ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG TUYẾT NHUNG
-----------------------------------------------------
TIẾNG CƯỜI TRONG THƠ TÚ MỠ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
Hà Nội – 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG TUYẾT NHUNG
-----------------------------------------------------
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học : GS.TS Lê Văn Lân
Hà Nội – 2012
TIẾNG CƯỜI TRONG THƠ TÚ MỠ
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 13
4. Đóng góp mới của luận văn .................................................................. 13
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 13
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 14
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ TIẾNG CƯỜI. TIẾNG CƯỜI
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC .............................................................. 15
1.1. Tiếng cười ............................................................................................. 15
1.1.1. Khái niệm về tiếng cười .................................................................. 15
1.1.2. Các phương thức biểu hiện và các cấp độ của tiếng cười ................ 19
1.1.3. Tác dụng của tiếng cười .................................................................. 23
1.2. Nghệ thuật gây cười .............................................................................. 25
1.3. Tiếng cười trong văn học Việt Nam ....................................................... 28
1.3.1. Tiếng cười trong văn học dân gian .................................................. 28
1.3.2. Tiếng cười trong văn học thành văn ................................................ 30
Chương 2: HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ ĐỐI TƯỢNG TIẾNG CƯỜI
TRONG THƠ TÚ MỠ ............................................................................... 35
2.1. Hành trình sáng tạo thơ Tú Mỡ .............................................................. 35
2.2. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ .................................................. 37
2.2.1. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945 .................................................................................................. 37
2.2.1.1. Quan lại, nghị viên và trí thức nịnh Tây ................................... 40
2.2.1.2. Những hủ tục, mê tín dị đoan, thói hư tật xấu, những trò lố lăng
trong xã hội .......................................................................................... 50
2.2.1.3. Thực dân Pháp ......................................................................... 58
5
2.2.2. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 .................................................................................................. 61
2.2.2.1. Thực dân, đế quốc và bọn tướng tá, binh lính .......................... 65
2.2.2.2. Việt gian và bọn bù nhìn .......................................................... 72
2.2.2.3. Tiếng cười trong nội bộ............................................................ 78
2.2.3. Tự trào ............................................................................................ 81
Chương 3: NGHỆ THUẬT GÂY TIẾNG CƯỜI TRONG THƠ TÚ MỠ .. 86
3.1. Vận dụng các hình thức nghệ thuật dân tộc ........................................... 86
3.1. 1.Vận dụng các hình thức nghệ thuật dân gian ................................... 86
3.1.1.1.Vận dụng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, ngụ ngôn, truyện cười, tiếu
lâm ....................................................................................................... 86
3.1.1.2. Vận dụng các điệu chèo, hát xẩm ............................................. 90
3.1.2. Vận dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống .................................... 91
3.1.2.1. Vận dụng thể thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói ................. 93
3.1.2.2. Vận dụng thể thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn . 96
3.1.2.3. Sử dụng thể văn tế và phú ........................................................ 97
3.1.2.4. Sử dụng thể thơ yết hậu ............................................................ 98
3.1.2.5. Sử dụng thể thơ tự do ............................................................... 99
3.2. Các biện pháp nghệ thuật gây cười ..................................................... 100
3.2.1. Hình ảnh thơ ................................................................................. 100
3.2.2. Chơi chữ ....................................................................................... 102
3.2.3. Tương phản đối lập ....................................................................... 106
3.2.4. Giễu nhại ...................................................................................... 108
3.2.5. Vật hoá ......................................................................................... 111
3.2.6. Phóng đại ...................................................................................... 112
3.2.7. Sử dụng từ láy: ............................................................................. 114
3.2.8. Lối kết thúc bất ngờ và đề cao để hạ thấp ..................................... 115
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 122
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chúng tôi chọn tác giả Tú Mỡ vì trước hết ông có một vị trí quan trọng,
đặc biệt trong nền văn học dân tộc, có một di sản văn chương đáng được gọi
là một sự nghiệp. Ông tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14/03/1900, mất
ngày 13/07/1976, là nhà thơ trào phúng có chân trong Tự lực Văn đoàn và
cũng là tác giả tiêu biểu nhất của dòng thơ trào phúng Việt Nam thế kỉ XX.
Ông đã góp cho nền văn học dân tộc một di sản thơ ca phong phú với nghệ
thuật trào phúng đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tú Mỡ không phải là nhà thơ trào phúng đầu tiên và duy nhất trong lịch
sử văn học Việt Nam. Chúng ta từng biết đến những tác phẩm trào phúng
hoặc có yếu tố trào phúng như ca dao trào phúng, truyện tiếu lâm, truyện
cười, truyện Trạng Quỳnh, truyện Trạng Lợn, truyện Thủ Thiệm, thơ Hồ
Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương,... Tuy nhiên, lần đầu tiên
có một nhà thơ Tú Mỡ sử dụng trào phúng với tư cách là một nghệ thuật sáng
tác chủ đạo xuyên suốt các tác phẩm trong cả sự nghiệp văn chương của
mình, bền bỉ suốt từ thời thanh niên sôi nổi trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 cho đến hết thời kì kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp (1945-
1954) và đế quốc Mĩ (1954-1975), và khi hoà bình lập lại.
Mặt khác, thơ trào phúng của Tú Mỡ có nhiều giá trị tư tưởng. Chính trị
và văn nghệ hoà quyện với nhau trở thành một thứ thơ đấu tranh cho chính
nghĩa, cái hay, cái phải. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tú Mỡ dùng
tiếng cười xây dựng những bức tranh biếm hoạ, đả kích bộ mặt xấu xa của
quan lại phong kiến, những chuyện lố lăng trong xã hội; đánh thẳng vào bọn
tay sai, chính phủ bù nhìn. Từ năm 1945, với tinh thần sảng khoái, lạc quan
của một dân tộc đang chiến đấu và sẽ chiến thắng, Tú Mỡ sử dụng “binh pháp
trào phúng” với “đội hùng binh tiếng cười” tấn công trực diện những trận vũ
bão vào thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, bọn tướng tá đầu sỏ, bọn
nịnh Tây, bán nước cầu vinh... Sau năm 1975, tiếng cười trong thơ ông vẫn
7
toát lên tấm lòng đôn hậu ở những bài thơ viết cho thiếu nhi. Điều thú vị là:
tiếng cười trào phúng của Tú Mỡ ở nhiều đề tài còn có giá trị hiện thực cho
đến ngày nay. Nghệ thuật gây tiếng cười của Tú Mỡ mang tính tổng hợp.
Nghệ thuật ấy có được nhờ sự đúc rút kinh nghiệm bản thân, và nhờ học tập ở
tiền nhân như Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, học tập
văn học nước ngoài - đặc biệt là văn học Pháp và học tập nhiều nhất ở văn
học dân gian. Điều quan trọng là tiếng cười độc đáo trong thơ Tú Mỡ được
thành hình từ tất cả những căn gốc ấy.
Ngoài giá trị tư tưởng và nghệ thuật, ý nghĩa nhân sinh của quan niệm
sống Tú Mỡ cũng hấp dẫn chúng tôi tiếp cận đề tài Tiếng cười trong thơ Tú
Mỡ.
Đằng sau tiếng cười Tú Mỡ là một lẽ sống riêng, sống cho lành mạnh,
vừa chấp nhận, vừa vượt lên những ngang trái còn đầy rẫy xung quanh.
Nghiên cứu về tiếng cười Tú Mỡ, cũng là củng cố thêm một lẽ sống giản dị
nhưng hữu ích cho đời, góp phần bồi dưỡng lí tưởng cho thế hệ trẻ trong quá
trình chúng tôi giảng dạy văn học tại trường THPT.
Chính sự nghiệp thơ ca dày dặn, nghiêm túc với nghệ thuật đặc sắc và
phong vị dân gian đậm đà trong các tác phẩm của Tú Mỡ đã khiến ông gắn bó
trọn đời với nghề cầm bút và có một vị trí vững chãi trong nghề nghiệp.
Cuối cùng, trong những công trình nghiên cứu văn học nhiều năm nay,
Tú Mỡ thường chỉ được nhắc đến như một nhà thơ đả kích kẻ thù, và sau này
thêm những bài viết cho thiếu nhi nữa. Đáng ra, từ lâu chúng ta nên nhìn nhận
đúng tài năng trào phúng của Tú Mỡ. Bước đầu, chúng tôi xin tri ân nhà thơ
bằng những nghiên cứu nghiêm túc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy có nhiều bài viết khá sâu
sắc về nhà thơ trào phúng Tú Mỡ trước và sau Cách mạng tháng Tám năm
1945.
8
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đề cao
cốt cách dân tộc trong thơ Tú Mỡ. Đương thời, ông đánh giá hai tập Giòng
nước ngược (xuất bản năm 1943 và 1944) là “hai tập thơ có cái giọng bình
dân rất trong sáng mà chúng ta vốn ưa thích xưa nay. Giọng đùa cợt lẳng lơ
của Hồ Xuân Hương, giọng nhạo đời của Trần Tế Xương, giọng thù ứng ý nhị
của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng giao duyên tình tứ của Trần Tuấn Khải, từng
ấy giọng thơ, ngày nay ta thấy cả trong hai tập thơ trào phúng của Tú Mỡ”
[39,9]. Tóm lại, tính dân tộc thể hiện ở những thể thơ văn mà “lối nào của ông
cũng đều hay cả”. “Thơ Tú Mỡ thật là thơ có tính cách Việt Nam đặc biệt”
[39,13]. Phạm Thế Ngũ cũng đánh giá cao nhà thơ Tú Mỡ ở phương diện này
khi cho rằng “thơ Tú Mỡ... chịu ảnh hưởng rõ rệt thơ cũ... từ cảm hứng đến
thể cách. Nói rằng ông đã tiến xa hơn tiền bối thì quá đáng, song ông cũng có
một lời thơ hoạt bát, cách gieo vần tài tình, giọng dí dỏm tự nhiên và mượn
tiếng cười để chinh phục người ta [38,158].”
Lê Thanh đánh giá nhà thơ Tú Mỡ vừa là nhà thơ khôi hài, vừa là nhà
thơ trào phúng. “Vì ngoài cái giá trị tuyệt đối về văn chương, nó còn cái giá
trị tương đối về phương diện xã hội” [44,64]. “Có một điều ta phải nhận là
ông đã can đảm cười trong những trường hợp mà đứng trước đấy đáng lẽ phải
có một bộ mặt nghiêm trang... Mà có lẽ trong văn chương ta chỉ có ông mới
dám ngạo mạn như thế. Vì hơn ai hết, trong sự tư tưởng cũng như trong sự
hành động, ông thành thực đối với ông cũng như ông tàn nhẫn với những cái
nó đi ngược với con đường mà lương tâm ông đã vạch sẵn. Cử chỉ và lời nói
của ông tỏ ra rằng ông làm những việc ấy dưới sự chỉ huy của một tâm hồn
tinh tiết, lúc nào cũng muốn thấy xung quanh mình sự tinh tiết” [44,69]. Ông
nhấn mạnh việc Tú Mỡ “nhập cảng cho văn chương ta một vài thể văn mới”
[44, 81] _ ông muốn nói đến lối “nhạo lại” (parodie) như bài Khuyên ông nghị
ra hội đồng và lối “ngược sách” như những bài ngụ ngôn La Fontaine ngược
sách. Lê Thanh cũng khẳng định ở Tú Mỡ, “hễ có dịp là cái trữ tình của tác
giả được đem ra phơi rãi trong văn chương [44,76].”
9
Nhà thơ Xuân Diệu khám phá “vẻ đẹp bình dị, gần gụi” của thơ Tú Mỡ.
Sức mạnh trào phúng trong thơ ông là do sự cộng hưởng “bốn cái ưu điểm”
và “nâng chúng lên làm thành một văn tài đặc sắc [5,34].” “Tú Mỡ vốn là một
nhà thơ làm báo, thì bây giờ Tú Mỡ phát huy tính cách tân văn, viết báo... bởi
đấu tranh với địch trong những luận điệu tuyên truyền thì phải ứng chiến hàng
ngày nhặm lẹ, viết được nhanh mà vẫn chững chạc; Tú Mỡ đã có những bài
rất sắc bén. Tú Mỡ là một anh xẩm thơ... nó bao gồm cách tính gần gụi quần
chúng và tính cách ca ngâm, mà xẩm hay thì phải đặt, phải hát được những
bài mới mẻ sát thời sự. Tú Mỡ là một nhà ngụ ngôn, trước vẫn đã đặt những
bài nói ví, nói ẩn... Bao trùm ba đặc điểm trên, Tú Mỡ có một tâm hồn thi sĩ...,
có một lòng yêu nước nồng nàn..., tình yêu nhân dân sâu sắc..., tâm hồn khát
khao chính nghĩa và yêu mến cái đẹp..., khả năng ngôn ngữ dồi dào của một
thi sĩ thật sự... đánh địch không biết mệt mỏi, với một tiếng cười nhiều vẻ, có
duyên” [5,34]. Theo Xuân Diệu, thơ Tú Mỡ được yêu mến “không phải chỉ vì
vận dụng ngôn ngữ lưu loát, vì hơi văn bình dân, hoặc vì đối đáp không non,
biết giá trị của những chữ, mà trước tiên vì quan sát thực tế đúng, thông minh,
biết điểm huyệt các sự việc” [5,47].
GS Phan Cự Đệ nhấn mạnh vào sự tiếp thu sáng tạo của nhà thơ Tú Mỡ
đối với truyền thống trào phúng dân tộc trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương,... nghệ thuật trào phúng trong ca dao, truyện tiếu lâm,
truyện khôi hài,... Ngoài ra, khả năng “dựng người, dựng cảnh một cách tài
tình, sinh động” [9,149] được nêu ra như một thế mạnh độc đáo của Tú Mỡ.
Trong khi đó, GS Hà Minh Đức nhấn mạnh tiếng cười độc đáo, giàu tính
chiến đấu của Tú Mỡ. Ông nhấn mạnh sự học hỏi của Tú Mỡ về nghệ thuật
trào phúng từ nghệ thuật sân khấu dân gian như hề chèo. “Nụ cười trong thơ
Tú Mỡ cũng khá dí dỏm lạc quan. Tác giả biết tiếp thu truyền thống đánh địch
rất tỉnh táo, thông minh mà sâu cay, ý nhị qua tiếng cười dân gian của những
chú Tễu, hề gậy, hề mồi, mẹ Đốp. Cái cười trong sân khấu chèo luôn phảng
phất đó đây trong thơ Tú Mỡ. Tú Mỡ gắn nhiều với văn mạch dân gian, nhất
10
là trong cách suy nghĩ và qua lời ăn tiếng nói. Tú Mỡ sử dụng khá thành công
một vốn từ phong phú, các thành ngữ, khẩu ngữ dân gian. Tú Mỡ sử dụng
thành thục, chọn đúng chỗ, nắm chắc ý tứ, hạ đúng từ ngữ làm cho câu chữ
trong nhiều bài thơ vừa chặt chẽ, mực thước, vừa phóng túng tài hoa, vừa
thời sự hiện đại, lại vừa có màu sắc dân gian quen thuộc”[11,102].
PGS.TS Hà Văn Đức nghiên cứu bộ phận sáng tác trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945 của Tú Mỡ, nhận thấy “Tú Mỡ luôn để mắt quan sát,
tìm ra bằng được những cảnh phi lý, kệch cỡm, những nghịch cảnh trong xã
hội để lên án và tố cáo” [13,184]. Ông đánh giá cao việc sử dụng thể thơ lục
bát, nhất là lối kết thúc bất ngờ và cách sử dụng dấu chấm lửng ở giữa câu,
cuối câu thơ để nhấn mạnh hoặc bông đùa. Tuy nhiên, ông cũng nhận ra rằng
Tú Mỡ “có tiêm nhiễm lối chế giễu hoặc bông phèng thả cửa kiểu khách quan
tư sản trong báo Ngày nay và có cả ảnh hưởng tư tưởng của các nhà nho đang
lâm vào con đường bế tắc, đã hết sứ mệnh lịch sử. Cái hạn chế cơ bản trong
thơ ông là còn thiếu chất trữ tình sâu lắng, thiếu cái rung động sâu xa từ nội
tâm” [13, 198].
GS. Hoàng Như Mai nghiên cứu về thơ Tú Mỡ trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp. Ông kết luận thơ trào phúng Tú Mỡ có cảm hứng vô tận là
thời sự và “giữa sự thực và sáng tác nghệ thuật của nhà thơ có một sự nhất trí
hoàn toàn.” Thêm vào đó, “bản thân sự việc tự nó vốn đã có tính chất hài
hước rồi và mang thẳng tính chất ấy vào trong sáng tác” [29, 234]. Và như
thế, phần sáng tạo của Tú Mỡ là “phần đóng góp quan trọng để nâng cao, tô
đậm chất khôi hài của câu chuyện” [29, 238]. Hoàng Như Mai đánh giá cao
tính dân tộc trong thơ Tú Mỡ qua các thể thơ, các điệu hát dân gian và ngôn
ngữ bình dân.
PGS Nguyễn Văn Long nghiên cứu thơ ca kháng chiến của Tú Mỡ. Ông
nhận diện cách đánh địch của Tú Mỡ từ sau khi cách mạng thành công là
“đường hoàng, chính diện, trên tư thế của người chiến thắng” [28, 264]. Ông
cũng chỉ ra “nghệ thuật trào phúng của Tú Mỡ giàu bản sắc dân tộc” [28,
11
265], trong đó lối chơi chữ để “điểm huyệt”, cách kể chuyện có duyên và linh
hoạt, tạo được những bất ngờ lý thú như một lớp kịch nhỏ.
Đặng Quốc Nhật xác định phạm vi nghiên cứu là bộ phận thơ trào phúng
đánh giặc của Tú Mỡ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông không những
chỉ ra những yếu tố trào phúng truyền thống trong thơ Tú Mỡ mà còn chỉ rõ
hai yếu tố Tự sự và Trữ tình đã góp phần xây dựng nhân vật trào phúng thành
công. Ở đây, quan điểm của Đặng Quốc Nhật gặp gỡ quan điểm của Lê
Thanh, cho rằng thơ Tú Mỡ có yếu tố trữ tình khá đậm, chứ không chỉ
nghiêng về kể việc và những thủ pháp để gây cười. “Chất tự sự - trữ tình ở
đây, chính là từ cái cụ thể, từ việc cụ thể, người cụ thể, Tú Mỡ kể lại một cách
dí dỏm, sinh sắc, làm cho người đọc vừa cười, vừa hình dung ra một cách cụ
thể hoàn cảnh, nhân dạng và bản tính từng đối tượng một. Sự nhấn mạnh một
khía cạnh tâm lí, phóng đại một nét chân dung làm nổi bật lên yếu tố mâu
thuẫn mà thơ đả kích cần khoét sâu vào. Ở thơ trào phúng Tú Mỡ, nhất là
những bài thơ tả bù nhìn, có sự kết hợp hài hoà giữa đặc điểm thơ và biện
pháp hội hoạ châm biếm... Sở dĩ những bài thơ này hay, những bức tranh thơ
này sinh động, thu hút và để lại dấu ấn cho người đọc, ngoài khả năng châm
biếm, Tú Mỡ đã dành cả tình cảm của mình vào đó, nên thơ trào phúng mà có
được bản sắc trữ tình. Chất trữ tình ở đây, ẩn sau tiếng cười, được bộc lộ một
cách hồn nhiên, thoải mái, mang lại những cảm xúc thành thật. Chất tự sự -
trữ tình được kết hợp một cách nhuần nhuỵ tạo nên phong cách thơ trào
phúng của Tú Mỡ” [34, 279].
Trong những năm gần đây, nhiều đề tài thuộc khoa văn học đã được bảo
vệ, nhưng đề tài về nhà thơ Tú Mỡ thì rất ít. Nhìn chung, các tác giả đều có
những phát hiện riêng, đánh giá sâu sắc, nhưng hầu hết chưa được hệ thống,
thể hiện ở những bài viết có khuôn khổ nhỏ, tuy có ý đi sâu vào lĩnh vực thi
pháp tác giả, nhưng chưa bao quát được toàn bộ hai giai đoạn sáng tác trước
và sau Cách mạng của Tú Mỡ, hoặc nếu khắc phục được phương diện này thì
12
lại chỉ nhìn nhận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ Tú Mỡ một cách sơ
lược và tổng quan mà thôi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nhà thơ Tú Mỡ sáng tác cả thơ, văn, sân khấu... Chúng tôi chỉ nghiên
cứu bộ phận sáng tác thơ trào phúng của ông (cả hai giai đoạn trước và sau
Cách mạng tháng Tám).
Đề tài Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ có nhiệm vụ làm rõ thế giới tư tưởng
nghệ thuật và nghệ thuật ngôn ngữ của nhà thơ. Đồng thời, qua đối tượng
tiếng cười và nghệ thuật gây cười, chúng tôi mạnh dạn đánh giá vị trí thơ Tú
Mỡ trong nền văn học dân tộc.
Chúng tôi sử dụng bộ sách Tú Mỡ toàn tập (3 tập) để khảo sát bộ phận
thơ trào phúng của tác giả.
4. Đóng góp mới của luận văn:
Mục đích của luận văn này là nghiên cứu về tiếng cười, vai trò của tiếng
cười trong đời sống và trong văn học, nghiên cứu đối tượng của tiếng cười, ý
nghĩa của tiếng cười trong thơ Tú Mỡ và nghệ thuật tạo ra tiếng cười trong
thơ ông. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nghiên cứu trước đây, luận
văn đưa ra một cái nhìn toàn diện về tư tưởng nghệ thuật và nghệ thuật trong
thơ trào phúng Tú Mỡ trước và sau Cách mạng tháng Tám, đồng thời nhấn
mạnh một số đặc điểm thi pháp chủ yếu của Tú Mỡ. Chúng tôi sẽ liên hệ tiếng
cười trong thơ Tú Mỡ vớí tiếng cười trong thơ trào phúng đương đại để chỉ ra
sức sống của tiếng cười Tú Mỡ nói riêng, sức sống của dòng văn học trào
phúng truyền thống nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
_ Phương pháp lịch sử
_ Phương pháp thống kê
_ Phương pháp phân tích
_ Phương pháp so sánh
13
_ Phương pháp hệ thống
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung
chính của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung về tiếng cười. Tiếng trong đời sống văn học.
Chương 2: Hành trình sáng tạo và tiếng cười trong thơ Tú Mỡ.
Chương 3: Nghệ thuật gây tiếng cười trong thơ Tú Mỡ.
14
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ TIẾNG CƯỜI.
TIẾNG CƯỜI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC.
1.1. Tiếng cười
1.1.1. Khái niệm về tiếng cười
Một cách dí dỏm và dễ hiểu, ông Văn Tân mở đầu cuốn Tiếng cười Việt
Nam bằng lối nói hình ảnh: “Tiếng cười của con người khác với tiếng hót của
chim hay tiếng hí của ngựa. Nó không chỉ là một hiện tượng sinh lý mà nhiều
khi còn là một hiện tượng tâm lí xã hội. Cười là hiện tượng khi thấy trong
mình khoan khoái hoặc về thể chất, hoặc về tinh thần, và cũng cười khi thấy
sự vật đáng cười nữa” [41, 10].
Có lẽ dân tộc nào cũng thế, cười không chỉ là biểu hiện vẻ đẹp trên nét
mặt (Miệng cười như thể hoa ngâu – ca dao) mà còn là biểu hiện của một nội
dung tinh thần nhất định. Do đó mới có các kiểu cười nụ, cười tươi, cười tủm,
cười nhạt, cười gượng, cười thầm, cười hềnh hệch, cười ngặt nghẽo, cười gằn,
cười khẩy, cười nửa miệng, cười ra nước mắt... Chúng tôi bám sát yêu cầu của
luận văn, chỉ nghiên cứu tiếng cười với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã
hội phát sinh ra từ những mâu thuẫn của sự vật, cụ thể là mâu thuẫn giữa hình
thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản chất của sự vật. Tất nhiên, không
phải mâu thuẫn trái tự nhiên nào, mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức nào
hay mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất nào của sự vật cũng đáng cười và
khiến người ta buồn cười. Cái mâu thuẫn không đáng cười là cái mâu thuẫn
tất nhiên của sự vật, chiều hướng tiến triển của mâu thuẫn này sẽ thúc đẩy sự
vật biến đổi để tiến thành cái khác. Cái mâu thuẫn làm cho người ta phải cười
là cái mâu thuẫn trái tự nhiên, cái mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa
cái thực và cái giả, giữa cái không che giấu và cái che giấu, giữa cái bản chất
15
và hiện tượng. Đó là cái mâu thuẫn ngược đời, quái gở, đáng lẽ không nên có
mà lại cứ có. Cái mâu thuẫn trái với quy luật tự nhiên và xã hội ấy nó phải có
ý nghĩa xấu xa, thì việc khám phá ra mâu thuẫn ấy mới làm cho người ta buồn
cười và cười được. Chúng tôi cho rằng việc trích dẫn câu ca dao sau sẽ làm
sáng rõ lý luận trên:
Chuột trù chê cú rằng hôi
Cú lại trả lời: Cả họ mày thơm.
Chuột trù hay cú thì đều là hai loài hôi cả. Trời sinh ra thế, chẳng ai cười
làm gì, người ta cũng thấy bình thường như việc hoa bưởi, hoa nhài thơm thì
ướp chè, thế thôi. Chuột trù chê cú hôi đã bộc lộ một mâu thuẫn: kẻ hay chê
người lại đang chê bai kẻ khác ở cái điểm mà bản thân còn yếu hơn, xấu hơn
họ. Câu trả lời của cú hay hơn nữa: “Cả họ mày thơm”. Nghĩa là, cái chuyện
cú hôi là chuyện tất nhiên, trời sinh, chẳng có gì xấu xa cả; chỉ có kẻ nào
không tự biết thân biết phận, tự cao tự đại, đã xấu hay làm ra vẻ tốt mới đáng
lên án, đáng cười. Mâu thuẫn giữa cái “thơm thật” và “thơm giả” ở đây đã
vạch rõ bộ mặt thật của cả họ chuột trù. Và như thế thì không cần nhiều lời
hay một tài liệu khoa học nào đưa ra để phản bác chuột trù nữa. Tiếng cười
bật ra đã bịt mõm cả họ chuột trù rồi! Tất nhiên, hiện tượng mâu thuẫn giữa
chuột trù với cú ở đây chỉ hiện tượng trong xã hội con người, và bài ca dao đã
lột mặt nạ rởm đời của kẻ hay chê bai người khác, mà lại chê ở cái điểm mà
bản thân mình lại không bằng người ta. Ở đời nhiều việc như thế, bởi nó xuất
phát từ thói xấu là hay tự cao và thói không muốn người khác hơn bản thân
mình!
Nói tóm lại, tiếng cười gắn bó mật thiết với phạm trù cái Hài. Tiếng cười
là hình thức thể hiện của cái Hài.
Tiếng cười trong thơ ca trào phúng là một yếu tố chủ quan của cái Hài.
Với ý nghĩa là một phạm trù thẩm mỹ, cái Hài cho chúng ta hiểu đúng bản
chất của nó về phương diện nghệ thuật khi nhận định về cái Xấu căn cứ vào
quy luật của cái Đẹp. Cái Xấu trở thành đối tượng của tiếng cười khi tự nó
16
không biết mình là xấu, không chịu chấp nhận mình là xấu, mà cố tình khoác
lên mình một cái vỏ đẹp đẽ để che đậy. Khi cái Đẹp giả mạo bên ngoài bị bóc
tuột, cái Xấu bên trong bị phơi bày, thì mâu thuẫn ấy bộc lộ cái Hài, và khi đó
tiếng cười bật ra. Cái Hài là một bộ phận của cái- Xấu- nhưng- lại- không-
đành- phận- xấu. Nó núp bóng cái Đẹp, cố làm ra đẹp, nhưng bị cái Đẹp chân
chính đào thải. Cái thấp kém, ươn hèn, xấu xa tự nó chưa có tính chất hài, mà
nó chỉ mang tính hài khi nó làm ra vẻ cao cả. Hê-ghen chỉ rõ yếu tố tạo nên
cái Hài là mâu thuẫn giữa cái quan trọng giả và cái quan trọng thật. Tiếng
cười biểu hiện đánh giá chủ quan của mỗi người về cái Hài đó.
Bởi thế, nghiên cứu về tiếng cười trong thơ Tú Mỡ có một nội dung quan
trọng là nghiên cứu nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Mỡ, trong đó chúng
tôi nhấn mạnh nghệ thuật tạo nên tiếng cười trong thơ ông.
Nghệ thuật trào phúng là một phương pháp bộc lộ những sai lầm của đối
tượng, qua đó cải tạo đối tượng. Trong quá trình đó, tiếng cười bật ra bày tỏ
thái độ phê phán hay khinh ghét, chứ không đơn thuần là tiếng cười dễ dãi.
Tiếng cười trong thơ trào phúng thường chứa đựng những triết lý và những
bài học sâu sắc. Có nhiều người cho rằng những câu ca dao sau có nội dung
giễu cợt đơn thuần để người nông dân mua vui dưới gốc đa, mái đình mà thôi:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo: râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo: về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo: hoa thơm rắc đầu...
Chắc rằng chẳng có người chồng nào muốn bày tỏ tình yêu với vợ bằng
cách liệt kê các tật xấu của người vợ ra để kể như thế, mặc dầu kể bằng một
lối thật “yêu”. Chúng tôi cho rằng bài ca dao đó dựa vào tình cảm vợ chồng
17
chân thành để gửi đến người vợ lời nhắc nhở thẳng thắn. Người vợ nào bị
nhắc nhở như thế chẳng phật lòng, và lại vui lòng xem xét lại những tật xấu
ấy để sửa hoặc... thanh minh! Vấn đề là, bài ca dao đã mượn tiếng cười nhẹ
nhàng để ý tứ chê những thói quen không tốt của người phụ nữ trong gia đình.
Và đây là bài ca dao trào phúng.
Tiếng cười không thể thiếu và chưa bao giờ vắng bóng trong văn học
Việt Nam. Ở nước ta, tiếng cười trong văn chương trào phúng bắt nguồn từ
văn học dân gian. Thật dễ dàng tìm thấy tiếng cười trong các tác phẩm ca dao,
hò, vè, truyện tiếu lâm, truyện cười, truyện Trạng, các vai hề chèo,... Đến cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, với các sáng tác của Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương, văn học trào phúng mới chính thức khơi dòng. Vấn đề này sẽ được
chúng tôi diễn giải sâu hơn ở phần 1.3.
Theo Arixtotle: Cái đáng cười là cái xấu. Mâu thuẫn ngược đời và quái
gở giữa nội dung và hình thức làm cho người ta phải buồn cười, nhưng nếu
mâu thuẫn này lại quái gở đến mức quá kịch liệt thì cái hài sẽ biến thành cái
bi, tiếng cười sẽ nhường chỗ cho tiếng than khóc, hay sẽ thay bằng một sự
ngạc nhiên. Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính có nhiều lớp chèo mà mâu thuẫn
lên đến mức quá kịch liệt. Đó là khi Thị Kính định cắt sợi râu mọc ngược của
Thiện Sĩ thì bị nghi ngờ là giết chồng (!), sau đó bị vu oan trắng trợn; đó là
khi Thị Mầu vu vạ cho tiểu Kính Tâm (vốn là Thị Kính giả trai đi nương nhờ
cửa phật) làm cho thị có thai. Các mâu thuẫn trái tự nhiên đó không bật ra
tiếng cười mà phát triển liên tiếp biến cái Hài thành cái Bi. Người xem chèo
không khỏi thương xót thân phận Thị Kính hiền đức đáng thương và rồi ngợi
ca đức độ của Phật bà Quan Âm.
Tóm lại, cười là một hiện tượng sinh lý hoàn toàn của cá nhân do sự vui
sướng, sự thỏa mãn về thể xác hay về tinh thần gây ra, nhưng nhiều khi cũng
là một hiện tượng của tâm lý xã hội phát sinh ra từ những mâu thuẫn của sự
vật, cụ thể là mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản
chất của sự vật.
18
1.1.2. Các phương thức biểu hiện và các cấp độ của tiếng cười
Tiếng cười có nhiều cung bậc và biểu hiện một nội dung tinh thần nhất
định. Vì thế, tùy theo mục đích và yêu cầu của tiếng cười mà nó diễn ra theo
phương thức này hay phương thức khác để đạt đến một ý nghĩa nào đấy. Căn
cứ vào đó, chúng tôi tổng hợp thành năm phương thức biểu hiện tiếng cười
như sau:
Thứ nhất, là phương thức khôi hài, biểu hiện tiếng cười mua vui giải trí,
cười để mà vui nhộn. Đây là tiếng cười hiền lành vô thưởng vô phạt. Có thể
bắt gặp phương thức này trong các truyện làng cười. Đây “là những câu
chuyện mang dáng dấp của một câu nói ứng khẩu trong đời sống đời thường
của người dân” [2,54]. Truyện Vần củ suốt đêm của làng cười Đồng Sài (Quế
Võ, Bắc Ninh) kể theo phương thức khôi hài. Truyện kể về bốn tên ăn trộm đi
đào trộm khoai, chỉ đào được một củ và tảng sáng đã bị lính tuần bắt vì củ
khoai to quá, chúng... vần đi không được!
Thứ hai, là phương thức trào phúng - với ý nghĩa là khuyên đời, giáo
dục. Theo Lỗ Tấn, thì trào phúng chẳng có gì khác là nói ra một sự thật mà
không ai nói ra. Cái sự thật mà Lỗ Tấn nhắc đến tất nhiên phải chứa đựng
mâu thuẫn, mâu thuẫn ấy phải được vạch trần sự quái gở, và nó được nhắc đi
nhắc lại một số lần, nếu thường xuyên gặp quá thì nó trở thành bình thường
và hết khả năng làm cho người ta cười. Tiếng cười có khi để chê bai, nhưng
chê bai là để giáo dục. Tiếng cười có thể hướng đến đối tượng là chính bản
thân mình, bạn mình, hoặc cười kẻ thù. Cho nên Nguyễn Khuyến Tự trào:
Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
…Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ!
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
Trên đây, mục đích của việc cười mình là tự nhắc nhở những điều mình
đã làm và chưa làm được. Còn Tú Xương lại cười chính những thói tật của
mình:
19
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Thứ ba, là phương thức mỉa mai, biểu hiện tiếng cười ở mức độ khinh
bỉ, chê bai một cách sâu cay đối với những mâu thuẫn bị vạch trần bản chất
của nó. Phương thức này biểu hiện tiếng cười ở cái thế hơn người mà giễu cợt
người khác, có thể dùng để giễu cợt bạn hay kẻ thù. Cho nên Tú Mỡ mới mỉa
mai Nguyễn Văn Vĩnh là người xướng lên thuyết Trực trị, ông Phạm Quỳnh
xướng lên thuyết Lập hiến, gọi hai ông là Nam Hải nhị dị nhân:
Nước Nam có hai người tài:
Thứ nhất sừ Vĩnh, thứ hai sừ Quỳnh.
Một sừ béo múp rung rinh,
Một sừ lểu đểu như hình cò hương.
Ông tuần phủ Trần Đích vốn là bạn học, người Bình Lục (Ha Nam), có
tính keo kiệt bủn xỉn, nên thường bị Nguyễn Khuyến giễu cợt, đả kích. Khi
hưu quan, ông Đích chỉ lo làm giàu, rồi bị cướp, rồi “bị” Nguyễn Khuyến Hỏi
thăm quan tuần mất cướp:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Xương già da cóc có đau không?...
Thứ tư, là phương thức châm biếm, biểu hiện tiếng cười phê phán, lên án
mạnh mẽ. Theo nguồn gốc xã hội, thì phương thức này là cách thức lên án kẻ
thù của một người ở vào cái thế kém kẻ thù, nên tư thế là chửi ngầm rủa kín.
