BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

VŨ THỊ HUÊ

THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

VŨ THỊ HUÊ

THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tính

HÀ NỘI, 2017

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, đặc biệt là các

thầy cô Tổ Văn học Việt Nam, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giúp tôi

hoàn thành khóa học vừa qua.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với TS. Nguyễn Thị Tính –

ngƣời đã nhiệt tình, tận tâm hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn cơ quan, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tạo điều

kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.

Hà Nội, tháng 11 năm 2017

Tác giả

Vũ Thị Huê

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài

khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 11 năm 2017

Tác giả

Vũ Thị Huê

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6

6. Dự kiến đóng góp của luận văn ................................................................ 6

7. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 6

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...... 7

1.1. Khái lƣợc về thơ vịnh ............................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm thơ vịnh.......................................................................... 7

1.1.2. Nguồn gốc và đặc trƣng của thơ vịnh ............................................. 9

1.2. Khái quát về thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam .................... 10

1.3. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập ............................ 12

1.3.1. Nguyễn Trãi với Ức Trai thi tập ................................................... 12

1.3.2. Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập ................................................. 13

Chƣơng 2. NỘI DUNG THƠ VỊNH TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ

QUỐC ÂM THI TẬP ....................................................................................... 15

2.1. Những tƣơng đồng về đề tài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và

Quốc âm thi tập ........................................................................................... 15

2.1.1. Vịnh thiên nhiên ............................................................................ 15

2.1.2. Vịnh vật ......................................................................................... 40

2.1.3. Vịnh con ngƣời.............................................................................. 46

2.2. Sắc thái khác biệt trong thơ vịnh Ức Trai thi tập và Quốc âm thi

tập ................................................................................................................ 53

2.2.1. Tính suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi

tập ............................................................................................................ 53

2.2.2. Sự sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ

vịnh trong Quốc âm thi tập ..................................................................... 57

Chƣơng 3. HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ VỊNH TRONG

ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP ................................................ 59

3.1. Thể thơ ................................................................................................. 59

3.1.1. Thể thơ thất ngôn bát cú ............................................................... 60

3.1.2. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ............................................................. 62

3.1.3. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn .................................................... 64

3.2. Hình ảnh thơ ......................................................................................... 66

3.3. Lối ngụ ý, ẩn ngữ ................................................................................. 70

3.4. Lối dùng điển tích, điển cố................................................................... 72

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79

BẢNG THỐNG KÊ ........................................................................................ 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nguyễn Trãi là nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dân tộc. Thiên tài đó đã

để lại sự nghiệp lớn về nhiều mặt chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm

mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác đƣợc. Có thể khẳng định: Nguyễn Trãi

đã cắm cột mốc quan trọng đối với lịch sử văn học nƣớc nhà. Ông không chỉ

là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ đại tài. Nghiên cứu

về Nguyễn Trãi chƣa bao giờ là nhàm chán. Đến nay, đã có rất nhiều công

trình khoa học về những khía cạnh khác nhau song còn cần phải có nhiều

công trình khoa học hơn nữa.

Thơ vịnh là loại tác phẩm có số lƣợng khá lớn trong văn học trung đại

Việt Nam. Nhiều nhà thơ trung đại sáng tác thơ vịnh và đã thành công nhƣ

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuan Hƣơng,... Thi nhân

xƣa lấy các sự vật làm đề tài ngâm vịnh, có khi chỉ vịnh chơi có khi để gửi

gắm tâm tƣ, tình cảm kín đáo của mình. Thơ vịnh là loại thơ dễ làm nhƣng

khó thành công. Không phải bài thơ vịnh nào cũng là một tác phẩm văn

chƣơng đích thực. Ở loại thơ này, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm rất khác

xa nhau. Không ít tác phẩm chỉ là những ẩn dụ của đạo đức phong kiến, ít tính

thẩm mỹ, bên cạnh đó là những tác phẩm có tính thẩm mỹ cao, đƣợc đánh giá

là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc. Tình hình đó càng đòi hỏi có sự

nghiên cứu để xác định giá trị của loại thơ này.

Nguyễn Trãi là cây cổ thụ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ở

mảng thơ vịnh, ông cũng đã đánh dấu đƣợc tên tuổi của mình với nhiều tác

phẩm có giá trị lớn. Nghiên cứu về Nguyễn Trãi là việc làm cần thiết trong

giai đoạn lịch sử xã hội ngày nay để ta có thêm hiểu biết về tác giả nói chung,

nhân cách con ngƣời ông nói riêng. Đây là vấn đề hay trong việc nghiên cứu

thơ ca Nguyễn Trãi để tìm hiểu thêm, có cái nhìn khái quát về thơ vịnh của

ông đồng thời cung cấp hiểu biết, cách tiếp cận đối với thơ vịnh.

2

Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Thơ vịnh trong Ức Trai

thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.

2. Lịch sử nghiên cứu

Là một trong những tác gia tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam,

thơ văn Nguyễn Trãi đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu cụ thể, sâu sắc.

Vấn đề thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập cũng đã đƣợc bàn

tới trong không ít công trình nghiên cứu.

Trƣớc hết, phải nói rằng, rất nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi đã đƣợc

phân tích, bình giảng, tranh luận. Từ những nghiên cứu, phê bình này, tính

chất vịnh của các bài thơ đã đƣợc các tác giả làm sáng tỏ. Hoa Bằng có bài:

Một bài thơ, một nhân cách, một tâm sự của “Người lịch sử” [24]. Bùi Văn

Nguyên bình giảng Trúc [24]. Bùi Hạnh Cẩn viết: Đọc lại mấy bài thơ chữ

Hán của Nguyễn Trãi [24]... Đặc biệt là các bài thơ của Nguyễn Trãi đƣợc

đƣa vào giảng dạy ở chƣơng trình phổ thông các thời kỳ đã thu hút rất nhiều

nhà nghiên cứu bình luận, giảng giải. Trần Đình Sử viết về bài Tùng , Bùi

Văn Nguyên bàn bài Trúc, Xuân Diệu, Phạm Tú Châu, Nguyễn Đình Chú, Lã

Nhâm Thìn cùng tìm hiểu Cây chuối, Lê Trí Viễn bình về Cảnh tình mùa hè

... Các bài viết này đã đề cập đến tính chất vịnh của các bài thơ khá cụ thể, chi

tiết, cho thấy nhiều lớp nghĩa ẩn từ những hình ảnh hiển ngôn của các bài thơ.

Với Cảnh tình mùa hè, Lê Trí Viễn nhận thấy: “Có liên quan gì giữa cái rỗi

rảnh dài dài và niềm ƣớc mong giàu đủ cho nhân dân khắp nơi? Chắc không

ngoài cái tâm, cái chí một đời của ông nhà thơ: lo cho dân, cho nƣớc nhƣng

không đƣợc toại nguyện” [24, tr.543]. Trần Đình Sử khẳng định Tùng là bài

thơ ông thích nhất trong Quốc âm thi tập, “đằng sau hình ảnh ƣớc lệ là một

trái tim phập phồng ƣớc mơ và khổ đau với đời” [24, tr.563], “Cả bài thơ toát

lên niềm tin mãnh liệt, không lay chuyển đƣợc của nhà thơ vào phẩm chất, giá

trị của mình”, “chính tâm hồn của Nguyễn Trãi đã làm đổi mới hình tƣợng

3

cây tùng trong thơ xƣa. Cây tùng xƣa lánh đời, cô ngạo. Còn cây tùng của

Nguyễn Trãi bất cứ tình huống nào vẫn hƣớng về cuộc đời, gắn bó và hữu ích

cho đời” [24, tr.562-563]. Lê Trí Viễn cũng khẳng định: cây tùng “có sự phân

thân làm hai để tự mình ngẫm nghĩ về mình, tự mình vừa là chủ thể, vừa là

khách thể để tự mình trò chuyện. Hay đúng hơn, cái mình ngày nay tâm tình

với cái mình về trƣớc” [24, tr.254]... Lã Nhâm Thìn khi phân tích ba bài thơ

Tùng của Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định: “Viết bài Tùng, Nguyễn Trãi đã

khai thác đề tài thiên nhiên để thể hiện chủ đề phẩm chất kẻ sĩ quân tử đồng

thời gửi gắm những tâm sự có tính chất cá nhân của tác giả” [29, tr.161]. Nếu

ở bài Tùng, các tác giả đều nhận thấy sự hóa thân, khẳng định bản thân của

Nguyễn Trãi, thì ở bài Cây chuối việc tìm ra nghĩa ẩn từ bút pháp vịnh của

Nguyễn Trãi có phong phú hơn. Lã Nhâm Thìn nhận thấy bài thơ là “biểu

tƣợng của sức trẻ và tình xuân” [29, tr.155]. Nguyễn Đình Chú cũng khẳng

định: “Bài thơ nói về cây chuối “tự bén hơi xuân” nhƣng qua đó còn là nói về

sức xuân, tình xuân, thậm chí còn là tình yêu nam nữ” [24, tr.570]. Khác với

Lã Nhâm Thìn và Nguyễn Đình Chú, Phạm Tú Châu lại chứng minh rằng bài

thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi mang ý vị Thiền [24, tr.573]... Các bài thơ

chữ Hán: Côn Sơn ca, Dục Thúy sơn trong Ức Trai thi tập cũng có nhiều lời

phẩm bình qua sự cảm nhận từ bút pháp vịnh của nhiều tác giả.

Bên cạnh việc nghiên cứu, phân tích các bài thơ cụ thể, nhiều công

trình nghiên cứu khái quát về các phƣơng diện khác nhau của thơ ca Nguyễn

Trãi cũng đã ít nhiều nói đến vấn đề vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm

thi tập. Chẳng hạn: Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán đời Trần (Trần Thị Băng

Thanh), Anh hùng và cảm quan anh hùng qua thơ văn Nguyễn Trãi (Bùi Duy

Tân), Mượn đá để ngồi (Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng), Quốc âm thi tập (Phạm

Thế Ngũ), Nguyễn Trãi và đề tài thiên nhiên trong dòng văn học yêu nước

Việt Nam (Đặng Thanh Lê), Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi (Mai

4

Trân), Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Nguyễn Hữu Sơn),

Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Trần Đình Sử) [24]... Trần

Thị Băng Thanh viết: “Nguyễn Trãi miêu tả thiên nhiên cũng chính là để ca

ngợi, tƣởng nhớ các bậc anh hùng hào kiệt của đất nƣớc; để suy tƣ về những

vấn đề lớn lao của cuộc sống dân tộc; để phát biểu những liên tƣởng mang ý

nghĩa triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên, giữa cái đã qua,

đang qua và sắp tới... quan hải, Bạch Đằng hải khẩu, Long Đại sơn, v.v... là

những bài thơ nhƣ vậy” [24, tr.426-427].

Về Quốc âm thi tập, Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Có nhiều bài trong

Quốc âm thi tập đề tài là vịnh cảnh vật, cỏ cây, chim muông” nhằm thể hiện

“một quan niệm thƣởng cảnh”, “cái thẩm mĩ quan của tác giả” [24, tr.645].

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu chƣa khái quát về thơ vịnh của Nguyễn Trãi.

Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về thơ vịnh nhƣ luận

án Tiến sĩ Thơ vịnh vật đời Đường của Đinh Thị Hƣơng [9], luận văn tốt

nghiệp của Đại học Vinh với đề tài: So sánh thơ vịnh vật trong Hồng Đức

quốc âm thi tập và thơ vịnh vật Hồ Xuân Hương [31], khóa luận tốt nghiệp

của Nguyễn Thị Hồng: Vịnh sử của Nguyễn Khuyến [8], khóa luận tốt nghiệp:

Các “nhân vật lịch sử” trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du của Phạm Thị

Thùy [34],… Các công trình này có so sánh với một khía cạnh nào đó về thơ

vịnh của Nguyễn Trãi.

Nói chung, thơ vịnh của Nguyễn Trãi đã đƣợc bàn tới nhiều song chƣa

toàn diện, hệ thống. Đi sâu vào đề tài nghiên cứu này, kế thừa những ý kiến

đánh giá, những công trình nghiên cứu, phê bình, tiểu luận của những ngƣời

đi trƣớc, coi đó là bƣớc khám phá ban đầu có tính định hƣớng, chúng tôi

mạnh dạn đi vào đề tài “Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

của Nguyễn Trãi” với hi vọng tìm hiểu các đề tài vịnh trong thơ chữ Hán và

chữ Nôm của Nguyễn Trãi một cách toàn diện, hệ thống, đồng thời thấy đƣợc

5

sự khác nhau của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Từ đó

hiểu thêm về tài năng, vẻ đẹp nhân cách trong con ngƣời của “Ức Trai tâm

thượng quang khuê tảo” (Lê Thánh Tông).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là tìm tòi, phát hiện… những đề tài vịnh trong

Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi từ đó khẳng định giá trị

nội dung, nghệ thuật trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi; so sánh thơ vịnh trong

Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập. Qua đó, có cái nhìn sâu sắc về con ngƣời,

tƣ tƣởng, tình cảm, thái độ và tài năng của nhà thơ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn có nhiệm vụ chỉ ra những đề tài vịnh, khẳng định giá trị nội

dung, nghệ thuật của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi. Luận văn đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Trãi

thông qua các yếu tố vịnh.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Để giải quyết những vấn đề mà bài viết đặt ra,

chúng tôi chỉ nghiên cứu hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi là

Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Trong đó tập trung vào những bài thơ

vịnh trong hai tập thơ này.

- Phạm vi tƣ liệu: Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Viện sử học, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Qua quá trình tìm hiểu đề tài, khảo sát và chọn học liệu tiêu biểu từ các

công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi, ngƣời viết vận dụng những phƣơng

pháp sau để giải quyết vấn đề:

- Phƣơng pháp thống kê

- Phƣơng pháp lịch sử

- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống

- Phƣơng pháp phân tích- tổng hợp

- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học

- Phƣơng pháp so sánh

6. Dự kiến đóng góp của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi,

luận văn bàn về thơ vịnh trong cuốn Quốc âm thi tập và Ức Trai thi tập.

- Có cái nhìn toàn diện hệ thống về thơ vịnh trong thơ Nguyễn Trãi.

- Chỉ rõ đặc điểm vịnh và so sánh thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức

Trai thi tập. Luận văn khẳng định đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi trong nền

văn học Việt Nam trung đại, đặc biệt về những đề tài vịnh của Nguyễn Trãi.

- Làm cơ sở nghiên cứu, học tập, giảng dạy về thơ văn Nguyễn Trãi.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng:

Chƣơng 1. Những vấn đề chung có liên quan đến đề tài

Chƣơng 2. Nội dung thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

Chƣơng 3. Hình thức nghệ thuật thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc

âm thi tập

7

NỘI DUNG

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Khái lƣợc về thơ vịnh

1.1.1. Khái niệm thơ vịnh

Vịnh là một cách làm thơ của ngƣời xƣa.Trong chữ vịnh 咏 có bộ khẩu

(trong chữ phồn thể của chữ vịnh, bộ khẩu đƣợc thay bằng bộ ngôn 詠) ý nói

vịnh gắn liền với việc ca, ngâm, đọc.

Có nhiều loại thơ vịnh nhƣ: thơ vịnh vật, thơ vịnh cảnh, thơ vịnh sử,…

Trong chữ Hán, vịnh có hai nét nghĩa chính là ngâm, vịnh, hát hoặc dùng thơ

từ để miêu tả bày tỏ tâm tƣ, tình cảm.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vịnh là làm thơ về phong cảnh hoặc sự vật

trước mắt (một lối thơ phổ biến thời trước)” [22, tr.914].

Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải thích vịnh là ngâm thơ, bài thơ

có ngụ ý [1, tr.518].

Từ điển Bách khoa định nghĩa: Vịnh là làm thơ với cảm hứng hưng

phấn nhằm luận bàn hoặc miêu tả cảnh hoặc người. Ngâm phong vịnh

nguyệt, tức làm thơ về gió trăng lúc nhàn tản. Vịnh còn là một thể loại thơ

bàn về nhân vật lịch sử (vịnh sử) hoặc miêu tả các cảnh hay sự vật v..v.

Nhƣ vậy, vịnh vốn là phạm trù của thơ. Chúng tôi khảo sát trong lịch sử

văn học thì thấy vịnh thƣờng chỉ có ở thơ chứ không xuất hiện trong các thể

loại văn học khác. Ngƣời đời sau trong các tài liệu nghiên cứu vẫn thƣờng

dùng từ “vịnh ngâm”, “ca vịnh” để chỉ thơ nói chung. Vịnh cũng gắn liền với

việc miêu tả nhƣng đích hƣớng tới không phải là tả. Vịnh thƣờng bắt đầu

bằng sự miêu tả. Tuy nhiên, tả là nêu lên các đặc điểm của sự vật hiện tƣợng

để ngƣời đọc, ngƣời nghe hình dung đƣợc sự vật hiện tƣợng nhƣ nó đang tồn

tại trƣớc mắt.

8

Ví dụ, Nguyễn Du tả Tú Bà:

Thoắt trông nhờn nhợt màu da,

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao.

Tả Mã Giám Sinh:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao…

Còn vịnh là mƣợn đặc điểm của sự vật hiện tƣợng để kí thác vào đó

một nội dung, ý nghĩa ở ngoài sự vật hiện tƣợng, do sự vật hiện tƣợng gợi lên.

Ví dụ bài thơ Tiến sĩ giấy, Nguyễn Khuyến đã mƣợn hình ông tiến sĩ

làm bằng giấy vốn là thứ đồ chơi quen thuộc của trẻ con thời xƣa để bộc lộ

cái nhìn về loại ngƣời hữu danh vô thực:

Cũng cờ cũng biển cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Nhƣ vậy, trong vịnh có tả, nhƣng tả không phải là đích mà tác giả

hƣớng tới. Mục đích của tả là gợi lên đặc điểm của sự vật hiện tƣợng. Còn

mục đích của vịnh là một khía cạnh tinh thần tác giả muốn gửi gắm. Cho nên

vịnh luôn có tính tƣợng trƣng.

Với các khái niệm, các định nghĩa về thuật ngữ “thơ vịnh” nhƣ trên, có

thể thấy, thơ vịnh là loại thơ lấy sự vật, sự việc, con ngƣời là trung tâm tác

phẩm, thông qua việc miêu tả đối tƣợng ở những mặt, phƣơng diện nào đó để

thể hiện tâm tƣ, tình cảm, hoài bão, chí hƣớng, tƣ tƣởng của nhà thơ.

9

1.1.2. Nguồn gốc và đặc trƣng của thơ vịnh

Thơ vịnh có nguồn gốc từ thơ ca Trung Quốc. Trƣớc khi có mặt ở Việt

Nam, thơ vịnh đã có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc. Đối tƣợng của thơ vịnh là

thế giới tự nhiên, những sự vật, những con ngƣời hoặc những sự kiện cả trong

lịch sử hay đời sống hằng ngày. Vì đối tƣợng rộng nhƣ vậy nên thơ vịnh

chiếm số lƣợng lớn trong thơ ca trung đại Việt Nam nói chung, thơ Nguyễn

Trãi nói riêng.

Thơ vịnh khác thơ ca bình thƣờng, nó luôn biểu lộ thái độ, tình cảm của

nguời làm thơ trƣớc đối tƣợng đƣợc đem ra làm khách thể. Có thể nói, thơ

vịnh là những áng văn chƣơng nhằm xác định giá trị của đối tƣợng dƣới góc

độ của một lý tuởng nào đó.

Nguời làm thơ vịnh có thể bộc lộ thái độ khen chê, tán thƣởng hay phê

phán, tự hào, khâm phục…trƣớc đối tƣợng đƣợc vịnh tùy theo góc nhìn nhận.

Có thể từ góc nhìn đạo đức, góc nhìn dân tộc.

Thơ vịnh có đối tƣợng là các sự vật, thiên nhiên, con ngƣời, thời thế,...

Nó có thể là tùng trúc cúc mai, long ly quy phƣợng, hay đóa hồng, con kiến,

con cóc, con muỗi, gió, mƣa, sấm, chớp, trăng, sao... Ngƣời ta thƣờng căn cứ,

dựa vào những đặc điểm, đặc tính tự nhiên nổi bật, dễ nhận thấy đƣợc đông

đảo mọi ngƣời trong cộng đồng nào đó thừa nhận, nhân đặc điểm đó ngƣời ta

gửi gắm một triết lý, tƣ tƣởng, tình cảm nào đó.

Thơ vịnh lấy đặc tính nổi bật của đối tƣợng đƣợc vịnh chỉ là chỗ dựa, là

phƣơng tiện, là một loại phù hiệu để thể hiện cho một tinh thần của chủ thể

thẩm mỹ - tức ngƣời vịnh - thi nhân. Những đặc tính của đối tƣợng là cái cớ

không thể thiếu để triển khai tƣ tƣởng, bày tỏ tình cảm, triết lý. Do vậy có thể

hiểu: Thơ vịnh dùng sự vật, sự việc, con người,… làm đối tượng trung tâm

của tác phẩm để thông qua những đặc điểm, tính chất, hành trạng, việc

làm,… của đối tượng mà gửi gắm nỗi niềm. Thơ vịnh phản ánh tâm trạng,

mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng cũng đi theo thị hiếu thẩm mỹ của thời đại.

10

Do chỗ mƣợn đối tƣợng là tự nhiên, vạn vật, con ngƣời,…để nói chí,

để triết lý, trữ tình, thơ vịnh một cách tự nhiên luôn hƣớng tới kiến tạo những

tầng thứ ngữ nghĩa ngoài ngôn từ. Tỷ hứng đƣợc huy động làm thủ pháp nghệ

thuật tiêu biểu của loại hình thơ đề vịnh.

1.2. Khái quát về thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam

Thơ vịnh là loại tác phẩm có số lƣợng khá lớn trong văn học trung đại

Việt Nam. Nhiều nhà thơ trung đại sáng tác thơ vịnh. Thi nhân xƣa lấy các đề

tài sự vật, con ngƣời, thiên nhiên, thời thế,…làm đề tài ngâm vịnh, có khi chỉ

vịnh chơi có khi để gửi gắm tƣ tƣởng, tình cảm kín đáo của mình.

Ở Việt Nam, hầu hết các tác giả văn học trung đại nổi bật nhƣ Nguyễn

Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,

Nguyễn Công Trứ, Cao Ba Quát, Nguyễn Khuyến đều có loại thơ này.

Thơ vịnh trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến

thế kỉ XIV có trong sáng tác của nhiều nhà thơ. Có thể kể đến các tên tuổi nhƣ

Hứa Đại Xá (1119 -1180) là ngƣời đã từng theo học thiền sƣ Đạo Huệ, đƣợc

vua Lý Anh Tông rất tin dùng. Bài thơ Thạch mã (Ngựa đá) của ông là bài thơ

vịnh vật. Trần Tung, tức Tuệ Trung Thƣợng sĩ (1230 – 1291) có bài Giản để

tùng (Cây tùng ở đáy khe). Lý Đạo Tái (1251 -1334) cũng đã có các bài thơ

vịnh vật nhƣ: Cúc hoa (Hoa cúc), Thạch thất (Nhà đá)… Nhìn chung, giai

đoạn này thơ vịnh chƣa phong phú về đề tài nhƣ ở các giai đoạn sau, nhƣng

cũng đã tạo nên phần nào diện mạo của mình để rồi ở những chặng đƣờng

tiếp theo sẽ khẳng định đƣợc khả năng bao quát đời sống bằng sự mở rộng đề

tài, đối tƣợng phản ánh.

