BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
VŨ THỊ HUÊ
THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
VŨ THỊ HUÊ
THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tính
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy cô Tổ Văn học Việt Nam, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giúp tôi
hoàn thành khóa học vừa qua.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với TS. Nguyễn Thị Tính –
ngƣời đã nhiệt tình, tận tâm hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn cơ quan, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
Tác giả
Vũ Thị Huê
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
Tác giả
Vũ Thị Huê
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
6. Dự kiến đóng góp của luận văn ................................................................ 6
7. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...... 7
1.1. Khái lƣợc về thơ vịnh ............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm thơ vịnh.......................................................................... 7
1.1.2. Nguồn gốc và đặc trƣng của thơ vịnh ............................................. 9
1.2. Khái quát về thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam .................... 10
1.3. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập ............................ 12
1.3.1. Nguyễn Trãi với Ức Trai thi tập ................................................... 12
1.3.2. Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập ................................................. 13
Chƣơng 2. NỘI DUNG THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ
QUỐC ÂM THI TẬP ....................................................................................... 15
2.1. Những tƣơng đồng về đề tài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và
Quốc âm thi tập ........................................................................................... 15
2.1.1. Vịnh thiên nhiên ............................................................................ 15
2.1.2. Vịnh vật ......................................................................................... 40
2.1.3. Vịnh con ngƣời.............................................................................. 46
2.2. Sắc thái khác biệt trong thơ vịnh Ức Trai thi tập và Quốc âm thi
tập ................................................................................................................ 53
2.2.1. Tính suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi
tập ............................................................................................................ 53
2.2.2. Sự sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ
vịnh trong Quốc âm thi tập ..................................................................... 57
Chƣơng 3. HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ VỊNH TRONG
ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP ................................................ 59
3.1. Thể thơ ................................................................................................. 59
3.1.1. Thể thơ thất ngôn bát cú ............................................................... 60
3.1.2. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ............................................................. 62
3.1.3. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn .................................................... 64
3.2. Hình ảnh thơ ......................................................................................... 66
3.3. Lối ngụ ý, ẩn ngữ ................................................................................. 70
3.4. Lối dùng điển tích, điển cố................................................................... 72
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79
BẢNG THỐNG KÊ ........................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Trãi là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dân tộc. Thiên tài đó đã
để lại sự nghiệp lớn về nhiều mặt chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm
mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác đƣợc. Có thể khẳng định: Nguyễn Trãi
đã cắm cột mốc quan trọng đối với lịch sử văn học nƣớc nhà. Ông không chỉ
là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ đại tài. Nghiên cứu
về Nguyễn Trãi chƣa bao giờ là nhàm chán. Đến nay, đã có rất nhiều công
trình khoa học về những khía cạnh khác nhau song còn cần phải có nhiều
công trình khoa học hơn nữa.
Thơ vịnh là loại tác phẩm có số lƣợng khá lớn trong văn học trung đại
Việt Nam. Nhiều nhà thơ trung đại sáng tác thơ vịnh và đã thành công nhƣ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuan Hƣơng,... Thi nhân
xƣa lấy các sự vật làm đề tài ngâm vịnh, có khi chỉ vịnh chơi có khi để gửi
gắm tâm tƣ, tình cảm kín đáo của mình. Thơ vịnh là loại thơ dễ làm nhƣng
khó thành công. Không phải bài thơ vịnh nào cũng là một tác phẩm văn
chƣơng đích thực. Ở loại thơ này, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm rất khác
xa nhau. Không ít tác phẩm chỉ là những ẩn dụ của đạo đức phong kiến, ít tính
thẩm mỹ, bên cạnh đó là những tác phẩm có tính thẩm mỹ cao, đƣợc đánh giá
là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc. Tình hình đó càng đòi hỏi có sự
nghiên cứu để xác định giá trị của loại thơ này.
Nguyễn Trãi là cây cổ thụ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ở
mảng thơ vịnh, ông cũng đã đánh dấu đƣợc tên tuổi của mình với nhiều tác
phẩm có giá trị lớn. Nghiên cứu về Nguyễn Trãi là việc làm cần thiết trong
giai đoạn lịch sử xã hội ngày nay để ta có thêm hiểu biết về tác giả nói chung,
nhân cách con ngƣời ông nói riêng. Đây là vấn đề hay trong việc nghiên cứu
thơ ca Nguyễn Trãi để tìm hiểu thêm, có cái nhìn khái quát về thơ vịnh của
ông đồng thời cung cấp hiểu biết, cách tiếp cận đối với thơ vịnh.
2
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Thơ vịnh trong Ức Trai
thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
2. Lịch sử nghiên cứu
Là một trong những tác gia tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam,
thơ văn Nguyễn Trãi đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu cụ thể, sâu sắc.
Vấn đề thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập cũng đã đƣợc bàn
tới trong không ít công trình nghiên cứu.
Trƣớc hết, phải nói rằng, rất nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi đã đƣợc
phân tích, bình giảng, tranh luận. Từ những nghiên cứu, phê bình này, tính
chất vịnh của các bài thơ đã đƣợc các tác giả làm sáng tỏ. Hoa Bằng có bài:
Một bài thơ, một nhân cách, một tâm sự của “Người lịch sử” [24]. Bùi Văn
Nguyên bình giảng Trúc [24]. Bùi Hạnh Cẩn viết: Đọc lại mấy bài thơ chữ
Hán của Nguyễn Trãi [24]... Đặc biệt là các bài thơ của Nguyễn Trãi đƣợc
đƣa vào giảng dạy ở chƣơng trình phổ thông các thời kỳ đã thu hút rất nhiều
nhà nghiên cứu bình luận, giảng giải. Trần Đình Sử viết về bài Tùng , Bùi
Văn Nguyên bàn bài Trúc, Xuân Diệu, Phạm Tú Châu, Nguyễn Đình Chú, Lã
Nhâm Thìn cùng tìm hiểu Cây chuối, Lê Trí Viễn bình về Cảnh tình mùa hè
... Các bài viết này đã đề cập đến tính chất vịnh của các bài thơ khá cụ thể, chi
tiết, cho thấy nhiều lớp nghĩa ẩn từ những hình ảnh hiển ngôn của các bài thơ.
Với Cảnh tình mùa hè, Lê Trí Viễn nhận thấy: “Có liên quan gì giữa cái rỗi
rảnh dài dài và niềm ƣớc mong giàu đủ cho nhân dân khắp nơi? Chắc không
ngoài cái tâm, cái chí một đời của ông nhà thơ: lo cho dân, cho nƣớc nhƣng
không đƣợc toại nguyện” [24, tr.543]. Trần Đình Sử khẳng định Tùng là bài
thơ ông thích nhất trong Quốc âm thi tập, “đằng sau hình ảnh ƣớc lệ là một
trái tim phập phồng ƣớc mơ và khổ đau với đời” [24, tr.563], “Cả bài thơ toát
lên niềm tin mãnh liệt, không lay chuyển đƣợc của nhà thơ vào phẩm chất, giá
trị của mình”, “chính tâm hồn của Nguyễn Trãi đã làm đổi mới hình tƣợng
3
cây tùng trong thơ xƣa. Cây tùng xƣa lánh đời, cô ngạo. Còn cây tùng của
Nguyễn Trãi bất cứ tình huống nào vẫn hƣớng về cuộc đời, gắn bó và hữu ích
cho đời” [24, tr.562-563]. Lê Trí Viễn cũng khẳng định: cây tùng “có sự phân
thân làm hai để tự mình ngẫm nghĩ về mình, tự mình vừa là chủ thể, vừa là
khách thể để tự mình trò chuyện. Hay đúng hơn, cái mình ngày nay tâm tình
với cái mình về trƣớc” [24, tr.254]... Lã Nhâm Thìn khi phân tích ba bài thơ
Tùng của Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định: “Viết bài Tùng, Nguyễn Trãi đã
khai thác đề tài thiên nhiên để thể hiện chủ đề phẩm chất kẻ sĩ quân tử đồng
thời gửi gắm những tâm sự có tính chất cá nhân của tác giả” [29, tr.161]. Nếu
ở bài Tùng, các tác giả đều nhận thấy sự hóa thân, khẳng định bản thân của
Nguyễn Trãi, thì ở bài Cây chuối việc tìm ra nghĩa ẩn từ bút pháp vịnh của
Nguyễn Trãi có phong phú hơn. Lã Nhâm Thìn nhận thấy bài thơ là “biểu
tƣợng của sức trẻ và tình xuân” [29, tr.155]. Nguyễn Đình Chú cũng khẳng
định: “Bài thơ nói về cây chuối “tự bén hơi xuân” nhƣng qua đó còn là nói về
sức xuân, tình xuân, thậm chí còn là tình yêu nam nữ” [24, tr.570]. Khác với
Lã Nhâm Thìn và Nguyễn Đình Chú, Phạm Tú Châu lại chứng minh rằng bài
thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi mang ý vị Thiền [24, tr.573]... Các bài thơ
chữ Hán: Côn Sơn ca, Dục Thúy sơn trong Ức Trai thi tập cũng có nhiều lời
phẩm bình qua sự cảm nhận từ bút pháp vịnh của nhiều tác giả.
Bên cạnh việc nghiên cứu, phân tích các bài thơ cụ thể, nhiều công
trình nghiên cứu khái quát về các phƣơng diện khác nhau của thơ ca Nguyễn
Trãi cũng đã ít nhiều nói đến vấn đề vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm
thi tập. Chẳng hạn: Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán đời Trần (Trần Thị Băng
Thanh), Anh hùng và cảm quan anh hùng qua thơ văn Nguyễn Trãi (Bùi Duy
Tân), Mượn đá để ngồi (Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng), Quốc âm thi tập (Phạm
Thế Ngũ), Nguyễn Trãi và đề tài thiên nhiên trong dòng văn học yêu nước
Việt Nam (Đặng Thanh Lê), Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi (Mai
4
Trân), Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Nguyễn Hữu Sơn),
Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Trần Đình Sử) [24]... Trần
Thị Băng Thanh viết: “Nguyễn Trãi miêu tả thiên nhiên cũng chính là để ca
ngợi, tƣởng nhớ các bậc anh hùng hào kiệt của đất nƣớc; để suy tƣ về những
vấn đề lớn lao của cuộc sống dân tộc; để phát biểu những liên tƣởng mang ý
nghĩa triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên, giữa cái đã qua,
đang qua và sắp tới... quan hải, Bạch Đằng hải khẩu, Long Đại sơn, v.v... là
những bài thơ nhƣ vậy” [24, tr.426-427].
Về Quốc âm thi tập, Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Có nhiều bài trong
Quốc âm thi tập đề tài là vịnh cảnh vật, cỏ cây, chim muông” nhằm thể hiện
“một quan niệm thƣởng cảnh”, “cái thẩm mĩ quan của tác giả” [24, tr.645].
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu chƣa khái quát về thơ vịnh của Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về thơ vịnh nhƣ luận
án Tiến sĩ Thơ vịnh vật đời Đường của Đinh Thị Hƣơng [9], luận văn tốt
nghiệp của Đại học Vinh với đề tài: So sánh thơ vịnh vật trong Hồng Đức
quốc âm thi tập và thơ vịnh vật Hồ Xuân Hương [31], khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Thị Hồng: Vịnh sử của Nguyễn Khuyến [8], khóa luận tốt nghiệp:
Các “nhân vật lịch sử” trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du của Phạm Thị
Thùy [34],… Các công trình này có so sánh với một khía cạnh nào đó về thơ
vịnh của Nguyễn Trãi.
Nói chung, thơ vịnh của Nguyễn Trãi đã đƣợc bàn tới nhiều song chƣa
toàn diện, hệ thống. Đi sâu vào đề tài nghiên cứu này, kế thừa những ý kiến
đánh giá, những công trình nghiên cứu, phê bình, tiểu luận của những ngƣời
đi trƣớc, coi đó là bƣớc khám phá ban đầu có tính định hƣớng, chúng tôi
mạnh dạn đi vào đề tài “Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi” với hi vọng tìm hiểu các đề tài vịnh trong thơ chữ Hán và
chữ Nôm của Nguyễn Trãi một cách toàn diện, hệ thống, đồng thời thấy đƣợc
5
sự khác nhau của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Từ đó
hiểu thêm về tài năng, vẻ đẹp nhân cách trong con ngƣời của “Ức Trai tâm
thượng quang khuê tảo” (Lê Thánh Tông).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm tòi, phát hiện… những đề tài vịnh trong
Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi từ đó khẳng định giá trị
nội dung, nghệ thuật trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi; so sánh thơ vịnh trong
Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập. Qua đó, có cái nhìn sâu sắc về con ngƣời,
tƣ tƣởng, tình cảm, thái độ và tài năng của nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ chỉ ra những đề tài vịnh, khẳng định giá trị nội
dung, nghệ thuật của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi. Luận văn đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Trãi
thông qua các yếu tố vịnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Để giải quyết những vấn đề mà bài viết đặt ra,
chúng tôi chỉ nghiên cứu hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi là
Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Trong đó tập trung vào những bài thơ
vịnh trong hai tập thơ này.
- Phạm vi tƣ liệu: Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Viện sử học, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu đề tài, khảo sát và chọn học liệu tiêu biểu từ các
công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi, ngƣời viết vận dụng những phƣơng
pháp sau để giải quyết vấn đề:
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp lịch sử
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
- Phƣơng pháp phân tích- tổng hợp
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học
- Phƣơng pháp so sánh
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi,
luận văn bàn về thơ vịnh trong cuốn Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập.
- Có cái nhìn toàn diện hệ thống về thơ vịnh trong thơ Nguyễn Trãi.
- Chỉ rõ đặc điểm vịnh và so sánh thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức
Trai thi tập. Luận văn khẳng định đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi trong nền
văn học Việt Nam trung đại, đặc biệt về những đề tài vịnh của Nguyễn Trãi.
- Làm cơ sở nghiên cứu, học tập, giảng dạy về thơ văn Nguyễn Trãi.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề chung có liên quan đến đề tài
Chƣơng 2. Nội dung thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
Chƣơng 3. Hình thức nghệ thuật thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc
âm thi tập
7
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái lƣợc về thơ vịnh
1.1.1. Khái niệm thơ vịnh
Vịnh là một cách làm thơ của ngƣời xƣa.Trong chữ vịnh 咏 có bộ khẩu
(trong chữ phồn thể của chữ vịnh, bộ khẩu đƣợc thay bằng bộ ngôn 詠) ý nói
vịnh gắn liền với việc ca, ngâm, đọc.
Có nhiều loại thơ vịnh nhƣ: thơ vịnh vật, thơ vịnh cảnh, thơ vịnh sử,…
Trong chữ Hán, vịnh có hai nét nghĩa chính là ngâm, vịnh, hát hoặc dùng thơ
từ để miêu tả bày tỏ tâm tƣ, tình cảm.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vịnh là làm thơ về phong cảnh hoặc sự vật
trước mắt (một lối thơ phổ biến thời trước)” [22, tr.914].
Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích vịnh là ngâm thơ, bài thơ
có ngụ ý [1, tr.518].
Từ điển Bách khoa định nghĩa: Vịnh là làm thơ với cảm hứng hưng
phấn nhằm luận bàn hoặc miêu tả cảnh hoặc người. Ngâm phong vịnh
nguyệt, tức làm thơ về gió trăng lúc nhàn tản. Vịnh còn là một thể loại thơ
bàn về nhân vật lịch sử (vịnh sử) hoặc miêu tả các cảnh hay sự vật v..v.
Nhƣ vậy, vịnh vốn là phạm trù của thơ. Chúng tôi khảo sát trong lịch sử
văn học thì thấy vịnh thƣờng chỉ có ở thơ chứ không xuất hiện trong các thể
loại văn học khác. Ngƣời đời sau trong các tài liệu nghiên cứu vẫn thƣờng
dùng từ “vịnh ngâm”, “ca vịnh” để chỉ thơ nói chung. Vịnh cũng gắn liền với
việc miêu tả nhƣng đích hƣớng tới không phải là tả. Vịnh thƣờng bắt đầu
bằng sự miêu tả. Tuy nhiên, tả là nêu lên các đặc điểm của sự vật hiện tƣợng
để ngƣời đọc, ngƣời nghe hình dung đƣợc sự vật hiện tƣợng nhƣ nó đang tồn
tại trƣớc mắt.
8
Ví dụ, Nguyễn Du tả Tú Bà:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao.
Tả Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao…
Còn vịnh là mƣợn đặc điểm của sự vật hiện tƣợng để kí thác vào đó
một nội dung, ý nghĩa ở ngoài sự vật hiện tƣợng, do sự vật hiện tƣợng gợi lên.
Ví dụ bài thơ Tiến sĩ giấy, Nguyễn Khuyến đã mƣợn hình ông tiến sĩ
làm bằng giấy vốn là thứ đồ chơi quen thuộc của trẻ con thời xƣa để bộc lộ
cái nhìn về loại ngƣời hữu danh vô thực:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Nhƣ vậy, trong vịnh có tả, nhƣng tả không phải là đích mà tác giả
hƣớng tới. Mục đích của tả là gợi lên đặc điểm của sự vật hiện tƣợng. Còn
mục đích của vịnh là một khía cạnh tinh thần tác giả muốn gửi gắm. Cho nên
vịnh luôn có tính tƣợng trƣng.
Với các khái niệm, các định nghĩa về thuật ngữ “thơ vịnh” nhƣ trên, có
thể thấy, thơ vịnh là loại thơ lấy sự vật, sự việc, con ngƣời là trung tâm tác
phẩm, thông qua việc miêu tả đối tƣợng ở những mặt, phƣơng diện nào đó để
thể hiện tâm tƣ, tình cảm, hoài bão, chí hƣớng, tƣ tƣởng của nhà thơ.
9
1.1.2. Nguồn gốc và đặc trƣng của thơ vịnh
Thơ vịnh có nguồn gốc từ thơ ca Trung Quốc. Trƣớc khi có mặt ở Việt
Nam, thơ vịnh đã có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Đối tƣợng của thơ vịnh là
thế giới tự nhiên, những sự vật, những con ngƣời hoặc những sự kiện cả trong
lịch sử hay đời sống hằng ngày. Vì đối tƣợng rộng nhƣ vậy nên thơ vịnh
chiếm số lƣợng lớn trong thơ ca trung đại Việt Nam nói chung, thơ Nguyễn
Trãi nói riêng.
Thơ vịnh khác thơ ca bình thƣờng, nó luôn biểu lộ thái độ, tình cảm của
nguời làm thơ trƣớc đối tƣợng đƣợc đem ra làm khách thể. Có thể nói, thơ
vịnh là những áng văn chƣơng nhằm xác định giá trị của đối tƣợng dƣới góc
độ của một lý tuởng nào đó.
Nguời làm thơ vịnh có thể bộc lộ thái độ khen chê, tán thƣởng hay phê
phán, tự hào, khâm phục…trƣớc đối tƣợng đƣợc vịnh tùy theo góc nhìn nhận.
Có thể từ góc nhìn đạo đức, góc nhìn dân tộc.
Thơ vịnh có đối tƣợng là các sự vật, thiên nhiên, con ngƣời, thời thế,...
Nó có thể là tùng trúc cúc mai, long ly quy phƣợng, hay đóa hồng, con kiến,
con cóc, con muỗi, gió, mƣa, sấm, chớp, trăng, sao... Ngƣời ta thƣờng căn cứ,
dựa vào những đặc điểm, đặc tính tự nhiên nổi bật, dễ nhận thấy đƣợc đông
đảo mọi ngƣời trong cộng đồng nào đó thừa nhận, nhân đặc điểm đó ngƣời ta
gửi gắm một triết lý, tƣ tƣởng, tình cảm nào đó.
Thơ vịnh lấy đặc tính nổi bật của đối tƣợng đƣợc vịnh chỉ là chỗ dựa, là
phƣơng tiện, là một loại phù hiệu để thể hiện cho một tinh thần của chủ thể
thẩm mỹ - tức ngƣời vịnh - thi nhân. Những đặc tính của đối tƣợng là cái cớ
không thể thiếu để triển khai tƣ tƣởng, bày tỏ tình cảm, triết lý. Do vậy có thể
hiểu: Thơ vịnh dùng sự vật, sự việc, con người,… làm đối tượng trung tâm
của tác phẩm để thông qua những đặc điểm, tính chất, hành trạng, việc
làm,… của đối tượng mà gửi gắm nỗi niềm. Thơ vịnh phản ánh tâm trạng,
mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng cũng đi theo thị hiếu thẩm mỹ của thời đại.
10
Do chỗ mƣợn đối tƣợng là tự nhiên, vạn vật, con ngƣời,…để nói chí,
để triết lý, trữ tình, thơ vịnh một cách tự nhiên luôn hƣớng tới kiến tạo những
tầng thứ ngữ nghĩa ngoài ngôn từ. Tỷ hứng đƣợc huy động làm thủ pháp nghệ
thuật tiêu biểu của loại hình thơ đề vịnh.
1.2. Khái quát về thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam
Thơ vịnh là loại tác phẩm có số lƣợng khá lớn trong văn học trung đại
Việt Nam. Nhiều nhà thơ trung đại sáng tác thơ vịnh. Thi nhân xƣa lấy các đề
tài sự vật, con ngƣời, thiên nhiên, thời thế,…làm đề tài ngâm vịnh, có khi chỉ
vịnh chơi có khi để gửi gắm tƣ tƣởng, tình cảm kín đáo của mình.
Ở Việt Nam, hầu hết các tác giả văn học trung đại nổi bật nhƣ Nguyễn
Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,
Nguyễn Công Trứ, Cao Ba Quát, Nguyễn Khuyến đều có loại thơ này.
Thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến
thế kỉ XIV có trong sáng tác của nhiều nhà thơ. Có thể kể đến các tên tuổi nhƣ
Hứa Đại Xá (1119 -1180) là ngƣời đã từng theo học thiền sƣ Đạo Huệ, đƣợc
vua Lý Anh Tông rất tin dùng. Bài thơ Thạch mã (Ngựa đá) của ông là bài thơ
vịnh vật. Trần Tung, tức Tuệ Trung Thƣợng sĩ (1230 – 1291) có bài Giản để
tùng (Cây tùng ở đáy khe). Lý Đạo Tái (1251 -1334) cũng đã có các bài thơ
vịnh vật nhƣ: Cúc hoa (Hoa cúc), Thạch thất (Nhà đá)… Nhìn chung, giai
đoạn này thơ vịnh chƣa phong phú về đề tài nhƣ ở các giai đoạn sau, nhƣng
cũng đã tạo nên phần nào diện mạo của mình để rồi ở những chặng đƣờng
tiếp theo sẽ khẳng định đƣợc khả năng bao quát đời sống bằng sự mở rộng đề
tài, đối tƣợng phản ánh.
