ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU QUỲNH NGA

HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ TRONG THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN (SO SÁNH VỚI QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRIỆU QUỲNH NGA

HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ TRONG THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN (SO SÁNH VỚI QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI)

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Thu Hằng THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm

Đường luật của Nguyễn Khuyến (So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn

Trãi)”dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Dương Thu Hằng là kết quả nghiên cứu của

cá nhân tôi, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố.

Thái Nguyên,tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Triệu Quỳnh Nga

i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam được hoàn thành tại Đại

học Sư phạm Thái Nguyên.Có được luận văn này tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết

ơn sâu sắc tới PGS.TS.Dương Thu Hằng - người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp

đỡ tôi với những chỉ dẫn khoa học quý báu trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu

và hoàn thành luận văn “Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn

Khuyến (So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi)”.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư

Phạm - Đại học Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy và

hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp Cao học K24 - Văn học Việt Nam đã

tạo điều kiện để tôi có cơ hội học tập và nghiên cứu khoa học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên, ủng hộ,

khuyến khích và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực

hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Triệu Quỳnh Nga

ii

MỤC LỤC

Trang bìa phụ

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 1

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 9

6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 9

7. Bố cục của đề tài ........................................................................................ 10

8. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 10

NỘI DUNG ....................................................................................................... 10

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 11

1.1. Chủ đề và hệ thống chủ đề ........................................................................ 11

1.1.1. Chủ đề ...................................................................................................... 11

1.1.2. Hệ thống chủ đề ....................................................................................... 12

1.2. Điều kiện hình thành và quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật trong lịch

sử văn học Việt Nam ................................................................................. 13

1.2.1. Điều kiện hình thành thơ Nôm Đường luật .............................................. 13

1.2.2. Quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật ................................................ 16

1.3. Khái quát thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến .......... 21

1.3.1. Những yếu tố chi phối đến chủ đề Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi .... 21

1.3.2. Những yếu tố chi phối đến chủ đề thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến 22

* Tiểu kết chương 1: .......................................................................................... 25

iii

Chương 2. NHỮNG CHỦ ĐỀ MANG TÍNH TRUYỀN THỐNG TRONG

THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG

TƯƠNG QUAN VỚI QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI ... 27

2.1. Chủ đề thiên nhiên ..................................................................................... 27

2.1.1. Ngợi ca cảnh đẹp quê hương .................................................................... 27

2.1.2. Khắc họa bốn mùa xuân, hạ, thu, đông .................................................... 42

2.2. Chủ đề ưu quốc ái dân ............................................................................... 51

2.2.1. Khao khát phò đời giúp nước ................................................................... 52

2.2.2. Nỗi buồn đau bất lực trước thời cuộc ....................................................... 55

2.2.3. Tấm lòng kiên trung ................................................................................. 61

* Tiểu kết chương 2: .......................................................................................... 66

Chương 3. NHỮNG CHỦ ĐỀ MANG TÍNH THỜI ĐẠI TRONG THƠ

NÔM ĐƯỜNG LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG TƯƠNG

QUANVỚI QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI .................... 68

3.1. Chủ đề con người đời thường .................................................................... 68

3.1.1. Con người trần thế trong Quốc âm thi tập ............................................... 68

3.1.2. Con người đời thường trong thơ Nguyễn Khuyến ................................... 74

3.2. Chủ đề phản ánh xã hội thực dân nửa phong kiến ..................................... 82

3.2.1. Lên án đời sống văn hóa - xã hội thực dân nửa phong kiến .................... 82

3.2.2. Đả kích hình ảnh con người mới trong xã hội thực dân nửa phong kiến ....... 85

* Tiểu kết chương 3: .......................................................................................... 91

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 95

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học trung đại Việt Nam ra đời muộn và chịu ảnh hưởng của văn học Trung

Quốc. Tuy nhiên, với ý thức dân tộc các tác giả trung đại luôn cố gắng thoát li, không

ngừng Việt hóa, sáng tạo. Vì vậy, có nhiều thể loại văn học tuy có nguồn gốc ngoại

lai nhưng mang đậm hồn cốt của dân tộc.Thơ Nôm Đường luật là một thể loại tiêu

biểu cho hiện tượng này.

Thơ Nôm Đường luật trên cơ sở kế thừa, tiếp biến thơ chữ Hán Đường luật đã

có những khám phá, tìm tòi trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật để khẳng

định bản sắc văn hóa dân tộc.Quá trình phát triển từ mạch nguồn thơ chữ Nôm với

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi - đã mở ra một hướng đi mới cho nền thi ca dân

tộc, cho đến Nguyễn Khuyến đại diện tiêu biểu của thơ Nôm Đường luật thế kỉ

XIX,thơ Nôm Đường luật đã ngày càng khẳng định được sức sống của nó.

Ngoài ra, các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi đã và

đang được giảng dạy trong nhà trường các cấp. Nghiên cứu đề tài này là việc làm hữu

ích để trau rèn kĩ năng nghiên cứu khoa học và giúp cho việc giảng dạy và học tập

đạt kết quả cao hơn.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hệ thống

chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến (So sánh với Quốc âm thi

tập của Nguyễn Trãi)” với mong muốn có được cái nhìn cụ thể, hữu ích về những

đóng góp về chủ đề của Tam Nguyên Yên Đổ cho nền văn học Việt Nam nói chung,

thể loại thơ Nôm Đường luật nói riêng trong tương quan so sánh với Quốc âm thi

tập của Nguyễn Trãi.

2. Lịch sử vấn đề

Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật rất phong phú và đa dạng.Thơ

Nôm Đường luật đề cập đến những vấn đề lớn của lịch sử, của thời đại, đất nước,

con người, đồng thời cũng phản ánh những khía cạnh phức tạp của cuộc sống,

trong tư duy, cảm xúc, có khi rất thầm kín, riêng tư của mỗi cuộc đời, từng số

phận. Xuất phát từ đối tượng, phạm vi phản ánh, khả năng chiếm lĩnh trên các bình

diện cuộc sống xã hội và thế giới tâm hồn con người, có thể phân chia thành những

1

hệ thống chủ đề chính: chủ đề thiên nhiên, chủ đề phản ánh cuộc sống, tâm sự của

tác giả, chủ đề lịch sử, xã hội, đất nước, con người.

Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật mang tính lịch sử. Trong tiến

trình phát triển của hệ thống chủ đề thơ Nôm Đường luật từ thế kỷ XV đến đầu

thế kỉ XVIII nổi bật là những chủ đề gắn với cuộc sống, những tâm sự của tác

giả, dựa trên quan điểm, lý tưởng, phẩm chất của kẻ sĩ, đó là lý tưởng “ái ưu”,

“trung hiếu”, như cốt cách người quân tử, trách nhiệm với minh quân, lương

thần… Những chủ đề này thường hướng tới mục đích giáo dục như tu dưỡng

phẩm chất, triết lý nhân sinh, răn dạy đạo lý, nhân nghĩa… Thời kỳ từ cuối thể

kỷ XVIII - cuối thế kỷ XIX nổi bật là những chủ đề phản ánh cuộc sống xã hội,

đất nước, con người như số phận người phụ nữ, tình yêu lứa đôi, khát vọng giải

phóng của con người thời đại… Những chủ đề này đã hướng nhiều tới mục đích

phản ánh cuộc sống, quyền lợi của con người.Chủ đề với mục đích chính nhằm

giáo dục qua những lời “tự thuật”, “ngôn chí”, qua những vần thơ triết lý và giáo

huấn, thơ Nôm Đường luật đã có bước chuyển mình hướng tới mục đích phản

ánh cuộc sống xã hội, thời đại và số phận con người. Sự biến đổi này đã giúp thơ

Nôm Đường luật mở rộng phạm vi, đối tượng phản ánh của thể loại.

Chủ đề thơ Nôm Đường luật phản ánh khuynh hướng cảm hứng sáng tạo nghệ

thuật. Trong thơ Nôm Đường luật, cảm hứng dân tộc và dân chủ là cảm hứng chủ

đạo.Tuy vậy, ở mỗi thời kỳ lịch sử cảm hứng dân tộc, dân chủ có vai trò khác nhau.

Trong các tác giả thơ Nôm, Nguyễn Trãi được mệnh danh là người giữ vị trí

“khai sơn phá thạch” của việc Việt hóa hệ thống chủ đề của nền văn học dân tộc.Với

sự xuất hiện của văn bản viết tay Quốc âm thi tập thì tập đại thành thơ Nôm này đã

trở thành “tác phẩm mở đầu cho nền văn học cổ điển Việt Nam”(Xuân Diệu). Trên

thực tế lịch sử văn học Việt Nam có một thể loại mới - thơ Nôm Đường luật. Nguyễn

Trãi luôn có ý thức trên con đường tìm tòi thể loại dân tộc ít nhiều thoát li Đường

luật. Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn đã phân tích khá chi

tiết về chủ đề thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và chỉ ra phong cách bình dị,

đậm tính dân tộc trong thơ thiên nhiên Nguyễn Trãi, với sự xuất hiện của những hình

ảnh thiên nhiên đời thường mùng tơi, muống, mùng… Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn

2

đánh giá rất cao thơ thiên nhiên trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi“Những bức

tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi phong phú và nhiều tới mức phòng tranh thiên

nhiên không đủ chỗ trưng bày, nhà thơ đã phải treo sang cả những phòng tranh dành

cho mảng đề tài khác”[52, tr. 57]. Qua đó, có thể thấy thiên nhiên là tình yêu rộng

lớn của Nguyễn Trãi.

Theo tác giả Hoài Thanh, Nguyễn Trãi đa phần sống trong cảnh đời không

thuận, và “phần lớn thơ Nôm Nguyễn Trãi đã được viết ra trong những cảnh đời như

thế.Hình như lúc này, nhà thơ thấy cần hơn lúc khác một cách nói, một giọng nói tâm

tình. Ta được gặp lại ở đây vẫn con người ấy, một con người rất đẹp, mà gần gũi

hơn, thân mật hơn”[44, tr. 689]. Tuy vậy, dù viết về cảnh đời như thế nào thì Nguyễn

Trãi vẫn hiện lên với cách sống “giản dị, sống thảnh thơi giữa non xanh cảnh vắng ở

Côn Sơn” và ẩn chứa trong tác giả giữa cảnh sống thanh vắng đó là “tấm lòng ưu ái

không nguôi” với cuộc sống của người dân, với vận mệnh của đất nước. Nguyễn Trãi

là một người nghị lực, bản lĩnh và quan trọng hơn cả là tấm lòng hết mực yêu nước,

thương dân, ông đã vững tâm vượt qua tất cả biến cố cá nhân và xã hội để giữ tiết

tháo, sống cương trực. Qua tìm hiểu và nghiên cứu Hoài Thanh đã khái quát con

người Nguyễn Trãi qua Quốc âm thi tập là con người có “ý thức trách nhiệm đối với

dân, với nước. Ý thức ấy đã ra đời từ rất sớm, đã lớn mạnh không ngừng, đã bền bỉ

gần với mọi suy nghĩ và hoạt động của ông cho đến ngày tắt thở”[44, tr.708].

Còn với Xuân Diệu, ông đã dành nhiều sự quan tâm, đề cao tới mảng thơ về

thiên nhiên tươi đẹp của Nguyễn Trãi:“trong thơ Việt Nam ta, chưa có ai viết những

vần thơ về thiên nhiên hay như Nguyễn Trãi” [44, tr. 666]. Để tăng sự thuyết phục

cho người đọc Xuân Diệu đã đưa ra lí lẽ “Ức Trai có cái đẹp thường trực ở trong tâm

hồn, có cái đẹp là bản chất của tâm hồn, cho nên gặp cái đẹp trong vũ trụ thì tương

ứng ngay, thốt ra thơ đẹp…” [44, tr. 609].

Hay như tác giả Đặng Thanh Lê qua Nguyễn Trãi và đề tài thiên nhiên trong

dòng văn học yêu nước Việt Nam [44] đã khẳng định có một đề tài thiên nhiên trong

thơ Nguyễn Trãi. Theo Đặng Thanh Lê “những cảnh vật nhỏ bé, bình dị vẫn thường

giấu mình trong cuộc sống hàng ngày như: nắng chiều, mây sớm, đậu cây, bờ cỏ…

Nhân vật trữ tình ở đây trở thành chủ đề cảm thụ, chiếm lĩnh vẻ đẹp của thiên nhiên

3

từ góc độ một con người hòa mình vào với xứ sở quê hương, với nơi sinh trưởng”

[44, tr. 693]. Chính điều này đã làm cho “đề tài thiên nhiên của Nguyễn Trãi có phần

nào thoát li nguồn thi hứng như sách vở với những tiều ngư canh mục, phong hoa tuyết

nguyệt, xuân lan thu cúc…đã bị công thức hóa, ước lệ hóa để hướng dần những đề tài,

hình tượng thiên nhiên chân thực, sinh động, gần gũi với tâm hồn dân tộc, tạo nên những

bức tranh thiên nhiên đầy chất thơ và chất thực nói trên” [44, tr. 695].

Trong bài viết “Tư tưởng của Nguyễn Trãi”, Nguyễn Thiên Thụ đã khẳng định

“Nguyễn Trãi luôn hướng đến bổn phận thiêng liêng đối với gia đình và tổ quốc.Khi

ra làm quan, khi về ở ẩn lúc nào Nguyễn Trãi cũng tâm niệm đến hai chữ trung hiếu”

[40, tr. 155].

Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết “Một vài nét về con người Nguyễn

Trãi qua thơ Nôm”đã chỉ ra quan niệm của Nguyễn Trãi vì “một tấm lòng son” mà

“Ông không chịu bỏ cuộc, ông kiên trì bám trụ. Ông giữ vững khí tiết, giữ vững lòng

ưu ái, giữ vững niềm tin và mặc dù chịu đủ điều tủi cực vẫn nhân hậu với người,

chan hòa với cảnh, vẫn luôn luôn bình tĩnh ung dung” [44, tr. 717].

Trên phương diện lịch sử, giáo sư Lê Trí Viễn đã đánh giá khách quan tư

tưởng, con người Nguyễn Trãi. Trong bài viết “Nguyễn Trãi, nhìn từ phía Lý - Trần”,

giáo sư nhận định về cách ứng xử của Nguyễn Trãi tạo nên “phong cách sống: vừa

làm việc hết mình cho dân cho nước, nhưng lòng bao giờ cũng sạch, nhẹ như kẻ xuất

gia, không hề nặng danh lợi của kiếp trần, mà cũng vừa biết sống lành mạnh vui tươi

giữa cuộc sống nông thôn lao động, với mọi cảnh vật thiên nhiên” [66, tr. 65].

Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu dưới góc nhìn văn hóa trong bài viết

“Nguyễn Trãi và Nho giáo” cũng đề cập tới những vấn đề về cách ứng xử của con

người ở phận vị của Nguyễn Trãi. Với bổn phận của một bề tôi “Suốt đời Nguyễn

Trãi làm việc với tinh thần nhập thế có trách nhiệm, luôn để ý đến nhân dân, lo trước

điều lo của thiên hạ” [44, tr. 99]. Còn với vai trò một người cha, ông hết mực yêu

thương, răn dạy con cái “Ông khuyên không nên sợ nghèo, không nên tham lợi, tham

giàu,… quý hơn của cải là đạo đức,… cũng cần phải có học, có nghề và có tài” [44,

tr. 103]. Ông “khuyên anh em nên yêu thương nhau”, “hiếu với cha, trung với vua

nhưng không phải tinh thần quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử như của Nho giáo

4

cứng nhắc” [44, tr. 105]. Qua đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu khẳng định

Nguyễn Trãi “lấy con người tự nhiên, tự do tự tại làm cơ sở cho một thái độ sống vì

đời, làm việc thiện cho nhau, có quan hệ đầm ấm với nhau đồng thời đảm bảo thú vui

riêng” [44,tr. 114].

Trong cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, nhà nghiên cứu Trần

Nho Thìn đã quan tâm đến sự ảnh hưởng của tư tưởng - chính trị trong sáng tác của

Nguyễn Trãi, nhân cách vĩ đại và tinh thần nhà Nho của Nguyễn Trãi từ đó khẳng định

cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền văn học nước nhà. Trong phần bàn về nhân cách

Nguyễn Trãi, ông đã chỉ ra mối quan tâm trong phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi

“Chú ý nhiều đến đạo làm cha và đạo làm con chứ hầu như không đề cập đến các quan

hệ xã hội khác” [53, tr. 328].Ông cũng khẳng định “Trước sau như một, Nguyễn Trãi

vẫn kiên trì đạo trung hiếu, vì trung hiếu là điều kiện để lo cho dân cho nước” [53, tr.

331].

Đến thế kỉ XIX, tiếp nối dấu hiệu Việt hóa chủ đề trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

là Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến được giới thiệu lần đầu tiên trên nhiều số của

Nam Phong tạp chí dưới tiêu đề Thơ cụ Yên Đổ vào các năm 1917, 1918, 1919, 1932,

1927,1932. Phải đợi đến vài thập kỷ sau, với công trình Việt Nam văn học sử yếu của

Dương Quảng Hàm (Nha học chính Đông Pháp xuất bản, Hà Nội, 1943), ngành

nghiên cứu văn học mà trước hết là lịch sử văn học mới bắt đầu chú ý đến Nguyễn

Khuyến... Dõi theo lịch trình nghiên cứu tác gia có phong cách tài hoa này, có thể

thấy lịch trình ấy diễn ra qua bốn chặng đường.

Chặng đường thứ nhất là trước năm 1945.Ở chặng đường này Nguyễn

Khuyến còn ít được biết đến và nếu được biết đến cũng chủ yếu qua thơ Nôm của

ông.Người có ý kiến về Nguyễn Khuyến sớm nhất (1918) có lẽ là Phan Kế Bính,

trong công trình Việt - Hán văn khảo (1930), khi “luận riêng về phép làm thơ”.

Chặng đường thứ hai, từ 1945 đến 1975.Ở chặng đường này, việc giới thiệu,

tìm hiểu nghiên cứu về Nguyễn Khuyến đã có bước phát triển mới.Ông tiếp tục được

khẳng định với tư cách một nhà thơ trào phúng, nhà thơ trữ tình - yêu nước, nhà thơ

thiên nhiên.Các tác phẩm của ông được tìm hiểu trên nhiều khía cạnh.Công trình bề

5

thế nhất trong nghiên cứu về Nguyễn Khuyến ở chặng đường này là của Văn Tân với

tên gọi Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, gồm 204 trang, 5 chương.

Chặng đường thứ ba, từ 1971 đến 1984. Bắt đầu từ năm 1971, NXB Văn học

Hà Nội cho in cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến, dày gần 500 trang do Xuân Diệu giới

thiệu. Kể từ đây việc nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Khuyến đã mở ra một giai đoạn

mới. Năm 1984, Nguyễn Khuyến tác phẩm, công trình sưu tầm biên dịch, giới thiệu

về Nguyễn Khuyến đầy đủ nhất ra đời do Nguyễn Văn Huyền thực hiện (NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội, 1984). Có thể coi đây như một dấu mốc khép lại một chặng

đường dài và chuẩn bị mở ra một chặng đường mới trong tìm hiểu nghiên cứu Nguyễn

Khuyến.

Chặng đường thứ tư, từ năm 1985 đến nay. Đây là chặng đường có thành tựu

lớn nhất trong tìm hiểu nghiên cứu về Nguyễn Khuyến, trước hết được đánh dấu bằng

Hội nghị khoa học lớn kỷ niệm 150 năm sinh nhà thơ (do Viện Văn học phối hợp với

Sở văn hóa thông tin và Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh tổ chức ngày

15.2.1985). Nhiều phát hiện và ý kiến mới, có giá trị trong khảo cứu, nhận định về

Nguyễn Khuyến, từ con người lịch sử đến con người thơ tác giả được công bố, phần

lớn sau này được lựa chọn, tập hợp trong Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ (Nguyễn

Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1994). Có thể coi đây là công trình chuyên

khảo quy mô nhất về Nguyễn Khuyến. Cuối năm 1998, cuốn sách Nguyễn Khuyến về

tác gia và tác phẩm, do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, Hà Nội,

1998. Tập hợp một cách rộng rãi những bài viết về các công trình khoa học tiêu biểu

về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến, mảng thơ Nôm nói chung và

thơ Nôm Đường luật nói riêng chiếm một vị trí quan trọng. Thơ Nôm Nguyễn Khuyến

đã trở thành một trong những đỉnh cao của lịch sử thơ dân tộc. Nhà nghiên cứu

Nguyễn Văn Hoàn đã nhận xét: “Bộ phận thơ ca của Nguyễn Khuyến có khả năng đi

thẳng vào công chúng, chính là bộ phận thơ ca chữ Nôm, thơ văn tiếng Việt. Chính

bộ phận văn học này sẽ tạo nên sự bất tử cho thơ văn Nguyễn Khuyến. Khuynh hướng

dân tộc hóa trong thơ văn của Nguyễn Khuyến cũng sẽ biểu hiện rõ nhất trong chữ

Nôm” [19, tr. 16]. Trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến đã dần gạt bỏ yếu tố

6

ước lệ, điển tích, điển cố trong thơ Đường luật bằng những yếu tố mang đậm chất dân

tộc, âm điệu Việt Nam đó là khuynh hướng “dân tộc hóa” trong sáng tác của ông.

Bài viết “Chất dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến” [54] của Trần Minh

Thương đã chỉ ra một số biểu hiện Việt hóa thơ Nôm về mặt đề tài, tiêu đề trong thơ

Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến gắn liền với người bình dân, theo hướng dân gian,

trong đó tác giả chỉ ra Nguyễn Khuyến có sử dụng thành ngữ ngữ liệu dân gian, những

cách tân về thơ. Tuy nhiên ở bài viết, những vấn đề này mới được trình bày ở mức sơ

lược.

Hay như trong bài viết “Sự vận động và phát triển của thơ Nôm Đường luật

theo hướng kế thừa, tiếp biến và sáng tạo với Đường luật Hán trên tinh thần dân tộc

hóa, dân chủ hóa thể loại”[11], tiến sĩ Trần Quang Dũng đã chỉ ra khá rõ một số biểu

hiện tiếp biến và sáng tạo của hệ thống đề tài, chủ đề thơ Nôm Đường luật trong tương

quan với thơ Đường luật Hán. Tuy nhiên bài viết chưa đi vào nghiên cứu những điểm

mới của hệ thống đề tài, chủ đề trong tác phẩm thơ Nôm Đường luật Nguyễn

Khuyến.Như vậy, ở bài viết này thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến vẫn chưa trở

thành đối tượng để nghiên cứu chính trong dòng mạch nghiên cứu về quá trình Việt

hóa thơ Đường luật.

Năm 2005, tác giả Nguyễn Hoàng (Báo Nhân Dân) có bài viết “Nguyễn

Khuyến: Cái nhìn không chỉ thời buổi ấy”. Bài viết này đã nói lên, việc Nguyễn

Khuyến đã từ quan, bất hợp tác với thực dân Pháp, dùng ngòi bút để phơi bày những

tội ác của thực dân và quan lại xấu xa, những giả trá, đen bạc của xã hội thời bấy giờ,

giữ tấm lòng trong sạch và ngay thẳng cho đến cuối đời - đó đã là một nhân cách lớn.

Năm 2013, tác giả Nguyễn Thanh Liêm có bài viết trên trang http://chuyen-

qb.com bài viết với tựa đề “Đến với Nguyễn Khuyến - nhà thơ trữ tình, trào phúng xuất

sắc”. Bài viết đã nói lên Nguyễn Khuyến suốt cuộc đời luôn sống chan hòa, gần gũi,

chân tình với những người nông dân nghèo khổ.

Năm 2013, tác giả Ngô Thị Kiều Oanh có bài viết trong Tạp chí khoa học

ĐHSP TPHCM với tựa đề “Chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú

Xương”.Bài viết giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về tâm hồn, nhân cách của những

nhà nho yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc.

7

Năm 2015, Luận văn thạc sỹ của tác giả Thân Thị Minh Trang ĐHSPTN

nghiên cứu “Văn hóa ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến”, trong đó có đề cập đến nỗi

buồn của Nguyễn Khuyến khi bà cả mất (Khóc vợ), nỗi nhớ con (Nhớ con), nỗi nhớ

cha (Ở kinh gặp ngày giỗ, cảm xúc).

Như vậy cho đến nay, đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về thơ

mảng thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến. Trong đó có một số công trình

khi tìm hiểu về quá trình Việt hóa thơ Đường luật đã đề cập đến vấn đề Việt hóa chủ

đề trong thơ Nôm Đường luật của hai tác giả.Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có

công trình nghiên cứu của tác giả nào lấy “Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường

luật của Nguyễn Khuyến (So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi)” làm đối

tượng nghiên cứu chính.

Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng

tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của

Nguyễn Khuyến (So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi)” với hy vọng sẽ

góp thêm một góc nhìn cụ thể, hữu ích về thơ văn Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi.

3. Mục đích nghiên cứu

- Làm rõ được hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến

trong tương quan so sánh với hệ thống chủ đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn

Trãi. Qua đó thấy được quá trình kế thừa, phát triển hệ thống chủ đề từ tác giả Nguyễn

Trãi đến Nguyễn Khuyến.

- Góp thêm một góc nhìn cụ thể về hai tác giả và một thể loại văn học đã quen

thuộc lâu nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống chủ đề của thơ Nôm Đường luật

của Nguyễn Khuyến trong mối liên hệ, so sánh với hệ thống chủ đề Quốc âm thi tập

của Nguyễn Trãi.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là 86 bài thơ Nôm Đường luật của Nguyễn

Khuyến trong cuốn Nguyễn Khuyến - tác phẩm của Nguyễn Văn Huyền (Tuấn Thành

- Anh Vũ tuyển chọn (2007), Nxb Văn học) và 254 bài thơ Nôm trong Quốc âm thi

tập của Nguyễn Trãi trong cuốn Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi, phiên âm và chú giải

của nhà nghiên cứu Phạm Luận, Nxb Giáo dục - Hà Nội (2012).

8

- Một số tài liệu nghiên cứu có liên quan đến luận văn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi tiến hành luận giải các

vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan như: quan niệm về chủ đề và hệ thống chủ

đề, thơ Nôm Đường luật, tìm hiểu, khảo sát, phân tích các chủ đề thơ Đường luật mà

Nguyễn Khuyến thể hiện trong các tác phẩm thơ Nôm Đường luật của ông, trên cơ

sở đối chiếu so sánh với hệ thống chủ đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

chính là: phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương

pháp phân tích tổng hợp; phương pháp cấu trúc - hệ thống; phương pháp khoa học

liên ngành.

6.1.Phương pháp thống kê, phân loại

Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê khảo sát tìm hiểu về hệ thống chủ

đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến và hệ thống chủ đề trong Quốc

âm thi tập của Nguyễn Trãi. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn đề, phương

pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề.

6.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành so sánh các tác phẩm trong

thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Việc

so sánh đối chiếu sẽ thấy rõ những chủ đề mang tính kế thừa và cách tân trong sáng

tác thơ Nôm Nguyễn Khuyến.

6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp

Phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá trình tìm hiểu, khám phá và đánh

giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu.Đây là phương pháp nghiên cứu không thể

thiếu để hoàn thiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.

6.4. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

Chúng tôi sử dụng phương pháp cấu trúc - hệ thống nhằm mục đích giúp cho

việc tìm hiểu về vấn đề hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn

Khuyến so sánh với hệ thống chủ đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có được

cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.

9

6.5. Phương pháp khoa học liên ngành

Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, chúng tôi có liên hệ và kết hợp

sử dụng một cách đúng mực kiến thức của các ngành lịch sử, xã hội học, văn hóa

học… nhằm giúp cho việc đánh giá và nhìn nhận vấn đề nghiên cứu được toàn diện

và sâu sắc hơn.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mục lục,Tài liệu tham khảo,đề tài gồm có ba phần: Mở đầu,Nội

dung và Kết luận. Trong đó phần Nội dung được chúng tôi triển khai trong ba

chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.