Thành tựu của thơ vịnh thế kỉ XV phải kể đến sự xuất hiện của đại thi

hào Nguyễn Trãi với nhiều bài thơ vịnh trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi

tập. Bên cạnh đó có thể kể đến cây bút tiêu biểu nhƣ Lê Thánh Tông với

Hồng Đức quốc âm thi tập,...

11

Đến giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, thành tựu thơ vịnh gắn

với tên tuổi của các nhà thơ lớn nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm (tác giả tiêu biểu

thế kỷ XVI), ngoài ra còn có thể kể đến nhƣ Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Hà

Nhậm Đại, Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, Lê Công Triều,…

Giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX đƣợc coi là

giai đoạn đạt đƣợc nhiều thành tựu rực rỡ nhất với những tên tuổi chói sáng

nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,... Nguyễn Du viết rất nhiều và rất thành

công các bài thơ vịnh. Trong tập thơ Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục,

Nam trung tạp ngâm có rất nhiều bài là thơ vịnh con ngƣời, vịnh vật xuất sắc.

Có thể nói, mảng thơ vịnh của Nguyễn Du đã đánh dấu bƣớc phát triển của

thơ vịnh trong giai đoạn này, đã góp phần thể hiện rõ thêm tƣ tƣởng, quan

niệm về lẽ sống ở đời của nhà thơ. Hồ Xuân Hƣơng là một phụ nữ đầy cá

tính, tài năng và đầy sức sống mãnh liệt. Thơ của bà cũng nhƣ chính con

ngƣời bà, luôn căng tràn sức sống, luôn thể hiện cái khao khát đến bỏng rát về

hạnh phúc. Với khoảng hơn 40 bài thơ Nôm Đƣờng luật để lại, Xuân Hƣơng

có đến 12 bài thơ vịnh vật, vịnh thiên nhiên nhƣ bài thơ Đèo Ba Dọi, Cái

quạt, Quả mít,... Mảng thơ Nôm vịnh của Hồ Xuân Hƣơng rất độc đáo, đặc

sắc từ nội dung đến nghệ thuật thể hiện.

Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX là thời kỳ đất nƣớc ta phải đƣơng đầu với

cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Tuy nhiên, thơ vịnh thời kỳ này đƣợc tiếp

tục với các nhân vật tên tuổi nhƣ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn

Khuyến, Tú Xƣơng,...

Qua sơ lƣợc về thơ vịnh Việt Nam thời trung đại chúng tôi nhận thấy

đây là một loại thơ ra đời từ rất sớm, đƣợc nhiều nhà thơ sử dụng và phát triển

mạnh trong nền văn học trung đại Việt Nam. Thông qua sự vân động, phát

triển của thơ vịnh, có thể thấy đƣợc phần nào sự vận động phát triển của văn

học dân tộc.

12

1.3. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

1.3.1. Nguyễn Trãi với Ức Trai thi tập

Ức Trai thi tập là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Trãi, cũng là tập

thơ hay của dòng thơ chữ Hán Việt Nam. Toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn

Trãi còn lại cho chúng ta khoảng 105 bài, có thể chia thành bốn giai đoạn

sáng tác nhƣ: Thơ làm khi chƣa thành công; thơ làm sau khi thành công và

làm quan ở triều; thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ; làm thơ trong thời ở ẩn

tại Côn Sơn; thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc.

Đối tƣợng vịnh trong Ức Trai thi tập phong phú. Trong đó, phần lớn là

những bài thơ vịnh thiên nhiên, có thể là những danh lam thắng cảnh đẹp, kì vĩ

của đất nƣớc nhƣ núi Dục Thúy, chùa Đông Sơn, cửa Thần Đầu, núi Long Đại,

Côn Sơn, chùa Hoa Yên, núi Yên Tử,... Vịnh con ngƣời là những bậc anh hùng

nhƣ Chu Công Đán, Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh, ông Từ Trọng Phủ, Tô Đông

Pha,... Những nghệ sĩ lớn nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tử Kỳ,... Vịnh vật chủ

yếu là những đồ vật cao quý nhƣ cây kiếm, bức tranh,... Qua mảng thơ đề vịnh

trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi thể hiện những suy tƣ, triết lí về cuộc đời,

những chiêm nghiệm về thời cuộc, về nỗi đau của bản thân.

Mảng thơ vịnh trong Ức Trai thi tập, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Trãi

có một niềm tự hào sâu sắc về thiên nhiên tƣơi đẹp, kì vĩ; về lịch sử gìn giữ

nền độc lập của dân tộc và đất nƣớc. Luận bàn về sự vật, con ngƣời để soi

chiếu vào bản thân, thấy đƣợc sự tƣơng đồng giữa sự vật, con ngƣời đó với

chính mình. Những bài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập cho thấy một Ức Trai

có công lao lớn đối với dân tộc đất nƣớc nhƣng chịu nhiều đau thƣơng.

Tóm lại, thơ vịnh trong Ức Trai thi tập chiếm vị trí quan trọng trong

toàn bộ tập thơ. Thông qua mảng thơ vịnh bằng chữ Hán, Nguyễn Trãi kí thác

tâm sự thầm kín của mình về thời thế, bản thân và cuộc đời. Chúng ta thấy

đƣợc một Nguyễn Trãi đầy suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí.

13

1.3.2. Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập

Nguyễn Trãi đƣợc xem nhƣ nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm,

đồng thời cũng là ngƣời sáng tác thơ Nôm Đƣờng luật có số lƣợng nhiều bậc

nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Xem xét giá trị tự thân cũng nhƣ vai trò, vị

trí thơ đề vịnh của tập thơ trong toàn cảnh nền văn học truyền thống, Quốc âm

thi tập gợi mở nhiều vấn đề lý thú về nội dung và nghệ thuật.

Quốc âm thi tập có tất cả khoảng 254 bài, chia làm 4 mục: Vô đề (192

bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Vô

đề chia ra: Ngôn chí 21 bài; Mạn thuật 14 bài; Trần tình 9 bài; Thuật hứng 25

bài; Tự thán 41 bài; Tự thuật 11 bài; Bảo kính cảnh giới (Gƣơng báu răn đe)

61 bài; và nhiều bài có tựa riêng v.v... nghĩa là đề tài rất phong phú, ý tứ rất

dồi dào.

Nếu ỨC Trai thi tập vịnh thiên nhiên chủ yếu là các danh lam thắng

cảnh đẹp, kì vĩ của đất nƣớc thì Quốc âm thi tập vịnh thiên nhiên là các cỏ

cây hoa lá, cim thú, rùng suối nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, sen, cây mía, cây

đa,…Vịnh con vật nhƣ mèo, con lợn, con trâu, chim nhạn, chim hạc,… Qua

đó, Nguyễn Trãi gửi gắm tâm sự của một ngƣời nặng lòng với giang sơn xã

tắc đồng thời cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên đất nƣớc.

Khác với thơ chữ Hán, hình ảnh đƣợc vịnh trong Quốc âm thi tập có

thể là những hình ảnh ƣớc lệ tƣợng trƣng của thơ ca cổ điển nhƣ tùng cúc trúc

mai, chim hạc, chim nhạn,… cũng có những hình ảnh gần gũi, bình dị, mộc

mạc nhƣ cây chuối, hoa dâm bụt, con mèo, con trâu, con lợn,…

Trong Ức Trai thi tập, những bài thơ đề vịnh Nguyễn Trãi sử dụng

nhiều nghệ thuật cổ nhƣ sử dụng điển, thể thơ Đƣờng luật. Thơ vịnh trong

Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi lại sử dụng nhiều thể thơ thất ngôn xen lục

ngôn, hình ảnh, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, dân dã.

14

Nhìn chung, có thể nói thơ đề vịnh trong Quốc âm thi tập chiếm vị trí

lớn trong toàn bộ tập thơ với đề tài vịnh phong phú, sáng tạo tƣơng xứng với

tầm vóc, giá trị và vị trí tập thơ trong tiến trình phát triển của thơ vịnh trong

nền văn học dân tộc. Thông qua mảng thơ vịnh bằng chữ Nôm, xuất hiện một

Nguyễn Trãi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống tha thiết.

Vị trí của thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập rất quan

trọng, đề tài vịnh phong phú, chiếm một dung lƣợng lớn ở cả hai tập thơ.

Trong đó Ức Trai thi tập thƣờng vịnh những hình ảnh thiên nhiên hùng tráng,

kì vĩ. Vịnh con ngƣời là những bậc anh hùng có khí phách với tấm lòng suy tƣ

sâu lắng, những chiêm nghiệm về đời sống. Quốc âm thi tập chủ yếu vịnh các

loại hoa quả thảo mộc nhƣ tùng, cúc, trúc, mai,…biểu tƣợng cho ngƣời quân

tử hay vịnh vật cũng là những vật dân dã đời thƣờng gắn với cuộc sống ẩn dật

của thi nhân qua đó thể hiện tấm lòng của một nhà Nho hành đạo nhƣng lại

thất thời.

* Tiểu kết chƣơng 1

Nhƣ vậy, thơ vịnh là loại thơ lấy sự vật, sự việc, con ngƣời làm trung tâm

tác phẩm, thông qua việc miêu tả đối tƣợng ở những mặt, phƣơng diện nào đó

để thể hiện tâm tƣ, tình cảm, hoài bão, chí hƣớng, tƣ tƣởng của nhà thơ. Thơ

vịnh có lịch sử lâu dài từ thơ ca Trung Quốc. Tuy nhiên, ở Việt Nam từ thế kỉ

X dến thế kỉ XIV thơ vịnh chƣa thực sự phong phú. Từ thế kỉ XV trở đi, thơ

vịnh bắt đầu phát triển mạnh. Nguyễn Trãi là tác giả có thơ vịnh lớn nhất, tiêu

biểu nhất, số lƣợng thơ lớn, đề tài phong phú. Ông là tác giả quan trọng trên

tiến trình vận động, phát triển của dòng thơ vịnh trong văn học trung đại Việt

Nam. Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập có vị trí quan trọng,

đề tài vịnh phong phú, chiếm một dung lƣợng lớn ở cả hai tập thơ.

15

Chƣơng 2

NỘI DUNG THƠ VỊNH

TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP

2.1. Những tƣơng đồng về đề tài thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc

âm thi tập

2.1.1. Vịnh thiên nhiên

Đây là đề tài vịnh chính của thơ ca trung đại. Riêng với Nguyễn Trãi,

ông có nhiều chùm thơ vịnh thiên nhiên nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, sen,…trong

thơ Nôm và các danh lam thắng cảnh đất nƣớc trong thơ chữ Hán.

Xét về đối tƣợng miêu tả, thơ vịnh thiên nhiên là loại thơ lấy thế giới tự

nhiên làm đối tƣợng miêu tả, thƣờng là các hiện tƣợng tự nhiên, cỏ cây hoa lá,

các danh lam thắng cảnh,… Vì đối tƣợng rộng nhƣ vậy nên thơ vịnh thiên

nhiên chiếm số lƣợng rất lớn trong thi ca trung đại Việt Nam nói chung và thi

ca Nguyễn Trãi nói riêng.

Thơ vịnh thiên nhiên của văn học Việt Nam thƣờng có những bài vịnh

cỏ cây hoa lá, vịnh danh lam thắng cảnh, vịnh các hiện tƣợng tự nhiên,… Ở

Nguyễn Trãi thơ vịnh thiên nhiên cỏ cây hoa lá thƣờng đƣợc viết bằng chữ

Nôm, vịnh danh lam thắng cảnh thƣờng đƣợc viết bằng chữ Hán. Dƣới đây,

chúng tôi liệt kê thơ vịnh thiên nhiên của Nguyễn Trãi ở cả tập thơ Ức Trai

thi tập và Quốc âm thi tập và thống kê các kiểu loại thiên nhiên đƣợc đề vịnh

qua những sáng tác đó.

Thống kê Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy thơ vịnh

thiên nhiên chiếm phần lớn trong sáng tác của Nguyễn Trãi. Tổng hai tập thơ

có 76/359 bài thơ là vịnh thiên nhiên (chiếm 21,2%). Trong đó tập thơ Ức

Trai thi tập có 29/76 bài (chiếm 38,2%), Quốc âm thi tập có 47/76 bài (chiếm

61,8%). Điều này cho thấy nhà thơ hƣớng ngòi bút của mình nhiều về thiên

nhiên.

16

Ức Trai thi tập thiên nhiên đƣợc vịnh chủ yếu là các danh lam thắng

cảnh, sơn xuyên nhạc thủy, các hiện tƣợng tự nhiên. Quốc âm thi tập chủ yếu

là thơ vịnh các hoa quả thảo mộc.

Trong 29 bài thơ vịnh thiên nhiên của tập thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi

chủ yếu vịnh các danh lam thắng cảnh nhƣ Vân Đồn, Bạch Đằng, Thần Phù,

Chí Linh, Hàm Tử, Chƣơng Dƣơng,…có tới 26/29 bài (chiếm 89,7%), vịnh

các hiện tƣợng tự nhiên nhƣ phong, vũ, nguyệt, tuyết, mây, trăng,… có 3/29

bài (chiếm 10,3%).

Trong 47 bài thơ vịnh thiên nhiên của tập thơ Quốc âm thi tập, Nguyễn

Trãi chủ yếu vịnh cỏ cây hoa lá nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, liên, đào, ba tiêu,

mẫu đơn,…có tới 34/47 bài (chiếm 72,3%), vịnh các hiện tƣợng tự nhiên

13/47 bài (chiếm 27,7%).

Với truyền thống thi ca trung đại “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Hồ

Chí Minh), Nguyễn Trãi dành một số lƣợng khá lớn thơ ca viết về thiên nhiên.

Tìm hiểu kho tàng thơ ca của Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế, chúng ta thấy

nét đặc sắc trong những bài thơ của ông, đặc biệt là những bài về thiên nhiên.

2.1.1.1. Thơ vịnh cỏ cây, hoa lá, chim muông…

Một mảng đề tài lớn trong đề mục vịnh thiên nhiên của Nguyễn Trãi là

những bài thơ vịnh cỏ cây hoa lá, chim thú, rừng suối… Mảng đề vịnh này

chủ yếu xuất hiện trong thơ Nôm, không thấy xuất hiện trong thơ chữ Hán.

Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của Nguyễn Trãi, thể

hiện tâm tƣ của nhà thơ trong những hoàn cảnh khác nhau, là bản trƣờng ca

ngàn đời của ngƣời anh hùng, của một nhà tƣ tƣởng, nhà văn hóa lớn.

Vịnh thiên nhiên là tùng cúc trúc mai, Nguyễn Trãi từ những đặc điểm

của loài để nói tới những phẩm chất tốt đẹp, đáng khâm phục, ngợi ca của

ngƣời quân tử. Những câu thơ Nguyễn Trãi viết trong bài thơ Tùng nhƣ sự

khẳng định nhân cách của chính ông, một con ngƣời cả đời canh cánh nỗi

17

lòng “ưu quốc ái dân”. Nguyễn Trãi tìm về thiên nhiên, để lại hàng trăm bài

thơ chữ Hán và chữ Nôm, hầu nhƣ bài thơ nào cũng toát lên vẻ đẹp lồng lộng

thanh cao và cứng cỏi nhƣ dáng tùng vững chãi giữa tuyết sƣơng, soi chiếu

tâm tƣ của chính nhà thơ. Đây đƣợc xem là “bài thơ tâm huyết về cuộc đời, về

sự nghiệp, về niềm tin được cống hiến trọn đời cho con người và đất nước”

[24, tr.559]:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông.

Lâm tuyền ai rặng già làm khách?

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

Đống lương tài có mấy bằng mày ?

Nhà cả đòi phen chống khỏe thay.

Cội rễ bền dời chẳng động,

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày,

Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.

Hổ phách phục linh nhìn mấy biết,

Dành còn để trợ dân này.

(Tùng, bài 1,2,3)

Đây là ba bài thơ vịnh vật liên hoàn, câu đầu bài sau lặp lại câu cuối

hoặc một phần câu cuối của bài trƣớc. Do thống nhất trong một chủ đề mà ta

có thể xem nhƣ ba khổ của một bài thơ.

Ba bài thơ miêu tả đặc điểm và tính năng của cây tùng. Đây là một loại

cây không bị ngoại cảnh tác động. Mặc dù vào thu, theo quy luật tự nhiên,

mọi loại cây đều bị biến dạng, trở nên lạ lùng, riêng cây tùng ngƣợc lại quy

18

luật ấy, cứ tiếp tục xanh tƣơi, bất chấp cái rét của “ba đông”. Xanh tƣơi không

phải để làm cảnh chốn lâm tuyền mà để làm rƣờng cột (đống lƣơng), có tác

dụng lớn (cả dùng). Tài lƣơng đống của nó mấy cây bì kịp. Bao phen nó đã

chống đỡ một cách mạnh mẽ cho những ngôi nhà lớn: Nhà cả đòi phen chống

khỏe thay. Có đƣợc công dụng ấy đâu phải một sớm một chiều mà rễ con, rễ

cái phải nhiều năm trời lan rộng ăn sâu cho cội cắm chặt vào đất ngày một

bền chắc, gió bão có lay dời cũng chẳng mảy may lay động, tuyết sƣơng có

cào xé bao ngày cũng chẳng hề chi. Nó vẫn sừng sững giữa trời. Nếu không

đƣợc dùng để chống đỡ nhà cả thì nó lại trở thành thứ thuốc cứu dân. Trong

nhựa cây tùng có chứa chất hổ phách, phục linh, những thứ thuốc quý đƣợc

hình thành trong khoảng thời gian trăm năm, ngàn năm:

Hổ phách phục linh nhìn mấy biết

Dành còn để trợ dân này.

Điều làm cho những bài thơ vịnh này đƣợc đánh giá cao là bởi tầng

nghĩa ẩn sâu sau sự vật đƣợc miêu tả. Ấy là tâm sự thầm kín của Ức Trai.

Cuộc đời Nguyễn Trãi đã trải qua nhiều thăng trầm, thử thách nhƣng trong bất

kì hoàn cảnh nào ông cũng giữ trọn khí tiết: Tuyết sương thấy đã đặng nhiều

ngày. Cũng có khi tài năng phẩm chất của ông cũng không đƣợc mọi ngƣời

biết đến, phải về ở ẩn nhƣng lòng vẫn không thôi hy vọng sẽ có ngày đƣợc ra

giúp dân giúp nƣớc, ông giữ vững niềm tin: Tài đống lương cao ắt cả dùng.

Tùng là hình tƣợng của bậc đại trƣợng phu, có tài lƣơng đống, Trúc là

hình tƣợng kẻ sĩ quân tử, vƣợt lên những cám dỗ của cuộc sống. Ngƣời đời

quý trúc, ƣa trúc chính vì thế. Cây trúc xuất hiện trong những bài thơ Nôm

Nguyễn Trãi khá đa dạng, phong phú. Với trúc, Nguyễn Trãi thân mật, yêu

quý viết bằng những câu thơ mƣợt mà trìu mến:

Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,

Ưa mày vì bởi tiết mi thanh.

19

Đã từng có tiếng trong đời nữa,

Quân tử ai chẳng mảng danh?

(Trúc, bài 1)

Trong bài thơ đầu tiên của chùm thơ viết về trúc, Nguyễn Trãi đã nêu

bật đƣợc đặc điểm nổi bật của trúc: khí tiết thanh cao, tấm lòng trong sạch

không màng danh lợi, phú quý. Nguyễn Trãi ƣa trúc, quý trúc bởi tiết trúc

thanh, không chịu thả lỏng mình trong cám dỗ tầm thƣờng. Phẩm chất đó của

trúc cũng là vẻ đẹp của ngƣời quân tử dù lạc vào chốn phồn hoa đô hội, sống

giữa xa hoa phú quý, cũng giữ đƣợc khí tiết thanh cao của mình.

Đến bài thơ thứ hai của chùm thơ, Nguyễn Trãi lại ca ngợi sự cứng rắn,

sự rèn luyện của tiết trúc:

Danh quân tử, tiết nhiều ngày,

Bảo khách tri âm mới biết hay.

Huống lại nhưng nhưng chẳng bén tục,

Trượng phu tiết cứng khác người thay.

(Trúc, bài 2)

Ý tứ của bài thơ không ngớt lời ngợi ca khí chất hùng dũng, rắn rỏi của

trúc trƣớc phong ba cuộc đời. Nếu ở trên khí tiết thanh cao là danh quân tử

của trúc, đến đây tiết cứng lại là phẩm chất trƣợng phu của trúc. Đó không chỉ

là sự vững chắc bên ngoài mà là sự vững vàng rắn rỏi, là nghị lực phi thƣờng

ở nội tâm bên trong, ở rèn luyện đạo đức của mình, vƣợt hết những cám dỗ

bình thƣờng của cuộc sống.

Cây đa già miêu tả một cây đa già đã tìm cho mình đƣợc một chỗ

dƣỡng thân giữa chốn lâm tuyền, cứ mỗi lần xuân đến lại có lộc mới xanh

tƣơi, cũng nhƣ chủ thể trữ tình, mỗi lần xuân đến là thấy vui. Tuy gốc đa

không dùng làm rƣờng cột đƣợc nhƣng những tán lá của nó đã làm đƣợc

những việc hữu ích là tỏa bóng cho dân tránh nắng:

20

Tuy đà chửa có tài lương đống,

Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.

(Cây đa già)

Hai câu thơ nhằm ngụ ý tuy tác giả không có tài lƣơng đống nhƣng

cũng đã làm đƣợc việc cho dân nhờ.

Một bông cúc tự nhiên thƣờng nở vào mùa thu, đúng vào thời tiết các

loài không thể nở. Đặc tính tự nhiên này của hoa cúc là nguồn gợi tứ cho thi

nhân, là chất liệu ẩn dụ cho những phẩm chất vƣợt trội của tinh thần ngƣời

quân tử. Hoa cúc nở vào mùa thu là sự hiện hữu sinh động cho sức mạnh tinh

thần, do kết quả của công phu rèn luyện. Nó thể hiện cốt cách vƣợt trội và đạo

đức thanh khiết. Đặc điểm tự nhiên này của bông cúc theo cách nhìn của nhà

nho, đƣợc nhân hóa làm biểu tƣợng cho sức mạnh tinh thần, đạo đức, sự ƣu

trội của riêng một nhóm nhỏ kẻ sĩ. Trong những bài thơ đề vịnh của nhà nho

nói chung, bông cúc hoàn toàn hiện diện với mục đích ký thác tỷ dụ nhƣ vậy:

Nào hoa chẳng bén khí dầm hâm,

Có mấy bầu sương nhụy mới đâm.

Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,

Cho hay thu muộn tiết càng thơm.

(Cúc)

Nguyễn Trãi coi bông cúc nở trong sƣơng cũng giống nhƣ ngƣời quân

tử tu dƣỡng đạo đức, cốt cách, tinh thần. Khó khăn gian khổ là điều kiện rèn

luyện họ, là cơ hội để họ thể hiện những phẩm chất riêng có của mình. Cái

đẹp của hình tƣợng bông cúc trong thơ vịnh của nhà nho là cái đẹp của tinh

thần nội tại, của những phẩm chất đạo đức và tài năng vƣợt trội, của nhân vi,

của sự cố gắng, cái đẹp đó mang tính thực tại, thực hữu.

