VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THỦY
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THỦY
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.PHAN THỊ THANH THỦY
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng đây là bài nghiên cứu của cá nhân em với sự cố
vấn hướng dẫn của Cô giáo TS.Phan Thị Thanh Thủy. Số liệu và kết quả nghiên
cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng và
công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin dẫn trích trong bài luận văn
đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 9 năm 2020 Học viên luận văn
Nguyễn Thị Thủy
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bài luận văn thạc sỹ này em xin chân thành cảm ơn
quý thầy cô Khoa Luật – Học Viện Khoa Học Xã Hội, đã chỉ dạy cho em những
tiền đề lý luận cần thiết trong thời gian đã học tập tại học viện. Đặc biệt em
cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của Cô giáo TS.Phan Thị
Thanh Thủy đã luôn quan tâm, đồng hành và giúp đỡ em rất nhiều trong quá
trình hoàn thành đề tài luận văn thạc sỹ này.
Với trình độ còn hạn chế nên bài luận văn của em không tránh khỏi nhiều
thiếu sót, em rất mong được các Thầy, Cô giáo phê bình, góp ý để em có điều
kiện học hỏi và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cũng như tiếp thu, trang bị
thêm kiến thức thực tế phục vụ cho công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VÀ SỰ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT .......................................................... 5
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và các biện pháp
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại....................................... 5
1.2. Các thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án. ........................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA
LAI ............................................................................................................ 34
2.1. Thực trạng tranh chấp kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh Gia
Lai........................................................................................................ 35
2.2. Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai .............................................................. 45
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA
LAI ............................................................................................................ 64
3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại bằng Toà án. ................................................. 64
3.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại Tòa án ...................................................... 69
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử kinh doanh thương mại
tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. ........................................................ 72
KẾT LUẬN .............................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT VIẾT ÐẦY ÐỦ
1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự
3 CHXHCNVN Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
4 KDTM Kinh doanh thương mại
5 LTM Luật Thương mại
6 NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
7 TAND Tòa án nhân dân
8 UBND Ủy ban nhân dân
9 VKSND Viện Kiểm Sát Nhân Dân
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ số liệu thụ lý giải quyết án KDTM tại TAND tỉnh Gia Lai. ............ 47
Biểu đồ phần trăm các tranh chấp của tranh chấp KDTM tại TAND tỉnh
Gia Lai .................................................................................................... 50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính
trị, xã hội; dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường có điều tiết của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh yếu tố tích cực như thúc
đẩy sản xuất, kinh tế phát triển các quan hệ kinh tế sôi động của kinh tế thị
trường cũng làm gia tăng các tranh chấp dân sự, tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh thương mại theo hướng gia tăng về số lượng và phức tạp tính chất.
Qúa trình giải quyết các tranh chấp KDTM này, bên cạnh có cả sự thuận lợi và
khó khăn là chúng ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật tương đối, đồng
bộ và hoàn chỉnh theo hệ thống, kể cả pháp luật về nội dung và pháp luật về tố
tụng. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam thì thành phần kinh tế tư nhân được
thúc đẩy là một trong trụ cột và góp phần vào sự phát triển kinh tế. Để đảm bảo
quyền tự do cho các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau,
thì việc tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thỏa đáng và hiệu quả góp
phần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn để thúc đẩy kinh tế phát
triển, giữ vững trật tự và an ninh xã hội, tạo cân bằng cho các doanh nghiệp
cũng như trên trường quốc tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại cũng còn bộc lộ một số
vấn đề hạn chế về nhận thức và áp dụng pháp luật.
Gia Lai được biết đến là tỉnh – thuộc địa bàn Tây Nguyên, có tốc độ phát
triển kinh tế khá nhanh, sự hình thành lớn mạnh của nhiều doanh nghiệp, đặc
biệt nơi đây được biết đến là môi trường đầu tư hấp dẫn, có lợi nhuận cao đối
với các doanh nghiệp. Mặt khác trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng có nhiều
chênh lệch giữa các địa bàn trong tỉnh. Điều này cũng làm cho các tranh chấp
kinh doanh , thương mại trên địa bàn Tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua
1
về cả số lượng và mức độ phức tạp, đòi hỏi phải có sự can thiệp và giải quyết
của cơ quan uy tín chất lượng, để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu
quả tiêu cực do mâu thuẫn và xung đột lợi ích gây ra do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần
thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh
doanh. Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng
phát triển như hiện nay. Trước tình hình ngày càng phức tạp cũng như tranh
chấp giữa các doanh nghiệp ngày càng nhiều gây nên các xung đột không đáng
có, chính từ thực tiễn này nên tôi đã lựa chọn vấn đề để“Thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai” làm
đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện tại, có rất nhiều đề tài nghiên cứu và cả các công trình khoa học đã
nghiên cứu về nội dung giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại (KDTM)
bằng tòa án, hoặc trọng tài thương mại hoặc bằng con đường hòa giải hay
thương lượng hoặc bằng nhiều phương thức khác. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BLTTDS 2015 vào thực tiễn để giải quyết
tranh chấp KDTM tại các địa phương trên cả nước chưa có nhiều. Qua tìm hiểu
học viên thấy có một số công trình nổi bật sau:
- Bài viết “Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
KDTM tại Tòa án” của tác giả Triệu Thị Quỳnh Hoa;
- Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM theo thủ tục tố tụng
Tòa án Việt Nam hiện nay của Đinh Thị Trang – Trường Đại Học Quốc Gia
Hà Nội năm 2013.
- Luận án: Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp KDTM trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam của Đặng Thanh Hoa – Trường Đại Học Luật Thành Phố
2
Hồ Chí Minh năm 2015.
- Luận văn: Pháp luật về hòa giải thương mại của Lê Đăng Hùng – Trường
Đại Học Huế năm 2019.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu cập nhật theo BLTTDS 2015 hay các bài của
học viên chỉ mới dừng lại chung chung hoặc ở một địa phương nào đó cá biệt
chứ chưa áp dụng luật trên thực tế trong công tác giải quyết tranh chấp KDTM tại
TAND tỉnh Gia Lai. Vì vậy chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về thực tiễn
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án Nhân Dân tỉnh Gia Lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào hai đối tượng nghiên cứu sau:
- Các quy định pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại: Quy định tại BLTTDS 2015.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật trong xác định: Thẩm quyền giải quyết các
loại vụ việc tranh chấp KDTM của Tòa án Nhân dân tỉnh Gia Lai. Mặc dù trên
thực tiến giải quyết tranh chấp của tòa án có những tranh chấp đặc biệt thuộc
về cả phạm trù pháp luật kinh doanh và dân sự, đó là tranh chấp giữa thương
nhân với người tiêu dùng trong quá trình mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên, luật văn sẽ không đề cập đến loại tranh chấp này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các quy định pháp luật về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp KDTM theo
BLTTDS 2015 và thực tiễn áp dụng kể từ khi BLTTDS 2015 có hiệu lực tại Tòa án
Nhân dân tỉnh Gia Lai.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trong đề tài luận văn thạc sỹ này, mục đích là làm rõ cơ sở lý luận về
việc thẩm quyền giải quyết tranh KDTM tại Tòa án; phân tích, đánh giá về thực
trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại Tòa án nhân dân tỉnh
3
Gia Lai. Và từ đó em xin đề xuất một số giải pháp nhằm phần nào nâng cao
hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để nội dung được phong phú, sát với thực tế và những thông tin đưa ra
được đầy đủ, khách quan bao quát được vấn đề, học viên sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội và luật học như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu;
- Phương pháp thống kê và phương pháp nghiên cứu tình huống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Đề tài luận văn này góp phần làm rõ cơ sở lý luận về việc
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án;
Về mặt thực tiễn: Đề tài luận văn này phân tích, đánh giá một cách toàn
diện có hệ thống về thực trạng áp dụng pháp luật, giải quyết các tranh chấp
KDTM Tòa án Nhân dân tỉnh Gia Lai và hướng tới đề xuất một số giải pháp
nhằm phần nào nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp KDTM tại
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
7. Kết cấu của luận văn
Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận
và tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về việc giải quyết tranh chấp
KDTM tại Tòa án và sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng giải quyết các tranh chấp KDTM tại Toà án nhân dân
tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND tỉnh Gia Lai.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại và các biện
pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm kinh doanh, thương mại và tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Theo khoản 16, Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 giải thích: “Kinh doanh
là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế chủ yếu
vị lợi nhuận trên mọi mặt kinh doanh, mặc dù trên thực tế có một số tổ chức
doanh nghiệp có các hoạt động kinh doanh không hoàn toàn nhằm mục tiêu vì
lợi nhuận. Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”. Có thể thấy rằng hai khái niệm này có rất nhiều nét tương đồng và nội
hàm của chúng có sự trùng lặp rõ rệt, vì vậy trong luận văn này để thuận tiện
cho việc sử dụng và thống nhất trong ý nghĩa, tác giả là sử dụng cụm thuật ngữ
“tranh chấp kinh doanh thương mại” để chỉ cả tranh chấp kinh doanh theo tinh
thần của luật doanh nghiệp và tranh chấp thương mại theo tinh thần của luật
thương mại.
Tranh chấp KDTM là một trong những hệ quả thiết yếu của hoạt động
thương mại trong nền kinh tế hiện nay, diễn ra phổ biến và thường xuyên trong
5
hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất, bản chất thường xuyên cũng
như hậu quả xảy ra của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng
và cho cả nền kinh tế thị trường hiện nay nói chung, pháp luật Việt Nam cũng
đã sớm tìm hiểu và cũng có những quan tâm nhất định đến hoạt động tranh chấp
KDTM cũng như các phương thức giải quyết của tranh chấp này. Tranh chấp
kinh doanh thương mại (hay tranh chấp kinh doanh) là thuật ngữ, vốn từ đã rất
quen thuộc và gần gũi trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như trên nhiều
phương diện ở tất cả các nước trên thế giới. Khái niệm này các nhà kinh doanh
mới được biết đến và đồng thời được đưa vào sử dụng rộng rãi và phổ biến một
cách hoàn toàn ở nước ta trong những năm gần đây và ngày càng được biết
nhiều hơn trên diện rộng, chiếm giữ vị trí “thống lĩnh” bởi sự nhường bước của
khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm đã quá quen thuộc của cơ chế kế
hoạch hóa đã sử dụng quen thuộc lâu năm và đã ăn sâu trong tiềm thức suy nghĩ
và tư duy pháp lý của người Việt Nam.
Ngày nay, có thể nói tranh chấp kinh doanh thương mại là một hiện tượng
bình thường trong nền kinh tế thị trường. Tranh chấp có thể biểu hiện ở những
dạng sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh: Được diễn ra giữa các chủ thể tham gia
kinh doanh, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất
đến tiêu thụ trên thị trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư: Loại tranh chấp
này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT, thực hiện điều
ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa phương.
- Tranh chấp KDTM xảy ra giữa các quốc gia trên thế giới trong việc
6
thực hiện điều ước quốc tế song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong
việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương, ví dụ tranh chấp
giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối.
Có thể nói, trong các loại tranh chấp trên thì tranh chấp về thương mại
(tranh chấp kinh doanh) là loại hình tranh chấp phổ biến nhất.
Trong hoạt động kinh doanh thì không thể tránh khỏi những tranh chấp
phát sinh, ví dụ như các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với
pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty
với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh
chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; các tranh chấp kinh tế
khác theo quy định của pháp luật do đó khi có những tranh chấp này xảy ra thì
cần có những phương thức để giải quyết tranh chấp.
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu đơn giản là sự bất đồng, mâu
thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh trong khi quan hệ và làm việc giữa
các bên liên quan trong hoạt động KDTM. Những bất đồng, mâu thuẫn này có
thể phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên
chúng được gọi theo ngành luật đó. Theo những quy định trên, có thể hiểu:
Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hoặc xung đột) về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên với nhau trong quá trình thực hiện các hoạt động
thương mại kinh tế. Hay có thể hiểu cách khác, tranh chấp thương mại có nội
dung liên quan đến lợi ích vật chất,lợi nhuận sinh ra của các tranh chấp KDTM.
Lợi ích vật chất ở đây thường được xem xét dưới góc độ là giá trị của tranh
chấp thương mại kinh tế. Và nếu so với các tranh chấp khác trong xã hội thì
tranh chấp thương mại thường là loại tranh chấp có giá trị lớn.Tranh chấp trong
7
kinh doanh thương mại phải hội đủ các yếu tố sau đây:
- Là những mâu thuẫn - bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên với nhau
trong mối quan hệ cụ thể tranh chấp KDTM;
- Những mâu thuẫn - bất đồng đó phải phát sinh và xảy ra từ hoạt động kinh
doanh thương mại hoặc có liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại
trong các hoạt đồn mà các bên tham gia.
- Những mâu thuẫn - bất đồng đó phát sinh chủ yếu xảy ra giữa các thương
nhân trong tranh chấp KDTM(cá nhân,tổ chức có đăng ký kinh doanh hay đăng
ký doanh nghiệp).
Có những tranh chấp đặc biệt thuộc về cả phạm trù pháp luật kinh doanh và
dân sự, đó là tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng trong quá trình
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên do phạm vi đã giới hạn, luật
văn không đề cập đến loại tranh chấp này.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
Các tranh chấp thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân:
Quan hệ thương mại có thể hiểu là được thiết lập giữa các thương nhân với
nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân trong tranh
chấp KDTM. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất
một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ
chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp kinh doanh thương mại: tranh
chấp xảy ra giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp xảy ra giữa các thành
viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải
thể, chia, tách .v.v.công ty; .v.v.
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp kinh doanh thương mại là hành vi vi
phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình các bên tham gia:
Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên tham
8
gia có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau trong tranh chấp KDTM,
tuy nhiên cũng có những trường hợp có những vi phạm xâm hại lợi ích của các
bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp hay mâu thuẫn, bất đồng xảy ra.
Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung
tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Nội dung
của tranh chấp thương mại chủ yếu là những xung đột, mâu thuẫn hay bất đồng
về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên tham gia trong hoạt động thương mại
kinh tế. Ngoài ra, tranh chấp thương mại còn chịu chi phối của các yếu tố cơ
bản của hoạt động này như: mục đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh
doanh và yêu cầu giữ bí mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:
Hiện nay tranh chấp kinh doanh thương mại ở nước ta hiện nay được giải
quyết bằng các phương thức : thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và
tòa án. Mỗi phương thức đều có sự ưu điểm và nhược điểm, có sự khác nhau
một cách rõ rệt về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành
theo quy định của pháp luật hiện hành. Các bên có quyền được tự do lựa chọn
phương thức phù hợp với giải quyết, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức
có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất
của tranh chấp và thiện chí của các bên tham gia mà lựa chọn phương thức giải
quyết nào cho phù hợp với các bên tham gia để đem lại lợi ích hiệu quả nhất.
Tranh chấp thương mại đòi hỏi phải được giải quyết một cách thỏa đáng nhất
và nhanh chóng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên chủ thể khi tham gia tranh
chấp, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, thực hiện đúng theo
pháp luật, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật và làm trái pháp luật trong
hoạt động kinh doanh thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
9
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Có bốn phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản như sau: thương lượng,
hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án.
