ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TIỂU THUYẾT GARGANCHUYA (RABƠLE) TỪ

GÓC NHÌN THI PHÁP THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TIỂU THUYẾT GARGANCHUYA (RABƠLE) TỪ

GÓC NHÌN THI PHÁP THỂ LOẠI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lí luận văn học Mã số: 60.22.01.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thành Hƣng

Hà Nội - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là Nguyễn Thị Hồng Nhung, học viên cao học chuyên ngành Lý

luận văn học, khoá QHX-2014-X. Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Tiểu

thuyết Garganchuya (Rabơle) từ góc nhìn thi pháp thể loại là công trình

nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép bất cứ một công trình khoa học hay

luận văn nào đã đƣợc công bố trong và ngoài nƣớc.

Học viên

Nguyễn Thị Hồng Nhung

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất PGS.TS Phạm Thành Hƣng,

ngƣời thầy trực tiếp hƣớng dẫn và chỉ dạy em trong quá trình nghiên cứu và

thực hiện đề tài Tiểu thuyết Garganchuya (Rabơle) từ góc nhìn thi pháp thể

loại. Sự quan tâm, động viên của thầy là nguồn sức mạnh vô giá giúp em

hoàn thành đề tài luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng bảo vệ đề cƣơng

tháng 3/2016. Nhờ sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy cô, em đã khắc phục

đƣợc những thiếu sót trong luận văn.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại

học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Ban Chủ nhiệm Khoa Văn học đã

tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.

Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những ngƣời đã

luôn bên tôi, động viên và khuyến khích em trong quá trình thực hiện đề tài

nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2016

Ngƣời viết luận văn

Nguyễn Thị Hồng Nhung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 6

3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ............................................ 10

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 10

5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 11

NỘI DUNG ......................................................................................................... 12

Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT GARGANCHUYA TRONG DÕNG CHẢY VĂN HỌC PHỤC HƢNG ................................................................................. 12

1.1. Vài nét về thi pháp tiểu thuyết và văn học Phục hƣng ......................... 12

1.1.1. Vài nét về thi pháp tiểu thuyết ............................................................ 12

1.1.2. Khái lược về thời đại Phục hưng và nền văn học thời Phục hưng 19

1.1.2.1. Khái lược về thời đại Phục hưng .................................................... 19

1.1.2.2. Khái quát về nền văn học Phục hưng............................................. 25

1.2. Vị trí của tiểu thuyết Garganchuya và tác giả Frăngxoa Rabơle trong dòng chảy văn học Phục hƣng ............................................................... 30

1.2.1. Frăngxoa Rabơle – người đưa ma một thế giới đã lỗi thời bằng tiếng cười vui vẻ ............................................................................................... 30

1.2.2. Vị trí của tiểu thuyết Garganchuya trong dòng chảy văn học Phục hưng.... ................................................................................................... 33

Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT TỪ GÓC NHÌN LOẠI HÌNH ............................................................................................... 41

2.1. Giới thuyết về nhân vật tiểu thuyết .......................................................... 41

2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Garganchuya ................................. 42

2.2.1. Nhân vật người khổng lồ, lý tưởng - kiểu nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn .......................................................................................................... 42

2.2.2. Nhân vật vua, quan lại, quý tộc – hệ thống nhân vật hiện thực ......... 49

2.2.3. Nhân vật thầy tu – kiểu nhân vật hài kịch ........................................... 55

2.3. Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................... 58

1

2.3.1. Cách đặt tên nhân vật .......................................................................... 58

2.3.2. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật ........................................... 62

2.3.3. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình ......................................................... 65

Chƣơng 3: THI PHÁP KẾT CẤU VÀ TỔ CHỨC KHÔNG GIAN – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT .............................................................................. 70

3.1. Thi pháp kết cấu trong tiểu thuyết Garganchuya ................................... 70

3.1.1. Giới thuyết về thi pháp kết cấu ............................................................. 70

3.1.2. Các kiểu kết cấu trong tiểu thuyết Garganchuya ................................ 73

3.1.2.1. Kết cấu liên văn bản (intertextuality ).............................................. 73

3.1.2.2. Kết cấu theo trình tự thời gian ........................................................ 98

3.1.2.3. Về tổ chức điểm nhìn trần thuật của người kể ................................. 99

3.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya ...................... 102

3.2.1. Giới thuyết về không gian nghệ thuật ................................................ 102

3.2.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya.................... 104

3.2.2.1. Không gian của người khổng lồ, lý tưởng ...................................... 105

3.2.2.2. Không gian trần tục, hiện thực của người thường ......................... 110

3.3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya ........................... 113

3.3.1. Giới thuyết về thời gian nghệ thuật .................................................... 113

3.3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya ....................... 114

3.3.2.1. Thời gian tuyến tính - hiện thực ..................................................... 114

3.3.2.2. Thời gian siêu hình với “khoảng cách sử thi tuyệt đối” ................ 116

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 121

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 125

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Thời đại Phục hƣng là “bƣớc ngoặt tiến bộ, vĩ đại nhất, từ trƣớc đến bây

giờ loài ngƣời chƣa từng thấy”[9; 56] làm thay đổi mọi mặt kinh tế, chính trị -

xã hội, tôn giáo, tƣ tƣởng và tinh thần châu Âu. Cuộc vận động tƣ tƣởng và

văn hóa Phục hƣng đã để lại những mùa hoa trái tốt tƣơi, phong phú vô cùng.

Nó làm cho châu Âu, đặc biệt là Tây Âu nhƣ bừng thức dậy sau “đêm trƣờng

Trung cổ”, đƣa những nƣớc này tiến nhanh, tiến mạnh vào lịch sử cận đại.

Văn hóa Phục hƣng vì vậy đƣợc thừa nhận là một trong những nền văn hóa

rực rỡ của loài ngƣời. Nhắc đến văn học Phục hƣng, chúng ta không thể

không kể đến những tác phẩm lớn nhƣ Truyện mười ngày (Boccacio), Thần

khúc (Dante), Don Quixote (Miguel de Cervantès), Hamlet (William

Shakespeare), Gargantua và Pantagruel (Francois Rabelas)…Bằng tài năng

nghệ thuật, năng lực sáng tạo, cảm quan nhạy cảm với thời cuộc, những con

ngƣời trên đã thành công trong việc đƣa nền văn học chuyển mình, họ đã thắp

lên những ngọn lửa mới, những tƣ tƣởng mới, những nét đột phá về nghệ

thuật trong nền văn học. Văn học Phục hƣng đề cao sức mạnh, khả năng của

con ngƣời, nó lên án một cách gay gắt nền luân lí đạo đức phong kiến đã tỏa

chiết đời sống tâm hồn và tình cảm của con ngƣời. Bàn về con ngƣời,

Shakespeare đã có lúc ngất ngây ca ngợi: “…kỳ diệu thay là con ngƣời. Con

ngƣời cao quý làm sao về lý trí, vô tận sao về năng khiếu!”. Văn học Phục

hƣng đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh để giải phóng con ngƣời ra

khỏi chế độ phong kiến Trung Cổ và mở đƣờng cho những hệ tƣ tƣởng mới

phát triển. Thời đại Phục hƣng là “bức màn bí ẩn”, là đề tài nghiên cứu đáng

quan tâm nếu chúng ta muốn có những đánh giá đúng nhất về thời kì văn học

vĩ đại này.

3

Frăngxoa Rabơle (Francois Rabelais, 1894 – 1553) không những là nhà

tiểu thuyết, nhà văn xuất sắc nhất của văn học Pháp mà còn là một trong

những cây bút kiệt xuất của thời đại Phục hƣng. Ông là bậc thầy của nghệ

thuật tiếng cƣời và của tiểu thuyết. Ông sở hữu một thành tựu văn học đáng tự

hào của văn học Phục hƣng: Garganchuya và Păngtagruyen (Gargantua và

Pantagruel). Ngoài bộ tiểu thuyết đồ sộ gồm 5 tập này, Rabơle còn có nhiều

công trình nghiên cứu về y học và khảo cổ học. Ông còn cho in lại những

sách y học của những bậc danh y cổ đại, có kèm lời bàn của chính mình. Một

nhà văn cùng thời với Rabơle, Echien Pakie cho rằng: “Trong chúng ta không

ai không biết Rabơle uyên bác đến thế nào khi đùa tếu một cách thông thái.

Trong Garganchuya và Păngtagruyen ông đã chiếm đƣợc tình yêu của dân

chúng”. Các tác giả lãng mạn Pháp, đặc biệt là Chauteaubriand và V.Hugo liệt

ông vào hàng rất ít ỏi “những thiên tài nhân loại” vĩ đại nhất đối với mọi thời

đại và mọi dân tộc. Đối với các nhà văn cùng thời hay đối với các thế hệ nhà

văn sau này, Rabơle đều có tầm ảnh hƣởng nhất định. M. Bakhtin cho rằng

“Rabơle là tác giả khó hiểu nhất trong tất cả những tác giả cổ điển của văn

học thế giới” [11;35]. Chính vì thế, rất nhiều nhà nghiên cứu không thể hiểu

đƣợc quan điểm, suy nghĩ của Rabơle. Cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều khía

cạnh của Rabơle và sáng tác của ông cần đi sâu, tìm hiểu và khám phá.

Garganchuya là cuốn đầu tiên trong bộ tiểu thuyết Garganchuya và

Păngtagruyen đƣợc Rabơle viết vào năm 1534, tức là hai năm sau khi cuốn

Păngtagruyen ra đời. Garganchuya đƣợc xuất bản với bút danh tƣơng tự nhƣ

cuốn Păngtagruyen: Alcofribas Nasier (đảo các chữ cái từ tên thật: Francois

Rabelais). Cuốn sách đƣợc bán rất chạy và đƣợc tái bản gần nhƣ từng năm

một trong hai mƣơi năm tiếp sau đó nhƣng cũng lập tức bị đại học đƣờng

Sorbonne xếp vào “sổ đen”. Thành công của Francois Rabelais trong

Garganchuya không chỉ ở nội dung với những những tƣ tƣởng, triết lí sâu sắc

4

mới mẻ, thâm thúy mà còn ở sự điêu luyện trong nhiều phƣơng diện thi pháp

biểu hiện. Garganchuya là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phƣơng pháp sáng

tác văn học thời Trung cổ và ý thức sáng tạo của nhà văn.

Garganchuya là đại diện tiêu biểu cho văn học Phục hƣng và bản dịch

Tiếng Việt đƣợc xuất bản tại Việt Nam vào năm 1983. Tuy nhiên, cho đến

này tác phẩm này vẫn là một mảnh đất màu mỡ, ẩn chứa nhiều bí ẩn, hấp dẫn

cho các tiếp cận, nghiên cứu.

Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định triển khai đề tài Tiểu thuyết

Garganchuya từ góc nhìn thi pháp thể loại mong góp một phần nhỏ vào

hành trình khám phá bí ẩn về của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này.

Trƣớc khi triển khai đề tài, chúng tôi muốn nói một chút về tên của tác

phẩm Garganchuya. Cuốn tiểu thuyết này trong tiếng Anh có tên đầy đủ là

The Very Horrific Life of Great Gargantua, Father of Pantagruel; tên tiếng

Pháp là La vie très horrifique du grand Gargantua, père de Pantagruel (nghĩa

là Tiểu sử tối kinh khủng của Gargăngchuya vĩ đại, cha của Păngtagruyen –

theo bản dịch của Tuấn Đô). Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, tên ngắn gọn của

tiểu thuyết này đều là Gargantua. Trong quá trình chuyển ngữ, nghiên cứu tại

Việt Nam, tên của cuốn sách này đƣợc phiên âm theo nhiều cách khác nhau.

Tuấn Đô, dịch giả đầu tiên và duy nhất của hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của

Rabơle tại Việt Nam, chuyển ngữ Gargantua thành Gargăngchuya. Từ điển

văn học (Bộ mới), Gargantua đƣợc ghi thành Gacgăngchuya. Trong bài viết

Nhân vật nghịch dị trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam, ThS Huỳnh Thu

Hậu có viết Gargantua thành Gargangchuya. Nhƣ vậy, mỗi tác giả, mỗi văn

bản lại có cách viết khác nhau cho tên tiểu thuyết Gargantua khi chuyển tên

tác phẩm này sang Tiếng Việt chứ chƣa có cách viết thống nhất. Dựa vào

cách phát âm trong Tiếng Anh của Gargantua là /ga:r’gæntʃ u:ə/, chúng tôi

5

cho rằng cách viết Garganchuya sẽ phù hợp hơn vì vậy chúng tôi sẽ sử dụng

cách viết này cho toàn bộ luận văn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trƣớc hết khi nói đến thời đại Phục Hƣng, thời đại mà con ngƣời nỗ

lực khôi phục lại những giá trị văn hóa cổ đại nhằm tạo ra một sự kết hợp

giữa các giá trị nhân văn cổ đại với tinh thần hƣớng tới tự do và khát vọng,

muốn đƣợc giải phóng khỏi mọi thiết chế áp bức của phong kiến và nhà thờ.

Ăng-ghen đã đánh giá rằng: “Đó là một cuộc mạng vĩ đại nhất mà loài ngƣời

chƣa từng thấy, một thời đại cần đến những con ngƣời khổng lồ, và sản sinh

ra những con ngƣời khổng lồ, khổng lồ về tƣ tƣởng, về nhiệt tình và về tính

cách, khổng lồ về tài năng mọi mặt và sự hiểu biết sâu rộng của họ”[3;8].

Quả nhiên là nhƣ vậy, điều đầu tiên mà con ngƣời nhận thức đƣợc là

một quan niệm khác về vũ trụ, về thế giới. Đó là thuyết Nhật tâm của Nicôla

Côpecnic- nhà thiên văn học tài ba và dũng cảm ngƣời Ba Lan. Lý thuyết này

tạo ra một cách nhìn mới về thế giới, nó làm sụp đổ quan niệm về thế giới

đƣợc xây dựng trên thuyết Địa tâm do C. Ptôlêmê (Ptolemy) đề xƣớng. Quan

niệm của N. Côpecnic (Nicolaus Copernicus) tạo ra “một cuộc cách mạng

trên trời” làm đảo lộn thế giới quan của thời đại, quan niệm này đả phá cái

nhìn lạc hậu về sự tồn tại lâu dài của chế độ phong kiến. Thứ hai, việc ngƣời

Thổ Nhĩ Kì chiếm giữ Cônxtantinôp (Constantinople - Ixtanbun ngày nay) –

cắt đứt con đƣờng tơ lụa Âu – Á dẫn đến việc xuất hiện các đoàn thám hiểm

bằng đƣờng biển tìm đƣờng đi tới Ấn Độ. Kết quả không ngờ là năm 1492

Crixtôp Côlômbô (Cristoforo Colombo) đã tìm ra một châu lục mới chƣa từng

đƣợc Châu Âu biết tới đó là Châu Mĩ.

Tiếp theo đó là các nhận thức về tinh thần thời đại. Tƣ tƣởng nhân văn

là tƣ tƣởng cơ bản của thời kì Phục Hƣng, là yếu tố then chốt tạo ra giá trị cho

các tác phẩm văn học nghệ thuật thời kì này. Chủ nghĩa nhân văn là sản phẩm

6

của một thời kì lịch sử- cụ thể, thời kì Phục Hƣng, thời kì khổng lồ, thời kì

bƣớc ngoặt. Nó là sự kết tinh cao nhất tinh thần thời đại. Trong bài viết chủ

nghĩa nhân văn và chủ nghĩa xã hội của nhà nghiên cứu V.P.Vôn- ghin đã đƣa

ra nhận định: “Chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những quan điểm đạo đức và

chính trị bắt nguồn không phải từ các gì siêu nhiên, kì ảo, từ những nguyên lí

ngoài đời sống của nhân loại mà từ đời sống của con ngƣời tồn tại trên mặt

đất với những nhu cầu, những khả năng trần thế và hiện thực của nó và những

nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi phải phát triển đầy đủ, phải đƣợc thỏa

mãn” [3;11]. Với niềm tin mãnh liệt nhƣng ngây thơ, đầy tính lí tƣởng và

mộng mơ, các nhà nhân văn chủ nghĩa hi vọng sẽ tạo ra đƣợc một xã hội mới.

Nhƣng họ quên rằng khi phế bỏ quyền sở hữu phong kiến thì giai cấp mới đó

là giai cấp tƣ sản cũng sẽ xác lập quyền sở hữu của nó một cách “trắng trợn

hơn, công nhiên hơn và vô liêm sỉ” hơn. Do vậy, sang thế kỉ thứ XVI khi giai

cấp tƣ sản đã có một vài chỗ đứng chân, đặc biệt khi đồng tiền tƣ sản đã bắt

đầu bộc lộ sức mạnh và bản chất của nó thì chủ nghĩa nhân văn lâm vào tình

trạng khủng hoảng. Thomat Môrơ (Thomas More) trong quyển Không tưởng

(Utopie) đã thừa nhận “con đƣờng duy nhất để mƣu cầu hạnh phúc cho xã hội

là thừa nhận nguyên lí bình đẳng về mặt của cải. Nhƣng bình đẳng và tƣ hữu

là những cái không thể dung hòa nhau đƣợc” [3; 14] cuối cùng nó rơi vào tình

trạng khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi. Đứng trƣớc thời thế “đảo lộn

tiến bộ” trên, Sếchxpia viết kịch nhằm để diễn, để “chìa ra một tấm gƣơng tự

nhiên nhằm làm cho đạo đức thấy hình ảnh của nó, thói vô đạo đức tự biết

khinh bỉ và mỗi thế kỉ, cả thời đại có thể nhận ra tính cách bộ mặt của

nó”[6;198]. Còn Rabơle thì chế giễu, đả kích, lên án thế giới Trung cổ, phong

kiến và nhà thờ bằng tiếng cƣời.

7

Tiếp theo, khi đi vào nghiên cứu về Rabơle và Garganchuya, chúng tôi đã

chắt lọc đƣợc một số ý kiến của các nhà phê bình trực tiếp hoặc gián tiếp có

liên quan đến đề tài nhƣ sau:

Trong cuốn Văn học Phương Tây, các tác giả đã cho rằng: “Bộ tiểu thuyết

Garganchuya và Păngtagruyen là cả một thế giới phức tạp, phong phú vô

cùng, đa dạng vô cùng. Nói đúng ra, Rabơle và tác phẩm của ông đều là sản

phẩm của một thời đại đang chuyển mình, thời kì quá độ từ Trung cổ sang

thời Cận đại…Giữa bấy nhiêu sự phức tạp, Rabơle đã tìm ra một phƣơng thức

độc đáo để biểu hiện tƣ tƣởng của mình. Dùng tiếng cƣời, mƣợn những huyền

thoại, vận dụng trí tƣởng tƣợng giàu có của mình, bằng lối ẩn dụ và bằng

nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nữa, ông đƣa ngƣời đọc vào một thế giới kì lạ,

nửa thực nửa hƣ, đầy rẫy những vấn đề phức tạp, những con toán đòi đƣợc

giải đáp. Cách giải đáp của ông lại nửa nghiêm trang nửa cƣời cợt, ngƣời đọc

phải tự rút ra kết luận cho mình [6;151]. Đồng thời trong cuốn sách này, các

tác giả cũng đi phân tích bộ tiểu thuyết đồ sộ của Rabơle trong những vấn đề

liên quan chính trị, xã hội, tôn giáo, đạo đức, giáo dục và nghệ thuật tiếng

cƣời.

Cuốn Lịch sử văn học Pháp Trung cổ - Thế kỉ XVI và thế kỉ XVII (tập 1) có

một bài viết sâu sắc về tiểu thuyết của Rabơle. Qua lời nhận xét đó chúng tôi

rút đƣợc ra một số kết luận nhƣ sau: Tiểu thuyết Garganchuya đƣợc xây dựng

theo lối các truyện kể dân gian về ngƣời khổng lồ; Tiếng cƣời trong tiểu

thuyết của Rabơle không chỉ là tiếng cƣời đả kích, châm biếm mà còn là tiếng

cƣời tích cực, phục sinh và sáng tạo.

Cuốn sách Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung

cổ và Phục hưng của M.M.Bakhtin do TS. Từ Thị Loan dịch có thể xem là

công trình quy mô lớn nhất về tiểu thuyết Garganchuya và Păngtagruyen mà

độc giả Việt Nam đƣợc tiếp nhận. Nhà khoa học nhân văn, nhà lý luận phê

8

bình văn học lỗi lạc của thế kỉ XX, M.M.Bakhtin là nhà nghiên cứu đầu tiên

đã cắt nghĩa và giải mã đƣợc văn hóa hài dân gian trong tiểu thuyết của

Rabơle. Toàn thế giới công nhận cuốn sách này không chỉ nhƣ một sự kiện

lớn nhất trong lịch sử nghiên cứu và kiến giải Rabơle, mà còn là một công

trình kiệt xuất về lý luận và triết học văn hóa nhân loại. Bakhtin đã lột tả đặc

trƣng thẩm mỹ của tiếng cƣời Rabơle, phân tích ý nghĩa mỹ học và triết học

của tiếng cƣời hội hè dân gian đồng thời làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tiếng

cƣời ấy với nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hƣng. Ngoài ra, Bakhtin

còn có bài nghiên cứu Rabelais và Gogol: Nghệ thuật ngôn từ và văn hóa

trào tiếu dân gian đƣợc Từ Thị Loan dịch. Trong bài này, M. Bakhtin sử dụng

sáng tác của Rabơle nhƣ chiếc chìa khóa giải nghĩa các yếu tố văn hóa trào

tiếu dân gian của Gogol.

Là tác phẩm nổi bật của thời đại Phục hƣng Pháp, vì thế Garganchuya

nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của giới phê bình. Ở nƣớc ngoài có nhiều bài

phê bình và các công trình nghiên cứu về tác phẩm này bằng tiếng Anh, tiếng

Trung. Có thể kể tới nhƣ:

 Ambiguity, Detachment, and Joy in "Gargantua" (1976), Ian R.

Morrison, The Modern Language Review, Vol. 71, No. 3, pp. 513-522.

 Comic elements in Rabelais' Pantagruel and Gargantua (1993),

Damianides, Effie A.

 On the Relation between Gargantua and Pantagruel and the

Literature of Chivalry (2011), ZHANG Cheng-jun, Xuzhou Normal

University.

 Study of Grotesque Imagery: A Case Study of Gargantua and

Pantagruel of F.Rabelais (2011), HAN Zhen-jiang, School of

Humanities and Social Sciences, Dalian University of Technology.

9

 From popular culture to enlightenment: Rabelais’ Pantagruel

and Gargantua as instruction manuals (2012) Ashley Robb.

Trong khi ở nƣớc ngoài, Garganchuya là đề tài nghiên cứu khoa học đƣợc

khá nhiều ngƣời quan tâm thì ở Việt Nam, địa hạt này gần nhƣ là một mảnh

đất trống. Trên cở sở đó, chúng tôi quyết định triển khai đề tài Tiểu thuyết

Garganchuya (Rabơle) từ góc nhìn thi pháp thể loại. Đây là một đề tài mới

mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với nghiên cứu lý luận phê bình cũng nhƣ tiếp

nhận và sáng tạo văn học.

3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Những đặc điểm của thi pháp tiểu thuyết trong tác

phẩm Garganchuya.

Phạm vi đề tài: Luận văn khảo cứu trên bản dịch Garganchuya tiếng Việt

do Tuấn Đô chuyển ngữ, in năm 1983.

Mục đích nghiên cứu: Từ những lý thuyết về đặc trƣng của thể loại tiểu

thuyết: nhân vật, kết cấu, không gian và thời gian tiểu thuyết…chúng tôi

quyết định khảo sát tiểu thuyết Garganchuya để tìm những nét kế thừa văn

xuôi kể chuyện Trung cổ, đồng thời khám phá những nét mới trong tác phẩm.

Qua đó đề xuất một cách tiếp cận Garganchuya trong quan hệ liên thông giữa

tác giả và tác phẩm.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu:

- Phƣơng pháp cấu trúc: Chúng tôi đặc biệt chú trọng vận dụng lý

thuyết tự sự học và thi pháp thể loại.

- Phƣơng pháp phân tích: Chúng tôi sẽ phân tích, tìm hiểu các đặc

điểm về nhân vật, ngôn ngữ, thời gian, không gian, kết cấu…trong tác phẩm.

10

- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa – lịch sử (trƣờng phái có từ Hippolyte

Taine): Chúng tôi sẽ tận dụng những kiến giải hữu lý của Taine về các yếu tố

chủng tộc – Môi trƣờng – Thời đại chi phối sự xuất hiện và nội dung hình

tƣợng tác phẩm.

5. Cấu trúc luận văn

Luận văn này của chúng tôi có cấu trúc đƣợc chia làm ba phần gồm: mở

đầu, nội dung và kết luận.

Riêng phần nội dung, chúng tôi triển khai đề tài thành ba chƣơng cụ thể

nhƣ sau:

Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT GARGANCHUYA TRONG DÕNG CHẢY

VĂN HỌC PHỤC HƢNG

Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT TỪ GÓC

NHÌN LOẠI HÌNH

Chƣơng 3: THI PHÁP KẾT CẤU VÀ TỔ CHỨC KHÔNG GIAN – THỜI

GIAN NGHỆ THUẬT

11

NỘI DUNG

Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT GARGANCHUYA TRONG DÕNG CHẢY

VĂN HỌC PHỤC HƢNG

1.1. Vài nét về thi pháp tiểu thuyết và văn học Phục hƣng

1.1.1. Vài nét về thi pháp tiểu thuyết

Trƣớc khi đi tìm hiểu sâu về thi pháp tiểu thuyết, chúng tôi xin đƣợc điểm

lại một số nét khái quát về thi pháp học và tiểu thuyết để từ đó đƣa ra một số

đặc điểm của thi pháp tiểu thuyết, sự khác biệt giữa thi pháp tiểu thuyết với

các thể loại khác.

Thi pháp học đã không còn là cụm từ xa lạ với giới nghiên cứu văn học

trong nƣớc cũng nhƣ trên thế giới. Cách đây 2300 năm, công trình Thi pháp

học (Poetika) của Aristote (Aristoteles) đã đặt những viên gạch đầu tiên cho

việc ra đời của một hƣớng nghiên cứu phổ biến và thịnh hành nhất ở thế kỉ

XX, XXI. Thi pháp học đã trải qua những bƣớc thăng trầm và đang hồi sinh.

Viện sĩ Nga M.Khrapchencô đã xác nhận: “Trong thời đại ta (Thế kỉ XX),

hứng thú về thi pháp học ngày càng tăng”. Nhà nghiên cứu Pháp Jean-Yves

Tadié nói: “Từ chủ nghĩa hình thức Nga, thi pháp học bắt đầu phục hƣng”.

Trong thời cổ đại và trung đại, Thi pháp học cùng với Từ chƣơng học

(Rhétorique) thuộc vào bộ môn nghiên cứu quy tắc viết văn, phần nhiều rất

chi tiết, quy phạm, phiền toái, gần nhƣ là những công thức văn chƣơng, làm

ngƣời ta chán. Đến thế kỉ XVII với chủ nghĩa cổ điển, thi pháp càng chặt chẽ

trong các quy phạm mô phỏng tự nhiên. Sang thế kỉ XVIII-XIX, với chủ

nghĩa Khai sáng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thƣc, lý luận văn học

hiện đại bắt đầu xuất hiện. Ngƣời ta đòi hỏi sức sáng tạo, giải phóng cá tính

và sức tƣởng tƣợng, chống lại mô phỏng và những quy tắc ràng buộc nhà văn.

Thi pháp học truyền thống không còn đƣợc tôn sùng nhƣ trƣớc. Theo

M.H.Abrams trong sách Gương và đèn (1953), cả hai thế kỉ XVIII và XIX là

12

thời gian đấu tranh chống lại các tín điều của thi pháp cổ điển nhằm khẳng

định tinh thần nghệ thuật mới. Khi thi pháp học truyền thống bắt đầu trở nên

giáo điều, kinh viện, sự phát triển và vận động của văn học không chấp nhận

sự soi sáng của hƣớng nghiên cứu này trong đời sống của nó nữa thì thi pháp

học đã chọn con đƣờng thay đổi để khẳng định vị trí của mình một lần nữa.

Trần Đình Sử trong cuốn Dẫn luận thi pháp học đã gọi đó là thi pháp học

hiện đại để phân biệt với thi pháp học truyền thống. Nhà nghiên cứu này cũng

đƣa ra một loạt những ƣu điểm nổi trội hơn hẳn của hƣớng nghiên cứu theo

thi pháp học hiện đại so với thi pháp học truyền thống. Thi pháp học hiện đại

luôn chú ý quan sát bản chất sáng tạo của chủ thể. Thi pháp học hiện đại xem

nghệ thuật nhƣ một tổ chức siêu tổng cộng nhằm xem xét nghệ thuật trong

tính cấu trúc, chỉnh thể, hệ thống. Thi pháp học hiện đại quan tâm đến việc

đặt nghệ thuật trong hoàn cảnh lịch sử văn hóa sản sinh ra chúng, đến việc

đọc và giải mã văn bản.

Trải qua một thời kì phát triển lâu dài, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đƣa

ra quan điểm, định nghĩa về thi pháp học. Viện sĩ M.Khrápchencô cho rằng

thuật ngữ poetika cần đƣợc hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là các nguyên

tắc thi pháp vốn tồn tại trong văn học và nghĩa thứ hai là khoa học nghiên cứu

về thi pháp. Viện sĩ Avêrinxép thì cho rằng: “Thi pháp là hệ thống những

nguyên tắc sáng tạo của một tác giả, một trƣờng phái, hay cả một thời đại văn

học, tức là những gì mà nhà văn nào cũng sáng tạo ra cho mình, bất kể là có ý

thức tự giác hay không. Một thi pháp nhƣ thế đã tồn tại rất lâu đời trong văn

học, hàng nghìn năm trƣớc khi có Aristote”. Nhà lí luận văn học ngƣời

NgaV.Girmunxki: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) với

tƣ cách là một nghệ thuật”. Viện sĩ V.Vinôcrađốp nói rằng: “Thi pháp học là

khoa học nghiên cứu về các hình thức, các dạng thức, các phƣơng tiện, các

phƣơng thức tổ chức tác phẩm của sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và

13

các thể loại tác phẩm văn học. Nó muốn bao quát không chỉ các hiện tƣợng

ngôn từ thơ, mà còn gồm cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn

học và sáng tác dân gian”. Cuốn Từ điển Bách khoa văn học giản yếu Nga

cũng ghi: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của các tác phẩm văn học và

hệ thống những phƣơng tiện thẩm mỹ mà chúng sử dụng”. Paul Valery phát

biểu: “Chúng tôi cho rằng tên gọi thích hợp sẽ là thi pháp học (poétique) nếu

nhƣ hiểu từ đó với ý nghĩa từ nguyên học, tức là tên gọi chỉ tất cả những gì

liên quan tới sáng tạo, tức là sự tạo thành, kết cấu tác phẩm văn học mà ngôn

từ của chúng vừa là thực tế, vừa là phƣơng tiện, chứ không phải với nghĩa hẹp

hơn, nhƣ là tập hợp các quy tắc mỹ học liên quan đến thi ca”. Từ điển văn học

(bộ mới) định nghĩa: “Thi pháp học (còn gọi là thi học) nghiên cứu cấu tạo

của tác phẩm văn học với các nguyên tắc, phƣơng thức và phƣơng tiện của

nó”. Mặc dù M.Pôliakốp xác nhận: “Cho đến nay chƣa có một câu trả lời

chung đủ sức thuyết phục cho câu hỏi: “Thi pháp học là gì?” nhƣng sự ra đời

của thi pháp học luôn đƣợc coi nhƣ một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử nghiên

cứu văn học. Thi pháp học đã góp phần khắc phục những quan điểm sơ lƣợc

về bản chất và đặc trƣng của văn học. Thi pháp học không chỉ có nhiệm vụ

nghiên cứu, hệ thống hóa các yếu tố hình thức riêng lẻ, các khuôn hình, mà

còn chủ yếu nghiên cứu các hình thức biểu hiện nội dung, gắn bó với nội

dung, là hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học.