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, hàng năm cứ đến ngày kỉ niệm Cách
mạng Tư sản Pháp thằng lợi (14 - 7), thực dân tổ chức hội hè rất linh đình
khắp các tỉnh lị, nhất là ở Hà Nội. Để châm biếm những trò mị dân, nhục
quốc mà thực dân bày ra, Nguyễn Khuyến tả Hội Tây thế này:
20
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo!
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo!...
...Khen ai khéo vẽ trò vui thế!
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
Thứ năm, là phương thức đả kích, biểu hiện tiếng cười phê phán mạnh
mẽ kịch liệt, dùng để đánh kẻ thù, mà đánh công khai và chính diện. Cho nên
đây là phương thức “xung trận” của những nhà thơ trào phúng thấy sức mình
tương đương hoặc hơn kẻ thù. Chúng tôi thấy thơ trào phúng hiện đại sử dụng
phương thức này rất phổ biến, có lẽ do chúng ta ủng hộ việc đấu tranh một
cách công khai cho lẽ phải thông thường. Ông Lê Khả Sĩ đả kích việc cắt điện
đột ngột, vô tội vạ trong những năm gần đây trong bài Mồm quan – trôn trẻ:
Công trình điện mọc lên nhan nhản
Mà ngày ngày cứ mất điện liên hồi
Hội thảo, giải trình thì rất giỏi
Tất cả chung quy chỉ tại ông Trời...
…Mồm quan như là trôn trẻ
Còn độc quyền, điện vẫn còn như thế
Chung quy “chỉ tại ông Trời”...
Về phương diện lí luận, chúng ta cần phân biệt rành mạch các phương
thức để có thể vận dụng những phương tiện nghệ thuật nêu trên nhằm diễn tả
nội dung trào phúng phù hợp nhất và hiệu quả nhất ở những mức độ giễu cợt,
châm biếm khác nhau. Trong thực tế sáng tác, các nhà trào phúng vẫn sử dụng
tích hợp các phương thức với nhau, chứ không nhất nhất tuân theo ý nghĩa và
tác dụng của từng phương thức. Nói cách khác, việc phân chia ra các phương
thức trào phúng khác nhau chỉ là cách chia tương đối. Bởi vì trong khôi hài,
cười cợt có châm biếm, chế giễu; trong châm biếm, chế giễu có phê phán, đả
kích; trong phê phán, đả kích có khôi hài, cười cợt. Bài Thượng hạ giai cẩu
(Trên dưới đều chó) của Cao Bá Quát có đủ các yếu tố khôi hài, châm biếm
và đả kích như thế. Đây là bài viết theo thể tứ tự. Ông viết lời trình của mình
21
cho vua Tự Đức nghe những điều mình biết về việc các quan chửi rủa và ẩu
đả lẫn nhau trong bữa tiệc mà nhà vua thết đãi:
Trước Quát không biết
Cuối Quát không hay
Giữa chừng mới đến
Quát thấy thế này
Bàn trên chửi chó
Bàn dưới cũng chó
Trên dưới đều chó
Thần can cũng khó
Thần bỏ thần chuồn.
Trước thái độ vừa thật thà vừa bông lơn hiểm hóc đó, vua Tự Đức không
thể bắt bẻ vào đâu được, dù nhận ra thái độ chửi xỏ của Cao Bá Quát, vì bài
tứ tự chỉ nói toàn sự thật!
Tiếng cười trong văn chương trào phúng được tạo ra bằng các phương
thức khác nhau, thể hiện những sắc thái đa dạng. Còn về các cấp độ của tiếng
cười, có nhiều quan điểm trong việc phân chia. Căn cứ vào mục đích tiếng
cười và phương thức gây cười, chúng tôi thống nhất chia thành các cấp độ cơ
bản như sau: Cấp độ khôi hài, giễu nhại là cười để mà cười, cười cho vui
nhộn. Cấp độ trào phúng, mỉa mai là cười để vạch ra mâu thuẫn, nhằm
khuyên đời, giáo dục hoặc chê bai một cách sâu cay. Cấp độ châm biếm, đả
kích là cười để vạch mặt kẻ thù theo cách “chửi ngầm rủa kín” của người ở
thế kém, hay đánh kẻ thù theo cách công khai chính diện của người ở tư thế
ngang bằng hoặc hơn kẻ thù.
Như vậy, tiếng cười được biểu hiện dưới nhiều phương thức, nhưng tựu
chung có thể phân thành các cấp độ như sau: khôi hài giễu nhại, trào phúng
mỉa mai và châm biếm đả kích.
22
1.1.3. Tác dụng của tiếng cười
Chúng tôi nhắc lại một nhận định mà ở hầu hết các tài liệu nghiên cứu về
văn chương trào phúng Việt Nam đều nói đến: Dân tộc Việt Nam là một dân
tộc hay cười, biết cười, biết nghệ thuật làm cho người ta phải buồn cười.
Một lần nữa, chúng tôi giới hạn phạm vi tiếng cười mà luận văn hướng
đến nghiên cứu là tiếng cười mang tính xã hội, chứ không phải là tiếng cười
sinh lí. Và vì thế, tác dụng của tiếng cười trong đời sống và trong văn học như
thế nào có liên quan chặt chẽ đến nguồn gốc xã hội của tiếng cười.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta trải qua nhiều giai đoạn
thăng trầm dưới chế độ Bắc thuộc hoặc chế độ phong kiến. Theo các tài liệu
sử học Việt Nam, Thục Phán An Dương Vương sau khi lập nên nước Âu Lạc
năm 258 TCN đã để mất nước vào tay Triệu Đà vào năm 179 TCN, kể từ đó
nước Việt bắt đầu chìm trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, mãi đến năm 938 –
khi Ngô Quyền đánh thắng giặc Nam Hán và thiết lập nền tự chủ.
Trong những năm Bắc thuộc dài tăm tối hay những năm tự chủ dưới chế
độ phong kiến, thì nhân dân vẫn cứ chịu nhiều áp bức và bất công. Dưới chế
độ Bắc thuộc, nhân dân phải gánh những món cống phẩm khổng lồ hàng năm
như sừng tê, ngà voi, đồi mồi,…, đi phu phen tạp dịch, và nhất là đứng trước
nguy cơ bị đồng hóa. Cho nên đời sống chẳng những cực khổ mà còn tối tăm,
mất tự do. Cho đến thời kì phong kiến, dù có tự chủ nhưng quyền lợi của nhân
dân không gắn liền với tầng lớp thống trị được. Người nông dân tiếp tục bị
bóc lột ở nhiều phương diện như thổ địa đất đai, thuế má, hoa màu, phu phen,
cống phẩm,… Chính vì bị áp bức cả về kinh tế lẫn văn hóa tinh thần, mà
nhiều mâu thuẫn xã hội phát sinh. Yếu tố gây cười có ở khắp nơi nhưng người
dân thì không được nói công khai, nói thật. Vì thế họ phải châm biếm, mỉa
mai, bật ra tiếng cười- tiếng cười giúp họ hả hê, tươi vui hơn và thấy được trả
thù một phần nào đó.
Tiếng cười làm cho nhân dân hả bớt giận khi họ chưa đủ lực để đạp bằng
bất công – đó chính là võ khí đấu tranh, tuy chưa được tích cực lắm. Nhưng
23
nó lại có tác dụng tích cực với người bị cười: làm cho kẻ xấu, quân thù nhơ
nhuốc thêm. Đọc truyện Trạng Quỳnh, cứ lúc nào nhà Chúa mắc mưu Quỳnh,
Chúa lại lộ ra một nét xấu xa, ngu dốt, độc ác, người ta lại hả hê mà cười. Ít
nhất, trong cái cười u mua ở bài ca dao sau đã có sự chế giễu kín đáo và ẩn
chứa sự bất bình của nhân dân với quy định mới về “mĩ tục” dưới thời
Nguyễn:
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang!
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần ra đứng đầu làng trông quan.
Nhân dân được trả thù ở một chừng mực nhất định. Cười lúc này khiến
nhân dân vui vẻ hơn, tin tưởng hơn vào tương lai, chờ thời cơ đạp bằng bất
công. Cười theo nghĩa này cũng biểu thị một phần nào cái tinh thần bất khuất
của dân tộc.
Có khi, cười chỉ là cho quên sự nặng nề của những cảnh áp bức, bóc lột
do quân thù gây ra:
Chém cha lũ Nhật côn đồ!
Bắt người cướp của tha hồ thẳng tay.
Dân ta trăm đắng ngàn cay,
Thóc ăn chẳng có, trồng đay cho người!
Tóm lại, tiếng cười đã nói lên tinh thần bất khuất của dân tộc, và cũng là
một biểu hiện đặc biệt của dân tộc tính Việt Nam. “Một dân tộc vui cười và
tin tưởng, vui cười và tin tưởng cả trong thời kì lịch sử dài và đen là một dân
tộc khỏe mạnh, giàu sức sống, vừa có tinh thần bền bỉ để chịu đựng gian khổ,
vừa có chí quật cường để tiến lên” [41,30].
24
1.2. Nghệ thuật gây cười
Chúng tôi sẽ khảo sát nghệ thuật gây cười trong văn học dân gian và văn
học viết. Vả chăng, chính Tú Mỡ mà chúng tôi nghiên cứu trong đề tài này
cũng đã học tập rất nhiều ở nghệ thuật gây cười từ dân gian và nghệ thuật trào
phúng của tiền nhân.
Khảo sát các tác phẩm ca dao hài hước và trào phúng, truyện tiếu lâm,
truyện cười, các vai hề chèo trong văn học dân gian, và các tác phẩm trào
phúng trước Tú Mỡ, chúng tôi rút ra bảy biện pháp nghệ thuật gây cười cơ
bản như sau:
Thứ nhất, là sử dụng những yếu tố tục, thường là để mua vui. Những câu
đố tục giảng thanh hoặc đố thanh giảng tục cũng toát lên tiếng cười mua vui
thế này. Ở một phương diện khác, chính những câu đố với lối nói chệch – nói
một đằng hiểu một nẻo – cũng là một quặng quý cho thơ ca trào phúng khai
thác các phương thức bộc lộ chủ đề. Các câu ca dao có yếu tố tục cũng
thường nhằm mục đích làm cho người ta cười cho vui và quên khổ. Bài ca
dao sau trong một thời gian bị hiểu là mô tả sự đấu tranh giai cấp, nhưng theo
Nguyễn Xuân Kính thì nó thuộc vào loại những bài thanh mà tục, tục mà
thanh kiểu như thơ Hồ Xuân Hương (Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau/ Con
cò mấp máy suốt đêm thâu):
Cái cò mày mổ cái trai
Cái trai quặp lại, lại nhai cái cò
Cái cò mày mổ cái tôm
Cái tôm quặp lại, lại ôm cái cò.
Còn cái tục trong truyện cười, tiếu lâm có khi còn là cái tục ném thẳng
vào mặt giai cấp thống trị. Tại sao người ta lại thêm yếu tố tục vào, hoặc gài
yếu tố tục vào? Chính vì ở nước ta, lễ giáo phong kiến rất kị các yếu tố tục ấy.
Lễ giáo phong kiến muốn tô vẽ cho các nhân vật phong kiến nét mặt đạo mạo.
Nhân dân có ý thức về sự giả tạo ấy cho nên trong khi cười – bản thân tiếng
cười đã phá vỡ cái nghiêm trang đạo mạo giả dối ấy – đã gài thêm yếu tố tục
25
với việc đáng cười. Yếu tố tục có tính chất phản phong, dầu nó được ghép vào
sự việc gì và ghép cho ai. Nhân dân ta đã ném vào bộ mặt giả dối của giai cấp
phong kiến cái gọi là bùn nhơ, bẩn thỉu bằng yếu tố tục ấy. Yếu tố tục làm
cho tính chất trào phúng được nâng lên đến đỉnh điểm.
Thứ hai, là sử dụng biện pháp phóng đại điển hình (cường điệu sự thật,
nói quá). Biện pháp này được sử dụng nhiều trong truyện cười, ca dao, sử
thi…. Truyện Ba anh mê ngủ phóng đại nết ham ngủ của ba anh Giáp, Ất,
Bính lên đến mức mất cảm giác hiện thực: Ba anh nằm ngủ trọ với nhau, Giáp
bị ngứa ở chân, nhưng đang cơn ngủ nên cứ đùi Ất mà gãi đến chảy máu; Ất
tỉnh tỉnh mơ mơ dậy thấy ướt đùi tưởng Bính tè vào mình nên gọi Bính dậy đi
tiểu; Bính đang đi tiểu lại nghe thấy hàng xóm rót rượu tong tỏng nên tưởng
mình chưa tiểu tiện xong cứ đứng mãi; lính tuần thấy thế tưởng kẻ trộm xông
vào đánh; Bính sợ chạy cả vào nhà người ta, bị chủ nhà tóm, anh ta còn suỵt
chủ nhà nói khẽ vì ở ngoài vừa có một người bị đòn… Các hình ảnh phóng
đại trong thơ ca dân gian rất nhiều:
_ Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.
_ Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho…
Thứ ba, là sử dụng biện pháp chơi chữ, nói lái. Biện pháp này được sử
dụng trong câu đố dân gian, ca dao, các vai hề chèo, truyện cười… rất phổ
biến. Câu đố Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn (là con ngựa), Đục rồi
cất, cất rồi đục (là cục đất), Trên trời rơi xuống, mau co (là mo cau)… khiến
ta cười vì thấy bất ngờ thú vị. Hồ Xuân Hương vạch rõ mặt bọn sư hổ mang
phá giới bằng một lối chơi chữ lắt léo ở từ in đậm sau:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
26
Thứ tư, là sử dụng phản ngữ (nói ngược), biện pháp tương phản tạo hiệu
ứng cho tiếng cười.
- Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
- Làm trai cho đáng sức trai
Khom lưng chống gối gánh hai… hạt vừng.
Thứ năm, là dùng lối đề cao để hạ thấp, hạ thấp để đề cao. Đây là lối
trào phúng lúc nào cũng mang lại cái cười chát chúa, sâu cay. Cái quạt là vật
tầm thường, nhưng Hồ Xuân Hương khiến nó trở nên hơn như thế và hơn cả
bậc quân tử:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
(Vịnh cái quạt)
Thứ sáu, là sáng tạo những tình huống, sự việc đột ngột và bất ngờ, làm
bật ra mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, thể hiện trong các truyện cười tiêu
biểu như: Nhưng nó phải bằng hai mày, Đậu phụ, Quan huyện thanh liêm,
Thần bia trả nghĩa,…
Thứ bảy, là lối kết thúc bất ngờ, giàu kịch tính. Mâu thuẫn được dồn nén
suốt trong cả tác phẩm và chỉ được bộc lộ rõ rệt ở cuối tác phẩm một cách
ngắn gọn, súc tích và bất ngờ, làm người theo dõi phải bật cười vì khám phá
ra bản chất sự việc. Nguyễn Khuyến nói về việc Kiều bán mình nhưng không
phải chỉ có thế, mà cái nhìn nghiêm khắc và đau đớn của ông đối với cuộc đời
còn nhiều éo le, bất công đã toát lên ở câu thơ cuối cùng qua hư từ “cũng” –
ngầm chỉ bọn tham quan ăn tiền làm án xưa nay đều như nhau cả:
Thằng bán tơ kia giở mối ra
Làm cho vương đến cụ Viên già
Muốn êm phải biện ba trăm lạng
27
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa….
…Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a!
Nghệ thuật gây cười trong thơ trào phúng hiện đại rất đa dạng. Ngoài
những biện pháp nghệ thuật học tập trong văn học dân gian, các nhà thơ trào
phúng còn học tập các nhà trào phúng trong và ngoài nước, sử dụng những
biện pháp gây cười mang tính hiện đại như nói ngược sách, giễu nhại, sử dụng
dấu câu... Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chỉ tập
trung vào một số các biện pháp nghệ thuật nêu trên mà Tú Mỡ tập trung sử
dụng và có nhiều sáng tạo.
1.3. Tiếng cười trong văn học Việt Nam
Để có một cái nhìn tổng thể về tiếng cười, chúng tôi không chỉ đề cập
đến những vấn đề mang tính triết học về tiếng cười, cái Hài, đề cập đến tiếng
cười trong đời sống con người, mà còn muốn đề cập đến tiếng cười trong bản
thân đời sống văn học dân tộc. Từ góc độ này, chúng tôi có thể tiếp cận với đề
tài nghiên cứu Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ một cách chuyên biệt hơn.
1.3.1. Tiếng cười trong văn học dân gian
Đầu tiên, phải khẳng định rằng đội ngũ sáng tác văn học dân gian chủ
yếu là nông dân. Họ là những người lao động cần cù trên đồng ruộng, sống
trong làng quê. Họ chưa có lí luận của riêng mình về mặt chính trị, cho nên
mọi chuẩn mực đều dựa trên cơ sở lí luận của giai cấp phong kiến (mà giai
cấp này đã lấy học thuyết nho gia làm công cụ cai trị của mình). Họ sớm nhận
ra những mâu thuẫn trong xã hội (Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc,
cướp ngày là quan; Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá đa…).
Biết rằng có những bất công nhưng người nông dân thiếu nội lực và lí luận để
đấu tranh. Trong khi chờ đợi những thay đổi lớn đến, họ đấu tranh bằng tiếng
cười phê phán, chế giễu những cái trái tai gai mắt mà họ thấy. Cho nên, cung
bậc đầu tiên của tiếng cười dân gian là tiếng cười hài hước phản ánh tinh thần
28
lạc quan, khỏe khoắn của nhân dân. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là
tiếng cười để quên đi những mệt mỏi phiền luỵ trong đời thường. Theo Đinh
Gia Khánh thì “tiếng cười hài hước bật ra là do sức mạnh nội tại của tâm trí
chúng ta, tức là sự phản kháng và sự thắng lợi của tư duy logic đối với những
hiện tượng muốn lọt ra khỏi phạm vi giải quyết của nó. Tiếng cười hài hước
thể hiện sự thắng lợi của trí tuệ” [22, 366]. Nông dân bị hạn chế về tầm nhìn
xã hội, nên có phê phán xã hội thì cái cười cũng chưa thể sâu cay như cái cười
của nhà nho. Tuy thế, họ đã khẳng định được giá trị của dòng văn học trào
phúng dân gian trong nền văn học dân tộc.
Tiếng cười dân gian trong mỗi thời kì và mỗi chủ đề có cung bậc rất
khác nhau. Nhìn chung, người nông dân trong xã hội phong kiến ở thế yếu, bị
áp bức bóc lột mà lại thấp cổ bé họng, cho nên họ sử dụng tiếng cười làm vũ
khí đấu tranh, có khi là vũ khí đấu tranh duy nhất trước những bất công và bất
cập trong xã hội. Dễ dàng tìm thấy tiếng cười dân gian trong tác phẩm ca dao,
hò, vè, truyện tiếu lâm, truyện cười, truyện Trạng, các vai hề... Người dân có
thể phê phán thói xôi thịt của quan viên, thói ăn tiền, tham ô, nhũng nhiễu
nhân dân, phê phán chế độ phu phen, thuế má, thi cử,…
Nhưng chính cái lỗi thời, xấu xa không chỉ có ở giai cấp phong kiến mà
còn có thể tìm thấy ở hàng ngũ nhân dân lao động. Cuộc sống tiến lên mà
những tập tục cũ vẫn cứ níu giữ người ta lại. Mặt khác, khi ý thức hệ chính
thống của thời đại là ý thức hệ của giai cấp thống trị (ở đây là giai cấp phong
kiến) thì một mặt người dân chống lại nó và một mặt lại chịu sự chi phối của
chính lí luận ấy. Cho nên, “tiếng cười hài hước có thể tìm thấy đối tượng
trong những hành vi nào đó của một số người trong nhân dân lao động. Tiếng
cười này có ý nghĩa đấu tranh mạnh mẽ, không phải là đấu tranh chống giai
cấp bóc lột mà là đấu tranh trong nội bộ nhân dân” [22, 368]. Đó là thói hư tật
xấu như khoe khoang khoác lác, tham ăn, hủ tục trong gả bán cưới xin, mê tín
dị đoan, thói lười, thói đời ăn ở bạc như vôi,…
29
Tóm lại, tiếng cười trong văn học dân gian không những phản ánh đời
sống tinh thần lạc quan của nhân dân mà còn nói lên thái độ phản kháng của
họ trước những điều trái tai gai mắt và bất công trong xã hội. Do cái nhìn của
người nông dân còn hạn hẹp, cho nên tiếng cười nhiều khi chưa được sâu cay
như tiếng cười của nhà nho. Tuy nhiên, nghệ thuật gây cười mà văn học trào
phúng dân gian để lại là vô giá!
1.3.2. Tiếng cười trong văn học thành văn
Trước hết, chúng tôi cắt nghĩa trào phúng để từ đây có cách nhìn thống
nhất. Đây là từ Hán – Việt, “trào” là cười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng
gió, ám chỉ để châm biếm, đả kích. Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử,…“Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn
học đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó yếu tố
của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được
sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những tiêu cực, xấu xa, lỗi
thời, độc ác trong xã hội. Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng
bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào
phúng gắn liền với phạm trù mĩ học và cái hài với các cung bậc hài hước, u
mua, châm biếm. Văn học trào phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với
những cung bậc cái hài khác nhau từ trong truyện cười, truyện tiếu lâm đến
tiểu thuyết, từ các vở kịch cho đến những bài thơ trào phúng, châm biếm.”
Tóm lại, trào phúng gắn với phạm trù mĩ học của cái hài; và thơ trào phúng là
loại thơ dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những hiện
tượng, thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội.
Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Thu Hiền trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn (Hà Nội) với đề tài Nguyễn Công Hoan, dấu nối giữa dòng văn
học trào phúng và trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 khẳng
định: Có thể thấy từ thế kỉ XV, XVI đã có những tác phẩm như là mầm mống
của văn học trào phúng. Thơ trào phúng của nhà nho thường lấy can ngăn,
khuyên răn làm chủ đạo. Tác giả dẫn ra hai bài thơ sau để minh hoạ:
30
Ngôn chí V của Nguyễn Trãi:
Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường đời cực quanh co
Tuồng ni cóc được bề hơn thiệt
Chớ dễ bằng ai đắn mới đo.
Và Tăng thử của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thạc thử hồ bất nhân
Thảo thiết tứ âm độc
Nguyên dã hữu cảo miêu
Lẫm dữu vô dư túc.
(Chuột lớn kia bất nhân
Gậm nhấm thật thảm độc
Đồng ruộng trơ lúa khô
Kho đụn hết gạo thóc.)
Tác giả Cao Thị Thu Hiền cho rằng đây là các bài thơ mỉa mai, chỉ trích,
tố cáo cửa quyền nhiều hiểm hóc, đường đời cực quanh co, bọn quan lại như
lũ chuột gặm nhấm bất nhân, và các nhà nho này đã cố gắng tìm các cách phê
phán cái xấu, cố gắng biểu hiện cái hài, nhưng mới dừng lại ở mức độ phê
phán cục bộ.
Chúng tôi cho rằng quan điểm trên còn phải bàn cãi, vì không phải nội
dung phê phán nào cũng gắn với trào phúng được, bởi trào phúng không thể
thiếu cốt lõi tiếng cười. Chúng tôi chọn mốc thế kỉ XVIII, thời điểm có tiếng
cười của nữ sĩ Hồ Xuân Hương (sống vào khoảng cuối thế kỉ XVIII đến nửa
đầu thế kỉ XIX )- tiếng cười chủ yếu nhạo báng lễ giáo và đạo đức cổ hủ,
thiếu nhân đạo của chế độ phong kiến:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
31
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng…
…Quân tử dùng dằng đi chẳng được
Đi thì cũng dở, ở không xong!
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Tiếng cười Hồ Xuân Hương “tuy táo bạo nhưng vẫn không gây một sự
xáo trộn nào đáng kể trong xã hội” (Hà Như Chi).
Thế kỉ XVIII-XIX, đã có văn thơ mang cảm hứng phê phán và tiếng cười
ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858):
Chém cha cái khó, chém cha cái khó.
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có…
… Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng
cầu no
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường
bỏ ngỏ.
(Hàn nho phong vị phú)
Phải đến Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), Tú Xương (1870 - 1907), dòng
văn học trào phúng mới được tạo ra diện mạo và bản sắc mới. Nguyễn
Khuyến mở đầu và Tú Xương là người đưa dòng văn học này lên đỉnh cao.
Đặc trưng tiếng cười của hai nhà thơ được nhà thơ Chế Lan Viên khái quát ở
hai câu thơ:
Yên Đổ, tiếng anh khóc dẫu cười không thể giấu,
Còn Tú Xương tiếng cười như mảnh vỡ thủy tinh.
Cho đến trước thế kỉ XX, văn chương trào phúng đã diễn ra bước phát
triển trong quan niệm văn học và lý tưởng thẩm mĩ. Đội ngũ sáng tác văn
chương trào phúng cơ bản vẫn là nhà nho mang ý thức hệ phong kiến, nhưng
càng gần hiện đại thì họ càng có mối quan hệ gần gũi với nhân dân hơn. Thơ
32
trào phúng không lấy phạm trù thẩm mĩ của cái Cao Thượng trong văn học
trung đại làm trung tâm, mà tìm cảm hứng trong cuộc sống thường nhật. Nhà
thơ trào phúng đã đứng về phía nhân dân, tố cáo quan lại, tố cáo tội theo Tây
của các cụ lớn, chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân cướp nước. Văn chương trào
phúng trở thành công cụ đấu tranh chính trị. Tiếng cười không dừng lại ở mức
độ cảm tính, khôi hài trước những chuyện vặt vãnh. Tiếng cười trở nên gai
góc và hiểm ác, đậm tính trí tuệ để mổ xẻ và phơi bày sự thật xấu xa được bao
bọc bởi vẻ ngoài đẹp đẽ. Sự mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, cái giả và cái
thật, cái xấu và cái đẹp, cái thấp hèn và cái cao cả khiến cả nhà nho và nông
dân đều bật ra tiếng cười- tiếng cười đã đồng cảm hơn.
Nhà thơ trào phúng đứng về phía nhân dân bằng lập trường dân gian,
bằng đạo đức nhân sinh. Văn học trào phúng lấy lẽ phải thông thường (mà
theo Hê-ghen, nó vừa là tri thức, vừa là thành kiến của thời đại) làm hệ quy
chiếu. Tiếng cười trong thơ ca trào phúng không lạc lõng bởi giữa nhà nho và
nông dân có sự thống nhất về đối tượng, mục tiêu, quan điểm và thái độ phê
phán. Tiếng cười đã có sức mạnh tập hợp đám đông.
Đến đầu thế kỉ XX, văn chương trào phúng được viết dưới ngòi bút của
những nhà cách mạng - cả Hán học và Tây học – như Phan Bội Châu, Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Huy Liệu, Xuân Thuỷ, Nhiêu Tâm.... Đây là tiếng cười đầy
bản lĩnh của nhà cách mạng trong đấu tranh và tù đày, đồng thời cũng là tiếng
cười nghìn gươm tố cáo đanh thép tội ác của kẻ thù cấp cao nhất. Cũng ở thời
kì này, tiếng cười Tú Mỡ, Đồ Phồn… cũng đánh ngầm những đòn hiểm vào
kẻ thù chung của toàn dân tộc. Đến giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm
1954, có thêm Xích Điểu, Thợ Rèn,… cũng dùng văn chương mang tiếng
cười phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đánh thẳng những đòn chí
mạng vào kẻ thù của dân tộc, làm cho suối nguồn văn chương trào phúng luôn
dạt dào.
Cuối thế kỉ XX, làng văn chúng ta có nhiều câu lạc bộ thơ trào phúng ra
đời.Hầu hết các tác phẩm thơ trào phúng giai đoạn này tập trung phê phán,
33
công kích những thói hư, tật xấu nảy sinh trong thời đại mới. Các cây bút trào
phúng góp nhiều tiếng cười với những cung bậc khác nhau. “Chu Hà, Ngô
Linh Ngọc đều tỏ ra có vốn cổ văn, nhưng Ngô Linh Ngọc chất hài chưa đậm.
Yên Thao khá sắc sảo nhưng phần trữ tình của anh thấm thía hơn. Nguyên Hồ
trội hẳn về mặt ca dao rất đáng được chú ý. Lã Vọng tỏ ra khá bền bỉ nhưng
thiếu cái man mác ngọt ngào. Lê Khả Sĩ biết nâng cái cười lên phần lí trí và tỏ
ra khá linh hoạt. Trọng Bảo chưa được giới thiệu nhiều, nhưng cái chất ngụ
ngôn trong anh là tinh tế… Rồi còn nhiều tên tuổi: Sĩ Hồ, Tú Sót, Văn Sửu và
nhất là Ngũ Liên Tùng cũng gây được sự chú ý” [23, 79]. Họ tiếp tục dùng
tiếng cười để đấu tranh chống cái xấu trong xã hội, làm cho cuộc đời đẹp hơn.
Hiện nay, thơ ca trào phúng đang trên đà phát triển với nhiều đề tài nóng
từ xã hội thời buổi kinh tế thị trường trong quá trình tiến tới xây dựng một xã
hội tiến bộ hơn. Câu lạc bộ thơ trào phúng Hà Nội vừa cho ra mắt tập “Thơ
trào phúng 1995 - 2005” kỉ niệm mười lăm năm phát triển của câu lạc bộ nói
riêng và thơ trào phúng thủ đô nói chung. Tuy chưa phản ánh hết những giọng
cười, điệu cười của toàn bộ thơ trào phúng Việt Nam hiện đại, nhưng ta đã có
thể nhìn thấy những giọng cười tiêu biểu. Đó là Hồ Khắc Bình, Yên Thao lên
án tệ nạn trong thi cử và học đường, là Ngô Thi lên án những tiêu cực, tệ nạn
cờ bạc, đua xe, tham ô, rút ruột công trình, là Lê Khả Sĩ xông pha tố cáo
những mánh mung lừa lọc, rút thụt công quỹ của những kẻ có chức vị,…
Cho đến ngày nay, thơ ca trào phúng đã được đánh giá cao hơn, tuy chưa
thật sự xứng đáng với vai trò của nó. Tiếng cười trong văn học hiện đại chẳng
những giúp con người giải toả căng thẳng do áp lực cuộc sống, mà còn là
công cụ đấu tranh chống lại những bất hợp lý, tiêu cực, tệ nạn, những thói hư
tật xấu ...Tiếng cười trong văn học không những được thể hiện bằng nghệ
thuật ngôn từ, mà còn được thể hiện nhờ các hình thức nghệ thuật hiện đại
khác nữa như điện ảnh, hội hoạ... để có tính đại chúng hơn, cộng hưởng rộng
hơn và lâu hơn.
34
Chương 2
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ ĐỐI TƯỢNG TIẾNG CƯỜI
TRONG THƠ TÚ MỠ
2.1. Hành trình sáng tạo thơ Tú Mỡ
Hoàn toàn có thể phân định rạch ròi hai chặng trong đời thơ của nhà thơ
trào phúng Tú Mỡ: trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bởi điều
này thể hiện rõ ràng ở toàn bộ chủ đề, đề tài, tư tưởng trong các sáng tác của
ông. Tuy nhiên, muốn có một cái nhìn toàn diện về hành trình sáng tạo của
nhà thơ này, ta phải đi từ lịch sử vận động dẫn tới sự ra đời của dòng văn học
trào phúng đến hoàn cảnh xã hội Việt Nam thế kỉ XX và sự lựa chọn con
đường sáng tạo của nhà thơ.
Để đến với thơ trào phúng, Tú Mỡ đã được uống một dòng thơ cũ chảy
róc rách, nước thật ngọt ngào, vì nó là thứ nước của nguồn xưa mà người
Việt Nam quen uống từ lâu (Vũ Ngọc Phan). Đó chính là vốn văn hoá, văn
học dân tộc và nhất là dòng văn chương trào phúng dân tộc mà chúng tôi đã
có dịp trình bày trong mục 1.4.
Văn chương trào phúng gắn chặt với phạm trù mĩ học của cái Hài, như
trên đã nói (xem mục 1.1.). Vì thế, hoàn cảnh xã hội càng nhiều mâu thuẫn
càng là nguồn đề tài và cảm hứng vô tận cho văn chương trào phúng chiếm
lĩnh và phản ánh. Vậy, ở thời đại mà Hồ Trọng Hiếu sống có những tiền đề gì
cho sự phát triển của văn chương trào phúng và sự ra đời của nhà thơ Tú Mỡ?
Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX chứa đựng những mâu thuẫn không thể
dung hoà. Đây là xã hội thực dân nửa phong kiến đang bị tư sản hoá. Cho nên
ngoài mâu thuẫn giai cấp còn có biết bao cảnh nghịch mắt, trái tai, lối sống
tha hoá, những cảnh nhố nhăng, những tấn trò đi ngược với đạo lý và chân lý
ngang nhiên diễn ra giữa ban ngày ban mặt. Hồ Trọng Hiếu là người đương
thời, sinh ra trong gia đình lao động nghèo, có chút vốn liếng nho học, lớn lên
làm công ăn lương cho Pháp, chứng kiến thời buổi giao thoa giữa cái mới và
35
cái cũ, cái tốt và cái xấu,... Trong thời gian đó, từ nhỏ đã ảnh hưởng khiếu
trào phúng của cha, được sự động viên và giúp đỡ của Nguyễn Tường Tam
(chủ báo Phong Hoá, thủ lĩnh của Tự lực văn Đoàn), Hồ Trọng Hiếu đã trở
thành Tú Mỡ, chuyên tâm vào sáng tác thơ trào phúng, bóc trần cái hài trong
xã hội bằng tiếng cười chế giễu, phê phán. Tiếng cười Tú Mỡ hòa chung với
tiếng cười rộ của nhân dân.
Tháng Tám năm 1945, Cách mạng thành công dẫn đến sự ra đời nước
Việt Nam độc lập, tiếng cười của Tú Mỡ cũng có cuộc cách mạng của nó. Xã
hội thời kì này thay da đổi thịt. Toàn Đảng, toàn dân tập trung vào mục tiêu
xây dựng đất nước, khắc phục những hậu quả nghiêm trọng mà triều đình
phong kiến và thực dân Pháp để lại. Từ năm 1946, mục tiêu kháng chiến -
kiến quốc được đặt lên hàng đầu để chống lại cuộc tái chiếm của thực dân
Pháp (1946 - 1954) và cuộc xâm lược bằng chiêu bài chia rẽ dân tộc của đế
quốc Mỹ (1954 - 1975). Cũng như đại đa số các nhà văn, nhà thơ của nước ta
trong thời kì này, Tú Mỡ hoà mình vào cuộc trường kỳ kháng chiến của dân
tộc - bằng tiếng cười độc đáo của mình.
Những tiền đề đó đã hình thành hai chặng đường sáng tác thơ trào phúng
của Tú Mỡ:
Trước Cách mạng tháng Tám (1945), Tú Mỡ bước vào con đường văn
nghiệp như một kiểu nghề tay trái. Ông vừa làm thư kí Sở Tài chính (như kế
toán ngày nay), vừa phụ trách chuyên mục Giòng nước ngược cho báo Phong
Hoá, sau đó là mục thơ chung của báo Ngày nay do Nguyễn Tường Tam (tức
là nhà văn Nhất Linh) làm chủ bút. Trong ngót 14 năm hoạt động trong Tự
lực văn đoàn, nhiều bức tranh người, bức tranh đời, gồm những chuyện đời
vừa đáng cười vừa đáng khóc trong cảnh sống nông thôn và thành thị, đã
được Tú Mỡ mã hoá bằng thơ trào phúng. Thơ trào phúng sáng tác trước
Cách mạng của ông được tập trung thành hai tập Giòng nước ngược (in năm
1934 và 1941).