1.1.2.1. Thương lượng
Thương lượng là phương thức đơn giản nhất trong giải quyết tranh chấp
KDTM thông qua việc các bên tham gia tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự thảo
luận với nhau, tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh để loại bỏ tranh
chấp mà không có sự trợ giúp của ai hay phán quyết của bất kì bên thứ 3 nào
nhằm đơn giản hóa giải quyết một cách nhanh chóng và không tốn thời gian
cũng như nhiều chi phí phát sinh.
Đặc điểm:
Hình thức giải quyết tranh chấp này có đặc điểm sau:
+ Các bên tranh chấp sẽ tự thỏa thuận để tìm kiếm giải pháp trên tinh
thần tự nguyện, thiện chí, hợp tác mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ
ba nào. Khi tiến hành thương lượng, các bên có thể trình bày quan niệm của
mình, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và tìm kiếm giải pháp chấm
dứt xung đột. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra trường hợp các bên không đạt được
thỏa thuận nào nhằm giải quyết tranh chấp đã phát sinh mà có thể làm cho
chúng trở nên trầm trọng hơn hoặc làm phát sinh nhiều tranh chấp khác. Trong
những trường hợp thương lượng không thành công như vậy, các bên có thể tiếp
tục lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp khác phù hợp để giải quyết tranh
chấp phát sinh giữa họ.
+ Các bên tự nguyện thi hành phương án giải quyết bất đồng đã lựa chọn.
Đây vừa là ưu điểm vừa là hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này.
Ưu điểm là ở chỗ các bên tự nguyện và tự mình đạt được thỏa thuận về phương
án giải quyết tranh chấp nên cũng dễ dàng tự mình đạt được thỏa thuận về
phương án đó. Tuy nhiên, việc thực hiện két quả thương lượng hoàn toàn phụ
10
thuộc vào sự tự nguyện, hợp tác và thiện chí của các bên. Mặc dù kết quả thương
lượng thường được ghi nhận bằng văn bản với tính chất như một thỏa thuận
hợp pháp về giải quyết tranh chấp đã phát sinh nhưng thỏa thuận đó không có
giá trị bắt buộc thi hành trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện
những diều khoản đã cam kết trong thỏa thuận. Khi đó tính tự nguyện thi hành
của phương án giải quyết tranh chấp mà không có sự hỗ trợ của bê thứ ba có
quyền lực pháp định sẽ trở thành hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp
này.
1.1.2.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM với sự tham gia,
giải quyết của trung gian là bên thứ ba làm trung gian hòa giải nhằm để hỗ trợ,
thuyết phục cho các bên tham gia để tìm kiếm các giải pháp phù hợp nhằm loại
trừ tranh chấp, mâu thuẫn hay những bất đồng xảy ra, hạn chế việc các bên đưa
nhau ra Tòa án giải quyết.
Đặc điểm:
Hình thức giải quyết tranh chấp này có đặc điểm sau:
+ Chỉ được tiến hành khi cả hai bên tranh chấp tự nguyện giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải.
+ Phương thức hòa giải khác với phương thức thương lượng ở chỗ có sự
tham gia của nhân tố trung gian là bên thứ ba để giải quyết tranh chấp . Người
trung gian này không có vai trò quyết định trong việc giải quyết tranh chấp mà
chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ cho các bên trong việc tìm ra giải pháp tốt nhất để
giải quyết tranh chấp, còn việc giải quyết tranh chấp vẫn là do các bên quyết
định.
+ Hoà giải viên đương nhiên phải là người không có quyền lợi liên quan
đến vụ tranh chấp và phải hoàn toàn trung lập. Tính trung lập của hoà giải viên
tạo nên sự tin cậy của các bên tranh chấp khi yêu cầu hoà giải bất đồng của
11
mình.
+ Hòa giải cũng không chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ tục tố tụng
pháp lý hay trình tự thủ tục nào mà do các bên tranh chấp tự quyết định và giải
quyết với nhau làm sao cho phù hợp và lợi ích của cả hai bên tham gia. Kết quả
của quá trình hòa giải thành cũng chỉ là sự thỏa thuận của các bên có tranh chấp
và việc thực hiện thỏa thuận này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện
của các bên mà không có bất kỳ một quyết định pháp lý nào. Hiện nay ở Việt
Nam có hai loại hòa giải là (1) hòa giải ngoài tòa án do các trung tâm hòa giải
thành lập tên cơ sở Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại đứng ra
giải quyết theo yêu cầu của các bên và (2) Hòa giải tại tòa án theo Luật Hòa
giải, đối thoại tại tòa án 2020…
1.1.2.3. Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thông
qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ
ba độc lập, có quyền tối cao nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc
đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành và làm theo bản án
đã quyết định. Việc giải quyết tranh tại trọng tài chỉ được tiến hành khi cả hai
bên tranh chấp tự nguyện và thực hiện theo.
Đặc điểm:
Trọng tài thương mại có các đặc điểm sau đây:
+ Trọng tài thương mại còn được xem là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt
động theo pháp luật Việt Nam và quy chế về trọng tài thương mại theo quy định
của pháp luật. Nhà nước không can thiệp quá sâu vào các hoạt động của cơ
quan thương mại trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình đối với
trọng tài thương mại thông qua các hệ thống các quy định pháp luật, cũng như
những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí
12
và cơ sở vật chất…
+ Trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trước
tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Một trong
những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý
chí thỏa thuận của các bên tranh chấp.
+ Pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam
đều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của trọng
tài thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông qua trình tự,
thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại…
+ Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là trọng tài
vụ việc và trọng tài quy chế.
+ Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo
trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào nữa. Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết
có giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết sẽ được chuyển sang
Cơ quan thi hành án
1.1.2.4. Tòa án
Tòa án là một phương thức giải quyết tranh chấp KDTM tại cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục của
pháp luật hiện hành một cách nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định
của tòa án được nhà nước đảm bảo thi hành theo đúng thời gian và đúng quy
định.
Đặc điểm:
+ Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là phương
thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện của một bên, bên tranh chấp
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án theo Bộ luật tố tụng dân sự
13
2015.
+ Tòa án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết
tranh chấp KDTM một cách công khai và minh bạch. Do đó, phán quyết của
Tòa án (bản án hay quyết định) có giá trị bắt buộc thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước không có kháng cáo.
+ Việc giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án phải được tuân thủ một
cách triệt để về trình tự, thủ tục tố tụng theo luật định hiện hành. Thủ tục tố
tụng được áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp KDTM dựa trên nền thủ tục
tố tụng dân sự thông qua quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015. Giải quyết
tranh chấp KDTM có thể thông qua hai cấp xét xử cơ bản nhất là sơ thẩm và
phúc thẩm. Trong nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp KDTM, bản án hoặc
quyết định của Tòa án có thể bị giám đốc thẩm, tái thẩm khi có các căn cứ theo
pháp luật hợp lý để đảm bảo cho phán quyết của Tòa án được chính xác, khách
quan và đúng pháp luật đã ban hành.
+ Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa
số; xét xử theo nguyên tắc công khai trừ trường hợp giữ bí mật nghề nghiệp bí
mật kinh doanh theo yêu cầu chính đáng của các bên thì Tòa sẽ xét xử kín
nhưng tuyên án công khai.
=> Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm được nêu
ra như:
+ Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ, và hiệu lực phán quyết có tính khả
thi áp dụng, ưu điểm cao hơn so với trọng tài. Do là cơ quan xét xử của Nhà
nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành
sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện
sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
+ Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với những thương nhân
14
kinh doanh vi phạm pháp luật.
+ Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các
trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên
thứ ba đến tòa.
+ Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành
chính rất hợp lý.
1.1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại
Tòa án là là cơ quan trung tâm của quyền tư pháp có chức năng giải quyết
các vi phạm pháp luật. Ở Việt Nam, Toà án là một trong những cơ quan thuộc
hệ thống bộ máy nhà nước có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Là cơ quan
thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền lực này
lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của
Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động
và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, Tòa
án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp quy
định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý xã hội, công bằng
đối với các bên chủ thi khi tham gia giariq uyết tranh chấp.
Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định
trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Bên
cạnh đó, với tư cách là một Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án
nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng khi tiến hành
15
giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình. Một số các nguyên tắc
chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử
tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự được dùng tiếng
nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa; .v.v..Trên cơ sở các nguyên tắc
chung này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại được xây dựng
với những đặc thù riêng của mình. Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải
tuân thủ trong hoạt động giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó
là:
-Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở
khả năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương
tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi một cách hợp pháp của mình trước các xâm
hại đến lợi ích của mình. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, BLTTDS
2015. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu giải
quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự
được thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ
sung hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng
cứ và chứng minh; quyền kháng cáo.
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ
bản nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát
từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do
16
kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có
thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy
tắc nhất định của pháp luật. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết
kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh hưởng đến
quan hệ làm ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan
luật pháp là sự lựa chọn cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau.
-Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc
pháp lý cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 16, Hiến pháp 2013 có ghi rõ mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận.
Theo BLTTDS năm 2015 thì các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất
kinh doanh thương mại đều được pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng. Bình
đẳng trong kinh doanh thương mại nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia
vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành nghề, địa điểm kinh doanh, lựa
chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá
trình sản xuất kinh doanh đều bình đẳng theo quy định của pháp luật. Quyền
bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh mà
còn thể hiện khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng tại Tòa án. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình trong quá trình tố tụng.
Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì
nó không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với nguyên tắc này, các tổ chức, các nhân sẽ yên
17
tâm và mạnh dạn hơn trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; từ đó khuyến khích, tạo
động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế;
góp phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh tế - xã hội.
-Nguyên tắc hòa giải
Trong hoạt động thương mại ngày nay, vấn đề xảy ra tranh chấp là điều
không mong muốn của cả cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh và của cả xã
hội. Việc kiện nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột
một cách ổn thỏa sẽ không đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt động, kinh
doanh của các bên, gây ra sự căng thẳng, mất đoàn kết, làm giảm uy tín của các
chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên tắc hòa giải theo
quy định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố
tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án
trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn
một cách ổn thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do hậu quả của các
tranh chấp gây ra.
Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án.
Việc các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng
luôn được Nhà nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của
các đương sự cũng được giải quyết triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và
thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thỏa
thuận đó.
Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra,
trước hết các bên tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được,
các bên mới yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan
tòa án can thiệp, các đương sự vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn,
công nhận của Tòa án. Chỉ khi hòa giải không thành, Tòa án mới đưa vụ việc
18
ra xét xử. Hơn nữa, tại phiên tòa, thẩm phán cũng tạo điều kiện để cho các bên
tranh chấp hòa giải được với nhau (Điều 10, BLTTDS). Khi hòa giải, Tòa án
phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù
hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, trong BLTTDS 2015 cũng quy định những
vụ án dân sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không tiến hành hòa
giải được (Điều 181, 182 BLTTDS).
-Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, công bằng, công khai
Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những
phải đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây
dưa, kéo dài. Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên
tục với mục đích sinh lời của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể
kinh doanh, dường như yếu tố thời gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong
công việc của họ; sự linh hoạt và năng động của môi trường kinh doanh không
cho phép họ lãng phí thời gian. Nhưng khi những tranh chấp ngoài ý muốn phát
sinh thì việc bỏ thời gian để giải quyết chúng để bảo vệ lợi ích của mình là điều
đương nhiên. Do đó, việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, nhanh chóng,
kịp thời là mối quan tâm của hầu hết những người tham gia kinh doanh, đặc
biệt là các đương sự trong các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nguyên
tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời đã được quy định tại khoản 1, Điều
15 BLTTDS 2015 “ Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn do Bộ luật này quy
định, bảo đảm công bằng”
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động
xét xử. Khoản 3, Điều 103, Hiến pháp 2013 có ghi rõ “ Tòa án nhân dân xét xử
công khai”. Theo Điều 15 BLTTDS 2015 thì “Tòa án xét xử công khai ”, công
khai là thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân chủ, công
khai được coi là tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà
19
nước. Tuy nhiên, không phải vụ án nào đưa xét xử công khai cũng đểu đem lại
những tác động tích cực, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng
theo điều đó, BLTTDS quy định “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà
nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ
bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể
xét xử kín”.
Ngoài ra, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát hoạt
động của Tòa án, cơ quan điều tra; điều này sẽ làm cho các chủ thể tham gia tố
tụng nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình; đồng thời nó mang ý
nghĩa giáo dục mọi công dân trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
1.1.4. Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh trong giải quyết tranh chấp
KDTM theo pháp luật tố tụng hiện hành.
Trong quá trình hợp tác kinh doanh, việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp
thương mại là điều không thể tránh khỏi. Hoạt động thương mại với bản chất là
một quan hệ pháp luật dân sự, đề cao tính tự nguyện, sự tự thỏa thuận giữa các
bên. Khi xảy ra tranh chấp, các bên cũng được tự thỏa thuận, thương lượng giải
quyết với nhau. Khi không thể tự giải quyết, một trong các bên có quyền yêu cầu
tòa án giải quyết tranh chấp. Bài viết này phân tích thẩm quyền giải quyết tranh
chấp thương mại của tòa án trong điều kiện mới hội nhập quốc tế.
a. Các vụ việc TCKDTM thuộc thẩm quyền giải quyết tại Tòa án
Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Điều 30. Những tranh chấp về KDTM thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
20
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên
Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty.
Xuất phát từ hoạt động KDTM ngày càng đa dạng, thiết yếu, phức tạp trong
nền kinh tế thị trường phát triển nên khóa có thể liệt kê đầy đủ dược mọi tranh
chấp về KDTM. Các tranh chấp khác về KDTM trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được xác định Tòa án nơi bị đơn
cư trú có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân
sự, kinh doanh thương mại.
+ Thẩm quyền theo loại việc của tòa án
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp về KDTM
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án đã được sửa đổi bổ sung nhằm làm rõ
các tranh chấp về KDTM mại phù hợp với Luật Thương mại, Luật Doanh
nghiệp..., phân biệt giữa tranh chấp thương mại với tranh chấp dân sự. Cụ thể:
- Các tranh chấp về KDTM là những tranh chấp: phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại do luật thương mại điều chỉnh (không liệt kê những
tranh chấp cụ thể như BLTTDS năm 2011).
- Tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong Công
ty Cổ phần (Điều 72 và Điều 161 Luật Doanh nghiệp).
+ Thẩm quyền theo cấp xét xử của tòa án
Thẩm quyền theo cấp xét xử của tòa án là giới hạn do pháp luật quy định để
21
tòa án các cấp thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp thương mại. Thông
thường thẩm quyền của tòa án các cấp được phân chia căn cứ vào giá trị tranh
chấp, tính chất của sự việc và khả năng, điều kiện của từng cấp tòa án.
