ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– –––––––––––––––––––––
ĐÀM THỊ ĐÀO ĐÀM THỊ ĐÀO
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG
HỒ XUÂN HƢƠNG HỒ XUÂN HƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thái Nguyên - 2015 Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––
ĐÀM THỊ ĐÀO
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG
HỒ XUÂN HƢƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ GIA VÕ
Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng Hồ Xuân Hương” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác,
hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.
Tác giả luận văn
Đàm Thị Đào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ i
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học
Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường Đại học
Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Gia Võ,
người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tác giả luận văn
Đàm Thị Đào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan………………………………………………………………......i
Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii
Mục lục…………………………………………………………………….....iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 6
4. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
7. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8
8. Đóng góp của đề tài ............................................................................................ 9
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................... 10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................... 10
1.1.1. Thơ tứ tuyệt ................................................................................................ 10
1.1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng ..................................................................... 15
1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương ........... 18
1.3.Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong
văn học trào phúng thời trung đại ........................................................................ 20
1.4. Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ............... 27
Chƣơng 2. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ......................................................... 30
2.1. Hệ thống đề tài .............................................................................................. 30
2.2. Đối tượng, nội dung trào phúng .................................................................... 33
2.2.1. Tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ ............... 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iii
2.2.2. Những vấn đề xã hội .................................................................................. 45
2.3. Mục đích, ý nghĩa trào phúng ....................................................................... 53
Chƣơng 3. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .................................................. 56
3.1. Ngôn ngữ trào phúng..................................................................................... 56
3.1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian ......... 56
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa........................................................ 62
3.2. Nghệ thuật cái “tục” ...................................................................................... 67
3.2.1. Các ý kiến bàn về vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương ................. 67
3.2.2. Số lần xuất hiện, trường hợp xuất hiện cái tục ........................................... 70
3.2.3. Cái tục với ý nghĩa phê phán, châm biếm, đả kích cường quyền và thần
quyền phong kiến ................................................................................................. 73
3.2.4. Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc trần
tục, đòi tự do và giải phóng con người. ............................................................... 76
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 84
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học Việt Nam ra đời trong khi văn học Trung Quốc đã có một bề dày
phát triển. Tuy nhiên, cha ông ta đã cố gắng vượt qua sự ràng buộc của ngôn ngữ
Hán bằng cách tạo ra một văn tự mới: chữ Nôm. Từ thể loại thơ Đường luật chữ
Hán, ông cha ta đã vận dụng và chuyển hóa thành hình thức sáng tác bằng ngôn
ngữ dân tộc là thơ Nôm Đường luật. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý nằm gần
hai cái nôi văn minh lớn của nhân loại: Ấn Độ và Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam
và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông lại càng có ý nghĩa.
Ở Việt Nam, từ thế kỷ thứ X trở về sau, nhân tài được lựa chọn qua thi cử
ngày càng nhiều. Khoa thi ở các triều đại Lý, Trần, Lê… sĩ tử đều có những bài
liên quan đến thơ, mà thơ Đường luật là chính. Bằng con đường như thế, thơ
Đường luật xuất hiện ngày càng nhiều trong tiến trình văn học trung đại Việt
Nam. Từ thế kỷ XIII, chữ Nôm đã xuất hiện nhưng (theo các tài liệu hiện có)
phải đến thế kỷ XV, trở thành ngôn ngữ văn học. Thể thơ Đường luật ở Trung
Quốc thường gắn liền với những nội dung trang trọng, chính thống theo quan
điểm “Thi dĩ ngôn chí” nhưng khi cha ông ta dùng chữ Nôm để sáng tác theo thể
thơ này, đã đưa vào đó những vấn đề mới mẻ như nội dung trào phúng, những
tình cảm đời thường, bình dị, những vấn đề dân dã của thôn quê…
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy bộ phận thơ Nôm Đường luật trào
phúng đã xuất hiện từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các tác giả
thời Hồng Đức, kéo dài cho đến hết thời kỳ trung đại, tạo thành một dòng chảy
riêng biệt, có những đóng góp độc đáo cả về phương diện nội dung tư tưởng
cũng như hình thức nghệ thuật. Đây là một thể thơ góp phần quan trọng vào sự
phát triển của văn học dân tộc. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào chuyên sâu về thơ tứ tuyệt trào phúng. Việc đi sâu vào tìm hiểu
hiện tượng Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng chính là mục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 1
đích của đề tài.
Tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ Đường đồng thời
cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương. Điều thú vị là, trước Hồ
Xuân Hương, rất hiếm tác giả Việt Nam dùng thể thơ tứ tuyệt để trào phúng. Hồ
Xuân Hương thì ngược lại. Đây là một sự phát triển mang tính đột biến trong
dòng thơ Nôm Đường luật ở nước ta.
Hơn nữa, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với những giá trị
độc đáo cho đến nay vẫn chưa được khảo cứu, đánh giá toàn diện, kỹ càng. Vì
vậy, mảng thơ này rất xứng đáng trở thành đối tượng nghiên cứu cho những ai đã
từng tâm huyết với thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng và thơ
Nôm Đường luật nói chung.
Hồ Xuân Hương đã từng được Xuân Diệu mệnh danh là “Bà chúa thơ
Nôm”. Sáng tác thơ Nôm của bà đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể
loại thơ Nôm Đường luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ
thơ ca dân tộc. Và điều đáng chú ý là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương, bộ
phận trào phúng có vị trí độc đáo và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
nữ sĩ. Đây là một tác giả khá quen thuộc được giảng dạy trong chương trình
văn học nhà trường. Do đó, tìm hiểu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân
Hương sẽ có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn đối với người giáo viên văn học.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Những vấn đề liên quan đến Hồ Xuân Hương
2.1.1. Cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và văn bản tác phẩm
Trước Cách mạng tháng Tám, Hồ Xuân Hương được khẳng định là một
tác gia văn học, tác giả của nhiều bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Điều này
được khẳng định qua những tác phẩm Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế
và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Việt Nam văn học sử yếu và Quốc văn trích
diễm của Dương Quảng Hàm, Giai nhân dị mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu
Tiến, Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc…
Sau Cách mạng, đặc biệt là sau 1954, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt
Nam của nhóm tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2
Hoài Nam, Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XVIII – nửa cuối thế kỷ XIX của
Nguyễn Lộc, Lịch sử văn học Việt Nam của nhiều tác giả, Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của nhóm tác giả Đặng Thanh Lê,
Phạm Luận, Hoàng Hữu Yên…đều khẳng định rằng có một tác giả Hồ Xuân
Hương với những bài thơ Nôm tứ tuyệt. Tuy nhiên, việc chọn những bài thơ Hồ
Xuân Hương vẫn chưa có sự thống nhất ở các công trình nghiên cứu.
Nghiên cứu về thân thế, cuộc đời và văn bản tác phẩm Hồ Xuân Hương bắt
đầu có những biến đổi, phát triển vượt bậc từ khi nhà nghiên cứu văn học Trần
Thanh Mại cho đăng một loạt bài trên Tạp chí văn học như Phải chăng Hồ
Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán, Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương,
Bản "Lưu Hương ký" và lai lịch phát hiện của nó,… Sau đó xuất hiện hàng
loạt bài của các tác giả khác tiếp tục tranh luận, đi sâu vào vấn đề tiểu sử và văn
bản tác phẩm của Hồ Xuân Hương như Tảo Trang, Nam Trân, Đào Thái Tôn,...
Đặc biệt chú ý là hai công trình nghiên cứu của tác giả Đào Thái Tôn là Hồ
Xuân Hương – từ cội nguồn vào thế tục và Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn
bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa. Trong những bài viết của mình, Đào
Thái Tôn đã tổng kết khá hệ thống tất cả những vấn đề có liên quan đến tiểu sử
và văn bản thơ Hồ Xuân Hương, đã góp phần khẳng định Hồ Xuân Hương còn là
một nhà thơ chữ Hán và lập luận đầy thuyết phục về tiểu sử của bà, đi tới kết
luận bà là con của Hồ Sỹ Danh, em của Hồ Sỹ Đống. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có một quan điểm thống nhất về văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân
Hương, mỗi tác giả vẫn lựa chọn cho mình một quan điểm khác biệt.
2.1.2. Giá trị nội dung tƣ tƣởng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định và đánh giá rất cao giá trị nhân
văn của thơ Hồ Xuân Hương, đều tập trung làm nổi bật ý thức chống phong kiến,
khát vọng đời sống tự nhiên, giá trị nhân đạo của thi phẩm Hồ Xuân Hương. Tiêu
biểu cho các công trình ấy là Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và
giáo dục của Văn Tân, phần viết về Hồ Xuân Hương trong Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3
Nguyễn Văn Hanh, Một bức thư của Chế Lan Viên, Góp thêm một tiếng nói
trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, hay trong Văn nghệ bình dân Việt
Nam của tác giả Trương Tửu… Tuy có những ý kiến đối lập nhau nhưng đều
thừa nhận thơ Hồ Xuân Hương có giá trị nội dung tư tưởng đặc sắc, có sức sống
lâu bền với thời gian.
2.1.3. Giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hƣơng
Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ
thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Tài năng nghệ thuật của bà đã được khẳng
định và đánh giá rất cao trong nền văn học dận tộc từ xưa đến nay. Tiêu biểu là
các công trình Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn
Văn Hanh, đến Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm,… Càng về
sau, vấn đề nghệ thuật trong thơ bà càng được nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực
tế, Lê Tâm là người đầu tiên phong cho Hồ Xuân Hương danh hiệu “Bà chúa thơ
Nôm” trong Thân thế và thi ca Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm. Sau đó,
bằng năng lực cảm thụ tinh tế, bằng sự hiểu biết sâu sắc văn hóa trung đại và
kinh nghiệm sáng tạo thơ của mình, Xuân Diệu đã phân tích và khẳng định Hồ
Xuân Hương là một trong “ba thi hào dân tộc” lớn, có vị trí xứng đáng trên thi
đàn trung đại.
Khi nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, một số tác giả đã
đi sâu vào mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ Hồ Xuân Hương và văn học dân gian.
Tiêu biểu là bài viết của tác giả Đặng Thanh Lê: Hồ Xuân Hương – bài thơ
"Mời trầu", cộng đồng truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ
văn học dân gian và văn học viết và bài viết của Nguyễn Đăng Na: Thơ Hồ
Xuân Hương với văn học dân gian... Trong các công trình nghiên cứu đó,
Nguyễn Đăng Na đã chứng minh được rằng Hồ Xuân Hương đã “nghĩ cái nghĩ
dân gian, cảm cái cảm dân gian”[28, tr.26].
Ở một khía cạnh khác, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thế giới thơ Nôm Hồ
Xuân Hương đã đi sâu vào khám phá nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương như
một thế giới nghệ thuật với hệ thống hình ảnh, hình tượng và những trạng thái,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 4
tính chất riêng, độc đáo nói lên một cá tính sáng tạo rất Xuân Hương trong lịch
sử thơ ca trung đại Việt Nam. Tâm lý sáng tạo của Hồ Xuân Hương cũng đã
được Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu trong Tâm lý sáng tạo trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương, trong công trình đó, tác giả đã lý giải tư duy nghệ thuật đặc sắc của một
người phụ nữ luôn ý thức về thân phận mình.
Trong giới hạn nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, từ đầu
thế kỉ XX đến nay, giới nghiên cứu Việt Nam ngày càng đi sâu hơn vào bản chất
nghệ thuật phong phú và đặc sắc trong thơ nữ sĩ ở tất cả các phương diện như thể
loại, bút pháp, thi pháp, cá tính sáng tạo, tài nghệ ngôn ngữ…. Các thành tựu
nghiên cứu đó đều góp phần khẳng định nghệ thuật độc đáo của “Bà chúa thơ
Nôm” trong nền thơ dân tộc.
2.2. Vấn đề trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng
Trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, chúng ta nhận thấy
vấn đề trào phúng được coi là một đóng góp quan trọng của nữ sĩ vào lịch sử văn
học. Thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chiếm số lượng nhiều nhất, là bộ
phận có giá trị nhân đạo sâu sắc nhất trong thơ Nôm của bà. Vì vậy, hầu như tất
cả các bộ lịch sử văn học đều khẳng định bà trong tư cách một nhà thơ trào
phúng vào loại xuất sắc nhất của dân tộc.
Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trong mối
quan hệ với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam là Giáo sư Đặng
Thanh Lê. Trong công trình Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, tác
giả “đã đặt những sáng tác của bà trong sự phát triển của “Dòng thơ Nôm Đường
luật”, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật
những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và biện pháp nghệ thuật” [22,
tr.16]. Tác giả Nguyễn Sĩ Đại cũng đã đề cập đến Hồ Xuân Hương ở công trình Một
số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường.
2.3. Chúng tôi sẽ tiếp cận Hồ Xuân Hương với tư cách một tác gia trào phúng từ
góc độ thể loại thơ Nôm Đường luật, đặc biệt là bộ phận thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng để thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của bà đối với sự phát triển của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 5
thể loại thơ Nôm Đường luật nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tập hợp những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương và nghiên
cứu đặc điểm của chúng trên hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức
nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích và thái
độ trào phúng; bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng; trong quá trình đó
có so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ của các nhà thơ trước. Từ đó, luận văn sẽ
đi tới khẳng định vai trò của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của văn
học dân tộc.
Phân tích hệ thống thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía
cạnh nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối
tượng, nội dung, mục đích, thái độ trào phúng, bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật
trào phúng,…Qua đó, luận văn sẽ làm sáng tỏ tài năng nghệ thuật và cá tính sáng
tạo độc đáo của bà, tạo ra bước phát triển mới về chất lượng nghệ thuật trong
dòng thơ Nôm Đường luật Việt Nam.
Trên cơ sở tập hợp và phân tích những tác phẩm thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng của Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ góp phần khẳng định được vị thế độc
đáo của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc. Hồ Xuân
Hương là người mở đầu cho thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Việt Nam và đã đưa
thể thơ này đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật.
4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của luận văn là thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng Hồ Xuân Hương.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có rất nhiều văn bản, như Xuân Hương thi tập,
XNB Xuân Lan, 1913, Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên và hàng
trăm các văn bản khác. Tuy nhiên, chúng tôi chọn văn bản Thơ Hồ Xuân Hương
(Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, H, 1982 làm văn bản
nghiên cứu chính. Đây là văn bản chọn các bài thơ theo “phong cách nghệ thuật
Hồ Xuân Hương”, gồm 40 bài. Văn bản này của Nguyễn Lộc có số lượng không
quá ít nhưng cũng không quá nhiều, lại là những bài thơ khá phổ biến, xuất hiện
ở nhiều tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương và đã tồn tại hơn 30 năm nay, được giới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 6
nghiên cứu văn học thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi. Tất nhiên, trong quá trình
tìm hiểu, rất có thể chúng tôi vẫn phải mở rộng những liên hệ của mình ra các
văn bản khác để kết quả nghiên cứu có thêm sức thuyết phục. Ngoài ra có sự so
sánh với một số văn bản khác như : Xuân Hương thi tập, NXB Xuân Lan, 1913;
Quốc văn tùng ký của Hải Châu Tử Nguyễn Văn San; Hồ Xuân Hương thơ và
đời của Lữ Huy Nguyên; Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền
thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn…
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định một số khái niệm: thơ tứ tuyệt,
thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng… là những khái niệm có vị trí quan trọng trong
việc xử lý đề tài.
Trong khi nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trào phúng nói chung, thơ
Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng, cần phân biệt được hai vấn đề về mức độ trào
phúng là yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng.
Trên cơ sở đó, người viết sẽ nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ
Xuân Hương ở khía cạnh nội dung với hệ thống đề tài; đối tượng, nội dung và
mục đích, ý nghĩa trào phúng và khía cạnh nghệ thuật với ngôn ngữ trào
phúng; nghệ thuật cái tục.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này sẽ cho người viết một cái nhìn tổng thể về số lượng thơ
Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Việc thống kê, phân loại này càng đầy
đủ, chi tiết, khoa học, càng tạo ra những cơ sở xác thực cho các luận điểm của đề
tài. Trên cơ sở thống kê, người viết xếp riêng những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng để làm cứ liệu phân tích, đánh giá. Trong quá trình thống kê phân loại,
người viết phải tham khảo, học tập ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu để việc
khẳng định các bài thơ tứ tuyệt trào phúng thêm chính xác. Tuy nhiên, quan điểm
về thơ tứ tuyệt trào phúng rất đa dạng nên có thể thống kê của chúng tôi sẽ không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 7
tránh khỏi những sai sót.
Đơn vị thống kê sẽ là những bài thơ có yếu tố trào phúng, người viết sẽ chỉ ra
những câu thơ trào phúng để tiện theo dõi và đánh giá. Còn cả bài thơ được viết với
mục đích trào phúng, xây dựng được một hình tượng trào phúng hoàn chỉnh thì
đương nhiên có mặt trong bản thống kê, phân loại của chúng tôi.
Thống kê, phân loại những bài thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương theo tiêu
chí và nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu có cơ sở
dữ liệu về văn bản, tránh những khái quát mang tính võ đoán, suy biện.
6.2. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
Đánh giá khảo sát toàn bộ những tư liệu thống kê, phân tích các dẫn chứng, rút
ra những kết luận khoa học về thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Với việc phân tích này,
người viết tiến hành đồng thời cả hai phương diện: phân tích đặc điểm nội dung tư
tưởng và phân tích hình thức nghệ thuật của bài thơ, câu thơ. Sau khi phân tích, chỉ
ra những đặc điểm của từng tác giả, luận văn sẽ tổng hợp và đánh giá khái quát vấn
đề, rút ra những luận điểm khoa học chính.
6.3. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
Luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu trên các phương diện sau:
+ So sánh thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với thơ Nôm
Đường luật trữ tình của bà.
+ So sánh phong cách nghệ thuật, đóng góp về giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật của thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với các tác giả
khác, đặc biệt là các tác giả trước đó như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
+ So sánh đặc trưng thể loại thơ Hồ Xuân Hương với các yếu tố và thể
loại trào phúng trong văn học dân gian.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 8
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân
Hương
1.3. Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng
và trong văn học trào phúng thời trung đại
1.4. Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương
Chương 2: Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ
phương diện nội dung.
2.1. Hệ thống đề tài
2.2. Đối tượng, nội dung trào phúng
2.3. Mục đích, ý nghĩa trào phúng
Chương 3: Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ
phương diện nghệ thuật
3.1. Ngôn ngữ trào phúng
3.2. Nghệ thuật cái “tục”
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
+ Đề tài được hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nôm tứ
tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, một mảng thơ quan trọng trong việc khẳng
định cá tính sáng tạo và vị thế Hồ Xuân Hương trong tiến trình thơ ca dân tộc.
+ Trên cơ sở phân tích giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật thơ
Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ trở thành một tài liệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 9
tham khảo hữu ích cho sinh viên và giáo viên văn học phổ thông.
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Thơ tứ tuyệt ra đời từ bao giờ? Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến bàn luận về
vấn đề này. Có nhiều ý kiến cho rằng thơ tứ tuyệt có mầm mống từ Kinh thi (ra
đời cách đây 2.500 năm, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên), có một
số ý kiến lại cho rằng thơ tứ tuyệt xuất hiện từ thời Lục Triều (281 – 618). Tứ
tuyệt không những đạt được thành tựu rực rỡ ở đời Đường mà còn có sinh mệnh
lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc cũng như trong lịch sử
văn học một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ở những nước khác,
tuy không có tên gọi là “tứ tuyệt” song cũng có những loại hình tương tự. Bởi
vậy, việc nêu ra những đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường không
chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp của một hiện tượng độc đáo của thơ ca
Trung Quốc mà còn cung cấp được những nhận định, tư liệu có thể làm căn cứ so
sánh, tham khảo để tìm hiểu thêm những hiện tượng cùng loại hình, để xử lý một
số vấn đề của lý luận và thực tiễn của thơ ca hiện nay. “Tứ tuyệt! Tứ tuyệt là một
thể thơ rất khó, phải tập trung, hàm súc và cần có một sáng tạo gì như là một sự
bất ngờ, một uẩn khúc, trong bốn câu” [7, tr.12].
Do hạn chế về số chữ, nhất định thơ Nôm tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng nói riêng không thể đi vào miêu tả chi tiết hiện thực, không
thể trình bày sự việc một cách có đầu có cuối theo trình tự thời gian. Thiên về
khái quát, nó là một tất yếu. Nhưng sự khái quát không thể bắt đầu từ chủ quan.
Vì vậy, thơ tứ tuyệt ngoài lựa chọn loại sự vật để phản ánh còn phải chọn nét tiêu
biểu nhất mang tính bản chất của sự vật đó. Hiện thực trong thơ tứ tuyệt phải bảo
đảm được tính chất của một tiểu vũ trụ.
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 10
1.1.1. Thơ tứ tuyệt
Ở Việt Nam chúng ta, từ khi có văn học viết là đã có ngay thơ tứ tuyệt.
Ban đầu, chúng ta phải sáng tác bằng chữ Hán cho nên thơ tứ tuyệt luật Đường
đã xuất hiện ngay từ thế kỷ X. Khái niệm thơ tứ tuyệt vì vậy cũng đã được
nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam quan tâm.
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca
Việt Nam hình thức và thể loại, nghĩa chữ “tứ tuyệt” ở đây gồm 4 câu cắt ra từ
một bài bát cú. Có bốn cách cắt:
+ Cắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau,
hai câu dưới đối nhau. Ví dụ:
XUÂN
Khí trời ấm áp đượm hơi dương
Thấp thoáng lâu dài vẻ ác vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót hót gió,
Giậu hoa phấp phới bướm chân hương.
(Khuyết danh – Phỏng dịch thơ chữ Hán của bà Ngô Chi Lan)
+ Cắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, bốn câu đều đối nhau.
Ví dụ:
KHI TẦU CẬP BẾN
Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương
Thuyền mọn năm canh người bãi Hán
Dịch dài một tiếng khách Tầm dương.
(Phan Thanh Giản)
+ Cắt hai câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu đầu đối nhau, hai câu
dưới không đối. Ví dụ:
ĐỜI NGƢỜI
Người hết danh không hết
Đời còn việc vẫn còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 11
Tội gì lo tính quẫn,
Lập những cuộc con con.
(Khuyết danh)
+ Cắt hai câu đầu, hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không
đối. Ví dụ:
TRỜI NÓI
Cao cao muôn trượng ấy là tao
Dẫu pháo thăng thiên chả tới nào
Nhắn nhủ dưới trần cho chúng biết:
Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào.
(Nguyễn Khuyến)
Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu khẳng định:
“Tứ nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt
lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành”. Rồi ông dẫn ra năm cách ngắt khác nhau:
+ Ngắt bốn câu trên:
Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường
Tay ngọc lăn đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng dậm đạp máy âm dương.
(Lê Thánh Tông)
+ Ngắt bốn câu dưới:
Vắt vẻo sườn non Trao
Lơ thơ mấy ngọn chùa
Hỏi ai là chủ đó
Có bản tớ xin mua.
(Vô danh)
+ Ngắt hai câu đầu, hai câu cuối:
Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 12
(Nguyễn Khuyến)
+Ngắt bốn câu giữa:
Lởm chởm gừng vài khóm
Lơ thơ tỏi mấy hàng
Vẻ chi là cảnh mọn
Mà cũng đến tang thương.
(Nguyễn Gia Thiều)
+ Ngắt câu 1+ 2 và 5 + 6:
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Tép miệng năm ba con kiến gió
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.
(Lê Thánh Tông)
Tác giả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử cũng theo quan điểm này.
Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam – hình
thức và thể loại cho rằng: … “Như vậy, thơ Đường luật hoặc cũng gọi một cách
khái quát, thơ cách luật, là thể thơ được đặt ra từ đời Đường…có ba loại: ngũ
ngôn, lục ngôn và thất ngôn. Thơ cách luật chia làm ba thể: thể tiểu luật gọi là
tuyệt cú (Việt Nam gọi là tứ tuyệt),…thể luật thi gọi là bát cú…” [31, tr.226]. Hai
ông cũng đã giải thích thêm về thơ tứ tuyệt như sau:
+ Tuyệt: có nghĩa là cắt ra từ bài bát cú.
+ Tuyệt: cũng là cắt, là đứt, nhưng là đứt câu, dừng bút để trọn ý cho một
bài, sau khi viết câu thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ; hai câu mới thành
một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành một bài thơ.
Theo nhà biên dịch thơ Đường, Trần Trọng Kim: “Thơ tuyệt cú là lối thơ
làm bốn câu hai ba vần…” [18, tr.20].
Theo Đào Thái Sơn trong Khái luật về thơ tứ tuyệt thì cách hiểu của các vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 13
trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên
cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ viết
trong Quốc văn cụ thể: “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt.
Chỉ trong bốn câu mà thiền thâm, ẩn hiển, chinh kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi
là tuyệt” [20, tr.20]. Còn nhà nghiên cứu Lạc Nam Phan Văn Nhiễm trong Tìm
hiểu các thể thơ: “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú,
tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được
đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[29, tr.35]. Có thể nói
các nhà nghiên cứu ai cũng có lý do cho cách phân tích biện giải của mình. Điều
đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt.
Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài
bát cú thành một bài tứ tuyệt (theo niêm luật của một bài bát cú).
Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách hiểu thứ hai và mở rộng thêm thì một bài
thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là Nôm tứ
tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ Nôm ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng
được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự
thông thoáng, mở rộng. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những
khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng,
những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của
triết lý đạt tới cao độ.
Còn theo như PGS. TS Lê Lưu Oanh và Ths Định Thị Nguyệt trong Thơ tứ
tuyệt trong truyền thống văn hóa phương Đông thì thơ tứ tuyệt là một thể loại
kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương
Đông. Tứ tuyệt là một chỉnh thể vi mô toàn vẹn, số 4 trong quan niệm của nhân
loại là một con số hoàn thiện nhất. Quy luật đối lập âm dương, đảm bảo cân
bằng âm dương qua việc phối hợp các thanh bằng – trắc, các nhịp chẵn lẻ tạo
thành một cấu trúc có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, làm một bài
tứ tuyệt dù rất nhỏ nhưng đảm bảo là một cấu trúc hình thức hoàn chỉnh cân
xứng, nhịp nhàng, chặt chẽ, khó phá vỡ [36, tr.2]. Chính vì con số 4 chứa đựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 14
được cả vũ trụ nên bài thơ tứ tuyệt được coi là một tổng thể toàn vẹn mang tính
vi mô. Nhưng nội dung và cả cấu trúc hình thức của tứ tuyệt không hạn chế ở cấp
độ vi mô mà vươn tới hình ảnh của thế giới vĩ mô. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa cái nhỏ và cái lớn, thể hiện cảm quan triết lí phương Đông về vũ trụ.
Với cấu trúc rất bé nhỏ, thơ Nôm tứ tuyệt là loại hình nghệ thuật biểu hiện khá
điển hình cho mối quan hệ vi mô – vĩ mô ấy. Tuy nhỏ, song nó không hề bị hạn
chế sức mạnh và sức bao quát, trong một hình thức có giới hạn vẫn chứa đựng
được nội dung khái quát (vô hạn). Cũng với cách hiểu này, kết cấu của tứ tuyệt là
kết cấu mở. Còn về ngôn ngữ, do bài thơ vắng các hư từ, giới từ, chủ từ, kết cấu
danh từ là kết cấu chủ yếu, thiếu tiêu chí thời gian xác định, cho nên cái đa nghĩa
trong thơ cận thể (bát cú và tứ tuyệt) không phải là ngẫu nhiên mà thành thường
lệ, làm cho hình tượng thơ "vừa trừu tượng vừa mơ hồ, vừa mông lung tràn trề".
Nói tóm lại, thơ tứ tuyệt không xa lạ với người yêu thơ. Về quan niệm thơ
tứ tuyệt là gì còn tùy vào quan điểm phân tích của mỗi người khác nhau. Làm thơ
tứ tuyệt không khó, nhưng để có một bài tứ tuyệt hay là cả một công trình nghệ
thuật. Làm thơ đã vậy, cảm nhận được nó cũng không phải là chuyện dễ dàng gì.
Thơ tứ tuyệt trước hết là một bài thơ bốn câu, không nhất thiết là ngũ ngôn hay
thất ngôn, không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ. Thơ tứ tuyệt phải vận
dụng được tối đa các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vần, đặc
biệt là cách tổ chức hình ảnh để tạo ra một cấu trúc đa chiều vừa đủ sức phản ánh
hiện thực, vừa mang tính khái quát cao, vừa ưu tiên cho sự tự thể hiện của sự vật
của các quan hệ vừa có chỗ cho tâm trạng cá nhân, cá tính của đối tượng cũng
như của tác giả.
Thơ tứ tuyệt có những điểm mạnh hơn thơ hai câu, ba câu, tám câu hoặc
trường thiên. Tuy nhiên thơ tứ tuyệt có hạn chế về mặt phản ánh so với các thể
thơ dài nhưng lại mạnh hơn nhiều lần về sự ghi nhớ, khả năng lưu truyền. Thơ
không được nhớ, không được thuộc thì điều nhà thơ muốn gửi tới người khác, sẽ
không có hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 15
1.1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng
Yếu tố trào phúng đã có mặt ngay từ những thể loại văn học dân gian đầu
tiên như sử thi, thần thoại. Những tình tiết như Đam Săn chặt cây thần, lên hỏi tội
trời,… đều ẩn giấu ý nghĩa trào phúng độc đáo. Tuy nhiên, ở các thể loại này,
tính chất trào phúng còn mờ nhạt và ít ỏi. Dần dần, tính chất trào phúng đã đậm
hơn, phong phú hơn ở các chuyện cổ tích thế sự, ở thể loại truyện ngụ ngôn, ca
dao, tục ngữ…
Cái cười là một hành động nhận thức, là sản phẩm của tư duy suy lý. Tiếng
cười trào phúng gắn liền với ý nghĩa phê phán xã hội, là phản ứng tức thời của
con người khi phát hiện ra mâu thuẫn và những điều trái tự nhiện dưới góc độ tư
duy suy lý. Trào phúng là từ Hán - Việt, tách riêng từng chữ thì “trào” là cười
cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Vì vậy, thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng hiểu một cách giản dị là loại thơ Nôm 4 câu dùng ngôn từ ví
von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trái với lương tri,
đạo đức xã hội.
Thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng được
hiểu theo nghĩa tương đối rộng nên có thể chia thành nhiều loại, trong đó có 3
loại chính: loại chế giễu, cười nhạo; loại mỉa mai châm biếm; loại phê phán, đả
kích. Ngoài ba loại kể trên còn có loại thơ “vui là chính”, không châm biếm, chế
giễu ai. Nếu có châm biếm thì cũng tự châm biếm mình. Ta thường gặp loại thơ
này trong các bài tự trào, tự cười mình là chính. Loại này cũng được xếp vào thơ
trào phúng. Việc phân chia thơ trào phúng làm nhiều loại cũng chỉ là cách chia
tương đối không thể cố định, rạch ròi. Bởi vì trong khôi hài, cười cợt có châm
biếm, chế giễu; trong châm biếm, chế giễu có phê phán, đả kích; trong phê phán,
đả kích có khôi hài, cười cợt.
Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng
nói riêng là yếu tố gây cười, yếu tố hài hước. Nếu không có hai yếu tố này thì không
thể gọi là thơ trào phúng. Tuy nhiên, cười cũng có nhiều kiểu, nhiều cách. Có khi
cười thành tiếng, có khi cười thầm, có khi cười mỉm, có khi chỉ gật đầu. Mặt khác,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 16
cũng là cười nhưng mỗi tác giả có một phong cách gây cười riêng.
Do tính chất chung của thơ trào phúng là hài hước, gây cười vì vậy người
làm thơ trào phúng thường vận dụng các yếu tố ngoa ngôn phóng đại và các biện
pháp ngụ ngôn, ẩn dụ, ước lệ để xây dựng hình tượng, thể hiện nội dung. Thơ
trào phúng không kể lể lan man, càng ngắn gọn, cô đọng càng tốt. Thơ trào
phúng thường có những câu đột phá độc đáo. Nhất là ở những câu kết cần làm
bật lên những ý tuởng mới lạ khiến người đọc, người nghe cảm thụ một cách
thích thú bất ngờ.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa trào phúng là “Một loại đặc biệt
của sáng tác văn học đồng thời là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật, trong đó
các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài
hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu
cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội”.
“Trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học, cái hài
với cái cung bậc hài hước,châm biếm đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học
tiếng cười”[33, tr.246]. Những cung bậc, những tiếng cười từ hài hước đến mỉa
mai châm biếm, đả kích, bằng thủ pháp gây cười như phóng đại khoa trương …
được vận dụng một cách phổ biến trong tác phẩm trào phúng.
Trào phúng là một khái niệm rất phức tạp về mặt lý thuyết, khái niệm này
rất khó định nghĩa, đã có hàng trăm định nghĩa về cái hài như những định nghĩa
của Aritstot, Cantơlipxơ… tuy nhiên mỗi định nghĩa có hạn chế bởi tính phiến
diện của nó. Tóm lại, hiểu một cách đơn giản nhất trào phúng là nghệ thuật gây
ra tiếng cười mang ý nghĩa phản ánh xã hội để gây ra tiếng cười trào phúng, tiếng
cười hài hước đó là tiếng cười mỉa mai, châm biếm sâu cay. Lấy tiếng cười làm
phương tiện để biểu hiện một đối tượng nhất định.
Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng trong bước đường đầu tiên của nó chủ yếu
hiện diện ở hai cung bậc trào phúng là hài hước và châm biếm. Tất nhiên sự biểu
hiện các cung bậc này không phải bao giờ cũng rõ ràng, xác định như vậy. Có
những bài thơ xuất hiện cả hai cung bậc, hoặc có sự đan xen pha trộn giữa hài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 17
hước với mỉa mai, châm biếm hoặc vừa châm biếm vừa vui đùa...
Về nội dung trào phúng, sự phong phú, đa dạng và phát triển trên cơ sở sự
biến đổi của đối tượng thẩm mỹ, đó là sự phát triển của bối cảnh lịch sử xã hội và
cùng với nó, sự xuất hiện của các loại đối tượng trào phúng. Từ vua đến quan, từ
những kẻ xấu xa đến những thói hư tật xấu trong xã hội, từ hình ảnh thiên nhiên
đến những sự vật bình thường,…tất cả tạo nên một thế giới trào phúng hết sức
phong phú, bao quát được nhiều vấn đề của hiện thực xã hội đương thời.
Về nghệ thuật trào phúng, đó là những biện pháp gây cười và ngôn ngữ
nghệ thuật. Thơ Nôm tứ tuyệt là thể thơ sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc, có lợi
thế trong việc phản ánh hiện thực đời sống theo cảm quan của nhân dân, làm bật
ngay tiếng cười trực tiếp, tác động thẳng tới người đọc, có ý nghĩa trào phúng sắc
sảo, tức thời.
Thực tế văn học dân tộc cho thấy có hẳn một truyền thống trào phúng rất đáng
chú ý kéo dài suốt những thế kỷ đầu tiên khi văn học viết xuất hiện đến tận hôm nay
và ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở ra những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mới
mẻ, tạo nên một bộ phận “văn học cười” đặc sắc trong văn chương dân tộc.
Tóm lại, thơ tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt nói riêng là một thể thơ
đặc sắc, được các nhà thơ hết sức ưa chuộng và được sự quan tâm đặc biệt của
các nhà nghiên cứu. Tuy vậy, tứ tuyệt là gì, xuất hiện từ bao giờ, đặc trưng của
nó ra sao, tứ tuyệt Đường có cắt ra từ bát cú hay không… là những vấn đề chưa
phải đã đạt tới sự thống nhất cao.
1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tƣợng Hồ Xuân Hƣơng
Theo khảo sát cuả TS Ngô Gia Võ trong Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm
Đường luật trào phúng thì thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam đã có một
quá trình phát triển từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, đến Hồng Đức quốc âm
thi tập của các tác gia thời Hồng Đức và Lê Thánh Tông, đến Bạch Vân quốc ngữ
thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi mới đến thơ Hồ Xuân Hương. Rõ ràng, hiện
tượng “kỹ nữ Hồ Xuân Hương” với những thi phẩm trào phúng đặc sắc và đầy ấn
tượng, với nghệ thuật sáng tạo thơ độc đáo được người đời phong tặng danh hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 18
“Bà chúa thơ Nôm” không phải là hiện tượng bất ngờ đột biến và dường như đã
được văn học dân tộc “chuẩn bị” từ nhiều thế kỷ trước đó. Không có một dòng chảy
âm thầm, bền bỉ của thơ Nôm Đường luật trào phúng từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, không có một truyền thống trào phúng dày dặn và phong phú trong
lịch sử văn học dân tộc, không có các thế hệ thi nhân đi trước tìm đường cho “một
lối thơ Việt Nam” thì chắc chắn không thể có một Hồ Xuân Hương kì nữ, một Hồ
Xuân Hương “độc nhất vô nhị” trong lịch sử văn chương trung đại.
Cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự mục ruỗng và
suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX, chế độ phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam bộc lộ bản
chất tàn bạo, phản động một cách trắng trợn và sâu sắc: ngai vàng mục ruỗng,
các tập đoàn phong kiến tranh chấp chém giết lẫn nhau giành ngôi bá chủ. Xuân
Hương sống vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh ở nước Việt Nam ta. Hồ Xuân
Hương đã sống trong một thời đại như thế, và thơ của bà đã mang rất sâu sắc dấu
hiệu của thời đại bà. Thơ Xuân Hương với hiện tượng chuyện Trạng Lợn, nhất là
truyện Trạng Quỳnh cũng ra đời trong giai đoạn lịch sử ấy. Tác giả Thanh
Lương trong quyển Lịch sử tóm tắt Việt Nam đã cho rằng: “Hồ Xuân Hương và
Cống Quỳnh đã đại diện cho tinh thần của thời đại họ, và đó là những kẻ báo
hiệu của khởi nghĩa Tây Sơn” [18, tr.19]. Quả đúng như vậy, trong xã hội rối ren
đó, phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp, tiêu biểu là phong trào Tây
Sơn đã quét sạch ba tập đoàn phong kiến (Trịnh, Nguyễn, Lê). Nguyễn Ánh lật
đổ Tây Sơn thiết lập vương triều Nguyễn, thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc.
Triều Nguyễn bảo thủ, phản động đẩy nước ta vào thảm họa bị xâm lược.
Thời kì sụp đổ xã hội và điêu tàn chiến tranh này, có lẽ không đáng ngạc
nhiên, lại cũng là đỉnh cao trong truyền thống lâu dài về thi ca của Việt Nam.
Như Dante nói trong cuốn De vulgari eloquentia, "Các chủ đề chính của thơ ca
là tình yêu, đức hạnh và chiến tranh." Tác phẩm thơ vĩ đại của thời kì này –
“Truyện Kiều” nổi tiếng của Nguyễn Du, đều tràn ngập với niềm khao khát cá
nhân, với sự thông cảm cho những "số mệnh bạc bẽo," và với ước mơ cháy bỏng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 19
về một xã hội tốt đẹp. Chiến tranh, đói khát và tham nhũng đã không đánh bại
được các nhà thơ như Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, mà lại còn làm sâu sắc
hơn công trình của họ.
Trong chính bối cảnh xã hội rối ren, con người bị đè nén đến cùng cực như
vậy thì những tiếng nói phản kháng chống lại sự hà khắc của chế độ phong kiến,
đòi hỏi quyền sống, bảo vệ những giá trị của con người càng được đề cao.
Những nguyên tắc, lễ nghi phong kiến xơ cứng không còn đủ sức để trói buộc
con người, mà ngược lại người ta luôn mong ước được giải phóng ra khỏi những
nghi lễ ràng buộc ấy, ước mơ được tự do, được hưởng những hạnh phúc trần tục
đời thường mà vì những lý do khuôn mẫu giáo điều người ta vẫn khinh rẻ và
chối bỏ chúng. Các nhà nho tiêu biểu như Lê Hữu Trác, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát… chính là các nhà tư tưởng tiểu biểu của thời đại đã nói
lên tiếng nói chung, khát vọng chung của quảng đại quần chúng.
Xã hội phong kiến Việt Nam hồi cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, đã có
cái nhu cầu cần phải chuyển lên một chế độ khác tiến bộ hơn, nhưng trong thực
tế, đã không chuyển được. Xã hội không tiến lên được, nhưng con người luôn
luôn vẫn đòi giải phóng ra khỏi hệ ý thức phong kiến, ra khỏi tập tục, lễ giáo,
đạo đức phong kiến chèn ép con người quá khắc nghiệt. Người ta đòi hỏi con
người phải được sống tự do hơn, phóng khoáng hơn, ngấm ngầm yêu cầu mỗi
con người phải được coi như một cá thể đáng quý trọng. Khát vọng giải phóng
trong thơ Hồ Xuân Hương cho thấy sự đòi hỏi ngấm ngầm của cả một xã hội.
Tất cả những điều đó là một tiền đề xã hội – lịch sử - văn hóa để sinh ra
một tài năng trào phúng lớn của đất nước: kì nữ Hồ Xuân Hương. Nhiều nhà
nghiên cứu văn học còn khẳng định bà là “Hiện tượng nổi loạn” trong lòng chế
độ phong kiến Việt Nam.
1.3. Vị trí Hồ Xuân Hƣơng trong dòng thơ Nôm Đƣờng luật trào phúng
và trong văn học trào phúng thời trung đại
Với những bài thơ Nôm Đường luật trào phúng của mình, Hồ Xuân Hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 20
đã có một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Vị trí
của bà trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong văn học trào phúng
thời trung đại cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Đoàn Lê Giang trong Hồ Xuân Hương từ cái nhìn hậu hiện đại đã từng nói:
“Như một viên đá kỳ hình đa sắc, thơ Hồ Xuân Hương từ mỗi góc nhìn lại thấy một
kiểu dáng mới, một màu sắc mới,… Hồ Xuân Hương là hiện tượng văn học kỳ lạ,
người ta không ngừng tìm hiểu, không ngừng khám phá, mà Hồ Xuân Hương – một
hiện tượng thơ tồn tại hàng 200 năm nay vẫn chưa hề cũ bao giờ. Thơ Hồ Xuân
Hương đầy ắp tiếng cười trào tiếu, giễu nhại trước những chuyện trang
nghiêm,…”[9, tr.1].
Trong Bà chúa thơ Nôm, Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét: “Trong văn
học Việt Nam có một nhà thơ kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất, mà lại hai lần
độc đáo, vì đó là một phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến xưa. Tên người ấy là
Hồ Xuân Hương. “Ví đây đổi phận làm trai được”, thực sự là nàng đã làm trai
rồi, ngay trong xã hội cũ” [5, tr.1].
“Xét về mặt nghệ thuật thơ văn cũng như nội dung, ý tình trong các bài
thơ, chúng ta đã dễ dàng cảm nhận được tình cảm chân thật, mạnh dạn, mới mẻ
của Hồ Xuân Hương như một cá tính không dễ lẫn, một bản lĩnh phụ nữ hiếm
hoi trong văn chương trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ
XIX…”[5, tr.26].
Đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương, sách Tổng tập văn học Việt Nam nhận
định “Thơ Hồ Xuân Hương thường bộc lộ tài năng và trí tuệ của một phụ nữ
trước những cơn sóng gió của cuộc đời và thời cuộc,… Tiếp nhận và phát huy
những tinh hoa của dòng văn hóa dân gian, lời thơ của Hồ Xuân Hương nhiều khi
như lưỡi dao sắt ngọt đã xé toạc bộ mặt giả đạo đức của nhiều kẻ tự mạo nhận là
“Quân tử”, “Anh hùng”, góp phần hạ bệ nhiều thần tượng chỉ có hư danh trong
xã hội phong kiến”[18, tr.19].
Trên thi đàn, Hồ Xuân Hương có một vị trí đặc biệt quan trọng bởi thơ bà
thể hiện được sự đổi mới, cách tân trên nhiều phương diện. Trước hết về nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 21
dung, bà đã đưa vào thơ những đề tài bình dị, dân dã, cũng như cách cảm, cách
nghĩ của dân gian. Đề cập tới vấn đề này nhà nghiên cứu Tam Vị trong bài viết:
Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương cho rằng: " Hồ Xuân Hương
đã làm sống lại trong văn học thành văn cả một truyền thống văn hoá phồn thực
hùng hậu” [54, tr.10]. Đề cập tới tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương
chính là việc tác giả tiến hành chứng minh và khẳng định: Hồ Xuân Hương đã
đem vào văn học cả tinh thần, thế giới quan của văn hoá dân gian.
Tác giả Nguyễn Đăng Na trong bài nghiên cứu Thơ Hồ Xuân Hương với
văn học dân gian lại chỉ ra mối liên hệ giữa thơ Hồ Xuân Hương với văn hoá
dân gian và hẹp hơn là văn học dân gian trong cách cảm, cách nghĩ, từ đó tìm
thấy sự kế thừa cũng như nét độc đáo riêng của nữ sĩ. Tác giả khảo sát thơ Hồ
Xuân Hương trên ba hệ thống đề tài: đề tài về loại người "có học"; đề tài về nhà
chùa và đề tài về người phụ nữ rồi đi tới khẳng định: "Hồ Xuân Hương tiếp thu
dân gian nhưng không lặp lại dân gian; bà chỉ tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái
đúng; cái gì chưa đúng thì uốn nắn" [28, tr.14].
Trong công trình nghiên cứu khá công phu: Hồ Xuân Hương- hoài niệm
phồn thực, tác giả Đỗ Lai Thuý đi sâu vào những biểu tượng phồn thực trong
thơ Hồ Xuân Hương, phân tích và chỉ ra những ý nghĩa sâu xa của nó. Như các
biểu tượng liên quan đến các bộ phận của cơ quan sinh sản, hành vi tính giao,
thân thể phụ nữ.... Tác giả chứng minh sự gắn bó mật thiết giữa biểu tượng trong
thơ Hồ Xuân Hương với những biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực trong dân
gian. Sự trở về với những biểu tượng phồn thực cổ xưa và dân gian trong thơ "
Bà chúa thơ Nôm" cho thấy: "Bà là người rất yêu sự sống’’ [47, tr.15]. Bên cạnh
những biểu tượng gốc, Đỗ Lai Thuý phát hiện trong thơ Hồ Xuân Hương còn có
những biểu tượng phái sinh. Đó là sáng tạo riêng của nhà thơ, tạo nên phong
cách độc đáo của nữ sĩ.
Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về một số vấn đề trong thơ Hồ Xuân Hương,
giáo sư Lê Trí Viễn trong bài Đôi điều về thơ Hồ Xuân Hương đã đề cập đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 22
cái tục trong thơ bà và lí giải nó dưới nhãn quan văn hoá dân gian. Tác giả cho
rằng: "Hồ Xuân Hương đã tiếp nhận từ những sinh hoạt hội hè mang đậm nét
dân gian, …"[55, tr.46].
"Nữ sĩ bình dân" là tên bài viết của tác giả Nguyễn Hồng Phong. Trong bài
viết này bên cạnh việc chỉ ra tư tưởng bình dân, ý thức luôn đứng về phía nhân
dân của nữ sĩ, tác giả còn tìm hiểu sự thành công của thơ Hồ Xuân Hương về
phương diện nghệ thuật. "Sự thành công của Xuân Hương trong nghệ thuật thơ
là do bà đã hấp thu và phát huy được vốn văn nghệ dân gian phong phú. Những
gì là tinh tuý, là tuyệt diệu của nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương đều liên quan
đến những tinh hoa của nền văn nghệ dân gian mà thi sĩ đã rất thấm nhuần" [37,
tr.14]. Tiếp đó tác giả tìm hiểu nghệ thuật trào lộng của Xuân Hương ở việc xây
dựng hình ảnh tương phản và lối nói ám dụ nửa tục, nửa thanh cũng như tìm hiểu
ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương : "Ngôn ngữ Xuân Hương là ngôn ngữ của
tục ngữ, ca dao, ngay cả cách nói của Xuân Hương, lối so sánh ví von còn là
cách nói của nhân dân qua tục ngữ, ca dao" [37, tr.16]. Xuân Hương còn hay
dùng lối chơi chữ, lối nói lái nhằm mục đích trào lộng hoặc mỉa mai, châm biếm;
chính nó làm cho câu thơ trở nên duyên dáng vô cùng. Cuối cùng Nguyễn Hồng
Phong nhận định: "Thành công của Hồ Xuân Hương cũng như trường hợp của
Nguyễn Du sau này, chứng tỏ các thiên tài lớn trước hết là những người biết tiếp
thu tinh tuý vốn văn hoá dân gian, biết học tập và vận dụng được ngôn ngữ của
nhân dân”[37, tr.19].
Về ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Lộc trong Hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương
cho rằng: trong văn học cổ không ai giản dị, dễ hiểu và mộc mạc như Xuân
Hương. Ngôn ngữ của Xuân Hương không khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục
ngữ. Đó là một ngôn ngữ thuần tuý Việt Nam. Trong kiến trúc chung của câu thơ
Xuân Hương, những yếu tố ca dao, tục ngữ được đặt đúng chỗ nên rất tự nhiên.
Nó nhuyễn vào những từ, những câu khác làm thành một thể hữu cơ thống nhất.
Đặc biệt "Xuân Hương vận dụng ngôn ngữ không câu nệ ở hình thức, bà có thể
đưa vào thơ một loạt từ ngữ "đầu đường xó chợ” miễn là những từ ngữ ấy nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 23
đúng được đời sống tình cảm"[23, tr.12].
Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương thể hiện một trạng thái,
một đặc điểm trong thành tựu sáng tác của hầu hết các tác gia và tác phẩm kiệt
xuất Việt Nam viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Đó là một lâu đài nghệ thuật tổng
hợp những giá trị rực rỡ nhất trong văn học trào phúng dân gian, trong văn học
viết, trong thơ Nôm Đường luật trào phúng trước Hồ Xuân Hương.
