảo
Tiếng trẻ nhỏ đến trường nơi sóng bão
Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra”
Đấy không chỉ là niềm tin mà là kết quả tất yếu của sự hy sinh, phấn đấu của
bao thế hệ”
28
“Việt Nam ơi! dưới bão táp mưa sa
Người thắp sáng một niềm tin bền bỉ”
“Niềm tin” ấy thắp lửa trong mỗi trái tim người dân đất Việt. Hình ảnh
những cánh chim bay về từ biển tượng trưng cho anh linh của các liệt sỹ thật là gần
gũi mà thiêng liêng, dù mất mát là sự thật, dù đau thương vô cùng to lớn. Các anh
bất tử trong vòng tay Mẹ Tổ quốc yêu thương… Phép đối lập “Vạn người con quyết
tử” với “Một lần Tổ quốc được sinh ra” có sức lay động rất lớn đến lòng người. Nó
để lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ, day dứt, trăn trở về lương tâm và trách
nhiệm, khiến người đọc phải suy ngẫm cái giá của những gì đã có hôm nay!
Không chỉ hôm qua, mà trong những ngày này, những vần thơ đầy xúc cảm
ấy về biển, đảo đã trở thành sợi dây kết nối lòng dân Việt. Trường Sa - Hoàng Sa đã
trở thành máu thịt của Tổ quốc. Và mỗi người Việt luôn ý thức rằng: “Khi giặc đến
vạn người con quyết tử/Cho một lần Tổ quốc được sinh ra”.
Tổ quốc thật vĩ đại, vừa trừu tượng vừa rất hữu hình, có khi cao cả mênh
mang có khi lại thiết thân như hạt lúa, củ khoai, như cây cỏ góc vườn, như hơi thở,
giọt máu,... Đặc biệt, trong những tình huống đối đầu với nguy cơ bị xâm phạm,
tinh thần dân tộc, ý thức về tổ quốc lại trỗi dậy mạnh mẽ, vượt lên trên mọi giá trị
khác để trở thành ý nguyện, tâm thức tối cao, bao quát của cả cộng đồng. Ở đó, tổ
quốc đã gọi tên, đã tập hợp và dẫn dắt con người Việt Nam đến những ứng xử phù
hợp, đúng đắn với giá trị thiêng liêng. “Gia đình”, “thân phận”, “diện mạo” sẽ ra
sao nếu tổ quốc chẳng có ở trong lòng.
Vâng, Tổ quốc đã là cội nguồn thiêng liêng, là sức mạnh lớn lao, là lý tưởng
cao đẹp... Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã nói hộ chúng ta niềm cảm xúc vô
hạn đó khi ông đã chân thành tự bạch lòng mình: “Tổ quốc là tiếng mẹ/ Ru ta từ
trong nôi/Qua nhọc nhằn năm tháng/ Nuôi lớn ta thành người” (Tổ quốc là tiếng
mẹ).
2.1.2 Cảm hứng về tình yêu lứa đôi
Dù nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã gặt hái được những thành công nhất định
ở mảng đề tài thế sự viết về biển đảo và Tổ quốc, nhưng chắc chắn rằng ông cũng
29
như tất cả các nhà thơ Việt đương đại không ai có thể cưỡng lại được những phút
xao lòng trước cái đẹp của cảnh vật, con người và đất trời cũng như trước nỗi đau
của lòng người trắc ẩn. Điều ấy không chỉ là duyên cớ mà còn là nguồn cội của cảm
hứng nghệ thuật để Nguyễn Việt Chiến viết nên những bài thơ tình chất chứa tình
người.
“Em như rừng lạ đêm dài
Hoang vu môi mắt mệt nhoài hồn ta
Em như sông mật phù sa
Ngực ăm ắp thở thịt da mùa màng”
(Sông và rừng)
Có thể nói, Hoa hồng không vỡ là một tập thơ vô cùng đặc sắc về những bài
thơ tình chọn lọc của Nguyễn Việt Chiến. Chính tập thơ này đã đưa tên tuổi ông đến
gần hơn với những bạn đọc trẻ tuổi, bên cạnh đề tài tổ quốc đầy tính thời sự.
Từ bao đời nay, hoa hồng trở thành biểu tượng cho tình yêu. Mùi hương
quyến rũ, dáng vẻ kiêu sa biến loài hoa này trở tạo ra sự đặc biệt nhất trong các loài
hoa. Hoa hồng được ví như nữ hoàng của các loài hoa, là loài hoa được ưa chuộng
nhất trên thế giới. Từ rất lâu trong lịch sử, hình ảnh hoa hồng đã xuất hiện trong
nhiều nên văn hóa, đặc biệt ở một số quốc gia,hoa hồng còn được xem như quốc
hoa.
Có lẽ vì đã nắm được những ý nghĩa riêng, sự thiêng liêng trong tình yêu từ
hoa hồng, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đặt tên cho tập thơ tình nổi tiếng của mình là:
Hoa hồng không vỡ. Chính nhà thơ cũng từng chia sẻ đầy cảm xúc: “Hoa hồng
không vỡ” đồng nghĩa với tình yêu luôn thao thức trong trái tim mỗi người. Trong
cuộc đời thi sĩ của tôi, mỗi người đẹp đi qua đều để lại một câu chuyện tình thú vị.
Tôi nâng niu những kỷ niệm về họ trong những bài thơ tình lặng lẽ ở phần sâu thẳm
nhất của tâm hồn tôi. Họ là bến đỗ bình an trong ký ức đầy sóng gió của cuộc đời
tôi. Họ là vầng trăng mê đắm đêm đêm sưởi ấm tôi bằng thứ ánh sáng mộng mỵ chỉ
thấy được trong cõi Liêu trai. Họ là sự cứu rỗi đã giúp tôi vượt thoát lên nỗi cô đơn
30
ám ảnh trong chuỗi ngày buồn nản đã qua. Họ là một phần quan trọng của tài sản
tinh thần trong thi ca tôi…”
Để rồi từ đó, chúng ta như thấy được phần nào cảm hứng tình yêu trong tâm
hồn Nguyễn Việt Chiến qua tập thơ tình có thể nói là hay nhất trong sự nghiệp văn
chương ông. Những gương mặt người lướt qua cuộc đời chàng thi sĩ, bao kỷ niệm,
khát vọng mãnh liệt về tình yêu được người con tài hoa nơi xứ Đoài mây trắng bồng
bềnh khắc họa rõ nét qua tập thơ Hoa hồng không vỡ.
Đặc biệt hơn nữa, tinh ý một chút, chúng ta có thể thấy con số 99 bài, tác giả
khéo léo đưa vào tập thơ. Không chỉ am hiểu về biểu tượng hoa hồng, nhà thơ còn
thể hiện cảm hứng tình yêu mình thông qua con số 99. Biểu tượng số 99 lồng vào
tập thơ mang tên loài hoa hồng như một sự nhắn nhủ về một thứ khát khao, tình yêu
không bao giờ phai nhạt. Nó vĩnh cửu như con số 99 đó. Hơn nữa, con số này còn
thể hiện những ký ức được gìn giữ. 99 bông hồng dành cho những người thực sự
mong mỏi tình yêu đến mức cháy bỏng.
Một điều dễ dàng nhận ra, bài thơ Hoa hồng không vỡ trở thành linh hồn của
cả tập thơ này. Bởi lẽ, bài thơ đó được nhà văn gửi gắm nhiều tâm tư nhất, mọi điều
đẹp nhất trong tình yêu để nó trở thành cái tên gọi của cả một tập thơ.
Hình ảnh người con gái trong tâm tưởng nhà thơ hiện lên mới đẹp làm sao.
Vẻ đẹp đến ngôn từ cũng đành phải bất lực. Cách nói về người phụ nữ như vậy
phần nào chứng tỏ tác giả là một người khá duy mỹ trong cách phác họa lên nhân
vật của mình. Tuy rằng, hình ảnh hiện lên đó phảng phất những nỗi buồn khó tả. Để
rồi, ông đưa ra một câu hỏi tu từ: “Em có phải cội nguồn xưa nước mắt”. Những
điều đó tạo nên một nét chấm phá rất riêng đối với hình tượng người phụ nữ biểu
trưng cho tình yêu trong ông.
Cô gái đó lại được tác giả vẽ lên trong bài thơ mang màu sắc mùa thu. Điều
đó chứng tỏ nhà thơ mang nặng một tâm hồn đầy hoài niệm. Mùa thu được Nguyễn
Việt Chiến chọn khác với nhiều nhà thơ khác. Tuy có chút man mác buồn:
“Em là nắng cuối thu, chiều tóc hát
Giọt thu nào vàng ấm những môi say
31
Có thành phố lung linh trong giọt cát
Màu nắng em chập choạng xé mưa ngày”
(Tình ca)
Đây là mùa thu đến từ những ký ức. Đẹp một cách lạ lùng. Cái nắng nhẹ cuối
mát dịu. Màu nắng được tác giả đưa vào để “chập choạng xé mưa ngày”. Có một
điều chúng ta chắc hẳn dễ dàng nhận thấy, nhiều nhà thơ viết những bản tình ca cho
tình yêu thường chọn hình ảnh thu. Mặc dù bên cạnh đó, thi ca cho tình yêu về mùa
xuân, mùa hè, mùa đông rất nhiều nhưng mùa thu có lẽ là nhiều hơn cả, và chất
chứa nhiều tâm trạng. Có lẽ trong bốn mùa, thu là mùa gần với tâm hồn người nghệ
sĩ hơn cả, nó tác động mạnh tới xúc cảm thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Mỗi cơn gió
lành lạnh của mùa thu hoang hoải thổi khiến con người ta gần nhau hơn, dễ cảm
nhau hơn, quyến luyến nhau hơn…
Thu cũng là mùa khiến tình yêu mong manh hơn, bởi cảnh sinh tình, người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ nên thơ thu thường mang một nỗi buồn mênh mang:
“Thu héo nấc thành những tiếng khô/ Một vì sao lạ mọc phương mô?/ Người thơ
chưa thấy ra đời nhỉ?/ Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ?” (Cuối thu- Hàn Mặc Tử).
Hay có chăng chút vui tươi cũng chỉ như những đốm nắng vàng ruộm cuối thu lao
xao bên thềm trong cơn gió lạnh đầu đông chực ùa đến. Để thi sĩ chợt thốt lên:
“Chao ôi! Thu đã tới rồi sao?/ Thu trước vừa qua mới độ nào!/ Mới độ nào đây, hoa
rạn vỡ/ Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao/…/ Thu đến đây! Chừ, mới nói răng?/
Chừ đây, buồn giận biết bao ngăn?/ Tìm cho những cánh hoa đang rụng/ Tôi kiếm
trong hoa chút sắc tàn!…” (Thu của Chế Lan Viên).
Hoặc nếu như Xuân Diệu chọn hình ảnh “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”
để gọi mùa thu về thì Lưu Trọng Lư vẽ lên bức tranh từ tiếng lòng bằng sự chuyển
đổi âm thanh: “Em không nghe mùa thu/ Lá thu rơi xào xạc/ Con nai vàng ngơ
ngác/ Đạp trên lá vàng rơi” (Tiếng thu).
Không chỉ có mùa thu, Nguyễn Việt Chiến còn đưa hình ảnh trăng, gió, biển để nói
về thứ cảm hứng với người con gái trong tâm tưởng này.
“Em mọc dậy - vầng trăng đêm ngực thở
32
Gió phập phồng mây áo xõa tung ra
Biển trắng đập gối trăng lên cát vỡ
Sóng chập chờn môi ấm những bờ xa”
(Tình ca)
Có thể thấy rằng, đây trở thành những hình ảnh hết sức đặc trưng trong thơ
tình Việt Nam. Điều đó được đưa vào bởi sức tạo hình của nó rất lớn. Mọi thứ
dường như được Nguyễn Việt Chiến đưa vào trong thơ một cách hết sức lô gic.
Ngọn sóng biểu trưng cho khát vọng vô bờ trong tình yêu. Có thể thấy rõ một điều,
trong bài thơ Hoa hồng không vỡ, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã gửi hết vào đó
những gì mãnh liệt, rung cảm nhất.
Tuy nhiên, một bài thơ khác đặc trưng cho tập thơ này phải kể đến bài thơ
Mưa tháng Giêng. Mưa tháng Giêng được nhà thơ Nguyễn Việt Chiến sáng tác vào
đầu năm 1992, trong tiết mưa xuân đặc trưng của vùng Bắc bộ. Bài thơ mỏng mảnh,
buồn buồn và chầm chậm như tiếng chuông chùa rơi đều đều trong hơi xuân đặc
trưng của miền Bắc.
Năm 1994, nhạc sĩ Việt Hùng đọc được bài thơ Mưa tháng Giêng trên báo
Văn nghệ, thấy hay nên đã phổ nhạc thành bài hát Mưa tháng Giêng. Đến năm
1996, ca sĩ Mỹ Hạnh là người đầu tiên trình bày ca khúc này.
Có lẽ, không có miền nào ở Việt Nam lại có cái tiết mưa xuân trong tháng
giêng đặc trưng như không gian của Bắc Bộ. Đó là một bức tranh mưa xuân mỏng
manh đầy sương khói, nhưng cũng lồng ghép hơi thở của thiền định, xuyên qua
những xúc cảm chân thành của nhà thơ trước thiên nhiên vạn vật, bằng ngôn ngữ
văn học miêu tả chắt lọc:
“Tháng giêng mưa dưới bến
Mỏng mai cô lái đò
Mắt mưa em lúng liếng
Trói tôi bằng vu vơ...”.
Với ngôn từ tinh tế, chọn lọc, cứ bảng lảng một không gian huyền hoặc, ngọt
ngào, bài thơ mang cái ngọt lạnh của ngày đông tháng giá thấm vào da thịt, thẳm
33
vào tâm can con người. Miêu tà cảnh vật từ xa đến gần, cuối cùng đọng lại ở hình
ảnh con người - “em”, Nguyễn Việt Chiến xóa bớt đi cái lạnh giá của không gian,
đem hơi ấm tình người lại cho thơ. Cảnh ấy, người ấy gợi lên trong lòng thi nhân
một tình yêu nhẹ nhàng, dịu ngọt.
Nguyễn Việt Chiến không dùng một từ “yêu” nào, nhưng lại làm cho người
đọc thấy yêu biết bao cảnh, người của đất nước mình. Để cuối cùng, nhà thơ nói
rằng “Thơ mình - sương khói thôi” – đây là một thông điệp mà thi nhân gửi tới
người đọc: Dù có làm gì, thì so với cuộc sống, sự đóng góp của mỗi người rất nhỏ
bé, cũng chỉ là sự điểm tô cho cuộc sống như là “sương khói thôi”. Và như vậy, đủ
thấy trách nhiệm của Nguyễn Việt Chiến đối với cuộc đời này lớn lao biết nhường
nào. Chính vì hòa được niềm riêng của cá nhân vào vận chung của đất nước, cho dù
cuộc đời vần xoay thế nào, cái khăng khăng đeo bám vào cuộc đời nhà thơ là tình
yêu Tổ quốc, là trách nhiệm cao với cuộc sống.
Mưa tháng Giêng đặc sắc ở chỗ ngoài chất thơ ra còn giàu tính nhạc. Nhạc sĩ
Việt Hùng đã đưa gần như nguyên vẹn bài thơ vào nhạc, chỉ bỏ đoạn cuối gồm 4
câu. Để thoát khỏi tác giả thơ, Việt Hùng đã khôn khéo dựa vào âm hưởng của dân
ca Trung bộ tạo nên giai điệu cho một ca khúc có lời thơ nói về không gian Bắc bộ.
Sự “lệch pha” này khiến cho nhạc sĩ có khẳ năng “dẫn dắt” câu từ của thơ đi theo
hướng phát triển của âm nhạc chứ không bị chạy theo thơ. Tuy vậy, thơ và nhạc vẫn
có sự tương đồng, bởi dân ca miền Trung cũng có cái man mác, nhẹ nhàng, buồn
thoảng, hợp với giọng điệu thơ trong Mưa tháng giêng.
Ngoài ra, Nguyễn Việt Chiến còn đưa tư tưởng con người trở thành cát bụi
trong tình yêu thông qua bài thơ Cát đợi. Trong Kinh thánh, con người là cát bụi
trước sự huyền diệu vô cùng vô tận của Thượng đế. Trong bài Cát đợi, cũng tư
tưởng chủ đề: Cát bụi nhưng đời hơn và do đó cao cả hơn: Con người là cát bụi
trong đêm của tình yêu. Như vậy, với bài Cát đợi của Nguyễn Việt Chiến, không
nhất thiết phải có sự rùng mình trước Thượng đế, con người mới cảm thấy thân
phận cát bụi của mình. Còn gì đau và cô đơn hơn thế, đến mức chỉ có cát là có thể
34
hiểu được nỗi niềm của nhà thơ: “Cô đơn xuống một đò đầy/Tôi chờ em phía bên
này mùa đông/Cát còn bay trắng bến sông/Người còn đi trắng mùa mong ước này”
Tứ thơ này chưa từng có trong thơ ca thế giới. Sự trở đi trở lại của những mô – típ
của chiều và đêm, đò và trăng, cát và tôi…, sự đồng nhất giữa tôi và cát (“Tôi
hoang vu, cát hoang vu”), giữa cát và thơ (“Câu thơ như cát mỗi chiều”), giữa thơ
và tôi (“Tôi cầm cả chính tôi lên/ Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu”), giữa tôi
và em (“Đêm không còn ấm như ngày có em”)…sự giao hoà giữa những mô- típ
này đã tạo ra cho cấu trúc bài thơ một sự thống nhất hữu cơ tuyệt vời, hiếm thấy
trong thơ Việt.
Khác với những bài thơ khác, hình ảnh trăng, sóng nhằm thể hiện cảm hứng
tình yêu của Nguyễn Việt Chiến trong bài thơ này hoàn toàn có sự khác lạ đáng kể.
Một không gian, màu sắc ảm đạm hơn hẳn.
Hình ảnh trăng còn xuất hiện thêm một lần khác nhưng mang tính biểu trưng
mới lạ trong bài Tiếng trăng. Trong tận cùng của cảm giác cô đơn, của cái ý nghĩ
bắt buộc phải chia tay nhói lên, nhà thơ nghe thấy ảo ảnh của một tiếng động: Tiếng
rơi, tiếng bàn chân, tiếng trăng, tiếng lá vỡ…Cái không gian hư ảo của cuộc chia ly
xuất hiện với nhịp chậm, buồn, rời rạc ở đầu bài thơ cứ vỡ ra dần, theo hai mảnh,
mỗi người ôm một khối tâm tư… Để rồi không gian ấy vỡ òa ra ở cuối: “Tiếng
trăng như lá vỡ nghe thật buồn”. Đó chính là cấu tứ của bài thơ. Sự chuyển vận của
tâm trạng hai nhân vật trữ tình anh và em cứ âm thầm, với những hành động rời rạc,
cơ hồ như vô nghĩa:
“Quờ tay gặp cỏ dưới chân
Em ngồi bứt hết hoàng hôn của chiều
Thở dài gặp ánh trăng gieo
Anh buồn đếm được bao nhiêu sao rồi”
Có hai người trong một không gian, không gian ấy từ “Hoàng hôn của
chiều” mau chóng ngả về đêm với “ánh trăng gieo” với “bao nhiêu sao” của bầu
trời. Họ đã ngồi dường như lâu lắm, nhưng chẳng ai chú ý tới không gian, mỗi
người đuổi theo một khung trời riêng và hành động của họ chỉ là cái cớ để che núp
35
tâm trạng… Em quờ tay gặp cỏ dưới chân, ngồi bứt cỏ, anh gặp ánh trăng, hờ hững
đếm sao… Tác giả không kể lể tâm trạng, không đi sâu vào chuyện riêng của Anh
và Em. Áp lực của một chuyện riêng tư nào đó đã dựng lên thành quách giữa hai
người, sự cố của tình yêu đã biến tan, họ đã qua cái lúc khổ đau giận dỗi, nuối tiếc
trước sự cố đó rồi. Đây là lúc họ ngấm cái chất men ghê gớm của sự chia ly. Và mỗi
người đều cố thả lỏng tâm trạng mình, buông xuôi theo thời gian. Nhưng sự hờ
hững ấy đang ẩn chứa đầy ắp tâm trạng
Chẳng ai chú ý đến không gian, thời gian, nhưng đều hướng về lòng mình, và
đều cảm thấy cái thành quách không thể nào vượt qua được giữa hai người, cái ta-
cái chung, cái cặp đôi giữa hai người chỉ dội lên trong tâm trí hai người trong hoài
vọng về quá khứ xa xôi. Nhìn bề ngoài thì đúng là như vậy, đêm nay hai người gặp
nhau, và họ im lặng ngồi với nhau thật lâu… Nhưng bên trong cái ta, cái cặp đôi ấy
đã tách thành hai nửa từ khi nào mất rồi. Mỗi người đều cảm thấy sự thừa ra không
phải của người kia mà của chính mình. Hai mảnh vỡ cô đơn và ý thức được nỗi cô
đơn ấy. Chính trong nỗi cô đơn tuyệt đỉnh, họ đã cảm nhận được ảo ảnh của tiếng
động từ trăng, từ cỏ, từ lá và từ tiếng chân người. Khổ cuối của bài thơ sáng long
lanh, sáng đến gai người như tiếng vỡ tách của một chiếc cốc pha-lê:
“Đạp lên cả ánh trăng khuya
Tiếng trăng như lá vỡ nghe thật buồn”
Song hành cùng cảm hứng tình yêu thiết tha, mãnh liệt, thơ Nguyễn Việt
Chiến còn có những khung nhạc đượm buồn của tình yêu không thành. Tiếng trăng
là một bài thơ như thế. Có thể nói, Tiếng trăngđã hoàn tất một cuộc chia ly mà
không cần một lời nói, giống như một vết rạn, chạy dọc trên chiếc cốc pha lê, cho
hết chiều dài của chiếc cốc thì cả người đọc và nhân vật trữ tình đều chờ đợi tiếng
vỡ tách ra từ chiếc cốc đó như một quy luật không thể khác được. Thông điệp mà
tác giả gửi đến người đọc không gì khác ngoài niềm trân trọng, xót xa đối với một
tình yêu đẹp, một vầng trăng bị tách thành hai nửa trong tim mỗi người.