Về thẩm quyền của tòa án theo cấp, giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản
giữ nguyên như BLTTDS 2011. Đồng thời có sửa đổi bổ sung một số nội dung
như sau:
- Thẩm quyền Tòa án cấp huyện: Chủ yếu giải quyết các tranh chấp
thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm quyền của các tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện: Theo
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân dân cấp huyện
có thể có một số Tòa chuyên trách (Điều 45 Luật Tổ chức tòa án nhân
dân năm 2014) cho nên BLTTDS năm 2015 đã quy định thẩm quyền đối
với tòa chuyên trách của Tòa án nhân cấp huyện đối với việc giải quyết
vụ việc tranh chấp thương mại như sau:
Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những vụ việc về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 30 của BLTTDS
năm 2015; Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách
thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công
Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
cấp huyện.
- Thẩm quyền của các tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa kinh tế Tòa án nhân
dân cấp tỉnh có thẩm quyền:
Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Giải quyết theo
22
thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định kinh doanh, thương
mại chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo,
kháng nghị.
+ Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ
Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ là giới hạn (khả năng) do pháp luật
quy định xác định chức năng giải quyết các vụ việc KDTM của tòa án theo đơn
vị hành chính lãnh thổ. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tòa án
có nghĩa vụ giải quyết các vụ việc KDTM theo yêu cầu của đương sự khi khởi
kiện. Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ được xác định: nơi bị đơn cư trú,
làm việc, có trụ sở; theo sự lựa chọn của đương sự; đối với tranh chấp bất động
sản thì tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi có bất động sản.
+ Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong những trường
hợp này, Điều 40 Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn,
người yêu cầu BLTTDS quy định có thể xác định thẩm quyền của tòa án theo
sự lựa chọn của nguyên đơn.
b. Cách thức xác định thẩm quyền của Tòa án tỉnh trong Bộ luật Tố tụng
Dân sự.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định kinh doanh,
thương mại chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
23
lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy
định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản
2 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh
tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa
án nhân dân cấp huyện.”
Trong những trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy
lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp KDTM thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trường hợp cần thiết là những trường hợp:
-Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
-Vụ án có nhiều đương sự ở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và
xa nhau.
- Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết
vụ án kinh doanh, thương mại, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải
quyết vụ án KDTM, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm
phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế.
Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh
doanh, thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
của tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật
24
tố tụng.
Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân cấp huyện bị
kháng nghị thì Ủy ban Thẩm phán của tòa án cấp tỉnh xem xét và giải quyết
theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
c. Các TCKDTM cụ thể thuộc thẩm quyền của Tòa án Nhân dân cấp tỉnh
trong giải quyết các TCKDTM
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Khái niệm mục đích lợi nhuận được hiểu là mong muốn của cá nhân, tổ
chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu
được lợi nhuận từ hoạt động KDTM đó trên thực tế hay không. Hoạt động kinh
doanh, thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt
động kinh doanh thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh
doanh, thương mại mà còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp sở hữu trí tuệ của Tòa án theo tố tụng dân sự được xác định một cách cụ
thể như sau:
– Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần túy là tranh chấp dân sự không quá
phức tạp và mâu thuẫn nhỏ, thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện;
– Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có
đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài khác quốc gia, thuộc quyền
của Tòa án cấp tỉnh;
– Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
25
tổ chức với nhau mà không có mục đích lợi nhuận thì thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận thì thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Hầu hết các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều vì mục đích lợi
nhuận. Khi thụ lý các vụ án tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, các cấp Tòa án khó
xác định rõ ràng được cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận; căn cứ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn Tòa án có thể xác định được bên bị đơn có mục đích
lợi nhuận, còn nguyên đơn, không xác định được.
+ Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
Tranh chấp giữa các thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, bàn giao tài sản thuộc tranh chấp
về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đối với tranh chấp này
thuộc khoản 3 điều 30 BLTTDS 2015 về Tranh chấp giữa người chưa phải là
thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với
công ty, thành viên công ty. Đây là điều khoản mới so với Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2004. Sự bổ sung này là cần thiết vì tranh chấp trong công ty không chỉ
diễn ra giữa thành viên công ty với công ty hoặc giữa thành viên công ty với
nhau mà còn là tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty với công
ty hoặc với thành viên công ty. Quan hệ giữa người chưa phải là thành viên
công ty với công ty hoặc với thành viên công ty liên quan đến phần vốn góp
không chỉ là các giao dịch mua bán mà còn có các giao dịch khác như thừa kế,
tặng cho, trả nợ bằng phần vốn góp… Do đó, quy định này của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 không bao quát hết các trường hợp qui định tại Điều 54 Luật
Doanh nghiệp năm 2014.
26
+ Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên
Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty.
+ Các tranh chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Theo qui định của khoản này, trừ những qui định tại khoản 1, 2, 3, 4 Điều
30 như trên là thuộc thẩm quyền của Tòa án, thì các tranh chấp khác về KDTM
cũng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. các
tranh chấp về KDTM mà không được qui định tại khoản 1, 2, 3, 4 Điều 30, nếu
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp
luật thì Tòa án sẽ không được thụ lý giải quyết.
1.2. Cách thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.
a. Thương lượng
Thương lượng: là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các
bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát
sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất
kỳ bên thứ ba nào.
- Được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết, không đưa ra tòa án hay trọng
tài thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận với nhau để
giải quyết những bất đồng mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba mà cả
hai bên cảm thấy phù hợp lợi ích của hai bên.
– Quá trình thương lượng giữa các bên không chịu sự ràng buộc của quy
27
định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết.
- Với phương thức này, việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ
thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp
lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình
thương lượng.
b. Hòa giải bắt buộc theo quy trình tố tụng
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại là hình thức bảo vệ lợi ích
hợp pháp bị xâm hại có sự tham gia của hòa giải viên, giúp các bên tranh chấp đạt
được một thỏa thuận, chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thỏa.
Hòa giải trước hết phải là sự thỏa thuận của đương sự và cơ sở của việc
hòa giải là bắt buộc phải gồm 3 yếu tố cơ bản:
+ Giữa các bên liên quan phải có tranh chấp xảy ra.
+ Trong quá trình giải quyết phải có sự tham gia của một bên gọi là bên
thứ ba không có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bên trung lập) để giải thích, tư
vấn và công nhận sự hòa giải thành của các bên trong tranh chấp.
+ Trong quá trình hòa giải bắt buộc phải có sự tham gia của một bên gọi là
bên thứ ba không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (bên trung lập) để giải thích,
tư vấn và công nhận sự hòa giải thành của các bên trong tranh chấp.
Đối với phương thức hòa giải bắt buộc theo thủ tục tố tụng của Tòa án,
đây là hoạt động được thực hiện một cách chủ động bởi các chủ thể tiến hành
tố tụng theo trình tự, thủ tục pháp luật về tố tụng dân sự. Việc hòa giải được
tiến hành theo các nguyên tắc quy định tại Khoản 2 Điều 205 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015, theo đó:
Thứ nhất, hòa giải phải dựa trên sự tôn trọng, sự tự nguyện của các bên,
không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải. Khi các
đương sự đã tự nguyện thỏa thuận tức là các đương sự tự lựa chọn quyết định
28
các vấn đề tranh chấp bằng hòa giải và thương lượng, thỏa thuận với nhau giải
quyết các vấn đề của vụ án để làm sao các bên thấy phù hợp và có lợi cho cả
hai bên.
Thứ hai, hòa giải phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật,
nội dung thỏa thuận không trái với pháp luật, đạo đức xã hội. Tức là ngoài yếu
tố tự nguyện thỏa thuận của các đương sự thì việc tòa án hòa giải còn phải thỏa
mãn các điều kiện: tuân thủ đúng trình tự, thủ tục hòa giải; phạm vi hòa giải theo
pháp luật quy định; nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội, chủ yếu dựa trên trên các thủ tục và quy định của pháp
luật về hòa giải không đi quá xa so với BLTTDS 2015.
Ngoài ra, việc hòa giải phải tích cực, kiên trì nhằm đạt được kết quả hòa
giải. Tích cực để có thể giải quyết được nhanh chóng vụ án, không để việc hòa
giải kéo dài vô ích khi không có khả năng hòa giải nhưng lại phải kiên trì giải
thích cho đương sự hiểu rõ pháp luật áp dụng giải quyết vụ án và đi sâu giải
quyết các mắc mớ trong tâm tư tình cảm của họ.
c. Hòa giải không thành
Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì Tòa án phải lập biên bản hòa giải không thành (trong biên bản
hòa giải phải ghi đầy đủ những nội dung không thỏa thuận được theo quy định
tại Khoản 3 Điều 211 BLTTDS) và ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục chung.
d.Tiến hành giải quyết theo trình tự tố tụng
+ Thủ tục xét xử sơ thẩm:
- Hồ sơ:
Theo Điều 191 BLTTDS 2015, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét
29
đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán
phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ
tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn
quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;
Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho
người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
khác;
Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay
cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng phí
trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Thẩm phán chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu
tiền tạm ứng án phí.
- Thời gian:
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản
cho các đương sự, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc thụ lý vụ án.
Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo
đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.
Theo Điều 203, Điều 205 BLTTDS 2015 thì tùy thuộc vào tính chất của
mỗi vụ việc, thời hạn chuẩn bị xét xử thường kéo dài từ 02 đến 04 tháng.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để
30
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không
được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều
207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa
án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02
tháng.
+ Thủ tục xét xử phúc thẩm:
Theo trình tự giải quyết các tranh chấp dân sự thì cấp phúc thẩm sẽ tiếp tục
giải quyết vụ án khi có kháng cáo của các đương sự. Trường hợp nguyên đơn
hoặc bị đơn kháng cáo, vì có kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét
lại nội dung kháng cáo, tuy thuộc vào nội dung kháng cáo của nguyên đơn hoặc
bị đơn thì Tòa án có thể ra một trong các phán quyết như: Sửa bản án sơ thẩm;
Hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại hoặc bác kháng cáo và giữ nguyên bản
án. Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
Trong trường nguyên đơn hoặc bị đơn không đồng ý với phán quyết của
bản án phúc thẩm thì có quyền làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao xem
xét lại theo trình tự Giám đốc thẩm.
- Hồ sơ:
Người kháng cáo cần chuẩn bị tài liệu, chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu
kháng cáo và đơn kháng cáo đảm bảo các nội dung:
Ngày, tháng, năm làm đơn;
Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử của người kháng cáo;
Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật. Nếu kháng cáo một phần phải ghi rõ đó là phần nào;
Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
31
- Trình tự:
Người kháng cáo nộp hồ sơ kháng cáo đến TAND cấp sơ thẩm đã ra bản
án bị kháng cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm xem xét tính hợp lệ của đơn kháng cáo. Nếu không hợp
lệ thì Tòa án yêu cầu người kháng cáo làm lại, sửa đổi hoặc bổ sung.
Nếu đơn hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho người kháng cáo nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Trong thời hạn 10 ngày, kể ngày nhận được thông báo của Tòa án, người
kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Quá thời hạn này xem như
đã từ bỏ quyền kháng cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho các đương sự có liên quan
đến kháng cáo biét về việc kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu,
chứng cứ bổ sung đi kèm.
Ngay sau khi nhận đủ hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo và các tài liệu kèm theo,
Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành thụ lý.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày thụ lý, Tòa án thông báo cho các đương
sự, Viện kiểm sát cùng cấp biết về việc đã thụ lý bằng văn bản.
Trong thời hạn tối đa 05 tháng, kể từ ngày thụ lý, tùy vào trường hợp cụ
thể, Tòa án có thể đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
+ Thủ tục xét xử giám đốc thẩm:
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về bản chất, thủ tục giám đốc thẩm là một quy trình xem xét lại vụ án,
không phải là một cấp xét xử. Vì vậy, căn cứ phát sinh, trình tự và thẩm quyền
thực hiện cũng có sự khác nhau. Căn cứ theo khoản 2 Điều 326 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015 (BLTTDS 2015), bản án, quyết định của Tòa án bị kháng nghị theo
32
thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực
hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp
pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
- Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết
định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của người thứ ba.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 là những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án đã làm rõ được cơ sở lý luận về việc giải quyết tranh
33
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân. Chương đã nêu được các
khái niệm liên quan và cần thiết, những đặc điểm của tranh chấp kinh doanh
thương mại để người đọc có thể bước đầu hình dung ra vấn đề đang bàn đến,
cùng với đó là các biện pháp giải quyết liên quan khi có tranh chấp kinh doanh,
thương mại xảy ra
Đồng thời, chương 1 cũng nhắc đến các vấn đề lý luận khác về phương
thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án. Nêu được những
nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và
cũng như phạm vi thụ lý, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được giải
quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân nói
chung. Là cơ sở, tiền đề để tác giả nghiên cứu sâu vào thực tiễn tại phạm vi đề
tài hướng tới ở những chương tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH
34
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
2.1. Thực trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn
tỉnh Gia Lai
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Gia Lai
Về điều kiện tự nhiên:
Gia Lai là tỉnh có diện tích lớn thứ 2 Việt Nam, đây là một tỉnh miền núi
nằm ở khu vực phía bắc cao nguyên Trung Bộ thuộc vùng Tây Nguyên Việt
Nam. Tỉnh Gia Lai được tái lập vào ngày 12 tháng 8 năm 1991, Gia Lai - Kon
Tum tách thành hai tỉnh là Gia Lai và Kon Tum, có trên độ cao trung bình 700
- 800 mét so với mực nước biển. Phía đông của tỉnh Gia Lai giáp liền với các
tỉnh là Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Phía tây giáp tỉnh Ratanakiri thuộc
nước Campuchia, có đường biên giới chạy dài khoảng 90 km. Phía nam Gia
Lai giáp với tỉnh Đắk Lắk, và phía bắc của Gia Lai. giáp tỉnh Kon Tum [15]
Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa Cao Nguyên, trong năm chia làm 2
mùa: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10; mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường sơn có lượng mưa trung bình hàng
năm từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm ;
Có nhiều sông hồ với trữ năng lý thuyết khoảng 10,5 đến 11 tỷ kwh, nhiệt độ
trung bình năm từ 220C đến 250C, khí hậu Gia Lai nhìn chung thích hợp cho
việc phát triển cây công nghiệp, kinh doanh tổng hợp nông lâm nghiệp, chăn
nuôi đại gia súc.
Tỉnh có diện tích tự nhiên 15.536,9 km2, với 7 nhóm đất khác
nhau, phù hợp với nhiều loại cây trồng.
Cơ sở hạ tầng: Gia Lai có 90km đường biên giới chung với Campuchia,
có cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh, sân bay pleiku, một số nhà máy thủy điện lớn:
nhà máy thuỷ điện IaLy, Sê san 3A…. đây là điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Gia Lai nằm ở vị trí
35
trung tâm của khu vực, là cửa ngõ đi ra biển của phần lớn các tỉnh trong khu
vực, nên đây là điều kiện để cùng các tỉnh bạn đẩy mạnh hợp tác phát triển và
phát huy các lợi thế vốn có của mình nhằm tăng năng lực sản xuất và hạ tầng
kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo khâu đột phá
để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng hướng, tạo thế cho Gia Lai trở thành
vùng kinh tế động lực trong khu vực thúc đẩy các tỉnh khác trong vùng cùng
phát triển.