Dù còn nhiều tranh cãi thì hiện tượng Hồ Xuân Hương vẫn cần được nghiên
cứu từ nhiều bình diện, nhiều góc độ dưới nhiều phương pháp tư duy khoa học
khác nhau bởi vì bà là giao điểm hợp lưu giữa hai nền văn học dân gian và văn
học viết.
Với những đóng góp to lớn của Hồ Xuân Hương vào nền văn học dân tộc,
luận văn cũng rút ra những vấn đề đáng chú ý trong tiếp thu sáng tạo của Hồ
Xuân Hương trên hai nguồn văn học dân gian và văn học viết:
Với nội dung, đối tượng trào phúng, Hồ Xuân Hương tiếp thu nhiều hình
tượng trào phúng của văn học dân gian như cường quyền (vua chúa, quan lại),
thần quyền (sư sãi và triết lý kìm hãm đời sống con người của Phật giáo), nam
quyền (đề cao phụ nữ, hạ thấp quân tử, kẻ sĩ).
Trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng trước Hồ Xuân Hương có
những hình tượng trào phúng khá đặc sắc như hình tượng tự trào (Nguyễn Trãi)
hoặc hình tượng thằng có của, hoặc thói đời xấu xa vụ lợi (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
nhưng chúng tôi nhận thấy dường như không xuất hiện trong thơ trào phúng của
bà. Như vậy, về phương diện hình tượng trào phúng, Hồ Xuân Hương cơ bản
tiếp thu từ nguồn mạch trào phúng của văn học dân gian và với tài năng kiệt xuất
của mình, bà đã nâng cao hơn, khắc họa tập trung hơn và sinh động hơn nền văn
học ấy.
Về bút pháp trào phúng, Hồ Xuân Hương đã tiếp thu nghệ thuật cái tục từ
văn học dân gian. Thơ Nôm Đường luật trào phúng trước Hồ Xuân Hương chủ
yếu vẫn là bút pháp trang trọng, có tính chất “nhã ngôn”, rất ít sử dụng yếu tố
tục. Họ có nói đến cái tục một cách lập lờ hai nét nghĩa nhưng không nhằm phê
phán hạ bệ đối tượng nào. Trái lại, “Bà chúa thơ Nôm” lại dùng cái tục như một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 24
phương tiện nghệ thuật đặc biệt để bộc lộ thái độ trào phúng và tư tưởng nghệ
thuật của mình. Khi nghiên cứu về vấn đề này, ta cần phải hiểu rằng bà tiếp thu
nghệ thuật cái tục từ văn học dân gian nhưng không có mức độ trần trụi, trực tiếp
cao như trong tiếu lâm hoặc những bài ca dao, những câu đố miêu tả sinh thực
khí một cách thô tục. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ có đủ thi thư, trình độ học
vấn để chơi chữ. Vì vậy mà tục trong thơ bà vẫn thanh cao, có ý nghĩa hàm ẩn,
gợi mở nhiều liên tưởng.
Về ngôn ngữ trào phúng, cũng như các tác giả trước, Hồ Xuân Hương
có sự tiếp thu ngôn ngữ đời sống. Nhưng khi so sánh với Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngôn ngữ đời sống trong tác phẩm của họ vẫn ít
nhiều dựa trên nền tảng ngôn ngữ toàn dân, chưa trở thành cá tính sáng tạo riêng
biệt. Còn với Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ đời sống đã trở thành cá tính sáng tạo
dưới tài nghệ điêu luyện của bà.
Từ Hán Việt, điển tích điển cố, thi liệu Hán được nhiều nhà thơ sử dụng
nhưng với Hồ Xuân Hương thì ngoài một số câu thơ chơi chữ, có thể nói là hầu
hết sử dụng ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ dân tộc. Hồ Xuân Hương cũng có
tiếp thu những thành tựu ngôn ngữ nghệ thuật từ các tác giả. Cách sử dụng từ láy
trong thơ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, cách dùng từ ngữ tạo hình tượng trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm... cũng thấy thấp thoáng trong thơ bà. Đặc biệt, bà đã
tạo ra một phong cách ngôn ngữ độc đáo biểu hiện rõ cá tính sáng tạo của "Bà
chúa thơ Nôm" trong dòng văn học trào phúng Việt Nam. Khác với các nhà thơ
khác, bà luôn xây dựng được những hình tượng trào phúng hoàn chỉnh, tạo nên
bức tranh cuộc sống cực kì sinh động với nhiều hình tượng trào phúng đặc sắc.
Về thể thơ, Hồ Xuân Hương không tiếp thu từ nguồn văn học dân gian
mà sử dụng thể loại thơ Nôm Đường luật của văn học viết để biểu đạt nội dung
trào phúng. Thể thơ Đường luật có tính chất bác học, đòi hỏi một trình độ học
vấn uyên bác. Làm chủ được thể thơ này, Xuân Hương càng chứng tỏ được mình
là một tác giả của nền văn học viết thời trung đại.
Có thể nói Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đầu tiên đã làm thơ để giễu đời
ở nước ta.Vốn đã mang hồn tính vững vàng của dân tộc để đứng cao mà nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 25
xuống, đứng ngoài mà ngó vào, lại được sống một thời loạn ly điên đảo, Hồ
Xuân Hương có đủ phương tiện và điều kiện để làm một nhà thơ trào phúng bận
rộn. Thêm nữa, cái thân thế long đong, duyên phận lỡ làng trong một cá tính tự
do, bất khuất càng làm cho cái cười của nữ sĩ sâu sắc, chân thành. Con người ấy
đối với trái tim mình chỉ một mực chân thành, trung thực đối với mình và đối với
người nhưng luôn khắc khoải vì nỗi khao khát chẳng hề nguôi, mọi tâm lực đều
dồn vào đó, chẳng khác bao nhiêu tia sáng đã biến thành ngọn lửa nhưng chỉ là
đốt cháy trái tim mình, con người ấy khi khép cánh cửa của niềm riêng sâu thẳm
mà mở lòng với ngoại cảnh, cảnh trời đất và cảnh người đời – trong đó làm sao
không có mình. Ở Xuân Hương, ta luôn thấy tồn tại hai con người: “Kia là một
Xuân Hương âm thầm chuyện riêng tư rất thiết nhưng rất nhỏ, một Xuân Hương
trong quan hệ với các bậc mày râu phong kiến và Nho giáo nên cũng bác học
như ai. Đây là một Xuân Hương giữa cuộc đời rộng mở với đất trời, với đông
đảo quần chúng nhân dân lao động và của đô thị, bộc tuệch, chẳng kiêng dè,
dân dã phong cách mà nhọn sắc lên trong thái độ thụ cảm thiên nhiên và tấn
công vào mọi thứ giả dối thù địch của cuộc sống” [57, tr.19].
Nhân dân lao động có lẽ là độc giả say sưa nhất của thơ Nôm Xuân
Hương. Hiện tượng dân gian hóa là một bằng chứng vinh dự. Thơ Hồ Xuân
Hương đi vào quần chúng và lưu truyền như một tác phẩm dân gian theo quy
luật của sáng tác dân gian. Nó đáp ứng nỗi lòng của nhân dân, nó thay thế sáng
tác của nhân dân. Và khi nhân dân thấy có nhu cầu không phải thưởng thức nữa
mà nhu cầu sáng tác, nhu cầu tự thể hiện, nó làm ra những bài thơ cùng mạch thơ
Xuân Hương và truyền nhau xen lẫn.
Như vậy, ta có thể một lần nữa khẳng định Hồ Xuân Hương là một tác gia
trào phúng lớn đã kết tinh, tổng hợp và phát triển những thành tựu trào phúng đa
dạng từ trước đó qua hai nguồn văn học dân gian và văn học viết, đặc biệt là thơ
Nôm Đường luật trào phúng. Bà chúa thơ Nôm ấy có một phong cách trào phúng
riêng mà nhiều nhà nghiên cứu coi như một cá tính sáng tạo, một đặc điểm hoặc
một bút pháp nghệ thuật chủ yếu. Với 15 bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng, Hồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 26
Xuân Hương đã nâng cao và hoàn chỉnh hơn thể loại thơ Nôm Đường luật, mở ra
những khả năng mới trong việc chiếm lĩnh và phản ảnh hiện thực đời sống. Với
những đóng góp to lớn của mình, Hồ Xuân Hương đã góp phần mở đường cho
sự xuất hiện của một loạt các nhà thơ trào phúng sau này như Tú Xương,
Nguyễn Khuyến…
1.4. Quy mô, số lƣợng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hƣơng
Có rất nhiều tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương nhưng trong phạm vi đề tài này
người viết chọn tập Thơ Hồ Xuân Hương do Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu.
Trong 40 bài thơ Hồ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn,
chúng tôi nhận thấy chỉ có ba bài thơ Tự tình không phải thơ trào phúng. 37 bài
còn lại thì có 2 bài được xếp vào loại đang được tranh cãi là Mời trầu và Bánh
trôi nước. Tuy nhiên, trong bài báo Suy nghĩ quanh câu thơ “Này của Xuân
Hương mới quệt rồi”, tiến sỹ Ngô Gia Võ đã chứng minh được từ của trong bài
thơ Mời trầu là danh từ và ẩn dấu cái tục. Do đó, Mời trầu được xếp vào thơ
trào phúng. Tuy nhiên, những bài thơ như Mời trầu và Bánh trôi nước tính chất
trữ tình vẫn là cái chủ đạo, tính chất trào phúng chỉ là một yếu tố rất nhỏ biểu
hiện qua cái hài hước tinh quái theo cá tính sáng tạo của Hồ Xuân Hương mà
thôi. Nếu xếp cả 2 bài thơ này vào khuynh hướng trào phúng thì thơ trào phúng
Hồ Xuân Hương gồm 37/40 bài, gần bằng 92,5%, một tỷ lệ cực lớn, có thể nói là
lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.
Trên cơ sở đó, ta có thể kết luận, sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hương tập
trung chủ yếu vào khuynh hướng trào phúng. Bà chủ yếu được người đọc biết
đến là ở thơ trào phúng và chỉ có thơ trào phúng của bà mới đủ sức xác định cái
cá tính sáng tạo vào loại độc nhất vô nhị trong lịch sử văn chương dân tộc. Tuy
rằng trong quá trình làm luận văn, người viết cũng sẽ không thể không nhắc đến
những bài thơ trữ tình của bà nhưng với số lượng thơ trào phúng như vậy thì giá
trị trào phúng vẫn là một giá trị lớn nhất trong sự nghiệp làm thơ của “Bà chúa
thơ Nôm”.
Thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương nằm trong tiến trình phát triển của thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 27
Nôm Đường luật. So sánh với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức
quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn
Bỉnh Khiêm thì tỷ lệ thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương là cao hơn cả (theo
thống kê của tiến sỹ Ngô Gia Võ trong luận án Hồ Xuân Hương với dòng thơ
Nôm Đường luật trào phúng thì tỷ lệ thơ trào phúng trong Quốc âm thi tập là
11,8%, trong Hồng Đức quốc âm thi tập chiếm 12,5%, Bạch Vân quốc ngữ thi
tập chiếm 33,5% và trong thơ Hồ Xuân Hương, tỷ lệ thơ trào phúng chiếm
92,5%). Hồ Xuân Hương sống và làm thơ ở giai đoạn từ giữa thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XIX, là giai đoạn suy tàn, tan rã đến đỉnh điểm của chế độ phong
kiến Việt Nam và những mặt trái của xã hội đó đều được phơi bày trên những
trang viết của Hồ Xuân Hương. Điều đó giải thích cho sự xuất hiện của tỷ lệ
92,5% thơ trào phúng Hồ Xuân Hương trong nền văn học giai đoạn này.
Ta nhận thấy trong 37 bài thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, chỉ có 7
bài mang yếu tố trào phúng là: Mời trầu, Khóc ông phủ Vĩnh Tường, Không
chồng mà chửa, Thiếu nữ ngủ ngày, Tranh tố nữ, Dỗ người đàn bà có chồng
chết, Bánh trôi nước, còn lại 30 bài đều là tác phẩm trào phúng. Với 30 bài thơ
trào phúng hoàn chỉnh và 7 bài thơ mang yếu tố trào phúng trên tổng số 40 bài
thơ ta càng thấy trào phúng chính là mục đích sáng tác lớn nhất, chủ yếu nhất
trong quá trình sáng tạo thơ Nôm của Hồ Xuân Hương.
Về mặt thể thơ, trong tập thơ 40 bài của Hồ Xuân Hương, ta thấy thể thơ
tứ tuyệt bao gồm 15 bài, chiếm tỷ lệ gần 35,1%. Ở Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông, và các tác gia thời Hồng
Đức, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm không có một bài tứ
tuyệt trào phúng nào. Đây là một điều đặc biệt trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương,
cũng là điểm khác biệt trong con người của nữ sĩ so với các nhà thơ trên.
Trong số 30 bài thơ trào phúng hoàn chỉnh và 7 bài thơ mang yếu tố trào
phúng thì có tới 15 bài thuộc thể tứ tuyệt; 15 bài tứ tuyệt trào phúng trên tổng số
37 bài thơ trào phúng trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương quả là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 28
con số ấn tượng, giàu ý nghĩa biểu hiện. Trong phạm vi đề tài, người viết sẽ tập
trung làm sáng tỏ giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật xoay quanh 15 bài thơ tứ
tuyệt trào phúng này.
Tiểu kết
Như vậy, qua bốn vấn đề ở Chƣơng 1: khái niệm thơ tứ tuyệt và thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng; vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào
phúng Việt Nam; những tiền đề lịch sử - xã hội – văn hóa tạo nên hiện tượng Hồ
Xuân Hương; quy mô số lượng thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, chúng
tôi nhận thấy mảng thơ tứ tuyệt trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương có một vị
trí đặc biệt quan trọng. Mảng thơ này, đặt vào dòng chảy thơ Nôm Đường luật
trào phúng trước đó là một bước phát triển mang tính đột biến, cho thấy tài năng
sáng tạo kì lạ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, đồng thời khẳng định ở một mức độ
cao hành trình Việt hóa một thể thơ ngoại nhập, đưa vào thể thơ quen thuộc này
những vấn đề mới mẻ, những giá trị nội dung và nghệ thuật đậm đà tính dân tộc.
Đọc thơ trào phúng Hồ Xuân Hương, ta luôn nhận thấy rằng trào phúng là ý
thức thường trực trong cảm hứng sáng tạo của Hồ Xuân Hương, cho nên khi gặp
những chuyện đáng cười, đáng hài hước và châm biếm là lập tức bà làm thơ ngay.
Số lượng 15 bài tứ tuyệt trào phúng trong tổng số 40 bài là một con số giàu giá trị
biểu hiện, cho thấy mục đích sáng tác thơ trào phúng, tạo tiếng cười nhanh, trực
diện đã chi phối tâm thế sáng tạo của “Bà chúa thơ Nôm”.
Tìm hiểu giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của 15 bài thơ này
là nhiệm vụ trọng tâm của luận văn. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ khẳng định rõ
hơn cá tính sáng tạo và vị trí văn học sử của tác gia Hồ Xuân Hương trong nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 29
thơ trung đại nói chung và trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng nói riêng.
Chƣơng 2
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Hệ thống đề tài
Hồ Xuân Hương là một hồn thơ giàu giá trị nhân văn, nhân bản, một chất
giọng lạ và giàu sắc thái sáng tạo. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến với một
tài năng và đặc sắc - một hiện tượng lạ của nền văn học Việt Nam. Bà là một con
người độc đáo cả về tính cách lẫn thơ văn, mà kể về sự độc đáo thì từ trước đến
nay chưa có một nhà thơ nữ nào sánh bằng.
Khi so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ Nôm trào phúng của các thế kỷ
trước, người viết nhận thấy dường như tiếng cười của Nguyễn Trãi (Quốc âm
thi tập), của các nhà thơ thời Hồng Đức (Hồng Đức quốc âm thi tập), của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Bạch Vân quốc ngữ thi tập) đều được sinh ra từ những
suy tư sâu sắc về cuộc đời. Thường thì các nhà thơ đó chỉ cười khi đã ngẫm
nghĩ thật kỹ, thật chín và khi hoạt động trí tuệ cần mẫn của họ phát hiện được
những trớ trêu, nghịch lý, đen bạc, xấu xa của đời sống hoặc những đặc điểm
hài hước, lố bịch của sự vật, hiện tượng. Phải chăng đó là một trong những lý
do khiến ba tập thơ này chỉ có thể thơ thất ngôn bát cú được dùng để biểu hiện
nội dung trào phúng, còn thể thơ thất ngôn tứ tuyệt thì hoàn toàn vắng bóng.
Hồ Xuân Hương cũng có tiếng cười trào phúng ngẫm nghĩ suy tư này ở
hàng loạt bài thơ thất ngôn bát cú có đối ngẫu rất chỉnh của bà. Hồ Xuân Hương
vẫn là người tiếp nối truyền thống văn học cười của dân tộc và thơ Nôm trào
phúng của bà vẫn nằm trong mạch đi sâu thẳm và bền bỉ của dòng thơ trào
phúng Việt Nam. Trong các tập thơ Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc âm thi
tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, cung bậc đả kích hầu như không có. Nhưng
đến thơ Hồ Xuân Hương thì cung bậc này đã được sử dụng khá nhiều và đã trở
thành một điểm đặc biệt. Tiếng cười đả kích là cung bậc trào phúng đỉnh cao, thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 30
hiện lòng khinh ghét sâu sắc của tác giả, bộc lộ thái độ phủ định toàn diện, triệt
để, quyết liệt. Tiếng cười đả kích thường gắn với một lý tưởng xã hội tích cực,
tiến bộ nào đó.
Với Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập chưa xuất hiện tiếng cười đả kích bởi
vì về cơ bản ông vẫn là một bề tôi trung thành của triều Lê, vẫn khát khao đem
tài đức ra phục vụ nước nhà. Ông có buồn đau trước cuộc đời đen bạc nhưng
chưa bao giờ phủ nhận và đối lập quyết liệt với nó. Hồng Đức quốc âm thi tập
càng không có cơ sở xã hội và cơ sở tâm thế sáng tạo để xuất hiện tiếng cười đả
kích. Đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy chế độ
phong kiến đã bắt đầu suy tàn, tan rã nhưng chưa đến điểm tận cùng như giai
đoạn giữa thế kỷ XVIII – giữa thế kỷ XIX. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn hy vọng
chống đỡ, tu sửa cho ngôi nhà phong kiến đã lung lay, ông vẫn liên hệ với các
tập đoàn phong kiến đương thời, được cả nhà Mạc, nhà Lê, chúa Trịnh kính
trọng. Do đó, Bạch Vân quốc ngữ thi tập cũng không xuất hiện tiếng cười đả
kích. Ở Hồ Xuân Hương cung bậc đả kích đã trở thành “tiếng cười thường trực”
tạo ra sự khác biệt căn bản giữa bà và các tác giả trước đó.
Mặt khác, các cung bậc trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương thường đan
xen nhau hoặc kết hợp với nhau tạo nên sự đa dạng của ý nghĩa tiếng cười trong
đó. Khi nghiên cứu, ta sẽ thấy các bài thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn
luôn xuất hiện đồng thời hai ý nghĩa: phủ định và khẳng định. Điều này đã đem
lại tiếng cười với "biểu tượng hai mặt" rất đặc trưng cho thi pháp trào phúng Hồ
Xuân Hương. Khi tìm hiểu về tiếng cười trào phúng đa cung bậc của Hồ Xuân
Hương, chúng ta đồng thời phải lưu tâm đến cả hai phương diện phủ định và
khẳng định ấy. Tuyệt đối hóa hoặc đề cao một phương diện sẽ không đánh giá
hết ý nghĩa tư tưởng sâu xa trong thi phẩm của bà, dẫn đến những cách hiểu trái
ngược nhau gây nên những tranh cãi không cần thiết, làm mất đi cái hay trong
thơ Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, điều này không ai có
thể phủ nhận nhưng yếu tố trào phúng và trữ tình không hề đối lập nhau mà trái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 31
lại thống nhất chặt chẽ với nhau. Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào
phúng thêm thâm thúy, nhiều day dứt. Đề tài trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt
trào phúng Hồ Xuân Hương hết sức đa dạng và phong phú. Thơ bà đã đặt ra
nhiều vấn đề xã hội, biểu hiện nhiều nội dung và nói đến nhiều đối tượng khác
nhau. Dựa vào nội dung trào phúng, ta có thể chia thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng
Hồ Xuân Hương ra thành các đề tài sau:
Đề tài viết về thiên nhiên và các sự vật. Bao gồm:
Bánh trôi nƣớc, Quả mít, Ốc nhồi, Đồng tiền hoẻn.
Đề tài viết về tăng lữ. Gồm hai bài:
Sƣ bị ong châm, Cái kiếp tu hành.
Đề tài viết về phụ nữ:
Mời trầu.
Đề tài viết về cái chết:
Khóc Tổng Cóc, Dỗ ngƣời đàn bà khóc chồng.
Đề tài viết về kẻ sĩ, bao gồm:
Lũ ngẩn ngơ (Mắng học trò dốt I), Phƣờng lòi tói (Mắng học trò dốt II),
Đề đền Sầm Nghi Đống.
Đối thoại với Chiêu Hổ:
Trách Chiêu Hổ I, Trách Chiêu Hổ II, Trách Chiêu Hổ III.
Với sáu mảng đề tài trên, Hồ Xuân Hương đã mang đến cho người đọc
những bức tranh thiên nhiên và các sự vật, giống như con người Hồ Xuân
Hương, thiên nhiên trong thơ bà cũng tràn đầy sức sống, âm thanh, màu sắc. Bên
cạnh đó, người đọc còn thấy tiếng nói đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của
xã hội phong kiến cũng như tiếng nói bênh vực, đòi quyền sống cho những
người phụ nữ trong xã hội đó. Xuân Hương đã kế thừa truyền thống tiếu lâm dân
gian, dùng cái tục làm phương tiện đả kích rất sắc bén. Đề tài trong cuộc sống
hàng ngày nhưng là những đề tài có tính úp mở hai nghĩa, một mặt nói trực tiếp
về vấn đề cần miêu tả, một mặt nói về “cái tục”, nên nhiều ý kiến cho rằng thơ
bà là cợt nhả, là “dâm”, nhưng thực ra đó là một phương tiện nghệ thuật, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 32
biện pháp nghệ thuật độc đáo mà không phải ai cũng có thể vận dụng được.
Như vậy, sáu mảng đề tài trong 15 bài thơ Nôm tứ tuyệt đã thể hiện được
sự phong phú, đa dạng, bao quát được hầu hết những nội dung, đề tài trong toàn
bộ thơ Hồ Xuân Hương nói chung.
2.2. Đối tƣợng, nội dung trào phúng
2.2.1. Tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho ngƣời phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ
không chỉ chịu sự áp bức về mặt giai cấp cũng làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói
cơm rách áo cũng trăm nghìn thứ trà đạp mà còn chịu áp bức về mặt giới tính,
tinh thần mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt, đau đớn hơn nhiều
lần cái đau khổ về thể chất. Họ giống như những “tội nhân chung thân” suốt đời
gánh trên vai bao nhiêu ràng buộc của luật “tam tòng”, bởi những hủ tục giết
chết tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc. Trong xã hội đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ
nhiều khi quá cực đoan “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, người phụ nữ
không có một chút tự do, không được quyền đòi hỏi hạnh phúc, họ chỉ có một
nghĩa vụ duy nhất là làm tròn bổn phận và chức năng của mình.
Trước Hồ Xuân Hương, các nhà văn trung đại đã thể hiện sự đồng cảm của
mình với những khổ đau, bất hạnh của người phụ nữ. Tiêu biểu là Nguyễn Dữ
với các truyện viết về người phụ nữ trong “Truyền kỳ mạn lục” – áng “thiên cổ
kỳ bút” từ thế kỷ XVII. Cùng thời với Hồ Xuân Hương, các tác giả như Nguyễn
Gia Thiều với Cung oán ngâm, Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm, Nguyễn
Du với Đoạn trường tân thanh cũng đã đề cập đến khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc của người phụ nữ bằng những sáng tạo đặc sắc của mình. Hồ Xuân
Hương, tiếp nối dòng cảm hứng ấy. Tuy nhiên, người phụ nữ trong thơ bà không
phải người phụ nữ lầu son, gác tía chinh phụ hay cung tần mà là những người
phụ nữ hết sức bình thường, những người phụ nữ lao động chịu nhiều bất hạnh
trong đời sống.
Trong thơ mình, Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của người
phụ nữ, bà dường như chỉ tập trung vào nỗi khổ có tính chất giới tính gắn liền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 33
với khát vọng tình yêu và hạnh phúc của người phụ nữ. Viết về đề tài phụ nữ,
nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên
những bi kịch không kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa
trong một cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ
giáo phong kiến.