Trên đây là một số điểm khái quát về thi pháp học, còn tiểu thuyết thì sao?

Tiểu thuyết là gì và tiểu thuyết ra đời nhƣ thế nào? Xã hội loài ngƣời ngày

càng phát triển thì tâm lý con ngƣời, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở

nên phức tạp, hoàn cảnh thực tế đó đòi hỏi văn học phải có một thể loại đủ

sức để chứa sự phức tạp ấy. Thể loại đó chính là tiểu thuyết. So với các thể

loại khác, tiểu thuyết ra đời muộn hơn nhƣng nó lại nhanh chóng trở thành cái

máy cái của văn học. Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kì xã hội cổ

14

đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Cá nhân con ngƣời lúc ấy không còn thấy

lợi ích và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại nữa,

nhiều vấn đề của cuộc sống riêng tƣ đặt ra gay gắt. Bêlinxki khi phân tích về

nguồn gốc tiểu thuyết đã viết rằng: “Tiểu thuyết bắt đầu phát sinh từ lúc vận

mệnh con ngƣời, mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân đƣợc ý thức.

Vì vậy đời sống cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh

hùng ca Hi Lạp nhƣng có thể là nội dung của tiểu thuyết”. Xã hội ngày càng

biến động và chính điều đó là mảnh đất thuận lợi và màu mỡ cho những hạt

giống đầu tiên của tiểu thuyết phát triển. Sự ra đời của Đônkihôtê,

Garganchuya…đã đƣa tiểu thuyết thời kì Phục hƣng (thế kỉ XIV-XVI) sang

một trang mới. Thế kỉ XIX đã trở thành thời đại hoàng kim của tiểu thuyết với

sự xuất hiện của các cây bút bậc thầy nhƣ Stendhal, Banzal, Gogol,

L.Tolsoi…Bằng tài năng nghệ thuật của mình, các nhà văn xuất sắc của chủ

nghĩa hiện thực phê phán đã tạo nên những mẫu mực hoàn thiện của thể loại.

Sang thế kỉ XX, trào lƣu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng tạo nên

nhiều nhà tiểu thuyết lớn nhƣ M.Gorki, A.Tônxtôi, Sôlôkhôp,

Erenbua…Trong những cuốn tiểu thuyết này, vấn đề số phận con ngƣời cá

nhân luôn đƣợc đặt trong mối liên hệ với giai cấp, dân tộc, đất nƣớc; những

sự kiện lịch sử cũng đƣợc vận dụng theo hƣớng khái quát, mang ý nghĩa thời

đại lớn lao.

Mầm mống tiểu thuyết ở Trung Quốc cũng xuất hiện sớm, vào thời Ngụy

Tấn (thế kỉ III-IV) dƣới dạng truyện ghi chép những việc, những ngƣời ngoài

giới hạn kinh sử. Đến thời Minh Thanh thì tiểu thuyết chƣơng hồi Trung

Quốc đã đạt đến một trình độ lão luyện và phát triển rực rỡ.

Ở Việt Nam tiểu thuyết xuất hiện khá muộn, mãi tới đầu thế kỉ XVIII, với

tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn khí, Hoàng Lê nhất thống chí nƣớc ta

mới xuất hiện tác phẩm có quy mô tiểu thuyết. Tuy nhiên, phải sang đầu thế

15

kỉ XX, nhất là với dòng văn lãng mạn (tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn)

và hiện thực phê phán (Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…) ở Việt

Nam mới có tiểu thuyết hiện đại. Trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân

tộc, đội ngũ các nhà tiểu thuyết Việt Nam ngày càng trở nên đông đảo:

Nguyễn Huy Tƣởng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh

Châu, Nguyên Ngọc…Các thế hệ nhà văn với những diện mạo, bản lĩnh nghệ

thuật mới đã và đang tạo ra sức sống lâu bền và khẳng định vị trí riêng của

tiểu thuyết trong sự phát triển của văn học dân tộc mấy chục năm qua. Bằng

việc khái quát quá trình hình thành và chặng đƣờng phát triển của tiểu thuyết,

ta thấy tiểu thuyết luôn có sự vận động, phát triển đi lên gắn với sự tiến lên

của xã hội loài ngƣời và chính những gì diễn ra trong xã hội loài ngƣời đã tạo

nên những đặc điểm của tiểu thuyết.

Theo quan niệm của M.Bakhtin, tiểu thuyết là “thể loại văn chƣơng duy

nhất đang hình thành và chƣa xong xuôi” [22; 21]. Ông ví sự hình thành và

phát triển của tiểu thuyết “đang diễn ra dƣới ánh sáng ban ngày của lịch sử,

bộ xƣơng của tiểu thuyết chƣa hoàn toàn cứng cáp, chúng ta không dự đoán

đƣợc tạo hình của nó”. Xoay quanh khái niệm “tiểu thuyết”, giới nghiên cứu

trong nƣớc và nƣớc ngoài cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau. Tác giả của

cuốn Đỏ và đen coi “Tiểu thuyết là mảnh đất lƣu giữ hình bóng cuộc đời” hay

“tấm gƣơng đi rong trên đƣờng cái, nó phản chiếu cả sắc thanh thiên của bầu

trời lẫn rác rƣởi bên trong”. Tiểu thuyết gắn liền với từng hơi thở phập phồng

của cuộc sống, tiểu thuyết gắn liền với cả mặt xấu và tốt của con ngƣời, của

cuộc đời.

Banzal gọi tiểu thuyết là “lời nói hƣ cấu trang nghiêm”. Warren, Wellek

nói: “Văn học mang tính tƣởng tƣợng thì gọi là tiểu thuyết (fiction), là hƣ

cấu”, “toàn bộ hiện thực mà tiểu thuyết thể hiện gọi là ảo giác của hiện thực”

“các nhà tiểu thuyết vĩ đại đều có một thế giới riêng của mình, mọi ngƣời có

16

thể từ đó mà thấy đƣợc toàn thế giới, thấy đƣợc sự trùng hợp với kinh nghiệm

của mình”[21;237-238]. Susanne K.Langer nói: “Tiểu thuyết là loại hình văn

học phong phú nhất, đặc điểm phồn tạp nhất, lƣu hành rộng rãi nhất, nhƣng

nó lại là hiện tƣợng xuất hiện tƣơng đối muộn, hình thức nghệ thuật vẫn đang

phát triển, kết cấu hoàn toàn mới và thủ pháp nghệ thuật của nó khiến các nhà

phê bình cảm thấy kinh ngạc [20;334].

Phạm Quỳnh khi Khảo về tiểu thuyết cho rằng: “Nay cứ lý hội các tính

cách chung chung của tiểu thuyết đời nay thì có thể giải nghĩa nhƣ thế này:

tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự ngƣời ta,

phong tục xã hội hay những sự kì lạ tích kỳ, đủ làm cho ngƣời đọc có hứng

thú” [18;10]. Nghĩa là trong quan niệm của ông, tiểu thuyết thiên về những

câu chuyện kể có tính chất phiêu lƣu và tình ái.

Thạch Lam với Vài ý kiến về tiểu thuyết lại chú ý nhiều đến ý nghĩa của

thể loại: “Tiểu thuyết giúp cho đời sống bên trong dồi dào, sâu sắc thêm. Một

quyển tiểu thuyết là để xem chứ không phải để đọc (…) ngƣời đọc tiểu thuyết

là một ngƣời đọc yên lặng, hay nghĩ ngợi, suy xét và tìm trong tâm lý các

nhân vật của truyện những tƣ tƣởng và ý nghĩ của chính mình” [23;38].

Ma Văn Kháng trong bài viết Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá cuộc sống

- Báo văn nghệ số 17 (25/4/1998) lại đề cao khả năng phản ánh và khai thác

vấn đề của thể loại: “Tiểu thuyết là mảnh đất lƣu giữ hình bóng cuộc đời (…)

là nghệ thuật khám phá cuộc sống. Mỗi cuốn tiểu thuyết là một ngày hội lớn

cảm xúc và ý nghĩa” [23;435].

Từ điển văn học (bộ mới) có ghi: “Tiểu thuyết là thuật ngữ chỉ thể loại tác

phẩm tự sự, trong đó có sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân

trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây đƣợc khai

triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ

cấu của nhân cách”.

17

Tóm lại, tiểu thuyết (Tiếng Pháp: Roman; Tiếng Anh: Novel) là một thể

loại lớn nằm trong phƣơng thức tự sự có khả năng phản ánh hiện thực đời

sống một cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian, khả năng

khám phá một cách sâu sắc những vấn đề thuộc thân phận con ngƣời thông

qua những tính cách đa dạng, phức tạp và khả năng tái hiện bức tranh mang

tính tổng thể rộng lớn về đời sống xã hội” [7;328].

Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự có dung lƣợng lớn, là thể loại đƣợc sử dụng

để sáng tác phổ biến ở thời kì cận đại và hiện đại. Với sự phong phú trong

hình thức trần thuật, tác phẩm tiểu thuyết có khả năng miêu tả một cách toàn

vẹn lịch sử của nhiều mảnh đời, có sức tái hiện xã hội chân thực và sống động

trên nhiều phƣơng diện theo thế giới quan, cách nhìn nhận cuộc sống của nhà

văn.

Tiểu thuyết khắc họa hình ảnh về con ngƣời xã hội với tƣ cách cá nhân, tự

đƣơng đầu với thế giới tự nhiên và xã hội. Nhân vật trong tiểu thuyết đƣợc soi

chiếu dƣới mọi góc độ từ vẻ ngoài cho đến nội tâm bên trong một cách sinh

động và phong phú, có sức khơi gợi trong suy tƣởng của độc giả về con ngƣời

trƣớc những mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội.

Thế giới trong tiểu thuyết chính là hình ảnh phản chiếu của thực tại, chỉ

khác là cái thế giới ấy cũng những diễn tiến của những mối quan hệ phức tạp

trong đó phần nào mang một ít chủ kiến của ngƣời viết để nhằm diễn tả những

ý đồ, tƣ tƣởng của bản thân. Mỗi cá nhân là một tâm trạng, một cuộc đời riêng

với những cảm xúc, nhân cách đƣợc thể hiện một cách rõ ràng qua cách hành

xử của họ trƣớc những sự kiện gặp phải trong cuộc đời. Từ đó, những góc

khuất trong tâm tƣ, tình cảm cá nhân đƣợc triển khai một cách triệt để. Bạn

đọc sẽ khám phá đƣợc nhiều điều hơn về giá trị tâm hồn của con ngƣời qua

mỗi trang tiểu thuyết.

18

Nghiên cứu thi pháp tiểu thuyết cụ thể tức là xem xét các yếu tố tổ chức

hình thức của thể loại này nhƣ nhân vật, kết cấu, thời gian và không gian nghệ

thuật. Đây cũng là những yếu tố chúng tôi tập trung phân tích trong luận văn

nhằm đạt sự thông hiểu cuốn tiểu thuyết Garganchuya từ góc nhìn thi pháp

thể loại.

1.1.2. Khái lược về thời đại Phục hưng và nền văn học thời Phục

hưng

1.1.2.1. Khái lược về thời đại Phục hưng

Thời đại Phục hƣng đã mở ta một bƣớc ngoặt lịch sử vĩ đại với “những

hình thức chói lòa của nó đã đánh tan bóng ma thời trung cổ” [6;118] làm bàn

đạp tiến lên một thời kì văn minh hơn, tiến bộ hơn. Để có những bƣớc chuyển

thần kỳ đó thì tất nhiên trong lòng xã hội đã tích lũy đầy đủ những tiền đề xã

hội nhất định. Thực ra mà nói đây chính là buổi giao mùa giữa chế độ phong

kiến sang chế độ tƣ bản, mặc dù sự chuyển đổi này vẫn còn nằm trong khuôn

khổ xã hội phong kiến.

Xét về phƣơng diện kinh tế-chính trị-xã hội từ thế kỉ XIV xứ Plorăngx và

nƣớc Ý đã có điều kiện thuận lợi để tạo dựng nên một nền kinh tế phát triển

nhất châu Âu, tiêu biểu đó là việc làm giàu nhờ buôn bán thực phẩm, len dạ,

vũ khí cho các nƣớc có chiến tranh. Từ tiền đề kinh tế đó, quan hệ sản xuất tƣ

bản chủ nghĩa ra đời và hình thành nên các trung tâm kinh tế lớn - đó là

những thành thị tự do - đƣợc xem nhƣ những quốc gia độc lập: Plorencia,

Genoa, Milano…Ở đây quan hệ tƣ bản chủ nghĩa chiếm địa vị tuyệt đối, giai

cấp tƣ sản sống tự do theo quan điểm tƣ tƣởng của mình. Các hoạt động văn

hóa nghệ thuật mang ý thức hệ tƣ sản phát triển phong phú. Mặt khác Italia

còn là quê hƣơng của nền văn minh cổ đại La Mã, nơi còn lƣu giữ nhiều di

sản về kiến trúc, điêu khắc, triết học, văn học…giúp các nghệ sĩ Phục hƣng dễ

dàng học tập, nghiên cứu. Hơn nữa việc học tập, nghiên cứu, phục hồi nền

19

văn hóa cổ đại La Mã đối với các chiến sĩ Phục hƣng Italia còn có ý nghĩa đề

cao tinh thần dân tộc. Và trên những điều kiện đó, cơ sở đó, nƣớc Italia trở

thành nơi khởi phát cho phong trào văn hóa Phục hƣng.

Năm 1453 một sự kiện lịch sử trọng đại diễn ra góp phần đƣa nền công

nghiệp châu Âu bƣớc thêm một bƣớc tiến mới. Sự kiện Thổ Nhĩ Kỳ tấn công

và chiếm đóng thành công thành Côngxăngtinốp làm cho con đƣờng thông

thƣơng giữa châu Âu và phƣơng Đông bị gián đoạn. Việc buôn bán trở nên

khó khăn vì thiếu thị trƣờng, do đó nhu cầu tìm kiếm thị trƣờng mới của các

quốc gia tăng lên. Từ đó, việc tìm kiếm thị trƣờng mới lần lƣợt đƣợc thực

hiện để phục vụ cho nhu cầu buôn bán, ngƣời mở đầu những cuộc phát kiến ở

Tây Ban Nha là Chirstopher Colombus (1451 - 1506) ngƣời Italia đã khám

phá ra Châu Mỹ, ngoài ra còn có hàng loạt những cuộc tìm kiếm khác. Sự

biến động đó là yếu tố cách mạng tạo đà cho quá trình tích lũy nguyên thủy tƣ

bản chủ nghĩa.

Bên cạnh đó thời kỳ này còn có hàng loạt các phát minh khoa học đã đạt

đƣợc những thành tựu quan trọng nhƣ: nấu thép, nghề in, các kiến thức về

thiên văn học, địa lý…Tiêu biểu nhƣ Nikolai Kopernik (1473 - 1543) nhà bác

học và triết học Ba Lan, ông đã chứng minh Trái Đất luôn quanh xung quanh

Mặt Trời và xung quanh trục của nó. Học thuyết của Kopernik đã lật đổ

những giáo lý của nhà thờ cho quả đất là trung tâm của thế giới. Ông còn phát

triển quan điểm duy vật về vũ trụ, cho vũ trụ là vật chất vô tận, tự chuyển

động theo quy luật riêng của nó. Còn Giodano Bruno (1548 - 1600) đã bảo vệ

quan điểm của Kopernik, cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời là trung tâm của

Thái Dƣơng hệ. Ông còn khẳng định vật chất vận động biến đổi không ngừng

và tồn tại mãi mãi. Gallileo Gallilei (1564 - 1642) có nhiều phát minh về cơ

học và thiên văn học. Ông là ngƣời đầu tiên dùng kính viễn vọng để quan sát

bầu trời, giải thích đƣợc cấu tạo của sao chổi, phát hiện ra định luật rơi thẳng

20

đứng và dao động của các vật thể. Về triết học duy vật cũng có nhiều bƣớc

phát triển mới, ngƣời mở đầu cho trƣờng phái triết học thời Phục hƣng là

Francis Bacon (1561 - 1626, ngƣời Anh), ông đề cao triết học duy vật Hy Lạp

cổ đại, phê phán chủ nghĩa duy tâm và triết học kinh viện, Những phát hiện

đó đã làm đảo lộn những quan niệm phản khoa học của giáo hội. Chủ nghĩa

dân tộc cũng đƣợc hình thành và thai nghén bằng những cuộc cách mạng tƣ

sản có ảnh hƣởng không nhỏ đến tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân

dân.

Những biến động về kinh tế xã hội vào đầu thế kỉ XVI - XV tạo nên những

tiền đề làm sống lại và phát triển những thành tựu văn hóa cổ đại. Sự xuất

hiện các “Mạnh Thƣờng Quân” trong tầng lớp giàu có, sự bảo trợ của những

ngƣời đứng đầu nhà nƣớc đã có tác dụng khuyến khích và giúp đỡ các nghệ sĩ

có điều kiện tập trung trí tuệ và tài năng vào công việc lao động sáng tạo nghệ

thuật góp phần tạo nên nền nghệ thuật độc đáo thời Phục hƣng. Sau Italia,

sang thế kỉ XV - XVI, quan hệ tƣ bản chủ nghĩa cũng đƣợc hình thành ở các

nƣớc Tây Âu và Trung Âu khác nhƣ: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức…nên

phong trào Phục hƣng có điều kiện phát triển rộng rãi khắp Châu Âu.

Có một điểm mà chúng ta cần lƣu ý, phong trào Phục hƣng không phải là

một phong trào phục cổ đơn thuần mà nó còn là bƣớc tiến gắn liền với yêu

cầu mới của thời cận đại. Phong trào Phục hƣng không chỉ tiếp thu những tinh

hoa văn hóa thời cổ đại mà còn phát triển những học thuyết tƣ tƣởng mới dựa

trên nền tảng kinh tế xã hội và hệ tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản.

Phong trào Phục hƣng là mảnh đất màu mỡ cho các học thuyết, các luồng

tƣ tƣởng mới phát triển. Môngtennhơ đề xƣớng chủ nghĩa hoài nghi với câu

hỏi “Không biết tôi biết cái gì?”. Tác phẩm Thành phố Mặt Trời của nhà xã

hội học ngƣời Ý Thomas More tin vào một xã hội không tƣởng “tôi tin một

cách sắt đá rằng chỉ có thể có sự phân phối bình đẳng và đúng về các tƣ liệu

21

cũng nhƣ chỉ có thể hạnh phúc trên bƣớc tiến của con ngƣời là khi nào quyền

tƣ hữu đã hoàn toàn đƣợc xóa bỏ”[3;97]. Các học thuyết và các luồng tƣ

tƣởng mới đã chi phối sâu sắc đến đời sống tinh thần và văn hóa thời đại.

Nhƣng cơ bản nhất, nổi bật nhất, tiến bộ nhất là trào lƣu tƣ tƣởng chủ nghĩa

nhân văn, một trào lƣu tƣ tƣởng đã góp phần tạo nên giá trị rực rỡ của nền văn

hóa Phục hƣng.

Chủ nghĩa nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của trào lƣu văn hóa mới, một

trào lƣu tƣ tƣởng đƣợc phát sinh từ Italia và tỏa sáng ở khắp Châu Âu. Các

nhà văn nhân văn chủ nghĩa thời Phục hƣng đề cao con ngƣời và cuộc sống

trần gian với những thú vui tự nhiên của nó. Ta cũng từng bắt gặp tƣ tƣởng

tiến bộ này trong văn học thời cổ đại. Nhà viết kịch Sophocle đã từng quan

niệm con ngƣời là điều kì diệu nhất trong vũ trụ và khẳng định bản thân là

một con ngƣời nên không có gì thuộc về con ngƣời mà xa lạ. Vì vậy, ông

miêu tả nhân vật của mình theo quan điểm “tôi miêu tả những con ngƣời cần

phải đƣợc nhƣ vậy”[6;98].

Bên cạnh việc tán dƣơng vẻ đẹp và đề cao tài năng, các nhà nhân văn còn

chú trọng đến quyền tự do của con ngƣời, đòi hỏi con ngƣời phải đƣợc hƣởng

mọi lạc thú ở “thiên đƣờng trần gian”. Chủ nghĩa nhân văn còn là toàn bộ

những quan điểm về đạo đức và chính trị: coi con ngƣời không phải là cái gì

siêu nhiên, kì ảo hay những nguyên lý ngoài đời sống nhân loại mà coi con

ngƣời là tồn tại thực tế trên mẹ đất. Con ngƣời với những khả năng trần thế và

hiện thực của nó, những nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi cần phải đƣợc

thỏa mãn, Shakespeare ca ngợi: “kì diệu thay là con ngƣời! Con ngƣời cao

quý làm sao về lý trí, vô tận làm sao về năng khiếu…thật là vẻ đẹp của trần

gian, kiểu mẫu của muôn loài”[6;126].

Chủ nghĩa nhân văn đòi hỏi giải phóng con ngƣời cá nhân ra khỏi thiết chế

phong kiến và nhà thờ kìm hãm con ngƣời nhƣ: chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa

22

uy quyền, chủ nghĩa khổ hạnh, chủ nghĩa diệt dục để họ đƣợc tự do phát triển

những khả năng vô tận. Trả họ về với trần thế để đƣợc tận hƣởng những khát

vọng sống khổng lổ cả về tinh thần lẫn vật chất. Đó là nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa nhân văn thời Phục hƣng, xuyên suốt ảnh hƣởng đến đề tài, cảm

hứng sáng tác của nhà văn.

Chủ nghĩa nhân văn còn mang tính chất chiến đấu rõ rệt: chống lại nhà

thờ, giáo hội và quý tộc phong kiến bằng cách lên án đả kích, châm biếm sự

tàn bạo dốt nát, lối sống giả nhân giả nghĩa của giáo sĩ và quý tộc. Chủ trƣơng

đƣa văn hóa thoát khỏi tôn giáo, thoát khỏi thần học, chủ nghĩa nhân văn phê

phán xã hội phong kiến và nhà thờ là hai thế lực ngăn cản sự phát triển của

đời sống con ngƣời một cách quyết liệt. Chế độ phong kiến cho rằng con

ngƣời cao quý hay thấp hèn là do dòng máu và đẳng cấp quyết định còn chủ

nghĩa nhân văn coi con ngƣời tự bản thân nó trở thành cao quý do sự vĩ đại

của nó. Cụ thể qua lời phát biểu của Đônkihôtê “nghèo hèn mà có đạo đức

còn hơn quý tộc mà gian ác…dòng máu quý tộc là cha truyền con nối, còn

đạo đức là do chính mình tạo ra. Đạo đức có giá trị gấp bao nhiêu lần dòng

máu” [13;104] thể hiện quan niệm mới về vị thế cá nhân trong xã hội.

Nhà thờ cho con ngƣời là thực thể mang tội lỗi nguyên thủy trái lại chủ

nghĩa nhân văn coi con ngƣời “là châu báu của vũ trụ”, vẻ đẹp của con ngƣời

là vẻ đẹp trần gian, là biểu mẫu của muôn loài. Hay nhƣ đạo cơ đốc quan

niệm con ngƣời là “sản phẩm của Chúa” phủ định lại quan điểm của chủ

nghĩa nhân văn coi con ngƣời là “sản phẩm của tự nhiên”, có những nhu cầu

tự nhiên về cả vật chất lẫn tinh thần. Chống lại những gì phản tự nhiên, đấu

tranh cho con ngƣời, đòi hỏi trả họ về với trần gian, đƣợc quyền hƣởng thụ

cuộc sống chính đáng: nhƣ ăn mặc, đi lại, vui chơi, giải trí…đƣợc phát triển

về trí tuệ và tài năng, chủ nghĩa nhân văn còn đề cao trình độ học vấn của con

ngƣời dƣới hình thức phủ định triết học kinh viện, nhà trƣờng phong kiến với

23

chế độ giáo dục “ngu để trị” không thể đem lại cho con ngƣời sự phát triển

toàn diện.

Tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc cũng nằm trong quan niệm về chủ

nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn tin tƣởng vào tƣơng lai của đất nƣớc mình,

yêu tiếng nói và chữ viết mẹ đẻ, yêu thƣơng quần chúng trong việc đấu tranh

chống lại sự bóc lột. Phê phán cả những quan điểm phản khoa học và duy

tâm, bất chấp toà án và giàn thiêu của giáo hội, các nhà khoa học đứng về

phía chân lý, bảo vệ sự thực, giáng những đòn quyết định vào thần học và

triết học kinh viện, làm lung lay uy quyền của giáo hội. Tinh thần đó góp

phần làm quần chúng tỉnh ngộ trƣớc “liều thuốc phiện tôn giáo” (chữ dùng

của Ăngghen).

Chủ nghĩa nhân văn có ý nghĩa lịch sử to lớn, tuy nhiên do một số hạn chế

nhất định, chủ nghĩa nhân văn còn có một vài nhận định lệch lạc. Ca ngợi con

ngƣời của tự nhiên nhƣng không thấy đƣợc con ngƣời là sản phẩm của xã hội.

Sự miêu tả con ngƣời gần với chủ nghĩa tự nhiên, quá chú trọng và say sƣa đề

cao con ngƣời vô hình chung lại hạ thấp con ngƣời. Đấu tranh giải phóng con

ngƣời nhƣng chƣa xác định đƣợc đối tƣợng nào cần đƣợc giải phóng trƣớc

tiên. Quá đề cao phƣơng diện tinh thần những chƣa thấy đƣợc cần phải giải

phóng tầng lớp nhân dân lao động khỏi gách nặng cơm áo, một nhu cầu bức

thiết của xã hội. Điều này làm cho tính chiến đấu dừng lại ở cấp độ thỏa mãn

nhu cầu của giai cấp tƣ sản đang lên.

Tuy có những hạn chế nhƣng chủ nghĩa nhân văn trong phong trào văn hóa

Phục hƣng vẫn là một trào lƣu tƣ tƣởng có tầm cao lịch sử, có cống hiến lớn

đối với lịch sử tƣ tƣởng con ngƣời. Nó đóng một vai trò quan trọng đối với

việc phát triển văn hóa, văn minh cho xã hội loài ngƣời. Vậy chủ nghĩa nhân

văn với phƣơng châm yêu thƣơng con ngƣời đòi quyền sống cho cá nhân là

một hệ tƣ tƣởng hoàn toàn chính đáng. Trên cơ sở đó hệ tƣ tƣởng này đƣợc

24

xem là hạt nhân, là xuất phát điểm đồng thời là điểm quy tụ của toàn bộ văn

học Phục hƣng, đem đến sức sống mới cho nền văn học khiến cho loài ngƣời

khi tiếp xúc với nó cảm thấy nhƣ đƣợc sống lại, tái sinh lại.

1.1.2.2. Khái quát về nền văn học Phục hưng

Trong cuốn Lịch sử văn học Pháp Trung Cổ - Thế kỉ XVI và thế kỉ XVII

của Phan Quý, Đỗ Đức Hiểu chủ biên có ghi: “Ta thƣờng quen gọi văn học

thế kỉ XVI là văn học Phục hƣng”. Nếu danh từ Trung cổ để chỉ thời kì lịch

sử đƣợc mở đầu bằng sự kiện đế quốc La Mã sụp đổ (476) và kết thúc bằng

việc Ch.Colomb tìm ra Châu Mỹ (1492), thì danh từ Phục hƣng thƣờng dùng

là từ dùng để chỉ giai đoạn văn hóa, đối với nƣớc Pháp kéo dài từ năm 1942,

năm Ch.Colomb tìm ra Châu Mỹ, đến 1610, năm Henri IV từ trần. Trong

cuốn sách chuyên luận trên, các tác giả cũng khẳng định: “…không thể chia

tách văn hóa Phục hƣng Pháp với văn hóa Phục hƣng Italia mà thành tựu đã

chiếu sáng khắp cả châu Âu ngay từ thế kỉ XV, thậm chí từ thế kỉ XIV”.

Chính vì vậy, trong phần này chúng tôi muốn tìm hiểu và đƣa ra một số thông

tin khái quát nhất không chỉ về văn học Phục hƣng Pháp mà còn về toàn bộ

nền văn học Phục hƣng nói chung.

Văn học Phục hƣng là sản phẩm hồn nhiên của một thời đại sục sôi ý chí

đấu tranh. Con ngƣời hiện đại đến với nền văn học Phục hƣng nhƣ đến với

một khoảnh khắc hào hùng, một hơi thở mới sau một thời đại hầu nhƣ bị chìm

trong bóng đêm dày đặc. Ngƣời Italia gọi phong trào này là “Renascita”,

ngƣời Pháp đặt tên cho nó là “La Renaissance”, “Renascita” hay “La

Renaissance” đều có nghĩa là “Phục hƣng”, “Tái sinh” hay nôm na hơn có thể

dịch là “Sống lại”. Văn hóa Phục hƣng diễn ra ở Châu Âu vào thế kỉ XV -

XVI, phong trào khởi nghĩa bởi việc tìm kiếm những di tích còn lƣu lại của

nền văn hóa La Mã cổ đại. Ngạc nhiên trƣớc sự hƣng thịnh của nền văn minh

xa xƣa qua những thành tựu về văn hóa, khoa học giúp loài ngƣời nhận thấy

25

rõ bản chất của xã hội phong kiến trung cổ chà đạp lên quyền sống và quyền

tự do của con ngƣời. Nền văn hóa Hy Lạp sở dĩ có đƣợc một xã hội dân chủ là

nhờ không có sự kìm hãm của nhà thờ, giáo hội và những luật lệ hà khắc của

phong kiến. Nhận thức ấy thúc đẩy con ngƣời thời đại Phục hƣng tiến lên tự

giải phóng bản thân mình, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn dựa trên cơ sở

học tập truyền thống cổ xƣa kết hợp với cái tiến bộ mới phù hợp với thời cận

đại. Nội dung văn học thời kỳ này chính mà mảnh đất hiện thực đƣợc tái hiện

lên trang sách qua cách nhìn mang tính nhân văn của giới nghệ sĩ. Thành công

có của dòng văn học này đƣợc thể hiện cụ thể trên các thể loại:

Một đại diện tiêu biểu cho thơ ca là Đantê (1265 - 1324), ông là ngƣời đi

tiên phong trong phong trào Phục hƣng của Italia. Xuất thân trong một gia

đình kỵ sĩ suy tàn ở Plorencia, ông căm ghét giáo hội và cổ vũ cho sự thống

nhất của đất nƣớc Italia. Tác phẩm lớn nhất của Đantê là tập thơ Thần khúc.