Có thể thấy, trong những câu thơ vịnh này, Nguyễn Trãi miêu tả tiết

cứng của trúc, cái thanh của mai không chỉ là để miêu tả vẻ đẹp của các loài

cây mà còn để đề cao vẻ đẹp của con ngƣời.

21

Nguyễn Trãi đã nhiều lần mƣợn hình ảnh hoa mai để ví với phẩm chất

trong sáng thanh khiết của ngƣời quân tử. Mùa xuân đến, hoa mai tốt tƣơi,

tràn đầy sức sống, đặc biệt đây là loài hoa có tiết sạch. Ông hết lời ca ngợi sức

sống, cốt cách tinh thần của mai nhằm khẳng định sự kiên trinh, bản lĩnh sống

vững vàng của ngƣời quân tử:

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,

Ưa mày vì tiết sạch hơn người.

(Mai, bài 1)

Ở hai câu đề của bài thơ Mai, Nguyễn Trãi đã cảm nhận vẻ đẹp của

cành mai giữa mùa đông:

Giữa mùa đông, trỗi thức xuân,

Nam chi nở, cực thanh tân.

(Thơ mai)

Trong hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã dùng rất nhiều động từ, tính từ

để miêu tả trạng thái của mai giữa mùa đông giá lạnh. Những cụm từ trỗi thức

xuân, cực thanh tân đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của mai trong những

ngày đông giá. Cành mai vẫn nở, vẫn toát lên vẻ thanh tân trong thời tiết khắc

nghiệt. Đó chính là một biểu tƣợng đẹp cho sự kiên nghị của ngƣời quân tử.

Đến hai câu luận ta bắt gặp cây mai già tƣợng trƣng cho ngƣời quân tử càng

già càng giữ trọn vẹn cốt cách, càng trải qua giá lạnh càng vững bền tinh thần:

Càng thuở già, càng cốt cách,

Một phen giá, một tinh thần.

(Thơ mai)

Bốn câu thơ lục ngôn xen lẫn trong bài thơ thất ngôn nhƣ nổi đậm, nhƣ

chạm khắc sắc nét giữa đất trời đông một cây mai rắn rỏi phong sƣơng vững

bền với thời gian. Và đó cũng chính là một biểu tƣợng đẹp cho ngƣời quân tử

luôn kiên trinh, vững vàng trƣớc mọi biến cố thăng trầm của cuộc sống. Hình

22

tƣợng bông mai kia có lẽ cũng chính là cuộc đời của Nguyễn Trãi. Cũng một

thời sống hào hứng với biết bao niềm tin yêu, hy vọng và đến khi tuổi già phải

lui về ẩn ở Côn Sơn, bạn cùng trăng gió, mặt đá rêu phơi, tiếng thông reo…

Hình ảnh cây mai tiêu biểu cho phẩm chất, cốt cách, sức sống của con ngƣời

và cũng là nỗi lòng đầy bi kịch của nhà thơ.

Nguyễn Trãi đã khai thác những phẩm chất tƣơng đồng của cây trúc,

cây mai để xây dựng biểu tƣợng đôi nhằm làm nổi bật khí phách, phẩm tiết

trong sạch, cứng cáp của ngƣời quân tử. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Trần Ngọc

Vƣơng đã khẳng định: “Những người bạn muôn thưở ở trong thơ các nhà nho

ẩn dật cũng được Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đông đủ trong thơ ông: mai,

tùng, cúc, trúc, trăng, gió, mây, núi. Tất cả những thứ đó là bạn - bằng những

phẩm chất của nó tương xứng với phẩm chất nào đó mà người quân tử muốn

đạt tới hay mang sẵn ở trong mình” [24, tr.753].

Nhƣ vậy, Nguyễn Trãi đã cảm nhận, nhìn thấy sự tƣơng đồng giữa vẻ

đẹp của cây trúc, cây mai với những vẻ đẹp, phẩm cách của con ngƣời. Trúc

mai từ những loài cây quen thuộc, tƣơi đẹp trong cuộc sống đã trở thành

những biểu tƣợng cho khí cốt con ngƣời. Nếu trúc mai trong ca dao là biểu

tƣợng cho thôn nữ xinh xắn, thanh thoát, mềm mại thì trúc mai trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi lại là biểu tƣợng cho phẩm cách, khí tiết của ngƣời quân tử.

Biểu tƣợng trúc mai xuất hiện trong thơ Nôm Nguyễn Trãi trƣớc hết đã

thể hiện đƣợc vẻ đẹp nhân cách, lý tƣởng của một bậc ẩn sĩ. Nguyễn Trãi luôn

ôm ấp lý tƣởng phò vua giúp nƣớc làm nên nghiệp lớn. Song, lý tƣởng ấy

không phải nhằm mục đích bon chen đến chốn cửa quyền, tham lấy chút danh

lợi cho bản thân, mà là để thực hiện giấc mộng kinh bang tế thế của bậc quân

tử. Đƣợc thời thì ra làm quan (xuất), đem cái tài để phò vua bình trị thiên hạ,

khi lý tƣởng không thực hiện đƣợc thì thôi làm quan, lui về ở ẩn (xử). Để tu

thân, Nguyễn Trãi rút lui khỏi chốn quan trƣờng, tìm về với cảnh điền viên,

xa lánh vòng danh lợi, sống cuộc đời trong sạch của một bậc ẩn sĩ.

23

Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh theo truyền thống với những biểu

tƣợng thiên nhiên gắn với ngƣời quân tử nhƣ “tùng trúc cúc mai” còn là

những loài hoa cỏ bình thƣờng nhƣng lại toả ra phẩm chất thi nhân của

Nguyễn Trãi tinh tế nhất. Bài thơ Cây chuối là một trong số đó:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Nhan đề của bài thơ rất mộc mạc: Cây chuối. Nhƣng quả thực bài thơ

lại hàm chứa một ý thơ sâu kín, nhiều tầng. Bài thơ nói về cây chuối “tự bén

hơi xuân” qua đó còn nói về sức xuân, tình xuân, thậm chí là tình yêu nam nữ.

Vì vịnh nên Ức Trai không sa đà vào chi tiết, vào dáng cây, thế cây,…

mà chỉ cốt ghi lấy ấn tƣợng. Cái đọt chuối màu xanh cẩm thạch đang đung

đƣa trƣớc làn gió xuân ngầm ý là cho sức sống, sức xuân. Nhƣ một cô gái biết

mình là đẹp, đang có mối tình đẹp, cây chuối dƣờng nhƣ e ấp, ngƣợng ngập vì

duyên may, vì có trong đời mình, trong lòng mình một hạnh phúc lớn lao,

trọn vẹn. Tâm trạng ấy đƣợc hình tƣợng lên bằng một bức tranh “tình thƣ”,

một cuốn thƣ còn niêm phong dán kín. Nguyến Trãi đã nhận ra dƣới góc độ

thơ mộng, duyên dáng, đa tình. Vừa giải bày, vừa gói gém những chuyện

động trời nhƣng đang ở dạng ẩn chìm, chƣa hé lộ. Kín đáo, tình tứ nhƣng

cũng biết bao phấp phỏng, hồi hộp, đợi chờ:

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Dĩ nhiên, tình lang của cây chỉ có thể là mùa xuân, là ngọn gió. Ngọn

gió ấy cũng mỏng manh lƣớt qua để làm cái việc mở bức “tình thƣ” còn

phong kín đó. Bức thƣ là thực, tình thƣ là ảo, có tƣởng nhƣ không. Đọc thƣ

tình, trƣớc hết thao tác mở thƣ phải nhẹ nhàng, phải trân trọng, “một tấm lòng

24

đối với một tấm lòng”, phải “gƣợng mở”. Bởi tình thƣ có khía cạnh vất chất,

nhƣng chủ yếu, quan trọng hơn là khía cạnh hồn ngƣời. Chính vì lẽ đó, trong

sự ứng xử không thể suồng sã, thô kệch. “Gió nơi đâu?”- câu hỏi tu từ ở đây

rất gợi, nhƣ một sự mời mọc, nhƣng cũng rất nhã: “gƣợng mở xem”. Bài thơ

có một giá trị rất đáng quý. Từ cây chuối nói tới sức xuân, nói tới xuân tình,

xuân ý, nói tới tình yêu của tuổi trẻ trong sự sống nhân bản của con ngƣời.

Nguyễn Trãi đã gây ấn tƣợng sâu sắc bởi sự cảm thụ của nhà thơ trƣớc

cái đẹp của sức xuân. Ngƣời con gái đẹp vốn là biểu tƣợng ấy, sức trẻ ấy toát

ra hƣơng thơm. Vẻ đẹp của cây chuối gặp xuân đƣợc chiêm ngƣỡng bởi một

tâm hồn thơ đa tình, nhạy cảm. Bài thơ cũng cho thấy một phần tâm hồn

phong phú của Nguyễn Trãi. Bên cạnh ngƣời anh hùng nhƣng Nguyễn Trãi

cũng rất đa tình, phong tình.

Chan hoà với thiên nhiên là vậy nhƣng Nguyễn Trãi hiếm có những

phút giây thanh thản trong lòng. Cuộc đời nhiều thăng trầm, nghi hoặc khiến

lúc nào ông cũng phải trăn trở, ngẫm nghĩ:

Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng,

Hoa thì hay héo, cỏ thuờng tươi.

(Tự thuật, bài 9)

Phượng những tiếc cao, muốn bay cao, tiếc rằng chƣa có cơ hội để

đƣợc bay cao. Nguyễn Trãi biết mình có tài “kinh bang tế thế”, nhƣng còn bị

đơn độc, bị kiềm tỏa, lại chƣa có binh lực, tài lực để thực hiện kế sách đánh

giặc, nên còn phải nấn ná chờ đợi cơ hội, đó là điều vô cùng đáng tiếc. Bọn

xâm lăng nhƣ cú diều, nhởn nhơ bay liệng (diều hãy liệng). Ví nhƣ ở đời Hoa

thường hay héo, cỏ thì tươi. Hoa quý hoa đẹp thì thƣờng hay héo sớm, còn

nhƣ loài cỏ dại chả có giá trị gì, lại thƣờng tốt tƣơi mơn mởn. Lẽ đời vô lý,

nhƣ cái sự héo sự tƣơi cứ nhơn nhơn mà xanh nhƣ cỏ, thật đáng buồn! Vịnh

thiên nhiên, Nguyễn Trãi muốn bộc bạnh nỗi lòng của mình về cuộc sống, về

25

thế sự. Thực chất đó là những trải nghiệm đau đớn trong cuộc đời Nguyễn

Trãi. Tất nhiên, viết những dòng thơ nhƣ thế, chắc chắn ông không khỏi ngậm

ngùi. Nhƣng đọc chúng, ngƣời ta có thể hình dung rõ nét sự thanh sạch trong

tâm hồn con ngƣời đã hết lòng vì dân vì nƣớc.

Nhƣ vậy, loại thơ vịnh cỏ cây, hoa lá, những bài vịnh các loài cây nhƣ

tùng cúc trúc mai… Nguyễn Trãi hiện lên trong thơ của mình đầy niềm kiêu

hãnh, tự tin về tài năng, khả năng nhằm khẳng định bản thân. Những bài vịnh

các loài cỏ cây hoa lá khác Nguyễn Trãi nhằm khái quát quy luật tự nhiên, xã

hội và những vấn đề của cuộc sống.

2.1.1.2. Thơ vịnh thiên nhiên là các danh lam thắng cảnh

Thơ chữ Hán ta bắt gặp nhiều địa danh gắn với quãng đời sôi nổi, với

hoài bão “chí quân trạch dân”, với tầm nhìn bao quát lịch sử, chiêm nghiệm

thời thế một cách cụ thể. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: “với cái nhìn

của một vị tướng, một anh hùng cứu quốc đã từng chiến thắng xâm lăng, của

một người có tinh thần dân tộc cao độ, Nguyễn Trãi đã vạch được những nét

bút hùng tráng khi miêu tả thiên nhiên của tổ quốc” [24, tr.799]. Thiên nhiên

trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi mang “những nét bút hùng tráng kiểu sử

thi” [24, tr.799]. Đây là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Trãi với Trƣơng Hán Siêu,

Phạm Sƣ Mạnh, Trần Nhân Tông, Nguyễn Xƣởng và nhiều nhà thơ khác khi

đề vịnh địa danh lịch sử. Ở đây vừa có nét hào hùng của những di tích lịch sử

của Trƣơng Hán Siêu, Phạm Sƣ Mạnh, vừa có nét nghiêm trang mà khỏe

khoắn, siêu thoát mà chân chất của những ngôi chùa trên núi, cảnh chiều hôm

của Trần Nhân Tông, Huyền Quang, có cái thanh thoát đƣợm chút bâng

khuâng của nhóm thơ Bích Động, cái cảnh sông hồ bát ngát, sáng tƣơi của

Mạc Đĩnh Chi. Hào quang của những cuộc chiến thắng chống ngoại xâm đã

đem đến cho thơ văn Lí Trần, Lê sơ, cả những thời đại về sau những đƣờng

nét, màu sắc, âm thanh kì vĩ khi miêu tả Hàm Tử, Chƣơng Dƣơng, Chí Linh,

Thần Phù, Bạch Đằng,…

26

Cũng giống nhƣ nhiều thi nhân khác, nhiều khi Nguyễn Trãi vịnh thiên

nhiên cũng chính là để ca ngợi, tƣởng nhớ các bậc anh hùng, hào kiệt của đất

nƣớc, để suy tƣ về những vấn đề lớn lao của cuộc sống dân tộc, để phát biểu

những liên tƣởng mang ý nghĩa triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với

thiên nhiên, giữa cái đã qua, đang qua, sắp tới,… Quan hải, Bạch Đằng hải

khẩu, Long Đại nham,… là những bài thơ nhƣ thế. Đối với Nguyễn Trãi, non

sông đất nƣớc Việt Nam không thiếu những danh lam thắng cảnh, những di

tích lịch sử rất đáng tự hào:

Tam thập niên tiền hồ hải thú,

Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.

(Vọng doanh)

(Thú hồ hải ba mƣơi năm về trƣớc,

Cuộc chơi này lạ tuyệt, còn hơn cuộc chơi của Tô tiên.)

Nguyễn Trãi đã đặt chân lên hầu hết những nơi chốn đã trở thành danh

lam thắng cảnh của đất nƣớc: chùa Đông Sơn, núi Dục Thúy, cửa Thần Đầu,

Côn Sơn, chùa Hoa Yên, núi Yên Tử,… Vịnh danh lam thắng cảnh trong thơ

Nguyễn Trãi khá phong phú, thông qua những địa danh lịch sử ông khái quát

vẻ đẹp của đất nƣớc, ca ngợi những di tích. Vịnh những cảnh tƣợng thiên

nhiên kì vĩ lớn lao để thấy đƣợc sự nhỏ bé, hữu hạn của cuộc đời,…

Trong khoảng mƣời năm giữ chức “quan lạnh”, sống nhàn tản, Nguyễn

Trãi chủ yếu đọc sách, làm thơ, đốt hƣơng thơm, uống trà, trồng cúc, ngắm

hoa, ngắm trăng, ngẫm chuyện đời, nhìn về quá khứ, giữ mình trong sạch,

ngao du sơn thủy, ngắm cảnh non sông, để lại những bài thơ hào hứng nhất

của mình. Đặc biệt ông hay tìm đến những di tích lịch sử, nơi từng ghi dấu

chiến công của dân tộc thuở trƣớc. Bạch Ðằng hải khẩu thể hiện chí khí của

ngƣời anh hùng trong Ức Trai, bao trùm toàn bài thơ là cảm hứng lịch sử, là

niềm tự hào dân tộc. Nguyễn Trãi đến thăm cửa biển Bạch Đằng với cánh

27

buồm thơ lộng gió tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh “cánh buồm thơ nhẹ” là một nét

vẽ thần tình, tài hoa:

Sóc phong xung hải khí lăng lăng,

Khinh khỉ ngâm phàm quá Bạch Ðằng.

(Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng,

Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng.)

Ngắm biển trời bát ngát mênh mông, nhà thơ xúc động miêu tả cảnh

núi non, bờ bãi nơi cửa biển Bạch Đằng bằng hai nét vẽ ẩn dụ hoành tráng,

cái cao cái thấp, cái gần cái xa, đăng đối gợi cảm:

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.

(Nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một,

Nhƣ mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng.)

Núi nhấp nhô từng khúc nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ. Kình ngạc

tƣợng trƣng cho lũ giặc dữ, Nguyễn Trải chỉ ra lũ giặc phƣơng Bắc bị quân ta

tiêu diệt trên Bạch Đằng Giang. Bờ bãi lớp lớp nhƣ giáo gƣơm bị chìm gãy

chồng chất lên, là hình ảnh ẩn dụ gợi tả sự thất trận của lũ giặc Nam Hán, giặc

Tống, giặc Nguyên Mông thuở nào. Hai câu thơ có hình tƣợng kỳ vĩ, hàm súc

giàu chất liên tƣởng, mang cảm hứng lịch sử oai hùng. Sông Bạch Đằng, cửa

biển Bạch Đằng là tử địa quân xâm lƣợc phƣơng Bắc:

Bạch Đằng một cõi chiến tràng,

Xương phơi trắng đất, máu màng đỏ sông.

(Đại Nam Quốc sử diễn ca)

Nguyễn Trãi nhận ra những mối tƣơng quan trời đất, con ngƣời khi suy

ngẫm trƣớc cảnh trời đất vô cùng, ngậm ngùi cho mối hận anh hùng, suy

ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc. Bài thơ Quan hải ông đã khẳng định:

28

Phúc chu thủy tín dân do thuỷ,

Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.

Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỉ thiên niên.

(Thuyền bị lật mới tin rằng dân là nhƣ nƣớc,

Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.

Họa phúc có manh mối không phải một ngày,

Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.)

Nhìn thiên nhiên đất trời Nguyễn Trãi luận bàn về anh hùng, theo ông

anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhƣng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với

nhân dân nhƣ thuyền với nƣớc. Nguyễn Trãi đã coi trọng điểm tích cực, đúng

đắn trong quan niệm của ngƣời xƣa. Những câu thơ tiếp của Bạch Ðằng hải

khẩu trở nên sâu lắng trong suy tƣởng. Ông khẳng định quan hà hiểm yếu.

Sông Bạch Đằng hiểm yếu do thiên nhiên sắp đặt ra, là nơi để bậc anh hùng

dụng binh chống giặc, lập nên bao chiến công lừng lẫy “Tiếng thơm đồn mãi

/Bia miệng chẳng mòn” (Phú sông Bạch Đằng - Trƣơng Hán Siêu). Phép đối

tạo nên vần thơ đẹp, ca ngợi núi sông hiểm trở, dân tộc Đại Việt có nhiều anh

hùng hào kiệt:

Quan hà bách nhị do thiên thiết,

Hào kiệt công danh thử địa tằng.

(Quan hà hiểm hai ngƣời chống trăm ngƣời do trời sắp đặt,

Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi.)

Tên tuổi những anh hùng nhƣ Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Quốc

Tuấn… bất tử với sông Bạch Đằng lịch sử. Giọng thơ càng về cuối càng thiết

tha sâu lắng. Đối cảnh sinh tình, nhìn cảnh nhớ bóng ngƣời xƣa, lòng dạ cảm

hoài bâng khuâng khôn xiết. Hoài niệm tạo nên chất thơ. Tự hào, nhớ thƣơng,

nghĩ về cái còn, cái mất, cái hiện tại, cái đã qua:

29

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,

Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.

(Quay đầu xem việc cũ, ôi xong rồi!

Cúi xuống dòng mò bóng, ý khôn nói xiết.)

Cũng nói về hồn thiêng sông núi, cũng nói về đất nƣớc con ngƣời Việt

Nam, ca ngợi sức mạnh Việt Nam, thi nhân chỉ qua một cửa biển, một dòng

sông Bạch Đằng đã lột tả đƣợc cái thần của điều cần nói. Mỗi chữ, mỗi câu

thơ, mỗi hình ảnh về cửa biển Bạch Đằng nhà thơ nói đến nhƣ nâng cao tầm

vóc lớn lao của dân tộc để chúng ta yêu thêm sông núi Tổ quốc, yêu thêm

truyền thống anh hùng của dân tộc, tin tƣởng vào tiền đồ xán lạn của đất nƣớc

muôn đời. Có thể kết luận Bạch Ðằng hải khẩu là bài thơ kiệt tác tiêu biểu

cho hồn thơ trang trọng, hào hùng, tráng lệ của Nguyễn Trãi.

Miêu tả cảnh Vân Đồn, có hai quả núi đứng đối nhau, khoảng giữa là

một dòng nƣớc chảy, ở đó ngƣời ta lấy gỗ cắm cờ làm thủy môn, đời Lý có

nƣớc Qua Oa, Xiêm La đi thuyền đến buôn bán với nƣớc ta:

Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,

Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan.

(Vân Đồn)

(Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rờn lục,

Nghe nói đó là vùng ngƣời Phiên đỗ tàu.)

Đây là núi Long Vĩ, đầu tỳ vào bờ cao, đuôi ngăn mé biển, thuyền bè

qua lại thƣờng gặp sóng gió, cũng là một nơi hiểm yếu:

Tùng lâm địa xích cương Nam Bắc,

Long Vĩ sơn hoành hạn yếu xung.

(Quá hải)

(Rừng tùng ngăn đất làm giới hạn cho Bắc Nam,

Núi Long Vĩ chặn ngang làm chỗ ngăn trở hiểm yếu.)

30

Rồi cửa Thần Phù, sông Bạch Đằng, núi Dục Thúy, núi Long Đại,…

Nguyễn Trãi vừa có cái nhìn hào hứng của nhà thơ, vừa có tầm mắt hùng vĩ

của vị anh hùng cứu nƣớc, tự mình cũng đã góp công vào việc tiêu diệt kẻ

thù, bảo vệ giang san gấm vóc. Ông rất tự hào về núi Dục Thúy, không những

vì núi này đẹp nhƣ cảnh tiên rơi cõi ngƣời, đây lại là chỗ di tích của một danh

nhân đời nhà Trần:

Hữu hoài Trương thiếu bảo,

Bi khắc tiểu hoa ban.

(Dục Thúy sơn)

(Thấy cảnh nhớ đến Trƣơng thiếu bảo,

Bia khắc đã lốm đốm hoa rêu.)

Trong bài Vọng Doanh, sau khi đã trở lại chơi núi Dục Thúy (Ninh

Bình), cửa Đại An (Nam Định), ông tuyên bố rằng chuyến đi chơi này thú vị

lạ lùng, hơn hẳn chuyến đi ba năm trƣớc – có lẽ là lần đi Thanh Hóa tìm

“chân chúa”, hơn cả cuộc đi chơi của Tô Đông Pha trên sông Xích Bích xƣa:

Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền,

Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên.

Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc,

Đại An triều tướng thủy như thiên.

Y y viễn thụ thanh yên lý,

Diểu diểu bình sa bạch điểu tiền.

Tam thập niên tiền hồ hải thú,

Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên.