Chương 2: Những chủ đề mang tính truyền thống trong thơ Nôm Đường luật của

Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

Chương 3: Những chủ đề mang tính thời đại trong thơ Nôm Đường luật của

Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

8. Đóng góp của đề tài

- Đề tài đóng góp về mặt lí luận và thực tiễn. Qua việc tìm hiểu về hệ thống

chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc

âm thi tập của Nguyễn Trãi,luận văn góp phần làm rõ nét hơn sự kế thừa, nét mới,

những bước đi đầu tiên của quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.

- Thông qua đề tài, giá trị thơ văn và tài năng của Nguyễn Khuyến và Nguyễn

Trãi - hai nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam, được khẳng định sâu sắc

hơn.

- Các tác phẩm thơ văn của hai tác giả đã và đang được giảng dạy trong nhà

trường các cấp. Kết quả nghiên cứu đề tài này là một tài liệu tham khảo hữu ích phục

vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi nói

riêng, văn học trung đại Việt Nam nói chung.

10

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1.Chủ đề và hệ thống chủ đề

1.1.1. Chủ đề

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được

tác giả nêu lên, đặt ra và qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học”[14, tr. 61].Có thể

hiểu, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, thể hiện trong tác

phẩm mà nhà văn cho rằng quan trọng nhất, đó là điều nhà văn quan tâm cũng như chiều

sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống.Ví dụ, trong tác phẩm Truyện Kiều của

Nguyễn Du nêu bật lên số phận bi kịch của người phụ nữ, những ước mơ vươn tới

hạnh phúc, vấn đề đấu tranh để thực hiện tự do và công lí.

Chủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định và xuất phát từ chính ý đồ,

những gợi dẫn từ các hiện tượng cuộc sống cụ thể thông qua cách nhìn, quan niệm

của nhà văn. Chủ đề là sự thể hiện thống nhất hữu cơ giữa hiện thực khách quan và

tư tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, có khi cùng viết về một đề tài gần gũi, mà

mỗi nhà văn sẽ nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc vào tài năng,

khả năng thâm nhập vào đời sống và lí tưởng thẩm mĩ. Hay nói một cách cụ thể hơn

là chủ đề được hình thành trong thực tế cuộc sống, được khái quát hóa vào tác phẩm

thông qua cái nhìn chủ quan của tác giả. Đúng như tác giả M.Gorki đã từng nói: “Chủ

đề là cái tư tưởng manh nha trong kinh nghiệm của tác giả, do cuộc sống gợi lên,

làm tổ trong kho ấn tượng của anh ta, nhưng chưa định hình và thể hiện thành hình

tượng, thức tỉnh nhà văn, kêu gọi anh ta lao động để tạo dựng hình thức cho nó” [32,

tr. 262].

Trong văn học, chủ đề không bao giờ là một vấn đề đơn nhất.Nếu trong cuộc

sống, bản chất con người đã là tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì bất cứ một vấn đề

nào của nhân sinh cũng liên quan tới hàng loạt vấn đề phức tạp khác của quan hệ xã

hội.

Chủ đề có mối quan hệ mật thiết với đề tài và nội dung tác phẩm. Nếu khái

niệm đề tài giúp chúng ta xác định “Tác phẩm viết cái gì?”thì khái niệm chủ đề trả

11

lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì?”.Đề tài chính là nền tảng, cơ sở

hình thành của chủ đề.Trong một số trường hợp đặc biệt như một số tác phẩm truyện

đồng thoại, tác phẩm ngụ ngôn, một số thơ trữ tình… thì chủ đề và đề tài hòa quyện

vào nhau không tách rời.

Tầm quan trọng của chủ đề không phụ thuộc vào khuôn khổ văn bản, cũng không

phụ thuộc vào việc chọn đề tài. Có những văn bản rất ngắn, đề tài rất hẹp nhưng chủ đề

đặt ra hết sức lớn lao.Trong bài thơ Bánh trôi nước, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương qua việc

miêu tả chiếc bánh trôi nước đã gửi gắm bao tình cảm tốt đẹp về phẩm chất và thân phận

của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời.

Như vậy, chủ đề chính là vấn đề, là khía cạnh hay ý nghĩa cơ bản của đề tài

được tập trung thể hiện trong tác phẩm, cũng có thể hiểu chủ đề là góc độ, bình diện,

con đường mà tác giả đưa dắt người đọc thâm nhập vào và tiếp nhận nội dung tác

phẩm.

1.1.2. Hệ thống chủ đề

Trong một tác phẩm, thường không chỉ có một chủ đề duy nhất mà có nhiều

chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống chủ đề. Nói đến

hệ thống là nói đến một thể thống nhất, tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với

nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh

thể. Ví dụ, chủ đề chính trong tác phẩm Tắt đèn là mâu thuẫn giữa quyền sống của

con người dân quê và tính chất phát xít tàn bạo trong chính sách sưu thuế của bọn

thực dân nửa phong kiến, còn chủ đề phụ là lòng tham vô độ, đạo đức thối nát, sự

ngu dốt và độc ác của bọn quan lại, chức dịch, phẩm chất tốt đẹp của người dân

quê, số phận của phụ nữ và trẻ em.

Hệ thống chủ đề bao gồm tập hợp các chủ đề, giữa chúng thường có mối quan

hệ, liên hệ lẫn nhau.Trong hệ thống chủ đề có chủ đề chính và chủ đề phụ. Chủ đề

chính là chủ đề có ý nghĩa trung tâm, chi phối toàn bộ tác phẩm, còn chủ đề phụ là

những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung làm nổi bật chủ đề chính. Khi

nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm văn học việc xác định đúng đắn chủ đề chính, chủ đề

phụ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa tác phẩm.Một tác phẩm thường có

một chủ đề chính, song cũng có trường hợp có những tác phẩm có nhiều chủ đề.Ví dụ,

12

tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du có chủ đề trung tâm là tiếng kêu xé lòng về

quyền sống của con người bị chà đạp. Ngoài ra, còn có chủ đề lên án sự tác oai, tác

quái của đồng tiền, lên án bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị và ca ngợi những người

anh hùng đấu tranh cho tự do.

1.2. Điều kiện hình thành và quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật trong lịch

sử văn học Việt Nam

1.2.1. Điều kiện hình thành thơ Nôm Đường luật

Thơ Nôm Đường luật là một thành tựu rực rỡ của thơ ca Việt Nam.Đây được

coi là một hiện tượng vừa tiêu biểu vừa độc đáo trong lịch sử văn học dân tộc. Đó là

những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật, bao gồm những bài thơ

viết theo thể Đường luật hoàn chỉnh và cả những bài theo thể Đường luật phá

cách.Thơ Nôm Đường luật phản ánh những điều kiện, bản chất, quy luật của quá trình

giao lưu tiếp biến văn học.Thơ Nôm Đường luật là khái niệm dùng để chỉ một thể

loại văn học. Nó bao gồm những bài thơ viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật.

Thơ Nôm Đường luật là “một thể loại có nguồn gốc ngoại lai nhưng trong quá trình

phát triển lại trở thành thể loại văn học dân tộc, có địa vị ngang hàng với những thể

loại văn học thuần túy dân tộc như truyện thơ viết theo thể lục bát và ngâm khúc viết

theo thể song thất lục bát” [52, tr. 5].

Qua quá trình tiếp thu, kế thừa, sáng tạo từ Đường luật Trung Quốc thì thơ

Nôm đường luật đã trở thành một thể loại văn học mang yếu tố mới, từ một biến thể

thơ ngoại lai thành một thể loại văn học dân tộc; giữ vị trí quan trọng ngang hàng với

những thể loại văn học thuần túy của dân tộc như: truyện thơ (viết theo thể lục bát), ngâm

khúc (viết theo thể song thất lục bát), hát nói… Có thể nói, thơ Nôm Đường luật là một

trong những thể loại độc đáo vào hàng bậc nhất của văn học Việt Nam.

Để thưởng thức trọn vẹn cái hay, cái đẹp của thơ Nôm Đường luật cần nắm rõ

bản chất của thể thơ này. Điểm đặc sắc tạo nên cái hay của mỗi bài thơ Đường luật

đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật. Chính sự đan xen,

hòa quyện của hai yếu tố này góp phần tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm thơ Nôm

Đường luật.Dù vậy, bản thân mỗi yếu tố đó lại mang những giá trị biểu cảm, biểu đạt,

thẩm mỹ riêng và khi cần có thể tách ra để nhận diện.

13

Đường luật là khái niệm dùng để chỉ thể thơ có cách luật chặt chẽ xuất hiện từ

thời nhà Đường - Trung Quốc.Sử dụng thể thơ này, các nhà thơ phải tuân thủ các quy

định chặt chẽ, nghiêm ngặt đã đặt ra thì mới được công nhận.Khi phong kiến phương

Bắc - Trung Quốc xâm lược nước ta, trong quá trình giao lưu và tiếp nhận văn hóa,

các nhà thơ Việt Nam cũng tuân thủ những quy tắc đó nên sáng tác văn học thời trung

đại chịu sự chi phối chồng chéo của những quy phạm. Tính quy phạm là những quy

định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà tác giả văn học phải

tuân thủ trong quá trình sáng tác.

Yếu tố Nôm trong thơ Nôm Đường luật được xây dựng bằng hai nội dung. Đó

là những gì thuộc về dân tộc và những gì thuộc về sự dân dã bình dị (Nôm là đọc

biến âm của Nam và Nôm còn được hiểu là nôm na, dân dã).Yếu tố Nôm biểu hiện về

mặt đề tài, chủ đề chủ yếu hướng tới những vấn đề của đất nước, dân tộc.Biểu hiện

về mặt ngôn ngữ là chữ Nôm, ngôn ngữ văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống…Về

hình ảnh là những hình ảnh chân thực bình dị, dân dã. Những hình ảnh như: ao, bèo,

cá, gà…được đưa vào thơ Nôm mang tới một nét đẹp mới mẻ, gần gũi, dung dị với

cuộc sống sinh hoạt đời thường của người dân nơi thôn quê. Sự xuất hiện của yếu tố

Nôm như một vệt sáng trên bầu trời thơ ca trung đại. Nó vừa khẳng định được ý thức

dân tộc mạnh mẽ của người nghệ sĩ, vừa thể hiện nét đẹp trong văn hóa tinh thần của

người Việt Nam.Đó là những vẻ đẹp mới mẻ do chính các nhà thơ Nôm Đường luật

phát hiện ra, đem tới cho người đọc những cảm nhận mới mẻ trong cuộc sống sinh

hoạt thường ngày. Sự xuất hiện Yếu tố Nôm đã trở thành chiếc cầu nối đưa gần hơn

thơ ca đến với cuộc sống và bạn đọc.Nếu như yếu tố Đường luật mang tính quy phạm

thì yếu tố Nôm mang tính bất quy phạm,hai yếu tố này vừa tác động hòa quyện, vừa

tồn tại độc lập tương đối.Trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa, thành tựu Đường luật

Trung Quốc các nhà thơ trung đại Việt Nam vẫn luôn không ngừng đổi mới, phá cách

khỏi những gò bó của khuôn khổ bài thơ, những quy định ràng buộc trong quá trình

sáng tác, tạo nên một luồng gió mới cho thơ ca trung đại. Thơ Nôm Đường luật ra

đời đã đáp ứng được nhu cầu xã hội lúc bấy giờ: thơ văn không chỉ để nói chí hay để

tải đạo mà còn hướng tới những vấn đề thực tế của con người trong cuộc sống đời

14

thường. Vì vậy, thơ Nôm Đường luật là kết quả tất yếu do yêu cầu cấp thiết của xã

hội thể hiện sự tự ý thức của chính lực lượng sáng tác văn học nước nhà.

Mối quan hệ thường xuyên giữa các hiện tượng văn học và hiện tượng không

phải văn học làm cho sáng tác văn học được tăng cường, xúc tiếp sự phát triển, góp

phần làm cho sự sáng tạo những hình thức mới được dễ dàng. Quá trình hình thành và

phát triển của thơ Nôm Đường luật cũng nằm trong quy luật hiện tượng văn học, nó là

kết quả của những điều kiện văn học và của những điều kiện ngoài văn học. Thơ Nôm

Đường luật được hình thành và phát triển do hai điều kiện đó là: điều kiện văn học và

điều kiện lịch sử xã hội.

Thứ nhất, điều kiện về văn học trực tiếp quyết định đến sự hình thành và phát

triển thơ Nôm Đường luật. Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn

cho rằng có hai điều kiện về văn học là ngôn ngữ và thể loại có vai trò quyết định đối

với sự ra đời của thơ Nôm Đường luật, trong đó điều kiện về ngôn ngữ được coi là

tiền đề quan trọng nhất, bởi theo ông tiếng Việt và tiếng Hán có sự tương đồng ở ba

phương diện: không biến hình, đơn âm, tuyến tính và sự gần gũi về thanh điệu.

Bên cạnh đó, tiếng Việt và tiếng Hán có chung đặc điểm là cố định, không

biến hình về vỏ âm thanh (hình thức âm thanh). Điều đó đáp ứng được tính cố định

rất cao về vần của thơ Đường luật mà những ngôn ngữ biến hình như ngôn ngữ Ấn -

Âu không thể làm được. Ngoài ra, sự tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán cùng

là những tiếng đơn âm đã đáp ứng được yêu cầu của thơ Nôm Đường luật - một thể

thơ có số chữ cố định, mỗi chữ là một âm tiết trong câu, số âm tiết phân bố đều trong

số câu theo quy định.

Tiếng Việt và tiếng Hán đều có đặc điểm là tuyến tính - trật tự trước sau giữa

các từ.Đặc điểm này là điều kiện thuận lợi để giúp thơ Đường luật viết bằng tiếng

Việt được dễ dàng, bởi thơ Đường luật quy định rất chặt chẽ về niêm,luật.

Thơ Nôm Đường luật có nguồn gốc từ thơ Đường luật Trung Quốc. Về cơ

bản nó phải tuân thủ theo những quy định chặt chẽ về niêm, luật, đối… của thơ

Đường luật. Vì vậy, có thể nói các đặc điểm tương đồng: không biến hình, đơn âm,

tuyến tính và sự tương đồng về thanh điệu giữa tiếng Việt và tiếng Hán là những

điều kiện thuận lợi cho sự hình thành của thơ Nôm Đường luật ở Việt Nam.

15

Mối quan hệ giữa thơ Đường luật Trung Quốc và thơ Nôm Đường luật là nói

đến mối quan hệ song phương cân đối. Thơ Đường luật là một trong những thành tựu

độc đáo, rực rỡ của nền văn học Trung Quốc và nhân loại. Các nhà thơ trung đại Việt

Nam đã kế thừa, sáng tạo từ thơ Đường luật tạo nên thơ Nôm Đường luật - một thành

tựu văn học dân tộc.

Thứ hai, điều kiện lịch sử xã hội và những tiền đề văn hóa tư tưởng có một vai

trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của thơ Nôm Đường luật.Sau thế

kỉ X, khi đất nước ta giành được độc lập chủ quyền, bên cạnh nhiệm vụ giữ gìn tinh

hoa văn hóa dân tộc là ý thức không ngừng học hỏi, tiếp thu giao lưu văn hóa nhằm

làm giàu nền văn hóa dân tộc. Đó chính là nền tảng cho sự ra đời của thơ Nôm Đường

luật. Ngoài ra, thơ Nôm Đường luật ra đời còn là kết quả sáng tạo của tầng lớp trí

thức Việt Nam giàu tâm huyết và tài năng như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố,…

Trên thực tế tác phẩm, tính quy phạm và bất quy phạm là hai đặc trưng nổi bật

trên nhiều phương diện của sáng tác văn học. Ở Việt Nam, chữ Hán đã được sử dụng

làm văn tự chính thức, ngay từ khi nước ta xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ. Văn học

chữ Hán được coi là dòng văn học chính thống, mang tính cao nhã, cao quý. Đó là quy

phạm về chữ viết của sáng tác văn học trung đại. Sự ra đời của chữ Nôm và văn học

Nôm là một minh chứng cho yêu cầu phát triển tinh thần dân tộc của nền văn học dân

tộc. Đến khoảng thế kỉ XIII chữ Nôm đã có đầy đủ khả năng ghi âm ngôn ngữ dân tộc,

phòng trào sáng tác thơ Nôm lan tỏa rộng rãi trong nhân dân.

1.2.2. Quá trình phát triển thơ Nôm Đường luật

Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhân Thìn đề cập đến quá trình phát

triển của thơ Nôm Đường luật trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn hình thành, giai đoạn

phát triển và giai đoạn cuối.

Giai đoạn hình thành

Cho đến nay chưa có bằng chứng cụ thể nào về thời gian ra đời chính xác của

thơ Nôm Đường luật.Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cho rằng người đầu tiên ghi dấu

ấn cho thơ Nôm là Hàn Thuyên - đánh dấu giai đoạn hình thành của thơ Nôm Đường

luật.Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư - một bộ sử chính thức của nhà nước phong

kiến cũng như nhiều nhà nghiên cứu đánh giá về khả năng của chữ Nôm, có ghi lại:

16

“Nhâm Ngọ (Thiên Bảo) năm thứ tư (1282) mùa thu, tháng tám… Bấy giờ có cá sấu

đến sông Lô. Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống

sông. Con cá sấu tự đi mất. Vua cho là việc này giống như việc của Hàn Dũ, cho

đổi họ là Hàn Thuyên.Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm.Nước ta thơ phú dùng

nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đây” [31, tr. 48].Từ sự kiện lịch sử đó, người ta cho

rằng thơ Nôm Đường luật được ra đời từ cuối thế kỉ XIII. Tuy nhiên văn bản chữ

viết đầu tiên của thể thơ này còn giữ được là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bởi

vậy, việc nghiên cứu về thơ Nôm Đường luật bắt đầu từ tập thơ này.

Các giai đoạn phát triển

Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật có thể lấy dấu mốc từ Quốc âm

thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Thơ Nôm Đường

luật trải qua năm thế kỷ đã dần ổn định và đạt được những thành tựu rực rỡ. Trong

giai đoạn phát triển, thơ Nôm Đường luật Nguyễn Trãi đóng vai trò mở đầu con đường

Việt hóa, còn Hồ Xuân Hương là người tạo nên bước ngoặt đưa thơ Nôm Đường luật

vào con đường Việt hóa hoàn toàn ở giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên, từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII.Thơ Nôm

Đường luật đã trải qua những bước thăng trầm và khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn

trong thượng tầng kiến trúc phong kiến thì thơ Nôm Đường luật cũng khẳng định

được vị trí của mình trong dòng chảy văn học dân tộc. Trong giai đoạn này, chủ đề

thơ Nôm Đường luật nổi bật là những chủ đề gắn liền với cuộc sống, tâm sự tác giả,

với quan niệm lý tưởng, phẩm chất của kẻ sĩ, như lý tưởng“ái ưu”, “trung hiếu”, cốt

cách người quân tử, trách nhiệm minh quân, lương thần…Những chủ đề này thường

hướng tới mục đích giáo dục như tu dưỡng phẩm chất, triết lý nhân sinh, răn dạy

cách sống, đề cao đạo lý nhân nghĩa…

Nguyễn Trãi được biết đến là người có công lớn đầu tiên trong việc xây dựng

một lối thơ rất Việt Nam. Nguyễn Trãi được xem là nhà thơ có ý thức trên con đường

tìm tòi, sáng tạo một thể thơ dân tộc, ít nhiều thoát ly Đường luật trong khi vẫn giữ

phong cách chung của thơ Đường luật.

Với Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ, Nguyễn Trãi đã khẳng định mình là một

người nghệ sĩ đa tài, đồng thời khẳng định sự hiện diện của thơ Nôm Đường luật

17

với tư cách của một thể loại văn học dân tộc. Qua tập thơ Nguyễn Trãi đã ca ngợi

vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, với một tấm lòng yêu thương cuộc sống, suốt đời

hướng trái tim về dân tộc.Với tập thơ này, ông chính thức khơi nguồn dòng thơ

Quốc âm, góp phần mở ra một hướng đi mới trong nền thi ca dân tộc.Quốc âm thi

tập có ý nghĩa như một sự phá cách, cách tân, khắc phục tính quy phạm, mở rộng

đề tài sáng tác trong thơ ca. Bằng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi đã tạo ra một bức

tranh sắc màu về thế giới tự nhiên và nội tâm con người.

Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời khoảng nửa cuối thế kỷ XV được coi là bước

phát triển tiếp theo của thơ Nôm Đường luật. Tập thơ do những nhân sĩ của hội Tao

đàn sáng tác dưới sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông. Có thể thấy ở tập thơ này

có sự kế thừa, tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của thơ Nguyễn Trãi, thể hiện sự

phản ánh xu hướng xã hội khá rõ nét. Lê Thánh Tông và các tác giả đương thời đã

tìm tòi, giúp thơ Nôm Đường luật thể hiện những chức năng mới để trào phúng và

thế sự.Hồng đức quốc âm thi tập vẫn có sự kế thừa thể thơ sáu chữ xen bảy chữ từ

Quốc âm thi tập, thậm chí xuất hiện cả những bài hoàn toàn lục ngôn. Đặc biệt xu

hướng dân tộc hóa được thể hiện rất rõ nét, phát huy mạnh mẽ hơn Nguyễn Trãi khi

các tác giả sử dụng thành công và sáng tạo các lớp từ láy phong phú trong Hồng Đức

quốc âm thi tập.

Tiếp nối và phát triển thơ Nôm Đường luật từ Quốc âm thi tập và Hồng Đức

quốc âm thi tập là Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.Nếu so sánh

với quy mô số lượng thì Bạch Vân quốc âm thi tập không bằng hai tác phẩm Nôm

Đường luật thế kỷ XV.Tuy nhiên, đến Bạch Vân quốc âm thi tập, tầm khái quát nghệ

thuật của nhà thơ Nôm Đường luật đã có bước tiến mới. Với trên 170 bài thơ, tập thơ

của Trình Quốc Công đã trở thành dấu mốc quan trọng trong quá trình vận động và

phát triển của thơ Nôm Đường luật Việt Nam.Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, đề

tài và chủ đề dân tộc không đậm nét như trong thế kỷ XV. Điểm nổi bật trong thơ

Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là những đề tài, chủ đề mang tính chất xã hội. Tác giả Lê

Trí Viễn khi tìm hiểu Bạch Vân quốc ngữ thi tập đã nhận xét: “Trong Bạch Vân quốc

ngữ thì tất cả đều không có đầu đề, nhưng xét chung thì xoay quanh một số đề tài nhất

định: Sự suy tàn của đạo đức phong kiến, cuộc đời nhàn dật, phong cảnh thiên nhiên, ý

18

nghĩ về bổn phận với vua với nước” [61, tr. 473]. Cũng theo tác giả Lê Trí Viễn, Bạch

Vân quốc ngữ thi tập được viết trong thời gian Nguyễn Bỉnh Khiêm đã về trí sĩ nên

nội dung phản ánh nhiều khía cạnh của chế độ phong kiến. Khi đó các nhóm phong

kiến đang tranh nhau quyền vị, nhóm nào cũng cho mình đúng, không ai nhường ai,

mà chỉ tập trung dồn sức mạnh để nhằm lật đổ nhau, điều đó đã khiến đạo đức phong

kiến bị đảo lộn, xuất hiện nhiều nơi cảnh dâm loạn, anh em nhà vua giết nhau, bề tối

giết vua nhằm đoạt vị. Những hình ảnh đó giống như thước phim quay chậm về cảnh

thối nát trong xã hội phong kiến.“Tư duy thế sự” đã tạo cho ông một phong cách triết

gia, không lẫn với bất kì tác giả nào khác. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tiếp tục kế thừa xu

hướng phá cách trong sáng tác thơ Nôm Đường luật. Tuy nhiên số lượng câu thơ sáu

chữ giảm khá nhiều so với Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập. Dù vậy,

đóng góp của Trạng Trình là điều không thể phủ nhận trong xu hướng Việt hóa và quá

trình dân chủ hóa ở thể loại thơ Nôm Đường luật. Đúng như nhận xét của nhà nghiên

cứu Mai Quốc Liên: “Nguyễn Bỉnh Khiêm đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng

thơ Tiếng Việt,… ông tiếp tục cái quá trình sử dụng và khống chế chất liệu ngôn ngữ

thuần Việt. Đặc biệt là đưa vào những chất liệu ngày thường, những câu chữ xuất từ

ca dao, tục ngữ, từ tiếng nói bình dân.Đó là quá trình dân chủ hóa nền văn học dân

tộc, một quá trình vĩ đại” [60, tr. 107].

Sau Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật

phát triển với nhịp độ bình thường. Sau gần hai thế kỷ phát triển với nhịp độ bình

thường, không có những thành tựu lớn,không có gì đặc sắc, bước vào nửa cuối thế

kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX thơ Nôm Đường luật bắt đầu khởi sắc trở lại. Trong

giai đoạn này Hồ Xuân Hương giống như mạch nối giữa văn học dân gian và văn

học viết. Với Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật tiếp tục xu hướng dân tộc hóa

của các tác giả thời kỳ trước, đồng thời chuyển nhanh thể loại thơ Nôm Đường luật

trên con đường dân chủ hóa nội dung và hình thức thể loại. Hồ Xuân Hương đã thực

hiện một cuộc cách tân đầy ý nghĩa, đưa cuộc sống đời thường, nguyên sơ, dân dã

trở thành đối tượng thẩm mỹ vào thơ.Nếu Nguyễn Trãi là người đầu tiên thể hiện

mạnh mẽ tinh thần phá cách thì Hồ Xuân Hương là người tạo nên sự ổn định trong

chính chỉnh thể của nó. Để góp phần tạo nên diện mạo của thơ Nôm Đường luật giai

19

đoạn này còn có sự đóng góp của những tác giả: Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện

Thanh Quan,… Tác giả Nguyễn Công Trứ cũng góp phần không nhỏ vào quá trình

dân chủ hóa nội dung và hình thức trong thơ Nôm Đường luật với những tình cảm

chân thành, phóng khoáng, cuộc sống đời thường được diễn đạt bằng lời thơ giản

dị. Đặc biệt Hồ Xuân Hương đã đem đến cho dòng thơ Nôm một bước phát triển

vượt bậc ở phong cách tác giả mà trước đây chưa xuất hiện. Điều đó chứng tỏ thơ

Nôm Đường luật có xu hướng bình dân hóa. Sự xuất hiện của phong cách thơ của

hai nữ thi sĩ như những minh chứng khẳng định thơ Nôm Đường luật đã sẵn sàng

bước vào quỹ đạo của văn học hiện đại sánh ngang với nhiều thể loại văn học khác.

Giai đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật

Giai đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật, khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đạt được

một số thành tựu.Hai tác giả lớn cuối cùng của dòng thơ Nôm Đường luật là Tú

Xương và Nguyễn Khuyến.Hai tác giả này đã chuyển thơ Nôm Đường luật từ văn

học trung đại sang văn học cận - hiện đại, tiếp tục xu hướng trào phúng của thơ Nôm

Đường luật với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình tạo ra những vần

thơ cười ra nước mắt. Cả hai tác giả đã khái quát nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật

lên một bước tiến mới.“Chức năng phản ánh xã hội của thể loại này không chỉ dừng

lại ở mức “trữ tình thế sự”, “tư duy thế sự”, “trào phúng thế sự” mà còn vươn tới chỗ

phản ánh xã hội với những chi tiết hiện thực sinh động, phong phú”[52, tr. 50].