Thần khúc gồm 100 khúc ca với 14226 câu thơ và đƣợc phân chia nhƣ sau:

khúc mở đầu, tiếp đến là phần nói về Địa ngục (33 khúc) kế đó là phần nói về

Luyện ngục (hay còn gọi là tĩnh thổ tẩy oan: 33 khúc) sau cùng là phần nói về

Thiên đƣờng (33 khúc). Đantê kể rằng: vừa bƣớc vào quãng nửa đời ngƣời,

một hôm ông lạc bƣớc vào rừng rậm (chỉ tình trạng tội lỗi của ngƣời đời). Ba

con thú dữ xông tới cản đƣờng ông: báo, sƣ tử, chó sói (chỉ những thói xấu

của con ngƣời: ghen tị, kiêu căng, keo kiệt). May sao từ trên Thiên đƣờng

nàng Bêatơrix trông thấy và nhắn gọi Viecgin (nhà thơ La Mã mà Đantê suy

tôn là bậc thầy của mình) đến giúp Đantê thoát ra. Sau đó, Viecgin đã dẫn

Đantê đi tham quan Địa ngục, Luyện ngục, Thiên đƣờng. Tác phẩm của

Đantê tuy vẫn còn những rơi rớt của thế giới quan thần bí Trung cổ nhƣng rõ

ràng đã ánh lên lấp lánh những cảm quan mới của thời đại. Gạn lọc đi lớp vỏ

thần bí, ta có thể hiểu tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm theo một cách khác:

Viecgin tƣợng trƣng cho Lí trí, Trí tuệ; Bêatơrix tƣợng trƣng cho Tình yêu

26

còn cuộc hành trình của Đantê với Lí trí và Tình yêu tƣợng trƣng cho cuộc

hành trình tìm đến Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc đời mỗi con ngƣời.

Pettracque (1304 - 1374) là nhà thơ tình của chủ nghĩa nhân văn đầu tiên

của nền văn học Phục hƣng. Thơ ông là những khúc ca về tình yêu lý tƣởng,

về sắc đẹp, về sự đấu tranh giành độc lập tự do thống nhất đất nƣớc. Lời thơ

nhƣ những lời hiệu triệu thiết tha, thôi thúc, giục giã quần chúng xông lên.

Bên cạnh đó, ông còn đòi hỏi tự do trong sáng tác chống lại sự gò bó của chủ

nghĩa kinh viện.

Francois Rabelais, Boccacio, Miguel De Cervantes…là những tên tuổi lớn

đánh dấu sự trƣởng thành của thể loại tiểu thuyết trong nền văn học Phục

hƣng. Truyện mười ngày của Boccacio là tập hợp những truyện kể có chung

một chủ đề nhƣng lại rất phong phú về nội dung, mỗi truyện đều có một tình

huống riêng. Tác phẩm xoay quanh những vấn đề gắn liền với yêu cầu của

phong trào văn hóa Phục hƣng, đòi hỏi con ngƣời với những khả năng trần thế

và hiện thực phải đƣợc thỏa mãn. Phê phán thiết chế phong kiến và nhà thờ

kìm hãm con ngƣời, những giáo lý thần học, triết học kinh viện rối rắm và

khập khiễng. Tắm mình trong không khí thời đại, Boccacio trở thành nhà văn

chiến sĩ, trang viết của ông là vũ khí là bản cáo trạng, đánh vào chế độ Trung

cổ. Sự đả kích sâu cay nằm trong lớp ngôn từ bóng bẩy, hài hƣớc…cả tập

truyện là tiếng cƣời đả kích, bác bỏ những vấn đề đen tối của xã hội, những u

nhọt cần phải đƣợc loại bỏ và việc xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Francois Rabelais (1494 - 1553) đƣợc mệnh danh là “bậc thầy lớn của

nghệ thuật tiếng cƣời và tiểu thuyết”. Bộ tiểu thuyết Garganchuya và

Pangtagruyen là một thế giới phức tạp, phong phú và vô cùng đa dạng. Bằng

việc xây dựng lên một thế giới kì lạ của những ngƣời khổng lồ với màu sắc

huyền ảo, nửa thực nửa hƣ, Rabelais giải quyết những vấn đề đang xảy ra

trong đời sống xã hội đƣơng thời bằng tiếng cƣời ngạo nghễ của một nhà hiền

27

triết. Cách lí giải của ông nửa nghiêm trang nửa cƣời cợt, ngƣời đọc phải tự

rút ra kết luận cho mình.

Miguel De Cervantes (1547 - 1616) là nhà văn Tây Ban Nha với tác phẩm

nổi tiếng Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết này đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng trên

thế giới và đƣợc hàng triệu độc giả khắp thế giới tán thƣởng nhiệt liệt. Theo

dõi cuộc hành trình của Đônkihôtê qua ba lần y bỏ nhà ra đi để thực hiện lý

tƣởng hiệp sĩ, ngƣời đọc thấy rõ ràng y đã đi từ thất bại cay đắng này đến thua

thiệt ê chề nọ. Chỉ có một hai lần y thắng mà thôi. Thông qua sự mê muội đến

mức điên rồi của Đônkihôtê, thông qua việc miêu tả những thất bại liên miên

và ê chề của Đônkihôtê, Cervantes đã tố cáo bọn thống trị phong kiến và tăng

lữ Tây Ban Nha thời bấy giờ. Vì cũng nhƣ Đônkihôtê, bọn chúng đã bất chấp

thực tế khách quan, vẫn mê muội đắm đuối trong thế giới tƣ tƣởng chủ quan

của chúng.

Phong trào Phục hƣng bắt đầu từ Italia sau đó lan rộng ra các nƣớc phƣơng

Tây khác. Nƣớc Anh là nƣớc bƣớc vào thời đại Phục hƣng muộn hơn các

quốc gia khác nhƣng cũng bùng lên một nền văn hóa phát triển nhanh và

mạnh. Mảng văn học từ lâu đã có truyền thống về kịch nay lại thêm phát triển

với nhiều tên tuổi nhƣ: Lyly (1554 - 1606); Greene (1558 - 1592); Kyd (1558

- 1594); Malowe (1564 - 1593); Shakespeare (1564 - 1616). Trong hai mƣơi

năm sáng tác, Shakespeare đã để lại cho nhân loại 37 vở kịch với nhiều thể

loại: bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử. Ông viết kịch nhằm để diễn, để “chìa ra

một tấm gƣơng tự nhiên nhằm làm cho đạo đức thấy hình ảnh của nó, thói vô

đạo đức tự biết khinh bỉ và mỗi thế kỉ, cả thời đại nói chung có thể nhận ra bộ

mặt và tính cách của nó” (Hamlet, hồi III, cảnh 2).

Bên cạnh những nội dung phong phú, mang tinh thần chiến đấu cao thì

hình thức nghệ thuật của nhiều tác phẩm văn học thời Phục hƣng cũng có sự

cách tân đáng chú ý. Điểm cách tân đầu tiên mà chúng ta cần nhắc đến là thể

28

loại tác phẩm. Nếu trong nền văn học Hy Lạp, các tác phẩm chủ yếu đƣợc

viết theo các thể loại: thần thoại, thơ trữ tình, bi kịch…để diễn tả một thế giới

vừa hƣ vừa thực đã đƣa nền văn học phát triển cao với nhiều tác phẩm đƣợc

xem là mẫu mực. Thời kì trung cổ - thời kỳ đen tối, ngƣời ta liên tƣởng đến

những gì xấu xa nhất, phản động nhất. Xã hội lúc này chịu sự chi phối mạnh

mẽ của tôn giáo và phong kiến. Thời kỳ này nổi lên các thể loại nhƣ bài ca

anh hùng, kịch và tiểu thuyết hiệp sĩ cung đình. Đến thời đại Phục hƣng các

thể loại trên đã có sự phát triển hoàn chỉnh và thời đại này còn là khoảng thời

gian “phôi thai” chuẩn bị cho sự ra đời của các thể loại mới. Bên cạnh tiểu

thuyết hiệp sĩ xuất hiện thêm thể loại tiểu thuyết trào phúng phù hợp với nội

dung chế nhạo, chỉ trích tố cáo, phản kháng, bằng những tiếng cƣời mỉa mai,

châm biếm, phóng đại, khoa trƣơng, hài hƣớc mà ta có thể gặp qua các tác

phẩm của Boccacio, Rabơle…Thời kỳ này còn xuất hiện thêm thể loại truyện

ngắn hiện thực mà Boccacio đƣợc xem là ngƣời có công mở đầu. Kịch thời

này cũng đạt đƣợc sự phát triển hoàn thiện với nhiều loại hình mới: bi hài

kịch, kịch lịch sử, nổi bật là thể loại kịch lịch sử - loại kịch xoay quanh các đề

tài chống phong kiến để xây dựng nền quân chủ lập hiến. Nói chung, thể loại

thời kì này đã có một bƣớc phát triển mới, đa dạng, phong phú hơn phù hợp

với yêu cầu biểu hiện một nội dung mang tầm cỡ thời đại.

Nền văn học Phục hƣng cũng có nhiều thay đổi về phƣơng pháp sáng tác,

chất liệu nghệ thuật. Bút pháp hiện thực bắt đầu xuất hiện và thắng thế, đƣợc

các nhà văn sử dụng để sáng tạo nghệ thuật. Thế giới tả thực hiện lên sinh

động qua từng trang sách đó là đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo,

văn hóa…với đầy đủ từng tầng lớp xã hội từ nông dân cho đến thợ thủ công,

tăng lữ, quý tộc…Nếu nhƣ văn học thời kì trƣớc chủ yếu đƣợc viết theo tiếng

La tinh thì văn học thời kì này hƣởng ứng tinh thần đề cao ngôn ngữ dân tộc.

Nhiều nhà văn đã sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân tộc mình vào việc

29

sáng tạo tác phẩm. Những tác phẩm đƣợc viết bằng tiếng mẹ đẻ góp phần đƣa

ngôn ngữ dân tộc tiến thêm một bƣớc dài hơn, xa hơn, đủ sức miêu tả những

tình cảm phức tạp. Ngôn ngữ dân tộc trở thành niềm tự hào của các nghệ sĩ

sáng tác.

Nói tóm lại, văn học Phục hƣng đã tia sáng rực rỡ phá tan bóng tối phong

kiến và thần học ngự trị từ thời trung cổ. Giờ đây văn học khởi sắc với một

“mùa hoa trái tƣng bừng, tiếng cƣời bừng lên rộn rã len lỏi vào cuộc sống trần

thế và ca ngợi con ngƣời, phản đối những gì trái tự nhiên, kìm hãm niềm vui

sống của con ngƣời”. Đến lúc này nền văn học Châu Âu thực sự bƣớc vào

một trang sử mới với một sức sống mới, một diện mạo mới.

1.2. Vị trí của tiểu thuyết Garganchuya và tác giả Frăngxoa

Rabơle trong dòng chảy văn học Phục hƣng

1.2.1. Frăngxoa Rabơle – người đưa ma một thế giới đã lỗi thời bằng

tiếng cười vui vẻ

“Không có nhân vật văn chƣơng nào của thế kỉ XVI lại gây ra nhiều tốn

phí giấy mực nhƣ Rabelais. Nghịch lý không chỉ tồn tại ở khắp nơi trong tác

phẩm mà còn xuyên suốt cả cuộc đời vinh quang và đầy sóng gió của ông”

[37;163]. Frăngxoa Rabơle (Francois Rabelais, 1494 - 1553) không những là

nhà tiểu thuyết, nhà văn xuất sắc mà còn là một trong số “ngƣời khổng lồ”

của thời Phục hƣng Tây Âu. Ông vừa là một nhà tiểu thuyết, vừa là một nhà

bác học nhân văn, một nhà sinh vật học, một bác sĩ y khoa, một nhà luật học,

một nhà thiên văn học. Ông thạo tiếng Hi Lạp, tiếng La tinh, tiếng Hêbrơ,

tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Italia. Ông đƣợc coi nhƣ ngƣời có công tiên

phong trong cuộc đấu tranh cho những tƣ tƣởng khoa học và tiến bộ của nƣớc

Pháp, mở đƣờng cho thời đại mới của Đêcac, Vônte, Điđơrô. Rabơle là con

một luật sƣ ở trang trại La Đơvinie (La Devinière) thuộc thành phố Sinông

(Chinon) tỉnh Turen (Turenne). Thuở nhỏ, ông sống ở nông thôn và theo học

30

trƣờng dòng. Năm 1520, ông vào học ở tu viện dòng Frăngxoa Đaxi (François

d’Assies) ở thành phố Fôngtơnê lơ côngtơ (Fontenay-le-Comte). Nhƣng

Rabơle không quan tâm đến chức vị Giáo sĩ tƣơng lai của mình mà quan tâm

đến khoa học. Ông học tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, nghiên cứu những tác

phẩm cổ đại, nhận sao chép những bản thảo cho các nhà bác học nhân văn

chủ nghĩa đầu tiên của Pháp nhƣ: Ghiôm Buyđê (Guillaume Budé, 1467 -

1540). Lo sợ trƣớc phong trào chủ nghĩa nhân văn ngày càng phát triển,

trƣờng đại học Xorbon (Sorbonne) ra lệnh cấm các tu viện dạy tiếng Hy Lạp.

Và thế là Rabơle rời bỏ tu viện, ông tìm đến Hồng y giáo chủ Đettixắc

(Geoffroy d’Estissac) xin đƣợc bảo hộ và giúp đỡ để đƣợc chuyển sang một

dòng tu khác. Đƣơng nhiên, ông không gặp trở ngại gì đáng kể, lại còn đƣợc

Hồng y giáo chủ tin yêu dùng làm thƣ ký riêng và gia sƣ. Chức vụ thƣ ký

riêng giúp ông có điều kiện đi đến nhiều nơi và tăng thêm vốn hiểu biết của

mình về cuộc sống, đặc biệt là ở tỉnh Poatu, nơi Hồng y giáo chủ năng lui tới.

Năm 1528, Rabơle trút bỏ bộ áo tu sĩ, từ giã tỉnh Poatu đi Pari tiếp tục sự

nghiệp nghiên cứu, học tập. Năm 1530, Rabơle theo học y tại trƣờng Y thành

phố Môngpeliê (Montpellier). Năm 1532, ông làm thấy thuốc tại một bệnh

viện thuộc thành phố Lyông (Lyon) - thành phố đƣợc coi là thủ đô của văn

chƣơng lúc bấy giờ. Thời kỳ này, ông viết, dịch, bình giải một số tác phẩm y

học, đồng thời ông còn giao thiệp với một số nhà nhân văn chủ nghĩa danh

tiếng nhƣ Êraxmơ, Đôlê (E. Dolet, 1509 - 1546) và nhiều nhà tri thức khác.

Ông bắt tay sáng tác bộ tiểu thuyết Garganchuya và Păngtagruyen

(Gargantua and Pantagruel), nhƣng năm 1532 lại đƣa xuất bản cuốn

Păngtagruyen, quyển II của bộ truyện với bút danh Alcofrybas Nasier (đảo

các chữ cái từ tên thật). Việc công bố truyện về con trƣớc truyện kể về cha

thƣờng đƣợc giải thích nhƣ một tính toán láu lỉnh theo đó Rabơle lợi dụng

tiếng tăm của một tác phẩm dân gian rất ăn khách lúc bấy giờ (Lịch sử vĩ đại

31

của Garganchuya) để đƣa ra phần tiếp theo, tức là truyện về ngƣời khổng lồ -

con. Ngoài ra Rabơle còn cho xuất bản hai cuốn sách lịch dân gian, một về

thiên văn học, và một cuốn mang tên Lời tiên đoán Păngtagruyêlin

(Pantagruéline Prognostication). Cũng nhƣ Păngtagruyen, hai cuốn sách

mỏng này đƣợc viết dƣới hình thức hài hƣớc nhằm truyền bá tƣ tƣởng tiến bộ.

Cuốn sách Păngtagruyen đƣợc bán rất chạy và sẽ đƣợc tái bản gần nhƣ từng

năm một trong hai mƣơi năm sau đó nếu nhƣ trƣờng đại học Xorbon không

xếp tác phẩm này vào “sổ đen”. Nền kiểm duyệt đƣơng thời đã nhìn thấy

trong chân dung một trƣởng giáo mà lại có thể lẩm cẩm, một nhà thần học

thông thái mà lại kì cục, một đức bà quý phái đỏng đảnh mà xấu xa…cũng

nhƣ trong lời khẳng định rằng các ông lớn cũng chết nhƣ kẻ tầm thƣờng, rằng

thần tƣợng chẳng qua chỉ là ảo ảnh…theo một tƣ tƣởng nguy hiểm. Sau đó,

Rabơle phải tìm một ngƣời bảo trợ khác có thế lực hơn, Hồng y giáo chủ Jăng

Đuy Belê (Jean Du Bellay) cai quản địa phận Pari, một nhà hoạt động tôn

giáo, chính trị, ngoại giao của chính quyền đƣơng thời. Rabơle đƣợc làm thầy

thuốc riêng của vị Hồng y giáo chủ này (1534).

Tháng 11 năm 1534, Rabơle cho xuất bản cuốn Garganchuya vào lúc

những thế lực phong kiến và tôn giáo tiến hành một cuộc khủng bố ác liệt

phong trào nhân văn chủ nghĩa và cải cách tôn giáo sau vụ truyền đơn xảy ra

vào tháng 10 năm 1534. Tri thức bị bắt đƣa lên giàn lửa thiêu sống, sách báo

tiến bộ bị tịch thu đem đốt. Trƣờng đại học Xorbon kết án cuốn

Garganchuya, Rabơle lập tức bí mật rời thành phố Lyông đến ở với vị Hồng y

giáo chủ Đuy Belê và đƣợc vị Hồng y giáo chủ này cho theo sang Italia. Năm

1537, Rabơle đƣợc cấp bằng Bác sĩ y khoa. Đầu năm 1538, Rabơle đƣợc vua

Frăngxoa I bổ dụng vào làm một thành viên trong đoàn tùy tùng của nhà vua

đi hội đàm với vua Saclơ Canh (Charles Quint, Tây Ban Nha). Tháng 3 năm

1543, trƣờng đại học Xorbon kết án một lần nữa hai cuốn Garganchuya và

32

Păngtagruyen, nhƣng với sự khéo léo của mình, nhà văn đã thoát khỏi vòng

nguy hiểm. Năm 1546, Rabơle cho xuất bản cuốn thứ III của bộ truyện.

Trƣờng đại học Xorbon lại lên tiếng công kích, Rabơle phải trốn đến Mêzơ

(Metz) - một thị trấn ngoài biên giới nƣớc Pháp lúc bấy giờ. Năm 1547,

Hăngri II (Henri II, 1519 - 1559) lên ngôi, Hồng y giáo chủ Jăng Đuy Belê

đƣợc giao trọng trách ở đất Italia. Rabơle quay trở về làm thầy thuốc riêng

cho Đức cha và lại theo ông sang Italia. Năm 1552, cuốn IV đƣợc xuất bản,

trƣờng đại học Xorbon và Pháp viện đã ra lệnh truy nã tác giả, cấm các hiệu

sách tàng trữ và lƣu hành tác phẩm. Theo một truyền thuyết, Rabơle bị bắt

giam ở Lyông. Từ năm 1551 dƣới sự bảo hộ của Đuy Belê, Rabơle đƣợc cử

làm giám mục trông coi hai khu Man và Mơđông. Nhƣng chẳng đƣợc bao lâu

thì ông rời bỏ chức vụ này. Ông qua đời vào cuối năm 1553 hoặc đầu năm

1554 ở Pari. Mƣời năm sau khi ông qua đời, cuốn sách thứ năm mới đƣợc ra

mắt bạn đọc.

Có thể nói rằng, bộ tiểu thuyết gồm năm cuốn Garganchuya và

Păngtagruyen là công trình nghệ thuật lớn nhất mà Rabơle để lại cho hậu thế.

Tác phẩm của ông thể hiện khát vọng cháy bỏng thời đại Phục hƣng: Giải

phóng con ngƣời khỏi chế độ phong kiến và nền giáo dục thần học, giáo điều,

kinh viện thời Trung cổ. Với niềm tin chất phác, mãnh liệt của một nhà văn

nhân văn chủ nghĩa, Rabơle cho rằng bản chất con ngƣời là tốt, nếu tôn trọng

nó, để nó phát triển theo những quy luật tự nhiên, trau dồi kiến thức, đạo đức,

rèn luyện sức khỏe, sống tự do, thoải mái thì xã hội sẽ tốt đẹp, sẽ có hạnh

phúc.

1.2.2. Vị trí của tiểu thuyết Garganchuya trong dòng chảy văn học

Phục hưng

Tháng 11 năm 1534, Rabơle cho xuất bản cuốn Garganchuya vào lúc

những thế lực phong kiến và tôn giáo tiến hành một cuộc khủng bố ác liệt

33

phong trào nhân văn chủ nghĩa và cải cách tôn giáo sau vụ truyền đơn xảy ra

vào tháng 10 năm 1534. Tác phẩm đƣợc viết theo lối trào phúng giễu cợt thế

giới trung cổ phong kiến, nhà thờ bằng những tiếng cƣời ngạo nghễ. Ca ngợi

cuộc sống mới tự do vui vẻ nhƣng không phải là một cuộc sống buông tuồng.

Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Garganchuya: Garganchuya là con của vua

Grăngguziê. Đó là một chú bé khổng lồ, vừa cất tiếng khóc chào đời, nó đã

đòi ăn và vòi uống. Phải vắt sữa của 176913 con bò mới làm cho nó đã cơn

khát.

Lớn lên, nó đƣợc thầy Tuyban Hôlôphecnơ dạy dỗ nhƣng vì cách dạy của

thầy là cứ nhồi nhét hàng đống kiến thức chết, nên càng học nó càng trở nên

“ngớ ngẩn, đần độn”. Thấy thế, Grăngguziê bèn gửi con trai mình lên Pari để

học. Trên đƣờng đi, đuôi ngựa của Garganchuya quất nát cả một cánh rừng!

Vừa đến Pari, Garganchuya nghịch ngợm lấy chuông nhà thờ Đức bà treo vào

cổ ngựa chơi. Trƣờng đại học Xorbon bèn cử thầy Janôtuyx ra thƣơng thuyết.

Thầy tuôn ra một tràng tiếng La tinh làm mọi ngƣời nghe phải cƣời đến nôn

ruột.

Giáo sƣ mới của Garganchuya là Pônôcratex. Thầy áp dụng một chƣơng

trình và một phƣơng pháp mới. Chƣơng trình này nhằm phát triển con ngƣời

toàn diện, đủ các mặt trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục. Lại còn có lao động

chân tay, học nghề, đi tham quan các xƣởng, các công trƣờng, đi nghiên cứu

cây cỏ…Phƣơng pháp của thầy là hƣớng dẫn học trò quan sát rồi tự rút ra kết

luận, gợi hứng thú, trí tò mò tìm hiểu.

Garganchuya say mê học tập thì có thƣ bố gọi về chống giặc xâm lƣợc.

Trƣớc họa xâm lăng, các tu sĩ chỉ biết đóng cửa cầu nguyện. Riêng có thầy

Jăng xông ra chiến đấu và giết 13622 tên giặc. Để thƣởng công cho thầy,

Garganchuya cho xây tặng thầy một tu viện mới: Tu viện Thêlem. Tu viện

này hoàn toàn trái ngƣợc với các tu viện vốn có xƣa này. Con trai từ mƣời hai

34

đến mƣời tám tuổi, con gái từ mƣời đến mƣời lăm tuổi đều có thể tự do vào

đây tu. Một khẩu hiệu lớn treo ngay trƣớc cổng tu viện: “Muốn làm gì thì

làm”. Ở đây mọi ngƣời sống theo sở thích, vui chơi thả cửa, có thể tìm hiểu

nhau, yêu nhau và lúc nào chán tu viện thì có thể dắt tay nhau ra khỏi tu viện

tùy ý.

Tiểu thuyết Garganchuya gồm 58 chƣơng nhƣ sau:

Chƣơng I: Nói về thế phổ và gốc tích xa xƣa của Garganchuya

Chƣơng II: Những trò hƣ phiếm giải độc tìm thấy trong một ngôi mộ cổ

Chƣơng III: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc mang trong bụng mẹ mƣời

một tháng nhƣ thế nào

Chƣơng V: Chuyện trò của những ngƣời say khƣớt

Chƣơng VI: Nói về chuyện Garganchuya đã sinh ra một cách rất lạ lùng

nhƣ thế nào.

Chƣơng VII: Nói về chuyện đặt tên cho Garganchuya và chuyện cậu húp

rƣợu vang nhƣ thế nào

Chƣơng VIII: Nói về chuyện may mặc cho Garganchuya nhƣ thế nào

Chƣơng IX: Màu sắc và phẩm phục của Garganchuya

Chƣơng X: Nói về chuyện cái gì đƣợc biểu thị bằng màu trắng và xanh lơ

Chƣơng XI: Nói về thời niên thiếu của Garganchuya

Chƣơng XII: Nói về những con ngựa giả của Garganchuya

Chƣơng XIII: Nói về chuyện Grăngguziê đƣợc biết trí thông minh tuyệt

vời của Garganchuya qua chuyện phát minh một cái chùi đít

Chƣơng XIV: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc một nhà ngụy biện dạy

căn chƣơng La tinh nhƣ thế nào

Chƣơng XV: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc đổi thầy nhƣ thế nào

35

Chƣơng XVI: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc đi Pari và chuyện con

ngựa cái to lớn mà cậu cƣỡi và chuyện con ngựa đó đã đánh tan những ruồi

bò ở xứ BôXơ nhƣ thế nào

Chƣơng XVII: Nói về chuyện Garganchuya nộp lễ tƣơng kiến cho dân Pari

và chuyện cậu lấy đem đi những cái chuông lớn của nhà thờ Đức bà nhƣ thế

nào

Chƣơng XIX: Bài diễn thuyết của tiên sinh Janôtuyx đê Bragmarđô nói với

Garganchuya để thu hồi những chiếc chuông

Chƣơng XX: Nói về chuyện nhà ngụy biện vác tấm dạ đi và có kiện tụng

với các tiên sinh kia nhƣ thế nào.

Chƣơng XXI: Sự học hành của Garganchuya, theo cách dạy dỗ của những

ông thầy ngụy biện

Chƣơng XXII: Các trò chơi của Garganchuya

Chƣơng XXIII: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc Pônôcratex giáo dục

vào khuôn phép nhƣ thế nào để không bỏ phí một giờ nào trong ngày.

Chƣơng XXIV: Nói về cách Garganchuya dùng thì giờ khi trời mƣa gió

nhƣ thế nào

Chƣơng XXV: Nói về chuyện giữa những ngƣời bán bánh đa tiểu mạch ở

Lerne và những ngƣời dân ở xứ sở của Garganchuya đã xảy ra nhƣ thế nào,

vụ tranh chấp lớn đó sinh ra những cuộc chiến tranh lớn

Chƣơng XXVI: Nói về chuyện dân Lernê theo lệnh Picrôcôl vua của họ,

đã tấn công bất ngờ các ngƣời chăn chiên của Garganchuya nhƣ thế nào

Chƣơng XXVII: Nói về chuyện một thầy tu ở Xơiyê đã cứu vãn khu vƣờn

kín của tu viện khỏi sự cƣớp phá của quân giặc nhƣ thế nào

Chƣơng XXVIII: Nói về chuyện Picrôcôl đánh chiếm La Rôsơ Clecmô

nhƣ thế nào, và nỗi hận tiếc và khổ tâm của Grăngguziê trong việc tiến hành

chiến tranh

36

Chƣơng XXIX: Nội dung bức thƣ của Grăngguziê viết cho Garganchuya

Chƣơng XXX: Nói về chuyện Ulrich Gallê đƣợc phái đến Picrôcôl nhƣ thế

nào.

Chƣơng XXXI: Diễn từ của Gallê với Picrôcôl

Chƣơng XXXII: Nói về chuyện Grăngguziê muốn mua chuộc lấy hòa bình

cho trả lại những bánh đa nhƣ thế nào

Chƣơng XXXIII: Nói về chuyện một số đại thần của Picrôcôl bằng lời

khuyên xốc nổi đã đƣa hắn đến bƣớc tối nguy ngập nhƣ thế nào

Chƣơng XXXIV: Nói về chuyện Garganchuya rời bỏ thành phố Pari để về

cứu nƣớc và Gymnaxtơ gặp quân địch nhƣ thế nào

Chƣơng XXXVI: Nói về chuyện Garganchuya phá tan lâu đài Lơ Ghê Lơ

Ved và họ vƣợt qua quãng lội nhƣ thế nào

Chƣơng XXXVII: Nói về chuyện Garganchuya khi chải đầu làm rơi từ tóc

xuống những viên đại bác nhƣ thế nào

Chƣơng XXXVIII: Nói về chuyện Garganchuya ăn sáu ngƣời hành hƣơng

trong món rau trộn nhƣ thế nào

Chƣơng XXXIX: Nói về chuyện thầy tù đƣợc Garganchuya thết đãi nhƣ

thế nào và những lời đàm thoại lý thú của thầy trong bữa ăn tối

Chƣơng XL: Tại sao các thầy tu bị thiên hạ xa lánh và tại sao kẻ này mũi

to hơn ngƣời nọ

Chƣơng XLI: Nói về việc thầy tu làm cho Garganchuya ngủ nhƣ thế nào

và nói về những kinh giờ và kinh nhật tụng của thầy tu.

Chƣơng XLII: Nói về chuyện thầy tu khích lệ các anh em đồng bọn nhƣ

thế nào và chuyện thầy bị treo lủng lẳng vào một cái cây ra làm sao.

Chƣơng XLIII: Nói về chuyện toàn quân thám thính của Picrôcôl gặp gỡ

với Garganchuya nhƣ thế nào và chuyện thầy tu giết tƣớng Tyravăng rồi bị

quân địch giữ làm tù binh nhƣ thế nào

37

Chƣơng XLIV: Nói về chuyện thầy tu tự giải thoát khỏi hai tên lính canh

và chuyện đội quân thám thính của Picrôcôl bị đánh bại nhƣ thế nào

Chƣơng XLV: Nói về chuyện thầy tu đƣa những ngƣời hành hƣơng về nhƣ

thế nào và những lời tốt đẹp của Grăngguziê nói với họ

Chƣơng XLVI: Nói về chuyện Grăngguziê đối xử nhân đạo với

Tuccơđyông tù binh nhƣ thế nào

Chƣơng XLVII: Nói về chuyện Grăngguziê ra lệnh triệu tập các đoàn dân

binh của cụ nhƣ thế nào, và chuyện Tuccơđyông giết Haxtivô rồi bị giết theo

lệnh Picrôcôl nhƣ thế nào

Chƣơng XLVIII: Nói về chuyện Garganchuya tấn công Picrôcôl ở trong

La Rôsơ-Clecmô và đánh tan quân đội của tên Picrôcôl đó nhƣ thế nào

Chƣơng XLIX: Nói về chuyện Picrôcôl thua chạy gặp phải những tai họa

nhƣ thế nào và Garganchuya làm gì sau trận đánh

Chƣơng L: Bài diễn thuyết của Garganchuya với những kẻ bại trận

Chƣơng LI: Nói về chuyện quân chiến thắng của Garganchuya đƣợc

thƣởng công nhƣ thế nào

Chƣơng LII: Nói về chuyện Garganchuya cho xây dựng tu viện Thêlem

cho thầy tu nhƣ thế nào

Chƣơng LIII: Nói về chuyện tu viện Thêlem đƣợc xây dựng và cung cấp

tiền nhƣ thế nào

Chƣơng LIV: Bài văn bia khắc trên cổng lớn của tu viện Thêlem

Chƣơng LV: Dinh thự của các tu sĩ ở tu viện Thêlem nhƣ thế nào

Chƣơng LVI: Nói về chuyện các nam sĩ tu sĩ viện Thêlem nhƣ thế nào

Chƣơng LVII: Nói về chuyện các tu sĩ viện Thêlem sinh hoạt theo phép

tắc nhƣ thế nào

Chƣơng LVIII: Thơ ẩn ngữ tiên tri

38

Thông qua nhan đề mỗi chƣơng, ta có thể biết đƣợc nội dung cũng nhƣ các

sự việc chính có thể xảy ra trong chƣơng đó. Cũng nhƣ các cuốn tiểu thuyết

khác của mình, thông qua Garganchuya tác giả muốn đả kích chế độ phong

kiến Trung cổ kìm hãm sự tự do và khả năng của con ngƣời. Đồng thời mƣợn

tích truyện dân gian, tác giả cũng muốn xây dựng một nhân vật “ngƣời khổng

lồ” lý tƣởng mang theo tinh thần của cả thời đại Phục hƣng.

