ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

ĐỒNG THÙY DƯƠNG

THUÕ §èI VíI HO¹T §éNG KHAI TH¸C Vµ KINH DOANH THAN THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỒNG THÙY DƯƠNG THUÕ §èI VíI HO¹T §éNG KHAI TH¸C Vµ KINH DOANH THAN THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRƯƠNG THỊ KIM DUNG HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm

bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các

môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định

của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi

có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đồng Thùy Dương

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, KINH DOANH THAN ..................... 7

1.1. Một số vấn đề chung về khoáng sản than và thuế đối với hoạt

động khai thác và kinh doanh than ........................................................... 7

1.1.1. Vài nét về khoáng sản ................................................................................... 7

1.1.2. Khái quát về khoáng sản than ..................................................................... 13

1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than .......................................................................................... 19

1.1.4. Các khoản thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than ............... 21

1.2. Một số vấn đề chung về pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than ........................................................................... 26

1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than ........ 26

1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than ....................................................................... 26

1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than ........................................................................................... 28

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 33

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

KHAI THÁC VÀ KINH DOANH THAN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

Ở VIỆT NAM .......................................................................................................... 34

2.1. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than ................................................................................................. 34

2.1.1. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác than ....................... 34

2.1.2. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động kinh doanh than ................... 50

2.1.3. Thực trạng pháp luật quản lý thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than ................................................................................................... 63

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than ......................................................................................... 67

2.2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than ................................................................................................... 68

2.2.2. Đánh giá chung ............................................................................................ 75

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 78

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC VÀ KINH DOANH THAN ............... 79

3.1. Định hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than ................................................................... 79

3.1.1. Pháp luật thuế hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường; xây dựng hệ

thống chính sách, pháp luật đồng bộ, minh bạch, hạn chế khai thác các

loại tài nguyên không tái tạo ....................................................................... 79

3.1.2. Tăng cường công tác quản lý đối với các khoản thu từ hoạt động khai

thác và kinh doanh khoáng sản ................................................................... 81

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than ........................................................................... 82

3.2.1. Thuế bảo vệ môi trường .............................................................................. 82

3.2.2. Thuế tài nguyên ........................................................................................... 83

3.2.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp ....................................................................... 84

3.2.4. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.................................................................. 84

3.3. Giải pháp tổ chức thực thi pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than ........................................................................... 85

3.3.1. Xây dựng giải pháp quản lý hiệu quả trong việc giám sát công tác kê

khai, kế toán thuế ........................................................................................ 85

3.3.2. Có quy chế phối hợp rõ ràng, cụ thể, làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá

nhân khi quản lý hoạt động khai thác và kinh doanh than .......................... 85

3.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các khoản thu thuế ......... 87

3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế ......................... 88

3.3.5. Đào tạo, nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn của

cán bộ thuế ................................................................................................. 89

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 90

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 92

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BP: Bristish Petroleum

NSNN: Ngân sách nhà nước

UBND: Ủy ban nhân dân

TKV: Tập đoàn Công nghiệp Than

– Khoáng sản Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Tên bảng Số hiệu

Bảng 2.1 Đối tượng chịu thuế và khung giá tính thuế 38

Bảng 2.2 Mức thuế suất của khoáng sản than 41

Bảng 2.3 Biểu thuế bảo vệ môi trường của than đá 45

Bảng 2.4 Biểu thuế xuất nhập khẩu cho mặt hàng than 60

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước (NSNN), là công cụ

điều tiết, giúp Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế, thực hiện tái phân

phối nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thuế và quản lý thuế là

nhân tố quyết định sự thành công của nền tài chính công. Mục tiêu của Đảng và Nhà

nước đối với lĩnh vực thuế là xây dựng được một hệ thống thuế có hiệu lực và hiệu quả

cao, đặc biệt trong hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản.

Khoáng sản là ngành nhận được nhiều sự quan tâm và chú ý của xã hội.

Không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc khai thác, tiêu thụ và xuất khẩu

khoáng sản đối với Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, với tốc độ khai thác và thực

trạng kinh doanh như hiện nay, một yêu cầu cấp bách đặt ra là việc quản lý hoạt

động khai thác và tiêu thụ khoáng sản cần phải được chú trọng công tác quản lý

hoạt động khai thác và tiêu thụ khoáng sản thực sự hiệu quả. Do vậy, Nhà nước đã

quy định nhiều nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ về thuế và các cơ chế quản lý đối với

những công ty khai thác, kinh doanh khoáng sản, nhằm ổn định được nguồn thu lớn

cho ngân sách.

Than là một trong những loại khoáng sản có nhu cầu tiêu thụ cao trong cả

nước. Ngành than đóng vai trò là ngành kinh tế trọng điểm, là nguồn cung cấp nhiên

liệu cho các ngành đặc biệt như điện, phân bón, giấy, xi-măng,… - những ngành

tiêu thụ nhiều than nhất trong quá trình sản xuất. Than đồng thời cũng là một nguồn

tài nguyên không thể tái tạo. Việc khai thác và kinh doanh than cũng có tác động rất

lớn đến sức khỏe con người và môi trường. Với mục tiêu bảo vệ môi trường, khai

thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản, đối với các chính sách quản lý cần có

sự chung tay góp sức của các bên liên quan, đặc biệt không thể thiếu vai trò của cơ

quan thuế trong các chính sách về quản lý ngân sách nhà nước. Điều này đồng

nghĩa với việc cơ quan thuế vừa phải tích cực, thường xuyên theo sát, thanh tra,

1

kiểm tra nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp khai thác, kinh doanh than, vừa

nắm bắt được diễn biến, tình hình thực tế của hoạt động khai thác và kinh doanh

than, khắc phục những vướng mắc, khó khăn còn gặp phải trong quá trình thi hành

chính sách để từ đó hoàn thiện, kiện toàn hệ thống chính sách, chẳng hạn: Cơ quan

thuế chưa có biện pháp kiểm soát được sản lượng khai thác than chính xác của

doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng thuế phải nộp chưa phản ánh đúng sản lượng; khó

thu thuế tài nguyên do chưa quản lý được phẩm cấp than; còn nhiều doanh nghiệp

và người nộp thuế nói chung có hành vi gian lận trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế của

nhà nước; nghiệp vụ cán bộ còn yếu, việc bố trí sắp xếp lực lượng cán bộ công chức

làm công tác thanh tra kiểm tra còn ít, do vậy chưa kịp thời phát hiện được các trường

hợp vi phạm pháp luật về thuế để ngăn chặn xử lý kịp thời; công tác tuyên truyền

hướng dẫn chính sách pháp luật về thuế cho người nộp thuế còn nhiều yếu kém...

Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận

văn tốt nghiệp “Thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than theo pháp

luật Việt Nam”, với mong muốn có những đóng góp thiết thực cho pháp luật thuế

trong ngành than, từ đó đổi mới, cải tiến công tác quản lý ngân sách nhà nước đối

với hoạt động khai thác và kinh doanh than tại Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

Liên quan đến đề tài có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả ở

nhiều cấp độ khác nhau, từ giáo trình, sách chuyên khảo, báo, tạp chí chuyên ngành,

luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ...

Các giáo trình và sách chuyên khảo như “Giáo trình Luật thuế Việt Nam”

của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân (2010), “Giáo trình

thuế” của Học viện Tài chính, Nxb. Tài chính (2009),“Pháp luật thuế: Lý luận, lịch

sử, thực trạng và so sánh” của TS Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb. Chính trị Quốc gia

(2016)… chủ yếu về lý luận chung về thuế và các loại thuế nội dung. Các giáo trình

và sách chuyên khảo này bao quát gần như toàn bộ các loại thuế theo pháp luật Việt

Nam. Trong đó, “Giáo trình thuế” của Học viện Tài chính, Nxb. Tài chính (2009)

chỉ tập trung vào một số loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập

2

khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập cá nhân và

“Pháp luật thuế: Lý luận, lịch sử, thực trạng và so sánh” của TS Nguyễn Thị Lan

Hương, Nxb. Chính trị Quốc gia (2016) đề cập thêm đến pháp luật về quản lý thuế.

Các loại thuế đều được làm rõ từ khái niệm đến nội dung, đưa ra những đặc điểm

riêng biệt của từng loại và ý nghĩa của mỗi loại thuế đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội. Tuy nhiên những nội dung được trình bày trong các giáo trình và sách

chuyên khảo này mới chỉ là khái quát chung mà chưa đi sâu vào một lĩnh vực khai

thác và kinh doanh khoáng sản mà nhỏ hơn nữa là khai thác và kinh doanh than.

Ngoài ra cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác khoáng sản ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ. Có thể kể đến các nhóm:

- Nhóm thứ nhất là một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu khía cạnh pháp luật về

quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản. Những đề tài này chỉ tập trung

khai thác sâu vào công tác quản lý thuế ở Việt Nam và tại một số tỉnh thành và nêu

lên thực tiễn thi hành. Có thể kể đến một số đề tài như: “Pháp luật về quản lý thuế và

thực tiễn thi hành trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” (Luận văn thạc

sĩ của Nguyễn Trương Hà Giang, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018),

“Quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam” (Luận văn

thạc sĩ của Nguyễn Thị Khánh Thiệm, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2015), “Hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hoạt động khai thác khoáng

sản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” (Luận văn thạc sĩ của Đặng Quang Trực, Trường Đại

học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên, 2014),…

- Nhóm thứ hai là các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu sâu hơn về

một số loại thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản, chẳng hạn như thuế tài

nguyên. Những đề tài này chỉ tập trung phân tích một loại thuế cụ thể có ý nghĩa lớn

đối với lĩnh vực khoáng sản và trình bày thực tiễn tại những địa phương cụ thể cấp

tỉnh. Có thể kể đến như: “Tác động của thuế tài nguyên đối với khai thác tài nguyên

thiên nhiên – qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình” (Luận án tiến sĩ của Nguyễn

Văn Phương, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 2017), “Hoàn thuế công tác quản

lý thuế tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Đắk Lắk” (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị

Hoài An, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, 2017), “Quản lý thuế tài

3

nguyên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” (Luận văn thạc sĩ của Đào Thị Hồng Thái,

Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên, 2015),

“Quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” (Luận văn thạc sĩ của Hoàng

Thị Hợp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, 2015),… Dù vậy các nghiên cứu này

mới chỉ nghiên cứu về thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác khoáng sản nói

chung tại một địa bàn cụ thể.

Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về quản lý thuế đối với hoạt động khai thác

khoáng sản trên tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam như “Thuế tài nguyên bất

cập, thiếu hợp lý” (Hương Giang, ngày 3/8/2017), “Thuế phí khoáng sản hiện đang

quá cao” (Nguyễn Cảnh Nam - Đồng Thị Bích, ngày 3/8/2016), “Bàn về thuế tài

nguyên và chính sách thuế, phí đối với khai thác khoáng sản” (Nguyễn Cảnh Nam -

Đồng Thị Bích, ngày 12/10/2015),… Những bài viết này đều có điểm chung là mới

chỉ đề cập đến một số loại thuế có ý nghĩa lớn đối với hoạt động khai thác khoáng

sản nhưng không còn mang tính cập nhật trong tình hình hiện nay.

Nhìn chung, các công trình và bài báo ở trên đều mới chỉ nghiên cứu về pháp

luật thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản nói chung ở nhiều cấp độ. Các đề

tài chỉ tập trung phân tích sâu vào một khía cạnh của pháp luật thuế trong lĩnh vực

này như quản lý thuế hay thuế tài nguyên … Về cơ bản, các công trình này cũng đã

phần nào nêu lên được ý nghĩa của hệ thống pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác khoáng sản, tuy nhiên vẫn chưa bao hàm được hết các loại thuế quan trọng, có

vai trò lớn trong lĩnh vực này. Đặc biệt là chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về

pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than. Với tình hình nghiên

cứu như trên, trong luận văn này, học viên muốn hệ thống hóa các cơ sở lý luận về

pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than, từ đó nêu lên thực

trạng, đúc kết, phân tích kinh nghiệm thực tiễn để đưa ra giải pháp cũng như kiến

nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả của pháp luật Việt Nam đối với lĩnh vực khai

thác và kinh doanh than tại Việt Nam.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát

Dựa trên cơ sở lý luận về pháp luật thuế cũng thực tiễn thi hành các quy

4

định pháp luật trong hoạt động khai thác, kinh doanh than, Luận văn nghiên cứu

đề xuất một số giải pháp cơ bản và cấp thiết nhằm hoàn thiện chính sách và pháp

luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than, đồng thời tăng cường

hiệu quả thực thi pháp luật thuế đối với hoạt động này tại Việt Nam

Mục tiêu cụ thể

- Làm rõ cơ sở lý luận, các vấn đề liên quan đến khoáng sản, cụ thể là

khoáng sản than, từ đó làm rõ một số vấn đề chung đối với pháp luật thuế về hoạt

động khai thác và kinh doanh than. Tập trung chú trọng vào các loại thuế cơ bản có

số thu tương đối lớn và có tầm quan trọng đối với hoạt động này.

- Phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với

hoạt động khai thác và kinh doanh than tại Việt Nam. Đưa ra đánh giá chung gồm

ưu điểm và hạn chế, làm cơ sở để đề xuất các giải pháp.

- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế đối với

hoạt động khai thác và kinh doanh than, đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi những

chính sách này tại Việt Nam.

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề về thuế và pháp luật thuế đối với hoạt

động khai thác và kinh doanh than.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập dữ liệu: Tư liệu, dữ liệu thu thập từ các doanh

nghiệp khai thác, kinh doanh than và cơ quan thuế. Ngoài ra, luận văn tham khảo

các nghiên cứu được cung cấp dưới dạng các tạp chí, công trình khoa học, các báo

cáo tổng hợp hằng năm, các văn bản về chủ trương, chính sách của Nhà nước...

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận

chung về pháp luật thuế trong hoạt động khai thác khai thác và kinh doanh than,

những căn cứ lý thuyết và thực tiễn về triển khai pháp luật thuế đối với hoạt

5

động khai thác than.

- Phương pháp thống kê, mô tả: Sắp xếp, phân loại và xử lý tổng hợp số liệu

thu thập, phân tích dữ liệu đánh giá hiện trạng triển khai pháp luật thuế đối với hoạt

động khai thác và kinh doanh than.

- Phương pháp thống kê, so sánh: So sánh và đánh giá về thực trạng kết quả

thi hành, áp dụng pháp luật thuế trong hoạt động khai thác than tại Việt Nam.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn tập trung trình bày

những kết quả nghiên cứu chủ yếu trong 3 chương nội dung chính:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thuế và pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác, kinh doanh than.

Chương 2. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác, kinh

doanh than và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.

Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt

6

động khai thác và kinh doanh than.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, KINH DOANH THAN

1.1. Một số vấn đề chung về khoáng sản than và thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than

1.1.1. Vài nét về khoáng sản

1.1.1.1. Khái niệm khoáng sản

Khái niệm khoáng sản đã được nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau, từ

quan điểm về kinh tế chính trị, dưới góc độ học thuật, quan điểm của chuyên gia,

nhà nghiên cứu và dưới góc độ luật học.

Theo phạm trù kinh tế chính trị học và địa lý kinh tế, khoáng sản (gồm có

quặng) là một tư liệu sản xuất quan trọng, là một loại nguồn lợi thiên nhiên bên

cạnh các tài nguyên khác của một nước như nông sản, lâm sản, hải sản…

Giáo sư Harald G. Dill của Viện Khoáng vật học, Đại học Hanover, Đức đã

đưa ra cách hiểu về khoáng sản trong bài viết “The ‘chessboard’ classification

scheme of mineral deposits: Mineralogy and geology from aluminum to zirconium”

trên Earth-Science Reviews: “A 'Mineral Resource' is a concentration or occurrence

of material of intrinsic economic interest in or on the earth's crust in such form,

quality and quantity that there are reasonable prospects for eventual economic

extraction”. Có thể tạm dịch quan điểm này như sau: 'Tài nguyên khoáng sản' là sự

tập trung hoặc xuất hiện của vật chất có lợi ích kinh tế nội tại ở bên trong hoặc bên

trên vỏ trái đất ở dạng, chất lượng và số lượng mà có triển vọng thích hợp để khai

thác tiềm năng kinh tế.

Theo Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, tài nguyên khoáng sản

là tổng lượng khoáng sản tự nhiên ở thể rắn, lỏng, khí, có trong vỏ Trái Đất (lòng

đất) và các bãi thải sau khi khai khoáng (chứa quặng nghèo dưới hàm lượng công

nghiệp tối thiểu, sau này do công nghệ tuyển luyện tiến bộ, có thể khai thác lại) có

7

thể khai thác được để sử dụng trong nền kinh tế quốc dân. Tài nguyên khoáng sản là

nguồn cung cấp nguyên liệu chính cho các quá trình sản xuất trong thế giới hiện đại,

nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước. Do

đặc điểm địa chất của các lục địa nên tài nguyên khoáng sản phân bố không đồng

đều giữa các nước trên thế giới. Tài nguyên khoáng sản không phải là vô tận, thậm

chí đối với một số loại còn rất hạn chế, đã có nhiều dấu hiệu cho thấy một số nguồn

tài nguyên khoáng sản có thể sẽ bị cạn kiệt trong vòng 100 năm nữa, nếu chúng ta

vẫn tiếp tục duy trì mức độ khai thác như hiện nay.

Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Khoáng sản, khoáng sản được định nghĩa là

khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí

tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi

thải của mỏ.

Như vậy, có thể hiểu tài nguyên khoáng sản là một dạng tài nguyên thiên

nhiên tồn tại trong lòng đất hoặc trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên (mỏ

khoáng, tụ khoáng, điểm quặng), hiện tại hoặc sau này có thể được khai thác (kể cả

bãi thải của mỏ mà sau này có thể được khai thác lại) để phục vụ trong nền kinh tế

quốc dân.

Khai thác khoáng sản là hoạt động được thực hiện từ cách đây rất lâu. Từ

thời tiền sử, con người đã biết cách sử dụng các công cụ khai thác thô sơ để đào bới

và sử dụng khoáng sản ở bề mặt nông. Theo thời gian, hoạt động khai thác khoáng

sản ngày càng thay đổi cùng với tốc độ phát triển của công nghệ và phương thức

khai thác. Theo quan điểm của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc

(UNCTAD), khai khoáng là quá trình có các hoạt động khác nhau từ việc khai thác

quặng ở dạng thô, chế biến thành các dạng sản phẩm và sử dụng. Như vậy, hoạt

động khai thác khoáng sản cũng bao gồm hoạt động chế biến và đưa khoáng sản

vào sử dụng.

Theo nhà kinh tế học tài nguyên, giáo sư Paul Collier thuộc Đại học Oxford,

khai thác khoáng sản bao gồm các bước từ giai đoạn khai thác tài nguyên, quá trình

chế biến và tiêu thụ, cho đến bước cuối cùng là sử dụng nguồn thu từ tài nguyên.

8

Theo cách tiếp cận này, hoạt động khai thác khoáng sản không chỉ liên quan đến

hoạt động chế biến và tiêu thụ mà còn gắn bó chặt chẽ với lợi ích kinh tế có được từ

khoáng sản, từ đó đảm bảo nguồn thu hiệu quả để phát triển bền vững.

Dưới góc độ pháp luật, Khoản 7, Điều 2, Luật Khoáng sản năm 2010 quy

định: “Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây

dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan”.

Như vậy, hoạt động khai thác than có thể hiểu là hoạt động thu hồi khoáng

sản than, gồm các giai đoạn như khai thác, phân loại, chế biến và đưa than vào tiêu

thụ trong nước và xuất khẩu, nhằm tạo ra nguồn thu.

Có thể thấy các quan điểm về hoạt động khai thác khoáng sản ở trên đều gắn

với yếu tố kinh tế. Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh

khoáng sản nói riêng đều được hiểu chung là hoạt động buôn bán nhằm phục vụ nhu

cầu của người tiêu dùng và sản sinh ra lợi nhuận. Dưới góc độ pháp luật, hoạt động

kinh doanh nói chung có các đặc điểm như: (i) được thực hiện một cách độc lập, các

chủ thể nhân danh mình tiến hành hoạt động kinh doanh, tự quyết định các vấn đề

liên quan và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình; (ii) được tiến hành chuyên

nghiệp, thường xuyên, liên tục; (iii) nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, với khoáng

sản than, hoạt động kinh doanh than có thể được hiểu là hoạt động trao đổi hàng

hóa (than) được các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than thực hiện độc lập,

thường xuyên, liên tục nhằm mục đích lợi nhuận.

1.1.1.2. Phân loại khoáng sản

Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại khoáng sản thành các loại khác nhau:

Căn cứ theo tính chất, công dụng: Tài nguyên khoáng sản được chia ra

thành khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, khoáng sản nhiên liệu và

nước dưới đất. Cụ thể:

- Khoáng sản kim loại là khoáng sản mà từ chúng, ta có thể lấy ra các kim

loại khác nhau và các hợp chất chứa kim loại được sử dụng trong các ngành công

nghiệp. Trong khoáng sản kim loại lại chia ra kim loại đen (sắt, mangan, titan,

crôm), kim loại màu (đồng, chì, kẽm, niken), kim loại quý (vàng, bạc, platinum),

kim loại hiếm (wolfram, molypden, bitmut, đất hiếm), kim loại phóng xạ (urani,

9

thori, radi), v.v…

- Khoáng sản không kim loại (khoáng sản phi kim) là những khoáng sản

được sử dụng ngay toàn bộ các tập hợp khoáng vật có sẵn (đá xây dựng, thạch

cao, muối mỏ, v.v…) hoặc làm nguyên liệu để thu lấy các khoáng vật hay hợp

chất hóa học. Khoáng sản phi kim có thể chia thành bốn nhóm: nguyên liệu hóa

chất và phân bón, nguyên liệu kiến trúc xây dựng, nguyên liệu chịu lửa và gốm sứ,

nguyên liệu khoáng vật.

- Khoáng sản nhiên liệu gồm các loại khoáng sản cháy được, ở trạng thái rắn

(than bùn, than đá, than nâu) và dạng lỏng (dầu mỏ), dạng khí (khí thiên nhiên), đá

phiến cháy, băng cháy. Nhờ nguồn sinh nhiệt chủ yếu từ cacbon, than là loại nhiên

liệu hóa thạch chính được đốt để lấy nhiệt, cung cấp khoảng một phần tư năng

lượng cơ bản của thế giới và là nguồn năng lượng lớn nhất để sản xuất điện.

- Nhóm khoáng sản nước gồm nước ngọt để uống, cung cấp cho công nghiệp,

nước khoáng, nước nóng, nước mặn. Có trường hợp nước khoáng chứa brôm, i-ốt,

liti, natri đủ để khai thác công nghiệp.

Căn cứ theo trữ lượng khoáng sản: Trữ lượng khoáng sản là một phần của

tài nguyên khoáng mà các tiêu chuẩn tối thiểu về hóa lý liên quan đến hoạt động

khai thác, bao gồm phẩm chất, chất lượng, kích thước, độ sâu chôn vùi đã được tính

toán, điều tra xác định là có giá trị kinh tế để khai thác sản xuất có lãi và đảm bảo

tính hợp pháp tại thời điểm đánh giá. Trữ lượng khoáng sản được tính toán cho từng

mỏ, từng khu hoặc từng thân quặng theo kết quả của công tác thăm dò địa chất và

thi công các công trình khoan và khai đào, làm rõ số lượng địa chất, chất lượng,

điều kiện kỹ thuật mỏ, điều kiện khai thác, giá trị kinh tế, v.v…

Các trữ lượng khoáng sản rắn và hàm lượng các thành phần hữu ích trong

khoáng sản theo giá trị kinh tế được chia thành hai nhóm chính:

- Các trữ lượng cân đối/kinh tế/thương mại:

+ Các trữ lượng, mà việc khai thác và thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá

theo các tính toán kinh tế - kỹ thuật là có hiệu quả về mặt kinh tế, trong điều kiện

cạnh tranh thị trường trong việc sử dụng các kỹ thuật và công nghệ khai thác và chế

biến nguyên liệu, đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về sử dụng hợp lý lòng đất và bảo

10

vệ môi trường trong và sau quá trình khai thác, chế biến khoáng sản.

+ Các trữ lượng, mà việc khai thác hay thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá

theo các tính toán kinh tế - kỹ thuật không đảm bảo tính hiệu quả có thể thực hiện

được về mặt kinh tế - thương mại trong việc khai thác, chế biến với điều kiện cạnh

tranh thị trường do các chỉ số kinh tế - kỹ thuật thấp, nhưng việc khai thác trữ lượng

này trở thành có thể về mặt kinh tế - thương mại khi có những sự hỗ trợ đặc biệt từ

phía nhà nước đối với các pháp nhân khai thác khoáng sản dưới các dạng như ưu

đãi thuế, trợ cấp, trợ giá v.v. (trữ lượng kinh tế/thương mại có giới hạn).

- Các trữ lượng không cân đối (kinh tế tiềm năng/phi kinh tế):

+ Các trữ lượng, đảm bảo các yêu cầu được đề ra đối với các trữ lượng cân

đối, nhưng việc sử dụng chúng tại thời điểm đánh giá là không thể, theo các điều

kiện và tình trạng của kỹ thuật khai mỏ, các yêu cầu của luật pháp, các yêu cầu sinh

thái - môi trường và/hoặc các điều kiện khác.

+ Các trữ lượng, mà việc khai thác hay thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá

là không hợp lý về mặt kinh tế do hàm lượng thành phần khoáng sản thấp, bề dày

thân quặng mỏng hay sự phức tạp chuyên môn đặc biệt trong các điều kiện khai

thác và/hoặc chế biến, nhưng việc sử dụng trong tương lai gần có thể trở thành hiệu

quả về mặt kinh tế - thương mại do sự gia tăng giá cả của khoáng sản trên thị trường

hay do các tiến bộ khoa học - kỹ thuật đảm bảo cho việc giảm giá thành sản xuất

của khoáng sản đó [55].

Theo Đánh giá Thống kê Năng lượng Thế giới của Tập đoàn Bristish

Petroleum (BP) năm 2017 & 2018, trữ lượng than đã xác định trên toàn thế giới đến

năm 2017 là 1.035.012 triệu tấn. Trong đó, trữ lượng than antraxit và bitum là

718.310 triệu tấn (chiếm 69,4%), than á bitum và than non là 316.702 triệu tấn

(chiếm 30,6%). Năm 2014, mỏ than có trữ lượng lớn nhất thế giới là 7 tỷ tấn được

phát hiện tại phía Tây Canada.