Tú Xương và Nguyễn Khuyến cũng là những nhà thơ để lại phong cách tác

giả trong thơ Nôm Đường luật.Thơ Tú Xương là sự xuất hiện của xã hội thực dân

phong kiến ở thành thị, còn trong thơ Nguyễn Khuyến là hình ảnh của cuộc sống ở

nông thôn với nhiều hạng người, màu sắc sinh động, chân thực.Nguyễn Khuyến còn

được biết đến là một nhà thơ Nôm kiệt xuất ở nước ta, thơ Nôm của ông là bộ phận

quan trọng nhất, có ý nghĩa nhiều mặt nhất mà ông để lại cho nền văn học dân tộc.

Trong giai đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật nổi bật là những chủ đề gắn liền với

cuộc sống xã hội của con người, thể hiện số phận người phụ nữ, những quan hệ gia đình,

khát vọng giải phóng, khát vọng tình cảm, đồng thời phê phán những biểu hiện trái tự

nhiên, phi nhân bản… Những chủ đề này thường hướng vào mục đích phản ánh cuộc

sống, đấu tranh vì những quyền lợi cơ bản và chính đáng của con người.

20

Trải qua bảy thế kỷ, thơ Nôm Đường luật đã tồn tại với tư cách một thể loại

văn học dân tộc. Với năm thế kỷ phát triển rực rỡ từ giai đoạn Nguyễn Trãi đến Hồ

Xuân Hương và Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Thơ Nôm Đường luật đã có một diện

mạo riêng, sống mãi trong dòng chảy của văn học dân tộc.Việc tìm hiểu hệ thống chủ

đề trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập

của Nguyễn Trãi là việc làm cần thiết và hữu ích, giúp chúng ta thấy được mạch vận

động và phát triển hệ thống chủ đề thơ Nôm Đường luật - “một thể loại không có tuổi

già”.

1.3. Khái quát thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến

1.3.1. Những yếu tố chi phối đến chủ đề thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi

1.3.1.1. Con người

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu là Ức Trai.Ông được biết đến là một anh hùng

văn hóa, một danh nhân của dân tộc. Con người Nguyễn Trãi được biết đến trước hết

là một người yêu nước thiết tha, sâu sắc và mạnh mẽ. Trong suốt cuộc đời nhà thơ,

tấm lòng yêu nước luôn tỏa sáng, góp phần làm nên nhân cách cao đẹp và vĩ đại. Điều

đó được thể hiện ở lối ống giản dị, gần gũi với nhân dân.

1.3.1.2. Gia đình

Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh), tên hiệu là

Nhị Khê; vốn gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn (nay thuộc Chí Linh, Hải

Dương), sau rời về làng Ổi (nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội).Mẹ là Trần Thị

Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán.Tuy ông sinh ra trong một gia đình có nhiều

điều kiện thuận lợi, thế nhưng từ nhỏ ông đã phải chịu nhiều mất mát đau thương về

mặt tình cảm. Mẹ mất khi ông mới 5 tuổi, khi lên 10 tuổi ông ngoại - người gắn bó với

Nguyễn Trãi từ khi lọt lòng qua đời, Nguyễn Trãi về ở Nhị Khê nơi cha dạy học..

1.3.1.3. Thời đại

Nguyễn Trãi chứng kiến sự thay đổi của triều đình phong kiến, khi mà nhà Hồ

cướp ngôi nhà Trần, xác lập địa vị thống trị mới (1400).Năm 1400, Nguyễn Trãi hai

mươi tuổi, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh, sau đó hai cha con ra làm quan cho nhà

Hồ. Tuy nhiên, đến năm 1407 nhà Hồ đã bị thất sủng bởi những cải cách táo bạo.

Giặc Minh chiếm lĩnh và thống trị nước ta. Trước cảnh nước mất nhà tan ông vô cùng

đau đớn. Ông quyết định trở về xuôi, trên đường đi ông bị giặc Minh bắt tại Đông

21

Quan.Trong thời gian bị giam, mặc cho kẻ thù bày mọi cách để mua chuộc, ông vẫn

một lòng giữ tấm lòng kiên định giúp vua, giúp nước.

Năm 1417, Nguyễn Trãi bỏ trốn khỏi Đông Quan, đến Lỗi Giang (Thanh Hóa),

ông gặp Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách - cuốn sách bàn về chiến lược đánh giặc Minh.

Đường lối, chiến lược “không nói đánh thành giỏi mà bàn về cách đánh vào lòng

người” của Nguyễn Trãi được Lê Lợi và Bộ tổng tham mưu nghĩa quân chấp nhận và

tiến hành thắng lợi.

Cuối năm 1427, đầu năm 1428, sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi,

ông được Lê Lợi giao cho viết Bình ngô đại cáo. Tác phẩm được đánh giá là bản

tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, “áng thiên cổ hùng văn của đất nước”.

Sau đó Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi những trọng trách trong triều đình.Ông

không ngừng cố gắng phục vụ đất nước, nhân dân. Song vị anh hùng - nhà thơ tài

hoa ấy đã bị bọn gian thần ghen ghét, đố kị. Chúng đã tìm mọi cách hãm hại, khép

Nguyễn Trãi vào tội gian thần.Ông bị Lê Thái Tổ bắt giam (1430). Năm 1435, ông

được thả ra, sau đó ông quyết định cáo quan về ở Côn Sơn. Lê Thái Tổ mất, Lê Thái

Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi tuy được khôi phục chức cũ nhưng chỉ là danh suông.

Năm 1437, bất đồng với Lương Đăng trong soạn nhạc, Nguyễn Trãi quyết định xin

về ở ẩn Côn Sơn lần hai. Trong giai đoạn này, ông đã sáng tác tập thơ Nôm Quốc

âm thi tập để thể hiện lòng kiên trinh với đất nước. Khi Lê Thái Tông lớn lên, hiểu

được tài năng, tấm lòng của Nguyễn Trãi, ông đã mời Nguyễn Trãi về làm quan.

Nhưng chỉ sau ba năm thảm họa lại giáng xuống, vụ án Lệ Chi Viên đã cướp sinh

mệnh của Nguyễn Trãi, cướp đi cơ hội thực hiện hoài bão của Nguyễn Trãi. Cuộc

đời Nguyễn Trãi nổi bật với tài năng và đức tính thanh liêm trong sạch nhưng luôn

phải gánh chịu những oan khuất thảm khốc do xã hội cũ gây ra. Dù con người

Nguyễn Trãi không còn, những hoạt động của ông đã thuộc về quá khứ, nhưng ông

mãi là tấm gương sáng về tâm hồn, hoài bão, tài năng cho mọi thế hệ Việt

Nam.Chính yếu tố gia đình và thời đại đã tác động sâu sắc đến nhân cách và tài năng

của Nguyễn Trãi.

1.3.2. Những yếu tố chi phối đến chủ đề thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến

1.3.2.1. Con người

22

Nguyễn Khuyến sinh ngày 15-2-1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi,

Minh Mệnh thứ 16), mất ngày 5-2-1909 (tức ngày 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu) ở

quê mẹ nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh

Hà Nam. Ông tên thật là Nguyễn Thắng, mãi đến năm 1865, sau thi hội không đỗ ông

mới đổi thành Nguyễn Khuyến, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễn Chi.

Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là thông minh học giỏi nhưng con đường học

hành thi cử của ông gặp rất nhiều lận đận.Cuộc đời Nguyễn Khuyến chồng chéo

những bi kịch. Tất cả được thể hiện rõ nét trong các sáng tác của ông.Với tổng số

chín lần đi thi, thì bốn lần thi trượt kỳ thi Hương, ba lần thi trượt kỳ thi Hội, nên khi

ông thi đỗ đầu cả ba kì thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình người ta gọi ông là Tam

nguyên Yên Đổ. Sau khi đỗ ông được phong lên làm quan, nhưng đến năm 1884 với

tinh thần bất hợp tác với giặc, ông đã quyết treo ấn từ quan trở về với cuộc sống dù

còn lam lũ nghèo nàn, khổ cực, trăm nỗi đau, nghìn nỗi uất ức phải cam chịu

Cuối đời, Nguyễn Khuyến chủ yếu sống ở quê nhà với vợ con. Tuy nhiên, cáo

quan về quê ông luôn mặc cảm về trách nhiệm và bổn phận của mình, chính điều đó

đã hình thành nên con người ưu tư về vai trò bổn phận trong thơ Nguyễn Khuyến.

Khi trở về sống giữa làng quê thanh bình với thiên nhiên tươi đẹp, hòa mình với cuộc

sống của người dân quê, ông đã tìm thấy trong thiên nhiên, trong cuộc sống lam lũ,

nghèo khó của người nông dân quê ông sự lạc quan, thanh thản, yêu đời.

1.3.2.2. Gia đình

Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có

truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vùng Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh,

di cư ra Yên Đổ, cho đến đời nhà thơ đã được năm trăm năm. Thời Lê trung hưng, cụ

tổ bảy đời Nguyễn Khuyến làm quan nhà Mạc, được phong đến Quang lượng hầu.

Cuối bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ tiến sĩ, làm quan đến Hiến

sát sứ Thanh Hóa.Ông nội là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh, ông thân sinh nhà thơ

là Nguyễn Tông Khải (Nguyễn Liễn) đỗ 3 khoa tú tài, chuyên nghề dạy học.Cụ Liễn

là người thanh bạch, giản dị, trọng đạo lý, tính tình hào phóng.Cuộc sống ấy, tính

cách ấy của cụ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nhà thơ sau này.

23

Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng

Ngói, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên (nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam

Định). Tổ bảy đời cụ Thoan là Trần Hữu Thành, quê gốc ở An Hạ, huyện Đại An,

tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên). Cụ đỗ tiến sĩ triều Lê, làm chức

quan Giám sát ngự sử, sau chạy loạn lên Văn Khê, lấy một bà thiếp.Ông ngoại nhà thơ

là Trần Công Trạc, đỗ tú tài thời Lê mạt. Cụ gả con gái thứ tư cho ông Liễn và tạo điều

kiện cho con rể mở trường học ngay ở Hoàng Xá. Nguyễn Khuyến đã cất tiếng chào đời

trong một ngôi nhà hướng đông, trông thẳng ra núi Quế.

Bà mẹ Nguyễn Khuyến là một bậc nữ lưu mẫu mực trong khuôn khổ xã hội cũ

“tính tình đoan trang, trầm tĩnh, thuận hòa”, lại rất mực thương người, mọi việc nữ

công, gia chánh đều thông thạo. Cả một đời bà chịu thương chịu khó phụng dưỡng bố

mẹ chồng, chăm chỉ, có lúc phải bán cả tư trang, may thuê, vá mướn kiếm sống, để

khuyến khích và nuôi chồng, con ăn học, thi cử.

Nguyễn Khuyến có tới bốn bà vợ và rất đông con. Bà cả sinh được ba người con

là Nguyễn Hoan, Nguyễn Thuần và Nguyễn Thị Duy. Bà thứ được ba con là Nguyễn

Điềm, Nguyễn Đôn, Nguyễn Thị Búp. Trong gia đình, ông là một người chồng, người

cha yêu thương và sống có trách nhiệm với vợ, con.

1.3.2.3. Thời đại

Nguyến Khuyến sống trong thời kì nước ta trải qua nhiều biến cố thăng trầm..

Nửa cuối thế kỉ XIX, nước ta bắt đầu rơi vào sự thống trị, chịu sự bóc lột của thực

dân Pháp và đế quốc thực dân. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà

tan, triều đình nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân

Pháp. Năm 1882, quân Pháp tiến đánh ra Hà Nội. Năm 1885, Pháp tấn công kinh

thành Huế, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân

dân ta hưởng ứng khắp nơi. Sau đó, phong trào Cần Vương tan rã. Nguyễn Khuyến

sống giũa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị dập tắt. Trước sự bất lực

với thời cuộc, ông quyết định cáo quan về ở ẩn.

Gia đoạn từ quan về ở ẩn là thời kì sáng tác chủ yếu của nhà thơ. Tác phẩm chủ

yếu được xoay quanh ba nội dung lớn: Bộc bạch tâm sự của mình, viết về con người

24

cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - vùng đồng bằng chiêm trũng ở Bắc Bộ; chế giễu,

đả kích những kẻ tham lam, ích kỉ, cơ hội thời bấy giờ.

Qua các tác phẩm của mình, Nguyễn Khuyến đã cho thấy tâm sự yêu nước

thiết tha, tình yêu con người, cảnh vật thiên nhiên và phong tục tập quán, văn hóa ứng

xử của con người vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ.

Đồng thời, qua những sáng tác của mình ông còn thể hiện sự thâm thúy sâu

cay của một nhà thơ luôn dùng tiếng cười để đả kích, chế giễu, phản kháng đối với

bọn thống trị thực dân Pháp, bọn quan lại và những người xấu xa trong xã hội. Như

vậy, Nguyễn Khuyến không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà ông còn là một nhà thơ

trào phúng, tiếng nói trữ tình và trào phúng trong thơ ông hòa quyện với nhau đã tạo

nên một phong cách độc đáo trong thơ ca trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế

kỉ XX.

* Tiểu kết:

Ở chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu những vấn đề liên quan đến đề tài.Chủ đề

là những vấn đề được nhà văn tập trung thể hiện trong tác phẩm, điều nhà văn quan

tâm đối với cuộc sống. Trong một tác phẩm, thường không chỉ có một chủ đề duy

nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống

chủ đề.

Thơ Nôm Đường luật là một thể loại có nguồn gốc ngoại nhập từ thể thơ Đường

luật của Trung Quốc.Mỗi bài thơ là sự kết hợp của yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật.

Thơ Nôm Đường luật được thai nghén thơ từ thơ Nôm của Hàn Thuyên đến thế kỉ XIV

nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong dòng văn học viết. Thơ Nôm được hình

thành và phát triển kéo dài hơn bảy thế kỉ, bắt đầu từ văn bản thơ Nôm Đường luật cổ

nhất còn giữ lại được là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi - thế kỉ XV gồm 254 bài thơ

và kết thúc ở cuối thế kỉ XIX, với một trong những đại diện tiêu biểu cuối cùng là

Nguyễn Khuyến.

Hệ thống chủ đề thơ Nôm Đường luật rất phong phú, đa dạng. Thơ Nôm

Đường luật đề cập tới những vấn đề lớn của lịch sử, thời đại, đất nước, con người,

đồng thời cũng phản ánh những khía cạnh tinh tế, phức tạp của cuộc sống, trong tư

25

duy, cảm xúc, cũng có khi thầm kín, riêng tư của mỗi cuộc đời, số phận. Nhìn chung

thơ Nôm Đường luật đề cập tới mọi phương diện của đời sống con người.

Bên cạnh đó chúng tôi còn tìm hiểu về con người, thân thế, cuộc đời và thời

đại Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến để có cái tổng thể về hai tác giả.Đó là cơ sở quan

trọng giúp chúng tôi tìm hiểu về hệ thống chủ đề trong tương quan giữa thơ Nôm

Đường luật của Nguyễn Khuyến với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

26

Chương 2

NHỮNG CHỦ ĐỀ MANG TÍNH TRUYỀN THỐNG TRONG THƠ NÔM

ĐƯỜNG LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG TƯƠNG QUAN VỚI

QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi là người “khai sơn phá thạch” và đặt nền

móng quan trọng cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam. Hệ thống chủ đề phong phú,

sinh động về cuộc sống, tâm hồn con người Việt Nam là một trong những thành công

quan trọng của tập thơ này. Hơn năm thế kỉ sau, Nguyễn Khuyến với tư cách một nhà

thơ lớn tiếp tục kế thừa những chủ đề mang tính truyền thống từ Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi, tiêu biểu nhất là chủ đề thiên nhiên và chủ đề ưu quốc ái dân.

2.1.Chủ đề thiên nhiên

Do đặc điểm văn hóa - lịch sử cụ thể, thiên nhiên vốn là một chủ đề truyền

thống của thơ ca trung đại, thu hút bút lực của nhiều thi nhân. Thiên nhiên đã bước

vào khắp các sáng tác nghệ thuật ngay từ khởi thủy của những bộ môn này, thực sự

trở thành đối tượng không thể thiếu trong sáng tác văn học. Nguyễn Trãi và Nguyễn

Khuyến là hai tác giả tiêu biểu đại diện của thời kì văn học trung đại đã có công khẳng

định chủ đề thiên nhiên là hệ thống chủ đề cơ bản, quan yếu của thơ Nôm Đường luật

ở ba phương diện chính là ngợi ca cảnh đẹp quê hương, khắc họa bốn mùa xuân, hạ,

thu, đông và để lại những bức tranh tâm cảnh sâu sắc.

2.1.1. Ngợi ca cảnh đẹp quê hương

Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ,

nhà văn.Hình ảnh mây, trăng, núi, cỏ cây, hoa lá…đã in đậm dấu ấn trong văn

học.Dường như thiên nhiên đã trở thành người bạn tri âm với con người, giữa con

người và thiên nhiên hình thành mối quan hệ biện chứng có sự tác động qua lại với

nhau.Không ít người đã rời bỏ chốn quan trường, lánh đời phàm tục để trở về một

một cuộc sống bình dị, hòa mình vào thiên nhiên.Đối với thời kì văn học trung đại,

thiên nhiên giống như mảnh đất huyền bí, một dòng nước không bao giờ vơi cạn.Hình

ảnh thiên nhiên đã đi vào thơ văn các tác giả trung đại với những nét đặc trưng riêng

có tạo nên một bức tranh đa dạng về phong cảnh, con người Việt Nam.

27

Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi đều là người rất yêu thiên nhiên, gắn bó, nhạy

cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, những thi sĩ - danh họa tầm cỡ của thơ ca cổ điển Việt

Nam.Thiên nhiên xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi là những cảnh

đẹp của quê hương.Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ làng cảnh Việt Nam.Qua

những bài thơ trữ tình trong trẻo, nhà thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên làng quê

tinh tế, tươi đẹp. Ông đã khéo thu được những nét điển hình của buổi trưa thôn quê vào

những câu thơ thật đẹp.

Chuông xưa, vẳng tiếng người không biết,

Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.

(Nhớ núi Đọi - II)

Một bức tranh quê yên ả, thanh bình. Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ hình ảnh

những chú trâu hiền lành đang nghỉ ngơi trên sườn cỏ non, một hình ảnh thường thấy

của nông thôn Việt Nam.

Cảnh quê hương có lúc là chốn vườn cũ với những cảnh vật đơn sơ, bình dị:

Vườn Bùi chốn cũ!

Bốn mươi năm, lụ khụ lại về đây.

Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,

Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế!

Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế,

Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân.

Ngọn gió xuân ngảnh lại lệ đầm khăn,

Tính thương hải tang điền qua mấy lớp

Ngươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp,

Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi?

Muốn về sao chẳng về đi?

(Trở về vườn cũ)

Qua con mắt của nhà thơ, cảnh quê ông hiện lên với những hình ảnh thiên

nhiên bình dị, sáng rõ mà chân thực sống động. Cảnh xưa chốn cũ ấy đã làm lay động

trái tim, tâm hồn bao người, với cảnh vật nhỏ bé, chân quê, không tô vẽ màu mè, mà

nó chỉ là những nét tinh túy nhất của hồn quê.

28

Cảnh đẹp quê hương trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi trước hết cũng

là hình ảnh thôn quê bình dị. Nguyễn Trãi tái hiện cảnh xóm chài một cách tự nhiên

và mộc mạc với những hình ảnh thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành

một đám tằm lúc nhúc:

Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi,

Hàu chất so le cụm cuối làng.

(Ngôn chí thi - Bài số 8)

Hay đó là hình ảnh quê hương thanh bình, tràn đầy sức sống:

Cây rợp tán che am mát,

Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.

(Ngôn chí thi - Bài số 20)

Hình ảnh quê hương thanh bình, gần gũi trong thơ Nguyễn Khuyến còn là hình

ảnh năm gian nhà cỏ đơn sơ:

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

(Uống rượu mùa thu )

Nơi nhà thơ uống rượu làm thơ chỉ là ngôi nhà nhỏ đơn sơ, bình dị, thôn dã

được lợp bằng mái rạ thấp le te. Ngôi nhà cỏ mang vẻ đẹp điển hình của vùng quê

Bắc Bộ. Vùng quê chiêm chũng ấy còn có những chiếc ao bèo nhỏ nhắn trước nhà.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

(Câu cá mùa thu)

Và dưới ánh trăng mờ ảo đêm khuya với những chuyển động lạ kỳ.

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

(Uống rượu mùa thu)

Trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi hình ảnh trăng cũng được tác giả đưa

vào trong thơ.

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 26)

29

Bức tranh quê hương hiện lên thật thanh bình, yên tĩnh, nước biếc, non thì

xanh, thuyền gối bãi.Từ cái nền yên bình đó, ánh trăng đã xuất hiện.Ánh trăng lung

linh, huyền ảo đã tô điểm cho cảnh sắc thêm phần thi vị.

Qua bức tranh thiên nhiên trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến, dường

như chúng ta có thể thấy một cuốn bách khoa về cây cỏ, muôn thú, sản vật… của

thiên nhiên Việt Nam, rất dân tộc và dân dã.Chúng ta bắt gặp những âm thanh quen

thuộc của làng quê. Đó là tiếng chim chích chòe:

Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe

(Chim chích chòe)

Đó là tiếng chim quyên gọi hè, là tiếng gà gáy sáng:

Quyên đã gọi hè quang quác quác

Gà từng gáy sáng tẻ tè te

(Chim chích chòe)

Hay đó là tiếng chim kêu, tiếng chó sủa khi đêm về:

Đầu cành mấy tiếng chim kêu tuyết

Trước điếm, năm canh, chó sủa trăng

(Đêm đông cảm hoài)

Gần gũi với cuộc sống của con người, Nguyễn Khuyến đã tinh tế, sắc sảo môt

tả hiện thực, đi sâu vào thế giới riêng của con người và cảnh vật để thấu hiểu nỗi vất

vả của người dân. Để tạo nên âm điệu rộn rã trong cuộc sống làng quê, ông đã mang

cả những con vật quen thuộc của đời sống vào trong sáng tác của mình:

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người

(Đến chơi nhà bác Đặng)

Hay:

Năm canh máu chảy đêm hè vắng

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,

(Cuốc kêu cảm hứng)

Chuông xưa, vẳng tiếng người không biết

Trâu thả sườn non ngủ gốc cây

(Nhớ cảnh chùa Đọi)

30

Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ Tổng

Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang

(Khai bút)

Hình ảnh con vật gần gũi với người dân vùng chiêm trũng con trâu, con chó, cái

cò,… xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến đã làm nên được một thế giới loài vật đa

dạng, phong phú trong văn học. Viết về nông thôn, thơ Nguyễn Khuyến giống như

khúc nhạc đồng xanh vang lên âm điệu của đời thường.

Ta còn bắt gặp hình ảnh bông hoa thủy tiên sắp nở được miêu tả vô cùng độc

đáo, sống động:

Một khóm thủy tiên năm bảy cụm

Xanh xanh như sắp thập thò hoa

(Nguyên đán ngẫu vịnh)

Trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến, những bài tả cảnh núi, cảnh

chùa đều trở thành những danh lam thắng cảnh tinh thần của đất nước. Nguyễn Khuyến

đã miêu tả vẻ đẹp của những danh lam thắng cảnh mà nhà thơ đã đặt chân đến. Mỗi tên

núi, tên sông, tên chùa đều được Nguyễn Khuyến miêu tả theo cách riêng. Nào là núi

Tam Điệp, núi Dục Thúy, núi An Lão, núi Ngũ Hành, cảnh chùa Đọi, chợ trời Hương

Tích, đền trên núi Dạ, sông Thạch Hãn… Qua cái nhìn của nhà thơ bằng sự quan sát

từ thực tế đến khi đưa vào trong thơ, Nguyễn Khuyến đã có sự lựa chọn và quan sát rất

tinh tế.

Mặt nước mênh mông nổi một hòn,

Núi già nhưng tiếng vẫn còn non,

Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,

Ghềnh đá long lanh ngấn chửa mòn.

Một lá về đâu xa thăm thẳm,

Nghìn nhà trông xuống bé con con.

Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?

Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!

(Vịnh núi An Lão)

31

Bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh phong cảnh trước mắt nhà thơ mà còn làm

nổi bật tư thế và vị thế của tác giả khi đứng trước núi non hùng vĩ. Hay ở bài thơ Núi

Tam Điệp, độc giả sẽ bắt gặp cái nhìn thật phóng khoáng của nhà thơ.

Phóng mắt đầu non Tam Điệp rõ,

Ngoảnh đầu dòng nước Cửu Long xa.

Xanh pha sườn núi màu cây lẫn,

Trắng lộn chân mây mặt bể mờ.

Những muốn ăn thề cùng suối đá,

Biết đâu suối đá có tin mà.

(Núi Tam Điệp)

Nhà thơ đã có cái nhìn tinh tế đồng thời cũng thể hiện tấm lòng yêu quý cảnh

thiên nhiên, đất nước. Khung cảnh thiên nhiên, một bên là núi, một bên là biển lại có

màu xanh của cây và màu trắng mờ ảo tạo nên một cảnh vừa hùng vĩ lại vừa đậm chất

thơ. Cách nhà thơ ngắm cảnh chứng tỏ ông rất yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước

nên mới dùng thơ để lưu lại cảm xúc của mình từ những thực tế mà ông cảm nhận

được.

Đọc những bài thơ viết về danh lam, thắng cảnh của Nguyễn Khuyến, chúng

ta thấy những danh lam thắng cảnh của riêng Việt Nam:

Hóa công xây đắp biết bao đời

Nọ cảnh Sài Sơn có chợ trời

Buổi sớm gió tuôn trưa nắng giãi

Ban chiều mây hợp tối trắng soi

(Chợ trời chùa Thày)

Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên tha thiết với tấm lòng trân trọng cảnh đẹp quê

hương, đất nước. Với mỗi chuyến hành trình thực tế, Nguyễn Khuyến đều họa lại trong

thơ bức tranh phong cảnh và con người nơi ông đã đặt chân đến.

Ai đi Hương Tích chợ trời đi!

Chợ họp quanh năm cả bốn thì.

Đổi chác người tiên cùng khách bụt.

Bán buôn gió chị lại trăng dì.

32

Yến anh chào khách nhà mây tỏa,

Hoa quả bài hàng điếm cỏ che.

Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ.

Bán mua mặc ý muốn chi chi.

(Chơi chợ trời Hương Tích)

Chợ trời Hương Tích được tái hiện qua cảnh buôn bán tấp nập, nhộn nhịp.Khung

cảnh của buổi chợ tấp nập người mua, kẻ bán với đa dạng các mặt hàng.

Trái ngược với cảnh chợ búa đông đúc, vui vẻ thì cảnh chùa Đọi lại hiện ra một

không gian thanh tao, thoáng đãng, tĩnh lặng, cổ kính, xa trần giới:

Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá

Sư cụ nằm chung với khói mây

(Nhớ núi Đọi - II)

Cùng sự mênh mông, man mác của cảnh vật nơi đây:

Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy

Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?

(Nhớ núi Đọi - II)

Cảnh núi Non Nước cũng được Nguyễn Khuyến dựng lên bằng những hình

ảnh vui tươi, chân thực:

Chom chỏm trên sông đá một hòn

Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn!

Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ

Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con

Rừng cúc tiên triều trơ mốc thếch

Hòn câu Thái phó tảng rêu tròn

Trải bao trăng gió xuân già dặn

Trời dẫu già nhưng núi vẫn non

(Chơi núi Non Nước)

Bằng sự quan sát tinh tế, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên những bức tranh về

cảnh vật làng quê, các danh lam thắng cảnh thật đơn giản và sinh động. Ông đã

phát hiện ra vẻ đẹp, chất thơ của những cảnh vật rất bình thường, đơn sơ, mộc

33

mạc.Qua đó, ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Khuyến với nông thôn Việt Nam,

tình cảm sâu sắc, tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước.