Thơ Hồ Xuân Hương vang lên nội dung đòi quyền sống, quyền hạnh phúc
cho người phụ nữ. Là phụ nữ, ai cũng khát khao cuộc sống hạnh phúc, một tình
yêu ngọt ngào. Xuân Hương cũng đứng về phía tình yêu, bà thay lời chị em phụ
nữ nói lên tiếng nói chân thực, riêng tư mà tiêu biểu cho trái tim của hàng triệu
phụ nữ bao đời nay bị phong kiến, nho giáo trói buộc, chôn vùi những khát vọng
nhân sinh, nhân bản. Khi đọc thơ Hồ Xuân Hương, giáo sư Đặng Thanh Lê đã
khẳng định: "Đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, một phụ nữ tài hoa và
dũng cảm đã lên tiếng trên giấy trắng mực đen, đấu tranh cho quyền lợi của giới
mình"[21, tr.19]. Có thể đó là tiếng nói đấu tranh cho nữ quyền, đòi hỏi “nam nữ
bình đẳng”, chống lại tư tưởng “trọng nam khinh nữ” biểu hiện ở các bài thơ như
Đề đền Sầm Nghi Đống, Mắng học trò dốt I, Mắng học trò dốt II … Có thể đó
là thái độ ca ngợi vẻ đẹp thanh tân và sức sống rạo rực của người phụ nữ, lời
khẳng định hạnh phúc ái ân như một nhu cầu chính đáng của con người qua hàng
loạt bài thơ nhắn nhủ:
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay
(Quả mít)
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè
(Trách Chiêu Hổ III)
Quân tử có thương thì bóc yếm!
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 34
(Ốc nhồi)
Đây chính là những bài thơ khuyến dụ người quân tử mạnh dạn rũ bỏ
những định kiến Nho giáo về tình yêu, trở về với tình cảm và rung động chân
thật của mình.
Nguyễn Thị Chiến trong Tính bi kịch xã hội đã cho rằng: Cơ sở của sự
xuất hiện hình tượng bi kịch trong văn học xuất phát từ bản thân thời đại. Vấn đề
đặt ra lúc này là cần phải thay đổi hiện trạng đang tồn tại, thoát khỏi sự bế tắc để
tìm đến một xã hội mới. Nhưng lực lượng nào sẽ làm việc đó? Những nhân tố
mới xuất hiện trong xã hội lúc này chưa đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ lịch
sử. Phong trào quật khởi của nông dân dẫn đến thất bại. Đó là bi kịch lớn của
một thời kì lịch sử - bi kịch đã tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của xã hội
và con người, trong đó, dấu ấn sâu đậm nhất của nó thể hiện trong văn học. Các
dạng bi kịch khác nhau trong hình tượng người phụ nữ (Chinh phụ, cung nữ, Hồ
Xuân Hương, Thúy Kiều...) đều có nguồn gốc sâu xa từ đặc điểm xã hội trên.
Với Hồ Xuân Hương, hình tượng thơ của bà có những đóng góp riêng. Âm điệu
bi kịch chỉ được thể hiện từng lúc, từng khoảnh khắc của tâm trạng. Đặc điểm đó
giữ vị trí khá đặc biệt, thực chất góp phần tạo nên chiều sâu của một tính cách
lạc quan, đầy sức mạnh, đối lập với lễ giáo phong kiến.
Khảo sát thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, trong 15 bài thì có 5
bài thơ viết về người phụ nữ. Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người
phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe,
vô nhân đạo. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong
cuộc sống được bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm
không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong
kiến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Hình tượng người phụ nữ trong thơ của
Hồ Xuân Hương được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Nói đến hình tượng người phụ nữ trong thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ
Xuân Hương thì đối tượng đầu tiên người đọc nghĩ đến là những người phụ nữ
với số phận nhỏ bé, bất hạnh: những người phụ nữ này luôn có một số phận hẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 35
hiu, họ luôn phải gánh vác nhiều trọng trách nặng nề. Họ luôn phải vất vả quanh
năm lo lắng cho gia đình, chồng con. Trong xã hội phong kiến ấy, họ không
được trọng dụng, không được đối xử công bằng với nam giới, không được học
hành. Vì vậy mà những người phụ nữ tài giỏi như Hồ Xuân Hương đều bị coi rẻ.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc nhưng số phận lại nhỏ bé, long
đong, lận đận. Chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông đã hàng nghìn năm kìm kẹp
con người trong đau khổ, đặc biệt là người phụ nữ. Không phải là vô cớ mà
Nguyễn Du lại nhắc đến người phụ nữ trong văn tế:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lại một lần nữa lại phải kêu lên như thế:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Càng hiểu rõ hơn những nét đẹp cuả người phụ nữ về cả ngoại hình lẫn
tâm hồn, hiểu những nỗi khổ mà họ phải chịu đựng, ta càng thêm trân trọng họ.
Xuân Hương không những cảm thông với những người đàn bà dưới chế độ
phong kiến mà xót xa cho cả bản thân mình cũng chịu bao hệ lụy. Xuân Hương
đã nói một cách trần trụi nhất, mạnh mẽ nhất để phản kháng tập tục phong kiến,
bà đã gắn chặt mình cùng với số phận kiếp đàn bà nói chung trong xã hội cũ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không được coi trọng, không được
học hành tử tế, luôn bị ràng buộc bởi những lễ giáo hà khắc, nên họ không
những phải chịu những nỗi khổ cực trong cuộc sống mà còn phải chịu những
thiệt thòi trong hôn nhân và hạnh phúc. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong
đường tình duyên, đã hai lần dang dở, bà càng hiểu và đồng cảm hơn với người
phụ nữ không may mắn. Đó là người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng
mà chửa, người phụ nữ có chồng chết... Điều đáng nói ở đây là bà đã thay mặt
cho những người phụ nữ đó để lên án, tố cáo cái xã hội phong kiến thối nát ấy
mà không ai dám lên tiếng. Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm
lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ dành
an ủi họ, muốn dịu dàng đùa vui với họ, muốn mang đến cho họ một nụ cười để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 36
cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Theo nghĩa đen, “miếng đỉnh chung” là của ngon vật lạ chỉ có ở những nơi
quyền quý. Ý cả câu: xấu máu thì (kiêng) khem của ngon vật lạ. Đặt trong logic
toàn bài, “miếng đỉnh chung” là một ẩn dụ hài hước: cố mà nhịn…của lạ. Xuân
Hương "dỗ" với tư thế của người bề trên. Khuyên đời nên chịu thiệt, bớt cái việc
nhận của trời cho ấy. Xuân Hương vốn đấu tranh trả cho con người mọi hạnh phúc
chính đáng, sao như Xuân Hương lùi một bước? Có nỗi đau trước thực tại phũ
phàng. Nhưng lời khuyên ấy, chắc "đàn em bé" khó lòng nghe được. Nay khuyên
chỉ để mà đùa, mà nở nụ cười hóm hỉnh. Khuyên mà chả khuyên. Đó là cái cười
tinh quái, thể hiện niềm vui sống hồn nhiên.
Họ có số phận nhỏ bé, hẩm hiu, họ có những nỗi đau, không may mắn
trong cuộc sống nhưng ở họ luôn toát lên vẻ đẹp tâm hồn. Như ta đã phân tích ở
trên, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương đẹp là thế, nhưng họ luôn bị xã hội
chà đạp và cướp đi quyền của con người. Nhưng trong xã hội cũ, có ai dám như
Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, có ai dám
ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong
kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự
cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận
bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như :
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước)
Hình ảnh trong bài thơ là bánh trôi nước. Nhưng bài thơ đâu phải tác
phẩm quảng cáo cho một món ăn dân tộc? Thơ vịnh chỉ thật sự có ý nghĩa khi có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 37
sự gửi gắm tâm tư, tình cảm của tác giả vào đó. Bài thơ của Hồ Xuân Hương, vì
đó, còn là lời tự bạch của một người phụ nữ. Ở đây, tác giả mượn hình ảnh chiếc
bánh trôi để nói lên hình ảnh của người phụ nữ:
Bảy nổi ba chìm với nước non
"Bảy nổi ba chìm" là thành ngữ chỉ sự trôi nổi, lênh đênh của số phận giữa
cuộc đời. Nước non là sông, biển, núi, non, chỉ hoàn cảnh sống, suy rộng ra là
cuộc đời con người, là hình ảnh may rủi mà người phụ nữ rơi vào. Hồ Xuân
Hương đã thật tinh tế khi sử dụng tiếng nói duyên dáng của phụ nữ trong văn
học để bênh vực cho phụ nữ và bà cũng khẳng định cái phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son sắt của mình quyết giữ gìn không để
hoàn cảnh bất công của xã hội làm hoen ố.
Thân em là chữ tự xưng rất khiêm nhường của người con gái, người đàn
bà, chữ của ca dao (Thân em như tấm lụa đào,… Thân em như hạt mưa rào…),
chữ của chính Hồ Xuân Hương (Thân em như quả mít trên cây,…). Thân vừa là
thân xác, vừa là thân phận con người. Nó chỉ cái tự nhiên, cái thiên nhiên, cái
bản chất trong con người trước hết. Em vừa là cá nhân Hồ Xuân Hương, vừa là
người phụ nữ nói chung. Màu trắng là biểu hiện của thân xác, của vẻ đẹp thể
chất, đồng thời đó cũng là sự trong trắng ban sơ. Tròn vừa là hình khối của thân
thể, cũng vừa là vẻ đẹp thể chất, vừa là số không, cái không tính, cái tiền sinh
trong thân phận con người. Như vậy, cái thiên nhiên của con người, cái thân
phận tiền sinh của nó là đủ đầy, trong trắng và đẹp đẽ.
Không phải thân em chung chung mà cái thân ấy đặt vào hoàn cảnh xã hội
đảo điên lúc bấy giờ. Họ muốn người phụ nữ phải thế này, thế kia: Rắn nát mặc
dầu tay kẻ nặn… Đấy là ý của họ. Còn “em”? Đời đã bóp méo thân em theo ý họ
rồi lại đày em trong ba chìm bảy nổi. Nhưng dù cuộc đời có xô đẩy thế nào thì
“em vẫn giữ tấm lòng son”, dù có phải sống kiếp ba chìm bảy nổi chín lênh đênh
thì người phụ nữ vẫn giữ được nguyên vẹn phẩm chất tốt đẹp vốn có. Trong
những lời tự thán đầy xót xa, cay đắng vẫn ẩn chứa niềm tự hào chính đáng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 38
họ. Đó là biểu tượng của người phụ nữ đẹp, phải vượt qua bao vất vả cực nhọc mà
vẫn giữ được sự trong sáng. Với đôi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã
nhận ra đằng sau những chi tiết rất chân thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân
trách phận của người phụ nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống
của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng,
nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ
nhận điều đó: “nhất nam viết hữu”, “thập nữ viết vô”, “nữ nhân ngoại tộc”, luật
Tam tòng…cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn. Họ tồn
tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của nó. Chẳng khác gì chiếc
bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.
Trong công trình Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, nhà nghiên cứu Lê Trí
Viễn đã viết: “Đức hạnh với lòng kiên trinh, sức chịu đựng, nghị lực của phụ nữ
trong cuộc sống, từ lâu đã thành truyền thống... Hạt mưa, con thuyền là phía thở
dài, “Bánh trôi” mới là một sử thi trọn vẹn, dù chỉ mấy mươi chữ: Có hiện thực
khổ đau của hạt mưa, con thuyền, nhưng còn đức kiên trinh, còn nghị lực, kể cả
phản lực vượt lên trên cái khổ đau ấy. “Tấm lòng son” ấy mới thật đáng
quý”[57, tr.22].
Người phụ nữ còn được Hồ Xuân Hương so sánh với “quả mít”
Thân em như quả mít trên cây
Vỏ nó xù xì, múi nó dày
(Quả mít)
hay:
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
(Ốc nhồi)
Nét đẹp trong tâm hồn của họ luôn được đề cao và ca ngợi. Mặc dù, số
phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ
đành cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình. Người phụ nữ
vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với mối tình. Thông qua những hình ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 39
chiếc bánh trôi nước “Bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày
lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “Da nó xù xì”... nữ sĩ đã chú trọng phát hiện và
khẳng định vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ. Dù
hình thù xấu xí, dù bị “rắn nát” bởi “tay kẻ nặn” nhưng bản chất tốt đẹp, thánh
thiện của người phụ nữ không bao giờ bị mất đi “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Xuân Hương cười cợt người đời nhiều quá. Xuân Hương lại cười bằng
cách cố tình gắn ghép những hình ảnh thô tục ngay vào những sự vật vốn không
có gì thô tục. Cho nên, ít hay nhiều, người ta thường trách Xuân Hương là vô
tình, bị ám ảnh bởi cái "dâm". Nhưng ít có người đi sâu vào tìm hiểu con người
chân thực của Hồ Xuân Hương, một con người chứa chan tình cảm. Một con
người chỉ biết cười và khát khao nhục dục thì không thể có những đưa đẩy dù
cũng có phần quá quắt, nhưng thật thắm thiết, chung thủy:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
(Mời trầu)
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu
bền chặt, nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng
thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Cả bài
thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ
nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy
đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn,
u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy lộc của một ý thức cá
nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ. Chắc rằng, tiếng
vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao
tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa
hợp, chung tình. Giữa cuộc đời xanh lá bạc vôi, người phụ nữ chỉ cầu mong
được hưởng những tình nghĩa chân thành, ấm áp để có thêm nguồn vui, nguồn an
ủi. Lời cảnh tỉnh nhẹ nhàng mà thấm thía ẩn chứa trong bài thơ có sức lay động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 40
lòng người. Trong bài báo Suy nghĩ quanh câu thơ "Này của Xuân Hương mới
quệt rồi", TS Ngô Gia Võ cũng đã chứng minh từ của trong bài thơ là danh từ
và mang ẩn ý cái tục. Câu thơ cần được hiểu là "Cái của này, Xuân Hương mới
quệt rồi" theo cách nói nghịch ngợm rất Xuân Hương. Tuy nhiên, một từ "của"
và cái ý vị hài hước nghịch ngợm kia vẫn rất mờ nhạt so với nội dung trữ tình
đằm thắm thiết tha của bài thơ. Mời trầu vẫn là thi phẩm trữ tình tuyệt đẹp biểu
hiện sáng rõ và xúc động khát vọng tình yêu lớn lao, chung thủy của Xuân
Hương. Khát vọng ấy, cái nghịch ngợm ấy càng làm nổi bật hơn tư thế tự tin,
chủ động của một người con gái đầy bản lĩnh.
Là một người phụ nữ luôn coi thường đạo lý phong kiến, Hồ Xuân Hương
luôn luôn đương đầu đấu tranh để tự khẳng định mình trước nam giới. Vì vậy mà
bà đã bao lần suy nghĩ, đặt mình giữa cuộc đời, chuyển vị trí xã hội của nhi nữ
và mày râu mà cân đong, mà thử sức:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
Càng bênh vực phụ nữ, thơ của Hồ Xuân Hương càng khẳng định rõ vai
trò của người phụ nữ. Họ có thể làm nên sự nghiệp lớn hơn đấng mày râu. Mặt
khác, càng cảm thông với cảnh “bảy nổi ba chìm” của khách má hồng, Hồ Xuân
Hương càng đả kích chế độ nam quyền, thần quyền, nói lên tiếng nói phản kháng
mãnh liệt đối với cái chế độ đã gây ra cho bà và những người phụ nữ khác bao
nỗi bất hạnh, đau khổ. Đồng thời, bà cũng muốn bày tỏ ước mơ được đổi đời của
người phụ nữ trong cái xã hội trọng nam khinh nữ này. Bà đã biểu lộ thái độ coi
khinh bất kính đối với đền thờ Sầm Nghi Đống bằng tài thơ trào phúng, đặc sắc
của mình, vì đây chỉ là đền thờ một vị tướng đi xâm lược nước ngoài đã thất bại,
nhục nhã rồi tự tử.
Vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương còn được thể
hiện ở tài năng, trí tuệ. Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp
phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một
ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy,
ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 41
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Rồi bình thản đi vào. Còn mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài. Lại có
chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững
thững trên bờ Hồ Tây, bỗng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng
sau. Rồi trêu ghẹo nàng, có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa,
nàng đọc cho một bài thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
(Lũ ngẩn ngơ)
Ta còn thấy thái độ ấy được thể hiện qua bài thơ:
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
(Phường lòi tói)
Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò, học trò vốn nổi tiếng là nghịch ngợm,
tinh quái. Nhưng có những học trò dốt, mà lại cứ hay làm phách. Xuân Hương
châm biếm cái “phường lòi tói” đó. Đi đâu họ cũng làm thơ, cũng trêu gái, mà
thực ra thì “nói không nên”: Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông / Nó bảo
nhau rằng: ấy ái uông! Xuân Hương gọi họ là lũ, lũ ngẩn ngơ (không biết làm
gì, không biết mình là người như thế nào) và xưng chị: Lại đây cho chị dạy làm
thơ. Vì bọn đó không biết làm thơ, viết lên bẩn cả tường chùa. Các hành vi làm
thơ đó được nữ sĩ coi là châm hoa rữa của con ong non ngứa nọc, sự húc dậu
thưa của con dê cỏn buồn sừng! Hành vi này của ong non, dê cỏn gợi nhớ đến
hành động tính giao. Chữ cỏn thật tài tình chỉ hạng oắt con mới có nọc, mới có
sừng nên ngứa ngáy muốn châm, muốn húc đã đi đến chỗ châm bừa (hoa rữa),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 42
húc bừa (dậu thưa).
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý
thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ngay từ thuở xa xưa, con người đã có tục thờ kẻ thù vừa bị mình giết. Đó
là để cho con “ma xấu” nó không quấy phá mình, đồng thời cũng để cho cân
bằng tâm lý. Có lẽ, Sầm Nghi Đống được dân ta thờ cũng vậy. Thờ mà không
kính, đó là nguyên nhân tạo nên cái vị thế cheo leo không vững chắc của đền
Sầm Công. Đó là nguyên nhân của thái độ có phần “xách mé” của Hồ Xuân
Hương: “ghé mắt”, “trông ngang”. Và cái anh hùng của một viên tướng bại trận
cũng chỉ là cái “sự” anh hùng. Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ
phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời
chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ,
trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững
chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: nếu được làm
trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng
của nhà ngươi đâu. Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa,
không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những con người mang đầy tài
năng. Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ
Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng
nói tâm tình của phụ nữ. Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là
nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói
của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng
căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay. Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân
Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 43
tiếng nói của nhân dân lao động.
Hồ Xuân Hương không chỉ than cho người đàn bà nói chung mà bản thân
mình đã bị đọa đày. Hồ Xuân Hương không cách điệu hóa như nhiều người viết,
đã diễn tả một cách trần trụi, xúc cảm sâu sắc, phản kháng mạnh mẽ, gắn chặt
đời mình với thân phận những người đàn bà khác trong xã hội. Hồ Xuân Hương
lột tả những vấn đề riêng tư, những bất công họ phải chịu đựng, tranh đấu bênh
vực quyền lợi của họ. Hồ Xuân Hương chia sẻ những nỗi khổ đau đó bằng
những tiếng cười khôi hài, bằng bút pháp trào phúng, không một lời thở than, rên
rỉ bởi không muốn họ bi quan, động viên họ chống lại cuộc sống hiện tại mà
vươn mình lên. Hồ Xuân Hương ý thức rõ giá trị và vai trò của người đàn bà: họ
đẹp ở đạo đức, đẹp ở con người, tài năng không thua kém mấy người đàn ông,
bởi xã hội khắt khe, ngăn cấm nhiều mặt khiến họ không thể phát huy.
Người phụ nữ Hồ Xuân Hương luôn đứng cao hơn đối tượng gây ra bi kịch.
Tiếng nói táo bạo đòi tình yêu, hạnh phúc là sự đập phá dữ dội mong thoát khỏi
xiềng xích lễ giáo phong kiến. Nhưng càng "dãy dụa", Xuân Hương càng cảm
thấy cô đơn, bất lực. Dù biết vậy, Xuân Hương vẫn không thôi khẳng định mình,
vẫn thả sức cười cợt, đả kích, lật mặt bọn người đạo đức giả. Chứa đựng trong
tính cách Xuân Hương là sự kết hợp của ba yếu tố: âm điệu lạc quan, âm điệu bi
kịch bộc lộ một nét trong chiều sâu của tính cách và thế đứng của Xuân Hương –
đứng trên để cười cợt đối tượng đã gây ra bi thảm cho cuộc đời mình.
Vứt đi tất cả giáo điều phong kiến và Nho giáo về người phụ nữ! Phải nhận
thức lại. Phải trả lại cho phụ nữ chân giá trị của họ về mọi mặt. Không có cái gì
gọi là nam tôn nữ ti cả. Hất đi thứ bất công xã hội ấy. Trở lại với cái bình đẳng
trong sự sống. Tài năng ư? Con trai được đi học nên lấy chữ nghĩa, thơ phú làm
sang làm cao, xã hội phong kiến sắp xếp cho họ cái bậc thang ấy để họ leo. Xuân
Hương cho luôn một vố vào ngay cái bụng chữ khinh khỉnh ấy. Gọi người ta là
lũ ngẩn ngơ, dại dột, chẳng biết nói năng, cư xử gì cả (Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ), thôi thì giận, xách mé như vậy cũng được; đằng này lại xưng chị rồi lại đòi
dạy làm thơ. “Không phải hễ lên giọng bề trên thì mình thành bề trên. Nhưng lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 44
lẽ có cái thần của nó, chắc như tre đực, cứng như tầm vông, thì con người trong
bụng hẳn không thiếu tài năng – đây lại là tài thơ, mà thơ Xuân Hương người ta
hâm mộ đến nỗi điệu thành cả một dòng thơ có sức sống kì lạ của nó trong lòng
quần chúng như lâu nay, tài thơ ấy khó sánh”[57, tr.30]. Không chỉ dừng ở tài
văn chương thơ phú. Còn cả tài năng làm nên bậc anh hùng. Nếu tin rằng cách
gọi “sự anh hùng” là đích thực của Xuân Hương thì con người ấy dễ khá chủ
quan. Nhưng không. Dĩ nhiên Xuân Hương nói ở ngôi thứ nhất: “Ví đây đổi
phận…”. Xuân Hương mà đổi thân phận làm gái thành thân phận làm trai, tức có
được cái vị trí xã hội dành cho nam giới thì sự nghiệp anh hùng cũng coi như là
một “sự” thôi, bình thường, nhẹ tênh, chẳng có gì ghê gớm cả” “Thì sự anh
hùng” kia mà! Nói mình, lấy mình mà nói, nhưng là lời trạng sư cãi cho cả giới
chị em.
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh.
Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự
trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia
đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều
kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ
thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Thơ Xuân Hương mãi mãi là tiếng kêu
thương đứt ruột xé lòng, nhắc nhở mọi người nên tôn trọng quyền sống tự do và
bình đẳng của phụ nữ – những người duy trì sự sống trên trái đất này. Ở đâu mà
người phụ nữ chưa được thực sự giải phóng và thực sự tôn trọng thì tiếng kêu
khẩn thiết hãy bênh vực và bảo vệ phụ nữ vẫn còn tính thời sự nóng hổi của nó,
cho dù nó đã được các thi sĩ cất lên cách đây đã mấy trăm năm.
2.2.2. Những vấn đề xã hội
Những vấn đề xã hội trong thơ Hồ Xuân Hương gắn liền với những đối
tượng mà bà hướng đến. Là một phụ nữ có trình độ học vấn khá cao, bạn bè của
nhiều danh sĩ đương thời, lại sống vào giai đoạn suy tàn, tan rã đến thảm hại của
chế độ phong kiến nên Hồ Xuân Hương đã phát hiện chính xác và sâu sắc những
sự xấu xa đồi bại của nó. Khi nghiên cứu về thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 45
Xuân Hương, ta nhận thấy rõ một điều rằng dường như Hồ Xuân Hương không
mấy quan tâm đến vấn đề vua sáng tôi hiền hay tam cương ngũ thường để từ đó
phê phán cuộc đời. Nếu như trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
người ta thấy những vấn đề gai góc, nhức nhối như lòng người nham hiểm, thế
sự đảo điên, đồng tiền quái ác... dường như vắng bóng trong thơ Hồ Xuân
Hương. Bà trào phúng từ góc độ của một người phụ nữ ý thức được về tài năng,
phẩm cách và cả về khát vọng tình yêu, hạnh phúc của mình.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, những "đấng, bậc" sang quý trong xã hội
phong kiến đều đã trở thành những kẻ giả dối, rỗng tuếch và ô trọc. Bà hạ bệ tất
cả những gương mặt sang quý đó, biến chúng trở thành những kẻ xấu xa hoặc lố
bịch trước con mắt của độc giả. Hồ Xuân Hương nhìn thẳng vào tim đen bọn
chúng, đem tất cả những sự hèn kém của bọn chúng ra ánh sáng. Với cái nhìn
"lột truồng đối tượng", Hồ Xuân Hương trở thành một đại biểu xuất sắc cho tinh
thần dân chủ, ý thức phản phong trong văn học Việt Nam giai đoạn từ giữa thế
kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Những môn sinh của cửa Khổng sân Trình – tầng lớp hạt giống của giai
cấp thống trị chỉ là một lũ nửa người nửa ngợm, ngu dốt và vênh vác:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
(Lũ ngẩn ngơ)
Bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn kéo lũ đi ghẹo gái, lại
tập tạnh đua đòi vần vè ví von, Hồ Xuân Hương lấy làm khó chịu nên viết bài
thơ này
Dắt díu nhau lên đến cửa thiền
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền
(Phường lòi tói)
Khi Hồ Xuân Hương dùng “phường lòi tói” trong câu “Ai về nhắn nhủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 46
phường lòi tói” là một ẩn dụ mỉa. Nghĩa gốc của từ “lòi tói” chỉ dây sắt gồm
nhiều vòng móc vào nhau. Ngày xưa các cụ thầy đồ chấm văn thường dùng dấu
khuyên (vòng tròn) để chỉ bài tốt, chỗ tốt và dấu sổ (dấu phẩy thẳng) để chỉ bài
xấu, chỗ xấu. Gặp bài viết lằng nhằng, ẩu các cụ “mỉa” bằng cách khuyên móc
xích nhiều vòng (tức khuyên lòi tói). Hồ Xuân Hương gọi bọn học trò dốt là
“phường lòi tói” là mỉa mai ở hai ý: thứ nhất, người ta gọi học trò “hội đồng
môn” không ai gọi là “phường” cả, chỉ dùng “phường” khi gọi một nhóm đông
người có chung một mục đích nào đó (“buôn có bạn bán có phường”). Gọi học
trò là “phường” tức là chửi bọn dốt nát “buôn văn bán chữ”. Thứ hai, nếu Hồ
Xuân Hương cho bọn gọi là học trò này “dấu sổ” thì là chửi thẳng. Ở đây bà cho
dấu khuyên “lòi tói” là chửi mỉa, chửi độc: kẻ đã dốt lại hay nói chữ. Trong lời
mắng nhiếc, phê phán của Hồ Xuân Hương, ta luôn thấy có đâu đó tiếng cười
với giọng điệu chê bai, trào phúng.