(Vọng Doanh)

(Chiều hôm đến Vọng Doanh buộc thuyền thơ,

Cảnh thơ ghẹo ngƣời, hứng buổi chiều hôm lôi kéo.

Mƣa tạnh núi Dục Thúy biếc nhƣ ngọc,

31

Chiều lớn cảnh Đại An nƣớc nhƣ trời.

Lờ mờ rặng cây xa ở trong làn khói xanh,

Bát ngát bãi sông phẳng ở trƣớc đàn chim trắng.

Thú hồ hải ba mƣơi năm về trƣớc,

Cuộc chơi này lạ tuyệt, còn hơn cuộc chơi của Tô tiên.)

Ông cũng thƣờng vịnh cảnh chùa: chùa Đông Sơn ở xã Vĩnh Lũ, huyện

Đông Triều, quán Ngọc Thanh cũng ở huyện ấy, chùa Hoa Yên, nơi tu luyện

của Yên Kì Sinh, vua Nhân Tông nhà Trần cũng tu ở đó,… Những cảnh trí ấy

đƣa lại cho ông sự bình thản trong tâm hồn:

Đoản trạo hệ tà dương,

Thông thông yết thượng phương.

Vân qui thiền sáp lãnh,

Hoa lạc giản lưu hương.

Nhật mộ viên thanh cấp,

Sơn không trúc ảnh trường.

Cá trung chân hữu ý,

Dục ngữ hốt hoàn vương.

(Tiên Du tự)

(Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế,

Vội vàng lên yết bái cửa chùa.

Mây kéo về khiến giƣờng thiền lạnh,

Hoa rụng xuống khiến dòng suối thơm.

Chiều hôm tiêng vƣợn kêu rộn,

Núi trống bóng trúc dài ra.

Trong cảnh ấy thực có ý,

Ta muốn nói ra bỗng lại quên.)

32

Một địa danh nữa mà ta không thể không nhắc đến khi tìm hiểu về vẻ

đẹp thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, đó chính là Côn Sơn. Thời thơ ấu,

Nguyễn Trãi từng sống với mẹ, ông ngoại tại đấy. Côn Sơn ca đƣợc xem là

một trong những bài thơ tiêu biểu nhất, thể hiện sự giao cảm giữa thi sĩ với

thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời Ức Trai:

Côn sơn hữu tuyền,

Kỳ thanh linh linh nhiên,

Ngô dĩ vi cầm huyền.

Côn sơn hữu thạch,

Vũ tẩy đài phô bích,

Ngô dĩ vi đạm tịch.

(Côn Sơn có khe,

Tiếng nƣớc chảy rì rầm,

Ta lấy làm đàn cầm.

Côn Sơn có đá,

Mƣa xối rêu xanh đậm,

Ta lấy làm chiếu thảm.)

Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nƣớc chảy róc rách nhƣ tiếng

đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mƣa sạch rêu biếc nhƣ chiếu êm. Cảnh đẹp

thứ ba là rừng thông, tán lá nhƣ những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó

với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nƣơng tựa, nâng đỡ tâm hồn,

đối tƣợng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “ta cho là

đàn cầm”, để “ta cho là đệm chiếu”, “ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, “ta ngân

nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm

giác, với tâm hồn thi sĩ bằng những liên tƣởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:

Nham trung hữu tùng,

Vạn lí thúy đồng đồng,

33

Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.

Lâm trung hữu trúc,

Thiên mẫu ấn hàn lục,

Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc.

(Trong núi có thông,

Muôn dặm rờn rợn biếc một vùng,

Ta tha hồ ngồi nghỉ ở trong.

Trong rừng có trúc,

Nghìn mẫu in biếc lục,

Ta tha hồ ngâm nga bên gốc.)

Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ

tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thƣơng.

Côn Sơn ca đƣợc ra đời sau khi Nguyễn Trãi đã làm xong nhiệm vụ kẻ

sĩ thời đất nƣớc loạn ly là giúp minh quân giành giang sơn, đem lại thái bình

cho trăm họ. Sĩ khí đã thành, công danh đã toại, ông muốn quay về để sống

cuộc sống an nhàn, giản dị nơi Côn Sơn:

Vấn quân hà bất qui khứ lai?

Bán sinh trần thổ trường giao cốc,

Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,

Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.

(Ngƣời sao còn chửa về đi!

Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc!

Muôn chung chín đỉnh có làm gì!

Miễn là cơm rau miễn tri túc.)

Và nhƣ một thiền sƣ đạt đạo, ông đã thấu rõ những hệ lụy nhân sinh

trong cõi đời, cõi vô thƣờng:

34

…Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ?

Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc?

Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề,

Thú Dương ngạ tử bất thực túc?

Hiền ngu lư ng giả bất tương mâu,

Diệc các tự cầu kỳ sở dục.

Nhân sinh bách tuế nội,

Tất cánh đồng thảo mộc.

Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,

Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.

Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,

Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục?...

(Ngƣơi chăng thấy Đổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà?

Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc?

Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề,

Thú Dƣơng chết đói không ăn thóc?

Hiền ngu dù chẳng giống nhau đâu,

Cũng đều muốn thỏa lòng sở dục.

Ngƣời đời trong trăm năm,

Rốt cuộc nhƣ thảo mộc.)

Giàu sang, danh vọng, hiền, ngu… đều còn lại nấm cỏ trên đồi. Thấy

đƣợc điều đó, ít nhiều Nguyễn Trãi từng thấm đƣợm tƣ tƣởng của đạo Phật và

của Lão giáo. Hai tƣ tƣởng ấy quyện lẫn vào thơ ông để cho chúng ta thấy

đƣợc nét thanh cao của những ngƣời chọn niềm vui trong cảnh sông núi, vui

thú điền viên, xa lánh cái ồn ào của chốn lợi danh.

Thiên nhiên nhƣ đƣợc thổi hồn theo dòng cảm xúc của thi sĩ, với Ức

Trai thiên nhiên không chỉ mang vẻ đẹp đơn thuần mà đó còn là ngƣời bạn

tâm giao, là tiếng nói tâm tình, là nơi gửi gắm ƣu tƣ thế sự…

35

Vịnh thiên nhiên là các danh lam thắng cảnh là mảng đề tài đƣợc vịnh

khá nhiều trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Từ các thắng cảnh tự nhiên thi

nhân bộc lộ thái độ ca ngợi trƣớc những cảnh đẹp tuyệt mĩ, chuẩn mực của

đất nƣớc. Những thắng cảnh đƣợc vịnh cũng chủ yếu là những cảnh đẹp kì vĩ,

lớn lao qua đó khái quát sự đối lập giữa cái vô tận của thiên nhiên và sự hữu

hạn của kiếp ngƣời. Nguyễn Trãi cũng hay tìm đến những di tích lịch sử, nơi

từng ghi dấu chiến công của dân tộc thuở trƣớc để chiêm nghiệm về lẽ thắng

bại, nhân nghĩa. Đến chốn đền, chùa, nơi ở ẩn, ông viết về cái hƣ ảo của cuộc

đời, nơi thanh thản để đối diện với chính mình, suy ngẫm về cuộc đời… Với

những bài vịnh danh lam thắng cảnh, Nguyễn Trãi vừa thể hiện một hồn thơ

bay bổng vừa bộc lộ những chiêm nghiệm, nghĩ suy sâu sắc.

2.1.1.3. Thơ vịnh thiên nhiên là các hiện tƣợng tự nhiên

Nếu nhƣ vịnh cỏ cây hoa lá chủ yếu ở phần Môn hoa mộc thì vịnh các

hiện tƣợng tự nhiên thời tiết bốn mùa lạ chủ yếu đƣợc viết ở phần Môn thời

lệnh và một phần ở Tích cảnh thi cùng với một số bài thơ chữ Hán. Ánh trăng,

tuyết, sƣơng, gió, mây,... đều là những hiện tƣợng tự nhiên đƣợc Nguyễn Trãi

quan tâm nhiều nó biểu tƣợng cho vẻ đẹp nhân cách, nỗi lòng thi nhân.

Nguyễn Trãi khi viết về hình ảnh bốn mùa không đơn thuần chỉ miêu tả

vẻ đẹp của thiên nhiên mà qua đó còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ.

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, tƣợng trƣng cho sự khởi đầu mới

mẻ với sắc xuân đầm ấm, tƣơi vui. Mùa hạ với cái nắng vàng gay gắt cùng

với tiếng ve, tiếng cuốc kêu… mang đến âm thanh rộn rã của sự sống. Đến

mùa thu, Nguyễn Trãi có một mảng thơ dành riêng cho mùa thu, đó là bức

tranh thu đẹp thanh sơ, giản dị với hình ảnh hoa cúc, điển hình cho mùa thu

Việt Nam. Còn về đông, dƣờng nhƣ mọi cảnh vật đều trở nên tiêu điều, xơ

xác, qua đó gửi gắm một nỗi buồn sâu sắc. Bức tranh thiên nhiên bốn mùa

trong Quốc âm thi tập rất đa dạng, phong phú với những hình ảnh sinh động,

gần gũi với con ngƣời.

36

Có thể nói, “thơ đề vịnh mùa xuân chiếm ví trị tuyệt đối thong thơ quốc

âm” [24, tr.539]. Mùa xuân trong Nguyễn Trãi nói riêng, đó là một biểu tƣợng

của vẻ đẹp toàn mĩ, hoàn chỉnh, phổ biến:

Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông quân,

Nào chốn nào chăng gió xuân.

Huống lại vườn còn hoa trúc cũ,

Chồi thức tốt lạ mười phân.

(Thơ tiếc cảnh , bài 13)

Trong con mắt mỗi ngƣời, mảnh vƣờn ấy chợt tƣơi xanh hơn bởi mầm

non hoa lá. Biểu tƣợng của sự sống, sức sống mùa xuân "chồi thức tốt lạ mười

phân" đã vƣợt lên, lấn át củi khô cằn, đơn lẻ, lạc lõng của một cành trúc mùa

đông. Qua đó, nhà thơ khẳng định một quy luật tất yếu của tự nhiên là sự sinh

ra và mất đi, mùa đông có lạnh giá đến đâu thì cũng đến lúc phải nhƣờng chỗ

cho xuân tới, cho muôn hoa đua nở, chim ca ríu rít. Đó cũng là quy luật của

đời ngƣời. Mỗi mùa đông qua đi, mùa xuân lại đến con ngƣời lại đƣợc đánh

dấu bằng một mốc mới, một thay đổi mới trong cuộc đời mình.

Trƣớc sự vô hạn của thiên nhiên và sự hữu hạn của đời ngƣời, Nguyễn

Trãi - con ngƣời của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên, đã

cảm nhận thiên nhiên theo vòng tuần hoàn:

Và tháng hạ thiên bóng nắng dài,

Thu đông lạnh lẽo cả hòa hai.

Đông phong từ hẹn tin xuân đến,

Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.

(Hoa xuân)

Bài thơ mang đến một quy luật tuần hoàn đặc trƣng của từng mùa: hạ

nắng dài, thu đông lạnh lẽo, xuân đến tốt tƣơi. Qua sự biến chuyển của từng

mùa, nêu lên đƣợc lẽ tuần hoàn của vũ trụ theo triết lí phƣơng Đông. Mùa

37

xuân ấy đồng nghĩa với vẻ tƣơi mới của đất trời, với một thời trẻ trung của

đời ngƣời.

Theo vòng tuần hoàn, mùa xuân xanh tƣơi nhƣờng chỗ cho mùa hè

nắng dài. Các nhà thơ trung đại thƣờng coi mùa hè nhƣ một sự náo nhiệt, vui

tƣơi, đồng thời dùng mùa hè để nói lên tâm sự. Mùa hè không chỉ có cái nóng

nực, ngột ngạt mà cũng rất đẹp, rất tƣơi với màu nắng chói chang, bầu trời

xanh. Đặc biệt, mùa hè rất rộn ràng với âm thanh của tiếng quốc kêu, tiếng tu

hú gọi, tiếng sáo diều vi vu, tiếng ve râm ran, những âm thanh khuấy động

làm cho không gian hè trở nên rộn ràng, bức tranh hè trở nên sinh động

hơn. Tiếng chim đỗ quyên kêu rộn ràng, báo hiệu mùa hè, một mùa hè tƣng

bừng tràn ngập nắng hạ. Mùa hè trong thơ Nguyễn Trãi cũng vậy, có tiếng đỗ

quyên kêu, có hoa hòe nở rộ báo hiệu hè sang, thời khắc giao mùa giữa xuân

tới hạ.

Trong cái vòng tuần hoàn của thời gian, Nguyễn Trãi thể hiện niềm tâm

sự của mình, sự nuối tiếc thời gian trôi đi nhanh chóng, nuối tiếc tuổi thiếu

niên chƣa làm đƣợc gì, nỗi than đó đƣợc bật lên trong bài thơ:

Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,

Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.

Lại có hòe hoa chim bóng lục,

Thức xuân một điểm não lòng nhau.

(Cảnh hè)

Mùa hè đã lùi lại nhƣờng chỗ cho mùa thu đến. Thu đến gợi nhiều sự

thay đổi thể hiện quy luật của tự nhiên. Thơ đề vịnh mùa thu là những bài thơ

diễn tả tâm trạng con ngƣời cá nhân trƣớc mùa thu hiu hắt vắng lặng, mùa rơi

rụng của lá vàng. Nguyễn Trãi thể hiện niềm nuối tiếc, ông kí thác tâm tình

của mình trong một mối cảm hoài tiếc cảnh:

38

Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng,…

Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng.

(Thơ tiếc cảnh, bài 1)

Mùa thu đến, mùa thu đi nhắc nhở thời gian đang dần về cuối, một

vòng tuần hoàn trong năm gần khép lại cũng giống nhƣ thời khắc cuộc đời

của con ngƣời đã vào tuổi xế chiều, tuổi con ngƣời sắp đƣợc nghỉ ngơi. Tuổi

con ngƣời già theo năm tháng không có sự lặp lại nhƣng với thiên nhiên thì

lại khác, sự lặp lại của năm này với năm khác hoàn toàn giống nhau, không có

sự phai mờ. Sự chuyển mùa giữa mùa này với mùa khác vẫn nhƣ thế:

Đông đã muộn, lại sang xuân,

Xuân muộn thì hè lại đổi lần.

Tính kể từ mùa có nguyệt,

Thu âu là nhẫn một hai phân.

(Trăng thu)

Thu đi nhƣờng chỗ cho đông lạnh giá, đó là mùa cuối cùng trong năm,

khép lại một năm đã hết, bắt đầu cho một năm mới. Một năm có bốn mùa

xuân - hạ - thu - đông, mỗi mùa thể hiện một nét đặc trƣng riêng, một quy luật

riêng, không chỉ về thời gian của mùa mà cả quy luật về con ngƣời.

Mùa đông đến, con ngƣời đều có chung một cảm nhận nhƣ đến với một

thế giớ lạnh lẽo, cô đơn, vắng vẻ với những cảnh tiết đông chí sƣơng muối,

rét "cắt da, cắt thịt" làm cho con ngƣời nhƣ muốn thu mình lại tự dằn vặt, tự

tâm sự với nỗi lòng mình:

Tà dương bóng ngả áp giang lâu,

Thế giới đông nên ngọc một bầu.

Tuyết sóc leo cây điểm phấn,

Cõi đông giãi nguyệt in câu.

(Ngôn chí, bài 13)

39

Nếu mùa xuân là mùa đầu năm, mùa khởi đầu cho một công cuộc mới

thì mùa đông lại là mùa khép lại một năm, báo hiệu một năm đã hết. Nguyễn

Trãi rất khéo léo trong việc sử dụng các hình ảnh thiên nhiên bốn mùa để

nhắc nhở quy luật tuần hoàn. Nếu nhƣ con ngƣời và cảnh vật dƣờng nhƣ đều

muốn thu mình vào cái vỏ bọc của chăn ấm, mọi hoạt động ngừng trệ hơn,

không có vẻ tƣơi tắn của mùa xuân, vẻ náo nhiệt của mùa hè, vẻ man mác dễ

chịu của mùa thu thì các mùa khác trong năm đều mang đầy sức sống, hấp

dẫn, muốn khoe mình trong không trung rộng lớn.

Mùa đông đến, rồi mùa đông lại đi đó là quy luật của tự nhiên nhƣng

mùa đông của con ngƣời có thể đƣợc ví nhƣ thời gian của con ngƣời đã đi về

tuổi già, tuổi của nghỉ ngơi, tuổi thu mình hƣởng thụ cái thú nhàn của cuộc

sống. Đó là sự khác nhau giữa vòng tuần hoàn của thời gian và con ngƣời.

Khi làm thơ đề vịnh thiên nhiên, có lẽ trăng là ngƣời bạn thân thiết

nhất, gần gũi nhất của Nguyễn Trãi. Ông miêu tả sự sáng trong của ánh trăng

để ngụ ý nói tới tấm lòng trong sáng cao quý của mình:

Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không,

Xem ắt lắm, một thức cùng.

Hải nhược chiết nên cành quế tử,

Giang phi chiếm được thức Thiềm cung.

Thu cao thỏ ướm thăm lòng bể,

Vực lạnh châu mừng thoát miệng rồng.

Đạn khiếp thiên nhan chăng n tịn.

Lui thuyền lãng đãng ở trên dòng.

(Mặt trăng trong nước)

Vịnh các hiện tƣợng tự nhiên nhƣ thời tiết bốn mùa, Nguyễn Trãi từ sự

thay đổi của thời gian, quy luật tuần hoàn của thời gian để nói tới quy luật của

đời ngƣời, sự biến đổi của kiếp ngƣời. Thời gian trôi đi không bao giờ trở lại

40

nên đứng trƣớc sự thay đổi của thời gian con ngƣời hoài niệm quá khứ, luyến

tiếc thời gian, tiếc cảnh đẹp, tiếc cuộc đời xuân xanh. Từ quy luật vận động

của bốn mùa trong tự nhiên nhà thơ nói về quy luật của đời ngƣời. Đằng sau

bức tranh thiên nhiên ấy chất chứa bao nỗi niềm của chính nhà thơ, đó là tâm

sự về tình cảm cá nhân và về thời đại lúc bấy giờ.

2.1.2. Vịnh vật

Nhắc đến thơ vịnh vật ta phải kể đến tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm,

ông đƣợc coi là nhà thơ có nhiều bài thơ vịnh vật nhất ở cả chữ Hán và chữ

Nôm (khoảng 230 bài). Tuy Nguyễn Trãi để lại không nhiều về mảng đề tài

này nhƣng cũng đã ghi dấu ấn của ông trong dòng chảy của thơ vịnh vật.

Theo thống kê, ta thấy thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi chiếm tỉ lệ tƣơng

đối thấp trên số lƣợng tác phẩm của ông còn để lại: 9/359 bài (chiếm 2,5%).

Trong đó, Quốc âm thi tập có 7/9 bài thơ (chiếm 77,8%), Ức Trai thi tập có

2/9 bài thơ (chiếm 22,2%). Đối tƣợng, nội dung trong thơ vịnh vật của

Nguyễn Trãi là các con vật, đồ vật. Từ loại thơ vịnh vật, Nguyễn Trãi cũng

bộc lộ quan niệm, tƣ tƣởng của cá nhân mình.

2.1.2.1. Thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là con vật

Theo thống kê, chúng tôi nhận thấy, thơ vịnh của Nguyễn Trãi lấy đối

tƣợng là con vật chỉ xuất hiện trong thơ chữ Nôm. Trên tổng số 7 bài thơ vịnh

vật có đến 6 bài là vịnh con vật (chiếm khoảng 85,7%). Các đối tƣợng này

phần lớn đều đã quen thuộc trong thơ trung đại, đƣợc chia thành các nhóm

chim, côn trùng, vật nuôi,…

Trong số 6 bài thơ vịnh con vật, vật nuôi nhƣ con lợn, con trâu, con

mèo là đối tƣợng đƣợc vịnh nhiều hơn cả (3/6 bài, chiếm 50,0%), sau đó đến

nhóm chim (2/6 bài, chiếm 33,3%), nhóm côn trùng chỉ có duy nhất 01 bài

vịnh con bƣớm (chiếm 16,7%). Cũng nhìn vào bảng hệ thống này, ta thấy

những đối tƣợng quen thuộc trong thơ vịnh vật nhƣ chim hạc, chim nhạn,

41

bƣơm bƣớm,… và một số loài động vật lớn nhƣ trâu, những động vật gần gũi

với cuộc sống của con ngƣời nhƣ lợn, mèo. Có thể thấy mảng thơ vịnh vật về

con vật của Nguyễn Trãi tuy ít những khá phong phú.

Chim hạc, chim nhạn, bƣơm bƣớm là những hình ảnh quen thuộc giàu

tính ƣớc lệ của văn học trung đại, thể hiện đƣợc vẻ đẹp của cốt cách, tâm hồn

con ngƣời, gắn với những câu chuyện, điển tích xƣa.

Trong bài Trận nhạn, tác giả đã sử dụng một số chi tiết về lối sống,

huyền thoại dân gian để miêu tả trận nhạn. Tuy nhiên chúng tôi thấy những

yếu tố đó khá mờ nhạt, tác giả chỉ mƣợn trận nhạn để nói về sức mạnh, kỷ

luật nghiêm của quân đội:

Nước dẫy triều cường cuối bãi đầy,

Làm kỳ chinh khéo nên bầy.

Đàn chim đạn ngọc sao bắc,

Phất dõi cờ lau gió tây.

Thu phát lệnh nghiêm hàng đỗ gấp,

Sương thanh bảng nhặt tiếng kêu chầy.

.............

Tử tái đường nghèo lòng mựa ngây (nghi).

(Trận nhạn)

Trận nhạn là bầy nhạn xếp thành hàng đều nhƣ quân ra trận. Một quân

đội mạnh với hai phép hành quân là đánh du kích (kỳ) và lối đánh chính quy

theo bầy đàn (chinh). Đàn chim chỉ sức mạnh của bầy chim nhạn bay từ

phƣơng Bắc về phƣơng Nam đã không còn nhìn thấy các sao ở phƣơng Bắc

nữa, các sao ấy nhƣ đạn ngọc đã bị bắn chìm vào không gian rồi. Ngọn gió

tây thổi tác giả ví nhƣ đang phất cờ để dõi theo quân (nhạn) ra trận. Mùa thu

đã phát lệnh nghiêm (nghiêm hàn) tức là đã có tin rét nhạn phải tìm nơi đỗ

gấp để tránh rét. Những từ nhƣ lệnh nghiêm, đỗ gấp đều là những từ có ý

42

nghĩa quân sự. Sương thanh có nghĩa là sƣơng trong, sƣơng lạnh. Bảng nhặt

là treo bảng (hiệu lệnh) nghiêm ngặt. Tiếng kêu chày là tiếng nhạn kêu vẳng

trong đêm khuya. Ý cả câu muốn nói kỷ luật nghiêm nên quân lính ít kêu la

ầm ĩ. Trong bài thơ này, mọi chi tiết xây dựng hình ảnh trận nhạn nhằm ẩn ý

về phẩm chất chức năng của quân đội.

Hay bài thơ Trận bướm cũng nhƣ vậy, mƣợn hình ảnh trận bƣớm để

bày tỏ tấm lòng của một công thần khai quốc:

Làm sứ đi thăm tin tức xuân,

Lay thay cánh nhẹ mười phân.