Như đã nói, biểu trưng của tập thơ này chính ở hình ảnh “hoa hồng”. Điều đó được
thể hiện ở trùm thơ “hoa hồng” có trong tập thơ. Mỗi bông hồng hiện lên với màu
36
sắc khác nhau. Nó biểu trưng cho những sắc thái về tình yêu được tác giả khéo léo
đưa vào. Khi thì Đánh thức hoa hồng khơi gợi những xúc cảm yêu đương mãnh liệt
trong tâm hồn mình:
“Bông hồng đêm, bông hồng đêm
Giấc mơ của biển ngủ trên tay người
Bông hồng gai, bông hồng gai
Giấc mơ của đá ngủ ngoài thời gian”
Lúc thì Hoa hồng không nói gợi cảm giác nặng thinh, không thể nói lên lời.
Giữa những trái tim chỉ có sự đồng cảm. Lời ca chẳng được cất lên:
“Anh chỉ là một cơn mưa bóng mây
Một cơn mưa chẳng làm ai nhớ cả
Em còn đấy mà quá chừng xa lạ
Khi xa lạ hết rồi ta đã chẳng còn nhau”
Tình yêu đôi lúc cũng có những sự xa lạ đến mức khó hiểu. Người ta chẳng
thể nói với nhau. Sự im lặng trở thành đầu mối tạo ra mọi khoảng cách giữa hai con
người. Nó như một thứ thuốc độc tai hại có thể khiến bất cứ ai nhận đau khổ dù từ
phía nào đi chăng nữa.
Không chỉ vậy, hoa hồng có lúc “không nghe”
“Đã rất lâu nàng không nghe thấy
Đã rất lâu nàng không nhìn thấy
Đã lâu rồi nàng bỏ mặc chúng ta”
Trong tình yêu, có lẽ giận hờn cũng trở thành một thứ hương vị rất lạ. Nó
khiến những người trong cuộc nhìn lại chính bản thân mình sau những điều trải qua.
Nó là nút trầm trong bản nhạc, cân bằng nhịp nhàng giữa sự thăng hòa và niềm khao
khát.
Một dư vị khác mà Nguyễn Việt Chiến đem lại cho chúng ta chính ở sự thao thức
trong tình yêu. Điều này rất dễ nhận thấy trong bài thơ Hoa hồng không ngủ:
“Bình hoa chật bởi gai hoa nhiều quá
Bông hồng buồn do dự thức trong gai
37
Em không phải một mùa hương xưa cũ
Đã xa xôi đã từng đến trong đời”
Bông hồng thức bởi bình hoa chật, vướng những gai sắc nhọn. Tác giả nhân
hóa sự vật nhằm chỉ tâm trạng con người. Con người ta đôi lúc cũng vậy. Có những
lúc xù những cái gai sắc nhọn đến mức khó đón nhận những điều tốt đẹp hơn trong
tình cảm. Quá khứ bồi đắp lên con người của ngày hiện tại thậm chí cả mai sau.
Và rồi, dù cho Hoa hồng không khóc nhưng người ta vẫn cảm thấy những giọt nước
mắt chảy ra do sự buông thõng từng câu thơ:
“Trong bóng đêm
có một người đang hát
chẳng ai biết
nàng buồn
hay chúng ta
buồn hơn”
Nhịp ngắt rời rạc của từng câu thơ khiến cho người đọc có thể cảm nhận
được tâm trạng buồn bã, hụt hẫng của tác giả. Bóng đêm bước đến cũng là lúc con
người ta chìm sâu vào khoảng lặng rất riêng do chính mình tạo ra. Đó là lúc cảm
xúc bị quá tải, bâng khuâng, mệt mỏi sau chuyến phiêu lưu trong tình trường, để rồi
nhìn lại những tổn thương mình phải chịu.
Lấy cảm hứng từ hoa hồng, từ mùa thu, từ ánh trăng, hạt cát… Nguyễn Việt
Chiến đã cho chúng ta du dương theo từng khúc nhạc tình. Ở nơi đó có sự thăng hoa
tột độ của những kẻ mới yêu, sự say mê thương nhớ của những con người đang yêu
và có cả sự cô đơn, lạc lõng của những kẻ thất tình, đổ vỡ trong tình yêu… Nó khác
hẳn với phần đanh thép, mạnh mẽ khi ông gửi gắm những nỗi niềm thế sự vào
những bài thơ về viết về tổ quốc.
Đối với Nguyễn Việt Chiến, dù viết về cảm hứng nào, thơ ông cũng chứa chan đầy
tình cảm. Và hơn thế, nó còn mang đến cho độc giả những cung bậc xúc cảm mới
lạ.
38
2.2. Nhân vật trữ tìnhtrong thơ Nguyễn Việt Chiến
2.2.1. Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ
Trên cơ sở nh ững thành tựu khoa h ọc về con ngư ời, đặc biệt là những thành
tựu về tâm lý h ọc, triết học Mác đã đưa ra đ ịnh nghĩa hoàn chỉnh và đầy đủ về cái
tôi như sau: Cái tôi là trung tâm tinh th ần củ a con người, của cá tính người, có quan
hệ tích cực đ ối với thế gi ới và đối với chính bản thân mình. Chỉ có con người độc
lập kiểm soát nh ững hành vi củ a mình và có kh ả năng thể hiện tính chủ động toàn
diện mới có cái tôi củ a mình. Cái tôi có thể xem là phần cấu trúc tự giác.
Thơ trữ tình luôn gắn với cái tôi tr ữ tình. Khái ni ệm về cái tôi tr ữ tình tuy
còn nhiều ý kiến , nhiều quan ni ệm nhưng tựu chung l ại vẫn trùng nhau ở n ội hàm:
Tính trữ tình và tính chủ th ể. Trong cuốn Tư duy hiện đại Việt Nam tác giả Nguyễn
Bá Thành cho r ằng: “Thơ trữ tình là bản tốc ký nội tâm. Nghĩa là sự tuôn trào của
hình ảnh, từ ngữ trong một trạng thái cảm xúc mạnh mẽ của người sáng tạo. Chính
vì vậy, về bản chất mọi nhân vật trữ tình trong thơ chỉ là những biểu hiện đa dạng
của cái tôi trữ tình” [35, tr.64].
2.2.2. Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến
Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thi ca, có vai trò quan trọng
trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ lại tất cả suy nghĩ, tình cảm, thái độ
được thể hiện bằng một giọng điệu riêng. Một cái tôi trữ tình phong phú tựa như
viên nam châm luôn luôn có sức hút về phía mình sự giàu có của cuộc đời. Đặc
điểm của cái tôi trữ tình phụ thuộc vào phong cách của mỗi nhà thơ, của các trào
lưu, khuynh hướng. Chính vì vậy, mỗi thời đại có một kiểu cái tôi trữ tình đóng vai
trò chủ đạo. Đi vào tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến, chúng tôi
nhận thấy ở thơ ông chủ yếu ở các dạng thái: Cái tôi trữ tình chiêm nghiệm- triết lý,
suy tư về cuộc đời; Cái tôi trữ tình đằm thắm, nồng nàn trong tình yêu; Cái tôi trữ
tình luôn thường trực với tình yêu quê hương, đất nước.
39
2.2.2.1. Cái tôi chiêm nghiệm - triết lý, suy tư về cuộc đời
Đứng trước cuộc đời, mỗi con người có những trải nghiệm khác nhau, cách
chia sẻ khác nhau. Mỗi nhà thơ là một cái tôi nội cảm, hòa nhập vào thế giới xung
quanh, phân thân thành những trạng thái khác nhau để thể hiện mọi cảm xúc.
Thoạt nhìn, thơ như là phái sinh trong sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Việt Chiến.
Bởi lẽ, viết báo mới là hoạt động chủ yếu và đồng thời, là hoạt động xác định tư thế
công dân của ông rõ ràng, quyết liệt hơn cả. Tuy nhiên, sự thực, thơ mới là cách để
ông hoàn thiện chính mình, cũng là cách để tiếng nói công dân đạt đến các chiều
kích sâu rộng mà đời cầm bút hiếm khi có được. Nguyễn Việt Chiến, dưới danh vị
nhà báo, là danh phận thi sĩ kiêu hãnh cô đơn, người sớm cát cứ tâm hồn mình hóa
lẫn trong những hạt cát thầm lặng để phụng hiến một nghĩa lí trần đời: “Câu thơ
như cát mỗi chiều/ Đem theo chút ấm nắng nghèo vào đêm” (Cát đợi).
Quá trình sáng tác là quá trình nhà thơ gom nhặt những chất liệu cuộc sống,
dồn nén nó trong đáy sâu tâm hồn mình và thăng hoa trong từng cảm xúc, viết lên
thành câu chữ. Đó là hành trình người nghệ sỹ quan sát hiện thực bằng cảm quan
của mình, qua thời gian chiêm nghiệm, tinh lọc mà thành những bài thơ là “hơi thở
của đời sống, tiếng nói của tri âm”. Và vì vậy, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ
Nguyễn Việt Chiến trước hết là hành trình chiêm nghiệm - triết lý của một cái tôi đã
khắc họa trong mình tâm thế chung của con người đương đại trước thời gian, con
người và cuộc sống. Thơ ông không dừng lại ở cảm quan bề ngoài mà luôn đi sâu
vào bên trong đối tượng để khám phá, phát hiện bản chất của vấn đề, biểu lộ một
hồn thơ giàu suy tưởng. Đó là cái tôi của nỗi buồn thi sĩ, buồn về những dự cảm,
những cái đã qua và những điều mong manh xưa cũ: “Chẳng con tàu nào chở tôi về
phía yêu thương cũ/ chẳng con tem nào đưa tôi về địa chỉ yêu dấu cũ/ chẳng câu thơ
nào cõng tôi về tuổi thơ cũ…” (Để nhớ về em).
Ý thức được sự trôi chảy của thời gian, nhà thơ cảm thấy đời người quá ngắn ngủi
trong vũ trụ miên man, bất tận. Dưới sự tác động của thời hiện đại, con người ý thức
về thời gian một cách mãnh liệt như một cuộc chạy đua để tồn tại, để sống có ích.
40
Thời gian luôn trôi qua như gió thoảng, mây bay, đến và đi không bao giờ có thể
níu giữ lại được. Thơ Nguyễn Việt Chiến thường hoài niệm về quá khứ, nhà thơ
nhận ra cái hữu hạn của đời người và cái vô cùng của trời đất.
Nguyễn Việt Chiến định nghĩa về thời gian:
“Thời gian là dòng chảy đầu tiên
cũng là dòng sông cuối cùng
con người đến tắm
lúc trở về với mẹ”
Và trong sự chảy trôi đầy khắc nghiệt ấy, ông dự cảm về mình và về thơ
“Trước năm tháng cuộc đời/ thơ mình sương khói thôi”. Nhưng đó là điều có thể
xảy ra và ngược lại. Nếu có cũng không biết khi nào sẽ đến, thì ở sự thay đổi hôm
nay, những câu thơ ấy như báo cho độc giả rằng, dự cảm ấy đã đến, nhà thơ đã đi
qua và nhận ra thêm nhiều điều để nói với mình: “Tiếng thở phập phồng trong
tượng đất/ ta không phải hoàng hôn nơi bùn lầy/ ta là phù sa của hy vọng” (Những
ngôi chùa trong đêm).
Gần như là phẩm tính, thơ Nguyễn Việt Chiến chứa sẵn những vùng xoáy
suy tư, ngẫm nghĩ, những bình luận và cảm luận: “Chiến tranh là nơi ngọn cỏ/ Cao
hơn tất cả chúng ta/ Những người lính bị đốn ngã/ Xanh xao hơn mọi hận thù” (Ký
ức). Về sau, khi biên độ cảm luận nới rộng và trở nên phức tạp, thì cái đẹp, cái thật,
cái giá trị… được tham chiếu, được thấu thị: “Hiền nhân và bạo chúa/ Thành bụi
đất cả rồi/ Phù điêu nung từ đất/ Chỉ tạc hình em thôi” (Phù điêu cổ). Trong nhiều
đối tượng hối thúc ý nghĩ nhà thơ lí giải, dò thấu thì con người là đối tượng gây nên
nhiều bất lực nhất, đồng thời, cũng là nồng nàn, day dứt và thấm đẫm cảm xúc nhất.
Bằng linh cảm và lòng quả cảm của mình, Nguyễn Việt Chiến tự phác thảo:“Con
người/ – Kẻ suốt đời bị thương”; tự thú nhận: “Chúng ta không thể nào hiểu được
ngôn ngữ của loài kiến/ Con người bất lực trong cách giải thích/ Bởi chúng ta chẳng
có gì cả/Ngoài cát và mưa, và cỏ, những nỗi buồn…(Ánh sáng); tự định lượng: “Tôi
cầm chính cả tôi lên/ Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu”, và tự phân bua: “Ở
miền đất chật dân đông/ Rối phải xuống nước để mong thành người”… Con người,
41
rút cuộc, không thể đem lại góc nhìn thuần nhất và người viết, khi đã can dự vào
những cật vấn về hạnh phúc, nỗi buồn khổ, cô đơn… của thi nhân thì chính anh ta,
qua bản tường trình đồng vọng, đã hé lộ hành trạng thân phận cá nhân. Nguyễn Việt
Chiến có bổn phận gìn giữ hành trạng ấy bởi một “niềm tin lành lặn” và bởi, như cỏ
và cát, sự vĩnh hằng vẫn dành chỗ cho vẻ đẹp nhỏ bé, mỏng manh.
Nhà thơ còn hướng điểm nhìn về tâm linh để chiêm nghiệm mọi thứ trong
tĩnh lặng mà gạt bỏ những xôn xao: “Đà Lạt hoa vừa nở/ trong hồn anh sớm nay…
Mây bồ đề rủ xuống/ trong tâm người hành hương”…
Ngòi bút của Nguyễn Việt Chiếncòn “bắc cầu” qua nhân vật thứ ba để hướng
về “cái tôi” - cái con người thực tại đang sống, đang suy nghĩ của chính nhà thơ.
Trong bài thơ Những ngôi chùa trong đêm, ở những dòng mở đầu tác giả viết về
mẹ, hình ảnh của người mẹ gõ mõ tụng kinh trong đêm: “Bóng mẹ in trên vách thời
gian/ như pho tượng tạc bằng nước mắt” rồi sau đó là cuộc đối thoại của người đàn
bà từng trải qua mọi buồn đau kiếp người:
“Mẹ bảo: nước mắt ban ngày chảy xuôi đánh thức những ngôi đền
còn ban đêm nước mắt chảy ngược vào trong
thấm đến một miền đức tin cứu rỗi”...
Và rồi đến cuối cùng người mẹ dừng lại trong cuộc đối thoại đầy trải nghiệm
và triết lý ấy để hướng về đứa con bằng một câu nói giản dị, trìu mến và thân thuộc:
“rồi mẹ bảo: chiều xuống rồi, về nhà đi con”. Đó là câu nói tưởng chừng chẳng có
gì là thơ và bình thường như tất cả những câu nói mà người mẹ có thể thốt lên.
Nhưng đặt trong bài thơ này thì dường như sau tất cả mọi nỗ lực của thi nhân, đó là
câu thơ hay nhất để lời kinh, lời cầu nguyện đọng lại trong con.
Từ các dạng thức của cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn
Việt Chiến, cái bề sâu trong thơ ông qua chiêm nghiệm - triết lý của chủ thể trữ tình
là những giá trị, những tư tưởng khái quát được “hình tượng hóa” từ hiện thực qua
sáng tạo nghệ thuật. Nhìn cuộc sống bằng con mắt biện chứng trong sự vận động
như một quá trình để đi sâu khám phá, phát hiện và giải mã cái tinh tế bên trong của
sự vật, hiện tượng qua sự trải nghiệm, nhà thơ đã thể hiện rõ nét một tư duy nghệ
42
thuật sâu sắc và tinh tế. Biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến
là sự kết tinh thành những hạt thi ca lấp lánh lời giải đáp về những điều lớn lao và vi
diệu của cuộc sống và của chính cõi lòng thi nhân.
Trong thơ Nguyễn Việt Chiến, cái tôichiêmnghiệm - triết lý, suy tư, thể hiện
ở quan niệm về sự chảy trôi của thời gian, về sự hữu hạn của đời người, về đức tin
cứu rỗi tâm hồn mỗi người trong cuộc sống bận mải hôm nay...
Từ hình tượng cái tôi trữ tình phong phú và đa dạng, ông đã mang lại cho người đọc
những cảm xúc tươi nguyên về một thế giới thơ lấp lánh chất đời, được khơi lên từ
hiện thực sống động của cuộc sống, giúp người đọc tìm ra những giá trị Chân -
Thiện - Mỹ, để sống ý nghĩa hơn, đẹp hơn và nhân văn hơn. Đó là một “cái tôi trữ
tình nhập vai” (Trần Đình Sử) đi sâu khám phá và chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống
và “phát hiện những quy luật vĩnh hằng của cuộc sống và thi ca” (Hồ Thế Hà).
2.2.2.2.Cái tôi đằm thắm, nồng nàn trong tình yêu
Trong buổi ra mắt thơ của Nguyễn Việt Chiến vào đầu tháng 11/2015, ông
từng tâm sự:“Trong cuộc đời thi sĩ, mỗi người đẹp đi qua đều để lại một câu chuyện
tình thú vị. Tôi nâng niu những kỷ niệm về họ trong ký ức đầy sóng gió của cuộc
đời. Họ là vầng trăng mê đắm đêm đêm sưởi ấm tôi bằng thứ ánh sáng mộng mỵ chỉ
thấy được trong cõi Liêu trai. Họ là sự cứu rỗi đã giúp tôi vượt thoát lên nỗi cô đơn
ám ảnh trong chuỗi ngày buồn nản đã qua. Họ là một phần quan trọng của tài sản
tinh thần trong thi ca tôi” [40]. Nguyễn Việt Chiến truyền tải tinh thần đó thành tứ
thơ lãng mạn, day dứt qua: Cát đợi, Mùa thu không trở lại, Hoa hồng không vỡ, Có
một người bị ướt thức trong ta, Để nhớ về em…
Với tập thơHoa hồng không vỡ (tuyển tập 99 bài thơ tình), cho thấy Nguyễn
Việt Chiến là cây thơ tình nồng nàn, đắm đuối với những câu thơ lãng mạn, những
chuyện tình yêu về một thời say đắm bên cạnh tác giả của thể loại chính sự.
Trong tập Hoa hồng không vỡ có những bài khá hay như Cát đợi. Cát đợilà bài thơ
từng được cố nhà văn-tiến sĩ Hoàng Ngọc Hiến đánh giá rất cao. Theo ông, “Tứ thơ
này chưa từng có trong thơ ca thế giới. Sự trở đi trở lại của những mô – típ của
chiều và đêm, đò và trăng, cát và tôi…, sự đồng nhất giữa tôi và cát (“Tôi hoang vu,
43
cát hoang vu”), giữa cát và thơ (“Câu thơ như cát mỗi chiều”), giữa thơ và tôi (“Tôi
cầm cả chính tôi lên/ câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu”), giữa tôi và em
(“Đêm không còn ấm như ngày có em”)…sự giao hoà giữa những mô- típ này đã
tạo ra cho cấu trúc bài thơ một sự thống nhất hữu cơ tuyệt vời, hiếm thấy trong thơ
Việt. Trong thơ tình Việt Nam thế kỷ XX, nói đến những bài thơ hay mà không nhớ
đến bài Cát đợi của Nguyễn Việt Chiến thì cũng như nói đến những tác giả xuất sắc
mà không nhắc đến Xuân Diệu” [8].
Bài thơ Cát đợi, Nguyễn Việt Chiến viết từ khi bắt đầu khởi nghiệp thi ca,
năm 1991, vì tới năm 1992 ông mới cho ra mắt tập thơ đầu tay, nhưng đã báo hiệu
một tài năng thi ca đích thực ở mảng thơ tình.