Theo giai thoại, Hồ Xuân Hương phải làm vợ lẽ Tổng Cóc một cách
không mặn mà gì. Vì vậy mà khi Tổng Cóc chết, thơ bà vang lên tiếng cười
châm biếm thể hiện khát vọng tháo cũi sổ lồng của một người phụ nữ đã thoát
khỏi kiếp sống buồn đau:
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi,
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
(Khóc Tổng Cóc)
Hồ Xuân Hương khóc Tổng Cóc không phải khóc người quá cố. Bà khóc
cho thân phận mình. Tiếc một mối tình đã mất, hờn giận, nguyền rủa anh em họ
mạc nhà chồng cũng bằng cách nói chữ nghĩa ám chỉ dòng giống cóc, nhái. Tổng
Cóc tên thật là Kình, vì làm chức Phó tổng nên gọi là Tổng Kình. Có lẽ là con
nhà hiếm, ngày xưa có tục gọi bằng cái tên xấu xí cho… dễ nuôi, cho ma quỷ
khỏi quấy đảo, vì thế gọi là… thằng Cóc. Căn cứ vào giọng điệu và sự chơi chữ
(cóc, chàng, (nhái) bén, (chẫu) chuộc, nòng nọc), người ta không thấy sự đả
kích, mà chỉ thấy sự hài hước. Bởi vậy, Khóc Tổng Cóc là một nụ cười buồn.
Cười buồn còn ở chỗ hình tượng cóc còn gắn với mưa (cóc nghiến răng trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 47
mưa, cóc kiện trời), cóc gắn trên trống đồng cầu mưa.
Xã hội phong kiến luôn kì thị, đối xử không công bằng với người phụ nữ có
chồng chết, Hồ Xuân Hương không chấp nhận những quan niệm ấy và đã đưa tiếng
cười vào các trường hợp đó. Như trong Dỗ người đàn bà khóc chồng:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung
Nhiều cảnh chết, nhiều kiểu chết, nhưng Xuân Hương chỉ quan tâm mỗi
một cảnh chết chồng. Ấy là Xuân Hương có quan điểm rành rọt của mình. Chết
nào cũng mất mát, đau thương. Chết chồng mới là mối đau khổ nhất của người
phụ nữ. Và thường tình phụ nữ là nhiều nước mắt, nhiều tiếng khóc nhất. Lấy gì
để khuyên giải? Không một gương người nào có thể có hiệu lực lau nước mắt
của họ được. Dùng trí khôn của sự sống vậy. Người ta khóc tràn ra đó, nhưng rồi
ít lâu sau ai cũng trở lại bình thường, lao động, lo làm ăn, lo con cái. “Khóc thì
phải nhưng hơi đâu mà khóc mãi. Xã hội người ta đều thế, cả đất nước non sông
đều như thế. Nghe đây em! “Nín đi kẻo thẹn với non sông”. Nín đi mà lo sự
sống”[57, tr.80]. Với mình, Xuân Hương cũng không giấu nỗi lòng khi bất hạnh
mất chồng. Đau khổ đó, nhưng cái đau thương không lấn át được cái vững vàng
trong thâm tâm, cái chết không làm ngả nghiêng được sự sống. Tiếc thương
người mất nhưng cũng là tiếc thương cho sự lạnh lẽo buồn tủi của cuộc sống
người ở lại.
Hồ Xuân Hương luôn ý thức về thân phận mình :
Cũng lò cũng bễ cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan.
(Đồng tiền hoẻn)
Đồng tiền ngày xưa được đúc bằng kim loại (đồng hoặc kẽm) hình tròn có
lỗ vuông. Đó là biểu tượng của âm dương, của trời đất, của sự đầy đủ, trọn vẹn
(mẹ tròn con vuông, Trăm năm tính cuộc vuông tròn). Nhưng đồng tiền này, cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 48
hình vuông ở giữa lại thiếu mất một cạnh cho nên trở thành hình tam giác, thành
đồng tiền hoẻn (tức xấu, thiếu, khuyết). Nghĩa thứ hai của bài thơ bắt đầu khởi
dậy từ chỗ này. Ở đây, các từ lò, bễ, mặt, kém cạnh, đủ đồng, quan…đều được
dùng với hai nghĩa, khiến bài thơ vừa nghịch ngợm vừa chua xót cho cái nhân
tình thế thái, bởi vì nếu tôi có tiền (đủ đồng) thì tôi cũng đã nên quan chứ có kém
cạnh ai đâu!
Trong xã hội rối ren, nhà chùa không còn là nơi tu hành tôn nghiêm nữa.
Nhiều kẻ lợi dụng chùa chiền để làm điều bậy bạ. Hồ Xuân Hương chỉ trích
thậm tệ sự sa đọa của các nhà sư, bà mỉa mai hạng tu hành không giữ vững được
đạo vì bị vật dụng ám ảnh nên phải hoàn tục :
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp tu hành)
Kiếp là một từ nhà Phật (luân hồi chuyển kiếp), nên nó đã hàm nghĩa khổ
cực rồi, dẫu rằng đấy là kiếp tu hành. Xuân Hương khẳng định kiếp đó nặng đá
đeo, nặng như đá đeo vào người. Đó là cách nói ví von, thực nghĩa của “đá đeo”
đó là ở chỗ nói lái. Cái chút “tẻo tèo teo” tưởng như không đáng kể gì nhưng nó
thực là to lớn, cản trở được con người về đất Phật, trở thành Phật. Từ chìa khóa
của bài thơ là trái gió. Ngoài nghĩa đen của nó ra, trái gió có nghĩa nói lái là chó
giái: Trái gió cho nên phải lộn lèo. Nhưng, trái gió còn là trái với quy luật của sự
sống, cho nên mới nặng đá đeo, mới phải lộn lèo. Sự đối nghịch giữa bản năng
sống và cuộc sống khổ hạnh, duy lý khiến cho nhà sư mang hai bộ mặt: bộ mặt
chính thức và bộ mặt ngầm ẩn. Chùm thơ viết về các nhà sư của thi nhân bảo
rằng đả kích giới sư sãi cũng đúng, nhưng chủ yếu trên tư cách họ là những
người đi ngược lại quy luật của sự sống, phản tự nhiên, chứ không phải tư cách
tôn giáo. Bởi lẽ, “Hồ Xuân Hương là nhà thơ của triết lý phồn thực, người bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 49
vệ sự sống nhiệt thành”( Đỗ Lai Thúy). Hay:
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ong châm.
Đầu sư há phải gì…bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm.
(Sư bị ong châm)
Trước hết, bài thơ mang giọng điệu “hỏi thăm”, y như Nguyễn Khuyến
hỏi thăm một ông tham quan nọ bị cướp đến “thăm hỏi”: “Cướp của đánh người
quân tệ nhỉ, Xương gà da cóc có đau không?”. Hỏi thăm một cách thóc mách,
hỏi thăm để tố cáo: không hiểu nhà sư đi đâu mà mặc dù có đủ nào nón tu lờ,
nào mũ thâm mà chẳng đội để đến nỗi bị ong châm. Hồ Xuân Hương không nói
ong đốt mà nói ong châm (động từ chỉ động tác cụ thể) để gợi sự liên tưởng như
trong câu: Ong non ngứa nọc châm hoa rữa. Bởi Hồ Xuân Hương nhân danh sự
sống, coi sự sống là niềm vui, là bài ca bất tuyệt của đất trời, không chấp bất cứ
cái gì đối lập với sự sống, cái úa tàn, cái im lìm, cái chết chóc, cái phản tự nhiên,
cho nên Xuân Hương chẳng cảm tình chi với kẻ tu hành chủ trương lánh đời, từ
bỏ mọi thú vui trần thế, trong đó có cái vui yêu đương gắn chặt với sự sống.
Không đợi phải là thầy tu hổ mang, lễ Phật đằng trước mà giấu cô vãi sau lưng
mới chế giễu. Ông sư chẳng hiểu vì sao rủi ro bị ong châm, Xuân Hương ỡm ờ
thương cảm mà lấp lửng buộc tội: “đi đâu” không mũ không nón? Rồi giả vờ
chửi con ong mà thật sự lẫn lộn một cách không sao độc hiểm hơn là lẫn lộn cái
đầu trọc nhẵn của nhà sư với cái gì cũng trơn láng, tròn vo của bà cốt. Xuân
Hương cần gì giáo lý và tín điều. Xuân Hương chống ngay trên nguyên tắc phản
tự nhiên, trái tự nhiên của nhà Phật. Ở trong cái xã hội suy tàn ấy, thì những tên
gọi “hiền nhân”, “quân tử”, “anh hùng” chỉ còn là những cái vỏ hết nhẵn cả
ruột. Xuân Hương đã bóc cái lớp vỏ sơn kia của những nhân vật ấy, để lòi cái cốt
gỗ mục ở trong. Quân tử chi mà chuyên sờ mít:
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 50
Xin đừng mân mó nhựa ra tay
Và ngoáy ốc:
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi?
Khảo sát thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương, ta thấy bà đặc biệt quyết liệt
chống thần quyền trong xã hội phong kiến, tiêu biểu là những kẻ đội lốt tu hành.
Đây là đối tượng được bà dành cho tiếng cười đả kích – cung bậc trào phúng
đỉnh cao với mục đích hủy diệt hoặc "đánh cho chết". Tìm hiểu hai bài thơ Sư bị
ong châm, Kiếp tu hành ta sẽ thấy bà vô cùng căm ghét Phật giáo, từ những đệ
tử nhà Phật như sư, sãi đến những cảnh sắc chùa chiền. Chân dung các nhà sư
được Hồ Xuân Hương đặc tả bằng những đường nét góc cạnh, dữ dội toát lên sự
xấu xa, hiếm thấy. Đó là những "Cái kiếp tu hành nặng đá đeo", là "Đầu sư há
phải gì...bà cốt"... Tất cả những hành động của các nhà sư khiến cho các nơi
thanh tịnh thiêng liêng trở thành một thế giới trần tục tầm thường.
Chúng ta thiếu nhiều tài liệu xác thực về đời sống của Xuân Hương nên
cũng không biết được rõ lắm quan hệ giữa nhà nữ sĩ ấy với các tầng lớp xã hội
khác nhau thế nào. Nhưng có một điều chắc chắn là Xuân Hương khinh thường
những bọn giả quân tử, phần lớn là bọn nho sĩ mà mình tiếp xúc. Trong quan hệ
trực tiếp với họ, bao giờ Xuân Hương cũng đặt mình ngang hàng nếu không phải
trên họ. Nhưng sở dĩ Xuân Hương có thể chế giễu họ, ngạo mạn và trịch thượng
đối với họ là vì Xuân Hương có một ưu thế tuyệt đối, tức là cái tài và cái đức của
mình. Về tài, Xuân Hương quả đã ăn đứt bao nhiêu “phường lòi tói” không tự
biết mình nhan nhản trong xã hội. Về đức, thì với cái “tấm lòng son” mặc dầu
“bảy nổi ba chìm”, với cái thái độ sống chân thành, thẳng thắn của mình, Xuân
Hương cũng rất có quyền đập thẳng tay vào hạng người dâm ô và giả dối đến
cùng cực đầy dẫy trong giai cấp thống trị. Xuân Hương tự hiểu mình lắm, và
không ngần ngại gì không nói thẳng vào mặt luc học trò láu táu kia:
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 51
(Lũ ngẩn ngơ)
Bình phẩm viên thái thú họ Sầm hùng hùng hổ hổ mang quân từ Trung
Quốc sang tưởng có thể nuốt chửng nước Việt Nam nhỏ bé, rút cục chỉ mua lấy
một cái chết nhục nhã, Xuân Hương mỉa mai và kiêu ngạo viết:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
( Đền đền Sầm Nghi Đống)
Trong một xã hội phong kiến chưa hề có một người đàn bà nào dám đem
mình đối lập với cả xã hội như Xuân Hương. Ngay cả trong cái buồn của Xuân
Hương cũng có cái gì khác thường: một cái buồn không dìm con người xuống
mà lại đẩy con người lên một vị trí đối lập và gạt những giọt nước mắt yếu đuối
của mình, của “chị em” mình:
Nín đi kẻo thẹn với non sông
để hiên ngang nhìn thẳng vào cuộc đời, để giữ vững phẩm giá của mình, của cả
giới mình, hạng người thường bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất.
Sẵn sàng để yêu đời, lại có ý thức về chân giá trị của mình, ấy thế mà hầu
như trong suốt đời Hồ Xuân Hương không thấy bóng dáng của hạnh phúc. Đó là
tấn bi kịch của một kiếp người và cũng là cái bi kịch của bao nhiêu kiếp người
khác. Những tấn bi kịch đó ẩn sâu trong đáy lòng người trong cuộc, và người ta
thường chỉ chú ý đến cái tiếng cười… ở bên ngoài.
Với nội dung chống phong kiến thì ta nhận thấy Hồ Xuân Hương hướng
tới cả thần quyền và cường quyền trong chế độ phong kiến. Tuy nhiên, bà chỉ
chú ý tới những gì đối lập với hoặc đi ngược lại khát vọng hạnh phúc chân chính
của con người. Bà căm ghét thói giả dối kiểu Nho phong, bề ngoài ra vẻ đạo mạo
nghiêm trang nhưng thực chất cũng là những kẻ bất tài và đầy dục vọng tầm
thường. Bà khinh ghét những kẻ dốt nát lại hay lên mặt. Bà đặc biệt khó chịu với
tư tưởng diệt dục của Phật giáo đã đi ngược lại với khát vọng chân chính của con
người. Không những thế, biết bao kẻ mượn danh cửa Phật để làm trò bậy bạ, bôi
bẩn thế giới thanh tĩnh nhà chùa càng làm cho bà căm thù, phẫn nộ. Nhìn rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 52
ra, toàn bộ không gian ấy đã được Giáo sư Trần Đình Sử khái quát là "không
gian trần tục hóa trong thơ Hồ Xuân Hương” [39, tr.18]. Qua thơ Xuân Hương
ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng tiếng
cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để
từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu
chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong, như trong ý kiến
của nhà thơ Xuân Diệu: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà
cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của
họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của
họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi” [6, tr.331].
2.3. Mục đích, ý nghĩa trào phúng
Trong thơ mình, Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của
người phụ nữ, bà dường như hướng đến nỗi khổ có tính chất giới tính của mình.
Viết về đề tài người phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le
của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần chua chát, song bình
thường nó bị xóa nhòa trong cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế ước
nặng nề của lễ giáo. Hồ Xuân Hương không những chỉ có cảm thông và bênh
vực mà bà còn hết sức đề cao và ngợi ca họ.
Hồ Xuân Hương luôn lên tiếng phê phán, đả kích giai cấp phong kiến, mà
đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân, quân tử…luôn cho mình có sứ mạng
truyền bá, hành xử đạo lý thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Đó là những
“quân tử”, những người mang trong mình bao nhiêu tốt đẹp, trong sạch, thanh
cao. Nhưng Hồ Xuân Hương đã vạch trần bộ mặt thật, lột chiếc áo đạo đức giả
thùng thình, phơi bày cái xác thân phàm tục của họ. Với vũ khí tiếng cười, bà đã
đánh rất trúng, rất đau từ ông vua ngất ngưởng trên ngai vàng đến anh thư sinh
nghiên bút nơi cửa Khổng sân Trình để học đạo thánh hiền. Với vua chúa, bà chỉ
mắng nhẹ mà đau vô kể, và chỉ có thế cũng đủ làm cho vua chúa tối mặt. Đó còn
là đám nho sĩ dốt nát, còn huênh hoang, hợm mình là con quan, là cậu ấm nên
ngổ ngáo, xem dưới gầm trời không còn ai nữa. Học không lo học lại còn ghẹo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 53
gái, thơ không ra thơ mà dám đề thơ ở chùa, ở miếu.
Xuân Hương chế giễu, đả kích cả một xã hội phong kiến thời mình như
vậy, với một giọng dõng dạc, chủ động đàn chị. Xuân Hương cười. Nhưng cái
cười của Xuân Hương cùng một tính chất với cái cười của Tú Xương sau này và
còn ở trên một bậc cao hơn, là cái cười lớn lao. Xuân Hương không lấy một thứ
văn hạng nhì ra để làm “thơ trào phúng”. Nhà hài kịch vĩ đại Pháp Mô-li-e (thế
kỷ XVII) chết trên sân khấu khi đang diễn hài kịch Người bệnh tưởng, đã viết
nhiều hài kịch kiệt tác, làm cho người ta cười rất nhiều, nhưng cái cười vui của
ông luôn ẩn chứa nước mắt. Xuân Hương mượn cái cười để đánh cho đau vào
cái xã hội cũ, nhưng trái tim nàng, đời nàng đã bị nghiến trong cái guồng oan
nghiệt của nó.
Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào
chế độ và lễ giáo phong kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là
sự thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần
tục thiên về mặt bản năng.
Như vậy, tiếng cười của Hồ Xuân Hương bao giờ cũng bao hàm hai mặt:
mặt phê phán đả phá và mặt ngợi ca khẳng định. Tiếng cười đơn thuần chỉ tạo ra
niềm vui tức thời cho con người, còn tiếng cười sâu sắc phải là tiếng cười có giá
trị nhân đạo. Nó không chỉ phê phán mà còn ngợi ca, khẳng định bênh vực con
người. Tiếng cười của Hồ Xuân Hương cũng vậy, bên cạnh việc tố cáo cả một bè
lũ phong kiến thống trị trụy lạc, xa hoa thì tiếng cười trong thơ nữ sĩ còn hướng
tới bênh vực những người phụ nữ bất hạnh, trân trọng ngợi ca những phẩm chất
của họ.
Tiểu kết
Khi đặt nội dung và đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương vào
dòng chảy của bộ phận thơ Nôm Đường luật trào phúng từ Nguyễn Trãi đến bà, ta
thấy dường như Hồ Xuân Hương không mấy quan tâm đến những điều mà các
nhà thơ là nam giới quan tâm. Những đối tượng trào phúng của bà không phải
được lấy từ giáo lý Khổng Mạnh, từ đạo đức phong kiến. Những vấn đề về lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 54
người độc ác, thế sự đảo điên, đồng tiền tác quái… trong thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu như không xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương. Bà luôn
nhìn mọi việc một cách hài hước mà chi tiết, nên trong con mắt bà, chẳng có một
thần tượng nào hết, tất cả đều bị hạ bệ, đều trở nên lố bịch, tức cười. Tiếng cười
đặc sắc ấy của bà khiến người đọc liên tưởng đến quan điểm về tiếng cười của các
tác giả M.Bakhtin trong công trình Lý luận và thi pháp tiểu thuyết: “Tiếng cười
có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi cuốn đối tượng
vào khu vực tiếp xúc tiếp nhận đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó nó từ khắp
phía, lật ngửa, lộn trái, dòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ ngoài để nhìn vào
bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần và vạch trần, nghiên cứu và thử
nghiệm một cách tự do…”[1, tr.62].
Thơ Xuân Hương bàng bạc một không khí vui đời, ham sống. Ở đây
không có cái định mệnh khắc nghiệt lảng vảng để ám ảnh trên cuộc đời như ở
các thi gia khác. Thay vào những tư tưởng siêu hình của Phật, Đạo, những tư
tưởng khô cằn, cứng nhắc của Nho, ở đây chỉ có một tư tưởng giản dị nhưng căn
bản: lấy đời sống thực tế làm tiêu chuẩn cho tình cảm và hành động. Có đau
thương nhưng không đen tối, có thất bại nhưng không chán nản. Luôn luôn gây
một niềm vui nhẹ nhõm và một niềm tin tưởng bền bỉ. Đức tính vui đời, ham
sống, tin tưởng, phấn đấu, thực tế ấy là đức tính của người nông dân cần lao, là
đức tính quý báu của dân tộc.
Ta có thể nhận thấy rằng, trong quá trình sáng tác của mình, Hồ Xuân
Hương đã có sự tiếp thu truyền thống trào phúng từ văn học dân gian nhưng tâm
thế sáng tạo của bà sắc nét và độc đáo. Đây là sự đối lập với những thế lực xã
hội cụ thể và những thế lực tinh thần khống chế hạnh phúc con người, đặc biệt là
khống chế hạnh phúc và địa vị của người phụ nữ trong xã hội trung đại. Chính
điều này đã tạo được trong thơ bà giá trị trào phúng sâu sắc và giữ vị trí quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 55
trọng trong thơ Việt Nam trung đại.
Chƣơng 3
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Ngôn ngữ trào phúng
3.1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hƣơng với văn học dân gian
Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu văn học từ trước đến nay, khi tìm hiểu
Hồ Xuân Hương đều nhận thấy sự tác động qua lại, mối quan hệ mật thiết giữa
thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian. Tác giả Nguyễn Đăng Na trong bài
Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian và Đào Thái Tôn trong công trình
Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa cũng
đã khẳng định điều đó. Thơ trào phúng bao giờ cũng xuất phát từ quan điểm
thẩm mỹ của nhân dân. Vì vậy, phải chăng Hồ Xuân Hương với 15 bài thơ Nôm
tứ tuyệt trào phúng đó chính là sự giao thoa giữa hai nền văn học dân gian và
văn học viết. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương không chỉ là sự
cộng tồn mà còn là sự hòa hợp, hòa nhập hai bộ phận văn học dân gian và văn
học viết – một bộ phận thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật dân gian và một bộ
phận thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật hàn lâm. Thơ trào phúng của Hồ Xuân
Hương cũng như thơ trào phúng của các nhà thơ khác, cũng xuất phát từ quan
điểm thẩm mỹ của nhân dân. Giáo sư Đặng Thanh Lê trong Hồ Xuân Hương và
dòng thơ Nôm Đường luật cũng đã khẳng định: “Bút pháp trào phúng là cá tính
nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Tính chất trào phúng của Hồ Xuân Hương là
tinh thần của tiếu lâm”[22, tr.18]. Trong Lời giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương,
nhà nghiên cứu văn học người Nga N.Ni-cu-lin đã viết: “Hồ Xuân Hương là đại
biểu dân chủ nhất của văn học cổ Việt Nam. Dựa vào những thành tựu của thơ
ca bác học, bằng tiếng Việt, thông hiểu hình thức thơ này, bà đã mang lại cho nó
cách cảm thụ của nhân dân, những yếu tố thẩm mỹ của văn hóa nhân dân,
những lời ăn tiếng nói trên những đường phố và chợ búa ồn ào, của những đám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 56
đông trong ngày hội ở nước Việt Nam thời cổ”[35, tr.46]. Nhà nghiên cứu này
còn nhấn mạnh rằng: “ Sáng tác của Hồ Xuân Hương giống như là sự đột nhập
của nền văn hóa dân gian Việt Nam trung cổ không được thừa nhận vào lĩnh vực
của thơ ca cao cấp”[35, tr.48].
Trong số rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về hiện tượng Hồ Xuân Hương
thì không hiếm người vẫn coi bà là hiện tượng của văn học dân gian. Trong bài
nghiên cứu Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, một tác giả đã
viết: “Chúng tôi thấy nói chung những sáng tác trào phúng có nội dung phê
phán, hạ bệ những đấng bậc của giai cấp thống trị bằng cái cười mang hơi
hướng dân gian như thế thường là không rõ tác giả. Những truyện Trạng Quỳnh,
Trạng Lợn, những giai thoại Xuân Hương – Chiêu Hổ, nhiều bài thơ Hồ Xuân
Hương là những trường hợp không được minh định về nguồn gốc…”[34, tr.36].