Tiểu kết chƣơng 1:

Ở chƣơng đầu, chúng tôi nỗ lực đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh về cuộc đời,

sự nghiệp tác giả Frăngxoa Rabơle; cùng một số vấn đề lý thuyết cơ bản về

tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết. Những vấn đề lý thuyết ban đầu này chính

là cơ sở để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và triển khai đề tài. Rabơle không

chỉ là một nhà văn thiên tài mà ông là ngƣời có trình độ hiểu biết uyên bác

trên rất nhiều lĩnh vực trong thời đại của mình. Là nhà chủ nghĩa nhân văn

tiêu biểu cho nền văn học Phục hƣng, Rabơle đã sử dụng chất liệu văn hóa

dân gian kết hợp với trí tƣởng tƣợng, sáng tạo cùng con mắt nhìn thấu những

nhiễu nhƣơng của thời đại để tạo ra một trong những bộ tiểu thuyết lớn nhất

trong lịch sử văn học. Bakhtin đã ghi: “Rabơle thật khó hiểu. Thế nhƣng một

khi tác phẩm của ông đƣợc luận giải đúng, nó sẽ tỏa ánh hồi quang xuống lịch

sử phát triển hàng ngàn năm của nền văn hóa trào tiếu dân gian mà ông là

ngƣời diễn đạt vĩ đại nhất trong lịch sử văn học. Tác dụng soi sáng của

Rabơle vô cùng to lớn, cuốn tiểu thuyết của ông phải trở thành chiếc chìa

khóa để mở những kho tàng trào tiếu dân gian khổng lồ còn ít đƣợc khảo cứu

và hầu nhƣ hoàn toàn chƣa đƣợc hiểu thấu”. Với sự hiểu biết hạn hẹp của

mình, chúng tôi không có “tham vọng” quá lớn là sẽ luận giải đƣợc tất cả các

tầng tầng lớp lớp ý nghĩa trong tác phẩm Garganchuya của Rabơle. Trong đề

tài này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu Garganchuya dƣới góc độ thi pháp

thể loại, nghĩa là qua bốn vấn đề, nhân vật, kết cấu, thời gian và không gian

39

nghệ thuật. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ cố gắng so sánh để thấy

điểm giống và khác nhau giữa Garganchuya với các tác phẩm văn xuôi đƣơng

thời cũng nhƣ các tác phẩm văn xuôi cổ đại và hiện đại để thấy đƣợc sự kế

thừa và đổi mới của Rabơle.

40

Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT TỪ GÓC

NHÌN LOẠI HÌNH

2.1. Giới thuyết về nhân vật tiểu thuyết

Về vị trí của nhân vật trong tác phẩm văn học, Hà Minh Đức trong Giáo

trình lí luận văn học khẳng định: “Nhân vật là ngƣời dẫn dắt ngƣời đọc vào

một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định [7; 126].

Nhà văn thể hiện quan niệm của mình về cuộc đời, thể hiện những hiểu

biết, những ƣớc ao và kì vọng tạo ra nhân vật là để khái quát những tính cách

số phận con ngƣời và thể hiện qua về con ngƣời. Vì vậy nhà văn Tô Hoài cho

rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải thích hết thảy trong

một sáng tác” [10; 127].

Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói

đến tiểu thuyết là nói đến việc đến việc xây dựng nhân vật. Vai trò, vị trí và

phƣơng thức tồn tại của nhân vật trong tiểu thuyết nhƣ thế nào luôn là vấn đề

lý thuyết mà mọi nền văn học quan tâm lý giải. Nhờ khuôn khổ rộng lớn của

tiểu thuyết mà nhân vật trong tiểu thuyết có thể đƣợc khai thác một cách tỉ mỉ,

toàn diện. Qua nhân vật, ngƣời đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác

giả muốn gửi gắm, muốn chia sẻ. Nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên một

cách đầy đủ trọn vẹn từ góc độ ngoại hình cho đến nội tâm, từ tình cảm đến lý

trí. Ngƣời viết có thể khai thác nhân vật một cách toàn diện tỉ mỉ theo từng

bƣớc thăng trầm của số phận nhân vật. Tuy nhiên, trong mỗi sáng tác, nhà văn

có khuynh hƣớng lựa chọn cho mình một thế giới nhân vật phù hợp với sở

thích, cá tính của mình để miêu tả và thể hiện. Ở tiểu thuyết, sáng tác một

nhân vật nào đó, tác giả có thể dẫn dắt, giới thiệu cho chúng ta từ nguồn gốc,

xuất xứ của nhân vật ấy và trong suốt quá trình mô tả cuộc đời nhân vật, nhà

văn phải xây dựng ở nhân vật đó những hành động, lời nói, cử chỉ…thể hiện

rõ nét đặc trƣng trong cốt cách – tâm hồn của dân tộc sinh ra nhân vật ấy.

41

Nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ là nơi bộc lộ tƣ tƣởng chủ đề tác

phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Thành bại

của một đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng

nhân vật. Những nhân vật xây dựng thành công và sức sống lâu bền là những

nhân vật có giá trị điển hình sâu sắc. Những nhân vật này có thể làm cho tên

tuổi của nhà văn trở thành bất tử.

2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Garganchuya

2.2.1. Nhân vật người khổng lồ, lý tưởng - kiểu nhân vật của chủ nghĩa

lãng mạn

Ngƣời khổng lồ Garganchuya ra đời trong thế kỉ cần những “con ngƣời

khổng lồ... khổng lồ về tƣ tƣởng, về nhiệt tình và về tính cách, khổng lồ về tài

năng mọi mặt và sự hiểu biết sâu rộng”. Nhân vật trung tâm Garganchuya

đƣợc “khổng lồ hóa” không chỉ về hình thể mà còn về cả khả năng và trí tuệ.

Sự ra đời của Garganchuya khiến ta liên tƣởng đến những câu chuyện cổ

tích, truyền thuyết hay thần thoại Hy Lạp, La Mã cổ đại. Ở Việt Nam, có một

mô típ phổ biến trong các loại truyện dân gian này là: một cặp vợ chồng già

rồi mà chƣa có con, ngƣời vợ uống nƣớc từ một dị vật (Sọ Dừa) hoặc ƣớm

thử vào một vết chân to trên đƣờng (Thánh Gióng). Dƣờng nhƣ trong trí

tƣởng tƣợng của các tác giả dân gian, những nhân vật anh hùng xuất chúng

đều không thể sinh ra nhƣ con ngƣời bình thƣờng, các tác giả dân gian cố

gắng khoác lên nhân vật của mình một màn sƣơng huyền ảo. Tiếp thu tƣ

tƣởng đó của dân gian, Rabơle đã cho Gargamel (mẹ của Garganchuya) mang

thai đến mƣời một tháng và ra đời một cách kì lạ: “Đứa bé đó tự nhảy bắn ra,

chui vào đại tĩnh mạch, và qua hoành cách mạc leo lên tận phía trên vai (ở đó

ống tĩnh mạch trẽ làm hai nhánh) đi sang nhánh bên trái và chui ra bằng lỗ tai

trái” (…) “Vừa xổ ra, nó không kêu nhƣ các đứa trẻ khác “Mie! Mie” mà hét

42

to “Uống! Uống”. Tuy nhiên vẫn tồn tại điểm khác nhau giữa hình tƣợng anh

hùng trong Thần thoại Hy Lạp và Garganchuya.

Thế giới quan của ngƣời Hy Lạp cổ đại về cơ bản mang ý thức công dân

hồn nhiên và giàu sắc thái của tƣ duy thần linh chủ nghĩa. Trong buổi đầu

bình minh, ngƣời Hy Lạp cổ với nhận thức còn nhiều hạn chế, nhƣng dựa vào

vốn sống thực tế cùng trí tƣởng tƣợng phong phú của mình, họ cũng đã sáng

tạo nên những mẫu ngƣời mang trong mình lý tƣởng to lớn đại diện cho cả bộ

mặt cộng đồng “Nhân vật lý tƣởng trong văn học cổ đại Hy Lạp là những con

ngƣời anh hùng, chƣa có ý thức về đời sống cá nhân, họ tìm lẽ sống trọn vẹn

trong việc phục vụ quyền lợi của một thành bang, một bộ tộc, một quốc

gia”[17;65]. Đó là chàng khổng lồ Prômêtê, con trai thần Iapet là hình ảnh

tiêu biểu cho việc chống lại mọi bất công, áp bức, bênh vực kẻ yếu. Chàng đã

thuyết phục nữ thần Gaia đứng về phía Dớt trƣớc những hành động bạo

ngƣợc của Krônôt đối với các con dâu. Thiên nhiên hung hãn, con ngƣời thì

yếu đuối. Cảm thƣơng cho những con ngƣời mong manh, Prômêtê bất chấp

cãi lại lời thần Dớt vĩ đại, trộm ngọn lửa thần mang về cho ngƣời trần gian,

giúp họ có thêm niềm tin và sức mạnh chống lại rét mƣớt, ngọn lửa góp phần

giúp cho đời sống ngƣời nguyên thủy tiến bộ thêm một bậc. Họ biết nấu thức

ăn, rèn vũ khí để bảo vệ cuộc sống. Dù cho đổi lại Prômêtê phải chịu cái cảnh

bị đóng vào vách đá và chịu sự dày vò đau đớn về thể xác.

Nếu trong Thần thoại Hi Lạp lý tƣởng anh hùng là dũng khí chiến đấu

lớn lao cao cả, là những đứa con ƣu tú của bộ lạc đang gồng mình trên chiến

tuyến những cuộc chiến tranh chính nghĩa, thì lý tƣởng anh hùng trong thời

đại Phục hƣng của Rabơle đó chính là lý tƣởng của những con ngƣời khổng lồ

đấu tranh tiêu diệt cái xấu, cái ác, cái dục vọng thấp hèn; đánh đổ tƣ tƣởng

“trung cổ” về sắc tộc, màu da, về sự biến dạng nhân cách của con ngƣời thời

43

kì tƣ bản sơ khai; khẳng định quyền mƣu cầu hạnh phúc cá nhân trƣớc sự

thắng thế của giai cấp tƣ sản mới.

Garganchuya không phải một vị thần khổng lồ mang trong mình sức

mạnh, tài năng bẩm sinh hay phép thuật gì kì lạ mà chỉ là một con ngƣời bình

thƣờng với thân xác khổng lồ. Garganchuya là nhân vật trung tâm của tác

phẩm và cũng là “con ngƣời” mà nhà chủ nghĩa nhân văn muốn thể hiện.

Trƣớc thời Phục hƣng, Trung cổ phong kiến và nhà thờ đã truyền bá vào con

ngƣời những quan niệm sống theo kiểu “khung tù”, đen tối và nghiệt ngã. Họ

xem nhẹ cuộc sống của con ngƣời nơi trần thế, họ cho nó là địa ngục, và cho

rằng, thiên đƣờng là khi con ngƣời chết đi. Chính điều này đã kiềm chế rất

nhiều quan niệm sống đúng nghĩa của một con ngƣời, làm mất đi khả năng

sống và hƣởng thụ một cách thật sự của con ngƣời nơi trần thế. Để chống lại

quan niệm phản tự nhiên đó, con ngƣời đã đấu tranh trên chính tinh thần của

chủ nghĩa nhân văn, cho rằng, con ngƣời cần phải sống một cách thật nhất,

chính đáng nhất ngay khi ta còn đang sống: đƣợc hƣởng thụ, đƣợc đau khổ,

đƣợc thỏa mãn niềm đam mê vật chất, tinh thần và ngay cả thú vui mà thời

trung cổ phản ứng gay gắt nhất đó chính là thú vui xác thịt.

Vì câu nói đầu tiên của Garganchuya là “uống” nên bố mẹ cậu đã cho cậu

húp rƣợu vang để dỗ cậu yên, hoặc làm cậu vui vẻ trở lại mỗi khi cậu giận dữ,

hờn dỗi. Sự ra đời và trƣởng thành của Garganchuya có sự pha trộn giữa màu

sắc thánh thần và những thú vui vật chất, những sinh hoạt bình thƣờng của

con ngƣời bình thƣờng. Không ít lần những hoạt động “ỉa”, “đái”, “chùi đít”

xuất hiện trong tác phẩm này:

“Nhƣng ỉa suốt ngày vì trôn cậu lỏng lẻo một cách kỳ lạ” (Chƣơng VII)

“Cậu đái lên giày, ỉa trong sơ-mi, xì mũi vào hai cánh tay áo, rỏ nƣớc mũi

vào xúp và xục xạo khắp nơi” (Chƣơng XI)

44

“…do kinh nghiệm lâu dài và công phu, phát minh đƣợc cách chùi đít chúa

nhất, ƣu việt nhất, tiện lợi nhất, chƣa hề thấy từ xƣa đến này” (Chƣơng XIII)

“…con tuyên bố và bảo trì rằng không có cái chùi đít nào tốt bằng một con

ngỗng con nhiều lông tơ…” (chƣơng XIII)

“…cậu đái vào họ mạnh đến nỗi làm chết đuối hai trăm sáu mƣơi nghìn

bốn trăm mƣời tám ngƣời…” (chƣơng XVII)

“Rồi cậu ỉa, đái, nôn, ọe, ợ, đánh rắm, ngáp, khạc, nhổ, ho, nấc, hắt hơi và

xì mũi dồi dào” (Chƣơng XXI)

“Vậy cậu đái hết bầu nƣớc đái đầy căng, cậu ngồi vào bàn ăn…” (Chƣơng

XXI)

“…chàng đái cho nhẹ bụng nhƣng đái nhiều đến nỗi làm ngập lụt bảy dặm

đƣờng và tất cả nƣớc đái tràn về quãng lội Ved…” (chƣơng XXXVI)

“Ỉa”, “đái” là động tác hạ thấp truyền thống quen thuộc với chủ nghĩa hiện

thực nghịch dị, đó đều là những hành động mang tính nhị chức năng. “Bởi lỗ

huyệt do chúng tạo nên, là lỗ huyệt thân xác. Bởi vì hạ tầng thân xác, khu vực

các cơ quan sinh sản là hạ tầng thụ thai và sinh đẻ. Vì vậy ngay trong biểu

tƣợng phân và nƣớc tiểu đã hàm chứa mối liên hệ quan trọng với sự sinh sôi,

phồn thực, đổi mới, sung mãn”[33;238]. Garganchuya xối nƣớc tiểu lên

những ngƣời dân Pari vây quanh cậu ở nhà thờ Đức Bà làm “chết đuối hai

trăm ba mƣơi nghìn bốn trăm mƣời tám ngƣời”; con ngựa cái của

Garganchuya đái nhiều đến nỗi “tất cả đoàn lũ quân địch chết đuối một cách

khủng khiếp”. Nhƣ vậy hành động “đái” mang ý nghĩa nhƣ một hành động hạ

nhục chủ nghĩa kinh viện giáo điều và hạ nhục lũ quân ngu ngốc của Picrôcôl.

Biểu tƣợng nƣớc tiểu gắn chặt với tiếng cƣời, chúng vừa hạ bệ, phế bỏ những

gì đƣợc coi là cao cả, vừa thể hiện sự ra đời, tái sinh của cái mới.

Garganchuya không sống nhƣ các vị Thánh, không khinh bỉ mọi lạc thú

vật chất và thể xác mà chỉ chăm lo tu dƣỡng Đức tin mà cậu coi những việc

45

nhƣ ăn, uống, ỉa, đái…làm thú vui cho cuộc sống của mình. Tất cả những

dòng văn miêu tả Garganchuya trong hoạt động hàng ngày đều vang lên tiếng

cƣời khoái lạc, thích thú.

Trí tuệ và khả năng của con ngƣời là vô giới hạn nhƣng những giáo điều

Trung cổ đã kìm hãm mọi sự phát triển của trí tuệ cũng nhƣ khả năng sáng tạo

của con ngƣời. Garganchuya cũng đã từng bị thứ nhân sinh quan giáo điều đó

kìm hãm trong một thời gian dài. Dƣới sự dẫn dắt của những ông thầy ngụy

biện, Garganchuya từ một cậu bé có “trí khôn trác tuyệt và trí thông minh kỳ

diệu” trở thành một cậu chàng “ngây ngô, ngốc nghếch, ngớ ngẩn và ngẩn

ngơ”. Mãi đến sau này khi Pônôcratex nhờ thuốc ellêbor “rửa sạch cho cậu

hết biến hoại và nếp xấu của bộ não” để cậu quên hết mọi điều đã học đƣợc

với những ông thầy ngụy biện thì trí tuệ và khả năng của Garganchuya mới

phát triển vì cậu đƣợc học tập theo một phƣơng pháp giáo dục khoa học.

Garganchuya là con ngƣời mang theo cả tinh thần phiêu lƣu của thời đại

Phục hƣng. Thời kì này ghi dấu lịch sử bằng những chuyến đi phát kiến vĩ đại

của các nhà khoa học mở ra những vùng đất mới. Garganchuya cùng những

ngƣời bạn đồng hành đã chè chén trong suốt cuộc hành trình băng qua những

khu rừng, đến Pari, đến Jăngtiy, Bulônhơ, Môngruj…

Để nhân vật Garganchuya bộc lộ các khả năng của cậu, Rabơle đã xây

dựng một tình huống truyện quen thuộc: Đất nƣớc xảy ra chiến tranh và cần

những ngƣời anh hùng nhƣ Garganchuya cứu giúp. Điểm này có nét giống

với sử thi và thần thoại, khi nói đến tài năng của ngƣời anh hùng bao giờ

ngƣời xƣa cũng gắn liền với sức mạnh và tài năng quân sự của họ trên các

trận chiến. Tinh thần thƣợng võ, khát vọng về sức mạnh, lòng can đảm là

điểm nổi bật về ngƣời anh hùng thời xƣa. Garganchuya là một vị tƣớng chỉ

huy tài ba với phƣơng châm sách lƣợc đúng đắn và khả năng phán đoán tình

hình chính xác: “để đề phòng mọi chuyện bất ngờ, chúng ta đừng rút lui vội;

46

ta hãy im lặng chờ ở đây, vì tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu rõ tài dùng binh của

quân địch rồi. Chúng hành động theo may rủi, chú không phải theo mƣu cơ”;

“Các anh em, tôi nghe thấy tiếng quân địch kéo đến và đã trông thấy một số

bọn chúng kéo đông nghịt tới chúng ta. Ta hãy xiết chặt hàng ngũ tại đây, và

giàn thế trận cho chỉnh tề. Nhƣ vậy, chúng ta có thể nghênh địch làm cho

chúng bại vong và làm cho ta vinh dự”. Trong trận tấn công Picrôcôl,

Garganchuya là ngƣời thống lĩnh toàn quân, chàng đã chỉ huy quân đội một

cách nhịp nhàng và hiệu quả. Khả năng phi thƣờng của Garganchuya ở trận

đối đầu với quân địch trong khu rừng Veđ khiến mọi ngƣời kinh ngạc, phát

đại bác của quân địch “chẳng làm cho chàng đau đớn gì hơn là ném vào chàng

một quả mận”, “hơn chín nghìn hai mƣơi nhăm phát tiểu pháo và hỏa mai” thì

chàng coi là những con ruồi. “Chàng bèn lấy cái cây lớn của chàng quật vào

tòa lâu đài và quật mạnh tới tấp làm đổ sụp tất cả các chòi canh và pháo đài,

và tất cả tan tành dƣới đất”.

Là một con ngƣời lý tƣởng theo tinh thần nhân văn chủ nghĩa, suy nghĩ

của Garganchuya cũng hƣớng tới một niềm tin ƣu ái lớn dành cho con ngƣời,

coi trọng con ngƣời, dù đó là những kẻ tu hành lợi dụng tôn giáo để thỏa mãn

những dục vọng tầm thƣờng, hay đó là quân địch. Trong trận chiến với

Picrôcôl, Garganchuya phát biểu “theo binh pháp chân chính, không bao giờ

dồn quân địch đến chỗ tuyệt vọng, vì tình thế cấp bách đó nhân sức mạnh của

nó lên gấp bội và làm tăng lòng can đảm đã suy nhƣợc, lung lay và không có

phƣơng thuốc cứu vớt nào tốt hơn cho những kẻ mệt mỏi rã rời hơn là tình thế

vô vọng. Đã có biết bao cuộc chiến thắng bị những kẻ chiến bại giằng lại

đƣợc ở tay kẻ chiến thắng, khi những kẻ này không biết lẽ phải chăng, mà

định phá tan đến cùng và tiêu diệt hoàn toàn quân địch, không muốn để sống

sót một mống nào để đem tin báo về! Bao giờ ta cũng nên mở tất cả các cửa

ngõ, các đƣờng lối cho quân địch, và làm cho chúng một cái cầu bạc để tống

47

khứ chúng đi thì tốt hơn”. Thậm chí với nhà “diễn thuyết hùng hồn” Janôtuyx,

chàng cũng thƣởng cho hắn “mƣời gang xúc xích”, “một chiếc quần, ba trăm

gộc củi lớn, hai mƣơi nhăm muy rƣợu vang, một cái giƣờng có ba lớp nệm

lông ngỗng, và một cái bát chậu to và sâu”.

Sau này, kiểu nhân vật giống Garganchuya đã xuất hiện trở lại trong chủ

nghĩa lãng mạn với một hình hài mới, Jean Valjean của V.Hugo có thể coi

nhƣ một hình tƣợng với tầm vóc “thu nhỏ” của Garganchuya ba thế kỉ trƣớc.

Vẻ đẹp lí tƣởng của Garganchuya và Jean Valjean đƣợc thể hiện lòng vị tha

và hành động nghĩa hiệp cao đẹp của họ. Bị Giave truy đuổi và cản trở con

đƣờng tìm về cõi thiện khiến mình phải sống lẩn tránh, nhƣng chƣa một lần

nào Jean Valjean tỏ ra thù ghét Giave mà trái lại, ông sẵn sàng tha chết cho

hắn và trả lại cho hắn tự do. Khi lên chiến lũy, Jean Valjean không bắn chết

hay làm bị thƣơng một ai mà chỉ bắn dọa, ông coi trọng sinh mệnh của tất cả

mọi ngƣời, “thà hy sinh thân mình chứ không màng hại kẻ địch”. Toàn bộ số

tiền kiếm đƣợc, Jean Valjean dùng để cứu giúp ngƣời nghèo và lo cho Cô dét.

Sự cao thƣợng của Jean Valjean có nét tƣơng đồng với Garganchuya,

Garganchuya đã xá tội và phóng thích những tù bình bị bắt trong cuộc chiến

và trả thêm cho mỗi ngƣời ba tháng lƣơng để có thể trở về với gia đình.

Garganchuya trao trả đất nƣớc cho con trai Picrôcôl và để kìm hãm lòng thèm

muốn và tham lam của các quan lại trong nƣớc, Garganchuya giao cho

Pônôcratex làm tổng quản và chăm sóc đứa trẻ cho đến khi nó có thể tự cai

quản và trị vì đất nƣớc.

Thi pháp nhân vật của Rabơle ở đây một mặt tận dụng tối đa thủ pháp

cƣờng điệu truyền thống trong các truyền thuyết và anh hùng ca Hy – La cổ

đại, một mặt dựa vào cảm hứng giải phóng và đề cao con ngƣời trần tục của

chủ nghĩa nhân văn thời đại ấy.

48

2.2.2. Nhân vật vua, quan lại, quý tộc – hệ thống nhân vật hiện thực

Bên cạnh nhân vật trung tâm, trong tiểu thuyết Garganchuya tác giả đã

huy động và qui tụ đƣợc số lƣợng nhân vật phong phú, thuộc nhiều tầng lớp

khác nhau trong xã hội nhƣ: vua, quan lại, quý tộc, thầy tu...Trong số những

nhân vật đó thì nhân vật vua, quan lại, quý tộc chính là những nhân vật hiện

thực nhằm tố cáo chế độ phong kiến Trung cổ. Sự thối nát, bất công, ngu dốt

của xã hội phong kiến Trung cổ đã bị vạch trần và đƣa ra ánh sáng.

Dƣới chế độ phong kiến Trung cổ, vua và giai cấp quý tộc sống hoàn toàn

dựa vào sự bóc lột địa tô của nông dân công xã và nông nô. Vua và bọn quý

tộc quân sự các vƣơng quốc còn thƣờng xuyên tổ chức những cuộc chiến

tranh xâm lƣợc các vƣơng quốc bên cạnh để cƣớp bóc, chiếm đoạt ruộng đất

và nông dân của nhau. Grăngguziê và Picrôcôl là hai ông vua đƣợc Rabơle

tập trung khắc họa trong tiểu thuyết Garganchuya. Hai nhân vật Grăngguziê

và Picrôcôl đều đứng trên vị trí là những vị vua nhƣng họ lại có nhân sinh

quan, cách cai trị khác nhau hoàn toàn. Picrôcôl là hình ảnh của một ông vua

hiếu chiến, với tham vọng ngông cuồng và âm mƣu độc ác muốn thống trị thế

giới. Nếu chỉ đọc thoáng qua câu chuyện, có lẽ không ít ngƣời sẽ nghĩ rằng

Picrôcôl thực sự là ông vua tốt, Picrôcôl gây chiến tranh với Grăngguziê vì

muốn đòi lại công bằng cho thần dân của mình. Nhƣng thực chất “chuyện xúc

phạm đến những ngƣời bán bánh đa” chỉ là cái cớ để Picrôcôl tiến hành một

cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô nghĩa. Picrôcôl hoàn toàn không phải một ông

vua sáng suốt và biết lo nghĩ đến thần dân của mình, bằng chứng là sau khi

nghe Mackê (thủ lĩnh của phƣờng bán bánh đa) nói rằng những gã chăn chiên

và tá điền của Grăngguziê đã đánh họ thì “tên vua này đã nổi cơn cuồng nộ và

chẳng thèm suy tính này nọ kia gì hơn nữa, cho triệu tập chƣ hầu khắp xứ xa

gần và lệnh mỗi ngƣời phải mang võ khí đến tập hợp ở đại quảng trƣờng

trƣớc cung điện đúng mƣời hai giờ trƣa”, “y lắp súng trƣng biển, mở cờ và

49

chất đầy các xe quân nhu, quân dụng, võ khí, đạn dƣợc cũng nhƣ lƣơng thực”.

“Con ngƣời hoàn toàn mất trí và bị Chúa ruồng bỏ” đó chẳng thèm để ý đến

sự bồi thƣờng và phân trần của Grăngguziê nhằm cứu vãn nền hòa bình giữa

hai quốc gia. “Gieo nhân nào gặt quả ấy”, cuối cùng tên vua tàn bạo Picrôcôl

phải chịu kết cục bi thảm: “ngƣời thợ xay bột nện cho hắn một trận dừ tử và

lột hết quần áo của hắn, và cho hắn một cái áo rách mƣớp để che thân”,

“thằng cha khốn khổ hay cáu giận cứ nhƣ vậy mà đi”, “kể lể những nỗi tai

họa của mình”. Picrôcôl sống với ƣớc vọng lời tiên tri của mụ phù thủy già về

hắn sẽ thành hiện thực, “vƣơng quốc của hắn sẽ trả lại cho hắn khi nào có con

chim côccơcigruy bay về” (côccơcigruy là một loài chim trong tƣởng tƣợng,

điều đó có nghĩa là lời tiên tri đó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực).

Sự thất bại và sụp đổ của vƣơng triều Picrôcôl cũng thể hiện niềm tin và

ƣớc mơ của Rabơle về sự kết thúc của chế độ phong kiến Trung cổ đang kìm

hãm, đang đối xử bất công với con ngƣời. Ƣớc mơ về tƣơng lai còn đƣợc

Rabơle gửi gắm qua hình tƣợng ông vua tốt Grăngguziê. Grăngguziê là “con

ngƣời khoái hoạt trong thời kì” của ông. Trƣớc cuộc chiến sẽ mang lại bất

hạnh cho nhân dân, ông chỉ mong muốn đƣợc “yên ủy, không phải tấn công

mà là phòng ngự, không phải chinh phục mà là giữ gìn các thần dân trung

thành”. Grăngguziê viết thƣ gọi Garganchuya trở về với hi vọng con trai mình

sẽ không để cuộc chiến tranh đó nổ ra, và nếu không còn hi vọng nào cứu vãn

đƣợc nền hòa bình thì Garganchuya có thể “cứu sống tất cả mọi ngƣời và cho

họ vui sƣớng trở về nhà”. Hình tƣợng Grăngguziê hoàn toàn đối lập với

Picrôcôl, Grăngguziê biết suy xét tình hình một cách thận trọng “chuyện xích

mích giữa chúng ta (ý nói giữa Grăngguziê và Picrôcôl) không phải chiến

tranh theo đúng nghĩa của nó…nên xử trí cho khoan hòa”. Grăngguziê nhân

nhƣợng và đồng ý bồi thƣờng cho Picrôcôl không phải vì ông thấy thần dân

của mình sai trong vụ việc này mà chỉ đơn giản là ông không muốn chứng

50

kiến cảnh binh đao loạn lạc diễn ra; đồng thời ông cũng lên tiếng cảnh báo

hành động điên cuồng của Picrôcôl “nếu trị nhà cho tốt thì nhà đã đƣợc thịnh

vƣợng, cƣớp phá nhà ta thì hắn sẽ bị diệt vong”. Tấm lòng nhân đạo của một

vị vua yêu nƣớc thƣơng dân không chỉ thể hiện qua những hành động của

Grăngguziê khi lo lắng cho đất nƣớc của mình mà còn biểu hiện thông qua

cách Grăngguziê đối xử với tù binh. Đối với Tuccơđyông, Grăngguziê hỏi “y

muốn ở lại với cụ hay thích trở về với vua của y hơn”; đồng thời khi trả tự do

cho Tuccơđyông, Grăngguziê còn ban cho y “một thanh kiếm Vien đẹp”,

“một trăm sáu mƣơi nghìn đuyca”, “một vạn êquy” và đề nghị một đội quân

hộ tống đƣa y trở về an toàn. Hành động hỏi, ban thƣởng của Grăngguziê đối

với Tuccơđyông chính là bài ca đẹp đẽ về sự tôn trọng quyền của con ngƣời

trong xã hội.

Tiếng cƣời đả kích, châm biếm của Rabơle không chỉ xuất hiện trong

những dòng văn viết về Picrôcôl mà còn trong những trƣờng đoạn nói về một

loạt những nhân vật quan lại, quý tộc khác.

Viên quan thị vệ và viên quan hậu cần của Penăngxăc (một đức ông quý

tộc) thực chất là những tên dốt nát. Với sự hiểu biết ngớ ngẩn về một “chuồng

ngựa ở tầng cao nhất trong nhà”, chúng đã “ngoan ngoãn” theo chân

Garganchuya lên chuồng ngựa gỗ của cậu. Khi Garganchuya đƣa cho chúng

“một cái đòn bẩy lớn” và nói với chúng rằng đó là con ngựa Frizông - một

con ngựa chạy tốt và dai sức thì chúng mới biết rằng mình “đã vớ đƣợc thày

tu” (thành ngữ xƣa ý chỉ bị mắc lừa).