Hiện nay ở Việt Nam có hai bể than lớn nhất, đáp ứng chủ yếu cho nhu cầu

than của cả nước, bao gồm bể than Đông Bắc (Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương)

với tổng trữ lượng là 6.287.077 ngàn tấn và bể than Sông Hồng (Thái Bình, Hưng

11

Yên, Nam Định) với tổng trữ lượng là 42.010.804 ngàn tấn [19].

1.1.1.3. Ý nghĩa của khoáng sản đối với nền kinh tế

Xét dưới góc độ kinh tế, khoáng sản là nguồn nguyên liệu chính cho nhiều

ngành công nghiệp quan trọng như sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng, luyện

kim, cơ khí, cung cấp năng lượng… Sản phẩm của hoạt động khai khoáng giúp sản

xuất các công cụ kim loại, máy móc, thiết bị, linh kiện,… phục vụ cho sinh hoạt hằng

ngày của con người, giúp con người cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Các quốc gia giàu tài nguyên thường tận dụng nguồn tài nguyên này để phục

vụ tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia này có xu hướng xây dựng hệ thống chính

sách, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư từ nước ngoài. Các

chính sách, bao gồm chính sách thuế, sẽ là công cụ trực tiếp giúp chính phủ cải

thiện ngân sách cho quốc gia.

Bản thân ngành công nghiệp khoáng sản cũng là một ngành chiếm tỷ trọng

cao trong nền kinh tế của nhiều nước, như công nghiệp khai thác đồng tại Chile –

quốc gia có trữ lượng đồng lớn nhất và kiểm soát 36% thị trường đồng thế giới,

công nghiệp khai thác than ở Trung Quốc, công nghiệp dầu mỏ ở Mỹ, Nga hay Ả

rập Xê út, v.v… Với một số quốc gia như Nam Phi hay Úc, xuất khẩu khoáng sản

còn đem lại nguồn thu lớn [36], [40], [54].

Ngành công nghiệp khai khoáng cũng tạo nên thị trường lao động lớn, tạo ra

nhiều việc làm và giúp cải thiện thu nhập, đồng thời thúc đẩy nguồn lao động phát

triển. Ở các quốc gia có nhiều tài nguyên, tỷ lệ người lao động tham gia trong ngành

khai khoáng là rất lớn, vì chính phủ luôn có định hướng mở rộng khai thác và sản

xuất trong ngành này. Ngành khai khoáng cũng là ngành đòi hỏi người lao động

phải có kỹ năng, kiến thức phù hợp với ngành, liên tục trau dồi bản thân theo tốc độ

phát triển của ngành sao cho phù hợp với nhu cầu của quốc gia.

Công nghiệp khai khoáng Việt Nam bắt đầu hình thành từ cuối thế kỷ 19 do

Pháp khởi xướng. Từ năm 1955, Việt Nam đã tiếp quản, duy trì và phát triển các cơ

sở khai thác, chế biến khoáng sản. Đến nay Việt Nam đã có trên 5.000 điểm khoáng

và mỏ được thăm dò và phát hiện mới. Một số loại khoáng sản có giá trị công nghiệp

12

và trữ lượng dự báo lớn như: dầu-khí (1,2 tỷ - 1,7 tỷ m3); than (240 tỷ tấn), sắt (2 tỷ

tấn), đồng (1 triệu tấn kim loại), titan (600 triệu tấn khoáng vật nặng), bôxit (10 tỷ

tấn), chì kẽm, thiếc, apatít (2 tỷ tấn), đất hiếm (11 triệu tấn), các khoáng sản làm vật

liệu xây dựng (52 tỷ m3) và một số loại khoáng sản khác. Nhiều loại khoáng sản đã

được khai thác phục vụ cho nhu cầu trong nước và một phần cho xuất khẩu. Trung

bình mỗi năm ngành công nghiệp khai khoáng nước ta cung cấp cho nền kinh tế

khoảng 90 triệu tấn đá vôi xi măng, khoảng 70 triệu m3 đá vật liệu xây dựng thông

thường, gần 100 triệu m3 cát xây dựng, cát san lấp, trên 45 triệu tấn than, trên 3 triệu

tấn quặng sắt v.v.; giá trị sản lượng ngành khai khoáng (không kể dầu khí) chiếm

khoảng 4-5% tổng GDP hàng năm; đóng góp trực tiếp cho ngân sách từ tiền cấp

quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường (không kể dầu

khí) trung bình mỗi năm từ 16 – 20 ngàn tỷ đồng, trong đó thuế tài nguyên từ 10 – 11

ngàn tỷ đồng. Có thể nói, tài nguyên khoáng sản thật sự đã trở thành một trong những

nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng thời kỳ [27], [31].

Với đóng góp to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động khai

thác và kinh doanh khoáng sản càng cần phải được quản lý, tổ chức và thực hiện

một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Điều này tất yếu dẫn tới nhu cầu quản lý hoạt động khai thác

và kinh doanh khoáng sản bằng pháp luật thuế.

1.1.2. Khái quát về khoáng sản than

1.1.2.1. Sự hình thành của than

Than là một trong những loại khoáng sản được sử dụng rộng rãi trong đời

sống thường ngày và là nguồn nguyên liệu trong nhiều ngành công nghiệp. Là một

loại đá trầm tích có màu nâu đen hoặc đen có thể đốt cháy và thường xuất hiện

trong các tầng đá gồm nhiều lớp hoặc lớp khoáng chất hay còn gọi là mạch mỏ,

thành phần chính của than là cacbon, cùng với sự đa dạng về số lượng của các

nguyên tố, chủ yếu là hydro, lưu huỳnh, ôxy, và nitơ. Than là một dạng nhiên liệu

hóa thạch, được hình thành từ thực vật bị chôn vùi trải qua các giai đoạn từ than

bùn, và dần chuyển hóa thành than nâu hay còn gọi là than non và thành than á

13

bitum, sau đó thành than bitum hoàn chỉnh và cuối cùng là biến đổi thành than đá.

Quá trình biến đổi này là quá trình phức tạp của cả sự biến đổi về sinh học và cả quá

trình biến đổi của địa chất. Đặc biệt, quá trình biến đổi về địa chất là cả một quãng

thời gian được tính bằng hàng triệu năm, nên việc hình thành mỏ than đá là rất lâu.

1.1.2.2. Phân loại than

Than đá gồm nhiều dạng, được phân loại theo cấp tiến hóa như sau:

Than bùn > than nâu (than non) > than á bitum > than bitum > anthracit

Than bùn được hình thành do sự tích tụ và phân huỷ không hoàn toàn tàn dư

thực vật trong điều kiện yếm khí xảy ra liên tục. Quá trình hình thành than bùn diễn

ra tại các vùng trũng ngập nước. Trong điều kiện yếm khí, quá trình phân giải xác

thực vật lại xảy ra chậm và không đạt tới giai đoạn vô cơ hoá dẫn đến tích luỹ hữu

cơ. Tiếp theo cỏ là lau, lách, cây bụi, cây thân gỗ thay thế, kết hợp với quá trình

kiến tạo địa chất, quá trình bồi tụ, lắng đọng phù sa đã chôn vùi kể cả cây thân gỗ,

làm cho hữu cơ tích tụ thành các lớp và tạo thành than bùn.

Than bùn qua sàng lọc và phân loại được chia thành các loại:

Than bùn loại 1 Than bùn loại 2 Than bùn loại 3

Hàm lượng hữu cơ 17-25% <16% 30-35%

Màu sắc đen nhạt lẫn nâu nâu đen đen than

Độ mịn qua sàng 3,5mm qua sàng 3,5mm qua sàng 5mm

Độ ẩm 20-30% 20-30% 20-35%

Nguồn: [55]

Than bùn có khả năng lưu trữ chất dinh dưỡng có trong đất. Do đó, người ta

thường dùng than bùn để làm vườn giúp cung cấp đầy đủ dưỡng chất cần thiết cho

các thảm thực vật. Than bùn còn được dùng để độn chuồng, làm chất đốt, chất cải

tạo đất. Ngoài ra, than bùn còn được sử dụng để lọc nước, nhất là khi được chế tạo

thành than hoạt tính, than bùn có thể hấp thụ các chất hữu cơ phân tử rất tốt.

Than nâu hay còn gọi là than non, là loại đá trầm tích có màu nâu có thể đốt

cháy được, chúng được thành tạo từ quá trình nén cố kết than bùn một cách tự

nhiên. Đây là loại than có hạng thấp nhất do mức độ sinh nhiệt tương đối thấp. Than

14

nâu có hàm lượng cacbon khoảng 25-35%, độ ẩm cao khoảng 66%, và hàm lượng

tro dao động từ 6% đến 19%. Than nâu có hàm lượng vật chất dễ bay hơi cao nên

nó dễ dàng chuyển sang các sản phẩm dạng khí và lỏng so với các loại than đá cao

cấp khác. Tuy nhiên, do độ ẩm cao và nhạy cháy có thể gây ra các rủi ro trong vận

chuyển và lưu trữ.

Do sinh năng lượng thấp và có độ ẩm cao, than nâu không có hiệu quả khi

buôn bán trên thị trường quốc tế so với than cấp độ cao hơn. Than nâu thường được

đốt trong các nhà máy nhiệt điện. Việc vận hành các nhà máy chạy than nâu truyền

thống gây nên nhiều vấn đề về môi trường cần phải quan tâm.

Than á bitum là loại than giữa than lignite (loại than giữa than bùn và than

bitum thứ cấp) và than bitum theo hệ thống phân loại ở Mỹ và Canada. Than này có

màu từ nâu sẫm đến đen và sáng hơn than lignite. Vài loại than á bitum trông rất

giống than bitum.

Tính ưu việt của than á bitum là chứa ít nước hơn so với than lignite, do đó

cứng hơn, thích hợp hơn cho vận chuyển và lưu bãi. Tuy nhiên, hàm lượng lưu

huỳnh của than á bitum đôi khi thấp hơn 1%, thấp dưới mức lưu huỳnh trong than

bitum. Điều này cho thấy phải đốt than á bitum nhiều hơn than bitum để sản sinh ra

cùng lượng năng lượng như nhau. Nhiều nhà máy điện đã chuyển sang than á bitum

vì hàm lượng lưu huỳnh trong than bitum cao làm tổn hại đến môi trường.

Than bitum là một loại than tương đối mềm chứa chất giống như hắc ín hay

nhựa đường. Loại than này có chất lượng cao hơn than nâu nhưng thấp hơn than

anthracit. Chúng được hình thành từ quá trình bị nén ép của than nâu. Nó có thể có

màu đen hoặc nâu đen; thường là có cấu tạo dải rõ ràng sáng màu và các vật chất

sẫm màu trong các vỉa than. Cấu tạo phân tầng này được phân loại theo hoặc là “tối,

dải sáng màu” hoặc “sáng, dải tối màu” là cách để nhận dạng địa tầng than.

Than bitum là một loại đá trầm tích được hình thành từ quá trình thành đá và

nép ép nửa biến chất của vật liệu than bùn ban đầu. Trong công nghiệp khai khoáng

than, đây là loại than cung cấp một lượng lớn khí metan, một khí nguy hiểm có thể

gây ra các vụ nổ trong hầm lò. Việc khai thác than bitum đòi hỏi các công đoạn có

mức độ an toàn cao nhất về giám sát không khí, quản lý thông gió tốt và công tác

15

giám sát hiện trường tốt.

Anthracit là một loại than đá cứng có ánh bán kim loại. Loại than này có hàm

lượng cacbon cao nhất, có ít tạp chất nhất, và cho năng lượng cao nhất trong tất cả

các loại than. Anthracit là một loại bị biến chất từ của than đá (ở cấp biến chất

thấp), với hàm lượng cacbon trong khoảng 92,1% và 98%. Anthracit được xếp vào

cấp chuẩn, chủ yếu được dùng trong phát điện, và loại cao cấp và siêu cao cấp được

dùng trong lĩnh vực luyện kim. Anthracit chiếm khoảng 1% trữ lượng than toàn cầu

và được khai thác ở một vài quốc gia, nhiều nhất là ở Trung Quốc, tiếp theo là Nga,

Ukraine, Triều Tiên, Nam Phi, Việt Nam, Anh, Úc và Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực khai thác và kinh doanh than, than đá còn được

phân chia theo hình dạng thành than cục và than cám. Hai loại than này, dựa trên

kích thước, độ tro, nhiệt lượng… còn được phân chia nhỏ hơn. Than cục bao gồm

than cục xô, than cục 2, than cục 3, than cục 4, than cục 5, than cục 6, than cục 7,

than cục 8 và một số loại khác. Than cám bao gồm than cám 2a, 2b, than cám 32,

3c, than cám 4a, 4b và một số loại than cám khác.

1.1.2.3. Vai trò và tác hại của than

Vai trò của than

Than đá được sử dụng chủ yếu để làm nhiên liệu rắn cho quá trình sản xuất

điện và quá trình đốt cháy. Thông thường, than sẽ được nghiền thành bột và sau đó

đốt trong lò hơi. Nhiệt độ của lò nung làm chuyển đổi nước trong lò hơi thành nước.

Tiếp theo, hơi nước được sử dụng để làm quay các tuabin và làm hoạt động các máy

phát điện để sinh ra điện.

Việc khí hóa than có thể được sử dụng để sản xuất khí tổng hợp, hỗn hợp khí

(CO) và khí hydro (H2). Thông thường khí tổng hợp được sử dụng chính để đốt

tuabin khí để sản xuất điện, nhưng tính linh hoạt của khí tổng hợp cũng phần nào cho

phép nó được chuyển đổi thành nhiên liệu vận chuyển, chẳng hạn như xăng và dầu

diesel. Ngoài ra, khí tổng hợp còn có thể được chuyển đổi thành metanol, có thể được

trộn trực tiếp thành nhiên liệu hoặc chuyển đổi thành xăng qua quá trình chuyển hóa

methanol thành xăng. Ngoài ra, than cũng có thể được chuyển đổi thành nhiên liệu

16

tổng hợp tương đương với xăng hoặc dầu diesel bằng một số quy trình hóa lỏng.

Than là một nguyên liệu quan trọng trong sản xuất một loạt các loại phân

bón hóa học và các sản phẩm hóa học khác. Phương pháp sản xuất chính của các

sản phẩm này là khí hoá than để sản xuất khí tổng hợp.

Tác hại của than

Hiện nay than đá là một nguồn năng lượng gây ô nhiễm và đã lỗi thời. Việc

khai thác và sử dụng than đá không chỉ gây hại cho con người mà còn là tác nhân

chính gây nên biến đổi khí hậu.

Đặc thù của hoạt động khai thác mỏ là loại công việc nặng nhọc, nguy hiểm,

độc hại. Các mỏ than chủ yếu có kiến tạo phức tạp, công nghệ khai thác lạc hậu, chủ

yếu là lao động thủ công, điều kiện môi trường làm việc khắc nghiệt. Công nhân mỏ

phải làm việc dưới hầm mỏ tối tăm, chật hẹp, gò bó, liên tục tiếp xúc với các yếu tố

gây hại cho sức khỏe, chịu đựng tiếng ồn, chấn động rung chuyển trong lòng đất và

các loại khí độc. Công nhân mỏ còn có nguy cơ cao đối mặt với tai nạn lao động do

sạt lở đất đá, sập hầm, bục nước, nhiễm độc khí metan và mắc các bệnh nghề nghiệp

phổ biến như bệnh bụi phổi, viêm phế quản, viêm phổi, nhiễm độc và các bệnh về da.

Việc sử dụng than làm nhiên liệu đốt cũng gây ra tác động nguy hiểm đến sức

khỏe con người. Quá trình đốt than để sản xuất điện sẽ sản sinh nhiều chất khí ô

nhiễm như SO2, CO2, NO2, các vi hạt rắn, kim loại nặng và đồng vị phóng xạ. Ô

nhiễm do các nhà máy nhiệt điện than có thể gây nên những vấn đề về sức khỏe từ

các bệnh hô hấp, tim mạch đến các bệnh mạch não. Nguồn của vi hạt chủ yếu từ bụi

thải từ quá trình đốt than. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), phơi nhiễm các vi hạt

sẽ làm tăng nguy cơ tử vong ở những người mắc bệnh tim, bệnh đường hô hấp và ung

thư phổi. Các chất ô nhiễm độc hại trong xỉ than bao gồm thạch tín và chì. Thạch tín

sẽ gây ra các bệnh về da, ung thư phổi và ung thư bàng quang và cũng có thể gây tổn

thương cho hệ thần kinh ở những người bị phơi nhiễm thạch tín. Những kim loại

nặng từ khí thải của các nhà máy nhiệt điện than như thủy ngân, chì… có thể gây ảnh

hưởng đến quá trình phát triển tâm thần và hệ thần kinh, dẫn đến chậm phát triển trí

tuệ, rối loạn phát triển và gây tổn hại hệ thần kinh, có thể dẫn đến bệnh tự kỷ.

Để khai thác được than, các công ty khai thác than sẵn sàng chặt phá cây cối

17

và cho nổ các dãy núi để lấy được than đá. Hoạt động khai thác mỏ gây xói mòn,

sụt đất, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm đất, nước ngầm và nước mặt. Khai thác than

lộ thiên làm tổn hại giá trị của môi trường tự nhiên của những vùng đất lân cận, phá

hủy sinh cảnh động thực vật, ô nhiễm không khí, thay đổi cách sử dụng đất hiện tại

và ở mức độ nào đó thay đổi vĩnh viễn địa hình tổng quan của khu vực khai mỏ.

Hoạt động chuyên chở than, di chuyển chất thải và đất làm tăng lượng bụi xung

quanh vùng khai mỏ. Bụi làm giảm chất lượng không khí tại ngay khu khai mỏ, tổn

hại hệ thực vật tại khu vực khai thác cũng như vùng lân cận. Thêm vào đó, khai mỏ

lộ thiên cần một lượng lớn nước để rửa sạch than cũng như khắc phục bụi, đồng

nghĩa với việc nguồn nước cần thiết cho nông nghiệp và sinh hoạt của người dân

sống quanh khu vực khai thác bị ảnh hưởng. Trong quá trình khai thác than, các

chất thải khác như tro bay, tro đáy và bùn khử lưu huỳnh chứa thủy ngân, urani,

thori, asen và các kim loại nặng khác ngấm xuống nguồn nước, gây hại cho quần

thể sinh vật và con người. Ngoài ra, khai thác than còn tác động đến hệ động, thực

vật hoang dã. Tác động trực tiếp nhất là phá hủy hay di chuyển loài trong khu vực

khai thác và đổ phế liệu. Quần thể động vật quanh các khu vực này buộc phải rời

khỏi nơi sinh sống, bị đe dọa trực tiếp về nguồn thức ăn, nước uống… hay bị hủy

diệt. Quá trình cải tạo và phục hồi những khu vực có mỏ khai thác cần nhiều thời

gian và khó có thể đem lại hiện trạng ban đầu. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ

đến cảnh quan, hệ sinh thái và giá trị đất đai.

Từ những phân tích trên có thể thấy, với hoạt động khai thác và kinh doanh

than, bên cạnh mục đích đảm bảo nguồn thu cho NSNN, việc đánh thuế vào các

hoạt động này còn nhằm nhiều mục đích khác.

Thứ nhất, đánh thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than nhằm

tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, ổn định, điều chỉnh toàn diện hoạt động khai thác

và kinh doanh than đang tác động tiêu cực đến môi trường, điều chỉnh trực tiếp

hành vi của các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc gây ô nhiễm

môi trường thông qua hoạt động khai thác và kinh doanh than và bảo vệ môi trường

sinh thái. Nguồn thu từ việc đánh thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh

18

than nói riêng cũng như các hoạt động khác gây tổn hại cho môi trường nói chung

phần nào sẽ được sử dụng để cải thiện môi trường, giảm thiểu các tác động xấu mà

hoạt động khai thác và kinh doanh than đã gây ra.

Thứ hai, đánh thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than nhằm hạn

chế các tổn thất về tài nguyên và thiệt hại trong quá trình khai thác và kinh doanh

than. Như đã phân tích ở trên về tác hại của than, hoạt động khai thác và kinh doanh

than gây ảnh hưởng lớn nhất đến hai đối tượng: môi trường và con người. Việc

đánh thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than góp phần nâng cao trách

nhiệm của các doanh nghiệp trong quá trình khai thác và kinh doanh than, xây dựng

ý thức bảo vệ môi trường, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với mục tiêu giảm

ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống, từ đó thay đổi nhận thức, hành

vi của cá nhân và doanh nghiệp khi khai thác và kinh doanh than.

1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than

1.1.3.1. Khái niệm thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

Thuế là khoản thu do Nhà nước dùng quyền lực của mình để buộc các tổ

chức, cá nhân phải nộp vào NSNN nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của

mình. Cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Christopher Pass và Bryan

Lowes đưa ra định nghĩa: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập

của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên

việc chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản (thuế tài sản)”.

Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được hai nhà kinh tế Mỹ

Makkollhell và Bruy nêu như sau:

Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao bằng

hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao

đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hóa hoặc dịch vụ nào cả, khoản

nộp đó không phải là tiền phạt mà tòa án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật.

Nhà kinh tế học Gaston Jeze, trong cuốn “Tài chính công” đã đưa ra định

nghĩa học thuật như sau: Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác

định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước thông qua

19

con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của nhà nước.

Ở nước ta hiện nay, Luật Quản lý thuế năm 2019 đã giải thích: “Thuế là một

khoản nộp NSNN bắt buộc của tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân theo

quy định của các luật thuế”. Như vậy, nếu xét riêng trong hoạt động khai thác và

kinh doanh than, thuế chính là khoản nộp NSNN bắt buộc của các công ty khai thác

và kinh doanh than theo quy định của các luật thuế nhằm thực hiện nghĩa vụ của

mình, đóng góp nguồn lực tài chính cho NSNN.

1.1.3.2. Đặc điểm của thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

Ngoài các đặc điểm chung của thuế như thuế là khoản nộp NSNN bắt buộc,

thuế có tính pháp lý, thuế có tính không hoàn trả trực tiếp…, thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than còn có các đặc điểm khác như sau:

a. Thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than khác biệt phụ thuộc

vào chủng loại than

Trong ngành công nghiệp khai khoáng, các loại khoáng sản có sự khác biệt

rất lớn dựa trên nhiều yếu tố như giá trị kinh tế, mức độ gây ô nhiễm, phương thức

khai thác… nên các mức thuế áp dụng cho mỗi loại khoáng sản cũng khác nhau.

Than là loại khoáng sản có chủng loại vô cùng đa dạng. Sự khác biệt giữa các chủng

loại không chỉ là về thành phần mà còn là về độ tro, kích thước, nhiệt lượng… Điều

này dẫn đến thực tế có rất nhiều mức thuế được áp dụng đối với than.

b. Thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than chịu ảnh hưởng từ

các loại chi phí

Một số chi phí ảnh hưởng đến việc quy định mức thuế đối với than có thể

kể đến:

- Chi phí thăm dò: Chi phí thăm dò sẽ phát sinh trước khi có thu nhập chịu

thuế. Nhiều chính phủ đặt ra quy định đặc biệt về cách xử lý chi phí thăm dò trước

khi sản xuất (trước khi phát sinh thu nhập) cho các mục đích đánh thuế thu nhập

trong tương lai.

- Chi phí phát triển mỏ và thiết bị: Việc phát triển mỏ phụ thuộc vào các thiết

bị chuyên dụng. Trong thời gian đầu, các doanh nghiệp khai thác than sẽ cần nhập

20

khẩu một lượng lớn thiết bị từ các nhà cung cấp nước ngoài chuyên biệt. Nhiều

quốc gia đã miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị khai thác ít

nhất là trong giai đoạn phát triển ban đầu này. Một số quốc gia khác sẽ áp dụng hoàn

thuế hoặc thuế suất bằng 0. Hầu hết các mỏ khai thác đều cần nhiều vốn và phải bỏ ra

những khoản chi lớn trước khi bắt đầu hoạt động. Nhiều quốc gia đã nhận thấy mức

độ thâm dụng vốn của ngành và cung cấp nhiều phương thức khác nhau để đẩy nhanh

việc thu hồi chi phí vốn (tức là khấu hao) sau khi bắt đầu sản xuất.

c. Thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than ảnh hưởng đến giá

bán than trong nước và xuất khẩu

Đối với hoạt động kinh doanh than trong nước, các loại thuế áp dụng đối

với hoạt động khai thác và kinh doanh than sẽ đẩy giá bán than lên cao. Phụ thuộc

vào sự thay đổi của các loại thuế này, giá bán than trong nước cũng sẽ thay đổi.

Nhiều quốc gia nhập siêu than còn phải đối mặt với vấn đề than nhập khẩu tràn

vào thị trường trong nước và cạnh tranh trực tiếp với giá bán than nội địa, gây ảnh

hưởng không nhỏ đến thu nhập và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp

khai thác và kinh doanh than. Đối với hoạt động xuất khẩu, than là một trong

nhiều loại sản phẩm của ngành công nghiệp khai khoáng có tính cạnh tranh cao

trên thị trường quốc tế. Nhiều quốc gia không áp dụng (hoặc áp dụng ở mức rất

thấp) thuế xuất khẩu đối với khoáng sản, trong đó có than và cung cấp biện pháp

không áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với doanh thu xuất khẩu hoặc áp dụng theo

hướng cho phép hoàn thuế.

1.1.4. Các khoản thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

1.1.4.1. Các khoản thuế đối với hoạt động khai thác than

Các khoản thuế đối với hoạt động khai thác than bao gồm: Thuế tài nguyên

và thuế bảo vệ môi trường.

a. Thuế tài nguyên

Thuế tài nguyên là một loại thuế gián thu. Đây là khoản thu bắt buộc đối với

các tổ chức và cá nhân có hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, không phụ

21

thuộc vào cách thức tổ chức và hiệu quả sản xuất kinh doanh của người khai thác.

Đây là loại thuế quan trọng, là công cụ để quản lý việc khai thác và sử dụng hiệu

quả tài nguyên, cũng như hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác

và sử dụng, tạo nguồn thu cho NSNN và điều hòa quyền lợi của mọi người khi sử

dụng tài nguyên.

Chính sách thuế tài nguyên ở các quốc gia rất đa dạng. Đối tượng chịu thuế

bao gồm cả tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo. Trong tài nguyên không

tái tạo gồm có than (than cốc, than nâu, than đá, than bùn).

Phương pháp đánh thuế chủ yếu gồm ba phương pháp chính:

- Phương pháp đánh thuế dựa vào sản lượng tài nguyên khai thác (thu theo

mức tuyệt đối) được áp dụng tại Indonesia.