Về điều kiện xã hội:
Gia Lai có 17 đơn vị hành chính, bao gồm: Thành phố Plieku, Thị xã An
Khê, Thị xã Ayun Pa và 14 huyện. Thành phố Plieku là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa và là trung tâm thương mại của tỉnh, nơi hội tụ của 2 Quốc lộ chiến
lược của vùng Tây Nguyên là Quốc lộ 14 theo hương Bắc Nam và Quốc lộ 19
theo hướng Đông Tây; là điều kiện thuận lợi để giao lưu phát triển kinh tế - xã
hội với vùng Duyên hải Nam Trung bộ, cả nước và Trung tâm khu vực tam giác
phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia. [15]
Dân số và lao động
Theo báo cáo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh, đến thời điểm 0
giờ ngày 1-4-2019 toàn tỉnh có 1.513.847 người, với 374.512 hộ, là tỉnh đông
dân đứng thứ 2 khu vực Tây Nguyên, đứng thứ 18 trên cả nước. Sau 10 năm,
quy mô dân số của tỉnh tăng thêm 239.435 người, mật độ dân số hiện tại là 98
người/km2, thấp so với mật độ dân số chung của cả nước là 290 người/km2,
thấp so với các tỉnh khu vực Tây Nguyên là 107 người/km2.
Mật độ dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố,
thị xã và các trục đường giao thông như thành phố Plieku. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên giảm nhanh, đến năm 2008 đạt 1,12%. Kết quả trên đã góp phần tích cực
cho công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
36
sống cho nhân dân.
Các đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu trong các làng như làng
Plei Ốp (P. Hoa Lư), Làng Kép (P. Đống Đa), Làng Brúk Ngol (P. Yên Thế),
và một số làng khác. Theo kết quả tổng điều tra dân số 2019, toàn đô thị có
254.802 dân số có hộ khẩu thường trú, trong đó thành thị có 191.684 người,
nông thôn có trên 63.118 người, có 129.000 nam và 125.265 nữ. Tính cả dân
số quy đổi có khoảng 504.984 người.
Giao thông: Hiện có 850 km đường bộ, bao gồm 18.7 km đường bê tông
xi măng, 100.7 km đường bê tông nhựa, 467.8 km đường láng nhựa, 8.5 km
đường cấp phối và 254.3 km đường đất.
Quốc lộ 14 nối về phía bắc đi Kon Tum (49 km), nối với Đà Nẵng. Nối
về phía nam đi Buôn Mê Thuột (182 km), đi Tp Hồ Chí Minh (545 km). Quốc
lộ 19 nối về phía đông đi ra quốc lộ 1, đi Quy Nhơn (166 km). Tỉnh lộ 664 về
phía tây đi huyện Ia Grai, biên giới nước bạn Campuchia.
Sân bay Pleiku (tên cũ là sân bay Cù Hanh) cách trung tâm thành phố
khoảng 5 km đã được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn (A320).
Hiện có các đường bay kết nối Pleiku với Hà Nội (Vietnam Airlines, Vietjet
Air, Bamboo Airways), Thành phố Hồ Chí Minh (Vietnam Airlines, Vietjet
Air, Jetstar Facific, Bamboo Airways), Hải Phòng (Vietjet Air) và Đà Nẵng
(Bamboo Airways).
Về điều kiện kinh tế:
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Gia Lai
có nhiều bước khởi sắc. Là tỉnh có đối tượng chính sách rất nhiều so với các
tỉnh thành khác trong cả nước, với nhiều di sản Văn hóa, nhiều dân tộc anh em
sinh sống. Gia Lai đã từng bước xây dựng cho mình nền kinh tế phát triển ổn
định, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đặc biệt là sự ra
đời của nhiều khu kinh tế đã đi vào hoạt động hiệu quả và nhiều khu kinh tế
37
mới đang triển khai xây dựng. Gia lai đang phấn đầu là đầu tàu kinh tế của tây
nguyên. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Gia Lai có rất nhiều dự án đầu tư còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký khoảng hàng tỷ USD, trong đó có rất nhiều dự án
đang hoạt động; vốn thực hiện đầu tư hàng trăm triệu USD. [2]
Cùng với sự phát triển kinh tế không ngừng, số lượng các đơn vị kinh
doanh hoạt động trên địa bàn Tỉnh cũng tăng lên đáng kể, tăng cả số lượng các
dự án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đến năm 2018, tỉnh Gia Lai có
hơn 10.000 doanh nghiệp trong nước đăng ký kinh doanh với vốn điều lệ
khoảng 250.000 tỷ đồng, hơn 200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn
đăng ký hơn 5 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 2,5 tỷ USD và hơn 200 hợp tác
xã hoạt động kinh doanh. Một số dự án có quy mô đầu tư lớn, có sản phẩm
mang tính chiến lược như các dự án về thủy điện, gỗ, du lịch, công nghiệp ô tô,
sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến nông sản... Phần lớn các doanh
nghiệp triển khai các hoạt động đầu tư có hiệu quả, đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, tăng thu ngân sách địa phương, tạo việc
làm cho hàng vạn lao động, trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế của Tỉnh. Tỉnh cũng đã cấp nhiều giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài với
tổng vốn đầu tư trên 01 tỷ USD. Đến cuối năm 2017, tổng số dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên địa bàn là 95 dự án còn hiệu lực với tổng mức đầu tư hơn
03 tỷ USD. Trong đó có 14 dự án dự án nằm trong các khu công nghiệp với
tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 02 tỷ USD. Đến hết năm 2017, tốc độ phát triển
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng gần 30% so với năm trước, cơ bản hoàn
thành sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. [2]
Hiện nay, tình hình kinh tế trong nước và thế giới tiếp tục có nhiều biến
động phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường đầu vào và đầu ra của các cơ
sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn Tỉnh. Các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị,
dân tộc ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết tranh chấp KDTM. Vì Gia Lai là
38
1 tỉnh của vùng Tây Nguyên nên sản xuất kinh doanh là hoạt động phổ biến
nhất, tạo ra nhiều của cải và và đem lại nhiều lợi ích vật chất nhất cho xã hội.
Xã hội càng phát triển, kinh tế càng phát triển thì các hoạt động kinh doanh,
thương mại cũng phát triển không ngừng kèm theo các mâu thuẫn phát sinh
trong giải quyết tranh chấp KDTM. Những ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp
KDTM:
Khi có mâu thuẫn xảy ra thì các doanh nghiệp tiến hành giải quyết tranh
chấp để bảo vệ quyền lợi của mình thì các hoạt động kinh doanh của họ cũng
phải diễn ra; vừa phải lo giải quyết tranh chấp, vừa phải tiến hành các hoạt động
để đảm bảo cho việc kinh doanh diễn ra bình thường nên chất lượng của hoạt
động sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đó là chưa kể đến việc hậu quả của tranh
chấp có thể làm cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Số lượng các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh quá nhiều,
quá phức tạp, sẽ tạo ra tâm lý ngại đầu tư đối với các doanh nghiệp làm trì trệ
sự phát triển của tỉnh. Với một môi trường kinh doanh luôn có các mâu thuẫn,
tranh chấp tất nhiên sẽ không thể hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn ra; và điều này
đồng nghĩa với việc hạn chế nền kinh tế của tỉnh phát triển.
Tỉnh Gia Lai là 1 trong những tỉnh có dân tộc thiểu số nhiều nên sự hiểu
biết về tranh chấp kinh doanh còn hạn chế nên đã xảy ra mâu thuẫn vì vậy
không ít các tranh chấp đã phát sinh do sự thiếu hiểu biết về pháp luật kinh
doanh của các bên tham gia.
2.1.2. Thực trạng và nguyên nhân tranh chấp kinh doanh thương mại
trên địa bàn tỉnh Gia Lai
2.1.2.1. Thực trạng tranh chấp KDTM trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Do việc tham gia vào hoạt động kinh doanh, thương mại còn khá mới mẻ
nên các cá nhân, doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong việc nắm rõ các quy
định của pháp luật về hoạt động kinh doanh. Vì vậy không ít các tranh chấp đã
39
phát sinh do sự thiếu hiểu biết về pháp luật kinh doanh của các bên tham gia,
như trường hợp vụ giữa nguyên đơn Công ty TNHH thương mại - Chế biến
nông lâm sản - Đường Vạn Phát và bị đơn ông Kpă Bin : [10]
Vào ngày 17/4/2012 giữa nguyên đơn là Công ty TNHH thương mại -
Chế biến nông lâm sản - Đường Vạn Phát ( sau đây gọi là Công ty) và ông Kpă
Bin có ký kết hợp đồng đầu tư số 87/ĐB/HĐĐT - MNL niên vụ 2012 – 2013
trồng và mua bán mía nguyên liệu (3vụ) từ năm 2012 đến năm 2015. Theo hợp
đồng ký kết thì ông Bin có cam kết trồng 04ha mía và bán cho Công ty 200 tấn
mía nguyên liệu khi đến mùa thu hoạch, còn phía Công ty có nghĩa vụ đầu tư
cho ông Bin giống mía, phân bón, tiền mặt,… đảm bảo đầy đủ các điều kiện tốt
nhất cho ông Bin có thể trồng và thu hoạch cây mía đúng niên vụ, hai bên cũng
thỏa thuận về thời hạn thanh toán, lãi suất, cũng như điều khoản phạt hợp đồng
nếu có vi phạm, hai bên thống nhất ký kết và hạn thanh toán cuối cùng là ngày
30/4/2013.
Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty đã làm đúng cam kết như: cung
cấp số lượng giống mía đúng số lượng và chất lượng; cung cấp phân bón, tiền
mặt tính đến ngày 23/02/2013 ông Bin đã nhận nhiều lần tổng cộng là
93.028.000đ tiền gốc và 9.313.000đ tiền lãi. Sau đó ông Bin có bán cho Công
ty 03 xe mía nguyên liệu trị giá 56.276.000đ, đồng thời Công ty cũng đã tính
lãi số tiền đầu tư theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, như vậy tính
đến ngày 25/02/2013 ông Bin còn nợ lại Công ty số tiền gốc là 46.065.000đ.
Bởi không hiểu rõ pháp luật kinh doanh thương mại, ông Bin vi phạm
hợp đồng ký kết. Sau khi thu hoạch mía nguyên liệu ông Bin chỉ bán cho Công
ty 66.207kg trong khi theo hợp đồng ký kết thì ông Bin phải bán cho Công ty
200 tấn (200.000kg), số lượng mía nguyên liệu còn lại ông Bin đã bán cho nhà
máy Nhiệt điện Ayun Pa. Ông Bin cho rằng do phía nguyên đơn không đầu tư
kịp thời và đúng thời vụ khiến ông bị thất thu sản lượng và ông đã có bán cho
40
nguyên đơn 03 xe mía nguyên liệu rồi. Và chính từ những hạn chế về pháp luật
kinh doanh nên những phản hồi của ông Bin là không có căn cứ, xem xét vụ
việc theo đúng quy định tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã buộc ông Kpă Bin phải
trả cho Công ty TNHH thương mại – Chế biến Nông lâm sản - Đường Vạn Phát
do bà Bùi Thị Quy làm giám đốc số tiền 57.397.078đ
2.1.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp
Từ năm khi thành lập đến nay, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai đã thụ lý và giải quyết hàng trăm vụ án kinh doanh, thương mại. Các vụ
tranh chấp xảy ra liên quan đến nhiều mối quan hệ kinh doanh, thương mại
khác nhau như trong mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ; các vấn đề liên quan
đến tín dụng; .v.v.. Nhưng cho dù, các tranh chấp đó là gì, trong quan hệ kinh
doanh, thương mại nào thì cũng xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản khác
nhau. Từ thực tiễn các vụ tranh chấp KDTM được giải quyết tại Tòa kinh tế -
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, nhận thấy có một số nguyên nhân phổ biến sau:
- Các cá nhân, doanh nghiệp chưa hiểu rõ về pháp luật kinh doanh
Gia Lai là một tỉnh còn nghèo, tình hình kinh tế xã hội chỉ mới trên đà
phát triển trong mấy năm trở lại đây. Trước kia, việc thành lập doanh nghiệp
hay việc các cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại là điều quá khó
khăn. Muốn hoạt động kinh doanh, trước tiên phải có vốn, nhưng với nền kinh tế
còn quá nhiều hạn chế thì các cá nhân, tổ chức có nhu cầu trên địa bàn không thể
tự mình đứng ra kinh doanh, mà hầu hết các doanh nghiệp trước kia hoạt động tại
Tỉnh là các doanh nghiệp từ địa phương khác đến đầu tư. Với sự quan tâm của
Nhà nước, sự ra đời của nhiều khu công nghiệp có thể coi là một trong những nhân
tố đầu tiên tác động đến quá trình phát triển kinh tế của Gia Lai.
- Các cá nhân, doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật kinh doanh
Mục tiêu lợi nhuận là điều mà doanh nghiệp, các chủ thể tham gia kinh
doanh quan tâm nhất. Làm thế nào để hoạt động kinh doanh của mình sinh lời
41
tối đa với chi phí hợp lý luôn tạo ra động lực, thúc đẩy các đơn vị kinh doanh
đầu tư sản xuất đem lại hiệu quả tối ưu nhất. Những doanh nghiệp có năng lực
sản xuất mạnh, việc tìm kiếm lợi nhuận của họ khá dễ dàng; họ nhanh chóng
tìm được chỗ đứng trên thị trường; khẳng định uy tín trong kinh doanh; góp
phần làm giàu cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có không ít các doanh nghiệp
với năng lực còn hạn chế, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đem lại chưa
nhiều, doanh nghiệp khó cạnh tranh được trên thị trường; thậm chí một số
doanh nghiệp còn bị phá sản. Lợi nhuận là mục tiêu sống còn đối với hầu hết
các doanh nghiệp, chính vì vậy vẫn có tình trạng các doanh nghiệp làm ăn gian
dối, vi phạm luật pháp trong kinh doanh, gây ra thiệt hại cho các bên liên quan
và cho xã hội.
Bên cạnh việc thiếu hiểu biết pháp luật thì ý thức của các doanh nghiệp
cũng là nguyên nhân làm tranh chấp KDTM phát sinh. Hay nói cách khác, đạo
đức kinh doanh là một trong những yếu tố tạo ra môi trường kinh doanh cạnh
tranh công bằng, lành mạnh.