36
Từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Tú Mỡ cũng như
nhiều nhà văn, nhà thơ khác hân hoan đón chào cuộc đổi mới của dân tộc.
Khác với nhiều nhà văn, nhà thơ gặp khó khăn khi đến với tư tưởng mới, xã
hội mới, Tú Mỡ hoà nhập với “cuộc đời mới” khá dễ dàng. Tại sao lại như
vậy? Bởi từ lâu, thơ ca trào phúng của ông lấy lẽ phải thông thường làm hệ
quy chiếu, đánh giá mọi vấn đề trên quan điểm của nhân dân. Đến với cách
mạng không nhọc nhằn, khó khăn, “lột xác” đau đớn như nhiều văn sĩ, Tú
Mỡ nhanh chóng sáng tác phục vụ kháng chiến. Tác phẩm thơ trào phúng thời
kì này có các tập Nụ cười kháng chiến (1952), Anh hùng vô tận (1952), Trung
du cười chiến thắng (in chung với chèo, hát xẩm, 1953), Nụ cười chính nghĩa
(1958), Bút chiến đấu (1960), Đòn bút (hai tập, 1962), Ông và cháu (1970).
2.2. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ
Chúng tôi nghiên cứu đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ ở hai giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, sau đó nghiên cứu riêng mảng thơ
tự trào của tác giả:
2.2.1. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Như đã khái quát, ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành
khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp tư sản mới hình thành bị kìm hãm
phát triển. Nông dân mất đất, thợ thủ công phá sản ra thành thị trở thành đội
ngũ nhân công làm thuê, tạp dịch phố phường. Thực dân Pháp xây dựng bộ
máy cai trị tay sai đắc lực, mua chuộc hoặc uy hiếp tầng lớp thân sĩ, nho sĩ
khiến họ mất uy tín với nhân dân hoặc rơi vào tâm lý hoang mang, thất bại.
Các trường Tây được mở ra để đào tạo những trí thức Tây học như ông tham,
ông đốc, ông phán thay thế cho những quan nghè, quan thám trước đây.
Những người lao động trí óc thuần tuý có thể làm giáo học, làm báo, viết thuê
kiếm sống. Nền kinh tế hàng hóa phát triển đã dẫn đến sự ra đời của những
con người kiếm sống bằng nghề văn chương. Có những người mượn ngòi bút
37
nịnh Tây làm chính trị thì nhanh chóng ngoi lên tầng lớp thượng lưu. Thực
dân Pháp thực hiện nhiều chính sách dân chủ lừa bịp, tổ chức nhiều phong
trào văn hoá, hoạt động tôn giáo... làm những chiêu bài mị dân.
Do hoàn cảnh xã hội phức tạp, nhiều mâu thuẫn như vậy, nên đối tượng
tiếng cười trong thơ Tú Mỡ thời kì này rất rộng rãi. Chúng tôi khảo sát đối
tượng tiếng cười trong thơ văn Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, chủ yếu trong Giòng nước ngược : tập 1 in năm 1934, tập 2 in năm
1941 và tập 3 gồm các bài thơ sáng tác từ 1941 đến trước cách mạng tháng
Hủ tục,
Thói
Nghị viên,
Thực
Kinh tế
Tự trào Bày tỏ
Trào lộng
Tổng số
mê tín
hư tật
quan lại
dân,
xã hội
tìnhcảm,
Đế
bài thơ
xấu
xướng
quốc
họa
Tập1: 111(35%)
12(11%) 35(31%) 15(13,5%)
5 (4,5%) 5(4,5%) 24(22%) 15(13,5%)
0
Tập2: 113(35%)
29(26%) 24(21%)
17(15%)
8 (7%)
2(2%)
17(15%)
16(14%)
0
Tập 3: 96(30%)
5 (5%) 14(15%)
49(51%)
3(3%) 16(17%)
4 (2%)
5 (5%)
0
3tập: 320(100%)
46(14%) 73(23%)
81(25%)
3(1%) 29(9%)
7(2%)
45(15%)
36(11%)
Bảng 2.1: Thống kê số lượng các tác phẩm ở mỗi đối tượng
tiếng cười trong “Giòng nước ngược” (3 tập) của Tú Mỡ.
Tám 1945, như sau:
Bảng thống kê số liệu trên cho chúng ta nhiều thông tin về đối tượng
tiếng cười trong thơ Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhìn
chung, trong suốt hơn mười năm liền Tú Mỡ sáng tác rất đều tay với nhiều đề
tài khác nhau: nào là lễ hội đình đám, quan viên xôi thịt, thói hư vinh, quan
điểm nam nữ bình quyền, tình đời tình người đen bạc, nghị viên ma bùn, nghị
gật, hoàn cảnh éo le của nhân dân trong thời khủng hoảng kinh tế chính trị, …
Tuy nhiều đề tài như vậy, đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ ngay từ đầu
đã có sự tập trung sắc nét. Thời gian đầu, ông giành nhiều thời gian và bút
mực để phê phán những thói hư tật xấu, những trò lố lăng, thói đời bạc bẽo…
trong xã hội đương thời. Tại sao đây là đối tượng tiếng cười lớn nhất(có mặt
38
trong 35 tác phẩm chiếm 31% ) trong các sáng tác trước 1941? Bởi đây là
những điều gần gũi với đời sống mỗi người, ai ai cũng thấy, cũng nhận thức
và đánh giá được dựa trên lẽ phải thông thường, cười đối tượng này cũng ít bị
kiểm duyệt ngăn chặn nhất. Đây là sự lựa chọn đề tài có tâm và có tầm nhìn
khiến tác phẩm của Tú Mỡ lập tức thu hút được nhiều tiếng cười hưởng ứng,
tạo nên một bầu không khí rộng thoáng và giàu ôxi cho hàng loạt tác phẩm
trào phúng khác sống và thâm nhập cuộc đời. Cũng tương tự như vậy, từ năm
1941 – 1943, Tú Mỡ đả kích nhiều nhất vào những hủ tục và thói mê tín dị
đoan (có 29 tác phẩm chiếm 26% sáng tác giai đoạn này).
Nhìn chung, trước năm 1943, những thói hư tật xấu và những hủ tục, thói
mê tín dị đoan là những đối tượng mà Tú Mỡ hướng đến công kích nhiều
nhất. Điều này cũng lí giải vì sao trước Cách mạng tháng Tám, trong số 320
tác phẩm của Tú Mỡ chỉ có 03 tác phẩm (bài Cùng anh Tú Mỡ, Trả lời Mụ
Gầy và Tàu bay bảo hộ) lấy thực dân là đối tượng trực tiếp cho tiếng cười
(chúng tôi nhấn mạnh ở đây là đối tượng trực tiếp vì trong nhiều bài thơ khác
của Tú Mỡ thời kì này cũng có vài ý bóng gió châm chích thực dân). Ngoài
ra, còn có 07 tác phẩm nữa đương thời chưa được công bố hoặc viết sau khi
Nhật đảo chính Pháp (19/3/1945), chúng tôi khảo sát riêng để có những nhận
xét sát thực, Tất nhiên, đối tượng này quá nhạy cảm và luôn được “bà lớn
Kiểm” tinh ranh bảo vệ chặt chẽ. Cho nên, cũng do ảnh hưởng lối bông phèng
kiểu tiểu tư sản, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tú Mỡ còn
giành nhiều giấy mực và tâm huyết vào những tác phẩm xướng họa với bạn
bè (Tản Đà, Xuân Diệu, Vũ Đình Liên, người tình nhân chưa quen biết Phạm
Thị Cả Mốc,…), những tác phẩm giãi bày tình cảm, cảm xúc và những tác
phẩm đơn thuần là cười vui trào lộng (Khuyên ai kén vợ, Điếu đức tụng, Phở
đức tụng, Tửu đức tụng, Cười đi thôi, Khai bút… rông, Nàng thơ của tôi, Lạc
nàng thơ…).
Như vậy, hoàn toàn có căn cứ xác đáng khi đưa ra nhận xét rằng: Thời
gian đầu, tiếng cười Tú Mỡ có tính phê phán, tính đấu tranh chưa mạnh, tiếng
39
cười còn nhiều điệu hóm hỉnh, vui tươi. Từ sau 1943, tức là từ tập 3 Giòng
nước ngược được tuyển sau này, tiếng cười Tú Mỡ mới thật sự mạnh mẽ đả
kích bọn nghị viên và quan lại bù nhìn, làm tay sai cho Tây và gây hại cho
quốc dân đồng bào. Đến lúc này, có thể khẳng định nhà thơ mắt xanh Xuân
Diệu đã rất tinh tường khi nhận định đề tài nghị viên đã “khiến Tú Mỡ chảy
nhiều mực nhất”. Có đến 49 trong tổng số 96 tác phẩm (chiếm 51%) ở tập 3
này lấy đối tượng tiếng cười là nghị viên và quan lại. Và đây cũng chính là
đối tượng có mặt trong ¼ số lượng các tác phẩm của Tú Mỡ trước Cách
mạng tháng Tám (81 bài chiếm 25% tổng số tác phẩm của nhà thơ).
Từ bảng thống kê trên, chúng tôi khái quát thành ba nhóm đối tượng
tiếng cười trong thơ trào phúng của Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 như sau: Thứ nhất, là quan lại, nghị viên và trí thức nịnh Tây – đây là
đối tượng bị đả kích mạnh mẽ nhất; thứ hai, là những hủ tục, mê tín dị đoan,
thói hư tật xấu và những trò lố lăng trong xã hội – đây là đối tượng bị phê
phán, đả kích thường xuyên, đều đặn suốt quá trình sáng tác của nhà thơ trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945; thứ ba, là thực dân, đế quốc – đây là đối
tượng sẽ trở thành đối tượng tiếng cười chủ yếu trong giai đoạn sáng tác sau
của Tú Mỡ.
2.2.1.1. Quan lại, nghị viên và trí thức nịnh Tây
Với nhóm đối tượng này, tiếng cười ở cấp độ châm biếm, đả kích, thể
hiện thái độ phủ nhận gay gắt của Tú Mỡ nói riêng và nhân dân nói chung.
GS Phan Cự Đệ đánh giá “phần đóng góp sâu sắc nhất của nội dung thơ văn
Tú Mỡ cũng ở phương diện này” [8, 127].
Chính tầng lớp quan lại là công cụ cai trị và bóc lột của bọn thực dân,
và đây mới là tầng lớp gây nên nhiều tội lỗi nhất. Bọn chúng dù là quan lớn
hay quan bé, quan cũ hay quan mới, quan sư hay quan hướng đạo (quan sì
cút)… tất cả đều là một lũ bất tài, nịnh hót, luồn cúi, bòn rút, hối lộ, tham
nhũng. Nhìn sự thật ấy, Tú Mỡ nôn nóng muốn lũ quan sâu mọt này bị thanh
toán. Ông những mong có bí thuật thần tình “ngửi thấy hơi đồng trong đáy
40
bụng” bọn quan tham để “Mọt trẻ, mọt già trừ hết giống/ Thực là hạnh phúc
đám dân đen” (Trạng Hít).
Tại sao Tú Mỡ lại sốt sắng với những việc nhà quan như thế? Bởi nhìn
toàn cảnh xã hội, đây chính là tầng lớp mà cả triều đình nhà Nguyễn lẫn thực
dân Pháp đang dựa vào để siết chặt ách bóc lột, đàn áp và thống trị lên nhân
dân. Hơn thế nữa, qua Tâm sự một ông “quan bé”, thì ta thấy tất thảy bọn
quan đều là lũ sâu mọt, cả đời phấn đấu lên quan không phải để “bảo dân, an
dân”, mà là thực hiện “tay lành nghề” bòn rút, đục khoét. Nói trắng ra, họ lên
làm quan bằng mánh khóe, chạy trọt bằng tiền, bằng “đậu lạy quan xin”, thì
khi làm quan rồi họ sẽ tìm cách để cái “vốn” ấy sinh “lãi”: tham ô, ăn đút lót,
lại mua quan bán tước, kéo bè kéo cánh, dung túng kẻ dưới bày mưu kế đảo
điên để “đục khoét, xoay tiền hối lộ”… Ông “quan bé” nhận rằng:
- Thời buổi này là “đời bạc giấy”,
Phẩm giá con người cũng lấy đấy mà đo.
- Lấy cái vinh đền bù cái nhục,
Ấy là đường khuất khúc của nghề quan…
Bằng cách nhập vai ông “quan bé” hàng huyện, Tú Mỡ đi guốc trong
bụng những kẻ làm quan ở cái thời đó: vào dinh thự, ra ô tô, lính bồng súng
chào tôn nghiêm; đối với quan trên lúc khúm núm, khi cúi luồn, tiền mẹ cõng
tiền con đút lót. Cho nên, có một thằng bé nuốt xu mà chẳng chết, ông bố nọ
khen ngay đấy là cái tướng dị kì của nhà quan:
“Thằng này tướng dị kì
Nuốt xu mà chẳng chết
Khi lớn hẳn ra phết
Có thể làm quan to
Xơi tiền như mỏ khoét!”
(Nuốt xu)
Vậy bản chất quan lại dưới con mắt Tú Mỡ là gì? Đó là thói tham lam,
tham nhũng, thói ăn bẩn, đục khoét nhân dân, là thói ăn chơi sa đọa, bợ đỡ
41
cầu vinh, khinh người, hống hách. Nhìn chung, bản chất quan chẳng có gì là
tốt đẹp, chính nhân quân tử, quan chi dân chi phụ mẫu. Trong bản chất mỗi
ông quan đều có phần xôi thịt. Và vì thế, Tú Mỡ gọi làng quan là “làng xôi
thịt” (Quan viên xôi thịt).
Ăn – đó là bản chất của việc quan. Thói ăn đến tàn hại nhân dân chính là
điều Tú Mỡ lên án nhiều nhất, hơn cả cái chuyện quan lại ngu dốt và trụy lạc.
Mỉa mai thay cảnh quan ăn khi dân đói, dân chửi để quan ăn trong Tiệc kỉ
niệm ba mươi năm của phái bộ đi Tây (1908). Các ông quan thì rượu ngon,
gái đẹp chúc tụng nhau, còn dân chúng thầm chúc tụng các ông:
Trong dinh quan khách cỗ bàn
Vòng ngoài dân đói hàng ngàn xúm đông
Há mồm, lố mắt đứng trông
Chúc thầm các cụ, các ông muôn đời…
Tú Mỡ chẳng hoài công tìm được hai chữ “chúc thầm” đắc địa như thế.
Bởi vừa đọc lên người ta đã thấy cái nghịch lí và nghịch cảnh, để chắc chắn là
lũ quan bù khú trong cảnh đói rách của nhân dân thế kia chẳng được chửi
thẳng thì cũng đáng được chửi thầm lắm!
Tú Mỡ lại kể ra các kiểu ăn của quan: Quan ăn ở giữa đình, ăn ở công
đường, ăn mừng thọ để nhận quà, ăn mừng nhận chức để nhận lễ, ăn bổng lộc
của triều đình, ăn của đút của dân đen, quan lớn ăn quan bé, quan nọ ăn quan
kia, ăn khi công cán về quê, ăn khi đại thần ở Pháp,... Các ông quan lớn được
quan thầy kén cử sang Pháp Đình ngoại giao, đã phơi bày cái “khẩu khí tày
trời”:
Đáp rằng: “Thưa với tiên sinh
Riêng tôi chủ nguyện sinh bình chỉ mong
Lượng trên cụ Thống khoan dung
Thăng quan, tiến chức lên ông quan tuần
Mang danh cụ lớn đại thần
Cao siêu sở vọng có ngần ấy thôi!”
(Khẩu khí ông quan)
42
Quan sống giàu sang là dựa vào đâu? Quan được tăng lương, đồng nghĩa
với việc dân rách càng thêm rách: (“Quan được tăng lương, dân cũng
tăng/Tăng sưu, tăng thuế đến nhăn răng!” _ Các quan được tăng lương).
Tú Mỡ vạch trần cái sự thật mà ít ai dám thẳng thừng tuyên bố: Quan là
một nghề để hái ra tiền. Cho nên không hiếm những kẻ luồn lọt vào trốn quan
trường để hành nghề bằng mọi cách. Cứ xem các ông giả nhân giả nghĩa chăm
lo cho súc vật, thì đoán ngay Hội bảo trợ súc vật của các ông xem ra lại thành
một công cụ kiếm tiền gì đây!
Còn chưa hết thói dã man
Người còn là giống sài lang với người
Lo cho súc vật, nực cười
Thật là câu chuyện mớ đời mỉa mai…!
Ông Nguyễn Tiến Lãng rắc hoa lên ngòi bút mà nịnh Tây, thế là từ một
văn sĩ thành ông quan thị! Sự nghiệp vẻ vang ấy được Tú Mỡ ghi công bằng
từ “len” độc đáo: “Người ta hả, người ta khen/ Người ta cất nhắc, Lãng len
vào triều” (Quan thị Nguyễn Tiến Lãng). Từ “len” khiến người ta liên tưởng
đến hành động “lẻn” của “anh hùng” Sở Khanh khi lừa Thúy Kiều theo mình
(Mé sau đã thấy Sở Khanh lẻn vào):
Ông Nguyễn Năng Quốc, hưu quan rồi mà “tâm bất lão”, liền làm “quan
sư”. Ông đứng đầu Hội Phật giáo Bắc Kì khi mà thực dân đang muốn dùng
tôn giáo để ru ngủ tinh thần cách mạng của thanh niên. Nguyễn Năng Quốc
trổ rõ tinh thần quan sư với ba thứ say mê: rượu ngon, gái đẹp và phẩm hàm:
“Rượu ngon, gái đẹp vẫn say/ Trống chầu tom chát hoa tay vẫn tình.../ Tu cho
thăng phẩm to hàm/ Thế thì chán vạn kẻ phàm muốn tu!” (Quan sư Nguyễn
Năng Quốc).
Ngoạn mục thay ông Phạm Quỳnh và ông Nguyễn Văn Vĩnh! Ông Phạm
Quỳnh xướng lên thuyết Lập hiến, viết văn, làm báo, lấy tờ Nam Phong để
tuyên truyền cho nhân dân theo Pháp, đăng lính sang Pháp đánh Đức trong
chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông Nguyễn Văn Vĩnh xướng lên thuyết Trực
43
trị, có tranh luận với Phạm Quỳnh một thời gian trên báo, quan điểm vẫn ủng
hộ thực dân bảo hộ. Họ là hai người tài “Không vốn liếng, chẳng ruộng
nương/ Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu” (Nam hải nhị dị nhân). Rồi ông
Phạm Quỳnh “Uốn mình, cất cánh, vươn vai/ Nhảy một cái dài vô tới tận
Kinh”, làm một… ông quan!
Sự khinh bỉ của Tú Mỡ chẳng những trào ra đầu ngọn bút mà còn bộc lộ
cả đằng sau từ ngữ miêu tả những hành động mà con người bình thường
không thể có được (uốn mình, cất cánh). Tưởng như ông Phạm Quỳnh đã
biến thành một cái gì đó!
Thế là Tú Mỡ đã nói toạc móng heo: chính các quan là kẻ chấp pháp lại
vi phạm pháp luật. Các quan đáng ra là phụ mẫu chi dân lại chỉ chờ thời cơ và
bày mưu sâu kế hiểm bòn rút con dân, ăn tiêu lẹm nhẹm vào ngân quỹ, chỉ lo
luồn lách thăng quan, làm giàu.
Viết về đối tượng quan lại, sự sắc sảo và quyết liệt của ngòi bút trào
phúng Tú Mỡ tỏ ra rất hoạt bát. Khi thì ông nói mát mẻ, bóng gió, khi thì đả
kích trực diện đúng tên tuổi công khai, khiến “nhân vật tiêu biểu của giới
quan trường hạ bệ chúng xuống thành những phần tử cơ hội đáng khinh”
[13,169]. Các bức tranh trào phúng về quan lại đã “đem chúng ra đóng đinh,
phơi bày trước búa rìu của dư luận, của công lý” [13,170]. Đối với dân, quan
là một thứ nghề; đối với nhà nước, quan là một thứ giống – mà năm nào cũng
phải “gây quan” cho “chẳng bao giờ tiệt giống quan”. Nhà nước thì năm nào
cũng mở khoa thi để chọn người làm quan, cho quảng cáo không công trên
các nhật trình như các “kì đồng mới tái sinh”, chỉ tốt cơ cho chúng “đào mỏ”
các cô nàng trưởng giả muốn lên “bà lớn tắt” mà thôi.
Bên cạnh đối tượng quan lại, nghị viên và viện dân biểu là đối tượng mà
theo Xuân Diệu là đã “làm Tú Mỡ chảy nhiều mực nhất”.
Nghị viên là ai? Không phải quan. Không phải dân. Nghị là ông dân. Về
mặt xã hội, đây là một sản phẩm quái gở của thực dân, mục tiêu là thể hiện
quyền tự do dân chủ cho nhân dân, nhưng thực tế chỉ là trò lừa bịp.
44
Cứ xem cảnh nhà Khai trí hôm họp Hội đồng dân biểu, thật giống cảnh
phồn hoa nơi Tú Bà làm ăn, mà ông viện trưởng Phạm Huy Lục “cao lớn đẫy
đà” cũng thật xứng mặt kẻ cầm đầu:
Xe… hơi dừng bánh cửa ngoài,
Trên thềm, rẽ đám đông người bước ra,
Một ông xàm xạm màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao…
…Giữa thì… bàn ghế hẳn hoi,
Trên treo bức ảnh trắng đôi lông mày.
Hà Thành Khai trí là đây,
Hội này thì lấy ông này tiên sư.
(Nhại Kiều)
Tú Mỡ khiến ta hình dung: một nơi nhập nhoạng như thế, tư cách các
ông dân cũng lộn xộn, chẳng ra dân, chẳng ra quan, nơi đình đám chẳng biết
ngồi đứng thế nào, mãi mới được xếp “Ông Trùm đại biểu nhân dân/ Sánh vai
cụ Thượng, cụ Tuần nghênh ngang/Lau nhau, nghị nhép, nghị xoàng/Xếp trên
Phủ, Huyện vào hàng thứ hai”(Ngôi thứ các ông nghị). Nói chung, các ông
nghị chỉ là một đám lau nhau, do “bán cả gia tài mua danh” mà nên. Trong kì
bầu cử, các ông kéo từng đàn xuống xóm hát, mời nhau chén ở cao lâu, diễn
thuyết những lời công tâm… Tất cả chỉ là trò quảng cáo nhố nhăng. Tú Mỡ tố
cáo đó là “Những hạng nghị độn đường cho chật/ Những nghị cừu, nghị gật,
nghị câm” (Nghị viên độn đường – cái từ độn đường cứ khiến ta hiểu về sự vô
dụng, trống rỗng và cái đầu óc đần độn của các ông nghị) - những kẻ mà “rồi
ra dân sẽ thải ngầm”. Các ông chẳng nói được cái dân chí, dân nguyện, chỉ
hốt bạc, và làm phỗng sành, tự biến bản thân thành thằng hề mua vui cho
thiên hạ:
Họ quẳng tiền ra để cạnh tranh,
Nghe đâu mỗi vé một “rồng xanh”
Phen này có lẽ mưa ra bạc,
Mà nghị viên ta khối phỗng sành…
(Bầu cử)
45
Bài thơ Cái chuông ông trùm là một thành công về cả nội dung và nghệ
thuật. Tú Mỡ chọn cách mào đầu rất trang trọng về cái chuông:
Bắc Kì có cái chuông rất quý
Để ở trong Khai trí bảo tàng
Chẳng là chuông bạc, chuông vàng,
Chẳng là chuông cổ của ngàn muôn thu…
Kiểu không lạ, dáng không kì,
Cái chuông ấy chẳng có chi khác thường.
Hình thức và công dụng của cái chuông đã giúp Tú Mỡ đã vạch mặt bọn
nghị viên và cái chuông của ông nghị trưởng chẳng qua là một thứ trò ấm ớ
kiếm tiền mà thôi:
Ai mà láu cá thạo nghề
Lắc chuông đúng nhịp, kiếm nê ra tiền.
Bản chất quan và nghị đều tham tiền, tham quyền, hám danh. Ngôn xuất
thì “vì dân, vì nước”, lấy câu “lợi ích cộng đồng làm vinh”, thực chất những
hành động “vì dân” là:
_ Vì dân ráng sức mấy lần vỗ tay.
_ Vì dân nên phải đêm ngày miên man.
_ Vì dân sái cổ gật tràn bao phen.
_ Vì dân phải xuống Khâm Thiên giải sầu.
_ Vì dân “khai trí” mấy chầu tổ tôm.
(Ông nghị đi hội đồng về)
Đi hội đồng thực chất là đi ăn chơi. Đi công cán cũng là đi ăn và chơi.
Nói chung, làm ông dân biểu, ăn nói thì kém cỏi, ăn chơi mới là chuyên môn:
Bữa này được dịp trổ tài:
Nói thời khí vụng, ăn thời rất hay!...
Đi xem công cuộc di dân,
Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn to!
Khi về, nhớ… bữa say no,
Ghi lòng tạc dạ tái bò, chả dê.
(Các ông nghị đi xem đồn điền di dân)
46
Tú Mỡ “biết tỏng” thói ăn chơi và “biết tỏng” thói ăn… gian của các ông
nghị. Khi tính toán việc hoàn thành để ghi vào sổ công, thì nghị ta tranh công
như lục súc. Tất cả được đức ông Nghị trưởng kết luận “Dù không bia đá sử
xanh/ Cũng còn bia miệng để lưu danh… đời muôn đời…” (Diễn tích Dân
biểu tranh năng). Đây chưa phải là bộ mặt rõ ràng của các ông nghị. Tú Mỡ
bổ sung thêm những đường nét vô cùng hài hòa và thực tế vào tấm chân dung
ấy, sống động, đích thị là trò mèo:
Có hai ông nghị ma bùn,
Nghị câm, nghị gật cũng môn nghị hề.
Tưởng mình to gớm to ghê,
Thiêng như thần ở gốc đề, gốc đa….
…Ngán thay, bắt chuột chẳng tài,
Lại hay ỉa bếp, mèo ơi là mèo!
(Hách)
Cũng giống như cách đả kích quan lại, có khi Tú Mỡ ỡm ờ bóng gió giễu
cợt các ông nghị nói chung, có khi lại chỉ mặt đặt tên rõ ràng, chẳng cần úp
mở. Cái duyên của nhà thơ trào phúng là nói thế nào người ta cũng thấy cười
là hợp lí, thấy cái kẻ đang bị cười thực sự rất đáng cười. Nên mới thật thú vị
một loạt hai mươi mốt cái bức tranh hoạt họa của Tú Mỡ cười cợt và đả kích
đích danh: ông Hường Hà, ông Đỗ Thận, ông trùm Phạm Lê Bổng, ông trùm
Lục, ông nguyên phó trùm An,… ông nào cũng thật công to, đường công
danh thật lắt léo. Ông Hường Hà bị đuổi khỏi đảng Xã hội thì lại vớ được cái
đạo sắc rồng vàng của vua; ông Phạm Lê Bổng được “Trời cho cái mã bên
ngoài/ Để che đạy cái sơ sài bên trong”, ông Lại Văn Trung năm năm liền
“công to việc lớn có ngần ấy thôi”_ chỉ đọc một bản diễn văn… Chỉ một bài
Giới thiệu các ông nghị với Quốc dân, sự vô dụng của các ông nghị đã bị Tú
Mỡ vạch trần:
… Chốn thôn quê, các nhà làm ruộng,
Việc cày bừa phải nhờ lượng ông nghị … Trâu.
47
Chúng chị em các xóm cô đầu
Nghiệp đàn hát phải yêu cầu ông nghị… Phách.
…
Đó là suy danh hiệu đoán người đại khái…
Tú Mỡ không vơ đũa cả nắm. Cũng đã có lúc Tú Mỡ_Hồ Trọng Hiếu
khen ngợi mấy người mà Tú Mỡ gọi là “ông hội viên ta”, tên bài thơ là “Khá
lắm! Dân Hà thành” – ở đây lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất ông khen
nghị viên thực là kẻ dám ăn nói và đấu tranh cho dân trước hội đồng dân biểu:
Có ba ông hội viên ta,
Đảng viên xã hội quyết ra hội đòng.
Hô hào bỏ sự bất công,
Quyền Nam, quyền Pháp phải cùng ngang nhau.
Lòng không toại ý sở cầu,
Bảo nhau rũ áo lắc đầu xin ra…
Tú Mỡ chỉ rõ cái bất tài, kém cỏi của đại đa số các ông nghị. Nghị viên là
thứ nghị “độn đường”, nghị “gật”, “nghị câm”, một thứ vai hề chính trị. Và
viện dân biểu là nơi để bọn thống trị tìm cách vơ vét bóc lột nhân dân. Nhà
văn Nguyễn Công Hoan khái quát về quan và nghị như thế này trong truyện
ngắn của mình: “Quan, người ta sợ cái uy của quyền thế. Nghị lại, người ta
sợ cái uy của đồng tiền”. Suy ra, làm dân là khổ, vì thế nên càng nhiều người
muốn len vào chốn quan trường để kẻ khác phải “sợ” mình. Trong đó có bọn
văn sĩ nịnh tây, bọn bồi bút bất chấp đạo lý và chân lý, sẵn sàng bẻ cong ngòi
bút, bán cả nhân phẩm, tư cách của mình để đổi về danh lợi, thăng quan tiến
chức, vinh thân phì gia. Tú Mỡ chỉ đích danh chúng mà chửi: chúng chỉ là
một “bọn nịnh thần ôm… váy”. Chúng là những kẻ đại diện cho trí thức Việt
Nam sang mẫu quốc để làm chứng cho công “khai hoá” của Đại Pháp; chúng
không ngớt lời ca tụng nước “Lang xa”, nịnh hót kẻ trên, phỉnh phờ người
dưới. Lấy ngài Nguyễn Tiến Lãng làm lá cờ đầu, đội ngũ văn sĩ ta viết văn
Tây cứ thế xông lên, bén gót là Văn sĩ Trần Văn Tùng:
48
Nghe ông réo rắt véo von,
Người ta biết tiếng chuyên môn nhà nghề.
Người cho sang đất Ba Lê,
Đi vài ba tháng để về… hót hay…
…Chỉ cần khéo léo, phỉnh phò,
Khi về may nổi cơ đồ cũng nên!
Ông Ngô Văn Phú, chủ bút báo Đông Pháp và Hanoi Soir, bợ đỡ thực
dân, chửi bới cách mạng, quảng cáo là “bênh quyền lợi khắp hầu nhân dân”,
thế mà cậy Pháp thực dân dung túng cho cướp không 3000 mẫu ruộng của
nông dân:
Nhưng ngoài cái lợi bản thân,
Ông Ngô Mo Phú cóc cần bênh ai!
Ông còn cướp đất, tranh mồi
Của dân nghèo hạt Tân Bồi (Thái Ninh).
Ông quen nấp bóng quyền hành,
Để chơi thủ đoạn tranh giành… cơm chim!
(Ông Ngô Ma Bùn)
Tú Mỡ lại kể Nguyễn Mạnh Bổng, mới đầu cũng trong làng thơ thẩn, rồi
làm lang băm chuyên chữa lậu, giang, muốn làm quan nên xoay về mở báo:
Toàn lời ca tụng, tán dương,
Hết khen cụ lớn, lại mừng ông to…
…Được hàm cửu phẩm văn giai.
Rồi đang quan cửu thăng vai quan hàn.
(Ông Hàn Nguyễn Mạnh Bổng)
Mất gốc điển hình là ông “trạng mẹo Phạm Duy Khiêm”:
Tiếng Tây ông nói làu làu,
Hỏi văn quốc ngữ, lắc đầu rằng “nôông”!
(Ông trạng mẹo Phạm Duy Khiêm)
49
Một cách bóng gió, Tú Mỡ đã gợi cho chúng ta suy nghĩ, liên tưởng từ
những ông quan, ông nghị, các văn sĩ đến thời cuộc. Một cách thẳng thắn, Tú
Mỡ tỏ ra chẳng ưa gì những hạng người ấy, thấy nhơ nhuốc nếu bị xếp ngang
hàng dân trí thức với chúng:
Đầu lưỡi họ đưa lời tha thiết,
Trống rỗng tuênh Pháp Việt đề huề…
Hừ! Phường xảo ngôn đến thế thì thôi!
(Đính chính cùng dân trí thức bên Pháp)
2.2.1.2. Những hủ tục, mê tín dị đoan, thói hư tật xấu, những trò lố lăng trong
xã hội
Ở đối tượng này, tiếng cười thuộc cấp độ châm biếm, đả kích là chủ yếu.
Nếu phân chia theo địa bàn, thì ở nông thôn, ông lên án hiện tượng mê
tín dị đoan, lễ lạt đồng bóng, xôi thịt hội hè, cờ bạc rượu chè; còn ở thành thị,
Tú Mỡ tập trung phê phán lối sống trụy lạc, đĩ bợm trai gái, văn minh rởm và
thói “ma lanh ma bùn”, hư danh.
“Tú Mỡ là người rất ghét những mê tín dị đoan… Ông coi đó là những tệ
lậu cần phải trừ bỏ ngay thì nông thôn mới tiến bộ được [8, 129]”. Tú Mỡ có
quan điểm riêng về tín ngưỡng và lối “tu”: tu là làm sao cho sống lưng cứng
cỏi, không luồn cúi bợ đỡ ai, tu là giữ gia đình êm ấm, tu là giữ cho tâm hồn
hơn hớn không hám lợi danh, luôn vui vẻ, tu là biết yêu đời một vẻ bình dân,
tu là luyện cho ngọn bút gọt ra vần phong phú, cùng bạn xa gần cười nụ
quanh năm.
Nát Bàn của tớ tại tâm,
Tớ tu nghe đã gần gần tới nơi.
Chẳng tìm cực lạc xa xôi,
Chẳng tu, tu cách dối đời như ai.
(Tu…!)
Cho nên, ông cực lực phản đối và lên án bọn “tu… mu, tu… hú”. Đó là
những sư ông, sư bà, sư cậu, sư cô chẳng những lòng tà dâm, tham lam, gian
50
dối, cờ bạc, mà còn thể hiện những sự xấu xa đó một cách trắng trợn. Có sư
tham tiền tài, danh lợi. Ông sư ở Cao Miên trúng số, Tú Mỡ lo ngay đến việc
có hai vạn đồng trong tay sẽ làm nhà sư “lỡ đường tu”. Nhưng thế còn là may,
lại có ông “huề thượng Cao man” đánh số, mà “vé thời sáu số, trời làm trúng
năm”, sư “khéo tay chữa số” để lĩnh năm trăm đồng:
Tưởng rằng chắc mẩm ăn không
Phen này phá giới, tiêu vung tán tàn.
Ngờ đâu bại lộ mưu gian,
Người ta rước cụ sư man vào… tù.
(Sư đánh số)
Còn như sư cụ chùa Bà Đá ở Hà thành được Đức Đại Nam Hoàng Đế
Bảo Đại phong sắc “Tăng Cang Hòa thượng” thì Tú Mỡ nói toạc móng heo
mục đích tu hành hoá ra là để… hưởng lạc:
Dốc lòng niệm chú Nam vô,
Tu hành như thế, chẳng tu cũng hoài.
Như Lai phù hộ cho ngài,
Vinh hoa cho bõ một đời muối dưa.
(“Công đức tu hành sư có lọng”)
Phẩm tước còn tăng, tăng mãi mãi,
Tăng kinh, tăng phú, lại tăng sương.