Ca dao có một hình thức và một nội dung hoàn toàn dân tộc. Đem đối chiếu
thơ Hồ Xuân Hương với ca dao ta sẽ nhận ra một sự tương hợp khá thú vị.
Trong bài Xuân Hương và dân tộc, Lê Trí Viễn đã có những lý giải rất
thỏa đáng về điều này:
Trước hết về hình thức. Ca dao là sản phẩm văn chương của dân chúng vô
danh. Nó dùng toàn tiếng Việt, hoặc đôi khi dùng đến chữ Hán thì cũng là những
chữ hoàn toàn Việt hóa. Về đề tài, muôn hình nghìn vẻ của cuộc sống thực tế
hàng ngày chung quanh họ là những đối tượng sáng tác dễ dàng và phong phú.
Họ tạo luôn một thể thơ riêng biệt, thuần túy dân tộc để được khuôn đúc tình
cảm và tư tưởng của họ: thể lục bát.
Hồ Xuân Hương học thông chữ Hán mà trong thơ chỉ toàn dùng tiếng
Việt, bà tạo một nguyên lý riêng về việc dùng thuần tiếng Việt và trước sau luôn
luôn tuân thủ nguyên lý đó. Bà không công nhận chữ Hán, ngôn ngữ phong phú
và tài tình của bà còn là câu trả lời cho kẻ không tin vào dân tộc mà cho tiếng nói
mẹ đẻ là nghèo nàn, thô lậu. Ngôn ngữ ấy không những giàu có về từ mà còn có
màu sắc dân tộc đặc biệt, vì nó không quên lợi dụng những tiểu thuật lạ lùng của
tiếng Việt: nói ví, nói bóng, nói lái rất nhiều, làm cho thơ văn kỳ diệu thêm, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 57
tính chất Việt Nam nhiều thêm.
Đề tài cũng thật xa tính chất phong kiến, không có phong hoa tuyết
nguyệt, cầm kỳ thi tửu, ngư tiều canh mục, chuyện đời Đường, đời Hán… Xuân
Hương chọn trong thực tế cuộc sống Việt Nam trước mắt những đề tài nào thích
hợp và không từ chối những sự vật bình thường, thô lậu, nếu thấy sự vật ấy chứa
đựng một sự thực của cuộc sống có thể rung cảm được. Từ vật nhỏ mọn không
đâu, cái quạt, chiếc bánh trôi, miếng trầu cho đến những phong cảnh to rộng của
thiên nhiên…
Đến thể thơ thì khác, nhân dân dùng lục bát, bà dùng Đường luật. Đường
luật phải có phép tắc, khuôn mực nhưng Xuân Hương đã dân chúng hóa nó trên
một quy mô sâu rộng. Dưới ngòi bút bản lĩnh và vạn năng của bà, Đường luật
mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiến vần điệu cân xứng của mình
cho bà sử dụng theo ý muốn độc đáo của bà. Chúng ta được dịp chứng kiến thêm
rằng thiên tài có thể dùng khuôn khổ của người mà chế biến hẳn nó theo kích
thước của mình và in lên đó dấu riêng của cá tính. Dùng Đường luật mà vẫn
khớp với tinh thần dân tộc là vì biết lấy nội dung mà biến cải hình thức ấy.
Yếu tố nêu cao tính chất dân tộc của thơ Xuân Hương chính là nội dung.
Nếu như lấy ca dao làm chỗ đối chiếu thì ở ca dao trước hết là một ham muốn tự
do rất sâu sắc, tự do cho tình cảm, tư tưởng. Nhân dân lao động rất giàu tình cảm
và muốn cho tình cảm được phát triển và bộc lộ theo lẽ tự nhiên. Nhân dân còn
có một đức tính vô cùng quý báu rèn đúc được trong quá trình tranh đấu với
thiên nhiên, xã hội để giữ gìn bờ cõi và gây dựng nước nhà, đó là đức tính vui
đời ham sống. Dân tộc ta với đức tính ấy đã có một sức sống bền bỉ, mãnh liệt,
đủ sức chống giữ với ngoại xâm và đồng hóa của phong kiến phương Bắc, đủ chí
mở rộng dần vào phương Nam. Nó biểu lộ ra bằng sự đùa cợt, mỉa mai khi thất
bại để nhẹ bớt nỗi đau đớn, bằng cách sửa chữa sự thực bi đát để giữ cho mình
một mầm hy vọng, tránh sự bi quan có hại cho sự tranh đấu tiếp theo. Tất cả
những tư tưởng và tình cảm ấy phát sinh trong sự cần lao giữa thực tế của đất
nước, dân tộc nên có tính chất lành mạnh đặc biệt và khác hẳn với thứ tình cảm,
tư tưởng vay mượn của ngoại bang. Hồ Xuân Hương trong đại thể cũng biểu
dương được những đức tính như trên. Ở điểm này cũng như ở nhiều điểm khác,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 58
bà tách rời hẳn với các văn gia trong hàng ngũ sĩ phu, đứng riêng một mình, hay
đúng hơn, đứng về phía nhân dân. Trong lúc Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái,
Nguyễn Du, Nguyễn Huy Hổ và sau nữa, Nguyễn Công Trứ, đứng trước các
biến chuyển lớn lao của lịch sử, trước sự vô thường của uy quyền phong kiến,
đều sinh ra chán nản về mình và về cuộc đời, thì Xuân Hương, ngược lại, vẫn
vui tươi, tin tưởng như một người bình dân chân lấm tay bùn, đau đớn thì có đau
đớn thật, những vẫn có cách sửa chữa cái đau đớn ấy để gieo vào đấy một mầm
ham sống.
Xét cụ thể vào những sáng tác của Hồ Xuân Hương, ta sẽ hiểu rõ hơn về
tính kế thừa dân gian trong thơ bà.
Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống ngàn năm văn hiến và rất
hiếu học. Người có học luôn được xã hội trọng vọng và ca ngợi. Vậy có
mâu thuẫn không khi trong thơ mình Xuân Hương lớn tiếng đả kích và bôi
nhọ những người "có học"? Mới nghe qua, tưởng vô lí nhưng kì thực lại
hoàn toàn có lí bởi chữ có học ở đây đã được đặt trong ngoặc kép. Đó
chính là những con người kì thực dốt nát, vô đạo đức nhưng bên ngoài thì
luôn tỏ ra huênh hoang, khoe mẽ. Dân gian ghét cay, ghét đắng những loại
người hợm hĩnh, ngu si và dốt nát đó. Xuân Hương đã tiếp nối truyền thống
ấy, bà dựng lên trong thơ mình chân dung những kẻ sĩ, hiền nhân quân tử
thật đáng cười với những bộ mặt xấu xa, nhơ nhuốc. Bà gọi bọn chúng là “lũ
ngẩn ngơ”, “phường lòi tói”. Chính tên gọi ấy đã đưa những kẻ đang kiêu căng
từ nơi chín tầng mây xuống dười bùn đen:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
(Lũ ngẩn ngơ)
Bà như một người chị kiêu hãnh đứng xa nhìn lũ ngẩn ngơ đang múa
máy thơ phú mà không khỏi tức cười. Chữ "chị" đã phân biệt vị thế giữa nữ
sĩ với lũ ngẩn ngơ kia. "Dạy làm thơ" tức là dạy cho chữ nghĩa, vì bọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 59
chúng tuy tỏ ra là những kẻ hay chữ nhưng nào có chữ gì trong bụng, chỉ
là một lũ khoe khoang ngựa non háu đá, giống như "ong non ngứa nọc" và “dê
cỏn buồn sừng” mà thôi.
Nối tiếp mạch cảm hứng này, trong bài " Phƣờng lòi tói" bà một lần nữa
phanh phui những dốt nát của bọn hay chữ rởm:
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền
(Phường lòi tói)
Trong bức tranh này bọn chúng thật nhếch nhác. Người có học gì mà
phải dắt díu nhau, phải học nói, rồi muốn nói nhưng chẳng nên lời, cứ ấp a,
ấp úng giống như một đàn thằng ngọng đứng xem chuông. Dốt nát lại còn
muốn khoe chữ. Thật đáng nực cười! Xuân Hương đã lớn tiếng bảo với bọn
chúng: “Muốn sống đem vôi quét trả đền”.
Chỉ bằng hai bài thơ với những chân dung tiêu biểu, bộ mặt của những kẻ
tự xưng là kẻ sĩ, người có học đã hiện ra rõ nét. Ở đây cũng cần hiểu rằng Hồ
Xuân Hương không có ý định chê bai người học dốt mà bà chỉ giễu cợt những kẻ
đã dốt nát nhưng lại không chịu học hỏi, hay khoe mẽ mà thôi.
Nhưng đối với bọn người này, bà chỉ bực mình mà phê phán, mỉa mai
chứ không căm ghét và có thái độ phủ định như với lũ sư sãi – kẻ khoác trên
mình tấm áo cà sa, lớn tiếng rêu rao là ăn chay niệm Phật nhưng rồi cuối cùng tu
lại chẳng trót đời.
Như trên đã nói, Xuân Hương thực sự căm ghét sư sãi, vì chúng đã
lớn tiếng tuyên bố cái chân lí phản lại tự nhiên, trái với bản chất của con
người. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của tình yêu và sự
sống với tất cả những gì tự nhiv ên và thuần khiết nhất nên bà cực lực phản
đối những gì trái với tự nhiên. Cảnh tu hành "ăn chay niệm Phật" là trái với
tự nhiên rồi. Hơn thế nữa, bà nhìn thấy bản chất của những kẻ tu hành này
chẳng qua cũng chỉ là một lũ đạo đức giả. Họ mặc áo cà sa, nhưng lại đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 60
đêm, ăn thịt chó, ham muốn nhục dục. Chính vì thế dù không ưa, không tán thành
việc xuất giá đi tu nhưng Xuân Hương cũng như các tác giả dân gian không đả kích
nhà chùa, sư tăng một cách chung chung, bà chỉ hướng mũi nhọn châm biếm vào
những kẻ buôn thần bán thánh, mượn danh sư để làm điều xằng bậy. Thử điểm qua
những bài thơ mà Xuân Hương viết về sư sãi, nhà chùa:
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái nhầm
(Sư bị ong châm)
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
(Cái kiếp tu hành)
Chỉ cần một vài bức chân dung như vậy cũng đủ thấy hiện lên lố nhố
một lũ sư hổ mang, chẳng ra ta mà cũng chẳng ra Tàu. Xuân Hương lên án
bọn người này vì những trò hết sức lố lăng của chúng. Đi tu tưởng đã thoát
tục vậy mà còn "tục" hơn những người bình thường. Sư gì mà "vãi nấp sau
lưng sáu bảy bà” để "Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ. Giọng hì, giọng hỉ,
giọng hi ha". Hoá ra nhà chùa chỉ là một nơi để hành lạc, để cho bọn sư sãi
"đếm lại đeo". Từ hình dáng "đầu thì trọc lốc áo không tà" đến bản chất đều
lố lăng, đáng căm ghét. Xuân Hương thật độc đáo và sâu cay khi đánh đồng
"đầu sư" với "gì bà cốt". Chỉ bằng một hình ảnh, mà căn nguyên là do sự
nhầm lẫn của con ong, Xuân Hương đã hạ bệ tên sư nọ, làm cho người đọc
thấy hả hê, sung sướng. Bà ném ra những cái nhìn coi thường và khinh bỉ:
sư cụ chỉ là kẻ tu lâu, giỏi hành lạc, quen đi "đáo nơi neo", còn lũ tiểu, vãi
thì cũng cùng một giuộc là nguyên nhân để làm "trái gió lộn lèo" đi tất cả. Dưới
ống kính của các tác giả dân gian những kẻ đội lốt thầy tu thật
đáng lên án. Xuân Hương đã "cảm cách cảm dân gian, nghĩ cách nghĩ dân
gian" (ý của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na) để rồi từ đó dựng lên trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 61
thơ mình những hình tượng trào phúng đặc sắc, đem lại cho người đọc những
tiếng cười hả hê.
Xuân Hương không chỉ viết về những đối tượng đáng cười với những thói
hư tật xấu của họ mà còn có những vần thơ sâu lắng về người phụ nữ - nhân vật
mà nhà thơ luôn yêu thương và bảo vệ.
Thơ ca dân gian đã dành một vị trí quan trọng để biết về người phụ nữ.
Xuân Hương cũng vậy. Trong sự nghiệp thơ của Hồ Xuân Hương, những bài thơ
viết về đề tài này chiếm tỉ lệ khá cao, nhưng trong giới hạn thơ Nôm tứ tuyệt, ta
chỉ xét bài “Mời trầu”. Có khi Xuân Hương viết về mình, cũng có khi viết về
người nhưng bao giờ cũng toát lên một tinh thần lạc quan, vui tươi, khỏe khoắn.
Bà tiếp thu đề tài này từ dân gian nhưng cách bà nhìn nhận, đánh giá về những
nhân vật của mình thì khác với các tác giả dân gian.
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa
Đã có không ít nhà thơ, nhà văn phải ngưỡng mộ tài dùng ngôn ngữ của Hồ
Xuân Hương. Tiêu biểu như Tam nguyên Yên Đổ, người lừng lẫy về thơ văn Nôm
cũng phải kính cẩn, nghiêng mình trước lâu đài ngôn ngữ kỳ lạ của Xuân Hương:
Thơ thánh, thơ tiên đời đã có,
Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay.
Còn Tản Đà, một nhà thơ kiệt xuất đầu thế kỉ cũng đã phải thừa nhận “Thi trung
hữu quỷ”, cũng như Xuân Diệu đã từng đặt cho bà cái tên gọi “Bà chúa thơ Nôm”.
Điều mà người đọc cảm nhận được trong thơ Hồ Xuân Hương là những hành động
múa xiếc trên từng câu chữ của nữ sĩ. Bà chơi chữ rất đắc địa, như trong bài Khóc
Tổng Cóc, 27 chữ thì có đến năm chữ chỉ những con vật cùng loài cóc: (chẫu) chàng,
(nhái) bén, nòng nọc, (chẫu) chuộc; trong bài Dỗ người đàn bà khóc chồng thì dùng
hàng loạt những từ ngữ chỉ tên các vị thuốc và các hành vi bào chế mà vẫn có nghĩa
thứ hai: cam thảo, quế chi, trần bì, thạch nhũ, quy thân, liên nhục, sao, tẩm… Nói lái
theo nhiều kiểu như đẽo đá, đá đeo… hay những câu thành ngữ tục ngữ được đan cài
vào câu thơ để mở rộng văn bản như Nòng nọc đứt đuôi, Ong non ngứa nọc… Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 62
Đỗ Đức Hiểu trong Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã ca ngợi tài sử dụng nghệ
thuật trong thơ Hồ Xuân Hương: “nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để sáng tác nhạc, là nghệ
sĩ tạo hình. Bà còn là nhà điêu khắc và cả nhà kiến trúc nữa”[12, tr.15]. Tác giả còn
cho rằng nữ sĩ đã tạo ra tiếng cười trẻ trung đầy khát vọng tự nhiên.
Trong Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, nhà nghiên cứu Đỗ Lai
Thúy cũng đi sâu vào tìm hiểu tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương và cũng có
những nhận xét tinh tế về kiểu lựa chọn ngôn ngữ, sự sáng tạo trong chất liệu đề
tài…đã đem lại “khoái cảm nghệ thuật có tính liêu trai” trong thơ bà. Còn tác giả Lã
Nhâm Thìn trong Thơ Nôm Đường luật cũng đã khẳng định Xuân Hương như là
“Người đặt dấu chấm cho thời kì “phá cách” của thơ Nôm Đường luật”. Tác giả
khẳng định: “Bà chúa thơ Nôm làm thay đổi nội dung kết cấu, tạo nên một quan hệ
nội dung – hình thức khác hẳn quan hệ vốn có của Đường luật: hình thức nghiêm
chỉnh, trang trọng chuyển tải nội dung đời thường thông tục, hài hước. Sự thống nhất
hai mâu thuẫn trên đã tạo nên những xung lực to lớn, những nguồn năng lượng mới,
sức “công phá” mới của thể loại, làm cho thơ Nôm Đường luật khác về chất so với
thơ Hán Đường luật”[44, tr.47]. Nhưng cũng không thể phủ nhận bước phát triển
này trong thơ bà là đã được manh nha từ Nguyễn Trãi, được chuẩn bị từ trong lòng
quá trình chuyển động, phát triển của thể loại thơ Nôm Đường luật, trong đó có dòng
thơ Nôm Đường luật trào phúng.
Các nhà nghiên cứu đã nói nhiều đến những đóng góp của Hồ Xuân Hương
trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc dùng thể thơ Đường luật vào
mục đích trào phúng, đả kích. Quả đúng như thế! Sáng tác của Hồ Xuân Hương số
lượng không nhiều, nhưng chắc chắn nếu Hồ Xuân Hương không phải là một bậc
thầy về ngôn ngữ dân tộc thì nhà thơ không thể viết tự nhiên, phóng khoáng, hóm
hỉnh, dí dỏm một cách đặc sắc đến thế. Ngôn ngữ dân tộc dưới ngòi bút của Hồ
Xuân Hương vừa súc tích, chính xác, lại vừa uyển chuyển, linh hoạt, phong phú
về nghĩa, đặc sắc về tạo hình, dồi dào về âm thanh, nhịp điệu. Thể thơ Đường luật
trong tay của bà không còn cái vẻ đài các, quý phái vốn có của nó, mà trở nên
dung dị, bình dân, trong nhiều trường hợp được cấu tạo như những nắm đấm rắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 63
chắc để quật vào mặt kẻ thù những cú đích đáng.
So sánh tiếng cười của Hồ Xuân Hương với tiếng cười của Nguyễn Trãi, của
các nhà thơ thời Hồng Đức, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy rằng tất cả những
tiếng cười ấy đều được sinh ra từ những suy tư sâu sắc về cuộc đời. Thơ Hồ Xuân
Hương thường trực tiếng cười trào phúng mọi lúc, mọi nơi. Bà là một thi sĩ hết sức
nhạy cảm với nội dung trào phúng. Mặt khác, ngôn ngữ văn học dân tộc đến thời
đại Hồ Xuân Hương đã có một bước phát triển về chất so với các thế kỉ trước, tinh
luyện hơn, hàm súc, uyển chuyển và biến hóa hơn. Phải chăng đó là nguyên nhân
chính khiến thơ Nôm Hồ Xuân Hương xuất hiện liền 15 bài thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng. Đó chính là điều khiến cho bà có những điểm gần gũi với Tú Xương (1870
– 1907) ở hàng loạt bài thơ tứ tuyệt trào phúng. Nếu như Nguyễn Khuyến thâm
trầm, sâu kín, chua cay qua tiếng cười chủ yếu được biểu hiện ở thể thơ thất ngôn
bát cú thì Tú Xương lại bốp chát, mạnh mẽ, độc địa, bất ngờ ở tiếng cười trào phúng
nhanh nhạy với nhiều bài thơ tứ tuyệt. Có thể coi Hồ Xuân Hương là tác giả mở đầu
cho thể thơ tứ tuyệt trào phúng ở Việt Nam bằng 15 bài thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng của mình.
Nhìn chung trong thơ cổ điển của ta, nếu xét về khía cạnh có tính dân tộc
hơn cả, có lẽ thơ Xuân Hương “thì treo giải nhất chi nhường cho ai!”. Thơ Xuân
Hương Việt Nam hơn cả, vì đã thống nhất được tới cao độ hai tính cách dân tộc
và đại chúng. Trước hết, người ta thấy nguồn cảm xúc thơ bà phát nguyên từ
mạch dân gian. Mà ở xã hội Việt Nam cổ truyền, dân gian và dân tộc là những
khái niệm gần chồng khít. Dân tộc ở Xuân Hương đó là lối tư duy lưỡng hợp của
người Việt cổ còn lưu lại trong các phong tục tập quán và lời ăn tiếng nói hàng
ngày. Đó là các biểu tượng phồn thực – được vay mượn và sáng tạo trên cơ sở
một tín ngưỡng nhân loại đã ăn sâu vào tâm thức người Việt. Đó là cái cười lạc
quan, cái cười cộng đồng của một tộc người sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất
nhiều thiên tai địch họa, biết sống là vui, vui để mà sống, nên biết tôn sùng sự
sống và thực hành đạo sống. Đó là việc nhà thơ sử dụng tiếng Việt một cách tài
tình. Theo như nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, thì “bà không chỉ sành sỏi lời ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 64
tiếng nói của làng quê và kẻ chợ, sử dụng, biến đổi các thành ngữ, tục ngữ mà
còn biết sáng tạo ngôn ngữ trên cơ sở khai thác triệt để những đặc điểm của
tiếng Việt: dùng từ láy và nghệ thuật chơi chữ…”[47, tr.16]. Xuân Hương cũng
là một “nhà nho” chẳng kém ai, cũng giỏi chữ Hán, khi cần cũng ra được câu đối
và dùng tên các vị thuốc bắc một cách tài tình.
Nội dung thơ Xuân Hương toát ra từ đời sống bình dân. Ngoài việc miêu
tả những cảnh có thực của núi sông ta, vứt hết cả sách vở, khuôn sáo, lấy hai con
mắt của mình mà nhìn, Xuân Hương tưởng như đã lìa cái gốc nho sĩ của mình
mà “lăn lóc” vào giữa bình dân. Xuân Hương là con ốc, quả mít, cái bánh trôi;
Xuân Hương làm thơ với quả cau, lá trầu, con ong… Mà những thứ ấy vẫn
nguyên chất bình dân. Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt, bà chúa thơ Nôm.
Thơ bà đã làm cho chữ “nôm na” không đồng nghĩa với “mách qué” nữa, mà
nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm là
chúa cả nội dung và hình thức.
Ngôn ngữ ấy gồm một số từ mà từ xưa bây giờ không dùng nữa hoặc khác hẳn
nghĩa đi, nó biến hóa để phổ vào câu thơ những tục ngữ, thành ngữ, ca dao:
- Bảy nổi ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
- Đừng xanh như lá bạc như vôi
(Miếng trầu)
- Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
(Khóc Tổng Cóc)
Nó không tránh những từ thô tục hoặc nói lái thành thô tục, những tiếng
chửi rủa:
- Bá ngọ con ong bé cái nhầm
(Sư bị ong châm)
- Muốn sống đem vôi quét trả đền
(Phường lòi tói)
Trong Xuân Hương thi sĩ cảm giác, Lê Trí Viễn cũng đã chỉ ra những nét
đặc biệt trong việc dùng những điệp từ, từ lấp láy. Có loại thông thường: Cheo
leo, xanh rì, đỏ loét, lún phút, lắt léo, đầm đìa,... có loại lạ lùng: mõm mòm, hõm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 65
hòm hom, toen hoẻn, dở dom…
Lời thơ Xuân Hương nói chung rất tươi trẻ, giản dị và hồn nhiên. Bà dùng
toàn tiếng nói thông thường nhưng biết lựa chọn cho xứng chữ xứng lời nên có
được cái trong sáng của tiếng nói nhân dân, cái ý vị tươi ngon của mớ rau vườn
mới hái. Trần Tế Xương sau này cũng hưởng được cái hồn nhiên ấy nhưng
không sao có được cái tài tình, tươi trẻ của Hồ Xuân Hương. Sử dụng ngôn ngữ
phong phú như vậy để lột tả ý tứ, Xuân Hương đã thực hiện được một văn phong
thật sự sắc sảo.
Cách dùng đến nghệ thuật của bà “thật chẳng ai bì”, đã mà dụng ý vẽ một
bức tranh bằng những đường nét uốn khúc quanh queo, thì Xuân Hương, từ
đường nét đến âm thanh, mỗi chi tiết đều tuyệt đối phục tùng cái vũ khúc lảo
đảo, lệch lạc như bước đi của người say rượu; cuối cùng, một chiếc diều làm
xiếc, nó cũng lộn lèo như vua chúa chứ có kém chi!
Dùng chữ Việt Nam, phải nhận Xuân Hương là thánh. Khi chế giễu mấy
anh học trò dốt:
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
Thơ Đường luật mà Xuân Hương sử dụng không hề khiến người ta nghĩ
rằng đó là thơ nhập nội, thơ bà cứ nôm na, bình dân, tự nhiên, lời ca cứ trong
veo, không gợn, đọc cứ thoải mái, dễ thuộc, những câu đối nhau thì cân chỉnh già
dặn đến ai cũng phải sợ, mà vẫn như lời nói thường. Chữ của Xuân Hương chọn
tài tình đến nỗi chẳng còn thấy công phu gò gẫm gì cả, chọn trên cơ sở phổ cập;
Xuân Hương không trau chuốt chữ, thích dùng những vật liệu thông thường
nhưng vì do đặt đúng chỗ ngăn ngắt, nên hóa ra rất chọn lọc.
“Lòng Xuân Hương là lửa, tay Xuân Hương có điện, nên các chữ đều
sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay, có thể duỗi, có
thể khom khom, ngửa ngửa, nó có thể chũm chọe hi ha, cốc, om, khua, vỗ; nó có
thể um, xoe, xoa, loét, rì; nó có thể nối nhau thành chuỗi vần vang động: bom,
chòm, om, móm, tom hoặc ọp ẹp: heo, leo, kheo, teo, lẻo; chúng ta có thể đố ai
tìm được trong thơ Xuân Hương những chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 66
chết nào đứng trơ không cựa quậy ở trong câu” [6, 404]. Một trong những đặc
tính của văn học là nghệ thuật ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ được điều khiển bởi tâm
hồn.