Thành tựu của thơ vịnh thế kỉ XV phải kể đến sự xuất hiện của đại thi
hào Nguyễn Trãi với nhiều bài thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi
tập. Bên cạnh đó có thể kể đến cây bút tiêu biểu nhƣ Lê Thánh Tông với
Hồng Đức quốc âm thi tập,...
11
Đến giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, thành tựu thơ vịnh gắn
với tên tuổi của các nhà thơ lớn nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm (tác giả tiêu biểu
thế kỷ XVI), ngoài ra còn có thể kể đến nhƣ Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Hà
Nhậm Đại, Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, Lê Công Triều,…
Giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX đƣợc coi là
giai đoạn đạt đƣợc nhiều thành tựu rực rỡ nhất với những tên tuổi chói sáng
nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,... Nguyễn Du viết rất nhiều và rất thành
công các bài thơ vịnh. Trong tập thơ Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục,
Nam trung tạp ngâm có rất nhiều bài là thơ vịnh con ngƣời, vịnh vật xuất sắc.
Có thể nói, mảng thơ vịnh của Nguyễn Du đã đánh dấu bƣớc phát triển của
thơ vịnh trong giai đoạn này, đã góp phần thể hiện rõ thêm tƣ tƣởng, quan
niệm về lẽ sống ở đời của nhà thơ. Hồ Xuân Hƣơng là một phụ nữ đầy cá
tính, tài năng và đầy sức sống mãnh liệt. Thơ của bà cũng nhƣ chính con
ngƣời bà, luôn căng tràn sức sống, luôn thể hiện cái khao khát đến bỏng rát về
hạnh phúc. Với khoảng hơn 40 bài thơ Nôm Đƣờng luật để lại, Xuân Hƣơng
có đến 12 bài thơ vịnh vật, vịnh thiên nhiên nhƣ bài thơ Đèo Ba Dọi, Cái
quạt, Quả mít,... Mảng thơ Nôm vịnh của Hồ Xuân Hƣơng rất độc đáo, đặc
sắc từ nội dung đến nghệ thuật thể hiện.
Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX là thời kỳ đất nƣớc ta phải đƣơng đầu với
cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Tuy nhiên, thơ vịnh thời kỳ này đƣợc tiếp
tục với các nhân vật tên tuổi nhƣ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn
Khuyến, Tú Xƣơng,...
Qua sơ lƣợc về thơ vịnh Việt Nam thời trung đại chúng tôi nhận thấy
đây là một loại thơ ra đời từ rất sớm, đƣợc nhiều nhà thơ sử dụng và phát triển
mạnh trong nền văn học trung đại Việt Nam. Thông qua sự vân động, phát
triển của thơ vịnh, có thể thấy đƣợc phần nào sự vận động phát triển của văn
học dân tộc.
12
1.3. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
1.3.1. Nguyễn Trãi với Ức Trai thi tập
Ức Trai thi tập là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Trãi, cũng là tập
thơ hay của dòng thơ chữ Hán Việt Nam. Toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi còn lại cho chúng ta khoảng 105 bài, có thể chia thành bốn giai đoạn
sáng tác nhƣ: Thơ làm khi chƣa thành công; thơ làm sau khi thành công và
làm quan ở triều; thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ; làm thơ trong thời ở ẩn
tại Côn Sơn; thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc.
Đối tƣợng vịnh trong Ức Trai thi tập phong phú. Trong đó, phần lớn là
những bài thơ vịnh thiên nhiên, có thể là những danh lam thắng cảnh đẹp, kì vĩ
của đất nƣớc nhƣ núi Dục Thúy, chùa Đông Sơn, cửa Thần Đầu, núi Long Đại,
Côn Sơn, chùa Hoa Yên, núi Yên Tử,... Vịnh con ngƣời là những bậc anh hùng
nhƣ Chu Công Đán, Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh, ông Từ Trọng Phủ, Tô Đông
Pha,... Những nghệ sĩ lớn nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tử Kỳ,... Vịnh vật chủ
yếu là những đồ vật cao quý nhƣ cây kiếm, bức tranh,... Qua mảng thơ đề vịnh
trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi thể hiện những suy tƣ, triết lí về cuộc đời,
những chiêm nghiệm về thời cuộc, về nỗi đau của bản thân.
Mảng thơ vịnh trong Ức Trai thi tập, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Trãi
có một niềm tự hào sâu sắc về thiên nhiên tƣơi đẹp, kì vĩ; về lịch sử gìn giữ
nền độc lập của dân tộc và đất nƣớc. Luận bàn về sự vật, con ngƣời để soi
chiếu vào bản thân, thấy đƣợc sự tƣơng đồng giữa sự vật, con ngƣời đó với
chính mình. Những bài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập cho thấy một Ức Trai
có công lao lớn đối với dân tộc đất nƣớc nhƣng chịu nhiều đau thƣơng.
Tóm lại, thơ vịnh trong Ức Trai thi tập chiếm vị trí quan trọng trong
toàn bộ tập thơ. Thông qua mảng thơ vịnh bằng chữ Hán, Nguyễn Trãi kí thác
tâm sự thầm kín của mình về thời thế, bản thân và cuộc đời. Chúng ta thấy
đƣợc một Nguyễn Trãi đầy suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí.
13
1.3.2. Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập
Nguyễn Trãi đƣợc xem nhƣ nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm,
đồng thời cũng là ngƣời sáng tác thơ Nôm Đƣờng luật có số lƣợng nhiều bậc
nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Xem xét giá trị tự thân cũng nhƣ vai trò, vị
trí thơ đề vịnh của tập thơ trong toàn cảnh nền văn học truyền thống, Quốc âm
thi tập gợi mở nhiều vấn đề lý thú về nội dung và nghệ thuật.
Quốc âm thi tập có tất cả khoảng 254 bài, chia làm 4 mục: Vô đề (192
bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Vô
đề chia ra: Ngôn chí 21 bài; Mạn thuật 14 bài; Trần tình 9 bài; Thuật hứng 25
bài; Tự thán 41 bài; Tự thuật 11 bài; Bảo kính cảnh giới (Gƣơng báu răn đe)
61 bài; và nhiều bài có tựa riêng v.v... nghĩa là đề tài rất phong phú, ý tứ rất
dồi dào.
Nếu ỨC Trai thi tập vịnh thiên nhiên chủ yếu là các danh lam thắng
cảnh đẹp, kì vĩ của đất nƣớc thì Quốc âm thi tập vịnh thiên nhiên là các cỏ
cây hoa lá, cim thú, rùng suối nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, sen, cây mía, cây
đa,…Vịnh con vật nhƣ mèo, con lợn, con trâu, chim nhạn, chim hạc,… Qua
đó, Nguyễn Trãi gửi gắm tâm sự của một ngƣời nặng lòng với giang sơn xã
tắc đồng thời cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên đất nƣớc.
Khác với thơ chữ Hán, hình ảnh đƣợc vịnh trong Quốc âm thi tập có
thể là những hình ảnh ƣớc lệ tƣợng trƣng của thơ ca cổ điển nhƣ tùng cúc trúc
mai, chim hạc, chim nhạn,… cũng có những hình ảnh gần gũi, bình dị, mộc
mạc nhƣ cây chuối, hoa dâm bụt, con mèo, con trâu, con lợn,…
Trong Ức Trai thi tập, những bài thơ đề vịnh Nguyễn Trãi sử dụng
nhiều nghệ thuật cổ nhƣ sử dụng điển, thể thơ Đƣờng luật. Thơ vịnh trong
Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi lại sử dụng nhiều thể thơ thất ngôn xen lục
ngôn, hình ảnh, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, dân dã.
14
Nhìn chung, có thể nói thơ đề vịnh trong Quốc âm thi tập chiếm vị trí
lớn trong toàn bộ tập thơ với đề tài vịnh phong phú, sáng tạo tƣơng xứng với
tầm vóc, giá trị và vị trí tập thơ trong tiến trình phát triển của thơ vịnh trong
nền văn học dân tộc. Thông qua mảng thơ vịnh bằng chữ Nôm, xuất hiện một
Nguyễn Trãi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống tha thiết.
Vị trí của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập rất quan
trọng, đề tài vịnh phong phú, chiếm một dung lƣợng lớn ở cả hai tập thơ.
Trong đó Ức Trai thi tập thƣờng vịnh những hình ảnh thiên nhiên hùng tráng,
kì vĩ. Vịnh con ngƣời là những bậc anh hùng có khí phách với tấm lòng suy tƣ
sâu lắng, những chiêm nghiệm về đời sống. Quốc âm thi tập chủ yếu vịnh các
loại hoa quả thảo mộc nhƣ tùng, cúc, trúc, mai,…biểu tƣợng cho ngƣời quân
tử hay vịnh vật cũng là những vật dân dã đời thƣờng gắn với cuộc sống ẩn dật
của thi nhân qua đó thể hiện tấm lòng của một nhà Nho hành đạo nhƣng lại
thất thời.
* Tiểu kết chƣơng 1
Nhƣ vậy, thơ vịnh là loại thơ lấy sự vật, sự việc, con ngƣời làm trung tâm
tác phẩm, thông qua việc miêu tả đối tƣợng ở những mặt, phƣơng diện nào đó
để thể hiện tâm tƣ, tình cảm, hoài bão, chí hƣớng, tƣ tƣởng của nhà thơ. Thơ
vịnh có lịch sử lâu dài từ thơ ca Trung Quốc. Tuy nhiên, ở Việt Nam từ thế kỉ
X dến thế kỉ XIV thơ vịnh chƣa thực sự phong phú. Từ thế kỉ XV trở đi, thơ
vịnh bắt đầu phát triển mạnh. Nguyễn Trãi là tác giả có thơ vịnh lớn nhất, tiêu
biểu nhất, số lƣợng thơ lớn, đề tài phong phú. Ông là tác giả quan trọng trên
tiến trình vận động, phát triển của dòng thơ vịnh trong văn học trung đại Việt
Nam. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập có vị trí quan trọng,
đề tài vịnh phong phú, chiếm một dung lƣợng lớn ở cả hai tập thơ.
15
Chƣơng 2
NỘI DUNG THƠ VỊNH
TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP
2.1. Những tƣơng đồng về đề tài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc
âm thi tập
2.1.1. Vịnh thiên nhiên
Đây là đề tài vịnh chính của thơ ca trung đại. Riêng với Nguyễn Trãi,
ông có nhiều chùm thơ vịnh thiên nhiên nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, sen,…trong
thơ Nôm và các danh lam thắng cảnh đất nƣớc trong thơ chữ Hán.
Xét về đối tƣợng miêu tả, thơ vịnh thiên nhiên là loại thơ lấy thế giới tự
nhiên làm đối tƣợng miêu tả, thƣờng là các hiện tƣợng tự nhiên, cỏ cây hoa lá,
các danh lam thắng cảnh,… Vì đối tƣợng rộng nhƣ vậy nên thơ vịnh thiên
nhiên chiếm số lƣợng rất lớn trong thi ca trung đại Việt Nam nói chung và thi
ca Nguyễn Trãi nói riêng.
Thơ vịnh thiên nhiên của văn học Việt Nam thƣờng có những bài vịnh
cỏ cây hoa lá, vịnh danh lam thắng cảnh, vịnh các hiện tƣợng tự nhiên,… Ở
Nguyễn Trãi thơ vịnh thiên nhiên cỏ cây hoa lá thƣờng đƣợc viết bằng chữ
Nôm, vịnh danh lam thắng cảnh thƣờng đƣợc viết bằng chữ Hán. Dƣới đây,
chúng tôi liệt kê thơ vịnh thiên nhiên của Nguyễn Trãi ở cả tập thơ Ức Trai
thi tập và Quốc âm thi tập và thống kê các kiểu loại thiên nhiên đƣợc đề vịnh
qua những sáng tác đó.
Thống kê Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy thơ vịnh
thiên nhiên chiếm phần lớn trong sáng tác của Nguyễn Trãi. Tổng hai tập thơ
có 76/359 bài thơ là vịnh thiên nhiên (chiếm 21,2%). Trong đó tập thơ Ức
Trai thi tập có 29/76 bài (chiếm 38,2%), Quốc âm thi tập có 47/76 bài (chiếm
61,8%). Điều này cho thấy nhà thơ hƣớng ngòi bút của mình nhiều về thiên
nhiên.
16
Ức Trai thi tập thiên nhiên đƣợc vịnh chủ yếu là các danh lam thắng
cảnh, sơn xuyên nhạc thủy, các hiện tƣợng tự nhiên. Quốc âm thi tập chủ yếu
là thơ vịnh các hoa quả thảo mộc.
Trong 29 bài thơ vịnh thiên nhiên của tập thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi
chủ yếu vịnh các danh lam thắng cảnh nhƣ Vân Đồn, Bạch Đằng, Thần Phù,
Chí Linh, Hàm Tử, Chƣơng Dƣơng,…có tới 26/29 bài (chiếm 89,7%), vịnh
các hiện tƣợng tự nhiên nhƣ phong, vũ, nguyệt, tuyết, mây, trăng,… có 3/29
bài (chiếm 10,3%).
Trong 47 bài thơ vịnh thiên nhiên của tập thơ Quốc âm thi tập, Nguyễn
Trãi chủ yếu vịnh cỏ cây hoa lá nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, liên, đào, ba tiêu,
mẫu đơn,…có tới 34/47 bài (chiếm 72,3%), vịnh các hiện tƣợng tự nhiên
13/47 bài (chiếm 27,7%).
Với truyền thống thi ca trung đại “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Hồ
Chí Minh), Nguyễn Trãi dành một số lƣợng khá lớn thơ ca viết về thiên nhiên.
Tìm hiểu kho tàng thơ ca của Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế, chúng ta thấy
nét đặc sắc trong những bài thơ của ông, đặc biệt là những bài về thiên nhiên.
2.1.1.1. Thơ vịnh cỏ cây, hoa lá, chim muông…
Một mảng đề tài lớn trong đề mục vịnh thiên nhiên của Nguyễn Trãi là
những bài thơ vịnh cỏ cây hoa lá, chim thú, rừng suối… Mảng đề vịnh này
chủ yếu xuất hiện trong thơ Nôm, không thấy xuất hiện trong thơ chữ Hán.
Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của Nguyễn Trãi, thể
hiện tâm tƣ của nhà thơ trong những hoàn cảnh khác nhau, là bản trƣờng ca
ngàn đời của ngƣời anh hùng, của một nhà tƣ tƣởng, nhà văn hóa lớn.
Vịnh thiên nhiên là tùng cúc trúc mai, Nguyễn Trãi từ những đặc điểm
của loài để nói tới những phẩm chất tốt đẹp, đáng khâm phục, ngợi ca của
ngƣời quân tử. Những câu thơ Nguyễn Trãi viết trong bài thơ Tùng nhƣ sự
khẳng định nhân cách của chính ông, một con ngƣời cả đời canh cánh nỗi
17
lòng “ưu quốc ái dân”. Nguyễn Trãi tìm về thiên nhiên, để lại hàng trăm bài
thơ chữ Hán và chữ Nôm, hầu nhƣ bài thơ nào cũng toát lên vẻ đẹp lồng lộng
thanh cao và cứng cỏi nhƣ dáng tùng vững chãi giữa tuyết sƣơng, soi chiếu
tâm tƣ của chính nhà thơ. Đây đƣợc xem là “bài thơ tâm huyết về cuộc đời, về
sự nghiệp, về niềm tin được cống hiến trọn đời cho con người và đất nước”
[24, tr.559]:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách?
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
Đống lương tài có mấy bằng mày ?
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.
Cội rễ bền dời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày,
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết,
Dành còn để trợ dân này.
(Tùng, bài 1,2,3)
Đây là ba bài thơ vịnh vật liên hoàn, câu đầu bài sau lặp lại câu cuối
hoặc một phần câu cuối của bài trƣớc. Do thống nhất trong một chủ đề mà ta
có thể xem nhƣ ba khổ của một bài thơ.
Ba bài thơ miêu tả đặc điểm và tính năng của cây tùng. Đây là một loại
cây không bị ngoại cảnh tác động. Mặc dù vào thu, theo quy luật tự nhiên,
mọi loại cây đều bị biến dạng, trở nên lạ lùng, riêng cây tùng ngƣợc lại quy
18
luật ấy, cứ tiếp tục xanh tƣơi, bất chấp cái rét của “ba đông”. Xanh tƣơi không
phải để làm cảnh chốn lâm tuyền mà để làm rƣờng cột (đống lƣơng), có tác
dụng lớn (cả dùng). Tài lƣơng đống của nó mấy cây bì kịp. Bao phen nó đã
chống đỡ một cách mạnh mẽ cho những ngôi nhà lớn: Nhà cả đòi phen chống
khỏe thay. Có đƣợc công dụng ấy đâu phải một sớm một chiều mà rễ con, rễ
cái phải nhiều năm trời lan rộng ăn sâu cho cội cắm chặt vào đất ngày một
bền chắc, gió bão có lay dời cũng chẳng mảy may lay động, tuyết sƣơng có
cào xé bao ngày cũng chẳng hề chi. Nó vẫn sừng sững giữa trời. Nếu không
đƣợc dùng để chống đỡ nhà cả thì nó lại trở thành thứ thuốc cứu dân. Trong
nhựa cây tùng có chứa chất hổ phách, phục linh, những thứ thuốc quý đƣợc
hình thành trong khoảng thời gian trăm năm, ngàn năm:
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành còn để trợ dân này.
Điều làm cho những bài thơ vịnh này đƣợc đánh giá cao là bởi tầng
nghĩa ẩn sâu sau sự vật đƣợc miêu tả. Ấy là tâm sự thầm kín của Ức Trai.
Cuộc đời Nguyễn Trãi đã trải qua nhiều thăng trầm, thử thách nhƣng trong bất
kì hoàn cảnh nào ông cũng giữ trọn khí tiết: Tuyết sương thấy đã đặng nhiều
ngày. Cũng có khi tài năng phẩm chất của ông cũng không đƣợc mọi ngƣời
biết đến, phải về ở ẩn nhƣng lòng vẫn không thôi hy vọng sẽ có ngày đƣợc ra
giúp dân giúp nƣớc, ông giữ vững niềm tin: Tài đống lương cao ắt cả dùng.
Tùng là hình tƣợng của bậc đại trƣợng phu, có tài lƣơng đống, Trúc là
hình tƣợng kẻ sĩ quân tử, vƣợt lên những cám dỗ của cuộc sống. Ngƣời đời
quý trúc, ƣa trúc chính vì thế. Cây trúc xuất hiện trong những bài thơ Nôm
Nguyễn Trãi khá đa dạng, phong phú. Với trúc, Nguyễn Trãi thân mật, yêu
quý viết bằng những câu thơ mƣợt mà trìu mến:
Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,
Ưa mày vì bởi tiết mi thanh.
19
Đã từng có tiếng trong đời nữa,
Quân tử ai chẳng mảng danh?
(Trúc, bài 1)
Trong bài thơ đầu tiên của chùm thơ viết về trúc, Nguyễn Trãi đã nêu
bật đƣợc đặc điểm nổi bật của trúc: khí tiết thanh cao, tấm lòng trong sạch
không màng danh lợi, phú quý. Nguyễn Trãi ƣa trúc, quý trúc bởi tiết trúc
thanh, không chịu thả lỏng mình trong cám dỗ tầm thƣờng. Phẩm chất đó của
trúc cũng là vẻ đẹp của ngƣời quân tử dù lạc vào chốn phồn hoa đô hội, sống
giữa xa hoa phú quý, cũng giữ đƣợc khí tiết thanh cao của mình.
Đến bài thơ thứ hai của chùm thơ, Nguyễn Trãi lại ca ngợi sự cứng rắn,
sự rèn luyện của tiết trúc:
Danh quân tử, tiết nhiều ngày,
Bảo khách tri âm mới biết hay.
Huống lại nhưng nhưng chẳng bén tục,
Trượng phu tiết cứng khác người thay.
(Trúc, bài 2)
Ý tứ của bài thơ không ngớt lời ngợi ca khí chất hùng dũng, rắn rỏi của
trúc trƣớc phong ba cuộc đời. Nếu ở trên khí tiết thanh cao là danh quân tử
của trúc, đến đây tiết cứng lại là phẩm chất trƣợng phu của trúc. Đó không chỉ
là sự vững chắc bên ngoài mà là sự vững vàng rắn rỏi, là nghị lực phi thƣờng
ở nội tâm bên trong, ở rèn luyện đạo đức của mình, vƣợt hết những cám dỗ
bình thƣờng của cuộc sống.
Cây đa già miêu tả một cây đa già đã tìm cho mình đƣợc một chỗ
dƣỡng thân giữa chốn lâm tuyền, cứ mỗi lần xuân đến lại có lộc mới xanh
tƣơi, cũng nhƣ chủ thể trữ tình, mỗi lần xuân đến là thấy vui. Tuy gốc đa
không dùng làm rƣờng cột đƣợc nhƣng những tán lá của nó đã làm đƣợc
những việc hữu ích là tỏa bóng cho dân tránh nắng:
20
Tuy đà chửa có tài lương đống,
Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.
(Cây đa già)
Hai câu thơ nhằm ngụ ý tuy tác giả không có tài lƣơng đống nhƣng
cũng đã làm đƣợc việc cho dân nhờ.
Một bông cúc tự nhiên thƣờng nở vào mùa thu, đúng vào thời tiết các
loài không thể nở. Đặc tính tự nhiên này của hoa cúc là nguồn gợi tứ cho thi
nhân, là chất liệu ẩn dụ cho những phẩm chất vƣợt trội của tinh thần ngƣời
quân tử. Hoa cúc nở vào mùa thu là sự hiện hữu sinh động cho sức mạnh tinh
thần, do kết quả của công phu rèn luyện. Nó thể hiện cốt cách vƣợt trội và đạo
đức thanh khiết. Đặc điểm tự nhiên này của bông cúc theo cách nhìn của nhà
nho, đƣợc nhân hóa làm biểu tƣợng cho sức mạnh tinh thần, đạo đức, sự ƣu
trội của riêng một nhóm nhỏ kẻ sĩ. Trong những bài thơ đề vịnh của nhà nho
nói chung, bông cúc hoàn toàn hiện diện với mục đích ký thác tỷ dụ nhƣ vậy:
Nào hoa chẳng bén khí dầm hâm,
Có mấy bầu sương nhụy mới đâm.
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,
Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
(Cúc)
Nguyễn Trãi coi bông cúc nở trong sƣơng cũng giống nhƣ ngƣời quân
tử tu dƣỡng đạo đức, cốt cách, tinh thần. Khó khăn gian khổ là điều kiện rèn
luyện họ, là cơ hội để họ thể hiện những phẩm chất riêng có của mình. Cái
đẹp của hình tƣợng bông cúc trong thơ vịnh của nhà nho là cái đẹp của tinh
thần nội tại, của những phẩm chất đạo đức và tài năng vƣợt trội, của nhân vi,
của sự cố gắng, cái đẹp đó mang tính thực tại, thực hữu.