(Mừng Tăng Cương hòa thượng)
Dường như tam độc tham, sân, si mà Phật dạy kẻ tu hành phải tránh, thì
kẻ tu hành lại rất ham! Chẳng những họ cũng ăn phải bả vinh hoa, mà lại cũng
ham đời sương gió trần tục lắm! Tú Mỡ kể nhiều lớp kịch về bọn sư hổ mang,
kẻ đi gà gụ các sư cô, kẻ cảm ngầm em gái chủ, kẻ rước vào tăng phòng hai
vãi vừa xinh vừa trẻ, lại có sư cậu đi hát ả đào bị chánh tổng phát giác… ; Tú
Mỡ lên án bọn sư tăng này là tu giả “Thà rằng ăn mặn, nói ngay/ Còn hơn giả
dạng ăn chay, tu xằng” (Phá giới). Không phải ngẫu nhiên khi Tú Mỡ vạch
mặt loại sư này ở nhiều góc độ khác nhau:
51
Nam vô bà vãi lên chùa,
Một bà mũm mĩm phải bùa sư ông…
… Từ khi lui tới phật đài
Sư phù, Phật độ, mắn thai như gà.
Lau nhau trai gái đầy nhà,
Sòn sòn năm một, hoặc và năm đôi.
Cô nào, cậu nấy tốt tươi,
Mười phần giống lột cả mười sư ông.
Các bà đi lễ cho đông!!!
(Nam vô bồ tát bồ hòn…)
Và bà sư trẻ xinh xinh chừng ba chục xuân xanh, vào một buổi sáng mùa
thu đã:
Bụng đeo cái trống cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa.
(Sư bà ở cữ)
Một khía cạnh quan trọng của tệ nạn mê tín mà Tú Mỡ phê phán, chính
là những chi phí vô lí mà vô cùng tốn kém. Ông lên án việc người ta chắt bóp
bo bo đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt nhưng lại đổi nó ra vàng mã âm
phủ mà đốt ra tro; cúng cá chép cuối năm; phê phán việc theo Tết Đoan Ngọ
theo người Tàu là dị đoan, tục ăn uống giết sâu bọ cổ hủ,… Theo ông, quyên
tiền xây chùa là không nên, chi bằng xây nhà để:
Cho dân nghèo sống thỏa thuê,
Ấy là quả phúc nên vê cho tròn
Hơn là chùa lớn, chùa con,
Để thờ tượng gỗ sơn son, thếp vàng
(Quả phúc)
Tú Mỡ cũng lên án bọn quan nha đã kém năng lực lại mê tín, lợi dụng
tình trạng ngu dân và thần quyền để… xử án - bắt bên nguyên bên bị thề ở
đền Hàng Trống: “Thần thiêng, ồ chuyện hoang đường/ Thề trê chui ống, trò
52
mường ai tin?” (Thề). Nhiều kẻ được lợi nhờ sự mê tín thái quá của nhân dân
(Nào ai biết đâu? Chỉ biết rằng/ Ông Từ xưa, tậu mấy nhà gạch – (Đền Hàng
Trống)). Lại có người lười như hủi, cờ bạc rượu chè, trai gái mê tín, nghĩ đến
câu “Sống ở trên đời/ Ăn nhau hòn đất” nên lật đà lật đật “Thầy địa cố tìm/
Mồ cha lo cất”, không chịu làm ăn phấn đấu mà xoay hòn đất để đợi vận may:
Người đời ngu dại
Nghĩ mà ngùi thương!
Toàn vẹn phần xác,
Hòng nhờ nắm xương.
Đào lên trộn xuống,
Đặt dọc xoay ngang,
Để cầu phú quý,
Khéo chuyện hoang đường.
(Xoay hòn đất)
Tại sao không nên mê tín? Có thần thánh nào thật sự linh thiêng để bảo
vệ người ta, cho người ta cái điều người ta nguyện cầu mong ước? Bằng thơ,
Tú Mỡ chỉ rõ: có thần thánh là vì người ta dựng lên thần thánh, còn sự linh
thiêng ấy là do người ta tưởng tượng ra:
Thánh bà mới biết linh thiêng thật,
Gặp cái ô tô, kiệu đứng liền!
(Kiệu bay)
Cướp vét sạch sanh đồ tế nhuyễn,
Thánh sao tịt mít phép thần thông?
Mới hay quân quỷ đen đầu ấy,
Bốn phủ năm dinh cũng hãi hùng!
(Thánh sợ cướp)
Lâm khi tai họa tới nơi,
Thánh đâu? Chẳng thấy trổ tài thần thông!
Để cho thần lửa tàn hung,
Thiêu tàn một xóm chỉ trong nửa giờ.
(Vua Bà sợ Thần lửa)
53
Bản chất của việc mê tín là ở đâu? Trong bài Quỷ thần, Tú Mỡ thuyết
phục được độc giả rằng thần thánh ở Việt Nam được thờ là do dân mê muội,
thờ họ vì lợi vì danh và vì sợ thần thánh như sợ quan tham lại nhũng:
Nghĩ buồn thay cho các ông thánh, ông thần,
Ở một nước ngu đần, mê muội.
Họ sùng bái một là vì lợi,
Hai sợ vía các ngài như tại chốn dương gian,
Họ kiềng lại nhũng quan tham…
(Quỷ thần)
Song song với mê tín dị đoan là những hủ tục, tục lệ hàng ngày, hàng
năm làm khổ sở cho đời sống nhân dân – đó là những điều Tú Mỡ nhìn thấy
và hô hào thay đổi, như một sự canh tân và bảo vệ nhân dân lao động.
Tú Mỡ không vòng vo, ông nói ngay việc làng sau lũy tre xanh thực chất
là để các cụ trong dân “tranh giành thủ lợn với phao câu”, “mưu mô cá lớn
nuốt cá bé”, chẳng khác gì một đại tiệc dòi bọ:
Việc làng, ngán nỗi, nát hơn tương…
Cũng bởi đàn dòi đục tận xương,
Chỉ khổ thân đời thằng khố rách,
Còng lưng, gục cổ, cóc ai thương.
(Việc làng bên ta)
Việc làng đã vậy, Hội làng là một mớ các trò rước thánh, khiêng kiệu, tổ
tôm, chắn điếm, xóc đĩa, thò lò…, mà lại vô cùng tốn kém, hại nhân dân “vì
đình đám, đã từng phen cực khổ!”
Đối với Tú Mỡ, Tết Nguyên Đán, đáng quý, nhưng người ta thật đáng
trách khi làm cho Tết trở thành một dịp tiêu pha tốn kém đến độ “con cháu
nhăn nhó, tổ tiên hả hê”, chưa hết Tết đã hết tiền, không có gì là vui cả. Bởi
vậy mà nhà thơ trào phúng Ghét Tết. Những cái nhiêu khê ấy thể hiện cả
trong hai loại lễ: đám ma và đám cưới. Có người vay mượn để cưới xin thật
hậu, cỗ bàn thật to, xong rồi cháu con còng lưng trả nợ. Còn đám ma có cỗ
54
bàn linh đình, tưởng là kẻ ăn cỗ thể hiện cái tình với người đã chết, mà thực
giống đàn dòi bọ nhung nhúc trong xác con chuột chết. Thế mà, với con chuột
chết, đi qua người ta lợm giọng khạc nhổ; với cái xác người còn quàn đợi
chôn thì không khiến cho người ta ghê sợ chút nào, đánh chén như thường:
Trông thấy cảnh rượu chè be bét
Quanh cái thây người chết tanh hôi,
Khiến ta nghĩ đến đàn dòi
Nhâu vào đống thịt chuột toi bên đường.
(… Và cỗ đám ma)
Hủ tục ấy với cách so sánh ấy khiến Tú Mỡ chẳng cần nói nhiều hơn, mà
làm chúng ta thấy rõ mâu thuẫn vô lý.
Tú Mỡ nhiều lúc cũng võ đoán, ông cho rằng chung quy nhiều cái khổ
của dân nông thôn là do cái đình – nơi các cụ dân họp bàn hương chính với
hương ước! Cho nên, ông nhiệt tình hô hào bỏ cái đình:
Bỏ đình đi! Bỏ đình đi!
Còn đình, hủ tục còn di hại nhiều.
Còn truyền mãi lắm điều mê tín,
Nói ra ai dễ nín được cười…
Dỡ đình đi! Dỡ đình đi!
Còn đình, hủ tục còn di hại nhiều!
Việc đình đám lắm điều phiền phức,
Mỗi năm làm cơ cực dân quê…
(Bỏ cái đình)
Tú Mỡ cũng cho rằng cái áo thụng xanh và cái búi tóc cũng là những hủ
tục, là hiện thân của thói thủ cựu cần được bài bỏ khỏi đời sống, vì trông nó
vô cùng cổ hủ, “trông hèn ra mặt” (Bỏ áo thụng xanh).
Nếu sự mê muội, ngu tối là môi trường sống của mê tín dị đoan và hủ
tục, thì các tệ nạn cờ bạc, hút sách, đĩ bợm là sản phẩm của môi trường đó. Có
kẻ máu mê cờ bạc đến nỗi một anh bất hạnh bị cảm lăn ra, bốn anh còn lại
55
không dừng chơi mà xoay sang “tổ tôm bí tứ” chơi tiếp. Bài thơ Hà Nội ăn
chơi là một tập hợp trò truy hoan bất chấp còn bao cảnh lầm than và kinh tế
khủng hoảng:
Tửu, sắc, đổ, yên, bốn vị hung thần liên hiệp
Dắt dân Hà thành mải miết cuộc truy hoan,
Mới hay kinh tế dù khủng hoảng gian nan,
Ai nhăn nhó vẫn hoàn nhăn nhó,
Mà kẻ ăn chơi, vẫn ném tiền qua cửa sổ…
Tú Mỡ kịch liệt phản đối, phê phán thói ăn chơi hưởng lạc của thanh
niên: “Rượu nồng chén khướt mềm môi”, “Lăn lóc vào hoa nguyệt đắm say”,
“Bàn đèn tìm thú khói mây”, “Buồn, lá bạc, quân bài tiêu khiển” (Bác cái
thuyết chơi là lãi)
Cùng với những cảnh tượng sa sút về giá trị con người như thế, là những
cảnh tượng người người ra vẻ “chơi hóm, chơi sành”, tống cựu hay nghênh
tân đều có màn ăn uống chè chén, tom chát cô đầu, mà kì thực “tình khứ lưu”
chẳng có là bao, toàn những lời sáo rỗng, huênh hoang, rởm đời, giả dối (các
bài Cốc quan hà, Tình khứ lưu). Đối chiếu với cuộc sống bây giờ, cảnh tượng
kia không phải là hiếm, và cũng từng phen làm khổ chủ dở khóc dở cười.Thế
mới biết, Tú Mỡ đã xông pha vào những ngóc ngách cáu bẩn nhất để dùng
tiếng cười trào phúng tẩy rửa nó, để làm cho cuộc sống tốt lên.
Thói hám danh và ham hư vinh luôn được Tú Mỡ dành một sự quan tâm
đặc biệt. Chỉ cần có cơ hội, Tú Mỡ sẽ dành cho thói xấu này những ví von
châm biếm, sự diễn tả kì cục khôi hài nhất để đả kích nó.
Tại sao Tú Mỡ ghét thói xấu này như vậy? Sống trong cảnh đất nước nô
lệ, có thi thố đỗ đạt vẫn là làm việc cho Tây và cho bù nhìn. Chẳng có gì là
vinh! Chính vì thế, bà tú nhiều lần khuyên ông thi lên làm ông tham biện,
nhưng Tú Mỡ chỉ làm “ông phán cành cạch” và lặn lội với “Giòng nước
ngược” mà thôi, bằng lòng “Bởi tính ngang phè như chánh bứa/ Già đời
chẳng được cái mề đay”. Đối với người hiểu đời và hiểu người như thế,
56
những kẻ cố đấm ăn xôi thi bốn lần rớt vẫn “thi lấy được” để mong lên chức
lên tiền chỉ là hạng bất tài và tham lam, ngu dốt, lố bịch. Ở đời, “Tính khoe
khoang là tật chung thiên hạ/ Bệnh kinh niên bọn trưởng giả hợm mình/ Sống
trên đời họ rất sính hư danh/ Đến lúc chết vẫn chưa lìa chứng đó” (Cáo phó).
“Làng trưởng giả lắm con người/ Ngông sao ngông rởm, mớ đời cái ngông/
…Sống trên đời chỉ thèm thuồng hư danh” (Nhà lang sáu biển)– chỉ là một
ông lang mà cũng bày tất cả sĩ diện ra sáu cái biển đề danh trưng giữa nhà
cho… phổng mũi! Thế là, có kẻ chết rồi còn cả cáo phó để giương danh, thì
cũng có người tự treo biển quảng cáo giương danh cho mình! Tú Mỡ châm
biếm anh chàng hám danh nhận mình là “ông đốc” vì có bà vợ làm… “bà
đốc” coi nhà hộ sinh!! Tú Mỡ châm biếm thói rởm đời, hám danh đến mức
như bác kì hào đeo dây kim tòng giả này, thì là cái cười chê bai tột bực:
Kim tòng vừa mới kéo lên
Đầu dây chỉ thấy… đồng kền năm xu.
(Cái dây kim tòng)
Xã hội mà trong đó có Giòng nước ngược của Tú Mỡ đầy rẫy mâu thuẫn
và những điều trái tai gai mắt. Tất nhiên, nhà thơ trào phúng không thể bỏ qua
cả kho đề tài vô tận ấy. Các thủ đoạn kiếm tiền trơ trẽn và bất nhân của bọn
quan lại không qua mắt được nhà thơ. Đó là cụ Thiếu với chánh tổng đi “tuần
đêm” qua xóm Ngã Tư Sở và phạt tiền chị em ra đón mời “một nhà ít cúng
sáu đồng/ Chầu chay hai mảnh mất tong đi đời” (Bé cái nhầm). Đó là Sòng
bạc công khai của ông Đốc lý mở, lấy lí do gây vốn dựng trường Kĩ nghệ cho
trẻ nghèo xóm bờ sông Nghĩa Dũng. Đó là thuế má vô lý, nực cười như Đóng
thuế thân “Tự do dân chủ tuy thua thiệt/ Nhưng đã hơn người cái thuế cao”;
như Thuế đàn bà góa “Nhòm nom của gái góa chồng/ Các ngài ấy đã hết lòng
với dân”. Đó là việc tòa Đốc lý cấp bằng cu ly chính tông cho phu kéo xe
hành nghề để “Bao lần giấy, bấy lần xu/ Mới làm nên chức đại “phu xe hàng”
(Phu kéo xe)… Lại có công tử Âu tây co cả bốn vó lên ghế trên xe điện, và
chửi bác nhà quê ngồi ngất ngưởng trên xe thổ tả là “đê tiện, man di” (Lịch
57
sự). Quan Hộ đê chẳng những đánh đập dân phu mà “Trẻ già, đã tóm đàn
ông/ Lại lôi cả bọn má hồng không tha” – thật là tùy tiện và vô lý…
Thời buổi giao thoa tân cựu, Tây Đông, Tú Mỡ không khó khăn gì khi
tìm các đề tài về thói đời và tình người đen bạc. Phải có ai đó nói toạc móng
heo thói gian dối xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ như cô Ngọc Hồ trơ tráo
“Hoa tàn vẫn dử bướm ong theo” (Lỡm cô Ngọc Hồ). Phải có ai đó lên án thói
người cúi luồn, nịnh thối như chó nịnh chủ (Chó với mèo, Tủi cho bà Tú Mỡ).
Phải có ai đó cất tiếng trong Chuyến đò dọc “Cười chung thiên hạ những đồ
xuẩn ngu/ Thấy ai quý phái thì phò/ Chẳng phân hư thực, chẳng dò nông
sâu”. Phải có ai đólên án thói ăn ở bạc tình của ông phán nọ, ông thiện nam
kia “Khâm Thiên, Vạn Thái đi về” “sẻ đôi tâm tình” (Tu… hú!, Cái tính trừ
sai). Phải có ai đó chửi vào mặt Quan phán bất hiếu kia vung tiền ăn chơi mà
“tiền nuôi cha mẹ cưa gan từng đồng”. Phải có người cười mặt anh chàng trẻ
tuổi chẳng chịu tu thân mà ra vẻ ông cụ non, và ông cụ non chơi trống bỏi.
(Ông trẻ già, … Và ông già trẻ). Phải có ai đó đập thẳng vào cái mặt lạnh như
tiền của kẻ cho vay nặng lãi, của các chủ nhà cho thuê đắt khiến dân nghèo
phải lang thang (Sét ty tự đại, Các chủ nhà). Phải có ai đó Lẳng lặng mà xem
họ… cưới nhau, vén lên bức rèm dối trá che đạy cảnh tượng “Trong đám
cưới,Thần Tài làm chủ tịch/ Thần Ái Tình chỉ giả cách bung xung”. Phải có ai
đó viết lại những kinh nghiệm sống thành ngụ ngôn: Đục nước béo cò, Giậu
đổ bìm leo, Gà chọi, Ba kiếp con bú dù…
Đó là Tú Mỡ. Ông không những nắm bắt những đối tượng ấy để sáng
tác, mà còn tự nhận về mình phần việc dùng tiếng cười thanh lọc cuộc đời.
Người ta cũng dễ nhận thấy mặt thật thô lậu, xấu xa, trơ trẽn, bỉ ổi, đồi bại
đằng sau mặt nạ sơn son thếp vàng của thực dân, phong kiến.
2.2.1.3. Thực dân Pháp
Đây là đối tượng được châm biếm một cách kín đáo bởi chính nhà thơ
còn đang làm ở sở Phi-năng (sở Tài chính) của Pháp và bộ máy kiểm duyệt
58
thanh tra của thực dân rất ngặt nghèo. Cho nên, với đối tượng này, cấp độ
tiếng cười chủ yếu ở mức trào phúng, mỉa mai, phải “đánh địch” ở cái tư thế
thấp kém hơn nó.
Chúng tôi cần nói thêm rằng: theo bảng khảo sát 2.1, những tác phẩm
châm biếm trực diện thực dân Pháp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
không được ra mắt nhiều. Tuy nhiên, rải rác trong nhiều tác phẩm, ta bắt gặp
tư tưởng phản kháng và sự phản đối quyết liệt của Tú Mỡ với thực dân. Đặc
biệt, có nhiều bài viết trước cách mạng, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, đã
hoặc chưa được đăng báo, chưa được in vào ba tập Giòng nước ngược, về sau
được tập hợp thành Giòng nước ngược – ngoại tập, lại đả kích đích danh thực
dân Bảo hộ! Chúng tôi không đưa những tác phẩm này (7 tác phẩm) vào bảng
thống kê 2.1, tuy nhiên sẽ sử dụng để dẫn chứng cho phần nghiên cứu này.
Tú Mỡ toàn tập mà chúng tôi sử dụng khi nghiên cứu đề tài này có rất
nhiều câu thơ, đoạn thơ bị “Bà lớn Kiểm” cắt bỏ. Đó là những câu thơ
“phạm” đến mẫu quốc Đại Pháp, nếu không nó đã thoát khỏi kiểm duyệt rồi.
Việc Tú Mỡ vui mừng Tống tiễn bà Kiểm về Pháp cũng châm biếm ngầm sự
khắt khe quá đáng của thực dân để “xấu xa đạy lại”:
Tay cầm bút chì xanh xù xụn, những lăm le gạch dọc xóa ngang,
Mắt đeo đôi kính trắng tò mò, chỉ soi mói bới lông tìm vết.
Lời văn thẳng thắn, bà chơi khăm vặn ý thành queo,
Sự thực trần truồng, bà che đạy cấm ai nhòm biết.
(Tống tiễn bà Kiểm)
Lên án các thứ thuế vô lý mà người dân phải gánh, nói thẳng ra tính hữu
danh vô thực của quyền tự do dân chủ ở An Nam, Tú Mỡ đã thể hiện tư tưởng
chống thực dân của mình, có khi bằng tiếng cười chua chát:
Tự do dân chủ tuy thua thiệt
Nhưng đã hơn người cái … thuế cao!
(Đóng thuế thân)
59
Khôn ngoan và sáng tạo, mượn hình thức “Một bức thư về việc thảo dân
nguyện”, qua lời Mụ Gầy ở Bắc Hà thúc giục Tú Mỡ lên tiếng, Tú Mỡ làm
cho người ta thấy thực dân Pháp đang diễn trò hề chính trị:
Nay Pháp quốc gửi Ủy ban sang sứ,
Thế mà sao anh Tú cứ im lìm?
Khắp quân dân đều ríu rít như chim,
Thảo dân nguyện, vạch gan, tim, lòng, cật, phổi.
Họ tổ chức Đông Dương Đại hội
Để nhóm gồm chi phối Bắc, Trung Nam.
(Cùng anh Tú Mỡ)
Bản chất thực dân bóc lột và tự do dân chủ giả hiệu đã bị Tú Mỡ vạch
trần bằng một trò trẻ con: thấy mẹ đi chợ về chia bánh, trẻ “eo xèo đòi phần
lớn, miếng ngon”. Thực dân là ông BỐ, ăn tất:
Bánh thời để … bố nó ăn.
(Trả lời Mụ Gầy)
Chúng tôi cho rằng để công khai được tác phẩm chế giễu thực dân, qua
được kiểm duyệt, thì bóng gió như vậy đã là táo bạo!
Phải sau khi Nhật đảo chính Pháp (19/3/1945), Tú Mỡ mới được thoải
mái đả kích thực dân. Hả hê nhất là Văn tế Bảo hộ: “Tây phương cực… nhục,
hồn ngươi đi về/ Nước ta giải phóng, dạ ta hả hê”. Sau đó là những bài thơ
như Vịnh tượng đầm xòe được công khai:
Còn lạ gì Tây phương xảo quyệt,
Tự do chỉ ở tượng cùng đồ.
Vịnh tượng Bôn Be – viên toàn quyền Đông Dương đầu tiên:
Thôi còn bêu riếu chi nhau mãi,
Phá quách, mang đồng đúc đạn xong.
Tú Mỡ lật tẩy món Tự do, bình đẳng, bác ái của thực dân trong bài thơ
cùng tên:
60
Những khẩu hiệu thiêng liêng biết mấy,
Họ chỉ trưng ra để che đạy tham tàn.
Nhưng mà khó bịp thế gian…
Bằng tiếng cười thông minh, độc đáo và sắc sảo, Tú Mỡ lột mặt nạ thực
dân, bọn phong kiến hèn yếu và cảnh cáo bọn Việt gian theo Tây. Bản chất
“bảo hộ, khai hóa, văn minh”, “tự do, bình đẳng, bác ái” là thực hiện chính
sách ngu dân để dễ bề cai trị, làm suy nhược nòi giống việt bằng rượu cồn,
thuốc phiện và tệ nạn chơi bời, đàn áp, bóc lột cùng cực nhân dân đến “manh
khố rách càng thêm rách”. Tú Mỡ đã tố cáo những thủ đoạn chính trị lừa bịp
sau chiêu bài “bảo hộ” và “khai hoá văn minh” của thực dân Pháp.
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ trào phúng Tú Mỡ
đã có một hướng đi đúng đắn, đứng về phía nhân dân. Tùy từng đối tượng, mà
thơ ông có cấp độ tiếng cười phù hợp, lôi cuốn, tập hợp được dư luận. Tuy
nhiên, Tú Mỡ còn bộc lộ một số hạn chế về tầm nhìn, chẳng hạn ông chưa
nhận ra bộ mặt thật của phát xít Nhật, chưa có sự công kích vào đối tượng
này, phải đến giai đoạn sau Tú Mỡ mới bộc lộ tư tưởng với đối tượng đó.
Ngoài ra, với một số cái mới trong xã hội, Tú Mỡ thể hiện sự cười cợt chưa
đúng đối tượng lắm. Chẳng hạn việc cho phép phụ nữ được học và làm trạng
sư , việc “các bà cũng được nhập quan” (Cô… trạng, Quan đàn bà) – ngày
nay ta thấy là những chuyện bình thường và đáng khuyến khích. Bên cạnh đó,
có khi tiếng cười của ông cất lên chưa phù hợp lắm, như việc giễu “búi tóc và
đàn chấy” của ông Nguyễn Văn Tố là có sự ảnh hưởng của tư tưởng vui tươi,
bông phèng thả cửa tiểu tư sản.
2.2.2. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 rất mới
mẻ: đất nước độc lập tự do, ta xây dựng nền văn học nghệ thuật theo đường
lối của Đảng.
61
Văn học còn được coi là vũ khí đấu tranh cách mạng. Suốt ba mươi năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, văn học Việt Nam tập trung
thực hiện nhiệm vụ chính trị, cổ vũ tinh thần chiến đấu và hướng về đại
chúng. Bản Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đề ra ba phương châm:
dân tộc, khoa học và đại chúng. Từ kháng chiến toàn quốc, Tú Mỡ đã đeo ba
lô theo suốt chặng đường đấu tranh của dân tộc, phục vụ kháng chiến với tư
cách một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hoá. So với trước cách mạng, nhà
thơ của chúng ta đã trưởng thành nhiều, hiểu và khắc phục được những hạn
chế trong tư tưởng của mình. Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá: “Mười ba tập thơ
ca, tám vở chèo, tuồng, kịch… Tú Mỡ là nhà thơ viết nhiều nhất trong kháng
chiến” [6, 203]. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ cũng thay đổi theo thời
đại. Không “Cười tung tẩy ra, để trút sạch khỏi lòng/ Những ấm ức tưởng
chừng như nghẹt thở” (Nhìn lại, cười mình), tiếng cười Tú Mỡ cũng sắc bén
và mạnh mẽ hơn. Những bài thơ chĩa mũi sắc nhọn vào giặc làm thành tập Nụ
cười kháng chiến, Nụ cười chính nghĩa, Đòn bút; những gương anh dũng của
nhân dân tập hợp trong Anh hùng vô tận… Đúng là một “ngòi bút không bao
giờ biết mệt”, xứng đáng là “một lão chiến sĩ của làng văn” [6, 204]. Văn Tân
đánh giá mỗi bài thơ trào phúng của Tú Mỡ như một mũi tên tinh thần có tác
dụng làm rã rời quân địch và làm phấn khởi nhân dân.
Chúng tôi khảo sát đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ thời kỳ này ở
các tập thơ sau: Nụ cười kháng chiến (1952), Nụ cười chính nghĩa (1958),
Đòn bút (1962). Chúng tôi chọn ba tập thơ này vì chúng tiêu biểu cho các thời
điểm sáng tác của Tú Mỡ, thể hiện rõ tư tưởng và phong cách nghệ thuật của
nhà thơ; chúng tôi cũng không khảo sát tất cả các tập thơ sau cách mạng của
ông trong khuôn khổ luận văn này.
62
Thực
Việt gian
Bảo Đại,
Tướng
Ngô
Các tổng
Ca ngợi
Tinh
Tổng số
dân
và chính
Vĩnh
Pháp, các
Đình
thống
tinh
thần
bài thơ
Pháp và
phủ bù
Thụy
tổng
Diệm và
ngụy,
thần
đấu
Đế quốc
nhìn,
thống Mĩ
bè lũ
tướng
kháng
tranh
Mĩ
ngụy
Cao Kì
chiến
quốc
quyền
của
tế
nhân
dân
NCKC112(36,6%) 47(41,5%) 13(11,5%) 13(11,5%) 13(11,5%)
4(4%)
20(18%) 2(2%)
0
NCCN: 74(24%)
20(27%) 21(28,5%)
29 (39%)
4(5,5%)
0
0
0
0
ĐB: 120(39,4%)
66(55%)
6(5%)
19(15,5%)
2(2%)
15(12,5%) 12(10%)
0
0
3tập:306(100%)
133(43%) 40(13,5%) 13(4%) 32(10,5%) 35(11%)
15(5%) 36(12%) 2(1%)
Bảng 2.2. Thống kê số lượng các tác phẩm ở mỗi đối tượng tiếng cười
trong “Nụ cười kháng chiến” (NCKC), “Nụ cười chính nghĩa” (NCCN),
“Đòn bút” (ĐB) của Tú Mỡ.
Bảng thống kê 2.2 đem lại nhiều thông tin thú vị về đối tượng tiếng cười
trong thơ Tú Mỡ từ năm 1945 đến năm 1975. Trong thời gian này, ngòi bút
Tú Mỡ được cách mạng và kháng chiến giải phóng nên viết kịp, viết nhiều và
viết hay, “tập hay nhất của Tú Mỡ hẳn là Nụ cười kháng chiến” [6, 208].
Chúng tôi khẳng định rằng, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đối tượng
tiếng cười trong thơ Tú Mỡ tập trung hơn và cụ thể hơn, thường hướng vào kẻ
thù của cách mạng, đồng thời khích lệ tinh thần kháng chiến của nhân dân.
Trong mười năm từ 1952 đến 1962, Tú Mỡ có 133 bài (chiếm khoảng 43% số
các sáng tác) đả kích thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, bài nào cũng đả kích trực
diện và quyết liệt. Tư thế của nhà trào phúng trước đối tượng này đã ngang
bằng và hơn thế nữa, nhà thơ và cả dân tộc ngoan cường đứng về phía chính
nghĩa đã ở một vị thế cao hơn hẳn, không xỏ ngầm chửi lén nữa, mà chửi vỗ
mặt, đánh trực diện, thậm chí dạy bảo cho kẻ xâm lăng! Đi đôi với việc xác
định đối tượng tiếng cười tập trung như thế, là việc “chọn điểm đánh địch”
mang tính chiến lược: để tiếng cười làm cho quân và dân đã đời, hả hê, Tú
63
Mỡ cứ “tóm” tên cầm đầu giặc mà “đả”. Tú Mỡ đã tìm thấy nguồn đề tài
phong phú và cảm hứng sáng tác trào phúng ngay trong những sự kiện chính
trị - thời sự từ phía kẻ địch. Cho nên, sau Cách mạng đến 1952 có 36 bài
(chiếm 33,5% số các sáng tác) đả kích Bảo Đại, Vĩnh Thụy, chính phủ bù
nhìn, các tướng Pháp và Tổng thống Mĩ; từ đó đến năm 1958 có 29 bài
(chiếm 39% số các sáng tác) đả kích Ngô Đình Diệm và bè lũ; tiếp đến 1962
có 36 bài (chiếm 30% số các sáng tác) đả kích bọn ngụy Diệm – Thiệu – Kì –
Hương và các Tổng thống, tướng Mĩ. Có thể nói, Tú Mỡ đã làm một cuốn
biên niên rất thú vị những sự kiện xấu xa và quá trình thất bại của cuộc chiến
tranh xâm lược bẩn thỉu của Pháp ở Đông Dương và của Mĩ ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, mức độ đả kích trực diện đến từng cá nhân chẳng những cho thấy tư
thế hiên ngang của người cười, khắc họa rõ nét tư thế thảm hại của kẻ bị cười,
mà còn nói lên lập trường kiên định của Tú Mỡ và ý chí chung của cả dân tộc
một lòng một dạ theo Cụ Hồ, kháng chiến giành độc lập tự do đến cùng.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh nhận định này, dựa trên những nghiên cứu về thơ
Tú Mỡ của GS Hà Minh Đức: sau Cách mạng tháng Tám 1945, kẻ thù chính
không trực tiếp ở quanh ta mà ở chiến tuyến đối lập. Tú Mỡ không thể hàng
ngày hàng giờ quan sát địch và giáng vào chúng những từ ngữ nặng nề qua
những câu thơ thiếu nội dung sự việc cụ thể và những hình tượng truyền cảm.
Cho nên, đề tài, đối tượng trào phúng của những tác phẩm giai đoạn này đã
cho thấy một biện pháp sáng tác thích hợp ở một người lao động nghệ thuật
nghiêm túc: Tú Mỡ đã dày công nắm bắt thời sự, quan sát nghiên cứu mặt thật
giả và luận điệu của giặc trong từng thời điểm, và dùng sức mạnh nghệ thuật
truyền cho độc giả lòng căm thù giặc sâu sắc của chính mình.
Căn cứ vào bảng thống kê 2.2, chúng tôi chia ra ba nhóm đối tượng tiếng
cười cơ bản như sau: thứ nhất, là tướng tá và binh lính thực dân, đế quốc; thứ
hai, là bọn Việt gian và bọn bù nhìn; thứ ba, là tiếng cười trong nội bộ.
64
2.2.2.1. Thực dân, đế quốc và bọn tướng tá, binh lính
Đối với thực dân và đế quốc, Tú Mỡ luôn biết nắm bắt lấy những mâu
thuẫn trong lòng địch và phơi bày những mâu thuẫn đó ra để làm lộ rõ thực
chất của bọn thực dân, đế quốc phản động.
Nói chung, dưới con mắt nhà trào phúng, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
đều có một cái lưỡi dẻo quẹo chuyên nói khoác và một dã tâm xâm lược
ngoan cố. Cho nên, nhiều bài thơ của Tú Mỡ phải hét lên “Vặn lưỡi lũ giặc
huyên truyền”, “Vặn lưỡi bọn thực dân”, “Bịt lại những cái mõm nói
khoác”,... Có khi chúng thấy đàn đom đóm, nghe tre nứa nổ, tưởng lầm là
Việt Minh nên đánh “nhầm”, thế là huyên truyền thành “Hai chiến công oanh
liệt của giặc Pháp”. Nhiều trận đánh thua của thực dân được chúng tuyên
truyền thành trận… thắng to khiến Tú Mỡ bất bình:
Nó thua xơ xác
Còn khoác lác xằng!
Cha đời tướng giặc Sa- lăng
Chết như ngả rạ vẫn rằng không thua!
(Vặn lưỡi lũ giặc huyên truyền)
Bất chấp tình hình đất nước Pháp sau chiến tranh thế giới thứ hai đang
điêu linh, nghèo đói, nhân dân Pháp phản đối chiến tranh, bọn thực dân vẫn đi
Ăn xin (Sang xin nước Mĩ giúp cho lúa Mì) để nuôi dã tâm xâm lược. Tú Mỡ
tố cáo mối quan hệ xỏ lá giữa Pháp thực dân đang túng đói và Mĩ đế quốc
đang cố trì hoãn chương trình viện trợ Mác-san, nhân đó cảnh cáo bằng một
lời đánh giá nghe na ná như một tiếng chửi: “Kéo dài nạn lửa binh/ Cho đến
khi thực tế/ Nước mẹ nó điêu linh” (Chết đuối vớ phải bọt).
Tú Mỡ đả kích thực dân ở nhiều phương diện khác nữa. Đó là thủ đoạn
“Tuyên truyền xảo trá manh tâm bịp lừa” (Không phải thiến) về Việt Minh,
vu cáo Việt Minh… thiến tù binh; đó là môn múa mép khua môi tài giỏi, cứ
thua phải rút quân ở đâu là ở đó thành “Nay nhiệm vụ bất đồ lại xong” (Hết
nhiệm vụ); đó là thủ đoạn Các quan bảo hộ làm tiền ở một làng nọ, sợ quân
65
du kích như sợ hùm nên bắn bừa làm tan nát nhà dân, đã thế chúng phán cho
Hội tề: “Tiền đạn thì bổ cho làng/ Còn tiền công bắn, các quan miễn đòi.” Tú
Mỡ giễu cợt và châm biếm đế quốc Mĩ cũng như thực dân Pháp đều có tài nói
khoác điêu luyện bằng cách đối chiếu lời nói với hiện thực. Mĩ tuyên bố sau
một tuần sẽ chiếm Triều Tiên còn Pháp huênh hoang sẽ bình định Việt Nam
trong một tháng. Nhưng sự thật, Mĩ ở Triều Tiên: “Không ngờ đánh lải nhải/
Cứ là thua lụn bại”; Pháp ở Việt Nam: “Năm năm rồi! Đánh mãi/ Thất bại
chồng thất bại” (Bịt lại những cái mõm nói khoác).