3.2. Nghệ thuật cái “tục”
Về cái “tục”, ai đã nghiên cứu về Hồ Xuân Hương cũng phải đối mặt với vấn
đề này. Và câu trả lời từ trước đến nay chỉ có hai : hoặc là có hoặc là không. Những
người theo chủ nghĩa “có” thì một là gạt bỏ hầu hết những bài mà họ cho là dâm tục
sang cái bị dân gian, hai là cho Xuân Hương lấy cái tục ra để chống lại bọn phong
kiến nên cái tục ấy không còn là dâm tục nữa. Còn những người theo chủ nghĩa
“không” thì cho rằng tục là vấn đề bản năng. Nữ sĩ Xuân Hương rất có ý thức sử
dụng cái tục trong sáng tác nghệ thuật, tác giả sử dụng cái tục với mục đích riêng,
sâu sắc, chứ không sử dụng bừa bãi, lộn xộn. Đây là một hiện tượng độc đáo, mới
lạ, cần được nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc. Chính vì vậy, ở khía cạnh
nghệ thuật, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi dành cho vấn đề này nhiều thời
gian hơn cả.
3.2.1. Các ý kiến bàn về vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển đã chọn 11 bài của Xuân Hương
vào hợp tuyển và trong đó ông trân trọng nhận xét: “Văn Hán của nàng không biết có
những gì chứ văn Nôm của nàng thì thực là đặc tài, đặc thú, đứng hẳn riêng là một
thi gia, cứ kể cho là vô song được. Thơ nàng làm xưa nay ai cũng kêu là có ngoại ý
thô tục. Nhưng xét kỹ, văn thơ của nàng tục mà thanh, dù nàng không có cái vẻ đứng
đắn, cái giọng đa cảm đa sầu như bà Huyện Thanh Quan, nhưng lắm bài thực là có
khí khái rất đa tình…”[30, tr.312].
Còn Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến khi viết Giai nhân dị mặc đã muốn bênh
vực Hồ Xuân Hương, phản đối các ý kiến chê thơ bà là “có quỷ”, là “hoang dâm”.
Cách bênh vực của tác giả là dựa vào những “sự tích” về thơ Xuân Hương. Tác giả
còn viết: “Nhưng có khi chỉ nghe đọc câu thơ, mà không hiểu hết sự tích, thì thơ từ
cũng nhảm nhí: có khi nghe nói truyện sự tích, mà không thuộc hết bài thơ, thì sự
tích cũng mập mờ… ”[49, tr.5]. Dĩ nhiên, cái sự tích mà Đông Châu Nguyễn Hữu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 67
Tiến đưa ra ở đây chỉ là những giai thoại về Hồ Xuân Hương.
Người đầu tiên bàn sâu về cái dâm, cái tục như một đặc điểm cá tính sáng tạo
trong thơ Hồ Xuân Hương có lẽ là tác giả Trương Tửu. Ông đã áp dụng thuyết Phân
tâm học của Freud để lý giải hiện tượng tục, dâm trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong
Văn nghệ bình dân Việt Nam, Trương Tửu khẳng định căn bệnh thần kinh của Hồ
Xuân Hương thể hiện ở “Ham muốn nhục tình sôi nổi” vì “Đời Hồ Xuân Hương,
tựu chung, chỉ là một sự tìm chồng”[53, tr.118-119]. Sau đó, Trương Tửu cũng đã
khẳng định trong Kinh thi Việt Nam: “Không có cái giả thuyết cho rằng não trạng
ấy là di tích của một tôn giáo thờ sự sinh đẻ thì làm sao mà cắt nghĩa được nó?
Làm sao mà cắt nghĩa được Hồ Xuân Hương, cái thiên tài hiếu dâm đến cực điểm
kia?...”[52, tr.159-160]. Việc áp dụng máy móc Phân tâm học của Freud vào lý giải
thơ Hồ Xuân Hương không tránh khỏi cực đoan, sai lầm, khiến cho độc giả hiểu sai
mục đích sáng tạo cũng như những giá trị thẩm mĩ của thơ Hồ Xuân Hương.
Sau đó, Nguyễn Văn Hanh trong công trình Hồ Xuân Hương, tác phẩm,
thân thế và văn tài tiếp tục áp dụng học thuyết của Freud để phân tích và lý giải
hiện tượng Hồ Xuân Hương. Ông còn cực đoan hơn Trương Tửu khi cho rằng mọi
điều xảy ra trong xã hội từ đấu tranh giai cấp đến vận mệnh con người đều do trạng
thái bản năng dâm dục chi phối. Nguyễn Văn Hanh đã kết luận Hồ Xuân Hương
mắc bệnh thần kinh, bị khủng hoảng tình dục: “Dục tình càng ngày càng tăng, càng
nén lại, càng bồng bột… Ngày qua, tháng lại, năm qua, sức đè nén, dồn ép tình dục
càng tăng, sự cần kia càng khẩn cấp. Kết quả: Xuân Hương khủng hoảng tình
dục”[10, tr.45].
Đến giai đoạn sau 1945, vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương lại
được bàn đến một cách sôi nổi. Đáng chú ý là ý kiến của tác giả Văn Tân trong Hồ
Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục và trong công trình Văn
học trào phúng Việt Nam. Tác giả đã khẳng định tục và dâm trong thơ Hồ Xuân
Hương là một phương tiện nghệ thuật đặc biệt nhưng tác giả chưa phân tích và
chứng minh được điều đó, còn mâu thuẫn với chính mình khi đã chịu ảnh hưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 68
phần nào quan điểm của Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh.
Năm 1961, tác giả Trần Thanh Mại đã nghiên cứu khá kĩ lưỡng về vấn đề này
qua bài Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương. Tác giả đã có sự
phân biệt khá chính xác và thuyết phục về cái tục và cái dâm trong thơ Hồ Xuân
Hương: “Tục thường dùng để đả kích, phê phán, nói lên nỗi căm phẫn của mình
trước một sự việc, có khi để trào lộng gây cười (vẫn với một mục đích nhất định: mục
đích xây dựng). Nhưng đến khi tục không nhằm các mục đích trên đây mà chỉ dùng
để nhắc nhở, khêu gợi thú nhục dục, dễ gây những cảm giác, những ấn tượng không
lành mạnh cho người đọc, người xem, thì khi đó, tục đã vượt quá phạm vi của nó mà
biến thành dâm và tính chất của nó đã hoàn toàn đổi hẳn”[27, tr.80].
Trên Tạp chí văn nghệ, tác giả Nguyễn Đức Bính đã công bố một báo cáo
làm xôn xao dư luận với nhan đề là Người cổ nguyệt, truyện Xuân Hương. Ở bài
báo này, tác giả hết lời ca ngợi Xuân Hương, khẳng định thơ bà chẳng có dấu vết gì
của tục và dâm cả. Ông giải thích Xuân Hương bằng bản năng sinh tồn của con
người. Ông cho rằng bản năng sinh tồn là tự nhiên và chính đáng nên thơ viết về
tình yêu thân xác là loại thơ trong trẻo và lành mạnh, thậm chí còn lành mạnh và có
giá trị nhất: “Thuở xưa, đời còn chưa mặc áo, con người còn đi lang thang chốn
rừng sâu núi thẳm để kiếm ăn. Một hôm, có người con trai ngồi ăn mấy quả sung
chín dưới gốc cây sung, tình cờ bắt gặp một người con gái từ sau một gốc cây đi ra,
trẻ đẹp trong sự trần truồng và đầy sức sống sôi nổi dưới hai bầu vú. Hai người đã
yêu nhau một cách không mặc và và không nghi thức. Giữa khoảng trời cao đất
rộng, trong cái say sưa của hai xác thịt, hai trái tim đã đồng nhịp rung cảm và ngân
lên những tiếng não nùng. Đó: thơ Hồ Xuân Hương nói.
Còn ngoại giả chỉ là thứ văn chương phù phiếm, bã mía cả”[3, tr.34]. Bài
viết của Nguyễn Đức Bính chỉ là một tùy bút đầy cảm hứng thể hiện một cách đánh
giá thơ Hồ Xuân Hương chứ không phải là một bài nghiên cứu khoa học công phu.
Từ những năm 70, tình hình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương đã phần nào
lắng lại, không còn những tranh luận sôi nổi và gay gắt nữa. Tuy nhiên, giới nghiên
cứu văn học vẫn tiếp tục tiến sâu vào thế giới nghệ thuật bí ẩn của Hồ Xuân Hương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 69
Các cuốn giáo trình văn học của các trường Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp
Hà Nội và các học giả ở miền Nam thời kì 1954 – 1973 tiếp tục nghiên cứu, toàn
diện, sâu sắc hơn về Hồ Xuân Hương. Tác giả Nguyễn Văn Hoàn trong Lịch sử
văn học Việt Nam – tập 1 cũng coi cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương là một
phương tiện nghệ thuật. Cái tục ở đây không phải là mục đích, cũng chưa hẳn là đối
tượng miêu tả chính, mà chỉ là một phương tiện nghệ thuật, một vũ khí châm biếm
lợi hại.
Cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương là một yếu tố được lặp đi lặp lại theo
những quy luật nhất định, được dùng để xây dựng tiếng cười trào phúng với những
giá trị nội dung tư tưởng xác định, thể hiện rất rõ cho cách tư duy nghệ thuật của nữ
sĩ. Hơn nữa, chính cái tục chứ không phải gì khác, đã quy định một số hình thức
nghệ thuật ở cấp độ nhỏ hơn như hình ảnh, âm thanh, màu sắc, từ ngữ, vần điệu…
Với phương tiện nghệ thuật cái tục, Hồ Xuân Hương đã đạt đến “một trình độ mới
của sự chiếm lĩnh hiện thực” đúng như lý thuyết về thi pháp mà tác giả Trần Đình
Sử đã chỉ ra.
3.2.2. Số lần xuất hiện, trƣờng hợp xuất hiện cái tục
Thống kê 15 bài thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, chúng tôi thấy cái
tục xuất hiện trong 8 bài, chiếm tỉ lệ 53,3% - một tỉ lệ lớn trong lịch sử thơ ca
dân tộc.
Sự phân bố cụ thể cái tục trong các mảng như sau:
Mảng thứ nhất – mảng thơ viết về thiên nhiên và các sự vật gồm 4 bài nhưng
có 3 bài xuất hiện cái tục (Bánh trôi nước, Quả mít, Ốc nhồi), chiếm 75%.
Mảng thứ hai – mảng thơ viết về tăng lữ gồm 2 bài thì cả 2 bài đều xuất
hiện cái tục (Sư bị ong châm, cái kiếp tu hành), chiếm 100%.
Mảng thứ ba – mảng thơ viết về phụ nữ gồm 1 bài là bài Mời trầu cũng
xuất hiện cái tục, chiếm 100%.
Mảng thứ tư – mảng thơ viết về cái chết: mảng này có 2 bài nhưng không
xuất hiện cái tục.
Mảng thứ năm – mảng thơ viết về kẻ sĩ: mảng này có 3 bài nhưng cái tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 70
không xuất hiện ở bài nào.
Mảng thứ sáu – mảng thơ viết cho Chiêu Hổ: mảng này gồm 3 bài, cái tục
xuất hiện ở hai bài, trừ bài Trách Chiêu Hổ II , chiếm 66,7%.
Với tỉ lệ 8/15 bài thơ có cái tục, quả thực đây đã trở thành vấn đề lớn nhất,
đáng chú ý nhất trong nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hương. Hầu như ở
mọi đề tài, cái tục đều xuất hiện. Điều đó thể hiện nữ sĩ rất có ý thức sử dụng cái
tục trong sáng tác nghệ thuật.
Tuy nhiên, đối với những kẻ sĩ không xứng mặt nam nhi như lũ học trò
dốt nát, ba hoa, như tên tướng giặc bại trận đã tự sát nhục nhã, Hồ Xuân Hương
lại không cần dùng đến cái tục. Nếu như những hiền nhân, quân tử, vua chúa,
nhà sư… vốn là những giai tầng sang quý được xã hội phong kiến đề cao, nể
trọng, Hồ Xuân Hương phải dùng đến cái tục để vạch trần bản chất của chúng để
“hạ bệ thần tượng” thì những nam nhi hèn kém này, bà không dùng đến cái tục.
Qua ba bài thơ Mắng học trò dốt I, Mắng học trò dốt II, Đề đền Sầm Nghi
Đống, ta thấy tác giả bộc lộ sự khinh bỉ trực tiếp, thể hiện một thế đứng trên đầu
bọn chúng. Nhà thơ gọi chúng là “lũ ngẩn ngơ”, là “phường lòi tói” và chỉ nhìn
bọn chúng bằng một phần con mắt “ghé mắt”. Cái tục không xuất hiện trong ba
bài thơ này. Phải chăng, đối với một lũ người thô bỉ, hèn kém mà xã hội đã thấy
chúng là những kẻ bất tài, vô giá trị, Hồ Xuân Hương không cần thiết phải dùng
đến phương tiện nghệ thuật cái tục đặc biệt của mình. Mục đích sử dụng cái tục
như một hình thức nghệ thuật biểu hiện ở đây rất rõ. Điều đó càng chứng tỏ rằng
tác giả sử dụng cái tục với những mục đích riêng, sâu sắc, chứ không dùng bừa
bãi, lộn xộn. Cách sử dụng cái tục như vậy có lẽ nằm trong một ý đồ, một quan
niệm nghệ thuật nghiêm ngặt và nhất quán. Nhà thơ sử dụng thơ để đối diện với
mình, để trải nỗi lòng sâu kín của mình nhưng không hề tục, không hề dâm thì
làm sao có thể kết luận Hồ Xuân Hương là “Mắc bệnh thần kinh”, là “khủng
hoảng tình dục sôi sục và trầm trọng” được. Rõ ràng Hồ Xuân Hương trong
sáng và thanh cao từ trong tâm thức. Như vậy, cái tục đâu phải là mục đích sáng
tác của bà. Bà chỉ sử dụng nó như một phương tiện để gửi gắm vào đó thái độ và
tư tưởng của mình mà thôi.
Trong 8 bài thơ có cái tục, người viết nhận thấy cái tục xuất hiện với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 71
mức độ đậm nhạt khác nhau. Nhìn chung có thể phân thành hai loại chính:
Loại thứ nhất, cái tục xuất hiện ở phạm vi toàn bài hoặc hầu hết các câu
của bài. Loại này có đến 6/15 bài, chiếm tỉ lệ 75%.
Loại thứ hai, cái tục xuất hiện ở một hai câu trong bài, chỉ có 2 bài là Dỗ
người đàn bà khóc chồng và Mời trầu, chiếm 25%.
Loại thứ nhất chiếm tỉ lệ cao hơn. Điều đó chứng tỏ tác giả rất có ý thức
trong việc sử dụng và bộc lộ cái tục để người đọc dễ nhận ra. Tác giả luôn tận
dụng để sử dụng cái tục ở mọi đề tài, mọi hoàn cảnh có thể.
Cách sử dụng cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương cũng rất phong phú và đa dạng:
Cách thứ nhất, miêu tả sự vật theo lối hai mặt, khiến cho đối tượng miêu
tả vừa có nội dung chân thực như nó vốn tồn tại, vừa có nội dung tục. Đây là lối
miêu tả mang tính chất ám chỉ, bóng gió với một so sánh ngầm sinh động, biến
hóa hết sức đặc biệt, khiến người đọc nảy ra một liên tưởng tương đồng giữa
“nghĩa phô và nghĩa ngầm” (cách dùng từ của Xuân Diệu) trong bài thơ. Đây là
cách thể hiện cái tục chủ yếu trong thơ Xuân Hương. Ở mỗi hình ảnh, chi tiết
trong bài thơ Xuân Hương đều thể hiện hai nghĩa: nghĩa phô và nghĩa ngầm,
nghĩa thanh và nghĩa tục, nghĩa chính thức và nghĩa phi chính thức. Hai nghĩa
này hòa quyện vào nhau, không tách rời nhau khiến hình tượng thơ luôn lấp
lửng, ẩn hiện tính chất nước đôi. Đây chính là lý do tạo ra những tranh cãi không
bao giờ dứt về thi phẩm Xuân Hương, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
“Thơ Hồ Xuân Hương tục hay thanh? Đố ai bắt được: bảo rằng nó hoàn toàn là
thanh, thì cái nghĩa thứ hai của nó có giấu được ai, mà Xuân Hương có muốn
giấu đâu. Mà bảo rằng nó là nhảm nhí, là tục thì có gì là tục nào?”[5, tr.126].
Tác giả Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực
cũng đã chỉ rõ: “Mỗi biểu tượng, mỗi bài thơ đều lấp lánh nghĩa đôi bằng một
ngôn ngữ tuyệt vời cũng vừa dân gian vừa bác học, giàu âm thanh, hình khối,
màu sắc, nhiều đối đáp”[47, tr.161].
Cách thứ hai, cách miêu tả gọi tên có tính chất ám chỉ trực tiếp, khiến
người đọc hiểu ngay cái tục, không chệch đi đâu được. Cách này chỉ xuất hiện ở
một số bài như:
- Trách Chiêu Hổ I – “Hang hùm chớ mó tay”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 72
- Trách Chiêu Hổ II - “ghùn ghè / chưa dám / rụt rè”.
Cách thứ ba, cách dùng kỹ thuật ngôn ngữ như nói lái, chơi chữ, nói ỡm
ờ, cách ngắt nhịp, tạo nhịp thơ lạ… để bộc lộ cái tục một cách trực tiếp. Ví dụ:
Sư bị ong châm (nói ỡm ờ), Kiếp tu hành (nói lái).
Qua những cách thể hiện cái tục đó, ta thấy sự đa dạng, phong phú và biến
hóa của nghệ thuật biểu hiện ở trong thơ Hồ Xuân Hương. Người đọc nhận ra cái
tục từ nhiều phía với những biểu hiện phong phú của nó. Điều này khiến cho đọc
thơ Hồ Xuân Hương, người ta không thấy nhàm chán. Cũng vẫn là một chuyện,
chuyện cái tục, mà bà nói được bằng nhiều cách khác nhau, khi thì lấp lửng, ẩn
hiện, khi thì trực tiếp, rõ ràng, lúc lại ỡm ờ, khêu gợi, làm cho người đọc liên tục
chuyển đổi trạng thái tiếp nhận, tạo ra sự biến hóa đầy bất ngờ của tiếng cười.
Điều đó làm nên sức sống, sức hấp dẫn của thơ bà đồng thời cũng chứng tỏ tài
năng xuất sắc, trình độ cao cường của một “kỹ nữ”. Cái tục được biểu hiện bằng
nhiều cách phong phú đó đã khẳng định tính chất hình thức của một phương tiện
nghệ thuật. Đặc biệt, đây là phương tiện nghệ thuật ở cấp độ lớn, chứa đựng
trong nó những cấp độ hình thức khác nhỏ hơn, tạo thành một hệ thống riêng,
làm rõ nét sự hiện diện của nó.
Như vậy, qua quá trình thống kê, phân loại, tìm hiểu, rà soát và phân tích
từng trường hợp xuất hiện cái tục, ta thấy cái tục được lặp lại, được cấu tạo với
những quy luật riêng, cách tổ chức riêng như một hình thức nghệ thuật đặc biệt.
Rõ ràng, tác giả có dụng ý dùng cái tục nhằm chuyển tải những thông điệp thẩm
mỹ nào đó, để gửi gắm tâm tư, ước nguyện của mình.
3.2.3. Cái tục với ý nghĩa phê phán, châm biếm, đả kích cƣờng quyền và
thần quyền phong kiến
Tiếng cười châm biếm, đả kích trong thơ Hồ Xuân Hương là một giá trị
nội dung trào phúng dễ tìm được sự đánh giá cao nhất của các nhà nghiên cứu.
Trong lịch sử trung đại ta hiếm thấy có một tác giả nào lại dám hạ bệ tất cả
những kẻ đại diện cho chính quyền phong kiến như bà. Những khuôn mặt nam
nhi trong thơ Hồ Xuân Hương nhìn chung đều xấu xa, dốt nát, giả dối, vô trách
nhiệm và đều trở thành đối tượng châm biếm, đả kích. Từ những hiền nhân, quân
tử đến anh hùng, vua chúa, từ nhà sư đến quan thị, tất cả đều bị tiếng cười trào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 73
phúng của Hồ Xuân Hương hạ bệ.
Điều dễ nhận thấy và cũng nổi bật nhất ở đây là bà mỉa mai, châm biếm
thói đạo đức giả của giai cấp thống trị. Những hạng người “cao quý” đó hiện lên
trong thơ bà với những ham muốn sắc dục mãnh liệt. Hồ Xuân Hương đã dùng
cái tục để xây dựng tiếng cười hạ bệ, tiếng cười lột truồng đối tượng, phá vỡ mọi
khoảng cách, mọi hàng rào đẳng cấp, phơi bày thực chất tầm thường của những
kẻ thường tự cho mình là đạo mạo nghiêm trang. Với những hạng người “cao
quý” đó thì Đạo thánh hiền đã rơi đâu hết. Cái tục gắn chặt vào cuộc đời của
những môn đồ Nho giáo này. Trong xã hội phong kiến thì thói đạo đức giả đã trở
thành một nếp sống quen thuộc và tồn tại từ rất lâu. Người kì nữ đã dùng cái tục
để xé toang nó ra, phơi bày trước mắt mọi người. Bọn chúng cũng chỉ là những
kẻ thích “mân mó” (Quả mít) lại còn hay ra vẻ đạo mạo. Những đại diện đỉnh
cao của xã hội phong kiến chẳng được tác giả nể chút nào. Chúng xuất hiện
trong văn học trung đại thường gắn với lý tưởng “trung quân ái quốc”, nhưng ở
đây, tuyệt nhiên những nội dung đó không hề thấy. Cái tục đã hòa vào cuộc sống
của vua chúa, của hiền nhân quân tử. Xuân Hương đã dùng cái tục như một ngọn
roi quất thẳng vào mặt giai cấp phong kiến đạo đức giả, vạch trần cuộc sống bình
thường, nhơ nhớp của những kẻ đại diện cho xã hội phong kiến. Đặt những câu
thơ vào thời đại Hồ Xuân Hương, vào thái độ “Trọng nam khinh nữ” của ý thức
hệ phong kiến, vào thái độ bề ngoài, trên danh nghĩa có vẻ xa lánh, coi thường,
khinh rẻ người phụ nữ, thậm chí coi thường việc đụng chạm đến quần áo, thân
thể người phụ nữ của giai cấp thống trị, chúng ta mới thấy hết được bản lĩnh cao
cường của Hồ Xuân Hương và sự quyết liệt, mạnh mẽ của tinh thần chống phong
kiến ấy.
Khi đặt cái tục vào những hoàn cảnh này, Hồ Xuân Hương đã làm bật ra
tiếng cười châm biếm độc đáo để hạ bệ giai cấp thống trị vốn tự cho mình là thần
tượng trong xã hội phong kiến. Thông qua cái tục nhà thơ muốn khẳng định rằng
làm gì có hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa nào lại xa lánh những nhu cầu
trần tục! Có khi chính những loại người này do cuộc sống nhiều quyền lợi còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 74
tục hơn cả những người bình thường nữa chứ! Rõ ràng nữ sĩ đã dùng cái tục như
một phương tiện trào phúng đặc sắc và đầy hiệu quả để phơi bày sự giả dối của
giai cấp thống trị.
Chúng ta thấy, cùng thời với Xuân Hương còn có một số tác giả khác
cũng nói đến sắc dục của giai cấp phong kiến, như Nguyễn Gia Thiều với Cung
oán ngâm khúc, Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh. Nhưng điều đặc biệt ở
đây là thái độ của các tác giả, cách sử dụng các phương tiện nghệ thuật. Nói đến
quan lại, các giai cấp phong kiến, đặc biệt là vua chúa, các tác giả khác thường
giữ thái độ dè dặt, né tránh. Họ bị ràng buộc bởi chữ trung quân. Viết về những
loại người này, bên cạnh việc chê là khen, bên cạnh xấu là tốt, ngôn ngữ cũng
gượng nhẹ, vòng vo. Ngay cả ở Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn
Phái, khi viết về cuộc sống trụy lạc của Trịnh Sâm – Đặng Thị Huệ, các tác giả
cũng giữ thái độ dè dặt, tôn kính. Xuân Hương thì khác, trong thi phẩm của bà,
người đọc không bắt gặp đặc tính tốt đẹp của loại người này, cũng chẳng thấy
bóng dáng của chữ trung quân, của ranh giới “Tam cương ngũ thường” đâu cả.
Tất cả đều đã bị san bằng trong cái ham muốn sắc dục tiềm tàng kia.