- Trình độ quản lý doanh nghiệp còn kém
Đối với một số doanh nghiệp Nhà nước, việc phân cấp trên dưới, ngang
dọc chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành
cùng quản lý, công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây nhiều phiền hà cho
doanh nghiệp hoạt động. Tổ chức quản lý cồng kềnh, nhiều thủ tục khiến cho
các doanh nghiệp nhà nước không thể năng động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời
nhu cầu của thị trường. Đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước, năng lực
quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng còn là vấn đề cần quan tâm. Có những
tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra một phần là do năng lực quản lý
doanh nghiệp yếu kém, dẫn đến tình trạng kinh doanh không có lãi nên phải đi
vay vốn ngân hàng nhưng hiệu quả sử dụng vốn không cao, không đáp ứng
được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì vậy tranh chấp đã
42
xảy ra do doanh nghiệp không trả được nợ cho đối tác, không trả được vốn vay
cho Ngân hàng; một số doanh nghiệp còn lâm vào tình trạng phá sản như : Theo
quyết định mở thủ tục phá sản số 04/2006/QĐ-MTTPS ngày 26/12/2006 đối
với Công ty Xuất nhập khẩu; Quyết định mở thủ tục phá sản số 05/2006/QĐ-
MTTPS NGÀY 31/10/2006 đối với Công ty thương mại xuất nhập khẩu tỉnh
Gia Lai; Quyết định mở thủ túc phá sản số 02/2009/QĐ-MTTPS ngày
30/9/2009 đối với Công ty xây dựng công trình giao thông 506 và Công ty xây
dựng kinh tế thanh niên Xung phong Gia Lai có Quyết định mở thủ tục phá sản
từ năm 2013 theo Luật phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của tranh chấp kinh doanh, thương mại đến môi
trường kinh doanh trên địa bàn tỉnh
Bất cứ khi nào có tranh chấp phát sinh, cho dù tranh chấp đó thuộc loại
nào, xuất phát từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì đều gây ra những tác động
tiêu cực đến các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như trong xã hội. Tranh
chấp kinh doanh, thương mại cũng không phải là ngoại lệ mà nó còn là loại
tranh chấp có ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến tình hình ổn định, phát triển xã
hội, phát triển kinh doanh sản xuất của các chủ thể trong nền kinh tế. Vì hoạt
động sản xuất kinh doanh là hoạt động phổ biến nhất, tạo ra nhiều của cải và
và đem lại nhiều lợi ích vật chất nhất cho xã hội. Xã hội càng phát triển, kinh
tế càng phát triển thì các hoạt động kinh doanh, thương mại cũng phát triển
không ngừng. Ở đâu có lợi ích tất yếu ở đó có mâu thuẫn, mà biểu hiện của
mâu thuẫn ở đây chính là những tranh chấp trong các mối quan hệ hoạt động
kinh doanh; những tranh chấp kinh doanh, thương mại. Khi các tranh chấp này
xảy ra, nó mang lại những hậu quả cũng như tác động không mong muốn cho
nền kinh tế. Riêng đối với tỉnh Gia Lai, qua thực tế cho thấy, môi trường kinh
doanh trên địa bàn chịu một số ảnh nhất định từ các tranh chấp kinh doanh,
thương mại như sau:
43
- Thiệt hại cho chính bản thân doanh nghiệp và sự phát triển của toàn tỉnh.
Mỗi một tranh chấp phát sinh sẽ gây ra những tác động không mong
muốn đến nền kinh tế. Những tác động đó ảnh hưởng đến nhiều thành phần,
nhiều đối tượng kinh tế khác nhau; nhưng đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất
và rõ nét nhất những tác động đó là chính bản thân doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức trực tiếp tham gia vào mối quan hệ kinh doanh làm phát sinh tranh chấp.
Kinh tế ngày càng phát triển, chính vì vậy giá trị của các khoản đầu tư cho hoạt
động sản xuất kinh doanh ngày càng lớn; có những vụ mà giá trị tranh chấp lên
đến hàng chục tỷ đồng. Khi doanh nghiệp, tổ chức liên quan đến các tranh chấp
kinh doanh, thương mại; hoạt động kinh doanh của bản thân các doanh nghiệp
sẽ bị ảnh hưởng đáng kể; người quản lý, những người có trách nhiệm đối với
doanh nghiệp sẽ bỏ nhiều thời gian, công sức và tiền bạc cho các hoạt động
nhằm giải quyết tranh chấp. Cho dù doanh nghiệp thắng kiện hay thua kiện thì
chi phí mà họ bỏ tra cho vụ tranh chấp là điều tất yếu. Trong các chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra thì chi phí thời gian là quan trọng nhất đối với họ. Khi các
doanh nghiệp tiến hành giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi của mình thì
các hoạt động kinh doanh của họ cũng phải diễn ra; vừa phải lo giải quyết tranh
chấp, vừa phải tiến hành các hoạt động để đảm bảo cho việc kinh doanh diễn
ra bình thường nên chất lượng của hoạt động sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Đó là chưa kể đến việc hậu quả của tranh chấp có thể làm cho doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản.
- Không khuyến khích được các chủ thể đầu tư, làm trì trệ sự phát triển
kinh tế của tỉnh
Việc phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn
có thể coi là một trong những điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh. Với tiềm năng như hiện nay của kinh tế Gia Lai thì việc thu hút
nhiều nhà đầu tư sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức của tỉnh phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của cả
44
nước. Chính vì thế, việc hạn chế các tranh chấp xảy ra trong kinh doanh là điều
cần thiết để đảm bảo môi trường kinh doanh trong sạch của Tỉnh, như vậy mới
khuyến khích được các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào kinh tế Gia Lai, tăng
nguồn thu cho ngân sách Tỉnh, góp phần đẩy mạnh kinh tế, tạo ra một “sân
chơi” kinh doanh uy tín và lành mạnh cho mọi chủ thể.
Kinh doanh thương mại luôn là động lực cho xã hội phát triển ở bất cứ
thời kỳ nào; tranh chấp trong hoạt động này nảy sinh sẽ làm mất cân bằng phát
triển kinh tế và ổn định xã hội. Các doanh nghiệp luôn xem xét và cân nhắc về
môi trường hoạt động trước khi đưa ra quyết định có đầu tư hay không; nếu số
lượng các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh quá nhiều, quá phức
tạp, sẽ tạo ra tâm lý ngại đầu tư đối với các doanh nghiệp. Với một môi trường
kinh doanh luôn tìm ẩn các mâu thuẫn, tranh chấp tất nhiên sẽ không thể hấp
dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn ra; và điều này đồng nghĩa với việc hạn chế nền kinh
tế của tỉnh phát triển.
2.2. Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai
2.2.1. Một số vụ việc điển hình trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của TAND tỉnh Gia Lai
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai hoạt động đáp ứng được nhu cầu giúp các
doanh nghiệp giải quyết tranh chấp, hạn chế tối thiểu thiệt hại cho chính bản
thân doanh nghiệp và cho sự phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, trong những
năm đầu khi mới thành lập, số lượng các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại
đưa đến Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết không nhiều. Nguyên nhân
trước tiên là do tình hình kinh tế của tỉnh chưa mấy phát triển, số lượng doanh
nghiệp còn ít, hoạt động sản xuất còn yếu kém nên tranh chấp ít xảy ra; hơn
nữa, do thiết chế giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường
Tòa án còn nhiều mới mẻ, các doanh nghiệp chưa quen với việc kiện ra tòa.
45
Mặt khác, nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa sang nền kinh tế thị trường nên thành phần chủ yếu là các doanh nghiệp
Nhà nước và các đơn vị kinh tế tập thể.
Các loại tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Tỉnh Gia Lai
thường là các tranh chấp hợp đồng tín dụng được xác lập giữa tổ chức tín dụng
với cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận theo
điều 30 BLTTDS 2015:
+ Tranh chấp phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ của các bên trong quá
trình thực hiện hợp đồng.
+Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng tín dụng.
+ Tranh chấp phát sinh trong việc xử lý tài sản bảo đảm của hợp đồng
tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
+ Tranh chấp phát sinh từ chính sách pháp luật giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng.
Ngoài ra còn có tranh chấp phát sinh khi mua bán hàng hóa, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản đã dược TAND Tỉnh Gia Lai xét xử. Về yêu cầu phá sản
doanh nghiệp, theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1994, Tòa kinh tế thụ lý
giải quyết 1 vụ. Năm 2004, Luật Phá sản mới được ban hành, Tòa kinh tế thụ
lý giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 5 vụ. Phần lớn các vụ phá sản đều
rất phức tạp, số chủ nợ và con nợ lên đến hàng chục đơn vị và cá nhân, nằm rải
rác, có nhiều doanh nghiệp tuyên bố phá sản có số nợ lên hơn 100 tỷ đồng ( Hồ
sơ lưu trữ của Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai). Việc thu hồi nợ gặp
rất nhiều khó khăn do Luật phá sản điều chỉnh còn nhiều vướng mắc, bất cập,
chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan thi hành án trong quá trình tiến hành
thủ tục phá sản.
Từ khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực từ ngày 1/1/2005, theo quy định
của Bộ luật thì phạm vi giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
án nhân dân tỉnh Gia Lai được mở rộng hơn so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết
46
các vụ án kinh tế. Do vậy, số lượng các vụ tranh chấp cần giải quyết tăng nhanh
qua từng năm. Sự phát triển kinh tế của tỉnh Gia Lai đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động kinh doanh đầu tư trên địa bàn. Cùng với sự thông thoáng
của các quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp giúp cho hàng ngàn doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ra đời. Các quan hệ kinh tế ở
địa phương trở nên đa dạng hơn và phức tạp hơn. Những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các đơn vị kinh doanh phát sinh ngày càng nhiều. Và khi không tự giải
quyết được các tranh chấp, các doanh nghiệp phải đưa đến Tòa án giải quyết.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường Tòa án ngày
càng trở nên quen thuộc với các đơn vị kinh doanh. Cụ thể ta có thể thấy sự tin
nhiệm giải quyết bằng con đường Tòa án như thế nào qua bảng số liệu thống
kê lấy từ năm 2012 đến 2017 sau:
Số vụ án thụ lý/ năm
250
200
150
100
50
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Số vụ
96
102
146
139
152
194
Biểu đồ số liệu thụ lý giải quyết án KDTM tại TAND tỉnh Gia Lai. [11]
Qua biểu đồ thống kê cho thấy, thực trạng thụ lý vụ án của Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai có biến động. Năm 2012 Tòa thụ lý 96 vụ, đến năm 2013 có
47
tăng nhẹ là 102 vụ, đến năm 2014 tăng 44 vụ, nhưng đến năm 2015 giảm với
139 vụ, các năm còn lại tăng lên cần lượt là 152, 194 vụ trong năm 2016 và 207.
Đặc biệt năm 2017 có dấu hiệu tăng nhanh. Nhìn chung quá các năm tình hình thụ
lý của Tòa có xu hướng tăng thể hiện được tình hình kinh tế, thực trạng tranh chấp
cũng như sự tín nhiệm của các chủ thể đối với phương pháp giải quyết bằng con
đường Tòa án ngày càng nhiều.
Chức năng xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai đã được pháp luật quy định cụ thể.. Trong thực tiễn hoạt động, có
nhiều nhân tố tác động đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và
tình trạng xét xử oan sai vẫn còn tồn tại. Chính vì thế, cần có những biện pháp nhằm
khắc phục những hạn chế trong hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp, làm
giảm tối đa những oan sai, đem lại sự công bằng cho các chủ thể kinh doanh và cho
xã hội. Những phán quyết trong quá trình hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai chịu ảnh hưởng của cả các yếu tố tích cực và không tích cực.
Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù
hợp với thực tiễn làm cơ sở cho các Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử các vụ
KDTM.
Hơn nữa, để đạt đươc hiệu quả trong hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai, không thể không kể đến sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Họ đã nhận
thức đúng đắn vai trò của Tòa án trên địa bàn Tỉnh, gắn việc giữ gìn ổn định trong
môi trường kinh doanh với việc phát triển kinh tế. Từ đó, chính quyền địa phương
đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho hoạt động của Tòa án nói chung và Tòa
kinh tế nói riêng.
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn các cán bộ làm công tác xét xử ngày càng
được chuẩn hóa. Việc bổ nhiệm vào chức danh Thẩm phán ít nhất phải có bằng cử
nhân luật, có kinh nghiệm công tác và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ. Trong
quá trình bổ nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cũng được quan tâm đúng mức để đảm
bảo những người làm công tác pháp luật vừa có chuyên môn, vừa có phẩm chất đạo
48
đức tốt, như vậy sẽ tạo được lòng tin và sự tôn trọng của mọi người. Và với trình
độ dân trí ngày càng được nâng cao, đòi hỏi các cán bộ của Tòa phải triệt để tuân
theo pháp luật, hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai xảy ra.
Kết quả hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai trong những năm
qua cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đang dần
trở nên quen thuộc đối với các chủ thể khi có phát sinh tranh chấp trong hoạt
động kinh doanh, thương mại. Tuy còn gặp không ít những khó khăn về sơ sở
vật chất cũng như trình độ chuyên môn của các thẩm phán, nhưng với những
gì đạt được đã khẳng định sự kịp thời và đúng đắn khi thiết lập một Tòa chuyên
trách trong hệ thống Tòa án nhân dân, đảm bảo hoạt động giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Việc thành lập Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai với việc giải quyết hàng loạt các tranh chấp kinh doanh, thương
mại phát sinh trên địa bàn tỉnh thực sự đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng môi
trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh và ổn định, giúp cho nền kinh tế của tỉnh
thu hút được khá nhiều các dự án đầu tư, kinh doanh.
Sự phát triển kinh tế của tỉnh trong nhiều năm trở lại đây đã có tác động tích
cực đến công tác giải quyết tranh chấp KDTM bằng con đường tòa án. Số lượng
các tranh chấp KDTM ngày không ngừng gia tăng. Từ 01/1/2012 đến 31/12/2017,
số lượng án kinh doanh, thương mại mà Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia lai
giải quyết là 829 vụ; trong đó, phần lớn là các tranh chấp về hợp đồng tín dụng,
chiếm tỷ lệ 64,7%; các tranh chấp về mua bán tài sản, liên kết kinh doanh, gia công
49
hàng hóa, chiếm tỷ lệ 35,3%.
Tranh chấp
35,3%
Hợp đồng tín dụng
64,7%
Mua bán tài sản, liên kết kinh doanh, gia công hàng hóa
Biểu đồ phần trăm các tranh chấp của tranh chấp KDTM tại TAND
tỉnh Gia Lai [11]
Từ biểu đồ phần trăm các tranh chấp của tranh chấp KDTM tại TAND
tỉnh Gia Lai, người đọc sẽ tò mò về tình hình kinh doanh thương mại tại tỉnh
Gia Lai hơn, sẽ đặt ra câu hỏi vì sao, tại sao trên địa bàn này lại có số phần trăm
tranh chấp hợp đồng tín dụng cao như vậy? các tranh chấp khác như mua bán
tài sản, liên kết kinh doanh…ít tranh chấp? Thực ra, với tình hình đang phát
triển mạnh mẻ như đã phân tích thì các loại tranh chấp đều diễn ra rất sôi nổi,
tuy nhiên hợp đồng tín dụng lại tranh chấp nổi lên mạnh mẻ hơn. Bởi với những
điểu kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội như vậy Gia Lai cần rất nhiều nguồn vốn để
thực hiện dự án trên điều kiện sẵn rất thuận lợi ấy nên dẫn đến hợp đồng tín
dụng được phát triển và phần trăm tranh chấp cũng kéo theo.