- Phương pháp đánh thuế dựa vào giá trị tài nguyên (thu theo tỷ lệ phần trăm) áp

dụng tại Philippine, Chile, Peru...

- Phương pháp đánh thuế dựa vào lợi nhuận từ việc khai thác tài nguyên

được áp dụng tại Nam Phi và một số bang của Úc.

Ví dụ như ở Úc – quốc gia có trữ lượng tài nguyên lớn nhất thế giới về than

nâu, chính sách thuế tài nguyên ở Úc gồm cả thuế liên bang và các loại thuế tài

nguyên do các bang quy định. Ở cấp bang, thuế tài nguyên được thu theo tỷ lệ phần

trăm và mức thu tuyệt đối, tuỳ theo loại tài nguyên và chính sách của từng địa

phương. Đối với mức thu theo tỷ lệ phần trăm: mức thuế suất nằm trong khoảng từ

2,5% đến 18% (mức 18% được tính trên cơ sở lợi nhuận có được). Phần lớn các địa

phương áp dụng mức thuế suất trong khoảng từ 2,5% đến 7,5%, tuỳ theo loại tài

nguyên. Mức thuế suất có thể xác định theo đặc điểm mỏ, ví dụ khai thác tài nguyên

lộ thiên có mức thuế suất cao hơn so với khai thác dưới đất. Cơ sở tính thuế là giá

trị tài nguyên khai thác. Ở cấp liên bang, đối với khoáng sản than, Úc áp dụng thêm

thuế khai thác tài nguyên (Minerals Resource Rent Tax – MRRT) với quy định về

người nộp thuế là người khai thác tài nguyên không tái tạo; đối tượng chịu thuế khai

thác tài nguyên là than được khai thác dưới mọi hình thức; mức thuế suất đối với

22

than là 30% tính trên thu nhập chịu thuế [42].

b. Thuế bảo vệ môi trường

Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, đánh vào sản phẩm, hàng hóa

khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế bảo vệ môi trường được xây

dựng dựa trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, do đó đây được coi là

công cụ kinh tế mang lại hiệu quả cao trong việc điều tiết các hoạt động ảnh hưởng

đến môi trường, kiểm soát ô nhiễm môi trường và bảo đảm phát triển bền vững.

Ngoài mục tiêu tăng nguồn thu cho NSNN, thuế bảo vệ môi trường còn

khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất thải ra môi trường. Bằng việc

nâng cao nhận thức của mọi người về ý thức bảo vệ môi trường, thuế bảo vệ môi

trường góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm, buộc

người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm ít ô nhiễm hơn ở mức giá hợp lý hoặc sử

dụng tiết kiệm hơn sản phẩm gây ô nhiễm. Nguồn thu từ thuế bảo vệ môi trường sẽ

được đầu tư để cải tạo môi trường, từ đó hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Riêng đối với khoáng sản than, đây là loại sản phẩm bị đánh thuế năng

lượng/nhiên liệu ở nhiều nước, chẳng hạn như các quốc gia châu Âu (Đức, Bỉ, Hà

Lan…). Tại Thụy Sĩ, thuế năng lượng bao gồm thuế xăng dầu và thuế CO2. Thuế CO2

đánh vào nhiên liệu hóa thạch, trong đó có than sử dụng sưởi ấm, thắp sáng, tạo ra

điện trong các hệ thống sưởi hoặc vận hành các hệ thống hàn, ghép nối sử dụng nhiệt.

Mức thuế CO2 được xác định trên trọng lượng (tấn) nguyên liệu và phụ thuộc vào

hàm lượng CO2 của từng nguồn năng lượng. Mức thu thuế CO2 đã tăng gấp đôi, từ 36

CHF/tấn trong năm 2008 - năm bắt đầu áp dụng lên 60 CHF/tấn trong năm 2014 và

84 CHF/tấn (khoảng 77 EUR) tính đến tháng 01/2016. Năm 2016 khoản thu từ thuế

CO2 đạt 1 tỷ CHF và 2/3 trong số đó được phân phối trở lại xã hội thông qua giảm giá

bảo hiểm y tế, số còn lại được dùng vào chương trình hỗ trợ cải tạo những công trình

tiết kiệm năng lượng. Những công ty chuyên về khí nhà kính (GHG) có thể được

miễn thuế CO2 nếu cam kết giảm phát thải khí GHG liên tục đến 2020 [29].

1.1.4.2. Các khoản thuế đối với hoạt động kinh doanh than

Các khoản thuế đối với hoạt động kinh doanh than bao gồm thuế giá trị gia

23

tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp.

a. Thuế giá trị gia tăng

Thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu, đánh vào người tiêu dùng khi họ tiêu

dùng một hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. Tuy vậy, chủ thể nộp thuế vẫn là các doanh

nghiệp. Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng mà

còn được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác

dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho

hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. Với hàng hóa

nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cùng thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng

nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.

Bên cạnh các vai trò của thuế nói chung gồm: (i) tạo nguồn thu cho NSNN;

(ii) quản lý, điều tiết nền kinh tế và (iii) điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã

hội, thuế giá trị gia tăng còn giúp hạn chế tình trạng thất thu thuế. Việc khấu trừ

thuế giá trị gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã buộc người mua

phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán.

Việc này đồng thời nâng cao tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của

người nộp thuế. Trong quá trình kê khai nộp thuế, cơ quan thuế tạo điều kiện cho

doanh nghiệp tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Việc kiểm tra thuế giá trị

gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải nộp và lưu giữ

chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh

từ đó tập trung được nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào NSNN ngay từ khâu sản

xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước

nên hạn chế thất thu về thuế.

b. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu và các loại thuế gián thu, cấu thành nên

giá cả của hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới của

một quốc gia hoặc từ thị trường nội địa vào khu phi thuế quan, khu chế xuất hoặc

ngược lại.

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực

24

hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; mở

rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, nhập

khẩu. Ngoài vai trò là nguồn thu cho NSNN, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có

tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng

hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại

phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc

tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường. Thông qua thuế xuất khẩu, thuế

nhập khẩu nhà nước điều tiết việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá. Hơn nữa, thuế

xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại

hàng hoá không được khuyến khích sử dụng.

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước. Việc

đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước cạnh

tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp

cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước có thời gian phát triển và sinh

lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu. Từ đó kích thích lao động

trong nước, tạo việc làm và giải quyết nạn thất nghiệp.

c. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế thu nhập doanh nghiệp là sắc thuế thuộc loại thuế trực thu, phụ thuộc

vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp và được xác định trên cơ sở thu nhập

chịu thuế. Do đó, chỉ khi các doanh nghiệp có lợi nhuận thì mới phải nộp thuế thu

nhập doanh nghiệp.

Thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong nhiều nguồn thu quan trọng của

NSNN. Phạm vi áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, khai thác nguồn thu

từ các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực ở mọi địa bàn khác nhau. Ngày

nay khi nền kinh tế đang ngày càng phát triển, quy mô kinh doanh được mở rộng,

hiệu quả kinh doanh được nâng cao thì nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp

cho NSNN càng lớn.

Thuế thu nhập doanh nghiệp trực tiếp quản lý và điều tiết đối với các hoạt

động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nên thuế thu nhập

25

doanh nghiệp đã có nhiều các quy định mang tính định hướng, điều tiết; khuyến

khích đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng, thiết yếu tại các địa

bàn cần thiết và có tính hạn chế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thật

cần thiết, gây tổn hại đến đời sống văn hóa, xã hội và môi trường. Luật thuế thu

nhập doanh nghiệp cũng có các quy định về khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án

bảo vệ môi trường, các hoạt động thân thiện với môi trường, đóng góp nhất định

trong việc định hướng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quan tâm, đầu tư vào các

lĩnh vực, ngành nghề có lợi cho môi trường sinh thái, giảm thiểu các hoạt động gây

tác hại đến môi trường.

1.2. Một số vấn đề chung về pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác

và kinh doanh than

1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và

người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu NSNN để thực hiện các mục tiêu xác

định trước. Đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than, pháp luật thuế là tổng

hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

thu, nộp thuế giữa cơ quan thuế với các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than.

Trong pháp luật thuế nói chung bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật

hình thức, trong đó pháp luật nội dung ghi nhận, phản ánh chính sách thuế, còn pháp

luật hình thức quy định các vấn đề về quản lý thuế. Với hoạt động khai thác và kinh

doanh than, pháp luật nội dung điều chỉnh về phạm vi áp dụng, bao gồm chủ thể nộp

thuế, đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế, căn cứ tính thuế dựa trên giá

tính thuế và thuế suất; pháp luật hình thức, tức là pháp luật về quản lý thuế sẽ quy

định những vấn đề chung về tổ chức thực hiện các luật thuế và cả những nội dung tổ

chức thực hiện riêng của từng luật thuế về các khía cạnh như đăng ký thuế, kê khai

thuế, nộp thuế, miễn thuế, giảm thuế, quyết toán thuế, kiểm tra, thanh tra thuế…

1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than

26

Về cơ bản, pháp luật thuế là công cụ pháp lý hữu hiệu để vừa quản lý, kiểm

soát, kiểm tra hoạt động khai thác và kinh doanh than, vừa ổn định nguồn thu, điều

tiết kinh tế từ hoạt động này.

Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của

nhà nước cũng như nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp khai thác và kinh

doanh than. Cũng như Luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các

quan hệ xã hội, cụ thể ở đây là quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khai thác

và kinh doanh than. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật thuế khi

điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động này là nhằm tạo quỹ NSNN. Việc các doanh

nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra

nguồn thu tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân

sách. Lịch sử đã chứng minh nguồn thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu NSNN.

Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế

– xã hội nên hoạt động thu NSNN càng trở nên quan trọng và cần thiết. Điều này đã

một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế. Các luật và

chính sách thuế khi được ban hành đều nhằm mục tiêu động viên sản xuất kinh

doanh, thúc đẩy đóng góp cho nguồn thu của Nhà nước. Là một ngành có doanh thu

lớn, lẽ dĩ nhiên ngành than có đóng góp không nhỏ đối với NSNN, từ các khoản thu

ngân sách chung đối với hoạt động kinh doanh và cả những khoản thu riêng đối với

hoạt động khai thác. Do đó, có thể nói pháp luật thuế đã tạo nên cơ sở pháp lý quan

trọng để ổn định nguồn thu cho Nhà nước, đảm bảo các doanh nghiệp thực hiện

đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình.

Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với

các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than để gián tiếp kiểm soát và quản lý

hoạt động của các doanh nghiệp này. Ngành than là một ngành đặc thù. Hoạt động

khai thác và kinh doanh than cần được quản lý chặt chẽ, hiệu quả, có kế hoạch. Bên

cạnh đó, hoạt động khai thác than còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường

sinh thái. Do đó, cùng với những hệ thống pháp luật khác, pháp luật thuế cũng góp

phần đảm bảo việc thực hiện hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản tuân

27

thủ các quy định pháp luật, chính sách và kế hoạch đã đề ra.

Ngành than là một ngành có thu nhập lớn. Để giảm bớt nghĩa vụ nộp thuế,

doanh nghiệp có thể gian lận bằng cách khai giảm doanh thu và tăng chi phí. Hiện nay

công tác thu thuế trong ngành than chủ yếu chỉ dựa vào việc doanh nghiệp tự kê khai,

dữ liệu về thu nhập chịu thuế do doanh nghiệp tự xác định, cơ quan thuế có quyền kiểm

tra trước và sau khi nộp thuế. Trên thực tế, các hành vi gian lận, trốn thuế hầu hết chỉ

được phát hiện thông qua thủ tục thanh tra sau nộp thuế. Vấn đề đặt ra là pháp luật thuế

cần phải kiểm soát được tình trạng gian lận thuế để hạn chế tối đa nguyên nhân gây thất

thu NSNN bằng việc hoàn thiện các quy định của pháp luật thuế.

1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác

và kinh doanh than

1.2.3.1. Pháp luật về thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

a. Pháp luật về thuế đối với hoạt động khai thác than

Hoạt động khai thác than được điều chỉnh bởi Luật Thuế tài nguyên và Luật

Thuế bảo vệ môi trường. Chính hoạt động khai thác than là sự kiện phát sinh nghĩa

vụ nộp các loại thuế tài nguyên và thuế bảo vệ môi trường. Điều này cho thấy các tổ

chức, cá nhân khai thác và kinh doanh than sẽ là chủ thể nộp hai loại thuế này. Việc

đưa than vào đối tượng chịu các loại thuế này xuất phát từ giá trị kinh tế và mức độ

gây tổn hại lớn đối với môi trường của khoáng sản than, đồng thời khuyến khích các

doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than đổi mới phương thức khai thác, áp dụng

công nghệ giảm thiểu tác hại tới môi trường; xây dựng ý thức bảo vệ môi trường và

thúc đẩy nghiên cứu, sử dụng các nguồn nhiên liệu sạch thay thế.

b. Pháp luật về thuế đối với hoạt động kinh doanh than

Hoạt động kinh doanh than được điều chỉnh bởi các luật thuế quy định về

thuế trực thu và thuế gián thu, cụ thể:

Thuế gián thu bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu. Vì vậy, hoạt động kinh doanh than được điều chỉnh bởi Luật Thuế giá trị gia

tăng và Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thuế gián thu không đánh trực tiếp

vào thu nhập và tài sản của các tổ chức và cá nhân kinh doanh than mà đánh gián

28

tiếp thông qua giá cả của than trên thị trường, do đó, đối với hoạt động kinh doanh

than, nghĩa vụ nộp thuế sẽ phát sinh trên cơ sở hoạt động này. Thuế gián thu có ưu

điểm là dễ thu, hạn chế sự phản ứng thuế từ các tổ chức, cá nhân nhưng không tạo

ra sự bình đẳng khi điều tiết thu nhập của những đối tượng có thu nhập chênh lệch.

Thuế trực thu gồm thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế nhập khẩu cũng có tính

chất trực thu khi tổ chức, cá nhân kinh doanh than nhập khẩu than để tiêu dùng. Khi

đó người nộp thuế cũng chính là người chịu thuế. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp

điều chỉnh hoạt động kinh doanh than, quy định sự kiện phát sinh nghĩa vụ nộp thuế

của các tổ chức, cá nhân là khi phát sinh thu nhập chịu thuế từ hoạt động này. Ưu

điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp là tính công bằng, do phần đóng góp về thuế

thường phù hợp với khả năng của từng đối tượng, có tính phân loại đối tượng cao.

Tuy nhiên, hạn chế của loại thuế này là khó thu, khó quản lý do đối tượng nộp thuế

là tất cả các chủ thể có thu nhập. Vì vậy, nhiều tổ chức, cá nhân có xu hướng trốn

tránh nộp loại thuế này và có phản ứng trước những thay đổi về thuế.

Cũng như pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác than, chủ thể nộp thuế

chính là các tổ chức, cá nhân khai thác và kinh doanh than. Các loại thuế được áp

dụng cho hoạt động này luôn có sự ưu đãi trong nhiều trường hợp nhằm thúc đẩy

các tổ chức, cá nhân khai thác và kinh doanh than phát triển, khuyến khích áp dụng

công nghệ kỹ thuật để hạ giá thành sản phẩm và tạo thuận lợi cho việc lưu thông

khoáng sản than và các sản phẩm từ than trong và ngoài nước.

1.2.3.2. Pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than

Với hoạt động khai thác và kinh doanh than, Luật quản lý thuế tập trung điều

chỉnh các nội dung chính như sau:

a. Về kê khai, nộp thuế

Chủ thể nộp thuế hoàn toàn có nghĩa vụ thực hiện việc tự kê khai và tự nộp

thuế. Điều này cũng áp dụng với các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than. Cơ

chế này vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, vừa giúp tiết kiệm chi phí trong

hoạt động quản lý thuế. Là một ngành có số thu NSNN lớn, hầu hết các doanh

29

nghiệp khai thác và kinh doanh than là các doanh nghiệp lớn, có doanh thu hàng

ngàn tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, cơ quan thuế vẫn gặp khó khăn trong việc tổng

hợp, quản lý thông tin kê khai, đặc biệt với hoạt động khai thác và kinh doanh than,

khi mà cơ quan thuế chưa có giải pháp cụ thể để xác định sản lượng khai thác thực

tế và phẩm cấp các loại than khai thác mà hoàn toàn dựa vào thông tin và số liệu

được các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than cung cấp.

Do đó cơ quan thuế cần kiểm soát được sản lượng khai thác thực tế, doanh

thu và nguồn thu, chi của các doanh nghiệp này để triển khai hoạt động kê khai, nộp

thuế chính xác, tạo nền tảng cho việc thanh tra, kiểm tra sau nộp thuế nhằm phát

hiện sớm các vi phạm, nhanh chóng đưa ra biện pháp phòng ngừa hoặc xử lý vi

phạm hiệu quả. Các doanh nghiệp có trách nhiệm kê khai thuế đầy đủ, cung cấp

thông tin chuẩn xác, không khai khống, che giấu… để cơ quan thuế nắm bắt, quản

lý thông tin toàn diện.

Nhìn chung, việc quản lý kê khai, nộp thuế là một nội dung điều chỉnh quan

trọng trong ngành khai khoáng nói chung và khai thác than nói riêng, nhằm tránh

trường hợp các doanh nghiệp kê khai không chính xác, gây thất thu thuế, ảnh hưởng

đến số thu NSNN.

b. Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế

Trong số các hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế, hoạt động thanh tra,

kiểm tra là hoạt động giám sát trên cơ sở các thông tin, dữ liệu liên quan đến doanh

nghiệp khai thác và kinh doanh than, nhằm xác định tình hình tuân thủ pháp luật của

các doanh nghiệp này, đồng thời thu thập, xác minh chứng cứ để xác định hành vi vi

phạm pháp luật thuế.

Hoạt động kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở cơ quan quản lý thuế dựa

trên hồ sơ khai thuế. Việc kiểm tra thuế chỉ được thực hiện tại trụ sở của doanh

nghiệp nộp thuế khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung và cơ quan

thuế phát hiện và yêu cầu chỉnh sửa. Kiểm tra thuế nhằm mục đích kiểm tra tính đầy

đủ, chính xác của thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế, từ đó đánh giá sự tuân thủ

pháp luật thuế của doanh nghiệp.

Hoạt động thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra doanh nghiệp nộp thuế ở mức

30

độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Hoạt động này thường được thực hiện định kỳ hoặc đột

xuất khi cơ quan thuế phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, đồng thời để

giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản

lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng bộ Tài chính.

Hoạt động kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than

có ý nghĩa rất quan trọng do đặc thù về chủ thể, ngành, hàng hóa, doanh thu…

Trong quá trình kiểm tra, thanh tra cần có sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các ban

ngành liên quan, đặc biệt là cơ quan bảo vệ môi trường nhằm xác định cụ thể, chính

xác thông tin của doanh nghiệp, phát hiện các sai phạm trong hồ sơ khai thuế để đưa

ra yêu cầu bổ sung, chỉnh sửa phù hợp.

c. Về cưỡng chế thu nợ thuế

Trong công tác quản lý thuế, việc quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế là

nhiệm vụ vô cùng quan trọng của cơ quan thuế, đồng thời cũng là nhiệm vụ khó

khăn. Với đặc thù ngành than là một ngành mà đa số các doanh nghiệp khai thác

đều là doanh nghiệp lớn, doanh thu nhiều, số nộp NSNN vì vậy mà cũng lên đến

hàng ngàn tỷ đồng, thì công tác quản lý nợ càng cần phải được đẩy mạnh. Trong

lĩnh vực khai thác khoáng sản nói chung và khai thác than nói riêng, tình trạng nợ

thuế không còn mới. Do đó, bên cạnh việc tăng cường tuyên truyền, giải thích, đôn

đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình, cơ quan thuế cần có

kế hoạch và giải pháp cụ thể để xử lý nợ thuế, tập trung vào các khoản nợ lớn đã

kéo dài, khó xử lý và thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Đồng thời cơ quan thuế

cần có sự phối hợp với UBND các cấp để đẩy nhanh công tác thu hồi nợ và đề ra

biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp khai thác khoáng sản nếu doanh nghiệp có khó khăn.

d. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế

Trong thời gian qua, ngành thuế đã triển khai việc ứng dụng công nghệ thông

tin, thực hiện khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử, hóa đơn điện tử và hoàn thuế

điện tử. Hoạt động này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý thuế, hiện đại hóa công

tác quản lý thuế, đẩy nhanh các thủ tục hành chính mà còn giúp doanh nghiệp tiết

kiệm thời gian, giảm thiểu các chi phí liên quan và tăng sự chủ động. Tiếp tục triển

khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế cũng góp phần hỗ trợ cho

31

công tác quản lý và thu hồi nợ của cơ quan thuế.

e. Về công tác tuyên truyền, hỗ trợ

Nhằm mục đích quản lý thuế hiệu quả, cơ quan thuế cần triển khai các biện

pháp tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế. Ngoài việc phổ biến các quy định

về kê khai, nộp thuế, giải đáp thắc mắc về quy định pháp luật, thủ tục hành chính…,

cơ quan thuế cần đẩy mạnh việc hỗ trợ, hướng dẫn thủ tục kê khai, nộp thuế điện tử,

tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình.

Bên cạnh những nội dung trên, các nội dung khác được Luật quản lý thuế

điều chỉnh như kê khai, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế… đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than cũng không có nhiều khác biệt so với các hoạt động kinh

32

doanh khác.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Hoạt động khai thác và kinh doanh than là hoạt động có ý nghĩa sâu sắc đến

nền kinh tế, do đó nhu cầu hoàn thiện và tăng cường hiệu quả quản lý, đặc biệt là

quản lý về thuế đối với hoạt động này là rất cần thiết. Vì vậy, chương 1 của luận

văn đã đi sâu nghiên cứu tập trung các vấn đề lý luận về khoáng sản và khoáng

sản than như khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa đối với nền kinh tế, đồng

thời nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than cũng như các loại thuế cụ thể đối với hai hoạt động này.

Bên cạnh đó, với mục tiêu hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than, luận văn cũng đề cập và giải quyết các vấn đề lý

luận pháp luật thuế đối với hoạt động này. Đây chính là kiến thức lý luận căn

bản, làm nền tảng để giải quyết các nội dung trọng tâm của luận văn ở chương 2

33

và chương 3.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

KHAI THÁC VÀ KINH DOANH THAN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than

Phát triển bền vững đã được nhiều quốc gia xác định là mục tiêu cơ bản,

quan trọng và dài hạn. Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy, tập trung

phát triển kinh tế mà bỏ qua các vấn đề môi trường sẽ đem lại hiệu quả kinh tế

không cao, do chi phí cho các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường sẽ cao hơn chi

phí đầu tư cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Vì thế bảo vệ môi trường đã và

đang trở thành một vấn đề then chốt của chiến lược phát triển bền vững. Trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Việt Nam xác định yêu

cầu xuyên suốt là phát triển nhanh và bền vững, gắn với hoàn thiện thể chế kinh tế

theo hướng xanh hóa. Các chính sách thuế là một trong những công cụ tác động khá

tích cực đến việc bảo vệ môi trường, đồng thời đóng một vai trò quan trọng trong

việc tăng thu cho NSNN, tạo nguồn để thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường.

Ước tính, thu nhập từ nhóm thuế/phí nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường trung bình

chiếm khoảng 5% GDP và dao động từ 3 - 13% GDP tùy vào từng quốc gia. Do đó,

mọi chính sách thuế đối với khoáng sản phải được rà soát nhằm đảm bảo tuân thủ

được tinh thần này [33].

2.1.1. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác than

2.1.1.1. Thuế tài nguyên

a. Chủ thể nộp thuế

Điều 3 Luật thuế tài nguyên quy định về chủ thể nộp thuế trong hợp đồng

hợp tác kinh doanh khai thác tài nguyên giữa bên doanh nghiệp Việt Nam và doanh

nghiệp nước ngoài thì trách nhiệm nộp thuế của các bên phải được xác định cụ thể

34

trong hợp đồng hợp tác kinh doanh. Bên cạnh đó, Điều 3 Thông tư 152/2015/TT-

BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên đã làm rõ quy định này: Trong hợp đồng hợp tác

kinh doanh không xác định cụ thể bên có trách nhiệm nộp thuế tài nguyên thì các

bên tham gia hợp đồng đều phải kê khai nộp thuế tài nguyên hoặc phải cử ra người

đại diện nộp thuế tài nguyên của hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên, trường

hợp việc kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp nước ngoài tự ý ngừng kinh doanh,

chấm dứt hợp đồng thì việc thu thuế tài nguyên sẽ gặp phải khó khăn, không thu

được thuế tài nguyên dẫn đến thất thu NSNN.

Cũng tại Điều 3 Luật thuế tài nguyên quy định người nộp thuế tài nguyên là

tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên. Điểm c

Khoản 2 Điều này có quy định về một trong các trường hợp cụ thể của người nộp

thuế là “Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm

đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng

văn bản về việc kê khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá

nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế”. Theo quy định của Luật Khoáng sản,

để được phép khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện

quy định (có dự án đầu tư khai thác khoáng sản; có báo cáo đánh giá tác động môi

trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường; có vốn chủ sở hữu ít nhất bằng 30%

tổng số vốn đầu tư của dự án đầu tư khai thác khoáng sản...), nên với quy mô và

mức độ phức tạp của hoạt động khai thác, chỉ có tổ chức mới đủ khả năng được cấp

phép khai thác khoáng sản. Hầu hết hoạt động khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ chủ yếu

là khai thác trái phép. Kẽ hở này vô tình đã tạo ra nguy cơ thất thu thuế.

Việc quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cũng

gặp nhiều khó khăn, do các tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua này chỉ lập bảng

kê thu mua, không cam kết nộp thuế thay hoặc không có hóa đơn chứng minh tài

nguyên thu mua đã được nộp thuế tài nguyên, cũng không có quy định nào ràng

buộc những tổ chức, cá nhân này phải nộp thuế.

b. Căn cứ và phương pháp tính thuế

Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế

35

và thuế suất.

Số thuế tài nguyên phải nộp được xác định bằng sản lượng tài nguyên tính

thuế nhân với giá tính thuế và nhân với thuế suất thuế tài nguyên.

Sản lượng tài nguyên tính thuế: Theo Khoản 1 Điều 5 Luật thuế tài nguyên:

“Đối với tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối

lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng

của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.”

Nếu như theo quy định trước đây, sản lượng tài nguyên tính thuế là sản

lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác trong kỳ nộp thuế, không phụ thuộc

vào mục đích khai thác tài nguyên, thì hiện nay, chính sách quy định tính thuế theo

sản lượng thực tế khai thác do doanh nghiệp khai báo.