Đối với Đế quốc Mĩ, Tú Mỡ tố cáo chúng là những kẻ buôn bán vũ khí
làm giàu bằng máu xương nhân loại, dùng đô la để đi cướp nước người:
Tay chìa một tỷ đô la,
Để làm cái bả cầu hòa manh tâm,
Tay giơ gậy sen đầm quốc tế,
Nhe bộ răng ra để dọa già…
(Đem về mà xực với nhau)
Mĩ giở trò viện trợ để thuận tay lũng đoạn nền kinh tế các nước, chúng bị
nhân dân thế giới nguyền rủa:
Khắp trên thế giới, nhân dân,
Đều nguyền rủa Mĩ là quân tham tàn,
Phường chó đểu đem vàng buôn nước,
Buôn máu xương là chước làm giàu,
Cho nên chúng nó đến đâu,
Là người ta chửi thét câu “cút về”!
(Đem tiền mua chửi)
Tú Mỡ không ngần ngại dùng những từ ngữ nặng nề nhất đối với đế quốc
đô la này. Như nhiều bài thơ khác, nhà thơ gọi kẻ thù là “chó” – trong nhân
dân, đây là một cách nói miệt thị gắn kẻ mà người ta căm ghét với con vật hay
ăn bẩn, cắn ẩu, sủa càn. Nhân dịp Nich-xơn đi Nam Mĩ bị nhân dân ném cà
chua và trứng thối, Tú Mỡ chửi thẳng Chó Mĩ cút đi!
66
Người nhè mặt Ních nhổ phì,
Tiếng hô “Chó Mĩ cút đi vang ầm”.
Nhà thơ mỉa mai bản chất của đế quốc Mĩ là Thằng sen đầm quốc tế:
Đế quốc Mĩ cầm dùi cui nguyên tử,
Đóng vai sen đầm ở “thế giới tự do”.
Nhưng thực ra nó là trùm sỏ côn đồ,
Chuyên quấy rối để giở trò ăn cướp.
Cũng như thực dân Pháp, bị thua ở chiến trường Việt Nam, Mĩ “Tháo dạ
đổ vạ cho rươi”, cũng tìm cách chối quanh và tự bào chữa, lộ rõ bản chất tráo
trâng. Tú Mỡ nhè vào đó mà “đả” và cười:
Giặc Mĩ thua cay, khéo đổ thừa
Tại trời xỏ lá, tại trời mưa.
Phi cơ ướt cánh bay thiên thẹo?
Lính bộ trơn đường ngã chỏng chơ?...
…Mồm thằng Mắc cũng quàng xiên tệ,
Tháo dạ lèo lèo đổ vạ rươi.
Đối với tướng tá Pháp và Mĩ, nhà thơ trào phúng lại có dịp trổ tài biếm
họa của mình. Tướng tá chỉ huy là những kẻ tiêu biểu nhất cho bản chất tàn
bạo, xấu xa được che đạy, lừa mị bằng đạo đức giả dối, nhân nghĩa, văn minh
giả hiệu của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Theo GS Hà Minh Đức, thì “sở
trường của Tú Mỡ trong việc khắc hoạ nhân vật phản diện có dịp được thể
hiện trực tiếp qua việc vạch mặt những tên tướng giặc” [11, 95]. Các tướng
Pháp Đờ- lát Đờ Tát-xi-nhi, tướng Lơ-cơ-léc, tướng Sa-lăng, tướng Na-va,
tướng Đờ-cát… đều có tranh biếm họa; và từ Tổng thống Mĩ Ai-xen-hao-ơ ,
Gion-xơn, Ních-xơn, Ken-nơ-đi… đến các Đại sứ Ca-bốt Lốt, Ngoại trưởng
Mĩ Đa-lét, các tướng Tay-lơ, Nâu- tinh… cũng được điểm mặt chỉ tên và bôi
gio trát trấu.
Tú Mỡ, với kinh nghiệm của một nhà báo, đã khai thác thông tin địch
một cách mau lẹ. Chính vì vậy, “hầu như đủ mặt bọn tướng chỉ huy của thực
67
dân Pháp đã được nhà thơ “đóng đinh” lên bức tường lịch sử văn học trào
phúng với đủ bộ dạng và tính cách” [28,225].
Tú Mỡ chỉ ra phẩm chất nổi bật của tướng giặc: Tướng tá thực dân hay
đế quốc thảy đều huênh hoang, khoác lác. Tiêu biểu là tướng dòng dõi quý
tộc Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi. Nếu sư tử nó biết sự thật ở trận đồng bằng Bắc Bộ là
quan Pháp lo chạy thoát thân, quân quăng súng đầu hàng, thì nó sẽ tức giận
trước sự “gian hùng”, “xưng xưng” của tướng Tát-xi-nhi mượn xằng oai của
nó để rao to “Quân đội Pháp đánh hăng, chống cự/ Như một đoàn sư tử oai
linh”!
Tương tự, tướng Na-va là “đứa học trò tồi” của hắn Tát-xi-nhi cũng cố
báo ơn thầy bằng màn Na-va thắng trận bằng mồm:
Tuyên truyền, khoác lác bô bô,
Té ra thắng trận toàn do lỗ mồm.
Nà Sản bỏ trại, bỏ đồn,
Lùa quân thục mạng chạy dồn về xuôi.
Đầu trò kế hoạch rút lui,
Cũng là đại thắng, tức cười đến nôn!
Nắm bắt cả lời nói, thói quen của tướng giặc, Tú Mỡ chọn đó làm một
“cứ điểm” và rầm rộ mang đội quân tiếng cười đến mà mỉa mai, mà phê phán,
mà đả kích. Tát-xi-nhi thường hay nói đến danh dự - thói quen của quý tộc
Pháp – và hô hào “theo ta, ta dẫn đường danh dự”. Danh dự đó được Tú Mỡ
sắc sảo chỉ rõ cái “danh dự nhà ông” chỉ là “xoàng”, là “sỉ nhục”, là sự “sút
mấy lần”, là “hèn nhát tệ”- cuối cùng chỉ là “sáo mép thôi”. Bởi ông ta:
-Làm tôi lũ thực dân ô trọc
Cầm quân phi nghĩa đánh nhau thuê.
-Mà nào đánh chác có nên thân
Bao phen xuất trận bao phen bại.
-Con chết, ông lo làm quốc lễ
Bạn đồng ngũ chết, ông thây kệ.
(Con đường danh dự của Tát-xi-nhi)
68
Ở trên, Tú Mỡ châm biếm tướng giặc bằng cách dùng “gậy ông đập lưng
ông”, lấy lời lẽ của chúng đánh lại chúng. Tú Mỡ còn châm biếm chúng bằng
cách lật tẩy con đường “rút lui trong danh dự” của kẻ bại tướng. Sự thất bại
thảm hại của Tát-xi-nhi trên chiến trường Việt Nam được kể vui bằng “Câu
chuyện “tướng đi ỉa””, vì thua mà không dám nhận là thua nên phải… bị kiết
lị, phải “cắp đít về Tây… ị”! Trước khi chết vì bị “tam khí” (hai lần thua đau,
con trai chết trận) như Chu Du ức mà chết, hắn “dối dăng dối dít” với tướng
Sa-lăng là phải giữ được Hòa Bình, thì Tú Mỡ vạch mặt:
Những thằng mặt ngựa đầu trâu
Còn danh dự chó gì đâu mà rằng!
(Dối dăng và thề thốt)
Tướng Pháp, từng tên một, hết Sa-lăng bị thải hồi lại Na-va bị thải hồi.
Chúng bị Mĩ chửi, Tây la, phải vờ giả điếc và chây mặt ra mà phớt. Còn Tú
Mỡ, ông không bỏ sót một sự việc nào, luôn có thơ cười vào tận mặt chúng!
Đối với bọn đầu sỏ đế quốc Mĩ, nhà thơ trào phúng đả kích từ chóp bu
trở xuống. Bao nhiêu đời tổng thống Mĩ là bấy nhiêu kẻ hiếu chiến và lừa dối.
Tú Mỡ bêu riếu bộ mặt hãm tài của Ai-xen-hao Tổng thống Mỹ tên hèm là
Ách/ Tên tuổi gì như cái đếch người ta!... (Ách). Ken-nơ-đi là kẻ Lừa dân dối
chúa, hắn “Chực đẩy loài người kề miệng hố/ Thử bom nguyên tử, lẩn tài
binh”. Tổng thống Giôn-xơn được goi là “tổng côn đồ”, bởi Chính danh thủ
phạm là thằng Giôn-xơn “Quán quân về giết người/ Lật lọng và bịp đời/ Ăn
gian và nói dối/ Nó đểu nhất trần ai”.
Đối với tổng thống Giôn-xơn, Tú Mỡ có sự “biệt nhỡn”. Ông kể những
Triệu chứng bệnh chó dại ở Giôn-xơn là mất ngủ, mơ hoảng, đau đớn quặn
thắt, hay hoảng hốt… do bị thua đau ở Triều Tiên, Việt Nam. Hắn như “khỉ
độc”, là Tổng Khẹc làm trò tườu cũng giỏi luận điệu tuyên truyền nhảm tin
bại trận to thành thắng trận to (Để vỗ về quân, với mặt mình/ Tổng Giôn
thưởng tướng với khao binh/ Người ta bịt mũi xua tay bảo/ “Đừng giở trò
tườu, thối thối inh!”) Cho nên, Tú Mỡ miêu tả Bộ ngũ quan của Tổng Giôn
69
là của loài phi nhân: mắt tráo trâng như đui, tai chích chích chi chi như tai lòi,
mồm là cái lỗ ăn gian nói dối, mũi chỉ thấy hơi đồng, tay bạch tuộc chuyên
giết người!
Đả kích từ chóp bu xuống, Tú Mỡ không bỏ qua bọn người dưới trướng
những Tổng thống lừa dân dối Chúa, khát máu hiếu chiến ấy. Đó là một loạt
các tướng quan bất tài, khoác lác, hèn nhát. Căm ghét tột bực, Tú Mỡ tỏ ra
đáo để khi Đổ bình vôi vào mồm Đa-lét (phương pháp “thủy thui” trong dân
gian để trừ tà) - ngoại trưởng Mĩ chuyên gieo rắc thù hằn chiến tranh để buôn
xương bán máu, lái súng làm giàu, là quái đản hung tinh của hòa bình thế
giới. Tướng Tay-lơ là “ranh tướng” làm thượng sứ ở Sài Gòn, cũng một luận
điệu như Na-va tuyên bố sẽ bình định miền Nam trong thời gian ngắn (“Ranh
tướng” Tay-lơ). Đại sứ Ca-bốt Lốt cũng chỉ là Đại sứ “nhất ì nhì xéo” ở Việt
Nam thôi (Sĩ bị chui rồi còn để tiếng/ Nhất ì nhì xéo mặt tài ranh…!)Tú Mỡ
giễu cái tên của tướng giặc này như một tín hiệu của kẻ thua… quay lơ:
Nhắn bảo thằng Ken cho nó biết:
Tay-lơ một vận với “quay lơ”.
(Tay-lơ cùng với “quay lơ” một vần)
Dưới trướng những tướng quan như thế, quân lính Pháp và Mĩ rất vô kỉ
luật và thảm hại. Tú Mỡ có nhiều thái độ khác nhau với đối tượng này: căm
hận đối với bọn lính hung bạo; thương hại bọn tù binh vốn bị bắt đi lính cho
Pháp đang hối cải; ủng hộ tinh thần phản chiến của binh lính đối với chiến
trường Đông Dương,…Nhưng về bản chất, Tú Mỡ khẳng định, lính Pháp
cũng như lính đánh thuê, thảy đều là quân cướp nước, mang đạn bom đi… giữ
hòa bình thế giới:
Binh lính chúng, những đồ mất dạy
Đi đến đâu đốt cháy xóm làng,
(Sủa càn)
Tú Mỡ nhổ toẹt vào luận điệu tán nhăng bịp đời của bọn thực dân gọi
bọn lính lê dương là “Chiến sĩ tự do” của thực dân:
70
Những thằng mũ đỏ bất lương
Đầu trâu mặt ngựa, rặt phường du côn.
Chính lính Tây cũng không được coi ra con người! Du kích Gia Lâm
đánh vào chùa Tiêu, giết được hai lính Pháp, thì ngay hôm sau giặc sục vào
làng, bắt thầy địa lí làm con tin, và đòi dân làng trao đổi:
Đền bù hai mạng Tây to
Nộp cho chúng đủ hai bò, mười kê…
…Đó xem ra khẩu khí thực dân
Đầu trò chỉ cốt miếng ăn
Có coi cái mạng thằng quân ra gì.
(Mạng thằng Tây)
Bọn Việt gian gọi nịnh lính Tây là “quan lớn”. Chúng thực ra là một lũ
hèn và đói khát: hai “quan kinh lí trong vùng/ đâu có gà vịt thời lùng về xơi”,
bị du kích mai phục, thì giơ tay “Thôi thôi! Quan lớn xin hàng! Thôi thôi!”
(Quan lớn xin hàng). Chúng vừa tàn ác dã man, vừa vô quân luật, đang trong
thời kì “nước mẹ nó điêu linh”, nên thua trận liên tiếp đến nỗi xác lính không
còn chỗ chôn (“Nghĩa địa ấy nay đà chật đất/ Không đủ nơi chôn cất xác
Tây” – Chật đất).
Tú Mỡ có riêng một bài Lính Mĩ, cho thấy quân đội Mĩ rặt “bị thịt”, chỉ
giỏi lên mặt với bọn ngụy, tề, chạm quân du kích thì “nổi sái kinh” và “tiến
rất màn màn, rút rất nhanh”. Tinh binh này là “lính công tử bột”:
Đánh chẳng bằng ai, sự đã đành,
Tinh thần “Tứ khoái” lại lừng danh,
Ăn không bít tết sao trôi họng,
Ngủ chẳng bindinh khó ngả mình…
Hùng binh Mĩ xứng danh những người tiêu biểu cho một thế giới tự do,
một đế quốc đô la và bom nguyên tử, đã dám chửi đổng bộ sậu Giôn-xơn –
Mắc-na-ma-ra mỗi lần thua trận:
71
Tiên sư bố lũ mất tông!
Bay làm khốn khổ chúng ông thế này!
Đưa chúng ông đến nơi đây,
Trời cao La Sát, đất dày Diêm Vương.
Đâu đâu cũng thể chiến trường,
Không tiền tuyến, chẳng hậu phương, rối bù!
(Lính Mĩ chửi đổng)
Qua những bức chân dung biếm họa về bọn đầu sỏ và tướng tá, binh lính
thực dân, đế quốc, Tú Mỡ không những phản ánh chân thực bản chất của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, mà còn thể hiện được lòng căm ghét chúng, căm
ghét chiến tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bộ
mặt những tên đầu sỏ và tướng tá, binh lính Pháp, Mĩ xâm lăng đều là “đầu
trâu mặt ngựa”, mất nhân hình và nhân tính, dù chúng cố dùng thủ đoạn bẻ
cong dư luận và che giấu sự thật. “Những vần thơ trào phúng của Tú Mỡ theo
sát những luận điệu tuyên truyền gian dối của địch, những hành vi khốn nạn
của nó, lấy cái cười mà phỉ nhổ vào cái chính phủ phản động của địch, vào
các tướng tá của nó… Tú Mỡ ứng biến rất nhanh, gỡ ngay những cái tốt mã
dẻ cùi của địch mà vứt đi, để lòi ra cái thối nát ghê gớm của địch” [6,208].
2.2.2.2. Việt gian và bọn bù nhìn
Với bọn Việt gian và bù nhìn bán nước, ngòi bút đả kích của Tú Mỡ càng
sắc sảo. Ông trút thái độ khinh bỉ, sự căm giận tột cùng lên chúng (Quái thai,
Chính phủ bù nhìn). Bởi chúng sinh ra trên đất nước này, nhưng lại là bọn bán
nước, buôn dân, cùng với giặc đẽo xương, rút ruột, bóp hầu nhân dân. Đầu trò
bù nhìn là ông cựu hoàng Vĩnh Thụy, mong dựa vào Pháp dựng lại ngai tàn:
Nực cười Vĩnh Thụy, Bô-la,
Một đôi đĩ bợm giao hòa cùng nhau…
…Nay mai sắp trở về nhà,
Đẻ ra “chính phủ quốc gia bù nhìn”.
Lũ bè “chính trị ăn xin”,
Đang nghển cổ nhìn, đón đỡ quái thai.
(Quái thai)
72
Rồi Bô-la-éc bố mìn
Lập ra chính phủ bù nhìn Trung ương.
Đầu trò Vĩnh Thụy làm Vương,
Sáu Xuân làm tướng, với phường tay sai.
(Chính phủ bù nhìn)
Tú Mỡ không chỉ vạch mặt những tên vua bù nhìn, mà còn mỉa mai đến
tận gốc rễ trò bán nước của chúng. Đối với Vĩnh Thuỵ, Tú Mỡ như một người
“tọc mạch” kể lể hết từ việc ông ta ăn bánh mì Tây, học trường Tây từ thuở
lên mười, lớn lên lại được Tây cưới vợ cho. Tú Mỡ phải kể thế để mọi người
rõ như ban ngày vì sao Vĩnh Thuỵ cam tâm làm chó giữ, chim mồi cho Tây.
Còn Bảo Đại là ông vua lo “hai mắt đăm đăm nhìn xa như trông vời cố quốc,
vẻ mặt đượm một nét buồn sâu sắc!” (Tâm sự ông vua lo). Bảo Đại từ Hồng
Kông sang Pháp để “chữa mắt rồng”, kì thực là để tìm cơ hội dựa dẫm Pháp.
Tú Mỡ nhìn thấy bệnh của tên vua bù nhìn ấy bị “màng kéo mịt mù, thong
manh, quáng gà” nên không nhận ra “giặc hoành hành dã man”, “nhìn thực
dân Pháp hóa ra bạn hiền” (Chữa mắt rồng). Tú Mỡ lại tố cáo thêm một lần
nữa: sự thật của chuyến sang Pháp đấu tranh vì độc lập là Bảo Đại đi ăn chơi,
đánh bạc, thua ba triệu phơ-răng:
Hôm sau tờ báo “Tốc hành”
Đăng tin sòng bạc ở thành phố Can
Mới thêm con bạc cóc vàng
Cựu hoàng Bảo Đại, cũng làng tay chơi
Mùng 2 tháng 8 vừa rồi
Đã nướng một hồi ba triệu phơ-răng.
(Thằng ngốc phân trần)
Nhà thơ trào phúng nhận xét rất thẳng thừng mối quan hệ giữa bù nhìn
với thực dân. Thực dân Pháp chỉ coi Vĩnh Thụy như con bài, hết giá trị sẽ loại
đi ngay. Tú Mỡ nhìn trước sự thật ấy, ông lạc quan vẽ ra Tương lai của Vĩnh
Thụy khi Pháp đá đít: xoay nghề đĩ đực, giở nghề quảng cáo thuốc đau mắt,
73
thuốc lậu giang của An Nam hoàng đế, làm nghề người gỗ rao hàng thợ may
nhờ tấm thân giẻ cùi tốt mã. Còn với cựu hoàng Bảo Đại, Tú Mỡ nói thẳng
thân phận của Bảo Đại chỉ như con chó săn cho Pháp (Bảo Đại với con chó
cái). Tệ hơn, Bảo Đại chỉ là Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi mà “hết săn, riềng mẻ
hết đời gâu gâu”, vì bản chất của hắn là “Do quân cướp nước nặn lên/ Để yên
thì đứng, bỏ liền quay lơ/ Chủ Tây bảo lắc, lắc bừa/ Thầy Mĩ bảo gật, gật như
đầu chày”.
Tú Mỡ không báng bổ quàng xiên, ông có căn cứ khẳng định: Cả Vương
lẫn tướng của cái chính phủ ấy đều là lũ mất tông, “Tiếng mẹ đẻ nói không
thông/ Còn chi thương xót giống dòng Việt Nam”.
Trong bài thơ Việt gian cẩu trệ, Tú Mỡ kể tên một loạt bọn cầm đầu Việt
gian là Phạm Văn Bính, Vũ Hồng Khanh, Phạm Văn Giáo, Nguyễn Huy Lai,
Nguyễn Đệ, Nguyễn Văn Tâm và khẳng định đó là giống chó duy nhất “phũ
phu con chó”. Cùng phe cánh chúng còn có Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn
Hữu, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Hữu Chí,… là lũ rước voi rày mả tổ. Nguyễn
Đắc Khê tại Hội nghị Giơ-ne-vơ ăn nói hàm hồ về tư tưởng bảo hoàng đã bị
người ta bôi gio trát trấu vào mặt (Đại biểu bù nhìn Việt gian ở Gio-ne-vơ).
Bảo Đại và thằng Tâm là hai thằng ăn cắp, chúng đặt đủ thứ thuế thối tha, vô
lý, ngược đời ở vùng tạm chiếm để xoay tiền: thuế xia, thuế béo, thuế bảo
trinh, chứa thổ, đổ hồ (Hai thằng ăn cắp). Có lúc, Tú Mỡ phẫn nộ hét lên Vạc
mặt thằng đốc phủ Tâm, Đá vào mõm thằng chó Tâm. Nhân “Đại hội quốc
gia” của bọn bù nhìn Việt gian họp ở Sài Gòn (1953), Tú Mỡ gom chúng lại
mà kết tội:
Đầu trò thằng đốc phủ Tâm,
Làm trùm mật thám bất nhân, quên nòi.
Thằng dối chúa, lừa đời, phản đạo
Lê Hữu Từ, khoác áo thầy tu;
Lại tên Đình Diệm họ Ngô,
Xưa kia phò Nhật, cũng đồ khuyển ưng.
74
Tên Bảy Viễn là thằng tướng cướp,
Nay về hàng giặc Pháp nương thân;
Thay thầy đổi chủ ba lần
Thò lò sáu mặt là Trần Trọng Kim.
(Đại hội … phản quốc gia)
Pháp bại. Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, dựng chính phủ bù nhìn. Nhà thơ
trào phúng chửi cái “trò đời bay… chó thật” vì các đời chính phủ bù nhìn thân
Mĩ đều một bản chất Quan chó cả:
Văn minh Mĩ mẽo nhất trần gian,
Chó cũng làm nên thượng sĩ quan.
Lủng lẳng cổ dề đeo thẻ bạc,
Long lanh vai áo gắn lon vàng.
Đầu tiên, Mĩ dựng lên Ngô Đình Diệm làm Tổng thống đứng đầu chính
phủ bù nhìn miền Nam Việt Nam. Nhà thơ Tú Mỡ khi đánh địch “đã tìm thấy
sự thống nhất giữa chất trào phúng và mục đích đả kích, cái cười đã thật sự
thành vũ khí đánh địch.” [28,262]. Nếu trong Giòng nước ngược, chân dung
các ông nghị khiến Tú Mỡ chảy nhiều mực nhất, thì trong giai đoạn sau này,
Ngô Đình Diệm là tấm chân dung khiến Tú Mỡ tốn nhiều câu chữ nhất. Tú
Mỡ gọi ngay ông ta là Ngô Đình Diệm bù nhìn thứ 8:
Kể từ đầu kháng chiến đến nay
Những đồ tã ấy đã thay vừa bảy lượt.
Thằng Bửu Lộc nhớp nhơ nay bị tướt,
Chúng đã lôi Ngô Đình Diệm lên thay,
Và rêu rao quảng cáo tên này
Là một cái tã trắng tinh, sạch bốp!
Và hắn – Ngô Đình Diệm- chó săn của Mĩ - hô hào lừa bịp “thống nhất,
tự do, độc lập, không nô, dân sinh, cách mạng”; nhưng bản chất hắn là nô
dịch, vong quốc:
75
Cách gì cái đứa bất nhân
Nửa đời làm đến ba lần chó săn,
Bao giờ con chó chê phân,
Thì thằng Diệm mới vì dân quên mình.
Tú Mỡ biếm họa Diệm từ chân dung cho đến việc làm, bản chất. Ông
đánh giá Diệm là Tổng thống bài Tây lên ngôi, Choảng khỉ độc, Ngu xuẩn và
vô sỉ, Bố mìn Ngô Đình Diệm, Con trăn Ngô Đinh Diệm, Mồm mép cáo già
cứ nước ba mà nói, Đả đảo Ngô Đình Diệm... Diệm là kẻ Thừa Thiên Lôi,
hành đạo… tặc. Tú Mỡ vẽ chân tướng Ba bộ mặt của Ngô Đình Diệm: Diệm
bố mìn lừa dân là Chúa vào Nam để dân theo, Diệm đồ tể lập ban ám sát
chuyên môn giết người, Diệm ăn cắp cho bọn tiểu yêu trước khi xéo về miền
Nam xoáy hết nào bóng đèn, máy chữ, điện cơ… Cùng một giuộc với Diệm là
bọn Nhu, Xuân, Thục. Nhà thơ Tú Mỡ Tức cảnh gia đình Ngô Đình Diệm bù
nhìn tay sai ấy trong cảnh Thống Diệm cầu kinh, vơ vét, cảnh thím Nhu buôn
bán đảm và cảnh Ngô Đình Thục lái gỗ, tất cả đều bẩn thỉu. Trần Lệ Xuân tổ
chức “Nữ quân đội cuốc ra” để làm trò giải trí cho lính Mĩ, thật xứng đáng là
“đệ nhất ma cô”. Ả được “giương danh giá… của bà to” trong Tứ đại của bà
lớn có bốn cái nhất: bọng to để ních bẫm, mặt to để trơ hơn thớt, miệng to để
xui phụ nữ đăng lính, “nhân vị” to để ngoại giao “ngày đêm khăng khít bợ cơ
đồ”!
Nhà thơ trào phúng - người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hoá - bám
sát đối tượng Việt gian để bêu gương và đả kích chúng. Sau đảo chính lật đổ
gia đình trị Ngô Đình Diệm là một loạt các tổng thống ngụy khác lên thay. Tú
Mỡ khoái chí khi khám phá ra Tài kinh bang tế thế của Tổng Thiệu là gì, đó
là: chứa thổ, đổ hồ, buôn nước:
Chứa thổ, đổ hồ là tế thế,
Lần lưng, móc túi, ấy kinh bang.
76
Tú Mỡ đặt tên cho cặp bài trùng bán nước Thiệu và Kì, vốn bằng mặt
nhưng không bằng lòng nhau, luôn tìm cơ hội cắn vào cẳng nhau, là Song
bợm kì duyên:
Miền Nam có đôi tổng tài,
Thứ nhất Chánh Thiệu, thứ hai phó Kì.
Chánh Thiệu lợm lợm lì lì,
Chọi với phó Kì ngổ ngổ ngang ngang.
Khuyển ưng cùng một họ hàng,
Cùng làm thủ hạ ngoại bang Huê Kì.
Tưởng rằng tương đắc tương tri
Mặt thì hòa hợp, dạ thì ghét ghen.
Tú Mỡ bẻ gãy nhiều luận điệu xuyên tạc tráo trâng của ngụy bù nhìn:
chửi Tướng Nguyễn Cao Kì (thơ Tú Mỡ gọi là Cao Cầy) tự nhận mình là “bạn
của dân nghèo” trong khi hắn ăn chơi sa đọa, giết chóc đồng bào, hắn là
“thằng chó đẻ, văn hóa cóc khô, óc đểu giả, xuẩn quá chó cộc” (“Cao Cầy”
với văn hóa); vì thế mới có chuyện Nhân dân Nhật cấm cửa Nguyễn Cao Cầy.
Các tướng ngụy cũng được tạc bia để đời bằng thơ Tú Mỡ: Tướng Hoàng
Xuân Lãm “con người hùng” thua trận “chạy rống bái công” khỏi Trị Thiên
đến nỗi “Không ngờ Thiệu cách cổ/ Làm hết nghề nói ngông.”; Tướng Vũ
Văn Giai – tướng không có quân vì “Trị Thiên thua chạy vãi… ra quần”!
Để đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước, Tú Mỡ dùng tiếng
cười trào phúng bẻ gãy nhiều luận điệu xuyên tạc, lừa mị nhân dân của ngụy.
Chúng phá nhà dân, uống rượu say đập cả vò của bà cụ già, bắt gà, rình mò
hãm hiếp con nhà lành, lúc làm “công tác dân vận” thì đòi kiểm thảo nhau,
mỗi đứa đều tố đứa kia có tội, thế là Lớp tuồng dân vận khôi hài đã lột mặt nạ
chúng ra. Khu trù mật mà tổng Ngô quảng cáo phải bắt cóc, dồn dân đến, thực
ra là khu cá chậu chim lồng, để bóc lột và hiếp đáp dân dễ dàng hơn:
“Trù mật” trá hình trại tập trung
Dân như cá chậu với chim lồng,
77
Khi cần, Mĩ- Diệm quờ tay tóm,
Đi lính, đi phu để… “cộng đồng”
Chúng mười một, mười hai lượt đảo chính đảo tà ở miền Nam, chứng tỏ
chính phủ bù nhìn đã vô cùng thối nát (Tà lại đảo tà).
Tú Mỡ đánh giặc bền bỉ trên mặt trận văn chương bằng tiếng cười sắc
sảo như thế. Ông cũng hướng tiếng cười đến nội bộ nhân dân và cán bộ chiến
sĩ trong kháng chiến, và đó thường là tiếng cười bè bạn, hả hê, tiếng cười
đồng minh, nếu có phê phán thì cũng là để cùng tiến bộ.
2.2.2.3. Tiếng cười trong nội bộ
Những bài thơ mang tiếng cười nội bộ không nhiều và mục đích của
chúng cũng khác với những bài thơ đánh giặc. Đối với những câu chuyện
khôi hài trong nội bộ, tiếng cười Tú Mỡ là tiếng cười góp vui, tiếng cười bè
bạn. Đối với những vấn đề cần đấu tranh trong nội bộ, tiếng cười Tú Mỡ
nhằm chữa bệnh cứu người, có mục đích xây dựng với thái độ thẳng thắn và
chân thành.
Khôi hài là phẩm chất thể hiện hàng ngày trong đời sống Tú Mỡ, đúng
như lời vận động trong Cười đi thôi! của ông. Đã có lúc, thơ Tú Mỡ hài hước
tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình. Việc sinh con đẻ cái trong thời kì trước
được Tú Mỡ nhìn thật tếu mà chân thực:
Trai mười sáu, gái mười ba,
Cụ Tơ đã kết nên bà, nên ông.
Rồi, nhờ bà Mụ ra công,
Đẻ vung đẻ vãi, con bồng con mang.
Bây giờ chật đất nước Nam,
Các ngài hãy tạm màn màn, dừng tay!...
(Ông Tơ, bà Nguyệt và mười hai bà mụ… sang Tây)
Sau khi miền Bắc hòa bình, Tú Mỡ lưu tâm đến những vấn đề cần đấu
tranh trong cuộc sống để xã hội tốt đẹp lên. Hiện tượng “Mỗi người làm việc
bằng hai/ Để cho cán bộ mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng ba/ Để
78
cho cán bộ xây nhà xây sân”, hiện tượng nông thôn ấu trĩ, làm nhiều hưởng
ít… trong một thời gian dài không được nói đến, nay đã có nhiều tác phẩm
văn học công khai (Thời của thánh thần của Hoàng Minh Tường, Mảnh đất
lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường…). Có điều, ở miền Bắc khi
hoà bình lập lại, người phê phán và người bị phê phán không ở hai chiến
tuyến đối lập rõ rệt như ta và địch thời kì kháng chiến nữa. Cho nên, tiếng
cười trào phúng của Tú Mỡ không đích danh hướng đến một đối tượng nào
cả. Nói cách khác, cái đáng cười thì rất cụ thể nhưng kẻ bị cười thì khá chung
chung. Tại sao lại không tìm thấy một ông A, ông B hay bà C có tên tuổi đàng
hoàng bị phê phán, đả kích “đến nơi đến chốn”? Phải chăng, Tú Mỡ cho rằng
những cái xấu ở thời điểm đó mới đáng châm biếm và chưa đến mức phải đả
kích? Hoặc giả nhà thơ đã có tuổi và đã nhụt ý chí xông pha thuở xưa? Chúng
tôi cho rằng, mỗi thời kì lịch sử có một yêu cầu sáng tác riêng và mỗi nhà thơ
trào phúng buộc phải chọn cho mình một cách “đánh giặc” an toàn và phù
hợp. Điều đáng quý là “đòn bút” Tú Mỡ vẫn mạnh, đã đánh là trúng. Đương
thời, năm 1957, Tú Mỡ đã đả kích kiểu Lao động lỗ miệng của những kẻ quan
liêu, chỉ thúc đẩy anh chị em “làm cho hăng, cho dẻo, cho dai”, mà chính bản
thân thì ươn lười “mó lao động, sợ nhoài hơi, nhọc xác”. Nói cách khác thì họ
lợi dụng chức vị của mình để đoạt lợi khi hô hào người khác lao động sản
xuất theo phương thức lao động xã hội chủ nghĩa:
Lao động ta có hai chính thống:
Lao động trí óc và lao động chân tay.
Nhưng trong kì học tập mới đây
Lại khám phá thêm hạng này không được đẹp
Là loại lao động chỉ “dạy” bằng cặp mép
Phát sinh ra từ tàn tích quan liêu
Hạng lao động này con số kể không nhiều
Nhưng lại vào bậc kiêu mới chết!...
… Họ được thể ngồi cao ngất ngưởng
79
Dưới nể nang chẳng dám phê bình,
Nên cứ nằm dài trên võng danh lợi rung rinh,
Rất thoải mái tự mình không biết ngượng.
Điều đó có nghĩa là, nhà thơ trào phúng không thiên vị Tây hay ta, cứ ở
đâu có thói hư tật xấu, ở đó có tiếng cười Tú Mỡ. Ngay cả các ông quan, tự
cho mình là công thần kháng chiến, lại tự cho mình quyền tọa hưởng, Tú Mỡ
bảo rằng họ rất “chướng”, và tất nhiên họ phải… chừa! Cũng phê phán thói
hưởng lạc “Đội mũ ni che tai/ Việc đời thây kệ cả”, Tú Mỡ không tán thành
người được “ngoáp” chiếc lương to rồi thì chỉ còn biết ăn, chơi, ngủ và làm
bạn với non bộ:
Người ta khi phú quý
Càng phải phấn tâm trí
Anh mới nếm phong lưu
Cớ sao vội chết gí!
(Ông cụ non)
Lối sống như thế, ngày nay không phải hiếm. Chẳng những vậy, không ít
người mong được sống lối sống thảnh thơi ấy. Quan niệm riêng của Tú Mỡ về
lẽ sống lại một lần nữa được hé lộ với bạn thơ qua cách đánh giá của ông đối
với hiện thực trên: sống là cống hiến và có ích đến tận hơi thở cuối cùng. Có
lúc, Tú Mỡ cũng giao đãi với anh em văn sĩ cầm bút bằng kinh nghiệm bản
thân: phải bám sát thực tế để sáng tác:
Nguồn văn cạn, ý thơ cằn
Nặn thơ tưởng tượng, ngoáy văn mơ hồ.
Đẻ ra tác phẩm trái mùa
Sách in chẳng mấy ai mua
Chán đời!
(Chuẩn bị lao vào thực tế)
Cũng có khi tiếng cười Tú Mỡ nhẹ nhàng bình phẩm những cái hợp và
chưa hợp với thời đại mới. Bài Thầy bói phản tỉnh là tiếng cười rộng lượng và
80
phấn khởi tán thành việc thầy bói Lượng bỏ nghề “bắt nọn, bịp lừa vô tội vạ”
sang “lao động để lợi dân, ích quốc”; bài Cải tiến vài câu chúc Tết là tiếng
cười vui hóm hỉnh sửa những lời chúc “tiến chức thăng quan, nhất bản vạn
lợi, đẻ toàn con giai…” thành “tiến trong công tác, buôn may bán đắt, sinh hai
nuôi tốt…” cho đúng với tinh thần mới… Tú Mỡ có những bài hoạ với bạn
thơ của mình, cười về nhau, về nỗi lo cơm áo của khách thơ (Hoạ bài thơ
“Món nợ văn chương”), về chuyện gia đình của nhau (Mừng Xuân Diệu lấy
vợ)… vừa là những câu chuyện cá nhân, vừa là những vấn đề xã hội, nên
chúng tôi cũng xếp vào loại tiếng cười trong nội bộ.