Đa số các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đều được thụ lý và giải quyết nhanh chóng,
đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Nếu trước đây các doanh nghiệp còn e dè
khi giải quyết mâu thuẫn trong kinh doanh bằng còn đường Tòa án, thì hiện nay,
50
Tòa án là sự lựa chọn của hầu hết các đơn vị kinh doanh khi phát sinh tranh chấp.
Điều này chứng tỏ nhờ đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong giải
quyết các xung đột lợi ích, Tòa kinh tế đã ngày tạo được lòng tin nơi các chủ thể
đối với sự công bằng trong pháp luật kinh doanh.
Cũng như tình hình tranh chấp dân sự, các tranh chấp KDTM xảy ra yêu
cầu Tòa án giải quyết do ảnh hưởng của tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu. Chủ
yếu là tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng tín dụng; tranh chấp
hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng liên kết kinh doanh, hợp đồng gia công hành
hóa; tranh chấp về hợp đồng đại lý;…; tập trung ở các huyện, thị xã, thành phố
trong tỉnh như: huyện Chư Sê, Huyện Chư Pưh, huyện Ia Grai, thị xã An
Khê,Thành phố Pleiku.. Trong đó có nhiều vụ tranh chấp với giá trị tài sản rất lớn,
gây ra ảnh hưởng mang tính dây chuyền đối với các đơn vị kinh doanh trên địa
bàn tỉnh, như vụ “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và tranh chấp hợp đồng thế chấp
tài sản” giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội với Công ty thương mại
Thăng Long TNHH. [10]
Ngày 13/9/2011, Ngân hàng TMCP Quân đội và Công ty TM Thăng
Long TNHH đã cùng ký hợp đồng tín dụng hạn mức số 06.11.GLA.912538.TD
với nội dung: Ngân hàng Quân đội cho Công ty Thăng Long vay số tiền hạn
mức 60.000.000.000đ, thời hạn giải ngân kể từ ngày ký Hợp đồng tín dụng đến
1/8/2012, phương thức trả nợ: Gốc lãi trả hàng tháng theo số dư nợ thực tế, mục
đích vay vốn: Bổ sung vốn lưu động kinh doanh hàng nông sản năm 2011-2012.
Để đảm bảo cho khoản vay thì ông Phạm Đức Thuận đã đưa 02 tài sản thuộc sở
hữu của mình thế chấp là 02 Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Việc
thế chấp 02 tì sản trên được Ngân hàng Quân đội, Công ty Thăng Long và ông
Phạm Đức Thuận lập thành Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số
06.11.GLA.912538.TC01 ngày 13/9/2011, được công chứng tại Phòng công
51
chứng số 4, Tp. Hồ Chí Minh.
Sau khi ký kết Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba và Hợp đồng
tín dụng nêu trên, Ngân hàng Quân đội đã giải ngân cho Công ty Thăng Long
vay bằng Khế ước nhận nợ. Đến ngày 31.12.2014 thì Công ty Thăng Long còn
nợ 31.349 USD tương đương 10.326.735.045 VNĐ. Tại phiên tòa đại diện
nguyên đơn yêu cầu: Buộc Công ty Thăng Long trả ngay cho Ngân hàng Quân
đội tổng cộng số tiền tính đến ngày 15/7/2015 là 11.118.257.413đ; buộc Công
ty Thăng Long thanh toán cho Ngân hàng số tiền lãi phát sinh cho đến khi thanh
toán xong toàn bộ khoản nợ; yêu cầu khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp
luật mà Công ty Thăng Long không thực hiện được Nghĩa vụ trả nợ thì Ngân
hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông Phạm Đức Thuận để thu hồi nợ.
Và tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 15/2015 ngày 17/5/2015 của
Tòa án nhân dân thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai xử chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, buộc Công ty Thăng
Long mà đại diện là ông Phạm Tiến Thành thanh toán cho Ngân hàng TMCP
Thăng Long tính đến ngày 15/7/2015 là 11.118.257.413đ. Sau khi xem xét, căn
cứ vào khoản 1 Điều 275 BLTTDS thì Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết
định giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 15/2015 ngày
17/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai.
Giá trị của các tranh chấp thường vào khoảng vài trăm triệu, cho nên các
vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại phần lớn được giải quyết bởi Tòa kinh
tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai hơn là Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố.
Về chất lượng xét xử, trong khi các vụ án kinh doanh, thương mại không
ngừng gia tăng về mặt số lượng nhưng chất lượng xét xử nhìn chung vẫn còn
thấp. Số vụ án do Tòa án cấp Tỉnh xét xử sơ thẩm bị Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao hủy và sửa cũng còn nhiều. Do chất lượng xét xử các vụ án
52
kinh doanh, thương mại còn nhiều hạn chế nên yêu cầu cấp bách là phải nâng
cao hơn nữa chất lượng xét xử để đảm bảo tính công bằng, tạo được niềm tin
nơi các doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
Một vấn đề thường gặp nữa trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của Tòa án nếu không xem xét kỹ cũng rất dễ bị hủy án, đó là vấn
đề xác định tư cách người tham gia tố tụng và đưa ra phán quyết sai trong vụ
án. Điển hình vụ án:
Theo hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 01/2008/HĐ ngày 30/01/2008, anh
Ngô Văn Hiệu(con trai bà Mua) vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
250.000.000 đồng và được bà Mua ủy quyền thế chấp tài sản là quyền sử dụnn
ngàyg đất là 142 m2 tọa lạc tại số 916 Quang Trung, thị xã An Khê, tienh Gia
Lai, tài sản gắn liền với đất là nhà ở, diện tích 97,3 m2. Do anh Hiệu vi phạm
nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án.
Ngày 22/11/2010, Tòa án Tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của đương sự số 51/2010/QĐST-KDTM, theo đó Tòa án buộc
anh Hiệu phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền là 351.065.000 đồng, nếu anh
Hiệu không thanh toán số nợ trên thì phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Đến ngày 31/12/2008, bà Mua ký hợp đồng tín dụng số 6990/HĐTD vay
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh Gia Lai
số tiền 120.000.000 đồng. Bà Mua lại đem một phần tài sản của anh Hiệu thế
chấp nêu trên để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho khoản vay này. Cac hợp đồng thế
chấp đều được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo qui định pháp
luật. Khi đến thời hạn trả nợ nhưng bà Mua không có khả năng trả nên Ngân
hàng khởi kiện yêu càu Tòa án buộc bà Mua trả nợ. nếu bà Mua không thanh
toán số tiền nợ trên thì đề nghị được phát mãi tài sản thế chấp.
Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
13/2012/QĐST-KDTM ngày 30/3/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết
53
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: “1. Bà Nguyễn Thị
Hồng – đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Nguyễn Thị Mua và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Ngô Văn Hiệu còn nợ Ngân hàng số tiền
tính tới ngày 22/3/2012 là 185.497.000 đồng gồm nợ gốc là 120.000.000 đồng;
nợ lãi tiền vay tính tới ngày 22/3/2012 (ngày hòa giải) là 65.497.000 đồng. 2.
Hai bên đã thống nhất phương án trả nợ, cụ thể:
- Từ ngày 22/3/2012 đến hết ngày 22/4/2012 bà Mua có trách nhiệm
thanh toán toàn bộ số nợ 185.497.000 đồng cho Ngân hàng. Trường hợp bà
Mua vi phạm thời gian trả nợ như đã cam kết nêu trên thì Ngân hàng có quyền
đề nghị cơ quan Cục thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai xử lý tài sản mà bị đơn -
bà Mua đã thế chấp để thu hồi nợ....”
Ngày 30/10/2014, vợ chồng ông Ngô Văn Phải, bà Phạm Thị Tâm có
đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự nói trên vì trên đất mà bà Mua, anh Hiệu đem
thế chấp vay tiền tại Ngân hàng có nhà, đất của ông, bà; nhưng Tòa án không
đưa ông, bà vào tham gia tố tụng và quyết định dùng cả nhà, đất của ông bà để
bảo đảm thi hành án cho các khoản bà Mua, anh Hiệu vay nợ Ngân hàng là
không đúng. Tại Quyết định số 17/2015/KN-KDTM ngày 30/3/2015, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự số 13/2012/QĐST-KDTM ngày 30/3/2012 của Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai; đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao (nay thuộc thẩm
quyền xét xử của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) xét
xử giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
số 13/QĐST-KDTM ngày 30/3/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về phần
quyết định xử lý tài sản thế chấp của bà Mua; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại phần quyết định đó theo đúng qui định của
pháp luật. Do trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ
54
biến động về diện tích đất và nhà từ khi bà Mua nhận chuyển nhượng và đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay để xác định có đúng
trên thực tế có 02 ngôi nhà như ông Phải khai hay không? Đồng thời, Tòa án
cũng chưa làm rõ việc bà Mua (dùng một phần tài sản đã được ông Hiệu thế
chấp trước để bảo đảm cho một khoản vay tại Ngân hàng để thế chấp bảo đảm
khoản vay tại Ngân hàng Nông nghiệp thì có thông báo cho 02 Ngân hàng biết
không và 02 Ngân hàng có ý kiến đồng ý bằng văn bản hay không là không
đúng với quy định tại Điều 4 Hợp đồng thế chấp số 01 ngày 30/01/2008; Điều
17 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng Nhà
nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng và khoản 2 Điều 324 Bộ luật dân sự.
Thực tế thì cả 02 Ngân hàng và ông Hiệu đều thừa nhận là không biết
việc này. Như vậy, việc Tòa án khi giải quyết vụ án này, không đưa hai Ngân
hàng, ông Phải, bà Tâm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan để giải quyết triệt để cùng một vụ án là không đúng; làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng và gây khó khăn cho
việc thi hành án. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã
chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy toàn bộ Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai về phần quyết định xử lý tài sản thế chấp của bà Mua; giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại với những lý do trên để đảm
bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên đương sự.
Kể từ khi thành lập, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã giải quyết được một
lượng án KDTM tương đối nhiều. Với những gì đã đạt được, hoạt động của
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai góp phần ổn định và làm lành mạnh các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh, đồng thời tạo được niềm tin cho các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
55
địa phương.
2.2.1. Đánh giá về hoạt động giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án
Nhân Dân tỉnh Gia Lai.
2.2.2.1. Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai
So với những năm trước; năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã có
nhiều cố gắng để khắc phục những thiếu sót cũng như rút kinh nghiệm trong hoạt
động xét xử án kinh doanh, thương mại của mình. Chất lượng xét xử được nâng
cao, việc giải quyết các tranh chấp đã nhanh hơn trước đây rất nhiều. Bên cạnh nỗ
lực đáng biểu dương về việc đẩy nhanh tiến độ xét xử, Toà vẫn còn tồn tại những
hạn chế như còn án bị hủy, bị sửa vì đánh giá chứng cứ không đầy đủ, xác định
sai thẩm quyền xét xử, có sự nhầm lẫn trong xác định các quan hệ tranh chấp…
Ngoài những ưu điểm và các kết quả đạt được trong công tác xét xử các tranh chấp
kinh doanh, thương mại của mình, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, qua
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và kiểm tra giám đốc án cho thấy công tác giải
quyết xét xử án KDTM của Tòa kinh tế vẫn còn một số các hạn chế, tồn tại sơ bản
sau đây:
- Án kinh doanh, thương mại đã giải quyết, xét xử có kháng cáo, kháng
nghị, Tòa phúc thẩm xét xử đã bị Tòa cấp cao hủy án, bị sửa án một số vụ.
Ví dụ điển hình là vụ “Tranh chấp hợp đồng mua bán gỗ” giữa nguyên
đơn Công ty TNHH Quốc Vỹ và bị đơn Công ty CP Đức Cường: Tháng 2/2012,
Công ty CP Đức Cường thỏa thuận bán gỗ cho Công ty TNHH Quốc Vỹ số
lượng 86m3 gỗ căm xe, 100 m3 gỗ cẩm lai, 77m3 gỗ gõ xẻ và 95m3 gỗ hương xẻ
với tổng giá trị 6.754.401.500 đồng; phương thức thanh toán là bên mua trả
trước 75% giá trị hợp đồng trước ngày 29/02/2012, sau khi nhận đủ gỗ thì thanh
toán tiền còn lại trong thời hạn 3 ngày. Sau khi thỏa thuận thì ngày 20/02/2012
56
Công ty Quốc Vỹ soạn thảo hợp đồng, ký và đóng dấu rồi chuyển cho Công ty
Đức Cường ký, nhưng do giám đốc Công ty Đức Cường đi vắng nên chưa ký
hợp đồng. [10]
Trước đó hai bên nhiều lần mua bán gỗ với nhau nên Công ty Quốc Vỹ
tin tưởng và đồng thời do thời hạn thực hiện hợp đồng ngắn nên ngày 28/02/2012
Công ty Quốc Vỹ đã ký Lệnh Chi chuyển vào tài khoản của Công ty Đức Cường
5.000.000.000 đồng. Sau đó, Công ty Quốc Vỹ nhiều lần yêu cầu Công ty Đức
Cường giao gỗ theo thỏa thuận, nhưng Công ty Đức Cường luôn nại lý do để trì
hoãn không giao gỗ. Do đó Công ty Quốc Vỹ khởi kiện yêu cầu Công ty Đức
Cường trả lại Công ty Quốc Vỹ 5.000.000.000 đồng đã nhận.
Tại Bản án kinh doanh thương mại số 01/2014/KDTM-ST ngày
16/01/2014, Tòa án nhân dân TP Pleiku, tỉnh Gia Lai quyết định xử không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Quốc Vỹ. Ngày 23/01/2014 Công ty
TNHH Quốc Vỹ kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc công ty Đức
Cường trả lại tiền đã nhận của công ty Quốc Vỹ. Và tại Bản án kinh doanh thương
mai phúc thẩm số 10/KDTM-PT ngày 04/6/2014 Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai
quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2014/KDTM-ST ngày 16/01/2014.
Ngày 20/06/2014 Công ty Quốc Vỹ có đơn đề nghị xem xét giám đốc thẩm đối
với Bản án KDTM phúc thẩm số 10/KDTM-PT ngày 04/6/2014 của Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai.
Và sau khi xem xét vụ án, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã căn
cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337, Khoản 3 Điều 343, Điều 345 BLTTDS 2015
đã quyết định hủy Bản án kinh doanh thương mai phúc thẩm số 10/KDTM-PT
ngày 04/6/2014 Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai và Bản án kinh doanh thương
mại số 01/2014/KDTM-ST ngày 16/01/2014 của Tòa án nhân dân TP Pleiku.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết
57
sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Điều này chứng tỏ chưa có những chuyển biến đáng kể về năng lực
chuyên môn nghiệp vụ và trong kỹ năng xét xử, điều hành phiên tòa.
- Xác định sai thẩm quyền và có sự nhầm lẫn trong việc xác định quan
hệ tranh chấp kinh doanh, thương mại và quan hệ tranh chấp tài sản.
Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong giải quyết tranh chấp KDTM là quyền
xem xét, quyết định của Tòa đối với vụ tranh chấp đó. Việc xác định đúng thẩm
quyền sẽ giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng và đúng pháp luật.
- Tiến hành xét xử khi chưa có đầy đủ các chứng cứ làm cơ sở để giải quyết.