Riêng câu: “Tôi cầm cả chính tôi lên/ Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu”đã
được Ban tổ chức Ngày thơ Việt Nam năm 2014, chọn là một trong 50 câu thơ hay
từ cổ chí kim để thả lên trời cùng những quả bóng bay tại sân thơ Văn Miếu- Quốc
Tử Giám. Cả bài thơ là một nỗi đau nhân tình thế thái khi bị người yêu phản bội.
Còn gì đau và cô đơn hơn thế, đến mức chỉ có cát là có thể hiểu được nỗi niềm của
nhà thơ:“Cô đơn xuống một đò đầy/ Tôi chờ em phía bên này mùa đông/ Cát còn
bay trắng bến sông/ Người còn đi trắng mùa mong ước này”.
Nhà thơ cũng khó có thể cưỡng lại được những phút xao lòng trước cái đẹp
của cảnh vật, con người và đất trời cũng như trước nỗi đau của lòng người trắc ẩn.
Điều ấy không chỉ là duyên cớ mà còn là nguồn cội của cảm hứng nghệ thuật để
Nguyễn Việt Chiến viết nên những bài thơ chất chứa tình người.
Trong tập Hoa hồng không vỡ, ngoài tuyệt phẩm Cát đợi còn có những bài
khá hay như Mưa tháng giêng của anh đã được nhạc sĩ Việt Hùng phổ nhạc từ cách
đây khá lâu do hai ca sĩ Trần Thu Hà và Vân Khánh thể hiện khá thành công.
Ai chẳng từng có cái cảm giác tiếc nuối khi thấy thời gian cứ bình lặng trôi đi, thu
hẹp vòng đời của mình lại, vậy nhưng đọc những dòng thơ giản dị này của Nguyễn
Việt Chiến, ta vẫn không khỏi thêm lần thảng thốt (chữ "mỏng" trong câu "Tháng
giêng ngày mỏng quá" thật đắt):“Tháng giêng ngày mỏng quá/ Nỗi buồn nghe cũ
rồi/ mà bên kia tờ lịch/ nỗi niềm mưa xót rơi”
44
Nhà thơ Trần Đăng Khoa phát biểu trong lần ra mắt hai tập thơ Tổ quốc nhìn từ
biển và Hoa hồng không vỡ của Nguyễn Việt Chiến, ông cho rằng đây là bài thơ
hay nhất của Nguyễn Việt Chiến vì trong đấy có những câu thơ xuất thần như:
“...Tháng giêng mưa dưới bến
Mỏng mai cô lái đò
Mắt mưa em lúng liếng
Trói tôi bằng vu vơ...”.
Cái mưa tháng giêng nơi phố thị sao mà vừa mơ màng như sương khói, lại
vừa đượm một nỗi buồn mang mác khiến thi nhân bị trói bởi ánh mắt mưa lung
liếng, vu vơ của cô lái đò. Cũng theo thần đồng thơ Trần Đăng Khoa, thì bài thơ nên
kết thúc ở đây, không nên thêm một khổ làm cho tình thơ bị loãng [48].
Những điệp khúc tình yêu da diết đến xao xuyến mà độc giả không sao quên được
khi trót “say men tình” trong vườn thơ tình ái của Nguyễn Việt Chiến – một cái tôi
đằm thắm nồng nàn với thi phẩm Mùa thu không trở lại.
“Em ngủ rồi, em có dậy nữa không
Mùa thu tiễn anh qua miền phố vắng
Mỏng manh quá lời yêu không đủ ấm
Những đam mê ngày ấy ngỡ xa rồi”
Chính nhà thơ từng tâm sự, bài thơ trên cũng chính là một câu chuyện có
thật, tình cờ xảy ra trong một đêm thơ ở Nhà văn hóa Thanh Niên Hà nội trên phố
Tăng Bạt Hổ cách đây khoảng gần hai chục năm. Khi ông vừa đọc một bài thơ tình,
từ diễn đàn bước xuống, thì có một thiếu nữ trẻ tiến lại gần. Người con gái ấy xin
chữ ký và bày tỏ niềm ngưỡng vọng đối với ông. Tuy nhiên, cuộc gặp ngắn “chẳng
tày gang” đã ám ảnh trong tâm trí nhà thơ những xúc cảm nhất định mà cũng chính
anh từng chia sẻ rằng “bài thơ Mùa thu không trở lại”tôi viết về cô gái ấy đăng trên
báo Tiền Phong. Chắc là cô gái ấy đã được đọc bài thơ này, vì lúc tạm biệt nhau, tôi
bảo: “Em cứ ngủ hết một tuần đi, anh không quấy rầy đâu, tuần sau nhớ ra sạp báo
mua tờ Tiền Phong, sẽ có bài thơ anh viết cho em để kỷ niệm đêm thơ này!”. Sau
45
đó, chúng tôi không gặp nhau, cô gái ấy thoắt biến mất vào một đêm-liêu-trai nào
đó mà tới hôm nay, tôi vẫn chưa tìm thấy hình bóng của nàng” [8, tr.6].
Có phải thế chăng mà những tứ thơ buồn miên man, thổn thức này cứ day dứt mãi
khôn nguôi:
“Em ngủ rồi, em có dậy nữa không
Mùa thu tiễn anh qua miền phố vắng
Mỏng manh quá lời yêu không đủ ấm
Những đam mê ngày ấy ngỡ xa rồi”
Trong tập thơ Hoa hồng không vỡ của Nguyễn Việt Chiến, người ta cũng
không sao quên được những day dứt, ám ảnh qua bài thơ cùng tên -Hoa hồng không
vỡ. Nó như một bản tình ca du dương của người thi sĩ si tình. Trong bài thơ, ngôn từ
như trở nên bất lực với nhan sắc tuyệt trần của cô gái:
“Em thật đẹp! ngôn từ đành bất lực
Một dáng buồn siêu thoát tự thân bay”
Mặc dù “Em quay lưng - kỷ niệm hoá sương mù/Tình yêu tắt như một chùm
hoa vỡ”, thế nhưng với thi nhân, tình yêu trong mình lúc nào cũng luôn tha thiết,
day dứt mãi khôn nguôi:
“Anh hóa đá, anh còn gì để tiếc
Em vứt rồi tất cả một trời xanh
Tất cả nước của một nguồn suối biếc
Chảy trong veo trên đá giấc mơ lành”
Ngay cả khi tình yêu rời xa, chàng trai ấy vẫn không thôi hy vọng, không
thôi khắc khoải về một tình yêu luôn chứa chan, nồng cháy…
2.2.2.3Cái tôi luôn thường trực với tình yêu quê hương, đất nước
Có thể dễ dàng nhận ra rằng, nếu không có một tình yêu lớn đối với Tổ quốc
thì không có một nhà thơ nào có thể viết nổi những câu thơ làm lay động tâm hồn
người, có sức lan tỏa mạnh mẽ tới cộng đồng.
Cũng như thế hệ mình, Nguyễn Việt Chiến sớm rời ghế nhà trường để bước vào
chiến trường. Những trải nghiệm ngắn ngủi nhưng khốc liệt của cuộc chiến, một
46
mặt, hằn sâu vào kí ức người cầm bút cựu chiến binh như thực tế bỏng rát nhất, mặt
khác, là căn cớ thúc đẩy anh vấn đáp nội tâm, vấn đáp xung quanh và bứt phá lên
như một người phát ngôn, người bình luận. Nguyễn Việt Chiến có được cơ hội và
khả năng đó, dẫu muộn, nhưng đã không đứt gãy.
Trước tiên, tình yêu quê hương đất nước được Nguyễn Việt Chiến thể hiện ở
rất nhiều bài thơ tâm huyết về biển đảo, Tổ quốc- được tập hợp trong cuốn Tổ quốc
nhìn từ biển. Đây là những bài viết ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc cả nước như Tổ
quốc nhìn từ biển, Tổ quốc là tiếng mẹ, Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra, Tổ
quốc bên bờ biển cả... Trong đó, nhiều bài thơ của Nguyễn Việt Chiến đã được phổ
nhạc.
Đó là cái tôitrữ tình luôn canh cánh nỗi lòng hướng về nguồn cội: “Tổ quốc
là tiếng mẹ/ Ru ta từ trong nôi/ Qua nhọc nhằn năm tháng/ Nuôi lớn ta thành người”
(Tổ quốc là tiếng mẹ).
Nguyễn Việt Chiến vừa tiếp tục làm công việc của các thi sĩ thuộc thế hệ
chiến tranh trước đây, vừa đề cập kịp thời đến những vấn đề nóng bỏng của đất
nước và dân tộc hôm nay.
Cáitôi trữ tình trong các bài thơ của ông vì thế mà luôn trăn trở khôn nguôi
ngay cả khi đất nước đang ở giữa thời bình.Với bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển -
Nguyễn Việt Chiến đã hình tượng hóa Tổ quốc bằng truyền thuyết, với điểm nhìn
xuyên suốt “từ biển”, và những “bão giông”, những “hiểm họa”, những “mất mát”
từ đó hiển hiện trong những chiều kích khác nhau.
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa”
Nhà thơ từng chia sẻ: “Bài thơ đó là sự thao thức, bồn chồn trước những
hiểm họa đang đến gần trên các vùng biển đảo của Tổ quốc thân yêu. Đất nước của
chúng ta liên miên trận mạc suốt bao đời, những nỗi đau thương chiến tranh còn ghi
dấu nơi rừng sâu, biển thẳm. Và qua nhiều thế kỷ, hàng triệu người con ưu tú của
47
dân tộc chúng ta đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình, đã vĩnh viễn nằm dưới cỏ
để gìn giữ non sông này, để mang lại tự do và hạnh phúc cho thế hệ mai sau...
Những cảm xúc trên đã thao thức trong tôi suốt một ngày dài ở trại sáng tác văn học
Hạ Long” [9].
Cái tôi ấy còn gắn liền với nỗi lo thế sự về an ninh của biển đảo, về cái nhìn
thăng trầm của lịch sử đầy biến động, của những đau thương và mất mát:
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi”.
Với Nguyễn Việt Chiến, nhà thơ nhìn Tổ quốc từ phía biển, để thấy khát
vọng của dân tộc, để thấy “trong hồn người có ngọn sóng nào không”.
Ở những vần thơ viết về biển đảo, Nguyễn Việt Chiến đã gợi mở cho người đọc
nhiều suy ngẫm về vấn đề chủ quyền của đất nước, về vai trò của quan trọng của
biển đảo đối với một quốc gia và trách nhiệm của một người công dân trong việc
giữ gìn đất đai Tổ quốc.
Tình yêu quê hương, đất nước của Nguyễn Việt Chiến còn thể hiện ở một cái
tôi luôn có ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Ông đã khơi gợi, cổ vũ lòng yêu nước, kêu
gọi mọi người Việt Nam hướng về Biển Đông.Trong bài thơ nổi tiếng của ông – Tổ
quốc nhìn từ biển có những câu: “Nếu Tổ Quốc hôm nay nhìn từ biển/ Mẹ Âu Cơ
hẳn không thể yên lòng/ Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa/ Trong hồn người có
ngọn sóng nào không?”. Bốn câu thơ bi hùng ấy có thể xem là hay nhất trong bài
thơ khiến người đọc cay xè mũi, rưng rưng. Mấy câu thơ ấy là câu hỏi lớn khi đất
nước lâm nguy thì làm sao những người yêu nước lại có thể bình lặng được. Câu
thơ đã khơi gợi tình yêu Tổ Quốc trong mỗi trái tim Việt Nam khi "sóng lớp lớp đè
lên thềm lục địa" hỏi rằng trong những hồn người hôm nay liệu có ngọn sóng nào
không?”.
Có thể nói, hành trình của cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến là
hành trình đitừ đời sống thực đến tâm tình thực, là hành trình đi từ cái tôi trải
nghiệm, từng trải đến với cái tôi nhập cuộc, hoá thân, từ cái tôi trải nghiệm đến cái
tôi chiêm nghiệm về đời sống và hiện thực, từ cái tôi bộc lộ những cảm nhận của cá
48
nhân đến cái tôi nói tiếng nói của nhiều người. Hành trình ấy cho thấy hướng của tư
duy thơ Nguyễn Việt Chiến luôn gắn liền với cảm hứng thật, gắn liền với đời sống
thực tại, không né tránh những cảm nhận chủ quan, những hiện thực nóng bỏng
mang tính thời sự, thời đại của tổ quốc, dân tộc.
2.2.3. Những nhân vật trữ tình khác trong thơ Nguyễn Việt Chiến
2.2.3.1 Người mẹ
Trong nhiều tập thơ của mình, Nguyễn Việt Chiến luôn chứa đựng đầy ắp
hình ảnh thiên nhiên và con người, biển cả và tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó còn là
hình ảnh của người mẹ - nhân vật mà anh đã gửi bao tâm tư, cùng những tình cảm
ấm áp nhất.
Người mẹ trong thơ Nguyễn Việt Chiến trước tiên là hình ảnh của đấng sinh
thành với công ơn nuôi nấng, dưỡng dục:“Đây/ Bầu sữa mẹ nuôi con/ Vầng trăng
thạch nhũ héo mòn tháng năm”(Tình yêu trong hang sửng sốt).
Người mẹ hiện lên trong thơ Nguyễn Việt Chiến là một người mẹ tảo tần,
sớm khuya, không quản bao gian khổ, khó nhọc để nuôi những đứa con “đói sữa”
trưởng thành. Trong bài thơ Đất nước, anh viết: “Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm
đạm/những ngày dài nghèo đói quắt quay/Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu
tháng…”; “Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại/ lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới
đêm hôm/ Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu/ nuôi lớn những người con/ rồi gửi
tới chiến trường”.
Hình ảnh người mẹ tảo tần đại diện chung cho thế hệ những người mẹ Việt
Nam xưa kia. Họ cần mẫn, cam chịu và đặc biệt, vô cùng bất khuất. Họ không quản
bao khó nhọc, vất vả nuôi con khôn lớn rồi lại gửi chúng vào miền bom lửa, bão
đạn vì một tình yêu lớn lao với tổ quốc. Có lẽ bởi thế mà nhân vật người mẹ trong
thơ Nguyễn Việt Chiến hiện lên vừa thiêng liêng mà cũng rất đỗi gần gũi, trân
trọng.
Hình ảnh người mẹ còn là nơi bến đỗ bình yên, nơi con người có thể tìm được sự
chở che, nương tựa, là chỗ dựa vững chắc cho đứa con bé bỏng. Có phải thế chăng
mà trong một lần trả lời báo chí, Nguyễn Việt Chiến nói rằng: “Tôi có cảm tưởng
49
trong những ngày đau khổ ấy, tôi luôn được che chở bởi người mẹ thân yêu của
mình qua hình ảnh một ngôi chùa trong đêm: “Mẹ ơi! đám mây lành kia là con trai
của mẹ/ dẫu ánh ngày đã tắt/ mẹ vẫn nhận ra con dưới mái nhà này/ mẹ vẫn nhận ra
con/ mùi mồ hôi bé bỏng quen thuộc/ khi con chạy về từ một tuổi thơ xanh xao còm
cõi vì chiến tranh/ cho đến ngày đám mây lành kia/ dừng lại/ trước một ngôi chùa/
Một ngôi chùa/ lặng lẽ nở trong đêm/ như một đoá sương trong vắt /khi những bông
sen/ như búp tay nhân từ của Đức Phật/ đang lẳng lặng vén bóng đêm u ám/ trên
gương mặt nhẫn nhục của con người/ trong một tiếng chuông sâu” (Những ngôi
chùa trong đêm) [47].
Tất cả tình yêu, lòng biết ơn đó, ông gửi đến mẹ những dòng thơ như những
nén nhang tri ân thành kính thắp lên hương hồn mẹ:
“Thưa mẹ
84 năm trái tim nhân hậu và bao dung của mẹ đã che chở cho con, cháu
84 năm trái tim mòn mỏi của mẹ đã đập qua những thời khắc buồn vui và đau đớn
nhất của một đời người
cho đến hôm nay trái tim mẹ ngừng đập
con không còn đủ thời gian
để sửa chữa một lỗi lầm trước mẹ
con cũng không đủ sức quay ngược bánh xe thời gian trở lại
cái ngày đầu tiên mẹ sinh ra con trên thế gian này”…
(Thưa mẹ, dòng sông cuối cùng của đời con)
2.2.3.2. Nhân vật em
Em – là nhân vật được Nguyễn Việt Chiến nhắc đến rất nhiều trong các bài
thơ của mình. Nhân vật em trước hết là đối tượng trữ tình mà Nguyễn Việt Chiến
hướng đến với tất cả tình yêu thương, trân trọng:
“Em là điều tôi chợt nghĩ
Mây trời có từ thủa các nhà thơ trái đất chưa ra đời
Và ngôn ngữ tình yêu là cơn mưa đầu tiên
Mang lại vẻ đắm say cho thi ca đồng vọng
50
Những chồi non xanh xao trên bùn lầy manh động
Lời ca tụng mây trời những lá cỏ đầu tiên
Em là điều tôi chợt nghĩ.”
(Em là điều tôi chợt nghĩ)
Em là người tình, người yêu trong tâm thức nhà thơ: “Em chẳng vàng
thu/Em dìu dặt một bờ bến lạ” (Để nhớ về em).
Em là cô gái đã làm trái tim nhà thơ xuyến xao trong một lần tình cờ gặp
mặt, là người phụ nữ in dấu trong mỗi áng thơ tình: “Nỗi buồn chiều, ta uống với ta
thôi/ Em như rượu- em làm ta cháy mất/ Giấc ngủ ấy ai tin là có thật/ Em một mình
đốt hết cả mùa thu” (Mùa thu không trở lại).
Em – chính là nỗi nhớ, là niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ. Là chỗ dựa
tinh thần, là nơi nâng đỡ tâm hồn khi mệt mỏi, lạc lối: “Nhưng lời nói yêu thương
của em / Sẽ mở ra một cánh buồm giấc mơ đưa anh qua biển tối” (Viết cho em).
Trong bài thơ Thèm, ông viết:“Thèm một ánh lửa cuối chiều đông xa/ Vai
em gầy lạnh trên thềm phố mưa”.
Nhưng có khi lại là những nỗi buồn, sự cô đơn bủa vây trong tâm
trạng:“Thôi em đi thành phố lúc đêm về/ Anh thức dậy không sao tìm lại được/ Đâu
bóng dáng một thời quen thuộc/ Ngày ta yêu nhau”(Bài thơ tình viết dở).
Có thể nói, trong hầu hết tập thơ của mình, nhân vật em cũng chính là nơi
nhà thơ gửi gắm những xúc cảm, những nỗi niềm trong tình yêu, đôi lứa. Có khi
ngọt ngào, nồng cháy, có khi nuối tiếc, cô đơn và có khi là một niềm tin bất diệt:
“Anh vẫn yêu em như tin vào ánh sáng
Dẫu khổ đau như mây tối đến mỗi ngày
Em vẫn yêu anh như tin vào hạnh phúc
Tin vầng trăng sau hao khuyết lại tròn đầy”
(Anh vẫn còn em)
2.2.3.3. Người chiến sĩ
Nguyễn Việt Chiến sớm rời ghế nhà trường để bước vào chiến trường.
Những trải nghiệm tuy ngắn ngủi nhưng khốc liệt của cuộc chiến đã hằn sâu vào kí
51
ức của người cầm bút cựu chiến binh như ông. Cũng bởi lẽ đó, ông đã dành khá
nhiều trang thơ của mình để khắc họa về người lính - người chiến sĩ trong cả thời
chiến lẫn thời bình.
Trước tiên là hình ảnh những người lính trẻ trong chiến tranh. Họ sẵn sàng
rời ghế nhà trường, bỏ lại tuổi xuân yên bình, thậm chí cả hạnh phúc gia đình bình
dị nơi quê nhà để lên đường ra mặt trận:
“Đại bác nổ giữa đại ngàn trận mạc
Người lính đi thăm thẳm một phương trời
Người vợ ấy đã bao năm thầm lặng
Sống vì anh nuôi đứa trẻ nên người”
(Về khổ đau và đại bác)
Hay trong bài thơ Đất nước, ông viết:“Họ còn nguyên tuổi trẻ/ những người
lính chưa tiêu phí một xu mơ ước/ chưa tiêu hoài một đồng thanh xuân”.
Và trong số những người lính ra trận đó, số ít trở về, số còn lại mãi mãi nằm lại với
đất mẹ phương xa:“Bao người lính trận vô danh/ Hiến dâng đất nước tuổi xanh của
mình”(Tổ quốc nơi biên thùy).
Ngoài lòng yêu quý, trân trọng, còn là sự xót xa, thương tiếc khôn nguôi cho
thân phận người lính nơi chiến trường khốc liệt: “Bao người lính vô danh/ Vùi mình
trong bùn đất/Đau nỗi đau thần công/ Không muốn thành rỉ sắt” (Sơn Tây cổ thành).