Quay ngược thời gian, trở về với Quốc âm thi tập cũng dễ nhận ra chủ đề ngợi

ca cảnh đẹp quê hương.Với tài quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã phát hiện ra một vẻ

đẹp rất bất ngờ, đêm trăng đi gánh nước để pha trà, nước in bóng trăng thì gánh luôn

cả trăng đem về:

Khách đến chim mừng hoa sảy rúng,

Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.

(Thuật hứng - Bài số 3)

Dường như giữa thiên nhiên và Nguyễn Trãi đã xóa nhòa khoảng cách, để rồi

tạo vật, thiên nhiên và nhà thơ trở thành bè bạn, con cái:

Rùa nằm hạc lặn nên bầy bạn,

Ủ ấp cùng ta làm cái con.

(Ngôn chí thi - Bài số 20)

Thiên nhiên trở thành môi trường sống, được con người cố gắng giữ gìn, không

để bi thương cảnh vật. Cá không thả vào ao sợ vỡ ánh trăng, không nỡ buông mái

chèo vì mặt nước có bóng trăng, hoa có tàn không nỡ quét, Nguyễn Trãi mở rộng tâm

hồn mình mong chờ sự giao cảm với thiên nhiên:

Ghé cửa đêm chờ hương quế lọt,

Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 33)

Thiên nhiên xuất hiện trong thơ ông rất quen thuộc và gần gũi với đời sống

hàng ngày nhưng luôn có sức cuốn hút, mới mẻ diệu kì. Nguyễn Trãi đã thổi linh hồn

vào cảnh vật khiến cho cảnh cũng như con người:

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem

(Cây chuối)

Cây chuối giống như hình ảnh người con gái e lệ và duyên dáng ôm ấp bức

thư - thông điệp của tình yêu, rồi gió nhẹ nhàng bay đến mở xem. Thiên nhiên hữu

cảm, tình tứ như con người.

34

Chính do hoàn cảnh xô đẩy phải về ở ẩn, sống hòa mình vào thiên nhiên chúng

ta đã thấy được ở Ức Trai tấm lòng yêu thương con người, thiên nhiên thắm thiết.

Ông luôn trải tấm lòng mình ra với thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên không chỉ bằng

các giác quan mà bằng tất cả sự rung động đến từ tâm hồn thi sĩ tài năng.Với ông

thiên nhiên có một đời sống thực, là sợi dây liên hệ chặt chẽ với cuộc sống con người.

Thiên nhiên giúp con người hoàn thiện bản thân, thiên nhiên mang dấu ấn của cá nhân

người thưởng ngoạn.

Có những lúc Nguyễn Trãi chỉ đơn thuần tả cảnh thiên nhiên bằng giác quan.

Khung cảnh hết sức sinh động, đầm ấm, diễn tả tâm hồn vui phơi phới:

Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi,

Hàu chất so le cụm cuối làng

(Ngôn chí thi - Bài số 8)

Thiên nhiên trong thơ ông có khi mang cả nỗi buồn, đầy dấu ấn tâm trạng

cá nhân:

Ánh cửa trăng mai tháp tháp,

Kề song gió trúc nươm nươm.

Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực,

Dòng nước Liêm Khê nửa chàm.

(Tự thán - Bài số 27)

Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, còn thể hiện ở lòng yêu thương con vật:

Người tri âm ít cầm nên lặng,

Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu.

(Tự thuật - Bài số 10)

Rủ viên hạc xin phương cởi tục,

Quyến mai trúc kết bạn tri âm.

(Tự thuật - Bài số 8)

Hình ảnh thiên nhiên bình dị trong Quốc âm thi tập thể hiện sự thay đổi cảm

hứng sáng tạo, quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ: cái bình dị, đời thường cũng trở thành

đối tượng của cái đẹp. Sự thay đổi này có ý nghĩa cách tân theo hướng dân chủ tiến

bộ ghi danh Nguyễn Trãi trở thành nghệ sĩ đầu tiên của thơ trữ tình Việt Nam.Và tới

35

Nguyễn Khuyến -“nhà thơ của nông thôn làng cảnh Việt Nam” cũng đã kế thừa, phát

huy xuất sắc chủ đề ngợi ca cảnh đẹp quê hương từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

Tuy sống ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng hai nhà thơ Nguyễn Trãi

và Nguyễn Khuyến đều gặp nhau ở một điểm chung. Cả hai đều là những vị quan

thanh liêm, trong sạch đứng trước cuộc đời đen bạc, họ lui về bầu bạn với thiên

nhiên, vui thú điền viên, với họ thiên nhiên gắn với những bi kịch của cuộc đời. Qua

chủ đề thiên nhiên, hai tác giả kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự.

Thiên nhiên trong thơ Đường luật là thiên nhiên thống nhất với con người, hoặc

là những gì mang tính chất con người, soi vào nhau, hòa vào nhau, đồng hóa lẫn nhau.

Qua cảnh vật, nhà thơ bộc lộ những cảm xúc, gửi gắm những tâm sự.Thiên nhiên trong

thơ Nôm Đường luật thường là thiên nhiên của tâm trạng chứ ít là thiên nhiên khách

quan thuần túy.Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện rất rõ điều này, ông đã

tâm trạng hóa thiên nhiên góp phần tạo ra cho mình một phong cách trữ tình độc

đáo.Nguyễn Khuyến đã gửi gắm tâm trạng của mình qua những hình ảnh, cảnh sắc

thiên nhiên bình dị, thân thuộc của làng quê Việt Nam.

Hình như không có hình ảnh thiên nhiên nào trong thơ Nguyễn Khuyến lại

không mang tâm trạng của ông. Nguyễn Khuyến nghĩ gì trước cảnh:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Nước biếc trông như tầng khói phủ

(Vịnh mùa thu)

mà lại để:

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ dường như buông xuôi theo tự nhiên để bóng

trăng mặc nhiên vào phòng qua “song thưa” của cửa sổ. Tác giả đặt từ “mặc” vào chính

giữa câu thơ như càng nhấn mạnh hơn tâm trạng đó. Trước khung cảnh mùa thi làng

quê Việt Nam trong sáng, tươi đẹp, Nguyễn Khuyến cũng “toan cất bút”.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nhưng hành động ấy mới chỉ xuất hiện trong ý nghĩ. Mặc dù “nhân hứng” đã

sẵn sàng nhưng lại ông thể cất bút vì:

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

36

“Lại thẹn”nghĩa là đã từng thẹn.Nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến với ông Đào

dường như đã xuất hiện rất lâu. Nguyễn Khuyến thẹn với Đào Tiềm về tài năng hay

nhân cách? Có lẽ vì nhân cách chăng? Nguyễn Khuyến cũng đã trả mũ quan “quy

khứ”nhưng có lẽ so với Đào Tiềm, ông thẹn vì vẫn tự cho mình là từ quan hơi muộn?

Nỗi thẹn của ông đầy trăn trở, sự băn khoăn. Nhưng nỗi thẹn ấy lại đáng trân trọng biết

bao, bởi nó được xuất hiện từ một tâm hồn cao quý. Nỗi thẹn không làm cho con người

nhỏ bé đi mà ngược lại làm cho Nguyễn Khuyến thêm cao cả, lớn lao.

Hay như bài Câu cá mùa thu, Nguyễn Khuyến nói câu cá nhưng thực ra không

phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thực ra là đón nhận cảnh thu, trời thu vào

cõi lòng. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng.Tĩnh lặng trong sự cảm nhận độ

trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khẽ của lá.

Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại mang biết bao suy tư với Nguyễn Khuyến.

Tác giả đi câu cá mùa thu trong một khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng;

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Hình ảnh Nguyễn Khuyến ngồi câu cá trong không khí thu lạnh lẽo giữa chiếc

ao thu nhỏ hẹp nhưng ẩn sau đó là bối cảnh đất nước đương thời. Người xưa thường

nói “Thủy chí thanh tắc vô ngư”, ý nói nước trong thì không có cá. Vậy mà, Nguyễn

Khuyến vẫn ngồi câu cá với khung cảnh chiếc ao “nước trong veo”.Ông đang làm một

việc vô thưởng, vô phạt, đang đối mặt với một tình cảnh đau xót. Đó là tuy ông học

rộng tài cao nhưng đành chịu đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan về dạy học. Ông

không thể mang tài năng ra giúp ích gì cho dân.Nguyễn Khuyến luôn ấp ủ trong mình

mong muốn giúp nước nhưng hoài bão ấy không thể cất cánh trong xã hội nhiễu nhương

lúc bấy giờ.Tất cả đều vô vọng như việc câu cá trong nước trong.

Trong mạch tâm trạng đó, tác giả viết tiếp:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Mùa thu mang theo những làn gió thu tạo nên những chuyển động khe khẽ của

mặt hồ gợn sóng. Nhưng thực chất đó chính là thái độ sống mà Nguyễn Khuyến muốn

người đời, cảm thông cho hành động ông cáo quan về quê hay sự bất lực trước cảnh

37

đất nước rơi vào tay giặc. Đã có lúc, ông phải dạy học trong dinh của ông quan theo

Pháp nhưng đó chỉ là vài gợn sóng trong cuộc đời trong sạch như ao thu của Nguyễn

Khuyến. Ông vẫn thanh khiết như làn nước kia, trong ông vẫn một lòng hướng về đất

nước và giữ vững hào khí của người quân tử. Qua hình ảnh “lá vàng trước gió khẽ đưa

vèo”, tác giả đang muốn nói đến hiện thực đất nước rơi vào tay giặc quá nhanh. Ông đau

xót trước tình cảnh đất nước đầy đau thương. Nguyễn Khuyến e sợ rằng đất nước ta sẽ

giống như chiếc lá vàng kia, mục nát trên nền đất thu.

Tâm trạng thời thế của Nguyễn Khuyến được thể hiện rõ nhất ở hai câu cuối:

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Trong bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng như vậy nhưng một tiếng động vô cùng

nhỏ của cá đớp dưới chân bèo tạo ra trên mặt ao phải chăng chính là sự xao động trong

lòng nhà thơ? Tiếng cá đớp động có thể xem là tia hi vọng sáng lên, một tín hiệu chuyển

biến của thời cuộc. Qua những nét thu đẹp tĩnh lặng nhà thơ đã khéo léo thể hiện tâm

trạng của một nhà nho một lòng vì nước vì dân.

Trong Uống rượu mùa thu, hình ảnh thiên nhiên:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

dường như chứa đựng nỗi đau đến quặn lòng của nhà thơ trước sự thời thế chuyển vần.

Và hình ảnh “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” tưởng như có sự mâu thuẫn.Bởi đôi mắt

nhà thơ tự “đỏ hoe” mà không có bất cứ sự tác động của ngoại cảnh nào.Màu đỏ ấy

phải chăng là màu đỏ của nội tâm được cuộn trào từ tâm trạng day dứt, suy tư cho cuộc

đời, cho con người của Nguyễn Khuyến?

Nguyễn Khuyến nói chuyện uống rượu nhưng thực ra để đón nhận cảnh thu, để

quên đi bao sự đời đau buồn, tủi hổ. Cứ thế, ông ngắm cảnh thu, để rồi:

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy

Độ năm ba chén đã say nhè!

Vậy là cảnh vật mùa thu đã nhòe đi theo “cơn say" của tác giả. Có lẽ, rượu mà

tác giả uống được lên men bởi những đau khổ, trái ngang trong cuộc đời nhà thơ nên

mới có thể khiến ông say nhè đến vậy? Nguyễn Khuyến đã mượn chén rượu để thưởng

thức ngắm cảnh, ngắm trăng, mượn “say” để nói “tỉnh”. Tác giả say thiên nhiên mà

38

tỉnh trước cuộc đời. Phía sau cái “say nhè” sau ba năm chén rượu là một túy ông nặng

lòng trước thời thế.

Bên cạnh đó, thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến còn là nguồn cảm

hứng trào phúng, những sự vật chứa đựng đầy mâu thuẫn gợi nên những nét bi hài:

Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,

Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn

(Vịnh núi An Lão)

Le te nghìn xóm quanh ba mặt,

Lố nhố muôn ông lẫn một thầy.

Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,

Đi đâu mà chảy cả đêm ngày?

(Chơi núi Long Đội)

Thêm nữa, hình ảnh làng quê ảm đạm, tiêu điều, một chân trời xao xác heo

may hay hình ảnh ấn tượng về những trận lụt đầy xót xa.

Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách

Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.

(Vịnh lụt)

Trước Nguyễn Khuyến năm thế kỷ, Nguyễn Trãi đã tạo nên một hình tượng

người nghệ sĩ đích thực, khi tâm hồn ông hòa quyện với từng vẻ đẹp đất nước, những

xúc cảm rung động trước non nước, mây trời, thiên nhiên vạn vật. Dù khi làm quan hay

khi về ở ẩn sống thanh tịnh giữa núi rừng, trong bất cứ hoàn cảnh nào thiên nhiên vẫn

chiếm một vị trí quan trọng, trở thành người bạn tâm tình để Nguyễn Trãi gửi gắm

những tâm tư, tình cảm về cuộc đời.

Non cao non thấp mây thuộc,

Cây cứng cây mềm gió hay.

Nước mấy trăm thu còn vậy,

Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,

Bui một lòng người cực hiểm thay

(Mạn thuật - Bài số 4)

39

Bài thơ Mạn thuật số 4 được tác giả Nguyễn Trãi sáng tác khi ông bị thất

sủng, sống cuộc sống nhàn rỗi ở Côn Sơn, trên danh nghĩa Nguyễn Trãi vẫn còn

chức quan khá to, khi triều đình có việc mới gọi ông về kinh. Khi ở Côn Sơn, với

không gian yên tĩnh, non xanh nước biếc Nguyễn trãi đã có nhiều thời gian suy

ngẫm, chiêm nghiệm về sự đời.Tác giả mượn chuyện gió chuyện mây, chuyện núi

cao núi thấp, chuyện cây cứng cây mềm, để gửi gắm chuyện đời mình một cách

khéo léo. Mây ở trên trời, cao hơn núi, ngọn núi nào cao, ngọn nào thấp, mây thừa

biết và thuộc hết, bởi mây có thể quan sát và bao quát tất cả núi non trong tầm mắt

của mình. Còn như cây nào cứng cây nào mềm, gió biết ngay không thể che

giấu.Nguyễn Trãi mượn thiên nhiên để thể hiện một điều rằng không có gì có thể

che mắt được ông.Tất cả những thật giả, trắng đen, tốt xấu, tài năng trí tuệ và bản

lĩnh của mọi người như thế nào, nhân cách người ta ra sao, tất cả đều nằm trong tầm

bao quát tường tận của Nguyễn Trãi.Bên cạnh đó còn là sự chiêm nghiệm của tác

giả về việc nước.

Nước mấy trăm thu còn vậy

Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này

Đất nước trải qua mấy trăm năm còn thịnh rồi suy, suy rồi thịnh, tác giả đều

biết hết, đến cả cái lẽ hưng vong hay người hay kẻ dở. Cuộc sống biến ảo khó lường,

mà đời người thì ngắn ngủi như một giấc chiêm bao, chỉ có vầng trăng dường như

vẫn thế, bao kiếp vẫn vậy, vẫn soi mình xuống nhân gian chứng kiến cảnh thịnh suy

tan hợp của cõi người.

Có thể thấy, khoảng thời gian lui về ẩn cư ở quê ngoại Côn Sơn đã giúp

Nguyễn Trãi có dịp hòa mình với thiên nhiên hơn, khi mà công danh đã được hợp về

nhàn, những cảm xúc trong chùm thơ Mạn thuật, Thuật hứng, những cảm nhận về

hoa cỏ trong Hoa mộc môn… cũng bộc lộ con người ông thật bình dị, gần gũi. Bản

thân Nguyễn Trãi dẫu có chán chốn quan trường, nhưng ông không hề run sợ, trốn

tránh hay khuất phục trước cường quyền, chính thiên nhiên đã tiếp cho ông sức mạnh,

giúp ông tìm ra cách ứng xử với bọn quyền thần một cách đầy dũng khí. Thiên nhiên

tôi luyện, hun đúc nên một Nguyễn Trãi đầy khí phách:

40

Mai chăng bẻ thương cành ngọc

Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng.

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

(Thuật hứng - Bài số 5)

Càng đọc thơ của ông càng thấy xót xa cho nỗi oan khuất của vụ án Lệ Chi

Viên đưa đến thảm họa “tru di tam tộc”. Hệ lụy đau thương ấy ông đã thấy từ trước,

nó xảy ra cho nhiều kẻ sĩ như ông không thích xu nịnh, a dua với những kẻ cơ hội.

Trong bài thơ Cảnh ngày hè, Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh thiên nhiên

sống động với âm thanh, hương sắc và cả những gam màu rực rỡ và ẩn sâu trong đó

là bức tranh tâm trạng của nhà thơ giữa cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã. Qua đó, tác

giả đã thể hiện tấm lòng, tình đời mà lòng yêu nước thương dân đã trở thành nỗi

trăn trở, niềm ưu ái trong suốt cuộc đời. Qua khung cảnh thiên và cuộc sống của

con người trong ngày hè đã mở ra trong lòng nhà thơ ước vọng tha thiết:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương

(Cảnh ngày hè)

Trước cảnh ngày hè tràn ngập sắc màu và âm thanh, Nguyễn Trãi ước có một

cây đàn của vua Thuấn để tấu lên khúc nhạc “Nam phong” cầu cho nhân dân no đủ

khắp muôn nơi. Câu thơ thể hiện sự day dứt và một tinh thần trách nhiệm cao cả.

Mong ước của Nguyễn Trãi làm ta liên tưởng đến khát vọng của Đỗ Phủ:

Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,

Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,

Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!

Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững đựng nước mắt,

Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!

(Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)

Như vậy, có thể thấy chủ đề thiên nhiên xuất hiện trong Quốc âm thi tập

Nguyễn Trãi và thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến đã trở thành một hệ thống

41

chủ đề lớn, phong phú về nội dung biểu hiện.Cả hai nhà thơ xuất phát từ cuộc sống

gắn bó với nhân dân và bằng tình yêu thiên nhiên, cảnh vật, hai ông đã đưa những

hình ảnh thiên nhiên đời thường vào trong thơ một cách tự nhiên, mang hơi thở đời

thường.Điều đó thể hiện sự cách tân, tiến bộ của Nguyễn Trãi và sự kế thừa phát huy

của Nguyễn Khuyến.Những hình ảnh thiên nhiên đó cho dù thể hiện ở khía cạnh nào

thì nó cũng góp phần quan trọng trong việc thể hiện tình yêu sâu sắc, sự đồng điệu

tâm hồn, gắn bó sâu nặng của hai nhà thơ với cảnh sắc quê hương.

2.1.2. Khắc họa bốn mùa xuân, hạ, thu, đông

Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác giả Nguyễn Khuyến và Nguyễn Trãi đều

miêu tả thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Với mỗi mùa

thơ Nôm Đường luật của hai tác giả đều có những vần thơ đầy cảm xúc. Bốn mùa -

một vòng vận động theo quy luật vận động của tự nhiên và có sự thay đổi cùng với

vòng quay của thời gian. Vịnh cảnh bốn mùa là một trong những đề tài phổ biến của

thơ ca thời trung đại.Sự tuần hoàn của vũ trụ, vòng quay vô tận của thời gian, cảnh sắc

thiên nhiên chuyển đổi muôn màu muôn vẻ thường gợi ra nhiều cảm xúc, tình cảm cho

nhiều tâm hồn thơ. Từng mùa trong bức tranh thiên nhiên ấy lại có những gam màu

khác nhau làm nên những bức tranh sinh động và hấp dẫn. Bức tranh thiên nhiên thông

qua hình ảnh bốn mùa hiện lên vô cùng phong phú.

Mùa xuân vốn là một đối tượng thẩm mĩ của văn chương, với tư cách là thước

đo của thời gian. Mùa xuân cây cối đâm chồi, nẩy lộc, sắc xuân tươi tắn, khí xuân ấm

ấp, lòng người đắm say, hướng về sự sống, phồn thịnh, sự giao hòa của cảnh vật. Mùa

xuân với ý nghĩa hiện thực, cụ thể chính là sự lặp lại chu kỳ thời gian và là sự khởi

đầu cho một năm mới. Xưa nay, trong văn chương trung đại hay bị ám ảnh bởi quan

niệm về thời gian tuần hoàn. Bước đi của thời gian mờ nhạt nên khó lòng nhận ra sự

bừng thức của thi nhân trước khoảnh khắc đất trời chuyển giao: “Trăng bao nhiêu

tuổi trăng già/ Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non” (Khuyết danh). Thế nhưng, khi đọc

những sáng tác thơ Nôm đậm đà thi vị, ta mới thấy mùa xuân và ngày Tết vẫn có

nhiều sắc thái khác nhau. Qua đó, chúng ta cảm nhận được cảm xúc, đồng điệu của

tác giả trong thời khắc xuân sang.

Mùa xuân trong thơ Nguyễn Khuyến là bức tranh vừa chân thực vừa mang

đậm phong cách làng quê, giàu hình ảnh hiện thực.Mùa xuân không đơn thuần là quy

42

luật tự nhiên, tác giả đã truyền thêm cho nó phần hồn, cái phần thể hiện được phong

tục, tập quán, hội hè, rước xuân, mừng xuân… Mùa xuân hiện lên rõ nét qua khung

cảnh nông thôn và phong tục của người dân quê ăn tết đón xuân. Nguyễn Khuyến tái

hiện bức tranh xuân ngày giáp tết sống động, gần gũi, chân thực. Ông đã miêu tả tinh

tế cái xao xác đượm buồn của phiên chợ Đồng ngày giáp tết, họp ngoài cánh đồng,

trong những năm mất mùa, đói kém:

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

(Chợ Đồng)

Trong bài thơ Khai bút âm thanh tiếng trống ẩm hơi mưa bụi cũng rất tinh tế:

Ình ịch đêm qua trống các làng

Ai ai mà chẳng rước xuân sang

(Khai bút)

Hình ảnh thơ lưu giữ một dáng vẻ khai bút của nhà thơ

Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,

Bút mới xô tay thử một hàng.

Cảnh sắc thiên nhiên thông qua hình ảnh bốn mùa cũng đã được Nguyễn Trãi

miêu tả bằng những vần thơ đầy cảm xúc. Nếu như mùa xuân, xanh tươi màu cỏ cây,

hoa lá; mùa hè rực rỡ ánh nắng chói chang với màu lựu đỏ rực; mùa thu lại khoác lên

mình màu tàn úa của cỏ cây thì mùa đông lại đặc biệt với cái rét buốt giá. Trong Quốc

âm thi tập hình ảnh bốn mùa xuất hiện với tần suất lớn.Nguyễn Trãi có khi trực tiếp viết

về mùa, cũng có khi miêu tả thông qua bức tranh phong cảnh tuyệt mĩ.

Khi hoa đào, hoa mai nở thắm tươi trở thành dấu hiệu của một năm mới sắp

tới, mùa xuân sắp sang:

Một đóa đào hoa khéo tốt tươi,

Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.

(Đào hoa thi - Bài số 1)

Hay:

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi

Ưa mi vì tiết sạch hơn người

(Mai thi - Bài số 1)

43

Trong thơ Nguyễn Trãi mùa xuân được cảm nhận như biểu tượng của vẻ đẹp

hoàn chỉnh, toàn mỹ:

Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông quân,

Nào chốn nào chăng gió xuân.

Huống lại vườn còn hoa trúc cũ,

Chồi thức tốt lạ mười phân.

(Tích cảnh thi - Bài số 13)

Ngọn gió mùa xuân hay vị chúa Đông quân đã đến, mang theo hơi thở ấm áp

tới mọi miền. Mảnh vườn trở nên tươi xanh nhờ mầm non hoa lá.“Chồi thức tốt lạ mười

phân” đã vượt lên, lấn át cá khô cằn, đơn lẻ, cô đơn của cành trúc mùa đông đã trở

thành biểu tượng, hơi thở của mùa xuân. Cũng có khi, Nguyễn Trãi cảm nhận mùa

xuân bằng hình ảnh cây chuối cụ thể gần gũi.

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

(Ba tiêu)

Nguyễn Trãi đã cảm nhận mùa xuân một cách mới lạ thông qua hình ảnh khóm

chuối tươi tốt trong làn gió xuân. Nguyễn Trãi say mê nhập cuộc với mùa xuân, ông

càng trân quý thời gian hiện tại. Ông đã cảm nhận được cả quá trình biến chuyển của

sự sống:

Khí dương hòa há có tư ai,

Năng một hoa này nhẫn mọi loài.

Toan kể chỉn còn ba tháng nữa,

Kịp xuân mựa để má đào phai.

(Đào hoa thi - Bài số 4)

Dường như hoa đào biết mùa xuân chỉ có ba tháng nên đã kịp đến và không

để sắc màu của mình phôi pha trong thời gian tươi đẹp đó. Qua đó, người đọc cảm

nhận được nỗi lo của Nguyễn Trãi về thời gian, hạnh phúc đang trôi qua, đối lập với

mọi thái độ sống thờ ơ trước mùa xuân.

44

Ba xuân thì được chín mươi ngày,

Sinh vật lòng trời chẳng tây.

Rỉ bảo đông phong hời hợt ít,

Thế tình chớ tiếc dửng dưng thay.

(Tích cảnh thi - Bài số 11)

Nhà thơ cảm thấy tiếc nuối, thương thay những người không biết tiếc nuối,

trân trọng cái đẹp của mùa xuân - biểu tượng của sự sống. Qua sự cảm nhận mùa

xuân của bản thân, tác giả nhận thấy rằng vẻ đẹp của mùa xuân vừa do thái độ

con người nhưng nó đồng thời là cái đẹp khách quan, tự thân.

Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm,

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm.

Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ,

Một phen liễu rủ một phen mềm.

(Tích cảnh thi - Bài số 7)

Bên cạnh đó, mùa xuân trong thơ Nguyễn Trãi còn gắn liền với phẩm chất

thẩm mỹ cao đẹp, có ý nghĩa thanh lọc tâm hồn con người. Tác giả đã lấy bông hoa

mai nở giữa mùa xuân làm biểu tượng cho cốt cách thanh cao:

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,

Ưa mày vì tiết sạch hơn người.

Gác đông ắt đã từng làm khách,

Há những Bô Tiên kết bạn chơi.

(Mai thi - Bài số 1)

Nguyễn Trãi thông qua hình ảnh hoa mai và những điển cố xưa, ông đã ngầm

gửi gắm tâm sự riêng của mình. Bông mai kia đã từng có thời ở nơi “gác đông” -

nơi cửa quan, mà nay phải về làm bạn với lão tiên Lâm Bô - một ẩn sĩ đời Tống,

sớm hôm chỉ lấy việc trồng mai và nuôi hạc làm thú vui, bầu bạn. Hình tượng bông

hoa mai giống như chính cuộc đời Nguyễn Trãi, ông đã từng nhiệt huyết, hào hứng,

tin yêu và đến khi tuổi già phải lui về ẩn ở Côn Sơn, làm bạn với thiên nhiên, hoa

lá… Mùa xuân trong thơ Nguyễn Trãi chứa đựng niềm khát khao tình yêu cuộc

sống, mùa xuân đất nước, và mùa xuân tâm hồn con người.

45

Đề tài cảnh hè, mùa hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. Các nhà thơ

trung đại đều có những bài thơ rất hay viết về mùa hè.

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông

(Nguyễn Du)

Mùa hè rực rỡ thường được báo hiệu bởi những âm thanh rộn ràng trong khúc

nhạc đồng quê: tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều, tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao”

của khung cảnh đời thường. Nhưng bức tranh mùa hè của Nguyễn Khuyến lại là một

bức tranh quê nhuốm màu buồn bã:

Tháng tư đầu mùa hạ,

Tiết trời thật oi ả,

Tiếng dế kêu thiết tha,

Đàn muỗi bay tơi tả

Nỗi ấy ngỏ cùng ai,

Cảnh này buồn cả dạ

Biếng nhắp năm canh chầy

Gà đã sớm giục giã.