Với tài nguyên xác định được sản lượng khai thác, sản lượng tài nguyên tính

thuế là số lượng, trọng lượng, khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ

tính thuế. Tài nguyên có nhiều cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại khác nhau thì

sản lượng tài nguyên tính thuế được phân loại theo sản lượng tài nguyên có cùng

cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại như nhau hoặc quy đổi ra đơn vị sản lượng tài

nguyên để làm căn cứ xác định sản lượng tính thuế cho toàn bộ sản lượng tài

nguyên khai thác. Với tài nguyên không bán mà đưa vào sản xuất sản phẩm khác,

nếu không thể trực tiếp xác định số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài

nguyên thực tế khai thác thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định căn cứ

vào sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ tính thuế và định mức sử dụng tài nguyên

tính trên một đơn vị sản phẩm. Định mức sử dụng tài nguyên phải tương ứng với

tiêu chuẩn công nghệ sản xuất, chế biến sản phẩm đang ứng dụng và được người

nộp thuế đăng ký với cơ quan thuế vào kỳ khai thuế đầu tiên.

Với tài nguyên không xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng

thực tế do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau và được bán ra sau khi sàng tuyển,

phân loại, pháp luật thuế tài nguyên quy định cách xác định sản lượng tính thuế tài

nguyên như sau: Tỷ lệ từng chất có trong tài nguyên được xác định theo mẫu tài

nguyên khai thác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm định và phê duyệt.

36

Nếu tỷ lệ từng chất này khác với tỷ lệ từng chất có trong mẫu tài nguyên thì sản

lượng tính thuế được xác định dựa trên căn cứ kết quả kiểm định về tỷ lệ từng chất

có trong tài nguyên khai thác thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tài

nguyên không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới tiêu thụ trong nước hoặc

xuất khẩu thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng tài nguyên khai thác được

quy đổi từ sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ để bán ra theo định mức sử dụng

tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Định mức sử dụng tài nguyên tính trên

một đơn vị sản phẩm do người nộp thuế kê khai căn cứ trên dự án được cấp có thẩm

quyền phê duyệt, tiêu chuẩn công nghệ thiết kế để sản xuất sản phẩm đang ứng

dụng. Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên thì căn cứ vào định mức

sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm tài nguyên sản xuất bán ra.

Có thể thấy, quy định pháp luật thuế tài nguyên khá cụ thể và chi tiết. Tuy

nhiên, trên thực tế, hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương còn chưa được

quản lý chặt chẽ, hiện tượng khai thác trái phép và trộm than vẫn thường xuyên tiếp

diễn gây tổn thất sản lượng tài nguyên, dẫn đến khó khăn trong quá trình tính toán sản

lượng thực tế khai thác. Thêm vào đó, quy định này chưa mang tính khuyến khích tận

dụng hết tài nguyên trong khai thác và chế biến, khiến nhiều doanh nghiệp khi khai

thác đã bỏ lại nhiều tài nguyên giá trị thấp để tránh đóng nhiều thuế tài nguyên. Việc

quản lý, tính toán và kiểm soát sản lượng khai thác thực tế cũng như cơ chế tự khai tự

nộp đã dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp kê khai sản lượng thấp hơn thực tế nhằm

trốn thuế hoặc giảm số thuế phải nộp, gây thất thu NSNN.

Hiện nay tình trạng này đang dần được khắc phục nhờ vào cơ chế phối hợp

giữa cơ quan thuế, cơ quan quản lý về tài nguyên và môi trường trong việc đối

chiếu, kiểm tra sản lượng tài nguyên đã khai thác và sản lượng tài nguyên mà

doanh nghiệp kê khai nhằm tăng cường công tác quản lý thuế. Cơ quan thuế sẽ đối

chiếu sản phẩm tài nguyên thực tế xuất khẩu trên tờ khai hải quan để quy đổi ra

sản lượng sản phẩm tài nguyên sản xuất và đối chiếu với sản lượng tài nguyên trên

tờ khai quyết toán thuế tài nguyên của doanh nghiệp, nếu phát sinh chênh lệch sản

lượng tài nguyên tính thuế mà doanh nghiệp đã kê khai, thì xử lý theo quy định

37

của Luật Quản lý thuế.

Giá tính thuế tài nguyên đối với tài nguyên khai thác không tiêu thụ trong

nước mà xuất khẩu là giá xuất khẩu đơn vị sản phẩm tài nguyên; trường hợp tài

nguyên khai thác vừa tiêu thụ nội địa và xuất khẩu thì đối với phần tiêu thụ nội địa là

giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, đối với phần

xuất khẩu là giá xuất khẩu tại cửa khẩu. Trường hợp tài nguyên chưa xác định được

giá bán thì giá tính thuế tài nguyên được xác định theo một trong những căn cứ sau:

(i) Giá bán thực tế trên thị trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên cùng loại

nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh) quy định; (ii) Trường

hợp tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác định theo

giá bán đơn vị của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác

nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Cụ thể

khung giá tính thuế tài nguyên cho khoáng sản than được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.1. Đối tượng chịu thuế và khung giá tính thuế

Than antraxit hầm lò

Tấn 1.306.000 1.567.200 Than sạch trong than khai thác

(cám 0-15, cục -15)

Than cục

Than cục 1a, 1b, 1c Tấn 2.784.600 3.978.000

Than cục 2a, 2b Tấn 3.281.000 4.202.400

Than cục 3a, 3b Tấn 3.438.000 4.149.600

Than cục 4a, 4b Tấn 3.404.520 4.863.600

Than cục 5a, 5b Tấn 3.050.880 4.358.400

Than cục don 6a, 6b, 6c Tấn 2.747.000 3.296.000

Than cục don 7a, 7b, 7c Tấn 1.351.560 1.930.800

Than cục don 8a, 8b, 8c Tấn 828.000 1.112.400

Than cám

38

Than cám 1 Tấn 2.606.000 3.127.200

Than antraxit hầm lò

Tấn 1.306.000 1.567.200 Than sạch trong than khai thác

(cám 0-15, cục -15)

Than cám 2 Tấn 2.713.000 3.255.600

Than cám 3a, 3b, 3c Tấn 2.237.760 3.196.800

Than cám 4a, 4b Tấn 1.706.880 2.438.400

Than cám 5a, 5b Tấn 1.349.040 1.927.200

Than cám 6a, 6b Tấn 1.065.120 1.521.600

Than cám 7a, 7b, 7c Tấn 803.040 1.147.200

Than bùn

Than bùn tuyển 1a, 1b Tấn 805.000 966.000

Than bùn tuyển 2a, 2b Tấn 715.000 886.800

Than bùn tuyển 3a, 3b, 3c Tấn 568.000 741.600

Than bùn tuyển 4a, 4b, 4c Tấn 464.520 663.600

Than cục 1a, 1b, 1c Tấn 2.784.600 3.978.000

Than cục 2a, 2b Tấn 3.281.000 4.202.400

Than cục 3a, 3b Tấn 3.438.000 4.149.600

Than cục 4a, 4b Tấn 3.404.520 4.863.600

Than cục 5a, 5b Tấn 3.050.880 4.358.400

Than cục don 6a, 6b, 6c Tấn 2.747.000 3.296.000

Than cục don 7a, 7b, 7c Tấn 1.351.560 1.930.800

Than cục don 8a, 8b, 8c Tấn 828.000 1.112.400

Than cám

Than cám 1 Tấn 2.606.000 3.127.200

Than cám 2 Tấn 2.713.000 3.255.600

Than cám 3a, 3b, 3c Tấn 2.237.760 3.196.800

Than cám 4a, 4b Tấn 1.706.880 2.438.400

39

Than cám 5a, 5b Tấn 1.349.040 1.927.200

Than antraxit hầm lò

Tấn 1.306.000 1.567.200 Than sạch trong than khai thác

(cám 0-15, cục -15)

Than cám 6a, 6b Tấn 1.065.120 1.521.600

Than cám 7a, 7b, 7c Tấn 803.040 1.147.200

Than bùn

Than bùn tuyển 1a, 1b Tấn 805.000 966.000

Than bùn tuyển 2a, 2b Tấn 715.000 886.800

Than bùn tuyển 3a, 3b, 3c Tấn 568.000 741.600

Than bùn tuyển 4a, 4b, 4c Tấn 464.520 663.600

Than nâu, than mỡ

Tấn 760.000 1.200.000 Than nâu

Than mỡ

Than mỡ có độ tro khô Ak≤40% Tấn 1.750.000 2.500.000

Than mỡ có độ tro khô Ak>40% Tấn 910.000 1.750.000

Than khác

Tấn 280.000 400.000 Than bùn

Tấn 136.000 176.800 Than bùn tuyển khác

Tấn 206.000 270.000 Than bã sàng

Tấn 192.000 250.000 Xít thải than

Tấn 1.523.000 2.000.000 Than cám trong than nguyên khai 0-15 mm

Tấn 2.302.000 3.000.000 Than cục trong than nguyên khai 15-100 mm

(Nguồn: Thông tư 05/2020/TT-BTC)

Theo Thông tư 152/2015/TT-BTC quy định, giá tính thuế chưa bao gồm thuế

giá trị gia tăng nhưng “không thấp hơn giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định”.

Có thể thấy Luật thuế tài nguyên đã quy định rõ chỉ trong trường hợp “chưa

xác định được giá bán” thì giá tính thuế mới bị giới hạn không thấp hơn giá tính

40

thuế do UBND cấp tỉnh quy định. Còn Thông tư 152/2015/TT-BTC lại có thể hiểu

là trong mọi trường hợp, giá tính thuế đều không thể thấp hơn giá tính thuế do

UBND cấp tỉnh quy định. Như vậy, quy định về giá tính thuế tại Thông tư không

thống nhất với Luật thuế tài nguyên, tạo ra mâu thuẫn trong quá trình áp dụng, dễ bị

lợi dụng gây thất thu.

Thuế suất thuế tài nguyên: Quốc hội quy định khung thuế suất thuế tài

nguyên đối với khoáng sản trong biểu thuế tài nguyên. Trên cơ sở đó, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội cụ thể hóa biểu thuế tài nguyên theo nguyên tắc: (i) Góp phần

quản lý nhà nước đối với tài nguyên, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và

hiệu quả nguồn tài nguyên; (ii) Góp phần bảo đảm nguồn thu NSNN và bình ổn thị

trường. Cụ thể như sau:

Bảng 2.2. Mức thuế suất của khoáng sản than

STT Nhóm, loại tài nguyên Thuế suất (%)

1 Than an-tra-xít (antraxit) hầm lò 4-20

2 Than an-tra-xít (antraxit) lộ thiên 6-20

3 Than nâu, than mỡ 6-20

4 Than khác 4-20

(Nguồn: Luật Thuế tài nguyên 2009)

So sánh thuế suất của than với các tài nguyên khác, có thể thấy một số bất

cập. Khung thuế suất hiện nay chưa tạo ra được động lực cân đối việc khai thác tài

nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo. Than thuộc nhóm tài nguyên không tái

tạo, nhưng mức thuế suất lại khá thấp (4-20% đối với than antraxit hầm lò và than

khác; 6-20% với than antraxit lộ thiên, than nâu và than mỡ), thấp hơn mức thuế

suất của nhóm sản phẩm rừng tự nhiên là tài nguyên có khả năng tái tạo (ví dụ các

loại gỗ có mức sàn thấp nhất là 10%).

Theo một số ý kiến khác, mức thuế tài nguyên đối với than của Việt Nam

hiện nay là cao. Mức thuế tài nguyên với than hầm lò đã tăng từ 7% vào đầu năm

2014 lên 10% vào năm 2016, còn than lộ thiên từng chịu thuế suất 9% vào đầu năm

41

2014, đến năm 2016 đã lên đến 12% theo Nghị quyết 1084/2015/UBTVQH13.

Ngoài thuế tài nguyên, doanh nghiệp phải nộp tiền cấp quyền khai thác đối với than

là 2% (theo Nghị định số 203/2013/NĐ-CP). Như vậy, tổng cộng là 12% đối với

than khai thác hầm lò và 14% đối với than khai thác lộ thiên.

Thông tin của Bộ Tài nguyên & Môi trường cho thấy, theo thống kê số liệu

các nước trong khu vực Đông Nam Á và một số nước có nền công nghiệp khoáng

sản tương tự, Việt Nam là nước có khung thuế suất thuế tài nguyên cao trên thế

giới, nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác là quá cao, trong khi Trung Quốc là nước

khai thác khoáng sản hàng đầu thế giới có mức thuế suất chỉ từ 5-10%. Một số nước

phát triển đã quy định thuế suất giảm dần từ khoáng sản thô chưa chế biến đến

khoáng sản chế biến sâu ra kim loại như Bang Tây Úc quy định thuế tài nguyên đối

với quặng 7,5%, tinh quặng 5%, kim loại 2,5%. Trong bối cảnh giá thành than ngày

càng tăng cao do điều kiện khai thác khó khăn và thuế tăng cao, trong khi giá bán

than giảm so với trước, đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho giá

thành than trong nước cao hơn giá thành than nhập khẩu, dẫn đến làm giảm khả

năng cạnh tranh, tạo điều kiện cho than nhập khẩu “tràn” vào Việt Nam, gây nhiều

hệ lụy xấu đối với các doanh nghiệp khai thác than trong nước và kinh tế - xã hội

đối với vùng than.

c. Miễn thuế, giảm thuế

Theo quy định tại Điều 9 Luật thuế tài nguyên 2009, Điều 6 Nghị định

50/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế

tài nguyên và Điều 10, Điều 11 Thông tư 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài

nguyên có 7 trường hợp được miễn thuế tài nguyên. Trong đó, liên quan đến khai

thác khoáng sản có một trường hợp là: Người nộp thuế tài nguyên gặp thiên tai, hoả

hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét

miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế thì

được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau.

d. Kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế

Khai thuế tài nguyên (trừ dầu thô) là loại khai theo tháng và khai quyết

42

toán năm hoặc khai quyết toán đến thời điểm có quyết định về việc doanh nghiệp

thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải thể,

chấm dứt hoạt động.

Thời hạn nộp tờ khai thuế tài nguyên của tháng chậm nhất là ngày 20 của

tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế.

Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế tài nguyên chậm nhất là 90 ngày kể từ

ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.

Thời hạn nộp tờ khai thuế tài nguyên cũng chính là thời hạn nộp thuế tài nguyên.

2.1.1.2. Thuế bảo vệ môi trường

a. Chủ thể nộp thuế

Quy định về người nộp thuế tại Điều 5 Luật thuế bảo vệ môi trường như sau:

1. Người nộp thuế bảo vệ môi trường là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản

xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 3 của

Luật này.

2. Người nộp thuế bảo vệ môi trường trong một số trường hợp cụ thể

được quy định như sau:

a) Trường hợp ủy thác nhập khẩu hàng hóa thì người nhận ủy thác nhập

khẩu là người nộp thuế;

b) Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua than

khai thác nhỏ, lẻ mà không xuất trình được chứng từ chứng minh hàng

hóa đã được nộp thuế bảo vệ môi trường thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

làm đầu mối thu mua là người nộp thuế.

Quy định này đã bổ sung thêm trường hợp chủ thể “nhập khẩu” hàng hóa

thuộc đối tượng chịu thuế so với luật cũ. Nhìn chung việc bổ sung này là hợp lý,

đáp ứng được mục tiêu bảo vệ môi trường, giúp khắc phục thiếu sót và tránh trường

hợp có chủ thể lợi dụng kẽ hở để trốn thuế. Vì nếu chỉ quy định người “sản xuất,

kinh doanh” hàng hóa gây hại tới môi trường mới phải đóng thuế thì thay vì sản

xuất, các chủ thể sẽ nhập khẩu nhằm tránh phải nộp thuế bảo vệ môi trường.

b. Người chịu thuế

43

Với bản chất là một loại thuế gián thu, chủ thể nộp thuế bảo vệ môi trường

và người chịu thuế là khác nhau. Số thuế bảo vệ môi trường phải nộp sẽ được

chuyển vào giá bán hàng hóa và người tiêu dùng sẽ là người chịu khoản thuế này.

Điều này phản ánh được nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” của loại thuế

này. Đồng thời tác động đến sự lựa chọn và sử dụng sản phẩm hàng hóa của người

tiêu dùng. Thay vì sử dụng các loại hàng hóa có hại cho môi trường, người tiêu

dùng sẽ dần chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế có công dụng tương tự và thân

thiện hơn với môi trường hoặc có ý thức sử dụng tiết kiệm hàng hóa gây hại cho

môi trường trong cuộc sống hằng ngày.

c. Đối tượng chịu thuế

Đối tượng chịu thuế bao gồm các hàng hóa mà quá trình sản xuất hoặc sử

dụng gây hại cho môi trường. Đối tượng chịu thuế được lựa chọn dựa trên cơ sở đây

là những hàng hóa được sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng gây tác động xấu đến

môi trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong số các khoáng sản được khai

thác chỉ có mặt hàng than đá thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường.

d. Căn cứ và phương pháp tính thuế

Luật thuế bảo vệ môi trường quy định căn cứ tính thuế bảo vệ môi trường là

“số lượng hàng hóa tính thuế” và “mức thuế suất tuyệt đối”. Công thức tính thuế

bảo vệ môi trường như sau:

Thuế bảo vệ môi Số lượng đơn vị hàng Mức thuế tuyệt đối trên = x trường phải nộp hóa tính thuế một đơn vị hàng hóa

Số lượng hàng hóa tính thuế được quy định cụ thể với mỗi loại hàng hóa để

phù hợp với đặc thù của sản xuất hàng hóa: (i) Với hàng hóa sản xuất trong nước, số

lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng

nội bộ, tặng cho; (ii) Với hàng hóa nhập khẩu, số lượng hàng hóa tính thuế là số

lượng hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, trong hoạt động khai thác và kinh doanh than,

với than sản xuất trong nước, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng than bán ra,

trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho. Với than nhập khẩu, số lượng hàng hóa tính

thuế là số lượng than được nhập khẩu vào Việt Nam. Có thể thấy, việc quy định cụ

thể đã tạo điều kiện thuận lợi và hạn chế việc phát sinh chi phí trong quản lý thu

44

thuế bảo vệ môi trường.

Mức thuế tuyệt đối được quy định theo biểu khung thuế cụ thể do Ủy ban

thường vụ Quốc hội ban hành, bảo đảm hai nguyên tắc: (i) Mức thuế phù hợp với

chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ; (ii) Mức thuế

của hàng hóa được xác định theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường. Quy

định mức thuế tuyệt đối giúp thể hiện sự đơn giản, minh bạch khi thực thi chính

sách thuế bảo vệ môi trường, tăng cường sự chủ động khi tính toán giá thành than

và thu NSNN, tránh được sự phụ thuộc vào biến động của giá cả sản phẩm. Mức

thuế tuyệt đối được quy định trong biểu khung thuế nên có thể căn cứ vào tình hình

thực tế để linh động thay đổi cho phù hợp, nhưng vẫn cần chú trọng đến khả năng

thực thi trong thực tiễn.

Biểu khung thuế và mức thuế

Biểu khung thuế được quy định trong Luật thuế bảo vệ môi trường bao gồm

mức thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế tuyệt đối tối đa. Các mức thuế này được xây

dựng trên cơ sở phân biệt theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường và chính sách

tài chính hiện hành có liên quan (phí bảo vệ môi trường). Tuy nhiên, khoảng cách giữa

mức thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế tuyệt đối tối đa là khá lớn, ví dụ như mức thuế

đối với các loại than đá là từ 10.000 - 50.000 đồng/tấn, dẫn tới việc áp dụng không

thống nhất giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất than tại nhiều địa phương khác nhau.

Biểu khung thuế bảo vệ môi trường cụ thể được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.3. Biểu thuế bảo vệ môi trường của than đá

STT Hàng hóa Mức thuế (đồng/1 đơn vị hàng hóa) Đơn vị tính

1 Than nâu Tấn 10.000-30.000

2 Than an-tra-xít (antraxit) Tấn 20.000-50.000

3 Than mỡ Tấn 10.000-30.000

4 Than đá khác Tấn 10.000-30.000

(Nguồn: Luật thuế bảo vệ môi trường)

Trên cơ sở biểu thuế trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết

45

số 579/2018/UBTVQH14 quy định biểu thuế bảo vệ môi trường, trong đó quy định

cụ thể mức thuế bảo vệ môi trường đối với từng loại than. Hiện nay, Nghị quyết số

579/2018/UBTVQH14 quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với than antraxit

là 30.000 đồng/tấn, đối với than nâu, than mỡ và các loại than đá khác là 15.000

đồng/tấn. Xét chung mức thuế của tất cả các loại hàng hóa trong bảng 2.3 có thể

thấy biên độ của biểu khung thuế khá rộng. Mức thuế tối đa và mức thuế tối thiểu

chênh nhau khoảng từ 3-5 lần. Riêng mặt hàng than, ví dụ như than antraxit có biên

độ dao động từ 20.000-50.000 (khoảng 2,5 lần) thì hiệu số lại cao (30.000 đồng/1

tấn). Biên độ rộng có thể giúp tạo sự ổn định trong một khoảng thời gian dài, hạn

chế việc sửa đổi nhiều lần. Tuy nhiên, chênh lệch hiệu số cao có ảnh hưởng không

nhỏ đến các ngành sản xuất cần sử dụng than và trong đời sống hằng ngày. Với hiệu

số chênh lệch như vậy, mức thuế có thể biến động, ảnh hưởng đến số thuế bảo vệ

môi trường mà các doanh nghiệp phải nộp cũng như kế hoạch sản xuất, thu chi ngân

sách, giá cả sản phẩm…

Thêm vào đó, căn cứ để quy định biểu khung thuế cho từng hàng hóa cũng

chưa rõ ràng. Chẳng hạn như mặt hàng than được chia thành nhiều loại với các biểu

khung thuế khác nhau, nhưng vẫn không thể hiện được nguyên nhân tại sao than

antraxit lại có mức thuế cao hơn so với các loại than khác. Xét đến mức độ gây ô

nhiễm của từng loại than chắc chắn sẽ có sự khác nhau, vậy tại sao ngoài than

antraxit, các loại còn lại đều có cùng mức thuế? Nghiên cứu từ kinh nghiệm các

quốc gia khác trong việc quy định mức thuế cho hàng hóa, có thể thấy Trung Quốc

đã áp dụng mức thuế khác nhau tùy theo hàm lượng lưu huỳnh trong than. Ví dụ:

Than đá có hàm lượng lưu huỳnh 0,4%: 8,4 NDT/1 tấn; hàm lượng 0,6%:

12,6NDT/tấn; hàm lượng 0,8 %: 16,6 NDT/ tấn… Do đó, với biểu khung thuế được

quy định trong Luật thuế bảo vệ môi trường, có thể thấy căn cứ, cơ sở áp mức thuế

cho từng loại hàng hóa chưa thực sự rõ ràng, không có được sự thống nhất trong

quá trình áp dụng [33].

e. Hoàn thuế

Người nộp thuế bảo vệ môi trường được hoàn thuế đã nộp trong các trường

46

hợp sau:

- Hàng hóa nhập khẩu còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu sự

giám sát của cơ quan Hải quan được tái xuất khẩu ra nước ngoài.

- Hàng hóa nhập khẩu để giao, bán cho nước ngoài thông qua đại lý tại Việt Nam

- Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức kinh doanh

hàng tạm nhập, tái xuất.

- Hàng hóa nhập khẩu do người nhập khẩu tái xuất khẩu ra nước ngoài.

- Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản

phẩm theo quy định của pháp luật khi tái xuất khẩu ra nước ngoài.

Số lượng hàng hóa được hoàn thuế: Việc hoàn thuế chỉ thực hiện đối với

hàng hóa thực tế xuất khẩu.

Thủ tục, hồ sơ, trình tự, thẩm quyền giải quyết hoàn thuế bảo vệ môi trường đối

với hàng xuất khẩu được thực hiện theo quy định như đối với việc giải quyết hoàn thuế

nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

f. Kê khai nộp thuế

Thuế bảo vệ môi trường chỉ nộp một lần đối với hàng hóa sản xuất hoặc nhập

khẩu, được kê khai và nộp theo tháng. Thời hạn nộp tờ khai đồng thời cũng là thời hạn

nộp thuế chậm nhất vào ngày 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế.

Riêng đối với hàng hóa nhập khẩu thì việc kê khai, nộp thuế thực hiện theo

từng lần nhập khẩu.

- Đối với mặt hàng than, công tác quản lý thuế bảo vệ môi trường, cụ thể là

hoạt động kê khai, tính thuế và nộp thuế bảo vệ môi trường khác nhau, được chia

thành hai trường hợp là than khai thác, sử dụng nội địa và than xuất khẩu, được quy

định cụ thể tại Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số

67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế

bảo vệ môi trường

- Với than khai thác, sử dụng nội địa:

+ Than do Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) quản

lý và giao cho các đơn vị thành viên khai thác và kinh doanh việc kê khai và nộp

47

thuế bảo vệ môi trường thực hiện như sau:

Hàng tháng các Công ty làm đầu mối tiêu thụ than của TKV thực hiện phân

bổ số thuế bảo vệ môi trường phải nộp cho các địa phương nơi có than khai thác

tương ứng với sản lượng than thu mua của các Công ty sản xuất khai thác than tại

địa phương và lập Biểu tính thuế bảo vệ môi trường. Số thuế bảo vệ môi trường

phân bổ cho các địa phương nơi khai thác than được xác định căn cứ trên tỷ lệ phần

trăm (%) than tiêu thụ nội địa trong tổng số than bán ra và số lượng than khai thác

Sản lượng than tiêu thụ nội địa trong kỳ

Tỷ lệ (%)

=

Sản lượng than tiêu thụ nội địa trong kỳ

Tổng số than tiêu thụ trong kỳ

Sản lượng than

Số thuế bảo vệ môi

Tỷ lệ (%)

Mức thuế

=

mua của các đơn vị tại địa phương

x

x

trường phải nộp cho địa phương có than khai thác trong kỳ

than tiêu thụ nội địa trong kỳ

tuyệt đối trên 1 tấn than tiêu thụ

nơi có than khai thác trong kỳ

tại địa phương bán cho công ty đầu mối tiêu thụ than của TKV theo công thức:

Công ty đầu mối tiêu thụ than kê khai và nộp thuế bảo vệ môi trường cho

toàn bộ số thuế bảo vệ môi trường phát sinh đối với than khai thác và tiêu thụ nội

địa với cơ quan thuế quản lý trực tiếp công ty đầu mối và cơ quan thuế quản lý công

ty khai thác. Căn cứ số thuế bảo vệ môi trường được tính nộp cho từng địa phương

trong kỳ tính thuế, công ty đầu mối tiêu thụ than lập chứng từ nộp thuế bảo vệ môi

trường cho địa phương nơi đóng trụ sở chính (nếu có phát sinh số thuế phải nộp) và

các địa phương nơi có than khai thác.