Không chỉ viết về những người lính nơi chiến trường khốc liệt, Nguyễn Việt Chiến
còn dành tình cảm rất lớn đối với những người lính hải quân. Họ đã hy sinh thân
mình cho tổ quốc để trở về với đất mẹ:
“Gió
như những người lính
chết trận ở Hoàng Sa
thổi u u trong cát mặn
thổi rỗng lòng biển
từ 1974 thổi mãi đến giờ”
(Gió hoàng sa)
52
Ngay cả khi đã ngã xuống, linh hồn những người lính nơi hải đảo xa xôi ấy
vẫn hướng về Trường Sa, vẫn không thôi trăn trở về vận mệnh của biển đảo, tổ
quốc:
“Người nghe biển động phía Trường Sa
Ngực trần chắn đạn lính đảo ta
Những hồn lính trận chưa yên ngủ
Mộ gió cồn cào với Gạc Ma”
(Hịch tướng sĩ trên biển Đông)
Vẫn là chủ đề cũ, nhưng Nguyễn Việt Chiến đã tìm ra được những điều mới
mẻ khi viết về những người lính hải quân trong thời bình.
Trong thời bình, hình ảnh người lính vẫn rất oai nghiêm, lừng lẫy. Họ dũng cảm,
bất chấp mọi gian khổ, sự xa cách về địa lý… cũng không ngăn được sự quyết tâm
một lòng bảo vệ biển đảo quê hương. Nguyễn Việt Chiến đã khắc họ hình ảnh
người lính – người chiến sĩ hải quân lẫy lừng như tượng sắt:
“Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thửa trước
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh”
(Tổ quốc nhìn từ biển)
Ngay cả khi tuổi đời còn rất trẻ, người lính thời nay vẫn sẵn sàng gạt bỏ nỗi niềm
riêng, gạt bỏ hạnh phúc cá nhân riêng tư để hy sinh cho hạnh phúc chung của dân
tộc. Thế nhưng, tâm thế của những người chiến sĩ ấy vẫn không một lần nao núng,
run sợ. Họ ra đi với niềm tin và tình yêu gửi lại nơi đất liền:
“Người lính đi, ngọn lửa tạc vào đêm
Cánh chim biển phập phồng trên cát ấm
Người với chim thân quen như bè bạn
Nơi mịt mù bão tố giữa đảo xa”
(Tổ quốc bên bờ biển cả)
53
Cũng giống như phẩm chất hiên ngang, bất khuất của người lính trong thời chiến,
người lính trong thời bình cũng vậy, tuổi xuân của họ cũng dành trọn cho tổ quốc.
Đã xa rồi thời bom đạn triền miên, thế nhưng, vẫn còn biết bao người lính đang
thầm lặng bảo vệ và gìn giữ sự bình yên cho Tổ quốc. Là nơi đầu sóng ngọn gió
ngoài biển Đông, là nơi địa đầu đất nước, là nơi biên giới, biển đảo xa xôi, vẫn có
những người lính âm thầm đã ngã xuống, ngay cả trong thời bình. Không còn đạn
lạc, chẳng có sốt rét rừng, có những người lính vẫn hi sinh vì cứu một em nhỏ giữa
dòng nước lũ, vì bảo vệ một hòn đảo, vì đuổi bắt tội phạm giữa đêm khuya…
Những chiến sĩ ấy đang ngày đêm miệt mài và âm thầm cống hiến. Dẫu bữa cơm
còn đạm bạc, dẫu đêm đông giá buốt hay mưa gió sấm sét sáng lòa cả một vùng
trời, họ vẫn vững vàng và kiên gan cống hiến.
TIỂU KẾT: Cuộc hành trình của cái tôi ngay trong giai đoạn đầu tiên đến với thơ
của Nguyễn Việt Chiến đã thể hiện rõ trong cách xưng hô, cách nhìn sự vật, hiện
tượng, con người trong từng năm tháng. Từ cái tôi với bao triết lý, chiêm nghiệm
suy tư về cuộc đời, đến cái tôi nồng nàn, đằm thăm trong tình yêu để rồi mở ra một
cái tôi luôn chất chứa, thường trực tình yêu quê hương, đất nước. Tư duy thơ của
Nguyễn Việt Chiến đã có sự thay đổi, từ tư duy hướng nội với những suy tư thầm
kín, những chiêm nghiệm sâu lắng về mất mát, hy sinh; nét buồn lãng mạn của kẻ
đang yêu cho đến những trăn trở, âu lo cho vấn đề biển đảo – vấn đề thế sự của đất
nước hôm nay.
Trong thơ Nguyễn Việt Chiến, song song với cảm hứng về tình yêu quê hương, đất
nước, biển đảo còn là cảm hứng về tình yêu đôi lứa trong sáng, mãnh liệt. Nó mở ra
nhiều chiều kích trong tâm hồn nhà thơ. Một hồn thơ đậm chất lãng mạn nhưng
không hề xa rời thực tế. Điều này chứng tỏ, Nguyễn Việt Chiến đã nỗ lực rất lớn
trong công cuộc tìm kiếm, chứng minh một cái tôi độc đáo trên văn đàn.
54
CHƢƠNG 3. THỂ LOẠI, NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
3.1. Thể thơ
3.1.1 Thể thơ tự do
Thơ Nguyễn Việt Chiến đa dạng, phong phú về thể loại. Bao gồm thể thơ tự do, thơ
lục bát, thơ 8 chữ, thơ năm chữ,… Mỗi thể loại đã để lại dấu ấn riêng độc đáo trên
cơ sở những thể thơ truyền thống, quen thuộc. Nhưng trước hết, thể thơ tự do vẫn là
nơi sở trường để ông thoả sức sáng tạo.
Trong các tập thơ của mình, Nguyễn Việt Chiến sử dụng đến 60% thể thơ tự do.
Trong đó, thơ tự do không bị hạn chế bởi những thiết chế ngữ pháp, câu thơ xuống
dòng tự do, không bó buộc việc viết hoa đầu câu mà những câu thơ có dịp được
tuôn chảy theo dòng cảm hứng của nhà thơ, việc xuống dòng hay sử dụng dấu câu
thường không ước định trong vai trò ngữ pháp mà như một sự tạo nhịp cho câu thơ.
Bởi vậy, thơ tự do được Nguyễn Việt Chiến sử dụng chủ yếu trong các bài thơ về
tình yêu, trong những bài thơ bộc lộ tâm trạng, cảm xúc giận, hờn, xót thương…
Mỗi bài thơ, mỗi văn cảnh, ông lại tạo cho nhịp điệu thơ những nốt nhấn nhá tự
nhiên theo cung bậc cảm xúc. Ví nhưcách ông khóc thương vị anh hùng dân tộc –
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong ngày đưa tiễn Người. Những “giọt thơ” như tất cả
mọi sự biết ơn, tiếc thương vị tướng của nhân dân:
“Chỉ khi ấy
Non sông này
mới biết
Lễ Dân tang
Nước mắt
của muôn nhà”
(Ngày Đại tướng đi xa)
Độc đáo ở chỗ từng dòng thơ đó như mô tả hết mọi sự kiện diễn ra trong ngày Quốc
tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp vậy. Từng giây phút, nhân dân cũng như cả một
đất nước mang người anh hùng vĩ đại về với đất. Cách điều chuyển từng dòng thơ
55
trên như một dụng ý nghệ thuật từ tác giả. Nó khiến mạch cảm xúc miên man, như
trải dài vô tận. Bởi đó là nỗi đau, sự mất mát khôn cùng. Bài thơ hướng đến buổi lễ
Quốc tang, khóc cùng chính vần điệu tác giả viết ra.
Việc viết hoa, viết thường mỗi câu thơ đầu dòng cũng đem lại những nét nghệ thuật
riêng:
“Mẹ đang cầu nguyện
mỏi mòn chuỗi hạt tháng năm
bóng mẹ in trên vách thời gian
như pho tượng tạc bằng nước mắt”
(Những ngôi chùa trong đêm)
Cách viết chữ hoa, chữ thường khiến bài thơ như một lời kể tự sự, một chuỗi liền
mạch không đứt đoạn. Nó còn giúp độc giả đi sâu vào không gian trong bài thơ, mỗi
vần thơ đọc lên nghe như âm vang nơi u tịch, gần gũi mà cũng rất đỗi huyền bí.
Bài thơ Muối cũng là một sự vận dụng thể thơ tự dorất thành công của nhà thơ:
“Chiều nay từ biển trở về
lang thang trong gió tối
anh đi qua
những cánh đồng muối không người
và cảm thấy những hạt muối
trong tim mình
đang cựa quậy một đời sống khác
đang hít thở một không gian khác
đang thắp lên một tư duy khác
để cùng anh vượt qua bãi bể đời người”
Hình ảnh con người dường như gắn liền với vị mặn của muối, cái nghiệt ngã của
sóng biển. Tác giả để cách viết thường như tạo ra một sự liên kết đồng điệu giữa
tâm hồn một chàng trai đối với cánh đồng muối. Tác giả đã khéo léo mượn hình ảnh
cánh đồng muối để bộc lộ, trải dài tâm tư của mình.Cuộc sống con người sẽ giống
như biển cả kia trải qua nhiều những phen sóng gió. Những khó khăn, vất vả hòa
56
quện vào nhau như vị mặn của muối. Một thứ đặc trưng mang đậm những thăng
trầm từ biển cả. Đọc những dòng thơ về muối, người đọc như cảm thấy chính mình
đang được hiện hữu trong bài. Bởi đời người ta ai chẳng có lúc thăng trầm như sóng
biển ngoài kia, khi dịu êm khi lại ồn ã, dào dạt. Với cách viết này, độc giả rất dễ
dàng nhận ra, những tâm sự rất đời của Nguyễn Việt Chiến trong từng sự vật, hiện
tượng.
Việc sử dụng thể thơ tự do khiến Nguyễn Việt Chiến thể hiện thành công những
cung bậc cảm xúc. Bài thơ Hoa hồng không khóc là minh chứng cho điều đó. Mặc
dù nước mắt cố giấu lại nhưng người ta vẫm dễ dàng nhìn thấy những “giọt thơ”
long lanh khẽ rơi xuống trang viết:
“Trong bóng đêm
có
một người đang hát
chẳng ai biết
nàng buồn
hay chúng ta
buồn hơn
thứ ánh sáng
phất lên bài ca ấy
trên cánh rừng mệt mỏi
của hoài nghi
con người sống
và con người
phải sống”
Dù cho tiêu đề là Hoa hồng không khóc nhưng chính cách xuống dòng ngắt nhịp,
độc giả vẫn nhậnthấy nỗi buồn tột bậc mà nhà thơ đang cố lòng kìm lén. Nhịp thơ
lên xuống như thứ cảm xúc hỗn độn đang bủa vây, không sao thoát ra nổi. Không
khóc chỉ là để tạm giấu đi những điều ngổn ngang trong cõi lòng mà thôi.
57
Sử dụng thể thơ tự do đã khiến cho cảm xúc của nhà thơ được tự ý dâng trào, tuôn
chảy mà không sợ gò bó, gượng ép. Không chỉ tự do trong hình thức câu thơ, thể
thơ này còn kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài thơ. Đó là khi cái tác giả có nhu cầu
bộc bạch đến cạn cùng nguồn cảm xúc thẩm mĩ, khi tiếng nói bức bối của chủ thể
trữ tình gần như không thể kiềm nén. Nó phục vụ cho cách cảm thụ thế giới nghệ
thuật được rõ nét hơn, chân thực hơn, mang đậm hơi thở của đời sống.
Chính nhờ thể thơ tự do, câu thơ trúc trắc không vần cho phép Nguyễn Việt Chiến
tự do trong việc lựa chọn từ ngữ thơ cho riêng mình. Bên cạnh ngôn ngữ chắt lọc từ
đời sống phong phú và vô tận của con người, thể thơ tự do đã mang lại cho nhà thơ
thứ vũ khí “lợi hại” để chống lại sự sáo mòn của ngôn ngữ thơ ca.
3.1.2 Thể thơ lục bát:
Ngoài sự sáng tạo trong thể thơ tự do đểlàm nên đặc trưng rất riêng trong thơ của
mình, Nguyễn Việt Chiến còn khẳng định mình qua thể thơ lục bát.
Lục bát là thể thơ mang trong mình những đặc trưng dân tộc về văn hoá đã dồn nén,
tích tụ lại qua thời gian mà tồn tại.Chính vì thế, Nguyễn Việt Chiến đã sử dụng thể
thơ này trong các bài thơ viết về văn hóa truyền thống, về tâm linh và tư duy cõi
Phật. Có thể kể đến một số bài như: Gặp Nguyễn Du trên sông đêm; Thương nhớ
sâm cầm, Các ông tiến sĩ giấy ở Văn Miếu, Thời gian của trăng, Trăm năm mắt
Huế, Mây tơ tằm...
Và đây là cách nhà thơ dùng thể thơ lục bát kết lại bài thơ Những ngôi chùa trong
đêm:
“Nghe như vọng tự ngàn xưa
Trong sương khói tiếng mõ chùa đêm đêm
Những ai trở lại thiên nhiên
Lánh đời về dưới cửa Thiền những ai
Đức tin ở một ngày mai
Những tượng đất hát, những đền đài thiêng
Đạp qua khổ nhục oán hèn
đạp qua dục vọng, cháy lên Niết Bàn”
58
Thể thơ lục bát khiến âm hưởng bài thơ trở lên nhẹ nhàng, bâng khuâng. Đặc biệt,
đối với một bài thơ mang âm hưởng nhà Phật thì càng phải tạo sự nhẹ nhàng nhất để
“sắc sắc”, “không không”. Một cái kết với thể thơ lục bát chính là cách giải phóng
tư duy người đọc khi ngay từ lúc mở đầu. Nguyễn Việt Chiến đưa người ta vào một
không gian trầm luân, bể khổ như cách tư duy nhà Phật về cõi đời này. Những đớn
đau, u buồn hiện hữu nhắc nhở con người ta về triết lý “cõi tạm”. Để rồi, khép lại nó
là những thi từ thực sự nhẹ nhàng nhất để con người ta có thể đến được cảnh giới
của cõi Niết Bàn.
Một điều rất thú vị ở thể thơ lục bát mà Nguyễn Việt Chiến sử dụng chính là ở việc
hoàn tất một cuộc chia ly mà không cần một lời nói, giống như một vết rạn, chạy
dọc trên chiếc cốc pha lê, cho hết chiều dài của chiếc cốc thì cả người đọc và nhân
vật trữ tình đều chờ đợi tiếng vỡ tách ra từ chiếc cốc đó như một quy luật không thể
khác được. Thông điệp mà tác giả gửi đến người đọc không gì khác ngoài niềm trân
trọng, xót xa đối với một tình yêu đẹp, một vầng trăng bị tách thành hai nửa trong
tim mỗi người. Bài thơ Tiếng trăng đã khắc họa rõ nét điều này:
“Tiếng gì trên cỏ vừa rơi
Hình như phía ấy có người bỏ đi
Ðạp lên cả ánh trăng khuya
Tiếng trăng như lá vỡ nghe thật buồn”
Trong tận cùng của cảm giác cô đơn, của cái ý nghĩ bắt buộc phải chia tay nhói lên,
nhà thơ nghe thấy ảo ảnh của một tiếng động: tiếng rơi, tiếng bàn chân, tiếng trăng,
tiếng lá vỡ… Cái không gian hư ảo của cuộc chia ly xuất hiện với nhịp chậm, buồn,
rời rạc ở đầu bài thơ cứ vỡ ra dần, theo hai mảnh, mỗi người ôm một khối tâm tư…
Để rồi không gian ấy vỡ òa ra ở cuối : “Tiếng trăng như lá vỡ nghe thật buồn”. Đó
chính là cấu tứ của bài thơ. Sự chuyển vận của tâm trạng hai nhân vật trữ tình anh
và em cứ âm thầm, với những hành động rời rạc, cơ hồ như vô nghĩa:
“Quờ tay gặp cỏ dưới chân
Em ngồi bứt hết hoàng hôn của chiều
Thở dài gặp ánh trăng gieo
59
Anh buồn đếm được bao nhiêu sao rồi”
Đây là lúc mỗi người đều cố thả lỏng tâm trạng mình, buông xuôi theo thời gian.
Nhưng sự hờ hững ấy đang ẩn chứa đầy ắp tâm trạng.
Nguyễn Việt Chiến còn sử dụng lối thơ lục bát mới, thường bẻ câu, xuống dòng để
tạo nhịp điệu ví như đoạn thơ sau:
“Sớm nay lác đác sen đồng
Một vài bông nở
Bên sông lập loè
Con sông vừa ngủ vừa đi
Áo phù sa bạc mấy khi được lành
Em về vá áo sông anh
Về mau kẻo sóng nhuộm thành sông mê”
(Mây tơ tằm)
Điều đáng nói, dù quay về thể thơ lục bát truyền thống, nhưng Nguyễn Việt Chiến
đã không rập khuôn lại những tinh hoa có sẵn mà ông đã từng bước đổi mới để đi
đến sự cách tân mang tính thể nghiệm:
“Nỗi buồn.Chỉ có một dây.
Độc hành.Qua cõi bùn lầy. Cô đơn.
Thân đàn.Như một ống xương.
Chuốt mình.Thành khúc nhạc buồn. Của đêm...”
(Đàn bầu)
Nguyễn Việt Chiến đã dùng thể thơ lục bát với lối ngắt dòng, “làm chậm” bằng dấu
chấm để đưa độc giả đến một không gian u tịch của đêm.
Với riêng thể lục bát, cách tạo nhịp bằng dấu chấm thực sự đã có hiệu quả trong
việc điều tiết hơi thở, đặt người đọc vào tình thế phải “đọc chậm”. Sẽ không khó để
nhận ra, đọc chậm là một đòi hỏi có tính tiên nghiệm của chủ thể sáng tạo đặt lên
chủ thể tiếp nhận. Đọc chậm là cách để người ta sống trong không gian thơ, trải
nghiệm một cách sâu sắc hơn những ấn tượng thi ca:
“Tiếng ngàn xưa. Đã lặng im
60
Nhịp chày Yên Thái. Ngủ quên. Tháng ngày
May. Còn Trấn Quốc. Chùa đây
Tiếng chuông. Trên sóng. Vọng đầy khói sương”
(Thương nhớ sâm cầm)
Hay:
“Những con rùa. Đá cõng bia
Ngàn ông tiến sĩ. Vinh quy. Chốn này
Nửa đêm. Ở. Miếu đường. Đây
Hình như. Có tiếng các thầy. Gọi nhau
Mấy ông.Tiến sĩ. Bạc đầu
Lên. Khuê Văn Các. Cùng nhau. Chuyện trò
Chuyện đất nước. Chuyện văn thơ
Chuyện hưng thịnh. Các triều vua. Xứ này”
(Các ông tiến sĩ ở Văn Miếu)
Cách ngắt nhịp “làm chậm” hết sức lạ lùng tạo cho ta thấy những hoạt động được
nhà thơ tưởng tượng, hình dung khá kỹ lưỡng. Hình ảnh những vị trạng nguyên
được dựng bia trong Văn Miếu. Họ vốn là những tinh hoa tri thức nhất của một dân
tộc qua mỗi thời kỳ, mỗi triều đại phong kiến. Hình ảnh bia đá như một sự ghi nhận
đối với trí tuệ họ. Bên cạnh đó, những tấm bia đá tạo hình ảnh về thứ gì đó trường
tồn với thời gian. Có thể một triều đại mất đi, song những di tích triều đại đó vẫn sẽ
còn. Chính vì thế, những ông tiến sĩ được tạc tên dường như trở thành chứng nhân
lịch sử đối với từng thời kỳ của đất nước.
Đối với Nguyễn Việt Chiến, sống chậm mới là sống sâu sắc từng giây phút của hiện
hữu. Cái dấu chấm giữa chuỗi lời kia khiến cho mọi thứ không trôi tuột đi, như là
tiếng chuông còn ngân rung trên mặt sóng lãng đãng khói sương. Một cái tôi cô độc
sống giữa muôn vàn cá thể cô độc khác, vậy nên Nguyễn Việt Chiến tha thiết níu
giữ những nhân hình đang vội vã lướt qua cuộc đời. Tâm thế ấy ông dồn vào hình
thức lục bát như là một sứ điệp gần gũi nhất của hồn dân tộc:
61
“Hẹn em. Ở. Hội Chùa Thầy
Tháng Giêng. Lại gặp đò đầy. Chùa Hương
Trái mơ tơ tưởng. Còn vương
Thẹn thò. Ngực áo đẫm sương. Tơ tằm
Nón Chuông. Buông. Mắt lá dăm
Em. Xuôi đò dọc. Anh. Lầm đò ngang”
(Mây tơ tằm)
Với kiểu thơ lục bát bẻ câu, xuống dòng như trên, nó đã tạo ra một hiệu ứng “làm
mới không gian thơ lục bát” trong thơ Nguyễn Việt Chiến. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy, cùng với việc đổi mới về mặt cấu trúc nhịp điệu câu thơ cũng khiến cho thể
thơ lục bát của Nguyễn Việt Chiến có vẻ khiên cưỡng, mất đi ít nhiều sự uyển
chuyển của thể lục bát truyền thống.
3.1.3 Thể thơ 8 chữ:
Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ rất miệt mài trong công cuộc cách tân, đổi mới thơ
ca. Thế nhưng bài thơ làm nên tên tuổi ông lại là bài thơ vốn không có nhiều dấu
hiệu của sự cách tân đổi mới như bài Tổ quốc nhìn từ biển.