2.2.3. Tự trào
Thơ tự trào có đối tượng là chính bản thân nhà thơ Tú Mỡ. Đây là bộ
phận tác phẩm có giá trị trong sự nghiệp của nhà thơ trào phúng này. Thơ tự
trào của Tú Mỡ thể hiện cái vui hóm trời sinh. Hầu như các nhà thơ trào
phúng đều có thơ tự trào, dường như họ đều có nhu cầu trau dồi bản thân,
dường như họ thẳng thắn thẳng thừng với tất cả, dường như tiếng cười của họ
có ở mọi nơi mọi chỗ. Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Vỹ…
đều có thơ tự cười vẻ ngoài của mình, cười sự nghèo của mình, Tú Mỡ nhiều
phen tự họa:
Ở sở Phi năng có một thầy
Người cao dong dỏng, lại gầy gầy
Mặc thường xoàng xĩnh, ưa lành sạch,
Ăn chỉ thều thào, thích tịnh chay…
Bởi tính ngang phè như chánh bứa,
Già đời chẳng được cái mề đay.
(Tự thuật)
Cái bút danh của nhà thơ thoạt nghe “tưởng béo xù” nhưng lại trái ngược
hẳn với dáng người gầy gò, mỡ mà chẳng mỡ! Chân dung Tú Mỡ là chân
dung một bộ phận trí thức, công chức mới của nhà nước nửa đầu thế kỉ XX
nghèo kiết, cả đời vật lộn mưu sinh, không ham hố công danh giả hiệu trong
81
cảnh nô lệ. Tự trào như thế cũng đủ để châm chích những kẻ ham hố danh
vọng ảo tưởng, dở tây dở ta của chính phủ bảo hộ thực dân. Anh công chức sở
tài chính làm công ăn lương cho Pháp ấy, hóa ra lại là người khẳng khái,
không ham hư danh, không cố mà xin lấy cái mề đay để “chộ” thiên hạ:
Tôi tự xét tôi đứa bất tài,
Công danh, sự nghiệp chẳng bằng ai,
Chỉ biết đi, về ngày bốn buổi,
Cuối tháng lĩnh lương mang về nhai.
(Mề đay)
Những bài thơ như Tú Mỡ ra ứng cử và Chương trình của Tú Mỡ là
những bài Tú Mỡ lấy mình ra để bông đùa nhằm đả kích giới nghị gật, nghị
hề, đủ thấy nhà thơ là người hóm hỉnh trong đời thường, không kiểu cách làm
cao. Bài thơ Tú Mỡ đi xe “bình bịch” thú vị từ nhan đề đến nội dung tự trào,
tự trào mình cũng có lúc “bóp còi toe như quát tháo dương vây”, và thấy thói
đời cứ hay khủng khỉnh với người hiền:
Tú rửng mỡ cưỡi xe “bình bịch”,
Máy nổ vang trời, xình xịch như bay.
Bóp còi “toe!” như quát tháo dương vây,
Bên đường cái, khách giãn ngay tăm tắp,
Tú nghĩ lại khi còn đi xe đạp,
Một thứ xe chậm chạp , hiền lành
Trên đường đông, dù chuông bấm thất thanh,
Người đủng đỉnh vẫn làm thinh không chịu tránh.
Thế mới biết rằng người xưa xấu tính,
Thấy ai hiền thường khủng khỉnh ngạo chơi;
Kẻ có quyền tác họa ra oai,
Mới có thể khiến người đời khiếp phục.
Ồ ngán nhỉ! Ở trên thế tục,
Con người ta bất độc, bất anh hùng!
82
Nhà thơ Xuân Diệu rất thích nhan đề bài thơ, cho rằng từ “rửng mỡ” với
“bình bịch” tạo nên một hợp âm nhịp nhàng giữa cái cơ thể phục phịch nhiều
mỡ với âm thanh “bình bịch” của cái xe đang chạy. Cơ thể ấy cứ rung rinh,
phình phịch lên xuống theo nhịp xe “bình bịch”. Ở thời đó, người có xe “bình
bịch” mà đi phải là người có tiền. Có tiền ắt phải có quyền. Và tâm lí người
Việt thì xưa nay vẫn sợ kẻ có tiền và có quyền. Có lẽ tâm lí đó không chỉ
người Việt mới có, mà nó ở mọi đất nước vẫn đang tồn tại những bất công và
phân hóa xã hội sâu sắc. Cứ thế, ở nhiều bài thơ như bài thơ này, Tú Mỡ kể
chuyện mình mà hoá ra chuyện người, chuyện nhiều người, khiến ta thực sự
suy nghĩ sau tiếng cười ý vị. Tú Mỡ nhận thấy sức mạnh của tiếng cười rất to
lớn, vì thế có lúc ông cả cười để kêu gọi mọi người Cười đi thôi…!
Đời người mấy chốc, chị em ơi!
Ủ rũ làm chi, sống cũng hoài!
… Khóc than vô ích can chi khóc,
Cười ngất làm vui,cứ việc cười.
Muốn cuộc sinh tồn hăng hái mạnh,
Cười lên ha hả!! Cười đi thôi!!
Bởi có tố chất trào phúng, nên nhà thơ mới có thể gắn bó với dòng thơ ca
nhiều thách thức này như thế. Và không hiếm khi bạn bè (Vũ Đình Liên) hỏi
ông làm sao để lạc quan, để “hết chán đời”, Tú Mỡ hồi đáp bằng Lạc quan:
Bạn thấy tôi là một anh chàng rửng mỡ
Suốt quanh năm chỉ hớn hở vui cười…
…Con đường đời tôi mới qua một phần ba
Mà thế vị đã nếm qua nhiều tân khổ…
…Nhưng phúc đức! Tôi đã mau tỉnh ngộ
Bao nhiêu nỗi sầu bi trút bỏ ngoài lòng
Tôi chẳng mơ màng, chẳng nghĩ ngợi viển vông
Ước vọng những cái gì không đáng ước…
83
Trong những vần thơ tự trào, nhà thơ thể hiện quan điểm sống của mình
khá rõ ràng: tính vui, hay cười như phá, ghét kẻ chui luồn, kẻ quắt quay, hay
xiên xỏ những gì gai mắt, ăn ở cũng hay hay, yêu người chân thật, yêu người
hào hiệp… Bởi thế, Lên lão sáu mươi mà vẫn còn “duyên dáng của tuổi trai,
sức hăng hái của những người tiền tuyến”. Lên lão mà nhà thơ vẫn tinh thần
thoải mái, mạnh khỏe:
Đọc chữ chưa cần giương bốn mắt
Ra đường chưa phải ghép ba chân.
Tú Mỡ bị ốm một trận nhưng không chết, lại tán cho vui cười và quên
bệnh, tự nhận mình là “thằng bất tử”:
Hẳn trời phát cáu nên chơi xỏ
Vật tớ cho chừa thói viết ngông?
Phải biết thằng này là bất tử,
Trời mà bắt cóc tớ, không xong!...
… Tớ đủ khả năng chống lại ông…
Chỉ hễ khi nào tớ thấy muốn
Sẽ lên xe hạc phới tiên cung.
(Trời không vật được)
Nhà thơ cũng chính là đối tượng hí hước của chính mình. Mạnh dạn cười
mình là vì thấy mình phải lạc quan để sống đẹp với đời, và thấy mình cũng
còn nhiều tật xấu phải sửa nữa, hơn thế cười mình cũng là để nhạo đời đấy
thôi! Tuy nhiên, có những lúc do thời thế mà Tú Mỡ có những nhận xét về
thơ mình chưa thật đúng. Bài thơ Nhìn lại, cười mình viết năm 1959 đã thừa
nhận tập Giòng nước ngược “cố tình nuôi cái văn hoá ngu dân”, “chèo thuyền
chuệch choạc”, “có khi chệch hoá phang ta”, cười “bố choáng, lu bù”. Vả
chăng, Tú Mỡ viết vậy nhưng chắc hẳn đã nghĩ vậy, như Hoài Thanh đã từng
cố tình không nhận đứa con tinh thần Thi nhân Việt Nam của mình!?
84
Tóm lại, chúng tôi tổng kết vấn đề xoay quanh các đối tượng tiếng cười
trong thơ Tú Mỡ ở các điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, trước và sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, Tú Mỡ đều liên tục sáng tác, ở thời kì nào cũng
bám sát những đối tượng mang tính thời sự để châm biếm, đả kích. Đối tượng
tiếng cười mang tính thời sự đó là những ông quan tham, nghị gật, hủ tục mê
tín,… trước Cách mạng; là hàng ngũ quân, tướng thực dân Pháp, đế quốc Mĩ,
lũ Việt gian bán nước hay những thói tật còn tồn đọng trong nội bộ quân dân
ta,… sau Cách mạng. Thứ hai, ở đối tượng nào Tú Mỡ cũng có những bài thơ
“điểm trúng huyệt”, thu hút được tiếng cười rộ của đông đảo nhân dân. Nhà
thơ không hời hợt với đối tượng tiếng cười trong thơ mình. Ông luôn dò sâu,
xét kĩ từng đối tượng để lật mặt từng cái đáng cười (chẳng hạn, các ông nghị
có nhiều yếu tố đáng cười như tham tiền, ngu dốt, sa đoạ, hách,…). Thứ ba,
Tú Mỡ đặc biệt thành công trong những bức tranh biếm hoạ bằng thơ, thể
hiện biệt tài xây dựng chân dung nhân vật. Đáng chú ý là nhà thơ luôn “điểm
huyệt” được yếu tố điển hình nhất làm lộ rõ chân tướng nhân vật, làm bật ra
tiếng cười thú vị và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Thứ tư, chúng tôi cho
rằng sự chọn lọc đối tượng tiếng cười đã nói lên tính quần chúng, lòng yêu
nước của nhà thơ Tú Mỡ. Thứ năm, chúng tôi cũng nhận thấy, trong khi châm
biếm các đối tượng, đôi khi tiếng cười bật lên chưa đúng chỗ, có lúc từ ngữ
còn thô (tả tướng Nguyễn Cao Kỳ trong bài Cao Cầy với văn hoá). Tuy nhiên,
những hạt sạn này không hề làm ảnh hưởng đến giá trị của thơ trào phúng Tú
Mỡ nói chung cũng như nghệ thuật gây tiếng cười của nhà thơ nói riêng.
85
Chương 3
NGHỆ THUẬT GÂY TIẾNG CƯỜI TRONG THƠ TÚ MỠ
Trong thơ trào phúng, Tú Mỡ cố gắng tập trung và phát huy được bản sắc
dân tộc trong nội dung (đề tài, tư tưởng) cũng như trong hình thức biểu hiện
(nghệ thuật). Nét chủ đạo, xuyên suốt trong thơ trào phúng của Tú Mỡ là tính
chất châm biếm đạt tới một trình độ khá sắc sảo, nhạy bén và tinh tế, đạt tới
một mức độ phê phán gay gắt. Chúng tôi nghiên cứu nghệ thuật gây cười
trong thơ Tú Mỡ chủ yếu ở hai phương diện:hình thức thể loại và kĩ thuật
ngôn từ - được triển khai cụ thể như sau:
3.1. Vận dụng các hình thức nghệ thuật dân tộc
3.1. 1.Vận dụng các hình thức nghệ thuật dân gian
Khuynh hướng chung của thơ ca đầu thế kỉ XX là tìm tòi những hình
thức biểu hiện và những cảm xúc mới lạ. Trong khi Thơ mới đang chiếm ưu
thế với khuynh hướng tân thời ấy, Tú Mỡ sáng tác thơ trào phúng lại trở về
với hình thức nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống với lời ăn tiếng
nói của nhân dân, trí tuệ của nhân dân. Chính vì thế, Vũ Ngọc Phan gọi thơ
Tú Mỡ là một dòng thơ cũ chảy róc rách, nước thật ngọt ngào, vì nó là thứ
nước của nguồn xưa mà người Việt Nam quen uống từ lâu. Các thành phần
trong văn học dân gian như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, vè,... chèo, hát xẩm,...
và cả các thể văn thơ truyền thống mà Tú Mỡ tìm hiểu trong cuốn Việt Hán
văn khảo (Phan Kế Bính biên soạn) ngay từ khi là học sinh trường Bưởi đều
được tác giả sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
3.1.1.1.Vận dụng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, ngụ ngôn, truyện cười, tiếu lâm
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tiếu lâm, ngụ ngôn... vào văn
học viết không phải là sáng tạo riêng của Tú Mỡ. Lời ca dao, tục ngữ không
phải là của riêng ai, mà là tiếng nói của cả dân tộc trong đó có ta, ta có quyền
sử dụng, càng sử dụng nhiều càng tốt, mà không lo bị coi là “cóp”. Điều Tú
Mỡ rất lưu ý khi sử dụng lời ăn tiếng nói dân gian trong thơ là “sử dụng cho
86
đúng, chớ có râu ông nọ cắm cằm bà kia; đồng thời ta cũng sáng tạo ra những
câu văn hay, những lời nói ý vị để những câu ấy, những lời ấy được quần
chúng thích thú, lưu truyền, về sau sẽ thành ca dao tục ngữ, làm giàu thêm
cho kho tàng ngôn ngữ dân gian” [31, 405]. Tú Mỡ đã thực hiện việc vận
dụng này một cách sáng tạo, thường xuyên, khiến ngôn ngữ thơ trào phúng
đậm chất dân gian.
Các thành ngữ, tục ngữ được sử dụng trong thơ Tú Mỡ có khi được giữ
nguyên vẹn, có khi ở dạng cải biên để phù hợp với vị trí của nó trong câu thơ.
Trong truyện cổ tích kể bằng thơ Con cóc là cậu ông giời, cuối bài thơ, Tú
Mỡ đặt nguyên câu ca dao làm kết:
Con cóc là cậu ông Trời
Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho.
Ở bài Sủa càn, mở đầu bài thơ là câu tục ngữ:
Đánh được người, mặt đỏ như vang,
Không đánh được người, mặt vàng như nghệ.
Rất nhiều những thành ngữ được dùng ghép vào các câu thơ: Hay lại..
đầu voi đuôi chuột? Học sao chữ ngờ!(Ních-xơn sửa soạn du xuân), Muốn đi
ăn cỗ chẳng ma nào mời (Muối mặt), Bại trận hoài, chạy rống bái công (Ai
thay đại tướng Nava?), Xã giao âu phải ân cần/ Gậy ông ta lại để dần lưng
ông (Cảm ơn thực dân cho súng)…
Ở dạng cải biên, một thành ngữ có thể được Tú Mỡ tách làm đôi để đưa
vào thơ: Ăn hại lại còn đái nát vung(Tà lại đảo tà), Xấu hay làm tốt giả
danh/ Dốt hay nói chữ khoe mình giỏi giang (Chúng nó noi gương), Mỹ
ngoạc mồm loa Ca-bốt Lốt/ Nguỵ hoá mép giải Phạm Đăng Lâm (Mỹ nguỵ là
nạn nhân sự xâm lược của chính chúng nó), Chơi chó còn e chó liếm mồm
(nguyên văn tục ngữ là yêu chó, chó liếm mặt, Tổng thầy- tổng tớ điềm gở
Mít-uây), Với dã tâm già đòn non nhẽ (Diệt giặc bay), Làm sao vuốt mặt mà
còn nể mũi (Ních-xơn sửa soạn du xuân), Thế là cháy nhà mới ra mặt chuột
(Thằng nào là thủ phạm)...
87
Có khi Tú Mỡ dùng ngay một thành ngữ, tục ngữ làm hẳn đầu đề bài thơ:
Chết đuối vớ phải bọt, Giậu đổ bìm leo, Đục nước béo cò, Tháo dạ đổ vạ cho
rươi…hoặc cải biên thành ngữ, tục ngữ để đặt đầu đề thơ: Thừa Thiên… lôi,
hành đạo tặc (thành ngữ thừa thiên hành đạo), Bắt quàng làm họ (thành ngữ
thấy người sang bắt quàng làm họ),… Hiệu quả của phương cách này là làm
toát lên chủ đề của bài thơ ngay từ đầu, gây hứng thú cho người đọc.
Hầu hết các thành ngữ, tục ngữ Tú Mỡ sử dụng đều có nội dung châm
biếm thói đời (thói vụ lợi, bội bạc), phản ánh những mối quan hệ không lành
mạnh, vô tình vô nghĩa, phản ánh những tính xấu, cảnh ngặt nghèo của đời
sống, nói lên mối quan hệ của dân chúng với tầng lớp thống trị. Chẳng hạn, từ
thành ngữ chó cắn áo rách, Tú Mỡ viết thành hai câu thơ nói về cái nghèo
một cách chua xót mà vẫn phảng phất cái cười umua:
Xưa nay thằng áo rách
Đến chó cũng không yêu.
(Nghèo)
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong thơ được thực hiện thành thạo và
điêu luyện. Người đọc không thấy được vết chắp ghép giữa ngôn ngữ dân
gian với ngôn ngữ của nhà thơ, mà tất cả hòa quyện thành những vần nhịp tự
nhiên, hóm hỉnh. Vừa viết theo bài kinh nghĩa Khuyên con về nhà chồng của
cụ Lê Quý Đôn, Tú Mỡ vừa thả thơ với những thành ngữ, tục ngữ (chúng tôi
in đậm) trong bài Khuyên chồng ông nghị khi đi hội đồng một cách tài tình:
Ở nhà nhất vợ nhì chồng, ra nghị viện chớ chịu thua bè, thua bạn
vậy. Ăn cho nên đọi, nói phải nên nhời đừng ấp a ấp úng để cho người
cả vú lấp miệng em. Nhủ này chàng, nhủ này chàng: nói có sách, mách
có chứng, các công kì việc cho phân minh, trái thì cãi, phải thì theo, vì
nước vì dân cho hết dạ. Nhớ lấy đấy, nghe lấy đấy: liệu khi tung, khi
hứng, khi cứng, khi mềm, hoặc anh em có bẻ họe chi nhời, thời biện
bạch cho ra góc bánh chưng, để tỏ miệng nhà sang có gang, có thép.
88
Ở nhà lệnh ông cồng bà, ra hội đồng chớ kém anh, kém em vậy.
Cầu gì cho được, ước gì cho thấy, đừng mập mà mập mờ, chẳng bõ đi
múa rìu qua mắt thợ. Khuyên này chàng, khuyên này chàng: xem bằng
mắt, bắt bằng tay, chọn mặt gửi vàng cho xứng đáng; hay thời cử, dở
thời tước, dù tiền dù bạc chó thay lòng. Nặng vậy thay, khó vậy thay:
liệu câu đối, câu đáp, câu bẻ,câu bác hoặc quý quan có xì xồ chi tiếng,
cứ phân trần cho đứt đuôi con nòng nọc, cho biết tay ông nghị là đá, là
đanh.
Tú Mỡ biết kết hợp khả năng hàm súc của tục ngữ, thành ngữ với lối
miêu tả chi tiết và những nhận xét chủ quan của nhà thơ, làm cho bản thân lời
ăn tiếng nói dân gian mà ông sử dụng trở nên đa nghĩa hơn nó vốn có. “Làm
công việc này, Tú Mỡ đã làm một cuộc liên hệ đối chiếu rất tự nhiên những
nhân vật mới, sự nghiệp mới với những điển tích mà nhân dân ta đã quen
thuộc. Và do đó kích thích những phản ứng tâm lí đã thành tập quán với dân
tộc ta và gợi lên những tiếng cười rất Việt Nam” [29. 243]. Những vấn đề thời
sự, chính trị trở nên gần và quen hơn với cách nói, cách nghĩ của nhân dân, vì
thế mà nội dung tuyên truyền và tư tưởng kháng chiến của Tú Mỡ mới đến
được với quần chúng. Cũng bởi có ý thức nghiêm túc về vấn đề làm giàu
ngôn ngữ dân tộc và đưa thơ ca đến gần quần chúng hơn, mà Tú Mỡ sáng tác
nhiều tác phẩm gần với ca dao – mà ông gọi là “Phong dao mới” (Hư danh,
Vè đời nay, Cậu phán chí thú…)
Có những bài thơ Tú Mỡ viết phỏng theo truyện ngụ ngôn, hoặc là viết
truyện ngụ ngôn bằng thơ. Dân biểu tranh năng là tác phẩm viết về cảnh các
ông nghị tranh công đầu trong buổi họp, phỏng theo truyện dân gian Lục súc
tranh công. Bài Hội đồng chuột có phong vị của truyện ngụ ngôn Đeo nhạc
cho mèo phê phán và châm biếm những vị tai to mặt lớn, có quyền hành
nhưng làm việc thì lộ rõ đầu voi đuôi chuột, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Một cách có ý thức, Tú Mỡ học tập từ truyện cười dân gian và truyện
tiếu lâm lối tạo những yếu tố bất ngờ, lối kết thúc bất ngờ, dùng cái thanh nói
89
cái tục, dùng cái tục nói cái thanh trong thơ. Phương diện này chúng tôi sẽ nói
rõ hơn ở những phần sau.
Do đây là thơ trào phúng, các tục ngữ, thành ngữ, ca dao được sử dụng
thường nói lên nội dung châm biếm thói đời, phản ánh những quan hệ xã hội
không lành mạnh, những thói hư tật xấu, những cảnh trớ trêu,... Tú Mỡ đã
nắm chắc nội dung, ý tứ của các yếu tố văn học dân gian để vận dụng nhuần
nhuyễn và sáng tạo.
3.1.1.2. Vận dụng các điệu chèo, hát xẩm
Chèo và hát xẩm là hai loại hình nghệ thuật biểu diễn rất gần gũi với đời
sống nhân dân lao động, nhất là tầng lớp nông dân. Hát chèo ở sân đình, gốc
đa,… hát xẩm ở chợ, bến đò bến xe… đó đều là những nơi đông đúc. Ứng
dụng hai loại hình này để sáng tác thơ là một sáng tạo của Tú Mỡ để phổ biến
tác phẩm và thu hút những tiếng cười hưởng ứng.
Nhiều làn điệu chèo được Tú Mỡ sử dụng ăn nhập với nội dung trào
phúng như hát trống quân, hát nồi niêu, cách cú... GS Hà Minh Đức nhận định
“cái cười trong sân khấu chèo luôn phảng phất đó đây trong thơ Tú Mỡ”
[11,102]. Có nhiều trường hợp, tiếng cười khỏe khoắn và chất trào phúng
đậm đà của nội dung đã ăn nhập với hình thức dân dã ấy đến mức tưởng như
không thể hơn thế nữa, mà nếu dùng thể loại khác thì chưa chắc câu chuyện
có thể buồn cười đến thế. Ví như bài hát chèo Tập trung vào trại tù binh theo
điệu hát nồi niêu:
Tướng giặc Nava, dù vỏ quýt dày,
Gặp móng (là móng) tay nhọn (i í i) phen này đảo điên.
Tập trung vào cứ điểm Điện Biên
Hắn ta (tình chung) chủ động (chủ động ái chà là chủ động)
(í i i) đã đem quân vào
Một hang chuột lớn nháo nhào (nháo nhào, nháo nhào,
nháo nhào)
Hắn đã đem quân vào nơi hang chuột
Hang chuột, nháo nhào…
90
Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới đã nhận ra “ở giữa cái Hà Thành
hoa lệ, người ta đua nhau hát theo các điệu hát của chiếu bóng, Tú Mỡ vẫn cò
lả, nồi niêu, trống quân” [6, 207]. Ngoài các điệu chèo, ta còn thấy thấp
thoáng trong thơ Tú Mỡ tiếng cười tung tẩy của vai hề gậy, tiếng cười trào
lộng của vai hề mồi.
Xuân Diệu gọi Tú Mỡ là một anh xẩm thơ. Cũng là xứng đáng, bởi Tú
Mỡ đã khôi phục, nâng cao giá trị của ca xẩm với những chức năng ý nghĩa
mới trong sáng tạo thơ ca trào phúng. Trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, Tú Mỡ có các bài thơ theo điệu ca xẩm Tiễn đưa quan nghị về quê, Lấy
chồng già, Xoay làm ruộng, Vợ quý… Sau Cách mạng, những bài thơ – ca
xẩm có chiều hướng nhuần nhị hơn: Quan lớn – quan lợn cùng chung một
vần,Vào bẫy, Quýt làm cam chịu,… Nội dung trào phúng và hình thức hát
xẩm của các bài này phù hợp, tối ưu nhất.
Bài Tiễn đưa quan nghị về …quê soạn theo điệu Anh Khóa của Trần
Tuấn Khải có lời lẽ và giọng điệu vừa lẳng lơ vừa tình tứ của chị em với quan
nghị đã họp hội đồng xong và trở về nhà. Điệu hát càng uốn éo, ý xỏ xiên cay
độc của nhà trào phúng càng công khai, bản chất của các ông nghị càng lộ rõ:
Họp hội đồng năm này qua năm khác, đều là kì họp mặt đầy lưu luyến của các
ông nghị với các chị em ở xóm nguyệt hoa:
Này, quan nghị ơi,
Chúng em may mà giữ vẹn thanh danh
Kiếp sau xin kết cỏ, ngậm vành, em báo ân.
Sang năm quan lại về vì việc nước, việc dân,
Rước quan rời gót ngọc, quá chân lại nhà…
… Ta còn nhiều cơ hội gặp nhau
Hội đồng này hết, hội đồng sau có ngại gì.
3.1.2. Vận dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống
Chúng tôi khảo sát các thể loại được Tú Mỡ sử dụng để sáng tác trước và
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua 3 tập Giòng nước ngược (GNN),
91
các tập Nụ cười kháng chiến, Nụ cười chính nghĩa, Đòn bút
(NCKC,NCCN,ĐB). Ngoài các thể loại được trình bày trong bảng dưới đây,
Tú Mỡ còn sáng tác ở các thể loại khác như hát nói, cáo, từ, tụng, văn điếu,
Thất
Thất
Thất
Thất
Song
Lục
Yết
Tự
4 chữ,
Hát
Văn tế
Tổng số
ngôn
ngôn
ngôn
ngôn
thất
bát
hậu
do
5 chữ
xẩm
Phú
Chèo
Sớ
bài thơ
bát
trườ
tứ
tứ
lục
cú
ng
tuyệt
tuyệt
bát
thiên
liên
hoàn
GNN(3tập)
14
16
33
15
34
105
3
64
9
6
5
6
1
3
(10%)
330tác
(4%)
(5%)
(5%)
(10%)
(32%)
(1%)
(19%)
(3%)
(2%)
(2%)
(2%)
(0,3%)
(1%)
phẩm
NCKC,NCC
20
42
53
0
43
70
6
28
4
3
3
8
1
N,ĐB
(7%)
(14%)
(16%)
(13%)
(22%)
(2%)
(9%)
(1%)
(1%)
(1%)
(3%)
37 (11%)
303tácphẩm
6 tập thơ trên
34
58
86
15
77
175
9
92
8
9
9
4
(1,2%)
636tácphẩm
(5%)
(9%)
(14%)
(2%)
(12%)
(28%)
(1,4%)
(15%)
(1,4%)
(1,4%)
(0,6%)
10 (2%)
46 (7%)
Bảng 3.1. Thống kê tần số sử dụng các thể loại thơ văn trong các
tập thơ Giòng nước ngược (3 tập), Nụ cười kháng chiến,
Nụ cười chính nghĩa, Đòn bút của Tú Mỡ.
văn bia, nhưng số lượng ít nên chúng tôi không đưa vào trong bảng khảo sát.
Qua bảng thống kê 3.1, có thể thấy Tú Mỡ sáng tác văn chương trào
phúng bằng nhiều hình thức thể loại rất phong phú, hiện đại như thể thơ tự do,
truyền thống như thể thơ lục bát, thể loại chèo, cổ điển như thể văn tế, phú…
Ở hình thức thể loại nào Tú Mỡ cũng có những tác phẩm tiêu biểu, giá trị.
Đọc Kinh nghiệm học tập và sáng tác thơ trào phúng của Tú Mỡ, nhà thơ có
viết: “Gay nhất là việc tìm ra chủ đề trào phúng thích thú. [31,419]… Khi đã
chộp được đề tài rồi, tôi đặt đầu đề cho hay, đầu đề phải tóm được trọng tâm
câu chuyện đang diễn tả, để khi viết đừng lạc đề. Đặt đầu đề rồi, tôi nghĩ đến
việc dùng thể thơ nào để diễn tả thích hợp với sự việc. [31, 423]… Kể chuyện
92
thì nên dùng thể lục bát… Có tính bình luận thời sự thì nên dùng thể song thất
lục bát hoặc thể thất ngôn biến thể (hát nói)… Có tính chất báo cáo thì nên
dùng thể vè bốn chữ…Để vịnh nhân vật thì nên dùng thể “Bát cú Đường
luật”… Diễn tả nhiều tiết mục thì dùng thể tứ tuyệt trường thiên… Muốn linh
hoạt hơn thì dùng thể ngũ ngôn trường thiên… Mỉa mai địch bằng Văn tế
sống… Dí dỏm thì nên dùng lối thơ yết hậu… Dùng thể thơ mới cũng tốt,
miễn là giữ được dân tộc tính [31, 423 – 430].” Có thể thấy, việc lựa chọn thể
loại để làm nổi bật chủ đề, đề tài, đối với Tú Mỡ không phải là việc đại khái,
mà rất nghiêm túc và có chủ ý. Bảng 3.1 cho thấy thể thơ được Tú Mỡ sử
dụng nhiều nhất là thể lục bát (175 bài chiếm 28% tổng số tác phẩm), vì đây
là thể thơ có tính bình dân nhất, hợp với thị hiếu đại chúng và tối ưu đối với
việc kể chuyện trào phúng. Tiếp đến là các thể thơ tự do (92 bài chiếm 15%
tổng số tác phẩm), thể thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn (86 bài chiếm 14% tổng số
tác phẩm), thể song thất lục bát (77 bài chiếm 12% tổng số tác phẩm). Các thể
thơ thất ngôn trường thiên, bốn, năm chữ, thất ngôn bát cú được sử dụng ít
hơn.
3.1.2.1. Vận dụng thể thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói
Với thể thơ lục bát quen thuộc, Tú Mỡ sử dụng khá thành thạo và có
những cách tân thành công. Thơ lục bát của Tú Mỡ dù mang nội dung trào
phúng thì vẫn cứ giữ được đặc trưng thể loại: uyển chuyển, nhịp nhàng. Ông
thường sử dụng thể thơ này để kể chuyện – như ông tâm sự trong bài báo
Kinh nghiệm học tập và sáng tác thơ trào phúng. Chúng ta có thể thấy trong
sáu tập thơ được khảo sát ở bảng 3.1 đã có 175 bài thơ lục bát: Vua bà sợ thần
lửa, Ông Phủ cầu tài, Độc lập chi bay..! Rách váy bà,Lệ mới lầu hồng,... Cụ
Nẫm làm ngụy vận, Chúng tao là Việt Minh cả,.... với đủ các đề tài.
Trong nhiều câu thơ lục bát (và cả những câu thơ ở thể loại khác nữa,
nhưng điển hình và phổ biến là ở thể thơ này), thường dùng những dấu chấm
lửng (...) ở giữa câu thơ để nhấn mạnh hoặc bông đùa. Đặc biệt, thủ pháp này
thường đi liền với lối kết thúc bất ngờ, tạo ra tiếng cười thú vị, đầy trí tuệ và
93
nâng giá trị trào phúng lên rất nhiều. Chẳng hạn, Tú Mỡ tổng kết mọi công
đức của Ông Ngô Ma Bùn trong câu thơ lục bát lấp lửng sau:
Ông quen núp bóng quyền hành,
Để chơi thủ đoạn tranh giành... cơm chim.
Thể thơ lục bát vốn có nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng. Tú Mỡ sử dụng chính
thể thơ có vẻ “hiền lành” này để sáng tác những bài thơ đánh địch. Không giơ
cao đánh khẽ, mà đánh ra đánh! Chẳng hạn, với các ông nghị gật vô tích sự
đến mức chỉ biết phân vân về cái chỗ ngồi khi hội họp, các câu thơ lục bát
trong bài Ngôi thứ các ông nghị diễn tả cái “trơ” của các ông, không phải các
ông đứng ngồi trơ, mà các ông trơ ra cái mặt xoàng xĩnh vô dụng như “đồ phù
trang”:
Ngồi làm sao? Đứng làm sao?
Để cho thiên hạ trông vào khỏi... trơ!
Cũng có khi thơ lục bát “đáo để” đốp chát Tổng Giôn và đế quốc Mĩ:
Ta lật tẩy tên bợm già,
Củ cà rốt thối đây ta ... đấm vào!
(Tẽn tò, con cò cụp đuôi)
Ngoài ra, chúng ta còn bắt gặp những tác phẩm viết theo thể lục bát đậm
chất hiện thực của Tú Mỡ. Có khi, đó là bài lục bát diễn tả cảnh đời trên đất
nước mình đang sống: cảnh Đông Tây giao thoa, Vợ chồng đời nay khác xưa,
“hễ cậu kém tiền, giở luật cởi duyên”; cảnh cô thôn nữ muốn nên ông nên bà
đòi Lấy chồng ông phán nhưng “chồng hư” nên phải “mình em giật gấu vá
vai”,... cảnh nông dân Ninh Bình theo cờ Đảng Bạt vía thành hoàng làng lấy
lại công bằng, ruộng đất từ tay tên địa chủ lưu manh Quách Tần;... Có khi, đó
là bài lục bát khắc hoạ chân dung nhân vật sống động và đầy ấn tượng. Một
loạt các bức tranh hoạt họa chân dung các ông nghị của Tú Mỡ viết bằng thơ
lục bát: Bộ Hàm của ông Đỗ Thận, Văn sĩ Trần Văn Tùng, Ông hàn Nguyễn
Mạnh Bổng, Ông trùm Phạm Lê Bổng, Ông trạng mẹo Phạm Duy Khiêm,
Quan sư Nguyễn Năng Quốc, Nam hải nhị dị nhân, Hách,... Ba bộ mặt của
94
Ngô Đình Diệm, “Bố mìn Ngô Đình Diệm”, Con trăn Ngô Đình Diệm,... Thể
lục bát quen thuộc khiến ta nhớ như in hình hài Ông trùm Phạm Lê Bổng có
“tấm thân trịnh trọng như đồ phù trang”:
Trời cho cái mã bề ngoài,
Để che đậy cái... sơ sài bên trong.
Và một ấn tượng đầy ghê sợ với quái vật Con trăn Ngô Đình Diệm:
Thống Diệm như một con trăn
Quai quai quằn quằn uốn khúc trong Nam
Bấy lâu ngoác mép, phồng mang,
Phì phì hơi độc chỉ toan ăn người.
Kẻ nào tranh nó miếng mồi,
Nó rình đớp sống nuốt tươi mới đành...
Cái mới mẻ mà Tú Mỡ đem lại cho thơ lục bát không chỉ là những câu
thơ có hình thức lạ (ngắt dòng thơ thành hai câu hỏi, dùng nhiều dấu chấm
lửng trong cùng một dòng thơ...), mà còn có một tinh thần mới mẻ. Xưa,
người ta từng thấy thơ lục bát tỏ tình, tỏ ý của nhân vật trữ tình trong ca dao,
trong Truyện Kiều, trong Thơ mới. Nay, người ta xúc động thấy thể thơ này
xông pha chiến đấu thực sự trên mặt trận văn hóa tư tưởng trong thơ Tú Mỡ!