Quan đại thần Trêpơluy, viên giám mã Tuccơđiyông, chủ tƣớng

Ănggulơvăng, bá tƣớc Ráccơđơnac đều là những viên tƣớng đƣợc giao những

trọng trách quan trọng trong quân đội của Picrôcôl. Tuy nhiên dƣới sự chỉ đạo

của những viên tƣớng này thì đội quân của Picrôcôl hiện ra không khác gì

một lũ ô hợp, không hàng lối, không ngƣời chỉ huy “chẳng có hàng ngũ,

51

chẳng có nhịp bƣớc gì cả, chúng kéo quân đi xô bồ, qua đến đâu tàn phá và

cƣớp bóc đến đó, chẳng tha gì kẻ giàu ngƣời khó, chốn thánh nơi phàm”.

Công tƣớc Mơnuyay, bá tƣớc Xpađaxanh, tƣớng Mecdai là những tên nịnh

thần xấu xa, để thăng quan tiến chức, chúng ca ngợi Picrôcôl nhƣ một “bậc

anh hùng, một ngƣời đi chinh phục, một ngƣời có kỳ vọng và hoài bão thống

trị toàn thế giới”. Trong cuộc hành trình chinh phục thế giới, các viên quan,

quý tộc này chỉ nhắc đến những hành động cƣớp bóc và giết ngƣời mà không

quan tâm gì đến cuộc sống của nhân dân. Bản chất của bọn chúng chính là

hám lợi, hám danh, chúng đại diện cho những con ngƣời vì lợi ích cá nhân

sẵn sàng làm tất cả mọi việc. Tuy nhiên, dƣới trƣớng của Picrôcôl vẫn còn

những con ngƣời chƣa mất hết lƣơng tri, vẫn phân biệt đƣợc cái gì là chính

nghĩa và cái gì là phi nghĩa. Tuccơđiyông chính là nhân vật đó. Vị tƣớng này

đã đƣa ra kết luận đúng đắn trong thời điểm chiến trận đang nguy cấp “sức

hùng cƣờng của y (tức Grăngguziê) lớn lắm, có thể đánh tan tất cả quỷ dữ của

địa ngục nếu chúng kéo đến”. Sau khi đƣợc Grăngguziê tha chết, ban thƣởng

và cử ngƣời hộ tống về nƣớc, Tuccơđiyông đã cảm phục sự hiền đức của

Grăngguziê, đồng thời khuyên Picrôcôl nên chấm dứt cuộc chiến tranh này để

tránh tiêu vong. Sự trung thành của “ngƣời tôi hiền” Tuccơđiyông đƣợc

Picrôcôl đền đáp bằng cái chết, Picrôcôl ra lệnh “băm vằm y ra” và “ném qua

tƣờng thành xuống thung lũng”.

Trái ngƣợc những viên quan lại, quý tộc của Picrôcôl, quan lại, quý tộc

của Grăngguziê đều là những ngƣời tài giỏi. Đó là phiên vƣơng Đông Philip

Đê Mare, quan xét cáo trạng Ulrich Gallê. Phiên vƣơng Đông Philip Đê Mare

là ngƣời Grăngguziê hỏi ý kiến khi thấy Garganchuya ngày càng ngốc nghếch

dƣới sự dạy dỗ của các ông thầy ngụy biện. Nhà quý tộc này nhận thức rõ sự

ngu xuẩn, học thức hão huyền rỗng tuếch của những ông thầy kinh viện,

những kiến thức giáo điều đó sẽ “làm bại hoại các đầu óc tốt lành và cao quý

52

và hủy hoại tất cả cái tƣơi đẹp của tuổi hoa niên”. Nhà quý tộc này chính là

ngƣời chỉ ra cho Grăngguziê và Garganchuya thấy sự sai lầm của phƣơng

pháp học tập mang tính “thuộc lòng” cũ và giới thiệu thầy dạy học mới cho

Garganchuya. Quan xét cáo trạng Ulrich Gallê là ngƣời dũng cảm và nhiều

cao kiến trong các cuộc tranh cãi, Grăngguziê đã ra lệnh cho Gallê thuyết

phục Picrôcôl dừng chiến tranh, Qua chƣơng XXXI (Diễn tử của Gallê với

Picrôcôl), ta thấy đƣợc tài năng của Gallê, ông đã đƣa ra những dẫn chứng,

lập luận chặt chẽ để khuyên Picrôcôl rời khỏi mảnh đất của Grăngguziê.

Trong bài diễn thuyết, Gallê nhắc lại đến tình hữu nghị giữa hai quốc gia; đƣa

ra kết quả thảm thƣơng nếu Picrôcôl vẫn “không biết dùng lý trí và điều độ để

chế ngự lòng tham danh vọng và tài lợi”; đồng thời khẳng định một cách đanh

thép rằng đất nƣớc mình không thiếu ngƣời, thiếu của, thiếu mƣu kế, thiếu

của cải để chống lại cuộc tấn công trái lẽ của Picrôcôl, cuối cùng Gallê yêu

cầu Picrôcôl rời khỏi mảnh đất của đất nƣớc mình và bồi thƣờng “một nghìn

đồng bơrăng vàng để bồi thƣờng cho những tổn hại” mà Picrôcôl gây ra trên

đất nƣớc mình.

Pônôcratex và Gymnaxtơ là hai ngƣời thầy đáng kính của Garganchuya.

Toàn bộ quá trình học tập khoa học của Garganchuya đƣợc trình bày trong

chƣơng XXIII và XXIV. Chƣơng trình học tập theo chủ trƣơng của

Pônôcratex luôn đan xen lý thuyết với thực hành. Sau mỗi giờ học,

Pônôcratex thƣờng cùng học trò đi thăm các cửa hàng, các công xƣởng để tìm

hiểu đời sống sản xuất nhƣ xem “ngƣời ta kéo dài kim loại nhƣ thế nào, hoặc

xem đúc súng nhƣ thế nào, hoặc đi xem các thợ ngọc, thợ kim hoàn và thợ

mài đá quý (…) họ học hỏi và quan sát tài khéo léo và sáng kiến của các nghề

nghiệp”. Pônôcratex không bắt Garganchuya nhồi nhét đủ các loại sách vở

giáo điều thuần lý thuyết nhƣ các nhà thần học mà khơi dậy trong

Garganchuya niềm yêu thích, sự đam mê khi tìm hiểu các chân lí khoa học

53

của các bậc danh y, các nhà toán học, các nhà sinh vật học cổ đại. Chính vì

vậy, Garganchuya đã tiếp thu kiến thức một cách thích thú “nhƣ trƣớc kia cậu

quen chơi súc sắc hoặc bài lá vậy”. Pônôcratex thiết kế cho Garganchuya một

thời gian biểu phù hợp với năng lực, tính cách của cậu sao cho cậu không bỏ

phí một giờ nào trong ngày. Pônôcratex phát huy óc quan sát và hứng thú của

học sinh, tận dụng thì giờ để học tập nhƣ học khi chơi, khi ăn hay khi làm vệ

sinh cá nhân. Trong bữa ăn, hai thầy trò bàn luận về “hiệu năng, đặc tính,

công hiệu của tất cả các món có trên bàn ăn”; Khi thầy trò đi ra ngoài, họ luôn

nhắc lại những câu chuyện trong sách đọc; Trong những ngày nghỉ ngơi tại

chốn đồng quê, hai thầy trò cũng cùng nhau nhắc lại học thuộc lòng vài câu

thơ trong Thơ vịnh nhà nông, thơ thôn dã và sử dụng những ngôn ngữ khác

nhau để vịnh vài bài thơ vui. Nhờ có sự dẫn dắt, dạy bảo của ngƣời thầy tuyệt

vời, Garganchuya ngày càng tiến bộ và quá trình học tập trở thành một trò

chơi “êm dịu, nhẹ nhàng, thú vị” chứ không phải cuộc chiến với sách vở nhƣ

trƣớc đây.

Gymnaxtơ có thể đƣợc xem nhƣ ngƣời thầy thứ hai, dạy Garganchuya

thuật cƣỡi ngựa. Vẻ đẹp của vị anh hùng này đƣợc tô đậm trong chƣơng

XXXV, nói về chuyện Gymnaxtơ dẻo dai giết chết tƣớng Tripê và những

quân sĩ khác của Picrôcôl nhƣ thế nào. Đối mặt với quân giặc đông và hiếu

chiến, Gymnaxtơ vẫn bình tĩnh và tìm ra kế sách đối phó hợp lí. Gymnaxtơ

gọi mình là “đồ quỷ khốn cùng” để đánh lạc hƣớng sự chú ý của quân giặc và

khiến những tên giặc ngu ngốc kia khiếp sợ trƣớc hành động của mình. Chớp

lấy cơ hội khi “chúng bỏ chạy tán loạn”, Gymnaxtơ “giáng mạnh vào những

đứa sừng sỏ nhất và đánh ngã chúng thành từng đống chồng chất”, Gymnaxtơ

“đâm tên Tripê đó một nhát gƣơm bay và trong khi tên này che đỡ phía trên,

thì anh chém một nhát đứt dạ dày, ruột già và một nửa buồng gan”.

54

2.2.3. Nhân vật thầy tu – kiểu nhân vật hài kịch

Janôtuyx đê Bragmarđô và Jăng đêz Ăngtommuya là nhân vật thầy tu và

cũng chính nhân vật hài kịch. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá

Hán, Trần Đình Sử đã định nghĩa về hài kịch nhƣ sau: “Hài kịch là thể loại

kịch trong đó tính cách, tình huống, hành động thể hiện dƣới dạng buồn cƣời

hoặc ẩn chứa cái hài nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời

để tống tiễn nó một cách vui vẻ khỏi đời sống xã hội”. Theo nguyên tắc, nhân

vật của hài kịch thuộc về các tầng lớp bình dân, nhân vật này thƣờng không

có sự tƣơng xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình

nên lố bịch.

Janôtuyx đê Bragmarđô chỉ xuất hiện trong chƣơng XVIII, XIX và XX của

tiểu thuyết Garganchuya nhƣng đã tạo nên tràng cƣời lớn cho tất cả những

ngƣời chứng kiến màn diễn thuyết “độc đáo” này bao gồm cả ngƣời đọc,

Garganchuya và những ngƣời bạn đồng hành. Khi Janôtuyx khoác chiếc áo

choàng long trọng với vẻ quan trọng hài hƣớc của một tôn sƣ Xorbon cùng

phụ tá tháp tùng đến gặp Garganchuya, ban đầu ngƣời ta tƣởng bầy đoàn kì dị

đó là một đám vũ hội hóa trang: “Tiên sinh Janôtuyx gọt tóc kiểu Cêzar, đội

chiếc mũ bồ dài kiểu xƣa của ông…và dạ dày đã đƣợc trang bị đầy đủ bằng

bánh bỏ lò và nƣớc thành của hầm rƣợu…thúc đẩy phía trƣớc là ba tên bõ

mõm đỏ hỏn kéo lếch thếch đằng sau năm sáu thầy khóa tu bất tài, bẩn thỉu từ

đầu đến chân”. Hình tƣợng vị tôn sƣ Xorbon và những ngƣời đi cùng với ông

trở thành “những thằng hề hội giả trang”, thành một đám rƣớc trào tiếu, vui

nhộn. Garganchuya và các bạn đồng hành của chàng đã quyết định bày ra một

mƣu sách đặc biệt để “cái lão ho hen kia không đƣợc dịp vênh váo hão”.

Trƣớc hết họ cho Janôtuyx uống say bí tỉ và trong lúc họ trả chuông thì các vị

đại diện thành phố đƣợc mời đến. Sau đó Janôtuyx buộc phải phát biểu những

lời gây cƣời để làm vui lòng những ngƣời có mặt. Ông ta phát biểu bài diễn

55

thuyết một cách nghiêm trang mà không biết rằng chiếc chuông đã đƣợc giao

cho các vị chức trách thành phố từ lâu. Trên thực tế, Janôtuyx đơn giản chỉ

đóng vai một thằng hề hội chợ. “Trò lừa này làm tăng thêm tính chất hội giả

trang của hình tƣợng một vị Sorbone bị văng ra khỏi nhịp sống hiện thực và

trở thành con bù nhìn cho mọi ngƣời cƣời nhạo, nhƣng vẫn tiếp tục đóng vai

của mình với giọng điệu nghiêm trang nhất mực, không hề nhận thấy xung

quanh mọi ngƣời đã bật cƣời từ lâu” [33;344].

Janôtuyx đại diện cho “khoa thần học đáng kính” Xorbon. Hắn đƣợc giao

nhiệm vụ bằng những lời thông thái và hùng biện, thuyết phục Garganchuya

trả lại quả chuông mà chàng đã đánh cắp. Tuy nhiên những lí lẽ “hùng hồn”

mà Janôtuyx đƣa ra trong bài diễn thuyết chỉ khiến hắn diễn tròn vai tên hề

nơi quảng trƣờng của hắn mà thôi. Lí do đầu tiên hắn đƣa ra để Garganchuya

trả lại chuông chính là do tiếng chuông có ảnh hƣởng tốt đẹp đến độ phì nhiêu

của các vƣờn nho. Và lí do tiếp theo của hắn là hắn sẽ đƣợc ban cho “sáu

gang xúc xích” và “một chiếc quần thật tốt” nếu hắn hoàn thành nhiệm vụ.

Thực chất Janôtuyx cũng không phải một nhà diễn thuyết giỏi cho lắm, bài

diễn thuyết mà hắn ngẫm nghĩ trong mƣời tám ngày là một bài giễu nhại tuyệt

vời thuật hùng biện của những ngƣời làm việc cho Xorbon. Trong bài diễn

thuyết xuất hiện khá nhiều câu bằng tiếng La tinh, đa phần là những câu đƣợc

trích từ Kinh thánh, có vẻ nhƣ quý ngài Janôtuyx đã phải rất khó nhọc để nhớ

và tìm những câu nói đó vì hắn thƣờng xuyên nói hớ, nói ngắc ngứ, ngắt

quãng trƣớc những suy nghĩ bị tuột mất, cách tìm kiếm từ ngữ thích hợp cũng

diễn ra một cách khó khăn. Rabơle đã đƣa bộ mặt thật của những ông thầy tu,

hay chính là bộ mặt của trƣờng học Xorbon ra ánh sáng. Janôtuyx thực thi

nhiệm vụ đòi chuông không nhằm thực hiện sứ mệnh của Chúa, tuyên truyền

giáo lý mà chỉ muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân của hắn. Ở con ngƣời của

56

Janôtuyx, ta chẳng thấy chút gì gọi là cuộc sống trong sạch, cuộc sống vứt bỏ

mọi ham muốn vật chất, tinh thần tầm thƣờng, phàm tục nào cả.

Nếu tăng lữ phƣơng Tây vi phạm các chuẩn mực của Kinh thánh dƣới

chân Chúa thì trong văn học Việt Nam cũng xuất hiện những sƣ, sãi vi phạm

những điều cấm kỵ của đạo Phật. Bà chúa thơ Nôm đã miêu tả cảnh sinh hoạt

lƣời biếng vô độ của các nhà sƣ ở chùa Quán Sứ nhƣ sau:

“Chày kình tiểu để suông không đấm

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

Sáng banh không kẻ khua tang mít

Trƣa trật nào ai móc kẽ rêu”.

Tinh thần phê phán tôn giáo của Hồ Xuân Hƣơng dễ khiến ta liên tƣởng

đến tinh thần của phong trào Phục hƣng ở Châu Âu.

Jăng đêz Ăngtommuya cũng là một ông thầy tu ham mê ăn uống và thích

chém giết, ngƣợc lại với Janôtuyx - đại diện cho hình ảnh của sự già cỗi của

xã hội, hệ tƣ tƣởng và chữ viết của những kẻ làm việc cho Xorbon, thầy tu

Jăng là “hiện thân của sức mạnh cải cách và đổi mới mạnh mẽ của giới tu sĩ

dân chủ cấp thấp” [33;146]. Trong tƣ tƣởng của vị thầy tu chân chính nhất

trần đời này, ta thấy sự xuất hiện của một loạt tƣ tƣởng mới hiếm xuất hiện ở

các thầy tu khác: “Chết dũng cảm trong chiến đấu, há chẳng tốt hơn và danh

giá hơn sống mà chạy trốn đê hèn”; “Có ba bài thánh thi và ba bài đọc kinh

thánh, hoặc không gì cả nếu không muốn đọc. Không bao giờ tôi lệ thuộc vào

các giờ kinh: kinh giờ sinh ra cho con ngƣời, chứ không phải con ngƣời sinh

ra cho giờ kinh”. Nếu nhƣ tiếng cƣời dành cho Janôtuyx là tiếng cƣời nhạo

phủ định, phê phán xã hội và chế độ phong kiến Trung cổ, thì tiếng cƣời dành

cho Jăng chính là tiếng cƣời hân hoan của sự tái sinh và đổi mới. Thầy tu Jăng

thực sự là một ông thầy tu chân chính, thầy là ngƣời hiểu rõ tƣờng tận về tất

cả những điều liên quan đến Kinh thánh, thầy chuyển những ngôn ngữ Kinh

57

thánh đó từ bình diện tôn giáo sang bình diện trần tục (ăn, uống, tình dục).

Dƣới con mắt của thầy Jăng, những câu nói của các ông Thánh không còn là

hiện thân của chân lý, không còn là những khuôn vàng thƣớc ngọc mà chỉ là

những “chân lý” kìm hãm sự phát triển tự nhiên của con ngƣời. Thầy Jăng đề

cao quyền đƣợc tự do, quyền đƣợc hƣởng thụ các thú vui vật chất của con

ngƣời nhƣng ông hoàn toàn không muốn trục lợi, mƣu cầu danh lợi cho bản

thân nhƣ Janôtuyx. Khi Garganchuya ban cho thầy Jăng chức tu viện trƣởng,

thầy nhất quyết từ chối với lí do: “Tôi cai quản tôi còn chƣa xong”, và chỉ xin

sáng lập ra một tu viện của riêng mình - Tu viện Thêlem, nơi con ngƣời muốn

làm gì tùy ý.

Xét trên một khía cạnh nào đó, thầy tu Jăng cũng là “nhân vật khổng lồ”

mang lý tƣởng của phong trào Phục hƣng. Thầy Jăng xây dựng tu viện

Thêlem với ƣớc vọng giải phóng con ngƣời, để con ngƣời tự do phát triển khả

năng vô tận của họ. Ông chế giễu những gì trái với tự nhiên và kêu gọi con

ngƣời tự ý thức cá nhân về số phận.

2.3. Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật

2.3.1. Cách đặt tên nhân vật

Ngay sau khi đƣợc sinh ra mỗi ngƣời đều có một tên riêng cho mình. Tên

dù xấu, dù đẹp, dù ngắn, dù dài…thì đó vẫn là một cái tên dùng để nhận dạng

một con ngƣời cụ thể. Trong một tác phẩm văn học thì tên gọi của nhân vật

còn mang ý nghĩa và chức năng khác nhau. Tên gọi là một trong những yếu tố

tạo nên hình tƣợng nhân vật, trong đó thể hiện những đặc điểm, tính cách

nhân vật. Tên nhân vật thƣờng phản ánh phong cách nhà văn và không khí

thời đại bao trùm lên tác phẩm. Ngoài những cái tên đƣợc mƣợn từ quyển

Những sự tích vĩ đại của vị khổng lồ to lớn Garganchuya nhƣ Grăngguziê

(Grangousier), Garganchuya (Gargantua), Gargamel (Gargamelle) thì tên của

những nhân vật còn lại đều có đặc điểm: Mỗi cái tên lại có một ý nghĩa riêng

58

thể hiện đƣợc phần nào tính cách của nhân vật. Chúng tôi có thống kê và nêu

ra ý nghĩa tên của các nhân vật trong tiểu thuyết Garganchuya trong bảng sau:

Tên nhân vật Ý nghĩa cái tên

Penăngxắc (Painensac) Hà tiện

Frăngrơpa (Francrepas) Thích ăn mà không phải mất tiền

Muiơvăng (Mouillevant) Ăn la ăn liếm

Tubal Hôlôphernơ (Thubal Cấu tạo từ hai tên:

Holopherne) Thubal là một nhân vật trong Kinh thánh, dòng

dõi của Cain.

Holopherne là tƣớng tổng chỉ huy quân đội của

Nabucôđônôzo, vua xứ Calđê, thế kỉ XII, tr J.C

bị nàng Juđith giết chết khi đang ngủ, trƣớc cửa

thành Bêthuli

Jăng lơ Vô (Jean le Veau) Tên dân gian để gọi thằng ngu ngốc

Biôniô (Billonio) Đồng tiền pha một tí bạc

Brơlanhgăngđuyx Âm hộ

(Brelinguandus)

Jôbơlanh Briđê (Jobelin Anh chàng ngốc bị xỏ mũi

Bridé)

Ơđêmon (Eudémon) Hạnh phúc, có sao chiếu mệnh tốt

Pônôcratex (Ponocratès) Làm việc hăng hái

Janôtuyx đê Bragmarđô Dƣơng vật

(Janotus de Bragmardo)

Philôtômi (Philotomie) Thích cắt

Gymnaxt (Gymnaste) Thầy dạy thể dục, thể thao

Juxơ Băngđui (Jousse Tên chắp từ những tiếng Joie: vui vẻ; bande: bè

59

Bandoullie) lũ; andouille: dồi lợn, ngƣời ngu ngốc

Picrôcôl (Piccrochole) Nghĩa là mật đắng. Theo kiến thức sơ sài thời

xƣa, ngƣời ta cho rằng tính khí con ngƣời do

mật quyết định, cho nên nói mật đắng cũng tức

là tính khí hay cáu giận, nổi nóng.

T’rêpơluy (Trepeluy) Rách mƣớp

Huênh hoang Tuccơđiyông

(Toucquedillon)

Răccơđơnar Bòn rút từng đồng trinh

(Raccquedenar)

Ăngulơvăng (Engoulevent) Đớp gió, chỉ một loài chim sẻ có mỏ mở rộng

toác

Jăng đêz Ăngtommuya Entommeures nghĩa là mẩu, những khúc đƣợc

(Jean des Entommeures) sả ra của một vật gì. Tác giả đặt tên nhƣ vậy

cho thầy tu này vì thầy ta giết giặc rất hăng nhƣ

củ chuối.

Tuôcnơmul (Tournemoule) Quay cối xay

Beđơ (Bas-de-fesses) Mông đít

Mơnuyay (Menuail) Nghĩa đen là đồ nhỏ mọn, vô giá trị.

Nghĩa bóng là đồ vô lại.

Gratell (Gratelles) Gãi ngứa

Ekêphron (Echéphron) Ngƣời có lƣơng tri

Haxtivô (Hastiveau) Quá vội

Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rằng, ý nghĩa của tên vua Picrôcôl, phe

cánh của ông vua này và thầy tu Janôtuyx đê Bragmarđô đều mang ý nghĩa

hài hƣớc, tục tĩu; còn ý nghĩa tên thầy tu Jăng đêz Ăngtommuya, những tƣớng

60

sĩ của Grăngguziê hay các ngƣời bạn đồng hành của Garganchuya đều mang ý

nghĩa tích cực và vui vẻ hơn. Rabơle sử dụng những cái tên này nhƣ một dụng

ý nghệ thuật, nhằm bộc lộ quan điểm, thái độ, tƣ tƣởng của mình. Hệ thống

tên nhân vật đó là sự lựa chọn có chủ ý, một trong những biểu hiện nhất quán

nằm trong thi pháp riêng của nhà văn. Tên nhân vật có chức năng “thông báo

ban đầu” của tác giả về tính cách, số phận tƣơng lai của nó. Mỗi cái tên đều

có một ý nghĩa riêng và khắc họa đƣợc phần nào tính cách hay đặc điểm, hoạt

động của từng nhân vật. Đối với một số nhân vật, ngƣời đọc chỉ cần đọc qua

cái tên cũng biết đƣợc sơ qua phần nào tính cách của nhân vật, đồng thời

ngƣời đọc sẽ chú ý tìm hiểu rõ hơn nhân cách của nhân vật này và tự trả lời

câu hỏi “Tại sao tác giả lại đặt cho nhân vật này cái tên nhƣ vậy?” ở những

đoạn sau của tác phẩm (Jăng đêz Ăngtommuya, Janôtuyx đê Bragmarđô,

Picrôcôl …). Tuy nhiên cũng có nhân vật chỉ xuất hiện lƣớt qua trong tác

phẩm và hầu nhƣ không đƣợc miêu tả gì nhiều về tính cách, đối với nhân vật

này thì ngƣời đọc chỉ có thể giải mã đƣợc tính cách của nó qua cái tên và qua

cái tên đó để tiếp cận sâu hơn nhân vật thông qua thái độ của tác giả (đả kích,

châm biếm, khen/chê…). Janôtuyx đê Bragmarđô, nhân vật đóng vai trò nhƣ

“ngƣời truyền lại lời của Chúa” lại đƣợc Rabơle đặt tên với ý nghĩa là dƣơng

vật. Bằng sự chuyển đổi từ môi trƣờng “linh thiêng” sang môi trƣờng vật chất

- xác thịt, Rabơle đã hạ bệ thế giới quan trung cổ với đức tin về những vị

thánh. Dƣơng vật còn gắn với hoạt động sinh sản, phát triển, vì vậy, biểu

tƣợng này cũng mang ý nghĩa tích cực, thể hiện sự đổi mới của thế giới.

Khả năng biểu hiện của cái tên rất lớn, ngƣời đọc có thể hình dung đƣợc

bản chất, đặc điểm nổi bật về tính cách, lối sống mà chƣa cần đi sâu vào tìm

hiểu nhân vật. Không chỉ trong tiểu thuyết Garganchuya mà trong một loạt

các tiểu thuyết khác, chúng ta cũng có thể bắt gặp hiện tƣợng đặt tên này.

Trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái, Savitri nghĩa là nữ

61

thần đồng trinh, nhƣng nàng là hiện thân của ham muốn và dục vọng. Ham

muốn đó đƣợc cụ thể hóa qua ham muốn xác thịt. Ngoài vị tiểu vƣơng gia và

Raja, Savitri còn vô số cuộc tình thoáng qua. Thậm chí cho đến già, nàng vẫn

quyết tâm theo đuổi những khoái lạc thân xác. Cũng trong tiểu thuyết này,

Ahimsaka có nghĩa là không sát sinh nhƣng lại là kẻ độc ác, giết ngƣời không

ghê tay. Hồ Anh Thái đặt tên nhân vật theo cách ngƣợc nghĩa với tên gọi.

Nguyên nhân sâu xa của những cái tên đầy ấn tƣợng mà Hồ Anh Thái sáng

tạo là sự ý thức về hiện thực xã hội. Rabơle đã kết hợp nhân sinh quan về xã

hội đƣơng thời với vốn kiến thức về ngôn ngữ phong phú để tạo nên những

cái tên độc đáo, khiến ngƣời đọc bật cƣời, nhận ra rõ hơn sự lố bịch của con

ngƣời và thế giới hiện tại.

2.3.2. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật

Đối thoại và độc thoại là hai kiểu giao tiếp ngôn từ cơ bản. Đối với đối

thoại, ta thấy rằng đó là thứ ngôn ngữ mà “lời đối thoại gắn liền với việc

những ngƣời nói hƣớng vào nhau và tác động với nhau” (Pospelov). Ngôn từ

đối thoại là “sự giao tiếp qua lại thƣờng giữa hai phía, trong đó sự chủ động

và thụ động đƣợc chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa

những phía tham gia giao tiếp). Mỗi phát ngôn đều đƣợc kích thích bởi phát

ngôn có trƣớc và sự phản xạ lại phát ngôn ấy” [7;167].

Ngôn ngữ đối thoại có nhiều hình thức đa giọng, đa thanh nhƣ lời văn

nhại, lời mỉa mai, lời văn nửa trực tiếp…Trong tiểu thuyết Garganchuya,

ngôn ngữ đối thoại trở thành đối tƣợng miêu tả của nhà văn. Nhà văn miêu tả

ngôn từ của nhân vật nhƣ những sản phẩm cá thể hóa cao độ, phù hợp với đặc

điểm cá nhân của từng nhân vật, ứng với miêu tả cá tính của từng nhân vật.

Các yếu tố của tính đối thoại có mặt trong phần lớn mọi lời nói: lời nói con

ngƣời, trƣớc hết là sự đáp lại đối với những lời của ai đó đã nói ra trƣớc nó,

và thứ hai, nó hƣớng tới một kẻ xác định (trực diện hay không trực diện).

62

Ngƣời ta có thể nói đến nhân tố đối thoại đƣợc biểu hiện ít hoặc nhiều trong

một lời nói nào đó.

Theo tổ chức bề ngoài thì ngôn ngữ đối thoại thƣờng luân phiên nhau, ngắt

nhau. Đó là những lời đối đáp, sự trao đổi qua lại giữa các nhân vật trong từng

văn bản nghệ thuật nhất định.

Trong Garganchuya có 42 cuộc đối thoại và số cuộc đối thoại dài từ hai

trang trở lên có 5 cuộc. Nhƣ vậy, ngôn ngữ đối thoại chiếm tỉ lệ cao hơn so

với ngôn ngữ độc thoại. Rabơle đã sử dụng chúng nhƣ một phƣơng tiện để thể

hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Điều đáng nói ở đây là thứ ngôn ngữ mà ông

dùng không bị gò ép trong một cái mẫu sẵn có mà tự do tung hoành. Chính

điều này đã mang đến “sức nặng” cho các văn phẩm của ông. Để nắm bắt dễ

dàng hơn, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lƣợc ngôn ngữ đối thoại thể hiện trong

tác phẩm này thông qua việc chỉ ra các nhân vật tham gia đối thoại. Đề tài mà

họ hƣớng tới trong các cuộc đối thoại này là gì? Mục đích, ý nghĩa của nó ra

sao? Và ngƣời viết sẽ chọn một số cuộc đối thoại tiêu biểu để dừng lại phân

tích làm điểm nhấn, nhằm chỉ ra nét độc đáo của ngòi bút thiên tài Rabơle

trong việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại - thứ ngôn ngữ hầu hết các nhà văn

dùng nhƣng không phải ai cũng thành công nhƣ ông.

Chƣơng XXXII có đến 5 cuộc đối thoại nhỏ: Picrôcôl và Gallê; Gallê và

Grăngguziê; Grăngguziê với quần thần; Gallê với Tuccơđiyông và

Tuccơđiyông với Picrôcôl. Mục đích là chỉ ra bản chất tham lam của vua

Picrôcôl và sự hiền từ, nhân hậu của vua Grăngguziê. Grăngguziê nhanh

chóng nhận ra cuộc chiến tranh với Picrôcôl là cuộc chiến phi nghĩa và cùng

quần thần nghĩ mọi cách ngăn chặn cuộc chiến này: “Chỉ là chuyện vài chiếc

bánh đa thôi, thế thì tôi sẽ cố gắng làm cho hắn đƣợc hài lòng, vì khởi chiến là

chuyện tôi chả thích chút nào”. Thay vì suy nghĩ coi hành động bồi thƣờng

63

của Grăngguziê là sách lƣợc của con ngƣời yêu mến hòa bình thì Picrôcôl và

tƣớng Tuccơđiyông lại coi đó là sự khiếp sợ uy thế đội quân của mình.

“- Những quân thô lậu đó khiếp sợ lắm rồi. Đúng vậy, Grăngguziê vãi cứt

rồi, cái lão nghiện rƣợu khốn khổ! Tài giỏi của hắn không phải là đánh trận,

mà là nốc cạn chai lớn chai bé thì có. Ý kiến của tôi là chúng ta hãy giữ lấy

những xe bánh đa kia và tiền bạc, và ngoài ra chúng ta gấp rút phòng ngự ở

đây và tiếp tục đuổi theo hạnh vận. Dễ thƣờng chúng nó tƣởng ngài là đồ

ngốc hay sao mà đem những bánh đa kia để dử ngài? Trò đời nhƣ thế đấy: sự

đối xử tốt với thái độ rất thân mật của ngài trƣớc đây đối với chúng khiến

chúng khinh nhờn ngài: mơn trớn đứa tiểu nhân, nó sẽ khinh lờn mình, đe nẹt

nó, nó sẽ vuốt ve mình.