Có thể thấy, trong những câu thơ vịnh này, Nguyễn Trãi miêu tả tiết
cứng của trúc, cái thanh của mai không chỉ là để miêu tả vẻ đẹp của các loài
cây mà còn để đề cao vẻ đẹp của con ngƣời.
21
Nguyễn Trãi đã nhiều lần mƣợn hình ảnh hoa mai để ví với phẩm chất
trong sáng thanh khiết của ngƣời quân tử. Mùa xuân đến, hoa mai tốt tƣơi,
tràn đầy sức sống, đặc biệt đây là loài hoa có tiết sạch. Ông hết lời ca ngợi sức
sống, cốt cách tinh thần của mai nhằm khẳng định sự kiên trinh, bản lĩnh sống
vững vàng của ngƣời quân tử:
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,
Ưa mày vì tiết sạch hơn người.
(Mai, bài 1)
Ở hai câu đề của bài thơ Mai, Nguyễn Trãi đã cảm nhận vẻ đẹp của
cành mai giữa mùa đông:
Giữa mùa đông, trỗi thức xuân,
Nam chi nở, cực thanh tân.
(Thơ mai)
Trong hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã dùng rất nhiều động từ, tính từ
để miêu tả trạng thái của mai giữa mùa đông giá lạnh. Những cụm từ trỗi thức
xuân, cực thanh tân đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của mai trong những
ngày đông giá. Cành mai vẫn nở, vẫn toát lên vẻ thanh tân trong thời tiết khắc
nghiệt. Đó chính là một biểu tƣợng đẹp cho sự kiên nghị của ngƣời quân tử.
Đến hai câu luận ta bắt gặp cây mai già tƣợng trƣng cho ngƣời quân tử càng
già càng giữ trọn vẹn cốt cách, càng trải qua giá lạnh càng vững bền tinh thần:
Càng thuở già, càng cốt cách,
Một phen giá, một tinh thần.
(Thơ mai)
Bốn câu thơ lục ngôn xen lẫn trong bài thơ thất ngôn nhƣ nổi đậm, nhƣ
chạm khắc sắc nét giữa đất trời đông một cây mai rắn rỏi phong sƣơng vững
bền với thời gian. Và đó cũng chính là một biểu tƣợng đẹp cho ngƣời quân tử
luôn kiên trinh, vững vàng trƣớc mọi biến cố thăng trầm của cuộc sống. Hình
22
tƣợng bông mai kia có lẽ cũng chính là cuộc đời của Nguyễn Trãi. Cũng một
thời sống hào hứng với biết bao niềm tin yêu, hy vọng và đến khi tuổi già phải
lui về ẩn ở Côn Sơn, bạn cùng trăng gió, mặt đá rêu phơi, tiếng thông reo…
Hình ảnh cây mai tiêu biểu cho phẩm chất, cốt cách, sức sống của con ngƣời
và cũng là nỗi lòng đầy bi kịch của nhà thơ.
Nguyễn Trãi đã khai thác những phẩm chất tƣơng đồng của cây trúc,
cây mai để xây dựng biểu tƣợng đôi nhằm làm nổi bật khí phách, phẩm tiết
trong sạch, cứng cáp của ngƣời quân tử. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vƣơng đã khẳng định: “Những người bạn muôn thưở ở trong thơ các nhà nho
ẩn dật cũng được Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đông đủ trong thơ ông: mai,
tùng, cúc, trúc, trăng, gió, mây, núi. Tất cả những thứ đó là bạn - bằng những
phẩm chất của nó tương xứng với phẩm chất nào đó mà người quân tử muốn
đạt tới hay mang sẵn ở trong mình” [24, tr.753].
Nhƣ vậy, Nguyễn Trãi đã cảm nhận, nhìn thấy sự tƣơng đồng giữa vẻ
đẹp của cây trúc, cây mai với những vẻ đẹp, phẩm cách của con ngƣời. Trúc
mai từ những loài cây quen thuộc, tƣơi đẹp trong cuộc sống đã trở thành
những biểu tƣợng cho khí cốt con ngƣời. Nếu trúc mai trong ca dao là biểu
tƣợng cho thôn nữ xinh xắn, thanh thoát, mềm mại thì trúc mai trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi lại là biểu tƣợng cho phẩm cách, khí tiết của ngƣời quân tử.
Biểu tƣợng trúc mai xuất hiện trong thơ Nôm Nguyễn Trãi trƣớc hết đã
thể hiện đƣợc vẻ đẹp nhân cách, lý tƣởng của một bậc ẩn sĩ. Nguyễn Trãi luôn
ôm ấp lý tƣởng phò vua giúp nƣớc làm nên nghiệp lớn. Song, lý tƣởng ấy
không phải nhằm mục đích bon chen đến chốn cửa quyền, tham lấy chút danh
lợi cho bản thân, mà là để thực hiện giấc mộng kinh bang tế thế của bậc quân
tử. Đƣợc thời thì ra làm quan (xuất), đem cái tài để phò vua bình trị thiên hạ,
khi lý tƣởng không thực hiện đƣợc thì thôi làm quan, lui về ở ẩn (xử). Để tu
thân, Nguyễn Trãi rút lui khỏi chốn quan trƣờng, tìm về với cảnh điền viên,
xa lánh vòng danh lợi, sống cuộc đời trong sạch của một bậc ẩn sĩ.
23
Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh theo truyền thống với những biểu
tƣợng thiên nhiên gắn với ngƣời quân tử nhƣ “tùng trúc cúc mai” còn là
những loài hoa cỏ bình thƣờng nhƣng lại toả ra phẩm chất thi nhân của
Nguyễn Trãi tinh tế nhất. Bài thơ Cây chuối là một trong số đó:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Nhan đề của bài thơ rất mộc mạc: Cây chuối. Nhƣng quả thực bài thơ
lại hàm chứa một ý thơ sâu kín, nhiều tầng. Bài thơ nói về cây chuối “tự bén
hơi xuân” qua đó còn nói về sức xuân, tình xuân, thậm chí là tình yêu nam nữ.
Vì vịnh nên Ức Trai không sa đà vào chi tiết, vào dáng cây, thế cây,…
mà chỉ cốt ghi lấy ấn tƣợng. Cái đọt chuối màu xanh cẩm thạch đang đung
đƣa trƣớc làn gió xuân ngầm ý là cho sức sống, sức xuân. Nhƣ một cô gái biết
mình là đẹp, đang có mối tình đẹp, cây chuối dƣờng nhƣ e ấp, ngƣợng ngập vì
duyên may, vì có trong đời mình, trong lòng mình một hạnh phúc lớn lao,
trọn vẹn. Tâm trạng ấy đƣợc hình tƣợng lên bằng một bức tranh “tình thƣ”,
một cuốn thƣ còn niêm phong dán kín. Nguyến Trãi đã nhận ra dƣới góc độ
thơ mộng, duyên dáng, đa tình. Vừa giải bày, vừa gói gém những chuyện
động trời nhƣng đang ở dạng ẩn chìm, chƣa hé lộ. Kín đáo, tình tứ nhƣng
cũng biết bao phấp phỏng, hồi hộp, đợi chờ:
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Dĩ nhiên, tình lang của cây chỉ có thể là mùa xuân, là ngọn gió. Ngọn
gió ấy cũng mỏng manh lƣớt qua để làm cái việc mở bức “tình thƣ” còn
phong kín đó. Bức thƣ là thực, tình thƣ là ảo, có tƣởng nhƣ không. Đọc thƣ
tình, trƣớc hết thao tác mở thƣ phải nhẹ nhàng, phải trân trọng, “một tấm lòng
24
đối với một tấm lòng”, phải “gƣợng mở”. Bởi tình thƣ có khía cạnh vất chất,
nhƣng chủ yếu, quan trọng hơn là khía cạnh hồn ngƣời. Chính vì lẽ đó, trong
sự ứng xử không thể suồng sã, thô kệch. “Gió nơi đâu?”- câu hỏi tu từ ở đây
rất gợi, nhƣ một sự mời mọc, nhƣng cũng rất nhã: “gƣợng mở xem”. Bài thơ
có một giá trị rất đáng quý. Từ cây chuối nói tới sức xuân, nói tới xuân tình,
xuân ý, nói tới tình yêu của tuổi trẻ trong sự sống nhân bản của con ngƣời.
Nguyễn Trãi đã gây ấn tƣợng sâu sắc bởi sự cảm thụ của nhà thơ trƣớc
cái đẹp của sức xuân. Ngƣời con gái đẹp vốn là biểu tƣợng ấy, sức trẻ ấy toát
ra hƣơng thơm. Vẻ đẹp của cây chuối gặp xuân đƣợc chiêm ngƣỡng bởi một
tâm hồn thơ đa tình, nhạy cảm. Bài thơ cũng cho thấy một phần tâm hồn
phong phú của Nguyễn Trãi. Bên cạnh ngƣời anh hùng nhƣng Nguyễn Trãi
cũng rất đa tình, phong tình.
Chan hoà với thiên nhiên là vậy nhƣng Nguyễn Trãi hiếm có những
phút giây thanh thản trong lòng. Cuộc đời nhiều thăng trầm, nghi hoặc khiến
lúc nào ông cũng phải trăn trở, ngẫm nghĩ:
Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng,
Hoa thì hay héo, cỏ thuờng tươi.
(Tự thuật, bài 9)
Phượng những tiếc cao, muốn bay cao, tiếc rằng chƣa có cơ hội để
đƣợc bay cao. Nguyễn Trãi biết mình có tài “kinh bang tế thế”, nhƣng còn bị
đơn độc, bị kiềm tỏa, lại chƣa có binh lực, tài lực để thực hiện kế sách đánh
giặc, nên còn phải nấn ná chờ đợi cơ hội, đó là điều vô cùng đáng tiếc. Bọn
xâm lăng nhƣ cú diều, nhởn nhơ bay liệng (diều hãy liệng). Ví nhƣ ở đời Hoa
thường hay héo, cỏ thì tươi. Hoa quý hoa đẹp thì thƣờng hay héo sớm, còn
nhƣ loài cỏ dại chả có giá trị gì, lại thƣờng tốt tƣơi mơn mởn. Lẽ đời vô lý,
nhƣ cái sự héo sự tƣơi cứ nhơn nhơn mà xanh nhƣ cỏ, thật đáng buồn! Vịnh
thiên nhiên, Nguyễn Trãi muốn bộc bạnh nỗi lòng của mình về cuộc sống, về
25
thế sự. Thực chất đó là những trải nghiệm đau đớn trong cuộc đời Nguyễn
Trãi. Tất nhiên, viết những dòng thơ nhƣ thế, chắc chắn ông không khỏi ngậm
ngùi. Nhƣng đọc chúng, ngƣời ta có thể hình dung rõ nét sự thanh sạch trong
tâm hồn con ngƣời đã hết lòng vì dân vì nƣớc.
Nhƣ vậy, loại thơ vịnh cỏ cây, hoa lá, những bài vịnh các loài cây nhƣ
tùng cúc trúc mai… Nguyễn Trãi hiện lên trong thơ của mình đầy niềm kiêu
hãnh, tự tin về tài năng, khả năng nhằm khẳng định bản thân. Những bài vịnh
các loài cỏ cây hoa lá khác Nguyễn Trãi nhằm khái quát quy luật tự nhiên, xã
hội và những vấn đề của cuộc sống.
2.1.1.2. Thơ vịnh thiên nhiên là các danh lam thắng cảnh
Thơ chữ Hán ta bắt gặp nhiều địa danh gắn với quãng đời sôi nổi, với
hoài bão “chí quân trạch dân”, với tầm nhìn bao quát lịch sử, chiêm nghiệm
thời thế một cách cụ thể. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: “với cái nhìn
của một vị tướng, một anh hùng cứu quốc đã từng chiến thắng xâm lăng, của
một người có tinh thần dân tộc cao độ, Nguyễn Trãi đã vạch được những nét
bút hùng tráng khi miêu tả thiên nhiên của tổ quốc” [24, tr.799]. Thiên nhiên
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi mang “những nét bút hùng tráng kiểu sử
thi” [24, tr.799]. Đây là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Trãi với Trƣơng Hán Siêu,
Phạm Sƣ Mạnh, Trần Nhân Tông, Nguyễn Xƣởng và nhiều nhà thơ khác khi
đề vịnh địa danh lịch sử. Ở đây vừa có nét hào hùng của những di tích lịch sử
của Trƣơng Hán Siêu, Phạm Sƣ Mạnh, vừa có nét nghiêm trang mà khỏe
khoắn, siêu thoát mà chân chất của những ngôi chùa trên núi, cảnh chiều hôm
của Trần Nhân Tông, Huyền Quang, có cái thanh thoát đƣợm chút bâng
khuâng của nhóm thơ Bích Động, cái cảnh sông hồ bát ngát, sáng tƣơi của
Mạc Đĩnh Chi. Hào quang của những cuộc chiến thắng chống ngoại xâm đã
đem đến cho thơ văn Lí Trần, Lê sơ, cả những thời đại về sau những đƣờng
nét, màu sắc, âm thanh kì vĩ khi miêu tả Hàm Tử, Chƣơng Dƣơng, Chí Linh,
Thần Phù, Bạch Đằng,…
26
Cũng giống nhƣ nhiều thi nhân khác, nhiều khi Nguyễn Trãi vịnh thiên
nhiên cũng chính là để ca ngợi, tƣởng nhớ các bậc anh hùng, hào kiệt của đất
nƣớc, để suy tƣ về những vấn đề lớn lao của cuộc sống dân tộc, để phát biểu
những liên tƣởng mang ý nghĩa triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với
thiên nhiên, giữa cái đã qua, đang qua, sắp tới,… Quan hải, Bạch Đằng hải
khẩu, Long Đại nham,… là những bài thơ nhƣ thế. Đối với Nguyễn Trãi, non
sông đất nƣớc Việt Nam không thiếu những danh lam thắng cảnh, những di
tích lịch sử rất đáng tự hào:
Tam thập niên tiền hồ hải thú,
Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.
(Vọng doanh)
(Thú hồ hải ba mƣơi năm về trƣớc,
Cuộc chơi này lạ tuyệt, còn hơn cuộc chơi của Tô tiên.)
Nguyễn Trãi đã đặt chân lên hầu hết những nơi chốn đã trở thành danh
lam thắng cảnh của đất nƣớc: chùa Đông Sơn, núi Dục Thúy, cửa Thần Đầu,
Côn Sơn, chùa Hoa Yên, núi Yên Tử,… Vịnh danh lam thắng cảnh trong thơ
Nguyễn Trãi khá phong phú, thông qua những địa danh lịch sử ông khái quát
vẻ đẹp của đất nƣớc, ca ngợi những di tích. Vịnh những cảnh tƣợng thiên
nhiên kì vĩ lớn lao để thấy đƣợc sự nhỏ bé, hữu hạn của cuộc đời,…
Trong khoảng mƣời năm giữ chức “quan lạnh”, sống nhàn tản, Nguyễn
Trãi chủ yếu đọc sách, làm thơ, đốt hƣơng thơm, uống trà, trồng cúc, ngắm
hoa, ngắm trăng, ngẫm chuyện đời, nhìn về quá khứ, giữ mình trong sạch,
ngao du sơn thủy, ngắm cảnh non sông, để lại những bài thơ hào hứng nhất
của mình. Đặc biệt ông hay tìm đến những di tích lịch sử, nơi từng ghi dấu
chiến công của dân tộc thuở trƣớc. Bạch Ðằng hải khẩu thể hiện chí khí của
ngƣời anh hùng trong Ức Trai, bao trùm toàn bài thơ là cảm hứng lịch sử, là
niềm tự hào dân tộc. Nguyễn Trãi đến thăm cửa biển Bạch Đằng với cánh
27
buồm thơ lộng gió tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh “cánh buồm thơ nhẹ” là một nét
vẽ thần tình, tài hoa:
Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
Khinh khỉ ngâm phàm quá Bạch Ðằng.
(Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng,
Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng.)
Ngắm biển trời bát ngát mênh mông, nhà thơ xúc động miêu tả cảnh
núi non, bờ bãi nơi cửa biển Bạch Đằng bằng hai nét vẽ ẩn dụ hoành tráng,
cái cao cái thấp, cái gần cái xa, đăng đối gợi cảm:
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
(Nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một,
Nhƣ mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng.)
Núi nhấp nhô từng khúc nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ. Kình ngạc
tƣợng trƣng cho lũ giặc dữ, Nguyễn Trải chỉ ra lũ giặc phƣơng Bắc bị quân ta
tiêu diệt trên Bạch Đằng Giang. Bờ bãi lớp lớp nhƣ giáo gƣơm bị chìm gãy
chồng chất lên, là hình ảnh ẩn dụ gợi tả sự thất trận của lũ giặc Nam Hán, giặc
Tống, giặc Nguyên Mông thuở nào. Hai câu thơ có hình tƣợng kỳ vĩ, hàm súc
giàu chất liên tƣởng, mang cảm hứng lịch sử oai hùng. Sông Bạch Đằng, cửa
biển Bạch Đằng là tử địa quân xâm lƣợc phƣơng Bắc:
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương phơi trắng đất, máu màng đỏ sông.
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Nguyễn Trãi nhận ra những mối tƣơng quan trời đất, con ngƣời khi suy
ngẫm trƣớc cảnh trời đất vô cùng, ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, suy
ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc. Bài thơ Quan hải ông đã khẳng định:
28
Phúc chu thủy tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
(Thuyền bị lật mới tin rằng dân là nhƣ nƣớc,
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.)
Nhìn thiên nhiên đất trời Nguyễn Trãi luận bàn về anh hùng, theo ông
anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhƣng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với
nhân dân nhƣ thuyền với nƣớc. Nguyễn Trãi đã coi trọng điểm tích cực, đúng
đắn trong quan niệm của ngƣời xƣa. Những câu thơ tiếp của Bạch Ðằng hải
khẩu trở nên sâu lắng trong suy tƣởng. Ông khẳng định quan hà hiểm yếu.
Sông Bạch Đằng hiểm yếu do thiên nhiên sắp đặt ra, là nơi để bậc anh hùng
dụng binh chống giặc, lập nên bao chiến công lừng lẫy “Tiếng thơm đồn mãi
/Bia miệng chẳng mòn” (Phú sông Bạch Đằng - Trƣơng Hán Siêu). Phép đối
tạo nên vần thơ đẹp, ca ngợi núi sông hiểm trở, dân tộc Đại Việt có nhiều anh
hùng hào kiệt:
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
(Quan hà hiểm hai ngƣời chống trăm ngƣời do trời sắp đặt,
Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi.)
Tên tuổi những anh hùng nhƣ Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Quốc
Tuấn… bất tử với sông Bạch Đằng lịch sử. Giọng thơ càng về cuối càng thiết
tha sâu lắng. Đối cảnh sinh tình, nhìn cảnh nhớ bóng ngƣời xƣa, lòng dạ cảm
hoài bâng khuâng khôn xiết. Hoài niệm tạo nên chất thơ. Tự hào, nhớ thƣơng,
nghĩ về cái còn, cái mất, cái hiện tại, cái đã qua:
29
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
(Quay đầu xem việc cũ, ôi xong rồi!
Cúi xuống dòng mò bóng, ý khôn nói xiết.)
Cũng nói về hồn thiêng sông núi, cũng nói về đất nƣớc con ngƣời Việt
Nam, ca ngợi sức mạnh Việt Nam, thi nhân chỉ qua một cửa biển, một dòng
sông Bạch Đằng đã lột tả đƣợc cái thần của điều cần nói. Mỗi chữ, mỗi câu
thơ, mỗi hình ảnh về cửa biển Bạch Đằng nhà thơ nói đến nhƣ nâng cao tầm
vóc lớn lao của dân tộc để chúng ta yêu thêm sông núi Tổ quốc, yêu thêm
truyền thống anh hùng của dân tộc, tin tƣởng vào tiền đồ xán lạn của đất nƣớc
muôn đời. Có thể kết luận Bạch Ðằng hải khẩu là bài thơ kiệt tác tiêu biểu
cho hồn thơ trang trọng, hào hùng, tráng lệ của Nguyễn Trãi.
Miêu tả cảnh Vân Đồn, có hai quả núi đứng đối nhau, khoảng giữa là
một dòng nƣớc chảy, ở đó ngƣời ta lấy gỗ cắm cờ làm thủy môn, đời Lý có
nƣớc Qua Oa, Xiêm La đi thuyền đến buôn bán với nƣớc ta:
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan.
(Vân Đồn)
(Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rờn lục,
Nghe nói đó là vùng ngƣời Phiên đỗ tàu.)
Đây là núi Long Vĩ, đầu tỳ vào bờ cao, đuôi ngăn mé biển, thuyền bè
qua lại thƣờng gặp sóng gió, cũng là một nơi hiểm yếu:
Tùng lâm địa xích cương Nam Bắc,
Long Vĩ sơn hoành hạn yếu xung.
(Quá hải)
(Rừng tùng ngăn đất làm giới hạn cho Bắc Nam,
Núi Long Vĩ chặn ngang làm chỗ ngăn trở hiểm yếu.)
30
Rồi cửa Thần Phù, sông Bạch Đằng, núi Dục Thúy, núi Long Đại,…
Nguyễn Trãi vừa có cái nhìn hào hứng của nhà thơ, vừa có tầm mắt hùng vĩ
của vị anh hùng cứu nƣớc, tự mình cũng đã góp công vào việc tiêu diệt kẻ
thù, bảo vệ giang san gấm vóc. Ông rất tự hào về núi Dục Thúy, không những
vì núi này đẹp nhƣ cảnh tiên rơi cõi ngƣời, đây lại là chỗ di tích của một danh
nhân đời nhà Trần:
Hữu hoài Trương thiếu bảo,
Bi khắc tiểu hoa ban.
(Dục Thúy sơn)
(Thấy cảnh nhớ đến Trƣơng thiếu bảo,
Bia khắc đã lốm đốm hoa rêu.)
Trong bài Vọng Doanh, sau khi đã trở lại chơi núi Dục Thúy (Ninh
Bình), cửa Đại An (Nam Định), ông tuyên bố rằng chuyến đi chơi này thú vị
lạ lùng, hơn hẳn chuyến đi ba năm trƣớc – có lẽ là lần đi Thanh Hóa tìm
“chân chúa”, hơn cả cuộc đi chơi của Tô Đông Pha trên sông Xích Bích xƣa:
Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền,
Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên.
Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc,
Đại An triều tướng thủy như thiên.