Nội hoa tớp tớp vây đòi hỏi,

Doanh liễu khoan khoan khéo lữa lần.

Thục đế để thành déo dắt,

Phong vương đắp luỹ khóc ran.

Chúa xuân giáo tập dư ba tháng,

Mảng cầm ve mới đỗ quân.

(Trận bướm)

Theo bài báo của Nguyễn Thiên Thụ: “Dƣới con mắt của Nguyễn Trãi,

phần lớn những loài vật, phong cảnh thiên nhiên đã mang những biểu tƣợng

của chân thiện mỹ” [24, tr.672]. Với bài Chim hạc già trong Quốc âm thi tập,

tác giả bài báo cho rằng: “Con hạc là một con vật thiêng liêng. Ngƣời ta

thƣờng coi hạc tƣợng trƣng cho tuổi thọ, cho trƣờng sinh bất tử, là loài vật

gần gũi với những vị tiên” [24, tr.674]....

Ngẫm hay thế sự nhẹ bằng lông,

Ăn uống chăng nài bổng Vệ công.

Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch,

Non xuân từng bạn khách ăn thông.

Cánh xâm bạch tuyết mười phân bạc,

43

Đinh nhuộm đơn sa chín chuyển hồng.

Nghìn dặm trời dầu đủng đỉnh,

Kham cười anh vũ mắc chưng lồng.

(Chim hạc già)

Bên cạnh những hình ảnh giàu tính ƣớc lệ, Nguyễn Trãi còn vịnh

những con vật gần gũi với đời sống hằng ngày nhƣ con trâu, con lợn, con mèo

từ đó khẳng định tài năng, tâm sự của ngƣời quân tử. Mèo là bài thơ nhƣ thế:

Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây,

Phụng sự Như Lai trộm phép thầy.

Hơn chó được ngồi khi mặt bếp,

Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây.

Đi nào kẻ cấm buồng the kín,

Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy.

Khó liễn sang chăng n phụ,

Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.

Câu thơ đầu tiên miêu tả hình dáng, xuất xứ của loài mèo. “Lọ vằn”

nghĩa là lọ lem, vằn vện, đây là màu lông của mèo mƣớp; “lạ” là lạ lùng, đẹp

mắt; còn “phƣơng Tây” là nguồn gốc của loài mèo bởi theo truyền thuyết xƣa,

mèo có xuất xứ từ Tây trúc, xứ Phật. Câu thơ thứ 2 với một cách ví von khéo

léo, hóm hỉnh đã cho thấy tập tính của loài mèo. Phụng sự Như Lai trộm phép

thầy - ý diễn đạt khi “thầy” chùa đi vắng, chú mèo nhảy lên cả bàn thờ Phật,

bởi đặc điểm của mèo là thƣờng nhảy lên những chỗ cao để dễ dàng quan sát,

săn mồi. Các câu thơ 3,4 tiếp tục miêu tả sinh động đặc điểm của mèo. Có

nguồn gốc từ miền nhiệt đới nên mèo ƣa nằm cạnh bếp ấm. Nhƣng mèo đƣợc

“ƣu ái” hơn chó, cũng là một gia súc gần gũi với con ngƣời, là không bị gia

chủ nhà xua đuổi: Hơn chó được ngồi khi mặt bếp. Câu thơ thứ 4 nhắc đến

một truyền thuyết về mèo, đó là trƣớc đây mèo dạy cọp đủ nghề săn bắt,

44

nhƣng giấu nghề leo cây, chính vì thế mà cọp không thể bắt đƣợc mèo: Tiếc

hùm chẳng bảo chước leo cây. Hai câu thơ 5,6 thú vị bởi sự dí dỏm, chính

xác: Đi nào kẻ cấm buồng the kín - mèo luôn muốn làm chủ mọi ngõ ngách

trong không gian mình sống, nếu bị chặn cửa, mèo hay kêu, cào cửa để phản

đối. Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy - khi mèo ăn thì không cần đợi “ai” làm mâm

cao cỗ đầy, tức là sẵn sàng…ăn trƣớc. Sự dân dã mà tinh tế trong ngụ ý của

hai câu thơ tạo cho bài thơ nét hóm hỉnh, gần gũi. Chữ “liễn” trong câu thơ

thứ 7 là một từ cổ, mang nghĩa “hay là”. Khó liễn sang chăng n phụ, ý nói

dù ngƣời khó hay là ngƣời sang cũng không ai phụ mèo. Điều này cho thấy

con mèo là con vật rất gần gũi trong cuộc sống của ngƣời dân. Gần gũi bởi

một lý do hết sức tự nhiên, lý do này đƣợc nhắc đến trong câu thơ cuối cùng

của tác phẩm: Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày - vì “giận chuột” nên

ngƣời phải nuôi mèo. Bài thơ Mèo đƣợc Nguyễn Trãi viết cách đây đã hơn

nửa thiên niên kỷ, nhƣng những vần thơ giản dị, gần gũi với cuộc sống của

tác phẩm vẫn luôn khẳng định đƣợc sức sống mãnh liệt vƣợt không gian, thời

gian của nó.

Loại thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là con vật, Nguyễn Trãi đã mƣợn những

con vật để bộc lộ tâm trạng của mình. Từ những đặc điểm của loài về hình

dáng, tập tính mỗi con vật đƣợc vịnh nhƣ để bộc lộ tấm lòng của bậc khai

quốc công thần đầy tài năng, có ý thức dân tộc cao nhƣng lại cô đơn cô độc

trƣớc thời thế xoay vần.

2.1.2.2. Thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là đồ vật

Ở nhóm thứ hai, thơ vịnh vật lấy đối tƣợng là các đồ vật có khoảng 3/9

bài (chiếm khoảng 33,3%). Trong đó, đối tƣợng vịnh là cây kiếm, bức tranh

trong thơ chữ Hán và quả thái cầu trong thơ Nôm. Thông qua những đồ vật

đƣợc vịnh trong nhóm này, Nguyễn Trãi phản ánh hiện thực đất nƣớc và bày

tỏ tấm lòng ƣu nƣớc ái dân của ông.

45

Đề kiếm tức là nhìn thanh kiếm mà đề thơ. Nói về kiếm nhƣng tình ý lại

là nói về ngƣời, về nhân tình thế thái:

Lam Sơn tự tích ngoạ thần long,

Thế sự huyền tri tại chưởng trung.

Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh,

Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong.

Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ,

Kim quỹ chung tàng vạn thế công.

Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu,

Thế gian na cánh sổ anh hùng.

(Đề kiếm)

(Rồng thần từ xƣa nằm ở Lam Sơn,

Việc đời đã biết trƣớc nhƣ nắm trong tay.

Việc lớn đã chọn ngƣời, trơi báo cho thánh biết,

Thời thịnh mà gặp đƣợc, thì hùm sinh gió tức bay đƣợc.

Thù nƣớc đã rửa sạch sỉ nhục hàng nghìn năm,

Trong hộp vàng cuối cùng xếp công muôn thuở.

Chỉnh đốn càn khôn từ đó là xong,

Thế gian lại có đếm xỉa gì bực anh hùng nữa.)

Hai câu thơ đầu ca ngợi vị minh chủ Lê Lợi. Rồng thần (thần long) từ

xƣa còn nằm ở núi Lam Sơn, việc đời đã biết trƣớc nhƣ nắm chắc trong tay.

Ông đã đƣợc trời báo cho biết trƣớc, việc lớn đã chọn đƣợc ngƣời tài giỏi

(Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh), lại gặp đƣợc thời thịnh nhƣ hùm sih

gió (Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong). Vậy là chỉ có việc làm theo mệnh

trời, vì trời đã trao cho việc lớn, trao cho vật báu (kiêm thần),cho những ngƣời

tài giỏi giúp sức. ngƣời anh hùng gặp đƣời thời thịnh, đã có thiên thời nhƣ hổ

mọc thêm cánh mà bay lên. Mƣời năm kháng chiến, sự nghiệp đại định đã

46

thành công. Thù nƣớc đã rửa sạch vết nhơ nhục hàng nghìn năm (Quốc thù

tẩy tận thiên niên sỉ). Bây giờ, công lao dựng nƣớc kia đều cất vào hòm vàng.

Thế gian không còn đếm xỉa đến những bậc anh hùng khai quốc. Đó là những

lời thơ đề kiếm. Nhắc lại bài học lịch sử đau lòng, để than thở về nhân tình

thế thái, để bàn luận về lòng ngƣời vô ơn trong hiện tại. Lê Lợi là ngƣời đƣợc

trao cho thiên mệnh, nhận gƣơm thần để diệt trừ bọn giặc ngoại xâm độc ác.

Nhƣng khi chiến tranh kết thúc, ông không dùng đến gƣơm ấy nữa, trao trả lại

cho thần linh, cũng giống nhƣ việc cất công lao của các công thần vào hòm

vàng khóa chặt lại (Kim quỹ chung tàng vạn thế công). Nghĩa là quên luôn

những ngƣời đã gom tài góp sức, kề vai sát cảnh, chung lƣng đấu cật, nếm

mật nằm gai cùng ông dựng nên đại nghiệp cho dân tộc.

Nếu nội dung chủ yếu của thơ vịnh vật trong Hồng Đức quốc âm thi tập

là để ngợi ca, gửi gắm tƣ tƣởng đạo đức Nho gia thì thơ vịnh vật của Nguyễn

Trãi là để gửi gắm tâm tƣ của một ngƣời hết lòng vì dân vì nƣớc, dẫu xuất xử,

hành tàng cũng vẫn là “tấm lòng ƣu ái cũ”, miêu tả vẻ đẹp phẩm chất, lý

tƣởng, hoài bão của ngƣời quân tử, là gửi gắm những suy nghĩ, chiêm nghiệm

rồi từ đó là các bài học, những câu thơ mang màu sắc giáo huấn.

Thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi thể hiện quan điểm, tâm tƣ của bậc khai

quốc công thần luôn ƣớc mong cho dân, cho nƣớc. Đó là ƣớc mong về một

triều đình thịnh trị, vua sáng tôi hiền, một cuộc sống thái bình, no ấm cho

nhân dân. Ngoài ra, ta còn thấy trong thơ Nguyễn Trãi là những suy nghĩ,

chiêm nghiệm của nhà thơ về lẽ sống, là những lời giáo huấn đƣợc gửi gắm

một cách nhẹ nhàng.

2.1.3. Vịnh con ngƣời

Thơ vịnh con ngƣời trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi chiếm

một số lƣợng khá lớn. Thế giới các nhân vật hiện diện trong thơ ông rất đông

đảo: Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tủ Kỳ, Tô Đông Pha, Tể tƣớng Trƣơng Cửu

47

Linh, ông Từ Trọng Phủ, Chu Công Đán. Qua từng nhân vật, Nguyễn Trãi thể

hiện những cảm xúc khác nhau của mình: ca ngợi những công thần, những vị

vua anh minh đức độ; thƣơng xót những công thần, nhà thơ lớn. Từ đó, ông

thể hiện thái độ nhân sinh, phẩm chất đạo đức của mình. Nguyễn Trãi sống

với những lý tƣởng, con ngƣời cao đẹp thời quá khứ hơn là những ngƣời

đƣơng thời xung quanh mình.

Thơ vịnh con ngƣời của Nguyễn Trãi tuy không nhiều nhƣng đã đánh dấu

đƣợc tên tuổi của ông trong dòng chảy của thơ vịnh này. Qua thông kê, chúng

tôi thấy, vịnh con ngƣời chỉ xuất hiện trong thơ chữ Hán. Trong 6 bài thơ vịnh

con ngƣời (chiếm 1,7%) , Nguyễn Trãi tập trung vịnh các nhân vật là những bậc

công thần của triều đình nhƣ Tô Đông Pha, Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh, ông Từ

Trọng Phủ, Chu Công Đán (4/6 bài, chiếm 66,7%). Vịnh những nhà thơ lớn nhƣ

Lý Bạch (2 lần), Bá Nha, Chung Tử Kỳ (3/6 bài, chiếm 50,0%).

Nguyễn Trãi là một nhà Nho đầy bi kịch trong xã hội quân chủ chuyên

chế độc đoán. Một nhà Nho hành đạo đầy tin tƣởng, hăm hở giúp vua, giúp

nƣớc nhƣng lại bị thất sủng, gièm pha, hãm hại. Thân phận Nguyễn Trãi phần

nào giống với những bậc trung thần nghĩa sĩ thời xƣa, nên ông đồng cảm, khâm

phục họ. Họ đều là những ngƣời có tài năng, ý chí nhƣng bị bọn gian thần bày

mƣu khiến quân vƣơng không còn tin tƣởng. Bất mãn, bất lực trƣớc thực tại, họ

buộc phải xa rời con đƣờng chính trị, từ bỏ khát vọng giúp dân, thậm chí cùng

đƣờng đi đến cái chết đầy bi kịch. Cảnh ngộ mà Chu Công Đán, Lý Bạch,… và

Nguyễn Trãi gặp phải là cảnh ngộ của kẻ sĩ chính trực mọi triều đại, đất nƣớc

đều trải qua. Các nhà nghiên cứu Trung Hoa gọi đây là tình trạng tạo nên một

trong những chủ đề lớn của văn học cổ trung đại: sỹ bất ngộ.

2.1.3.1. Vịnh nhân vật là những bậc công thần

Khi viết về những ngƣời có tài năng, đức độ nhƣng lại có một cuộc đời

với nhiều sóng gió, bão táp, Nguyễn Trãi hết mực ca ngợi khí phách của họ.

48

Họ đều là những ngƣời có tài, có đức luôn cố gắng dốc sức xây dựng đất nƣớc

vua sáng tôi hiền:

Ý thân phụ chính tưởng Chu Công,

Xử biến thùy tương Y Doãn đồng.

Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,

Kim đằng cố sự cảm ngôn công.

An nguy tự nhiệm phò vương thất,

Tả hữu vô phi bảo thánh cung.

Tử Mạnh khởi năng chiêm phưởng phất,

Ủng Chiêu cẩn khả ấp dư phong.

(Chu Công phụ Thành Vương đồ)

(Ngƣời thân tốt phụ chính nhờ đến Chu Công,

Xử cảnh quyền biến, ai đem để cùng với Y Doãn.

Lời trối ở ghế ngọc luôn luôn để dạ,

Cái hộp kim đằng trƣớc kia đâu dám bảo là công.

Tự mang trách nhiệm phò vƣơng thất lúc an lúc nguy,

Giúp vầy không điều gì là không giữ mình thánh chúa.

Tử Mạnh há có thể xem phƣởng phất đƣợc chăng!

Cái việc ủng phò Chiêu đế cũng phải nhƣờng đứng dƣới gió.)

Chu Công Đán là chú ruột, phụ chính, một lòng phò giúp ấu chúa Chu

Thành Vƣơng, giữ yên vƣơng thất, sửa đổi quan chế, đặt ra lễ pháp, khiến cho

nhà Chu ngày một thịnh vƣợng. Bảy năm sau, Thành Vƣơng mới thực sự nắm

quyền, làm vua 37 năm (1115-1079 TCN). Chu Công Đán là bậc công thần,

một tấm gƣơng cao thƣợng, trong sáng. Trƣớc lời trăng trối của Chu Vũ

Vƣơng trƣớc khi chết giao Chu Thành Vƣơng cho ông giúp đỡ, dạy bảo, giữ

lấy ngai vàng của tổ tiên Chu Công Đán luôn khắc ghi trong lòng. Khi Vũ

Vƣơng ốm nặng, Công Đán còn cầu với tổ tiên cho mình đƣợc chết thay Vũ

49

Vƣơng. Khi Vũ Vƣơng chết Chu Công phụ chính, bị nghi ngờ đoạt ngôi của

cháu nên ông liền chuyển ra Đông Đô. Sau đó Thành Vƣơng biết đƣợc tấm

lòng của chú nên đã đích thân rƣớc Chu Công về. Tấm lòng cao thƣợng, trong

sáng của bậc công thân nhƣ vậy thật xứng đáng là tấm gƣơng, bài học quý

báu của muôn đời.

Khi viết về những bậc trung thần nghĩa sĩ, hết lòng vì vua, ông hết lời

ca ngợi, cổ vũ tấm lòng cô trung son sắt của họ, đồng thời đồng cảm, thƣơng

xót cho họ khi phải chịu bất công, bị nghi ngờ, công lao của họ bị lãng quên,

thậm chí mất cả tính mạng. Khi viết về những bậc ẩn sĩ, những viên đại thần

dám mạnh mẽ và dứt khoát từ bỏ những danh lợi của chốn quan trƣờng về quê

ở ẩn, để bảo toàn nhân cách cao đẹp của mình, giữa lúc thời thế đã đổi thay,

bọn hoạn quan lộng hành, chia bè kết đảng trong triều đình:

Khứ phạ phiền hoa đạp nhuyễn trần,

Nhất lê nham bạn khả tàng thân.

Thương gia lệnh tá xưng Sằn Dã,

Hán thế cao phong ngư ng Phú Xuân.

Tùng cuc do tồn quy vị vãn,

Lợi danh bất tiển ẩn phương chân.

Ta dư cửu bị nho quan ngộ,

Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân.

(Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường)

(Sợ chốn phiền hoa đạp bụi bặm mềm dịu mà phải bỏ,

Với một cày ở bậc đá có thể ẩn thân đƣợc.

Khen ngọi ngƣời phò tá giỏi của nhà Thƣơng ở đất Sằn Dã,

Ngƣỡng mộ phong thái cao thƣợng của (Nghiêm Quang) đời Hán ở

đất Phú Xuân.

Tùng cúc hãy còn, ta về chửa muộn,

50

Lợi danh không thèm, ẩn mới đúng hơn.

Thân ta bị cái mũ nhà nho đánh lừa đã lâu,

Vốn ta là ngƣời cày trong thanh nhàn, câu ở nơi hiu quạnh.)

Chƣa rõ ông Từ Trọng Phủ là ai, nhƣng nhan đề bài thơ cho thấy ông là

một nhà Nho, có ra làm quan rồi cáo quan về nhà làm ruộng tự nuôi thân,

không phải lụy đến ai. Canh ẩn đƣờng chính là ngôi nhà ở của ngƣời cày

ruộng họ Từ đó. Bài thơ ca ngợi một ẩn sĩ có phẩm tiết thanh cao. Ông Từ

Trọng Phủ từng sống ở chốn phồn hoa đô hội nhƣng ông lại coi nơi đó là nơi

chứa nhiều bụi bặm, thứ bụi mềm dịu, ngọt ngào mê hoặc của chốn trần ai.

Ông Từ Trọng Phủ đã từ bỏ chốn phồn hoa đô hội đó, về ở ẩn giữ gìn phẩm

tiết thanh cao, không màng đến danh lợi. Bài thơ còn ca ngợi Y Doãn đời nhà

Thƣơng, Nghiêm Quang đời nhà Hán. Y Doãn có công lớn giúp vua Thành

Thang đánh bại vua Kiệt nhà Hạ, lập ra triều đại nhà Thƣơng. Nghiêm Quang

là bạn thân của Lƣu Tú (Hán Quang Vũ), sau khi giúp Lƣu Tú đánh dẹp

Vƣơng Mãng thành công, lập ra nhà Đông Hán. Nghiiem Quang đã bỏ đi, đổi

tên họ, cày ruộng câu cá, sống cuộc đời ẩn sĩ ở Đông Giang, Phú Xuân. Vua

Hán Quang Vũ đích thân đến mời bạn về cùng mình cai trị đất nƣớc, hƣởng

vinh hoa phú quý những Nghiêm Quang quyết không chịu về. Công lao của Y

Doãn và Nghiêm Quang thật đáng khâm phục, ngợi ca. Nguyễn Trãi ca ngợi

công lao, phẩm chất thanh cao không màng danh lợi của những ẩn sĩ, một mặt

để ca ngợi, bày tỏ thái độ khâm phục. Mặt khác, ông coi họ là tấm gƣơng để

học hỏi.

Nguyễn Trãi đã khẳng định lối sống quân tử của mình, ca khúc Thƣơng

Lang để biết “trọc thanh”, ý thức về vinh nhục. Ông giữ vững tinh thần kiên

trì “chẳng biến dời cùng thế thái”, giống nhƣ Khuất Nguyên không chịu để

tâm hồn vƣớng chút bùn nhơ. Cũng có lúc, Nguyễn Trãi thấm thía bi kịch của

nhà Nho, ông bâng khuâng, xao động , từ xu hƣớng “hành đạo” muốn “ẩn

51

dật” nhƣ những Đạo gia. Ông ngộ ra không nên lần lữa mãi. Tiên sinh đã cáo

quan về ẩn ngay khi Lê Lợi vẫn đang trị vì và ngay cả khi vua Lê Thái Tông

lại mời ông ra làm quan giúp vua chỉnh đốn xã tắc. Nhƣng bấy giờ vua còn

trẻ, ham chơi, gian thần nổi lên nhƣ ong, triều chính đổ nát không sao cứu vãn

đƣợc, Nguyễn Trãi thất vọng quá, lại xin về nghỉ ở quê nhà Côn Sơn. Ông tuy

có lúc băn khoăn đứng giữa hai thế ứng xử, nhƣng suy cho cùng vẫn lựa chọn

“xuất xử”, muốn ra sức cống hiến giúp đời. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi phải

chịu đựng một kết thúc bi thảm trong thời buổi nhiễu nhƣơng đƣơng thời.

Tóm lại, vịnh những công thần đày tài năng, nhân cách thanh cao, một

mặt, Nguyễn Trãi ca ngợi tấm lòng trung thành, những công lao to lớn của họ.

Mặt khác, ông thể hiện sự đồng cảm với những bất công, bi kịch mà họ phải

gánh chịu. Ông luôn mơ ƣớc một thời đại công bằng, có những ông vua sáng,

tôi hiền để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thái bình thịnh trị cho muôn

dân trăm họ. Có lẽ, vịnh những công thần đầy tài năng, nhân cách, Nguyễn

Trãi cũng ngụ ý nói tới cuộc đời của chính mình. Ông là bậc “khai quốc công

thần”, có tài năng, đức độ đã cống hiến cả cuộc đời cho dân cho nƣớc nhƣng

cuối cùng công lao bị lãng quên, thậm chí dẫn tới nỗi oan thảm khốc nhất

trong lịch sử dân tộc.

2.1.3.2. Vịnh nhân vật là những nghệ sĩ

Nguyễn Trãi viết về những nhà thơ lớn nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung

Tử Kỳ,... với một niềm cảm thƣơng sâu sắc đối với cuộc đời bạc mệnh của

họ. Bên cạnh đó ca ngợi tấm lòng “cô trung son sắt” của họ.

Vịnh về Thi tiên Lý Bạch, Nguyễn Trãi viết:

Thái Thạch tằng văn Lý trích tiên,

Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.

Thử giang nhược biến vi xuân tửu,

Chỉ khủng ba tâm thượng tuý miên.

(Thái Thạch hoài cổ)

52

Lý Bạch là một trong số nhà thơ tài năng bậc nhất trong văn học Trung

Hoa. Ông tự cho mình là Trích Tiên, tức ông Tiên bị đày xuống trần gian.