Với bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến đã sử dụng rất thành công,
nhuần nhuyễn thể thơ thơ tám chữ. Mặc dù đây không phải thể thơ mới, nhưng cái
mới làm xúc động đông đảo bạn đọc chính là ở cách nhìn mới thông qua hình tượng
về biển đảo, về nỗi đau biển đảo đang thao thức, trằn trọc trong tâm hồn những
người Việt Nam yêu nước hôm nay. Đây là bài thơ mang một tinh thần mới, một
tâm thế mới…nên đã nhận được sự cộng hưởng tri âm của hàng triệu người đọc
trong và ngoài nước.
Trong bài thơ này, dường như tất cả những tâm tư, nguyện vọng, cảm hứng thế sự,
tính tự tôn dân tộc được đẩy lên cao nhất:
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình goá phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi”
62
(Tổ quốc nhìn từ biển)
Một bài thơ không chỉ được tác giả thể hiện tình yêu nước mà nó như một cỗ máy
thời gian chạy ngược lại dòng lịch sử để có thể sống lại những chiến tích cha ông.
Buổi khai thiên lập địa cho đến tận ngày hôm nay, 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
bị đe dọa nghiêm trong đến nền an ninh quốc phòng đất nước. Nhà thơ còn biết
“nhắc khéo” những lời cha ông dặn dò. Nói lên những nỗi gian truân, vất vả, trải
bao năm tháng chiến tranh mới bảo vệ được chủ quyền đất nước. Cũng là lời nhắn
nhủ tới những thế hệ mai sau gắng giữ gìn.
Đặc trưng thể loại thơ 8 chữ giúp nhà thơ Nguyễn Việt Chiến có thể diễn đạt tính
chất liên tục của mạch cảm xúc, của dòng suy nghĩ mà không hề khô cứng, gượng
ép.
Ngoài ra, thể thơ 8 chữ còn giúp tính mô tả hình tượng nhân vật đặc sắc hơn. Bài
thơ Hoa hồng không vỡ biểu trưng cho điều này. Nhân vật trữ tình hiện lên thật đặc
sắc, giàu sức gợi:
“Em thật đẹp! ngôn từ đánh bất lực
Một dáng buồn siêu thoát tự thân bay
Em có phải cội nguồn xưa nước mắt
Những vệt sao cháy rụng suốt đêm gầy”
Như vậy, có thể thấy rằng, cả trong mảng thế sự và tình yêu, thể thơ 8 chữ với cấu
tứ nhịp nhàng, dòng mạch liên tục đã mang đem đến cho người đọc những vần thơ
giàu sức gợi.
3.1.4 Thể thơ 5 chữ
Thơ 5 chữ hay còn gọi là thể thơ ngũ ngôn truyền thống, nó mang đặc trưng của
ngôn ngữ kể, Nguyễn Việt Chiến sử dụng thể thơ này nhằm tạo ra những xúc cảm,
sự hoài niệm về những nơi mình đi qua, những sự kiện, con người lịch sử. Trong
tình yêu, ý nghĩa hoài niệm về những thứ tình cảm trải qua cũng được nhà thơ sử
dụng thể thơ này nhằm viết lên những tâm tư, khát vọng. Những cuộc sống tình cảm
cá nhân hiện lên sinh động, mạch cảm xúc dường như không bị ngắt quãng.
63
Thể thơ này gò bó ở những câu chữ đòi hỏi sự súc tích nhưng vẫn phải trải đều
mạch cảm xúc. Do đó, tác giả dường như sử dụng đúng những đối tượng hướng đến
nhằm tạo ra được nhiều xúc cảm.
Ngựa đá lên biên ải
Từ ngàn năm trước rồi
Giờ thành cao nguyên đá
Dựng bờm trong mây trôi
(Trích Ngựa đá miền biên ải)
Chính nhờ cách vận dụng này, Nguyễn Việt Chiến dường như thi vị hóa những nơi
đi qua. Ngay cả những vật vô tri, vô giác, ông có thể thổi vào đó những luồng cảm
xúc nhất định, để khiến chúng mang nặng tâm tưởng nhà thơ. Đọc những vần thơ
đó, dù màu thời gian nhuốm đầy không gian theo từng bước chân tác giả nhưng
chúng trở thành một cố nhân. Thứ người bạn đường, bạn văn chương với chính nhà
thơ. Đồng thời, trong tình cảm, nhà thơ gieo vào đó những điều chân thật nhất nơi
cõi lòng:
Nếu khổ đau như lá
Đốt em thành mùa thu
Trong rã tan rụng úa
Em hồi sinh cho mùa
(Trích “Nếu khổ đau”)
Khác với cách thể hiện như dùng thể thơ tự do nhằm nhỏ xuống trang viết những
“giọt thơ”, thể thơ 8 chữ nhằm khắc họa niềm tự tôn dân tộc, tính thời sự, thể thơ
lục bát viết về những điều bình dị nhất, tính sử thi, cách tạo hình nhân vật, mở ra
những câu chuyện trong trí tưởng tượng thì thể thơ 5 chữ mang hơi hướng nhẹ
nhàng nhất. Bao hoài niệm, xúc cảm cứ thế hiện lên chân thật.
Đọc những dòng thơ 5 chữ của Nguyễn Việt Chiến, người ta khó mà nhận ra sự
nghiệt ngã của thời gian. Nhà thơ như đang mở một cuộc đối thoại thực sự giữa
người và cảnh. Dù cho cảnh có thể lương, buồn biết mấy, nhưng ông vẫn đưa vào
đó hết mọi tâm tư, sâu kín nhất trong lòng. Tuy không nhắn nhủ gì nhưng nó sưởi
64
ấm thêm trái tim con người ta. Không gian bớt đi quạnh quẽ, đìu hiu, nỗi buồn thảm
bớt đi mà mang thêm chiều sâu tâm tưởng, chiều sâu của không gian.
Thông qua cách vận dụng hết sức linh hoạt những thể thơ đặc trưng nhất, Nguyễn
Việt Chiến thực sự đã tạo ra một phong cách mới mẻ trong thời kỳ thơ ca hậu hiện
đại. Lứa nhà thơ trưởng thành sau cách mạng, hòa chung nhịp đập con tim vào
những vấn đề mang tính thời sự, tâm hồn con người giữa thời buổi kinh tế thị
trường, những sự kiện xã hội nóng qua từng ngày.
3.2 Cấu tứ thơ
3.2.1 Khái niệm về cấu tứ trong thơ
Cấu tứ là một phương diện quan trọng của hoạt động sáng tác thơ ca. Nó thể hiện
quá trình suy ngẫm của tác giả để định hình, tổ chức cả hai mặt nội dung và nghệ
thuật một tác phẩm. Nó đóng vai trò tạo nên phong cách nghệ thuật, biểu hiện tư
tưởng, quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống của nhà văn. Cấu tứ là linh
hồn của tác phẩm, cung cấp cho độc giả một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Cấu tứ là mô hình nghệ thuật của
tác phẩm. Tuy nhiên, không phải bất cứ cấu tứ nào cũng có thể cho thấy phong
cách, tư tưởng nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người của chủ
thể sáng tạo. Đó phải là những kiểu cấu tứ có tính lặp lại, xuyên suốt hoặc thống
nhất trong nhiều tác phẩm.
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều phải tìm tòi, suy ngẫm để xác định cho ra cấu tứ riêng cho
tác phẩm của mình. Nếu như coi tứ truyện là bằng chứng về sự tìm tòi công phu,
sáng tạo nghiêm túc của nhà văn, là mô hình tư duy, mô hình về thực tại được nhà
văn khám phá thì tứ trong thơ cũng là một sáng tạo độc đáo không kém, cho thấy
được những lý giải, cách cảm, cách suy luận riêng của mỗi nhà thơ.
Cấu tứ trở thành một phương tiện có chức năng thống nhất giữa mặt chủ quan của
người sáng tạo (quan niệm về thế giới con người, cách nhìn, cách cảm, mơ ước,
kinh nghiệm riêng của nghệ sĩ, cá tính sống và cá tính sáng tạo của họ...) với mặt
khách quan (hiện thực).
65
Có thể nói, trong sáng tạo văn học, đặc biệt là thơ ca, cấu tứ có vai trò vô cùng quan
trọng, như là một thách thức sáng tạo mà người nghệ sỹ cần phải vượt qua, nếu
không sẽ không thể có tác phẩm chứ chưa nói đến những tác phẩm hay, để đời.
3.2.2. Những cấu tứ đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến
Nguyễn Việt Chiến là nhà thơ đặt được dấu ấn riêng đặc sắc trong mỗi thể loại thơ
truyền thống lẫn cách tân. Là một trong những nhà thơ tiên phong đặt dấu mốc đổi
mới thơ thuộc thế sau 1975. Và nhà thơ tự nhận về mình trách nhiệm luận bàn về
điều đó một cách nghiêm cẩn...
Trước tiên, Nguyễn Việt Chiến tận dụng triệt để thể thơ lục bát và những đặc trưng
của thể thơ lục bát trong một số bài thơ như:Gặp Nguyễn Du trên sông đêm,
Thương nhớ sâm cầm, Các ông tiên sĩ giấy ở Văn Miếu, Thời gian của trăng, Trăm
năm mắt Huế, Mây thơ tằm. Bên cạnh đó là sự tồn tại của các thể thơ khác như thể
thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 nhưng cấu tứ thơ vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều của thơ ca truyền
thống, chưa có nhiều điểm mới lạ, độc đáo.
Ví dụ như bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển được xây dựng trên cấu tứ nền tảng là
những giả định về Tổ quốc gắn với những hình ảnh về biển đảo: “Nếu Tổ quốc đang
bão giông từ biển…”, “Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển…”, “Nếu Tổ quốc nhìn
từ bao quần đảo…”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích…”, “Nếu Tổ quốc nhìn
từ bao hiểm họa…”, “Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả…”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ
bao mất mát…”.
Cách điệp ngữ ở đầu câu với cụm từ “Nếu tổ quốc” khiến cho âm hưởng về tổ quốc
trong bài thơ hiện lên rõ nét. Đây là một kiểu lập luận đặc trưng của tư duy logic.
Hình ảnh Tổ Quốc là một hình ảnh không mới, được sử dụng nhiều trong cấu tứ thơ
ca truyền thống. Tuy nhiên, ở bài thơ này, hình ảnh Tổ quốc được Nguyễn Việt
Chiến đặt trong điểm nhìn “từ biển”, khiến cảm nhận về Tổ quốc của anh khác với
các nhà thơ khác khi viết về đề tài này. Và cái độc đáo hơn là ở chỗ nhà thơ gợi
nhắc chúng ta về một truyền thuyết đáng yêu của buổi bình minh Tổ quốc, khi Lạc
Long Quân và Âu Cơ với trăm người con, theo mẹ lên rừng, theo cha xuống biển,
vẽ nên hình hài đất nước cho cháu con muôn đời:
66
“Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa”
Chính cấu tứ của bài thơ đã làm nền cho cảm xúc thăng hoa, âm hưởng thơ trầm
hùng, bi tráng…
Tuy vậy, chỉ khi đến với thể thơ tự do, cấu tứ trong thơ Nguyễn Việt Chiến mới đạt
được những bứt phá mãnh liệt, độc đáo.
Cấu tứ thơ Nguyễn Việt Chiến ở thể loại này dành một sự quan tâm đặc biệt trong
việc khám phá, xây dựng, tổ chức thế giới hiện thực ở “bề sâu, bề sau, bề xa”,
“những vùng khuất”, “những vùng mờ” để từ đó phát biểu thành những quan điểm
về hiện thực mang tầm khái quát cao.
Những liên tưởng, tưởng tượng đã bắt đầu trở nên đa dạng, đa chiều, lắp ghép ngẫu
nhiên trên nền tảng của tư duy nghệ thuật “động”. Cấu tứ thơ vì thế đã được mã hóa
và ít nhiều trở nên bí ẩn với người đọc:
“Một nửa chiếc lá sen
Không vẽ cho ta
lối về cực lạc
Để lại một nửa mùa sen
Đang chìm dần
vào sương khói
Để em không nhìn thấy anh
Từ một nửa mùa hoa
đang tàn héo kia
Để anh
Nhìn vào chính mình
từ một nửa đã khuất
Dưới đáy sâu
Còn một nửa chiếc lá sen đang thở
Còn một nửa mùa sen khác
đang sống
67
đời sống
của chính chúng ta”
(Còn một nửa mùa sen)
Vẫn là những mật mã của “Đêm” và “Trăng” được Nguyễn Việt Chiến sử dụng như
sự nhất quán trong tư duy thơ của ông trước khi lý giải, cắt nghĩa cũng như dẫn dắt
cấu tứ vào con chữ.
“Ánh trăng gầy như nước mắt của đêm”,
“Sóng đêm tự bến sông nào
theo trăng về thức dưới màu mây xưa”,
“Đêm nay khe khẽ mùa đi
mùa đi
mấy ngọn phố khuya đỏ đèn
mảnh trăng còn thức sau đêm
lặng lẽ bầy kiến đi bên vòm trời”
Và cũng chính từ đây, một hệ quả tất yếu, thơ Nguyễn Việt Chiến còn xuất hiện
những câu chữ bề bộn, chảy tràn trang, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề
có dấu câu, miên man như những ý nghĩa không sắp đặt, không quán tính, đảo lộn
mọi quy ước phổ thông.Trong những tổ chức ngôn từ chừng như phi logic, nhà thơ
đang đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh… Lối viết tự động
tâm linh hoặc những mê sảng của ý thức, sự trỗi dậy mãnh liệt của vô thức, tiềm
thức. Đọc rất nhiếu những bài thơ, nhất là trong tập Trăng và thơ đọc chậm với
những bài thơ như: Gặp Nguyễn Du trên sông đêm, Sự nổi loạn của tranh, Nước
mắt của trăng, Mùi Tiên…, độc giả rất dễ bị đánh lừa, mê hoặc trong cách cấu tứ
mang tính chất “bủa vây” bằng những hình ảnh hình tượng khi thì liền mạch, khi thì
phân đoạn, giãn cách...
Thi nhân đã có một ý thức rõ ràng trong việc tạo ra các tác phẩm thơ mà ở đó ông
chủ động phá vỡ đi đường biên rõ ràng của thể loại “thơ – văn xuôi”. Cách cấu tứ
này cũng được coi là một bước vụt rất xa so với các nhà thơ giai đoạn trước về tư
68
duy cấu tứ thơ. Ông bỏ qua các dấu câu như là một biểu hiện cho sự phản ứng với
cách cấu tứ trong cú pháp thơ truyền thống:
“Thưa mẹ
hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu
trong con vẫn còn một chuyến tầu
ba mươi ba năm trước chưa trở về
phải chăng vì thế
những câu thơ bây giờ
vẫn phải lên đường
làm một cuộc ra đi”
(Ga Hàng Cỏ dọc đường Nam Bộ)
Để nói về quá trình đổi mới thi ca Việt, Nguyễn Việt Chiến coi nó như những
chuyến tàu lao mãi về phía trước không ngừng nghỉ:
“Tôi đi qua
bóng một sân ga
chẳng con tàu nào chở tôi về phía thương yêu cũ
chẳng con tem nào đưa tôi về địa chỉ yêu dấu cũ
chẳng câu thơ nào cõng tôi về tuổi thơ cũ
chẳng ánh sáng nào giúp tôi thoát khỏi những ám ảnh cũ
chẳng con đường nào nâng tôi lên qua những dằn vặt cũ
chẳng máy giặt nào giặt hộ tôi những đau khổ cũ
chẳng máy điều hòa nào có thể cứu nổi một sa mạc cũ
đang phổng phao lớn dần những đói khát trong tôi
Bởi thế
tôi chỉ dám cất giấu trong câu thơ chật hẹp của mình: một ít gió còm cõi từ mùa hạ
cũ
một ít nắng đăm chiêu từ mùa đông cũ
một ít mây chiều bơ vơ trên mái phố cũ
69
một chút bụi tư tưởng rơi ra từ cuốn sách cũ
một hơi ấm thì thào trong bài hát cũ
một mùi vị hoang dại ngọt ngào trong da thịt cũ
Để nhớ về em”
(Để nhớ về em)
Điệp từ “chẳng” đứng đầu câu, sau danh từ và được lặp đi lặp lại 7 lần, nó nhấn
mạnh sự trôi chảy của thời gian, của tạo hóa, sự vật. Nó còn cho thấy cả sự tiếc nuối
vì sự xoay vần của con tạo, sự đổi thay của kiếp người. Thời gian là bánh xe tuần
hoàn “một đi không trở lại”, chính vì thế để tiếp tục sinh tồn, con người không còn
cách nào khác là phải thích nghi, phải thay đổi và tự thay đổi.
Bởi lẽ đó, nhà thơ chỉ có thể gửi gắm kỉ niệm bằng những khát khao ít ỏi: “một
chút, một ít” – điệp từ này lặp lại 4 lần trong đoạn thơ khiến cho lời bài thơ càng
thêm da diết, đượm buồn.
Hay như những chiêm nghiệm triết lý trong Những ngôi chùa trong đêm qua cuộc
đối thoại của người đàn bà từng trải qua mọi buồn đau kiếp người:
“Mẹ bảo: nước mắt ban ngày chảy xuôi đánh thức những ngôi đền
còn ban đêm nước mắt chảy ngược vào trong
thấm đến một miền đức tin cứu rỗi
Bởi thế
trên gương mặt thời gian
trên gương mặt người đời
nước mắt không bao giờ ngừng chảy
rồi mẹ bảo: đền chỉ làm bằng nước mắt
rồi mẹ bảo: có ngôi đền chỉ xây bằng đức tin
rồi mẹ bảo: có ngôi đền làm bằng lời cầu nguyện”
70
Đây là kiểu lập luận đặc trưng của tư duy logic khi có từ “Bởi thế” – chỉ sự lý giải
nguyên nhân sự việc. Trong đoạn thơ này, điệp từ “nước mắt” (lặp lại 4 lần); lời mẹ
dặn “rồi mẹ bảo” (lặp lại 3 lần) khiến cho lời bài thơ trở nên nhẹ nhàng, sau lắng
như lời thì thầm của người mẹ với đứa con. “Nước mắt” là hình ảnh tượng trưng
cho sự khổ đau của một kiếp người, là những mất mát, lo toan không bao giờ kết
thúc trong cuộc sống nhân sinh...
Có thể nói, chính cấu tứ bằng sự xóa mờ tối đa đường biên ranh giới thể loại thơ –
văn xuôi khiến Nguyễn Việt Chiến có khả năng diễn tả khá đa dạng và linh hoạt,
sinh động nhiều vấn đề của đời sống nhân sinh hiện đại.
3.3. Ngôn ngữ
3.3.1. Ngôn ngữ trong tư duy thơ
Ngôn ngữ là cái v ỏ vật chất củ a tư duy , là phương tiện trực tiếp củ a tư duy .Ngôn
ngữ gắn liền với hoạt động lời nói, hoạt động tư duy củ a con ngư ời.Ngôn ngữ chính
là hiện thực trực tiếp củ a tư tưở ng.Trong văn học, ngôn ngữ là chất liệu để xây dựng
hình tượng, thông qua hình tượng để phản án h hiện thực đ ời sống khách quan .
Thông qua ngôn ngữ quá trình tư duy đư ợc tái hi ện, văn học có thể khắc hoạ được chân dung tư tưở ng củ a con ngư ời, phản ánh bất k ỳ một phương diện nào củ a đ ời
sống hiện thực
Tư duy thơ được biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ.Ngôn ngữ thơ là một loại hình ngôn
ngữ đặc biệt. Ngôn ngữ là một trong những đặc điểm quan trọng thể hiện bản lĩnh
nghệ thuật, cá tính sáng tạo củ a nhà văn ; là phương tiện quan trọng bộc lộ rõ cái tôi
trữ tình
3.3.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến
Ngôn ngữ là công cụ trực tiếp của tư duy. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để tạo ra thứ
sản phẩm cũng bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ đối với nhà thơ vì vậy vừa có ý nghĩa
phương tiện vừa có ý nghĩa mục đích. Thơ Nguyễn Việt Chiến nói chung nổi bật lên
ở ngôn ngữ được chọn lọc công phu, kĩ lưỡng, được xây dựng trên nhiều chất liệu
71
mới, là sự thành công trong quá trình cách tân, đổi mới thơ ca. Đặc biệt, ngôn ngữ
thơ của ông rất giàu sức gợi, đa nghĩa.
Sở dĩ nói ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến được chọn lọc công phu, kỹ lưỡng là
bởi, trong từng câu chữ viết lên trang giấy, đều được ông chăm chút, chọn lọc kĩ
càng. Điều đó không chỉ thể hiện sự lao động nghiêm túc trong nghệ thuật mà còn
thể hiện sự trân trọng độc giả trong tiềm thức của nhà thơ.
Trong một lần trả lời báo giới về bài thơ nổi tiếng Tổ quốc nhìn từ biển, ông đã nói
lên những trăn trở, suy tính của mình khi đặt bút viết bài thơ.