Y y viễn thụ thanh yên lý,
Diểu diểu bình sa bạch điểu tiền.
Tam thập niên tiền hồ hải thú,
Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.
(Vọng Doanh)
(Chiều hôm đến Vọng Doanh buộc thuyền thơ,
Cảnh thơ ghẹo ngƣời, hứng buổi chiều hôm lôi kéo.
Mƣa tạnh núi Dục Thúy biếc nhƣ ngọc,
31
Chiều lớn cảnh Đại An nƣớc nhƣ trời.
Lờ mờ rặng cây xa ở trong làn khói xanh,
Bát ngát bãi sông phẳng ở trƣớc đàn chim trắng.
Thú hồ hải ba mƣơi năm về trƣớc,
Cuộc chơi này lạ tuyệt, còn hơn cuộc chơi của Tô tiên.)
Ông cũng thƣờng vịnh cảnh chùa: chùa Đông Sơn ở xã Vĩnh Lũ, huyện
Đông Triều, quán Ngọc Thanh cũng ở huyện ấy, chùa Hoa Yên, nơi tu luyện
của Yên Kì Sinh, vua Nhân Tông nhà Trần cũng tu ở đó,… Những cảnh trí ấy
đƣa lại cho ông sự bình thản trong tâm hồn:
Đoản trạo hệ tà dương,
Thông thông yết thượng phương.
Vân qui thiền sáp lãnh,
Hoa lạc giản lưu hương.
Nhật mộ viên thanh cấp,
Sơn không trúc ảnh trường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ hốt hoàn vương.
(Tiên Du tự)
(Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế,
Vội vàng lên yết bái cửa chùa.
Mây kéo về khiến giƣờng thiền lạnh,
Hoa rụng xuống khiến dòng suối thơm.
Chiều hôm tiêng vƣợn kêu rộn,
Núi trống bóng trúc dài ra.
Trong cảnh ấy thực có ý,
Ta muốn nói ra bỗng lại quên.)
32
Một địa danh nữa mà ta không thể không nhắc đến khi tìm hiểu về vẻ
đẹp thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, đó chính là Côn Sơn. Thời thơ ấu,
Nguyễn Trãi từng sống với mẹ, ông ngoại tại đấy. Côn Sơn ca đƣợc xem là
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất, thể hiện sự giao cảm giữa thi sĩ với
thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời Ức Trai:
Côn sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
(Côn Sơn có khe,
Tiếng nƣớc chảy rì rầm,
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,
Mƣa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.)
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nƣớc chảy róc rách nhƣ tiếng
đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mƣa sạch rêu biếc nhƣ chiếu êm. Cảnh đẹp
thứ ba là rừng thông, tán lá nhƣ những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó
với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nƣơng tựa, nâng đỡ tâm hồn,
đối tƣợng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “ta cho là
đàn cầm”, để “ta cho là đệm chiếu”, “ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, “ta ngân
nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm
giác, với tâm hồn thi sĩ bằng những liên tƣởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
33
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc.
(Trong núi có thông,
Muôn dặm rờn rợn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngồi nghỉ ở trong.
Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu in biếc lục,
Ta tha hồ ngâm nga bên gốc.)
Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ
tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thƣơng.
Côn Sơn ca đƣợc ra đời sau khi Nguyễn Trãi đã làm xong nhiệm vụ kẻ
sĩ thời đất nƣớc loạn ly là giúp minh quân giành giang sơn, đem lại thái bình
cho trăm họ. Sĩ khí đã thành, công danh đã toại, ông muốn quay về để sống
cuộc sống an nhàn, giản dị nơi Côn Sơn:
Vấn quân hà bất qui khứ lai?
Bán sinh trần thổ trường giao cốc,
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
(Ngƣời sao còn chửa về đi!
Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc!
Muôn chung chín đỉnh có làm gì!
Miễn là cơm rau miễn tri túc.)
Và nhƣ một thiền sƣ đạt đạo, ông đã thấu rõ những hệ lụy nhân sinh
trong cõi đời, cõi vô thƣờng:
34
…Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ?
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc?
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề,
Thú Dương ngạ tử bất thực túc?
Hiền ngu lư ng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục?...
(Ngƣơi chăng thấy Đổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà?
Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc?
Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề,
Thú Dƣơng chết đói không ăn thóc?
Hiền ngu dù chẳng giống nhau đâu,
Cũng đều muốn thỏa lòng sở dục.
Ngƣời đời trong trăm năm,
Rốt cuộc nhƣ thảo mộc.)
Giàu sang, danh vọng, hiền, ngu… đều còn lại nấm cỏ trên đồi. Thấy
đƣợc điều đó, ít nhiều Nguyễn Trãi từng thấm đƣợm tƣ tƣởng của đạo Phật và
của Lão giáo. Hai tƣ tƣởng ấy quyện lẫn vào thơ ông để cho chúng ta thấy
đƣợc nét thanh cao của những ngƣời chọn niềm vui trong cảnh sông núi, vui
thú điền viên, xa lánh cái ồn ào của chốn lợi danh.
Thiên nhiên nhƣ đƣợc thổi hồn theo dòng cảm xúc của thi sĩ, với Ức
Trai thiên nhiên không chỉ mang vẻ đẹp đơn thuần mà đó còn là ngƣời bạn
tâm giao, là tiếng nói tâm tình, là nơi gửi gắm ƣu tƣ thế sự…
35
Vịnh thiên nhiên là các danh lam thắng cảnh là mảng đề tài đƣợc vịnh
khá nhiều trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Từ các thắng cảnh tự nhiên thi
nhân bộc lộ thái độ ca ngợi trƣớc những cảnh đẹp tuyệt mĩ, chuẩn mực của
đất nƣớc. Những thắng cảnh đƣợc vịnh cũng chủ yếu là những cảnh đẹp kì vĩ,
lớn lao qua đó khái quát sự đối lập giữa cái vô tận của thiên nhiên và sự hữu
hạn của kiếp ngƣời. Nguyễn Trãi cũng hay tìm đến những di tích lịch sử, nơi
từng ghi dấu chiến công của dân tộc thuở trƣớc để chiêm nghiệm về lẽ thắng
bại, nhân nghĩa. Đến chốn đền, chùa, nơi ở ẩn, ông viết về cái hƣ ảo của cuộc
đời, nơi thanh thản để đối diện với chính mình, suy ngẫm về cuộc đời… Với
những bài vịnh danh lam thắng cảnh, Nguyễn Trãi vừa thể hiện một hồn thơ
bay bổng vừa bộc lộ những chiêm nghiệm, nghĩ suy sâu sắc.
2.1.1.3. Thơ vịnh thiên nhiên là các hiện tƣợng tự nhiên
Nếu nhƣ vịnh cỏ cây hoa lá chủ yếu ở phần Môn hoa mộc thì vịnh các
hiện tƣợng tự nhiên thời tiết bốn mùa lạ chủ yếu đƣợc viết ở phần Môn thời
lệnh và một phần ở Tích cảnh thi cùng với một số bài thơ chữ Hán. Ánh trăng,
tuyết, sƣơng, gió, mây,... đều là những hiện tƣợng tự nhiên đƣợc Nguyễn Trãi
quan tâm nhiều nó biểu tƣợng cho vẻ đẹp nhân cách, nỗi lòng thi nhân.
Nguyễn Trãi khi viết về hình ảnh bốn mùa không đơn thuần chỉ miêu tả
vẻ đẹp của thiên nhiên mà qua đó còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.
Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, tƣợng trƣng cho sự khởi đầu mới
mẻ với sắc xuân đầm ấm, tƣơi vui. Mùa hạ với cái nắng vàng gay gắt cùng
với tiếng ve, tiếng cuốc kêu… mang đến âm thanh rộn rã của sự sống. Đến
mùa thu, Nguyễn Trãi có một mảng thơ dành riêng cho mùa thu, đó là bức
tranh thu đẹp thanh sơ, giản dị với hình ảnh hoa cúc, điển hình cho mùa thu
Việt Nam. Còn về đông, dƣờng nhƣ mọi cảnh vật đều trở nên tiêu điều, xơ
xác, qua đó gửi gắm một nỗi buồn sâu sắc. Bức tranh thiên nhiên bốn mùa
trong Quốc âm thi tập rất đa dạng, phong phú với những hình ảnh sinh động,
gần gũi với con ngƣời.
36
Có thể nói, “thơ đề vịnh mùa xuân chiếm ví trị tuyệt đối thong thơ quốc
âm” [24, tr.539]. Mùa xuân trong Nguyễn Trãi nói riêng, đó là một biểu tƣợng
của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến:
Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông quân,
Nào chốn nào chăng gió xuân.
Huống lại vườn còn hoa trúc cũ,
Chồi thức tốt lạ mười phân.
(Thơ tiếc cảnh , bài 13)
Trong con mắt mỗi ngƣời, mảnh vƣờn ấy chợt tƣơi xanh hơn bởi mầm
non hoa lá. Biểu tƣợng của sự sống, sức sống mùa xuân "chồi thức tốt lạ mười
phân" đã vƣợt lên, lấn át củi khô cằn, đơn lẻ, lạc lõng của một cành trúc mùa
đông. Qua đó, nhà thơ khẳng định một quy luật tất yếu của tự nhiên là sự sinh
ra và mất đi, mùa đông có lạnh giá đến đâu thì cũng đến lúc phải nhƣờng chỗ
cho xuân tới, cho muôn hoa đua nở, chim ca ríu rít. Đó cũng là quy luật của
đời ngƣời. Mỗi mùa đông qua đi, mùa xuân lại đến con ngƣời lại đƣợc đánh
dấu bằng một mốc mới, một thay đổi mới trong cuộc đời mình.
Trƣớc sự vô hạn của thiên nhiên và sự hữu hạn của đời ngƣời, Nguyễn
Trãi - con ngƣời của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, đã
cảm nhận thiên nhiên theo vòng tuần hoàn:
Và tháng hạ thiên bóng nắng dài,
Thu đông lạnh lẽo cả hòa hai.
Đông phong từ hẹn tin xuân đến,
Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.
(Hoa xuân)
Bài thơ mang đến một quy luật tuần hoàn đặc trƣng của từng mùa: hạ
nắng dài, thu đông lạnh lẽo, xuân đến tốt tƣơi. Qua sự biến chuyển của từng
mùa, nêu lên đƣợc lẽ tuần hoàn của vũ trụ theo triết lí phƣơng Đông. Mùa
37
xuân ấy đồng nghĩa với vẻ tƣơi mới của đất trời, với một thời trẻ trung của
đời ngƣời.
Theo vòng tuần hoàn, mùa xuân xanh tƣơi nhƣờng chỗ cho mùa hè
nắng dài. Các nhà thơ trung đại thƣờng coi mùa hè nhƣ một sự náo nhiệt, vui
tƣơi, đồng thời dùng mùa hè để nói lên tâm sự. Mùa hè không chỉ có cái nóng
nực, ngột ngạt mà cũng rất đẹp, rất tƣơi với màu nắng chói chang, bầu trời
xanh. Đặc biệt, mùa hè rất rộn ràng với âm thanh của tiếng quốc kêu, tiếng tu
hú gọi, tiếng sáo diều vi vu, tiếng ve râm ran, những âm thanh khuấy động
làm cho không gian hè trở nên rộn ràng, bức tranh hè trở nên sinh động
hơn. Tiếng chim đỗ quyên kêu rộn ràng, báo hiệu mùa hè, một mùa hè tƣng
bừng tràn ngập nắng hạ. Mùa hè trong thơ Nguyễn Trãi cũng vậy, có tiếng đỗ
quyên kêu, có hoa hòe nở rộ báo hiệu hè sang, thời khắc giao mùa giữa xuân
tới hạ.
Trong cái vòng tuần hoàn của thời gian, Nguyễn Trãi thể hiện niềm tâm
sự của mình, sự nuối tiếc thời gian trôi đi nhanh chóng, nuối tiếc tuổi thiếu
niên chƣa làm đƣợc gì, nỗi than đó đƣợc bật lên trong bài thơ:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hòe hoa chim bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Cảnh hè)
Mùa hè đã lùi lại nhƣờng chỗ cho mùa thu đến. Thu đến gợi nhiều sự
thay đổi thể hiện quy luật của tự nhiên. Thơ đề vịnh mùa thu là những bài thơ
diễn tả tâm trạng con ngƣời cá nhân trƣớc mùa thu hiu hắt vắng lặng, mùa rơi
rụng của lá vàng. Nguyễn Trãi thể hiện niềm nuối tiếc, ông kí thác tâm tình
của mình trong một mối cảm hoài tiếc cảnh:
38
Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng,…
Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng.
(Thơ tiếc cảnh, bài 1)
Mùa thu đến, mùa thu đi nhắc nhở thời gian đang dần về cuối, một
vòng tuần hoàn trong năm gần khép lại cũng giống nhƣ thời khắc cuộc đời
của con ngƣời đã vào tuổi xế chiều, tuổi con ngƣời sắp đƣợc nghỉ ngơi. Tuổi
con ngƣời già theo năm tháng không có sự lặp lại nhƣng với thiên nhiên thì
lại khác, sự lặp lại của năm này với năm khác hoàn toàn giống nhau, không có
sự phai mờ. Sự chuyển mùa giữa mùa này với mùa khác vẫn nhƣ thế:
Đông đã muộn, lại sang xuân,
Xuân muộn thì hè lại đổi lần.
Tính kể từ mùa có nguyệt,
Thu âu là nhẫn một hai phân.
(Trăng thu)
Thu đi nhƣờng chỗ cho đông lạnh giá, đó là mùa cuối cùng trong năm,
khép lại một năm đã hết, bắt đầu cho một năm mới. Một năm có bốn mùa
xuân - hạ - thu - đông, mỗi mùa thể hiện một nét đặc trƣng riêng, một quy luật
riêng, không chỉ về thời gian của mùa mà cả quy luật về con ngƣời.
Mùa đông đến, con ngƣời đều có chung một cảm nhận nhƣ đến với một
thế giớ lạnh lẽo, cô đơn, vắng vẻ với những cảnh tiết đông chí sƣơng muối,
rét "cắt da, cắt thịt" làm cho con ngƣời nhƣ muốn thu mình lại tự dằn vặt, tự
tâm sự với nỗi lòng mình:
Tà dương bóng ngả áp giang lâu,
Thế giới đông nên ngọc một bầu.
Tuyết sóc leo cây điểm phấn,
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
(Ngôn chí, bài 13)
39
Nếu mùa xuân là mùa đầu năm, mùa khởi đầu cho một công cuộc mới
thì mùa đông lại là mùa khép lại một năm, báo hiệu một năm đã hết. Nguyễn
Trãi rất khéo léo trong việc sử dụng các hình ảnh thiên nhiên bốn mùa để
nhắc nhở quy luật tuần hoàn. Nếu nhƣ con ngƣời và cảnh vật dƣờng nhƣ đều
muốn thu mình vào cái vỏ bọc của chăn ấm, mọi hoạt động ngừng trệ hơn,
không có vẻ tƣơi tắn của mùa xuân, vẻ náo nhiệt của mùa hè, vẻ man mác dễ
chịu của mùa thu thì các mùa khác trong năm đều mang đầy sức sống, hấp
dẫn, muốn khoe mình trong không trung rộng lớn.
Mùa đông đến, rồi mùa đông lại đi đó là quy luật của tự nhiên nhƣng
mùa đông của con ngƣời có thể đƣợc ví nhƣ thời gian của con ngƣời đã đi về
tuổi già, tuổi của nghỉ ngơi, tuổi thu mình hƣởng thụ cái thú nhàn của cuộc
sống. Đó là sự khác nhau giữa vòng tuần hoàn của thời gian và con ngƣời.
Khi làm thơ đề vịnh thiên nhiên, có lẽ trăng là ngƣời bạn thân thiết
nhất, gần gũi nhất của Nguyễn Trãi. Ông miêu tả sự sáng trong của ánh trăng
để ngụ ý nói tới tấm lòng trong sáng cao quý của mình:
Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không,
Xem ắt lắm, một thức cùng.
Hải nhược chiết nên cành quế tử,
Giang phi chiếm được thức Thiềm cung.
Thu cao thỏ ướm thăm lòng bể,
Vực lạnh châu mừng thoát miệng rồng.
Đạn khiếp thiên nhan chăng n tịn.
Lui thuyền lãng đãng ở trên dòng.
(Mặt trăng trong nước)
Vịnh các hiện tƣợng tự nhiên nhƣ thời tiết bốn mùa, Nguyễn Trãi từ sự
thay đổi của thời gian, quy luật tuần hoàn của thời gian để nói tới quy luật của
đời ngƣời, sự biến đổi của kiếp ngƣời. Thời gian trôi đi không bao giờ trở lại
40
nên đứng trƣớc sự thay đổi của thời gian con ngƣời hoài niệm quá khứ, luyến
tiếc thời gian, tiếc cảnh đẹp, tiếc cuộc đời xuân xanh. Từ quy luật vận động
của bốn mùa trong tự nhiên nhà thơ nói về quy luật của đời ngƣời. Đằng sau
bức tranh thiên nhiên ấy chất chứa bao nỗi niềm của chính nhà thơ, đó là tâm
sự về tình cảm cá nhân và về thời đại lúc bấy giờ.
2.1.2. Vịnh vật
Nhắc đến thơ vịnh vật ta phải kể đến tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
ông đƣợc coi là nhà thơ có nhiều bài thơ vịnh vật nhất ở cả chữ Hán và chữ
Nôm (khoảng 230 bài). Tuy Nguyễn Trãi để lại không nhiều về mảng đề tài
này nhƣng cũng đã ghi dấu ấn của ông trong dòng chảy của thơ vịnh vật.
Theo thống kê, ta thấy thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi chiếm tỉ lệ tƣơng
đối thấp trên số lƣợng tác phẩm của ông còn để lại: 9/359 bài (chiếm 2,5%).
Trong đó, Quốc âm thi tập có 7/9 bài thơ (chiếm 77,8%), Ức Trai thi tập có
2/9 bài thơ (chiếm 22,2%). Đối tƣợng, nội dung trong thơ vịnh vật của
Nguyễn Trãi là các con vật, đồ vật. Từ loại thơ vịnh vật, Nguyễn Trãi cũng
bộc lộ quan niệm, tƣ tƣởng của cá nhân mình.
2.1.2.1. Thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là con vật
Theo thống kê, chúng tôi nhận thấy, thơ vịnh của Nguyễn Trãi lấy đối
tƣợng là con vật chỉ xuất hiện trong thơ chữ Nôm. Trên tổng số 7 bài thơ vịnh
vật có đến 6 bài là vịnh con vật (chiếm khoảng 85,7%). Các đối tƣợng này
phần lớn đều đã quen thuộc trong thơ trung đại, đƣợc chia thành các nhóm
chim, côn trùng, vật nuôi,…
Trong số 6 bài thơ vịnh con vật, vật nuôi nhƣ con lợn, con trâu, con
mèo là đối tƣợng đƣợc vịnh nhiều hơn cả (3/6 bài, chiếm 50,0%), sau đó đến
nhóm chim (2/6 bài, chiếm 33,3%), nhóm côn trùng chỉ có duy nhất 01 bài
vịnh con bƣớm (chiếm 16,7%). Cũng nhìn vào bảng hệ thống này, ta thấy
những đối tƣợng quen thuộc trong thơ vịnh vật nhƣ chim hạc, chim nhạn,
41
bƣơm bƣớm,… và một số loài động vật lớn nhƣ trâu, những động vật gần gũi
với cuộc sống của con ngƣời nhƣ lợn, mèo. Có thể thấy mảng thơ vịnh vật về
con vật của Nguyễn Trãi tuy ít những khá phong phú.
Chim hạc, chim nhạn, bƣơm bƣớm là những hình ảnh quen thuộc giàu
tính ƣớc lệ của văn học trung đại, thể hiện đƣợc vẻ đẹp của cốt cách, tâm hồn
con ngƣời, gắn với những câu chuyện, điển tích xƣa.
Trong bài Trận nhạn, tác giả đã sử dụng một số chi tiết về lối sống,
huyền thoại dân gian để miêu tả trận nhạn. Tuy nhiên chúng tôi thấy những
yếu tố đó khá mờ nhạt, tác giả chỉ mƣợn trận nhạn để nói về sức mạnh, kỷ
luật nghiêm của quân đội:
Nước dẫy triều cường cuối bãi đầy,
Làm kỳ chinh khéo nên bầy.
Đàn chim đạn ngọc sao bắc,
Phất dõi cờ lau gió tây.
Thu phát lệnh nghiêm hàng đỗ gấp,
Sương thanh bảng nhặt tiếng kêu chầy.
.............
Tử tái đường nghèo lòng mựa ngây (nghi).
(Trận nhạn)
Trận nhạn là bầy nhạn xếp thành hàng đều nhƣ quân ra trận. Một quân
đội mạnh với hai phép hành quân là đánh du kích (kỳ) và lối đánh chính quy
theo bầy đàn (chinh). Đàn chim chỉ sức mạnh của bầy chim nhạn bay từ
phƣơng Bắc về phƣơng Nam đã không còn nhìn thấy các sao ở phƣơng Bắc
nữa, các sao ấy nhƣ đạn ngọc đã bị bắn chìm vào không gian rồi. Ngọn gió
tây thổi tác giả ví nhƣ đang phất cờ để dõi theo quân (nhạn) ra trận. Mùa thu
đã phát lệnh nghiêm (nghiêm hàn) tức là đã có tin rét nhạn phải tìm nơi đỗ
gấp để tránh rét. Những từ nhƣ lệnh nghiêm, đỗ gấp đều là những từ có ý
42
nghĩa quân sự. Sương thanh có nghĩa là sƣơng trong, sƣơng lạnh. Bảng nhặt
là treo bảng (hiệu lệnh) nghiêm ngặt. Tiếng kêu chày là tiếng nhạn kêu vẳng
trong đêm khuya. Ý cả câu muốn nói kỷ luật nghiêm nên quân lính ít kêu la
ầm ĩ. Trong bài thơ này, mọi chi tiết xây dựng hình ảnh trận nhạn nhằm ẩn ý
về phẩm chất chức năng của quân đội.
Hay bài thơ Trận bướm cũng nhƣ vậy, mƣợn hình ảnh trận bƣớm để
bày tỏ tấm lòng của một công thần khai quốc:
Làm sứ đi thăm tin tức xuân,
Lay thay cánh nhẹ mười phân.
Nội hoa tớp tớp vây đòi hỏi,
Doanh liễu khoan khoan khéo lữa lần.
Thục đế để thành déo dắt,
Phong vương đắp luỹ khóc ran.
Chúa xuân giáo tập dư ba tháng,
Mảng cầm ve mới đỗ quân.