+ Các cơ sở sản xuất, kinh doanh than khác (gồm cả trường hợp tiêu dùng

nội bộ) thực hiện kê khai, nộp thuế bảo vệ môi trường tại cơ quan thuế địa phương

nơi khai thác.

+ Trường hợp người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối

thu mua than khai thác nhỏ lẻ thì thực hiện kê khai thuế bảo vệ môi trường với cơ

quan thuế trực tiếp quản lý người nộp thuế.

- Với than nhập khẩu: Người nộp thuế kê khai theo như quy định đối với

hàng hóa nhập khẩu khác. Trường hợp nhập khẩu than nguyên khai có hàm lượng

48

than antraxít thì người nộp thuế phải kê khai riêng lượng than antraxit nhập khẩu để

nộp thuế bảo vệ môi trường theo mức quy định đối với than antraxit. Nếu khối

lượng thực tế than antraxit nhập khẩu khác với đã kê khai khi nhập khẩu thì người

nộp thuế phải kê khai bổ sung, điều chỉnh.

Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đã khẳng định tài nguyên

khoáng sản có vai trò quan trọng hàng đầu là nguồn lực để phục vụ phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước, do đó phải khai thác tận thu tối đa và sử dụng hợp lý tài

nguyên khoáng sản sẵn có. Trong Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày

25/4/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến

năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã nêu:

Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất

quản lý, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước,

phải được điều tra, thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch sử dụng hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung

và bền vững của nền kinh tế.

Luật Khoáng sản (2010) cũng quy định: Khai thác khoáng sản phải lấy hiệu

quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu

tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ,

loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản (Điều 4). Tổ chức, cá nhân khai thác

khoáng sản có các nghĩa vụ khai thác tối đa khoáng sản chính, khoáng sản đi kèm

(Điều 55). “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22/12/2011

đã nêu quan điểm chỉ đạo:

Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, thuộc tài sản quan trọng của

quốc gia phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm,

có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt, lâu dài và bảo đảm

quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường.

Từ đó cho thấy, Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước xác định

tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội với vai

49

trò chính là nguyên, nhiên liệu cho các ngành sản xuất và đời sống. Việc khai thác

khoáng sản phải đảm bảo thu hồi tối đa khoáng sản, bao gồm khoáng sản chính và

khoáng sản đi kèm.

Theo Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 về Biểu thuế Bảo vệ môi trường,

từ ngày 01/01/2019, thuế bảo vệ môi trường với than antraxit tăng từ 20.000

đồng/tấn lên 30.000 đồng/tấn; với than nâu, than mỡ, than đá khác tăng từ 10.000

đồng/tấn lên 15.000 đồng/tấn. Ngoài ra, doanh nghiệp phải nộp lệ phí cấp giấy phép

thăm dò, cấp phép khai thác; ký quỹ cải tạo môi trường, thuế phục hồi môi trường,

hoàn trả chi phí điều tra cơ bản địa chất, tài liệu thăm dò địa chất, nhưng các doanh

nghiệp khai thác than hàng năm vẫn phải trích vào giá thành 1,0 - 1,5% doanh thu

để thực hiện các dự án môi trường tập trung và chi 0,3 - 0,5% tổng chi phí của các

đơn vị sản xuất than cho công tác môi trường thường xuyên. Việc thuế tăng cao

hiện nay làm cho giá thành khoáng sản tăng cao, sẽ gây tổn thất khoáng sản lớn

trong quá trình khai thác. Vì với mục tiêu đảm bảo có lợi nhuận chấp nhận được,

doanh nghiệp sẽ chỉ khai thác phần trữ lượng dễ khai thác và chất lượng tốt (để có

giá thành thấp và giá bán cao), bỏ lại phần trữ lượng khó khai thác và chất lượng

thấp (có giá thành cao và giá bán thấp). Điều đó hoàn toàn đi ngược lại với chủ

trương, chính sách “khai thác khoáng sản phải đảm bảo thu hồi tối đa khoáng sản”

của Đảng và Nhà nước.

2.1.2. Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động kinh doanh than

Bên cạnh các khoản thuế cho hoạt động khai thác than còn có các khoản thu

chung đối với hoạt động kinh doanh than, bao gồm thuế giá trị gia tăng, thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp.

2.1.2.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp

a. Chủ thể nộp thuế

Tỏ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh than có thu nhập chịu thuế.

b. Thu nhập chịu thuế

Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, khai thác và

kinh doanh than và các thu nhập khác. Thu nhập khác có thể là thu nhập từ chuyển

50

nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động

sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư; thu

nhập từ quyền sử dụng tài sản, quyền sở hữu tài sản…

c. Căn cứ và phương pháp tính thuế

Căn cứ tính thuế là thu nhập tính thuế và thuế suất.

Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp bằng thu nhập tính thuế nhân với thuế suất.

Thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế được xác định bằng thu nhập chịu thuế

trừ thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước.

Thu nhập chịu thuế bằng doanh thu trừ các khoản chi được trừ của hoạt động

sản xuất, kinh doanh cộng thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được ở ngoài Việt Nam.

Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án

đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm

dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật phải hạch toán riêng để kê

khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 20% (từ ngày 01/01/2016)

và không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp bị lỗ trong kỳ tính thuế có các hoạt động chuyển

nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia

thực hiện dự án đầu tư (trừ dự án thăm dò, khai thác khoáng sản) thì số lỗ này được

bù trừ với lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh, sau khi bù trừ vẫn còn lỗ thì tiếp

tục được chuyển sang các năm tiếp theo trong thời hạn chuyển lỗ theo quy định.

Tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản và dự

án đầu tư khai thác khoáng sản không được bù trừ lỗ, lãi với thu nhập của các hoạt

động sản xuất, kinh doanh khác của doanh nghiệp.

d. Kê khai, nộp thuế

Thuế thu nhập doanh nghiệp được tạm nộp theo quý và quyết toán theo năm.

Thời hạn tạm nộp thuế của quý chậm nhất vào ngày thứ 30 của quý tiếp theo. Thời

hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm

tài chính hoặc năm dương lịch.

2.1.2.2. Thuế giá trị gia tăng

Chính sách thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động thăm dò, khai thác và sử

51

dụng tài nguyên thể hiện qua việc thu thuế đối với sản phẩm tài nguyên, khoáng

sản; máy móc, thiết bị, vật tư, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng

cho hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên thuộc nhiều lĩnh vực, trong

đó có khai thác mỏ than, khí than.

a. Chủ thể nộp thuế

Theo quy định pháp luật về thuế giá trị gia tăng, tổ chức, cá nhân khai

thác than thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng khi bán than trong nội địa hoặc xuất

khẩu than.

b. Đối tượng chịu thuế

Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là khoáng sản than phục vụ cho sản xuất,

kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Như vậy, khoáng sản than được nhập khẩu

hoặc khai thác bán ra hoặc chế biến thành sản phẩm khác bán ra thuộc đối tượng

chịu thuế giá trị gia tăng.

c. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế

Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ

không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Trong đó, có 3 nhóm liên quan đến

khoáng sản là:

- Tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế biến thành sản phẩm khác xuất khẩu.

- Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên khoáng sản

có tổng trị giá tài nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá

thành sản phẩm trở lên trừ các trường hợp sau:

+ Sản phẩm được chế biến từ tài nguyên khoáng sản do cơ sở kinh doanh

trực tiếp chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong quy trình chế

biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu

(Quy trình khép kín hoặc phân thành công đoạn).

+ Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên khoáng sản do cơ sở kinh

doanh mua về để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong quy

trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất

khẩu (Quy trình khép kín hoặc phân thành công đoạn).

52

+ Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính không phải tài

nguyên khoáng sản (tài nguyên khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ

sở kinh doanh mua về để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà

trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản

phẩm xuất khẩu.

- Máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và

vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt

động tìm kiếm, thăm dò và phát triển mỏ dầu, khí đốt.

Luật số 106/2016/QH13 (sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật

Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày

6/4/2016 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2016 đã bổ sung thêm vào đối tượng không

chịu thuế giá trị gia tăng và không thuộc diện được áp dụng thuế suất 0% đối với

“Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị

giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản

phẩm trở lên”. Phần bổ sung này đã giúp giải quyết bất cập của Luật Thuế giá trị gia

tăng cũ phát sinh từ quy định “Tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế biến thành sản

phẩm khác” thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng và không thuộc diện

được áp dụng thuế suất 0%, nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô,

khuyến khích chế biến trong nước để tạo giá trị gia tăng lớn hơn cho quốc gia.

Với sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản, nhiều doanh nghiệp gặp

phải khó khăn khi áp dụng quy định về sản phẩm xuất khẩu thuộc đối tượng không

chịu thuế hay được áp dụng thuế suất 0%. Cùng một loại sản phẩm xuất khẩu,

nhưng có doanh nghiệp lại thuộc trường hợp được áp dụng thuế suất 0% (tổng trị

giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm dưới 51% giá thành

sản phẩm), có doanh nghiệp lại không phải chịu thuế giá trị gia tăng (tổng trị giá tài

nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm

trở lên). Bên cạnh đó, do biến động về giá cả khoáng sản trên thị trường nên cùng

một sản phẩm của một doanh nghiệp nhưng có lúc tổng trị giá trên 51%, lúc lại dưới

51%, gây ra tình trạng cùng một sản phẩm lúc thuộc đối tượng không chịu thuế, lúc

53

hưởng thuế suất 0%.

d. Căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng: Là giá tính thuế giá trị gia tăng và thuế suất

thuế giá trị gia tăng.

Nguyên tắc tính thuế giá trị gia tăng: Giá tính thuế giá trị gia tăng là giá bán

chưa có thuế giá trị gia tăng. Giá tính thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng chịu

thuế tiêu thụ đặc biệt là giá đã bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng không bao gồm

thuế giá trị gia tăng. Giá tính thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng chịu thuế bảo vệ

môi trường là giá chưa có thuế giá trị gia tăng nhưng đã bao gồm thuế bảo vệ môi

trường. Đối với hàng hóa nhập khẩu, giá tính thuế giá trị gia tăng bằng giá tính thuế

nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu, cộng thuế tiêu thụ đặc biệt và cộng với thuế

bảo vệ môi trường của hàng hóa nhập khẩu.

Mức thuế suất giá trị gia tăng: Luật Thuế giá trị gia tăng của Việt Nam quy

định 3 mức thuế suất 0%, 5% và 10%, cụ thể: (i) thuế suất thuế giá trị gia tăng 0%

áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy

định của pháp luật và không nằm trong số các trường hợp đặc biệt không được áp

dụng thuế suất 0%; (ii) thuế suất 5% áp dụng đối với một số hàng hóa, dịch vụ thiết

yếu và được liệt kê cụ thể trong danh mục; (iii) thuế suất 10% áp dụng đối với hàng

hóa, dịch vụ thông thường.

Liên quan đến lĩnh vực khai thác khoáng sản, có một số vấn đề cần lưu ý đối

với thuế suất thuế giá trị gia tăng như sau:

- Quặng để sản xuất phân bón chịu thuế giá trị gia tăng ở mức 5% khi bán trong

nước. Như vậy, trường hợp quặng sử dụng để sản xuất phân bón được áp dụng thuế

suất thuế giá trị gia tăng thấp hơn mức thuế áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thông

thường. Đây là quy định ưu đãi đối với đầu vào của sản xuất nông nghiệp.

- Các loại tài nguyên khác chịu thuế suất 10% khi bán trong nước. Do đó đối

với khoáng sản than, mức thuế suất giá trị gia tăng được áp dụng là 10%.

- Một số trường hợp không được áp dụng thuế suất 0% trong đó có 2 nhóm

trường hợp liên quan đến khoáng sản. Đó là:

54

+ Tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế biến thành sản phẩm khác xuất khẩu.

+ Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên khoáng sản

có tổng trị giá tài nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá

thành sản phẩm trở lên trừ các trường hợp sau: (i) Sản phẩm được chế biến từ tài

nguyên khoáng sản do cơ sở kinh doanh trực tiếp chế biến hoặc thuê cơ sở kinh

doanh khác chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại

tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu (Quy trình khép kín hoặc phân thành công

đoạn). (ii) Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên khoáng sản do cơ sở

kinh doanh mua về để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong

quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm

xuất khẩu (Quy trình khép kín hoặc phân thành công đoạn). (iii) Sản phẩm xuất

khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính không phải tài nguyên khoáng sản (tài

nguyên khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ sở kinh doanh mua về

để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong quy trình chế biến

đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu.

e. Phương pháp tính thuế

Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định 2 phương pháp tính thuế giá trị

gia tăng là (i) Phương pháp khấu trừ thuế và (ii) Phương pháp trực tiếp trên giá trị

gia tăng. Cụ thể:

Phương pháp khấu trừ thuế

- Cách xác định:

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số

thuế thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ.

Số thuế giá trị gia tăng đầu ra là tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn

bán hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng. Số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa

đơn giá trị gia tăng bằng giá tính thuế nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng.

Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ là tổng số thuế giá trị gia tăng

ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ; ghi trên chứng từ nộp thuế

giá trị gia tăng khi nhập khẩu và ghi trên chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho

55

tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của Bộ Tài chính.

- Nguyên tắc khấu trừ: (i) Chỉ có thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa,

dịch vụ sử dụng để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng

mới được khấu trừ; và (ii) Thuế giá trị gia tăng đầu vào phát sinh kỳ nào thì kê khai

khấu trừ kỳ đó.

- Điều kiện khấu trừ: (i) Phải có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp hoặc

chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu; và (ii) Phải có chứng từ

thanh toán không dùng tiền mặt khi thanh toán đối với hóa đơn mua hàng hóa, dịch

vụ có giá thanh toán từ 20 triệu đồng/lần trở lên.

- Đối tượng áp dụng:

Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy

đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, bao

gồm: (i) Cơ sở kinh doanh có doanh thu bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hàng năm

từ 1 tỷ đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân kinh doanh. (ii) Cơ sở kinh doanh đăng ký tự

nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, trừ hộ, cá nhân kinh doanh.

Phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng

- Cách xác định:

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị

gia tăng bằng giá trị gia tăng nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng 10% áp dụng

đối với hoạt động mua, bán, chế tác vàng bạc, đá quý.

Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị

gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng đối với những đối tượng còn lại

thuộc diện áp dụng phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng.

- Đối tượng áp dụng

+ Cơ sở kinh doanh mua, bán, chế tác vàng, bạc, đá quý.

+ Doanh nghiệp, hợp tác xã đang hoạt động có doanh thu hàng năm dưới

mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng

phương pháp khấu trừ thuế.

+ Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện

56

áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.

+ Hộ, cá nhân kinh doanh.

+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật

Đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế

toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật, trừ các tổ chức, cá nhân nước

ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát

triển và khai thác dầu khí.

+ Tổ chức kinh tế khác không phải là doanh nghiệp, hợp tác xã, trừ trường

hợp đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.

f. Hoàn thuế

Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định 4 trường hợp thuộc diện hoàn

thuế giá trị gia tăng.

Trong đó, chủ yếu hoàn thuế giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu

và hoàn thuế cho dự án đầu tư. Liên quan đến lĩnh vực khai thác khoáng sản có 3

trường hợp không được hoàn thuế giá trị gia tăng. Cụ thể là:

- Tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế biến thành sản phẩm khác xuất khẩu.

- Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên khoáng sản

có tổng trị giá tài nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá

thành sản phẩm trở lên trừ các trường hợp sau:

+ Sản phẩm được chế biến từ tài nguyên khoáng sản do cơ sở kinh doanh

trực tiếp chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong quy trình chế

biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu

(Quy trình khép kín hoặc phân thành công đoạn).

+ Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên khoáng sản do cơ sở kinh

doanh mua về để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà trong quy

trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất

khẩu (Quy trình khép kín hoặc phân thành công đoạn).

+ Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính không phải tài

nguyên khoáng sản (tài nguyên khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ

57

sở kinh doanh mua về để chế biến hoặc thuê cơ sở kinh doanh khác chế biến mà

trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản

phẩm xuất khẩu.

- Dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày 01

tháng 7 năm 2016 hoặc dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng trị giá tài

nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm

trở lên theo dự án đầu tư.

Tình hình dịch Covid-19 vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn hầu như không

tác động đến các doanh nghiệp trong ngành khai khoáng nói chung và khai thác

than nói riêng. Hầu như các doanh nghiệp trong lĩnh vực này là các công ty, tập

đoàn lớn nên khó nhận được ưu đãi từ các chính sách tài chính. Theo Luật thuế giá

trị gia tăng, sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến

thành sản phẩm khác; sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên,

khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng

chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên thuộc đối tượng không được hoàn thuế khi

xuất khẩu. Đồng thời mặt hàng này cũng không được hưởng ưu đãi thuế xuất khẩu

theo Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành.

Dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày

1/7/2016 thực hiện không hoàn thuế mà không phân biệt tài nguyên, khoáng sản

xuất khẩu đã qua chế biến hay chưa qua chế biến nhằm hạn chế xuất khẩu tài

nguyên thô, chưa qua chế biến; hạn chế việc thực hiện các thủ tục hoàn thuế giá trị

gia tăng rồi sau đó thu thuế khi dự án đầu tư đi vào sản xuất, kinh doanh. Từ đó đơn

giản hóa chính sách thuế và các thủ tục quản lý, giải quyết được nhiều vướng mắc

và bất cập khi thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng.

Những dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng trị giá tài nguyên,

khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên

không được hoàn thuế cho dự án đầu tư nhằm mục đích khuyến khích chế biến sâu

tài nguyên trước khi xuất khẩu, khuyến khích sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên

của quốc gia. Tuy nhiên điều này lại gây khó khăn cho doanh nghiệp trong lĩnh vực

khai thác khoáng sản khi xác định chi phí năng lượng cộng với trị giá tài nguyên,

58

khoáng sản chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.

g. Kê khai, nộp thuế

Thuế giá trị gia tăng là loại thuế khai theo tháng hoặc quý. Cơ sở kinh doanh có

doanh thu hàng năm từ 50 tỷ đồng trở xuống thì kê khai thuế giá trị gia tăng theo quý.

Cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng năm trên 50 tỷ đồng thì kê khai thuế theo tháng.

Việc kê khai thuế theo tháng hay theo quý được áp dụng ổn định cho chu kỳ 3 năm.

Thời hạn nộp tờ khai đồng thời cũng là thời hạn nộp thuế như sau: Đối với

cơ sở kinh doanh kê khai thuế theo tháng thì thời hạn nộp tờ khai và nộp thuế chậm

nhất vào ngày 20 tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế. Đối với cơ sở kinh

doanh kê khai thuế theo quý thì thời hạn nộp tờ khai và nộp thuế chậm nhất vào

ngày 30 quý tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ thuế.

2.1.2.3. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

a. Chủ thể nộp thuế

Chủ thể nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu gồm:

- Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu.

- Người xuất cảnh, nhập cảnh có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, gửi hoặc

nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.

- Người được ủy quyền, bảo lãnh và nộp thuế thay cho người nộp thuế.

b. Đối tượng chịu thuế

Đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm:

- Than xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.

- Than xuất khẩu từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan, hàng hóa

nhập khẩu từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.

- Than xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của

doanh nghiệp thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối.

c. Căn cứ và phương pháp tính thuế

Thuế xuất khẩu, nhập khẩu được tính theo 3 phương pháp:

- Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm: Số thuế xuất khẩu, nhập khẩu

phải nộp được xác định bằng trị giá tính thuế nhân thuế suất. Về nguyên tắc, trị giá

59

tính thuế là trị giá hải quan theo quy định của Luật Hải quan.

Thuế suất thuế nhập khẩu được chia làm 3 nhóm: Thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu

đãi đặc biệt và thuế suất thông thường tùy thuộc vào xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu.

Thuế suất thuế xuất khẩu: Được quy định trong Biểu thuế xuất khẩu. Hầu hết

các mặt hàng xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% hoặc quy định ở mức rất thấp

nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.

Thuế suất thuế xuất khẩu khoáng sản: Được phân biệt theo mặt hàng với

mức thuế suất từ 10% đến 40%.

Bảng 2.4. Biểu thuế xuất nhập khẩu cho mặt hàng than

Mô tả hàng hóa Đơn vị tính Thuế xuất khẩu Thuế nhập khẩu thông thường Thuế nhập khẩu ưu đãi Thuế xuất khẩu theo CPTPP

Than đá; than bánh, than quả bàng và nhiên liệu rắn tương tự sản xuất từ than đá.

Than đá, đã hoặc chưa nghiền thành bột, nhưng chưa đóng bánh:

- Anthracite kg 3% 2% 10% 10%

- Than bi-tum:

+ Than để luyện cốc (SEN) kg 3% 2% 10% 10%

+ Loại khác kg 3% 2% 10% 10%

- Than đá loại khác kg 3% 2% 10% 10%

kg 3% 2% 10% 10%

Than bánh, than quả bàng và nhiên liệu rắn tương tự sản xuất từ than đá

Than non, đã hoặc chưa đóng bánh, trừ than huyền.

kg 3% 2% 15% 15%

60

Than non, đã hoặc chưa nghiền thành bột, nhưng chưa đóng bánh

Mô tả hàng hóa Đơn vị tính Thuế xuất khẩu Thuế nhập khẩu thông thường Thuế nhập khẩu ưu đãi Thuế xuất khẩu theo CPTPP

Than non đã đóng bánh kg 3% 2% 15% 15%

Than bùn (kể cả bùn rác), đã hoặc chưa đóng bánh

3% 2% 15% 15% kg Than bùn, đã hoặc chưa ép thành kiện, nhưng chưa đóng bánh

3% 2% 15% 15% Than bùn đã đóng bánh kg

Than cốc và than nửa cốc

luyện từ than đá, than non

hoặc than bùn, đã hoặc

chưa đóng bánh; muội bình

chưng than đá.

Than cốc và than nửa cốc kg 4,5% 3% 10% 13% luyện từ than đá

Than cốc và than nửa cốc kg 4,5% 3% 10% 13% luyện từ than non hay than bùn

kg Muội bình chưng than đá 5% 0 10% 13%

(Nguồn: Tổng hợp từ Biểu thuế XNK 2020 – Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng

Hòn Gai)

Ngoài Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP), Việt Nam cũng được áp dụng biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực

hiện các hiệp định như Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Trung Quốc giai

đoạn 2018 – 2022 (ACFTA), Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN giai đoạn 2018

– 2022 (ATIGA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN – Nhật Bản giai đoạn

2018 – 2023 (AJCEP), Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về Đối tác Kinh tế giai

đoạn 2018 – 2023 (VJEPA), Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc

61

giai đoạn 2018 – 2022 (AKFTA), Hiệp định Thành lập Khu vực Thương mại Tự do

ASEAN – Australia – New Zealand giai đoạn 2018 – 2022 (AANZFTA), Hiệp định

Thương mại Hàng hóa ASEAN - Ấn Độ giai đoạn 2018 – 2022 (AIFTA), Hiệp định

Thương mại Tự do Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 2018 – 2022 (VKFTA), Hiệp định

Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Chile giai đoạn 2018 – 2022 (VCFTA) và Hiệp

định Thương mại Tự do giữa một bên là Việt Nam và bên kia là Liên minh Kinh tế Á –

Âu và các nước thành viên giai đoạn 2018 – 2022 (VNEAEUFTA). Theo đó, thuế suất

thuế nhập khẩu của các mặt hàng than đều là 0%.

- Theo phương pháp tính thuế tuyệt đối: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp

bằng số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhân với mức thuế tuyệt đối. Mức

thuế tuyệt đối do Chính phủ quy định.

- Theo phương pháp hỗn hợp: Số thuế phải nộp là tổng số thuế được xác

định đồng thời theo cả phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm và phương pháp

tính thuế tuyệt đối.

d. Kê khai, nộp thuế

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được kê khai theo từng lần xuất khẩu, nhập

khẩu. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế phải nộp thuế trước

khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa theo quy định của Luật Hải quan trừ

trường hợp thuộc đối tượng ưu tiên theo quy định của pháp luật.

Người nộp thuế được áp dụng chế độ ưu tiên theo quy định của Luật Hải

quan được thực hiện nộp thuế cho các tờ khai hải quan đã thông quan hoặc giải

phóng hàng hóa trong tháng chậm nhất vào ngày thứ mười của tháng kế tiếp. Quá

thời hạn này mà người nộp thuế chưa nộp thuế thì phải nộp đủ số tiền nợ thuế và

tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế.

Chủ trương chính sách thuế xuất khẩu khoáng sản nói chung và xuất khẩu

than nói riêng ở Việt Nam là hạn chế xuất khẩu tài nguyên không tái tạo, khuyến

khích xuất khẩu sản phẩm tinh chế. Tuy nhiên, tình trạng xuất khẩu trái phép tài

nguyên và xuất khẩu tài nguyên thô còn chiếm tỷ trọng lớn và diễn ra khá phổ biến

ở một số địa phương. Một trong những nguyên nhân là do chính sách thuế xuất

62

khẩu tài nguyên và công tác quản lý hoạt động xuất khẩu tài nguyên còn bất hợp lý.

Hiện nay, biểu thuế xuất khẩu đã được thiết kế theo nguyên tắc thuế suất đối với

mặt hàng thô cao hơn đối với mặt hàng đã qua chế biến. Tuy nhiên, các mặt hàng tài

nguyên của Việt Nam trên thị trường thế giới chiếm tỷ trọng nhỏ và chịu tác động

mạnh của giá thế giới. Do đó, khi giá thế giới xuống thấp, giá tài nguyên Việt Nam

nếu tính cả thuế xuất khẩu sẽ có giá cao hơn so với thị trường thế giới. Khi đó, tài

nguyên không thể xuất khẩu và bị tồn kho khối lượng lớn do công nghệ chế biến

sâu ở trong nước chưa đáp ứng.

Để giải quyết khó khăn, tránh lãnh phí nguồn tài nguyên của quốc gia, yêu

cầu nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh khung thuế suất phù hợp là cần thiết, nhằm

khuyến khích đầu tư chế biến khoáng sản trong nước, đẩy mạnh đầu tư công nghệ,

nâng cao chất lượng và giá trị khoáng sản xuất khẩu.