- Chà, chà, chà, Picrôcôl nói, thề có Thánh Jăc, chúng nó sẽ biết tay! Ông

cứ làm nhƣ lời đã nói”.

Chƣơng XLI là cuộc đối thoại giữa Garganchuya và thầy tu Jăng về những

giờ kinh và kinh nhật tụng của thầy tu. Tƣ tƣởng tiến bộ của thầy tu Jăng

đƣợc thể hiện ở đoạn này: ông thầy tu này đi ngƣợc lại tất cả các thể thức

đƣợc đặt ra trong Kinh thánh.

“- Các ngài ơi, ngƣời ta thƣờng bảo rằng buổi lễ sớm bắt đầu bằng ho

hắng, và bữa tối bắt đầu bằng uống. Chúng ta hãy làm ngƣợc lại: bây giờ

chúng ta hãy bắt đầu buổi lễ sớm bằng cách uống và đến tối, khi vào bữa ăn,

chúng ta hãy thi nhau mà ho.

Nghe thấy thế, Garganchuya bảo rằng:

- Uống sớm nhƣ vậy sau giấc ngủ không phải là sống theo chế độ thầy

thuốc khuyên bảo. Trƣớc hết phải tẩy dạ dày cho sạch hết những chất cặn và

chất cứt đi đã.

- Thật đúng là giọng thầy thuốc! thầy tu nói. Xin một trăm con quỷ nhảy

vào ngƣời tôi, nếu không có nhiều anh nghiện rƣợu già hơn là những thầy

64

thuốc già! Tôi đã giao ƣớc với sự ngon miệng của tôi là bao giờ nó cũng đi

ngủ cùng với tôi, và suốt ngày tôi chăm lo điều đó, cho nên nó cũng cùng dạy

với tôi. Công tử cứ việc tha hồ mà tháo bã, tôi thì tôi đi theo cái thuốc mửa

của tôi.

- Thầy định nói đến thuốc mửa nào? Garganchuya nói.

- Quyển kinh nhật tụng của tôi, thầy tu nói, vì cũng y nhƣ những ngƣời

nuôi chim ƣng, trƣớc khi cho chim ăn, họ cho nó nếm náp một cái chân để tẩy

óc nó cho sạch những dịch thể, và để cho nó biết ngon miệng - cũng vậy, khi

dùng quyển kinh nhật tụng nhỏ xinh vui vẻ này buổi sáng, thì tôi tẩy sạch

phổi và thế là tôi sẵn sàng để uống.”

Những cuộc hội thoại giữa Garganchuya với Gymnaxtơ, ta thấy đƣợc sự

cơ trí và lập luận sắc bén của Garganchuya trong chiến trận. Cuộc hội thoại

của đám thần học giúp ta thấy đƣợc sự dốt nát và sự “tầm chƣơng trích cú” sai

bét của chúng cũng nhƣ sự tham lam của cải vật chất của chúng. Cuộc hội

thoại của Picrôcôl với cận thần của mình đã khắc họa thành công một ông vua

“tiêu biểu” cho chế độ phong kiến Trung cổ đƣơng thời tham lam, ngu ngốc

chỉ biết sống hƣởng lạc trên sự đau khổ của nhân dân. Mỗi cuộc hội thoại đều

thực hiện chức năng riêng của nó, các cuộc hội thoại đã tạo ra tình huống, câu

hỏi để từ đó nhân vật suy nghĩ và có cách ứng xử của riêng mình. Một điểm

đáng chú ý trong tiểu thuyết Garganchuya là các nhân vật thƣờng sử dụng

ngôn ngữ suồng sã và tự do theo kiểu quảng trƣờng. Sự biến tƣớng của các

văn bản và danh ngôn linh thiêng tràn ngập khắp nơi trong cuốn tiểu thuyết

này. Lời nguyền, mắng nhiếc, chửi rủa xuất hiện trong ngôn ngữ của nhiều

nhân vật, đặc biệt là thầy Jăng.

2.3.3. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình

Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, Pospelov cho rằng: “Các nhà

văn hài hƣớc và các nhà văn châm biếm thƣờng thƣờng hầu nhƣ không thể

65

hiện thế giới nội tâm nhân vật (hoặc chỉ thể hiện ở một mức ít ỏi), nhƣng

trong tác phẩm của mình họ lại nêu bật và tô đậm chất hài của những chi tiết

tạo hình bên ngoài”. Ngoại hình nhân vật của các nhân vật trong

Garganchuya không đƣợc khắc họa một cách đầy đủ, Rabơle chỉ chọn và

miêu tả những nét sẽ tạo điểm nhấn, điểm nổi bật cho hình hài nhân vật của

mình mà thôi.

Đối với nhân vật trung tâm Garganchuya, Rabơle hầu nhƣ không đề cập

nhiều đến khuôn mặt, dáng vẻ của Garganchuya nhƣ thế nào, mà tập trung sử

dụng “chuyện may mặc” của cậu để xây dựng một con ngƣời khổng lồ về tầm

vóc. Chiếc áo sơ mi đƣợc cắt từ “chín trăm ôn vải Satellơrô” và “hai trăm cái

dạ ca”; áo chẽn đƣợc “cắt từ tám trăm mƣời ba ôn xa tanh trắng” và dây buộc

làm từ “mƣời lăm trăm linh chín rƣỡi bộ da chó”; chiếc quần nịt làm từ “một

trăm linh năm và một phần ba ôn vải len trắng”; cái khố ngƣời ta “cắt mƣời

sáu và một phần tƣ ôn vải”; đóng đôi giày phải tốn “bốn trăm linh sáu ôn

nhung xanh lơ”; áo quàng cắt từ “mƣời tám trăm ôn nhƣng xanh lơ”; thắt lƣng

làm bằng “ba trăm và một nửa ôn lụa”; chiếc áo hồ cừu cắt từ “chín nghìn sáu

trăm ôn kém hai phần ba ôn nhung xanh lơ”; mũ chỏm làm bằng “ba trăm

linh hai và một phần tƣ ôn nhung trắng”; sợi dây chuyền bằng vàng cân nặng

hai mƣơi nhăm nghìn sáu mƣơi ba mác vàng; chiếc nhẫn có giá bằng “sáu

mƣơi chín triệu tám trăm chín mƣơi tƣ nghìn tám con cừu lông xù”. Tác giả

đƣa ra nhiều con số lớn đến nỗi ngƣời đọc chẳng thể tƣởng tƣợng nổi

Garganchuya to lớn đến mức độ nào. Đi dọc theo cuốn tiểu thuyết, ta thấy hai

lần tác giả quay cận cảnh ngoại hình của Garganchuya, đó là khi chàng còn

nhỏ “trông cậu thật thích mặt, vì mặt cậu hồng hào và có đến gần mƣời tám

cái cằm” và “cậu có đôi cẳng chân rất đẹp và rất cân xứng với toàn thể vóc

dáng của cậu”.

66

Ơđêmon - cậu thị đồng trẻ tuổi của Đê Mare tuy mới học hành có hai năm

nhƣng đã có khả năng ăn nói hơn ngƣời đƣợc miêu tả “mũ mạo chỉnh tề, quần

áo phẳng phiu, chải chuốt tinh tƣơm, phong thái hoà nhã đến nỗi cậu trông

nhƣ một thiên thần nhỏ, hơn là một ngƣời trần. Janôtuyx đê Bragmarđô đƣợc

miêu tả với hình dáng giống nhƣ một tên hề chuẩn bị đi diễn trên quảng

trƣờng “gọt tóc theo kiểu Cêzar, đội cái mũ bồ dài kiểu xƣa”. Thầy Jăng “trẻ

tuổi, khôi ngô tuấn tú, cao gầy, mồm rất rộng, mũi rất to”.

Tiểu kết chƣơng 2

Nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ là nơi bộc lộ tƣ tƣởng chủ đề

tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Thông

qua các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Garganchuya, Rabơle muốn đập phá

thế giới cũ và xây dựng một thế giới tiến bộ mới. Rabơle đã sáng tạo ra một

hệ thống loại hình nhân vật đông đảo nhằm truyền tải tƣ tƣởng của mình.

Trƣớc hết là kiểu nhân vật ngƣời khổng lồ, lý tƣởng, đƣợc tái hiện trực

tiếp qua lời kể của nhân vật ngƣời kể chuyện và các nhân vật khác trong tiểu

thuyết. Việc nhìn nhân vật này qua các điểm nhìn khác nhau, giúp ngƣời đọc

thấy đƣợc diện mạo, hành vi, cử chỉ, nhân cách…của nhân vật trung tâm

trong các giai đoạn phát triển khác nhau trong cuộc đời. Sử dụng bút pháp

phóng đại khi xây dựng hình tƣợng Garganchuya là dụng ý nghệ thuật của

Rabơle. Garganchuya đƣợc “khổng lồ hóa” nhằm đáp ứng nhu cầu của thời

đại Phục hƣng. Qua nhân vật này, Rabơle muốn gửi gắm những học thuyết

tiến bộ về triết học, khoa học, giáo dục; đồng thời đề cao khát vọng và quyền

sống của con ngƣời.

Kiểu nhân vật thứ hai là nhân vật vua, quan, quý tộc – đây cũng là kiểu

nhân vật thƣờng gặp trong các tác phẩm văn xuôi trung cổ, Phục hƣng. Những

nhân vật này đƣợc chia thành hai phe đối lập thể hiện hai luồng suy nghĩ của

Rabơle về thời đại Phục hƣng: Suy nghĩ thứ nhất là chế giễu, lên án, đả kích

67

thế giới Trung cổ, phong kiến và Nhà thờ; suy nghĩ thứ hai là ƣớc mơ về một

thế giới mới tốt đẹp hơn và đề xuất nhiều ý kiến táo bạo nhằm xây dựng thế

giới đó.

Kiểu nhân vật thứ ba là nhân vật thầy tu, đặc điểm chung của nhân vật này

là tạo ra tiếng cƣời. Tuy nhiên tiếng cƣời ở đây mang tính nhị chức năng, nó

vừa mang ý nghĩa hạ bệ, đả kích, châm biếm những xấu xa của các lí tƣởng

tôn giáo cuồng tín, giáo điều đƣơng thời. Đồng thời nó cũng mang ý nghĩa

tích cực, phục sinh, sáng tạo một thế giới mới. Janôtuyx và Jăng đều mang

chức danh là thầy tu, nhƣng giữa họ lại có sự đối lập nhau từ cách cƣ xử cho

đến lối suy nghĩ.

Trên đây là những kiểu nhân vật cơ bản trong sáng tạo nghệ thuật của

Rabơle trong tiểu thuyết Garganchuya. Việc phân chia nhƣ vậy để thấy rõ

hơn sự phong phú và thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn này. Tuy

nhiên, các nhân vật này đƣợc đặt trong quan hệ tƣơng tác, đan cài với nhau,

qua lại và tác động lẫn nhau. Các nhân vật có khi vừa nằm trong loại này vừa

lại là thành viên của loại khác, cho nên việc chia tách này cũng cho thấy sự

phức hợp của thế giới nghệ thuật của Rabơle, cho thấy sự vận động của lịch

sử xã hội. Chẳng hạn, Grăngguziê vừa có thể xếp vào kiểu nhân vật khổng lồ,

lý tƣởng, vừa có thể thuộc kiểu nhân vật vua, quan, quý tộc. Hay thầy tu Jăng

có thể thuộc cả loại nhân vật khổng lồ, lý tƣởng và nhân vật thầy tu.

Nhân vật của Rabơle chủ yếu đƣợc miêu tả qua hành động, ngoại hình và

ngôn ngữ nhân vật. Cách miêu tả nhân vật qua các bình diện khác nhau tạo ra

điểm nhìn bên ngoài góp phần kết nối nhân vật với cái tổng thể - toàn cục, để

tạo nên những nên những nét tính cách nổi bật cho nhân vật đó. Bên cạnh

những nhân vật đƣợc miêu tả cụ thể và chi tiết nhằm xuất trình tƣ tƣởng của

tác giả thì tiểu thuyết Garganchuya còn có sự xuất hiện của nhiều nhân vật

chỉ hiện lên qua những cái tên. Nhà văn đã biến tên nhân vật thành các công

68

cụ thao tác để thể hiện quan điểm nhân sinh cũng nhƣ bộc lộ vốn kiến thức

sâu rộng về ngôn ngữ của mình.

69

Chƣơng 3: THI PHÁP KẾT CẤU VÀ TỔ CHỨC KHÔNG GIAN – THỜI

GIAN NGHỆ THUẬT

3.1. Thi pháp kết cấu trong tiểu thuyết Garganchuya

3.1.1. Giới thuyết về thi pháp kết cấu

Kết cấu (tiếng Pháp – composition) là một thuật ngữ có gốc từ khoa học

xây dựng và kiến trúc, sang nghiên cứu và phê bình văn học, thuật ngữ này đã

đƣợc chuyên ngành hóa và trở nên khá thông dụng. Kết cấu là một trong

những thành tố quan trọng cấu tạo nên tác phẩm văn học. Tùy theo quan

điểm, góc độ nhìn nhận mà các nhà lí luận văn học có nhiều cách hiểu và cách

định nghĩa khác nhau về kết cấu.

Ở Trung Quốc, từ rất sớm, ngƣời xƣa đã nói đến kết cấu nhƣng ngƣời ta

gọi kết cấu bằng những tên gọi khác nhau nhƣ “bố cục”, “bố trí”, “phân bố”,

“chƣơng pháp”. “Bố cục” nghĩa là sự sắp xếp các bộ phận, “bố trí” là sắp đặt

theo một trật tự trƣớc sau, “phân bố” là sự bài trí thể hiện trên bề mặt,

“chƣơng pháp” là việc tổ chức một bài thơ, bài văn. Từ đó họ đề ra từng bƣớc

cụ thể nhƣ “khai”, “thừa”, “chuyển”, “hợp” tạo lập sự gắn kết ý tƣởng với

nhau, tạo dựng mối quan hệ giữa các phần.

Ở Phƣơng Tây từ thời cổ đại, các nhà lí luận văn học vĩ đại nhƣ Platon,

Aristote cũng đã khái quát những vấn đề lí luận chung về kết cấu. Platon nói:

“Kết cấu của mỗi bài văn phải là một yếu tố có sức sống, có cái thân thể vốn

có của nó, nó có đầu, có đuôi, có phần thân, có tứ chi, có bộ phận này và bộ

phận khác, có quan hệ bộ phận và toàn thể, tất cả đều phải có vị trí của nó”

[22;101]. Aristote trong Nghệ thuật thơ ca cũng chú ý đến tính thống nhất và

hoàn chỉnh của kết cấu: “Cái hoàn chỉnh là cái có phần đầu, phần giữa và

phần cuối. Phần đầu là cái không nối tiếp theo cái khác, trái lại theo quy luật

tự nhiên phải có cái gì tồn tại hoặc tiếp theo sau nó; phần cuối là cái mà theo

tính chất tất yếu hay theo lẽ thƣờng đều phải theo sau cái gì đó và theo sau nó

70

không còn cái khác phải tiếp sau; phần giữa là cái phải tiếp theo các khác và

cái khác nữa lại tiếp theo sau nó. Vậy những cốt truyện đƣợc xây dựng một

cách khéo léo phải tuân theo những định nghĩa đó, chứ không đƣợc tùy tiện

bắt đầu và kết thúc chỗ nào cũng đƣợc [25;102].

Ở Việt Nam, Nhữ Bá Sĩ (cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX) đã nêu quy tắc

cho nhà văn khi xây dựng kết cấu tác phẩm “Loại văn chƣơng tột bậc của

thiên hạ đúng là không ở trong giới hạn đóng, mở kết cấu nhƣng mà không

đóng mở kết cấu thì không thành văn chƣơng [25;102].

Điểm qua ta thấy điểm chung của các nhà lí luận văn học cổ khi nói về kết

cấu thƣờng thiên về cách sắp xếp tổ chức để tạo hình tƣợng xem xét kết cấu

nhƣ một phƣơng tiện thể hiện nội dung, tƣ tƣởng của tác phẩm.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi thì kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp, sinh động của tác phẩm

[6;156]. Kết cấu đƣợc tạo nên bởi nhiều thành phần. Trong đó, bố cục “là một

phƣơng diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ

thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm,

nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ

thuật trình bày các yếu tố ngoài cốt truyện…sao cho toàn bộ tác phẩm trở

thành một chỉnh thể nghệ thuật [8;157].

Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân thì nội hàm khái niệm

kết cấu là “Sự sắp xếp phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự

cấu tạo tác phẩm tùy theo nội dung, thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của

hình thức và phối thuộc chúng với tƣ tƣởng. Các quy luật kết cấu là kết quả

của nhận thức thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu thực tại. Kết cấu có

nội dung độc lập, các phƣơng thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu

hàm nghĩa của cái đƣợc mô tả” [1;167].

71

Trong cuốn Thường thức Lí luận văn học của Bùi Văn Ba, Thành Thế Thái

Bình, Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Nam, các tác giả này hiểu kết cấu là

“Công việc trù tính, tổ chức sắp xếp các sự kiện, các cảnh ngộ, các tâm trạng,

các tính cách theo một trật tự, một hệ thống nào đó để trình bày cho ngƣời đọc

nội dung tác phẩm” và “kết cấu đó cũng có ý nghĩa nhƣ bố cục, nhƣng phức

tạp hơn, đòi hỏi sự tổ chức bên ngoài lẫn bên trong” [2;21].

Theo cuốn giáo trình Lí luận văn học của Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử,

Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình, các

tác giả đã dựa vào chức năng để định nghĩa kết cấu, “Kết cấu tác phẩm là toàn

bộ tổ chức tác phẩm, phục tùng đặc trƣng nghệ thuật và nhiệm vụ cụ thể nhà

văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời khỏi nội

dung cuộc sống và nội dung tƣ tƣởng trong tác phẩm [14;295].

Còn theo cuốn Giáo trình Lí luận văn học, của Trần Đình Sử, Phan Văn

Dũng, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Lê Lƣu Oanh, các tác giả này dựa

vào mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để định nghĩa: “Kết cấu là một

phƣơng diện cơ bản của hình thức tác phẩm văn học, là sự tổ chức, sắp xếp,

biểu hiện của nội dung văn học. Trong quá trình quan sát đời sống, tích lũy tài

liệu, hình thành ý đồ sáng tác, nhà văn đã bắt đầu vận dụng các nguyên tắc kết

cấu để tổ chức nên văn bản tác phẩm” [16;101].

Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về kết cấu nhƣng nói tóm lại chúng ta có

thể định nghĩa kết cấu nhƣ sau: Kết cấu là một trong những thành tố hàng đầu

thuộc về hình thức tác phẩm. Kết cấu là toàn bộ sự lựa chọn, tổ chức, sắp xếp,

phân bố các chất liệu văn học lấy từ hiện thực đời sống của tác giả nhằm đặt

ra và giải quyết một vấn đề nào đó đối với ngƣời tiếp nhận.

72

3.1.2. Các kiểu kết cấu trong tiểu thuyết Garganchuya

3.1.2.1. Kết cấu liên văn bản ( intertextuality )

Thuật ngữ liên văn bản lần đầu xuất hiện trong một tham luận của Kristeva

nói về sáng tác của Bakhtin, đọc tại hội thảo do R.Barthes chủ trì năm 1966.

Mùa xuân năm 1967, tham luận đƣợc công bố dƣới dạng một bài báo đăng

trên tạp chí Critique (Phê bình) với nhan đề: Bakhtin, le mot, le dialogue et le

roman - Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu thuyết. Theo nghĩa rộng, khái niệm

liên văn bản có thể hiểu là sự tƣơng tác của các văn bản, nhƣng tùy vào lập

trƣờng nghiên cứu của các nhà khoa học mà nội dung cụ thể của nó có thể

biến đổi, cách hiểu về thuật ngữ này có thể chia thành ba loại:

Thứ nhất, liên văn bản nhƣ một thủ pháp văn học xác định (trích dẫn, ám

chỉ, bình giải, nhại, vay mƣợn), cách hiểu này đòi hỏi sự hiện diện của văn

bản gốc đã có trƣớc và xu hƣớng của tác giả sử dụng văn bản gốc đó. Nếu

hiểu liên văn bản theo cách này, thì liên văn bản đã tồn tại trong văn học Việt

Nam từ thời trung đại, với việc trích dẫn các điển cố, điển tích trong các tác

phẩm, ý nghĩa của các điển cố điển tích này thƣờng không thay đổi.

Thứ hai, liên văn bản đƣợc hiểu nhƣ một thuộc tính bản thể của văn bản.

Theo Barthes thì mọi văn bản đều là một liên văn bản với một văn bản khác.

Điều đó nghĩa là liên văn bản đƣợc nhận định nhƣ là sự xóa nhòa ranh giới

giữa các văn bản của tác giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá nhân và văn

bản vĩ mô truyền thống, giữa các văn bản thuộc các thể loại và loại hình khác

nhau, giữa văn bản và độc giả, giữa văn bản và hiện thực. Với ý nghĩa này,

liên văn bản phản ánh một quy luật khách quan trong sự tồn tại của văn học.

Và cách hiểu này là ý nghĩa của thuật ngữ liên văn bản lần đầu xuất hiện

trong công trình của Kristeva. Kristeva cho rằng, liên văn bản là sự lan tỏa ra

mọi chiều không gian và thời gian, và việc theo đuổi một hƣớng nào đó tùy

thuộc vào sự lựa chọn của ngƣời đọc, của nhà phê bình và của ngƣời viết.

73

Thứ ba, khái niệm liên văn bản đƣợc triển khai trong lý thuyết của các nhà

hậu cấu trúc luận (post-structuralist) với những đại diện tiêu biểu nhƣ

R.Barthes, J.Derrida, J.Lacan, M.Foucault, J-F. Lyotard…Theo quan niệm

của họ, thế giới hiện ra với chủ thể trong ngôn ngữ; điều đó nghĩa là cả thế

giới, cả tâm lý của chủ thể đều đƣợc cấu trúc theo các quy luật ngôn ngữ

(phân tâm học của J.Lacan); ngôn ngữ bị mất đi chức năng biểu hiện và

không còn là cái biểu đạt siêu nghiệm (J.Derrida), và nhƣ vậy ý nghĩa nảy

sinh không phải trong sự mô phỏng (mimesis) mà trong ký kiệu (semiotic),

tức là trong trò chơi tự do với các nghĩa của các văn bản văn hóa. Nói cách

khác, thế giới đƣợc hiểu nhƣ một văn bản.

Từ intertexo mang nghĩa hòa hợp, đan cài, thêu dệt trong tiếng La tinh áp

dụng trong cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Liên văn bản - intertextuality,

intertexualite do Julia Kristeva đề xuất để tạo nên lý thuyết văn bản nhƣ một

mạng lƣới hệ thống kí hiệu đƣợc đặt trong mối quan hệ với các hệ thống khác

của việc thực hành biểu hiện trong văn hóa. Trong quá trình khám phá tiểu

thuyết Garganchuya của Rabơle (với khoảng 206 trang) chúng tôi nhận thấy

vô số các trích dẫn và sự liên tƣởng vô hạn. Đi tìm hiểu những tín hiệu liên

đới, tuơng quan, ẩn chìm trong văn bản chúng ta có thể xác lập một nền tảng

tri thức tƣơng đối về nền tảng tri thức, lịch sử tƣơng đối, một văn cảnh, ngữ

cảnh, một hoàn cảnh triết học và văn hóa xã hội nhất định, để từ đó mở ra vô

số cách thông diễn khác nhau. Các yếu tố liên văn bản đã trở thành những

“mảnh ghép” quan trọng trong việc tạo tính chỉnh thể cho cuốn tiểu thuyết

này mà còn thể hiện đƣợc tƣ tƣởng, tƣ duy và thế giới quan của Rabơle đối

với đứa con tinh thần của mình hay đối với chính xã hội mình đang sống.

Những yếu tố liên văn bản xuất hiện ngay trong “Lời nói đầu của tác giả”.

Trong lời nói đầu này, Rabơle đã nhắc đến bài nói của Alcibiad, “Alcibiad,

trong thiên đối thoại của Platông nhan đề Bữa tiệc khi ca tụng thày dạy mình

74

là Xôcrat, bậc cự phách trong các nhà hiền triết, không ai chối cãi đƣợc, trong

mọi lời lẽ, có nói rằng ông giống Xilen”. Nếu muốn hiểu rõ sự trích dẫn này

của Rabơle chúng ta cần tìm về với thiên đối thoại Platông nhan đề Bữa tiệc.

Trong tác phẩm Bữa tiệc, Alcibiad (Alcibiade) đã ca ngợi Xôcrat (Socrate)

bằng những “lời lẽ không ai có thể chối cãi đƣợc”: “Socrate giống nhƣ những

cây hoa gấm này chứa đựng hình ảnh của các thần và giống nhƣ anh chàng

cuồng dâm Marsyas: ông, nhƣ anh chàng này, là một kẻ chế giễu trâng tráo và

là một ngƣời chơi sáo hay hơn anh này vì không cần nhạc cụ, chỉ bằng những

lời nói đơn giản, ông khiến mọi ngƣời mê mẩn. (…) Ông có vẻ yêu những

ngƣời trẻ đẹp; thực ra ông không thèm vẻ đẹp của họ, giống hệt nhƣ ông xem

thƣờng sự giàu có và những lợi ích khác mà con ngƣời ảo tƣởng. (…) cố thu

xếp những cuộc gặp mặt tay đôi với ông, có thách ông những bài tập thể dục,

có mời ông ăn khuya và giữ lại qua đêm cũng vô ích, ông chỉ coi khinh vẻ đẹp

của tôi: sự tiết độ của ông không ai thắng nổi. (…) Nhƣng điều đáng phục

nhất ở ông chính là tính độc đáo ở những lời nói của mình; chúng cũng vậy,

giống những cây hoa gấm: vẻ ngoài thô thiển, chúng chứa đựng những ý

nghĩa tuyệt trần”. Alcibiad muốn ca ngợi trí thông minh siêu phàm, khí phách

tuyệt vời, dũng lực không gì khuất phục nổi của ngƣời thầy vĩ đại của mình,

đồng thời phê phán những kẻ đánh giá Xôcrat chỉ qua “thân thể xấu xí và

dáng dấp tức cƣời” của ông. Rabơle nhắc đến bài nói của Alcibiad không chỉ

đƣa ra những đánh giá về Xôcrat, mà còn nhắc nhở bạn đọc về cách đọc tác

phẩm của mình “không nên đánh giá các công trình của con ngƣời bằng thái

độ phụ bạc nhƣ vậy”, “cần phải mở sách ra và cân nhắc cẩn thận cái nội dung

đƣợc phô diễn trong đó”.

Thậm chí để hƣớng dẫn ngƣời đọc chiếm lĩnh một cuốn “sách hay thƣợng

hảo hạng” bằng cách “đọc kỹ và nghiền ngẫm, đập vỡ khúc xƣơng và mút cái

chất tủy bổ béo”, Rabơle đƣa ra một loạt những cuốn sách nhƣ lib.II de Rep

75

(sách Cộng Hòa, quyển II) với hình ảnh con chó (“một con vật hiền triết”)

nhiệt thành mút khúc xƣơng với biết bao chăm chú chuyên cần chỉ để lấy một

chút tủy bên trong; III.Facu. natural (Sách Nói về những năng khiếu tự nhiên,

quyển III) và XI De usu parti (Sách Nói về những lợi ích của các bộ phận cơ

thể con người, quyển XI) của Galien khi nói về ý nghĩa quan trọng của tủy

trong cơ thể mỗi con ngƣời - Rabơle muốn ám chỉ đến việc muốn khám phá

một tác phẩm phải thấy đƣợc cốt lõi bên trong của nó. “Tủy bổ béo” trong

mỗi tác phẩm sẽ do ngƣời đọc trong quá trình tìm hiểu tự ngẫm nghĩ và suy

luận, cũng giống nhƣ những ngụ ý mà Plutac (Pluarque), Hêracliđ xứ Pông

(Héraclide du Pont), Ơxtat (Eustathe), Phornuyt (Phornute), Pôlitien đã mạ

vào tác phẩm Iliađ và Ôđyxê (Iliade, Odysséc) của Hômer (Homer) vì theo ý

kiến của Rabơle, Homer không hề nghĩ đến những ngụ ý đó.

Có thể nói rằng, lời nói đầu trong cuốn Garganchuya giống nhƣ một bản

hƣớng dẫn sử dụng chuyên đi kèm với mỗi loại thuốc, tại đây, Rabơle hƣớng

dẫn ngƣời đọc cách đọc, cách tìm hiểu một tác phẩm văn chƣơng nói chung

chứ không riêng gì cuốn Garganchuya. Điều này cũng tạo ra đặc điểm nổi bật

của Rabơle so với các cuốn sách cùng thời cũng nhƣ các tác phẩm văn học

sau này.

Sau phần “Lời nói đầu của tác giả”, hầu nhƣ trong các chƣơng tiếp theo,

chƣơng nào cũng có sự xuất hiện của rất nhiều những trích dẫn, ám chỉ, nhại

đan cài vào nhiều tình tiết, chi tiết của tác phẩm. Chúng tôi xin đƣợc trình bày

lại những yếu tố liên văn bản của từng chƣơng, đồng thời chỉ ra ý nghĩa, lí

giải hợp lí bằng sự trợ giúp của chú thích ở phần cuối của tác phẩm và vốn

“hiểu biết hạn hẹp” của chúng tôi trong quá trình nghiên cứu tác phẩm.

Chƣơng I: Nói về thế phổ và gốc tích xa xƣa của Garganchuya:

 Sự tích vĩ đại của Păngtagruyen (cuốn sách đã đƣợc tác giả xuất bản

trƣớc Garganchuya ba năm), Rabơle muốn giới thiệu lại cuốn sách đồng thời

76

khẳng định cuốn Păngtagruyen là cuốn đầu tiên trong bộ tiểu thuyết của

mình.

 In Philebo et Gorgias (Thiên đối thoại của Platông) có câu “Ngƣời

ta thƣờng nói rằng đƣợc kể và đƣợc thƣởng thức đến hai ba lần những cái hay

cái đẹp, thật là thú vị” và Flăc (Flacce), Rabơle nhắc đến tác phẩm và nhà thơ

nhằm hƣớng độc giả đọc lại những câu chuyện thú vị về ngƣời khổng lồ của

mình.

 Sự chuyển ngôi thống trị của các vƣơng triều: từ ngƣời Axyri

(Assyrie) sang ngƣời Mêđi (Médie) (Axyri là một quốc gia thuộc Châu Á xƣa,

ở vùng trung du sông Tigrơ, đến thế kỉ VII tr.J.C bị đế quốc Mêđi tàn phá); từ

ngƣời Mêđi sang ngƣời Batƣ (Perse) (Năm 558 tr.J.C, đế quốc Mêđi bị

Cyruyx lật đổ và sát nhập vào đế quốc Batƣ); từ ngƣời Batƣ sang ngƣời

Maxêđoan (Macédoine) (Năm 331 tr.J.C, nƣớc Batƣ bị tàn phá bởi những

cuộc đông chinh của Alecxăngđrơ, vua nƣớc Maxêđoan; từ ngƣời Maxêđoan

đến ngƣời La Mã (Năm 146 tr.J.C, nƣớc Maxêđoan bị đế quốc La Mã thôn

tính và biến thành một châu quận của La Mã); từ ngƣời La Mã (Rome) sang

ngƣời Hy Lạp (Grece) (Năm 395 tr.J.C, đế quốc La Mã bị suy yếu, quyền bá

chủ thế giới thuộc về Đế quốc Đông phƣơng mà Hy Lạp đóng vai trò quan

trọng); ngƣời Hy Lạp sang ngƣời Pháp (Vào thời Rabơle, có một tƣ tƣởng

thiên lệch cho rằng quyền bá chủ thế giới đã chuyển từ ngƣời Hy lạp sang

ngƣời Pháp, vua Frăngxoa I đã căn cứ vào tƣ tƣởng đó để xây dựng mƣu đồ

tranh giành quyền bá chủ với Saclơ - Canh (Charles Quint).