(Than mùa hè)

Trong bốn mùa, mùa hè là mùa nóng nhất, ngột ngạt nhất. Nhưng mỗi mùa

đều có những vẻ đẹp đặc trưng riêng, mùa xuân sao có được không khí như mùa hè

hay mùa thu và ngược lại. Bởi vậy, mỗi mùa đều khiến cho mọi người cảm thấy thích

thú.Mùa hè trong thơ Nguyễn Khuyến tuy có bứt rứt, nhưng vẫn có những đặc trưng

riêng của nó.

Cá vượt khóm rau lên mặt nước,

Bướm len lá trúc lượn rèm thưa

Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,

Sấm đông rầm rập gió nồm qua

(Vịnh mùa hè)

Nguyễn Khuyến đã mang tới một mùa hè vừa nóng bức, vừa dịu ngọt, thân

quen.Trời mùa hè lúc nào cũng oi bức, dễ làm cho người ta cảm thấy khó chịu nhưng bù

lại mùa hẹ lại ngập tràn dàn nhạc của tiếng côn trùng mang đến một bản hòa xướng âm

46

thanh đặc trưng.Mùa hè là mùa của chăn tằm lấy tơ, mùa của những cánh đồng no đầy,

chín mọng.

Tháng tư chơm chớm đã oi nồng,

Chim hót lùm xanh tiếng lảnh trong.

Con gái chăn tằm lo gió máy,

Người nhà phơi thóc chạy cơn giông.

(Ngắm chiều hè)

Cả bầu trời hè tràn đầy ánh nắng như làm bừng lên cả sức sống mới căng

đầy.Những hình ảnh đó được nhà thơ khắc họa một cách sinh động.

Lúa mới ngậm đồng, càng mập mạp,

Tằm vừa đầy giấc, đã ngo ngoe.

Được hôm trời hưởng, ngõ phên che,

Lấp lánh trong mây, bóng ác lòe.

(Ngày hè, mới tạnh mưa)

Bức tranh mùa hè trong thơ Nguyễn Khuyến cho ta cảm thấy sức nóng

càng tăng thêm. Nhưng đằng sau đó là những hình ảnh dịu ngọt, đáng yêu, thân

quen:

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

(Đến chơ nhà bác Đặng)

Hình ảnh con trâu nằm nghỉ ở gốc tre trong buổi trưa hè quen thuộc và gần gũi

với biết bao người Việt Nam. Hai câu thơ gợi ra cảnh một buổi trưa hè đặc trưng ở nông

thôn Việt Nam.

Mùa hè trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu bằng tiếng ve kêu râm ran, hoa hòe

nở rộ trên khắp đồng quê:

Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,

Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.

Lại có hòe hoa chen bóng lục,

Thức xuân một điểm não lòng nhau.

(Thì lệnh môn - Hạ cảnh tuyệt cú)

47

Hay:

Mộng lành nẩy nẩy bởi hòe trồng,

Một phát xuân qua một phát trông.

Có thuở ngày hè giương tán lục,

Đùn đùn bóng rợp cửa tam công.

(Hòe)

Cảnh sắc mùa hè hiện ra trong thơ Nguyễn Trãi thật đẹp, đầy sức sống:

Rồi bóng mát thuở ngày trường,

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên đìa đã tiễn mùi hương.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 43)

Mùa hè hiện ra với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hòe xanh thẫm che

rợp, thạch lựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát mùi hương,

tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh

ngày hè cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp muôn nơi.Sắc thái và cảnh vật trong

bức tranh mùa hè cho thấy tâm trạng của tác giả phấn chấn trước vẻ đẹp của cuộc

sống, nó đã phá vỡ cái tĩnh tại của cuộc sống nhàn dật thuần túy, qua đó bộc lộ niềm

thiết tha lớn với cuộc đời.

Là thi sĩ của cảnh quê, các mùa của nông thôn, Nguyễn Khuyến đã làm nhiều bài

thơ về ngày xuân, mùa hạ nhưng nổi tiếng nhất với ba bài tả cảnh mùa thu. Ba bài thơ

Nôm hiện ra như một đối tượng tuyệt vời: “Dường như ba bài thơ này tập trung tất cả

những gì kì diệu nhất của phong cảnh thiên nhiên, dường như tất cả hồn thơ của Nguyễn

Khuyến đã được kết tinh lại ở đây trong ba bức tranh này” [19, tr. 440]. Với cảnh thu,

một đề tài gợi cảm quen thuộc của thơ văn, thơ Nôm Nguyễn Khuyến đã thoát ra cái

khuôn đúc sẵn của cổ thi mà từ xưa hầu hết các thi sĩ đều vướng phải. Nguyễn Khuyến

là nhà thơ đầu tiên tái tạo mùa thu bằng chính màu sắc quê hương mình. Chùm ba bài

thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh

vật mùa thu, là bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh chiêm trũng

48

miền Bắc. Cảnh vật làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến đẹp và giàu hình ảnh, đó là

những hình ảnh rất đặc trưng cho làng quê rất riêng và rất Việt Nam. Dưới ngòi bút của

Nguyễn Khuyến nông thôn Việt Nam trở lên thật đẹp, chân thực với những hình ảnh rõ

ràng, rất thực và chỉ có ở làng quê Việt Nam.

Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến hiện ra qua từng câu, từng chữ làm mê

lòng người.

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(Vịnh mùa thu)

Nguyễn Khuyến đã vẽ ra một bức tranh tuyệt đẹp về mùa thu. Làm nền cho

nét chấm phá là cả một bầu trời xanh ngắt - chỉ riêng mùa thu ở đồng bằng Bắc

Bộ Việt Nam mới có. Nhà thơ dùng hình ảnh “cần trúc lơ phơ” để thể hiện sự dịu

dàng, man mác của gió mùa đầu thu. “Cần trúc” là một hình ảnh rất quen, rất điển

hình của làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. “Lơ phơ”, “hắt

hiu”song hành trong một câu thơ đã tạo nên sự sâu lắng, quyện vào không gian đất

trời thu, hơi thu, khí thu tạo nên một mùa thu rất Việt Nam.

Đến với mùa thu trong Thu điếu, ta cảm nhận được cái gì đó cũng nhỏ bé, cũng

khẽ khàng:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

(Câu cá mùa thu)

Nhà thơ khắc họa cảnh tượng mùa thu có chiếc lá vàng “sẽ đưa vèo”, tiết trời

lạnh lạnh làm cho mọi vật dường như lười biếng bất động. Chiếc lá vàng nhẹ đưa, nó

49

là dấu hiệu của mùa thu vừa thoáng qua, nhưng tác giả đã cảm nhận được bằng sự

rung cảm của tâm hồn. Nguyễn Khuyến mô tả mùa thu chủ yếu qua sự cảm nhận của

chính bản thân mình ở quê hương mình. Hình ảnh một chiếc thuyền “bé” lại còn “tẻo

teo”, hình ảnh thu nhỏ hết cỡ. Trong không gian đầy ao đầm của làng quê Nguyễn

Khuyến, con thuyền cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng trôi trên ao. “Gợn” vốn là một sự chuyển

động nhẹ, rất nhỏ khó thấy, vậy mà Nguyễn Khuyến dùng “hơi gợn tí” khiến cho sự

chuyển động của làn sóng như có như không. Xuất phát từ sự gắn bó và qua cảm nhận

tinh tế, Nguyễn Khuyến đã thu vào trong thơ nét dịu dàng, vừa hữu hình vừa vô hình

của nét thu Việt Nam.

Có thể nói, Nguyễn Khuyến là người có công đầu trong việc dân tộc hóa mùa

thu Việt Nam. Chùm thơ thu của ông mang đậm hồn quê xứ xở. Cảnh nông thôn

bình thường, thân mến với năm gian nhà đơn sơ nhưng vô cùng gần gũi.

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy,

Độ dăm ba chén đã say nhè.

(Uống rượu mùa thu)

Bài thơ đã vượt khỏi khuôn sáo nghìn xưa của những bài vịnh cảnh, vịnh vật.

Đã không còn những ước lệ văn hoa sang trọng như rèm châu, lầu ngọc, chén vàng…

mà thay vào đó Nguyễn Khuyến sử dụng hình ảnh giản dị, hiện thực nhà cỏ thấp le

te, đóm lập lòe, phát phơ màu khói nhạt, bóng trăng loe. Nơi nhà thơ đang uống rượu

làm thơ chỉ là ngôi nhà nhỏ làm bằng cỏ đơn sơ được lợp bằng mái dạ thấp le te.

Với Nguyễn Trãi mùa thu được báo hiệu bởi hình ảnh hoa cúc nở đưa hương

ngào ngạt. Hoa cúc vàng khiêm nhường tô điểm cho bầu trời thu đầy sương mù và

hơi gió lạnh.

Nào hoa chẳng bén khí đầm hâm,

50

Có mấy bầu sương nhụy mới đơm.

Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,

Cho hay thu muộn tiết càng thơm.

(Đào hoa thi - Bài Cúc)

Mùa đông trong thơ Nguyễn Khuyến mang theo nhiều sương muối và với cái

rét cắt da cắt thịt của những ngọn gió bấc.

Xương buốt tai ù, mình tưởng mượn

Nón che, tơi phủ, khách thưa lời.

(Tiểu hàn)

Mùa đông giá rét trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu bằng hình ảnh cây tùng:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thưở ba đông.

Lâm tuyền ai rặng già làm khách,

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

(Tùng - Bài số 1)

Bức tranh thiên nhiên bốn mùa đã được hai tác giả tái hiện trong thơ vô cùng

sinh động, phong phú và đầy sự độc đáo. Nguyễn Trãi hay viết về mùa xuân và hạ

với những nỗi niềm khát khao tình yêu cuộc sống, tâm trạng của tác giả phấn chấn

trước vẻ đẹp của cuộc sống, qua đó bộc lộ niềm thiết tha lớn với cuộc đời. Còn

Nguyễn Khuyến lại hay viết về mùa thu, ẩn trong cảnh thu thanh bình là nỗi u hoài

thầm kín về nỗi đau thời thế nước mất nhà tan mà bản thân bất lực, bế tắc.

2.2. Chủ đề ưu quốc ái dân

Văn học trung đại Việt Nam trải qua khoảng mười thế kỉ, dân tộc ta đã thoát

khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm, tồn tại

dưới các triều đại phong kiến từ hưng thịnh đến suy vong, gắn liền với quá trình đấu

tranh dựng nước và giữ nước. Qua bao cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước thì lòng yêu

nước, thương dân, tinh thần dân tộc luôn được phát huy, xuất hiện gần như xuyên

suốt, cuộn chảy qua bao chặng đường lịch sử. Đặc biệt trong thời kì văn học trung

đại trước nhiều biến cố lịch sử lòng yêu nước, thương dân, sự quan tâm lo lắng cho

vận mệnh dân tộc luôn thường trực trong tâm hồn các thi nhân, để rồi tuôn trào nơi

đầu bút những nỗi lòng.Trong dòng chảy của nền văn học trung đại, chủ đề Ưu quốc

51

ái dân là chủ đề quan trọng, nổi bật nhất. Và nó được thể hiện thành công trong sáng

tác của hai tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến - đại diện cho thời kỳ mở đầu và

kết thúc của thể thơ “không tuổi già”: thơ Nôm Đường luật.

2.2.1. Khao khát phò đời giúp nước

Thời xưa các đấng nam nhi thường có đích phấn đấu làm quan. Nguyễn Công

Trứ đã từng viết “Vũ trụ giai ngô phận sự” - lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng

làm trai, mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta. Nhà Nho

với tinh thần, trách nhiệm của mình, họ bước vào con đường “lập thân, cứu thế” mà

Nho giáo cho là “chính đạo”, đó là con đường học - thi đỗ - ra làm quan. Làm quan

chính là đích phấn đấu của nam nhi thời trung đại. Nho giáo quan niệm rằng nhà Nho

bước vào chốn quan trường để giúp vua giáo hóa dân chúng, ban ân huệ cho dân bằng

chính đạo đức, nhân cách của mình. Đó là con đường “Đức trị”, phò vua trị quốc, trị

quốc cứu đời, trị đời để cứu dân. Chính vì thế mà con đường trước tiên, con đường

chính thống mà nhà Nho muốn lựa chọn bao giờ cũng là con đường “nhập thế”.

Nho giáo với nội dung cơ bản thể hiện tập trung trong ba học thuyết: thuyết “Đạo

đức”, thuyết “Lễ trị” và thuyết “Chính danh”. Trong đó thì lí tưởng của học thuyết là chủ

trương thiết lập lại trật tự xã hội một cách ổn định thông qua việc tu luyện đạo đức nhằm

hoàn thiện nhân cách bản thân và cảm hóa lòng người (Tu kỉ trị nhân). Vì vậy con người

phải lấy tu thân làm gốc, lấy chữ “Nhân”, chữ “Nghĩa” làm trọng.

Việc hiện thực hóa lí tưởng kiến tạo xã hội trên được Nho giáo giao phó tập trung

ở một số lớp người được xem là tinh hoa của thời đại. Đó chính là những nhà Nho, các

bậc thánh nhân quân tử, lớp người được xem là đạt được tính mẫu mực điển hình của con

đường tu thân dưỡng đức. Bởi vậy, trong nhân cách của họ, thường trực một tinh thần “tự

nhiệm”, “nhập thế” trước hiện thực cuộc sống.

Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến đều theo đuổi con đường thi cử làm quan với

mong muốn giúp dân, giúp nước. Thế nhưng khi ra làm quan thì họ lại cảm thấy buồn

khi không giúp ích được gì cho đất nước, chọn con đường lui về quê.Hai tác giả đều

theo đuổi lí tưởng lập chí, lập thân, lập nghiệp. Họ đều quan niệm công danh gắn với

lợi ích quốc gia, dân tộc, lí tưởng của mình, suốt cuộc đời lo cho dân cho nước, không

màng danh lợi, không tham chức tước, không vì lợi lộc cá nhân mà lộng quyền hành

bóc lột nhân dân. Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến đều là những nhà thơ, thơ văn

52

cũng như cuộc đời luôn gắn liền với sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Cả cuộc đời mình

hai ông luôn sẵn sàng đem hết tài trí để giúp dân, giúp nước chỉ mong góp sức để

nhân dân được sống yên bình, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ,

khắp đòi phương”.

Quan niệm của các nhà Nho xưa là học hành đỗ đạt làm quan, đem tài năng

của mình phục vụ đất nước.Là một nhà Nho cuối mùa, Nguyễn Khuyến vẫn luôn ấp

ủ trong mình hoài bão đó. Theo con đường đã được vạch sẵn của các nhà Nho đi

trước, Nguyễn Khuyến ra sức học để đi thi với mục đích ra làm quan giúp vua, giúp

nước mang lại cuộc sống tốt cho người dân. Thi cử trở thành con đường giúp Nguyễn

Khuyến thể hiện tài năng, giúp ông thực hiện lí tưởng “trí quân trạch dân".

Mười mấy năm qua ấn với thao

Thân này mong được đức vua yêu.

(Cảm tác)

Nguyễn Khuyến sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Ông ý thức được

con người chức năng của mình: học - thi cử - ra làm quan - phụng sự đất nước. Thi cử là

con đường duy nhất để thể hiện “Nam nhi chí”, đối với nam nhi phải có công danh sự

nghiệp. Nguyễn Công Trứ đã từng thốt lên hai câu thơ:

Nhập thế cục,bất khả vô công nghiệp

Xuất mẫu hoài, tiên thị hữu quân thân

(Đi vào cuộc đời, không thể không có công danh sự nghiệp

Lọt lòng mẹ ra, đã có vua và cha rồi).

Cũng như Nguyễn Công Trứ trong buổi đầu bước vào đời với tiếng nói hăm

hở thực hiện chí nam nhi:

Đã mang tiếng đứng trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

(Đi thi tự vịnh)

Nguyễn Khuyến muốn làm nên một sự nghiệp lớn lao hiển hách nhưng con

đường khoa cử rất gian nan. Nguyễn Khuyến đã dự tất cả chín khoa thi. Năm 1852,

ông lấy vợ và đi thi hương lần thứ nhất cùng với cha song không đỗ, sau đó cha của

ông mất do dịch bệnh thương hàn. Nhà nghèo, ông phải bỏ học đi dạy thuê kiếm ăn

53

nuôi mẹ. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của ông nghè Vũ Văn Lý ông lại tiếp tục đi học tiếp.

Tuy nhiên, ba khoa thi hương tiếp theo 1855, 1858, 1861 ông đều bị trượt. Tức cảnh

vào độ ấy, ông đã viết ra những câu thơ:

Bốn khoa hương thí không đâu cả

Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.

Mang tiếng văn chương lừng vũ trụ,

Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi.

(Giễu mình chưa đỗ)

Có lúc, ông khóa Thắng đã nản con đường khoa cử, định chuyển hẳn sang

nghề dạy học để kiếm sống và nuôi gia đình thì ông được người bạn Vũ Văn Báo

nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến cùng học với cha mình là tiến sĩ Vũ Văn Lý ở

xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (tức huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay). Do

vậy, đến năm 1864, ông đỗ cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp đó, ông giải thắng

thi hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám,

khoa thi 1869 lại bị trượt. Chính vì vậy, có lúc ông đã cảm thấy hổ thẹn với bản

thân mình.

Mặc dù không đỗ ở bốn khoa thi hương đầu đời nhưng Nguyễn Khuyến vẫn

kiên trì sôi kinh, nấu sử, vẫn cứ đeo đẳng hết khoa thi này đến khoa thi khác. Và

rồi, sau nhiều năm miệt mài đèn sách đến tận khoa năm 1871, khi đã 37 tuổi, ông

mới liên tiếp đỗ đầu thi hội, thi đình. Như vậy, có ba lần thi hương, thi hội, thi đình

ông đều đỗ đầu nên ông được gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ” và vua Tự Đức ban cờ

biển cho ông cũng viết hai chữ “Tam Nguyên”. Chính bởi vậy, Nguyễn Khuyến

mang một cái ơn lớn đối với vua nhà Nguyễn, nhất là Tự Đức. Ông đã được vua

khen thưởng và trọng dụng:

Ơn vua chưa chút báo đền

Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.

(Di chúc)

Có thể thấy, Nguyễn Khuyến đã vượt lên trên những khó khăn với ý chí, nghị

lực quyết tâm cao.

Cưỡi gió giương vây lên cửa Vũ,

54

Xông mây rẽ sóng động vừng trăng.

(Cá chép vượt đăng)

Tài năng cùng ý chí quyết tâm đã giúp Nguyễn Khuyến trở thành một vị Tam

Nguyên lừng lẫy. Ông đã hết lòng vì nước vì dân, dồn hết tâm huyết vào thi cử để ra

làm quan phục vụ triều đình.

Trong Quốc âm thi tập, ta cũng thấy có những mong ước luôn thường trực trong

lòng thi sĩ Ức Trai. Đó không phải là niềm mong ước cho bản thân ông mà là mong

ước dành cho đất nước, cho nhân dân.

Sách một hai phiên làm bậu bạn,

Rượu năm ba chén đổi công danh.

Ngoài chưng phận ấy cầu đâu nữa,

Cầu một ngồi coi đời thái bình.

(Tự thán - Bài số 10)

Nguyễn Trãi là một con người có lí tưởng cao cả. Suốt cuộc đời của mình, ông

luôn hành động và chiến đấu cho lí tưởng vì nước, vì dân. Nhà thơ nguyện đem hết

tài năng, trí tuệ và phẩm chất của mình chiến đấu với cường quyền, bạo ngược để bảo

vệ nhân dân.

Vườn quạnh dầu chim kêu hót,

Cõi trần có trúc dừng ngăn.

(Tự thán - Bài số 40)

Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,

Có nhân có trí có anh hùng

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 5)

Trên thực tế, tiếc là khao khát phò đời giúp nước của Nguyễn Trãi và Nguyễn

Khuyến nói riêng, của rất nhiều thi sĩ, danh nhân khác nói chung không được thỏa

nguyện. Lịch sử và văn hóa Việt đã ghi lại nhiều sự kiện đau thương, những nỗi niềm

oan khuất... Và, hiển hiện trên các trang viết là những cung bậc cảm xúc, những khát

khao cống hiến được lưu lại hậu thế, góp phần khẳng định sức sống của thi ca trung

đại trong đó có thơ Nôm Đường luật.

2.2.2. Nỗi buồn đau bất lực trước thời cuộc

55

Nguyễn Khuyến sống trong cảnh nước mất, nhà tan mà bất lực không có cách

gì cứu vãn. Ông luôn canh cánh trong lòng tâm sự nhớ nước, thương nhà.Đằng sau

những câu thơ của ông là cả một bầu tâm sự day dứt, khôn nguôi của một nhà thơ bất

đắc chí trước hiện thực.Trong thơ ông tâm trạng này không chỉ một lần xuất hiện. Có

những vần thơ ông đã viết ra bằng cả trái tim chảy máu, nhức nhối như lời nỉ non tâm

sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi nhớ đến non sông.

Luôn thường trực trong ông sự quan tâm, lo lắng cho đất nước.Tâm trạng đau

xót trước cảnh mất nước và nỗi nhớ nước dù ông vẫn đang hiện hữu trên chính quê

hương mình. Nguyễn Khuyến đã giãi bày tấm lòng yêu nước thiết tha, tâm trạng đầy

tủi nhục, đau xót trước cảnh nước mất nhà tan, trong sự bất lực của bản thân trước

thời cuộc trong rất nhiều tác phẩm thơ Nôm Đường luật của mình.

Nguyễn Khuyến gian nan, lận đận trên con đường thi cử, thế nhưng khi ông đứng

trên đỉnh cao của khoa cử thì ông lại cảm thấy bản thân bất lực. Ông thấy rõ sự vô dụng

của kiến thức, học vấn Nho gia trước trách nhiệm lịch sử. Có lẽ, Nguyễn Khuyến là

người đầu tiên ý thức được sự trống rỗng của Nho học:

Rõ chú hoa man khéo vẽ trò,

Bỡn ông mà lại dứ thằng cu

(Vịnh Tiến sĩ giấy, I)

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi

(Vịnh Tiến sĩ giấy, II)

Trong lịch sử khoa cử nước nhà khi khoa thi Canh tý (1900), Tú Xương vẫn

còn cay cú về nỗi hỏng thi “Đau quá đòn hằn, rát hơn lửa bỏng” và chế giễu những

kẻ bất tài thi đỗ, thì Nguyễn Khuyến một người đứng ở tột đỉnh vinh quang của khoa

cử và đỗ do thực tài mà ông lại thấy danh vị ấy thật là vô nghĩa, thấy cái tiến sĩ đang

giễu mình “bỡn ông” và như nhử lớp trẻ con “dứ thằng cu”, ông thấy mình đã lầm

khi đem chí bình sinh đặt nơi khoa hoạn “nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”. Ông đã

thấy được cái vô vị của chế độ khoa cử, sự trống rỗng của nó. Nguyễn Khuyến thấy

mình là “hủ nho”(Xuân bệnh, I), “thiếu tài thực để giúp đời suy” (Cận thuật).

Từ sự vô dụng của bản thân trong tư cách một nhà nho, Nguyễn Khuyến luôn

tự dằn vặt, trăn trở, day dứt. Qua thơ Nguyễn Khuyến, có thể thấy lần đầu tiên trong

56

lịch sử, nhà nho tự thú về sự bất lực về mẫu người mình đại diện.Trước đó, chúng

ta chỉ mới thấy xuất hiện nỗi buồn mênh mông chứa sự kiêu hãnh của nhà nho khi

lí tưởng của họ gặp trắc trở. Thế nhưng, ở Nguyễn Khuyến chúng ta thấy nhà thơ tự

trách vấn, xỉ vả, thậm chí tự mạt sát. Nguyễn Khuyến tự ý thức được sự vô dụng

của kiến thức, học vấn Nho gia trước thời cuộc:

Sách vở ích gì cho buổi ấy,

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

(Ngày xuân dặn các con)

Đứng trước kẻ thù với sức mạnh kĩ thuật vượt trội đánh thắng ta hết bước

này đến bước khác, Nguyễn Khuyến đã thấy rõ tính chất vô dụng của lỗi học

khoa cử, hạn chế của nền văn hóa truyền thống vốn nghiêng về “tâm học” và

“đạo học”, thấy rõ sự vô dụng của loại hình nhân cách nhà Nho như mình, “vô

kế khả thi” trước tình trạng non sông đất nước chìm đắm trong khói lửa xâm

lăng.

Nguyễn Khuyến là một bậc tam Nguyên, thế nhưng ông nhận thấy bản thân

còn nhiều khiếm khuyết:

Cờ đương dở cuộc, không còn nước

Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng

Mở miệng nói ra gàn bát sách,

Mềm môi chén mãi tít cung thang.

(Tự trào)

Cũng có khi nhà thơ thể hiện một cách ý nhị qua việc mượn hình ảnh nhân vật

khác nhưng thực chất vẫn để nói về chính bản thân mình. Ông từng cảm thấy mặc

cảm về sự vô trách nhiệm đối với đất nước. Nguyễn Khuyến đã kín đáo lên án loại

người “ngây ngây dại dại”, lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau dân tộc mà ông đã dùng

cách nói ý nhị “non nước đầy vơi”:

Người đâu tên họ là gì?

Hỏi ra chích chích chi chi nực cười!

Đêm ngày gìn giữ cho ai đó

Non nước đầy vơi có biết không?

(Ông phỗng đá)

Nhà thơ đã thổi hồn vào hình ảnh ông phỗng đá vô tri vô giác. Ông phỗng đá

đang ngày đêm níu kéo dạo lí cương thường một thời của Nho giáo đó và đang mất

57

dần đi vị trí độc tôn. Nguyễn Khuyến tự nhận thấy bản thân như một người thừa trong

xã hội phong kiến.

Nguyễn Khuyến cảm thấy nỗi bất lực của người mang tiếng đỗ đạt, thành

danh nhưng không có đóng góp được gì cho đất nước. Ông tự trách móc bản thân:

Cũng cờ cũng biển cũng cân đai

Cũng gọi ông nghè có kém ai

(Vịnh tiến sĩ giấy, II)

Trách ông phỗng đá, thực chất Nguyễn Khuyến trách chính bản thân mình:

Cõi hóa cùng đi lại

Không chừng bác cũng ta

(An ủi ông lão đá)

Bản thân ông luôn mong muốn cho đất nước được độc lập, thái bình.Bởi vậy,

khi chứng kiến nước mất chủ quyền, dân tộc sống trong vòng nô lệ, ông đã cảm thấy

đau buồn. Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh cuốc kêu triền miên suốt “năm canh”,

“sáu khắc”cộng hưởng với “bóng nguyệt mờ”và trong một “đêm hè vắng” để biểu lộ

nỗi đau đến rỉ máu, khiến cho nỗi buồn như tràn vào thời gian, lan rộng ra không gian

làm cho nỗi buồn trở nên mênh mang. Vào một đêm hè, Nguyễn Khuyến nằm nghe

tiếng cuốc kêu ai oán, ông cảm thấy rỉ máu nỗi đau mất nước:

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,

Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

(Cuốc kêu cảm hứng)

Tác giả Chu Mạnh Trinh cũng từng đau xót trước cảnh hoang phế của một di

tích lịch sử.

Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt

58

Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu

(Vịnh Cổ Loa)

Hay bà Huyện Thanh Quan trong bài Qua Đèo Ngang giữa cảnh chiều tà nghe

cuốc kêu cũng viết.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Nguyễn Khuyến mượn tiếng cuốc để giãi bày niềm thao thức, sự trăn trở của

mình. Cuốc thì tiếc xuân mà đứng gọi còn nhà thơ thì đêm đêm nằm mơ và nhớ nước,

qua đó ta thấy được tấm lòng yêu nước thiết tha của ông, nhưng chất chứa đầy bi

kịch, hồn nước gọi, giục giã mà bản thân ông lại bất lực, trăm chiều bối rối. Dường

như tâm sự con cuốc kêu mà hiện thân là Thục Đế, Đỗ Võ đang khóc than, gào thét

sự suy tàn của một thời huy hoàng rực rỡ của một triều đại xa xôi, ngày đêm mong

khôi phục lại sự nghiệp cũ và được trở lại quê xưa. Ông cảm thấy bàng hoàng trong

một giấc mơ.