2.1.3. Thực trạng pháp luật quản lý thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than

2.1.3.1. Về kê khai, nộp thuế

Như tất cả các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp khai thác và kinh doanh

than cũng phải thực hiện việc kê khai thuế và nộp thuế theo quy định pháp luật.

Khoản 2 Điều 17 Luật Quản lý thuế 2019 quy định trách nhiệm của người nộp thuế:

“Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn; chịu

trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế”.

Có thể thấy Luật Quản lý thuế đã đảm bảo cơ chế tự khai tự nộp, dựa trên sự tuân

thủ của người nộp thuế. Người nộp thuế phải tự giác kê khai, nộp thuế và chịu trách

nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của thông tin đã được kê khai.

Cơ quan thuế tiếp nhận tờ khai (trực tiếp hoặc điện tử), kiểm tra tờ khai phát

hiện các lỗi kê khai sai để hướng dẫn doanh nghiệp điều chỉnh kịp thời, xác định

nghĩa vụ thuế theo kê khai của doanh nghiệp. Thời hạn nộp thuế được quy định tại

Điều 55 Luật Quản lý thuế, theo đó thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày cuối cùng

của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, riêng đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì tạm

nộp theo quý, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày 30 của tháng đầu quý sau. Ngoài

63

ra tiền cấp quyền khai thác khoáng sản sẽ nộp theo thời hạn do Chính phủ quy định.

Nhìn chung đối với công tác quản lý kê khai và nộp thuế, Luật Quản lý thuế

xây dựng các quy định theo hướng nâng cao tinh thần tự nguyện và tự giác, đề cao

trách nhiệm và ý thức của người nộp thuế. Cơ quan thuế tăng cường hỗ trợ, đẩy

mạnh công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện dấu hiệu gian lận thuế, từ đó nâng

cao hiệu quả quản lý công tác kê khai và nộp thuế, đảm bảo được số thu cho NSNN.

2.1.3.2. Về thanh tra, kiểm tra thuế

Thanh tra, kiểm tra là một nội dung quan trọng trong pháp luật quản lý thuế.

Đây là hoạt động tất yếu và cần thiết, đồng thời là nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan

thuế nhằm đảm bảo chính sách được thi hành nghiêm túc. Mục đích của của hoạt

động này là phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật thuế như gian dối khi kê

khai, trốn thuế, nợ đọng thuế và đề ra biện pháp xử lý, nhằm hạn chế thấp nhất tình

trạng thất thu thuế, đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế và thắt chặt hiệu

quả quản lý của cơ quan thuế. Thanh tra, kiểm tra cũng là một trong những phương

pháp phát hiện những nội dung chưa phù hợp trong các văn bản pháp luật về thuế để

kiến nghị sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế.

Hoạt động thanh tra thuế được thực hiện trên kế hoạch thanh tra, việc lập kế

hoạch thanh tra phải dựa trên luật định và trên cơ sở phân tích thông tin về doanh

nghiệp. Kế hoạch thanh tra gồm các nội dung: đối tượng thanh tra, phạm vi thanh

tra, thời gian dự kiến tiến hành thanh tra. Với hình thức thanh tra, nếu xét theo thời

gian có thanh tra đột xuất và thanh tra theo kế hoạch, xét theo phạm vi có thanh tra

toàn diện và thanh tra có trọng điểm.

Hoạt động kiểm tra thuế gồm kiểm tra tại cơ quan thuế để kiểm tra việc ghi

chép phản ánh các chỉ tiêu trong hồ sơ khai thuế; kiểm tra các căn cứ tính thuế để

xác định số thuế phải nộp, số thuế được miễn giảm, số tiền thuế được hoàn...; và

kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế trong trường hợp doanh nghiệp không giải trình

bổ sung thông tin tài liệu khi cơ quan thuế yêu cầu, không khai bổ sung hồ sơ khai

thuế hoặc giải trình, bổ sung hồ sơ khai thuế nhưng không chứng minh được số thuế

đã khai là đúng, kiểm tra trước và sau hoàn thuế.

Luật Quản lý thuế 2019 có hiệu lực ngày 01/07/2020 đã khắc phục được

64

những hạn chế của Luật Quản lý thuế năm 2006 liên quan đến công tác thanh tra,

kiểm tra nhằm hạn chế rủi ro, đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch; tăng

cường quyền hạn, trách nhiệm cho các chủ thể có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra;

siết chặt việc tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể nộp thuế bằng những biện

pháp áp dụng nhằm thu thập chứng cứ hỗ trợ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các

trường hợp có dấu hiệu trốn thuế.

2.1.3.3. Về cưỡng chế thu nợ thuế

Công tác cưỡng chế thu nợ thuế nhằm mục tiêu phát hiện và xử lý kịp thời

các trường hợp chủ thể nộp thuế cố ý chậm nộp, chây ì, chiếm đoạt tiền thuế. Nội

dung chính của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là: (i) Giám sát chặt chẽ việc thực

hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế của doanh nghiệp, có biện pháp đôn đốc kịp thời

doanh nghiệp nộp thuế vào NSNN theo quy định của Luật Quản lý thuế và (ii) Theo

dõi số thuế nợ đọng của từng chủ thể nộp thuế, phân loại nợ thuế theo từng loại

thuế, mức thuế, xác định nguyên nhân của khoản nợ và lập kế hoạch thu nợ. Các

trường hợp cần tiến hành cưỡng chế nợ thuế gồm: (i) Chủ thể nợ tiền thuế, tiền phạt

vi phạm pháp luật về thuế đã quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nộp tiền

phạt vi phạm pháp luật về thuế; (ii) Chủ thể nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp

luật về thuế khi đã hết thời hạn gia hạn nộp tiền thuế; (iii) Chủ thể còn nợ tiền thuế,

tiền phạt có hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn.

Cưỡng chế nợ thuế được thực hiện lần lượt các biện pháp sau: (i) Trích tiền

từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế tại kho bạc nhà nước, ngân hàng thương

mại, tổ chức tín dụng khác; (ii) khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; (iii) kê

biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; (iv) thu tiền, tài

sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; (v)

dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu; (vi) thu hồi mã số thuế, đình

chỉ việc sử dụng hóa đơn; (vii) thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh, giấy phép

thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.

Nợ thuế là một thực trạng hiện vẫn đang tiếp diễn trong ngành khai thác

khoáng sản nói chung và khai thác than nói riêng. Các doanh nghiệp khai thác chủ

yếu nợ các khoản thuếsssss liên quan đến bảo vệ môi trường và tiền cấp quyền khai

65

thác khoáng sản. Tình trạng này đòi hỏi pháp luật về cưỡng chế thu nợ thuế phải

được hoàn thiện, nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu, tránh

gây thất thu cho NSNN. Ngoài ra pháp luật về cưỡng chế nợ thuế cần bao quát đến

sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan, ban, ngành địa phương tại khu vực

khai thác để nắm rõ thực tiễn khai thác của doanh nghiệp, xác định tình hình kinh

doanh, tài chính để có biện pháp thu nợ phù hợp.

2.1.3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế

Với tốc độ phát triển như hiện nay, nhu cầu tích hợp, ứng dụng công nghệ

thông tin vào hoạt động hành chính là vô cùng cần thiết, tạo thuận lợi không chỉ cho

doanh nghiệp, người dân mà cả cơ quan thuế. Quan điểm cải cách hệ thống thuế

giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số

732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011, xác định: Bên cạnh việc xây dựng một thể chế chính

sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, minh bạch; Quy trình thủ tục hành chính

thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; Nguồn nhân lực có chất

lượng; Ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý thuế có tính liên

kết, tự động hoá cao, gắn chặt với quá trình cải cách hành chính thuế. Trong đó,

mục tiêu trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin và áp dụng thuế điện tử để

nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Căn cứ vào mục tiêu này, các văn bản

quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế đã được ban hành, từng bước sửa

đổi và hoàn thiện, nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường hiệu quả công tác quản lý

thuế. Việc ứng dụng công nghệ thông tin được thực hiện trong quá trình kê khai,

nộp thuế, hoàn thuế và hỗ trợ người nộp thuế, đem lại những kết quả tích cực, góp

phần đơn giản hóa thủ tục hành chính cho chủ thể nộp thuế; tiết kiệm chi phí cho

các chủ thể nộp thuế cũng như cho cơ quan thuế. Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh

COVID-19 vừa qua, công tác điện tử hóa ngành thuế đã đáp ứng được yêu cầu

phòng chống dịch.

Bên cạnh những thuận lợi đã đạt được, công tác ứng dụng công nghệ thông

tin trong quản lý thuế còn gặp nhiều khó khăn do trình độ về công nghệ thông tin

của các chủ thể nộp thuế và tại cơ quan thuế chưa cao; điều kiện áp dụng về máy

móc, đường truyền kết nối chưa đảm bảo, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện. Hệ

66

thống và các ứng dụng chưa hoàn thiện, cần phải liên tục cập nhật, bảo trì, ảnh

hưởng không nhỏ đến việc sử dụng hệ thống cũng như các ứng dụng của chủ thể

nộp thuế và cán bộ thuế…

2.1.3.5. Về công tác tuyên truyền, hỗ trợ

Công tác tuyên truyền, hỗ trợ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện

nhiệm vụ thu NSNN cũng như giúp người nộp thuế nắm bắt và hiểu đúng pháp luật

trong lĩnh vực thuế. Quy trình tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế được quy định tại

Quyết định số 745/QĐ-TCT ngày 20/04/2015 nêu rõ quy trình lập kế hoạch, tổ chức

thực hiện và chế độ báo cáo công tác. Các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ đã được

các cơ quan thuế mỗi địa phương thực hiện đa dạng, phong phú. Hoạt động tuyên

truyền qua ấn phẩm, tờ rơi, email hay các buổi bồi dưỡng, giáo dục, phổ biến pháp

luật tập trung vào những chính sách và quy định mới. Hoạt động hỗ trợ gồm hỗ trợ

trực tiếp, hỗ trợ qua điện thoại, email hay văn bản; thông qua các hội nghị tập huấn,

đối thoại với người nộp thuế nhằm giải đáp thắc mắc cho các doanh nghiệp trên địa

bàn. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn và giải đáp vướng mắc, khó khăn cho doanh

nghiệp kịp thời, hiệu quả với thái độ nhiệt tình, cởi mở, trách nhiệm của cán bộ thuế

thời gian qua đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực

thi các chính sách thuế, giúp người nộp thuế thúc đẩy sản xuất kinh doanh bền

vững, thực hiện tốt nghĩa vụ thuế và đóng góp cho công cuộc phát triển kinh tế-xã

hội tại địa phương.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than

Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, ngành công nghiệp khai thác than đã đạt được

nhiều thành tựu và ngày càng phát triển lớn mạnh. Bên cạnh những thành tích về

sản lượng than khai thác cũng như doanh thu của ngành than không thể không kể

đến số nộp NSNN ấn tượng, như 16,5 ngàn tỷ đồng (năm 2011); 12,5 ngàn tỷ đồng

(năm 2015) [39]. Sản lượng than tiêu thụ trong nước ngày càng tăng, trong đó thị

trường tiêu thụ than lớn nhất nằm ở các ngành điện, xi măng, giấy và đạm. Tuy

nhiên, than trong nước chỉ đủ nguồn cung cho 17 nhà máy nhiệt điện sử dụng than

67

antraxit trong nước. Còn lại 28 nhà máy nhiệt điện phải sử dụng 100% than bitum, á

bitum nhập khẩu. Theo số liệu thống kê từ Trung tâm Thông tin Công nghiệp và

Thương mại, than nhập khẩu tăng nhanh từ 2,3 triệu tấn (2013) đến 14,7 (2017), đến

năm 2019 đạt 43,85 triệu tấn và sẽ tiếp tục tăng theo nhu cầu than nhập khẩu. Hiện

nay, các quốc gia xuất khẩu than lớn nhất vào Việt Nam gồm Indonesia, Úc, Trung

Quốc, Nga, Malaysia, Nam Phi, Canada. Các nước này có thị phần xuất khẩu vào

Việt Nam chiếm tỷ trọng 95-99%. Do lợi thế về địa lý và giá thành, Indonesia hiện

đang cung cấp hơn 50% sản lượng than nhập khẩu của Việt Nam [34]. Với sự chênh

lệch về giá cả do ảnh hưởng từ các loại thuế, mối quan tâm lớn nhất của các tổ

chức, cá nhân khai thác và kinh doanh than ở Việt Nam là sức cạnh tranh giữa than

nhập khẩu và than sản xuất trong nước.

2.2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than

2.2.1.1. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than

Trong quá trình triển khai và áp dụng pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than, vấn đề được các doanh nghiệp trong ngành quan tâm nhất

là mức thuế, phí tăng dẫn đến giá thành than trong nước tăng cao, ảnh hưởng đến

sức cạnh tranh của than sản xuất trong nước và than nhập khẩu.

Nhiều năm gần đây, các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than như

TKV liên tiếp đề nghị điều chỉnh giảm thuế, phí với loại tài nguyên này. Theo

TKV, với thuế tài nguyên cộng thêm tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và phí

sử dụng tài liệu địa chất, tỷ lệ nộp các loại thuế, phí với hoạt động sản xuất than là

rất cao trong khi điều kiện khai thác khó khăn, giá thành than tăng cao. Điều này

là nguyên nhân khiến than trong nước không thể cạnh tranh với than nhập khẩu,

do đó đề xuất giảm thuế tài nguyên trong nước nhằm tránh tình trạng than nước

ngoài tràn vào Việt Nam, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các doanh

nghiệp trong nước. Trong văn bản kiến nghị của TKV gửi Tổng cục Hải quan và

Tổng cục Năng lượng xem xét giảm thuế tài nguyên đối với than, tình hình giá

than trên thị trường thế giới tại thời điểm năm 2016 giảm trên 30%. Trong khi đó,

68

các loại thuế, phí lại tăng cao, cụ thể: các loại thuế phí tăng cao, chiếm khoảng

15%, gồm: Thuế tài nguyên bình quân 10%; phí môi trường và thuế môi trường

khoảng 2,5%; tiền cấp quyền khai thác 2%; các loại thuế, phí khác 0,5%. Ngoài ra,

than trong nước còn chịu 10% thuế giá trị gia tăng. Thêm vào đó, theo Nghị quyết

số 1084/2015/UBTVQH ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên có hiệu lực

từ ngày 01/07/2016, thuế tài nguyên tăng lên 12% đối với than khai thác lộ thiên

và 10% với than khai thác hầm lò. Mức thuế cao khiến sản lượng khai thác, tiêu

thụ giảm và lợi nhuận của doanh nghiệp giảm mạnh. Việc tăng thuế làm tăng chi

phí khai thác, từ đó khiến các doanh nghiệp đã đi vào khai thác chỉ tập trung khai

thác ở phần quặng giàu với chi phí khai thác thấp, mà bỏ lại quặng nghèo, làm

giảm trữ lượng khoáng sản của một mỏ, từ đó làm giảm tổng số thuế mà Nhà nước

thu được. Về lâu dài, do các mỏ phải đóng cửa sớm hơn dự định, nên tổng số thuế

Nhà nước thu được sẽ sụt giảm. Thuế tăng ảnh hưởng không nhỏ đối với doanh

thu và lợi nhuận của doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than, dẫn đến hệ quả là

thu nhập của người lao động trong ngành than chậm cải thiện, việc tuyển dụng và

giữ chân thợ mỏ trở nên khó khăn và các doanh nghiệp khai thác, kinh doanh than

không có điều kiện để tích lũy, đầu tư phát triển.

Theo Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số

điều của Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13 về việc ban hành biểu thuế suất thuế

tài nguyên, Chính phủ đề nghị điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên đối với

nhóm khoáng sản kim loại, nhóm khoáng sản phi kim loại, do đây là loại tài nguyên

không tái tạo, có giá trị kinh tế lớn và việc khai thác một số khoáng sản vẫn chưa

hiệu quả, gây lãng phí. Một số loại khoáng sản phi kim loại cần phải hạn chế khai

thác để đảm bảo sản xuất trong nước hoặc sử dụng các sản phẩm thay thế, trong đó

có than. Việc điều chỉnh mức thuế tăng là nhằm góp phần bảo vệ, khai thác tài

nguyên hợp lý, đảm bảo nguồn tài nguyên phục vụ nhu cầu trong nước.

Có thể thấy việc quy định mức thuế hợp lý có vai trò quan trọng trong quá

trình thực thi, áp dụng pháp luật thuế liên quan đến hoạt động khai thác và kinh

doanh than. Mức thuế cần nộp vừa phải được tính toán nhằm đảm bảo doanh thu

và lợi nhuận cho doanh nghiệp khai thác, kinh doanh than để đáp ứng cho nhu cầu

69

đầu tư, phát triển và chăm lo cho đời sống thợ mỏ cũng như cán bộ, nhân viên làm

việc trong ngành, vừa phải tạo điều kiện, đẩy mạnh việc sản xuất và tiêu thụ than

trong nước cũng như xuất khẩu than ra nước ngoài, hạn chế tình trạng giá than

trong nước cao, than nhập khẩu giá rẻ chiếm ưu thế, đồng thời cũng cần tuân thủ

chính sách khuyến khích khai thác tận thu tối đa, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài

nguyên than.

2.2.1.2. Thực tiễn công tác quản lý thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than

Hiểu rõ vai trò quan trọng của ngành than đối với kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội của tỉnh, các địa phương có mỏ khai thác đã triển khai nhiều biện pháp

quản lý đối với hoạt động khai thác, vận chuyển và kinh doanh than. Theo chỉ đạo

của ban lãnh đạo tỉnh, thành phố và UBND, các cơ quan thuế đều chỉ đạo các đơn vị

trong ngành đánh giá, phân tích và đề ra biện pháp tăng cường công tác, giám sát,

quản lý khai thuế nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý khai nộp thuế đối với

ngành than, như: Cập nhật thông tin liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản,

các dự án đầu tư; thu thập tài liệu, phân công công chức nghiên cứu chuyên sâu các

quy trình chế biến, tiêu thụ than; tập trung phân tích đối chiếu chéo sản lượng giữa

các đơn vị khai thác và chế biến; đối chiếu số liệu qua thanh kiểm tra giữa các đơn

vị... đồng thời phối hợp chặt chẽ với các ngành nhằm ngăn chặn doanh nghiệp thiếu

trung thực giữa việc lập hồ sơ khai thuế và lập báo cáo khoáng sản. Theo báo cáo 6

tháng đầu năm 2019, số thu NSNN từ ngành than đạt khá. Tập đoàn than nộp 5.349

tỷ đồng, 52,4% dự toán, bằng 192% cùng kỳ (nguyên nhân chủ yếu là do Tập đoàn

than tăng sản lượng khai thác 1,8 triệu tấn, tăng sản lượng tiêu thụ 2,55 triệu tấn,

phát sinh tăng thêm Thuế thu nhập doanh nghiệp của TKV nộp tiền theo quyết toán

năm 2018 và nộp theo Nghị định 20/2017/NĐ-CP số tiền 110 tỷ đồng). Nhiều công

ty có số nộp NSNN tăng như một số công ty thuộc Tổng Công ty Đông Bắc: Công

ty TNHH Một Thành Viên Khai Thác Khoáng Sản nộp 241 tỷ đồng, tăng 91 tỷ

đồng; Công ty TNHH Một thành viên 397 nộp 109 tỷ đồng, tăng 83 tỷ đồng... [6].

Như ở tỉnh Quảng Ninh, thống kê số liệu quản lý thuế trong 3 năm của cơ

70

quan thuế cho thấy, từ năm 2017 đến hết 2019, tổng số nộp NSNN từ các doanh

nghiệp trực tiếp khai, kinh doanh than đạt trên 36 ngàn tỷ đồng. Trong đó, năm

2017 số thu thuế đạt 10.985 tỷ đồng; năm 2018 đạt trên 11.970 tỷ đồng; năm 2019

đạt trên 13.120 tỷ đồng. Như vậy mỗi năm, số nộp NSNN từ nguồn tài nguyên này

tăng bình quân 10%/năm và luôn chiếm từ 41 - 44% tỷ trọng so với tổng thu NSNN

nội địa của tỉnh. Còn về sản lượng tài nguyên khai thuế phí chỉ tính riêng năm 2019

đã tăng 6% so với năm 2018. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng pháp luật thuế trong

ngành than vẫn còn gặp nhiều khó khăn [43].

a. Cơ chế nộp thuế tự khai, tự nộp, tính toán thuế dựa trên sản lượng do

doanh nghiệp tự khai báo

Với cơ chế này, người nộp thuế phải tự kê khai sản lượng khai thác thực tế,

chủng loại, hàm lượng than. Mặc dù đã rất nỗ lực trong việc kiểm soát khai thuế với

100% hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp, nhưng do vẫn thiếu nhiều thông tin, nhân

lực để nhận diện rủi ro, phân tích và xử lý rủi ro nên công tác quản lý khai, nộp các

loại thuế, phí đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than vẫn còn không ít hạn

chế, hiệu quả mang lại chưa thực sự cao so với quy mô tổng thể của khối doanh

nghiệp khai thác than. Theo bảng giá tính thuế tài nguyên mà UBND tỉnh Quảng

Ninh ban hành năm 2019 và 2020 có từ 71 - 78 chủng loại than khác nhau, tương

ứng với 71 - 78 giá tính thuế tài nguyên khác nhau. Hiện chủng loại than tương ứng

đã khai thuế mới có 39 loại (khoảng 50% so với các chủng loại than bằng giá).

Trong khi đó, cơ quan thuế không có khả năng xác định chính xác chủng loại than

mà chỉ dựa vào kết quả giám định của các tổ chức có chức năng giám định.

Với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, khoản tiền này thường được xác

định dựa trên các thông tin được ghi trên giấy phép khai thác khoáng sản, chẳng hạn

trữ lượng địa chất, trữ lượng công nghiệp hoặc cả hai, đặc biệt có trường hợp còn

ghi tài nguyên được phép khai thác, công suất khai thác năm và thời hạn khai thác

hoặc chỉ ghi công suất khai thác năm và thời hạn khai thác. Tuy nhiên trên thực tế,

trữ lượng trong giấy phép khai thác không đúng so với sản lượng thực tế khai thác

được. Nhiều trường hợp doanh nghiệp có giấy phép khai thác không khai thác hết

trữ lượng được cấp phép. Việc này gây khó khăn cho cơ quan thuế trong quá trình

71

quản lý, tính toán và xác định số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cần nộp.

Hiện nay các cơ quan thuế vẫn chưa có cơ chế giám sát sản lượng khai thác

thực tế của doanh nghiệp mà chỉ dựa vào tờ khai. Các doanh nghiệp thường kê khai

thiếu sản lượng so với thực tế, tìm cách trốn tránh nghĩa vụ tài chính. Điều này dẫn

đến những rủi ro thất thu do doanh nghiệp khai báo số liệu thấp hơn thực tế hoặc

không thực hiện các nghĩa vụ đóng góp như cam kết ban đầu. Ngoài ra, nhiều

trường hợp doanh nghiệp chỉ xuất hóa đơn khi người mua yêu cầu để trốn sản lượng

và giá tính thuế. Mặt khác, việc quản lý khai thác ở nhiều nơi còn lỏng lẻo, nên vẫn

còn hiện tượng khai thác trái phép gây thất thu sản lượng. Hàm lượng, chất lượng

tài nguyên khai thác lên cùng tạp chất không đồng đều, nên khó khăn trong việc xác

định khối lượng tài nguyên, giá tính thuế,…

b. Công tác tổ chức, quản lý thu của cơ quan quản lý nhà nước

Quá trình quản lý thu nộp thuế đã được quy định theo từng bước chặt chẽ.

Tuy nhiên đối với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thời hạn giải quyết hồ sơ

xin cấp phép khai thác khoáng sản chỉ ràng buộc đối với các tổ chức, cá nhân phải

thực hiện sau bao nhiêu ngày nhưng chưa có quy định về cơ quan quản lý nhà nước

thực hiện thủ tục hành chính bao nhiêu ngày. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp

các cơ quan quản lý nhà nước làm công tác tính tiền cấp quyền khai thác khoáng

sản rất chậm, gây khó khăn cho doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp tốn nhiều thời

gian để xin cấp phép khai thác, dẫn đến những tổn thất vô hình về kinh tế cho các tổ

chức, cá nhân khi đầu tư vào khai thác khoáng sản.

Trong quá trình thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, công tác

thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về hoạt động này được thực hiện có

hiệu quả. Với sự phối hợp giữa Bộ Tài nguyên & Môi trường, các Sở Tài nguyên &

Môi trường ở các tỉnh, thành phố, hoạt động khai thác khoáng sản tại từng khu mỏ

đều được thanh tra, kiểm tra. Có thể thấy tác dụng của việc nộp tiền cấp quyền khai

thác khoáng sản đã hạn chế được tình trạng khai thác khoáng sản không phép một

cách tràn lan. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước và thu tiền cấp quyền khai thác

khoáng sản vẫn còn một số hạn chế, như việc ngăn chặn hoạt động khai thác không

72

phép chưa đạt được hiệu quả cao, chưa triệt để và nguy cơ tái diễn là có thể nhận

thấy. Các quy định hầu như chỉ chú trọng vào lợi ích của Nhà nước và các doanh

nghiệp khai thác khoáng sản mà chưa xét đến lợi ích của người dân sống tại và xung

quanh khu vực mỏ khai thác.

c. Sự phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan quản lý tài nguyên môi trường

Khoản 6 Điều 5 Thông tư 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên

đã quy định về việc phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan quản lý tài nguyên môi

trường để xác định sản lượng tài nguyên tính thuế, cụ thể:

Cơ chế phối hợp giữa Cơ quan thuế, Cơ quan Tài nguyên và môi trường

để quản lý hoạt động khai thác tài nguyên tại địa phương như sau:

Căn cứ kê khai của người nộp thuế về sản lượng tài nguyên thực tế khai

thác trong năm theo từng mỏ tại Bảng kê được nộp cùng với Tờ khai

quyết toán thuế tài nguyên khi kết thúc năm tài chính, trong vòng 05

ngày làm việc, cơ quan thuế có trách nhiệm chuyển cơ quan Tài nguyên

và Môi trường thông tin chi tiết về sản lượng khai thác tài nguyên trong

năm theo từng mỏ của các đơn vị trong địa bàn.

Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đối chiếu sản lượng

tài nguyên đã khai thác tại từng mỏ do đơn vị khai thác khai, nộp thuế

với dữ liệu đã có tại cơ quan tài nguyên và môi trường; Trường hợp sản

lượng khai thuế không phù hợp sản lượng được phép khai thác ghi trên

Giấy phép khai thác hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì cơ quan Tài

nguyên và môi trường sẽ thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định

sản lượng khai thác thực tế của đơn vị.