Nhiều bài thơ làm theo thể song thất lục bát và hát nói của Tú Mỡ có tính
bình luận thời sự như Sư ông trúng số, Bỏ áo thụng xanh, Leo thang lên hỏi
ông trời,...Thằng Mĩ cút đi, Cùng một duộc, Độc lập giả hiệu và cờ ba que,
Món hang ế, Ăn xin,... Với thể thơ này, chẳng những nhà thơ kể việc được
một cách cụ thể như ở thơ lục bát mà nhà thơ còn có thể đưa ra ý kiến chủ
quan của mình một cách có tình, có lý, rất thuyết phục. Chẳng hạn, sau khi
phân tích, chế giễu nước Đại Pháp đang hồi điêu linh và đả kích cuộc tàn sát
của chúng ở Việt Nam, cuối bài thơ Ăn xin, Tú Mỡ bình luận một cách thấm
thía:
Sao chẳng gọi họ về đất nước,
Về thôn quê, cày cuốc , gieo trồng.
95
Lúa mì sẽ tốt đầy đồng,
Nước không đến nỗi phải hòng ăn xin.
3.1.2.2. Vận dụng thể thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn
Đây là hai thể thơ Tú Mỡ sử dụng với tần số cao trong các tác phẩm trào
phúng của mình.
Trong thơ ca trung đại, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật - vốn chuyên
dùng trong khoa cử - thường dùng để nói chí, vịnh sử, niêm luật chặt chẽ,
trang nhã mực thước. Tú Mỡ lại làm cho thể thơ này hoàn toàn phù hợp với
tinh thần tự do, khoáng hoạt trào lộng của thơ trào phúng. Tính chất đối ngẫu
và hình thức thơ chặt chẽ, kiệm lời của thể thơ này là một lợi thế để Tú Mỡ
phát huy hiệu qủa của nghệ thuật chơi chữ. Tưởng như hai câu thơ đồng thời
là hai vế đối này đã lật mặt nạ xảo quyệt của kẻ mượn danh khai hóa nhưng
thật ra là “khai tối” và sùng bạo lực, đồng thời rất kém văn minh:
Đầu đội mũ gai đâm tua tủa,
Tay giơ cây đuốc tối mò mò.
(Vịnh tượng đầm xòe)
Lão Tây vênh váo giơ tay nén,
Chú Việt cò rò ngóc cổ trông.
(Vịnh tượng Bôn-be)
Thủ pháp chơi chữ với những từ láy in đậm trong các câu thơ trên vạch
ra mâu thuẫn giữa bản chất và giả hiệu của thực dân (từ “tua tủa, vênh váo”
gợi ra lối cai trị bạo ngược của thực dân, từ “tò mò, cò rò” gợi tình cảnh thấp
cổ bé họng của người dân - bản chất chế độ ấy đã bóc mẽ “tự do- bình đẳng-
bác ái” của chúng là giả hiệu). Từ đó tạo ra tiếng cười châm biếm, đả kích.
Thể thơ này còn giúp Tú Mỡ xây dựng, đặc tả chân dung châm biếm:
Bốn cái mong cảu thầy phán, Sét ty tự đại, Con nợ họa lại, Kiệu bay, Giầu và
nghèo, Nghèo mà sướng, ... Vịnh tượng Bôn-be, Vịnh tượng đầm xòe,... Tay-
lơ cùng với “quay lơ một vần, Quan chó, Lon-non ốm đòn, Mĩ càng giãy càng
thua, Tài kinh bang tế thế của tổng Thiệu, Ngô Dzu tướng ma túy,... So với
96
những bức hí họa bằng thể thơ lục bát, những chân dung châm biếm bằng thể
thất ngôn bát cú không chép tỉ mỉ các nét, các tính của nhân vật, mà tập trung
đặc tả một nét tiêu biểu hay cá biệt nào đó thôi. Vì thế, có những đối tượng
trào phúng được Tú Mỡ dùng cả thể thơ lục bát và thể thơ thất ngôn bát cú để
tạc tượng ( Bảo Đại, Ngô Đình Diệm), khiến đối tượng lộ diện ở nhiều
phương diện, tiếng cười bật ra ở nhiều cấp độ và người đọc không thấy nhàm
chán mà luôn được cười hả hê, thú vị.
Thể thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn có khả năng miêu tả nhiều phương diện
hay diễn tả nhiều câu chuyện cùng một lúc. Bài thơ Bốn lần đi thi vừa kể
chuyện ông phán tham danh bốn lần về Hà thành thi tham biện vẫn... rớt vừa
đưa ra kết luận của nhà thơ về bả vinh hoa, Bầu cử nói lên nhiều trò hề thối
tha của các nghị viên khi tranh cử, Việc làng bên ta vạch ra đủ các khía cạnh
cổ hủ lạc hậu ở nông thôn nhiều khi hương ước bị làm cho nhiêu khê, quan
làng đánh nhau tranh xôi thịt, kết bè kết đảng, dân đói rách vì việc làng,... Các
bài thơ sau không chỉ nói lên hiện thực như đầu đề mà còn nói lên ý chí dân
tộc và tinh thần kháng chiến của nhân dân ta: Không lực U.S.A bất lực rồi,
Cái mặt Giôn-xơn vỡ toác rồi,Tướng Hoàng Xuân Lãm con người hung, Tổng
thầy – tổng tớ điềm gở “Mít-uây”,...
Tú Mỡ đã khai thác những đặc điểm của những thể thơ truyền thống
thành thế mạnh cho thơ trào phúng của mình.
3.1.2.3. Sử dụng thể văn tế và phú
Đề tài Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ giới hạn đối tượng nghiên cứu ở bộ
phận thơ trào phúng của tác giả này. Vì thế, chúng tôi chỉ lướt qua hai thể loại
này ở cấp độ sơ lược.
Văn tế và phú – đây là hai thể văn cổ có tính trang trọng. Trong khi đó,
thơ trào phúng lại có tính cười cợt chế giễu. Tú Mỡ lại dùng thể văn trang
trọng để khảm vào đó những yếu tố hài hước. Như vậy, việc sử dụng cái vỏ
trang trọng để diễn đạt một lõi nội dung trào phúng đã tạo nên tiếng cười ngay
từ cấp độ hình thức.
Tú Mỡ đã đóng góp nhiều cho sự phát triển và biến đổi của thể loại văn
tế bằng cách tạo cho nó một môi trường sinh hoạt thực hành bông phèng cười
97
cợt thay cho môi trường nghiêm túc vốn có của nó. Ông nhận thấy “trong thể
văn cổ ấy ta có thể bới móc ra cả một đời nhơ nhuốc của kẻ thù”[31, 428].
Điều này thể hiện rõ ràng trong các tác phẩm Văn tế báo Nhật Tân, Phong
Hóa viếng Phụ nữ Thời đàm, ... trước Cách mạng; Văn tế sống Vĩnh Thụy,
Văn tế Bảo hộ, Ngô Đình Diệm khóc Mắc-xay-xay,... Bên cạnh đó, thể phú
vốn được dùng viết về những đề tài tốt đẹp, cao cả, cao thượng, lớn lao, nay
lại được Tú Mỡ dùng để viết về những thứ bé mọn như chuyện cơm áo,
chuyện đói rách, dân ngu, bù nhìn... Điều này cũng khiến Tú Mỡ gây được
tiếng cười độc đáo trong nhiều tác phẩm thành công: Bài phú thầy phán, Kinh
tế khủng hoảng phú, Dân ngu phú... Phú bù nhìn, Phú “Gian-xơn Xi-ty”...
3.1.2.4. Sử dụng thể thơ yết hậu
Đây là thể thơ xuất hiện từ thời trung đại – cái thời mà những nhà thơ
bác học đồng thời là những nhà nho. Và cũng chỉ có những nhà nho có cá tính
vượt trội, có bản lĩnh mới đến với thể thơ yết hậu – thể thơ vượt ra khỏi quy
định của luật Đường thi. Ở thơ yết hậu, dòng cuối cùng của bài thơ chỉ có một
chữ (hoặc một từ), xuất hiện đột ngột toát lên nội dung tiếng cười.
Theo quan điểm sáng tác của Tú Mỡ, ông sử dụng thể thơ yết hậu khi
muốn tạo nên tiếng cười ở cấp độ dí dỏm với đối tượng trào phúng. Ở các bài
Vịnh Quỳnh Cóc, Tháng rưỡi lương Tết, Ghét Tết thì đúng là tiếng cười dí
dỏm hài hước. Ghét Tết còn có sự thấm thía như lời tâm sự tận đáy lòng:
Thiên hạ sao ưa Tết?
Hẳn vì mặc áo đẹp!
Tớ đây bảo Tết phiền
Ghét!
....
Kiết xác như vờ rồi!
Còn ngông đốt pháo mãi.
Pháo kêu, Tiền hỡi Tiền!
Dại!
Nhưng chính Tú Mỡ cũng dùng thể thơ này để trút sự căm ghét, bỉ báng
lên kẻ thù bằng những tràng cười cay độc. Bài Khóa mõm lại, Viện trợ Mĩ
98
chẳng đi đến đâu, Mỹ nhân kế,... là những bài thơ yết hậu đả kích không
khoan nhượng với kẻ thù. Luận điệu xuyên tạc của địch khiến Tú Mỡ nổi
xung, phản bác lại và cười vào mũi, vả vào mõm chúng trong bài Khóa mõm
lại:
Bọn Diệm hết khôn dồn đến dại
Bảo cho chúng nó đừng lải nhải!
Nhân dân đã quá ngứa tai rồi.
Khóa mõm lại!
Tú Mỡ có sáng tạo riêng trong thể loại thơ yết hậu so với các tiền bối.
Thứ nhất, ông đã mở rộng dung lượng câu thơ yết hậu từ một tiếng, một từ
thành một cụm từ. Tất nhiên, mở rộng hình thức dẫn đến hiệu quả tất yếu là
mở rộng nội dung. Mặc dù thế tính hàm súc, cô đọng bất ngờ của câu thơ yết
hậu vẫn không hề mất đi. Thứ hai, Tú Mỡ đã sáng tạo những bài thơ gồm
nhiều khổ thơ yết hậu, tức là các bài thơ yết hậu từng khổ (Ghét Tết, Khóa
mõm lại,…). Điều này mở rộng khả năng bao quát hiện thực và khả năng bộc
lộ thái độ đánh giá trong từng khổ, từng câu yết hậu, tạo sức hấp dẫn đặc biệt
cho những bài thơ trào phúng ở thể thơ này.
3.1.2.5. Sử dụng thể thơ tự do
Thể thơ tự do được Tú Mỡ sử dụng với tần số lớn thứ hai, chỉ sau thơ lục
bát. Trong làng thơ đầu thế kỉ XX ở nước ta, việc cách tân các thể thơ truyền
thống và sáng tạo thơ tự do được coi là bước đột phá. Đây không phải là điểm
sáng tạo độc đáo của Tú Mỡ. Ông sử dụng thể thơ này để kể, tả tỉ mỉ được
nhiều chi tiết, sự việc, hiện tượng. Điều quan trọng là ông đã sử dụng rộng rãi
và có hiệu quả thể thơ này trong việc thể hiện các nội dung châm biếm, đả
kích.
Kết cấu bài thơ, câu thơ tự do của Tú Mỡ đa dạng và linh hoạt. Có bài
thơ dài 79 câu (Đời trưởng giả và đời bình dân ), có bài thơ dài 37 câu (Hà
Nội ăn chơi), Mách Tổng Ngô một vài chính sách kinh tài dài 54 câu; có câu
thơ chỉ 4 chữ, có câu thơ dài 12, 15 chữ. Các bài thơ tự do của Tú Mỡ giàu
99
chất hiện thực của văn xuôi, nhưng vẫn giữ được vần nhịp đặc trưng của thơ
ca và mục đích trào phúng của tác phẩm. Ở bài thơ Thôi cái trò tháu cáy ấy đi
vừa bàn chuyện thời sự, vừa chửi vỗ mặt kẻ gian lận Giôn-xơn, chĩa vào hắn
mũi nhọn của tiếng cười đả kích:
Nhưng tổng Giôn vốn loài bất thiện,,
Chết không chừa xỏ lá ba que.
Họp ở Nông Pênh hay ở Vác-xô-vi?
Hắn sài lắc đổ ta không thiện chí!
Cả thế giới, cả nhân dân Mĩ
Bảo hắn: “Thôi cái trò tháu cáy ấy đi!
Dù cho dở dói ngón gì,
Mười năm ăn cướp hốc xì về không!”
Trên đây, chúng tôi chỉ phân tích một số hình thức thể loại chủ đạo, có
nhiều thành tựu trong thơ Tú Mỡ. Thực tế, Tú Mỡ viết nhiều thể loại khác nữa
(như đã giới thiệu ở đầu chương 3). Nhìn chung, ở thể loại nào Tú Mỡ cũng
kết hợp được với mục đích trào phúng, làm nên những lối cười độc đáo có
phong cách riêng, đồng thời góp phần phát triển thể loại cho thơ ca dân tộc.
3.2. Các biện pháp nghệ thuật gây cười
3.2.1. Hình ảnh thơ
Sử dụng hình ảnh thơ gây cười là thủ pháp tạo nên tiếng cười từ ấn tượng
của thị giác.
Tú Mỡ có khả năng dựng cảnh, dựng người rất sinh động và tài tình. Có
thể nói như Xuân Diệu, nhà thơ “cho ta nhìn, thấy, nghe như một bức tranh,
như một mẩu kịch, như một đoạn múa rối” [5,44]. Đây chính là tài năng chọn
lọc điển hình và xây dựng điển hình của nhà thơ.
Trong bài báo về kinh nghiệm học tập và sáng tác thơ trào phúng, Tú Mỡ
đã chia sẻ rằng ông đã học từ đại thi hào Nguyễn Du khả năng nắm những nét
điển hình của nhân vật, khả năng nắm bắt chọn lọc những nét tiêu biểu của sự
100
vật. Nói đến đây, ta cũng đã hình dung ra những hình ảnh không thể quên
được của một Tú Bà “nhờn nhợt màu da, cao lớn đẫy đà”, một Sở Khanh
“hình dong chải chuốt áo quần bảnh bao”, một Hồ Tôn Hiến “mặt sắt cũng
ngây vì tình”... Còn Tú Mỡ, ông cũng làm cho chúng ta nhớ mãi câu thơ đã đi
vào lời ăn tiếng nói của nhân dân khi nói về hạng người tốt mã dẻ cùi:
Trời cho cái mã bên ngoài
Để che đậy cái... sơ sài bên trong.
(Ông trùm Phạm Lê Bổng)
Ấn tượng câu thơ ấy được tạo nên bởi bức tranh biếm họa Phạm Lê
Bổng, một bức tranh điển hình xây dựng bằng nghệ thuật chọn lọc điển hình
về các ông nghị gật chỉ được cái tốt mã “tấm thân trịnh trọng như đồ phù
trang”.
Tú Mỡ rất chú trọng việc chọn lọc hình ảnh điển hình và miêu tả những
nét đó bằng cái nhìn buồn cười. Văn sĩ Trần Văn Tùng trong bài thơ cùng tên
có dáng dấp riêng mà không giống ai:
Ông Tùng tuổi ngoại đôi mươi,
Mặt thời choăn choắt, da thời mét me,
Người thời thấp bé le te,
Dáng người khúm núm xun xoe nực cười!
Tú Mỡ cũng tả nhiều người gầy, nhưng chẳng ai giống ai. Sừ Quỳnh
trong Nam hải nhị dị nhân là “một sừ gầy nhẳng như hình cò hương”, đó là
cái gầy khôi hài trong thế đối lập với sừ Vĩnh “béo múp rung rinh”. Cái dáng
“Người cao dong dỏng lại gầy gầy” của ông phán Hồ Trọng Hiếu trong Tự
thuật cũng là thường, ở đây nó lại gây cười vì nó mâu thuẫn với cái tên Tú…
Mỡ!
Trong những bức tranh hoạt họa miêu tả những kẻ nịnh Tây mất gốc,
ham danh lợi, Tú Mỡ đều chọn một nét chân dung hoặc một khía cạnh tâm lí
làm nổi lên mâu thuẫn chính, bật ra tiếng cười. Nếu Ông Ngô Ma Bùn làm
đọng lại trong trí nhớ người đọc một ông nghị “lủn củn, lùn cùn” và thủ đoạn
101
“tranh giành… cơm chim”, thì Quan thị Nguyễn Tiến Lãng để lại trong trí óc
người đọc cái dáng “lưng gù lượn khúc… tôm he” và lối sống “khúm núm,
xun xoe”, Ông trùm Phạm Lê Bổng đọng lại là “tấm thân trịnh trọng như đồ
phù trang” với “cái… sơ sài bên trong”… Ở giai đoạn sau, Tú Mỡ xây dựng
hình tượng đả kích đế quốc Mĩ, Ngô Đình Diệm hay Trần Lệ Xuân thì vẫn
luôn chú ý chọn lọc hình ảnh điển hình. Hình ảnh điển hình ở tổng Ngô là bộ
mặt “bố mìn, đồ tể, ăn cắp” (Ba bộ mặt của Ngô Đình Diệm), ở Lệ Xuân là
cái “danh giá… của bà to” (Tứ đại của bà lớn), và đế quốc Mĩ là hình ảnh
“Một tay xách bị đô la/ Tay bom nguyên tử mang ra dọa người.”.
Những bài thơ miêu tả bù nhìn Việt gian và giặc Pháp, Mĩ của Tú Mỡ
“kết hợp hài hòa giữa đặc điểm thơ và bút pháp hội họa châm biếm” [34,
279]. Bức hoạt họa nào cũng bóc trần được bộ mặt đại gian ác đằng sau cái vỏ
bọc và luận điệu tốt đẹp giả dối của bọn cướp nước và bán nước. Nhưng mỗi
bức họa có một nét riêng, không bao giờ lặp lại, không bao giờ nhàm tẻ.
Đây là một phương diện thành công của nghệ thuật trào phúng trong thơ
Tú Mỡ. Nhà thơ biết chộp lấy những nét, yếu tố tiêu biểu nhất của nhân vật
rồi cường điệu, tô đậm lên hoặc biến đối tượng thành những con rối diễn ra
cái bản chất tráo trở của nó trên sân khấu ngôn ngữ. Trong thơ trào phúng,
chửi địch là trực tiếp ném ra những lời thóa mạ, đánh địch là dựng đối tượng
đả kích lên thành nhân vật sống động để tự nó diễn trò lố bịch mà chuốc lấy
tiếng cười khinh bỉ của độc giả. Tú Mỡ lúc chửi, lúc đánh, lúc lại giơ cao,
đánh khẽ nhưng ngấm đòn lâu, thật là cái tài thực sự của một cây trào phúng
lão luyện!
3.2.2. Chơi chữ
Chơi chữ là biện pháp nghệ thuật quan trọng hàng đầu để tạo ra tiếng
cười trong các loại hình văn học trào phúng, nhất là thơ ca trào phúng. “Tú
Mỡ có một lối chơi chữ hóm hỉnh, nên câu văn, câu thơ rất ý nhị, duyên dáng;
đó là đặc vị “hạt muối” của trào phúng kiểu Tú Mỡ” [8, 145]. Quả thực như
thế, ngòi bút của ông rất nhạy bén trong việc dùng lối chơi chữ để đánh vào
102
những thói hư tật xấu, hủ tục, đánh kẻ thù… Tú Mỡ đã khai thác triệt để biện
pháp nghệ thuật này bằng nhiều lối khác nhau để tạo ra tiếng cười muôn hình
muôn vẻ và có tư tưởng. Có khi ông chơi chữ bằng cách dùng câu chữ có
sẵn mà thay đổi đi một vài chữ để bộc lộ cái hài. Chẳng hạn, nhà thơ “cải
biên” thành ngữ “đổ quán xiêu đình” thành “đổ án xiêu hình” để giễu Cô
trạng, tức là nữ trạng sư:
Miệng hoa cũng thép, cũng gang,
Uốn ba tấc lưỡi phá tan bất bình,
Và đem cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ… án, xiêu… hình như chơi!
Cũng có khi nhà thơ chỉ chơi chữ ở một từ, một từ thật đắt để bật ra mâu
thuẫn đáng cười. Chẳng hạn, chỉ các cặp từ cùng trường nghĩa “canô - tàu
thủy – tàu ngầm” bất ngờ xuất hiện trong cùng một dòng thơ đã làm tòi ra sự
đại bại thảm hại của giặc có lực lượng khổng lồ:
Trận Sông Lô, trận Bình Ca,
Ca nô, tàu thủy hóa ra… tàu ngầm.
(Chẳng ước gì)
Tú Mỡ sử dụng nhiều cách chơi chữ. Đơn giản nhất, như ta vẫn gặp trong
đời sống hàng ngày, là cách nói lái. Nhà thơ nói lái tên nước ngoài hay nói lái
tiếng Việt đều thú vị. Tên tướng bại vong Mắc-xay-xay được nói lái thành
“Mắc tỉnh tỉnh, Mắc say say”, tướng Tay-lơ nói lái thành “Tay-lơ cùng với…
quay lơ một vần”, tướng Sa-lăng nói lái thành “Sa-lăng sài lắc sa lầy”, tên
tổng thống Mỹ Ai-xen-hao-ơ (còn gọi là Ike) nói lái thành “Ách” để cái âm
chướng tai đó gọi ra cái tai ách của kẻ khát máu này, tổng thống Ken-nơ-đi bị
ám sát thì gọi là “Kẻng” cho nó hợp âm với tiếng chiêng chiêu hồn hắn,…
Ngô Đình Diệm gọi là “Diêm Đình Ngộ” để trơ ra vai trò ngô nghê bù nhìn,
tổng Ngô và ngày quốc khánh được gọi mỉa là “Ngô chí khỉ với ngày quốc sỉ”,
kẻ dối trá dẫn dụ người khác đi theo gọi là “mẹ mìn” – tổng Ngô là “giống
đực” nên Tú Mỡ gọi hắn là “bố mìn”, tổng Ngô xưng gọi lính dù là “các con
103
yêu của bố” thì lái thành “bố mìn bố phượu”, “bố lếu bố láo”, “quốc gia”
ngụy thì phải gọi là “cuốc ra” cho rõ cái sai lầm, tương tự, tổng thống ngụy
gọi là “tổng cống”, quốc hội ngụy gọi là “cuốc hội”, thủ tướng ngụy thì phải
là… “thỏ tướng”, nguỵ toàn “phát ngôn” lừa bịp thì phải gọi là “phét ngôn”…
Ta thấy, nói lái thế nào, Tú Mỡ cũng luôn đảm bảo hai yếu tố: có tiếng cười
và lột tả bản chất nhân vật, sự vật. Đây là cái tài của người chỉ huy đội quân
ngôn ngữ!
Lối chơi chữ bằng từ ngữ đồng âm khác nghĩa xuất hiện với tần số cao
trong thơ Tú Mỡ. Nguyễn Khuyến, Tú Xương là hai tác giả ảnh hưởng lớn
đến thơ Tú Mỡ cũng sử dụng lối chơi chữ này . Tú Mỡ khác với các tiền bối ở
chỗ: Nguyễn Khuyến, Tú Xương thiên về lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa
Hán – Nôm với vẻ kín đáo, thâm trầm, đọc kĩ nghĩ kĩ mới thấm; còn Tú Mỡ
thiên về hướng gây cười tức thời, trực tiếp hơn. Bởi đối tượng tiếp nhận thơ
Tú Mỡ chủ yếu là đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân, nên nhà thơ cũng hướng
đến những từ ngữ có tác dụng gợi liên tưởng thô mộc, suồng sã. Các nhà sư
thuộc dòng “khoái lạc chân tu” được Tú Mỡ chỉ rõ con đường tu hành (“tu”
với nghĩa là theo đạo của một tôn giáo) của họ là “tu mu, tu… hú” (“tu” với
nghĩa mập mờ, gian dối ám chỉ các ni, sư vẫn phạm sắc giới, sát sinh), là
“tu… vò, tu… hũ, tu … chai” (“tu” với nghĩa là uống tục, ừng ực, tham lam
thèm khát, phạm vào tam độc mà nhà Phật kị). Đó là cách chơi chữ dùng từ
đồng âm khác nghĩa:
Đời phàm tục kể tu còn lắm cách,
Nhưng hỏi: mấy người đích thực chân tu?...
Vê quả phúc cũng lại tu mu, tu hú…
(Tu…!)
Ở lối chơi chữ này, rất thú vị khi nhà thơ gọi chệch hai “danh tướng” Na-
va (Pháp) và Tay-lơ (Mĩ) là … “ranh tướng”! Hạ bệ những ông tướng mà giặc
suy tôn thành hai… thằng ranh con, trẻ ranh thì thật là hả lòng hả dạ đối với
quân dân đang kháng chiến! Có khi Tú Mỡ đưa cả từ mượn tiếng Pháp vào
104
thơ để chơi chữ đồng âm khác nghĩa. Chẳng hạn, từ “scout” âm đọc là “sì cút”
nghĩa là hướng đạo sinh, được Tú Mỡ dùng để gọi tên tri phủ Bùi Đình Tịnh,
quyền tri phủ Hoài Đức, có chân trong hội hướng đạo. Gọi Quan sì cút chẳng
khác nào tiếng của các bà ở nhà quê xùy đuổi bọn chó gà sục sạo, bới bẩn:
- Quan sì cút ngài thương yêu giống vật
- Quan sì cút biết vâng lời … vợ
-Quan sì cút là người vui tính…
Dùng ngôn ngữ Hán và kết cấu ngôn ngữ Hán trong thơ cũng là một
cách gây cười, và là một phương pháp chơi chữ độc đáo mà Tú Mỡ khởi
xướng. Thông thường, từ ngữ Hán Việt và kết cấu Hán ngữ gợi ra vẻ trang
trọng, nghiêm túc. Thế mà Tú Mỡ lại dùng nó để cù cho người ta cười, và Tú
Mỡ làm được điều đó. Ông phát hiện ra: bản thân sự mâu thuẫn giữa hình
thức trang trọng thật với nội dung trang trọng giả đã là mầm mống của tiếng
cười: Đây là lời bà nghị Khuyên chồng ông nghị khi đi họp hội đồng, lời của
bà càng được thể hiện trang trọng, hiểu biết qua các từ Hán Việt và kết cấu
câu với các hư từ “chi, vi” bao nhiêu, thì bản chất dốt nát, phỗng sành của ông
nghị càng lộ ra rõ ràng bấy nhiêu:
Đã chịu tiếng nhân dân chi đại biểu,
Chớ nên coi trách nhiệm vi thường
Cũng thể phường phương diện chi quốc gia,
Cốt phải giữ thân danh vi trọng...
Lối đối là kiểu chơi chữ công phu hơn. Phép đối được thực hiện trong
cùng một bài thơ, một dòng thơ, hay một câu thơ. Nghệ thuật này đã nhiều
phen làm ta bật ra những tiếng cười lớn vì phát hiện ra mâu thuẫn bên trong
của đối tượng. Đó là chuyện cô gái Lấy chồng ông phán rồi mới ngớ ra ông
chồng phán “mẽ ngoài bóng bẩy/ cửa nhà rỗng không”; hay hình ảnh ông
quan ngụy đeo lon vàng thẻ bạc chẳng khác gì người ta đeo đai cho… chó
“Lủng lẳng cổ dề đeo thẻ bạc/ Long lanh vai áo gắn lon vàng” (Quan chó).
105
Chúng tôi nhận thấy rằng, bộ phận từ ngữ suồng sã bình dân có vai trò
rất lớn trong việc thực hiện nghệ thuật chơi chữ của nhà thơ. Các từ ngữ
thông tục, các quán ngữ đã góp phần tạo nên tiếng cười mạnh mẽ đánh vào
kẻ thù và những thói hư tật xấu: béo sù, chướng phè, trơ như thớt, gật sái cổ
(sái cổ gật tràn), lủn củn lùn cùn, mét me, lốc nhốc, khét om, tầm váo tầm
vênh, tháu cáy (gian lận cờ bạc), mõm, mõm êu, ngoác mõm, đá vào mõm,
vạc mặt, khóa mõm, tô hô, cà khẳng, láo xược, du côn, chúa đểu,ngoạc mồm,
rùm beng, chuồn, ỏm tỏi, ngoạm, dần, lôi cổ, cách cổ, la ó, lăn kềnh, toi, đi
đời, ngoẻo, lăn kềnh ,...
Thú vị nhất và thành công nhất là lối chơi chữ nói lái ác hiểm kiểu Hồ
Xuân Hương. Tú Mỡ giễu ông sư trúng sổ số, có tiền sẽ có điều kiện mà phá
giới đi tom chát hay ăn mặn, nhân đó đả kích giới tu hành lắm kẻ tu hú:
Biết thế năm xưa ta tu quách
Trúng số rồi sau sẽ lộn vòng
(Sư ông trúng số)
Đặc biệt, Tú Mỡ viết Lỡm cô Ngọc Hồ, người dám nhận mình là “Băng
Tâm khách” trong khi bản chất lại là kẻ buôn nguyệt bán hoa, đả kích thật
đúng tật và thật thâm:
HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn,
NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
Các từ “lộn vòng”, “rồng lộn”, “cố đeo” ở hai dẫn chứng trên được hiểu
không khác so với cách hiểu những từ ngữ “lộn lèo” (Trái gió cho nên phải
lộn lèo) và “đếm lại đeo” (Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo) trong thơ Hồ Xuân
Hương!
3.2.3. Tương phản đối lập
Mâu thuẫn thông qua nghệ thuật tương phản có thể bộc lộ rõ bản chất
của cái hài – khi nội dung đối lập với hình thức che giấu nó – thậm chí bộc lộ
rõ hơn là lối nói một chiều. Do vậy, có thể nói đây là một trong những nghệ
thuật then chốt tạo nên tiếng cười trào phúng của thơ Tú Mỡ. Nghệ thuật
106
tương phản đối lập trong thơ Tú Mỡ cũng chính là nghệ thuật khám phá
những mâu thuẫn trong đời sống, trong nhân vật và đưa nó vào thơ ca bằng
tiếng cười umua ý vị.
Trong thơ trào phúng Tú Mỡ, nhà thơ đi sâu vào khai thác những mâu
thuẫn nội tại của nhân vật, hiện tượng là đối tượng được châm biếm. Ít nhiều,
Tú Mỡ đã học tập nghệ thuật này trong truyện tiếu lâm của ta. Ông tạo ra tình
thế có thể hài hước để đặt những vần thơ trào phúng đúng lúc, đúng chỗ.
Chẳng hạn, Tú Mỡ kể quan sư Nguyễn Năng Quốc bên ngoài “sửa chùa sắm
mõ in kinh”, mà đời thực vẫn:
Rượu ngon, gái đẹp vẫn say,
Trống chầu tom chát, hoa tay vẫn tình.
(Quan sư Nguyễn Năng Quốc)
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, hiện thực vốn chứa nhiều mâu thuẫn
đáng cười, Tú Mỡ cứ bám sát mà kể. Quân viễn chinh Pháp khoe “Ra trận
lập công/ Cực kì oanh liệt”, thế mà sự thực là hai lần “đánh hoảng” vì nhìn
đom đóm, nghe tiếng tre nổ lại tưởng Việt Minh tấn công, để:
Cả đoàn huỳnh huỵch,
Hạ thổ thực mau,
Thầy đội cúi đầu,
Mũi hôn đất ruộng.
(Hai chiến công oanh liệt của giặc Pháp)
Nghệ thuật tương phản đối lập là một phương pháp vạch mặt thật của
địch một cách hiệu quả. Các bài Kế hoạch Na-va “thượng thò hạ thụt”, Vặn
lưỡi chống cộng của giặc Mĩ, Khóa mõm lại, Tuần lễ “Bảo vệ thuần phong mĩ
tục”, Thành tín kiểu Ngô Đình Diệm, Mồm ca ngợi tay bôi nhơ, Nếu sư tử nó
biết… đã bẻ gãy luận điệu nói dối, tuyên truyền nhảm của giặc Pháp ở trận
đồng bằng Bắc Bộ bằng nghệ thuật này. Trong Nếu sư tử nó biết, luận điệu
của Pháp là “Quân đội Pháp đánh hăng chống cự/ Như một đoàn sư tử oai
linh”; sự thật ngược lại hoàn toàn được tù binh Pháp nói “Chúng tôi như thỏ
107
vào tròng/ Chuột trong cạm bẫy, cá trong lưới chài/ Cảnh loạn xạ, mạnh ai
nấy chạy...” Bài thơ “Bố mìn” Ngô Đình Diệm vạch mặt lừa đảo của bù nhìn
ngụy khi cố bắt người vào Nam, dỗ dành cho công ăn việc làm, thật ra là:
Với nông dân chúng mật đường,
Nói rằng sẽ cấp ruộng nương cấy cày.
Vào tròng bị chúng nó xoay,
Đẩy vào kiếp nửa tù đày, phu phen,
Trần gian địa ngục tối đen,
Rừng sâu nước độc đồn điền cao su.
Tú Mỡ có thể đối bài thơ nọ với bài thơ kia : Ông trẻ già châm chích
những thanh niên ra vẻ đạo mạo nhưng thực chất lại rỗng tuênh:
Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”
Đạo mạo làm ra mặt lão thành
Bài … Và ông già trẻ là bài thơ có nhan đề ngược với nhan đề bài thơ
trên, châm chích những ông già thích chơi trống bỏi:
Ngược đời có lắm cụ già nua
Nhí nhảnh làm ra bộ tuổi thơ
Sự tương phản của hai bài thơ trên cho chúng ta cái nhìn toàn diện về
thói xấu của trẻ, già, cười vào cái xấu đó và hình thành lối xử sự đúng đắn.
Phép tương phản đối lập trong văn biền ngẫu (văn tế, phú...) của Tú Mỡ
rất phong phú, tuy nhiên không nằm trong trọng tâm của đề tài nên chúng tôi
chỉ giới thiệu qua. Tóm lại, “thơ Tú Mỡ chủ yếu thành công là do ông vạch ra
được những mâu thuẫn của các nhân vật và thời đại bấy giờ” [8, 142].
3.2.4. Giễu nhại
Từ điển Thuật ngữ Văn học định nghĩa “nhại” là Một thể văn châm biếm
dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc cả một trào lưu nghệ thuật,
phương tiện chủ yếu của nhại là bắt chước phong cách. Có hai kiểu nhại chủ
yếu là kiểu “khôi hài” trong đó đối tượng thấp được trình bày bằng phong
108
cách cao và kiểu “chế nhạo” trong đó đối tượng cao được trình bày bằng
phong cách thấp.
Trong thơ trào phúng Tú Mỡ, biện pháp giễu nhại thường triển khai theo
lối phỏng một bài thơ nghiêm túc, đổi đi vài chữ, câu, lồng vào đó mộ nội
dung hài hước, châm biếm, gây cười.
Tú Mỡ có các bài thơ nhại ca dao, nhại lời lẽ dân gian nhưng lại nói về
nội dung hiện đại. Vì thế các bài thơ này có sự so sánh ngầm xưa – nay,
truyền thống – hiện đại để người đọc suy ngẫm sau tiếng cười về những gì
nhà thơ vừa nói. Bài Mười thương, Mười yêu nhại ca dao để châm biếm thói
đời, châm biếm xu hướng mới của phụ nữ tân thời bị đồng tiền chi phối và
những cái mới đang làm mất đi vẻ đẹp thùy mị truyền thống:
... Bảy thương lắm bạc nhiểu tiền
Tám thương động tí nữ quyền giở ra.
(Mười thương)
... Chín yêu tài tử đa tình
Mười yêu, yêu nhất túi mình đa xu...