Nguyễn Việt Chiến tâm sự: “Khổ thơ đầu tiên khi tôi đặt bút viết bài thơ này là:
“Nếu Tổ quốc bị xâm lăng từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/Ngàn năm
trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa”. Nhưng
sau khi cân nhắc, đắn đo nhiều lần, tôi gạch bỏ 3 chữ “bị xâm lăng” ở câu thơ đầu
tiên vì nghe có vẻ hơi nặng nề, để thay bằng 3 chữ “đang bão giông”, nên bài thơ
khi công bố đã mở đầu bằng đoạn “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một
phần máu thịt ở Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng
thương nhớ mãi Trường Sa”. Tương tự như vậy, ở đoạn thơ sau, nguyên văn câu thơ
tôi viết ban đầu là “Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển/ Mẹ Âu Cơ hẳn không thể
yên lòng/ Sóng xâm lấn đè lên thêm lục địa/Trong hồn người có ngọn sóng nào
không”. Sau khi đọc lại và cân nhắc kỹ, tôi quyết định bỏ 2 chữ “xâm lấn” để thay
bằng 2 chữ “lớp lớp”, nên khi chính thức công bố, đoạn thơ này có nội dung “Sóng
lớp lớp đè lên thềm lục địa/ Trong hồn người có ngọn sóng nào không”. Nói như thế
để thấy rằng, trong bài thơ này, tôi đã phải cân nhắc, tính toán, sửa đi sửa lại từng
câu, từng chữ một trước khi in trên báo.
Thậm chí, ngay cả khi bài thơ chuẩn bị lên khuôn, tôi còn tới tòa soạn, đề nghị sửa
gấp ngay một vài chữ “nhạy cảm” trong một số đoạn thơ. Khi ấy, một nhà văn nói
với tôi: “Những tình tiết này không ai biết được, nhưng sau này, khi bài thơ Tổ quốc
nhìn từ biển đến với công chúng, những người có trách nhiệm với đất nước sẽ phải
cảm ơn anh vì sự tận tụy với thi ca và chỉ có những người có tấm lòng yêu nước
72
chân chính như anh mới có sự cẩn trọng với từng câu chữ và làm được như vậy!”
[9, tr.3,4].
Và có lẽ, hơn cả lời khen ngợi, sự đón đọc và cổ vũ của hàng triệu độc giả cho bài
thơ Tổ quốc nhìn từ biển là minh chứng cho việc lao động nghệ thuật nghiêm túc
của nhà thơ. Đó không chỉ là thao tác ngôn ngữ bình thường mà còn là cả một tấm
lòng, cả một nghệ thuật của người cầm bút.
Nguyễn Việt Chiến làm thơ lục bát cũng hay như thơ tự do, thơ năm chữ cũng tròn
như thơ tám chữ. Ông không chỉ công phu với thể loại mà ông còn tận tình chí cốt
với ngôn từ.
Thơ của ông có thể đọc mà cũng có thể để thưởng thức và suy ngẫm. Dù bằng cách
nào khi đã chọn thơ Nguyễn Việt Chiến, người đọc thật khó lòng mà bỏ ngang
trước khi dừng lại ở những chữ cuối cùng.
Nguyễn Việt Chiến cũng từng trải lòng mình trong Nhật Ký Của Một Nhà Báo:
“ … Và anh
Kẻ nông phu cần mẫn
Thức dậy mỗi sớm mai trên cánh đồng ngôn ngữ
Bởi niềm tin lành lặn
Ở con người”
Ông ý thức được phận sự của mình “kẻ nông phu cần mẫn / thức dậy mỗi sớm mai
trên cánh đồng ngôn ngữ” bởi “niềm tin lành lặn / ở con người”.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến được xây dựng bởi nhiều chất liệu
mới. Ônglà một trong số không nhiều các nhà thơ háo hức kiếm tìm một diện mạo
mới cho thơ Việt đương đại, mặc dù vẫn chưa vượt thoát được thơ truyền thống và
cách tân trên cơ sở của truyền thống.
Ông coi diễn trình đổi mới thi ca Việt như những chuyến tàu lao mãi về phía trước
không ngừng nghỉ. Chuyến du hành ấy chẳng bao giờ là sớm và cũng chẳng bao giờ
là muộn. Chỉ có điều, không thể không ra đi để tìm bến đỗ mới cho thơ. Đối với
ông, những gì mà thơ ca Việt đã làm được dường như đều đã cũ mèm:“Những kẻ đi
buôn, những thợ đốt lò/ Giờ đã ngủ cả rồi. Đêm sắp hết/ Giấc ngủ kẻ nhọc nhằn thì
73
say xưa đến chết/ Giấc ngủ kẻ tham lam thì trằn trọc suốt đời/ Còn kẻ làm thơ chắc
cũng vậy thôi/ Họ mất ngủ giong buồm qua bể chữ/ Họ muốn vẽ bằng lời bức tranh
đáng sợ/ Sự yêu thương sự phản bội con người”(Đêm II, III- Trích trong tập Những
con ngựa đêm).
Nguyễn Việt Chiến hướng đến những vần thơ không bị gò bó bởi khuôn khổ và
niêm luật. Đơn giản là chạy theo suy nghĩ và dòng mạch cảm xúc.
Đôi khi là những câu thơ ngắt dòng, đôi khi lại là một dạng đan xen giữa thể loại
thơ và văn xuôi. Sử dụng kiểu ngôn ngữ này, nhà thơ như muốn bứt khỏi từ trường
của loại ngôn ngữ thấm đẫm chất trữ tình, óng chuốt, mượt mà có truyền thống lâu
dài trong thơ ca dân tộc. Với ngôn từ tự nhiên, giản dị nhưng có khả năng biểu hiện
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước cuộc sống thường nhật, Nguyễn Việt Chiến đã đưa
thơ về với đời thực, gần gũi hơn với cảm xúc và có sức ngân vang mạnh mẽ:
“Trong bóng đêm
có
một người đang hát
chẳng ai biết
nàng buồn
hay chúng ta
buồn hơn
thứ ánh sáng
phất lên bài ca ấy
trên cánh rừng mệt mỏi
của hoài nghi
con người sống
và con người
phải sống”
(Hoa hồng không khóc)
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của Nguyễn Việt Chiến còn rất giàu sức gợi – đa nghĩa.
74
Ông đã sử dụng khá nhiều các biện pháp tu từ để tái tạo ngôn ngữ, đặc biệt là so
sánh và ẩn dụ. Bằng phương thức so sánh, Nguyễn Việt Chiến đã đem đến cho thơ
nhiều hình ảnh mới lạ, bất ngờ: “Câu thơ như cát mỗi chiều/ Đem theo chút ấm
nắng nghèo vào đêm”(Cát đợi); hay: “Đạp lên cả ánh trăng khuya/ Tiếng trăng như
lá vỡ nghe thật buồn” (Tiếng trăng); “Tình yêu tắt như một chùm hoa vỡ/ Cháy từ
cành rơi xuống cõi âm u” (Hoa hồng không vỡ); “Đôi mắt em mở ra như một đêm
mưa lớn/Làm anh chẳng thể nào tìm thấy ánh trăng xưa” (Ký ức của trăng)…
Nhà thơ còn dùng phương thức nhân hoá, kết hợp giữa nhân hoá và so sánh để tạo
ra nhiều hình ảnh giàu sức gợi. Tính gợi mở của ngôn từ cũng được nhà thơ khai
thác bằng hình thức điệp cấu trúc và cú pháp. Hiệu quả nghệ thuật của hình thức
này thật sự đã đem lại những ấn tượng đặc sắc và độc đáo:
“Im lặng quá! cánh cửa nào cũng khép
Những ngôi nhà trở giấc tựa vào đêm
Mưa rơi đấy! chỉ có mưa là biết
Mùa thu đi ngoài phố có một mình
Im lặng quá! Tóc em mềm và ấm
Những câu thơ ngày ấy ở đâu rồi…”
(Chia tay mùa thu)
Hay:
“Sẽ lăn đi thành phố nhỏ bên đường
Tất cả bụi của một ngày khô ráo
Tất cả chim của mùa thu còn lại
Tất cả vàng của nắng ấm chiều nay
Sẽ lăn đi lời hát giữa vòng tay
Tất cả kẹo của một ngày sinh nhật
Tất cả lá của những cây già nhất
Tất cả đường của thành phố dưới chân”
(Vòng lăn huyền thoại)
75
Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi – đa nghĩa còn có thể xem là thứ ngôn ngữ không thể cắt
nghĩa bằng cách đọc thông thường mà người đọc phải vận dụng vốn hiểu biết và
vốn văn hoá của mình để có thể cảm nhận những gì nhà thơ rung động.
Ngôn ngữ thơ có sự đứt đoạn, gián cách, muốn hiểu được người đọc phải tự xâu
chuỗi những hình ảnh biểu tượng để tìm ra nghĩa biểu hiện của bài thơ. Đấy chính
là sự bí ẩn của thơ hiện đại, nó hối thúc người đọc tìm tòi, sáng tạo:
“Đêm nào cũng
nở
Vài đoá quỳnh
tối
Những ai ngắm
quỳnh
Thương mình hoa
tối
Ngủ đi sám
hối
Ánh trăng thủa
nào...”
(Một đóa quỳnh sương)
Thế giới thơ Nguyễn Việt Chiến là thế giới chất chứa nhiều hoài bão, sự thể nghiệm
và chiêm nghiệm về lẽ sống và lẽ viết, đọc Nguyễn Việt Chiến phải đọc cái giữa
dòng, chỗ trắng trong, lắng hồn mình để hiểu hồn thơ ông. Ngôn ngữ thơ gián cách,
nhiều khoảng trắng hàm ngôn đã mang lại cho Nguyễn Việt Chiến một hơi thơ lạ
lẫm, bí ẩn và đầy ám ảnh:
“Mưa
là một cái cây
trong lành và tươi tốt
đang đòi mọc rễ
trong cái đầu cũ kỹ của anh
76
Thức ăn của anh
bao năm chẳng có gì
ngoài mưa
và một nắm ngôn từ sống sít
mưa thì giời cho
còn chữ
thì anh phải trồng
Những con chữ sinh nở
trong bóng đêm cần được chăm bón
nhưng đôi khi anh bỏ quên chúng
những con chữ cọc còi
không được dưỡng sinh”
(Mưa và chữ)
Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Việt Chiến thể hiện những nỗ lực tìm tòi, tự đổi mới
rất mạnh mẽ trong thơ của chính tác giả. Ngôn ngữ thơ ấy góp phần nói lên tiếng
nói của đời sống đang hừng hực tuôn trào vừa tự nhiên, mộc mạc nhưng đầy trí tuệ,
và tràn trề sức sống. Đó còn là thứ ngôn ngữ có khi là rất đa âm, đa nghĩa có khi lại
gợi nhiều hơn tả, cảm nhận nhiều hơn là cắt nghĩa.
Tuy nhiên, có một sự thật trớ trêu, nhưng không thể chối cãi được là tuy Nguyễn
Việt Chiến háo hức lên con tàu để đi tìm bến đỗ mới cho thi ca Việt đương đại,
nhưng những bài thơ của ông được dư luận đánh giá cao và có sức lan tỏa lớn lại là
những bài thơ theo khuynh hướng truyền thống, hoặc là cách tân trên cơ sở của
truyền thống như các bài: Thời đất nước gian lao, Tổ quốc ở Trường Sa, Tổ quốc
nhìn từ biển, Thăng Long sử thi; Mẹ- Tổ quốc... hầu hết các bài được viết theo thể
thất ngôn, bát ngôn hoặc lục bát biến thể. Vì thế, nếu căn cứ vào những bài thơ của
ông được công chúng đón nhận rộng rãi thì có thể xem ông như là một nhà thơ
vẫn sáng tác theo khuynh hướng truyền thống.
77
3.4 Biểu tượng
3.4.1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử dụng với nội hàm khái niệm
khác nhau. Khái niệm biểu tượng (tiếng Pháp là Symbole, tiếng Anh là Symbol)
được dùng rộng rãi trong khoa học và đời sống. Theo từ điển Triết học (NXB Sự
thật, 1972) do M.Rudentan, P.ludim chủ biên thì khái niệm biểu tượng được hiểu:
“Là hình ảnh cảm tính cụ thể về những hiện tượng của thế giới khách quan bên
ngoài. Biểu tượng cùng với cảm giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính… Tri
giác phản ánh một sự việc riêng lẻ tác động vào giác quan chúng ta trong những
trường hợp cụ thể nhất định. Biểu tượng phản ánh khái quát, trừu tượng hơn” [42].
Còn trong tác phẩm văn học, biểu tượng là thuật ngữ mỹ học, lý luận văn học và
ngôn ngữ học. Biểu tượng có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Văn học phản ánh cuộc sống
bằng hình tượng nghệ thuật. Đặc điểm của bản thân hình tượng nghệ thuật là sự tái
hiện thế giới làm cho con người và cuộc sống hiện lên như thật. Nhưng nó cũng là
hiện tượng mang tính ước lệ. Vì vậy, nghĩa rộng biểu tượng là đặc trưng phản ánh
cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là
phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình thức nghệ thuật đặc biệt
có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của hiện tượng ấy, vừa thể
hiện được một quan niệm, một tư tưởng hay triết lý sâu xa về con người và cuộc
đời.
3.4.2. Phân biệt hình tượng với biểu tượng
Căn cứ vào Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb Giáo dục - Hà Nội, 2006 do lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên ) và 150 thuật ngữ do Lại Nguyên
Ân biên soạn (Nxb ĐHQG HN - 2003) có thể hiểu khái niệm hình tượng nghệ thuật
là: “Sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy
luật của tưởng lượng, hư cấu nghệ thuật” [19, 146]. Là “phương thức chiếm lĩnh và
tái tạo hiện thực riêng biệt vốn có và chỉ có ở nghệ thuật” [1, 142].
78
Hình tượng nghệ thuật chính là khách th ể đời sống được nghệ sĩ tái t ạo một cách
sáng tạo trong tác ph ẩm nghệ.Giá trị trực quan đ ộc lập là đặc điểm quan trọng củ a
hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng củ a hình tư ợng nghệ thuật thường được xây dựng
trong mối quan hệ: hiện thực và quá trình tư duy. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời
ện có chọn lọc, có sáng t ạo sống nhưng không phải sao chép y nguyên mà tái hi thông qua nhận định riêng củ a ngư ời nghệ sĩ.Hình tượng văn học mang tính biểu
cảm cao. Biểu tượng trong tác ph ẩm văn học được nhà văn sử dụng với ý đ ồ nghệ
thuật riêng.Chính cách lựa chọn biểu tượng để xây dựng tác phẩm đã phản ánh được
tư tưở ng nghệ thuật củ a nghệ sĩ. Trong tác phẩm văn học, hình tượng và biểu tượng
có tính thống nhất với nhau, chúng là sản phẩm lao động nghệ thuật củ a người nghệ
sĩ, bản thân chúng đều mang tính th ẩm mỹ, tính tượng trưng. Có một số hình tượng
đồng thời cũng là biểu tượng (Ví dụ: hình tượng “Cây xà nu” trong tác ph ẩm cùng tên củ a Nguyễn Trung Thành)
Nếu yếu tố khu biệt giữa hình tượng và biểu tượng là: Tính ký hiệu, tính bền vững ở
biểu tượng nổi rõ hơn còn hình tượng mờ hơn. Biểu tượng là những hình tượng văn
học nhưng không phải hình tượng văn học nào cũng là biểu tượng.Như vậy hình
tượng và biểu tượng trong tác phẩm văn học thống nhất nhưng không đồng nhất.
Có thể nói, kết hợp hài hòa giữa yếu tố cảm xúc và lí tính, giữa chủ quan – khách
quan khiến cho tư duy ở mỗi người có sự khác nhau. Mỗi nhà thơ đều có khuynh
hướng lựa chọn cho mình những biểu tượng riêng của sự sáng tạo. Tư duy thơ là sự
khôi phục và sáng tạo những biểu tượng trực quan nên việc chọn loại biểu tượng
nào cho tác phẩm của mình phụ thuộc rất nhiều vào thế giới quan, nhân sinh quan,
những quan niệm về văn chương của từng nhà thơ. Biểu tượng làm nên nét đặc sắc
riêng cho phong cách từng nhà thơ, là phần quan trọng trong thế giới nghệ thuật của
tác giả. Nên dù cùng là một biểu tượng, nhưng ở mỗi nhà thơ nó lại mang ý nghĩa
khác nhau.
79
3.4.3. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Việt Chiến
Các biểu tượng trong thơ không có tính ngẫu nhiên. Nó trải qua quá trình gọt giũa,
trau chuốt theo những yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ. Trong sáng tạo
nghệ thuật, các biểu tượng, biểu trưng được xem là hồn cốt của tác phẩm. Người
nghệ sĩ nhờ các hệ thống biểu tượng ấy để diễn tả cảm xúc của mình. Vì thế, nó bộc
lộ kiểu tư duy cá nhân của người sáng tạo. Đọc thơ Nguyễn Việt Chiến, chúng ta
bắt gặp một hệ thống biểu tượng, biểu trưng đầy sáng tạo, độc đáo. Nó vừa hiện
thực vừa khái quát, vừa bình dị vừa triết lý.
3.4.3.1. Con tàu
Hình ảnh “con tàu” thường gợi đến những chuyến đi xa. Nhưng thực chất, hình ảnh
“con tàu” trong những vần thơ của Nguyễn Việt Chiến chủ yếu mang ý nghĩa biểu
tượng. Trước tiên, nó tượng trưng cho những hoài niệm xưa cũ, những nỗi nhớ
mong về quá khứ đầy ắp yêu thương và kỉ niệm, tuy tất cả giờ chỉ là “đã cũ”. Thế
nhưng nỗi nhớ mong, hoài niệm về những điều dù đã lùi xa về quá khứ vẫn hiển
hiện như một cuộn băng quay chậm. Con tàu ấy- có hay chăng còn là sự nuối tiếc,
nuối tiếc thời gian và nuối tiếc những kỉ niệm đẹp từng có một thời.
Trong bài thơ Để nhớ về em, ông có viết:
“Tôi đi qua
bóng một sân ga
chẳng con tàu nào chở tôi về phía thương yêu cũ”
Đó là nỗi nhớ nhung, hoài niệm về sự luân chuyển của thời gian, của kí ức. Con tàu
như là thứ để chuyên chở kỉ niệm. Là thước đo thời gian đong đếm từ quá khứ đến
hiện tại. Là nỗi nhớ mong, là những hồi ức đẹp.
Những con tàu cứ hối hả đi - về, những tiếng còi tàu giục giã bao trái tim người.
Trong Chia tay mùa thu, ông viết:
“Im lặng quá! từ đây nghe rất rõ
Con tàu nào phía ấy đã rời ga
Những người thức và những người đã ngủ
80
Đêm nối ngày bằng một chuyến tàu qua”
Bên cạnh đó, biểu tượng con tàu còn tượng trưng cho khát vọng đi xa, khát vọng
được vươn tới những chân trời mới,vượt ra khơi những gì chật hẹp, tù túng để đến
với cuộc sống lớn của nhân dân, đến với nơi khởi nguồn cho cảm hứng nghệ thuật
và cũng là để đến với tâm hồn mình.
Một trong số đó là việc cách tân, đổi mới thơ ca. Đó chính là con tàu tâm tưởng của
khát vọng khám phá và sáng tạo. Nguyễn Việt Chiến coi diễn trình đổi mới thơ ca
Việt Nam như những chuyến tàu mãi lao về phía trước không ngừng nghỉ, để ra đi
tìm bến đỗ mới cho thơ.
Mặt khác, Nguyễn Việt Chiến còn ngầm so sánh biểu tượng con tàu với đất nước, tổ
quốc. Nó mạnh mẽ và kiên cường, vượt qua bao bão giông nhưng vẫn đứng vững
hiên ngang giữa ngọn sóng. Biểu tượng con tàu giống như hình ảnh đất nước ngoan
hùng, vẫn kiên cường trước kẻ thù xâm lược từ bao đời nay. Biểu tượng con tàu gắn
liền với tổ quốc, còn cho thấy hình ảnh đất nước thiêng liêng nhưng cũng rất đỗi
gần gũi, quen thuộc.
“Tổ quốc như con tàu
vượt bão giữa trùng khơi
Ai có thể ngủ yên ngày tháng ấy
Trên con tàu
quê hương tôi”
Hay:
“Dáng đất nước như con thuyền độc mộc
Đến thả neo trên bờ bãi sông Hồng
Hình đất nước như con tàu thân thuộc
Đang dạt dào với sông nước Cửu Long
(Tổ quốc bên bờ biển cả)
3.4.3.2. Trăng
Trăng vốn quen thuộc trong tâm thức con người Việt. Nói đến trăng, người ta nghĩ
đến những gì trong sáng, tươi mát và rất đỗi êm đềm, thơ mộng. Trăng là vẻ đẹp
81
vĩnh hằng mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Xưa nay, trăng gắn với thi nhân
như hình với bóng, ai trong cuộc đời thi sĩ khi cầm bút, cũng đều lưu lại trong tác
phẩm của mình những vần thơ viết về trăng.