(Trận bướm)
Theo bài báo của Nguyễn Thiên Thụ: “Dƣới con mắt của Nguyễn Trãi,
phần lớn những loài vật, phong cảnh thiên nhiên đã mang những biểu tƣợng
của chân thiện mỹ” [24, tr.672]. Với bài Chim hạc già trong Quốc âm thi tập,
tác giả bài báo cho rằng: “Con hạc là một con vật thiêng liêng. Ngƣời ta
thƣờng coi hạc tƣợng trƣng cho tuổi thọ, cho trƣờng sinh bất tử, là loài vật
gần gũi với những vị tiên” [24, tr.674]....
Ngẫm hay thế sự nhẹ bằng lông,
Ăn uống chăng nài bổng Vệ công.
Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch,
Non xuân từng bạn khách ăn thông.
Cánh xâm bạch tuyết mười phân bạc,
43
Đinh nhuộm đơn sa chín chuyển hồng.
Nghìn dặm trời dầu đủng đỉnh,
Kham cười anh vũ mắc chưng lồng.
(Chim hạc già)
Bên cạnh những hình ảnh giàu tính ƣớc lệ, Nguyễn Trãi còn vịnh
những con vật gần gũi với đời sống hằng ngày nhƣ con trâu, con lợn, con mèo
từ đó khẳng định tài năng, tâm sự của ngƣời quân tử. Mèo là bài thơ nhƣ thế:
Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây,
Phụng sự Như Lai trộm phép thầy.
Hơn chó được ngồi khi mặt bếp,
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây.
Đi nào kẻ cấm buồng the kín,
Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy.
Khó liễn sang chăng n phụ,
Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.
Câu thơ đầu tiên miêu tả hình dáng, xuất xứ của loài mèo. “Lọ vằn”
nghĩa là lọ lem, vằn vện, đây là màu lông của mèo mƣớp; “lạ” là lạ lùng, đẹp
mắt; còn “phƣơng Tây” là nguồn gốc của loài mèo bởi theo truyền thuyết xƣa,
mèo có xuất xứ từ Tây trúc, xứ Phật. Câu thơ thứ 2 với một cách ví von khéo
léo, hóm hỉnh đã cho thấy tập tính của loài mèo. Phụng sự Như Lai trộm phép
thầy - ý diễn đạt khi “thầy” chùa đi vắng, chú mèo nhảy lên cả bàn thờ Phật,
bởi đặc điểm của mèo là thƣờng nhảy lên những chỗ cao để dễ dàng quan sát,
săn mồi. Các câu thơ 3,4 tiếp tục miêu tả sinh động đặc điểm của mèo. Có
nguồn gốc từ miền nhiệt đới nên mèo ƣa nằm cạnh bếp ấm. Nhƣng mèo đƣợc
“ƣu ái” hơn chó, cũng là một gia súc gần gũi với con ngƣời, là không bị gia
chủ nhà xua đuổi: Hơn chó được ngồi khi mặt bếp. Câu thơ thứ 4 nhắc đến
một truyền thuyết về mèo, đó là trƣớc đây mèo dạy cọp đủ nghề săn bắt,
44
nhƣng giấu nghề leo cây, chính vì thế mà cọp không thể bắt đƣợc mèo: Tiếc
hùm chẳng bảo chước leo cây. Hai câu thơ 5,6 thú vị bởi sự dí dỏm, chính
xác: Đi nào kẻ cấm buồng the kín - mèo luôn muốn làm chủ mọi ngõ ngách
trong không gian mình sống, nếu bị chặn cửa, mèo hay kêu, cào cửa để phản
đối. Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy - khi mèo ăn thì không cần đợi “ai” làm mâm
cao cỗ đầy, tức là sẵn sàng…ăn trƣớc. Sự dân dã mà tinh tế trong ngụ ý của
hai câu thơ tạo cho bài thơ nét hóm hỉnh, gần gũi. Chữ “liễn” trong câu thơ
thứ 7 là một từ cổ, mang nghĩa “hay là”. Khó liễn sang chăng n phụ, ý nói
dù ngƣời khó hay là ngƣời sang cũng không ai phụ mèo. Điều này cho thấy
con mèo là con vật rất gần gũi trong cuộc sống của ngƣời dân. Gần gũi bởi
một lý do hết sức tự nhiên, lý do này đƣợc nhắc đến trong câu thơ cuối cùng
của tác phẩm: Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày - vì “giận chuột” nên
ngƣời phải nuôi mèo. Bài thơ Mèo đƣợc Nguyễn Trãi viết cách đây đã hơn
nửa thiên niên kỷ, nhƣng những vần thơ giản dị, gần gũi với cuộc sống của
tác phẩm vẫn luôn khẳng định đƣợc sức sống mãnh liệt vƣợt không gian, thời
gian của nó.
Loại thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là con vật, Nguyễn Trãi đã mƣợn những
con vật để bộc lộ tâm trạng của mình. Từ những đặc điểm của loài về hình
dáng, tập tính mỗi con vật đƣợc vịnh nhƣ để bộc lộ tấm lòng của bậc khai
quốc công thần đầy tài năng, có ý thức dân tộc cao nhƣng lại cô đơn cô độc
trƣớc thời thế xoay vần.
2.1.2.2. Thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là đồ vật
Ở nhóm thứ hai, thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là các đồ vật có khoảng 3/9
bài (chiếm khoảng 33,3%). Trong đó, đối tƣợng vịnh là cây kiếm, bức tranh
trong thơ chữ Hán và quả thái cầu trong thơ Nôm. Thông qua những đồ vật
đƣợc vịnh trong nhóm này, Nguyễn Trãi phản ánh hiện thực đất nƣớc và bày
tỏ tấm lòng ƣu nƣớc ái dân của ông.
45
Đề kiếm tức là nhìn thanh kiếm mà đề thơ. Nói về kiếm nhƣng tình ý lại
là nói về ngƣời, về nhân tình thế thái:
Lam Sơn tự tích ngoạ thần long,
Thế sự huyền tri tại chưởng trung.
Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh,
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong.
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ,
Kim quỹ chung tàng vạn thế công.
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu,
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
(Đề kiếm)
(Rồng thần từ xƣa nằm ở Lam Sơn,
Việc đời đã biết trƣớc nhƣ nắm trong tay.
Việc lớn đã chọn ngƣời, trơi báo cho thánh biết,
Thời thịnh mà gặp đƣợc, thì hùm sinh gió tức bay đƣợc.
Thù nƣớc đã rửa sạch sỉ nhục hàng nghìn năm,
Trong hộp vàng cuối cùng xếp công muôn thuở.
Chỉnh đốn càn khôn từ đó là xong,
Thế gian lại có đếm xỉa gì bực anh hùng nữa.)
Hai câu thơ đầu ca ngợi vị minh chủ Lê Lợi. Rồng thần (thần long) từ
xƣa còn nằm ở núi Lam Sơn, việc đời đã biết trƣớc nhƣ nắm chắc trong tay.
Ông đã đƣợc trời báo cho biết trƣớc, việc lớn đã chọn đƣợc ngƣời tài giỏi
(Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh), lại gặp đƣợc thời thịnh nhƣ hùm sih
gió (Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong). Vậy là chỉ có việc làm theo mệnh
trời, vì trời đã trao cho việc lớn, trao cho vật báu (kiêm thần),cho những ngƣời
tài giỏi giúp sức. ngƣời anh hùng gặp đƣời thời thịnh, đã có thiên thời nhƣ hổ
mọc thêm cánh mà bay lên. Mƣời năm kháng chiến, sự nghiệp đại định đã
46
thành công. Thù nƣớc đã rửa sạch vết nhơ nhục hàng nghìn năm (Quốc thù
tẩy tận thiên niên sỉ). Bây giờ, công lao dựng nƣớc kia đều cất vào hòm vàng.
Thế gian không còn đếm xỉa đến những bậc anh hùng khai quốc. Đó là những
lời thơ đề kiếm. Nhắc lại bài học lịch sử đau lòng, để than thở về nhân tình
thế thái, để bàn luận về lòng ngƣời vô ơn trong hiện tại. Lê Lợi là ngƣời đƣợc
trao cho thiên mệnh, nhận gƣơm thần để diệt trừ bọn giặc ngoại xâm độc ác.
Nhƣng khi chiến tranh kết thúc, ông không dùng đến gƣơm ấy nữa, trao trả lại
cho thần linh, cũng giống nhƣ việc cất công lao của các công thần vào hòm
vàng khóa chặt lại (Kim quỹ chung tàng vạn thế công). Nghĩa là quên luôn
những ngƣời đã gom tài góp sức, kề vai sát cảnh, chung lƣng đấu cật, nếm
mật nằm gai cùng ông dựng nên đại nghiệp cho dân tộc.
Nếu nội dung chủ yếu của thơ vịnh vật trong Hồng Đức quốc âm thi tập
là để ngợi ca, gửi gắm tƣ tƣởng đạo đức Nho gia thì thơ vịnh vật của Nguyễn
Trãi là để gửi gắm tâm tƣ của một ngƣời hết lòng vì dân vì nƣớc, dẫu xuất xử,
hành tàng cũng vẫn là “tấm lòng ƣu ái cũ”, miêu tả vẻ đẹp phẩm chất, lý
tƣởng, hoài bão của ngƣời quân tử, là gửi gắm những suy nghĩ, chiêm nghiệm
rồi từ đó là các bài học, những câu thơ mang màu sắc giáo huấn.
Thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi thể hiện quan điểm, tâm tƣ của bậc khai
quốc công thần luôn ƣớc mong cho dân, cho nƣớc. Đó là ƣớc mong về một
triều đình thịnh trị, vua sáng tôi hiền, một cuộc sống thái bình, no ấm cho
nhân dân. Ngoài ra, ta còn thấy trong thơ Nguyễn Trãi là những suy nghĩ,
chiêm nghiệm của nhà thơ về lẽ sống, là những lời giáo huấn đƣợc gửi gắm
một cách nhẹ nhàng.
2.1.3. Vịnh con ngƣời
Thơ vịnh con ngƣời trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi chiếm
một số lƣợng khá lớn. Thế giới các nhân vật hiện diện trong thơ ông rất đông
đảo: Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tủ Kỳ, Tô Đông Pha, Tể tƣớng Trƣơng Cửu
47
Linh, ông Từ Trọng Phủ, Chu Công Đán. Qua từng nhân vật, Nguyễn Trãi thể
hiện những cảm xúc khác nhau của mình: ca ngợi những công thần, những vị
vua anh minh đức độ; thƣơng xót những công thần, nhà thơ lớn. Từ đó, ông
thể hiện thái độ nhân sinh, phẩm chất đạo đức của mình. Nguyễn Trãi sống
với những lý tƣởng, con ngƣời cao đẹp thời quá khứ hơn là những ngƣời
đƣơng thời xung quanh mình.
Thơ vịnh con ngƣời của Nguyễn Trãi tuy không nhiều nhƣng đã đánh dấu
đƣợc tên tuổi của ông trong dòng chảy của thơ vịnh này. Qua thông kê, chúng
tôi thấy, vịnh con ngƣời chỉ xuất hiện trong thơ chữ Hán. Trong 6 bài thơ vịnh
con ngƣời (chiếm 1,7%) , Nguyễn Trãi tập trung vịnh các nhân vật là những bậc
công thần của triều đình nhƣ Tô Đông Pha, Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh, ông Từ
Trọng Phủ, Chu Công Đán (4/6 bài, chiếm 66,7%). Vịnh những nhà thơ lớn nhƣ
Lý Bạch (2 lần), Bá Nha, Chung Tử Kỳ (3/6 bài, chiếm 50,0%).
Nguyễn Trãi là một nhà Nho đầy bi kịch trong xã hội quân chủ chuyên
chế độc đoán. Một nhà Nho hành đạo đầy tin tƣởng, hăm hở giúp vua, giúp
nƣớc nhƣng lại bị thất sủng, gièm pha, hãm hại. Thân phận Nguyễn Trãi phần
nào giống với những bậc trung thần nghĩa sĩ thời xƣa, nên ông đồng cảm, khâm
phục họ. Họ đều là những ngƣời có tài năng, ý chí nhƣng bị bọn gian thần bày
mƣu khiến quân vƣơng không còn tin tƣởng. Bất mãn, bất lực trƣớc thực tại, họ
buộc phải xa rời con đƣờng chính trị, từ bỏ khát vọng giúp dân, thậm chí cùng
đƣờng đi đến cái chết đầy bi kịch. Cảnh ngộ mà Chu Công Đán, Lý Bạch,… và
Nguyễn Trãi gặp phải là cảnh ngộ của kẻ sĩ chính trực mọi triều đại, đất nƣớc
đều trải qua. Các nhà nghiên cứu Trung Hoa gọi đây là tình trạng tạo nên một
trong những chủ đề lớn của văn học cổ trung đại: sỹ bất ngộ.
2.1.3.1. Vịnh nhân vật là những bậc công thần
Khi viết về những ngƣời có tài năng, đức độ nhƣng lại có một cuộc đời
với nhiều sóng gió, bão táp, Nguyễn Trãi hết mực ca ngợi khí phách của họ.
48
Họ đều là những ngƣời có tài, có đức luôn cố gắng dốc sức xây dựng đất nƣớc
vua sáng tôi hiền:
Ý thân phụ chính tưởng Chu Công,
Xử biến thùy tương Y Doãn đồng.
Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,
Kim đằng cố sự cảm ngôn công.
An nguy tự nhiệm phò vương thất,
Tả hữu vô phi bảo thánh cung.
Tử Mạnh khởi năng chiêm phưởng phất,
Ủng Chiêu cẩn khả ấp dư phong.
(Chu Công phụ Thành Vương đồ)
(Ngƣời thân tốt phụ chính nhờ đến Chu Công,
Xử cảnh quyền biến, ai đem để cùng với Y Doãn.
Lời trối ở ghế ngọc luôn luôn để dạ,
Cái hộp kim đằng trƣớc kia đâu dám bảo là công.
Tự mang trách nhiệm phò vƣơng thất lúc an lúc nguy,
Giúp vầy không điều gì là không giữ mình thánh chúa.
Tử Mạnh há có thể xem phƣởng phất đƣợc chăng!
Cái việc ủng phò Chiêu đế cũng phải nhƣờng đứng dƣới gió.)
Chu Công Đán là chú ruột, phụ chính, một lòng phò giúp ấu chúa Chu
Thành Vƣơng, giữ yên vƣơng thất, sửa đổi quan chế, đặt ra lễ pháp, khiến cho
nhà Chu ngày một thịnh vƣợng. Bảy năm sau, Thành Vƣơng mới thực sự nắm
quyền, làm vua 37 năm (1115-1079 TCN). Chu Công Đán là bậc công thần,
một tấm gƣơng cao thƣợng, trong sáng. Trƣớc lời trăng trối của Chu Vũ
Vƣơng trƣớc khi chết giao Chu Thành Vƣơng cho ông giúp đỡ, dạy bảo, giữ
lấy ngai vàng của tổ tiên Chu Công Đán luôn khắc ghi trong lòng. Khi Vũ
Vƣơng ốm nặng, Công Đán còn cầu với tổ tiên cho mình đƣợc chết thay Vũ
49
Vƣơng. Khi Vũ Vƣơng chết Chu Công phụ chính, bị nghi ngờ đoạt ngôi của
cháu nên ông liền chuyển ra Đông Đô. Sau đó Thành Vƣơng biết đƣợc tấm
lòng của chú nên đã đích thân rƣớc Chu Công về. Tấm lòng cao thƣợng, trong
sáng của bậc công thân nhƣ vậy thật xứng đáng là tấm gƣơng, bài học quý
báu của muôn đời.
Khi viết về những bậc trung thần nghĩa sĩ, hết lòng vì vua, ông hết lời
ca ngợi, cổ vũ tấm lòng cô trung son sắt của họ, đồng thời đồng cảm, thƣơng
xót cho họ khi phải chịu bất công, bị nghi ngờ, công lao của họ bị lãng quên,
thậm chí mất cả tính mạng. Khi viết về những bậc ẩn sĩ, những viên đại thần
dám mạnh mẽ và dứt khoát từ bỏ những danh lợi của chốn quan trƣờng về quê
ở ẩn, để bảo toàn nhân cách cao đẹp của mình, giữa lúc thời thế đã đổi thay,
bọn hoạn quan lộng hành, chia bè kết đảng trong triều đình:
Khứ phạ phiền hoa đạp nhuyễn trần,
Nhất lê nham bạn khả tàng thân.
Thương gia lệnh tá xưng Sằn Dã,
Hán thế cao phong ngư ng Phú Xuân.
Tùng cuc do tồn quy vị vãn,
Lợi danh bất tiển ẩn phương chân.
Ta dư cửu bị nho quan ngộ,
Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân.
(Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường)
(Sợ chốn phiền hoa đạp bụi bặm mềm dịu mà phải bỏ,
Với một cày ở bậc đá có thể ẩn thân đƣợc.
Khen ngọi ngƣời phò tá giỏi của nhà Thƣơng ở đất Sằn Dã,
Ngƣỡng mộ phong thái cao thƣợng của (Nghiêm Quang) đời Hán ở
đất Phú Xuân.
Tùng cúc hãy còn, ta về chửa muộn,
50
Lợi danh không thèm, ẩn mới đúng hơn.
Thân ta bị cái mũ nhà nho đánh lừa đã lâu,
Vốn ta là ngƣời cày trong thanh nhàn, câu ở nơi hiu quạnh.)
Chƣa rõ ông Từ Trọng Phủ là ai, nhƣng nhan đề bài thơ cho thấy ông là
một nhà Nho, có ra làm quan rồi cáo quan về nhà làm ruộng tự nuôi thân,
không phải lụy đến ai. Canh ẩn đƣờng chính là ngôi nhà ở của ngƣời cày
ruộng họ Từ đó. Bài thơ ca ngợi một ẩn sĩ có phẩm tiết thanh cao. Ông Từ
Trọng Phủ từng sống ở chốn phồn hoa đô hội nhƣng ông lại coi nơi đó là nơi
chứa nhiều bụi bặm, thứ bụi mềm dịu, ngọt ngào mê hoặc của chốn trần ai.
Ông Từ Trọng Phủ đã từ bỏ chốn phồn hoa đô hội đó, về ở ẩn giữ gìn phẩm
tiết thanh cao, không màng đến danh lợi. Bài thơ còn ca ngợi Y Doãn đời nhà
Thƣơng, Nghiêm Quang đời nhà Hán. Y Doãn có công lớn giúp vua Thành
Thang đánh bại vua Kiệt nhà Hạ, lập ra triều đại nhà Thƣơng. Nghiêm Quang
là bạn thân của Lƣu Tú (Hán Quang Vũ), sau khi giúp Lƣu Tú đánh dẹp
Vƣơng Mãng thành công, lập ra nhà Đông Hán. Nghiiem Quang đã bỏ đi, đổi
tên họ, cày ruộng câu cá, sống cuộc đời ẩn sĩ ở Đông Giang, Phú Xuân. Vua
Hán Quang Vũ đích thân đến mời bạn về cùng mình cai trị đất nƣớc, hƣởng
vinh hoa phú quý những Nghiêm Quang quyết không chịu về. Công lao của Y
Doãn và Nghiêm Quang thật đáng khâm phục, ngợi ca. Nguyễn Trãi ca ngợi
công lao, phẩm chất thanh cao không màng danh lợi của những ẩn sĩ, một mặt
để ca ngợi, bày tỏ thái độ khâm phục. Mặt khác, ông coi họ là tấm gƣơng để
học hỏi.
Nguyễn Trãi đã khẳng định lối sống quân tử của mình, ca khúc Thƣơng
Lang để biết “trọc thanh”, ý thức về vinh nhục. Ông giữ vững tinh thần kiên
trì “chẳng biến dời cùng thế thái”, giống nhƣ Khuất Nguyên không chịu để
tâm hồn vƣớng chút bùn nhơ. Cũng có lúc, Nguyễn Trãi thấm thía bi kịch của
nhà Nho, ông bâng khuâng, xao động , từ xu hƣớng “hành đạo” muốn “ẩn
51
dật” nhƣ những Đạo gia. Ông ngộ ra không nên lần lữa mãi. Tiên sinh đã cáo
quan về ẩn ngay khi Lê Lợi vẫn đang trị vì và ngay cả khi vua Lê Thái Tông
lại mời ông ra làm quan giúp vua chỉnh đốn xã tắc. Nhƣng bấy giờ vua còn
trẻ, ham chơi, gian thần nổi lên nhƣ ong, triều chính đổ nát không sao cứu vãn
đƣợc, Nguyễn Trãi thất vọng quá, lại xin về nghỉ ở quê nhà Côn Sơn. Ông tuy
có lúc băn khoăn đứng giữa hai thế ứng xử, nhƣng suy cho cùng vẫn lựa chọn
“xuất xử”, muốn ra sức cống hiến giúp đời. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi phải
chịu đựng một kết thúc bi thảm trong thời buổi nhiễu nhƣơng đƣơng thời.
Tóm lại, vịnh những công thần đày tài năng, nhân cách thanh cao, một
mặt, Nguyễn Trãi ca ngợi tấm lòng trung thành, những công lao to lớn của họ.
Mặt khác, ông thể hiện sự đồng cảm với những bất công, bi kịch mà họ phải
gánh chịu. Ông luôn mơ ƣớc một thời đại công bằng, có những ông vua sáng,
tôi hiền để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thái bình thịnh trị cho muôn
dân trăm họ. Có lẽ, vịnh những công thần đầy tài năng, nhân cách, Nguyễn
Trãi cũng ngụ ý nói tới cuộc đời của chính mình. Ông là bậc “khai quốc công
thần”, có tài năng, đức độ đã cống hiến cả cuộc đời cho dân cho nƣớc nhƣng
cuối cùng công lao bị lãng quên, thậm chí dẫn tới nỗi oan thảm khốc nhất
trong lịch sử dân tộc.
2.1.3.2. Vịnh nhân vật là những nghệ sĩ
Nguyễn Trãi viết về những nhà thơ lớn nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung
Tử Kỳ,... với một niềm cảm thƣơng sâu sắc đối với cuộc đời bạc mệnh của
họ. Bên cạnh đó ca ngợi tấm lòng “cô trung son sắt” của họ.
Vịnh về Thi tiên Lý Bạch, Nguyễn Trãi viết:
Thái Thạch tằng văn Lý trích tiên,
Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.
Thử giang nhược biến vi xuân tửu,
Chỉ khủng ba tâm thượng tuý miên.
(Thái Thạch hoài cổ)
52
Lý Bạch là một trong số nhà thơ tài năng bậc nhất trong văn học Trung
Hoa. Ông tự cho mình là Trích Tiên, tức ông Tiên bị đày xuống trần gian.