Trong vòng 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin do cơ

quan thuế chuyển đến, Cơ quan Tài nguyên và Môi trường có trách

nhiệm chuyển thông tin cho cơ quan thuế để xử lý theo quy định của

Luật Quản lý thuế.

Tuy nhiên cơ chế này hiện chưa được làm rõ về cách thức phối hợp kiểm tra

thực địa tại khu vực khai thác, chưa có trình tự cụ thể để cơ quan tài nguyên môi

73

trường thực hiện các hoạt động nghiệp vụ nhằm xác định sản lượng khai thác thực

tế của doanh nghiệp. Đồng thời, trách nhiệm chủ trì, phối hợp của người đứng đầu

đối với hoạt động khai thác than cũng chưa được xác định rõ ràng. Tình trạng này

cũng tương tự đối với quá trình cấp giấy phép khai thác khoáng sản.

d. Các vi phạm trong hoạt động khai thác và kinh doanh than còn diễn ra ở

nhiều địa phương

Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng thất thu thuế là do cơ quan

thuế chưa thực sự kiểm soát được các vi phạm trong hoạt động khai thác và kinh

doanh than. Đầu tiên là tình trạng khai thác than lậu, hay còn gọi là “than thổ phỉ”.

Việc khai thác, vận chuyển than trái phép vẫn còn tiếp diễn tại một số khu vực, nơi

người dân lợi dụng vườn đồi đất nhà, lợi dụng các dự án phát triển kinh tế. Một ví

dụ điển hình về khai thác than lậu là vụ khai thác than trái phép của Công ty Cổ

phần Tập đoàn Hạ Long trên địa bàn huyện Hoành Bồ (Quảng Ninh) bị phát hiện

vào cuối năm 2018. Dưới danh nghĩa thực hiện xây dựng nghĩa trang cho xã Quảng

La, doanh nghiệp này chỉ thực hiện dự án qua loa, tập trung nguồn lực đã băm nát

hàng chục héc ta đất rừng trồng, rừng phòng hộ để khai thác than trái phép. Lợi

nhuận thu được từ hoạt động khai thác và kinh doanh than là rất lớn, khiến nhiều

đối tượng tìm cách mở các điểm khai thác than trái phép, vận chuyển than sang các

địa bàn khác để tiêu thụ.

Ngoài nạn khai thác than thổ phỉ, vi phạm trong ngành than còn có xu

hướng mới là lợi dụng thực hiện dự án kinh tế - xã hội, các hoạt động hoàn

nguyên, phục hồi môi trường để tận thu than; lợi dụng pháp nhân của một số

doanh nghiệp, đơn vị có chức năng để hợp pháp hóa nguồn than trái phép... Những

vi phạm này một phần bắt nguồn từ đặc điểm về địa bàn khai thác, một phần là từ

trách nhiệm của chính quyền địa phương, lực lượng chức năng và đơn vị ngành

than: Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được phát huy; công tác quy

hoạch, cấp phép, quản lý còn nhiều kẽ hở; công tác quản lý phụ phẩm ngoài than

còn gặp phải vướng mắc; ý thức người dân chưa cao, dễ tiếp tay cho các hành vi

vi phạm… Ngoài ra, các quy định về chế tài xử phạt những vi phạm này chưa đủ

sức răn đe, chưa có tác động đáng kể đến ý thức và hành vi của các tổ chức, cá

74

nhân triển khai hoạt động khai thác than trái phép.

e. Ý thức của người tiêu dùng và các doanh nghiệp khai thác chưa cao

Mục đích chính của việc đánh thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường hay

phí bảo vệ môi trường đều nhằm nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp khai

thác than và người tiêu dùng về môi trường. Các loại thuế này đều để định hướng

phương thức khai thác than của các doanh nghiệp khai khoáng và thói quen, hành vi

của người tiêu dùng đối với mặt hàng than – một loại khoáng sản gây ô nhiễm môi

trường ở mức nghiêm trọng. Tuy nhiên, qua nhiều năm áp dụng, nhận thức của các

doanh nghiệp khai thác và người tiêu dùng về vai trò và ý nghĩa của những loại thuế

này không cao. Không phải ai cũng quan tâm đến nguyên nhân một hàng hóa nhất

định bị đánh thuế và đó là loại thuế nào mà chỉ chú ý giá cả của hàng hóa đó tăng

giảm ra sao. Vì vậy hành vi, thói quen của người tiêu dùng và phương thức khai

thác của các doanh nghiệp khai thác chưa thể thay đổi. Thực trạng này bắt nguồn từ

các quy định về pháp luật thuế chưa sát với thực tiễn và công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật còn yếu.

2.2.2. Đánh giá chung

2.2.2.1. Ưu điểm

Do số thu ngân sách của cả nước có phần không nhỏ thuộc về ngành than,

nên công tác quản lý và thu ngân sách luôn nhận được sự chỉ đạo thường xuyên của

Bộ Tài chính, Tổng Cục thuế và sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả của các sở, ban,

ngành, các địa phương.

Cơ quan thuế các tỉnh cũng đã thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý thuế,

thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, tăng cường chống thất

thu, thu hồi nợ đọng thuế từ các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than. Cơ

quan thuế đã phân nhóm các doanh nghiệp có nợ theo tính chất và quy mô, triển

khai đôn đốc thu nợ, theo dõi chặt chẽ tiến độ thu ngân sách, làm việc với các doanh

nghiệp khai thác và kinh doanh than để nắm bắt tình hình sản xuất, kinh doanh và

nộp NSNN; báo cáo với UBND các trường hợp nợ, nhờ vậy đã phấn đấu hoàn thành

chỉ tiêu NSNN của địa phương và Tổng Cục thuế đề ra.

Công tác quản lý kê khai và kế toán thuế chú trọng kiểm kê rà soát mã số

75

thuế, đảm bảo kiểm soát, nắm bắt kịp thời đối tượng nộp thuế, để đưa vào diện theo

dõi, quản lý thuế; thường xuyên rà soát, nắm chắc đối tượng nộp thuế phải kê khai

theo từng sắc thuế, phí, lệ phí để đôn đốc các đơn vị nộp và gửi tờ khai đúng thời

gian quy định. Theo dõi chặt chẽ việc nộp tờ khai của các đối tượng nộp thuế, phí,

lệ phí, xử lý kịp thời đối với những trường hợp vi phạm như nộp chậm tờ khai hoặc

không nộp tờ khai theo đúng quy định. Xây dựng hệ thống ứng dụng tự động kết

xuất dữ liệu về tình trạng khai thuế; thực hiện phân loại hồ sơ khai thuế và tình

trạng xử lý hồ sơ khai thuế; lập danh sách yêu cầu xử lý đối với từng hồ sơ thuế.

Cơ quan thuế cũng đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật, chính sách mới về thuế;

các quy định sửa đổi, bổ sung về chính sách thuế; tuyên truyền, vận động cá nhân,

hộ kinh doanh đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp; công tác triển khai thuế điện tử:

kê khai, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử...; công tác cải cách

thủ tục hành chính, hiện đại hóa ngành thuế. Việc triển khai hóa đơn điện tử cũng

góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ cho người nộp thuế nói chung và doanh

nghiệp khai thác, kinh doanh than nói riêng. Công tác cải cách, hiện đại hóa ngành

thuế được thực hiện nghiêm túc, thành lập Ban chỉ đạo, làm việc, phối hợp với các

đơn vị để cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử, tập huấn, hướng dẫn sử dụng phần

mềm, tăng hiệu quả quản lý và kê khai thuế.

2.2.2.2. Hạn chế

Công tác kê khai của một số doanh nghiệp còn chưa sát với thực tế phát sinh,

một số đơn vị dự báo thu không chính xác; báo cáo phân tích đánh giá tình hình

thực hiện thu chưa đảm bảo chất lượng như: còn sơ sài, chưa phân tích, đánh giá

đúng, đủ các nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác điều hành thu NSNN. Điều này

khiến kết quả thu thuế chưa đạt tiến độ dự toán, thấp hơn so với cùng kỳ. Cơ quan

thuế cũng chưa có giải pháp để xác định chính xác sản lượng than được khai thác và

kinh doanh để có phương án tính thuế phù hợp mà chỉ phụ thuộc vào số liệu doanh

nghiệp đã báo cáo.

Công tác quản lý đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than còn lỏng

lẻo, vẫn còn hiện tượng khai thác than trái phép. Cơ quan thuế cũng chưa nắm bắt

và quản lý được những cá nhân, doanh nghiệp này, dẫn đến tình trạng thất thu

76

nghiêm trọng nguồn NSNN.

Số lượng, chủng loại, phẩm cấp than của địa phương rất đa dạng. Mỗi loại lại

có thuế suất khác nhau. Trong quá trình khai thác than không tránh khỏi việc có tạp

chất hay chủng loại than khác, gây khó khăn trong việc xác định sản lượng, khối

lượng tài nguyên, dẫn đến chưa thể xác định chính xác giá tính thuế.

Công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát có lúc chưa thực sự sâu sát,

quyết liệt; vẫn còn trường hợp chậm triển khai các nhiệm vụ, các chỉ đạo được giao,

không đảm bảo tiến độ, thời gian hoàn thành. Cơ quan thuế còn chưa chủ động

nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác

quản lý thuế trên địa bàn, các giải pháp tăng thu ngân sách đảm bảo hoàn thành và

hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ được giao.

Chính sách thuế liên tục sửa đổi, bổ sung, khiến cán bộ thuế và doanh nghiệp

không thể nắm bắt kịp. Cùng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thuế

không đồng đều, dẫn đến một số cán bộ gặp khó khăn khi triển khai chính sách

thuế, gây chậm trễ trong quá trình quản lý thuế.

Trình độ chuyên môn của một số cán bộ còn hạn chế, chưa bắt kịp tình hình

quản lý thuế giai đoạn mới, gây ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ người nộp thuế.

Một số ít công chức chưa thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi công

vụ; chưa thường xuyên cập nhật thông tin, trau dồi kiến thức, nhất là cập nhật

những nội dung về chính sách, quản lý thuế mới để tự bồi dưỡng bản thân, nâng cao

trình độ chuyên môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức nhằm đáp ứng yêu cầu công

việc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức mặc dù đã được xây dựng kế

hoạch từ đầu năm nhưng việc triển khai chưa đảm bảo tiến độ đã đề ra.

Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật thuế và hỗ trợ người

nộp thuế đã đạt được một số kết quả, tuy nhiên về nội dung và phương pháp tuyên

truyền vẫn chưa hấp dẫn được doanh nghiệp; hình thức tuyên truyền vẫn còn đơn

điệu, chủ yếu tuyên truyền thông qua báo, đài, trang thông tin nội bộ; chưa chủ

77

động trong việc định hướng thông tin về hoạt động của cơ quan thuế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Với vai trò là một trong những ngành có đóng góp lớn nhất cho NSNN, hoạt

động khai thác, kinh doanh khoáng sản nói chung và khai thác, kinh doanh than nói

riêng luôn nhận được nhiều sự quan tâm và cần có cơ chế quản lý về thuế chặt chẽ

nhằm đảm bảo nguồn thu và mục tiêu phát triển bền vững.

Trong chương 2, luận văn đã tập trung phân tích thực trạng pháp luật thuế và

thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than.

Thực trạng pháp luật thuế đối với hoạt động này bao gồm các loại thuế có mối quan

hệ chặt chẽ với hoạt động khai thác, kinh doanh than và pháp luật về quản lý thuế,

ảnh hưởng trực tiếp từ công tác quản lý hoạt động khai thác tại địa phương có mỏ

khai thác. Đồng thời chương 2 cũng nêu lên tình hình khai thác than tại Việt Nam

và chỉ ra một số điểm nổi bật trong thực tiễn thi hành pháp luật thuế đối với hoạt

động khai thác và kinh doanh than, từ đó đưa ra những đánh giá chung về ưu điểm

và hạn chế của pháp luật thuế.

Trên cơ sở những phân tích tại chương 2, luận văn sẽ đưa ra định hướng và

một số giải pháp phù hợp giúp hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật thuế đối với

78

hoạt động khai thác và kinh doanh than tại chương 3.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC VÀ KINH DOANH THAN

3.1. Định hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động

khai thác và kinh doanh than

Hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng sản nói chung và khai thác, kinh

doanh than nói riêng là các hoạt động nằm trong một ngành, lĩnh vực đặc thù. Hoạt

động khai thác và kinh doanh than đang ngày càng phát triển và có đóng góp không

nhỏ vào tăng trưởng kinh tế cũng như NSNN. Nhìn chung, ngành than đã đem lại

lợi ích đáng kể cho các ngành nhiệt điện, luyện thép, sản xuất xi măng… bằng việc

cung cấp nguồn nguyên liệu cần thiết, đảm bảo hoạt động cho các ngành này và

đồng thời đảm bảo nhu cầu sử dụng sản phẩm của những ngành này trong cuộc

sống. Tuy nhiên, than là một loại khoáng sản không tái tạo và quá trình khai thác,

sử dụng than cũng gây hại lớn tới môi trường. Với một quốc gia đang phát triển như

Việt Nam, việc khai thác và sử dụng than vẫn là động lực và nguồn thu quan trọng

trong quá trình phát triển kinh tế. Dù là nguồn nguyên liệu không thể thiếu đối với

sự phát triển của nền kinh tế, ngành công nghiệp khai thác, sử dụng than vẫn là một

ngành ảnh hưởng tiêu cực nhất đến môi trường. Theo Quy hoạch phát triển ngành

than đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, dự báo nhu cầu sử dụng than

và định hướng sản xuất than trong nước ngày càng tăng. Đến năm 2025 nhu cầu sử

dụng than là 121,5 triệu tấn, năm 2030 tăng lên 156,6 triệu tấn; sản xuất than sạch

dự kiến đến năm 2025 là 51 – 54 triệu tấn, năm 2030 tăng lên 55 – 57 triệu tấn. Có

thể thấy ngành than đang đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng chính sách,

pháp luật liên quan đến thuế và quản lý thuế hiệu quả.

3.1.1. Pháp luật thuế hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường; xây dựng hệ

thống chính sách, pháp luật đồng bộ, minh bạch, hạn chế khai thác các loại tài

nguyên không tái tạo

79

Việc hoàn thiện các chính sách thuế đã phân tích có ý nghĩa quan trọng

không chỉ với NSNN mà còn cả việc điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp khai

thác tài nguyên - người nộp thuế trong lĩnh vực này. Với đặc thù là một loại khoáng

sản không tái tạo, khoáng sản than càng phải được quản lý, bảo vệ, khai thác và sử

dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao và bảo vệ môi trường. Do vậy, việc nghiên

cứu hoàn thiện chính sách thuế gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường, hạn chế khai

thác khoáng sản không tái tạo có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ

thống chính sách pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế trong hoạt động khai

thác, kinh doanh khoáng sản, cụ thể ở đây là than, nói riêng. Với quan điểm “Phát

triển ngành than trên cơ sở khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm

nguồn tài nguyên than của đất nước” và “Phát triển ngành than gắn liền với bảo vệ,

cải thiện môi trường sinh thái vùng than, hài hòa với phát triển du lịch, hạn chế tối

đa ảnh hưởng đến các khu vực bảo tồn văn hóa; đóng góp tích cực vào sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội; gắn với nhiệm vụ củng cố, tăng cường quốc phòng, an

ninh trên địa bàn; đảm bảo an toàn trong sản xuất” đã nêu trong Quy hoạch phát

triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, các cơ

quan quản lý nhà nước cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và cải thiện các chính sách thuế

sao cho phù hợp với định hướng phát triển của ngành.

Pháp luật thuế trong lĩnh vực này rất phức tạp do mỗi chủng loại than lại có

giá tính thuế và thuế suất khác nhau tùy theo từng loại thuế. Do đó, pháp luật thuế

phải quy định rõ ràng, minh bạch và chi tiết. Đồng thời các chính sách thuế cần ổn

định để tạo điều kiện cho việc tính toán và quản lý thuế được dễ dàng, hiệu quả.

Điều này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ tài nguyên quốc gia, ổn định

nguồn thu cho ngân sách, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh

nghiệp và người dân.

Việc áp dụng các chính sách thuế khác nhau với tài nguyên thiên nhiên nói

chung và khoáng sản than nói riêng được coi là công cụ tài chính quan trọng để

khuyến khích khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia. Các sắc thuế gián

thu như thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường dù đóng góp số thu không lớn

80

nhưng có vị thế quan trọng đối với tiêu chí phát triển nền kinh tế bền vững. Theo

đó, pháp luật thuế cần có sự điều tiết hợp lý để vừa định hướng sản xuất, vừa thúc

đẩy việc sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường sinh thái…

Pháp luật thuế cần chặt chẽ và toàn diện trong việc quản lý sản lượng than

thực tế được khai thác và kinh doanh, tránh dẫn đến rủi ro thất thu NSNN do chưa

quản lý chặt chẽ sản lượng tài nguyên khai thác. Bên cạnh đó còn cần có cơ chế quy

hoạch, cấp phép khai thác tài nguyên khoa học hơn, xây dựng chính sách về tiền cấp

quyền khai thác khoáng sản, phí bảo vệ môi trường… đồng bộ hơn.

Ngoài ra, chúng ta cần nâng cao nhận thức về vai trò của khoáng sản nói

chung và than nói riêng. Các loại tài nguyên đều đang dần cạn kiệt do hoạt động

khai thác của con người. Hoạt động này cũng gây ra những tác hại xấu đến môi

trường, nhất là khai thác than, do than là tài nguyên không tái tạo. Có thể nói thuế

chính là công cụ tài chính giúp quản lý nguồn tài nguyên hiệu quả. Qua từng thời kỳ

khác nhau, chính sách thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản

luôn được hoàn thiện theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên

nhiên. Với việc thay đổi chính sách thuế cho phù hợp, áp thuế suất cao với các loại

tài nguyên không tái tạo để hạn chế khai thác, sử dụng tiết kiệm, đẩy giá thành sản

phẩm lên cao, buộc các nhà đầu tư phải tính toán tiết kiệm nguồn nguyên liệu đầu

vào hoặc tìm nguồn nguyên liệu thay thế.

3.1.2. Tăng cường công tác quản lý đối với các khoản thu từ hoạt động

khai thác và kinh doanh khoáng sản

Từ thực tiễn quản lý các khoản thu của hoạt động khai thác, kinh doanh

khoáng sản nói chung và khai thác, kinh doanh than nói riêng đặt ra yêu cầu phải

tăng cường quản lý hiệu quả các loại thuế, phí liên quan đến khai thác và kinh

doanh khoáng sản, nhằm bảo đảm chính sách thu thuế hợp lý từ tài nguyên thiên

nhiên, đặc biệt là khoáng sản không tái tạo như than.

Bên cạnh việc quản lý các khâu kê khai, thu nộp thuế, thanh tra, kiểm tra…,

cơ quan thuế cũng cần có biện pháp rà soát và giám sát sản lượng khai thác thực tế

của doanh nghiệp. Tình trạng thất thu thuế do doanh nghiệp kê khai sai sản lượng

khai thác thực đã xảy ra ở nhiều địa phương, cảnh báo về mức độ quản lý của cơ

81

quan thuế còn chưa sát sao và hiệu quả.

Tăng cường ý thức, nhận thức của doanh nghiệp khai thác về vai trò của tài

nguyên và chính sách thu cũng là một nhiệm vụ của công tác quản lý thuế, nhằm

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư khai thác tài nguyên một cách hợp lý, phù

hợp với định hướng bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng tài nguyên một cách

hiệu quả, tiết kiệm.

Cùng lúc đó, không thể không nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp

giữa cơ quan thuế và các cơ quan, ban ngành có liên quan trong việc quản lý hoạt

động khai thác và kinh doanh khoáng sản. Cơ quan thuế, các ban, ngành và cơ quan

chuyên môn về bảo vệ môi trường cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý

khai thác khoáng sản nhằm thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ môi trường và quản lý thuế

hiệu quả. Song song với việc hoàn thiện pháp luật thuế theo hướng khai thác, sử dụng

tiết kiệm, hiệu quả, thì chế tài xử phạt đối với các đơn vị khai thác vi phạm pháp luật

thuế cũng cần được quan tâm, chú ý. Bởi chính chế tài xử phạt là cơ chế buộc các nhà

đầu tư tính toán, cân nhắc trong quá trình khai thác, kinh doanh và từ đó hạn chế

được các vi phạm trốn thuế, khai thác trái phép, bừa bãi.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than

3.2.1. Thuế bảo vệ môi trường

Thứ nhất, cần xác định đối tượng chịu thuế là đối tượng có khả năng gây ô

nhiễm môi trường đáng kể và xác định được mức độ gây ô nhiễm theo tiêu chuẩn

môi trường. Chính sách thuế bảo vệ môi trường cần được quy định cụ thể và sát với

thực tế hơn bằng cách tính toán, đánh giá mức độ gây ô nhiễm của mặt hàng than để

xây dựng mức thuế phù hợp với từng chủng loại, đảm bảo mức thuế bảo vệ môi

trường được xây dựng tương ứng với mức độ gây ô nhiễm. Điều này liên quan đến

thực tiễn là căn cứ đưa ra mức thuế hợp lý. Với mặt hàng than, mức thuế nên được

xác định dựa trên mức độ gây tác động xấu. Mức độ gây tác động xấu khác nhau

không nên được quy định có cùng một mức thuế hay thấp hơn hàng hóa có mức độ

gây tác động xấu thấp hơn.

82

Việc xác định đúng mức thuế bảo vệ môi trường sẽ có tác động đến nền kinh

tế. Mức thuế cao khiến các doanh nghiệp hạn chế khai thác gây lãng phí tài nguyên

và không đạt được sản lượng tối ưu. Tuy nhiên, mức thuế thấp lại không đủ bù đắp

cho chi phí khắc phục môi trường, các doanh nghiệp cũng không xây dựng được ý

thức bảo vệ môi trường, dẫn đến không tuân thủ các quy định của pháp luật thuế đối

với hoạt động khai thác và kinh doanh khoáng sản.

Nói tóm lại, mức thuế môi trường cần phải tương thích với mức độ gây ô

nhiễm. Tuy nhiên, việc xác định chính xác mức độ gây ô nhiễm để làm căn cứ tính

thuế rất phức tạp, cần có phương pháp thu thập dữ liệu, đánh giá và phân tích kỹ

lưỡng trước khi tìm ra mức thuế tối ưu nhất.

Thứ hai, cần xác định căn cứ hợp lý để áp mức thuế phù hợp cho các chủng loại

than, vừa để tạo cơ sở chặt chẽ trong quá trình thực thi, áp dụng, vừa đảm bảo được yếu

tố công bằng, nhất là đối với mặt hàng gây tổn thất nhiều đến môi trường như than đá.

Thứ ba, xem xét, rà soát các quy định của các sắc thuế có tính chất tương đồng

như thuế bảo vệ môi trường cũng như các khoản phí bảo vệ môi trường để đảm bảo sự

thống nhất, đồng bộ, tránh trùng lặp và đặc biệt, đảm bảo sự phù hợp với nguyên tắc,

mục đích chính của từng sắc thuế. Than là mặt hàng chịu nhiều loại thuế khác nhau, do

đó cần quy định cụ thể, rõ ràng, làm rõ sự khác nhau về mục đích và ý nghĩa của từng

loại thuế, đảm bảo sự minh bạch, dễ thực thi, dễ áp dụng.

3.2.2. Thuế tài nguyên

Thứ nhất, điều chỉnh quy định đối với người nộp thuế là tổ chức, cá nhân

khai thác nhỏ lẻ. Như đã phân tích ở Chương 2, quy định này tạo ra kẽ hở, rủi ro

gây thất thu thuế do không tính đến trường hợp khai thác trái phép. Thêm vào đó,

trong thực tế các doanh nghiệp khai thác và kinh doanh than đều là những doanh

nghiệp lớn, các tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ hầu hết đều không chịu sự quản lý

của pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng. Không chỉ gây thất thu cho

NSNN, thực trạng này còn gây khó khăn cho công tác quản lý hoạt động khai thác

khoáng sản của các cơ quan, ban ngành tại những địa phương xảy ra tình trạng trên.

Thứ hai, có các chính sách khuyến khích khai thác tận thu khoáng sản nhằm

83

khai thác tối đa tài nguyên, tránh lãng phí để đạt hiệu quả khai thác cao nhất. Đồng

thời xây dựng các biện pháp quản lý trữ lượng, sản lượng khai thác và tỷ lệ tổn thất

thực tế trong quá trình khai thác khoáng sản, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của

các cơ quan, ban ngành liên quan.

Thứ ba, thống nhất về giá tính thuế tài nguyên để đạt được sự thống nhất

giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Giá tính thuế tài nguyên cần được xét đến các

yếu tố tác động đến giá trị tài nguyên như hàm lượng, chi phí tinh chế…

Thứ tư, biểu khung thuế suất thuế tài nguyên cần được rà soát để điều chỉnh

cho phù hợp. Xét tăng mức thuế suất đối với các nhóm tài nguyên không tái tạo

nhằm đảm bảo khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên, góp phần thúc

đẩy mục tiêu bảo vệ môi trường.

3.2.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế thu nhập doanh nghiệp có liên quan đến lợi nhuận của doanh nghiệp.

Các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công

nghệ kỹ thuật hiện đại nhằm mục đích giảm thiểu chất gây ô nhiễm từ các hoạt động

khai thác và kinh doanh than, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Do đó, cần

xem xét ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp một cách hợp lý đối với các doanh nghiệp

áp dụng biện pháp bảo vệ môi trường, sử dụng nguyên vật liệu sạch trong sản xuất,

thúc đẩy phát triển công nghệ sạch, giảm thiểu các tác hại đối với môi trường.

3.2.4. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

Thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai

thác tài nguyên thiên nhiên hiệu quả. Để cải thiện tình trạng lãng phí tài nguyên, cần

tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh biểu thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp, nhằm góp

phần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, giải pháp hiện đại nhằm

mục tiêu xuất khẩu khoáng sản đã qua chế biến có giá trị và chất lượng cao.

Và trên hết là hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực thuế nói chung và các loại thuế kể trên. Việc nộp thuế theo cơ chế tự khai

tự nộp phụ thuộc chủ yếu vào ý thức tự giác của doanh nghiệp nộp thuế. Do đó để

hạn chế việc các doanh nghiệp khai thác than lợi dụng cơ chế này nhằm kê khai

84

gian dối, trốn thuế thì việc quy định và áp dụng các quy định về xử phạt đối với

hành vi vi phạm nghĩa vụ nộp thuế là rất quan trọng, nhất là với các loại thuế liên

quan đến bảo vệ môi trường. Việc này nhằm nâng cao ý thức của người dân trong

quá trình thực thi pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng sản

nói chung và khai thác, kinh doanh than nói riêng.