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ,

Nguyễn Khuyến khi nghe tiếng cuốc kêu đã thấy hoàn cảnh của mình hiện tại

giống của Thục Đế xưa. Sau khi chiếm được Việt Nam, Pháp đã dùng mọi cách để

mua chuộc và chinh phục nhóm sĩ phu hầu dễ bề cai trị. Một số đã viện cớ cần hợp

tác với chủ mới để mưu cầu hạnh phúc và đời sống ấm no cho nhân dân. Họ đã lợi

dụng danh từ quốc gia để cầu phú quý như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải, Tổng

Đốc Lộc …Tuy nhiên, nhóm sĩ phu yêu nước đã kiên cường âm thầm chống Pháp

dưới mọi hình thức. Bên cạnh đó còn có ở một diễn biến trước cảnh đất nước dưới sự

đô hộ của Pháp, Nguyễn Khuyến cũng như hầu hết các trí thức Nho học đương thời

tự cảm thấy bản thân yếu đuối, bất lực, họ ngậm ngùi than thở qua thơ văn. Nguyễn

Khuyến đau đớn, tủi nhục trước cảnh quốc phá gia vong. Nhà thơ đã giữ tròn tiết tháo

của nhà nho chân chính, không vì danh lợi mà bán rẻ lương tâm. Tiếng cuốc kêu đêm

hè chính là tâm trạng đau thương của con người bị mất nước. Vốn là một chủ đề quen

thuộc nhưng đến Nguyễn Khuyến tình cảm yêu nước sâu nặng đã chuyển thành những

vần thơ đầy cảm xúc. Nghe tiếng cuốc kêu mà tưởng chừng như máu chảy hồn tan.

59

Cũng từng xuất hiện trong tâm trạng Nguyễn Trãi nỗi buồn thấy bản thân mình

vô ích. Nguyễn Trãi là một trong số không nhiều những nhân vật lịch sử đã sống một

cuộc đời đầy ý nghĩa.Vậy mà, đọc Quốc âm thi tập, chúng ta vẫn tìm thấy những vần

thơ đầy khắc khoải của ông bộc lộ nỗi buồn vì sự vô ích của mình. Ông từng than

thở:

Quốc phú binh cường chăng có chước.

Bằng tôi nào thưở ích chưng dân.

(Trần tình - Bài số 1)

Có chẳng có tài dùng chẳng đến,

Mựa rằng thánh đức có nơi khuây

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 10)

Nguyễn Trãi từng sống trong cảnh nghèo khổ của nhân dân, ông từng vào sinh

ra tử với người dân trong khởi nghĩa, ông thấu hiểu nỗi vất vả của người dân lao khổ,

đồng thời cũng thấy được sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Vì vậy, Nguyễn Trãi ý

thức được trách nhiệm của mình đối với dân với nước. Cũng như đạo Khổng, Nguyễn

Trãi lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, cả cuộc đời cống hiến Nguyễn

Trãi luôn tự hỏi, mình đã làm gì có lợi, có ích cho dân:

Quốc phú binh cường chăng có chước

Bằng tôi nào thửa ích chưng dân

Nhưng Nguyễn Trãi cố gắng không phải vì lòng thương hại, hay sự ban ơn,

chiếu cố mà vì ông trân trọng và không muốn họ mất lòng tin ở mình:

Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách

Đem dân mựa nỡ mất lòng dân

Nguyễn Trãi là người không màng danh lợi nhưng ông lại là con người nặng

lòng ưu ái. Cả cuộc đời mình, ông luôn nguyện đem hết tài sức, trí lực để cống hiến

cho đất nước, nhân dân. Thế nhưng, nhà vua không tin dùng ông như trước. Chính

điều đó đã tạo nên bi kịch và nỗi đau trong nhà thơ khi không được tham gia gánh

vác công việc của non sông đất nước.

Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,

Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.

60

(Trần tình - Bài số 4)

Bằng ta sinh uổng có làm chi.

(Tự thán - Bài số 30)

Uổng có thân nhà cực thửa nuôi,

(Tự thán - Bài số 36)

Nguyễn Trãi nhắc nhiều đến từ “uổng”. Ở đây là cái “uổng”của một con người

không thỏa mãn với bản thân mình, một con người đáng lẽ có thể được làm nhiều hơn

nhưng lại không được trọng dụng, không được cống hiến cho dân, cho nước, phải náu

mình trong cảnh nhàn hạ.

Tư tưởng yêu nước xuất hiện như một khuynh hướng tất yếu của thời

đại.Nó là sự kế thừa tốt đẹp truyền thống yêu nước trong lịch sử dân tộc. Nếu

như tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi là thương dân, căm thù giặc, cầm vũ khí

để đánh giặc“Đem đại nghĩa thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo” thì

tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu lúc đầu gắn với tư tưởng trung quân,

về sau tư tưởng trung quân mờ nhạt đi thay vào đó là tư tưởng nhân dân đó là vì

nước vì dân mà chiến đấu “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”(Văn tế nghĩa

sĩ Cần Giuộc).Với Nguyễn Khuyến, tư tưởng yêu nước của ông là sự kế thừa của

các nhà nho đi trước nhưng có sự thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh của

thời đại. Ông yêu nước không phải bằng gươm, giáo, súng mà khi đứng trước nỗi

đau nước mất nhà tan thì ông đã vượt lên tất cả và vẫn một tấm lòng hướng về

dân, thương dân. Nguyễn Khuyến yêu quê hương, yêu thôn dã, biết ghét bọn xâm

lược, bọn phi nghĩa, biết giữ gìn tiết tháo, biết yên vui cảnh nghèo.

Thời đại Nguyễn Khuyến khủng hoảng toàn diện về hệ tư tưởng và văn hóa,

sự xâm lược của Pháp cùng với bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cho thấy nền

văn minh phương Tây thiết thực hơn Nho học.Từ đó Nguyễn Khuyến cảm thấy bất

lực, vô ích.Qua đó, có thể khẳng định nỗi đau xót, bất lực trước thời cuộc là chủ đề

xuyên suốt của thơ Nôm Đường luật nước nhà.

2.2.3. Tấm lòng kiên trung

Với khao khát cống hiến không thành, ôm nỗi đau bất lực trước thời cuộc, cách

duy nhất Nguyễn Khuyến có thể giữ gìn nhân cách lúc này là thể hiện tấm lòng kiên

trung của mình trong thơ.

61

Năm 1883, với hòa ước Harman, triều đình nhà Nguyễn đã đặt nước Nam dưới

sự bảo hộ của thực dân Pháp. Khi đó triều đình đã cử Nguyễn Khuyến làm Tổng đốc

Sơn Hưng Tuyên với mục đích dùng danh tiếng của Nguyễn Khuyến để làm nao núng

tinh thần các sĩ phu yêu nước. Ông đã đã chối từ bằng cách xin từ quan về quê vì đau

mắt.Nguyễn Khuyến cương quyết không hợp tác với Pháp, quyết định rời bỏ triều đình

về với dân. Nhưng sau đó, ông luôn cảm thấy day dứt, ông cảm thấy mình đã trốn tránh

trách nhiệm, trước cảnh nước mất nhà tan mà ông lại rút lui, bất lực. Để rồi ông lại đem

hành động từ quan của bản thân ra để tự chế giễu chính mình. Ông cho rằng mình đã

chạy làng lúc đất nước điêu linh:

Cờ đương dở cuộc không còn nước

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng

(Tự thán)

Nguyễn Khuyến tự nhận ra vị trí bản thân mình, thực chất bọn vua quan chỉ là

bù nhìn, giống như phường chèo. Vua chỉ là đấng bù nhìn, nói gì đến phận làm quan

như ông:

Vua chèo còn chẳng ra gì

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

(Lời vợ anh phường chèo)

Nguyễn Khuyến chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, ông không đành nhìn đất

nước rơi vào tay giặc, một khác ông không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên

ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Sau khi về ở ẩn, ông sống ở làng quê và xem quê

hương là chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống bình dị của mình.Nguyễn Khuyến sống

khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Lời ca ngợi tiết tháo của

người đàn bà đáng thương trong bài Mẹ mốc của Nguyễn Khuyến có cái gì đó giống

như sự quyết tâm không làm tay sai cho giặc của nhà thơ.

Sạch như nước, trắng như ngà, trong như huyết

Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ

Có thể nói, Nguyễn Khuyến lựa chọn lui về ở ẩn là cách mà nhà thơ chọn giữ

phẩm tiết của mình, đồng thời thể hiện tấm lòng thiết tha yêu nước của ông.

62

Tâm sự ái ưu này trong thơ Nôm Đường luật không phải đến Nguyễn Khuyến

mới được bộc lộ.Nỗi buồn đau bất lực trước thời cuộc của những người hết lòng vì nước

vì dân đã in đậm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.

(Thuật hứng - Bài số 23)

Ông ý thức được trách nhiệm của mình khi ơn vua chưa báo đáp được thì vẫn

phải tiếp tục làm việc, cống hiến.

Nợ quân thân chưa báo được,

Hài hoa còn bện dặm thanh vân

(Ngôn chí thi - Bài số 11)

Hay:

Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng,

Cật chưng hồ hải đặt chưa an.

(Tự thán - Bài số 2)

Nguyễn Trãi với tấm lòng khắc khoải hướng về nhân dân, ông luôn trăn trở,

không thể dứt ra mà yên về ở ẩn, vui thú điền viên được. Ông là một người có trách

nhiệm cao với dân, với nước nên khi không thể thực hiện được lí tưởng của mình,

ông cảm thấy tự hổ thẹn trong lòng.

Từ ngày gặp hội phong vân,

Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân.

Gánh khôn đương quyền tướng phủ,

Lui ngõ được đất cho thần.

Ước bề trả ơn minh chúa,

Hết khỏe phù đạo thánh nhân.

Quốc phú binh cường chăng có chước,

Bằng tôi nào thửa ích chưng dân.

(Trần tình - Bài số 1)

Bản thân ông cảm thấy từ ngày gặp được minh chúa, ông chưa báo đáp được

ơn vua, người không có kế sách gì giúp cho đất nước như ông thì nào có ích gì cho

nhân dân.

Vận trị cùng loàn chẩn mặc thì,

63

Bằng ta sinh uổng có làm chi.

Ơn vua luống nhiều phần đội,

Việc nước nào ích mỗ bề.

(Tự thán - Bài số 30)

Dù ông gặp nhiều khổ lụy nhưng tấm lòng trung với vua của Nguyễn Trãi

trước sau như một:

Những vì chúa thánh âu đời trị,

Há kể thân hèn tiếc tuổi tàn.

(Tự thán - Bài số 2)

Quân thân chưa báo lòng canh cánh,

Tình phụ cơm trời áo cha

(Ngôn chí thi - Bài số 7)

Nguyễn Trãi tiếp thu quan điểm ái dân của Khổng Mạnh. Sự tiếp thu này được

chứng minh bằng chính cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi. Riêng với thơ Nôm

được sáng tác khi nhà thơ thất sủng, tư tưởng ái dân càng được bộc lộ rõ nét:

Gia sơn đường cách muôn dặm,

Ưu ái lòng phiền nửa đêm

(Tự thuật - Bài số số 4)

Bui có một niềm ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông

(Thuật hứng - Bài số 5)

Nguyễn Trãi không thể sống để hưởng trọn chữ “nhàn” bởi ông không thể

quên đi trách nhiệm của mình với “dân mọn xóm làng”, “dân đen, con đỏ”, “với

những kẻ đầu xanh”. Đây có thể coi là lý tưởng, mục đích cả đời Nguyễn Trãi theo

đuổi. Mặc dù Nguyễn Trãi kế thừa tư tưởng Khổng Mạnh nhưng bản chất tư tưởng

nhân dân của ông mang tính nhất quán và tiến bộ hơn quan điểm nhân dân của Khổng

Mạnh.

Khổng Tử, Mạnh Tử là những người chủ trương bảo vệ nền quân chủ và hết

sức đề cao quân quyền. Khổng Tử thương dân nhưng đồng thời cũng rất coi thường

nhân dân. Ông gọi nhân dân là kẻ tiểu nhân, quan niệm về kẻ tiểu nhân và mối quan

64

hệ giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử của Khổng Mạnh mang màu sắc phong kiến rõ

nét.

Khổng Tử quan niệm: “Quân tử hiểu rõ ở đạo nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ ở điều

lợi”; “Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái”;

“Quân tử gặp lúc cố cùng giữ mình trong sạch, tiểu nhân lúc khốn thường làm bậy”

[28, tr. 52]… Qua đó cho thấy cái nhìn của Khổng Tử với người dân là thái độ coi

thường, tình thương mang tính chất ban ơn, hạ cố.

Bản thân Nguyễn Trãi luôn tự nhủ: “Lòng hãy bền đạo Khổng môn”, nhưng

chính ông cũng đã không ít lần thể hiện sự rạn nứt lý tưởng nhà Nho mà ông cả đời

theo đuổi: “Thân ta bị cái mũ nhà Nho đánh lừa đã lâu” hay “đọc hết sách mà chẳng

thấy gì”. Điều đó thể hiện sự mâu thuẫn trong quá trình tiếp thu tư tưởng vừa cho

thấy những nhận thức thực tế mang tính chất dân chủ, tiến bộ của Nguyễn Trãi. Thực

tiễn cuộc sống và chiến đấu đã cho Nguyễn Trãi cái nhìn sâu sắc và tiến bộ hơn về

người dân trong xã hội.

Khi Nguyễn Trãi bị thất sủng, trở về quê hương, sống trong cảnh đói nghèo,

tấm lòng ưu quốc ái dân thể hiện rõ nét:

Bui một tấm lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

(Thuật hứng - Bài số 5)

Nguyễn Trãi hướng về dân với một niềm trân trọng và thành kính xuất phát từ

tận đáy lòng.Nguyễn Trãi tự cho mình là kẻ phải đền ơn dân chúng. Khi là trọng thần

hưởng lộc vua ban, Nguyễn Trãi không ơn vua mà ơn những người dân đã vất vả làm

ra lộc để mình hưởng thụ:

Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày.

(Bảo kính cảnh giới -Bài số 19)

Biết ơn một người trên mình đã khó, biết ơn một kẻ dưới mình thì lịch sử chưa

có xưa nay. Nếu đúng theo quan niệm Nho gia thì Nguyễn Trãi là cha mẹ dân, cha

mẹ mà lại đền ơn con cái thì rất hiếm. Vì sự trái ngược đó mà“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy

cầy” được đánh giá là câu thơ vượt ra khỏi mọi phạm trù của tư tưởng Nho giáo, là

câu thơ kết tinh cao nhất tư tưởng của thời đại, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của

65

tư tưởng thân dân trong thế kỉ XV. Tư tưởng tiến bộ này trước Nguyễn Trãi chưa

từng có, sau Nguyễn Trãi vài thế kỉ cũng không thấy ai. Với câu thơ này, Nguyễn

Trãi chính thức đưa người dân lên một địa vị mới - vị trí làm chủ của xã hội. Thái độ

của Nguyễn Trãi cho thấy ông tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của nhân dân

đồng thời trong tận tâm ông có sư trân trọng, thành kính đối với họ. Giới hạn nhận

thức của thời đại không cho phép Nguyễn Trãi đưa dân chúng đứng lên dành quyền

làm chủ như người cộng sản trong xã hội chủ nghĩa. Song những tư tưởng tiến bộ của

Nguyễn Trãi đã khẳng định tầm nhìn sâu rộng của ông về xã hội dân chủ trong tương

lai. Như vậy, tư tưởng nhân dân của Nguyễn Trãi mang tính chất dân chủ. Nguyễn Trãi

luôn dành tình yêu và niềm tin sâu sắc dành cho nhân dân. Sự phá vỡ ý niệm thơ ngôn

chí qua chủ đề ưu quốc ái dân đã cho thấy những quan niệm mới mẻ của Nguyễn Trãi

trong sự tiếp thu ý niệm truyền thống của thơ Đường luật.

Tương tự tâm tình của Nguyễn Khuyếnkhi Nguyễn Trãi bị thất sủng, trở về

quê hương, sống trong cảnh đói nghèo, tấm lòng ưu quốc thể hiện rõ nét qua các tác

phẩm khẳng định tấm lòng kiên trung của bậc đại nho.

* Tiểu kết chương 2:

Ở chương 2, chúng tôi tìm hiểu những chủ đề mang tính truyền thống trong

thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi đó là chủ đề thiên nhiên và chủ đề ưu quốc ái dân.

Thơ ca trung đại xuất hiện hình ảnh thiên nhiên từ rất sớm, họ xem đây là

đối tượng thẩm mĩ chính trong sáng tác của mình. Sự xuất hiện của thiên nhiên trong

thơ Nôm Đường luật chứng tỏ thiên nhiên là chủ đề vĩnh cửu thể hiện những tâm

sự, đặc biệt là sự u buồn, có thể làm dịu bớt những nỗi buồn. Các hình ảnh thiên

nhiên gợi ra bản chất, thần thái của cảnh vật, đồng thời ẩn chứa hình bóng con người

với những nỗi niềm, tâm tư, tình cảm.Trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến

và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thiên nhiên chuyên chở nỗi niềm tâm trạng.

Thiên nhiên trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có sự thay đổi, cách tân theo

hướng dân chủ hóa, khi mà tác giả tác giả lấy những cái bình dị, đời thường trở

thành đối tượng của cái đẹp. Đến thơ Nôm Nguyễn Khuyến, ông đã phát triển những

66

yếu tố đời thường xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi, tạo thành bức tranh thiên nhiên,

cảnh vật có màu sắc, dấu ấn riêng.

Nếu như tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi là thương dân, căm thù giặc, cầm

vũ khí để đánh giặc thì đến Nguyễn Khuyến, đứng trước nỗi đau mất nước ông vẫn

hướng tấm lòng về dân, thương dân, ghét bọn xâm lược, phi nghĩa, yên vui cảnh

nghèo.

Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến đều là những nhà thơ, anh hùng dân tộc mà thơ

văn cũng như cuộc đời luôn gắn liền với sự nghiệp cứu dân cứu nước. Cả cuộc đời mình,

hai ông chỉ mong góp sức để nhân dân được sống yên bình, hạnh phúc.Đó là phương

châm sống, lí tưởng mà hai tác giả lựa chọn và suốt đời phấn đấu thực hiện.

67

Chương 3

NHỮNG CHỦ ĐỀ MANG TÍNH THỜI ĐẠI TRONG THƠ NÔM ĐƯỜNG

LUẬT CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG TƯƠNG QUAN

VỚI QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

3.1. Chủ đề con người đời thường

Chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi tam giáo, văn học Việt Nam thời trung đại

chủ đề con người đời thường không phải là chủ đề lớn và xuất hiện nhiều trong sáng

tác của các tác giả. Thông thường con người trong văn học trung đại Việt Nam thường

mang những chức năng, phận sự, sự hành đạo, ít nhắc đến vấn đề đời thường xoay

quanh cuộc sống của con người. Nếu trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, người

đọc cảm nhận được hình ảnh“con người trần thế” thì trong thơ Nôm Đường luật của

Nguyễn Khuyến, hình ảnh con người đời thường với nhiều thói hư tật xấu đã được

khắc họa. Thơ Nôm Đường luật qua đó đã có sự vận động về chất.

3.1.1. Con người trần thế trong Quốc âm thi tập

Nguyễn Trãi là một nhà yêu nước, một nhà nhân đạo, nhà văn hóa lớn. Ông

là người có tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho đất nước. Nguyễn Trãi xuất hiện

ở cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV, ông là tác giả đầu tiên của giai đoạn văn học

trung đại Việt Nam chú ý đến chủ đề đời thường. Ở giai đoạn lịch sử khi mà văn

học vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của hình mẫu lí tưởng, những quy định, khuôn mẫu,

chuẩn mực khi văn chương chú trọng nhiều đến việc ca tụng triều đình, thánh đế,

sự xuất hiện của chủ đề con người đời thường trong thơ Nguyễn Trãi có ý nghĩa

như “những sáng tạo đột xuất, vượt qua thông lệ, vượt qua mọi ràng buộc…” [26,

tr. 20].

Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm, trong một thời gian

dài phải xa quê hương, nỗi nhớ cha mẹ già, nỗi nhớ người thân, hình ảnh quê hương

lối cũ trở đi trở lại đầy day dứt:

Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,

Viên hạc chăng hờn lại những thương.

(Tự thán- Bài số 1)

68

Trải qua những day dứt trăn trở, Nguyễn Trãi đã quyết định treo ấn từ quan vào

khoảng năm 1439 và trở về Côn Sơn mong được “lánh trần”. Ông trở về Côn Sơn -

mảnh đất hằng đi về trong nỗi nhớ mong của nhà thơ bao ngày để “cởi tục, tìm thanh”thế

nhưng khi về quê thì Nguyễn Trãi vẫn canh cánh một nỗi ưu tư.

Sau khi từ quan về ở ẩn, ông chọn lối sống thanh bạch, giản dị, sống như một

người dân bình thường, vui với thú điền viên:

Cơm ăn chẳng quản dưa muối,

Áo mặc nài chi gấm thêu

(Thuật hứng - Bài số 22)

Hình ảnh những người lao động bình thường, lam lũ được tái hiện trong thơ

một cách trân trọng, đầy yêu thương. Đó là hình ảnh “thằng chài” hay “mấy đứa ngư

tiều” rất đáng yêu:

Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ

Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân.

(Tự thán - Bài số 32)

Kể ngày con nước toan triều lạc

Bạn chúng thằng chài chác cá tươi.

(Tự thán - Bài số 6)

Ông luôn mãn nguyện với cuộc sống bình dị nơi thôn quê:

Quê cũ nhà ta thiếu của nào,

Rau trong nội, cá trong ao.

(Mạn thuật - Bài số 13)

Với ông sống phải vô tư, không màng danh lợi, không tham giàu sang phú

quý. Với tư cách là một nhà Nho liêm khiết, một vị quan đầu triều thương dân như

con, ông chưa từng màng tới công danh để tư lợi. Vì vậy, trong thơ văn của ông luôn

khuyên người đời hãy bền đạo trung dung đừng màng hư danh:

Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng

Màng chi phú quý nhọc khoe khoang

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 2)

Nếu cố tình chạy theo những thứ đó, con người chỉ nhọc công vô ích, chỉ mang

nhọc vào thân mà thôi:

69

Phúc gặp ngần nào ấy mệnh,

Làm chi đua nhọc tổn công nhiều.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 8)

Vắn dài được mất dầu thiên mệnh,

Chạy quấy làm chi cho nhọc nhằn.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 48)

Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi rất quan tâm đến những nhu cầu cần thiết đời thường của

mỗi cá nhân như ăn, ở, mặc… Ông quan niệm mỗi người nên được hưởng một cuộc sống

đầy đủ, không nên thừa thãi. Ông chỉ mong muốn được đủ ăn, đủ mặc như một người bình

thường nhất:

Bữa ăn dầu có dưa muối,

Áo mặc nài chi gấm là.

(Ngôn chí thi - Bài số 3)

Áo mặc miễn là cho cật ấm,

Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.

(Bảo kính cảnh giới - Bài Huấn nam tử)

Nguyễn Trãi quan niệm sống trên đời cần nhân đức, trong sạch, ông không coi

trọng vật chất.Với ông, điều đáng quý và bền lâu hơn tất cả chính là đạo đức, tình

nghĩa. Gia tài lớn nhất ông dành cho con cháu là “cái đức”:

Tích đức cho con hơn tích của,

Đua lành cùng thế mựa đua khôn.

(Tự thán - Bài số 41)

Chớ lấy hại người làm ích kỉ,

Hãy năng tích đức để cho con.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 22)

Ông khuyên mọi người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn phải giữ khí tiết,

phẩm chất của mình, sống trong sạch, lương thiện:

Đói khó thì làm việc ngửa tay,

Chớ làm sự lỗi quỷ thần hay.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 44)

70

Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa,

Mựa tây mặt khiến lẫn lòng đam.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 46)

Qua những lời khuyên nhẹ nhàng được rút ra từ kinh nghiệm sống của nhà thơ,

cho ta thấy được vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi - một con người bình thường, sống

tự nhiên, giản dị, nhân ái, chan hòa giữa cuộc đời.

Nguyễn Trãi viết những bài thơ trong Quốc âm thi tập chủ yếu vào khoảng

thời gian cuối đời, khi nhà thơ bước vào tuổi “lão niên” - những năm tháng “cảnh đời

không thuận”. Chính vì vậy, ta thấy rất rõ khát vọng của Ức Trai về một thời trai trẻ

cùng cảm hứng xót xa, nuối tiếc. Qua tập thơ, nhà thơ đã dành cho tuổi trẻ nhiều vần

thơ xúc động với những thông điệp đầy giá trị nhân bản.

Trong tập thơ, Nguyễn Trãi thể hiện tâm trạng tiếc nuối tuổi xuân.“Xuân” có

nghĩa là mùa xuân:

Đông đà muộn lại sang xuân,

Xuân muộn thì hè lại đổi lần.

(Thì lệnh môn - Thu nguyệt tuyệt cú)

Đông phong từ hẹn tin xuân đến,

Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.

(Thì lệnh môn - Bài Xuân hoa tuyệt cú)

Bên cạnh ý nghĩa là mùa xuân, từ “Xuân” còn có ý nghĩa tượng trưng cho

tuổi trẻ. Trong thơ Nguyễn Trãi “xuân” thường gắn với cảm xúc xót xa, tiếc nuối.

Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm,

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm.

(Tích cảnh thi - Bài số 7)

Thấy cảnh lòng thơ càng vướng vít,

Một phen tiếc cảnh một phen thương.

(Tích cảnh thi - Bài số 8)

Nguyễn Trãi đã bộc bạch nỗi lòng của mình, xót xa, nuối tiếc tuổi xuân và một

thời tuổi trẻ, nhà thơ như muốn níu kéo mùa xuân trở lại:

Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi,

Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân.

(Thì lệnh môn - Vãn xuân)

71

Có lúc Nguyễn Trãi không dám bộc bạch nỗi lòng của mình, ở những bài thơ

Nôm viết về mùa xuân, Nguyễn Trãi còn nói hộ tâm sự của bao người khác. Ông

cảm thông sâu sắc và lên tiếng nói lên tâm trạng của người thiếu nữ đang tiếc nuối tuổi

xuân, muốn níu giữ kéo lại những tháng ngày tươi đẹp nhất:

Diếp trúc còn khoe tiết cứng

Rày liễu đã rủ tơ mềm.

Lầu hồng có khách cầm xuân ở,

Cầm ngọc tay ai dắng hỏi thêm.

(Tích cảnh thi - Bài số 2)

Nguyễn Trãi có cảm xúc xót xa, nuối tiếc tuổi xuân do ông nhận thức được thời

gian một chiều, tuyến tính, thời gian một đi không trở lại. Khác với các nhà thơ trung

đại khi quan niệm thời gian tuần hoàn, quay vòng, Nguyễn Trãi nhận ra sự trôi chảy

chóng vánh của tuổi xuân, quy luật nghiệt ngã của thời gian, tạo hóa, từ đó là cơ sở

hình thành tâm trạng nuối tiếc.

Nguyễn Trãi đã từng có thời trai trẻ lừng lẫy. Ở thời trai trẻ ấy, ông đã được sống,

cống hiến hết mình cho nhân dân và đất nước, được thực hiện lý tưởng sống mà mình đã

lựa chọn.Tuy vậy, thời trai trẻ đó đã trôi qua, khi chợt nhận ra thì ông đã già.Chính sự

đối lập giữa thực tại và quá khứ càng khiến cho cảm hứng về tuổi xuân, tuổi trẻ của

Nguyễn Trãi đậm phong vị xót xa, tiếc nuối.