Chứng kiến cảnh trần gian còn nhiều rối ren, nhố nhăng, ông ngán ngẩm, thất

vọng cƣới hạc bay về trời (Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên). Thi tiên Lý Bạch cũng

là một tay “sâu rƣợu”. Ông cũng đã có rất nhiều câu thơ hay chảy ra từ rƣợu.

Thế nhƣng, ông đã từ quan để đi ngao du, uống rƣợu, làm thơ. Đứng trƣớc

dòng sông Trƣờng Giang, hình nhƣ Trích Tiên họ Lý tƣởng nhầm đấy là sông

rƣợu, ông nhào xuống chơi, ngủ lì dƣới lòng sông đã mấy trăm năm mà chƣa

muốn tỉnh.

Không chỉ ca ngợi tài năng của những ngƣời nghệ sĩ tài hoa, Nguyễn

Trãi còn ca ngợi tấm lòng tri âm, tri kỉ của họ. Ông khao khát đi tìm sự đồng

cảm, thấu hiểu giữa cuộc sống cô đơn này:

Chung Kỳ bất tác chú kim nan,

Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.

Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy,

Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.

(Đề Bá Nha cổ cầm hồ)

(Không làm đƣợc Chung Kỳ vì đúc vàng khó,

Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.

Đêm lạnh vòm trời biếc lạnh nhƣ nƣớc,

Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chím chằm.)

Bá Nha và Chung Tủ Kỳ là hai ngƣời bạn tri âm, tri kỷ của nhau. Mỗi

khi Bá Nha gảy đàn chỉ có Chung Tủ Kỳ mới hiểu đƣợc tiếng đàn cũng nhƣ

tiếng lòng của Bá Nha. Tuy nhiên, khi Chung Tử Kỳ mất, Bá Nha đã đập cây

đàn, không gảy nữa vì cho rằng không còn ai hiểu đƣợc tiếng đàn của mình.

Đúc vàng cũng không ra đƣợc Chung Kỳ, không làm nên đƣợc một ngƣời

thấu hiểu tiếng đàn của Bá Nha nhƣ ông. Chính vì vậy, tiếng đàn trở nên lạnh

53

lẽo, buồn rầu, cô đơn. Đó cũng chính là nỗi lòng của kẻ sĩ khi không tìm đƣợc

sự thấu hiểu, không tìm đƣợc ngƣời tri âm.

Quan tâm tới thân phận của những nhà thơ, nhà nghệ sĩ tài hoa mà bất

hạnh nhƣ Lý Bạch, Bá Nha, Chung Tử Kỳ. Nguyễn Trãi đã thông qua cuộc

đời của những ngƣời tài hoa bất hạnh đó gửi gắm tƣ tƣởng và quan niệm của

mình về cuộc đời và con ngƣời. Cuộc đời của họ dƣờng nhƣ cũng có phần nào

giống với cuộc đời của chính bản thân Nguyễn Trãi, đều “tài hoa mà bạc

mệnh”, đều cô đơn, lạc lõng. Bởi vậy viết về họ cũng chính là Nguyễn Trãi tự

viết về chính mình, với một niềm cảm thƣơng sâu sắc. Nhà thơ tự thƣơng cho

chính cuộc đời “bạc mệnh” của mình.

2.2. Sắc thái khác biệt trong thơ vịnh Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập

2.2.1. Tính suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi tập

Đọc tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập ta bị cuốn hút vào các yếu tố đƣợc

vịnh là hình ảnh thiên nhiên vô vàn hùng tráng, ta say mê trƣớc khí tƣợng của

sông núi đƣợc nhắc đến trong thơ và trên từng câu thơ trữ tình thắm thiết,

trƣớc những nhân vật anh hùng với nhân cách cao khiết, những sự vật thanh

tao,…ta bỗng lặng ngƣời đi trƣớc bề sâu của một tâm hồn vĩ đại. Đó là sự

khắc khoải, chiêm nghiệm, suy tƣ hoài cổ - niềm thao thức lớn trong thơ chữ

Hán của Nguyễn Trãi. Cảm hứng bao trùm trong thơ chữ Hán của đề tài vịnh

phải chăng có thể khái quát trong hai câu thơ này của Nguyễn Trãi:

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,

Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.

(Vãn hứng)

(Việc đời xƣa nay không cùng, dòng sông bát ngát,

Ngƣời anh hùng cƣu mang nỗi hận, ngàn lá lao xao.)

Ngay cả những bài thơ chữ Hán thấm đẫm phong vị trữ tình cũng

phảng phất nỗi niềm ngƣời anh hùng trƣớc lẽ hƣng phế, đọng lại những hoài

54

niệm về một triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh, là ngƣời, là vật, là thời thế

đã bao nhiêu lần trở đi trở lại trong thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo đƣợc những

rung động khác thƣờng. Một Dục Thúy sơn qua cảm nhận của ông hiện rõ là

nơi Tiên cảnh trụy trần gian với vẻ đẹp thật diễm lệ:

Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thúy hoàn.

Vẻ đẹp kiều diễm nhƣ một nàng thiếu nữ của núi Dục Thúy cũng không

làm ông nguôi ngoai hoài niệm về bậc danh tài tiền bối Trƣơng Hán Siêu,

trong mối đồng cảm của ngƣời đề thơ núi Thúy. Đó không chỉ là gặp gỡ của

hồn thơ yêu cảnh đẹp, còn là nhớ bậc tiền nhân đã cống hiến tài trí phò vua

giúp nƣớc:

Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,

Bi khắc tiểu hoa ban.

(Dục Thúy sơn)

Nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thƣờng vịnh những phong

cảnh hùng vĩ của đất nƣớc với một bút lực cuồn cuộn, hơi văn dạt dào thể

hiện niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh thắng ấy gắn với những anh

hùng mà bản thân nhà thơ ngƣỡng vọng. Nguyễn Trãi còn nhận thấy giữa

thiên nhiên, vũ trụ vô cùng, vô tận để ngậm ngùi cho sự hữu hạn của kiếp

ngƣời, cho mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc:

Phúc chu thủy tín dân do thủy,

Thủy hiểm nan bằng mệnh tại thiên.

Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng dị hận kỉ thiên niên.

(Quan hải)

(Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nƣớc,

Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời.

55

Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày,

Anh hùng để lại mối hận nghìn năm.)

“Rõ ràng đó là những suy tƣ của nhà thơ về việc tổ chức lực lƣợng

kháng chiến” [24, tr.383]. Cọc gỗ, xích sắt, núi sông hiểm trở là những chuẩn

bị của nhà Hồ cho cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi chỉ ra rằng chở

thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân nên nếu không có đƣợc lòng dân

dẫu có đóng cọc trƣớc sóng biển, giăng xích sắt ở cửa sông, tìm đất hiểm xây

thành đá vững bền cũng chẳng thể nào ngăn đƣợc quân giặc dữ.

Trong thơ của Nguyễn Trãi, chất cảm khái bi tráng trƣớc hình tƣợng

nhân vật anh hùng ấy còn đƣợc thể hiện khá rõ trong nhiều bài thơ khác. Cuộc

đời Ức Trai đã phải trải qua những chuyện thực đau xót, không phải ông

không mang một tâm sự bi thƣơng. Cũng chính vì thế, trong thơ chữ Hán của

Nguyễn Trãi nhƣ có vƣơng vấn điều gì. Nhà thơ nhƣ đang đứng giữa một

bƣớc ngoặt của quá khứ và tƣơng lai mà đặt dấu hỏi với cuộc đời. Trong thơ

chữ Hán Nguyễn Trãi thƣờng viết về đề tài hoài cổ, chúng ta thấy chất cảm

khái bi kịch của nhà nho khi thấy sự đối lập giữa cái vĩnh hằng của vũ trụ và

cái hữu hạn của đời ngƣời. Trong bài Phú sông Bạch Đằng nổi tiếng, Trƣơng

Hán Siêu cũng nhắc đến các anh hùng quá khứ với cảm khái bi tráng:

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

(Bạch Đằng giang phú)

Thơ của Nguyễn Trãi là thơ Chứa hết mọi giang san cũng là nói lên

tình cảm của ông: Liêu bả tân thi tả ngã sầu (Tạm đem thơ mới giải tỏa nỗi

sầu của ta). Cuộc đời của Nguyễn Trãi có tâm sự mà ông không nói lên bằng

lời đƣợc, chỉ có thể nói qua thơ:

Sự kham thế lệ phi ngôn thuyết,

(Thù hữu nhân kiến ký)

(Việc đời đáng rơi nƣớc mắt, không thể nói thành lời)

56

Đó là nỗi đau của kẻ sĩ không gặp thời. Khi lý tƣởng, mộng ƣớc cao

đẹp của ngƣời luôn hăm hở xây dựng đất nƣớc nhƣng mộng ƣớc không thành.

Thơ vịnh trong Ức Trai thi tập chất cứa nỗi suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lý của

một ngƣời chứng kiến nhiều những bất công, ngang trái, một ngƣời trải

nghiệm từ chính cuộc đời mình những biến đổi khôn lƣờng và những chân lí

bị méo mó. Điều thƣờng thấy trong thơ ông là nỗi đau của kẻ sĩ, một nỗi niềm

chất chứa biết bao băn khoăn trƣớc cuộc đời. Hình ảnh đậm nét đi đi lại lại

trong Ức Trai thi tập là một Nguyễn Trãi suy tƣ, thao thức vì nhiều lẽ, nhiều

cấp độ. Qua thơ Ức Trai, ta nhận ra không hiếm những lần ông trắng đêm

không ngủ nghe mƣa rơi, nghe tiếng chày đập áo, trằn trọc không ngủ:

Tịch mịch u trai lý,

Chung tiêu thính vũ thanh.

(Thính vũ)

(Trong căn phòng tối tăm vắng vẻ,

Suốt đêm nghe tiếng mƣa rơi.)

Hay: Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,

Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.

(Thôn xá thu châm)

(Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình ?

Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây.)

Tóm lại, thơ vịnh trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi chất nặng nỗi

suy tƣ, chiêm nghiêm của một ngƣời yêu cuộc sống, yêu đời tha thiết. Ông

hăm hở đem tài năng, sức lực gánh vác việc đời, giúp dân giúp nƣớc nhƣng

gặp phải bi kịch khi lý tƣởng, mộng ƣớc không thành. Thơ vịnh Ức Trai thi

tập gắn với tâm hồn, trí tuệ của Nguyễn Trãi, cũng mang theo cái mạnh mẽ

phóng khoáng của một tấm lòng nặng niềm ƣu ái, bao giờ cũng phảng phất

bóng dáng con ngƣời hăm hở gánh vác giang san, trổ tài kinh bang tế thế để

57

thực hiện hoài bão trí quân trạch dân. Bên cạnh đó là một hồn thơ chất chứa

ƣu tƣ, hoài cổ.

2.2.2. Sự sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh

trong Quốc âm thi tập

Nguyễn Trãi hiện lên qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập là một ngƣời

sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống thiết tha, sâu sắc, mạnh mẽ.

Ông là con ngƣời của thời đại phong kiến, thời đại Nho giáo, nên nội

dung yêu nƣớc cũng mang màu sắc thời đại - một thời đại mà tƣ tƣởng yêu

nƣớc gắn liền với tƣ tƣởng trung hiếu trong quan niệm tình nhà nghĩa nƣớc.

Nhƣng tình nhà nghĩa nƣớc của Nguyễn Trãi lại rộng lớn và sâu sắc hơn rất

nhiều so với thời đại ông, trở thành lí tƣởng của chính ông và mọi thời đại.

Nội dung tiến bộ nhất của tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Trãi là tƣ

tƣởng thân dân, vì dân và chiến đấu cho dân. Tƣ tƣởng ấy trải dài trong suốt

cuộc đời nhà thơ:

Tuy đà chửa có tài lương đống,

Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.

(Cây đa già)

Vịnh cây đa già, tuy không có tài lƣơng đống những cũng đã tỏa bóng

mát cho dân đƣợc nhờ.

Ông đau đớn khi thấy sự đời bất công, ngang trái, thƣơng tiếc cho

những tài năng, nhân cách tốt đẹp nhƣng lại bị che phủ, bị kiểm tỏa, hạn chế.

Còn nhƣ những loài diều hâu, cú bọ, cỏ hèn mọc lan lại nhởn nhơ bay nhảy:

Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,

Hoa thường hay héo cỏ thường tươi.

(Tự thuật, bài 9)

Nguyễn Trãi hăm hở cống hiến cho nƣớc, cho dân, nhƣng càng ở với

triều Lê, ông càng thấy cuộc đời lắm chua xót. Mất niềm tin ở triều Lê,

58

Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, sống chan hòa với thiên nhiên. Cũng vì yêu

thiên nhiên ông có hẳn một chùm thơ tiếc cảnh, phần thơ môn hoa mộc và rất

nhiều bài thơ vịnh thiên nhiên.

Thƣởng thức lại bài thơ cô đọng mà thấm đƣợm vẻ tình tứ trong bài thơ

Cây chuối ta thấy đƣợc một con ngƣời rất đời thƣờng trong những cảm xúc,

rung động đời thƣờng:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Tóm lại, thơ vịnh trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ta bắt gặp

một con ngƣời có ý thức cao với tài, đức, lý tƣởng đại dụng và tình yêu cuộc

sống tha thiết với thói phàm tục của ngƣời đời. Đó là một nhân cách lớn hết

sức phong phú, không trùng khít với khuôn mẫu nào.

* Tiểu kết chƣơng 2

Qua khảo sát, thống kê và phân loại chúng tôi nhận diện đƣợc những

đối tƣợng đề vịnh đƣợc Nguyễn Trãi sử dụng. Trƣớc tiên phải khẳng định

rắng số lƣợng các bài vịnh của Nguyễn Trãi lớn, đối tƣợng vịnh phong phú đa

dạng. Có những đôi tƣợng cao quý quen thuộc trong thơ vịnh, cũng có những

đối tƣợng dân dã, gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Ở góc độ này Nguyễn

Trãi đã có những đóng góp cho dòng thơ vịnh thêm phong phú, đa dạng hơn.

Các đề tài chủ yếu tập trung vào thể hiện phẩm chất, lý tƣởng của ngƣời quân

tử. Ngoài ra, thơ vịnh của Nguyễn Trãi còn mang tính giáo huấn cao, có một

lƣợng không nhỏ các bài thơ thể hiện ƣớc mơ, quan điểm của nhà thơ về một

triều đình lý tƣởng. Mặt khác, chúng tôi nhận thấy một Nguyễn Trãi suy tƣ,

chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh Ức Trai thi tập và một Nguyễn Trãi nhiệt

thành chí, đạo và tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập.

59

Chƣơng 3

HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ VỊNH

TRONG ỨC TRAI THI TẬP VÀ QUỐC ÂM THI TẬP

Trong di sản thơ ca còn lại, bên cạnh 254 bài thơ viết bằng chữ Nôm,

105 bài thơ viết bằng chữ Hán là một kết tinh tài năng nghệ thuật của Nguyễn

Trãi. Tiếp cận thơ vịnh trong hai tập thơ Quốc âm thi tập, Ức Trai thi

tập ngoài đề tài vịnh phong phú có thể kể đến những phƣơng diện nghệ thuật

độc đáo góp phần làm nên thành công của thể loại thơ vịnh trong sáng tác của

Nguyễn Trãi. Trong luận văn này chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật sử dụng thể

thơ, hình ảnh thơ, lối ngụ ý, ẩn ngữ, lối dùng điển cố điển tích trong thơ vịnh

của Nguyễn Trãi.

3.1. Thể thơ

Văn học Việt Nam trung đại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của văn học Trung

Hoa trên nhiều phƣơng diện: chữ viết, đề tài, thể loại… Mối quan hệ đặc biệt

đó của Đƣờng thi và thơ ca Việt Nam đƣợc biểu hiện rõ nhất ở phƣơng diện

thể loại. Cha ông ta tiếp thu thể loại thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật để làm

phong phú hơn cho nền thơ ca Việt Nam. Ngƣời làm thơ Đƣờng luật phải

tuân theo những luật lệ, quy tắc khó làm nhất nhƣng lại đƣợc các tiền nhân ƣa

thích, thƣờng dùng để bày tỏ tình cảm, ý chí, xƣớng họa, khai bút đầu xuân,

ngâm vịnh… Nguyễn Trãi trong chùm thơ vịnh của mình cũng đã sử dụng

khá nhuần nhuyễn thể thơ Đƣờng luật. Trong quá trình sáng tác thơ của mình,

Nguyễn Trãi đã vận dụng thi pháp thơ Đƣờng một cách sáng tạo. Thi sĩ đã thử

nghiệm ngòi bút của mình theo hai thứ tiếng Hán, tiếng Nôm. Ở thứ tiếng

nào, Nguyễn Trãi cũng thu đƣợc thành công nhất định.

Trong 36 bài thơ vịnh trong thơ chữ Hán, ông chủ yếu thuộc thể Đƣờng

luật. Ngoài bài Côn Sơn ca theo thể trƣờng thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ

ngôn (3 bài), thất ngôn tứ tuyệt (8 bài), thất ngôn bát cú (24 bài). Thơ chữ

60

Nôm qua khảo sát toàn bộ 54 bài thơ vịnh trong Quốc âm thi tập chúng tôi

thấy có tới 35 bài thơ đƣợc sáng tác theo hình thức thất ngôn xen lục ngôn

(chiếm 64,8%). Trong đó thế tứ tuyệt có 20 bài (chiếm 57,1%), thể thất ngôn

bát cú 15 bài (chiếm 42,9%).

3.1.1. Thể thơ thất ngôn bát cú

Nhìn vào các sáng tác bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi chúng ta nhận

thấy trong thơ vịnh, Nguyễn Trãi thƣờng dùng thể thơ bát cú để sáng tác.

Trong tổng số 38 bài thơ vịnh trong tập thơ chữ Hán, ông sử dụng tới 24 bài

thơ thất ngôn bát cú (chiếm 66,7%). Trong tập thơ vịnh bằng chữ Nôm gồm

54 bài, ông sử dụng duy nhất 01 bài thơ thất ngôn bát cú (chiếm 1,9%). Việc

sử dụng thể thơ này trong thơ vịnh là có lí do.

Nhƣ trên đã nói, thơ vịnh luôn có hai tầng nghĩa song song tồn tại. Một

nghĩa biểu thị sự vật, sự việc, hiện tƣợng, con ngƣời đƣợc miêu tả và một

nghĩa gợi liên tƣởng đến con ngƣời, đạo lý nhân sinh. Sự song hành của hai

tầng nghĩa đó đòi hỏi các nhà thơ phải lựa chọn thể thơ nào có dung lƣợng

ngôn từ phù hợp. Nó phù hợp bởi nếu chọn thể thơ có dung lƣợng ngôn từ ít

sẽ khó có điều kiện miêu tả kỹ sự vật, sự việc, con ngƣời, thời đại đƣợc đề

cập, còn nếu lựa chọn thể thơ có dung lƣợng ngôn từ quá lớn lại e rƣờm rà bởi

dù sao yêu cầu của thơ vịnh mặc dù cần làm rõ đối tƣợng đƣợc miêu tả nhƣng

sự miêu tả phải tinh.

Với kết quả trên cho thấy thể thơ bát cú chiếm ƣu thế trong thơ vịnh

Việt Nam trung đại nói chung và thơ vịnh của Nguyễn Trãi nói riêng. Điều đó

cũng có nghĩa là thơ vịnh có nhu cầu miêu tả nhiều. Đến đây ta có thể hỏi tại

sao nhu cầu miêu tả nhiều mà lại không lựa chọn thể thơ bài luật bởi đây là

thể thơ có thể kéo dài, có thể thoải mái miêu tả đối tƣợng? Thực ra, thể bài

luật là một thể mang màu sắc phô trƣơng nên có ít ảnh hƣởng đến văn học

Việt Nam. Hơn nữa, nhƣ chúng ta biết, thơ vịnh là loại thơ mặc dù lấy sự vật,

61

sự việc, hiện tƣợng, con ngƣời làm đối tƣợng miêu tả nhƣng mục đích cuối

cùng lại hƣớng tới tầng nghĩa ẩn dụ nên sự miêu tả không khéo, rƣờm rà sẽ đi

chệch đặc trƣng của loại thơ này. Vả lại truyền thống của ngƣời Việt thƣờng

ƣa những giá trị nhỏ nhắn, xinh xắn. Thể thơ bát cú đã đáp ứng đƣợc những

yêu cầu trên.

Một bài thơ đƣợc làm theo thể bát cú mặc dù ngắn nhƣng ta thấy khả

năng của nó trong việc tái hiện lại khá đầy đủ về sự vật hiện tƣợng. Chúng ta

hãy nghe Nguyễn Trãi vịnh cảnh Vân Đồn:

Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn,

Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.

Nhất bàn lam bích trừng minh kính,

Vạn hộc nha thanh đóa thuý hoàn.

Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,

Phong ba bất động thiết tâm can.

Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,

Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan.

(Vân Đồn)

(Đƣờng vào Vân Đồn núi rồi lại núi,

Trời lồng lộng đất đặt thành chỗ kỳ quan.

Một tấm sắc lam sắc biếc, kính sáng trong vắt,

Muôn hộc sắc đen sắc xanh, tóc thúy từng chòm.

Vũ trụ bỗng gạn trong biển núi bụi bậm,

Gió song không lay chuyển ruột gan sắt gang.

Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rợn lục,

Nghe nói đó là vùng ngƣời Phiên đỗ tàu.)

Trƣớc mắt chúng ta là một bức tranh thiên nhiên mỹ miều hùng vĩ của

những cây lá um tùm bao bọc khắp các ngọn núi và xõa xuống nhƣ những

62

mái tóc khổng lồ xanh thẫm đƣợc Nguyễn Trãi miêu tả thật ấn tƣợng. Nhƣ

vậy chỉ gói gọn trong tám câu thơ nhƣng ngƣời đọc có thể thấy rõ bức tranh

thiên nhiên nơi cửa biển Vân Đồn và cũng qua đó, ta thấy đƣợc nghĩa ngầm

ẩn, từ vịnh thiên nhiên đến sự khái quát sự đối lập giữa cái vô tận của thiên

nhiên và sự hữu hạn của con ngƣời.

Thơ Đƣờng luật là loại thơ giàu suy tƣ, triết lý, xuất phát từ nội tâm, đi

sâu vào nội tâm. Nội tâm của Nguyễn Trãi ít khi thảnh thơi, thoải mái mà

luôn u uất, đau buồn. Chính vì vậy, thơ vịnh của ông phần lớn là thơ bát cú, tứ

tuyệt, ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Do thơ Đƣờng luật có dung lƣợng ngắn nên

ngôn từ phải cô động, hàm súc có sức chứa lớn để truyền tải ý nghĩa hàm ẩn,

đó cũng là đặc trƣng của thể vịnh.

Nguyễn Trãi là nhà thơ trung đại, sáng tác theo thi pháp trung đại nên

một đặc điểm văn chƣơng thời kỳ đó rất ƣa sự đối xứng. Đối từ ngữ, đối hình

ảnh, đối cấu trúc, đối ngữ nghĩa, đối trong một câu, đối giữa các câu,… Chính

nghệ thuật đối này đã góp phần tạo nên cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật biểu

hiện của thơ vịnh trung đại nói chung, thơ vịnh của nguyễn Trãi nói riêng.