Nếu bạn muốn biết thế phổ và gốc tích xa xƣa của Garganchuya, bạn có

thể tìm đọc cuốn Sự tích vĩ đại của Păngtagruyen, tuy nhiên tìm đƣợc nguồn

gốc, phổ tích của một ngƣời thì chẳng khác gì “mò kim đáy bể” vì các cuộc

chiến tranh diễn ra liên miên. Rabơle chế giễu sự rối răm của thời đại khi cho

rằng rất có thể “những hoàng đế, vua, đại thống lĩnh của thế gian này, lại là

77

dòng dõi của mấy gã bƣng thánh tích” và “phu khuân vác, những kẻ khố rách

áo ôm ở viện tế bần” lai mang “huyết thống của những bậc đế vƣơng vĩ đại”.

Chƣơng III: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc mang trong bụng mẹ mƣời

một tháng nhƣ thế nào

 Câu chuyện về những nàng tiên nữ lâm tuyền có chửa với Neptune

trong khúc XI, câu 241 - 248 trong Ôđyxê của Hôme, đứa con ra đời sau

mƣời hai tháng.

 Câu chuyện Jupiter kéo dài XLVIII giờ cái đêm mà ông ngủ với

Alcmen để tạo ra Hecquyl .

 Hippôcrat (Hippocrate) trong sách lib.De limento (Nói về thức ăn);

Plin (Pline) trong sách li.VII, cap.V (Bác vật học, quyển VII, chương V) và

Plôt (Plaute) in Cistellarlia (vở kịch Cixtellarya) đều khẳng định “chính

đáng” của việc những bà mẹ có thể mang thai đến tháng thứ mƣời một (theo

tự nhiên thì một ngƣời bình thƣờng chỉ mang thai chín tháng mƣời ngày).

 Marcux Varron trong bài châm biếm đầu đề là Chúc thư đã viện dẫn

ra những tác phẩm của Arixtôt (De nat animallium - Động vật học), Gielliux

(li III, capi.XVI - Những đêm Attic, quyển III chương XVI)…để chế giễu

những ngƣời mẹ đẻ con vào tháng thứ mƣời một sau khi chồng chết.

 Ff (sách Digeste - bộ sách sƣu tập các quyết định của những pháp

học La Mã), Desuis ellegit.,l.Intestato fi, in Autent., De restitut et ea que parit

in XI mense (Sách Digeste luật 3, 13, quyển XXX, mục 8 nói về những

chuyện phục hoàn và ngƣời đàn bà đẻ mƣời một tháng sau khi chồng chết);

Gallus (luật Gallus, nói về những đứa con tử trận đƣợc lập làm thừa kế hay

truất quyền thừa kế).

Ngƣời đàn bà mang thai đến mƣời một tháng hoặc lâu hơn chỉ là những

chuyện có trong thần thoại, sử thi nhƣng các “luật gia” lại mang sự thiếu thực

78

tế đó vào trong các điều luật. Rabơle muốn giễu nhại những điều luật viển

vông và nực cƣời đó.

Chƣơng V: Chuyện trò của những ngƣời say khƣớt

Trong chƣơng này, ta thấy rất nhiều trích dẫn lấy từ Kinh thánh. Ở đây

những câu chuyện thần thánh của Đức Chúa Trời đƣợc giải thiêng và phủ lên

một lớp nghĩa tục tĩu và hài hƣớc.

 Faecundi calices quem non fecere disertum: Câu thơ của Hôrax có

nghĩa là “Có ngƣời nào những cốc rƣợu đầy tràn lại không làm cho hùng hồn”

(ý chỉ rƣợu vào lời ra).

 “Tớ uống nhƣ một gã kiện nhi”, kiện nhi (templier) cũng gọi là

chevaliers du Temple (giáo đoàn viên) tức là một hội hiệp sĩ và tôn giáo thành

lập năm 1118 ở Jêluxalem. “Uống nhƣ một gã kiện nhi” là thành ngữ chỉ uống

quá độ.

 “Tanquam sponsus” nghĩa là nhƣ một ngƣời chồng. Chi tiết này

mƣợn lời của Kinh thánh nhƣng ý câu trong Kinh thánh lại nói về mặt trời

“Chúa đã lấy bầu trời làm lều trƣớng cho mặt trời, và mặt trời nhƣ “một tân

lang” từ phòng hoa chúc bƣớc ra.

 “Sicut terra sine aqua” nghĩa là nhƣ đất khô khan không có nƣớc.

Câu này lấy ý từ Kinh thánh trong câu thơ của David “Tôi giơ hai bàn tay

hƣớng về Chúa, lòng tôi khát khao Chúa nhƣ một miếng đất khô khan vậy”.

 “Sitio” nghĩa là tôi khát. Đó là một trong những lời nói cuối cùng

của Jêxu - Crixt trên cây thập tự. Khi đức Chúa Jêxu biết mọi việc đã xong

xuôi bèn nói để cho lời Kinh thánh đƣợc hoàn thành: Ta khát. Tại đó có một

bình đựng đầy giấm. Vậy họ lấy một miếng bọt bể thấm đầy giấm, buộc vào

một cái lao và đƣa kề miệng Ngài. Khi Ngài đã chịu lấy giấm rồi, ngài bèn

phán rằng: Mọi việc đã hoàn thành. Rồi gục đầu xuống. Ngài trút linh hồn

(Phúc âm theo Jăng, XIX, 28).

79

 “Ex hoc in hoc” nghĩa là từ cái này sang cái kia, trong trƣờng hợp

này là từ chai rót vào cốc và từ cốc rót vào mồm. Câu này mang nghĩa ám chỉ

đến hành động cầm cốc rót rƣợu của Đức Chúa Trời bắt những kẻ ác ở thế

gian phải uống cả cặn.

Chƣơng VI: Nói về chuyện Garganchuya đã sinh ra một cách rất lạ lùng

nhƣ thế nào. Trong chƣơng này, tác giả đã chứng minh sự ra đời lạ lùng của

Garganchuya là sự ra đời bình thƣờng nhất, vì trƣớc đó đã có rất nhiều sách

viết về những câu chuyện của những đứa bé ra đời còn kì lạ hơn. Tuy nhiên

những trƣờng hợp Rabơle trích dẫn đều là sự ra đời của những vị thần đầy

quyền năng trong thần thoại. Mục đích Rabơle đƣa ra bằng chứng về “sinh đẻ

kì lạ” nhằm giúp ngƣời đọc tin tƣởng vào sự trung thực của ngƣời kể chuyện

xƣng “tôi” nhƣng điều đó lại vô hình chung ném vào câu chuyện về

Garganchuya một lớp bụi ma thuật thần kỳ, khiến câu chuyện mang màu sắc

thần thoại.

 “Băccuyx chả đƣợc đẻ ra từ bắp đùi của Jupiter là gì?”: Băccuyx là

tửu thần trong thần thoại La Mã, là còn của Jupiter và Xêmêlê, vì mẹ bị đánh

chết trƣớc ngày đẻ nên Băccuyx đƣợc nhét vào bắp đùi của Jupiter chờ đến

ngày ra đời.

 “Rôcơtaiyad chả đƣợc sinh ra từ gót chân của mẹ đó ƣ?”:

Rôcơtaiyad (Rocquemouche) thầy tu nổi tiếng về tài tiên tri của dòng thánh

Frăngxoa đƣợc sinh ra từ gót chân của mẹ.

 “Crôcơmuxơ từ chiếc giày păng tuýp của vú nuôi?”: Crôcơmuxơ

(Croquemouche) là một nhân vật trong truyền kỳ dân gian.

 “Minecvơ chả đẻ ra từ óc qua lỗ tai của Jupiter đó sao?”: Minecvơ

(Minerve) là nữ thần khôn ngoan và sáng suốt trong thần thoại La Mã. Khi

Vulcanh đánh một nhát búa vào trán Jupiter, làm nứt ra một vết nứt, từ chỗ

vết nứt đó Minecvơ sinh ra tay cầm sẵn võ khí.

80

 “Ađônix từ một cái vỏ của cây miarơ”: Ađônix (Adonis) là một

nhân vật trong truyện thần thoại xứ Phênici.

 “Caxtor và Polluycx từ cái vỏ của một quả trứng, do Lêđa đẻ và

ấp?”: Caxtor và Polluycx (Castor et Pollux) là hai nhân vật thần thoại, con trai

sinh đôi của Jupiter và Lêđa.

 Cuốn sách Báu vật chí (Plin) chƣơng III, quyển bảy với nhan đề

Những chuyện sinh đẻ thần kỳ đã ghi lại toàn bộ “những câu chuyện sinh đẻ lạ

kỳ và trái với tự nhiên”.

Chƣơng VIII: Nói về chuyện may mặc cho Garganchuya nhƣ thế nào.

 “Vì nhƣ Orphê đã nói libro De lapidibus (sách Nói về các đá ngọc)

và Plin, libro ultimo (quyển cuối cùng trong Báu vật chí) thứ ngọc đó có khả

năng làm cho ngọc hành cứng lên và cứng nhắc”. Rabơle đã bịa đặt hài hƣớc

ra chi tiết này hoàn toàn không có cuốn Nói về các đá ngọc (vì Orphê chỉ là

một nhân vật truyền thuyết của Hi Lạp) còn cuốn Báu vật chí thì không hề

nhắc đến chuyện đó.

 “In symposio” nhắc đến thiên đối thoại Bữa tiệc của Platông, trong

đó Platông có tả những ngƣời lƣỡng tính, bán nam bán nữ.

 “AGAPÈ OU ZÈTÉI TA ESAUTÈS” là một câu nói của Thánh Pôl

trong Kinh thánh nghĩa là Tình yêu thƣơng không tìm lợi ích riêng của mình.

Chƣơng IX: Màu sắc và phẩm phục của Garganchuya

 Ý nghĩa màu sắc theo huy chương học (Le des couleurs) là nhan đề

một cuốn sách đƣợc soạn năm 1458 bởi Xicill (Sicille). Cuốn sách này đƣa ra

nhận định rằng: màu trắng là lòng tin còn màu xanh là lòng kiên nhẫn. Về

phần mình, Rabơle đánh giá đây là “một quyển sách tồi, mà bọn vác hàng

rong đem bán”, Rabơle tố cáo sự chuyên quyền của bọn chuyên chế “muốn

lấy ý riêng” để tạo thành chân lý mà không đem những lập luận có lý để làm

hài lòng độc giả.

81

Chƣơng X: Nói về chuyện cái gì đƣợc biểu thị bằng màu trắng và xanh

 Bộ sách của Lâurent Valla (Laurent Valle) chống Bartol (Bartole)

có nhan đề là Ad candidium decembrem nghĩa là: Gần tới tháng mƣời sáng

trắng (tháng 10 của lịch La Mã xƣa, tức là tháng 3 dƣơng lịch bây giờ, thời

tiết đã sang xuân nắng đẹp).

 Câu 1 và 2 của Math. XVIII là kinh Phúc âm (Mathiơ) gắn với việc

Jêxu dắt Pierơ, Jắc, Jăng theo mình và đƣa lên một hòn núi hẻo lánh. Và

Ngƣời hóa hình trƣớc mắt họ, khuôn mặt của ngƣời trở thành sáng rực nhƣ

mặt trời và y phục của ngƣời trắng nhƣ ánh sáng.

 Tôbi (Tobie) cap V: Đoạn V, tiết 10 trong sách Tobi Kinh thánh có

ghi, Raphael (thiên sứ hiện hình thành một chàng thanh niên) bảo Tôbi rằng:

“Cầu chúc cho anh có đƣợc phần vui sƣớng lớn!”, Tôbi trả lời rằng: “Còn có

thể có nỗi vui mừng nào đến tôi đƣợc? Tôi là một kẻ không dùng đƣợc mắt

mình nữa rồi. Tôi không còn trông thấy ánh sáng của trời, tôi đắm chìm vào

cõi tối tăm dày đặc nhƣ những ngƣời chết chẳng còn trông thấy ánh sáng

nữa”.

 Kinh phúc âm theo thánh Jăng đoạn XX, tiết 12 (Joan.XX) kể lại

câu chuyện: “Vừa khóc, Mary-Magđơlen vừa cúi mình dòm xuống mồ và

thấy hai vị thiên sứ mặc áo trắng, một vị ngồi đằng đầu, một vị ngồi đằng

chân, chỗ xác Đức Chúa Trời đã nằm”.

 Act.I là đoạn I của sách Actes des Aprôtres (Công vụ các sứ đồ):

“Các ngƣời đó đƣơng chăm trên trời trong lúc Ngài ngự lên, xảy có hai ngƣời

nam mặc áo trắng hiện đến trƣớc mặt”.

 Apocal.IV và VII là tiết IV, VII của kinh Apocalypse (Khải huyền,

Mặc thị hoặc Khải thị) có viết: “Chung quanh ngôi (của Đức Chúa Trời) lại

có hai mƣơi bốn trƣởng lão ngồi, mình mặc áo trắng và đầu đội mũ miện bằng

82

vàng”. Trong đoạn VII, tiết 13,14,15 viết: “Bấy giờ một trƣởng lão cất tiếng

nói với tôi rằng: “Những kẻ mặc áo dài trắng đó là ai và từ đâu đến?”. Tôi

thƣa rằng: “Đó là những kẻ ra khỏi cơn đại nạn, đã giặt và tẩy trắng áo mình

trong huyết chiên con, vì thế mà chúng đƣợc ở trƣớc ngôi Đức Chúa Trời và

ngày đêm hầu việc Ngƣời trong đền của Ngài”.

 Lib.X, De usu partium: Quyển X sách Nói về công dụng của các bộ

phận trên cơ thể con người .

 Lib.XII Metho: Quyển XII của sách Méthode curative (Phương pháp

chữa bệnh).

 Li.V. Delocis affeetic: Quyển V của sách Nói về những chỗ có bệnh.

 Li.II. De symptomaton causis: Quyển II của sách Nói về nguyên

nhân của các chứng bệnh.

 Li.I.Quaestio. Tuscul: Quyển I của sách Tusculanes.

 Plin, lib, VII. CXXXII et LIII: quyển VII, chƣơng CXXXII và LIII

sách Báu vật chí của Plin.

 A.Gellius, li.III.XV: quyển III, chƣơng XV của sách Những đêm

Attic của Aulu-Gelle.

 Avicen, in II canona et lib. De viribus cordis: Quy luật II và sách

Nói về sức khỏe của trái tim của Avicenne.

 Alex.Aphrođizieng, lib primo Problematum. C.XIX: quyển I, chƣơng

XIX, sách Những vấn đề của Alecxandre Aphrodisian.

Nếu nhƣ trong chƣơng IX, Rabơle coi những suy nghĩ về ý nghĩa màu

sắc Xicill là sự “liều lĩnh”, “ngu dốt”, chỉ “vài kẻ ngốc nghếch còn sót lại của

cái thời mũ chỏm cao” mới nghe theo hắn; thì trong phần này Rabơle đã trích

dẫn những ý kiến của nhà hiền triết và đƣa ra những chứng cứ chứng minh

rằng màu trắng và sự vui mừng, thích thú. Thông qua việc đƣa ra những lập

luận rõ ràng về ý nghĩa của màu trắng trên tất cả các lĩnh vực tôn giáo, triết

83

học, y học, Rabơle đã thể hiện tài năng và sự am tƣờng về tất cả những vấn đề

của xã hội. Đồng thời cũng thể hiện sự chán ghét của nhà nhân văn chủ nghĩa

này với thói chuyên quyền độc đoán, cản trở quyền tự do của con ngƣời.

Chƣơng XVI: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc một nhà ngụy biện dạy

văn chƣơng La tinh nhƣ thế nào

 Donat: Sách Ngữ pháp La tinh ở thế kỉ IV của Donat. Đây là sách

nền tảng trong chƣơng trình giáo dục trẻ em thời Trung Cổ.

 Facet: Sách La tinh nói về phép xử thế.

 Thêôđôlet: Sách La tinh vạch ra những sai lầm của thần thoại và

chân lý của Sử ký theo Kinh thánh.

 Alanuyxin Parabolis: Sách Ngụ ngôn bằng tiếng La tinh của Alanh,

thế kỉ XIII, là một bộ luân lý bằng văn vần.

 De modis significandi: Bộ sách Ngữ pháp nói về các cách biểu hiện

ý nghĩa.

 Compost: Tên quyển lịch của giáo hội, tính toán các thì các tiết để

ấn định những ngày lễ di động.

 Huyguyxiô: Tác giả của quyển Từ ngữ La tinh.

 Doctrinal: Tên quyển sách dạy ngữ pháp của Alecxăngđrơ đờ

Villơđiơ.

 Pars: Sách dạy về tám bộ phận của diễn tử.

 Quid est: Tên một quyển thủ sách viết theo kiểu giáo lý vấn đáp.

 Supplementum: Nghĩa là Phụ lục, trong khoa giáo dục thời Trung

cổ, bất cứ môn học nào, sách giáo khoa nào cũng có sách Phụ lục.

 Marmotret: Sách Bình giảng về Kinh Thánh.

 De moribus in mense ser vandis: Sách Nói về những phong cách

phải có ở bàn ăn.

84

 De quatuor virtutibus cardina libus: Sách Nói về bốn đức chính

(Công bằng, cẩn thận, Điều độ và Sức lực).

 Passavantus cum Commento: Sách Gương sám hối chân chính.

 Dormi secure: Sách Hãy ngủ cho yên lành gồm những bài thuyết

giáo làm sẵn cho các cố đạo.

Những cuốn sách Garganchuya học đều đƣợc viết bằng tiếng La tinh

(ngôn ngữ và chữ viết của ngƣời Rôma cổ đại. Tiếng La tinh là ngôn ngữ chết

(tử ngữ), có nghĩa là dân chúng không nói thứ tiếng này. Tiếng La tinh rất khó

đọc, khó viết nên thời gian học đọc, học viết kéo dài ba năm. Phƣơng pháp

học là phƣơng pháp “giáo điều”, có nghĩa là học sinh hoàn toàn học thuộc

lòng những bài giảng do giáo sƣ soạn và có trong sách vở của Giáo hội.

Garganchuya đã mất rất nhiều thời gian để học thuộc lòng tất cả các sách từ

Ngữ pháp, ngụ ngôn đến những cuốn sách về đối nhân xử thế, giáo lý. Cậu có

thể “đọc ngƣợc thuộc lòng” nhƣng những cuốn sách đó vẫn chẳng khiến cậu

giỏi giang lên mà chỉ “ngây ngô, ngốc nghếch” thêm mà thôi. Việc trích dẫn

một loạt các sách giáo khoa thời Trung Cổ, Rabơle muốn đả phá phƣơng pháp

giáo dục không khoa học của xã hội đƣơng thời, có lẽ xã hội đó chỉ muốn đào

tạo ra những con búp bê có thể đọc “vanh vách” những triết lý giáo điều, rỗng

tuếch chứ không chủ tâm đào tạo những con ngƣời biết sáng tạo, biết sử dụng

tƣ duy của mình để nghiên cứu những điều mới mẻ.

Chƣơng XV: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc đổi thầy nhƣ thế nào

 “Trông chú giống nhƣ một Grăcuyx, một Cicêrông hay một

Êmiliuyx của thời xƣa”: Grăcuyx (Gracchus) là nhà hùng biện nổi tiếng ở La

Mã. Cicêrông (Cicéron) là nhà văn, nhà hùng biện giỏi nhất của La Mã; Về

văn chƣơng ông đƣợc coi là mô phạm của văn cổ điển, chƣa có nhà văn xuôi

La tinh nào vƣợt qua đƣợc ông về sự trong sáng, phong phú và nhạc điệu tao

85

nhã của lời văn. Êmiliuyx (Emilius) đánh thắng trận Perxê (Persée) và là vị

vua cuối cùng của Maxêđoan.

“Chú” xuất hiện trong chi tiết trên là cậu bé thị đồng Ơđêmon, cậu bé

chƣa đến mƣời hai tuổi và mới chỉ mới học hành có hai năm. Ơđêmon không

đọc một loạt những cuốn sách giáo điều bằng tiếng La tinh nhƣng cậu lại sử

dụng tiếng La tinh thành thạo và chuyện trò trong “chốn xã giao ăn nói phong

tao hơn và hào nhã hơn”. Tài năng của Ơđêmon đã khiến Garganchuya xấu hổ

đến mức “òa lên khóc nhƣ một con bò cái”. Rabơle so sánh Ơđêmon với các

nhà hùng biện, nhà văn nổi tiếng nhằm khắc họa tài năng của chú bé này,

đồng thời cũng cho thấy tác dụng nổi bật của các phƣơng pháp giáo dục khoa

học tác động đến ngƣời học.

Chƣơng XV: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc đi Pari và chuyện con

ngựa cái to lớn mà cậu cƣỡi và chuyện con ngựa đó đã đánh tan những ruồi

bò ở xứ BôXơ nhƣ thế nào

 “Nếu Tênâu nói đúng sự thực”: Tênâu (Jehan Thenaund) là tác giả

cuốn sách nhan đề Du ký và hành trình hải ngoại.

Chƣơng XIX: Bài diễn thuyết của tiên sinh Janôtuyx đê Bragmarđô nói

với Garganchuya để thu hồi những chuông

 “Et vir sapiens non abborrebit eam”: Câu mƣợn từ Kinh thánh nghĩa

là “một con ngƣời khôn ngoan sẽ không ghét bỏ điều đó”.

 “Reddite que sunt Cesaris, cesari, et que sunt Dei Deo”: Câu lấy từ

Kinh thánh nghĩa là “Hãy trả Cêzar cái gì của Cêzar và trả Chúa cái gì của

Chúa.

 Sermones de Utino là những bài thuyết giáo của Lêônar Mathêi thế

kì XV.

 “Que comparata est jumentis insipientibus et similis facta est eis,

psalmo nescio quo”: Câu này phỏng theo hai câu trong Kinh thánh “Những

86

con ngƣời vinh hiền thì không bền đƣợc, nó giống nhƣ loài súc vậy đem giết

thịt - Con nguời lên đến đỉnh cao của vinh hiển thì không hiểu gì, nó giống

nhƣ loài súc vật đem giết thịt”.

Bài diễn thuyết của Janôtuyx đê Bragmarđô có rất nhiều câu trích lại từ Kinh

thánh cho thấy mức độ sùng tín của ông thầy này. Tuy nhiên sự trích dẫn này

cũng hạ bệ sự thiêng liêng của Kinh thánh vì thầy tu Janôtuyx dƣờng nhƣ

không hiểu gì về ý nghĩa của những câu nói này mà chỉ học thuộc.

Chƣơng XX: Nói về chuyện nhà ngụy biện vác tấm dạ đi và có kiện

tụng với các tiên sinh kia nhƣ thế nào.

 Craxuyx (Crassus) là Lucius Licinius Crassus - nhà hùng biện và

tổng tài La Mã (140 - 90 trƣớc J.C). Ở đây Rabơle so sánh tiếng cƣời của

Ơđêmon khi nghe bài diễn thuyết của tiên sinh Janôtuyx nhƣ “Craxuyx khi

trong thấy một con lừa giái đang ăn cỏ gai”. Theo Êraxm kể lại trong sách

Cách ngôn thì đây là lần duy nhất ông ta cƣời trong cuộc đời của ông ta.

 “Thế là họ trở thành hình dung của Đêmôcrit đóng vai Hêraclit và

Hêraclit thì đóng vai Đêmôcrit”. Đêmôcrit (Démocrite) và Hêraclit (Héraclite)

là hai nhà hiền triết Hy Lạp xƣa, Đêmôcrit thì cƣời và Hêraclit thì khóc về nỗi

điên rồ của loài ngƣời.

 “In modo et figura” nghĩa là theo cách thức và hình dung của phép

tam đoạn luận, trong luận lý học kinh viện.

 “Ommia orta cadunt” trích dẫn trong sách Jugurtha nghĩa là tất cả

mọi vật đều có sinh và có tử.

Rabơle đã sử dụng tiếng cƣời nhƣ một thứ vũ khí đặc hiệu để tấn công

vào thành lũy kinh viện, giáo điều của bọn thần học. Rabơle cƣời vào sự ngu

dốt, vào hành động chỉ biết đƣa ra những câu nói của Kinh thánh một cách

máy móc chứ không đƣa ra những dẫn chứng lập luận cụ thể để thuyết phục

ngƣời nghe/ngƣời đọc. Đêmôcrit đã cƣời vào nỗi điên rồ đó của con ngƣời và

87

giờ đây Rabơle cũng vậy. Việc dẫn ý “Ommia orta cadunt” nhằm tấn công

vào điều luật vô lý của các nhà cầm quyền khi cho rằng “chỉ có một mình,

Chúa có thể làm những chuyện vô cùng vô tận”.

Chƣơng XXI: Sự học hành của Garganchuya, theo cách dạy dỗ của

những ông thầy ngụy biện

 “Vanum est vobis antelucem surgere”: Câu này trích từ Kinh Thánh.

Đây là một đoạn Thi thiên có nghĩa: Nếu đức Jêhôva không giữ thành trì cho,

thì quân canh phòng có canh phòng cũng uổng công. Ngƣời có dậy sớm cũng

uổng công, có thức khuya cũng uổng công.

Chƣơng XXII: Các trò chơi của Garganchuya

Trong chƣơng này, Rabơle đã đƣa ra 216 trò chơi dân gian của thời ông

và những thế kỉ trƣớc. M.Gulibaund cho rằng đây chính là “phong cách của

ông, ông xen lẫn vào đấy, mà không báo trƣớc cho độc giả, những cái tên hài

hƣớc và những thành ngữ dân gian, biến những trò đó thành những trò lộng

ngữ, đôi khi phóng nhiệm tục tĩu”. Đó là trò đồng hoa, trò thƣởng, trò thắng

rền, trò piejơ, trò piccađi, trò trăm điểm, trò êpine, trò con mụ khổ sở, trò

fuôcbi, trò ba trăm, trò thằng cha khổ sở, trò cây bài lật nọc, trò bất mãn, trò

có ai thì nói, trò cƣời, trò vui, trò ý kiến, trò tarô, trò bị lừa, trò đau khổ, trò la

mua, trò cáo, trò bò cái, trò chân dao, trò chìa khóa, trò thẳng ô vuông, trò

chẵn hay lẻ, trò mactrơ, trò con cú, trò mucxơ…

Chƣơng XXIII: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc Pônôcratex giáo dục

vào khuôn phép nhƣ thế nào đẻ không bỏ phí một giờ nào trong ngày.

 Plin (Pline), Atênê (Athénée), Điêxcôrid (Dioscoride), Juyliux

Polluykx (Julisus Pollux), Galieng (Galien), Porbuyx (Porphyre), Oppieng

(Oppien), Polub (Polype), Hêliođor (Héliodore), Arixtôtelex (Aristotélès),

Êliêng (Elien) đều nhà những tác giả đƣợc nói đến trong cuốn Báu vật chí.

88

 “Kết quả là cậu hiểu biết nền khoa học này cả lý thuyết lẫn thực

hành, đến nỗi Tơnxtal” cũng phải thú nhận “rằng so với cậu, thì ông ta chỉ ù ù

cạc cạc”, Tơnxtal trong câu này chính là (Tunstal) là giám mục ở Durham

(nƣớc Anh), tác giả một cuốn sách dạy số học.

 “nhƣ một Milông”: Milông là ngƣời lực sĩ có sức mạnh phi thƣờng,

theo truyền thuyết có lần chàng ta vác một con bò mộng đi 120 bƣớc rồi đấm

một cái chết tƣơi và ăn hết một bữa.

 “nhƣ những ngƣời dân Pactơ”: Pactơ (Parthes) là tên một dân tộc

man di vùng Đông Bắc Âu và Tây Bắc Á. Tộc ngƣời này có tài cƣỡi ngựa

chinh chiến và luôn sống trên mình ngựa. Bắn cung rất giỏi, đặc biệt là vừa

chạy vừa bắn quay trở lại qua vai để giết kẻ thù đƣợc đuổi mình một cách bất

ngờ.

Pônôcratex đã thành công trong việc dạy dỗ Garganchuya bằng việc

thay đổi phƣơng pháp giáo dục. Nếu nhƣ trong chƣơng trên, ta thấy các ông

thầy ngụy biện cho cậu học vô số các loại sách lý thuyết mà không cho

Garganchuya thực hành; thì đến đây Pônôcratex đã dạy Garganchuya cách

“học đi đôi với hành”. Pônôcratex cho cậu đọc và trực tiếp bàn luận với cậu

về cuốn sách của các nhà hiền triết, nhà bác học, nhà thơ, nhà y học…

Garganchuya không chỉ đƣợc học để nâng cao vốn hiểu biết về tri thức nhân

loại mà còn đƣợc rèn luyện cả về sức khỏe. Ở đây, việc sử dụng những nhân

vật trong lịch sử nhƣ Milông, Tơnxtal hay ngƣời dân Pactơ kết hợp thủ pháp

nghệ thuật so sánh có tác dụng làm nổi bật tài năng, sức mạnh của

Garganchuya.

Chƣơng XXIV: Nói về cách Garganchuya dùng thì giờ khi trời mƣa gió

nhƣ thế nào

89

 Trò chơi tai: Trò chơi bằng những khúc xƣơng con ở khớp xƣơng

đùi cừu. Lêônicuyx (Leonicus) là nhà cổ văn ngƣời Ý đã viết một thiên đối

thoại về trò chơi đó.

 Thơ vịnh nhà nông (l’Agriculture) là tập thơ nhan đề là Les

Géorgiques vịnh cảnh nông thôn.

 Thơ thôn dã (Rustique) của Polixieng (Politien) là bài thơ bằng

tiếng La Tinh nhan đề là Rusticus.

 De re rust của Catông cố lão (Caton l’Ancien) là một bộ sách Nói về

nông thôn.

 Plin với cốc bằng dây leo thƣờng xuân là một truyện đƣợc ghi trong

cuốn Báu vật chí.

Nếu trong chƣơng XXII, Rabơle nếu ra đến 216 trò chơi của

Garganchuya thì chƣơng này chỉ xuất hiện một trò chơi duy nhất chính là trò

chơi tai. Phƣơng pháp giáo dục của Pônôcratex là kết hợp giữa học và chơi.

Ông không sắp xếp để Garganchuya chơi tất cả các trò chơi cùng một lúc mà

đan cài những trò chơi vào việc học. Trong khi chơi “họ (Garganchuya và

Pônôcratex) ôn lại những đoạn văn của các tác giả xƣa trong đó và có nói đến

hoặc đúng đến một ẩn dụ nào đó về trò chơi này”. Garganchuya cũng học

thuộc lòng những tập thơ Thơ vịnh nhà nông, Thơ thôn dã nhƣ các cuốn sách

“giáo điều” trƣớc kia mà để nó ngấm dần trong tâm hồn mình trong mỗi

chuyến dã ngoại về làng quê yên bình để nghỉ ngơi.