Chứng kiến cảnh trần gian còn nhiều rối ren, nhố nhăng, ông ngán ngẩm, thất
vọng cƣới hạc bay về trời (Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên). Thi tiên Lý Bạch cũng
là một tay “sâu rƣợu”. Ông cũng đã có rất nhiều câu thơ hay chảy ra từ rƣợu.
Thế nhƣng, ông đã từ quan để đi ngao du, uống rƣợu, làm thơ. Đứng trƣớc
dòng sông Trƣờng Giang, hình nhƣ Trích Tiên họ Lý tƣởng nhầm đấy là sông
rƣợu, ông nhào xuống chơi, ngủ lì dƣới lòng sông đã mấy trăm năm mà chƣa
muốn tỉnh.
Không chỉ ca ngợi tài năng của những ngƣời nghệ sĩ tài hoa, Nguyễn
Trãi còn ca ngợi tấm lòng tri âm, tri kỉ của họ. Ông khao khát đi tìm sự đồng
cảm, thấu hiểu giữa cuộc sống cô đơn này:
Chung Kỳ bất tác chú kim nan,
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy,
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
(Đề Bá Nha cổ cầm hồ)
(Không làm đƣợc Chung Kỳ vì đúc vàng khó,
Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.
Đêm lạnh vòm trời biếc lạnh nhƣ nƣớc,
Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chím chằm.)
Bá Nha và Chung Tủ Kỳ là hai ngƣời bạn tri âm, tri kỷ của nhau. Mỗi
khi Bá Nha gảy đàn chỉ có Chung Tủ Kỳ mới hiểu đƣợc tiếng đàn cũng nhƣ
tiếng lòng của Bá Nha. Tuy nhiên, khi Chung Tử Kỳ mất, Bá Nha đã đập cây
đàn, không gảy nữa vì cho rằng không còn ai hiểu đƣợc tiếng đàn của mình.
Đúc vàng cũng không ra đƣợc Chung Kỳ, không làm nên đƣợc một ngƣời
thấu hiểu tiếng đàn của Bá Nha nhƣ ông. Chính vì vậy, tiếng đàn trở nên lạnh
53
lẽo, buồn rầu, cô đơn. Đó cũng chính là nỗi lòng của kẻ sĩ khi không tìm đƣợc
sự thấu hiểu, không tìm đƣợc ngƣời tri âm.
Quan tâm tới thân phận của những nhà thơ, nhà nghệ sĩ tài hoa mà bất
hạnh nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tử Kỳ. Nguyễn Trãi đã thông qua cuộc
đời của những ngƣời tài hoa bất hạnh đó gửi gắm tƣ tƣởng và quan niệm của
mình về cuộc đời và con ngƣời. Cuộc đời của họ dƣờng nhƣ cũng có phần nào
giống với cuộc đời của chính bản thân Nguyễn Trãi, đều “tài hoa mà bạc
mệnh”, đều cô đơn, lạc lõng. Bởi vậy viết về họ cũng chính là Nguyễn Trãi tự
viết về chính mình, với một niềm cảm thƣơng sâu sắc. Nhà thơ tự thƣơng cho
chính cuộc đời “bạc mệnh” của mình.
2.2. Sắc thái khác biệt trong thơ vịnh Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập
2.2.1. Tính suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi tập
Đọc tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập ta bị cuốn hút vào các yếu tố đƣợc
vịnh là hình ảnh thiên nhiên vô vàn hùng tráng, ta say mê trƣớc khí tƣợng của
sông núi đƣợc nhắc đến trong thơ và trên từng câu thơ trữ tình thắm thiết,
trƣớc những nhân vật anh hùng với nhân cách cao khiết, những sự vật thanh
tao,…ta bỗng lặng ngƣời đi trƣớc bề sâu của một tâm hồn vĩ đại. Đó là sự
khắc khoải, chiêm nghiệm, suy tƣ hoài cổ - niềm thao thức lớn trong thơ chữ
Hán của Nguyễn Trãi. Cảm hứng bao trùm trong thơ chữ Hán của đề tài vịnh
phải chăng có thể khái quát trong hai câu thơ này của Nguyễn Trãi:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.
(Vãn hứng)
(Việc đời xƣa nay không cùng, dòng sông bát ngát,
Ngƣời anh hùng cƣu mang nỗi hận, ngàn lá lao xao.)
Ngay cả những bài thơ chữ Hán thấm đẫm phong vị trữ tình cũng
phảng phất nỗi niềm ngƣời anh hùng trƣớc lẽ hƣng phế, đọng lại những hoài
54
niệm về một triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh, là ngƣời, là vật, là thời thế
đã bao nhiêu lần trở đi trở lại trong thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo đƣợc những
rung động khác thƣờng. Một Dục Thúy sơn qua cảm nhận của ông hiện rõ là
nơi Tiên cảnh trụy trần gian với vẻ đẹp thật diễm lệ:
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Vẻ đẹp kiều diễm nhƣ một nàng thiếu nữ của núi Dục Thúy cũng không
làm ông nguôi ngoai hoài niệm về bậc danh tài tiền bối Trƣơng Hán Siêu,
trong mối đồng cảm của ngƣời đề thơ núi Thúy. Đó không chỉ là gặp gỡ của
hồn thơ yêu cảnh đẹp, còn là nhớ bậc tiền nhân đã cống hiến tài trí phò vua
giúp nƣớc:
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiểu hoa ban.
(Dục Thúy sơn)
Nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thƣờng vịnh những phong
cảnh hùng vĩ của đất nƣớc với một bút lực cuồn cuộn, hơi văn dạt dào thể
hiện niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh thắng ấy gắn với những anh
hùng mà bản thân nhà thơ ngƣỡng vọng. Nguyễn Trãi còn nhận thấy giữa
thiên nhiên, vũ trụ vô cùng, vô tận để ngậm ngùi cho sự hữu hạn của kiếp
ngƣời, cho mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc:
Phúc chu thủy tín dân do thủy,
Thủy hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng dị hận kỉ thiên niên.
(Quan hải)
(Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nƣớc,
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời.
55
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày,
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm.)
“Rõ ràng đó là những suy tƣ của nhà thơ về việc tổ chức lực lƣợng
kháng chiến” [24, tr.383]. Cọc gỗ, xích sắt, núi sông hiểm trở là những chuẩn
bị của nhà Hồ cho cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi chỉ ra rằng chở
thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân nên nếu không có đƣợc lòng dân
dẫu có đóng cọc trƣớc sóng biển, giăng xích sắt ở cửa sông, tìm đất hiểm xây
thành đá vững bền cũng chẳng thể nào ngăn đƣợc quân giặc dữ.
Trong thơ của Nguyễn Trãi, chất cảm khái bi tráng trƣớc hình tƣợng
nhân vật anh hùng ấy còn đƣợc thể hiện khá rõ trong nhiều bài thơ khác. Cuộc
đời Ức Trai đã phải trải qua những chuyện thực đau xót, không phải ông
không mang một tâm sự bi thƣơng. Cũng chính vì thế, trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi nhƣ có vƣơng vấn điều gì. Nhà thơ nhƣ đang đứng giữa một
bƣớc ngoặt của quá khứ và tƣơng lai mà đặt dấu hỏi với cuộc đời. Trong thơ
chữ Hán Nguyễn Trãi thƣờng viết về đề tài hoài cổ, chúng ta thấy chất cảm
khái bi kịch của nhà nho khi thấy sự đối lập giữa cái vĩnh hằng của vũ trụ và
cái hữu hạn của đời ngƣời. Trong bài Phú sông Bạch Đằng nổi tiếng, Trƣơng
Hán Siêu cũng nhắc đến các anh hùng quá khứ với cảm khái bi tráng:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
(Bạch Đằng giang phú)
Thơ của Nguyễn Trãi là thơ Chứa hết mọi giang san cũng là nói lên
tình cảm của ông: Liêu bả tân thi tả ngã sầu (Tạm đem thơ mới giải tỏa nỗi
sầu của ta). Cuộc đời của Nguyễn Trãi có tâm sự mà ông không nói lên bằng
lời đƣợc, chỉ có thể nói qua thơ:
Sự kham thế lệ phi ngôn thuyết,
(Thù hữu nhân kiến ký)
(Việc đời đáng rơi nƣớc mắt, không thể nói thành lời)
56
Đó là nỗi đau của kẻ sĩ không gặp thời. Khi lý tƣởng, mộng ƣớc cao
đẹp của ngƣời luôn hăm hở xây dựng đất nƣớc nhƣng mộng ƣớc không thành.
Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập chất cứa nỗi suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lý của
một ngƣời chứng kiến nhiều những bất công, ngang trái, một ngƣời trải
nghiệm từ chính cuộc đời mình những biến đổi khôn lƣờng và những chân lí
bị méo mó. Điều thƣờng thấy trong thơ ông là nỗi đau của kẻ sĩ, một nỗi niềm
chất chứa biết bao băn khoăn trƣớc cuộc đời. Hình ảnh đậm nét đi đi lại lại
trong Ức Trai thi tập là một Nguyễn Trãi suy tƣ, thao thức vì nhiều lẽ, nhiều
cấp độ. Qua thơ Ức Trai, ta nhận ra không hiếm những lần ông trắng đêm
không ngủ nghe mƣa rơi, nghe tiếng chày đập áo, trằn trọc không ngủ:
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
(Thính vũ)
(Trong căn phòng tối tăm vắng vẻ,
Suốt đêm nghe tiếng mƣa rơi.)
Hay: Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
(Thôn xá thu châm)
(Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình ?
Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây.)
Tóm lại, thơ vịnh trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi chất nặng nỗi
suy tƣ, chiêm nghiêm của một ngƣời yêu cuộc sống, yêu đời tha thiết. Ông
hăm hở đem tài năng, sức lực gánh vác việc đời, giúp dân giúp nƣớc nhƣng
gặp phải bi kịch khi lý tƣởng, mộng ƣớc không thành. Thơ vịnh Ức Trai thi
tập gắn với tâm hồn, trí tuệ của Nguyễn Trãi, cũng mang theo cái mạnh mẽ
phóng khoáng của một tấm lòng nặng niềm ƣu ái, bao giờ cũng phảng phất
bóng dáng con ngƣời hăm hở gánh vác giang san, trổ tài kinh bang tế thế để
57
thực hiện hoài bão trí quân trạch dân. Bên cạnh đó là một hồn thơ chất chứa
ƣu tƣ, hoài cổ.
2.2.2. Sự sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh
trong Quốc âm thi tập
Nguyễn Trãi hiện lên qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập là một ngƣời
sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống thiết tha, sâu sắc, mạnh mẽ.
Ông là con ngƣời của thời đại phong kiến, thời đại Nho giáo, nên nội
dung yêu nƣớc cũng mang màu sắc thời đại - một thời đại mà tƣ tƣởng yêu
nƣớc gắn liền với tƣ tƣởng trung hiếu trong quan niệm tình nhà nghĩa nƣớc.
Nhƣng tình nhà nghĩa nƣớc của Nguyễn Trãi lại rộng lớn và sâu sắc hơn rất
nhiều so với thời đại ông, trở thành lí tƣởng của chính ông và mọi thời đại.
Nội dung tiến bộ nhất của tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Trãi là tƣ
tƣởng thân dân, vì dân và chiến đấu cho dân. Tƣ tƣởng ấy trải dài trong suốt
cuộc đời nhà thơ:
Tuy đà chửa có tài lương đống,
Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.
(Cây đa già)
Vịnh cây đa già, tuy không có tài lƣơng đống những cũng đã tỏa bóng
mát cho dân đƣợc nhờ.
Ông đau đớn khi thấy sự đời bất công, ngang trái, thƣơng tiếc cho
những tài năng, nhân cách tốt đẹp nhƣng lại bị che phủ, bị kiểm tỏa, hạn chế.
Còn nhƣ những loài diều hâu, cú bọ, cỏ hèn mọc lan lại nhởn nhơ bay nhảy:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi.
(Tự thuật, bài 9)
Nguyễn Trãi hăm hở cống hiến cho nƣớc, cho dân, nhƣng càng ở với
triều Lê, ông càng thấy cuộc đời lắm chua xót. Mất niềm tin ở triều Lê,
58
Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, sống chan hòa với thiên nhiên. Cũng vì yêu
thiên nhiên ông có hẳn một chùm thơ tiếc cảnh, phần thơ môn hoa mộc và rất
nhiều bài thơ vịnh thiên nhiên.
Thƣởng thức lại bài thơ cô đọng mà thấm đƣợm vẻ tình tứ trong bài thơ
Cây chuối ta thấy đƣợc một con ngƣời rất đời thƣờng trong những cảm xúc,
rung động đời thƣờng:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Tóm lại, thơ vịnh trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ta bắt gặp
một con ngƣời có ý thức cao với tài, đức, lý tƣởng đại dụng và tình yêu cuộc
sống tha thiết với thói phàm tục của ngƣời đời. Đó là một nhân cách lớn hết
sức phong phú, không trùng khít với khuôn mẫu nào.
* Tiểu kết chƣơng 2
Qua khảo sát, thống kê và phân loại chúng tôi nhận diện đƣợc những
đối tƣợng đề vịnh đƣợc Nguyễn Trãi sử dụng. Trƣớc tiên phải khẳng định
rắng số lƣợng các bài vịnh của Nguyễn Trãi lớn, đối tƣợng vịnh phong phú đa
dạng. Có những đôi tƣợng cao quý quen thuộc trong thơ vịnh, cũng có những
đối tƣợng dân dã, gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Ở góc độ này Nguyễn
Trãi đã có những đóng góp cho dòng thơ vịnh thêm phong phú, đa dạng hơn.
Các đề tài chủ yếu tập trung vào thể hiện phẩm chất, lý tƣởng của ngƣời quân
tử. Ngoài ra, thơ vịnh của Nguyễn Trãi còn mang tính giáo huấn cao, có một
lƣợng không nhỏ các bài thơ thể hiện ƣớc mơ, quan điểm của nhà thơ về một
triều đình lý tƣởng. Mặt khác, chúng tôi nhận thấy một Nguyễn Trãi suy tƣ,
chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi tập và một Nguyễn Trãi nhiệt
thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập.
59
Chƣơng 3
HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ VỊNH
TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP
Trong di sản thơ ca còn lại, bên cạnh 254 bài thơ viết bằng chữ Nôm,
105 bài thơ viết bằng chữ Hán là một kết tinh tài năng nghệ thuật của Nguyễn
Trãi. Tiếp cận thơ vịnh trong hai tập thơ Quốc âm thi tập, Ức Trai thi
tập ngoài đề tài vịnh phong phú có thể kể đến những phƣơng diện nghệ thuật
độc đáo góp phần làm nên thành công của thể loại thơ vịnh trong sáng tác của
Nguyễn Trãi. Trong luận văn này chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật sử dụng thể
thơ, hình ảnh thơ, lối ngụ ý, ẩn ngữ, lối dùng điển cố điển tích trong thơ vịnh
của Nguyễn Trãi.
3.1. Thể thơ
Văn học Việt Nam trung đại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của văn học Trung
Hoa trên nhiều phƣơng diện: chữ viết, đề tài, thể loại… Mối quan hệ đặc biệt
đó của Đƣờng thi và thơ ca Việt Nam đƣợc biểu hiện rõ nhất ở phƣơng diện
thể loại. Cha ông ta tiếp thu thể loại thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật để làm
phong phú hơn cho nền thơ ca Việt Nam. Ngƣời làm thơ Đƣờng luật phải
tuân theo những luật lệ, quy tắc khó làm nhất nhƣng lại đƣợc các tiền nhân ƣa
thích, thƣờng dùng để bày tỏ tình cảm, ý chí, xƣớng họa, khai bút đầu xuân,
ngâm vịnh… Nguyễn Trãi trong chùm thơ vịnh của mình cũng đã sử dụng
khá nhuần nhuyễn thể thơ Đƣờng luật. Trong quá trình sáng tác thơ của mình,
Nguyễn Trãi đã vận dụng thi pháp thơ Đƣờng một cách sáng tạo. Thi sĩ đã thử
nghiệm ngòi bút của mình theo hai thứ tiếng Hán, tiếng Nôm. Ở thứ tiếng
nào, Nguyễn Trãi cũng thu đƣợc thành công nhất định.
Trong 36 bài thơ vịnh trong thơ chữ Hán, ông chủ yếu thuộc thể Đƣờng
luật. Ngoài bài Côn Sơn ca theo thể trƣờng thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ
ngôn (3 bài), thất ngôn tứ tuyệt (8 bài), thất ngôn bát cú (24 bài). Thơ chữ
60
Nôm qua khảo sát toàn bộ 54 bài thơ vịnh trong Quốc âm thi tập chúng tôi
thấy có tới 35 bài thơ đƣợc sáng tác theo hình thức thất ngôn xen lục ngôn
(chiếm 64,8%). Trong đó thế tứ tuyệt có 20 bài (chiếm 57,1%), thể thất ngôn
bát cú 15 bài (chiếm 42,9%).
3.1.1. Thể thơ thất ngôn bát cú
Nhìn vào các sáng tác bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi chúng ta nhận
thấy trong thơ vịnh, Nguyễn Trãi thƣờng dùng thể thơ bát cú để sáng tác.
Trong tổng số 38 bài thơ vịnh trong tập thơ chữ Hán, ông sử dụng tới 24 bài
thơ thất ngôn bát cú (chiếm 66,7%). Trong tập thơ vịnh bằng chữ Nôm gồm
54 bài, ông sử dụng duy nhất 01 bài thơ thất ngôn bát cú (chiếm 1,9%). Việc
sử dụng thể thơ này trong thơ vịnh là có lí do.
Nhƣ trên đã nói, thơ vịnh luôn có hai tầng nghĩa song song tồn tại. Một
nghĩa biểu thị sự vật, sự việc, hiện tƣợng, con ngƣời đƣợc miêu tả và một
nghĩa gợi liên tƣởng đến con ngƣời, đạo lý nhân sinh. Sự song hành của hai
tầng nghĩa đó đòi hỏi các nhà thơ phải lựa chọn thể thơ nào có dung lƣợng
ngôn từ phù hợp. Nó phù hợp bởi nếu chọn thể thơ có dung lƣợng ngôn từ ít
sẽ khó có điều kiện miêu tả kỹ sự vật, sự việc, con ngƣời, thời đại đƣợc đề
cập, còn nếu lựa chọn thể thơ có dung lƣợng ngôn từ quá lớn lại e rƣờm rà bởi
dù sao yêu cầu của thơ vịnh mặc dù cần làm rõ đối tƣợng đƣợc miêu tả nhƣng
sự miêu tả phải tinh.
Với kết quả trên cho thấy thể thơ bát cú chiếm ƣu thế trong thơ vịnh
Việt Nam trung đại nói chung và thơ vịnh của Nguyễn Trãi nói riêng. Điều đó
cũng có nghĩa là thơ vịnh có nhu cầu miêu tả nhiều. Đến đây ta có thể hỏi tại
sao nhu cầu miêu tả nhiều mà lại không lựa chọn thể thơ bài luật bởi đây là
thể thơ có thể kéo dài, có thể thoải mái miêu tả đối tƣợng? Thực ra, thể bài
luật là một thể mang màu sắc phô trƣơng nên có ít ảnh hƣởng đến văn học
Việt Nam. Hơn nữa, nhƣ chúng ta biết, thơ vịnh là loại thơ mặc dù lấy sự vật,
61
sự việc, hiện tƣợng, con ngƣời làm đối tƣợng miêu tả nhƣng mục đích cuối
cùng lại hƣớng tới tầng nghĩa ẩn dụ nên sự miêu tả không khéo, rƣờm rà sẽ đi
chệch đặc trƣng của loại thơ này. Vả lại truyền thống của ngƣời Việt thƣờng
ƣa những giá trị nhỏ nhắn, xinh xắn. Thể thơ bát cú đã đáp ứng đƣợc những
yêu cầu trên.
Một bài thơ đƣợc làm theo thể bát cú mặc dù ngắn nhƣng ta thấy khả
năng của nó trong việc tái hiện lại khá đầy đủ về sự vật hiện tƣợng. Chúng ta
hãy nghe Nguyễn Trãi vịnh cảnh Vân Đồn:
Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn,
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đóa thuý hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan.
(Vân Đồn)
(Đƣờng vào Vân Đồn núi rồi lại núi,
Trời lồng lộng đất đặt thành chỗ kỳ quan.
Một tấm sắc lam sắc biếc, kính sáng trong vắt,
Muôn hộc sắc đen sắc xanh, tóc thúy từng chòm.
Vũ trụ bỗng gạn trong biển núi bụi bậm,
Gió song không lay chuyển ruột gan sắt gang.
Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rợn lục,
Nghe nói đó là vùng ngƣời Phiên đỗ tàu.)
Trƣớc mắt chúng ta là một bức tranh thiên nhiên mỹ miều hùng vĩ của
những cây lá um tùm bao bọc khắp các ngọn núi và xõa xuống nhƣ những
62
mái tóc khổng lồ xanh thẫm đƣợc Nguyễn Trãi miêu tả thật ấn tƣợng. Nhƣ
vậy chỉ gói gọn trong tám câu thơ nhƣng ngƣời đọc có thể thấy rõ bức tranh
thiên nhiên nơi cửa biển Vân Đồn và cũng qua đó, ta thấy đƣợc nghĩa ngầm
ẩn, từ vịnh thiên nhiên đến sự khái quát sự đối lập giữa cái vô tận của thiên
nhiên và sự hữu hạn của con ngƣời.
Thơ Đƣờng luật là loại thơ giàu suy tƣ, triết lý, xuất phát từ nội tâm, đi
sâu vào nội tâm. Nội tâm của Nguyễn Trãi ít khi thảnh thơi, thoải mái mà
luôn u uất, đau buồn. Chính vì vậy, thơ vịnh của ông phần lớn là thơ bát cú, tứ
tuyệt, ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Do thơ Đƣờng luật có dung lƣợng ngắn nên
ngôn từ phải cô động, hàm súc có sức chứa lớn để truyền tải ý nghĩa hàm ẩn,
đó cũng là đặc trƣng của thể vịnh.
Nguyễn Trãi là nhà thơ trung đại, sáng tác theo thi pháp trung đại nên
một đặc điểm văn chƣơng thời kỳ đó rất ƣa sự đối xứng. Đối từ ngữ, đối hình
ảnh, đối cấu trúc, đối ngữ nghĩa, đối trong một câu, đối giữa các câu,… Chính
nghệ thuật đối này đã góp phần tạo nên cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật biểu
hiện của thơ vịnh trung đại nói chung, thơ vịnh của nguyễn Trãi nói riêng.
Việc sử dụng nghệ thuật đối giúp cho ý thơ nổi bật, tiết tấu trở nên linh hoạt,
âm hƣởng mạnh mẽ. Vì thế ấn tƣợng để lại trong lòng ngƣời đọc sâu sắc hơn.