Việc sử dụng nghệ thuật đối giúp cho ý thơ nổi bật, tiết tấu trở nên linh hoạt,

âm hƣởng mạnh mẽ. Vì thế ấn tƣợng để lại trong lòng ngƣời đọc sâu sắc hơn.

3.1.2. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

“Nghĩa rộng là những bài thơ bốn câu, mỗi câu có năm chữ hoặc bảy

chữ. Loại câu năm chữ gọi là ngũ ngôn tứ tuyệt hay ngũ tuyệt. Theo nghĩa hẹp

là một dạng của thơ Đƣờng luật, có quy định bằng, trắc, niêm, đối. Loại này

gọi là luật tuyệt để phân biệt với cổ tuyệt là những bài thơ tuyệt cú không làm

theo thơ Đƣơng luật [6, tr.270]. Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng

tôi hiểu thơ tứ tuyệt theo nghĩa hẹp, nghĩa thứ hai.

Trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi thể thơ tứ tuyệt cũng đƣợc sử dụng với

tần số lớn. Trong 36 bài thơ vịnh của thơ chữ Hán, ông sử dụng 8 bài thơ thất

63

ngôn tứ tuyệt (chiếm 22,2%). Trong thơ vịnh của chữ Nôm, ông sử dụng

nhiều thể thơ này hơn (18/54 bài, chiếm 33,3%).

Do dung lƣợng bài thơ hạn chế hơn nên khi sử dụng thể thất ngôn tứ

tuyệt để vịnh thì những câu miêu tả phải ngắn gọn, hàm súc hơn, các liên

tƣởng càng phải cô động, phần bình luận phải sâu sắc hơn:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông.

Lâm tuyền ai rặng già làm khách,

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

(Tùng, bài 1)

Chỉ vài nét phác thảo, Nguyễn Trãi đã miêu tả về những đặc điểm của

cây tùng. Cây tùng lạ lùng, trƣớc ba tháng mùa đông lạnh lẽo vẫn xanh tƣơi.

Xanh tƣơi không phải để làm cảnh chốn lâm tuyền mà để làm rƣờng cột (đống

lƣơng), có tác dụng lớn (cả dùng). Tài lƣơng đống của nó mấy cây bì kịp.

Cây đa già miêu tả một cây đa già cứ mỗi lần xuân đến lại có lộc mới

xanh tƣơi, những tán lá rậm rạp tỏa bóng cho dân tránh nắng:

Tìm được lâm tuyền chốn dư ng thân,

Một phen xuân tởi một phen xuân.

Tuy đà chửa có tài lương đống,

Bóng cả nhờ còn rợp đến dân.

(Cây đa già)

Tác giả đã miêu tả ngắn ngon đặc tính của sự vật chỉ bằng một vài chi

tiết đặc sắc. Mặc dù dung lƣợng ngắn gọn nhƣng điều làm cho những bài thơ

vịnh này đƣợc đánh giá cao là bởi tầng nghĩa ẩn sâu sau sự vật đƣợc miêu tả.

Đó là hình tƣợng của một bậc trƣợng phu, có tài lƣơng đống, của ngƣời quân

tử luôn mong ƣớc cống hiến cho dân, cho nƣớc. Cần thấy rằng, thơ vịnh của

Nguyễn Trãi dù miêu tả ít nhƣng vì tâm hồn nhạy cảm của ngƣời nghệ sỹ đã

64

nắm bắt đƣợc cái thần của sự vật nên đối tƣợng đƣợc miêu tả trƣớc hết vẫn là

chính nó, sau đó mới là cái ngoài nó. Với Nguyễn Trãi vịnh là để bộc lộ tình

cảm, khát vọng đối với dân, với nƣớc hết sức sâu sắc.

Tuy thể thơ thất ngôn tứ tuyệt không đƣợc sử dụng nhiều để làm thơ

vịnh nhƣng chúng ta thấy mỗi khi thể thơ này đƣợc sử dụng, kêt quá đƣa lại

là những bài thơ khá toàn bích nhƣ: Tùng (3 bài), Trúc (3 bài), Mai (3 bài),…

(thể thơ thất ngôn), Du sơn tự, Dục Thúy sơn,… (thể thơ ngũ ngôn).

3.1.3. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn

Thể thơ này cho thấy sự sáng tạo, phá vỡ tính quy phạm của Nguyễn

Trãi. Nó chỉ xuất hiện trong thơ chữ Nôm. Khảo sát toàn bộ 54 bài thơ vịnh

trong Quốc âm thi tập chúng tôi thấy có tới 35 bài sáng tác theo hình thức thất

ngôn xen lục ngôn (chiếm 64,8%). Trong đó thế tứ tuyệt có 20 bài (chiếm

57,1%), thể thất ngôn bát cú 15 bài (chiếm 42,9%). Nhìn chung câu lục ngôn

trong các bài thơ cũng không nhất định. Phần lớn các bài chỉ có một đến hai

câu sáu tiếng nhƣng cũng có một số ít bài chừng tới 7 câu 6 tiếng xen một câu

7 tiếng, vị trí câu sáu tiếng cũng có sự khác nhau. Có khi ở dòng đầu:

Người đua nhan sắc thuở xuân dương,

Nghỉ chờ thu, cực lạ dường.

(Cúc, bài 1)

Chuốt lòng đơn chẳng bén tục,

Bể tiết ngọc kể chi sương.

(Cúc đỏ)

Chẳng hạn về đề tài Trúc, tác giả viết ba bài liên hoàn, mỗi bài đều có

câu sáu tiếng. Bài 1 đƣợc dùng ở câu thứ tƣ, bài 2 ở câu thứ nhất, bài 3 ở câu

thứ hai và câu thứ tƣ.

Việc sử dụng thể thơ sáu chữ xen bảy chữ với tần số cao cùng với số

câu và vị trí câu sáu chữ không ổn định thể hiện sự thử nghệm, tìm tòi của

65

Nguyễn Trãi trong việc sáng tác thơ Nôm của mình. Câu thơ 6 tiếng xen

ngang bài thơ làm nổi bật đặc điểm của đối tƣợng vịnh, nhấn mạnh vào đặc

tính của đối tƣợng.

Song song với việc phá cách thể thơ ở số chữ trong câu, Nguyễn Trãi

có những cách tân độc đáo trong nhịp điệu. Dƣới ngòi bút của Nguyễn Trãi,

ông đã có những kiến tạo độc đáo trong nhịp điệu thơ của mình. Bằng cách

thêm những câu thơ sáu chữ xen vào những câu bảy chữ, tiết điệu của bài thơ

trở nên phong phú hơn.

Câu lục ngôn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi có nhiều cách ngắt nhịp.

Nhịp 3/3:

Chiều mai nở / chiều hôm rụng,

(Hoa dâm bụt)

Nhịp 1/2/3:

Dành / còn để trợ / dân này.

(Tùng, bài 3)

Nhịp 2/2/2:

Dài hàm / nhọn mũi / cứng lông.

(Lợn)

Sự đa dạng trong nhịp điệu của câu thơ lục ngôn cũng tác động rất lớn,

làm thay đổi nhịp trong câu thơ thất ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không

còn giữ nguyên vẹn nhịp 4/3 mà có sự chuyển biến rõ rệt.

Nhịp điệu không những tạo nên tính nhạc trong thơ mà còn có khả năng

tạo nghĩa rất lớn. Chỉ cần ngắt nhịp chệch đi một chữ, câu thơ đó sẽ mang lại

những cách hiểu nghĩa khác nhau. Ở Quốc âm thi tập việc sử dụng cách ngắt

nhịp theo kiểu song thất lục bát khác với kiểu ngắt nhịp trong thơ Đƣờng đã

góp phần tâm trạng hoà tâm hồn Nguyễn Trãi. Điều đó cũng tạo nên một lớp

nghĩa hàm ẩn sâu sắc của thơ vịnh.

66

Nhƣ vậy, với việc sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cách gieo

vần lƣng ở những vị trí không cố định, kết hợp với lối kiến tạo nhịp điệu thơ

Nôm, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đổi mới thơ ca theo hƣớng dân tộc

hoá. Trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa truyền thống của dân tộc và những

thành tựu đặc sắc của Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã phá vỡ những quy định

nghiêm ngặt của thơ Đƣờng Luật, làm cho câu thơ, bài thơ trở nên gần gũi, dễ

nhớ, dễ thuộc. Đồng thời, nó cũng góp phần chuyển tải tiếng nói yêu nƣớc

thƣơng dân, niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi với công chúng

bạn đọc sau này. Có thể nói, với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã khẳng định

đƣợc vị thế của thơ Nôm của ông nói riêng, thơ Nôm của dân tộc nói chung

trong tiến trình phát triển của văn học nƣớc nhà.

3.2. Hình ảnh thơ

Ngƣời xƣa thƣờng viết về những hình ảnh thiên nhiên với: phong, hoa,

tuyết, nguyệt. Thơ Nguyễn Trãi cũng vậy. Những ngƣời bạn quen thuộc ở

trong thơ các nhà nho ẩn dật cũng đƣợc Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đầy đủ:

tùng, cúc, trúc, mai, sen, lan, quỳ, lựu, chè, vƣợn, hạc, rùa, mây, gió, trăng,

núi, tuyết, sƣơng, sông, hồ, con thuyền nhỏ, chiếc thuyền câu, cái cuốc, cái

cày, am quạnh, lều con, hƣơng trầm,… Cùng một số “thi cụ” nhƣ rƣợu, đàn,

án sách, con cờ,…

Trong Ức Trai thi tập những hình ảnh thơ đƣợc vịnh hầu hết đều là

những hình ảnh núi non hùng vĩ nhƣ Bạch Đằng, núi Long Đại, Dục Thúy,

Vân Đồn, Yên Tử,… Đó đều là những hình ảnh đẹp, kỳ vĩ, mỹ lệ của đất

nƣớc với bút lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt nhƣ thuở Bình Ngô, một

Thần Phù hải khẩu :

Kình phun lãng hống thôi nam bắc,

Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.

(Sóng rồng nhƣ kình phun, sấm gầm ở nam và bắc,

Núi liên nhƣ giáo dựng, ngọc bày cả trƣớc và sau.)

67

Một Vân Đồn: Thiên khôi địa thiết phó kì quan, một Bạch Đằng hải

khẩu:

Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.

(Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng,

Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng.

Nhƣ cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một,

Nhƣ mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lơp chồng.)

Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh

thắng cũng đồng thời gắn với những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngƣỡng

vọng: Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm lăng của vua

Chiêm Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dƣ,

bao triều đại anh hùng vùi thây quân giặc cƣớp trên sóng Bạch Đằng. Nhƣng

đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra những mối tƣơng quan trời đất, con

ngƣời khi suy ngẫm trƣớc cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho mối hận

anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nƣớc:

Phúc chu thủy tín dân do thuỷ,

Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.

Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỉ thiên niên.

(Quan hải)

(Thuyền bị lật mới tin rằng dân nhƣ nƣớc,

Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.

Hoạ phúc có manh mối không phải một ngày,

Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.)

68

Có lẽ chƣa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc nhƣ

Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất cá nhân, nhƣng muốn thành nghiệp lớn

phải gắn với nhân dân nhƣ thuyền với nƣớc.

Nhƣ vậy, loại thơ đề vịnh phong cảnh đất nƣớc vốn là di tích chiến

trƣờng vinh quang hay cay đắng này đã làm thành một dòng thơ bất tận gắn

với lịch sử đau thƣơng nhƣng anh hùng của dân tộc, gắn với niềm tự hào về

thiên nhiên kì vĩ, mĩ lệ của Tổ quốc.

Xuyên suốt những bài thơ vịnh của Ức Trai là những hình ảnh quen

thuộc của thơ ca cổ điển nhƣ: tùng, cúc, trúc, mai, phong, hoa, tuyêt,

nguyệt,… biểu tƣợng cho cốt cách thanh cao của ngƣời quân tử. Ẩn sau mỗi

hình ảnh là cả một thế giới hình tƣợng đậm đặc chất Đƣờng thi đã trở thành

khuôn mẫu. Song có thể phủ nhận các hình tƣợng ấy đã có sự gia công nghệ

thuật của Nguyễn Trãi, phá vỡ đi khuôn khổ khô cứng mà thổi vào đó cái hồn

rất riêng của cảnh vật. Qua đó thấy đƣợc nét độc đáo của văn chƣơng trung

đại trên con đƣờng phá vỡ tính quy phạm, ƣớc lệ.

Trong Quốc âm thi tập ngoài những hình ảnh mang tính ƣớc lệ, tƣợng

trƣng nhƣ tùng, trúc, cúc, mai; long, ly, quy, phƣợng là những biểu tƣợng

muôn đời của thơ ca cổ điển. Ta còn bắt gặp cả những hình ảnh gần gũi, đời

thƣờng cũng đƣợc ông vịnh với cái nhìn đời hơn, thực hơn:

Dài hàm mũi nhọn cúng lông,

Được dư ng vì chưng có thửa dùng.

(Lợn)

Hay:

Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây,

Phụng sự Như lai trộm phép thầy.

Hơn chó được ngồi khi mặt bếp,

Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây.

69

Đi nào kẻ cấm buồng the kín,

Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy.

Khó liễn sang chăng n phụ,

Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.

(Mèo)

Chuối là một cây rất quen thuộc, trồng gần nhà, nhƣng ít ai để ý tới nó,

ngƣời ta chỉ chú ý kĩ tới nó nhiều nhất có lẽ vào lúc có tâm trạng buồn đau.

Ca dao xƣa có nói:

Trông ra bụi chuối là tre

Em nghe ai dụ, đánh què chim anh.

Bây giờ “bụi chuối” theo “là tre” khẽ rung động chuyển mình theo

chiều gió với vẻ thoả thích, hoặc nếu là đêm tối, chúng luôn biến dạng tạo nên

những hình thù thiếu minh chính của chúng

Cũng bắt nguồn từ câu chuyện tình trong cao dao xƣa, đến Nguyễn

Trãi, hình ảnh cây chuối đƣợc xây dựng với nhiều sáng tạo mới. Cây chuối

trở thành “một bức tình thƣ” cuộn tròn, e ấp nhƣng không kém phần rạo rực

sôi nổi:

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem…

(Cây chuối)

Nguyễn Trãi viết: Tự bén hơi xuân lại tốt thêm. Ở Nguyễn Trãi, hình

ảnh cây chuối đƣợc mùa xuân bồi đắp cho tình xuân, sức xuân. Do đó khi bắt

gặp hơi hƣớng tốt lành đó, chuối đã tốt “lại tốt thêm”. Từ hệ quả đó nảy sinh

ra “buồng lạ” - “lạ” là lạ lùng và thú vị, chứ không phải lạ hiểu theo cách

thông thƣờng. Cùng với sự thú vị ấy, chuối đã toả ra những hƣơng thơm ngào

ngạt suốt đêm. Điều đặc biệt ở đây là Nguyễn Trãi đã mƣợn hình ảnh cây

chuối để thể hiện cảm xúc sâu sắc, kín đáo. Từ lâu chúng ta đã biết thuật ngữ

70

“phong thƣ” là biệt danh của cây chuối. Thế nhƣng chƣa ai ví tàu lá chuối non

nhƣ một bức tình thƣ “phong còn kín”. Sự liên tƣởng này là một sự liên tƣởng

độc đáo chỉ đến Nguyễn Trãi mới có và cũng ví nó tình tứ, e ấp, cuộn tròn,

kín đáo nhƣ vậy nên ngay cả ngọn gió đến với nó cũng không phải là ngọn

gió vô tình. Nhƣ vậy, bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi không chỉ nhằm

miêu tả cây chuối theo nghĩa tự thân của nó - đầy đặn và đầy sức sống - mà

hấp dẫn hơn, lạ lẫm hơn, nó là hình ảnh ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của tình yêu dịu

dàng, tế nhị. Cũng nhằm biểu hiện tình yêu nhƣng đến Nguyễn Trãi, hình ảnh

cây chuối đã có những cách tân vƣợt bậc, mang giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân

văn sâu sắc.

Tóm lại, qua sự khảo sát thế giới hình ảnh trong Quốc âm thi tập,

chúng tôi thấy hầu hết đó là những hình ảnh có phần xa lạ với văn văn chƣơng

bài học đƣơng thời. Sở dĩ có hiện tƣợng đó vì Nguyễn Trãi trên cơ sở gắn bó

hết mình với cuộc sống nhân dân và bằng tình yêu thiên nhiên, yêu cây cỏ,

yêu cảnh vật hàng ngày, ông đã đƣa những sản vật của nhân dân của thơ ca

dân gian vào thơ mình một cách tự nhiên, trở thành đối tƣợng của cái đẹp.

Điều này thể hiện sự thay đổi trong cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ

theo chiều hƣớng dân chủ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.

3.3. Lối ngụ ý, ẩn ngữ

Lối ngụ ý, ẩn ngữ là lối nói quen thuộc của văn chƣơng trung đại để tạo

nên tính hàm súc, cô động của thơ; do thói quen ƣa nói ít hiểu nhiều, kị nói

thẳng ra mọi thứ. Bài thơ vịnh thƣờng kí thác tâm sự qua việc miêu tả về sự

vật, ẩn sau những sự vật đƣợc miêu tả là ngụ ý tƣ tƣởng mà nhà thơ gửi gắm,

vì vậy lối ngụ ý, ẩn ngữ đƣợc sử dụng nhƣ một biện pháp đắc lực nhất cho

việc thể hiện hai tầng nghĩa của loại thơ này. Có một điều khá đặc biệt trong

thơ vịnh là hình tƣợng ngụ ý, ẩn ngữ đã đƣợc dựng lên ở cả hai mức độ: hình

ảnh tƣợng trƣng và hình ảnh đời thƣờng.

71

Đề tài vịnh thiên nhiên chiếm một vị trí quan trọng trong thơ Nguyễn

Trãi. Thi nhân nhƣ một kẻ đi tìm cái đẹp, và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp

đã gọi mời thi nhân. Với thi nhân, thiên nhiên trở thành ngƣời bạn tâm giao.

Điều này đã lí giải vì sao những ngụ y, ẩn ngữ trong mảng thơ vịnh thiên

nhiên của Nguyễn Trãi lại đƣợc ông rất ƣa chuộng. Cỏ cây hoa lá trong thơ

ông tràn đầy sức sống. Chúng là hiện thân của những đức tính cao đẹp vốn

thƣờng thấy ở những bậc trƣợng phu, những đấng quân tử. Nguyễn Trãi làm

thơ để ca tụng vẻ đẹp của chúng, và cũng để bày tỏ lòng mến yêu, khâm phục

của ông trƣớc cái đẹp cao quý của chúng.

Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập có nhiều bài vịnh về các loài cây

nhƣ tùng, cúc, trúc, mai,... để ngợi ca phẩm chất của ngƣời quân tử. Ví nhƣ ba

bài Trúc liên hoàn sau:

Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,

Ưa mày vì bởi tiết mày thanh.

Đã từng có tiếng trong đời nữa,

Quân tử ai chẳng mảng danh?

Danh quân tử, tiếng nhiều ngày,

Bảo khách tri âm mới biết hay.

Huống lại nhưng nhưng chẳng bén tục,

Trượng phu tiết cứng khác người thay.

Trượng phu tiết cúng khác người thay,

Dư ng dụ trời có ý vay?

Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa,

Chúa xuân ngẫm càng huyễn thay!

72

Nhƣ vậy, ngay trong những ẩn ngữ quen thuộc, tác giả đã khai thác

những nội dung mới làm cho hình tƣợng thơ có thêm sắc thái ý nghĩa mới,

phẩm chất cao đẹp của ngƣời quân tử, đó là hƣớng tới mục đích cao đẹp:

“dành còn để trợ dân này”. Đây quả thực là một đóng góp quan trọng trong

việc làm thơ vịnh trở nên hoàn thiện hơn trong việc bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm.

Với lối nói ngụ ý, ẩn ngữ Nguyễn Trãi còn sáng tạo nên những hình

ảnh rất đời thƣờng. Điều thú vị là viết về những sự vật thật giản dị, dân dã

nhƣng những sự vật ấy lại ẩn dụ cho vấn đề quan trọng: phẩm chất của kẻ sĩ

quân tử, quan hệ minh quân với lƣơng thần, vấn đề triều chính,... Trong thơ

vịnh của Nguyễn Trãi, lối ngụ ý, ẩn ngữ đã đƣợc sử dụng nhiều. Những sự vật

đời thƣờng qua ngòi bút Nguyễn Trãi đã có khả năng biểu đạt tƣ tƣởng, nội

dung lớn.

Với đặc điểm cùng một lúc chuyển tải hai lớp nghĩa, lối ngụ ý, ẩn ngữ

đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa cho một bài thơ vịnh.

3.4. Lối dùng điển tích, điển cố

Sử dụng điển tích, điển cố là một hiện tƣợng phổ biến của thơ ca trung

đại. Vì vậy việc các nhà thơ khi vịnh thƣờng dùng điển tích, điển cố là việc dễ

hiểu. Có điều, mức độ sử dụng ở mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi tác giả có khác

nhau. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy trong thơ vịnh Nguyễn Trãi đã sử

dụng các điển tích, điển cố rất đa dạng, phong phú cẩ về số lƣợng lẫn đề tài.

Điển bao gồm cả điển tích và điển cố đƣợc biểu hiện trong tác phẩm

văn học dƣới hình thức một chữ, một ngữ hay một câu, đƣợc nhà văn, nhà thơ

rút gọn từ những chuyện trog lịch sử, kinh sách đời trƣớc. Thông qua việc giải

mã các điển, ngƣời đọc sẽ hiểu đƣợc ngụ ý của tác phẩm. Điển cũng đcƣợc

coi là biện pháp tu từ đặc biệt có ý nghĩa lớn, giúp nhà văn, nhà thơ xây dựng

hình tƣợng nghệ thuật mang tính ƣớc lệ, tƣợng trƣng cao. Thơ vịnh với đặc

điểm miêu tả sự vật để thông qua đó ngụ ý ẩn chứa tƣ tƣởng. Điển sẽ giúp lời

73

văn thêm cô động, hàm súc, ý tại ngôn ngoại, kết cấu tác phẩm trở nên ngăn

gọn, súc tích, hợp lý,... Dùng điển thể hiện đƣợc trình độ của nhà văn, tránh lộ

ý và thể hiện đƣợc sự uyên bác, tài năng nghệ thuật của ngƣời dùng. Giúp văn

bản nghệ thuật sang trọng, mỹ lệ, đạt hiệu quả thẩm mĩ cao. Đối với thơ vịnh,

điển giúp chuyển tải hai lớp nghĩ, một lớp nghĩa hiển thị ở con chữ, một lớp

nghĩa ẩn sau ở nghĩa của điển đƣợc dùng.

Thơ vịnh của Nguyễn Trãi ngoài Côn Sơn ca sáng tác theo thể trƣờng

thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thất ngôn xen lục ngôn. Đây

là thể thơ chịu sử quy định bởi số câu, số chữ, dung lƣợng của bài thơ bị hạn

chế. Ở phạm vi hạn hẹp của số chữ, nhà thơ vịnh vẫn phải đảm bảo chuyển tải

nội dung hàm ẩn của bài thơ. Chính vì vậy, điển là một nghệ thuật thỏa mãn

đƣợc việc diễn đạt mà tác phẩm vẫn cô động.