3.3. Giải pháp tổ chức thực thi pháp luật thuế đối với hoạt động khai

thác và kinh doanh than

Nhà nước cần có cơ chế quản lý đối với các khoản thu từ hoạt động khai thác

và kinh doanh than nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế, hướng đến mục

tiêu khai thác, sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, tránh gây lãng phí và ảnh hưởng

đến môi trường, cụ thể:

3.3.1. Xây dựng giải pháp quản lý hiệu quả trong việc giám sát công tác kê

khai, kế toán thuế

Như đã phân tích ở trên, cơ chế doanh nghiệp tự khai, tự nộp, tính toán thuế

dựa trên sản lượng do doanh nghiệp tự khai báo khiến công tác quản lý của cơ quan

thuế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng thất thu thuế. Một số doanh nghiệp cố

tình kê khai sai gây nợ đọng tiền thuế. Một số doanh nghiệp khác chưa cập nhật về

chính sách thuế mới dẫn đến việc kê khai sai, thiếu thuế cần nộp. Do đó, cơ quan

thuế vừa phải tiếp tục duy trì và thực hiện đủ các bước quy trình kê khai và kế toán

thuế, đăng ký thuế, hoàn thuế..., vừa phải rà soát dữ liệu khai, nộp thuế, kiểm tra

tình hình sản xuất, kinh doanh, xây dựng giải pháp, kế hoạch thực hiện kiểm tra tại

địa bàn để xác định sản lượng khai thác hàng quý, tập hợp bảng kê bán lẻ hàng ngày

và đối thoại với các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng cần đẩy mạnh kiểm tra, giám sát kê khai

thuế của doanh nghiệp nộp thuế ngay từ đầu, tập trung kiểm tra các tờ khai có sự

mâu thuẫn. Đồng thời kiên quyết xử phạt đối với các trường hợp vi phạm quy định

về kê khai thuế, thực hiện ấn định thuế đối với người nộp thuế vi phạm pháp luật về

thuế theo đúng quy định của Luật quản lý thuế.

3.3.2. Có quy chế phối hợp rõ ràng, cụ thể, làm rõ trách nhiệm của tổ chức,

cá nhân khi quản lý hoạt động khai thác và kinh doanh than

85

Hiện nay hoạt động khai thác và kinh doanh than vẫn còn diễn biến phức tạp

khi tình trạng than thổ phỉ vẫn còn tiếp diễn. Cơ quan thuế ở các địa phương đã nỗ

lực tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo hệ thống chính trị cùng tham gia quản lý

thuế, phối hợp chặt chẽ với Sở Tài nguyên và Môi trường để xác định, đối chiếu sản

lượng khai thác của doanh nghiệp.

Ví dụ: Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành tại tỉnh Quảng Ninh nhằm

tăng cường triển khai việc thực hiện quản lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn:

Để siết chặt việc quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, ngăn chặn, giải

tỏa, chấn chỉnh hoạt động khai thác trái phép, UBND tỉnh Quảng Ninh đã yêu cầu

các sở Tài nguyên và Môi trường, Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải rà

soát các quy hoạch ngành liên quan đến việc thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng

sản thuộc lĩnh vực quản lý, quy hoạch cấp phép các cảng, bến bãi; xin ý kiến các

Bộ, ngành Trung ương về việc tích hợp các quy hoạch vào quy hoạch tỉnh; báo cáo

kết quả thực hiện về Sở Kế hoạch và Đầu tư để Sở tổng hợp, tham mưu, báo cáo.

Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa phương

tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức có hoạt động khai thác khoáng sản

trên địa bàn tỉnh; trao đổi thông tin về sản lượng tài nguyên thực tế khai thác trong năm

của các tổ chức với cơ quan thuế để phối hợp quản lý thuế theo quy định.

Cục thuế tỉnh rà soát, kiểm tra thuế đối với các tổ chức có hoạt động khai

thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh; tập trung kiểm tra việc kê khai thông tin về sản

lượng khoáng sản khai thác của các đơn vị để nộp thuế; tiến hành xử lý theo quy

định đối với các đơn vị có hành vi khai báo sai sản lượng khoáng sản khai thác thực

tế; báo cáo, đề xuất UBND tỉnh xử lý đối với các trường hợp vượt quá thẩm quyền

theo quy định.

Công an tỉnh tăng cường mở các chuyên án đấu tranh, tố giác, xử lý nghiêm

đối với các đối tượng có hành vi khai thác, vận chuyển, chế biến và kinh doanh

khoáng sản trái phép, các vi phạm tiêu cực trong quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng

sản; thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát các bến, bãi tập kết và tiêu thụ than, bã

sàng đá xít có than, khoáng sản khác trên địa bàn, kịp thời phát hiện, triệt xóa các

86

bến bãi trái phép, ngoài quy hoạch và tham mưu cho UBND tỉnh xem xét, có ý kiến

với UBND các địa phương giáp ranh trong công tác quản lý hoạt động khoáng sản;

đảm bảo đồng bộ, thống nhất và thực hiện nghiêm các quy định pháp luật.

(Nguồn: Theo báo Công nghiệp Môi trường)

Có thể thấy cơ chế phối hợp của các cơ quan, ban ngành tại địa phương có ý

nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng

sản nói chung và khai thác, kinh doanh than nói riêng. Điều này góp phần không

nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật

thuế tại từng địa phương. Do đó pháp luật thuế cần xác định trách nhiệm chủ trì,

trách nhiệm phối hợp, cách thức phối hợp của cơ quan chủ trì và trách nhiệm người

đứng đầu có liên quan trong việc quản lý thuế đối với hoạt động khai thác khoáng

sản nói chung. Vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý hoạt động khai

thác tài nguyên cần được tăng cường bằng cách xác lập trách nhiệm của người đứng

đầu địa phương trong việc quản lý tài nguyên. Nếu xảy ra tình trạng khai thác lậu,

trốn thuế thì phải làm rõ trách nhiệm và xử lý kỷ luật người đứng đầu; tùy theo từng

trường hợp mà xử lý trách nhiệm liên đới hoặc trách nhiệm chính.

3.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các khoản thu thuế

Thanh tra, kiểm tra là một trong những nội dung quản lý thuế. Công tác thanh

tra, kiểm tra đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than cần được xây dựng kế

hoạch, xác định phương thức thanh tra, kiểm tra thích hợp, đồng thời có cơ chế phối

hợp giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan cùng với sự hợp tác từ chính các doanh

nghiệp khai thác tại địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

Cơ quan thuế cũng cần có biện pháp tổ chức thu đầy đủ, kịp thời các khoản

nợ hoặc nộp chậm phát hiện được trong quá trình thanh tra, kiểm tra. Đồng thời

theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở, cưỡng chế thu nợ để các doanh nghiệp này hoàn thành

nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN, tránh tình trạng nợ đọng, thất thu. Phân chia các

khoản nợ theo mức độ khó thu và có khả năng thu, xác định phương án thu hợp lý,

lập danh sách các doanh nghiệp còn nợ để có giải pháp thúc đẩy công tác thu nợ sau

87

khi thanh tra, kiểm tra.

3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế

3.3.4.1. Tuyên truyền cho cộng đồng về ý thức bảo vệ môi trường và pháp

luật thuế hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường

Như đã nói ở trên, ý thức của người dân và các doanh nghiệp về bảo vệ môi

trường còn yếu kém. Do hạn chế về kiến thức, không có khả năng tiếp cận thông tin về

các chính sách… mà nhận thức về pháp luật hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường

của cộng đồng chưa cao. Chính vì vậy, cần phải đẩy mạnh các hoạt động giáo dục,

tuyên truyền, đào tạo để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường bằng các biện pháp như

đào tạo về chính sách bảo vệ môi trường và chính sách thuế nhằm mục tiêu bảo vệ môi

trường cho lãnh đạo các doanh nghiệp khai thác khoáng sản nói chung và khai thác

than nói riêng; kết hợp với tuyên truyền thông qua các hình thức giáo dục khác như lớp

tập huấn, chương trình, hoạt động gần gũi, dễ hiểu cho người dân, đưa pháp luật thuế

hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường đến gần hơn với cộng đồng.

Việc giáo dục ý thức của cộng đồng về sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên

thiên nhiên, nhất là nguồn tài nguyên không tái tạo và nâng cao kiểm soát về thuế

đối với khai thác tài nguyên sẽ khuyến khích các cơ sở, doanh nghiệp lựa chọn

phương thức đầu tư công nghệ khai thác, chế biến hợp lý, phù hợp với điều kiện của

địa phương, hạn chế xuất khẩu thô, tăng giá trị tài nguyên.

Khi cộng đồng hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của những loại thuế kể

trên, thì những hành vi, thói quen của mỗi người sẽ được điều chỉnh cho phù hợp,

đáp ứng được mục tiêu bảo vệ môi trường mà Nhà nước luôn hướng tới.

3.3.4.2. Tăng cường phổ biến pháp luật thuế từ phía cơ quan thuế

Cơ quan thuế cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

thuế dưới nhiều hình thức, đồng thời hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh

nghiệp khai thác khoáng sản kê khai, nộp thuế. Ngoài ra, cơ quan thuế còn cần nâng

cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ để doanh nghiệp khai thác khoáng sản có thể tiếp

cận thường xuyên, nhanh chóng, kịp thời với những thay đổi của chính sách thuế ở

mỗi thời điểm. Việc duy trì tốt công tác hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế giúp giải

88

quyết triệt để những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, đảm bảo đúng thời

gian quy định, nội dung hướng dẫn, trả lời đúng chính sách, chế độ. Để tăng cường

hơn nữa nhiệm vụ tuyên truyền, hỗ trợ, cơ quan thuế cần đổi mới phương thức, phát

triển đa dạng, phong phú các hình thức tuyên truyền, đưa chính sách đến gần hơn

với người nộp thuế.

3.3.5. Đào tạo, nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn

của cán bộ thuế

Một đội ngũ cán bộ thuế có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ sẽ nhanh chóng thích ứng, dễ dàng áp dụng các quy định của nhà nước về

pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh than, đồng thời hỗ trợ cho các

doanh nghiệp khai thác, kinh doanh than trong quá trình thực thi các chính sách này.

Theo đó, các cơ quan thuế cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán

bộ công chức một cách thường xuyên, tập trung vào kỹ năng gắn với vị trí công việc

để cải thiện hiệu quả làm việc. Ngoài ra, phương án luân chuyển, điều động, thay

đổi định kỳ vị trí công tác của cán bộ công chức vào các vị trí phù hợp với trình độ

chuyên môn cũng tạo điều kiện cho cán bộ công chức phát huy vai trò, năng lực trên

89

nhiều vị trí khác nhau.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Từ việc nghiên cứu lý luận về pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác, kinh

doanh than đến phân tích thực trạng của pháp luật thuế cũng như thực tiễn thi hành

pháp luật thuế đối với hoạt động này, chương 3 đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp

luật thuế trong hoạt động khai thác, kinh doanh than và các giải pháp để nâng cao

hiệu quả thực thi pháp luật. Đề tài không chỉ phân tích và đưa ra giải pháp hoàn thiện

pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh một loại khoáng sản cụ thể,

mà còn nhấn mạnh mục tiêu của pháp luật thuế trong lĩnh vực khai thác và sử dụng

tài nguyên thiên nhiên nói chung. Đó là bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng hiệu

quả tài nguyên thiên nhiên nhằm hướng đến phát triển bền vững. Những giải pháp

được đưa ra cũng xoay quanh mục tiêu này, từ đó tạo nền tảng cho việc tuân thủ pháp

90

luật thuế trong lĩnh vực khai thác, kinh doanh than nói riêng của các chủ thể.

KẾT LUẬN

Sau khi thực hiện đề tài “Thuế đối với hoạt động khai thác và kinh doanh

than theo pháp luật Việt Nam”, học viên xin rút ra một số kết luận sau:

1. Than là một loại khoáng sản không tái tạo. Việc khai thác và sử dụng than

có ảnh hưởng xấu không chỉ với con người mà còn với cả môi trường. Hoạt động

khai thác và kinh doanh than mang lại nguồn nguyên liệu lớn cho các ngành điện,

luyện thép, xi măng…, đồng thời cũng là nguồn lợi lớn cho sự phát triển kinh tế - xã

hội của các địa phương có mỏ khai thác và cả Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải khẳng

định rằng, hoạt động này đang gây ra tác động đáng kể đến môi trường và do đó,

thuế chính là công cụ tài chính hữu hiệu nhất giúp Nhà nước quản lý hoạt động khai

thác và kinh doanh than.

2. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và

kinh doanh than nói riêng đang ngày càng được hoàn thiện. Công tác thực thi, áp

dụng pháp luật thuế trong lĩnh vực này đã và đang đạt được nhiều thành tựu, từng

bước đem lại hiệu quả, phù hợp với quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

cũng như xu thế phát triển của đất nước, góp phần vào nhiệm vụ hoàn thành kế

hoạch ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật thuế trong lĩnh vực này

vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Quá trình thực thi pháp luật thuế trong

thực tiễn cũng bộc lộ không ít khó khăn, gây thất thu cho NSNN.

3. Những hạn chế của pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than cũng như những khó khăn phát sinh trong quá trình thực thi đòi hỏi cần

có sự hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật thuế đối với hoạt động khai thác và kinh

doanh than góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng thu NSNN, bảo vệ tài nguyên

khoáng sản cho quốc gia; đồng thời nhấn mạnh mục tiêu của pháp luật thuế trong

lĩnh vực khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung. Đó là bảo vệ môi

trường, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên nhằm hướng đến phát

triển bền vững. Những giải pháp được đưa ra cũng xoay quanh mục tiêu này, từ đó

tạo nền tảng cho việc tuân thủ pháp luật thuế trong lĩnh vực khai thác, kinh doanh

91

than nói riêng của các chủ thể.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Tư pháp (2017), Hoàn thiện pháp luật về thuế bảo vệ môi trường.

2. Chính phủ (2016), Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác

khoáng sản số 164/2016/NĐ-CP, Hà Nội.

3. Chính phủ (2019), Nghị định quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp

quyền khai thác khoáng sản số 67/2019/NĐ-CP, Hà Nội.

4. Nguyễn Tiến Chỉnh (2017), “Thực trạng giá thành than Việt Nam và những hệ

lụy”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

5. Nguyễn Tiến Chỉnh (2020), “Thực trạng, cung – cầu, nhập khẩu than”, Tạp chí

Năng lượng Việt Nam.

6. Cục thuế tỉnh Quảng Ninh (2019), Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm

vụ công tác thuế 6 tháng đầu năm, biện pháp phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ

công tác thuế năm 2019, Quảng Ninh.

7. Phong Du (2020), “Thuế và phí môi trường: Chi thế nào để thực sự vì môi

trường?”, Báo Khoa học và Phát triển.

8. Vũ Bạch Dương (2016), Hoàn thiện pháp luật thuế bảo vệ môi trường ở Việt

Nam – Từ thực tiễn Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Viện Đại học

Mở Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Cẩm Giang (2013), Nghiên cứu về Luật thuế bảo vệ môi trường ở

Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp cử

nhân, Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ.

10. Trần Thị Thu Hoài (2016), Pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam – Thực trạng

và hướng hoàn thiện từ thực tế Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế,

Viện Đại học Mở Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Lan Hương (2016), Pháp luật thuế: Lý luận, lịch sử, thực trạng và

so sánh.

12. Ngô Văn Khương (2015), “Tác động của chính sách thuế trong việc sử dụng

hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

92

nghiên cứu Tài chính kế toán, 08(145), tr. 31-37.

13. Tô Linh (1962), “Khái niệm về Quặng và Khoáng sản”, Tạp chí Địa chất, 9(5),

tr.20-21.

14. Phan Hiển Minh (2015), Bài giảng Lịch sử thuế Việt Nam, Chương trình Giảng

dạy Kinh tế Fulbright.

15. Quốc hội (2009), Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12, Hà Nội.

16. Quốc hội (2010), Luật thuế bảo vệ môi trường số 57/2010/QH12, Hà Nội.

17. Quốc hội (2016), Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13, Hà Nội.

18. Lê Thị Thanh (2018), “Pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt

Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với CPTPP”, Tạp chí nghiên cứu Tài

chính kế toán, 07(180), tr. 25-27.

19. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định về việc phê duyệt điều chỉnh Quy

hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến

năm 2030, Hà Nội.

20. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung

Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng

đến năm 2030 (điều chỉnh), Hà Nội.

21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb

Công an Nhân dân, Hà Nội.

22. Lê Xuân Trường và các cộng sự (2018), Luật thuế tài nguyên và công tác quản

lý thuế tài nguyên từ góc nhìn thúc đẩy minh bạch, quản lý hiệu quả nguồn

thu, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Trung tâm Con người và Thiên nhiên

và Liên minh Khoáng sản.

23. Nguyễn Văn Tuấn (2018), Quản lý nhà nước về thu tiền cấp quyền khai

thác than ở nước ta hiện nay, Luận văn Quản lý kinh tế, Trường Đại học

Thương mại.

24. Văn phòng Quốc hội (2014), Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-VPQH hợp nhất

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội.

25. Văn phòng Quốc hội (2016), Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH hợp nhất

93

Luật thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.

Tài liệu Website

26. Trung An (2020), “Vượt khó vì COVID-19, TKV đạt doanh thu hơn 30.000 tỉ

đồng”, Trang Thông tin Điện tử Công ty Than Thống Nhất – TKV, website:

https://www.thanthongnhat.vn/tin-tuc-tkv/vuot-kho-vi-covid-19-tkv-dat-

doanh-thu-hon-30-000-ti-dong-6519.html.

27. BBT (2020), “Tiềm năng ngành khoáng sản ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Môi

trường, website: https://kinhtemoitruong.vn/tiem-nang-nganh-khoang-san-o-

viet-nam-14743.html.

28. Hoàng Châu (2016), “Ngành than trước áp lực thuế, phí”, Báo Công thương

Điện tử, website: https://congthuong.vn/nganh-than-truoc-ap-luc-thue-phi-bai-

1-thue-tang-loi-nhuan-giam-73989.html.

29. CL&CSTC (2018), “Chính sách tài chính thúc đẩy bảo vệ môi trường: Kinh

nghiệm của Thụy Sỹ và bài học cho Việt Nam”, Trang Tin tức Tài chính,

website:https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/r/o/nctd/nctd_chitiet?d

DocName=MOFUCM141053&dID=147053.

30. Nguyễn Thị Cúc (2019), “Chính sách thuế với mục tiêu phát triển nhanh, toàn

diện và bền vững”, Tạp chí Tài chính, website: http://tapchitaichinh.vn/co-che-

chinh-sach/chinh-sach-thue-voi-muc-tieu-phat-trien-nhanh-toan-dien-va-ben-

vung-302551.html.

31. Lê Đăng Doanh (2014), Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam

còn nhiều bất cập, website: https://www.thiennhien.net/2014/08/19/nganh-

cong-nghiep-khai-thac-khoang-san-o-viet-nam-con-nhieu-bat-cap.

32. Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Cảnh Nam (2014), “Một số vấn đề về thị trường

than trong nước”, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam,

website: http://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-khoang-san/mot-so-van-de-ve-

thi-truong-than-trong-nuoc-7822.htm.

33. Vương Thị Thu Hiền và Phạm Xuân Thắng (2017), “Thuế bảo vệ môi trường:

Kinh nghiệm quốc tế và những khuyến nghị với Việt Nam”, Tạp chí Tài chính,

website: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thue-bao-ve-moi-truong-

94

kinh-nghiem-quoc-te-va-nhung-khuyen-nghi-voi-viet-nam-131565.html.

34. Phan Ngô Tống Hưng và Nguyễn Thành Sơn (2018), “Nhập khẩu than của

Việt Nam: Hiện trạng và xu thế”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, website:

http://nangluongvietnam.vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien-nghi/nhan-

dinh-du-bao/nhap-khau-than-cua-viet-nam-hien-trang-va-xu-the.html.

35. Mạnh Kiên (2018), “Vị thế ngành than”, Tạp chí Petro Times, website:

https://petrotimes.vn/vi-the-nganh-than-494450.html.

36. Đỗ Lý (2019), “Khai thác than”, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - Vinacomin,

website: http://imsat.vn/Tin-tuc/Tin-tuc-su-kien/31634/khai-thac-than.

37. Nguyễn Cảnh Nam và Đồng Thị Bích (2015), “Bàn về thuế tài nguyên và

chính sách thuế, phí đối với khai thác khoáng sản”, Tập đoàn Công nghiệp

Than – Khoáng sản Việt Nam, website: http://www.vinacomin.vn/tap-chi-than-

khoang-san/ban-ve-thue-tai-nguyen-va-chinh-sach-thue-phi-doi-voi-khai-thac-

khoang-san-201510121429284155.htm.

38. Hoàng Nga (2020), “Khắc phục rủi ro trong quản lý khai, nộp thuế đối với

ngành Than”, Báo Quảng Ninh, website: http://baoquangninh.com.vn/kinh-

te/202007/khac-phuc-rui-ro-trong-quan-ly-khai-nop-thue-doi-voi-nganh-than-

2490808/index.htm.

39. Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh, Địa chí Quảng Ninh tập 2, Lịch sử

phong trào công nhân mỏ Quảng Ninh, Lịch sử công nhân khu mỏ Quảng

Ninh (1820-1975), vinacomin, Quá trình hình thành và phát triển của ngành

Than Quảng Ninh, website: http://thuviendientu.baoquangninh.com.vn/kinh-

te/201601/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-nganh-than-quang-ninh-

2295341/index.htm.

40. Phúc Nguyên (2016), “Chống Thất thu ngân sách đối với hoạt động khai thác

tài nguyên, khoáng sản: Trách nhiệm không chỉ của riêng ngành Thuế”, Báo

Ninh Bình, website: https://baoninhbinh.org.vn/chong-that-thu-ngan-sach-doi-

voi-hoat-dong-khai-thac-tai/d20160615093813878.htm.

41. Hà Phong (2019), “Quy định về thuế tài nguyên: Nhiều điểm “chồng lấn”, chưa phù

hợp”, Báo Hà Nội mới, website: https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Kinh-

95

te/930100/quy-dinh-ve-thue-tai-nguyen-nhieu-diem-chong-lan-chua-phu-hop.

42. PV (2017), “Chính sách thuế tài nguyên nhìn từ các nước trên thế giới”, Tạp

chí Tài chính, website: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/chinh-

sach-thue-tai-nguyen-nhin-tu-cac-nuoc-tren-the-gioi-128347.html.

43. Nghi Sơn (2020), “Cái khó của ngành thuế đối với khai thác than”, Tạp chí Tài

chính Doanh nghiệp, website: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/cai-kho-cua-

nganh-thue-doi-voi-khai-thac-than-d14009.html.

44. Tạp chí Năng lượng Việt Nam (2016), Những bất cập trong chính sách thuế

tài nguyên của Việt Nam, website: http://nangluongvietnam.vn/news/vn/nhan-

dinh-phan-bien-kien-nghi/nhung-bat-cap-trong-chinh-sach-thue-tai-nguyen-

cua-viet-nam.html.

45. Tạp chí Năng lượng Việt Nam (2019), Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh

11 tháng đầu năm của TKV, website:

http://nangluongvietnam.vn/news/vn/than-khoang-san-viet-nam/ket-qua-hoat-

dong-san-xuat-kinh-doanh-11-thang-dau-nam-cua-tkv.html.

46. Tạp chí Năng lượng Việt Nam (2019), Tăng cường quản lý Nhà nước trong

sản xuất, kinh doanh than, website: http://nangluongvietnam.vn/news/vn/than-

khoang-san-viet-nam/tang-cuong-quan-ly-nha-nuoc-trong-san-xuat-kinh-

doanh-than.html.

47. Tạp chí Năng lượng Việt Nam (2019), TKV phấn đấu năm 2019 nhập khẩu 7

triệu tấn than, website: http://nangluongvietnam.vn/news/vn/than-khoang-san-

viet-nam/tkv-phan-dau-nam-2019-nhap-khau-7-trieu-tan-than.html.

48. Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (2013), Công nghiệp

khai thác than trên thế giới, website: http://vinacomin.vn/tin-quoc-te/cong-

49. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (2019), Nhóm 10 quốc gia hàng đầu về

nghiep-khai-thac-than-tren-the-gioi-6115.htm.

khai thác dầu khí ngoài khơi, website:

http://www.pvn.vn/Pages/detail.aspx?NewsID=21ca7e53-d862-4f8d-b6d8-

96

de6cc28a4192.

50. Nguyễn Thị Ngọc Thùy (2017), “Tăng cường quản lý và thu thuế tài nguyên

trong khai thác khoáng sản”, Tạp chí Môi trường, website:

http://tapchimoitruong.vn/pages/article.aspx?item=T%C4%83ng-

c%C6%B0%E1%BB%9Dng-qu%E1%BA%A3n-l%C3%BD-v%C3%A0-thu-

thu%E1%BA%BF-t%C3%A0i-nguy%C3%AAn-trong-khai-th%C3%A1c-

kho%C3%A1ng-s%E1%BA%A3n-45692.

51. Võ Trung Tín và Nguyễn Lâm Trâm Anh (2014), “Thuế bảo vệ môi trường -

hình thức thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong pháp

luật môi trường”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, website:

52. Thu Trang (2018), “Thuế bảo vệ môi trường và những bất cập từ thực tiễn”,

http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208181.

Báo Kon Tum, website: http://www.baokontum.com.vn/xa-hoi/thue-bao-ve-

moi-truong-va-nhung-bat-cap-tu-thuc-tien-8529.html

53. Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Phát triển Công thương (Investprocen), Than,

website: http://investvietnam.gov.vn/vi/nghanh.nghd/40/than.html

54. Vimico (2017), Mười nước sản xuất đồng lớn nhất thế giới, website:

http://vimico.vn/muoi-nuoc-san-xuat-dong-lon-nhat-the-gioi.

55. Wikipedia, Khoáng sản, website:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Kho%C3%A1ng_s%E1%BA%A3n#C%C3%A1c

_nh%C3%B3m_tr%E1%BB%AF_l%C6%B0%E1%BB%A3ng_kho%C3%A1

ng_s%E1%BA%A3n_r%E1%BA%AFn_theo_gi%C3%A1_tr%E1%BB%8B_

97

kinh_t%E1%BA%BF-th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i.