3.1.2. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
“Nghĩa rộng là những bài thơ bốn câu, mỗi câu có năm chữ hoặc bảy
chữ. Loại câu năm chữ gọi là ngũ ngôn tứ tuyệt hay ngũ tuyệt. Theo nghĩa hẹp
là một dạng của thơ Đƣờng luật, có quy định bằng, trắc, niêm, đối. Loại này
gọi là luật tuyệt để phân biệt với cổ tuyệt là những bài thơ tuyệt cú không làm
theo thơ Đƣơng luật [6, tr.270]. Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng
tôi hiểu thơ tứ tuyệt theo nghĩa hẹp, nghĩa thứ hai.
Trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi thể thơ tứ tuyệt cũng đƣợc sử dụng với
tần số lớn. Trong 36 bài thơ vịnh của thơ chữ Hán, ông sử dụng 8 bài thơ thất
63
ngôn tứ tuyệt (chiếm 22,2%). Trong thơ vịnh của chữ Nôm, ông sử dụng
nhiều thể thơ này hơn (18/54 bài, chiếm 33,3%).
Do dung lƣợng bài thơ hạn chế hơn nên khi sử dụng thể thất ngôn tứ
tuyệt để vịnh thì những câu miêu tả phải ngắn gọn, hàm súc hơn, các liên
tƣởng càng phải cô động, phần bình luận phải sâu sắc hơn:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
(Tùng, bài 1)
Chỉ vài nét phác thảo, Nguyễn Trãi đã miêu tả về những đặc điểm của
cây tùng. Cây tùng lạ lùng, trƣớc ba tháng mùa đông lạnh lẽo vẫn xanh tƣơi.
Xanh tƣơi không phải để làm cảnh chốn lâm tuyền mà để làm rƣờng cột (đống
lƣơng), có tác dụng lớn (cả dùng). Tài lƣơng đống của nó mấy cây bì kịp.
Cây đa già miêu tả một cây đa già cứ mỗi lần xuân đến lại có lộc mới
xanh tƣơi, những tán lá rậm rạp tỏa bóng cho dân tránh nắng:
Tìm được lâm tuyền chốn dư ng thân,
Một phen xuân tởi một phen xuân.
Tuy đà chửa có tài lương đống,
Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.
(Cây đa già)
Tác giả đã miêu tả ngắn ngon đặc tính của sự vật chỉ bằng một vài chi
tiết đặc sắc. Mặc dù dung lƣợng ngắn gọn nhƣng điều làm cho những bài thơ
vịnh này đƣợc đánh giá cao là bởi tầng nghĩa ẩn sâu sau sự vật đƣợc miêu tả.
Đó là hình tƣợng của một bậc trƣợng phu, có tài lƣơng đống, của ngƣời quân
tử luôn mong ƣớc cống hiến cho dân, cho nƣớc. Cần thấy rằng, thơ vịnh của
Nguyễn Trãi dù miêu tả ít nhƣng vì tâm hồn nhạy cảm của ngƣời nghệ sỹ đã
64
nắm bắt đƣợc cái thần của sự vật nên đối tƣợng đƣợc miêu tả trƣớc hết vẫn là
chính nó, sau đó mới là cái ngoài nó. Với Nguyễn Trãi vịnh là để bộc lộ tình
cảm, khát vọng đối với dân, với nƣớc hết sức sâu sắc.
Tuy thể thơ thất ngôn tứ tuyệt không đƣợc sử dụng nhiều để làm thơ
vịnh nhƣng chúng ta thấy mỗi khi thể thơ này đƣợc sử dụng, kêt quá đƣa lại
là những bài thơ khá toàn bích nhƣ: Tùng (3 bài), Trúc (3 bài), Mai (3 bài),…
(thể thơ thất ngôn), Du sơn tự, Dục Thúy sơn,… (thể thơ ngũ ngôn).
3.1.3. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
Thể thơ này cho thấy sự sáng tạo, phá vỡ tính quy phạm của Nguyễn
Trãi. Nó chỉ xuất hiện trong thơ chữ Nôm. Khảo sát toàn bộ 54 bài thơ vịnh
trong Quốc âm thi tập chúng tôi thấy có tới 35 bài sáng tác theo hình thức thất
ngôn xen lục ngôn (chiếm 64,8%). Trong đó thế tứ tuyệt có 20 bài (chiếm
57,1%), thể thất ngôn bát cú 15 bài (chiếm 42,9%). Nhìn chung câu lục ngôn
trong các bài thơ cũng không nhất định. Phần lớn các bài chỉ có một đến hai
câu sáu tiếng nhƣng cũng có một số ít bài chừng tới 7 câu 6 tiếng xen một câu
7 tiếng, vị trí câu sáu tiếng cũng có sự khác nhau. Có khi ở dòng đầu:
Người đua nhan sắc thuở xuân dương,
Nghỉ chờ thu, cực lạ dường.
(Cúc, bài 1)
Chuốt lòng đơn chẳng bén tục,
Bể tiết ngọc kể chi sương.
(Cúc đỏ)
Chẳng hạn về đề tài Trúc, tác giả viết ba bài liên hoàn, mỗi bài đều có
câu sáu tiếng. Bài 1 đƣợc dùng ở câu thứ tƣ, bài 2 ở câu thứ nhất, bài 3 ở câu
thứ hai và câu thứ tƣ.
Việc sử dụng thể thơ sáu chữ xen bảy chữ với tần số cao cùng với số
câu và vị trí câu sáu chữ không ổn định thể hiện sự thử nghệm, tìm tòi của
65
Nguyễn Trãi trong việc sáng tác thơ Nôm của mình. Câu thơ 6 tiếng xen
ngang bài thơ làm nổi bật đặc điểm của đối tƣợng vịnh, nhấn mạnh vào đặc
tính của đối tƣợng.
Song song với việc phá cách thể thơ ở số chữ trong câu, Nguyễn Trãi
có những cách tân độc đáo trong nhịp điệu. Dƣới ngòi bút của Nguyễn Trãi,
ông đã có những kiến tạo độc đáo trong nhịp điệu thơ của mình. Bằng cách
thêm những câu thơ sáu chữ xen vào những câu bảy chữ, tiết điệu của bài thơ
trở nên phong phú hơn.
Câu lục ngôn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi có nhiều cách ngắt nhịp.
Nhịp 3/3:
Chiều mai nở / chiều hôm rụng,
(Hoa dâm bụt)
Nhịp 1/2/3:
Dành / còn để trợ / dân này.
(Tùng, bài 3)
Nhịp 2/2/2:
Dài hàm / nhọn mũi / cứng lông.
(Lợn)
Sự đa dạng trong nhịp điệu của câu thơ lục ngôn cũng tác động rất lớn,
làm thay đổi nhịp trong câu thơ thất ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không
còn giữ nguyên vẹn nhịp 4/3 mà có sự chuyển biến rõ rệt.
Nhịp điệu không những tạo nên tính nhạc trong thơ mà còn có khả năng
tạo nghĩa rất lớn. Chỉ cần ngắt nhịp chệch đi một chữ, câu thơ đó sẽ mang lại
những cách hiểu nghĩa khác nhau. Ở Quốc âm thi tập việc sử dụng cách ngắt
nhịp theo kiểu song thất lục bát khác với kiểu ngắt nhịp trong thơ Đƣờng đã
góp phần tâm trạng hoà tâm hồn Nguyễn Trãi. Điều đó cũng tạo nên một lớp
nghĩa hàm ẩn sâu sắc của thơ vịnh.
66
Nhƣ vậy, với việc sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cách gieo
vần lƣng ở những vị trí không cố định, kết hợp với lối kiến tạo nhịp điệu thơ
Nôm, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đổi mới thơ ca theo hƣớng dân tộc
hoá. Trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa truyền thống của dân tộc và những
thành tựu đặc sắc của Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã phá vỡ những quy định
nghiêm ngặt của thơ Đƣờng Luật, làm cho câu thơ, bài thơ trở nên gần gũi, dễ
nhớ, dễ thuộc. Đồng thời, nó cũng góp phần chuyển tải tiếng nói yêu nƣớc
thƣơng dân, niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi với công chúng
bạn đọc sau này. Có thể nói, với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã khẳng định
đƣợc vị thế của thơ Nôm của ông nói riêng, thơ Nôm của dân tộc nói chung
trong tiến trình phát triển của văn học nƣớc nhà.
3.2. Hình ảnh thơ
Ngƣời xƣa thƣờng viết về những hình ảnh thiên nhiên với: phong, hoa,
tuyết, nguyệt. Thơ Nguyễn Trãi cũng vậy. Những ngƣời bạn quen thuộc ở
trong thơ các nhà nho ẩn dật cũng đƣợc Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đầy đủ:
tùng, cúc, trúc, mai, sen, lan, quỳ, lựu, chè, vƣợn, hạc, rùa, mây, gió, trăng,
núi, tuyết, sƣơng, sông, hồ, con thuyền nhỏ, chiếc thuyền câu, cái cuốc, cái
cày, am quạnh, lều con, hƣơng trầm,… Cùng một số “thi cụ” nhƣ rƣợu, đàn,
án sách, con cờ,…
Trong Ức Trai thi tập những hình ảnh thơ đƣợc vịnh hầu hết đều là
những hình ảnh núi non hùng vĩ nhƣ Bạch Đằng, núi Long Đại, Dục Thúy,
Vân Đồn, Yên Tử,… Đó đều là những hình ảnh đẹp, kỳ vĩ, mỹ lệ của đất
nƣớc với bút lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt nhƣ thuở Bình Ngô, một
Thần Phù hải khẩu :
Kình phun lãng hống thôi nam bắc,
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
(Sóng rồng nhƣ kình phun, sấm gầm ở nam và bắc,
Núi liên nhƣ giáo dựng, ngọc bày cả trƣớc và sau.)
67
Một Vân Đồn: Thiên khôi địa thiết phó kì quan, một Bạch Đằng hải
khẩu:
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
(Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng,
Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng.
Nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một,
Nhƣ mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lơp chồng.)
Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh
thắng cũng đồng thời gắn với những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngƣỡng
vọng: Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm lăng của vua
Chiêm Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dƣ,
bao triều đại anh hùng vùi thây quân giặc cƣớp trên sóng Bạch Đằng. Nhƣng
đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tƣơng quan trời đất, con
ngƣời khi suy ngẫm trƣớc cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận
anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc:
Phúc chu thủy tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
(Quan hải)
(Thuyền bị lật mới tin rằng dân nhƣ nƣớc,
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Hoạ phúc có manh mối không phải một ngày,
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.)
68
Có lẽ chƣa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc nhƣ
Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhƣng muốn thành nghiệp lớn
phải gắn với nhân dân nhƣ thuyền với nƣớc.
Nhƣ vậy, loại thơ đề vịnh phong cảnh đất nƣớc vốn là di tích chiến
trƣờng vinh quang hay cay đắng này đã làm thành một dòng thơ bất tận gắn
với lịch sử đau thƣơng nhƣng anh hùng của dân tộc, gắn với niềm tự hào về
thiên nhiên kì vĩ, mĩ lệ của Tổ quốc.
Xuyên suốt những bài thơ vịnh của Ức Trai là những hình ảnh quen
thuộc của thơ ca cổ điển nhƣ: tùng, cúc, trúc, mai, phong, hoa, tuyêt,
nguyệt,… biểu tƣợng cho cốt cách thanh cao của ngƣời quân tử. Ẩn sau mỗi
hình ảnh là cả một thế giới hình tƣợng đậm đặc chất Đƣờng thi đã trở thành
khuôn mẫu. Song có thể phủ nhận các hình tƣợng ấy đã có sự gia công nghệ
thuật của Nguyễn Trãi, phá vỡ đi khuôn khổ khô cứng mà thổi vào đó cái hồn
rất riêng của cảnh vật. Qua đó thấy đƣợc nét độc đáo của văn chƣơng trung
đại trên con đƣờng phá vỡ tính quy phạm, ƣớc lệ.
Trong Quốc âm thi tập ngoài những hình ảnh mang tính ƣớc lệ, tƣợng
trƣng nhƣ tùng, trúc, cúc, mai; long, ly, quy, phƣợng là những biểu tƣợng
muôn đời của thơ ca cổ điển. Ta còn bắt gặp cả những hình ảnh gần gũi, đời
thƣờng cũng đƣợc ông vịnh với cái nhìn đời hơn, thực hơn:
Dài hàm mũi nhọn cúng lông,
Được dư ng vì chưng có thửa dùng.
(Lợn)
Hay:
Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây,
Phụng sự Như lai trộm phép thầy.
Hơn chó được ngồi khi mặt bếp,
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây.
69
Đi nào kẻ cấm buồng the kín,
Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy.
Khó liễn sang chăng n phụ,
Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.
(Mèo)
Chuối là một cây rất quen thuộc, trồng gần nhà, nhƣng ít ai để ý tới nó,
ngƣời ta chỉ chú ý kĩ tới nó nhiều nhất có lẽ vào lúc có tâm trạng buồn đau.
Ca dao xƣa có nói:
Trông ra bụi chuối là tre
Em nghe ai dụ, đánh què chim anh.
Bây giờ “bụi chuối” theo “là tre” khẽ rung động chuyển mình theo
chiều gió với vẻ thoả thích, hoặc nếu là đêm tối, chúng luôn biến dạng tạo nên
những hình thù thiếu minh chính của chúng
Cũng bắt nguồn từ câu chuyện tình trong cao dao xƣa, đến Nguyễn
Trãi, hình ảnh cây chuối đƣợc xây dựng với nhiều sáng tạo mới. Cây chuối
trở thành “một bức tình thƣ” cuộn tròn, e ấp nhƣng không kém phần rạo rực
sôi nổi:
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem…
(Cây chuối)
Nguyễn Trãi viết: Tự bén hơi xuân lại tốt thêm. Ở Nguyễn Trãi, hình
ảnh cây chuối đƣợc mùa xuân bồi đắp cho tình xuân, sức xuân. Do đó khi bắt
gặp hơi hƣớng tốt lành đó, chuối đã tốt “lại tốt thêm”. Từ hệ quả đó nảy sinh
ra “buồng lạ” - “lạ” là lạ lùng và thú vị, chứ không phải lạ hiểu theo cách
thông thƣờng. Cùng với sự thú vị ấy, chuối đã toả ra những hƣơng thơm ngào
ngạt suốt đêm. Điều đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã mƣợn hình ảnh cây
chuối để thể hiện cảm xúc sâu sắc, kín đáo. Từ lâu chúng ta đã biết thuật ngữ
70
“phong thƣ” là biệt danh của cây chuối. Thế nhƣng chƣa ai ví tàu lá chuối non
nhƣ một bức tình thƣ “phong còn kín”. Sự liên tƣởng này là một sự liên tƣởng
độc đáo chỉ đến Nguyễn Trãi mới có và cũng ví nó tình tứ, e ấp, cuộn tròn,
kín đáo nhƣ vậy nên ngay cả ngọn gió đến với nó cũng không phải là ngọn
gió vô tình. Nhƣ vậy, bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi không chỉ nhằm
miêu tả cây chuối theo nghĩa tự thân của nó - đầy đặn và đầy sức sống - mà
hấp dẫn hơn, lạ lẫm hơn, nó là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của tình yêu dịu
dàng, tế nhị. Cũng nhằm biểu hiện tình yêu nhƣng đến Nguyễn Trãi, hình ảnh
cây chuối đã có những cách tân vƣợt bậc, mang giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân
văn sâu sắc.
Tóm lại, qua sự khảo sát thế giới hình ảnh trong Quốc âm thi tập,
chúng tôi thấy hầu hết đó là những hình ảnh có phần xa lạ với văn văn chƣơng
bài học đƣơng thời. Sở dĩ có hiện tƣợng đó vì Nguyễn Trãi trên cơ sở gắn bó
hết mình với cuộc sống nhân dân và bằng tình yêu thiên nhiên, yêu cây cỏ,
yêu cảnh vật hàng ngày, ông đã đƣa những sản vật của nhân dân của thơ ca
dân gian vào thơ mình một cách tự nhiên, trở thành đối tƣợng của cái đẹp.
Điều này thể hiện sự thay đổi trong cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ
theo chiều hƣớng dân chủ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.
3.3. Lối ngụ ý, ẩn ngữ
Lối ngụ ý, ẩn ngữ là lối nói quen thuộc của văn chƣơng trung đại để tạo
nên tính hàm súc, cô động của thơ; do thói quen ƣa nói ít hiểu nhiều, kị nói
thẳng ra mọi thứ. Bài thơ vịnh thƣờng kí thác tâm sự qua việc miêu tả về sự
vật, ẩn sau những sự vật đƣợc miêu tả là ngụ ý tƣ tƣởng mà nhà thơ gửi gắm,
vì vậy lối ngụ ý, ẩn ngữ đƣợc sử dụng nhƣ một biện pháp đắc lực nhất cho
việc thể hiện hai tầng nghĩa của loại thơ này. Có một điều khá đặc biệt trong
thơ vịnh là hình tƣợng ngụ ý, ẩn ngữ đã đƣợc dựng lên ở cả hai mức độ: hình
ảnh tƣợng trƣng và hình ảnh đời thƣờng.
71
Đề tài vịnh thiên nhiên chiếm một vị trí quan trọng trong thơ Nguyễn
Trãi. Thi nhân nhƣ một kẻ đi tìm cái đẹp, và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp
đã gọi mời thi nhân. Với thi nhân, thiên nhiên trở thành ngƣời bạn tâm giao.
Điều này đã lí giải vì sao những ngụ y, ẩn ngữ trong mảng thơ vịnh thiên
nhiên của Nguyễn Trãi lại đƣợc ông rất ƣa chuộng. Cỏ cây hoa lá trong thơ
ông tràn đầy sức sống. Chúng là hiện thân của những đức tính cao đẹp vốn
thƣờng thấy ở những bậc trƣợng phu, những đấng quân tử. Nguyễn Trãi làm
thơ để ca tụng vẻ đẹp của chúng, và cũng để bày tỏ lòng mến yêu, khâm phục
của ông trƣớc cái đẹp cao quý của chúng.
Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập có nhiều bài vịnh về các loài cây
nhƣ tùng, cúc, trúc, mai,... để ngợi ca phẩm chất của ngƣời quân tử. Ví nhƣ ba
bài Trúc liên hoàn sau:
Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,
Ưa mày vì bởi tiết mày thanh.
Đã từng có tiếng trong đời nữa,
Quân tử ai chẳng mảng danh?
Danh quân tử, tiếng nhiều ngày,
Bảo khách tri âm mới biết hay.
Huống lại nhưng nhưng chẳng bén tục,
Trượng phu tiết cứng khác người thay.
Trượng phu tiết cúng khác người thay,
Dư ng dụ trời có ý vay?
Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa,
Chúa xuân ngẫm càng huyễn thay!
72
Nhƣ vậy, ngay trong những ẩn ngữ quen thuộc, tác giả đã khai thác
những nội dung mới làm cho hình tƣợng thơ có thêm sắc thái ý nghĩa mới,
phẩm chất cao đẹp của ngƣời quân tử, đó là hƣớng tới mục đích cao đẹp:
“dành còn để trợ dân này”. Đây quả thực là một đóng góp quan trọng trong
việc làm thơ vịnh trở nên hoàn thiện hơn trong việc bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm.
Với lối nói ngụ ý, ẩn ngữ Nguyễn Trãi còn sáng tạo nên những hình
ảnh rất đời thƣờng. Điều thú vị là viết về những sự vật thật giản dị, dân dã
nhƣng những sự vật ấy lại ẩn dụ cho vấn đề quan trọng: phẩm chất của kẻ sĩ
quân tử, quan hệ minh quân với lƣơng thần, vấn đề triều chính,... Trong thơ
vịnh của Nguyễn Trãi, lối ngụ ý, ẩn ngữ đã đƣợc sử dụng nhiều. Những sự vật
đời thƣờng qua ngòi bút Nguyễn Trãi đã có khả năng biểu đạt tƣ tƣởng, nội
dung lớn.
Với đặc điểm cùng một lúc chuyển tải hai lớp nghĩa, lối ngụ ý, ẩn ngữ
đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa cho một bài thơ vịnh.
3.4. Lối dùng điển tích, điển cố
Sử dụng điển tích, điển cố là một hiện tƣợng phổ biến của thơ ca trung
đại. Vì vậy việc các nhà thơ khi vịnh thƣờng dùng điển tích, điển cố là việc dễ
hiểu. Có điều, mức độ sử dụng ở mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi tác giả có khác
nhau. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy trong thơ vịnh Nguyễn Trãi đã sử
dụng các điển tích, điển cố rất đa dạng, phong phú cẩ về số lƣợng lẫn đề tài.
Điển bao gồm cả điển tích và điển cố đƣợc biểu hiện trong tác phẩm
văn học dƣới hình thức một chữ, một ngữ hay một câu, đƣợc nhà văn, nhà thơ
rút gọn từ những chuyện trog lịch sử, kinh sách đời trƣớc. Thông qua việc giải
mã các điển, ngƣời đọc sẽ hiểu đƣợc ngụ ý của tác phẩm. Điển cũng đcƣợc
coi là biện pháp tu từ đặc biệt có ý nghĩa lớn, giúp nhà văn, nhà thơ xây dựng
hình tƣợng nghệ thuật mang tính ƣớc lệ, tƣợng trƣng cao. Thơ vịnh với đặc
điểm miêu tả sự vật để thông qua đó ngụ ý ẩn chứa tƣ tƣởng. Điển sẽ giúp lời
73
văn thêm cô động, hàm súc, ý tại ngôn ngoại, kết cấu tác phẩm trở nên ngăn
gọn, súc tích, hợp lý,... Dùng điển thể hiện đƣợc trình độ của nhà văn, tránh lộ
ý và thể hiện đƣợc sự uyên bác, tài năng nghệ thuật của ngƣời dùng. Giúp văn
bản nghệ thuật sang trọng, mỹ lệ, đạt hiệu quả thẩm mĩ cao. Đối với thơ vịnh,
điển giúp chuyển tải hai lớp nghĩ, một lớp nghĩa hiển thị ở con chữ, một lớp
nghĩa ẩn sau ở nghĩa của điển đƣợc dùng.
Thơ vịnh của Nguyễn Trãi ngoài Côn Sơn ca sáng tác theo thể trƣờng
thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thất ngôn xen lục ngôn. Đây
là thể thơ chịu sử quy định bởi số câu, số chữ, dung lƣợng của bài thơ bị hạn
chế. Ở phạm vi hạn hẹp của số chữ, nhà thơ vịnh vẫn phải đảm bảo chuyển tải
nội dung hàm ẩn của bài thơ. Chính vì vậy, điển là một nghệ thuật thỏa mãn
đƣợc việc diễn đạt mà tác phẩm vẫn cô động.