Trăng đi vào thơ ca giản dị tự nhiên như chính đời sống con người. Đối với một số
nhà thơ, trăng còn là nỗi ám ảnh khôn nguôi, là người bạn tâm giao, trút bầu tâm
sự... Trong cảm quan của người nghệ sĩ, trăng không đơn thuần là nguồn sáng trong
đêm mà đã trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Ở đó, nó đã trở thành một
âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn, có sức ám ảnh, khơi gợi cho người đọc
nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình, hạnh phúc và khổ đau, quê hương và gia
đình, tình yêu và thân phận con người…
Từ xa xưa, trong thơ ca các bậc thánh nhân, trăng đã xuất hiện như một người bạn
tri âm, tri kỉ. Trăng trong thơ Lý Bạch gắn với niềm thương nhớ cố hương. Trăng
trong thơ Nguyễn Trãi gắn với sự thanh cao, trong trắng. Trăng theo sát và là đối
tượng bộc lộ tâm trạng, cuộc đời lênh đênh của Thúy Kiều trong thơ Nguyễn Du
(“Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều -
Nguyễn Du). Trăng còn là khát khao mãnh liệt về hạnh phúc ái ân chồng vợ trong
Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm dịch).Còn Tản Đà lại mượn trăng để thể
hiện ước muốn chơi ngông của mình. Hàn Mạc Tử lại ngụp lặn trong trăng, trăng là
vẻ đẹp tâm hồn, là nhân cách, là chứng nhân lịch sử, là minh chứng của tình yêu
("Gió theo lối gió, mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay/ Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay ?" (Đây thôn Vĩ Dạ)...
Có thể thấy, trong các tác phẩm văn học thời kì này, ánh trăng có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc thể hiện tâm trạng của các nhân vật trữ tình. Nó đã trở thành
một thứ không gian nghệ thuật gắn liền với ý niệm về sự cảm nhận về giá trị của
con người..., là một hiện tượng tâm linh nội cảm chứ không còn là hiện tượng địa lí,
vật lí.... Nó đã được nội tâm hóa rõ rệt, mang đậm màu sắc tâm trạng và thấm đượm
tình cảm con người.
Đến với những trang thơ của Nguyễn Việt Chiến, trăng xuất hiện với mật độ dày
đặc, với nhà thơ trăng là một biểu tượng đặc biệt.
82
Trước tiên, trăng là biểu tượng của hình ảnh thiên nhiên đẹp, thanh bình của làng
quê và chỉ không gian ở quê mới làm nền cho vầng trăng khoe hết cái đẹp:
“Ta còn một bờ tre cũ
Một mùi rơm cũ, một ánh trăng cũ
Một thương yêu cũ còn tươi”
(Quê)
Vầng trăng trong thơ Nguyễn Việt Chiến là biểu tượng của quê hương, là những gì
thân thuộc gần gũi nhất của thuở thiếu thời. Nó là vẻ đẹp và cũng là dấu hiệu nhận
diện của tình yêu quê hương luôn nồng đượm:
“Ngọn gió thổi qua cánh đồng
Mùi lúa dưới trăng đêm
Những lối mòn trên cỏ
Có ai đi cùng ngọn gió
Ánh lửa trong sương và tiếng chó cuối làng”
(Ngọn gió mầu lam)
Trong Mây tơ tằm, hình ảnh ánh trăng cũng gắn liền với hơi thở của đất, mùi hương
của sen và tiếng chó sủa trăng từ xa vọng lại: “Đất như lụa dệt bóng làng quê xưa/
Đầu làng, ngựa đá gặm mưa/ Cuối làng, chó đá sủa chờ trăng lên/ Xứ Đoài thăm
thẳm mắt sen/ Mây tơ tằm nở trên miền đá ong”.
Chính bởi lẽ, hình ảnh trăng gắn liền với tuổi thơ bình dị, nên khi chuyển tới nơi có
cuộc sống ồn ào, tấp nập hơn, nhường chỗ cho ánh sáng dưới trăng là ánh sáng của
những ngọn đèn rực rỡ, của ánh nến hồng và những chiếc mặt nạ hò reo… ánh trăng
tuổi thơ lại hiện lên đầy nhung nhớ và có phần nuối tiếc: “Phố tôi ở, mùa thu vầng
trăng biếc/ Trong chiếc đèn rước cỗ, nến hồng xoay/ Những mặt nạ hò reo, trăng có
tiếc/ Tuổi thơ mình trăng mọc ở nơi đâu” (Phố bốn mùa).
Mượn ánh trăng, nhà thơ như muốn bày tỏ nỗi nhớ nhung về những điều đã cũ, hay
chăng cũng chính là tấm lòng nâng niu, trân trọng những kỉ niệm xưa cũ dù cho nay
đã thuộc về quá khứ.
83
Trong tiềm thức của nhà thơ, biểu tượng trăng gắn liền với tình yêu quê hương, làng
xóm. Bởi lẽ, nó là biểu tượng thiêng liêng nhưng cũng rất đỗi quen thuộc với làng
quê. Hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng, mùi thơm phảng phất trong đêm
trăng thanh, ánh lửa trong sương sớm và tiếng chó sủa cuối làng… Tất cả hiện lên
thân thuộc như kỉ niệm tuổi thơ mãi không phai nhòa trong tâm trí. Ánh trăng cũng
vì thế mà gần gũi đến lạ kì.
Trăng còn là nhân chứng cho tình yêu trong sáng, thơ mộng thuở ban đầu. Trăng là
nỗi nhớ, là tình yêu nồng đượm:
“Dưới bánh xe gầy nỗi nhớ chảy thành trăng
Từng vũng sáng trên âm u bùn đất
Ánh trăng đêm dịu ngọt
Có thể vốc lên tay mà uống được không ngờ”
(Em là điều tôi nghĩ)
Ánh trăng ấy chính là những vùng sáng trong tâm tưởng, để nhà thơ có thể hòa
mình, thả hồn vào buổi đêm du dương, nghĩ về mối tình thơ mộng. Ở nơi đó có nỗi
nhớ hòa nhịp cùng ánh trăng đêm dịu ngọt, gần gũi đến không ngờ. Biểu tượng
trăng cũng vì thế mà trở nên thân quen và ấm áp.
Chẳng biết từ bao giờ, trăng chính là thước đo cho bao mùa xa cách, cho nỗi nhớ
của những cặp uyên ương:
“Xa em
Đã mấy trăng rồi
Ta nghe sỏi mọc, rêu ngồi hoang vu”
(Hà Nội 36 phố đếm)
Trăng là biểu tượng cho người yêu dịu dàng, bé nhỏ, ngây thơ thuở ban đầu và mãi
mãi về sau, biểu tượng cho hình ảnh đẹp đẽ và bất tử của người yêu, người bạn đời.
Nói về vẻ đẹp của người con gái, Nguyễn Việt Chiến không ngại ngần miêu tả:“Có
cô yếm đũi ngủ ngày/ Môi thèn thẹn đỏ má ngây ngấy tình/ Yếm cô gió lật rập rình/
Ngực trăng nhú sáng một mình gió xem (Yếm đũi). Vẻ đẹp dịu dàng e ấp của người
thiếu nữ cũng giống như vầng trăng khi tỏ khi mờ.
84
Trong Hoa hồng không vỡ, Nguyễn Việt Chiến ví người yêu như vầng trăng đêm bé
nhỏ mà thơ mộng:
“Em mọc dậy- vầng trăng đêm ngực thở
Gió phập phồng mây áo xõa tung ra
Biển trắng đập gối trăng lên cát vỡ
Sóng chập chờn môi ấm những bờ xa”
Hình ảnh trăng được ví như hình ảnh người thiếu nữ đẹp đang độ xuân thì khiến
tâm hồn bao chàng trai ngây ngất như hơi men rượu nồng trong đêm khuya.
Trăng còn là người bạn tri âm bên nhà thơ trong những đêm buồn, là điểm tựa tinh
thần, nâng cánh tâm hồn nhà thơ. Có khi hiện thực nằm trong bóng dáng của kẻ cô
đơn lạc đường, được cứu rỗi bởi thi ca và cái đẹp:
“Và từ đấy
đêm đêm
Ngồi gỡ ánh trăng khuya
Khỏi thịt da mình
Nàng mơ thấy
Những con thuyền xưa
Những bến trăng xưa”
(Hoa hồng không nghe)
Với Nguyễn Việt Chiến, chỉ có thể vào đêm yên tĩnh mới có được khoảnh khắc một
mình lặng lẽ đối diện với ánh trăng mà cảm nhận một cách cô đơn và thanh bình.
Khi đối diện với thứ "ánh sáng" ấy, ông như nhìn thấy được chính mình: “Trong cái
sa mạc mênh mênh mông của bóng đêm/Còn sót lại duy nhất một giếng nước
ngọt/Trăng - Thứ ánh sáng có thể uống được nhưng không dễ đem cho”.
Ở Cát đợi, nhà thơ ví trăng như người khách qua đò, là người bạn tâm giao trong
niềm cô đơn hoang hoải: “Tôi hoang vu, cát hoang vu/ Trăng là người khách qua đò
đêm nay”.
Trong Trăng nơi đáy sâu, Nguyễn Việt Chiến từng viết: “Ta đã chìm rất sâu trong
một đêm mưa lớn/ không ai đến được với ta/ nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia/
85
ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em/ vị mằn mặn của ánh trăng/ thứ ánh sáng không bị
huỷ hoại bởi bùn tối của những đáy sâu/ và có lẽ ta đã được cứu thoát bởi chất muối
ấy…”. Ông khẳng định: “khi ta lạc đường trong biển tối cô đơn /chỉ có trăng mới
làm ta ấm được /người đàn bà trong suốt /đã đi vào trăng”...Trả lời với báo chí,
Nguyễn Việt Chiến từng khẳng định, đây là một bài thơ tình ôngviết ở giai đoạn
khó khăn nhất trong cuộc đời cầm bút của mình.
Em trong bài thơ này được ví với ánh trăng, với cái đẹp và dĩ nhiên được ví với thơ.
Nhưng có lẽ chỉ có nhà thơ nào buộc phải sống “ở nơi tận cùng của đáy sâu kia”
mới có thể cảm nhận được vị mằn mặn của ánh trăng, thứ ánh sáng không bị hủy
hoại bởi bùn tối của những đáy sâu. Và có lẽ, trong bài thơ này, khi ở nơi tận cùng
đáy sâu kia, nhà thơ đã được cứu thoát bởi chất muối ấy.
Không những thế, trăng còn là người bạn tâm tình vào mỗi đêm, là thước đo thời
gian dài ngắn, là biểu tượng để nhà thơ bộc bạch, giãi bày nỗi lòng:
“Lần tay mở áo đêm ra
Trăng nhu nhú sáng
như là trăng non
Đặt môi lên đỉnh trăng tròn
Để hư vô biết ta còn chiêm bao
Trăng đầy đặn – trăng hư hao
Tuổi trăng lồ lộ trong dào dạt đêm
Mở rằm – trăng đến rước em
Con thuyền vô định ngủ quên bên trời”
(Thời gian của trăng)
Trăng cũng chính là thứ sức mạnh kỳ diệu, để mỗi khi mệt mỏi, mỗi lần vấp ngã,
nỗi buồn giăng kín nối, nhà thơ nhìn vào nó để trải lòng, để tiếp thêm sức mạnh:
“Buồn ư/ Hãy trải hồn phơi/ Dưới trăng mấy lát buồn rồi sẽ khô”.
Nguyễn Việt Chiến quan niệm, trăng là cái đẹp, thi ca nhiều khi cũng mang vẻ đẹp
của trăng và cách sống chậm, đọc chậm, cảm nhận chậm… khi thưởng ngoạn vẻ
đẹp của trăng và thi ca có lẽ sẽ giúp chúng ta phát hiện được nhiều điều thú vị hơn
86
nhất là trong đời sống đô thị công nghiệp ngột ngạt, xô bồ hôm nay. Ví như những
bài thơ lục bát của tập Trăng và thơ đọc chậmhay Những con ngựa đêm của Nguyễn
Việt Chiến…
3.4.3.3. Hoa hồng
Hoa hồng (tiếng La tinh là Rosa, tiếng Hy Lạp là Rhodon) là biểu tượng thiêng
liêng của sự tái sinh, tinh khiết, trinh tiết, khả năng sinh sản, bí mật, và trên hết là
tình yêu. Tuy nhiên, hoa hồng là một loại hoa đẹp nhưng lại có gai, vì thế nó tượng
trưng với sự ngọt ngào mà cũng đầy đắng cay của tình yêu.
Trước đó, đã có rất nhiều nhà thơ mượn hình ảnh hoa hồng làm biểu tượng trong
những vần thơ của mình. Để nói lên tình yêu ngây ngất, đắm say tựa như cánh
hồng, Trần Trọng Thiện từng viết: “Tình yêu đẹp tựa cánh hồng/ Ngọt ngào gấp
bội, hương nồng thoảng bay/ Làm ta ngây ngất mơ say/ Theo làn gió thổi cánh lay
lắt vườn” (Hoa hồng tình yêu).
Nguyễn Bính cũng đã từng mượn hình ảnh hoa hồng để nói lên tâm trạng trống trải,
sầu vương tơ lòng của mình với những câu thơ chất đầy suy tư và tình cảm sâu sắc
của một người xa xứ: “Thưa đây một đóa hoa hồng/ Và đây một án hương lòng
hoang vu/ Đầu bù trở lại kinh đô/ Tơ vương chín lối sầu lo một lòng/ Tình tôi như
đóa hoa hồng/ Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu/ Kinh đô cát bụi bay nhiều/
Tìm đâu cho thấy một người yêu hoa hồng” (Đóa hoa hồng).
Còn Nguyễn Việt Chiến, với một tâm hồn nhạy cảm cùng những cảm xúc chân
thành của trái tim luôn tràn đầy yêu thương, ông đã mượn hoa hồng làm hình ảnh
biểu tượng cho tình yêu, cho những cung bậc cảm xúc trong thi ca của mình.
Hoa hồng trước tiên là biểu trưng cho cái đẹp của tạo hóa, là vẻ đẹp của người con
gái hay cũng chính là biểu tượng của tình yêu. Trong những trang thơ của Nguyễn
Việt Chiến, hoa hồng còn đồng nghĩa với tình yêu trong cuộc đời mỗi con người.
87
Ông từng phát biểu thẳng thắn rằng, bài thơ Hoa hồng không vỡ đồng nghĩa với tình
yêu luôn thao thức trong trái tim mỗi người. Vốn dĩ là một con người luôn tha thiết
với cuộc sống, đặc biệt với tình yêu con người, nhà thơ vẫn luôn luôn hy vọng vào
một chuyện tình vĩnh cửu. Bởi có lẽ, tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng đã cứu
vớt anh khỏi bùn lầy tăm tối. Tình yêu là bến đỗ bình an trong cuộc đời vốn thăng
trầm, nhiều sóng gió của anh. Cho nên, hoa hồng – dù mỏng manh đến đâu cũng
không thể héo tàn, cho dù “em quay lưng”.
Tình yêu được nhà thơ ví von như những đóa hồng bất tử, dù thời gian cuộc đời hay
những bão giông xô đến, nó vẫn mãi là những bông hoa “không vỡ”. Nó giống như
tình yêu của nhà thơ. Dù trải qua bao mất mát, đổ vỡ, nhưng thi sĩ vẫn không thôi
hy vọng, vẫn không thôi tin tưởng vào thứ tình cảm thiêng liêng này.
Trong Hoa hồng không ngủ (một thi phẩm đặc sắc mà Nguyễn Việt Chiến dành
tặng người vợ của mình – Phùng Bích Ngọc), người ta cũng nhận thấy rất rõ tình
cảm của nhà thơ dành cho vợ mình. Hoặc nói rộng hơn, đó là thứ tình cảm lớn mà
những đôi lứa yêu nhau thường hy vọng, mong đợi ở đối phương.
Trong bài thơ có đoạn:“Bình hoa chật bởi gai hoa nhiều quá/ Bông hồng buồn do dự
thức trong gai/ Em không phải một mùa hương xưa cũ/ Đã xa xôi đã từng đến trong
đời/ Ta không phải là cơn đau bí mật/ Thoát sinh ra từ bùn đất ngậm ngùi / Đêm
ngột ngạt bóng hoa vàng trên sách/ Bánh xe lăn qua vũng tối hiểm nghèo/ Em khép
chặt miền tâm tư sâu kín/ Đón cơn giông rạo rực phủ lên người”.
Trong mỗi câu chuyện tình yêu, chắc hẳn ai cũng có lúc trải qua cảm giác giận hờn,
thậm chí mệt mỏi vì những hiểu lầm, cãi vã. Nó giống như “Bình hoa chật bởi gai
hoa nhiều quá”, thế nhưng vì tình yêu và niềm tin mãnh liệt, nhà thơ vẫn không
nuôi hy vọng, ông khẳng định: “ Nhưng ta biết sau nghìn lần bỏ chạy/ Sẽ một lần
em có ở bên tôi”.
88
Hoa hồng trong thơ ông có khi là biểu trưng cho vẻ đẹp của người con gái dịu dàng,
xinh xắn, có khi lại là tình yêu thương, sự biết ơn người bạn đời đáng quý tràn ngập
trong lòng tác giả.
3.4.3.4. Hoa sen
Từng được dùng trong trang trí cung đình, trở thành một trong những biểu tượng
của phật giáo, sen đi vào thơ, nhạc, trở thành món ăn, đồ uống trong sinh hoạt đời
thường và đã được đề cử là quốc hoa...
Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi mặt nước để hướng
đến mặt trời đón ánh nắng ban mai, loài hoa vẫn tỏa hương tinh khiết mà không hề
bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn.
Tồn tại từ ngàn năm cùng với cây cỏ thiên nhiên, hoa sen không chỉ là người bạn
thân thiết mà còn được xem như là biểu trưng văn hoá bén rễ sâu trong tâm thức
người dân Việt, là biểu trưng tiêu biểu nhất cho văn hóa và cốt cách nhân văn của
người Việt Nam, loài hoa duy nhất hội tụ đầy đủ trong mình ý nghĩa triết học, nhân
sinh cao quý, là ý nghĩa về âm dương ngũ hành và sức vươn dậy của một ý chí sống
mãnh liệt như dân tộc Việt.
Đã có nhiều nhà thơ lấy biểu tượng hoa sen để làm cảm hứng cho những vần thơ
của mình. Trong bài Hương sen dâng Bác, tác giả Lệ Thành từng viết: “Từ trong
bùn đất ngời ngời/ Vươn lên những đóa tươi thắm hồng/ Lung linh trong buổi rạng
đông/ Phẩy lên trời một ánh hồng sớm mai/ Hương sen là chiếc cầu dài/ Nối mênh
mông nước mây trời xanh cao/ Trong thanh cao, giữa thanh cao!”.
ảnh hoa sen thơm ngát ấy còn gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ trong trẻo thời niên
thiếu– nơi cùng bạn bè trang lứa đến trường trong những vần thơ man mác buồn của
Nguyễn Bính: “Học trò trường huyện ngày năm ấy/ Anh bằng tuổi em lớp tuổi thơ/
Những buổi học về không có nón/ Đội đầu chung một lá sen tơ/ Lá sen vương vấn
89
hương sen ngát/ Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ/ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc/ Theo về
tận cửa mới tan mơ…” (Trường huyện, 1938).
Còn đây là Sen phía Tây Hồ của Nguyễn Việt Chiến:
“Gương mặt em không một gợn mây buồn
Phía Tây Hồ chiều nay sen đang nở
Tiếng chuông thức trong ngực sen khẽ thở
Em nở rồi đám rước của mùa thu”
Bài thơ viết để tặng một cô gái xinh đẹp nhưng xa vời như trong cổ tích, khi người
làm thơ khao khát mà không thể chạm được trong một chiều đầu hạ giữa sen nước
Hồ Tây:
Rồi im lặng anh nhìn em như thể
Mùa sen kia không tàn lụi không buồn
Những chiếc lá biếc như chiều nay mây biếc
Em tận cùng hương sắc có như sen”.
Trước tiên, biểu tượng hoa sen trong thơ Nguyễn Việt Chiến là biểu tượng được ví
von như người con gái đẹp.
Với dáng vẻ thánh thiện, trong trẻo nhưng thấm đẫm sự tươi mới. Sen trong thơ
Nguyễn Việt Chiến đằm thăm đến nồng nàn:
“Dáng em tươi
Như
Một đoá sen nằm
Đoá sen ngủ
Mắt sen
Không khép lại”
(Sen)
Dáng hình người thiếu nữ được so sánh “như một đóa sen nằm ”. Nó gợi mở vẻ đẹp
mềm mại của loài hoa thanh khiết, giao hòa cùng vũ trụ, hóa thân vào trời đất để
tặng cho đời đầy đủ sắc hương, “Em” được so sánh với sen có cái gì đó vô cùng
90
tĩnh tại của thiền. Nó bí ẩn, thanh khiết thiêng liêng khó nắm bắt đến lạ kì, gieo vào
lòng nhân vật “Anh” những khao khát đam mê:
“Anh đi tìm
Một mùa sen thức dậy
Khi chạm vào sen
Ngọc đã thành hương”
Anh mê mẩn, mộng mị trong giấc hoa, nhưng rồi chợt bừng tỉnh vì sen sắc đã biến
thành hương: “Ngọc đã thành hương ” – chính điều này càng đẩy cái khao khát lên
tới tận cùng của đam mê khám phá. Bởi: “Em dịu dàng/ Em bí ẩn cô đơn/ Anh dữ
dội / Anh hồn nhiên khao khát”…
Hai bản thể song song kiếm tìm, hòa nhập. Sự hồn nhiên khờ khạo đến vụng dại đã
bùng lên đám cháy, bùng lên ngọn lửa tình yêu chiếm hữu và kiếm tìm.