Có lúc ông đã vẽ lên một bức tranh lao động mà chủ nhân là mình. Hình ảnh Nguyễn

Trãi khi đi cày cuốc, cấy trồng với phong thái nhàn nhã hiện lên trong khung cảnh vừa hăng

say lao động, vừa thường thức thiên nhiên:

Cày gióng tuyết ngâm đòi cảnh,

Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi.

(Ngôn chí - Bài số 12)

Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen

(Thuật hứng - Bài số 24)

Qua tìm hiểu, ta thấy được con người Nguyễn Trãi, một con người “trần thế

nhất trần gian”, hình ảnh Nguyễn Trãi con người đời thường biết tiếc nuối tuổi xuân

của mình.

72

Nguyễn Trãi khuyên con phải biết lựa chọn cái hay cái tốt mà học, cần biết

tránh những cái đen tối xấu xa. Nguyễn Trãi cũng khuyên con:

Ở đấng thấp thì nên đấng thấp,

Đen gần mực, đỏ gần son.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 21)

Khi viết về con, Nguyễn Trãi có những vần thơ khuyên con chớ nên lười biếng

mà phải biết chăm lo nuôi sống bản thân.

Tay ai thì lại làm nuôi miệng,

Làm biếng ngồi ăn lở núi non.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 22)

Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi khuyên con không nên sợ nghèo, ham giàu, chạy

theo danh lợi, xu phụ người giàu sang. Ngoài ra, ông khuyên con nên sống có đạo

đức, làm người phải biết phân biệt đúng sai, làm điều thiện, tránh điều ác, có khí

tiết, không uốn mình theo thế thái, sống nhay thẳng, có hiếu, trung cần.

Tài đức thì cho lại có nhân,

Tài thì kém đức một hai phần.

Thờ cha, lấy thỏa làm phép,

Rập chúa hằng ngay lẫn cần.

Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,

Đem dân mựa nỡ mất lòng dân,

Của chăng phải đạo, làm chi nữa,

Muôn kiếp nào hề lụy đến thân.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 57)

Nguyễn Trãi dạy con cách sống ở đời là phải biết học những điều tốt đẹp từ

sách vở, cuộc sống và tránh học cái xấu xa, đen tối.Trong mối quan hệ với người

khác, Nguyễn Trãi khuyên con cần dò đoán thấy trước và giữ mình, vì lòng người

hiểm sâu không sao biết hết được cho nên phải sống nhường nhịn, đúng mực…

Sự thế xá phòng khi được mất,

Lòng người tua đoán thuở mừng thương.

(Bảo kính cảnh giới - Bài số 1)

73

Qua chủ đề con người trần thế trong Quốc âm thi tập, độc giả nhận ra một

bước tiến đáng kể của thơ Nôm Đường luật nói riêng, văn học trung đại nói chung.

Tuy nhiên, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu thơ vẫn nằm trong khuôn khổ giáo huấn

dù đó là những lời khuyên răn chân thành, giản dị được đúc kết bằng cả cuộc đời Ức

Trai.

3.1.2. Con người đời thường trong thơ Nguyễn Khuyến

Tiếp nối Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến cũng để lại trong sáng tác thơ Nôm

của mình rất nhiều sáng tác thơ về chủ đề đời thường với một diện mạo đa dạng,

phong phú. Qua các sáng tác của Tam Nguyên Yên Đổ chúng ta thấy khá rõ nét cuộc

sống cá nhân của ông. Chủ đề con người đời thường trong thơ Nguyễn Khuyến thoát

li được cảm hứng giáo huấn mà mang nặng tâm sự riêng, nỗi niềm riêng, như một

nhu cầu sẻ chia, giải tỏa nỗi lòng u uẩn.

Tác giả đã tái hiện hình ảnh bản thân vào trong thơ qua bức chân dung tự họa

mình một cách sinh động và đầy đủ. Nguyễn Khuyến đã tự vẽ chân dung về bản thân

mình với đầy đủ về hình dáng, tuổi tác và thói hư.

Bức chân dung về bản thân được ông họa ra rất rõ nét, hình ảnh một ông già khắc

khổ “mặt sạm”, “mặt gầy võ”, gầy võ đến cả dáng hình “hình gầy võ”, “phờ phạc”:

Mặt sạm, râu đốm bạc, mắt lại đỏ hoe.

(Tự than)

Da mồi, tóc bạc, ta già nhỉ

(Ta lại người cho hoa trà)

Có khi ông còn miêu tả rất kĩ, cận cảnh về bản thân, từ mái tóc, hàm răng, đến

đôi mắt và đặt biệt là tư thế “Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say”.

Mái tóc chòm xanh, chòm lốm đốm,

Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.

Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ

Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say

(Than già)

Có lúc ông miêu tả mình:

Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang

Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng

(Tự trào)

74

Thậm chí ông còn đem cái gàn dở của mình ra để mua vui cho thiên hạ, hiện

lên trong thơ ông là hình ảnh một ông say.

Khi vui chén rượu say không biết

Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa

(Cáo quan về nhà ở)

Một “anh giả điếc”:

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác ngỡ là ngây

… Hỏi anh, anh cứ ậm ờ.

(Anh giả điếc)

Hay một con người gàn dở, khờ khạo và lập dị:

Đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ,

Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.

(Mẹ Mốc)

Nguyễn Khuyến đã cười cái già nua, gàn dở, vô dụng của bản thân. Ông đã tự

họa bức chân dung diện mạo của mình một cách chi tiết.

Bên cạnh đó, bức chân dung tự họa của ông còn là hình ảnh một con người

hiếu học được khắc họa rõ nét.Con đường thi cử của Nguyễn Khuyến khá lận đận.

Với tổng số chín lần đi thi, thì bốn lần thi trượt kì thi Hương, ba lần thi trượt kì thi

Hội.Bản thân ông không dấu nổi ngậm ngùi, cay đắng.

Nghĩ tôi gớm cái mình tôi,

Tuổi đã ba mươi kém một thôi..

…Bốn khoa hương thí không đâu cả,

Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.

(Giễu mình chưa đỗ)

Tuy hoàn cảnh nghèo, nợ nần:

Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi.

(Than nợ)

Và nghèo đến độ:

Danh giá nhường này không nhẽ bán

(Than nghèo)

75

Nguyễn Khuyến vẫn quyết tâm vượt khó, mang bảng vàng về sau khi “lều

chõng”.

Quyết chí phen này trang trải sạch,

Cho đời rõ mặt cái thằng tao.

(Than nợ)

Cho đến năm 1871, ông mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình.Ông đã phải lận

đận ba mươi năm đèn sách, với chín khóa lều chõng.Có thể thấy, ông là một con

người có ý chí, đầy cố gắng quyết tâm.Tuy mất nửa đời vật lộn chốn trường thi nhưng

khi ông đã đạt đến đỉnh cao thì ông lại nhận ra một thực tế dẫu “bia xanh, bảng vàng”

cũng chỉ vô dụng cho đất nước.Nguyễn Khuyến cảm thấy mình vô dụng trong khi

tuổi già đang đến, ông nhận thấy tuổi già bất lực nên thường băn khoăn suy nghĩ về

nó. Ông thấy cảnh già thật không có gì vui vẻ cả khi“ăn dưng” - gánh nặng cho con

cháu.

Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,

Có rượu thời ông chống gậy ra.

(Lên lão)

Hình ảnh Nguyễn Khuyến hiện lên với nhiều khía cạnh khác nhau. Lúc còn là

anh khóa Thắng, lều chõng đi thi, tuy nợ nần đến cảnh lãi mẹ đẻ lãi con, nợ đến kỳ

không trả được, lãi tính gộp vào gốc rồi cứ thế nhân lên mãi, mùa màng thì không

được mùa. Tuy nợ thật, nghèo thật, nhưng ý chí của anh Khóa mới là cái đáng để ta

trân trọng.Cuộc sống nghèo khó với những sự vất vả đã giúp Nguyễn Khuyến tạo nên

nét riêng biệt, khẳng định cái tôi dí dỏm.Dù trong cảnh nợ nhưng anh vẫn quyết chí

vượt qua đến với vinh quang.Chỉ có cái “thằng tao” với sự quyết chí, đầy sức mạnh

đối diện với cái cảnh thực tại nợ nần tầm thường.

Nếu như Nguyễn Trãi viết về tuổi tác của bản thân bằng những câu thơ có

phần buồn tủi:

Vừa sáu mươi, dư tám chín thu,

Lưng gầy, da sỉ, tướng lù cù

(Ngôn chí thi - Bài số 14)

Thì Nguyễn Khuyến,cùng chủ đề đó, đã viết một cách dí dỏm, thú vị:

76

Một năm một tuổi, trời cho tớ,

Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…

(Khai bút)

Có thể thấy, Nguyễn Khuyến đã tự động viên mình, khẳng định năng lực, phẩm

chất, sự quyết tâm để vượt qua mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nguyễn Khuyến tuy làm đến chức quan to nhưng cuộc sống chỉ đủ ăn. Khi

ông rời chốn quan trường trở về với cuộc sống chốn dân quê, cũng phải chịu những

cảnh thiên tai, đã vậy ông còn phải nộp thuế cho quan tây và thêm phần trả nợ cuộc

sống đầy cơ cực:

Năm nay cày cấy chân thua

Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa

Phần thuế quan tây phần trả nợ

Nửa công đứa ở nửa công thuê bò

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua

Tằn tiện thế mà không khá nhỉ

Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho

(Chốn quê)

Tuy vậy, thơ ông phải phải chỉ chứa đựng cái buồn mà vẫn xuất hiện những

nét vui vẻ, dí dỏm.Có khi ông đã đùa vui vợ mình, với một nụ cười đầy hóm hỉnh:

Ta chẳng như ai lối nguyệt hoa

Trước là ngẫm nghĩ nỗi gần xa

Lấy năm thì cũng đành ngôi chính,

Dẫu bảy càng thêm vững việc nhà

(Khuyên vợ cả)

Khi phát hiện ra sự bù nhìn, nhu nhược của triều đình trước thế lực của giặc

Pháp, sự đổ nát của nền Hán học đương thời.Ông đã quyết định từ quan trở về làm

người dân quê:

77

Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang

Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.

Cơ đang dở cuộc, không còn nước

Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng

Mở miệng nói ra gàn bát sách,

Mềm môi chén mãi tít cung thang.

Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!

(Tự trào)

Bức chân dung tự họa của Nguyễn Khuyến hiện lên thật hài hước. Ông đã tự

khắc họa mình bằng một từ phủ định “chẳng” thật hóm hỉnh và chốt lại bằng hai chữ

“làng nhàng”. Ấn tượng ban đầu về bức chân dung đấy không có gì đặc biệt thay bằng

bằng nét phác thông thường thì nhà thơ sử dụng một loạt những phủ định. Đến những

câu thơ sau bức chân dung Nguyễn Khuyến có thêm những nét “nguệch ngoạc” khác,

khi nhà thơ khéo léo, hóm hỉnh chêm xen vào đó những tật xấu của mình: cờ bạc, tổ

tôm, rượu chè… Dường như tác giả đang xoáy sâu vào bức chân dung tự họa của mình

những thói xấu về dáng người, tính cách, thói quen để cười cợt, chế giễu chính bản

thân mình.

Có khi ông nhắc đến bản thân như một kẻ vô dụng, một kiểu người thừa trong

gia đình và xã hội. Ông đã tự khoe ra sự già nua, vô dụng, lẩm cẩm của bản thân. Các

nhà nho xưa thường than thở tuổi già đến nhanh mà họ chưa kịp làm được bao nhiêu,

còn Nguyễn Khuyến nhắc đến tuổi già để để nói về sự vô dụng của bản thân. Ông đã

nhắc tới tuổi già với những biểu hiện già yếu của mình bằng hình thức “tự trào”thật chua

chát, thông qua hình ảnh một ông già vô tích sự:

Năm nào năm nảo hãy còn ngây,

Sầm sập già đâu đã đến ngay.

Mái tóc phần sâu phần lốm đốm,

Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay.

Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,

Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say.

Còn một nỗi này thêm chán ngán,

Đi đâu lủng củng cối cùng chày.

(Than già)

78

Đáng cười là lối sống với vẻ ngoài vô trách nhiệm đối lập với cảnh sống chung

quanh khi “Kẻ ở trên đời lo lắng cả”. Vậy mà ông vẫn khật khưỡng, nhởn nhơ:

Câu thơ được chửa, thưa rằng được

Chén rượu say rồi, nói chửa say

(Tự thuật)

Nguyễn Khuyến đã tự cười con “người thừa” là mình, một con người vô tích

sự, không còn vai trò trong sứ mệnh lịch sử. Tác giả tự cười mình tức là đã tự nhận

thức về chính bản thân mình.Ông đã tự chê trách bản thân vô trách nhiệm bằng lẽ

sống của người có trách nhiệm.

Bên cạnh việc miêu tả những nỗi vất vả, cơ cực của người nông dân thì Nguyễn

Khuyến cũng nói đến những niềm vui của họ. Đó là thời khắc mọi người vui tươi đón

chào năm mới, giây phút giao thừa ở một vùng chiêm trũng, mọi nỗi lo âu hàng ngày

đã gạt sang một bên.

Ình ịch đêm qua trống các làng,

Ai ai mà chẳng rước xuân sang.

Rượu ngon nhấp miệng đưa vài chén,

Bút mới xô tay thử mấy hàng.

Trước lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,

Cách ao lẹt đẹt pháo thầy nhang.

(Khai bút)

Nguyễn Khuyến sống rất chan hòa với gia đình, bạn bè, hàng xóm. Những tình

cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị

chân thật, đáng quý.

Nguyễn Khuyến với vai trò người chồng, người cha, một thành viên trong gia

đình, ông rơi vào bi kịch tinh thần sâu sắc, khi chưa ở bên chăm sóc cho gia đình.

Nguyễn Khuyến là con người sống dưới chế độ phong kiến nên tư tưởng đạo đức Nho

giáo có ảnh hưởng rất lớn tới ông. Cũng như bao người đàn ông trong xã hội cũ, ông

có tới bốn bà vợ.Đó cũng là một hạn chế của Nho giáo trong việc thực hiện chế độ “đa

thê”.Tuy nhiên, với vợ, ông không thể hiện uy quyền và ép họ vào những luật lệ khắt

79

khe mà Nho giáo đã đề ra với người phụ nữ.Ông luôn đề cao, trân trọng và coi vợ là

người bạn tri âm tri kỉ của đời mình.

Nguyễn Khuyến là một người chồng thương vợ nên ông rất quan tâm đến suy

nghĩ của bà. Khi bà cả ghen, ông đã làm thơ để khuyên vợ, động viên, phân trần và

tỏ rõ tình cảm của mình với vợ:

Mọi việc cửa nhà là việc nó,

Mấy con trai gái ấy con ta.

Thôi đừng nghĩ việc chi chi cả:

Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hòa!

(Khuyên vợ cả)

Ông cưới bà cả khi ông 18 tuổi, vợ cả là người mà ông vô cùng yêu quý, bà đã

cùng ông trải qua biết bao hoạn nạn, là người lo lắng, đỡ đần, chăm sóc ông để ông

an tâm thi cử và có thời gian chăm lo việc nước. Bà cùng ông chung sống suốt năm

mươi năm trời và suốt năm mươi năm ấy một lòng chung thủy với chồng, yêu con hết

mực:

Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm,

Một giấc mộng tựa cây hòe đã thành giấc ngủ dài.

(Khóc vợ)

Nguyễn Khuyến với vai trò là người đàn ông, người chồng - trụ cột trong gia

đình, ông mong muốn mang lại cuộc sống ấm no cho người vợ người thân của mình.

Nhưng chưa bao giờ bà cả được sống trong cảnh vinh hoa phú quý, giàu sang bởi

Nguyễn Khuyến là một ông quan thanh liêm, cuối đời lại cáo quan về quê ở ẩn và với

ông cảnh vinh hoa phú quý bởi đời chỉ mơ hồ như một giấc mộng mà thôi.

Với ông vợ là người quan trọng nhất trong cuộc đời. Ông yêu vợ như vậy

nhưng bản thân ông lại không đem lại được sống sống no ấm, đủ đầy cho vợ, ông

cảm thấy mình đau đớn, day dứt vô cùng. Cuộc đời con người không ai tránh được

quy luật nghiệt ngã “sinh - lão - bệnh - tử” và bà nghè cũng vậy:

Nấm mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà!

(Khóc vợ)

80

Ông hy vọng rằng ở “nơi tĩnh thổ” lại là nơi “vui sướng của bà” bởi ở nơi đó

bà sẽ không còn phải lo toan, gánh nặng trần thế, những điều mà ông đã không làm

được cho bà.

Với vai trò một người cha trong gia đình, ông luôn quan tâm, lo lắng cho các

con. Ông vui khi con dựng được nhà, khi con đỗ đạt cao(Mừng con dựng được nhà).

Không chỉ vui vì niềm vui của con mà nhiều khi nhà thơ cũng thấy lo lắng cho

con. Đặc biệt là người con cả Nguyễn Hoan. Đó là người con ông vô cùng yêu thương,

tin tưởng. Ông luôn dõi con từng chặng đường, từng bước đi của con từ khi con đi thi

cho đến lúc con đỗ đạt và ra làm quan. Nguyễn Khuyến dù nhận ra sự suy đồi của

đạo Nho, sự hạn chế của lối văn chương cử tử nhưng ông vẫn mong muốn con đi thi

sẽ đỗ đạt cao vì cho đến lúc này vẫn chưa có con đường nào khác để phò đời, giúp

vua. Trước khi cáo quan về quê, ông có sáng tác bài Thơ khuyên học bằng chữ Nôm:

Đen thì gần mực, đỏ gần son.

Học lấy cho hay, con hỡi con!

Cái bút, cái nghiên là của quý.

Câu kinh, câu sử ấy mùi ngon!

Nguyễn Khuyến là một nhà nho chân chính, ông tiến thân bằng con đường học

hành khoa cử vì vậy hơn ai hết không hiểu vai trò của việc học. Ông muốn học, đi thi

không phải để hưởng danh, vinh hoa mà để phò vua giúp nước. Hiểu được vai trò của

việc học ông luôn khuyên răn các con mình miệt mài kinh sử. Ông khuyên con phải

biết lựa chọn cái hay cái tốt mà học, những cái đen tối xấu xa thì phải biết tránh đi:

Đen thì gần mực, đỏ gần son.

Học lấy cho hay, con hỡi con!

Có thể thấy, Nguyễn Khuyến rất chú ý nhìn con người trong trạng thái con

người nhân bản - đời thường, con người ở trạng thái thực thể tự nhiên. Ông đã đem

đến cho văn học dân tộc bức kí họa chân dung đầu tiên về đời sống cá nhân chân

thực, cụ thể, chi tiết và sâu sắc.

Rõ ràng, chủ đề con người đời thường trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn

Khuyến thể hiện rất cụ thể, sinh động và chi tiết. Nếu Quốc âm thi tập của Nguyễn

Trãi bắt đầu đề cập tới chủ đề đời tư thì thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến đã

có nhiều dấu ấn cách tân rõ rệt. Thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến không chỉ

81

dừng lại ở phác họa con người trần thế như trong Quốc âm thi tập mà đã tự họa được

một bức chân dung mang tính tự trào và tính lịch sử cụ thể cao.

3.2. Chủ đề phản ánh xã hội thực dân nửa phong kiến

Do bối cảnh lịch sử quy định, trong thơ Nguyễn Trãi chủ đề phản ánh xã hội

thực dân nửa phong kiến chưa từng xuất hiện. Phải đến thời đại Nguyễn Khuyến

sống,khi nước ta bắt đầu mất quyền tự chủ - thực dân Pháp đặt nền đô hộ trên khắp

lãnh thổ nước ta, chủ đề lên án xã hội thực dân nửa phong kiến mới xuất hiện và được

bộc lộ rõ nét ở một số phương diện chính: Lên án đời sống văn hóa - xã hội thực dân

nửa phong kiến và đả kích hình ảnh con người mới trong xã hội thực dân nửa phong

kiến.

3.2.1. Lên án đời sống văn hóa - xã hội thực dân nửa phong kiến

Khi thực dân Pháp tràn vào Việt Nam, chúng tiến hành xâm lược nước ta bằng

cách ra sức bóc lột sức người, sức của của nhân dân tađể làm giàu cho két bạc đầy ắp

của ngân hàng Đông Dương. Chúng đề ra những chính sách khai thác thuộc địa, bắt

nhân dân ta phải vào những nơi nguy hiểm để tìm cho được những sản vật quý giá.

Chúng ra sức ép dân ta đi làm phu đập đường, khai mỏ ở miền núi, hàng vạn người

dân ta bị thực dân Pháp bắt đi khai sơn, phá thạch làm con đường xe lửa Hà Nội

- Lào Cai. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn rừng thiêng

nước độc, Nguyễn Khuyến đã lên án phản ánh hiện thực đó qua bài thơ Hoài cổ:

Nghĩ chuyện đời xưa nay cũng nực cười

Sợ đời đến thế, thế thời thôi

Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm

Nước độc ma thiêng mấy vạn người

Khoét rống ruột gan trời đất cả

Phá tung phên giậu hạ đi rồi

Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ

Mây trắng về đâu nước chảy xuôi

Không chỉ vậy, nhân dân ta còn bị thực dân Pháp áp đảo văn hóa. “Hội Tây”,

“hội thăng bình” diễn ra vào ngày 14 tháng 7, là ngày kỉ niệm cách mạng tư sản Pháp

thắng lợi, tôn vinh sự kiện thực dân Pháp phá ngục Paxti.

82

Nhiều người đã vì “mồi phú quí, bả vinh hoa” mà chạy theo làm tay sai cho

thực dân Pháp. Bọn chúng chỉ cần có địa vị, tiền bạc thì cho dù có làm bất cứ việc gì

gây hại cho quốc gia dân tộc cũng không từ bỏ. Khung cảnh hội Tây diễn ra với những

cảnh nhố nhăng:

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo

Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo

Bà quan tênh nghếch xem bơi trải

Thằng bé lom khom nghé hát chèo

Cấy sức cây đu nhiều chị nhún

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo

Khen ai khéo vẽ trò vui thế,

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

(Hội Tây)

Thời đó, khi thực dân Pháp cai trị nước ta, hàng năm cứ đến ngày này thực

dân Pháp lại tổ chức hội hè ở rất nhiều tỉnh lị, đặc biệt ở Hà Nội. Chúng thường bày

các trò đê tiện như liếm chảo, chọc thùng, leo cột mỡ… để làm trò mua vui cho mọi

người. Những trò “bơi trải”, “hát chèo” đã bị chúng tô vẽ lại.Người đến xem với thái

độ hiếu kì, thể hiện rõ qua từ “tênh nghếch”. Nguyễn Khuyến cảm thấy đau xót trước

những con người nước ta đã vô tình mắc mưu kẻ thù bị lôi cuốn vào cái xấu xa mà

không hay biết.

Mặc dù Nguyễn Khuyến đã cáo quan, ông đã từ bỏ địa vị Tổng Đốc Sơn Hưng

Tuyên, trước cảnh vong quốc, bản thân ông thấy mình có bổn phận dùng văn tài để

bảo vệ đất nước.Khi thời thế thay đổi, lòng người cũng khác.Tầng lớp sĩ phu yêu

nước chia năm sẻ bảy.Những người yêu nước sâu sắc sẽ đứng về phía nghĩa binh

chống giặc. Những người có lương tri nhưng không đủ nghị lực theo con đường đó,

sẽ quay về chốn vườn cũ, bầu bạn với rượu, hoa, thơ, trăng để danh lợi không bị “bùn

pha sắc xám”. Đối với những kẻ hám danh cầu lợi sẽ đi theo tín điều trung dân, mù

quáng, để rồi trở thành những con rối chỉ biết khoanh tay, phủi áo. Nhìn thấy đa số

quan lại lúc bấy giờ chỉ cốt dùng con đường khoa hoạn để được “vinh thân phì gia”

chứ thực chất không nghĩ gì đến quyền lợi của đất nước và nhân dân khiến Nguyễn

Khuyến cảm thấy buồn sầu:

83

Nước non man mác về đâu tá

Bè bạn lơ thơ sót mấy người

Đời loạn đi về như hạc độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi

(Cảm hứng)

Đã vậy, những kẻ ở lại chốn phồn hoa gió bụi, lại không chịu biết mình,

nhân phẩm, tài cán thì thấp mà luôn ra vẻ. Trong bối cảnh đất nước lúc đó, hành

động của họ như một sự lăng mạ tầng lớp, dân tộc mình. Trước bối cảnh đó,

Nguyễn Khuyến vô cùng căm giận, ông đã lên án những hiện tượng xã hội thực

dân nửa phong kiến.Vào thời Nguyễn Khuyến, đa số quan lại đều là những kẻ bất

tài, vô dụng, nhờ có thế lực và tiền bạc mới được làm quan. Nguyễn Khuyến nằm

trong số ít những quan lại vẫn giữ vững phẩm chất, nhân cách của người làm quan.

Ông đã lên án chế độ khoa cử mạt vận đương thời. Nguyễn Khuyến với tài

năng thực sự của bản thân ông đã thi đỗ cả ba kì thi và được gọi là Tam nguyên Yên

Đổ. Khác với nhiều người trong xã hội lúc đó nhờ sự can thiệp của đồng tiền. Ông

đã phê phán hiện thực thi cử lúc bấy giờ:

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi

(Tiến sĩ giấy)

Ngoài ra, nhiều người đã lợi dụng thế lực của thực dân Pháp để kiếm được tấm

bằng cử nhân, tiến sĩ rồi tiến vào chốn quan trường vênh váo, ra vẻ đài các lên mặt hống

hách.Đó là những kẻ bất tài nhờ luồn cúi mà nên danh phận.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh thế mới hời!

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

(Vịnh tiến sĩ giấy II)

Những hạng người bất tài này chỉ là những hình giấy được kẻ vẽ bằng những

nét son, tài cán không có:

Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,

Giấy má nhà bay đáng mấy xu?

84

Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,

Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.

(Vịnh tiến sĩ I)

Bản thân Nguyễn Khuyến là một “văn khôi”, ông là một khoa bảng chân chính,

thế nhưng ông cũng tự mang bản thân mình ra chế giễu để qua đó gián tiếp chỉ trích,

khuyên răn người đời. Việc ông mang bản thân mình ra chế giễu đã tạo được cái thiện

cảm với người đương thời, sự tự chế giễu mang tính xây dựng, đóng góp:

Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ

Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng?

(Tự trào)

Khi ông chứng kiến bọn quan lại tham nhũng, tuy không trực tiếp vạch ra tội

ác nhưng Nguyễn Khuyến đã chỉ nhân việc bọn quan lại triều Minh bóp nặn lấy ba

trăm lượng vàng của Vương Viên Ngoại trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du

mà viết:

Có tiền việc ấy có mà xong nhỉ

Đời trước làm quan cũng thế a!

(Kiều bán mình)

Như vậy, Nguyễn Khuyến đã lên án đời sống văn hóa - xã hội thực dân nửa phong

kiến với những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ. Ông lên án những thủ đoạn bóc

lột sức người, sức của của nhân dân, hiện tượng nhân dân ta bị thực dân pháp áp đảo văn

hóa, chế độ khoa cử mạt vận bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc. Nhờ đó, chủ đề

của thơ Nôm Đường luật tới Nguyễn Khuyến đã được nới rộng biên độ so với bước khởi

đầu từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

3.2.2. Đả kích hình ảnh con người mới trong xã hội thực dân nửa phong kiến

Nước ta dưới chính sách cai trị của nhà nước bảo hộ Pháp, vua quan mất

hết uy quyền thực chất chỉ là bù nhìn. Triều đình nhà Nguyễn bấy giờ chỉ là

“phường chèo”.

Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì,

Vua chèo còn chẳng ra gì,

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

(Lời vợ anh phường chèo)

85

Nguyễn Khuyến từng làm quan nên ông thấy rõ hiện thực quan trường và thế

giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại. Những tên quan lại tham nhũng xuất

hiện ra sức đàn áp, bóc lột tiền của nhân dân. Đó là ông đốc học Hà Nam với hành

động đục khoét tiền của nhân dân để nhằm làm tiền riêng; hay chú huyện Thanh Liêm

ngu dốt “ngọng nghẹo văn chương” nhưng lại “nghênh ngang võng lọng” để ngụy

trang cho dã tâm ác độc. Và một ông đốc học Hà Nam khác là Trần Nhược Sơn sau

khi lui về còn cố quay lại chốn quan trường làm chức “mõ làng”.

Tóc bạc răng long chừng đã cụ,

Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy!

Học trò kẻ chợ, trầu dăm miếng,

Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy

Bổng lộc như ông không mấy nhỉ!

Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây!

(Gửi đốc học Hà Nam)

Tên quan đốc học này quay lại chốn quan trường vì ham tiền của thí sinh nộp

quyển nộp khảo thí. Hắn đã “Tóc bạc răng long” nhưng chức nghiệp chẳng đáng là

bao. Cũng ra thầy do “khăn thâm áo thụng”, chứ thực chất tên quan này không có học

vấn và nhân cách.

Có lần, một viên quan huyện xu thời, nhân dịp ngày tết có mang tặng Nguyễn

Khuyến một chậu hoa trà là thứ hữu sắc, vô hương. Ông cho rằng hắn chơi xỏ mình,

bởi vốn ông bị lòa không thấy được, ông đã làm một bài thơ đáp lại:

Mưa nhỏ những khinh phường xỏ lá

Gió to luống sợ nó rơi già

Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi

Đếch thấy mùi thơm một tiếng khà

(Ta lại người cho hoa trà)

Hay trong bài Hỏi thăm quan tuần mất cướp ông đả kích một viên quan về

hưu giàu có và keo kiệt.

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông

Nó lại mang ông bỏ giữa đồng

Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!

86

Thân già da cóc có đau không?

Bây giờ mới sẽ gầy da trán

Ngày trước đi đâu mất mảy lông

Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa

Kẻo mang tiếng dại với phường ngông

Trong một trường hợp khác, nhà thơ lên án, khinh bỉ chửi thẳng một tên đốc

học Hà Nam là Trần Tán Bình. Đốc học là nghề coi việc truyền bá đạo thánh hiền là

gốc. Lẽ ra người làm nghề như vậy phải chuẩn mực để mọi người học theo. Vậy mà

tên đốc học này lại ăn hối lộ của học trò:

Nghĩ rằng ông dại với ông điên

Điên dại sao ông biết lấy tiền

Cậy cái bảng vàng treo Nhị giáp

Nẹt thằng mặt trắng cướp Tam nguyên

Giấu nhà vừa thoát sừng trâu lỗ

Phép nước xin chừa móng lợn đen

Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt

Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen

(Tặng đốc học Hà Nam)

Trước những thăng trầm của cuộc sống và sự biến đổi trong chính bản thân

mình. Ông đau đớn nhận ra cái bản chất của con người. Qua đó, nhà thơ đã nhà thơ

đã phê phán, tố cáo thái độ sống thực dụng quên đi tình nghĩa.

Nhà thơ đã cho mọi người thấy rõ bộ mặt đáng khinh bỉ của những tên quan

chuyên bòn rút tiền của dân:

Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa

Kẻo mang tiếng dại với phường ngông

(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)

Hay một trường hợp khác, tri huyện thanh Liên Hoàng Đặng Quýnh nổi tiếng là

người gian ngoan xảo quyệt, nhờ thế của bố, chạy chọt với Tây mà được bổ làm tri huyện.

Hắn nổi tiếng là vị quan tham lam, tàn ác luôn tỏ ra vẻ thanh liêm, chính trực thương yêu

dân như con đẻ. Một hôm hắn mở cuộc thi thơ cho dân chúng trong huyện mà hắn cai

trị. Đầu đề cuộc thi là Bồ thiên thi lấy vần bồ.Theo chữ chữ Hán thì bồ có nghĩa là cỏ

87

bồ, tiên là roi, mà roi làm bằng bồ thì đánh sẽ không đau. Ý tên quan này ngầm ví mình

với Lưu Khoan tên quan nổi tiếng đời Hán chỉ dùng cỏ bồ nhẹ và mềm để làm roi răn

dạy nhân dân. Khi nghe tin đó, Nguyễn Khuyến đã làm một bài thơ gửi cho tên tri huyện

này:

Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp

Tiên là ý chú muốn vòi xu?

Từ vàng sao chẳng từ luôn bạc?

Không khéo mà roi nó phết pho.

(Bồ tiên thi)

Bọn chúng trước trách nhiệm lịch sử như phỗng đá, trước kẻ thù như những

tượng gỗ, còn với nhân dân thì tham lam, đục khoét, vơ vét. Đối với những bọn làm

tay sai cho giặc, Nguyễn Khuyến khinh bỉ và chỉ coi chúng là bọn “bồi tây”.

Xếp cùng hàng cùng bọn tham quan, ô lại này là bọn đĩ bợm, những bậc phu

nhân quý phái, những me Tây, gái điếm - những con người tha hóa. Thơ Nguyễn

Khuyến vắng bóng những tài tử giai nhân nhưng lại xuất hiện đầy đủ các loại con gái

xấu xa, đĩ bao tử, đĩ gặp thời, được gọi đích danh bao gồm những đĩ điếm nổi tiếng

như cô Tư Hồng, mụ Hậu Cẩm. Cũng có khi tác giả chửi bằng những câu rất độc:

“Cha đời con đĩ cầu Nôm”. Ông đã chế giễu những thói hư tật xấu trong xã hội, mọi

hạng người và đủ mọi suy đồi về luân thường đạo lí.Xuất phát từ việc căm thù giặc

mà Nguyễn Khuyến dẫn tới ghét những kẻ lấy Tây. Trong thời của ông, hầu như

những kẻ lấy Tây đều là những con người có thói bợ đỡ kẻ mạnh, sẵn sàng bán rẻ tấm

thân để chuộc danh lợi. Thời đó xuất hiện rất nhiều hiện tượng con gái Việt Nam lấy

chồng Trung Quốc, từ thực tế đó Nguyễn Khuyến đã mỉa mai những kẻ hiến thân cho

quân giặc. Với cách lừa lọc, đĩ thõa bọn người này đã bước lên bậc thang danh vọng,

sống trong vinh hoa phú quý. Điển hình nhất là mụ Tư Hồng , một me Tây “có tàn,

có tán, có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh”, một người đàn bà xảo

trá. Mụ ta với tội danh buôn bán gạo bất minh, chuyên bán cho dân với giá đắt đỏ.Khi

mụ nghe triều đình sẽ trị tội, mụ đã gian kế đem ít thóc gạo xấu phát cứu đói cho dân,

chính hành động gian xảo này, đã biến làm đảo lộn trắng đen, che đậy được việc làm

xấu xa của mụ.Nhờ đó mà bà ta được phong tặng “Tứ phẩm cung nhân”. Ông khinh

ghét bọn me Tây - lũ đàn bà xấu xa, sống chung với bọn quan Tây mà vẫn vênh vênh

88

tự đắc. Bọn đàn bà đĩ bợm này đã lấy vốn tự có để trao đổi, mua bán với bọn quan

lại, những tên thực dân xâm lược, từ đó tạo chỗ dựa:

Cái gái đời này gái mới ngoan!

Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.

Ba vuông phấp phới cờ bay dọc,

Một bức tung hoành váy xắn ngang

(Lấy Tây)

Đối tượng dù không xuất hiện nhiều bài thơ nhưng qua một số bài Nguyễn

Khuyến đã thể hiện thái độ trào phúng sâu cay:

Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ

Trời sinh ra cũng để mà chơi

Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời

Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích

Rồi kết luận bằng một câu: Khá khen hay làm đĩ có tông!

(Đĩ cầu Nôm)

Hành động của hai loại quan và đĩ này có điểm chung là gian ngoan, xảo quyệt,

kẻ tung người hứng, hỗ trợ nhau với mục đích tiến thân:

Vợ bợm chồng quan danh phận đó

Mai sau ngày giỗ có văn Nôm

Phản ánh hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, hiện tượng:

Vợ bợm - chồng quan, danh phận đó trở thành vấn đề không thể thiếu. Nguyễn

Khuyến đã chỉ đích danh tên của hai đối tượng đại diện cho xã hội thực dân

phong kiến buổi đầu.Ông nhìn chúng trong mối quan hệ tương liên, hôn phối,

phi Nho, phi đạo đức.Hai đối tượng này đều là những hiện tượng phổ biến, tạo

thành một xu hướng trong xã hội đương thời, chúng là biểu hiện của sự phản bội,

thất tiết, sự nhục nhã bẩn thỉu trong xã hội lúc đó.

Ông đã lên án, châm biếm những viên quan, ông nghè, ông đồ dốt nát chỉ có

danh phận cho hợp thời thế, không hề quan tâm đến cuộc sống nhân dân. Họ thực

chất là những viên quan hữu danh vô thực:

Văn hay chữ tốt ra tuồng,

Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.

89

Vẻ thầy như vẻ con tôm,

Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.

(Ông đồ Cử Lộc)

Với con mắt tinh tường của ông, bọn quan lại này chỉ là một lũ “khéo giở trò”,

cần dạy bảo:

Chuyện đời hãy đắp tai cài trốc

Lộc thánh đừng lừa nạc bỏ xương

(Mừng đốc học Hà Nam I)

Nguyễn Khuyến đã bất hợp tác với triều đình, ông lui về sống nơi thôn dã, tự

bản thân ông cũng cảm thấy hổ thẹn vì đã không mang được hết tài năng, trí tuệ

giúp nước.Ở địa vị như ông, nhiều người đã vênh váo, tự đắc.Còn ông thì lại thấy

càng nhục nhã vì bản thân học cao mà lại bất lực trước cảnh đất nước.

Sách vở ích gì cho buổi ấy.

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

(Ngày xuân dặn các con)

Thời Nguyễn Khuyến thì những chuyện trai hư gái hỏng không phải là hiện

tượng mới mẻ. Thế nhưng với sự kết hợp giữa cái thối nát của xã hội phong kiến với

chế độ thực dân, tư sản phương Tây đê tiện thì hiện tượng đó lại trở nên trắng trợn,

ngang nhiên. Chúng bất chấp mọi dư luận xã hội, khiến hiện tượng gian phu, dâm

phụ đã được công khai hóa tồn tạo như một lối sống đương nhiên. Kỷ cương, đạo lý

của chế độ phong kiến đã bị chà đạp, bởi chính những hạng người vô đạo đức như

thầy đồ ve gái góa:

Người bảo rằng thầy yêu cháu đay

Thầy yêu mẹ cháu có ai hay!

Bắc cầu, cầu cũ không hờ hững,

Cầm kính, tình xưa vẫn đắng cay.

Ở góa thế gian nào mấy mụ?

Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy?

Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,

Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

(Thầy đồ ve gái góa)

90

Thầy đồ xuất hiện với hình ảnh ham mê sắc dục.Trái ngược hoàn toàn với hình

ảnh thầy đồ trọng đạo đức thời xưa.

Hay trường hợp của một vị đốc học chỉ vì muốn được vừa lòng chính phủ bảo

hộ, mà sẵn sàng làm những việc trái với đạo thánh hiền, không giữ tròn danh nghĩa

kẻ sĩ, khiến cho danh dự quốc gia bị vấy bẩn.

Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?

Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây

(Mừng đốc học Hà Nam II)

Xuất hiện trong thơ Nôm Khuyến Khuyến ta thấy đủ các hạng người: “ông

Tây”, “bà Đầm”, vua quan phong kiến, gái đĩ… Mỗi lớp người, mỗi vẻ, nhưng tất cả

tập trung khắc họa thành bộ mặt xã hội cụ thể.Đối với mỗi hạng người Nguyễn

Khuyến dành những thái độ phù hợp. Với loại phong kiến tay sai, ông dành cho chúng

thái độ đả kích và châm biếm, những loại gái đĩ, trộm cắp nhà thơ dành cho chúng

thái độ phỉ báng.Đối với Nguyễn Trãi, văn chương phải phải gắn với vận mệnh dân

tộc, góp phần vào việc giết giặc cứu nước, phải thể hiện được nguyện vọng của nhân

dân.Đến Nguyễn Khuyến ông đã có cái nhìn gần hơn với cái nhìn tiến bộ của thời

đại.Nguyễn Khuyến nhìn vào những hiện tượng của đời sống lúc này, những mặt trái

của đạo đức, mà nhiều thời đại trước đây đã lên án, cùng với chính sách phản động

của một chính quyền mới - Chính quyền thực dân nửa phong kiến đang hình thành.

* Tiểu kết chương 3:

Ở chương 3 chúng tôi đã chỉ ra những chủ đề mang tính mới trong thơ Nôm

Đường luật của Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn

Trãi. Đó là chủ đề con người đời thường và chủ đề phê phán chế độ thực dân nửa

phong kiến.

Nửa cuối thế kỉ XIX, văn học trào phúng Việt Nam đã phát triển thành một dòng

lớn mạnh. Sự phát triển của văn học trào phúng chứng tỏ sự phát triển văn học dân tộc,

hướng tới nền văn học cận hiện đại. Đó là lúc con người không chỉ biết cười thiên hạ mà

còn biết cười chính bản thân. Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất

của văn học trào phúng. Ông đã tiên phong trong việc dám đem chính bản thân mình ra

để mô tả, cười cợt, chế giễu và tự chê trách… để từ đó lên án cả một tầng lớp đại diện

cho xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, một giai cấp đang từng bước chấm dứt

91

vai trò lịch sử. Có thể nói, so với những yếu tố đời tư, cá nhân trong Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi, thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến đã bứt phá, ghi dấu ấn về chủ đề đời

thường rất thành công và xây dựng một hình tượng thơ ấn tượng độc đáo nhất là ở chỗ

nó mang nặng về tâm sự riêng, nỗi niềm riêng với mong muốn sẻ chia, giải tỏa nỗi niềm

chứ không còn nặng về “tải đạo”, “ngôn chí” như xưa.

Do bối cảnh lịch sử - xã hội quy định, chủ đề phê phán xã hội thực dân nửa

phong kiến chưa từng xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi. Với những hiện tượng đời

sống văn hóa - xã hội thực dân nửa phong kiến cùng sự xuất hiện của những con

người mới, Nguyễn Khuyến đã lên án, phê phán chế độ đương thời, đã châm biếm

bọn quan lại, gái đĩ với bản chất dốt nát, đạo đức giả, dị hợm và tham lam.

Sự vận động và phát triển chủ đề trong thơ Nôm Đường luật nói chung và

trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến nói riêng vừa mang tính lịch sử, tính

kế thừa, vừa góp phần khu biệt tác giả và thời kì phát triển thể loại. Qua đó, ta thấy được

sự trưởng thành của ý thức dân tộc. Đối với Nguyễn Khuyến, những chủ đề mang tính

cách tân giúp ông thể hiện sâu sắc hơn phong cách trào phúng trữ tình trong sáng tác của

mình, thể hiện được tâm hồn dân tộc sâu sắc, đồng thời thể hiện được bản lĩnh nghệ thuật

đầy sáng tạo trong thời kì đầy biến động của lịch sử dân tộc.

92

KẾT LUẬN

1.Hệ thống chủ đề trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến trong tương

quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có hai xu hướng phát triển: vừa hướng tới

“đồng tâm” với những chủ đề mang tính kế thừa, vừa hướng tới “li tâm” với những

chủ đề mang tính cách tân theo tinh thần dân chủ hóa, dân tộc hóa thể loại. Nếu xu

hướng “đồng tâm” còn mang nặng mục đích “chở đạo” giáo huấn thì xu hướng “li

tâm” chuyển dần sang mục đích phản ánh hiện thực cuộc sống, xã hội, thời đại và số

phận con người. Chính sự thay đổi này đã mở rộng phạm vi phản ánh và khả năng

khái quát nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến nói riêng và của thơ

Nôm Đường luật nói chung.

2. Hệ thống chủ đề mang tính truyền thống trong thơ Nôm Đường luật của

Nguyễn Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi tập trung rõ

nét nhất ở chủ đề thiên nhiên và chủ đề ưu quốc ái dân.

Chủ đề thiên nhiên trong sáng tác thơ của hai tác giả được thể hiện rõ nét qua

những ấn tượng về cảnh đẹp quê hương, bức tranh thiên nhiên bốn mùa và bức tranh

tâm cảnh. Dễ thấy, Nguyễn Trãi có một quan niệm, một vũ trụ quan riêng để viết về sự

phong phú và đa dạng, đa màu sắc của của thiên nhiên.Đó là nhân sinh quan Nho giáo,

Lão Trang, Phật giáo, song thiên nhiên trong thơ Ức Trai còn mang màu sắc tiến bộ của

nhân dân lao động gắn liền với cuộc sống của người nông dân Việt Nam.Tác giả đã phải

hòa mình vào thiên nhiên, vào cuộc sống nơi thôn quê thì mới có thể đưa những hình

ảnh đời thường vào thơ một cách tự nhiên và thân thiết như vậy.Nói cách khác, thiên

nhiên trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một thiên nhiên dân chủ.Đến Nguyễn

Khuyến, thơ Nôm Đường luật tiếp tục nỗ lực thoát li tính chất công thức và ước lệ và

dần thay thế bằng những chất liệu của đời sống hiện thực đậm nét hơn.Tác giả đã phát

triển yếu tố “đời thường” trong thơ Nguyễn Trãi, đã khai thác sâu hơn những hình ảnh

bình dị, dân dã, mộc mạc ở chốn thôn quê từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.Bằng

cách đó, Nguyễn Khuyến đã mang đến cho bạn đọc những viên ngọc thơ lấp lánh về tình

yêu thiên nhiên, cuộc sống con người để từ đó nhân lên trong mỗi người những tình yêu

cao đẹp.

93

Bên cạnh chủ đề thiên nhiên, “ưu quốc ái dân” cũng là chủ đề lớn của văn học

trung đại nói chung, sáng tác của Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến nói riêng. Chung

xuất phát điểm là tấm lòng yêu nước thương dân, yêu chuộng tự do, hòa bình, căm thù

giặc, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn; cả thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến và

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đều rất thành công trong việc thể hiện khao khát phò

đời giúp nước, nỗi buồn đau bất lực trước thời cuộc và tấm lòng kiên trung. Ba biểu

hiện này là những cung bậc cảm xúc xuyên thấm vào nhau nhưng cũng có thể tách rời

để nhận diện chân dung tâm hồn của hai tác giả tiêu biểu trên hành trình khẳng định

sức sống của thể thơ “không có tuổi già” độc đáo của văn học trung đại Việt Nam.

3. Hệ thống chủ đề mang tính thời đại trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn

Khuyến trong tương quan với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi tập trung rõ nét nhất

ở chủ đề con người đời thường và chủ đề phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến.

Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, độc giả có thể hình dung ra hình ảnh “con

người trần thế nhất trần gian” với quan niệm sống trung dung, đề cao vẻ đẹp tâm hồn,

lối sống lành mạnh: nhàn tản, tự do tự tại, gắn bó với thiên nhiên và sự tiếc nuối tuổi

xuân. Đặt chủ đề này vào bối cảnh văn học đương thời Nguyễn Trãi mới thấy hết sự tiến

bộ vượt bậc của nó. Thoát thai từ thơ Đường luật chữ Hán, thơ Nôm Đường luật khẳng

định ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. Từ vị

trí của một thể loại văn học ngoại lai mang tính hướng thượng với rất nhiều quy

phạm nghiêm ngặt, với chủ đề đời thiên về đời tư, cá nhân, Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi đánh vừa đánh dấu bước khởi đầu vừa khẳng định sự Việt hóa đầy

bản lĩnh.

Không chỉ dừng lại ở việc kế thừa chủ đề đời tư trong Quốc âm thi tập, Nguyễn

Khuyến đã có những cách tân mang tính bứt phá trong sáng tác thơ Nôm của mình

qua việc thể hiện sinh động, cụ thể hình tượng con người đời thường với bút pháp tả

thực điêu luyện. Qua các bài thơ Nôm Đường luật của Tam Nguyên Yên Đổ, độc giả

không chỉ hình dung rõ nét về chân dung, cuộc sống, tâm sự cá nhân của ông mà còn

cảm thấy thích thú khi thấy con người bình thường quen thuộc với cả những thói hư

tật xấu ngoài đời. Nhờ đó, thơ Nôm Đường luật lại tiếp tục cởi bỏ thêm một lớp vỏ

trang nghiêm, tiến gần hơn cuộc sống.

94

Bên cạnh đó còn có một chủ đề chưa từng xuất hiện trong Quốc âm thi tập

nhưng lại khá đậm nét trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến.Đó là chủ đề phê

phán xã hội thực dân nửa phong kiến - chế độ lai căng bắt đầu nảy nở vào cuối thế kỷ

XIX khi cuộc áp đảo văn hóa Tây - Đông diễn ra trên toàn cõi Việt Nam. Tại đây,

hình ảnh đời sống xã hội cũ mới xáo lộn và hệ thống nhân vật đa diện, phức tạp với

điểm nhấn là “loạn quan” và “loạn đĩ” (chữ dùng của Biện Minh Điền) đã góp thêm

tiếng nói khẳng định: Chủ đề trong thơ Nôm Đường luật Nguyễn Khuyến đã có những

cách tân và sáng tạo theo hướng hiện thực hóa và bình dân hóa cao độ.

4.Trong điều kiện thời gian có hạn, ở đề tài này chúng tôi mới đi vào khai thác

hệ thống chủ đề mang tính kế thừa và cách tân trong thơ Nôm Đường luật của Nguyễn

Khuyến (So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi) về phương diện nội dung.

Sau này nếu có điều kiện chúng tôi mong muốn sẽ được tiếp tục tìm hiểu và phát triển

đề tài này trên cả phương diện nghệ thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2009), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

95

2. Lê Bảo (2002), Nguyễn Khuyến - Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

3. Nguyễn Sĩ Cần (1982), Về thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Huệ Chi (1962), “Con người Nguyễn Trãi qua thơ văn của ông”,Tạp chí

Văn nghệ, số 9.

5. Nguyễn Huệ Chi (3/1986), “Nguyễn trãi nhìn từ một nhân cách lịch sử đến dòng

thơ tư duy thế sự”, Tạp chí văn học.

6. Nguyễn Huệ Chi (1992), Thi hào Nguyễn Khuyến - Đời và thơ, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Huệ Chi (2003), Nguyễn Khuyến về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

8. Nguyễn Phương Chi (2003), Thi hào Nguyễn Khuyến và đời thơ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

9. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Xuân Diệu, Huy Cận (8/1957), “Nguyễn Trãi, nhà thơ mở đầu nền văn học cổ

điển Việt Nam”,Tạp chí Văn nghệ, số 3.

11. Trần Quang Dũng, “Sự vận động và phát triển của thơ Nôm Đường luật theo

hướng kế thừa, tiếp biến và sáng tạo với Đường luật Hán trên tinh thần dân tộc

hóa, dân chủ hóa thể loại”, minh tam 251205 .blog .spot. Com / 2011/ 05 / Su /

van / dong/va/phat/trien/cua/tho/Nom.html.

12. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Nguyễn Thị Bích Hải (2002),Văn học châu Á trong trường phổ thông, Nxb Giáo

dục.

14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục Quốc gia, Sài

Gòn.

16. Nguyễn Chí Hòa (2006), Ngữ pháp tiếng Việt thực hành, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

96

17. Hà Ngọc Hòa (2006), Nguyễn Khuyến nhà thơ của làng quê Việt Nam, Nxb Trẻ,

Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Minh Huyền (1984), Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

19. Mai Hương (2000), Nguyễn Khuyến thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

20. Trần Ngọc Hưởng (1999), Luận đề về Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh niên, Thành

phố Hồ Chí Minh.

21. Khoa học - Xã hội - Nhân Văn, Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

22. Hoàng Khôi (phiên âm, chú giải), Nguyễn Trãi toàn tập (2001), Tái bản, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

23. Nguyễn Đức Khuông (2005), Tác gia tác phẩm văn học Việt Nam trong con mắt

người nước ngoài, Nxb Đại học Sư phạm.

24. Phong Lê (Tuyển chọn và giới thiệu) (1997), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học,

1987.

25. Trần Huy Liệu (1962), Nguyễn Trãi một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc

Việt Nam, Nxb Sử học.

26. Trần Huy Liệu (1966), Nguyễn Trãi, Nxb Khoa học, Hà Nội.

27. Trần Huy Liệu (6/10/1967), Tinh thần yêu nước, vì dân trong thơ Nguyễn Trãi,

Báo Văn nghệ, số 232.

28. Trần Huy Liệu (2000), Nguyễn Trãi cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn hóa

thông tin.

29. Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

30. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục, Việt Nam.

31. Phạm Luận (2012), Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Ngọc Lương (chủ biên) (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

97

34. Nguyễn Đăng Na (2009), Văn học trung đại Việt Nam (tập 1), Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

35. Bùi Văn Nguyên (1984), “Nguyễn Trãi với mùa xuân”, Báo văn nghệ, số 6 - 7.

36. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, chuyên luận, Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

37. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Bùi văn Nguyên (1994), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi rực sáng ánh sao khuê, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Dương Phong (2012), Nguyễn Trãi thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.

41. Nguyễn Trãi, thân thế và sự nghiệp (1980), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Nguyễn Hữu Sơn (1995), “Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi”, Tạp

chí Văn học, số 9.

43. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Nguyễn Hữu Sơn, (Tuyển chọn và giới thiệu), (1999), Nguyễn Trãi về tác gia và

tác phẩm, Nxb giáo dục, Hà Nội.

45. Nguyễn Trãi toàn tập (2001), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

46. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb thế giới.

47. Nhiều tác giả (2010), Nguyễn Khuyến thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

48. N.I.NHICULIN (1981), “Đất nước và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Trãi”, Tạp chí

Văn học, số 1.

49. Nguyễn Thanh Phúc (1996), Thơ Nôm Đường luật từ Hồ Xuân Hương đến Trần

Tế Xương, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ Văn ĐHSPHCM.

50. Hoài Thanh (17/11/1979), “Vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm”, Báo

Văn nghệ.

51. Vũ Thanh (2005), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

52. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

98

53. Trần Nho Thìn (2007) Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

54. Trần Minh Thương, “Bài viết Chất dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến”,

www.vanchuongviet.org/VietNamese/vanhoc_tacpham.

55. Minh Tranh (8/1956), “Nguyễn Trãi, một nhà ái quốc tiêu biểu cho lòng nhân

nghĩa và ý chí hòa bình của nhân dân ta trong đầu thế kỷ XV”,Tập san Văn sử

địa, số 20.

56. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm - về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Mai Trân (09/1962), “Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi”, Tập san

Nghiên cứu Văn học, số 33.

58. Đoàn Thị Thu Vân (2008), Văn học trung đại Việt Nam - thế kỉ X đến nửa cuối

thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

59. Giang Hà Vị, Viết Linh (1996), Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), Nxb Văn học.

60. Viện Khoa học xã hội - Sở văn hóa thông tin TP.HCM (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm

trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, trung tâm nghiên cứu Hán Nôm.

61. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

62. Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1978), Lịch

sử văn học Việt Nam (tập IVA), Nxb Giáo dục.

63. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX những vấn đề lí luận

và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

64. Trần Quốc Vượng (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.

65. Hoàng Xuân (tuyển, soạn), Nguyễn Trãi thơ và đời (1997),Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Lê Thu Yến (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam: Văn học trung đại, những

công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99