Dùng điển là biện pháp nghệ thuật hấp dẫn, thú vị. Tuy nhiên, vì điển

thƣờng rút ra từ lịch sử, sách Trung Hoa nên ngƣời dùng điển và tiếp nhận

phải có kiến thức sâu rộng. Ngoài ra, ngƣời dùng điển còn phải có những rung

động thực sự. Nói nhƣ Trƣơng Chính: “Điển vào tay những ngƣời không rung

động mà cứ muốn làm thơ, thì dùng điển trở thành trò đố chữ” [24, tr.401].

Nguyễn Trãi là nhà thơ đầy tài năng, ông dùng điển trong sáng tác của mình

rất khéo, ngƣời đọc dễ dàng tìm kiếm, hiểu đƣợc. Trƣơng Chính cho rằng:

“Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng có điển cố, nhƣng không nhiều. Điển cố

khó, càng ít. Những ngƣời dịch thơ ông không mất công tìm kiếm lắm đã chú

thích đƣợc” [24, tr.401]. Tôn Quang Phiệt nhận xét về nghệ thuật trong Ức

Trai thi tập cũng khẳng định: “Nguyễn Trãi dùng điển tích rất khéo, có khi

ngƣời đọc dù không rõ điển tích cũng có thể hiểu nghĩa dễ dàng” [24, tr.358].

Từ việc khảo sát nghệ thuật dùng điển trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi,

chúng tôi nhận thấy việc sử dụng điển góp phần giúp nhà thơ bày tỏ chí

hƣớng, đồng thời kín đáo bộc bạch những tâm sự của bản thân. Với đặc điểm

74

cô đọng về ý nghĩa, nổi bật về sắc thái, điển tích, điển cố có sự biểu đạt lớn.

Chúng ta gặp trong thơ vịnh của Nguyễn Trãi một số lƣợng điển tích, điển cố

phong phú, đa dạng nội dung về xã hội, con ngƣời, thiên nhiên, tình yêu.

Thơ vịnh là loại thơ lấy tự nhiên giới làm đối tƣợng miêu tả nhƣng hình

ảnh ẩn dụ xuyên suốt lại là tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời. Cùng một lúc phải

thể hiện hai lớp nghĩa nên các tác giả thƣờng sử dụng điển tích, điển cố. Với

sức gợi rất lớn, điển tích, điển cố sẽ góp phần nâng cao khả năng biểu đạt và

tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, của hình tƣợng văn học.

Nguyễn Trãi là một nhà nho quân tử, nhƣ nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ

Lai Thúy viết: “Hiện thân của con ngƣời quân tử là những nhà văn hóa lớn

của thời Lê sơ. Trƣớc hết là Nguyễn Trãi” [33, tr.237].

Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi vịnh các

danh nhân Trung Hoa nhƣ: Bá Nha, Chung Tử kỳ, Lý Bạch. Những nhân vật

lịch sử này ít nhiều đều có điểm tƣơng đồng với số phận Nguyễn Trãi. Sử

dụng điển về các nhân vật Trung Hoa là cách ông soi mình vào họ để thấy rõ

mình hơn, để tìm sự đồng cảm.

Thời gian làm quan dƣới triều Lê, Nguyễn Trãi hăm hở thực hiện lý

tƣởng, mong muốn xây dựng xã hội “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”.

Nhƣng chính thời gian này, ông rơi vào bi kịch. Chứng kiến những công thần

bị sát hại, bản thân ông cũng bị nghi oan, may mắn thoát tội. Mƣợn điển Chu

Công, Y Doãn, kim đằng, ông thổ lộ tâm sự u uất của mình trƣớc thời cuộc:

Ý thân phụ chính tưởng Chu công,

Xử biến thùy tương Y Doãn đồng,

Ngọc kỷ di ngôn thường tại niệm,

Kim đằng cố sự cảm ngôn công.

(Chu công phụ Thành vương đổ)

(Ngƣời thân tốt phụ chính nhớ đến Chu công,

75

Xử cảnh quyền biến, ai đem để cùng với Y Doãn?

Lời trối ở ghế ngọc luôn luôn để dạ,

Cái hộp kim đằng trƣớc kia đâu dám bảo là công).

Chu Công, Y Doãn đều là những bậc anh hùng, bậc hiền tài có công lớn

giúp vua dựng nƣớc. Y Doãn có công giúp vua nhà Thƣơng diệt nhà Hạ, dựng

nên sự nghiệp nhà Thƣơng. Đang hăm hở xây dựng đất nƣớc, ông luôn coi

trách nhiệm gánh vác việc thiên hạ là trên hết thì vua Thành Thang mất, Thái

Giáp lên nối ngôi. Thái giác bạo ngƣợc, vô đạo. Y Doãn hết lời khuyên vua

nên tu sửa theo pháp chế vua Thang những Thái Giáp không những không

nghe còn đẩy ông đi đày ở đất Đông Cung rồi tự mình nhiếp chính. “Kim

đằng” là cái hộp bằng vàng đƣợc gắn chặt. Khi Chu Vũ Vƣơng ốm nặng, Chu

Công đã viết bài cáo với thần linh xin nguyện chết thay vua. Ông bỏ bài cáo

vào hộp, lấy vàng gắn chặt. Vũ Vƣơng đã khói bệnh. Về sau, Vũ Vƣơng mất,

Thành Vƣơng lên ngôi. Do Thành Vƣơng còn nhỏ nên Chu Công đã nhiếp

chính. Thành Vƣơng bị bọn nịnh thần xúi giục đã nghi oan cho Chu Công,

đày ông sang Đông Đô. Chu Công làm bài thơ gửi về dâng Thành Vƣơng tỏ

rõ lòng mình, nhƣng Thành Vƣơng vẫn không tin. Đến khi dân chúng hoảng

loạn do mất mùa, Thành Vƣơng cho là điềm chẳng lành, bèn mở hộp kim

đằng, thấy từ khấn của Chu Công, thấy rõ công lao, lòng trung của ông. Ẩn

sau điển Y Doãn, Chu Công với “kim đằng”, ta nhận ra hình ảnh Nguyễn

Trãi. Công lao của ông đối với việc xây dựng nhà Lê có khác gì Y Doãn, Chu

Công. Và số phận ông chẳng phải nhƣ Y Doãn, Chu Công đó sao? Ông từng

bị nghi ngờ, gièm pha, có lần bị giam vào ngục… Cả bài thơ chỉ nói đến

chuyện ngƣời xƣa, nhƣng cách dùng điển rất đắc địa của Nguyễn Trãi đã trở

thành một mã khóa để ta hiểu đƣợc tình ý của nhà thơ.

Nguyễn Trãi sử dụng điển một mặt nhắc đến những tấm gƣơng snags

về lòng trung, mặt khác nói lên chí hƣớng và tâm sự u uất của mình. Trong

bài Đề Bá Nha cổ cầm đồ, Nguyễn Trãi nhắc tới điển “Bá Nha, Tử Kỳ”:

76

Chung Kỳ bất tác chú kim nan,

Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.

Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy,

Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.

(Đề Bá Nha cổ cầm hồ)

(Không làm đƣợc Chung Kỳ vì đúc vàng khó,

Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.

Đêm lạnh vòm trời biếc lạnh nhƣ nƣớc,

Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm).

Bá Nha là ngƣời đàn hay, Chung Tử Kỳ là ngƣời sành nghe tiếng đàn

đó. Hai ngƣời là bạn tri âm, tri kỉ của nhau. Khi Tử Kỳ mất, Bá Nha đập đàn

không gảy nữa vì cho rằng sẽ không có ai trên đời này hiểu đƣợc tiếng đàn

của mình. Mƣợn điển Bá Nha, Tử kỳ, Nguyễn Trãi muốn nói tới sự đồng cảm,

tri âm của ngƣời nghệ sĩ. Gắn với cuộc đời của chính ông, đang cô đơn, lạc

lõng trƣớc thực tãi đau buồn.

Dùng điển giúp Nguyễn Trãi kín đáo bộc lộ đƣợc tâm sự khó nói của

mình. Nhắc tới công lao của công thần, giúp vua, can vua nhƣng bị chối bỏ:

Tế thì nho thuật sinh bình hữu,

Gián chúa trung ngôn tử hậu tri.

(Thiều Châu văn hiến miếu)

(Cứu đời thuật nhà nho bình sinh vẫn có,

Can chúa lời trung trực sau chết mới hay).

Ngôn tử hậu tri là điển nhắc tới Tể tƣớng Trƣơng Cửu Linh. Ông biết

thế nào An Lộc Sơn cũng làm phản nên đã hết lời can vua nhƣng vua Đƣờng

lúc đó không tin. Sau khi Trƣơng Cửu Linh chết, An Lộc Sơn làm phản, vua

Đƣờng lúc ấy mới biết Trƣơng Cửu Linh là tiên tri, là trung thần. Nguyễn

Trãi có khác gì Trƣơng Cửu Linh, đã bao lần can ngăn, khuyên bảo các vua

77

nhà Lê, nhƣng lời trung thần bị nghi hoặc bởi những lời của bọn nịnh thần.

Và rồi, kết cục đau buồn đã xảy ra, trung thần bị sát hại, Nguyễn Trãi chịu nỗi

oan giết vua chịu tội chu di tam tộc. Và sau khi ông chết, hơn hai mƣơi năm

sau Lê Thánh Tông mới nhận ra: “Ức Trai tâm thƣợng quang khuê tảo”.

Ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng xây dựng xã hội “Dân Nghiêu Thuấn, vua

Nghiêu Thuấn” của Nguyễn Trãi đã không diễn ra nhƣ mong đợi. Ngƣợc lại,

phải chứng kiến bao hiện thực đau lòng: “Oa dốc kinh khan nhật Tấn Tần“

(Mạn thành), “Kê trùng tự thử liễu tƣơng tranh” (Thu dạ khách cảm),... ông

không khỏi cay đắng xót xa. “Kê trùng” là sử dụng điển của nhà thơ Đỗ Phủ.

Bài thơ Phược kê hành (Bài hát trói gà) có câu: “Kê trùng đắc thất vô liễu

thì”. Gà và bọ đƣợc thua không bao giờ xong. Cuộc sống nhƣ vòng tròn luẩn

quẩn… Phải chăng từ những trải nghiệm của chính bản thân mình, Nguyễn

Trãi đã đúc kết thành một triết lý về cuộc đời thấm đẫm sự chua chát.

Tóm lại, điển trong thơ Nguyễn Trãi thật sự là một phƣơng tiện ngôn

ngữ hữu hiệu hỗ trợ nhà thơ trong việc bộc lộ chí hƣớng và những tâm sự một

cách kín đáo, tế nhị. Nhờ vào việc sử dụng điển, một mặt Nguyễn Trãi thể

hiện đƣợc thái độ, tƣ tƣởng, tình cảm của mình, mặt khác, qua ý nghĩa biểu

trƣng của điển, ngƣời đọc cũng hiểu đƣợc chí hƣớng, tâm sự, tình cảnh và vị

thế của ông trƣớc thời cuộc. Thơ vịnh nằm trong huyết mạch chung của thơ ca

trung đại nên tất yếu bị chi phối bởi thi pháp văn học thời kì này. Bởi vậy,

việc Nguyễn Trãi sử dụng nhiều điển tích, điển cố trong sáng tác thơ vịnh là

điều dễ hiểu.

* Tiểu kết chƣơng 3

Trong thơ vịnh, Nguyễn Trãi chủ yếu sử dụng bút pháp ƣớc lệ, tƣợng

trƣng, lối ngụ ý, ẩn ngữ để miêu tả sự vật, sự việc và gợi mở tâm tình ẩn sâu

của nhà thơ. Nguyễn Trãi vừa sử dụng hình ảnh ƣớc lệ quen thuộc vừa đƣa

vào các hình ảnh ƣớc lệ mới, tạo nên giá trị biểu cảm riêng. Ông chủ yếu sử

78

dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật và có sự cách tân, sáng tạo với thể

thơ thất ngôn xen lục ngôn. Ông còn sử dụng khá thành công các điển cố,

điển tích. Các điển đƣợc sử dụng thƣờng liên quan đến các danh sĩ nổi tiếng

của triều đại xƣa, các hình ảnh minh vƣơng và các triều đại thái bình thông

qua đó gửi gắm ƣớc mơ, lí tửng và cả quan điểm về phẩm chất cao đẹp của

ngƣời quân tử.

79

KẾT LUẬN

Thơ vịnh là loại thơ có vị trí quan trọng trong văn học trung đại Việt

Nam. Thơ vịnh lấy thiên nhiên, sự vật, sự việc, con ngƣời làm trung tâm tác

phẩm, ngƣời vịnh thông qua đặc điểm của đối tƣợng để gợi mở, gửi gắm

những tâm tƣ tình cảm, triết lý của mình. Vì thế, thơ vịnh cũng là loại thơ “thi

ngôn chí”. Thơ vịnh có một quá trình hình thành, phát triển riêng qua các thời

kỳ khác nhau. Trong tiến trình phát triển của thơ vịnh, có thể nói, Nguyễn

Trãi là một trong những tác giả lớn.

Qua việc tìm hiểu thơ vịnh của Nguyễn Trãi, chúng tôi thấy thơ vịnh

của ông chiếm vị trí quan trọng trong thơ ca của ông nói riêng và trong dòng

thơ vịnh Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó đề tài vịnh trong thơ Nguyễn Trãi

cũng rất phong phú và đa dạng bao gồm cả vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh con

ngƣời, vịnh thời thế. Ở mảng thơ đề vịnh nào cũng đạt đƣợc thành công nhất

định. Qua thơ vịnh của Nguyễn Trãi giúp ngƣời đọc có cái nhìn toàn diện hơn

về bức tranh xã hội xƣa, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tìm hiểu tâm

sự nhà thơ. Nó giúp ngƣời đọc có thêm tri thức về cảnh vật, lịch sử, con

ngƣời, thời đại và những quan điểm cách nhìn nhận, đánh giá của nhà thơ với

đối tƣợng đó. Điều quan trọng hơn cả là thông qua những đối tƣợng đƣợc

vịnh ấy nhà thơ gửi gắm thông điệp, tƣ tƣởng về hiện tại và bộc lộ tâm sự

thầm kín của mình. Về nghệ thuật, nhìn chung thƣ vịnh của Nguyễn Trãi

không có nhiều đột phá so với các nhà thơ vịnh trƣớc và sau ông. Ông sử

dụng các bút pháp quen thuộc của văn học trung đại nhƣ thể thơ, hình ảnh

thơ, lối ngụ ý, ẩn ngữ, dùng điển để miêu tả các sự vật, sự việc gợi về tâm tƣ,

tình cảm của mình.Tìm hiểu thơ vịnh của Nguyễn Trãi giúp chúng ta hiểu

thêm phần nào về con ngƣời ông với những suy tƣ, trăn trở trong cuộc đời.

Đó là một Nguyễn Trãi chất nặng suy tƣ, chiêm nghiệm, triết lí qua thơ vịnh

80

trong Ức Trai thi tập. Đó là một Nguyễn Trãi sôi nổi nhiệt thành chí, đạo và

tình yêu cuộc sống qua thơ vịnh trong Quốc âm thi tập.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi xứng đáng với con ngƣời rất đẹp

của ông, đó là cống hiến to lớn cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Thơ

văn Nguyễn Trãi đúc kết đƣợc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc

biệt là những vần thơ vịnh đã thể hiện đƣợc quan niệm, triết lí sống của đại thi

hào dân tộc này. Thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi cho thấy tác giả là ngƣời có

nhân cách cao cả, nỗi niềm đau đáu bởi chí hƣớng không thành, nhƣng luôn

mong ƣớc về một nền chính trị có vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Có

thể nói, Nghiên cứu thơ vịnh trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi là chìa khóa đi vào tìm hiểu thơ văn trung đại, tìm hiểu xã hội

đƣơng thời cũng nhƣ vẻ đẹp nhân cách con ngƣời Ức Trai.

81

BẢNG THỐNG KÊ

1. Vịnh thiên nhiên

Tập thơ Ức Trai thi tập

Cỏ cây, hoa Danh Hiện tƣợng

lá, chim lam tự nhiên TT Tên bài vịnh thú, rừng thắng (nắng, mƣa,

suối… cảnh gió, bão…)

1 Tiên Du tự x

2 Thính vũ x

3 Dục Thúy sơn x

4 Mộng sơn trung x

5 Đề Vân Oa x

6 Trãi đầu xuân độ x

7 Mộ xuân tức sự x

8 Vân Đồn x

9 Bạch Đằng hải khẩu x

10 Quan hải x

11 Đề thạch trúc oa x

12 Vọng doanh x

13 Quá Thần Phù hải khẩu x

14 Thần Phù hải khẩu x

15 Long Đại nham x

16 Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự x

82

17 Đề Bão Phúc nham x

18 Đề Ngọc Thanh quán x

19 Côn Sơn ca x

20 Tĩnh Yên vãn lập x

21 Quá hải x

22 Thái Thạch hoài cổ x

23 Lam Quan hoài cổ x

24 Thiều Châu tức sự x

25 Du Nam Hoa tự x

26 Tầm Châu x

27 Ngô châu x

28 Quá lĩnh x

29 Bình Nam dạ bạc x

Tập thơ Quốc âm thi tập

Cỏ cây, hoa Danh lam Hiện tƣợng TT Tên bài vịnh lá, chim thú, thắng cảnh tự nhiên rừng suối…

1 Thơ mai x

2 Mai già x

3 Cúc (I) x

4 Cúc đỏ x

5 Tùng (I) x

6 Tùng (II) x

83

7 Tùng (III) x

8 Trúc (I) x

9 Trúc (II) x

10 Trúc (III) x

11 Mai (I) x

12 Mai (II) x

13 Mai (III) x

14 Hoa đào (I) x

15 Hoa đào (II) x

16 Hoa đào (III) x

17 Hoa đào (IV) x

18 Hoa đào (V) x

19 Hoa đào (VI) x

20 Mẫu đơn hoa x

21 Cây chuối x

22 Hoa râm bụt x

23 Cúc (II) x

24 Hoa mộc x

25 Hoa nhài x

26 Hoa sen x

27 Hòe x

28 Cây cam đƣờng x

29 Trƣờng An hoa x

30 Hoàng tinh x

31 Cây thiên tuế x

32 Mía x

84

33 Cây đa già x

34 Cây dƣơng x

35 Đầu xuân đắc ý x

36 Đêm trừ tịch x

37 Cuối xuân x

38 Hoa xuân x

39 Cảnh hè x

40 Trăng thu x

41 Mặt trăng trong nƣớc x

42 Nƣớc trời một sắc x

43 Thơ tiếc cảnh (bài 1) x

44 Thơ tiếc cảnh (bài 2) x

45 Thơ tiếc cảnh (bài 3) x

46 Thơ tiếc cảnh (bài 4) x

47 Thơ tiếc cảnh (bài 13) x

85

2. Vịnh vật

Tập thơ Ức Trai thi tập

TT Tên bài vịnh Vật đƣợc vịnh Con vật Đồ vật

Cây kiếm 1 Đề kiếm x

Tranh 2 Đề Hà hiệu úy "Bạch vân tƣ thân" x

Tập thơ Quốc âm thi tập

TT Tên bài vịnh Vật đƣợc vịnh Con vật Đồ vật

1 Trận nhạn Chim nhạn x

2 Trận bƣớm Con bƣớm x

3 Mèo Con mèo x

4 Thái cầu Quả cầu ngũ sắc x

5 Trâu trong nhiên Con trâu x

6 Lợn Con lợn x

7 Chim hạc già Con chim hạc x

86

3. Vịnh con ngƣời

Tập thơ Ức Trai thi tập

Công Nghệ TT Tên bài vịnh Nhân vật đƣợc vịnh thần sĩ

Bá Nha x 1 Đề Bá Nha cổ cầm hồ Chung Tử Kỳ x

2 Chu Công phụ Thành Vƣơng đồ Chu Công Đán x

3 Đề Từ Trọng Phủ canh ẩn đƣờng Từ Trọng Phủ x

4 Thái Thạch hoài cổ Lý Bạch x

Tô Đông Pha x Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam 5 thị tử tôn giáo Lý Bạch x

6 Thiều Châu Văn Hiến miếu Trƣơng Cửu Linh x

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1997), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết

thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

3. Lê Bảo (2001), Nguyễn Trãi nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

4. Xuân Diệu (1980), Sáu trăm năm Nguyễn Trãi, Nxb. Tác phẩm mới, Hà

Nội.

5. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Lê Thị Hạnh (2007), Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố trong Ức Trai

thi tập của Nguyễn Trãi, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học Sƣ phạm

Hà Nội 2.

8. Nguyễn Thị Hồng (2015), Vịnh sử của Nguyễn Khuyến, Khóa luận tốt

nghiệp, Thƣ viện Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.

9. Đinh Thị Hƣơng (2012), Thơ vịnh vật đời Đường, Luận án Tiến sĩ, Thƣ

viện Quốc Gia Việt Nam.

10. Đinh Gia Khánh (1978), Giáo trình văn học Việt Nam (tập 1), Nxb. Đại

học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

11. Đinh Gia Khánh (1998), Văn học Việt Nam thế kỷ X – Nửa đầu XVIII,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

12. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố Văn học, Nxb. Văn học, Hà Nội

13. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung

đại Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

88

14. Bùi Văn Nguyên, Phan Sỹ Tấn (1963), Giáo trình lịch sử văn học Việt

Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

15. Bùi Văn Nguyên (1980), Nguyễn Trãi, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.

16. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb. Đại học và

Trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội.

17. Bùi Văn Nguyên (1992), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

18. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể

loại, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Tôn Nhan (1999), Từ điển Văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb.

Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Nhiều tác giả (1980), Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Nhiều tác giả (1980), Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

23. Vũ Tiến Quỳnh (1992), Nguyễn Trãi – tuyển chọn và trích dẫn những bài

phê bình bình luận, Nxb. Tổng hợp Khánh Hòa.

24. Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu (1999), Nguyễn Trãi về tác gia

và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

25. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

26. Vũ Thị Thanh Tâm (2010), So sánh cảm hứng về thiên nhiên trong thơ chữ

Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện

Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.

27. Tuấn Thành, Vũ Nguyễn (2007), Nguyễn Trãi tác phẩm và lời bình, Nxb.

Văn học, Hà Nội.

28. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

89

29. Lã Nhâm Thìn (1998), Giảng văn văn học Việt Nam, nhiều tác giả, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

30. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

31. Phạm Thị Thu (2007), So sánh thơ vịnh vật trong Hồng Đức quốc âm thi tập

và thơ vịnh vật Hồ Xuân Hương, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học

Vinh.

32. Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu (2003), Điển tích Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb.

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

34. Phạm Thị Thùy (2012), Các“nhân vật lịch sử”trong thơ chữ Hán của Nguyễn

Du, Khóa luận tốt nghiệp, Thƣ viện Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

35. Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Viện sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Nguyễn Trãi thân thế và sự nghiệp (1980), Viện sử học, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

37. Đoàn Thị Thu Vân (2001), Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb. Trẻ, Hội

nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh.

38. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội.

39. Phan Võ, Lê Thƣớc, Đào Phƣơng Bình (1962), Thơ chữ Hán Nguyễn

Trãi, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

40. Phạm Tuấn Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại

học Quốc gia Hà Nội.

41. Hoàng Hữu Yên (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.