Hồ Xuân Hương cũng không đồng ý với hôn nhân phong kiến “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy” theo lý thuyết “tam tòng”. Người phụ nữ dưới xã hội
phong kiến hoàn toàn bị động trước tình yêu và hạnh phúc. Điều này cũng đã
được Hồ Xuân Hương thừa nhận như một thực tế đắng cay:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước)
Nhưng điều quý giá ở đây là ý chí kiên định của người phụ nữ “Mà em
vẫn giữ tấm lòng son” ấy. Họ không đầu hàng trước số phận, vẫn luôn cháy lên
khát khao hạnh phúc, vẫn giữ gìn vẹn nguyên vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo của
mình. Do đó, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương hoàn toàn chủ động, bạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 75
dạn trước tình yêu, khích lệ khát vọng của người bạn tình (Trách Chiêu Hổ III).
Tiến sĩ Ngô Gia Võ đã từng chứng minh từ của trong bài thơ là danh từ và
mang ẩn ý cái tục (trong bài báo Suy nghĩ quanh câu thơ “Này của Xuân
Hương mới quệt rồi”). Câu thơ cần được hiểu là “Cái của này, Xuân Hương
mới quệt rồi” theo cách nói nghịch ngợm rất Xuân Hương. Tuy nhiên, một từ
“của” và cái ý vị hài hước nghịch ngợm kia vẫn rất mờ nhạt so với nội dung trữ
tình tuyệt đẹp biểu hiện sáng rõ và xúc động khát vọng tình yêu lớn lao, chung
thủy của Xuân Hương.
Với ý nghĩa phê phán, châm biếm đả kích cường quyền và thần quyền
phong kiến, thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc và
thiết thực. Trong ý nghĩa này, nghệ thuật cái tục đã góp phần quan trọng nếu
không nói là quyết định. Rõ ràng, với ý nghĩa chống cường quyền và thần quyền
phong kiến, chống lại sự kìm hãm và đè nén hạnh phúc chân chính của con
người, cái tục đã trở thành một phương tiện nghệ thuật đặc sắc, chuyển tải một
giá trị tư tưởng tiến bộ, có sức sống lâu bền với thời gian.
3.2.4. Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc
trần tục, đòi tự do và giải phóng con ngƣời.
Như chúng ta đều biết, giá trị nhân đạo cao nhất là giá trị khẳng định, ca
ngợi và bênh vực con người. Chủ nghĩa nhân đạo phải “lấy việc khẳng định một
cách lạc quan những nhu cầu và ham mê trần tục để đối lập với đạo đức khổ
hạnh thời trung cổ” (A.P. Vôn-ghin, Lược thảo lịc sử các tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, NXB Sự thật, H, 1979, trang446).
Thơ Hồ Xuân Hương luôn ngợi ca khẳng định hạnh phúc trần tục của con
người, khẳng định khát vọng tự nhiên, đòi giải phóng bản năng con người khỏi
mọi trói buộc khổ hạnh của cường quyền và thần quyền. Khẳng định sức mạnh
và vẻ đẹp của cơ thể con người, Hồ Xuân Hương chú trọng nhiều nhất đến các
cơ quan sinh dục. Đây là một nét rất đặc biệt mà tác giả Đỗ Lai Thúy đã lý giải
bằng công trình Hoài niệm phồn thực. Tác giả Tam Vị cũng khẳng định: “Hồ
Xuân Hương coi thân thể và các bộ phận sinh dục cơ thể con người như là tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 76
nhiên, thiên tạo, nó giống như tự nhiên, thiên nhiên vậy”[47, tr.18]. Vì vậy mà
giá trị bộc lộ nội dung tư tưởng nhân đạo của cái tục trong những bài thơ tứ tuyệt
trào phúng này rất lớn.
Tuy vậy, đó không phải là ý nghĩa chủ đạo, khẳng định vẻ đẹp của thân
thể con người chỉ là một nét rất nhỏ trong thơ Xuân Hương. Bà chủ yếu khẳng
định và ngợi ca hạnh phúc trần tục thực tế của con người.
Có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về tình dục trong thơ Hồ Xuân
Hương, mỗi người cho ra một ý kiến khác nhau. Nhưng theo chúng tôi, tình dục
trong thơ Xuân Hương là tình dục ở mức độ lành mạnh và khỏe khoắn. Khi nói
đến chuyện ân ái giữa nam và nữ, giọng thơ bà bỗng trở nên dí dỏm, tinh nghịch
xiết bao. Một cô gái đứng trước sự quá trớn, sỗ sàng và liều lĩnh của người con
trai đã tỉnh táo cảnh cáo rằng:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
(Trách Chiêu Hổ I)
Nhưng cũng chính cô gái ấy, khi người con trai còn rụt rè, chưa đáp ứng
lòng mong mỏi của cô, lại tha thiết khuyến khích bằng một sự chọc tức bạo dạn:
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè.
(Trách Chiêu Hổ III)
Trạng thái tình cảm của cô gái trong hai bài thơ là khác nhau, hai thái độ
có vẻ như mâu thuẫn nhau của cô gái: một đằng là ngăn trở, cảnh cáo sự ham
muốn quá trớn, sỗ sàng; một đằng lại là khích lệ và mong chờ sự ham muốn.
Trạng thái ấy chính là trạng thái bình thường của một cô gái lành mạnh, minh
mẫn và khỏe khoắn. Hai bài thơ đều làm bật ra tiếng cười dí dỏm, rất đỗi thoải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 77
mái, hồn nhiên.
Trong quan hệ, người phụ nữ thường yếu đuối và bị động nhưng trong thơ
Hồ Xuân Hương thì chẳng yếu đuối tí nào. Họ hiện lên là những người phụ nữ
đầy khí phách và sức mạnh, hết sức chủ động. Chính họ đã cảnh cáo sự liều lĩnh
sỗ sàng:
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay
(Trách Chiêu Hổ I)
3.2.5. Như vậy, qua việc khảo sát cái tục trong 8/15 bài thơ Nôm tứ tuyệt trào
phúng của Hồ Xuân Hương, chúng tôi nhận thấy cái tục là một phương tiện nghệ
thuật độc đáo và đầy hiệu quả đã góp phần quan trọng, thậm chí quyết định đến
sức sống lâu bền của thi phẩm Xuân Hương. Phương tiện nghệ thuật này được sử
dụng với tần số cực lớn, được lặp lại theo những quy luật ổn định và trở thành
một hình thức nghệ thuật đặc biệt chứa đựng trong nó một hệ thống những hình
thức nghệ thuật ở cấp độ nhỏ hơn. Nghệ thuật cái tục trong thơ Xuân Hương
đúng như quan niệm của tác giả Trần Đình Sử: “luôn luôn là một hình thức cụ
thể, mang một nội dung tư tưởng thẩm mỹ xác định, thể hiện rất rõ cho cách tư duy
nghệ thuật của một tác giả, hay của một thời đại, trào lưu văn học”[39, tr.17].
Mỗi lần cái tục xuất hiện là một lần nó chở tải những nội dung tư tưởng
riêng, được Hồ Xuân Hương sử dụng với mục đích hết sức rõ ràng, cụ thể. Nghệ
thuật cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương vừa có ý nghĩa khẳng định vừa có ý
nghĩa phủ định tạo nên tính chất nhiều tầng nghĩa, nhiều giá trị tư tưởng cho thi
phẩm của bà. Trong nghệ thuật trào phúng Hồ Xuân Hương, cái tục đã góp phần
quan trọng tạo ra “tiếng cười nghịch dị”, tiếng cười mang “biểu tượng hai mặt”
hết sức độc đáo, nó chuyển tải sinh động tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tiến bộ của
Hồ Xuân Hương, góp phần quan trọng vào thành công của Hồ Xuân Hương
trong văn học dân tộc nói riêng và văn học thế giới nói chung.
Tiểu kết
Qua ba vấn đề về phương diện nghệ thuật trào phúng trong thơ tứ tuyệt trào
phúng của Hồ Xuân Hương: mối liên hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 78
văn học dân gian; ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa; nghệ thuật cái tục,
chúng tôi nhận thấy về phương diện nghệ thuật ngôn từ trong thi ca trào phúng,
Hồ Xuân Hương đã đạt đến một trình độ đỉnh cao; khác hẳn, thậm chí hơn hẳn
các nhà thơ trước bà.
Về ngôn từ nghệ thuật, Hồ Xuân Hương có lẽ là người đã tạo ra một “thế giới
thơ Nôm” như đánh giá của nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu. Ngôn từ trào phúng
trong thơ bà quả thực đã đạt đến trình độ siêu Việt, những con chữ dường như có
linh hồn, biết nhảy múa, khóc cười trong sự mê hoặc đầy nghệ thuật.
Đặc sắc nhất trong nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật
“cái tục”. Đây là một vấn đề đã gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, chúng tôi cho
rằng “cái tục” trong thơ Hồ Xuân Hương không phải là một vấn đề về phương
diện nội dung mà là một vấn đề thuộc về phương diện hình thức nghệ thuật.
Tứ tuyệt là thể thơ ngắn, súc tích, hàm chứa những triết lý nhân sinh và
thường gắn liền với đặc trưng “thi dĩ ngôn chí”. Qua bàn tay tài hoa của “kĩ nữ”
Hồ Xuân Hương, tứ tuyệt đã từ đẳng cấp trên “chuyển kênh” xuống đẳng cấp
dưới, nói lên được những tâm tư, khát vọng của những con người “thấp cổ bé
họng”. Đây là một bước đột phá về hình thức nghệ thuật trong thơ Việt Nam thời
kì Trung đại và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến giới
nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam gọi Hồ Xuân Hương là “hiện tượng nổi
loạn” trong nền thơ Trung đại. Đây cũng chính là điều khiến cho năm 1987, thơ
Hồ Xuân Hương được dịch sang tiếng Pháp và năm 1991 được dịch sang tiếng
Anh đã khiến cho độc giả phương Tây phải bất ngờ, sửng sốt. Nhiều nhà nghiên
cứu văn học đã coi bà là “Nữ sĩ hàng đầu của Châu Á”.
Từ những thành tựu về phương diện nghệ thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng,
chúng tôi khẳng định rằng: Hồ Xuân Hương là một tác gia lớn trong nền thơ
Trung đại, có vị trí đặc biệt quan trọng trong dòng thơ Nôm Đường luật Việt
Nam. Bà là nhà thơ trữ tình – trào phúng vào loại đặc sắc, độc đáo nhất trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 79
nền thơ Trung đại, xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm”.
K ẾT LUẬN
1. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống vui tươi, lạc quan, yêu
đời, và giàu tiếng cười. Tiếng cười thể hiện khát khao đòi hỏi của tự do, không có tự
do thì không có tiếng cười, và như thế càng khát khao tự do thì tiếng cười càng lớn
bởi ý nghĩa của nó. “Tiếng cười” của dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu dài và được
thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Với một dân tộc yêu tự do, tràn đầy sức sống
và khát vọng vươn lên bao giờ cũng là một dân tộc hay cười và biết cười. Nụ cười
cũng chính là một thói quen quan trọng trong môi trường giao tiếp của người Việt.
Dân tộc Việt Nam với hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, con người không chỉ
biết rơi lệ đau thương mà tinh thần lạc quan còn thấm đượm trong cốt cách, chứng
tỏ tiếng cười đã có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần Việt. “Văn học là
nhân học” (M.Gorki), văn học cũng phong phú đa dạng như bản thân đời sống. Văn
học luôn bắt nguồn từ đời sống, là tấm gương phản chiếu đời sống. Do đó, tiếng
cười Việt Nam đã in dấu vào tiến trình văn học dân tộc, làm nên một truyền thống
trào phúng có bề dày trong nền văn hóa dân gian và trong nền văn học viết.
Hồ Xuân Hương sống vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh ở nước Việt Nam
ta. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX là thời kì đánh dấu sự mục ruỗng và suy
tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong thời kỳ đó, vua chúa sống cuộc sống
xa hoa, trụy lạc, còn người dân thì vất vả, khổ cực với trăm thứ thuế nặng nề,
phiền phức. Sống trong thời kỳ xã hội rối ren như vậy, là một người phụ nữ có
trình độ, có ý thức về cá nhân và con người, Hồ Xuân Hương, với những vần
“thơ quỷ” của mình, đã vạch trần bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến, lên tiếng
bênh vực những con người thấp cổ bé họng, đặc biệt là người phụ nữ, đòi quyền
sống, quyền tự do, hạnh phúc cho con người.
Thơ tứ tuyệt từ xưa đến nay vẫn làm cho các nhà nghiên cứu tốn bút mực để
tranh luận về tên gọi của mình. Mỗi nhà nghiên cứu có cách định nghĩa khác
nhau, nhưng tựu chung, thơ tứ tuyệt trước hết là bài thơ bốn câu. Với cấu trúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 80
bốn câu ngắn gọn, nhưng nó không hề bị hạn chế sức mạnh và sức bao quát, dù
bị giới hạn bởi câu chữ nhưng vẫn chứa đựng được những nội dung khái quát. Là
một thể thơ lâu đời ở Trung Quốc, thâm nhập và ảnh hưởng sâu rộng trong đời
sống văn học Việt Nam, thơ tứ tuyệt là một thể loại kết tinh được khá nhiều nét
độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương Đông. Chính điều đó dường
như đã góp phần tạo nên những sức mạnh đặc biệt của tứ tuyệt.
2. Ta có thể khẳng định, thơ Nôm trào phúng là một bộ phận thơ Nôm Đường
luật đặc biệt, một dòng chảy khá riêng biệt gắn với cảm hứng thế sự và tiếp thu
truyền thống trào phúng từ văn học dân gian, tạo ra những đặc thù tư tưởng và
nghệ thuật riêng. Nói đến thơ Nôm trào phúng trước Hồ Xuân Hương, cần chú ý
từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi nửa đầu thế kỷ XV với 254 bài đến Hồng
Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức nửa cuối
thế kỷ XV với 328 bài, rồi đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm thế kỷ XVI với 161 bài. Đây là ba tác phẩm của thơ Nôm Đường luật
không chỉ có số lượng lớn mà còn được các nhà nghiên cứu quan tâm mấy chục
năm nay. Tuy nhiên, các nhà thơ này có làm thơ Nôm tứ tuyệt nhưng không làm
thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Các nhà thơ trước Hồ Xuân Hương làm thơ tứ
tuyệt với sự quy định nghiêm ngặt về hình thức và nội dung trang trọng, thi dĩ
ngôn chí, theo quan điểm chính thống, thể hiện được khát vọng của người anh
hùng, quân tử…ít ai dùng thơ Nôm tứ tuyệt để trào phúng. Nhưng đến Hồ Xuân
Hương, thể thơ sang trọng đã chuyển sang thể thơ bình dị, gần gũi với đời
thường, tiếng cười xuất phát từ dân gian, luôn tươi vui hồn nhiên, đầy sức sống.
Đây thực sự là bước chuyển hóa rất lớn trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt
Nam. Sau Hồ Xuân Hương, thơ tứ tuyệt trào phúng tiếp tục xuất hiện và phát
triển nhưng Hồ Xuân Hương chính là người mở đầu và có những thành tựu mới.
3. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chính là bước đột phá lớn so
với các nhà thơ trước, bà đã đưa thơ ca dân tộc lên một tầm cao mới với các tác
phẩm tứ tuyệt trào phúng, có chất lượng cao, cả về nội dung tư tưởng cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 81
giá trị nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật “cái tục”.
Hồ Xuân Hương - một nhà thơ yêu đời, yêu cuộc sống. Thơ bà không bao
giờ là dửng dưng, lạnh nhạt. Đó là một trái tim luôn cháy bỏng, khi giận thì
mắng chửi, khi yêu thương thì đằm thắm, dịu dàng. Với tài năng của mình, Hồ
Xuân Hương đã vận dụng thành công sáng tạo ngôn ngữ của dân tộc. Những bài
ca dao, tục ngữ, câu đố khi được bàn tay Xuân Hương nhào nặn thì luôn trở nên
hấp dẫn, người, cảnh, vật luôn hiện lên có màu sắc, đường nét, hình khối riêng.
Với phong cách đó, phong cách biểu hiện nét “nghĩa đôi” lập lờ của Hồ Xuân
Hương chủ yếu dựa trên thủ thuật chơi chữ, lối nói lái, lối nói ỡm ờ và nghệ
thuật câu đố “tục mà thanh, thanh mà tục”.
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc luôn thấy hai trạng thái cảm xúc
được song hành cùng nhau. Bên cạnh tiếng cười giòn giã, lạc quan, thách thức
còn có cả tiếng thở dài ngậm ngùi, xót xa cho thân phận nổi trôi, hẩm hiu, bạc
bẽo cho thân phận người phụ nữ. Đó là tiếng nói đòi quyền sống và nhân phẩm
của người phụ nữ chống lại những tập tục bất công vô nhân đạo của lễ giáo
phong kiến. Tiếng nói ấy sẽ mãi vang vọng hôm nay, ngày mai và trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc.
Phong cách ngôn ngữ Hồ Xuân Hương rất đặc biệt, uyên bác nhưng cũng
rất dân gian, thâm thúy sâu cay. Với tâm hồn phóng túng, dũng cảm, số phận tủi
hờn, nhà thơ đã diễn tả chúng với lối văn giản dị, đời thường. Bên trong con
người luôn nhìn đời bằng ánh mắt mỉa mai ấy là một tâm hồn biết buồn, biết
khổ, biết xót xa cho thân phận khổ đau của con người mà người phụ nữ là một
minh chứng điển hình. Điều đó đã tạo nên giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc, có
giá trị phản phong, thổi một luồng gió mới vào văn học đương thời.
Không chỉ là một tác gia văn học, Hồ Xuân Hương còn là một hiện tượng
văn học, văn hóa. Bà là biểu hiện điển hình cho sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, một
thời kì phục hưng văn học ở Việt Nam. Đáng chú ý là sự phản kháng với thiết chế
xã hội phong kiến lỗi thời, ý thức đòi quyền sống hạnh phúc, đòi sự bình quyền cho
người phụ nữ. Đặc biệt là sự đóng góp của tác giả trong việc sử dụng tiếng Việt và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 82
Nôm hóa thể thơ tứ tuyệt luật Đường vốn đòi hỏi sự uyên Nho, làm cho nó có sắc
thái riêng rất Xuân Hương nhưng vẫn đậm sắc thái Việt, văn hóa Việt. Chúng ta
tiếp nhận ở Xuân Hương một tâm hồn trung thực, trong sáng, đầy khát vọng, giàu
cá tính và rất ngạo nghễ, dũng cảm, một hồn thơ hết sức độc đáo, đã chống lại sự
bóp nghẹt con người của xã hội phong kiến tàn tạ, đã bênh vực phụ nữ, đã yêu đất
nước và bình dân, và đồng thời đã làm nên những thi phẩm đặc sắc. Điều đó khiến
cho thơ bà còn tươi mới đến tận hôm nay.
4. Với mảng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của mình, Hồ Xuân Hương đã đóng
góp một phần quan trọng vào sự phát triển của văn học dân tộc. Bà đã cùng một
số nhà thơ đương thời như Bà huyện Thanh Quan… hoàn thành quá trình Việt
hóa thể thơ luật vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc và nâng nó lên một trình độ
cao hơn. Điều đó đã làm nên vị trí văn học sử của một “kỹ nữ”, một “hiện tượng
nổi loạn” trong nền thơ Trung đại nói riêng và trong tiến trình phát triển của thơ
ca dân tộc nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M.Bakhtin (1996), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Văn học.
2. M.Bakhtin (1993) Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépki, Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Đức Bính (1962), Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương, Tạp chí
Văn nghệ, tháng 10/1962.
4. Nguyễn Thị Chiến, Tính bi kịch xã hội qua hình tượng người phụ nữ trong
thơ ca thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX, NXB Lao động.
5. Xuân Diệu (1981), Bà chúa thơ Nôm, Tạp chí Văn học số 5/1981.
6. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học.
7. Xuân Diệu (1963), Dao có mài có sắc, NXB Văn học.
8. Nguyễn Sỹ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường, NXB Văn Học.
9. Đoàn Lê Giang (2011), Hồ Xuân Hương từ cái nhìn hậu hiện đại, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 6/2011.
10. Nguyễn Văn Hanh (1957), Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài,
In lần thứ 2, Aspas xuất bản, Sài Gòn.
11. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Nhà in Vũ Hùng.
12. Đỗ Đức Hiểu (1994), “Mời trầu” giữa lễ hội dân gian, Báo Văn nghệ số
34, ngày 30/08/1994.
13. Đỗ Đức Hiểu (1990), Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học
số 5/1990.
14. Hồ Xuân Hương thi tập (1949), Nhà in Vũ Hùng.
15. Hồ Xuân Hương – Thơ và đời (1996), NXB Văn học.
16. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX (1978),
NXB Văn học.
17. Bùi Quang Huy (1996), Thơ ca trào phúng Việt Nam, NXB Đồng Nai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 84
18. Trần Trọng Kim (1995), Đường thi, NXB Văn hóa thông tin.
19. Vũ Ngọc Khánh (1996), Hành trình vào xứ sở cười, NXB Giáo dục.
20. Bùi Kỷ (1932), Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, Trung Bắc tân văn.
21. Đặng Thanh Lê (1983), Hồ Xuân Hương – bài thơ “Mời trầu”, cộng đồng
truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ văn học dân gian – văn
học viết, Tạp chí Văn học số 5/1983.
22. Đặng Thanh Lê (1996), Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, Tài
liệu bồi dưỡng giáo viên – môn Văn – tiếng việt – NXB Giáo dục.
23. Nguyễn Lộc (1982), Hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương, Nhà xuất băn Văn
học.
24. Nguyễn Lộc (1992), Hồ Xuân Hương – nhà thơ độc đáo vô song, NXB Văn
học.
25. Nguyễn Lộc (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu
thế XIX, NXB ĐH và THCN, H, 1976; Tái bản lần thứ ba, NXB Giáo dục.
26. Trần Thanh Mại (1963), Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ
chữ Hán, Tạp chí Văn học, số 3/1963.
27. Trần Thanh Mại (1961), Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân
Hương, Tạp chí Văn học, số 4/1961.
28. Nguyễn Đăng Na (1991), Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian. Tạp
chí Văn học, số 2/1991.
29. Lạc Nam Phan Văn Nhiễm (1993), Tìm hiểu các thể thơ, NXB Văn học.
30. Nguyễn Văn Ngọc (1934), Nam thi hợp tuyển, Nhà in Vĩnh Hưng Long, quyển
nhất.
31. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Thơ ca Việt Nam: hình thức và thể
loại, NXB Khoa học xã hội.
32. Nhiều tác giả (1996), Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục.
33. Nhiều tác giả (1996), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
34. Nhiều tác giả (1992), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
NXB Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 85
35. N.Ni-cu-lin (2000), Lời giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương, Nhà xuất bản văn học.
36. Lê Lưu Oanh, Đinh Thị Nguyệt (2001), Thơ tứ tuyệt trong truyền thống văn
hóa phương Đông, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, số 1/2001.
37. Nguyễn Hồng Phong (1996), Hồ Xuân Hương, tác gia tác phẩm, NXB Văn
học.
38. Đào Thái Sơn (1996), Khái luật về thơ tứ tuyệt, NXB Văn học.
39. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp trong văn học dân gian, NXB
Giáo dục.
40. Văn Tân (1957), Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục,
NXB Sông Lô – in lần thứ 2.
41. Văn Tân (1958), Văn học trào phúng Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, quyển
thượng.
42. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
43. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB
TP.HCM.
44. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, NXB Giáo dục.
45. Thơ Hồ Xuân Hương (1982), (Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu), NXB
Giáo dục.
46. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm – Tập 1 – “Bạch Vân quốc ngữ thi tập”,
(1989), XNB Giáo dục.
47. Đỗ Lai Thúy (1994), Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực, Tạp chí Văn
học số 10/1994.
48. Đỗ Lai Thúy (1998), Phong cách thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học số
12/1998.
49. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (1917), Giai nhân dị mặc, Nhà in Đông Kinh ấn
quán.
50. Đào Thái Tôn (1999), Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền
thoại dân gian hóa, NXB Hội nhà văn.
51. Đào Thái Tôn (1993), Thơ Hồ Xuân Hương- từ cội nguồn vào thế tục,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 86
NXB Văn học.
52. Trương Tửu (1940), Kinh thi Việt Nam, NXB Hàn Thuyên.
53. Trương Tửu (1940), Văn nghệ bình dân Việt Nam, NXB Văn học.
54. Tam Vị (1991), Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí
Văn học số 3/1991.
55. Lê Trí Viễn (1987), Đôi điều về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Nghĩa Bình,
56. Lê Trí Viễn (1999), Hồ Xuân Hương – thi sĩ cảm giác, NXB Giáo dục,
57. Lê Trí Viễn (1999), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, NXB Giáo dục.
58. Ngô Gia Võ (2002), Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào
phúng, Luận án Tiến sĩ, Thư viện ĐHSP Hà Nội.
59. Ngô Gia Võ (2000), Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát vọng nhân văn
trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 2/2000.
60. Ngô Gia Võ (1999), Suy nghĩ quanh câu thơ “Này của Xuân Hương mới
quệt rồi”, Tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm, số 2/1999.
61. Ngô Gia Võ (1999), Thơ tự trào trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi,
Thông báo khoa học, Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội, số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 87
5/1999.