Dùng điển là biện pháp nghệ thuật hấp dẫn, thú vị. Tuy nhiên, vì điển
thƣờng rút ra từ lịch sử, sách Trung Hoa nên ngƣời dùng điển và tiếp nhận
phải có kiến thức sâu rộng. Ngoài ra, ngƣời dùng điển còn phải có những rung
động thực sự. Nói nhƣ Trƣơng Chính: “Điển vào tay những ngƣời không rung
động mà cứ muốn làm thơ, thì dùng điển trở thành trò đố chữ” [24, tr.401].
Nguyễn Trãi là nhà thơ đầy tài năng, ông dùng điển trong sáng tác của mình
rất khéo, ngƣời đọc dễ dàng tìm kiếm, hiểu đƣợc. Trƣơng Chính cho rằng:
“Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng có điển cố, nhƣng không nhiều. Điển cố
khó, càng ít. Những ngƣời dịch thơ ông không mất công tìm kiếm lắm đã chú
thích đƣợc” [24, tr.401]. Tôn Quang Phiệt nhận xét về nghệ thuật trong Ức
Trai thi tập cũng khẳng định: “Nguyễn Trãi dùng điển tích rất khéo, có khi
ngƣời đọc dù không rõ điển tích cũng có thể hiểu nghĩa dễ dàng” [24, tr.358].
Từ việc khảo sát nghệ thuật dùng điển trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi,
chúng tôi nhận thấy việc sử dụng điển góp phần giúp nhà thơ bày tỏ chí
hƣớng, đồng thời kín đáo bộc bạch những tâm sự của bản thân. Với đặc điểm
74
cô đọng về ý nghĩa, nổi bật về sắc thái, điển tích, điển cố có sự biểu đạt lớn.
Chúng ta gặp trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi một số lƣợng điển tích, điển cố
phong phú, đa dạng nội dung về xã hội, con ngƣời, thiên nhiên, tình yêu.
Thơ vịnh là loại thơ lấy tự nhiên giới làm đối tƣợng miêu tả nhƣng hình
ảnh ẩn dụ xuyên suốt lại là tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời. Cùng một lúc phải
thể hiện hai lớp nghĩa nên các tác giả thƣờng sử dụng điển tích, điển cố. Với
sức gợi rất lớn, điển tích, điển cố sẽ góp phần nâng cao khả năng biểu đạt và
tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, của hình tƣợng văn học.
Nguyễn Trãi là một nhà nho quân tử, nhƣ nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ
Lai Thúy viết: “Hiện thân của con ngƣời quân tử là những nhà văn hóa lớn
của thời Lê sơ. Trƣớc hết là Nguyễn Trãi” [33, tr.237].
Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi vịnh các
danh nhân Trung Hoa nhƣ: Bá Nha, Chung Tử kỳ, Lý Bạch. Những nhân vật
lịch sử này ít nhiều đều có điểm tƣơng đồng với số phận Nguyễn Trãi. Sử
dụng điển về các nhân vật Trung Hoa là cách ông soi mình vào họ để thấy rõ
mình hơn, để tìm sự đồng cảm.
Thời gian làm quan dƣới triều Lê, Nguyễn Trãi hăm hở thực hiện lý
tƣởng, mong muốn xây dựng xã hội “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”.
Nhƣng chính thời gian này, ông rơi vào bi kịch. Chứng kiến những công thần
bị sát hại, bản thân ông cũng bị nghi oan, may mắn thoát tội. Mƣợn điển Chu
Công, Y Doãn, kim đằng, ông thổ lộ tâm sự u uất của mình trƣớc thời cuộc:
Ý thân phụ chính tưởng Chu công,
Xử biến thùy tương Y Doãn đồng,
Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,
Kim đằng cố sự cảm ngôn công.
(Chu công phụ Thành vương đổ)
(Ngƣời thân tốt phụ chính nhớ đến Chu công,
75
Xử cảnh quyền biến, ai đem để cùng với Y Doãn?
Lời trối ở ghế ngọc luôn luôn để dạ,
Cái hộp kim đằng trƣớc kia đâu dám bảo là công).
Chu Công, Y Doãn đều là những bậc anh hùng, bậc hiền tài có công lớn
giúp vua dựng nƣớc. Y Doãn có công giúp vua nhà Thƣơng diệt nhà Hạ, dựng
nên sự nghiệp nhà Thƣơng. Đang hăm hở xây dựng đất nƣớc, ông luôn coi
trách nhiệm gánh vác việc thiên hạ là trên hết thì vua Thành Thang mất, Thái
Giáp lên nối ngôi. Thái giác bạo ngƣợc, vô đạo. Y Doãn hết lời khuyên vua
nên tu sửa theo pháp chế vua Thang những Thái Giáp không những không
nghe còn đẩy ông đi đày ở đất Đông Cung rồi tự mình nhiếp chính. “Kim
đằng” là cái hộp bằng vàng đƣợc gắn chặt. Khi Chu Vũ Vƣơng ốm nặng, Chu
Công đã viết bài cáo với thần linh xin nguyện chết thay vua. Ông bỏ bài cáo
vào hộp, lấy vàng gắn chặt. Vũ Vƣơng đã khói bệnh. Về sau, Vũ Vƣơng mất,
Thành Vƣơng lên ngôi. Do Thành Vƣơng còn nhỏ nên Chu Công đã nhiếp
chính. Thành Vƣơng bị bọn nịnh thần xúi giục đã nghi oan cho Chu Công,
đày ông sang Đông Đô. Chu Công làm bài thơ gửi về dâng Thành Vƣơng tỏ
rõ lòng mình, nhƣng Thành Vƣơng vẫn không tin. Đến khi dân chúng hoảng
loạn do mất mùa, Thành Vƣơng cho là điềm chẳng lành, bèn mở hộp kim
đằng, thấy từ khấn của Chu Công, thấy rõ công lao, lòng trung của ông. Ẩn
sau điển Y Doãn, Chu Công với “kim đằng”, ta nhận ra hình ảnh Nguyễn
Trãi. Công lao của ông đối với việc xây dựng nhà Lê có khác gì Y Doãn, Chu
Công. Và số phận ông chẳng phải nhƣ Y Doãn, Chu Công đó sao? Ông từng
bị nghi ngờ, gièm pha, có lần bị giam vào ngục… Cả bài thơ chỉ nói đến
chuyện ngƣời xƣa, nhƣng cách dùng điển rất đắc địa của Nguyễn Trãi đã trở
thành một mã khóa để ta hiểu đƣợc tình ý của nhà thơ.
Nguyễn Trãi sử dụng điển một mặt nhắc đến những tấm gƣơng snags
về lòng trung, mặt khác nói lên chí hƣớng và tâm sự u uất của mình. Trong
bài Đề Bá Nha cổ cầm đồ, Nguyễn Trãi nhắc tới điển “Bá Nha, Tử Kỳ”:
76
Chung Kỳ bất tác chú kim nan,
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy,
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
(Đề Bá Nha cổ cầm hồ)
(Không làm đƣợc Chung Kỳ vì đúc vàng khó,
Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.
Đêm lạnh vòm trời biếc lạnh nhƣ nƣớc,
Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm).
Bá Nha là ngƣời đàn hay, Chung Tử Kỳ là ngƣời sành nghe tiếng đàn
đó. Hai ngƣời là bạn tri âm, tri kỉ của nhau. Khi Tử Kỳ mất, Bá Nha đập đàn
không gảy nữa vì cho rằng sẽ không có ai trên đời này hiểu đƣợc tiếng đàn
của mình. Mƣợn điển Bá Nha, Tử kỳ, Nguyễn Trãi muốn nói tới sự đồng cảm,
tri âm của ngƣời nghệ sĩ. Gắn với cuộc đời của chính ông, đang cô đơn, lạc
lõng trƣớc thực tãi đau buồn.
Dùng điển giúp Nguyễn Trãi kín đáo bộc lộ đƣợc tâm sự khó nói của
mình. Nhắc tới công lao của công thần, giúp vua, can vua nhƣng bị chối bỏ:
Tế thì nho thuật sinh bình hữu,
Gián chúa trung ngôn tử hậu tri.
(Thiều Châu văn hiến miếu)
(Cứu đời thuật nhà nho bình sinh vẫn có,
Can chúa lời trung trực sau chết mới hay).
Ngôn tử hậu tri là điển nhắc tới Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh. Ông biết
thế nào An Lộc Sơn cũng làm phản nên đã hết lời can vua nhƣng vua Đƣờng
lúc đó không tin. Sau khi Trƣơng Cửu Linh chết, An Lộc Sơn làm phản, vua
Đƣờng lúc ấy mới biết Trƣơng Cửu Linh là tiên tri, là trung thần. Nguyễn
Trãi có khác gì Trƣơng Cửu Linh, đã bao lần can ngăn, khuyên bảo các vua
77
nhà Lê, nhƣng lời trung thần bị nghi hoặc bởi những lời của bọn nịnh thần.
Và rồi, kết cục đau buồn đã xảy ra, trung thần bị sát hại, Nguyễn Trãi chịu nỗi
oan giết vua chịu tội chu di tam tộc. Và sau khi ông chết, hơn hai mƣơi năm
sau Lê Thánh Tông mới nhận ra: “Ức Trai tâm thƣợng quang khuê tảo”.
Ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng xây dựng xã hội “Dân Nghiêu Thuấn, vua
Nghiêu Thuấn” của Nguyễn Trãi đã không diễn ra nhƣ mong đợi. Ngƣợc lại,
phải chứng kiến bao hiện thực đau lòng: “Oa dốc kinh khan nhật Tấn Tần“
(Mạn thành), “Kê trùng tự thử liễu tƣơng tranh” (Thu dạ khách cảm),... ông
không khỏi cay đắng xót xa. “Kê trùng” là sử dụng điển của nhà thơ Đỗ Phủ.
Bài thơ Phược kê hành (Bài hát trói gà) có câu: “Kê trùng đắc thất vô liễu
thì”. Gà và bọ đƣợc thua không bao giờ xong. Cuộc sống nhƣ vòng tròn luẩn
quẩn… Phải chăng từ những trải nghiệm của chính bản thân mình, Nguyễn
Trãi đã đúc kết thành một triết lý về cuộc đời thấm đẫm sự chua chát.
Tóm lại, điển trong thơ Nguyễn Trãi thật sự là một phƣơng tiện ngôn
ngữ hữu hiệu hỗ trợ nhà thơ trong việc bộc lộ chí hƣớng và những tâm sự một
cách kín đáo, tế nhị. Nhờ vào việc sử dụng điển, một mặt Nguyễn Trãi thể
hiện đƣợc thái độ, tƣ tƣởng, tình cảm của mình, mặt khác, qua ý nghĩa biểu
trƣng của điển, ngƣời đọc cũng hiểu đƣợc chí hƣớng, tâm sự, tình cảnh và vị
thế của ông trƣớc thời cuộc. Thơ vịnh nằm trong huyết mạch chung của thơ ca
trung đại nên tất yếu bị chi phối bởi thi pháp văn học thời kì này. Bởi vậy,
việc Nguyễn Trãi sử dụng nhiều điển tích, điển cố trong sáng tác thơ vịnh là
điều dễ hiểu.
* Tiểu kết chƣơng 3
Trong thơ vịnh, Nguyễn Trãi chủ yếu sử dụng bút pháp ƣớc lệ, tƣợng
trƣng, lối ngụ ý, ẩn ngữ để miêu tả sự vật, sự việc và gợi mở tâm tình ẩn sâu
của nhà thơ. Nguyễn Trãi vừa sử dụng hình ảnh ƣớc lệ quen thuộc vừa đƣa
vào các hình ảnh ƣớc lệ mới, tạo nên giá trị biểu cảm riêng. Ông chủ yếu sử
78
dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật và có sự cách tân, sáng tạo với thể
thơ thất ngôn xen lục ngôn. Ông còn sử dụng khá thành công các điển cố,
điển tích. Các điển đƣợc sử dụng thƣờng liên quan đến các danh sĩ nổi tiếng
của triều đại xƣa, các hình ảnh minh vƣơng và các triều đại thái bình thông
qua đó gửi gắm ƣớc mơ, lí tửng và cả quan điểm về phẩm chất cao đẹp của
ngƣời quân tử.
79
KẾT LUẬN
Thơ vịnh là loại thơ có vị trí quan trọng trong văn học trung đại Việt
Nam. Thơ vịnh lấy thiên nhiên, sự vật, sự việc, con ngƣời làm trung tâm tác
phẩm, ngƣời vịnh thông qua đặc điểm của đối tƣợng để gợi mở, gửi gắm
những tâm tƣ tình cảm, triết lý của mình. Vì thế, thơ vịnh cũng là loại thơ “thi
ngôn chí”. Thơ vịnh có một quá trình hình thành, phát triển riêng qua các thời
kỳ khác nhau. Trong tiến trình phát triển của thơ vịnh, có thể nói, Nguyễn
Trãi là một trong những tác giả lớn.
Qua việc tìm hiểu thơ vịnh của Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy thơ vịnh
của ông chiếm vị trí quan trọng trong thơ ca của ông nói riêng và trong dòng
thơ vịnh Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó đề tài vịnh trong thơ Nguyễn Trãi
cũng rất phong phú và đa dạng bao gồm cả vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh con
ngƣời, vịnh thời thế. Ở mảng thơ đề vịnh nào cũng đạt đƣợc thành công nhất
định. Qua thơ vịnh của Nguyễn Trãi giúp ngƣời đọc có cái nhìn toàn diện hơn
về bức tranh xã hội xƣa, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tìm hiểu tâm
sự nhà thơ. Nó giúp ngƣời đọc có thêm tri thức về cảnh vật, lịch sử, con
ngƣời, thời đại và những quan điểm cách nhìn nhận, đánh giá của nhà thơ với
đối tƣợng đó. Điều quan trọng hơn cả là thông qua những đối tƣợng đƣợc
vịnh ấy nhà thơ gửi gắm thông điệp, tƣ tƣởng về hiện tại và bộc lộ tâm sự
thầm kín của mình. Về nghệ thuật, nhìn chung thƣ vịnh của Nguyễn Trãi
không có nhiều đột phá so với các nhà thơ vịnh trƣớc và sau ông. Ông sử
dụng các bút pháp quen thuộc của văn học trung đại nhƣ thể thơ, hình ảnh
thơ, lối ngụ ý, ẩn ngữ, dùng điển để miêu tả các sự vật, sự việc gợi về tâm tƣ,
tình cảm của mình.Tìm hiểu thơ vịnh của Nguyễn Trãi giúp chúng ta hiểu
thêm phần nào về con ngƣời ông với những suy tƣ, trăn trở trong cuộc đời.
Đó là một Nguyễn Trãi chất nặng suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh
80
trong Ức Trai thi tập. Đó là một Nguyễn Trãi sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và
tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi xứng đáng với con ngƣời rất đẹp
của ông, đó là cống hiến to lớn cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Thơ
văn Nguyễn Trãi đúc kết đƣợc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc
biệt là những vần thơ vịnh đã thể hiện đƣợc quan niệm, triết lí sống của đại thi
hào dân tộc này. Thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi cho thấy tác giả là ngƣời có
nhân cách cao cả, nỗi niềm đau đáu bởi chí hƣớng không thành, nhƣng luôn
mong ƣớc về một nền chính trị có vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Có
thể nói, Nghiên cứu thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi là chìa khóa đi vào tìm hiểu thơ văn trung đại, tìm hiểu xã hội
đƣơng thời cũng nhƣ vẻ đẹp nhân cách con ngƣời Ức Trai.
81
BẢNG THỐNG KÊ
1. Vịnh thiên nhiên
Tập thơ Ức Trai thi tập
Cỏ cây, hoa Danh Hiện tƣợng
lá, chim lam tự nhiên TT Tên bài vịnh thú, rừng thắng (nắng, mƣa,
suối… cảnh gió, bão…)
1 Tiên Du tự x
2 Thính vũ x
3 Dục Thúy sơn x
4 Mộng sơn trung x
5 Đề Vân Oa x
6 Trãi đầu xuân độ x
7 Mộ xuân tức sự x
8 Vân Đồn x
9 Bạch Đằng hải khẩu x
10 Quan hải x
11 Đề thạch trúc oa x
12 Vọng doanh x
13 Quá Thần Phù hải khẩu x
14 Thần Phù hải khẩu x
15 Long Đại nham x
16 Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự x
82
17 Đề Bão Phúc nham x
18 Đề Ngọc Thanh quán x
19 Côn Sơn ca x
20 Tĩnh Yên vãn lập x
21 Quá hải x
22 Thái Thạch hoài cổ x
23 Lam Quan hoài cổ x
24 Thiều Châu tức sự x
25 Du Nam Hoa tự x
26 Tầm Châu x
27 Ngô châu x
28 Quá lĩnh x
29 Bình Nam dạ bạc x
Tập thơ Quốc âm thi tập
Cỏ cây, hoa Danh lam Hiện tƣợng TT Tên bài vịnh lá, chim thú, thắng cảnh tự nhiên rừng suối…
1 Thơ mai x
2 Mai già x
3 Cúc (I) x
4 Cúc đỏ x
5 Tùng (I) x
6 Tùng (II) x
83
7 Tùng (III) x
8 Trúc (I) x
9 Trúc (II) x
10 Trúc (III) x
11 Mai (I) x
12 Mai (II) x
13 Mai (III) x
14 Hoa đào (I) x
15 Hoa đào (II) x
16 Hoa đào (III) x
17 Hoa đào (IV) x
18 Hoa đào (V) x
19 Hoa đào (VI) x
20 Mẫu đơn hoa x
21 Cây chuối x
22 Hoa râm bụt x
23 Cúc (II) x
24 Hoa mộc x
25 Hoa nhài x
26 Hoa sen x
27 Hòe x
28 Cây cam đƣờng x
29 Trƣờng An hoa x
30 Hoàng tinh x
31 Cây thiên tuế x
32 Mía x
84
33 Cây đa già x
34 Cây dƣơng x
35 Đầu xuân đắc ý x
36 Đêm trừ tịch x
37 Cuối xuân x
38 Hoa xuân x
39 Cảnh hè x
40 Trăng thu x
41 Mặt trăng trong nƣớc x
42 Nƣớc trời một sắc x
43 Thơ tiếc cảnh (bài 1) x
44 Thơ tiếc cảnh (bài 2) x
45 Thơ tiếc cảnh (bài 3) x
46 Thơ tiếc cảnh (bài 4) x
47 Thơ tiếc cảnh (bài 13) x
85
2. Vịnh vật
Tập thơ Ức Trai thi tập
TT Tên bài vịnh Vật đƣợc vịnh Con vật Đồ vật
Cây kiếm 1 Đề kiếm x
Tranh 2 Đề Hà hiệu úy "Bạch vân tƣ thân" x
Tập thơ Quốc âm thi tập
TT Tên bài vịnh Vật đƣợc vịnh Con vật Đồ vật
1 Trận nhạn Chim nhạn x
2 Trận bƣớm Con bƣớm x
3 Mèo Con mèo x
4 Thái cầu Quả cầu ngũ sắc x
5 Trâu trong nhiên Con trâu x
6 Lợn Con lợn x
7 Chim hạc già Con chim hạc x
86
3. Vịnh con ngƣời
Tập thơ Ức Trai thi tập
Công Nghệ TT Tên bài vịnh Nhân vật đƣợc vịnh thần sĩ
Bá Nha x 1 Đề Bá Nha cổ cầm hồ Chung Tử Kỳ x
2 Chu Công phụ Thành Vƣơng đồ Chu Công Đán x
3 Đề Từ Trọng Phủ canh ẩn đƣờng Từ Trọng Phủ x
4 Thái Thạch hoài cổ Lý Bạch x
Tô Đông Pha x Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam 5 thị tử tôn giáo Lý Bạch x
6 Thiều Châu Văn Hiến miếu Trƣơng Cửu Linh x
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1997), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết
thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Lê Bảo (2001), Nguyễn Trãi nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (1980), Sáu trăm năm Nguyễn Trãi, Nxb. Tác phẩm mới, Hà
Nội.
5. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Lê Thị Hạnh (2007), Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố trong Ức Trai
thi tập của Nguyễn Trãi, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2.
8. Nguyễn Thị Hồng (2015), Vịnh sử của Nguyễn Khuyến, Khóa luận tốt
nghiệp, Thƣ viện Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
9. Đinh Thị Hƣơng (2012), Thơ vịnh vật đời Đường, Luận án Tiến sĩ, Thƣ
viện Quốc Gia Việt Nam.
10. Đinh Gia Khánh (1978), Giáo trình văn học Việt Nam (tập 1), Nxb. Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
11. Đinh Gia Khánh (1998), Văn học Việt Nam thế kỷ X – Nửa đầu XVIII,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
12. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố Văn học, Nxb. Văn học, Hà Nội
13. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
88
14. Bùi Văn Nguyên, Phan Sỹ Tấn (1963), Giáo trình lịch sử văn học Việt
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
15. Bùi Văn Nguyên (1980), Nguyễn Trãi, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
16. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb. Đại học và
Trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội.
17. Bùi Văn Nguyên (1992), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
18. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Tôn Nhan (1999), Từ điển Văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb.
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nhiều tác giả (1980), Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Nhiều tác giả (1980), Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
23. Vũ Tiến Quỳnh (1992), Nguyễn Trãi – tuyển chọn và trích dẫn những bài
phê bình bình luận, Nxb. Tổng hợp Khánh Hòa.
24. Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu (1999), Nguyễn Trãi về tác gia
và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
25. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
26. Vũ Thị Thanh Tâm (2010), So sánh cảm hứng về thiên nhiên trong thơ chữ
Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện
Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
27. Tuấn Thành, Vũ Nguyễn (2007), Nguyễn Trãi tác phẩm và lời bình, Nxb.
Văn học, Hà Nội.
28. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
89
29. Lã Nhâm Thìn (1998), Giảng văn văn học Việt Nam, nhiều tác giả, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
30. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
31. Phạm Thị Thu (2007), So sánh thơ vịnh vật trong Hồng Đức quốc âm thi tập
và thơ vịnh vật Hồ Xuân Hương, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học
Vinh.
32. Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu (2003), Điển tích Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb.
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
34. Phạm Thị Thùy (2012), Các“nhân vật lịch sử”trong thơ chữ Hán của Nguyễn
Du, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
35. Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Viện sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Nguyễn Trãi thân thế và sự nghiệp (1980), Viện sử học, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
37. Đoàn Thị Thu Vân (2001), Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb. Trẻ, Hội
nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
39. Phan Võ, Lê Thƣớc, Đào Phƣơng Bình (1962), Thơ chữ Hán Nguyễn
Trãi, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
40. Phạm Tuấn Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
41. Hoàng Hữu Yên (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.