Đây là một thiếu sót của Tòa khi tiến hành xét xử các vụ tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Như vụ “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa
nguyên đơn bà Thái Thị An với bị đơn ông Nguyễn Thế Hùng, với nội dung
sau : Bà Thái Thị An có quan hệ mua bán cà phê với ông Nguyễn Thế Hùng,
theo đó từ ngày 30/01/2007 đến ngày 02/02/2007 bà cho ông Hùng ứng
2.780.000.000đ, sau đó ông Hùng giao lượng cà phê tương ứng với số tiền ứng
theo mức giá hai bên đã thỏa thuận. Nhưng trong thời gian dài ông Hùng còn
nợ bà 40.388kg cà phê. Do đó, bà An yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Hùng
phải có nghĩa vụ trả cho bà An 40.388kg cà phê. [10]
Ông Hùng thừa nhận về số tiền đã ứng như bà An trình bày. Tuy nhiên.
Việc mua bán cà phê là “quan hệ tay ba” giữa ông, bà An và vợ chồng ông
Phạm Văn Từ, bà Nguyễn Thị Minh; ông chỉ là trung gian nhận tiền từ bà An
sau đó giao cho ông Từ, bà Minh để mua cà phê giao lại cho bà An. Ông cho
rằng, hiện nay ông không còn nợ số lượng cà phê như bà An trình bày, nên
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà An. Tại giấy biên nhận ngày
30/01/2007 có nội dung ông Phạm Văn Từ, bà Nguyễn Thị Minh nhận của ông
Hùng số tiền 1.080.000.000đ; phải trả 50 tấn cà phê nhân. Tại giấy xác nhận
ngày 19/10/2005, ông Từ cũng thừa nhận có sự chuyển giao nghĩa vụ giao cà
58
phê và thực tế vợ chồng ông Từ đã nhiều lần trực tiếp giao cà phê cho bà An
và ông Hùng cũng giao nộp sổ ghi chép thể hiện bà An đã nhiều lần nhận cà
phê nhân của vợ chồng ông Từ, bà Minh.
Như vậy, có căn cứ xác định khi nhận tiền của bà An, ông Hùng giao lại
số tiền này cho ông Từ, bà Minh để họ giao cà phê cho bà An. Tòa án cấp sơ
và phúc thẩm không đưa vợ chồng ông Từ, bà Minh vào tham gia với tư cách
là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cũng chưa thu thập thêm chứng cứ
quan trọng về giám định chữ viết và chữ ký của bà An. Sai sót trong việc giải
quyết vụ án này là: chưa thu thập đủ các chứng cứ và thiếu sót trong xác định
đương sự tham gia tố tụng.
Ngoài những tồn tại trong hoạt động xét xử các tranh chấp kinh doanh
thương mại đã nêu, thì trong công tác giải quyết tranh chấp tại Tòa vẫn còn một
số tồn tại, hạn chế như:
- Công tác kiểm tra có đổi mới về phương thức, nhưng chất lượng kiểm
tra chưa toàn diện, một số vụ án không phát hiện sai phạm để Viện trưởng Viện
kiểm sát kháng nghị.
- Công tác nhận đơn khởi kiện và giải quyết các tranh chấp vẫn chưa
được chú trọng trong việc phân công cán bộ chuyên trách giúp Chánh án giải
quyết đơn nên tình trạng tồn đọng đơn vẫn còn xảy ra.
- Việc tập huấn cập nhật những kiến thức về luật kinh tế chưa được
thường xuyên. Nhiều luật đã ban hành chưa được hướng dẫn đầy đủ, dẫn đến
nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án.
Với những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử cũng như trong
công tác giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa kinh tế; thì
nhiều nguyên nhân cụ thể được đưa ra đó là do tính chất các vụ án ngày càng
phức tạp; việc nhận thức, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của một số
59
thẩm phán chưa đúng, chưa thống nhất...
Nhưng cho dù xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hay khách quan thì
những sai phạm xảy ra là điều không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của Tòa kinh tế
cũng như sự công bằng của pháp luật. Việc khắc phục những thiếu sót đó là
vấn đề cấp bách bởi vì Tòa án là cơ quan xét xử nằm trong hệ thống cấu trúc
cơ quan Nhà nước, nhân danh Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên, là nơi mà các chủ thể kinh doanh tin tưởng về sự công bằng trong môi
trường kinh doanh.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai
Những năm qua, mặc dù bối cảnh đất nước tiếp tục chịu sự tác động của
các cuộc biến động tài chính thế giới, chỉ số phát triển kinh tế đất nước không
cao,… ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, trong
đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Tòa án nói chung và của
Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai nói riêng. Với sự quan tâm lãnh đạo
trực tiếp của Tỉnh ủy, của Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao, sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, nên các chỉ tiêu công tác đã đề ra từ
đầu năm về việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Tòa kinh
tế đều thực hiện hoàn thành vượt mức, góp phần giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội của tỉnh nhà.
Trước hết nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, sâu sắc và toàn
diện của lãnh đạo Tòa án và các đoàn thể liên quan, sự phối hợp chặt chẽ của
của cơ quan tiến hành tố tụng, đã tạo điều kiện cho Tòa kinh tế hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, chương
trình, kế hoạch; Tòa kinh tế đã có sự đầu tư, linh hoạt, nhạy bén trong công tác
60
giải quyết các tranh chấp; tạo ra sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia hoạt
động kinh doanh trên địa bàn, tạo động lực thu hút đầu tư và phát triển kinh tế
- xã hội.
Nguyên nhân hạn chế, tồn tại:
Về nguyên nhân chủ quan: Công tác xây dựng, tuyển chọn, đào tạo,…
tuy đã có nhiều cố gắng nhưng so với những yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhất là
trong điều kiện sản xuất kinh doanh phát triển mạnh, kinh tế hội nhập khu vực
và thế giới, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; trình độ nghiệp vụ của một
bộ phận Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa chưa được đồng đều. Năng lực
quản lý, điều hành của Chánh án, Phó chánh án còn hạn chế, thiếu nhạy bén, linh
hoạt; chưa kịp thời đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác; chậm khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong chuyên môn nghiệp vụ;
nhận thức chưa đầy đủ vai trò, vị trí và trách nhiệm của chính bản thân cán bộ
trong Tòa trong thời kỳ đổi mới. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thực hiện kịp
thời để chấn chỉnh, uốn nắn thiếu sót, khuyết điểm.
Về nguyên nhân khách quan: Số lượng các vụ tranh chấp KDTM mà Tòa
phải thụ lý năm sau tăng hơn năm trước, mức độ tranh chấp của các vụ án ngày
càng phức tạp. Tòa án nhân dân tối cao có tổ chức nhiều đợt hội thảo nhưng rất
ít tổ chức tập huấn chuyên sâu các văn bản quy phạm pháp luật và kỹ năng
nghiệp vụ cho Thẩm phán, nên cách hiểu để áp dụng pháp luật còn chưa thống
nhất, dẫn đến án được giải quyết bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan chưa giảm.
Ngoài ra, kinh phí thường xuyên được cấp còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ
61
đến chất lượng công vụ được giao.
62
Tiểu kết chương 2
Từ cơ sở những lý luận cơ bản của chương 1, nội dung chương 2 đã đề
cập đến cụ thể thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Để hiểu rõ thực trạng trên đề tài đã được khái
quát các điều về kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, điều kiện về kinh tế đã tác động
đến tình hình tranh chấp kinh doanh thương mại của Tỉnh; từ đó tiếp tục chỉ rõ
thực trạng tranh chấp trên địa bàn tỉnh Gia Lai diễn ra như thế nào?
Chương 2 đã tái hiện thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai qua kết quả công tác giải quyết các tranh
chấp; chỉ ra những thiếu sót,hạn chế trong hoạt động giải quyết tranh chấp ấy
và giải thích được nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại ấy trong hoạt
động xét xử, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai. Từ đó làm cơ sở để hướng tới kiến nghị các giải pháp thiết thực
về giải pháp chung cũng như những giải pháp cá biệt giúp nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết tranh chấp KDTM tại địa phương trong phạm vi nghiên cứu
63
cho chương 3.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có
điều tiết của Nhà nước tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển năng động, đa
dạng hơn. Chính từ sự phát triển này, các tranh chấp KDTM phát sinh ngày
càng nhiều và yêu cầu cần có cơ quan đứng ra để giúp các đơn vị kinh doanh
giải quyết các tranh chấp đó. Ở Việt Nam Tòa án là cơ quan tài phán có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phổ biến nhất. Thực tế đã
cho thấy việc ra đời của một tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân,
Tòa kinh tế, góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấP KDTM
đang ngày càng gia tăng trong nền kinh tế thị trường. Với những nghiên cứu về
thực trạng giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh
Gia Lai, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của quá trình giải quyết các tranh chấp
KDTM tại Tòa kinh tế.
3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng Toà án.
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung về pháp luật kinh doanh thương mại
Trước hết, cần sửa đổi các quy định của pháp luật về cơ chế giải quyết
tranh chấp thương mại, dân sự một cách hiệu quả và triệt để, tạo ra môi trường
pháp lý ổn định để giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận lợi, đạt kết quả
cao.
Trong giải quyết tranh chấp thương mại giữa các chủ thể, vấn đề áp dụng
pháp luật hình sự là một hiện tượng tiêu cực vẫn đang tồn tại. Sở dĩ như vậy là
64
do “Ở Việt Nam cho đến nay chưa có một tư duy logic về hệ thống pháp luật
và chưa cải cách pháp luật một cách toàn diện và đồng bộ”. Có lẽ xuất phát từ
tư duy xây dựng pháp luật của Việt Nam không phân định luật công, luật tư và
được hình thành trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp, nên đã rơi vào tình trạng
có nhiều khuyết điểm. Điều đó đã thúc đẩy tới việc áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự khi không cần thiết hoặc các cách thức trái pháp luật khác để
giải quyết vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại.
Bởi lẽ đó, để chống lại hiện tượng áp dụng pháp luật hình sự một cách
thái quá đối với các tranh chấp thương mại, thì pháp luật phải được xây dựng
và hoàn thiện theo hướng đảm bảo tốt nhất sự tự do ý chí của các chủ thể pháp
luật. Cần loại bỏ việc sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp một cách thô
bạo vào các giao dịch thương mại, kinh tế. Cũng như cần tạo ra những quy định
hợp lý để nâng cao hiệu lực của các thiết chế liên quan đến cách thức giải quyết
tranh chấp thương mại, đặc biệt là cơ chế hoạt động của trọng tài.
Luật trọng tài thương mại 2010 đã ra đời đáp ứng được sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế thì hoạt động của các tổ chức
trọng tài tại Việt Nam còn nhiều bất cập. Pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua hình thức trọng tài cần được phổ biến hơn nữa, áp dụng
nhiều hơn nữa để phát huy hiệu quả của phương thức này. Tại Việt Nam, số
lượng các tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài ngày một tăng
lên. Nhưng việc đảm bảo thực hiện phán quyết trọng tài còn nhiều hạn chế, do
vậy tòa án vẫn là phương thức tối ưu, hiệu quả mà các chủ thể lựa chọn. Bởi
vậy, pháp luật về trọng tài thương mại cần có sự điều chỉnh chặt chẽ và phù
hợp hơn vơi tình hình thực tế.
Tiếp theo cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án và nâng cao
hiệu quả của hoạt động tổ chức thi hành án.
Chính sự phức tạp, rắc rối kéo dài của nhiều vụ án cũng như sự chậm trễ
65
trong tổ chức thi hành án là nguyên nhân dẫn tới việc áp dụng pháp luật để giải
quyết các tranh chấp thương mại đạt kết quả chưa cao. Hàng năm, án dân sự
còn tồn đọng khá lớn, án kinh tế dù ít nhưng lại rất khó khăn khi thi hành, nhất
là trong các tình huống doanh nghiệp phá sản, tranh chấp về nghĩa vụ thanh
toán, chủ doanh nghiệp bỏ trốn,... Trong trường hợp này, việc thi hành án khống
thể thực hiện được do doanh nghiệp không còn tài sản hoặc còn nhưng giá trị
không đáng kể, không đủ để thực hiện nghĩa vụ. Các tranh chấp từ đó mà cũng
khó có thể giải quyết được một cách triệt để.
Ngoài ra, còn rất nhiều khó khăn trong thi hành bản án kinh tế thương
mại, như việc áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tất cả các phân tích nêu trên đều
cho thấy yêu cầu cấp bách phải khẩn trương hoàn thiện và nâng cao hiệu qảu
thực thi các quyết định, bản án của Tòa án, để củng cố lòng tin của nhân dân,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trước pháp luật.
Hiện nay, để giải quyết các tranh chấp KDTM phát sinh, Tòa kinh tế
dựa vào những quy định đã ban hành của pháp luật kinh doanh, cụ thể là
BLTTDS và một số Luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại, Luật đầu
tư, Luật doanh nghiệp,… Tuy nhiên, khi các quy định trong những văn bản
Luật đó và các văn bản hướng dẫn không có sự thống nhất với nhau về nội dung
thì sẽ dẫn đến tình trạng mơ hồ, không chính xác của Tòa án trong quá trình
giải quyết các tranh chấp KDTM. Trong các quy định về giải quyết tranh chấp
KDTM hiện nay trong pháp luật kinh doanh ở nước ta, vẫn còn tồn tại những
mâu thuẫn trong việc xác định các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Xác
định đâu là tranh chấp kinh doanh thương mại hiện đang có nhiều quan điểm
do việc không thống nhất trong các văn bản pháp luật và khiến không ít bản án
sơ thẩm bị sửa, hủy.
Do đó, trong trường hợp giữa BLTTDS và nghị quyết có quy định khác
nhau thì cũng phải áp dụng BLTTDS để giải quyết. Bởi BLTTDS là văn bản
66
có hiệu lực cao hơn nghị quyết. Còn nếu xác định các tranh chấp theo hướng
dẫn của Nghị quyết là tranh chấp về KDTM thì sẽ xảy ra trường hợp có những
tranh chấp rất đơn giản nhưng tòa án cấp huyện không có thẩm quyền giải
quyết. Chẳng hạn như tranh chấp về hợp đồng vay tài sản giữa ngân hàng với
cá nhân không đăng ký kinh doanh nhưng có mục đích lợi nhuận thì tòa án cấp
tỉnh mới có thẩm quyền giải quyết bất kể giá trị tài sản là bao nhiêu. Sẽ là một
điều vô lý nếu những tranh chấp vay tài sản từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng
vì mục đích lợi nhuận giữa ngân hàng với cá nhân mà TAND cấp huyện lại
không thể xử.
Thống nhất giữa các quy định trong văn bản luật và các văn bản hướng
dẫn của pháp luật kinh doanh là điều cần thiết; giúp cho việc giải quyết các
tranh chấp KDTM được mau chóng và dễ dàng hơn; tạo điều kiện cho Tòa có
thể đưa ra những quyết định đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự trong quá trình tham gia tố tụng kinh doanh thương mại.