(Mười yêu)
Các bài thơ nhại thơ văn cổ có một số lượng đáng kể trong thơ Tú Mỡ.
Qui khứ lai từ nhại thơ Đào Tiềm khuyên các quan đã đến tuổi thì nên về hưu
chứ đừng tham quyền cố vị (Tuổi bảy chục đến kì thượng thọ/ Treo ấn thôi
tìm chỗ nghỉ ngơi). Tuyển thê đại cáo nhại phong cách cáo trong văn chính
luận cổ, là bài cáo giễu ông Nguyễn Tiến Lãng đăng báo ảnh của mình và
những lời lẽ có tính cách quảng cáo để kén vợ (Mới tí tuổi đầu/ Đã cao địa
vị/... Sự nghiệp lẫy lừng/ Tình duyên ẩm ế/ Tủi phận lẻ loi).... Tâm sự ông vua
lo nói về tâm sự tha hương tư cố quốc của Bảo Đại đang ở Hồng Kông (Buồn
trông cửa bể Hồng Kông/ Trời xanh nước biếc mây bồng bềnh trôi/ Buồn
trông cố quốc xa vời/ Việc nhà việc nước rối bời bòng bong...). Bài thơ này
nhại Truyện Kiều ở đoạn Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích nhớ quê nhà, cha mẹ
và người yêu, đoạn thơ này được viết bằng bức tranh tả cảnh ngụ tình tuyệt
109
tác của Nguyễn Du với điệp ngữ “Buồn trông...” mà bài thơ nhại trên sử
dụng...
Nhỉều bài thơ nhại phong cách thơ Hồ Xuân Hương .Bài Lỡm cô Ngọc
Hồ, Sư ông trúng số sử dụng lối nói lái của Bà chúa thơ Nôm như đã phân
tích ở mục 3.2.2. Bài Chú nó nghèo cũng châm biếm Trần Lệ Xuân là kẻ
quanh queo kiếm lợi bằng mánh khóe (Trổ tài gái đảm xoay nghìn khóe/ Nào
quản mang tai tiếng đá đeo)- từ “đá đeo” ở đây với ở câu “Cái kiếp tu hành
nặng đá đeo” trong thơ Hồ Xuân Hương đều phải nói lái mới ra nghĩa thật!
Ngoài ra, Tú Mỡ có những bài thơ nhại thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
nhại thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Thế Lữ,...
Nguyễn Khuyến có Văn tế Phơ-răng-xi Gác-găng-ni-ê với những câu:
...Ông ăn cho no/ Ông nằm cho yên/ Khốn nạn thân ông/ Đéo mẹ cha nó. Ta
gặp lại những từ ngữ như thế trong Sát khí của Tú Mỡ:
Non nửa tháng trời lo sốt vó
Đi vay bạc triệu về phòng thủ
Sau này đóng góp chết cha dân!
Khốn nạn chúng ông, cha chúng nó!
Bài Bầu cử có những câu thơ nhại theo lối liệt kê, trào lộng, xỏ xiên
trong bài Năm mới chúc nhau của Trần Tế Xương:
-Lẳng lặng mà nghe họ diễn thuyết
-Phen này ông quyết xuống K.T
Mở tiệm cô đầu có lẽ phát.
-Phen này mở hiệu viết văn thuê
Dẫu chẳng làm giàu cũng đỡ kiết
Nhại thơ mở ra một khả năng vô cùng phong phú cho người sáng tác thơ
trào phúng mở rộng các vấn đề xã hội đã từng được đề cập tới, nhưng ở một
cấp độ khác, góc độ khác. Trong khi đó, người đọc luôn đối chiếu bài thơ
nhại với tiêu bản, và có được những tiếng cười đôi khi là “tiếu tại ngôn
ngoại”.
110
3.2.5. Vật hoá
Biện pháp vật hóa có tác dụng dùng tiếng cười thóa mạ để xóa sổ đối
tượng chỉ trong chốc lát. Có khi, Tú Mỡ hướng vào kẻ thù mà thóa mạ, chửi
mắng, báng bổ là “chó, cút đi, không phải người,...” – khi đó tiếng cười làm
cho lời mắng chửi ấy đậm đà hơn, thâm hơn. Nó toát lên lòng căm thù, sự
khinh bỉ những loại người đó đồng thời bày tỏ lòng yêu nước, yêu nhân dân
của nhà thơ.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tú Mỡ có bài Quái thai mượn
chuyện con lợn mặt người ở làng Vĩnh Phúc để nói về những kẻ “loài heo mặt
người”. Bài Ngài trâu mượn chuyện con trâu kéo cày bỗng được nhấc lên
hàng “chiến tướng”, được chăm bẵm cho thắm thịt trơn lông, và đưa ra bãi
chọi, trâu thua bỏ xác, bị xẻ thịt, trâu thắng cũng bị xẻ thịt để người ta ăn lấy
may, lấy mạnh. Việc “trâu hóa” các anh danh vọng trên đời đã giúp nhà thơ
đưa ra một nhận định mang tính ngụ ngôn: danh vọng chỉ là bèo bọt, lắm khi
là do người khác dựng lên cho mình để họ được lợi, đừng vội vui mừng vì tai
họa còn tiềm ẩn:
Lắm anh danh vọng trên đời
Chung quy cũng chỉ như loài trâu thôi.
Biện pháp này chủ yếu dùng cho những đối tượng là thực dân, bè lũ tay
sai, Việt gian, đế quốc. Đức thì như diều hâu, Mĩ thì như khỉ độc:
Nhưng… con diều hâu Tây Đức khôn,
Thấy khỉ độc Mĩ thua liên tiếp,
Dại gì liều lĩnh để trụi lông,
Lao theo đuôi Mĩ vào nơi chết.
(Hốc xì!)
Tú Mỡ rất hay gọi giặc xâm lăng và bọn Việt gian là … chó: Chó Mĩ cút
đi, Bảo Đại với con chó cái… Bởi quan niệm trong dân gian cho chó là loài
ăn bẩn, cắn càn, nên nó là con vật đáng khinh nhất. Tú Mỡ nhắn nhủ cựu
hoàng Bảo Đại :
111
Ngốc ơi là ngốc, hỏi ngốc có hay
Người ta thâm ý, chung quy xỏ mày!
Mày phản đồng bào, chó săn Pháp,
Chó chơi với chó, miệng đời chua cay…
(Bảo Đại với con chó cái)
Tổng thống Mĩ Giôn-xơn thì Tú Mỡ gọi là Con đà điểu Giôn-xơn:
Thằng tổng Giôn diều hâu lểu đểu
Cũng như con đà điều khác gì.
Các bài văn tế như Văn tế tướng Lơ-cơ-lec, Văn tế sống Vĩnh Thuỵ,...
cũng thể hiện rõ nghệ thuật vật hoá. Có lẽ, Ngô Đình Diệm là nhân vật được
Tú Mỡ vật hoá nhiều nhất, có khi là “thằng chó chẳng chê dơ”, “con chó săn
của Mĩ”, có khi là con trăn, có khi hung dữ như cọp, thể hiện trong các bài
Ngô Đình Diệm- chó săn của Mĩ, Con trăn Ngô Đình Diệm,…Cái lệnh, cái
cồng và cái dùi là bài thơ đã ví Ngô Đình Diệm, Trần Lệ Xuân và đế quốc Mĩ
như đồ vật dơ dáy, không còn tính người và vô sỉ: lệnh Diệm hô bắt lính giết
chóc, cồng Xuân oang oang, ông ổng mồm Đát Kỉ, dùi Mĩ gõ sọ Ngô, dú dí
với cồng Xuân.
3.2.6. Phóng đại
Tú Mỡ không sử dụng nghệ thuật này nhiều. Nghệ thuật phóng đại trong
thơ Tú Mỡ thường gắn liền với nghệ thuật chơi chữ và vật hoá. Nghệ thuật
này có ý nghĩa tô đậm được những chân dung biếm hoạ, làm nổi bật nghịch
cảnh, bản chất của đối tượng, gây nhiều chuỗi cười thú vị và đồng tình của
độc giả. Cho nên, ta mới thấy cụ Phạm Quỳnh có cái tài trứ danh của người
vận động viên nhảy xa thế này:
Uốn mình, cất cánh, vươn vai,
Nhảy một cái dài vô tới tận kinh.
(Nam hải nhị dị nhân)
112
Trong Dân biểu tranh năng, ông nghị trùm cũng nói quá lên cái lòng
thành của mình với những ví von phóng đại. Ở đây, nghệ thuật phóng đại làm
lộ diện bản chất bon chen, giành giật, làm láo báo cáo hay của các ông nghị:
Này tim, này mật, này gan,
Muốn moi ra hết trên bàn hiến dâng.
Trần Lệ Xuân trong bài Tứ đại của bà lớn cũng được miêu tả bằng nghệ
thuật phóng đại: phóng đại cái bọng của bà to “phề phệ như bọng bò”, cái mặt
“như hổ phù”, “trơ hơn thớt”, “cộp hơn mo”, cái miệng “xoạc tận mang tai”
kêu quàng quạc phụ nữ đăng lính.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật phóng đại không được sử
dụng nhiều như nghệ thuật chơi chữ hay tương phản đối lập. Tại sao Tú Mỡ
không sử dụng nhiều nghệ thuật phóng đại? Trong khi đó, thực tế, văn học
dân gian đã chứng minh đây là biện pháp trào phúng dễ sử dụng và dễ gây
cười, mà lại có nét độc đáo riêng? Để lí giải điều này, chúng tôi quay trở về
với hiện thực cuộc sống ở đúng thời điểm lịch sử của nó: cô Ngọc Hồ là gái
lẳng lơ mà tự nhận mình là Băng Tâm khách, quan phán nọ cắt xẻo tiền nuôi
cha mẹ nhưng ra đường thì tiêu vung cán tàn, quân Pháp, Mĩ thua rõ như ban
ngày mà cứ xưng xưng là…đại thắng trận,…Ta dễ dàng nhận thấy: nguyên
bản đối tượng đã chứa đựng mâu thuẫn nội tại và các yếu tố gây cười. Đây là
đặc trưng mang tính lịch sử của đối tượng trào phúng, điều đó khiến nhà thơ
không cần phải khuếch trương, phóng đại hay ngoa dụ lên để cố lột tả cái hài.
Chúng tôi cho rằng, việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật không
chứng minh được cái tài của nhà thơ. Trong thực tế, sử dụng biện pháp nghệ
thuật hợp lí, đúng và đạt được mục đích mới làm nên tài hoa của nghệ sĩ. Tú
Mỡ thiên về hướng này, tức là sử dụng biện pháp nghệ thuật tuỳ theo mục
đích tiếng cười. Nếu cần nhấn mạnh và tạo ấn tượng đặc biệt về đối tượng,
nhà thơ sẽ dùng nghệ thuật phóng đại. Nếu không, nhà thơ sẽ khiến ta bật
cười trên cơ sở “người thật, việc thật” và khiến ta hoàn toàn tin tưởng vào cái
nhìn khách quan ấy, tin thơ Tú Mỡ chỉ nói toàn sự thật mà thôi!
113
3.2.7. Sử dụng từ láy:
Tần số sử dụng từ láy trong thơ Tú Mỡ nhiều hơn so với các bậc tiền bối
như Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Có thể nói, từ Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
đến Tú Mỡ, kho từ vựng từ láy của thơ trào phúng đã mở rộng sức chứa gấp
nhiều lần với đủ hình thức đa dạng. Các từ láy không chỉ diễn tả trạng thái nội
tâm và các điệu xúc cảm mà còn hướng đến miêu tả ngoại cảnh, phát huy tư
duy hài hước của độc giả. Đây là một đóng góp lớn của Tú Mỡ và các nhà thơ
hiện đại trong việc mở rộng chức năng cho ngôn ngữ dân tộc.
Khảo sát một số bài thơ tiêu biểu, chúng tôi có số liệu: bài thơ Nàng thơ
của tôi gồm 48 dòng có 31 lượt từ láy; bài Hội Gióng gồm 102 dòng có 37
lượt từ láy; Con chuột chết và Cỗ đám ma gồm 36 câu có 18 lượt từ láy; Hà
Nội ăn chơi gồm 37 câu có 19 lượt từ láy; Tự thuật gồm 18 câu có 21 lượt từ
láy… Quả thật, tần số sử dụng từ láy như vậy là rất cao, góp phần bộc lộ cảm
xúc chủ quan của nhà thơ. Chính những từ láy ấy cũng góp phần gợi ra những
ý buồn cười cho độc giả. Chẳng hạn, từ í oẳng là từ miêu tả cách nói, tiếng
nói của Bảo Đại (“Cũng đòi í oẳng ra dàng ta đây” - Chó ghẻ có mỡ đằng
đuôi) và của Ngô Đình Diệm bù nhìn (“Lúc cần đến sẽ thả ra í oẳng” - Ngô
Đình Diệm bù nhìn thứ 8). Từ láy này lập tức khiến ta hình dung ra tiếng gầm
gừ, tiếng sủa của… chó, và thấy buồn cười!
Có điều, loại từ láy mà Tú Mỡ sử dụng rất ít được dùng trong văn
chương thông thường. Một số từ láy “đắc địa” mà Tú Mỡ sử dụng và sáng tạo
nên như: lốc nhốc, ngổ ngáo, xồm xoàm, té re, bắng nhắng, nhố nhăng, nhâng
nháo, tất tưởi, thậm thụt, lộc ngộc, ve vãn, ngắc ngoải, ngoi ngóp, nhung
nhúc, ỡm ờ, kè kè, ỉ eo, í oẳng, bô bô, đùng đoành (tiếng súng), tằng tặc
(tiếng cối xay), dấm dớ… Chúng tôi trích cả ngữ cảnh để ý nghĩa từ láy thên
rõ ràng:
- Chánh Thiệu lợm lợm lì lì,
Chọi với phó Kỳ ngổ ngổ ngang ngang.
- Xúng xa xúng xính đi ra hội đồng.
114
- Tổ tép, tổ tôm, tam cúc, tam kết,
Tài xỉu tài bàn, ích xì ích xoẹt.
Ta thấy mỗi từ láy mà Tú Mỡ sử dụng, đặt ở trong ngữ cảnh nhất định,
đều thấp thoáng một cái cười mỉm. Từ láy bản thân nó không gây cười. Điều
đáng khâm phục và ghi nhận là: trong thơ Tú Mỡ, các từ láy, ngoài nghĩa
tượng hình, tượng thanh… vốn có, đã được nhà thơ tạo thêm cho một giá trị
biểu cảm mới mẻ! Vì thế, từ láy trong thơ Tú Mỡ không chỉ là từ ngữ, mà
thực sự là một nghệ thuật trào phúng quan trọng và hữu hiệu.
3.2.8. Lối kết thúc bất ngờ và đề cao để hạ thấp
Chúng ta vốn không xa lạ với biện pháp nghệ thuật này trong những
truyện cười dân gian. Tú Mỡ phối hợp rất tốt biện pháp này với nghệ thuật
thắt nút và cởi nút mâu thuẫn để lộ ra bản chất sự thật trong nhiều bài thơ trào
phúng. Có những bài, nghệ thuật này đạt đến bậc thầy và khiến người đọc rất
thú vị, đã đọc là nhớ mãi. Bài Kiệu bay từ đầu đã miêu tả lễ rước thánh vô
cùng linh thiêng, trang trọng; chỉ đến cuối bài thơ thì con át chủ bài của nghệ
thuật trào phúng mới được quăng ra để lật tẩy trò mê tín:
Thánh bà mới biết linh thiêng thật,
Gặp cái ô tô kiệu… đứng liền.
Hay như Đền hàng Trống: “Ấy hàng bán thánh, khách khá đông/ Đủ mặt
tầm thường, người sang trọng”. Nhưng chuyện đó ai chẳng biết. Chỉ có một
điều ít người biết, và mãi cuối bài thơ Tú Mỡ mới tung ra để lật mặt bọn buôn
thần bán thánh chung quy chỉ vì tiền: “Ông từ xưa tậu mấy nhà gạch ”!
Thủ pháp nghệ thuật tạo kết thúc bất ngờ thường đi liền với thủ pháp đưa
đối tượng trào phúng lên cao rồi đột ngột quẳng xuống chỗ thấp tận cùng, tạo
nên sự bất ngờ thú vị ở độc giả. Hai bài thơ trên đều có mặt thủ pháp “đề cao
để hạ thấp” như thế. Ở bài thơ khác, mở đầu thì ca ngợi “Nước Nam có hai
người tài”, sau đó lại bật ra mánh qué “Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu”
(Nam hải nhị dị nhân) thì đúng là cái tài tai hại, ăn hại cộng đồng! Bài thơ Cái
chuông ông trùm là bài điển hình, khiến người đọc thấy thú vị từ đầu đến cuối
115
bởi thủ pháp nghệ thuật này làm bật ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đầu
tiên Tú Mỡ khẳng định Bắc Kì có cái chuông rất quý; rồi lại liên tục phủ định
nó “không phải chuông bạc chuông vàng, không phải đồ vưu vật” mà lại “như
chuông xe rác”, là chuông của anh “láu cá” làm nghề “lắc chuông đúng nhịp
kiếm nê ra tiền”. Ở bài Nhất, Tú Mỡ cũng dùng thủ pháp này để vạch mặt con
hổ giấy Mĩ:
Mĩ hợm: Nhất đoàn quân đánh bộ
“Sư đoàn số một, sư đoàn đỏ”
Toàn là thiên tướng với thiên binh
Nhất nọ, nhất kia, nhất suốt sổ…
…Sang đây cướp nước lần thứ nhất,
Trang bị tận răng đầy đủ nhất
Sáu tháng, mười hai trận xuất quân
Đánh đâu bại đó, thua đau nhất.
Bên cạnh các biện pháp nghệ thuật gây cười chủ đạo trên, Tú Mỡ còn sử
dụng các biện pháp khác như liên tưởng, tưởng tượng tài tình, hợp lí; sử dụng
dấu câu trong việc hỗ trợ biểu hiện tiếng cười,… Những biện pháp này đã góp
phần tạo nên những tác phẩm quan trọng của Tú Mỡ. Bài thơ Giới thiệu các
ông Nghị với quốc dân được coi là có sự liên tưởng tài tình và thú vị bậc nhất.
Liên tưởng giữa cái tên các ông nghị với chức nghiệp mỗi ông được từng
hạng dân giao phó, thật là một việc làm khôi hài, và việc làm ấy đã đem lại
một bài thơ châm biếm độc đáo: Bọn hàng vặt, buôn gồng, bán gánh/ Đã sẵn
người thủ lĩnh: ông Quang/ Ông nghị Bùi nếu phải mặt giỏi giang/Đáng đại
diện cho các hàng bán lạc…Bên cạnh đó, Tú Mỡ sử dụng dấu câu một cách
thoải mái, phong phú, dày đặc, cần đến là dùng. Ông dùng các dấu chấm,
phảy, chấm lửng, chấm hỏi, chấm than, thậm chí dùng cùng một vị trí hai, ba
dấu chấm hỏi, chấm lửng; dùng dấu ở đầu, ở giữa, cuối dòng thơ để thể hiện
thái độ, đánh giá. Xét về phương diện phong cách tác giả, có thể coi đây là
một đặc trưng và là một đóng góp nữa của Tú Mỡ cho ngôn ngữ thơ ca. Trong
116
khuôn khổ luận này, chúng tôi không đi sâu phân tích các biện pháp nghệ
thuật này.
Tóm lại, chúng tôi xin khái quát vấn đề nghệ thuật trào phúng trong thơ
Tú Mỡ ở các điểm chính sau: Thứ nhất, nghệ thuật gây tiếng cười trong thơ
Tú Mỡ là một nghệ thuật bậc thầy có kế thừa tinh hoa nghệ thuật trào phúng
dân gian, hiện đại trong và ngoài nước, đồng thời có tính sáng tạo cao. Thứ
hai, cái hài trong thơ Tú Mỡ gắn với cái đẹp thẩm mĩ và khả năng sáng tạo
dồi dào, mới mẻ. Thứ ba, những thủ pháp nghệ thuật ngôn từ và cách thức sử
dụng các hình thức thể loại của Tú Mỡ không hề tuỳ tiện mà có tính mục đích
rõ ràng. Vì vậy, sức mạnh chiến đấu của thơ Tú Mỡ không chỉ toát lên từ lẽ
phải thông thường, chân lí chính nghĩa, không chỉ toát lên từ tiếng cười hóm
hỉnh hay sâu cay, mà còn toát lên từ tính trí tuệ của một nhà thơ lao động
nghệ thuật nghiêm túc.
117
PHẦN KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ Luận văn Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ, chúng tôi đã chỉ
ra cái hay, cái độc đáo của tiếng cười trong thơ Tú Mỡ trước và sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Qua đó chúng tôi cũng đã khẳng định được vai
trò số một của Tú Mỡ trong dòng văn học trào phúng Việt Nam thế kỉ
XX và di sản thơ ca ông để lại là vô giá!
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu tiếng cười
trong thơ Tú Mỡ: đối tượng tiếng cười và nghệ thuật gây cười.
Ở chương 1, chúng tôi giới thuyết về tiếng cười và tiếng cười trong đời
sống văn học. Chúng tôi chỉ rõ: tiếng cười gắn bó mật thiết với phạm trù cái
Hài. Tiếng cười là hình thức thể hiện của cái Hài. Tiếng cười mà luận văn
hướng đến nghiên cứu không phải là tiếng cười sinh lí mà là tiếng cười mang
tính xã hội. Từ nhận định này, chúng tôi trình bày về tác dụng của tiếng cười
trong đời sống và trong văn học. Tiếng cười đã làm cho nhân dân lạc quan
hơn, hả hê hơn, thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Các cấp độ của
tiếng cười và nghệ thuật gây cười là những lý thuyết mang tính công cụ giúp
chúng tôi soi chiếu vào hệ thống tác phẩm của Tú Mỡ trong quá trình nghiên
cứu. Ba cấp độ của tiếng cười theo thứ tự tăng dần là khôi hài- giễu nhại, trào
phúng - mỉa mai, châm biếm - đả kích. Để đưa ra các biện pháp nghệ thuật
trào phúng , chúng tôi khảo sát từ văn học dân gian và văn chương truyền
thống, chỉ ra các biện pháp cơ bản như: sử dụng yếu tố tục để nói thanh và
ngược lại, biện pháp phóng đại điển hình, biện pháp chơi chữ, nói lái, dùng
phản ngữ, lối đề cao để hạ thấp, lối kết thúc bất ngờ,… Việc trình bày về
tiếng cười trong văn học thành văn Việt Nam ở phần tiếp theo giúp chúng tôi
hướng luận văn từ phần lý thuyết chuyển sang đề tài thơ Tú Mỡ một cách hợp
lí. Chúng tôi tóm lược sự hình thành và phát triển của văn chương trào phúng
Việt Nam khởi nguồn từ những tác phẩm mang tính phê phán, đả kích trong
văn học thời trung đại và thực sự được khơi dòng từ Nguyễn Khuyến, khởi
sắc từ Tú Xương. Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, sự kiểm duyệt khắt
118
khe đã ảnh hưởng lớn đến văn học nói chung và thơ ca trào phúng nói riêng.
Tiếng cười trào phúng là một phương cách mà người ta tìm đến để nói lên
hiện thực nhưng vẫn tránh khỏi kiểm duyệt. Qua việc điểm lại các chặng
đường phát triển của thơ trào phúng nước ta cho đến đương đại, chúng tôi
muốn chỉ ra vai trò, vị trí của Tú Mỡ trong lịch sử văn chương trào phúng
Việt Nam: Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ là tiếng cười chủ đạo trong dòng thơ
trào phúng Việt Nam thế kỷ XX.
Ở chương 2, chúng tôi trình bày về hành trình sáng tạo thơ của Tú Mỡ và
đối tượng tiếng cười trong thơ ông. Chúng tôi phân định hành trình sáng tạo
thơ của Tú Mỡ làm hai giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Trước Cách mạng, xã hội Việt Nam rất rối ren và chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, nhà thơ đứng về phía nhân dân để lên án và đấu tranh cho lẽ phải thông
thường. Sau Cách mạng, nhà thơ nhanh chóng hoà vào công cuộc trường kì
kháng chiến, dùng ngòi bút, tiếng cười của mình đánh giặc, phục vụ kháng
chiến. Chúng tôi khảo sát ba tập Giòng nước ngược trước Cách mạng và ba
tập thơ Nụ cười kháng chiến, Nụ cười chính nghĩa, Đòn bút sau Cách mạng để
có số liệu cụ thể về từng đối tượng trong từng bài thơ. Đối tượng tiếng cười
trong thơ Tú Mỡ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 chủ yếu là: quan lại,
nghị viên và trí thức nịnh tây- những kẻ hám danh ham lợi chỉ lo đục khoét
của dân; những thói hư tật xấu, những trò lố lăng trong xã hội- đây là thói ma
lanh ma bùn, đĩ bợm, truỵ lạc, văn minh rởm, chuộng hư danh, mê tín dị
đoan, hủ tục nhiêu khê hại dân hại nước; thực dân Pháp cũng là đối tượng
được kín đáo mỉa mai, châm biếm. Đối tượng tiếng cười trong thơ Tú Mỡ sau
Cách mạng là: tướng tá và binh lính thực dân, đế quốc - những kẻ đi xâm lăng
tàn ác nhưng hèn nhát và thường xuyên tạc sự thật về sự thảm bại thành…
thắng to; Việt gian và bọn bù nhìn - đây là bọn bán nước cầu vinh, kể từ các
ông cựu hoàng cho đến bọn khuyển ưng, tay sai và nguỵ quyền; tiếng cười
trong nội bộ - đối tượng trào phúng là quân dân ta với những vấn đề còn tồn
tại được phê phán để cùng tiến bộ. Chúng tôi cho rằng mảng thơ tự trào của
119
Tú Mỡ là một bộ phận không thể thiếu được khi nghiên cứu về tiếng cười
trong thơ ông. Chính ở mảng thơ này, chúng tôi đã nhìn thấy nhiều nét tính
cách của nhà thơ ảnh hưởng đến tư tưởng và các sáng tác của ông.
Ở chương 3, chúng tôi tập trung làm rõ nghệ thuật gây tiếng cười trong
thơ Tú Mỡ ở hai phương diện: thể loại và kĩ thuật ngôn từ. Để chuẩn bị cho
chương 3, chúng tôi cũng đã khảo sát nghiêm túc sáu tập thơ (nêu tên ở
chương 2) về phương diện thể loại và một số biện pháp nghệ thuật cơ bản,
qua đó có số liệu chính xác về số lượng các tác phẩm ở từng thể loại. Chúng
tôi thấy rằng: việc vận dụng các hình thức nghệ thuật dân gian và các thể thơ
truyền thống đã mang lại cho Tú Mỡ nhiều thành tựu. Tú Mỡ sử dụng các
hình thức nghệ thuật dân gian như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn; các
điệu chèo, hát xẩm … vào thơ trào phúng một cách thông minh và đạt hiệu
quả gây tiếng cười. Ở phương diện vận dụng thể thơ truyền thống, Tú Mỡ sử
dụng các thể lục bát, song thất lục bát, hát nói cho các bài thơ kể chuyện,
dùng thể thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn cho những bài thơ có
tính bình luận thời sự, thể thơ yết hậu thường để nói chuyện khôi hài, nhưng
cũng có khi Tú Mỡ dùng để đả kích, thể thơ tự do để kể và tả được nhiều
hiện thực hơn, ngoài ra còn nhiều thể khác như văn tế, phú, sớ, tụng,… Mỗi
thể loại, Tú Mỡ đều phát huy thế mạnh và khả năng biểu đạt vốn có của nó,
đồng thời cố gắng sáng tạo những khẩ năng biểu đạt mới cho các thể loại ấy,
chẳng hạn dùng thể phú, văn tế trang trọng để viết về những thứ bé mọn tầm
thường khiến mâu thuẫn giữa hình thức với nội dung đã bật thành tiếng cười
không cưỡng được. Chúng tôi khảo sát các biện pháp nghệ thuật gây cười
trong thơ Tú Mỡ ở các phương diện: Xây dựng hình ảnh thơ điển hình, biện
pháp chơi chữ, tương phản đối lập, giễu nhại, vật hoá, phóng đại, sử dụng từ
láy, lối kết thúc bất ngờ và lối đề cao để hạ thấp,... Các biện pháp đó được sử
dụng hợp lý, thành công, giàu sáng tạo. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú
Mỡ kết tinh nghệ thuật trào phúng dân gian, dân tộc với tinh hoa trào
120
phúng trong văn học phương Tây. Tú Mỡ đã tạo nên tiếng cười rất riêng
trong tác phẩm của mình.
Cho đến nay, nghệ thuật tạo tiếng cười của Tú Mỡ vẫn có tính ứng dụng
cao, cũng như ý nghĩa tư tưởng trong các tác phẩm trào phúng của ông vẫn có
tính thời đại to lớn. Tuy nhiên, trong toàn bộ sự nghiệp văn chương, người ta
thấy Tú Mỡ vẫn bộc lộ một số hạn chế như đôi chỗ sử dụng từ ngữ còn thô,
“quá đà”; lối bông phèng, vui tràn tiểu tư sản thời gian trước Cách mạng
tháng Tám; hạn chế về tư tưởng khi chưa nhận ra bộ mặt thật của Nhật ngay
từ khi chúng đảo chính Pháp. Đây là những hạn chế mang tính thời đại nhiều
hơn là chủ quan, về sau được nhà thơ thẳng thắn nhìn nhận lại. Tóm lại, sự
tồn tại của những lời thơ Tú Mỡ trong lời ăn tiếng nói của nhân dân cho đến
nay, sự nghiệp thơ ca trào phúng của ông để lại cho ngày nay đã khẳng định
vị trí của ông trong nền văn học và sức sống của tiếng cười Tú Mỡ trong đời
thường.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1_ Aristotle (2007), Nghệ thuật thy ca, NXB Lao động và TT Văn hoá
ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
2_ Nguyễn Huy Bỉnh (2010), Nghệ thuật gây cười trong truyện làng cười
xứ Bắc, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4/2010, tr. 54-67.
3_ Huỳnh Mẫn Chi, Học Lạc – Nhà thơ trào phúng đất Nam Bộ,
khoavanhoc_ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&vieu=art icle=2054%3Ahc-lc-nha-th-trao-phung-t-nam-b&catid=63%3Avn-hc-vit- nam&Itemid.
4_ Trương Chính, Phong Châu sưu tầm (1986), Tiếng cười dân gian Việt
Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5_ Xuân Diệu, Nhà thơ Tú Mỡ trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ của Mai
Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
6_ Xuân Diệu, Thơ ca kháng chiến của Tú Mỡ trong cuốn Tiếng cười Tú
Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
7_ Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân,... (2002), Văn học phương Tây, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
8_ Phan Cự Đệ, Tú Mỡ với Dòng nước ngược trong cuốn Tiếng cười Tú
Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
9_ Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu,... (2007), Văn học Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
10_ Trương Định tuyển chọn (2004), Ca dai trào phúng, hài hước, NXB
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
11_ Hà Minh Đức, Tiếng cười độc đáo giàu tính chiến đấu của Tú Mỡ trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
12_ Hà Minh Đức chủ biên (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
13_ Hà Văn Đức, Tú Mỡ (1900-1976) trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ của
Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
14_ Vu Gia (2008), Tú Mỡ- Người gieo tiếng cười, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
15_ Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,... (2000), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
122
16_ Nguyễn Đức Hạnh (2000), Mấy nét về cảm hứng thơ ca trong những năm đầu Cách mạng và kháng chiến chống Pháp, Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 9/2000, tr. 100-103.
17_ Phạm Thị Hằng (2001), Tiếng cười trong ca dao cổ truyền người
Việt, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
18_ Đặng Hiển, Cảm hứng Tết của nhà thơ trào phúng Tú Xương,
www.dthoi.com/forums/showthread.php?t=14573.
19_ Bùi Quang Huy (2004), Thơ trào phúng Việt Nam, NXB Đồng Nai,
Đồng Nai.
20_ Mai Hương (tuyển chọn), Tiếng cười Tú Mỡ (2000), NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
21_ Châu Nhiên Khanh tuyển chọn (2001), Ca dao Việt Nam, NXB
Đồng Nai, Đồng Nai.
22_ Đinh Gia Khánh chủ biên (2002), Văn học dân gian Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội
23_ Vũ Ngọc Khánh (2003), Thơ văn trào phúng Việt Nam, NXB Văn
hoá thông tin Hà Nội, Hà Nội.
24_ Vũ Ngọc Khánh (2009), Từ điển văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
25_ Choi Young Lan (2009), Tìm hiểu nghệ thuật trào phúng của Vũ
Trọng Phụng qua tiểu thuyết Số Đỏ, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH và Nhân văn, Hà Nội.
26_ Mã Giang Lân, Văn học hiện đại Việt Nam - Vấn đề - Tác giả, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
27_ Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
28_ Nguyễn Văn Long, Thơ ca kháng chiến của Tú Mỡ trong cuốn Tiếng
cười Tú Mỡ (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
29_ Hoàng Như Mai, Thơ Tú Mỡ trong kháng chiến chống Pháp trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
30_ Tú Mỡ, Trong bếp núc của Tự lực văn Đoàn trong cuốn Tiếng cười
Tú Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
31_ Tú Mỡ, Kinh nghiệm học tập và sáng tác thơ trào phúng trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 32_ Ngô Quang Nam (2006), Bút tre - Thơ và giai thoại, NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
123
33_ Vương Trí Nhàn, Tú Mỡ, Vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/t-
m.html.
34_ Đặng Quốc Nhật, Thơ trào phúng đánh giặc của Tú Mỡ sau Cách
mạng tháng Tám trong cuốn Tiếng cười Tú Mỡ (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
35_ Chu Thị Nhung (2008), Nghệ thuật trào phúng trong thơ Tú Mỡ,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội.
36_ Lữ Huy Nguyên (sưu tầm và tuyển chọn), Tú Mỡ thơ và đời, 1995,
NXB Văn học, Hà Nội.
37_ Lữ Huy Nguyên, Trần Thị Xuyến, Hồ Quốc Cường sưu tầm và biên
soạn (2008), Tú Mỡ toàn tập(3 tập), NXB Văn học, Hà Nội.
38_ Phạm Thế Ngũ, Cây bút trào phúng Tú Mỡ trong cuốn Tiếng cười
Tú Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
39_ Vũ Ngọc Phan, Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) trong cuốn Tiếng cười Tú
Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
40_ Vũ Văn Sỹ (2000), Thơ văn cách mạng 1930-1945 _ Bước chuẩn bị
ban đầu của nền văn học mới, Tạp chí Văn học số 2/2000, tr. 65-71.
41_ Văn Tân (1957), Tiếng cười Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội. 42_ Văn Tân (2004), V ăn học trào phúng Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến
1958 , NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43_ Hoài Thanh – Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội.
44_ Lê Thanh, Tú Mỡ- văn chương và tư tưởng trong cuốn Tiếng cười Tú
Mỡ của Mai Hương (2000), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
45_ Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và Tư duy thơ hiện đại Việt
Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
46_ Nguyễn Xuân Tính, Bàn thêm đôi điều về thơ trào phúng, www.ngheandost.gov.vn/vnn/ban-them-doi-dieu-ve-tho-trao-phung- p2t29c31a5162.aspx
47_ Du Yên (tuyển chọn) (2005), Ca dao trào phúng dân gian, NXB
Đồng Nai, Đồng Nai.
48_ Tú Mỡ, www.wikipedia.org/wiki/Tú_Mỡ. 49_ Bút Tre, www.wikipedia.org/wiki/Bút_Tre. 50_ Xích Điểu, www.wikipedia.org/wiki/Xích_ Điểu. 51_ Thợ Rèn, www.wikipedia.org/wiki/Thợ_Rèn.
124