Đã có biết bao thi nhân nói về sen, những khắc giây của hoa nở rồi tàn trong tiếc
nuối thiết tha: “màu đừng nhạt mất hương đừng bay đi ” như Xuân Diệu. Hoa sen là
tín hiệu biểu tượng của mùa hè, sen đã đi vào những áng Đường thi trác tuyệt, cái
độ sen tàn thương chẳng vợi cứ da diết ám ảnh thi nhân. Tứ thơ không chỉ còn trong
bản thể trữ tình mà hóa thân vào vũ trụ, trời xanh mây trắng tạo thành những khắc
thiêng trong trời đất.
Biểu tượng hoa sen trong bài thơ Sen của Nguyễn Việt Chiến là một áng thơ tình
thanh khiết, đậm triết lý nhân sinh trong trẻo. Từ những cánh sen tình yêu ngan ngát
sắc hương, Nguyễn Việt Chiến muốn nhắn gửi thông điệp mang tính triết lý nhân
sinh cao cả, rằng hãy đi đến tận cùng của cát bụi, tận cùng của khát vọng, đam mê,
nếu lòng ta có mỹ cảm thì hồn sẽ biến thành sen.
Biểu tượng hoa sen trong thơ Nguyễn Việt Chiến còn tượng trưng cho sự bất tử,
trường tồn vô tận, đối ngược với quy luật thời gian. Trong bài Hòa trong nước một
bình sen đẫm nước, anh viết:
91
“Khi nước mắt phải ru bằng nước mắt
Anh ru gì cho một đóa sen tươi
Sen đang nở và thơ anh còn thở
Ở bên sen, anh lặng lẽ ít lời
Khi sen ngủ, anh đi về phía biển
Trong hồn anh còn một đóa trăng tươi
Khi anh ngủ thì sen kia đến thức
Sen ru anh vằng vặc một trăng tươi”
Biểu tượng sen được ví với sự bất tử, sự trường tồn còn mãi với thời gian, ngay cả
khi người đã không còn nữa, nhưng hồn người vương vấn tựa hoa sen. Được biết,
bài thơ trên được Nguyễn Việt Chiến viết nhân một năm ngày giỗ nhà thơ Trần Hòa
Bình: “Hòa trong nước một Bình sen đẫm nước/ Để Trần gian tươi lại một đóa
người”.
3.4.3.5 . Cỏ
Khảo sát trong các tập thơ của Nguyễn Việt Chiến, ta thấy hình ảnh cỏ cây, hoa lá
thiên nhiên được ông lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong cá câu thơ, các bài thơ, trở
thành một biểu tượng đặc sắc trong tư duy thơ ông. Rất nhiều bài thơ của Nguyễn
Việt Chiến xuất hiện hình ảnh của lá cỏ xanh tươi mơn mởn.
Trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Việt Chiến, biểu tượng cỏ đã tạo nên những
nét đặc sắc riêng. Là phâ ̣n c ỏ cây, thế nhưng hình ảnh ấy khi đi vào thơ ông dường
như không biểu tượng cho phận người mong manh, nhỏ bé dễ bị chà đạp, dập vùi,
cái mà chúng ta đã từng bắt gặp trong sáng tác của nhiều nhà thơ trước đó và cả sau
này như:
“Rộng thương cỏ nội hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
“Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ
92
Mọc vô tình trên lối ta đi”
(Cỏ dại - Xuân Quỳnh)
“Dẫu người đi đã mòn đường
Cỏ thì phận cỏ khiêm nhường vậy thôi”
(Hồn cỏ - Trần Hoa Khá)
Từ ý nghĩa biểu trưng ban đầu của cỏ cây , hoa lá là tượng trưng cho sự sống , trong
thơ Nguyễn Việt Chiến, hình ảnh cỏ may, cỏ dại, cỏ xanh, cỏ đêm hay cỏ mật…
xuất hiện miên man, ngút ngàn. Phải chăng ngọn cỏ ấy chính là mầm sống, là sức
sống, là khao khát của một cõi lòng luôn hướng về sự sống trong thơ ông:
“Tháng giêng mưa như cỏ
Non xanh đến tận trời”
(Mưa tháng giêng)
Có khi trong thơ Nguyễn Việt Chiến, hình ảnh cỏ như chính là sự hóa thân của tác
giả. Có lúc ông ví cỏ như nỗi buồn vô hạn, là sự tiếc nuối đến vô cùng trong tình
yêu: “Ai hát đấy: Ta buồn như cỏ dại/ Dậy thôi em mùa thu không trở lại/Giấc mơ
nào trên cỏ hãy còn xanh”(Mùa thu không trở lại).
Cỏ còn là nhân chứng cho tình yêu: “Buồn ơi mày có đi tìm/ Nỗi buồn đom đóm
mối tình cỏ may/ Bao giờ em lại qua đây/ Để đóm đóm hẹn cỏ may ta chờ” (Buồn).
Thậm chí, cỏ còn là biểu tượng cho một miền quê ân tình, cho tuổi thơ chân chất,
mà nhớ chơi vơi về một “Hồn quê mộc mạc trong hoa cỏ”:
“Sông quê thiêm thiếp đôi bờ cỏ
Mơn mởn mùa trăng giăng gió mê”
(Ta của xứ Đoài)
Hay trong Mây tơ tằm, ông viết: “Sông gần bến cũng chẳng xa/ Quê sông vẫn chốn
thật thà cỏ may”.
Cỏ còn là biểu tượng của đất mẹ, của sự vỗ về yêu thương cho những hy sinh của
người lính nằm lại nơi chiến hào:
“Những người lính cuối cùng đi vào cỏ
Mái nhà xanh thăm thẳm của muôn đời”
93
(Em hãy cứ bình yên thay áo)
Cỏ chính là đất nước, là quê hương máu mủ. Ngay cả khi thơ bé, lớn lên cùng mùi
cỏ thơm dại, thì cả đến khi ra đi và nằm lại nơi chiến trường theo tiếng gọi của tổ
quốc, hương cỏ thơm vẫn mãi bên người lính.
Họ hy sinh nhưng vẫn còn sống mãi, sức sống ấy vẫn tiềm tàng và mạnh mẽ như
loài cỏ, giản dị mà gần gũi :
“Hạnh phúc bảo: Biết sống vì người khác
Biết hiến dâng cho cỏ máu xương mình
Đất sẽ phong cho họ hàm cấp tướng
Xếp thành hàng bia mộ để duyệt binh”
Cỏ chính là biểu tượng cho tiếng nói của tâm linh, là trí nhớ sâu thẳm của đất đai,
của miền tâm linh linh thiêng.
“Đất ơi
Sao cỏ mãi xanh
Bao người nằm xuống cũng thành cỏ sao”
(Sự vấn đáp)
Cỏ còn trở thành hình ảnh biểu trưng cho những người lính trẻ hồn nhiên-những
chàng thanh niên mới rời xa vòng tay mẹ. Cỏ đã gắn liền với hình ảnh người lính
trong sáng, yếu mềm mà mãnh liệt, cỏ biểu tượng cho tuổi trẻ, sức trẻ luôn vươn lên
trong mọi hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Có thể nói, biểu tượng cỏ trong thơ Nguyễn Việt Chiến muôn hình, muôn vẻ, ở đâu
cũng hiện nên vẻ đẹp và nét mộc mạc của cuộc sống. Cỏ là biểu tượng của cuộc
sống thanh tân, cái đằm thắm nồng nàn của tình yêu, sự khắc khoải về cái đẹp, thời
gian và cả sức mạnh của sự tái sinh không mệt mỏi… Điều đó thể hiện sự nhất quán
trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Việt Chiến – một hồn thơ luôn hướng về cuộc
đời.
94
3.4.3.6. Cát
Một chân lý rất đơn giản và sâu xa được nhà Phật phát hiện, đó là con người vốn
được sinh ra từ cát bụi – một hạt bụi nhỏ nhoi hóa thân thành kiếp thân tôi – thành
một kiếp người – một tồn tại người. Ngay hình ảnh “cát bụi” đã gợi ra một cái gì
nhỏ bé, vô thường, hư hao của kiếp sống sinh linh.
Từ rất lâu, cát vốn là biểu tượng đã được rất nhiều nhà thơ sử dụng để tăng sức gợi
trong các ý thơ của mình. Trong một số bài thơ thời kỳ chống Mỹ, hình ảnh cát đã
được sử dụng rất nhiều.
Giữa bom đạn, giữa gió cát và nắng lửa nhọc nhằn, sự sống và cái chết treo trên đầu
sợi tóc, nhà thơ Xuân Quỳnh đã mượn “cát” để biểu hiện hình tượng con người
khao khát về một cuộc sống bình yên: “Giữa gió cát, giữa những ngày ác liệt/ Tôi
nghĩ về tha thiết một màu xanh” (Gió lào cát trắng). Còn trong mắt Ý Nhi, hạt cát
nặng trĩu trong nỗi đau số phận muôn đời: “Tôi tìm đến những đền đài tưởng niệm/
Nào hay đâu chỉ là cát đấy thôi/ Hạt cát nào trong đáy mắt bỏng sôi/ Đang lặng lẽ
lăn trên gò má” (Cát 2)…
Còn trong thơ Nguyễn Việt Chiến, ông ví con người là cát bụi trong đêm của tình
yêu.
“Tôi hoang vu, cát hoang vu
Trăng là người khách qua đò đêm nay
Cô đơn xuống một đò đầy
Tôi chờ em phía bên này mùa đông
Cát còn bay trắng bến sông
Người còn đi trắng mùa mong ước này”
(Cát đợi)
Đời là cát bụi nên tình yêu cũng “xay mòn thành đá cuội”. Bởi tình đến và đi, mất
và còn cũng hư không như cát bụi cuộc đời. Tất cả xay tròn theo cái trớ trêu, theo
cái trò đùa của con tạo: “Tôi cầm hạt cát trên tay/ Đêm không còn ấm như ngày có
95
em/ Tôi cầm cả chính tôi lên/ Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu/ Câu thơ như
cát mỗi chiều/ Đem theo chút ấm nắng nghèo vào đêm”.
Cát còn là những khổ đau len lỏi trong kiếp người: “Nếu khổ đau là cát/ Sóng bào
mòn thành đêm/ Biển- lá buồm rách nát/ Gối đầu lên ngực em” (Nếu khổ đau).
Nguyễn Việt Chiến còn mượn cát để nói về sự hy sinh thầm lặng của những người
lính ở Hoàng Sa. Cát còn khóc cùng nỗi đau số mệnh, biết u u nức nở:
“Gió
như những người lính
chết trận ở Hoàng Sa
thổi u u trong cát mặn
thổi rỗng lòng biển
từ 1974 thổi mãi đến giờ”
(Gió Hoàng Sa)
Cát vốn là nơi đi về của cuộc đời con người, sống trong cát, chết cũng vùi trong cát.
Cát còn là biểu tượng của thơ ca. Nguyễn Việt Chiến tự ví thơ mình như hạt cát, bé
nhỏ và khiêm nhường trong Giữa thơ và thở:
“Còn ta
yếu đuối và bạc nhược
ta lấy hít thở làm đầu
trước khi nghĩ đến thơ
nên thơ ta
chỉ là bụi cát
bụi cát
bụi cát thì lắng xuống
còn mây cao
mây lành thì thanh cao”
Biểu tượng cát tượng trưng cho con người, cát cũng là đất nước, là cuộc đời vĩnh
hằng bình dị. Cát còn là biểu tượng của cuộc đời nhà thơ, vừa là nơi đi về điểm hẹn
96
của tình yêu thương đôi lứa, vừa là những trĩu nặng, lo toan xót thương của tình yêu
tổ quốc.
TIỂU KẾT: Bằng những nỗ lực, sự tìm tòi đổi mới trong thơ ca, Nguyễn Việt Chiến
đã đưa người đọc đến với những cách tân mới mẻ. Nguyễn Việt Chiến làm thơ lục
bát cũng hay như thơ tự do, thơ năm chữ cũng tròn như thơ tám chữ. Đó không chỉ
là thao tác ngôn ngữ bình thường mà còn là cả một tấm lòng, cả một sự lao động
nghệ thuật nghiêm túc của người cầm bút.
Bên cạnh đó là hệ thống ngôn ngữ được gọt giũa, chắt lọc cẩn thận, mang tính hình
tượng cao. Ngoài ra, ông chủ yếu hướng đến những vần thơ không bị gò bó bởi
khuôn khổ và niêm luật truyền thống, ông hiện đại hóa ngôn ngữ theo dòng chảy
suy nghĩ và mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Trong thơ Nguyễn Việt Chiến, song song với hệ thống biểu tượng mới mẻ mang
đậm dấu ấn cá nhân, nhà thơ vẫn có sự tiếp nhận những biểu tượng truyền thống
(con tàu, hoa sen, trăng, cỏ, cát). Những biểu tượng này tuy không còn lạ, nhưng
bằng sức sáng tạo của mình, Nguyễn Việt Chiến đã đưa những biểu tượng tưởng
như cũ kĩ này lên trên một phông nền mới, mang sắc thái biểu tượng mới, đạt được
những hiệu quả bất ngờ.
97
KẾT LUẬN
1. Tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn Việt Chiến là tư duy của một nhà thơ có nhiều trải
nghiệm. Tác phẩm của ông không đơn thuần chỉ chứa đựng những triết lý, suy tư về
cuộc sống mà nó còn dám hướng đến nỗi đau và những khát vọng súc sôi của dân
tộc. Chính bởi lẽ đó, những tác phẩm thơ ca của ông luôn có điểm nhìn nghệ thuật
phong phú và đa chiều.
2. Tư duy thơ giàu chất trí tuệ và năng lực sáng tạo hình ảnh đã mang lại cho thơ
Nguyễn Việt Chiến hệ thống hình ảnh giàu sức biểu cảm, giàu ý nghĩa tượng trưng
tạo nên một hệ thống biểu tượng phong phú, đa dạng. Ở đó cháy lên niềm tin yêu
cuộc sống, tình yêu quê hương, biển đảo, yêu tổ quốc tha thiết, mãnh liệt.
4. Cái tôi trong cảm hứng về Tổ quốc nhân dân là một cái tôi đi từ hướng nội sang
hướng ngoại, từ ý thức về những niềm riêng đến ý thức về những nỗi niềm chung,
về những vấn đề mang tính thời sự, thời đại của đất nước.
3. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Việt Chiến vừa được chọn lọc công phu kỹ lưỡng, được
xây dựng trên nhiều chất liệu mới, là sự vận động thành công trong quá trình cách
tân đổi mới thơ ca, vừa giàu sức gợi, đa nghĩa. Đồng hành với giọng điệu hào hùng,
âm hưởng thơ “dậy sóng” của một nhà thơ tâm huyết với đề tài về biển đảo Tổ quốc
còn là một giọng điệu thơ trầm lắng, sâu sắc của một cây bút thơ tình lãng mạn,
nồng nàn. Nó khiến cho tác phẩm thơ của ôngtrở nên đặc sắc, đa âm hưởng.
4. Ngôn ngữ của đời sống thực, ngôn ngữ nặng tâm tình thực cùng với sự tìm tòi
cách tân đã mang đến cho thơ Nguyễn Việt Chiến một giọng điệu rất riêng, một
giọng thơ trầm lắng đầy ám ảnh. Giọng điệu ấy thể hiện một sự trăn trở nhiều chiều
về số phận của Tổ quốc, số phận của cá nhân, về tương lai dân tộc, về mối liên hệ
giữa truyền thống và hiện đại, giữa hiện thực và lý tưởng, giữa phi nghĩa và chính
98
nghĩa, giữa lịch sử và văn hoá... tất cả hiện lên trong giọng điệu bi hùng và giọng
thơ đầy triết lý sâu sắc.
5. Tiếp cận thơ Nguyễn Việt Chiến từ góc độ tư duy nghệ thuật là một vấn đề không
đơn giản. Hơn nữa hướng tiếp cận từ góc độ tư duy từ trước tới nay ít người chú ý . Trên hướng nghiên cứ u mở của luận văn, chúng tôi mong rằng những vấn đề trên sẽ
tiếp tục được tìm hiểu, nghiên cứ u nhằm đi đến những kết luận thoả đáng, đúng đắn,
phát huy tác d ụng củ a nó đ ối với việc thúc đẩy sự phát tri ển củ a nền Văn h ọc Việt
Nam trong xu thế phát triển chung củ a Văn học khu vực và thế giới.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, (2002), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Việt Chiến (1992), tập thơ Mưa lúc không giờ, Nxb Hội nhà văn
3. Nguyễn Việt Chiến (1998), tập thơ Ngọn sóng thời gian, Nxb Thanh niên
4. Nguyễn Việt Chiến (2000), trường ca Cỏ trên đất, Nxb Quân đội nhân dân
5. Nguyễn Việt Chiến (2004), tập thơ Những con ngựa đêm, Nxb Hội nhà văn
6. Nguyễn Việt Chiến (2007), phê bình tiểu luận Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân
1975-2005, Nxb Hội nhà văn
7. Nguyễn Việt Chiến (2012), tập thơ Trăng và thơ đọc chậm, Nxb Hội nhà văn,
2012)
8. Nguyễn Việt Chiến (2015) tập thơ Hoa hồng không vỡ, Nxb Phụ nữ
9. Nguyễn Việt Chiến (2015), tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển, Nxb Phụ nữ
10. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học Hà Nội
11. Phạm Vĩnh Cư (1997), Từ điển biểu tượng Văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng
12. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
13. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội
14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội
15. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (1993), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nhiều tác giả (1992), Thơ Việt Nam 1945 – 1985, Nxb Giáo dục, Hà Nội
18. Nhiều tác giả (2004), Những vấn đề tác giả và ngôn ngữ, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội
19. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Lê Huy Hoàng (2008), Thơ – những gương mặt, Nxb Hội nhà văn
22. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc điểm cơ bản của thơ Việt Nam hiện đại, Văn
học, số 2, tr.21-29
100
23. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại – Lịch sử và lý luận, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội
25. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,
Hà Nội
26. Phương Lựu (1986, 1987, 1988), Lý luận văn học, (Tập I, II, III), Nxb Giáo dục,
Hà Nội
27. Nguyễn Xuân Nam (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Viện Văn học
28. Đặng Thị Bích Ngân (2007), Từ điển thuật ngữ mỹ học phổ thông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
29. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2002), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,
Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội
30. Vũ Quần Phương (1979), Nhà thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
31. Lê Xuân Quýt (2000), Cảm nhận và phê bình văn học, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội
32. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục
34. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
35. Nguyễn Bá Thành (2011), Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
36. Nguyễn Bá Thành (2015), Toàn cảnh thơ Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
37. Nguyễn Bá Thành, Tìm hiểu một số đặc trưng tư duy thơ cách mạng Việt Nam
1945 – 1975, Luận án PTS Khoa ngữ văn Hà Nội, 1990
38. Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam 1965 – 1975, Nxb
ĐH &THCN, Hà Nội
101
39. Lưu Khánh Thơ, (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
KHXH Hà Nội.
40. Hoàng Trịnh, (1974), Văn học, ngọn nguồn và sáng tạo, Nxb Văn học
41. Loui Gluck, (2004), Thơ là giọng, là phong cách tư tưởng, Evăn
42. M.Rudentan, P.ludim (1972), Từ điển Triết học, Nxb Sự thật
43. Bằng Việt, (1980), Nhân vật trữ tình trong thơ chúng ta, TC Văn học số 3
44.Nguyễn Việt Chiến, Thơca thế hệ trẻ hôm nay mỏng quá
http://repositories.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/14922/1/231_p70-71_VH-
NT%20-%20Nguyen%20Viet%20Chien%20-
%20Tho%20ca%20the%20he%20tre%20hom%20nay%20mong%20qua.pdf
45. Nguyễn Việt Chiến, Gia tài là bài thơ yêu nước
http://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/nguyen-viet-chien-gia-tai-la-bai-tho-yeu-nuoc-
37437.html
46. Phùng Hiệu – Nguyên Pháp, Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến kể về những
dự cảm trong đời
http://congluan.vn/nha-tho-nha-bao-nguyen-viet-chien-ke-ve-nhung-du-cam-trong-
doi/
47. Đoàn Văn Mật, Khách mời quán văn - Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến
http://vannghequandoi.com.vn/Trao-doi/Khach-moi-quan-van-Nha-tho-Nguyen-
Viet-Chien-644.html
48. Lam Thu, Buổi ra mắt thơ ấm áp của Nguyễn Việt Chiến
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/buoi-ra-mat-tho-am-ap-cua-
nguyen-viet-chien-3305267.html
49. Đỗ Ngọc Yên, Nguyễn Việt Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển
http://suckhoedoisong.vn/nguyen-viet-chien-va-to-quoc-nhin-tu-bien-n108467.html
50. Đỗ Ngọc Yên, Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến háo hức lên con tàu tìm bến đỗ mới
cho thi ca
http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/51/nha-tho-nguyen-viet-chien-hao-huc-len-con-
tau-tim-ben-do-moi-cho-thi-ca/126859.html