Cùng với diễn biến ngày càng phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội, các
tranh trong lĩnh vực KDTM không ngừng gia tăng về số lượng và sự đa dạng;
mà để giải quyết ổn thỏa các tranh chấp đó, đảm bảo quyền lợi cho các bên là
một công việc không phải đơn giản.
Ngoài mâu thuẫn giữa văn bản pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật,
thì hiện nay tình trạng chồng chéo giữa các văn bản trong pháp luật kinh doanh
vẫn còn tồn tại. Cụ thể đó là những quy định về cơ sở pháp lý được áp dụng để
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Theo quy định của BLTTDS thì tranh chấp về kinh doanh, thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, phức tạp, liên quan đến
nhiều lĩnh vực kinh tế, trong đó có tranh chấp vừa được điều chỉnh bởi quy định
của Bộ luật Dân sự, vừa được điều chỉnh bởi Luật chuyên ngành.
Chính vì lý do này mà việc xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương
67
mại tại Tòa án còn một số lúng túng, vướng mắc hoặc sai lầm khi áp dụng quy
định của Bộ luật dân sự và quy định của Luật chuyên ngành như Luật Thương
mại (thường xảy ra khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản
đã được quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng mua bán hàng hóa (được
quy định trong Luật Thương mại), về hợp đồng dịch vụ (quy định trong Bộ luật
Dân sự), hợp đồng cung ứng dịch vụ (được quy định trong Luật Thương mại),
hợp đồng liên kết, liên doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh... theo quy định của
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, hợp đồng bảo hiểm (được quy định trong
Bộ luật Dân sự), hợp đồng bảo hiểm (quy định trong Luật Kinh doanh bảo
hiểm)...
Vướng mắc ở đây là trường hợp nào thì áp dụng quy định của Bộ luật
Dân sự, trường hợp nào thì áp dụng quy định của Luật chuyên ngành? Vì vậy,
trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng quy định của Luật chuyên ngành, của Bộ
luật Dân sự để giải quyết vụ án của một số Tòa án chưa thống nhất như: có Tòa
án áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự; có Tòa án áp dụng quy định của Luật
chuyên ngành; có Tòa án áp dụng đồng thời quy định của Bộ luật Dân sự và
quy định của Luật chuyên ngành...
Nếu Luật chuyên ngành không có quy định thì mới áp dụng quy định của
Bộ luật dân sự. Chỉ có như thế, việc giải quyết mới trở nên đơn giản, dễ dàng
áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng
suốt, công bằng.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức Tòa án.
Tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân theo cấp xét xử gồm 3 cấp: sơ thẩm,
phúc thẩm và Tòa án nhân dân tối cao; Thành lập Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm theo khu vực, không theo địa giới hành chính; Mỗi Tòa cấp
sơ thẩm, phúc thẩm khu vực chỉ có một bộ phận văn phòng nhưng đội ngũ thẩm
phán thì được phân công thành các ban khác nhau, trong đó có ban chuyên trách
68
xét xử về tranh chấp thương mại.
3.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
3.2.1. Nâng cao trình độ của đội ngũ thẩm phán tỉnh trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại
Cần tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức nhân dân về nghĩa vụ
tôn trọng pháp luật, về những phương thức hợp pháp được sử dụng khi phát
sinh các tranh chấp, mâu thuẫn trong kinh doanh thương mại, về sự cần thiết
của cuộc đấu tranh chống hành vi trái pháp luật, thực hiện áp dụng pháp luật
đúng đắn để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên.
Việc tuyên truyền, vận động có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức
khác nhau để người dân có thể tiếp cận thông tin nhanh chóng, đầy đủ và chính
xác. Nội dung tuyên truyền cũng cần thiết thực, hợp lý, phù hợp với từng nhóm
đối tượng cụ thể khác nhau. Có như vậy mới thu hút được sự tham gia đông
đảo của quần chúng nhân dân, nâng cao chất lượng của việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật.
Hơn thế nữa là việc nâng cao ý thức pháp luật của các doanh nhân, bởi
đó là những chủ thể liên quan mật thiết đến các vụ việc tranh chấp. Nếu như
các chủ thể này coi thường pháp luật, áp dụng các hành vi vi phạm pháp luật
trong giải quyết tranh chấp thì hậu quả sẽ vô cùng nặng nề. Các chủ thể tham
gia hoạt động thương mại cần phải am hiểu pháp luật, chấp hành pháp luật, đó
vừa là cách bảo vệ lợi ích cho chính mình, vừa đảm bảo tôn trọng lợi ích của
các chủ thể khác. Mỗi doanh nhân, thương nhân khi tham gia hoạt động kinh tế
thương mại đều chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật sẽ góp phần tạo
nên môi trường kinh doanh thuận lợi, văn minh và phát triển.
Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong
giải quyết tranh chấp thương mại cũng cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ
69
cán bộ công chức, các cá nhân có thẩm quyền để có đủ năng lực chuyên môn
và nhân phẩm cần thiết khi được giao nhiệm vụ. Đồng thời, có thể tham gia tích
cực và hiệu quả vào các hoạt động đấu tranh phòng, chống các hiện tượng tiêu
cực nói chung.
Để đạt được mục tiêu đó, các cơ quan có liên quan cần tiến hành đồng
bộ các giải pháp khác nhau. Trước hết là cần tuyển chọn một cách kĩ càng các
cán bộ, công chức để tạo ra nguồn cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán và
đặc biệt là những cá nhân trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp.
Cần đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là kiến thức
pháp luật về lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông
tin. Do các tranh chấp về kinh tế thương mại ngày càng mở rộng về phạm vi,
phức tạp về tính chất, đa dạng về nội dung, nên nếu không có đầy đủ những
kiến thức cơ bản trong các lĩnh vực cũng như kinh nghiệm cần thiết thì rất có
thể áp dụng pháp luật một cách sai trái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Vấn đề về phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong của các chủ thể có
thẩm quyền cũng cần được quan tâm đúng mực. Khi tham gia giải quyết tranh
chấp thương mại, đặc biệt là các vụ tranh chấp có giá trị lớn, các chủ thể có
thẩm quyền phải kiên định, bản lĩnh, thanh liêm, không bị cám dỗ bởi các lợi
ích cá nhân, lợi ích nhóm. Đây là một vấn đề nan giải trong thực tế và rất khó
để khắc phục. Nếu như không có tư cách đạo đức tốt, bản lĩnh tư tưởng vững
vàng, các chủ thể này sẽ dễ bị mua chuộc và tất yếu sẽ đưa ra những quyết định
sai lầm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Trên thực tế, trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang có rất
nhiều cán bộ, công chức có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn để tham gia vào quá
trình giải quyết tranh chấp thương mại. Do vậy, cần bố trí hợp lý, phân bổ nhân
lực, phát huy các thế mạnh của mỗi cá nhân, góp phần vào việc phòng chống
hiện tượng áp dụng pháp luật sai trái trong giải quyết tranh chấp thương mại.
70
Mặt khác, cũng cần đào tạo và sẵn sàng thay thế nhân lực trẻ cho lớp cán bộ,
công chức trước đây để tạo ra sự chủ động, sáng tạo và cập nhật yêu cầu của
tình hình thực tế.
Việc đào tạo đội ngũ thẩm phán phải mang tính chuyên nghiệp, được
trang bị một cách hệ thống kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử; Phải coi thẩm
phán là một nghề, bổ nhiệm một lần, bổ nhiệm chức danh cho từng cấp xét xử;
Pháp luật cần xác định quyền hạn độc lập và trách nhiệm cá nhân của thẩm
phán trong quá trình xét xử; cần có một đội ngũ hội thẩm riêng cho lĩnh vực xét
xử tranh chấp KDTM. Đội ngũ này phải có những yêu cầu: phải là thương nhân,
có kiến thức về pháp luật ở mức độ nhất định, có uy tín và kinh nghiệm trong
kinh doanh; không do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; không hoạt động
theo nhiệm kỳ, mà tham gia hoạt động trong một tổ chức hiệp hội của giới
doanh nhân.
Trong quá trình tố tụng các tranh chấp KDTM nói riêng và các tranh
chấp khác được giải quyết tại tòa án nói chung, luôn cần đến sự hiểu biết, công
tâm của những người tham gia tiến hành giải quyết. Trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và đạo đức nghề nghiệp là điều mà các cán bộ của Tòa án luôn quan tâm và
không ngừng hướng đến để hoàn thiện bản thân. Thẩm phán và Thư ký tòa không
ngừng học hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và trau dồi kinh nghiệm cũng như đạo
đức để có thể giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng, công bằng, công
tâm, bảo vệ quyền lợi của các đương sự, đáp ứng nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn
trong hoạt động KDTM.
3.2.2. Thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật
Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi đất nước ta ngày càng hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, hàng loạt các chế định pháp luật được điều chỉnh, bổ
sung để phù hợp với sự đòi hỏi của khu vực và thế giới các thuật ngữ như: Cạnh
tranh không lành mạnh; chống bán phá giá; thương mại điện tử; chống độc
71
quyền xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong kinh doanh sẽ từng bước nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật trong kinh doanh thương mại của các thương
nhân, góp phần lành mạnh hoá thị trường, củng cố niềm tin vào tương lai phát
triển bền vững của các doanh nghiệp, thương nhân tham gia kinh doanh trên
địa bàn tỉnh.
Việc thiếu hiểu biết pháp luật kinh doanh cũng là một trong những
nguyên nhân là gia tăng các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Hiểu biết về
pháp luật kinh doanh tuy không tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nó lại có vai trò to lớn trong việc
nâng cao nhận thức và khả năng vận dụng các kiến thức pháp luật trong quá
trình tham gia kinh doanh trong môi trường của nền kinh tế thị trường.
Phát huy hơn nữa vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp với chức
năng chuyển tải kiến thức pháp luật vào đời sống doanh nghiệp, xây dựng lòng tin
của doanh nghiệp vào pháp luật, để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống gắn thực
thi pháp luật với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tạo hành lang pháp lý an
toàn cho doanh nghiệp phát triển ngày càng bền vững.
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử kinh doanh thương
mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Trước tiên cần bổ sung số lượng thẩm phán và đội ngũ cán bộ giúp
việc cho phù hợp.. Như đã phân tích ở những chương trước, trước tình hình
chung của cả nước thì sự phát triển kinh tế của tỉnh Gia Lai cũng thuận nhịp
theo, trong những năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các
mô hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực
kinh tế và cũng làm cho các tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn
tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua về cả số lượng và mức độ phức tạp,
chính vì tình hình thực tiễn công việc cần giải quyết nhiều như vậy mà chỉ với
72
03 cán bộ tòa chuyên trách kinh tế (một chánh tòa kinh tế, một phó chánh tòa
kinh tế và một thư ký) giải quyết thì không thể đẩy nhanh giải quyết các vụ án
kịp thời.
- Một trong những điều quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại tòa án nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng cần chú
tâm là vấn đề chất lượng chuyên môn cán bộ tòa án. Cần tổ chức tập huấn, tăng
cường đào tạo công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
chuyên trách của các Tòa Kinh tế nói riêng, tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai nói
chung về nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng như các kiến thức
pháp luật về kinh doanh, thương mại. Đặc biệt các hội thẩm nhân dân - là những
đại diện các ban, ngành đoàn thể có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân chuyên
ngành khác nên cần được quan tâm hơn trong công tác cập nhật những kỹ năng
kiến thức mới giúp việc đưa ra các nhận định hiệu quả hơn trong công tác xét
xử án.
- Về phần lãnh đạo Tòa , các chánh án, chánh tòa cũng cần tăng cường
công tác quán lý, chỉ đạo điều hành và thúc đốc trong công việc. Đồng thời có
những quy định nghiêm nặng về xử lý khi vi phạm mang tính răn đe cao.
Tiểu kết chương 3
Việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp KDTM trên địa bàn tỉnh
Gia Lai trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, chủ yếu xuất phát
từ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghề nghiệp cũng như ý thức trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ. Việc giải quyết các tranh chấp KDTM theo pháp
luật tố tụng còn gây nhiều tranh cãi, song bên canh những hạn chế đó thì cũng
có những ưu điểm đáng kể đến của cơ quan chức năng có thẩm quyền tại địa
bàn tỉnh Gia Lai về việc kịp thời bổ sung cũng đưa ra các biện pháp ngăn chặn
73
tích cực. Xuất phát từ những lý do đó em đã nghiên cứu và đưa ra một số giải
pháp và hướng giải quyết những bất cập này mhawfm hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện các quy định về giải quyết tranh chấp KDTM nhằm góp phần nâng
74
cao hơn hiệu quả quản lý và đội ngũ cán bộ.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp KDTM có ý nghĩ hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm cân bằng kinh tế, tự do cạnh tranh một cách công khai dựa trên nền pháp
luật Việt Nam hiện hành, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư kinh doanh trong
và ngoài nước. Giari quyết tố các tranh chấp KDTM góp phần tạo ra các kỷ
cương, nề nếp, hạn chế sự tiêu cực, cạnh tranh trái pháp luật của sự phát triển
đất nước.
Luận văn đã phân tích rõ các giải pháp về hoàn thiện trong giải quyết tranh
chấp KDTM tại Tòa án tỉnh Gia Lai . Qua đó khái quát được thực trạng pháp
luật cũng như thực trạng tranh chấp KDTM tại Tòa án tỉnh Gia Lai một cách
cụ thể, phân tích, đánh giá những ưu, nhược điểm còn tồn tại của hệ thống pháp
luật về giải quyết tranh chấp KDTM. Từ đó đưa ra các giải pháp cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa
án tại tỉnh Gia Lai. Việc hoàn thiện và đưa ra một số kiến nghị cũng góp phần
xây dựng pháp luật một cách phù hợp với thực tiễn. đồng thời thông qua luận
văn cũng đã khái quát và thể hiện rõ hơn tầm quan trọng của thủ tục Tố tụng
75
dân sự trong việc giải quyết tranh chấp KDTM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS Việt Nam (2005), Nghị quyết số
49/NQ-TW về Đề án Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Báo Gia Lai – Cơ quan của Đảng bộ ĐCSVN Tỉnh Gia Lai tiếng nói của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Gia Lai
Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/06/2005. 3.
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 4.
năm 2013
5. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số: 68/2014/QH13 ngày
25/11/2014.
6. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13
ngày 24/11/2014.
7. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015.
8. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày
25/11/2015.
9. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Báo cáo tổng kết công tác các năm 2006,
2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017
10. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Hồ sơ vụ án đã thụ lý
11. Tòa kinh tế- TAND tỉnh Gia Lai, Báo cáo hằng năm của Tòa kinh tế-
TAND tỉnh Gia Lai
12. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật thương mại tập
II, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội,
13. Phạm Lê Mai Ly(2014), Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh
thương mại ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc
Gia Hà Nội.
14. Võ Ngọc Thông (2017), Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
76
thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng , Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học Viện Khoa Học Xã
Hội , Hà Nội.
15. Website: http://baogialai.com.vn/
16. Website: http://moj.gov.vn
17. Website: http://phapluattp.vn/
77
18. Website: https://vi.wikipedia.org