Chƣơng XXVII: Nói về chuyện một thầy tu ở Xơiyê đã cứu vãn khu

vƣờn kín của tu viện khỏi sự cƣớp phá của quân giặc nhƣ thế nào

 Thánh Tôma tức Thomas Becket, ông là tổng giám mục địa phận

Cantorbéry, ngƣời bênh vực đặc quyền của giới tăng lữ Anh chống lại vua

Henri II nên vị vua này đã cho ngƣời ám sát ông vào năm 1170.

 Thánh Bacbơ (Sainte Barbe): Nữ thánh bảo hộ của pháo binh.

90

 Thánh Giorjơ (Sainte Georges): Thánh bảo hộ của kị binh.

 Nữ thánh Nitsusơ (Sainte Nitouche): Tên hài hƣớc cũ của dân gian,

để gọi kẻ nào làm ra bộ đạo đức, không dám mó vào cái gì.

 Đức bà ở Cuynô (Notre-Dame de Cunaunlt) nhiều nơi gọi là Nhà

thờ Đức bà.

 Thánh Jăc (Saint Jaccques) có rất nhiều thánh Jăc và không thể xác

định ngƣời nói ở đây nói đến vị thánh nào.

 Vải thánh (Saint Suaire): Tấm vải mà ngƣời ta tƣơng truyền là đã

dùng để liệm Jêxu-Crixt ngày xƣa.

 Cađuanh (Cadouin) là giám mục và tu viện trƣởng địa phận

Maiyơze.

 Thánh Môxmơ ở Sinông (Saint Mexme de Chinon): Không thấy

xuất hiện ông thánh này ở Sinông.

 Thánh Mactanh ở Căngđơ

 Thánh Cluô ở Xine

 Di hài ở Javarze

 Truyện kể trong kỳ tích của Bốn chàng Aymông: Tiểu thuyết võ hiệp

thế kỉ XII, kể chuyện bốn anh chàng chiến đấu với Saclơmanhơ và cuối cùng

phải Saclơmanhơ đã phải hàng phục.

Tiếng cƣời chế giễu bọn giặc cƣớp của Rabơle đã vang lên khắp chƣơng

truyện này. Vào lúc nguy kịch chúng chỉ biết trông chờ vào sự thƣơng hại của

các đức thánh, thậm chí có những ngƣời trong số chúng còn không biết nên

kêu vị thánh nào cho chính xác, chúng gọi bừa một vị thánh ở một vùng nào

đó mà chúng “nghĩ là có”, chúng tạo ra những vị thánh không tồn tại nhƣ

Thánh Môxmơ ở Sinông, Nữ thánh Nitsusơ. Đồng thời chƣơng truyện này

cũng ca ngợi và thể hiện tài năng của thầy tu Jăngđêz bằng việc so sánh công

lao của vị thầy tu này với kỳ tích của Bốn chàng Aymông.

91

Chƣơng XXXVI: Nói về chuyện Garganchuya phá tan lâu đài Lơ Ghê

Lơ Ved và họ vƣợt qua quãng lội nhƣ thế nào.

 Thánh Mactanh sinh năm 316 mất vào khoảng năm 396 đến 400.

Ông có tiếng là ngƣời nhân đức và là ngƣời đã sáng lập tu viện đầu tiên của

ngƣời Pháp vào năm 361. Garganchuya đã bẻ một cái cây cao lớn dọc đƣờng

và gọi nó là cây thánh Mactanh. Chàng đã “bẻ hết cành đi và trang sức nó

cho vui mắt”.

 Học thuyết của Êlieng (Elien) nhà văn ngƣời Hy Lạp thế kỉ III viết

về Bản tính của động vật. Ngựa của Gymnaxtơ đã vƣợt qua đống tử thi mà

không hề sợ sệt vì anh đã luyện nó quen theo học thuyết của Êlieng. Đoạn này

còn nêu lại truyền kỳ về vua Điômed (Diomede): Điômed đã đặt xác quân thù

để những con ngựa của mình ăn thịt. Rabơle dẫn những học thuyết hoặc

chuyện về vua Điômed mục đích đề cao chức năng của khoa học, cũng giống

nhƣ chuyện Gymnaxtơ vì hiểu rõ bản tính của động vật nên mới có thể huấn

luyện chúng “không sợ những vong hồn và tử thi” chứ không phải bằng cách

giết ngƣời nhƣ thần thoại Hy Lạp.

Chƣơng XXXVII: Nói về chuyện Garganchuya khi chải đầu làm rơi từ

tóc xuống những viên đại bác nhƣ thế nào.

 Supplemenium Supplementi Chronicorum là sách phụ lục Những sự

tích vĩ đại của Garganchuya. Nhan đề này do Rabơle bịa đặt ra.

 “Những dân Philixtanh chết vì mƣu kế của Xămxôn”: Trong Kinh

thánh có ghi lại truyện kể về Xămxôn (Samson): Xămxôn bị dân Philixtanh

bắt trói và ngƣợc đãi. Sau này Xămxôn lập mƣu báo thù, chàng dựa vào cột

chống trong đền của chúng, làm cả ngôi đền đổ sập và đè chết hết chúng trong

đền, chàng cũng chết trong đó.

 “những kẻ bị tháp Xilôê đè chết”: Truyện tháp Xilôê (Siloé) đè chết

mƣời tám ngƣời dân Galilê đƣợc kể trong kinh Phúc âm theo Luca.

92

Chƣơng XXXVIII: Nói về chuyện Garganchuya ăn sáu ngƣời hành

hƣơng trong món rau trộn nhƣ thế nào

 PS viết tắt của từ Psaume nghĩa là Thi thiên. Ở đây ám chỉ sách Thi

thiên trong Kinh thánh.

Nƣớc đái của Garganchuya đã làm ngập con đƣờng hành hƣơng và

những kẻ tu hành này coi đó là biến cố đã đƣợc báo trƣớc trong Thi thiên.

Thông qua câu chuyện này, Rabơle chế giễu những kẻ tu hành có thói quen

cho rằng cái gì cũng đã đƣợc tiên đoán trƣớc trong Kinh thánh.

Chƣơng XXXIX: Nói về chuyện thầy tù đƣợc Garganchuya thết đãi nhƣ

thế nào và những lời đàm thoại lý thú của thầy trong bữa ăn tối.

 Camiyơ, Xipiôn (Scipion), Pompê, Cêzar, Thêmixtôlơ đều là những

vị anh hùng của ngƣời La Mã. Camiyơ (Camille) đã cứu dân La Mã khi bị

quân Gôl đánh chiếm, đƣợc coi là ngƣời thứ hai sáng lập ra La Mã. Xipiôn

(Scipion) đã lập đƣợc chiến công lừng lẫy trong chiến tranh thứ hai chống

quân Cactaj và đánh thắng Annibal. Pompê (con của Xtrabô Pompê) có chiến

công oanh liệt ở Nam Phi và đƣợc cử làm tổng đốc Tây Ban Nha. Cêzar

(César) là một đại danh tƣớng của La Mã. Thêmixtôlơ (Thémistocle) là danh

tƣớng thành Aten, tham gia cuộc chiến xâm lăng Jăng Hy Lạp của vua Ba Tƣ.

Rabơle nhắc lại các vị anh hùng một thời này để ca ngợi chiến công của

thầy Jăngđêx trong cuộc chiến chống giặc cƣớp.

 “những kẻ chạy trốn ở Pavi”: Pavi (Pavie) ám chỉ cuộc thất trận của

vua Frăngxoa I ở nƣớc Ý năm 1525. Trong lời nói của thầy Jăngđêx, thầy coi

những kẻ chạy trốn “bỏ mặc vua hiền” là bọn đê hèn và không bằng lũ súc

vật.

Vai trò của yếu tố liên văn bản ở đây nhằm xây dựng hình tƣợng thầy tu

Jăng, một ông thầy tu hoàn toàn khác những thầy tu khác. Ông thầy này coi

93

rủa bậy chỉ là “sự tô điểm cho lời lẽ”, là “những màu sắc tu từ học kiểu

Cirêrông”.

Chƣơng XL: Tại sao các thầy tu bị thiên hạ xa lánh và tại sao kẻ này

mũi to hơn ngƣời nọ.

 “Igvavum fucos pecus a praesepibus arcent” là câu thơ tiếng La

Tinh của Viêcgil trong tập Thơ thôn dã nghĩa là “Những con ong mật họp

thành đội ngũ để đuổi đi xa khỏi tổ của chúng những con ong bàu vẽ là loài

lƣời biếng”.

 “Ngọn gió Cêciax thu hút các đám mây”: Khởi nguồn của câu nói

này là từ trong sách Báu vật chí của Plin, gió Cêciax là một loại gió thổi từ tây

bắc, thấy gió tây bắc thổi là mây ùn ùn kéo tới.

 “cũng nhƣ ngƣời thợ gốm nặn những chiếc bình của y”: Câu này

mƣợn ý trong Thƣ của thánh Pôl gửi ngƣời La Mã: “Hỡi ngƣời, ngƣời là ai

mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói

với kẻ nặn nên mình rằng: Sao ngƣơi đã làm ta nhƣ vậy? Ngƣời thợ gốm há

chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để

dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng vào việc hèn hạ sao?”.

 “Ad forman nasi cognosciturad te levani” nghĩa là “Cứ trông hình

dáng cái mũi đủ biết, tôi đã đứng lên vƣơn tới ngƣời”. Câu này mƣợn một câu

trong Thi thiên, “Tôi ngƣớc mắt lên hƣớng tới ngƣời, hỡi Đấng dƣơng ngự

trên mấy tầng trời”.

Trong chƣơng này, hai câu hỏi “lớn” đã đƣợc đƣa ra: “Tại sao các thầy

tu bị thiên hạ xa lánh?” và “Tại sao kẻ này mũi to hơn ngƣời nọ?”. Trong

phần tranh cãi để đƣa ra kết luận cuối cùng, chúng ta thấy có sự khác nhau

giữa suy nghĩ của Garganchuya và Grăngguziê. Garganchuya cho rằng bộ áo

dài và mũ chụp của thầy tu thu hút lời sỉ nhục, chửi bới nhƣ ngọn gió Cêciax

thu hút mây, Garganchuya dựa vào sách Báu vật chí, vào đời sống thực tại để

94

chứng minh và lập luận của mình. Trong khi Grăngguziê lại dựa vào một ý

trong kinh thánh “cũng nhƣ ngƣời thợ gốm nặn những chiếc bình của y”

khẳng định rằng mũi của mỗi ngƣời đều do ý chí của thần thánh quyết định.

Yếu tố liên văn bản làm nổi bật sự khác nhau giữa hai luồng tƣ tƣởng.

Chƣơng XLI: Nói về việc thầy tu làm cho Garganchuya ngủ nhƣ thế nào

và nói về những kinh giờ và kinh nhật tụng của thầy tu.

 “beati quorum”: Hai tiếng bắt đầu của tiết thứ nhất của bài thánh thi

sám hối thứ hai trong Thi thiên XXXII: “Sung sƣớng thay kẻ nào đƣợc tha

thứ lỗi lầm, đƣợc xóa bỏ tội lỗi…”

 “Hơ, Rơgnô, hãy thức dậy đi, hãy thức/Ô, Rơgnô, hãy thức dậy đi”:

“Hãy thức dậy đi” là điệp khúc của một bài hát xƣa.

 Thánh Giorjơ (saint Geogre) tử vì đạo dƣới thời hoàng đế La Mã

năm 303.

Chƣơng XLII: Nói về chuyện thầy tu khích lệ các anh em đồng bọn nhƣ

thế nào và chuyện thầy bị treo lủng lẳng vào một cái cây ra làm sao.

 Thánh Bơnoa (saint Benoit) là ngƣời sáng lập ra dòng tu

Bênêđictanh năm 529.

 Abxalon bị treo là một điển tích trong Kinh thánh. Abxalon là con

trai vua David phải chạy trốn nhƣng về sau đƣợc chúa Jêhôva phù hộ và dân

chúng ủng hộ nên David cất quân đuổi đánh đƣợc Abxalon. Khi bị quân

David đuổi kịp, Abxalon đƣơng ngồi trên lƣng một con la cái, thì con la cái đi

vào dƣới một cây thông có nhiều cảnh rậm rạp, và đầu tóc y bị mắc vào cành

cây, con la chạy thẳng và y bị treo lơ lửng giữa trời và bị Jôab đâm ngập ba

ngọn giáo vào ngƣời.

 Đêcrêtal (Décrétales): tập chỉ dụ viết tay của giáo hoàng ở những

thế kỷ đầu kỷ nguyên, giải thích những nghi vấn về tôn giáo.

95

Chƣơng XLIII: Nói về chuyện toàn quân thám thính của Picrôcôl gặp gỡ

với Garganchuya nhƣ thế nào và chuyện thầy tu giết tƣớng Tyravăng rồi bị

quân địch giữ làm tù binh nhƣ thế nào.

 “Vớ đƣợc thầy tu”: Châm ngôn của Al phôngxơ đ’Aragông với

nghĩa bóng là bị mắc lừa.

Chƣơng XLIV: Nói về chuyện thầy tu tự giải thoát khỏi hai tên lính

canh và chuyện đội quân thám thính của Picrôcôl bị đánh bại nhƣ thế nào

 “Ruồi trâu của Junông”: Gắn với tích vợ của Jupiter làm phép cho

một con ruồi trâu đến đốt nàng Iô đã bị Jupier biến thành một con bò cái. Ở

đây chỉ sự hoảng loạn của quân giặc khi chạy trốn, hình ảnh đó chẳng khác gì

một con lừa bị “ruồi trâu của Junông” hoặc một con ong đốt đít.

Chƣơng XLV: Nói về chuyện thầy tu đƣa những ngƣời hành hƣơng về

nhƣ thế nào và những lời tốt đẹp của Grăngguziê nói với họ.

 Xt’rabông (Strabon) là nhà địa lý học ngƣời Hy Lạp tác giả của bộ

sách Địa lý.

 Plin lib.VII.ch.III: quyển VII, chƣơng III của bộ sách Báu vật chí.

Plin ca ngợi sự phì nhiêu của sông Nil và đồng quan điểm với Xt’rabông khi

cho rằng đàn bà Ai Cập có thể chửa đẻ nhiều đứa con một lúc.

 “Sứ đồ thánh Pôl hiền đức”: cụm từ này lấy trong Thư của Thánh

Pôl gửi dân Ephezơ.

 Lib.V de Rep: Quyển V trong bộ sách Nói về nền cộng hòa của

Platông.

Chƣơng XLVI: Nói về chuyện Grăngguziê đối xử nhân đạo với

Tuccơđyông tù binh nhƣ thế nào.

 Lib.V de Rep: Quyển V trong bộ sách Nói về nền cộng hòa của

Platông.

Chƣơng L: Bài diễn thuyết của Garganchuya với những kẻ bại trận

96

 “Con ngƣời hiền từ nhất”: Theo cuốn Dân sổ ký, XII của Kinh thánh

thì Môixe là “con ngƣời rất hiền hòa, hơn tất cả mọi ngƣời trên thế gian rất

nhiều”.

Chƣơng LI: Nói về chuyện quân chiến thắng của Garganchuya đƣợc

thƣởng công nhƣ thế nào.

 “bữa yến tiệc linh đình nhất, thịnh soạn nhất và ngon lành nhất mà

ngƣời ta trông thấy kể từ thời vua Axuyêr”: Trong kinh thánh có ghi chép vua

Axuyêr (Assure) là một vị vua nƣớc Batƣ thƣờng xuyên mở những bữa yến

tiệc rất linh đình, kéo dài 180 ngày.

Chƣơng LVIII: Thơ ẩn ngữ tiên tri

 “Đứa con của Ti tăng”: Tităng là tên chung chỉ những đứa con

khổng lồ của Trời và Đất. Jupiter đã gieo núi Etna lên ngƣời Typhê (thủ lĩnh

của đám Tităng đó).

 Meclanh nhà tiên tri (Merlin le Prophète) là một nhân vật có phép

thần thông quảng đại trong các tiểu thuyết Bàn Tròn.

Liên văn bản có thể đƣợc xem nhƣ một phƣơng pháp, một cách đọc tác

phẩm văn học. Đọc Garganchuya ta cảm nhận đƣợc “sự trở lại” của các tích

truyện về những ngƣời anh hùng với khả năng và sức mạnh siêu phàm trong

thần thoại. Tuy nhiên, luận văn của chúng tôi chỉ muốn “dùng”, “bàn luận” về

những lý thuyết về liên văn bản nhƣ một yếu tố soi chiếu sự sắp xếp và liên

kết các phần trong tác phẩm Garganchuya. Nói theo ngôn ngữ của R.Barthes

thì Garganchuya thực sự là “bức tranh khảm đính các trích dẫn”. Hai mƣơi

chín chƣơng trên tổng số năm mƣơi tám chƣơng có xuất hiện điển tích thần

thoại, tích truyện trong kinh thánh, những trò chơi dân gian, thành ngữ, lộng

ngữ, những cuốn sách tri thức bác học hay những cuốn sách “giáo điều” của

chủ nghĩa kinh viện. Các yếu tố liên văn bản này kết dính lấy nhau chặt chẽ

góp phần thể hiện chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm. Tác phẩm Garganchuya trở

97

thành “một điểm nối kết nhỏ bé trong một mạng lƣới vô cùng rộng lớn”.

Muốn khám phá tiểu thuyết Garganchuya, độc giả phải tự trang bị cho mình

mã văn hóa, vốn từ vựng, vốn hiểu biết phong phú. Điều này giống nhƣ trò

chơi, ngƣời chơi muốn tham gia vào trò chơi thì phải có bảng kí hiệu để hiểu

luật và nắm đƣợc nội dung của trò chơi. Sức chứa đựng của Garganchuya là

vô cùng lớn, Rabơle đã bao hàm một lƣợng tri thức, một không gian văn hóa,

một hệ thống biểu tƣợng vừa trang bị cho ngƣời đọc vừa thách đố ngƣời đọc

tự tìm hiểu khám phá.

3.1.2.2. Kết cấu theo trình tự thời gian

Theo kết cấu này, câu chuyện đƣợc trình bày theo thứ tự, phát triển trƣớc

sau của thời gian. Các sự kiện đƣợc sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lƣợt xuất

hiện không bị đứt quãng. Kết cấu theo trình tự thời gian là dạng kết cấu cổ

truyền, các sự kiện đều diễn biến dƣới sự chi phối tuyệt đối bởi quy luật tuyến

tính của thời gian. Hầu hết những tác phẩm chƣơng hồi nhƣ Thủy Hử, Hồng

Lâu Mộng, Tam quốc diễn nghĩa đều sử dụng lối kết cấu này. Ở đây, tác

phẩm đƣợc chia thành nhiều chƣơng, hồi theo sự phân bố về mặt hành động

và sự kiện của cốt truyện. Tiểu thuyết Garganchuya gồm 58 chƣơng và đầu

đề mỗi chƣơng chính là sự tóm tắt những sự việc sẽ xảy ra trong chƣơng đó,

chẳng hạn nhƣ:

Chƣơng I: Nói về thế phổ và gốc tích xa xƣa của Garganchuya

Chƣơng II: Những trò hƣ phiếm giải độc tìm thấy trong một ngôi mộ cổ

Chƣơng III: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc mang trong bụng mẹ mƣời

một tháng nhƣ thế nào

Chƣơng IV: Nói về chuyện Gargamel có chửa Garganchuya mà ăn rất

nhiều lòng bò nhƣ thế nào

Chƣơng V: Chuyện trò của những ngƣời say khƣớt

98

Chƣơng VI: Nói về chuyện Garganchuya đã sinh ra một cách rất lạ lùng

nhƣ thế nào.

Chƣơng VII: Nói về chuyện đặt tên cho Garganchuya và chuyện cậu húp

rƣợu vang nhƣ thế nào

Chƣơng VIII: Nói về chuyện may mặc cho Garganchuya nhƣ thế nào

Chƣơng IX: Màu sắc và phẩm phục của Garganchuya

Chƣơng X: Nói về chuyện cái gì đƣợc biểu thị bằng màu trắng và xanh lơ

Chƣơng XI: Nói về thời niên thiếu của Garganchuya

Chƣơng XII: Nói về những con ngựa giả của Garganchuya

Chƣơng XIII: Nói về chuyện Grăngguziê đƣợc biết trí thông minh tuyệt

vời của Garganchuya qua chuyện phát minh một cái chùi đít

Chƣơng XIV: Nói về chuyện Garganchuya đƣợc một nhà ngụy biện dạy

căn chƣơng La tinh nhƣ thế nào

Mỗi chƣơng thƣờng gắn liền với một giai đoạn phát triển và trƣởng thành

của nhân vật trung tâm Garganchuya. Sự kiện giữa các chƣơng trong tiểu

thuyết có sự liên kết chặt chẽ với nhau, từ sự kiện này dẫn đến sự kiện kia

theo dòng chảy của thời gian vì thế ngƣời đọc rất dễ theo dõi diễn biến của

câu chuyện.

3.1.2.3. Về tổ chức điểm nhìn trần thuật của người kể

Ngƣời kể chuyện (Narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học, đƣợc

xem là khái niệm trung tâm nhất trong phân tích trần thuật. Theo Todorov,

“ngƣời kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tƣởng tƣợng,

không thể có trần thuật thiếu ngƣời kể chuyện”. Ý kiến của Todorov khẳng

định vai trò của ngƣời kể chuyện, ngƣời kể chuyện khoác lên mình nhiều

chức năng trong mỗi câu chuyện. Về mối quan hệ giữa ngƣời kể chuyện và

tác giả, theo W.Kayser, ngƣời kể chuyện “giúp tác giả nghĩ và ƣớc định”. Hay

99

nói nhƣ R.Barthes, “tác giả thực tế của văn bản không có điểm gì chung với

ngƣời kể chuyện”.

Trong tiểu thuyết Garganchuya, Rabơle xây dựng hình tƣợng các nhân vật

có thân phận khác nhau, thuộc những tầng lớp khác nhau và mang những nét

tiêu biểu cho phẩm chất, tính cách của họ. Vấn đề này hết sức quan trọng, có

tính nhân sinh sâu sắc. Muốn thuyết phục đƣợc ngƣời tiếp nhận, đòi hỏi tác

giả phải tổ chức điểm nhìn sao cho hợp lý, khách quan và thuyết phục. Vì

vậy, “Sự thay thế ngƣời trần thuật không tự nhân vật hóa bằng một ngƣời kể

chuyện trong phạm vi một tác phẩm là cội nguồn những biện pháp kết cấu

quan trọng.” [32;294].

Trong một tác phẩm văn học, hình tƣợng ngƣời kể chuyện đem lại cho tác

phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp

hay lập trƣờng xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày tái tạo con

ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm phần phong phú. Trong Garganchuya

có sự xuất hiện của một ngƣời kể chuyện hiển ngôn (hay còn gọi là ngƣời kể

chuyện tƣờng minh – explicity narrator), lộ diện trực tiếp với đại từ nhân

xƣng “tôi” với tƣ cách nhƣ một nhân vật trong tiểu thuyết, giữ vai trò là một

yếu tố tổ chức tự sự, đồng thời cũng trực tiếp tham gia vào hoạt động của

truyện. Nhân vật ngƣời kể chuyện xuất hiện ngay trong chƣơng I với lời tự

giới thiệu về bản thân, “tôi nghĩ rằng tôi là dòng dõi của một ông vua hay ông

chúa giàu có nào đó của thời xƣa thì phải; vì các Ngài chƣa hề đƣợc thấy có

con ngƣời nào thèm khát đƣợc làm vua và giàu có bằng tôi, để đƣợc ăn uống

no say, không phải lao động, không phải lo nghĩ”. Ngƣời kể chuyện là nhân tố

do nhà văn sáng tạo nhằm mục đích kể chuyện, ngƣời kể chuyện quan sát

nhân vật càng tỉ mỉ bao nhiêu thì chân dung, lai lịch nhân vật ấy càng rõ nét

bấy nhiêu.

100

Vai trò của ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” trong những chƣơng đầu là thuyết

phục mọi ngƣời rằng sự ra đời kì lạ của Garganchuya là có thật và kể lại

những chi tiết xung quanh nhân vật Garganchuya khi cậu còn nhỏ. Điểm nhìn

của ngƣời kể trào tiếu, vui tính, giải thiêng mọi sự, hạ bệ mọi giá trị tôn giáo,

thần quyền. Mục đích cuối cùng của ngƣời kể chuyện “vui tính” là khiến

ngƣời đọc nở một nụ cƣời mỉa mai vào những điều luật vô lí cũng nhƣ thứ

triết học ngụy biện đang tồn tại trong chế độ phong kiến Trung cổ. Còn việc

ngƣời đọc có tin vào câu chuyện một bà mẹ có thể mang thai mƣời một tháng

hay chuyện một đứa bé sinh ra từ lỗ tai của ngƣời mẹ và một đứa trẻ mới sinh

ra đã biết nói từ “Uống” thì “tôi” không quan tâm lắm: “Nếu các bạn không

tin, thì xin các bạn cứ xổ ruột ra nhé!”; “Nếu các bạn không tin thì tôi cũng

chả cần”. Ngƣời kể chuyện “tôi” thoạt tiên đóng vai trò nhƣ một nhân vật ngu

ngốc, tin vào những chuyện thần thoại, tin vào sự toàn năng của Chúa trong 6

chƣơng đầu. Tuy nhiên đó chỉ là sự đánh lừa của một trí tuệ thông minh, siêu

phàm, một cạm bẫy mà ngƣời kể chuyện láu cá dành cho ngƣời đọc, thử thách

ngƣời đọc. Đến chƣơng X (Nói về chuyện cái gì biểu thị bằng những màu

trắng và xanh lơ), ta có thể thấy rõ bộ óc thiên tài của ngƣời kể chuyện xƣng

“tôi” này, để chứng minh rằng “màu xanh có nghĩa là bầu trời và những cái

thần tiên” còn màu trắng có nghĩa là sự vui mừng, “tôi” đã đƣa ra một loạt

những ví dụ thuộc các lĩnh vực khác nhau với lập luận sắc bén. Điều thú vị

của ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất là “tôi” sẵn sàng đứng lên nói điều “tôi”

muốn. Tuy nhiên, sau chƣơng X, hình bóng ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” chỉ

xuất hiện thêm một lần nữa vào chƣơng XVI “Nếu các bạn kinh ngạc về

chuyện đó, thì xin các bạn hãy kinh ngạc hơn nữa về cái đuôi của những con

cừu đực”, sau đó ngƣời kể chuyện ẩn đi, lui về phía sau hậu trƣờng.

Sang đến thế kỉ XVIII, việc sử dụng ngôi thứ nhất trong văn bản trần thuật

của tiểu thuyết đáp ứng yêu cầu lịch sử của thời đại, đáp ứng khát vọng giãi

101

bày. Nhân vật ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất trở thành ngƣời dẫn đƣờng,

dẫn truyện đƣa độc giả đi vào một thế giới mới nhƣ thế giới đảo hoang của

Rôbinsơn. Sự đồng nhất giữa nhân vật đƣợc kể và nhân vật ngƣời kể chuyện

khiến câu chuyện trở nên chân thực hơn vì “câu chuyện cuộc đời đƣợc viết

bởi chính ngƣời đã sống trong cuộc đời ấy”. Cùng với sự phát triển của văn

học, việc sử dụng ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” trong tiểu thuyết cũng đƣợc các

nhà văn biến tấu và sử dụng dƣới góc độ phức tạp hơn. Trong Gastby vĩ đại,

ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” (chính là nhân vật Nick Carraway) và nhân vật

trung tâm (Gastby) trực tiếp ảnh hƣởng đến nhau. Gastby thƣờng tìm đến

Nick để giãi bày còn Nick lặng lẽ “cảm nhận” từng câu chuyện của ngƣời

hàng xóm. Nick luôn giữ thái độ khách quan khi kể lại câu chuyện của Gastby

nhƣng đôi khi anh ta vẫn không hoàn toàn che giấu đƣợc cảm xúc của mình

qua lời kể chuyện. Câu chuyện của Gastby đã khiến nhân vật kể chuyện –

Nick thay đổi cách nhìn nhận cuộc đời: “Sau cái chết của Gastby, miền Đông

ám ảnh tôi nhƣ thế đấy, méo mó đến độ mắt tôi không đủ sức chỉnh lại đƣợc.

Cho nên tôi quyết định phải trở về quê nhà”. Sự phát triển của tiểu thuyết

trong dạng thức trần thuật ngôi thứ nhất đã tạo ra một bƣớc tiến quan trọng

trong việc tái tạo và khám phá hiện thực.

Ngoài ra, ở Garganchuya còn có sự chuyển đổi điểm nhìn, từ điểm nhìn

của ngƣời kể sang điểm nhìn của chính nhân vật khổng lồ Garganchuya song

song với điểm nhìn của ngƣời thƣờng. Sự thay đổi điểm nhìn, chỗ đứng của

ngƣời quan sát làm cho thế giới hiện lên đa diện, phong phú và hấp dẫn.

3.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya

3.2.1. Giới thuyết về không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại bên trong của hình thức nghệ

thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật

bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn diễn ra trong một trường nhìn nhất

102

định. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính

chủ quan, ngoài không gian bối cảnh, không gian sự kiện còn có không gian

tâm trạng. Không gian nghệ thuật không thể đồng nhất với không gian vật thể

bên ngoài mà thể hiện tính chất của một thế giới tinh thần, trong đó sự vật có

cách biểu hiện và tổ chức theo ý nghĩa riêng theo quan điểm của nhà văn.

Không gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với thời gian nghệ thuật.

Theo các tác giả của cuốn Từ điển Tiếng Việt, không gian là “hình thức tồn

tại cơ bản của vật chất, trong đó các vật có độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ

ở cạnh cái kia”, là “khoảng không gian bao trùm mọi vật xung quanh con

ngƣời”. Khi nhắc đến không gian nói chung, ngƣời ta thƣờng quy nó về một

không gian địa lý nào đó.

Nhƣng không gian nghệ thuật lại là một phạm trù khác hẳn, nó thuộc về

hình thức nghệ thuật, là “phƣơng thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ

thuật” [15;42].

Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: “không gian nghệ thuật là

hình thức tồn tại của hình tƣợng nghệ thuật”. Tức là để khắc họa hình tƣợng

nhân vật, bao giờ ngƣời nghệ sĩ cũng đặt nó trong một không gian nhất định,

nhờ vậy mà không gian nghệ thuật không chỉ là môi trƣờng tồn tại của hình

tƣợng mà nó còn thâm nhập vào bản thân hình tƣợng và bộc lộ tƣ tƣởng của

hình tƣợng.

Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “không gian nghệ

thuật là hình thức bên trong của hình tƣợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể

của nó. Sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn

ra trong một trƣờng nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc

lộ qua quảng tính của nó; cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp

nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian

nghệ thuật gắn liền với những cảm thụ về không gian nên mang tính chủ

103

quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tƣởng. Do vậy không gian

nghệ thuật có tính độc lập tƣơng đối với không gian địa lý”.

Giáo sƣ Trần Đình Sử cũng chỉ rõ: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm

sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ nhằm biểu hiện con ngƣời và thể hiện một quan

điểm nhất định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về không gian địa lý,

hay không gian vật lý, vật chất”. Chính vì thuộc về thế giới nghệ thuật, thuộc

về thế giới của “cái nhìn và mang ý nghĩa” (Trần Đình Sử) nên không gian

nghệ thuật mở ra một trƣờng nhìn, một cách nhìn trong tác phẩm. Trong tác

phẩm, từ cái nhìn của tác giả, từ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện trong không

gian đƣợc hiện diện rõ nét. Dù là điểm nhìn của ai thì nó vẫn mang tính chủ

thể, nhờ tính chủ thể mà một mô hình không gian với chiều cao-thấp, rộng-

hẹp, xa-gần…đƣợc xác định.

Trong không gian ấy, mỗi loại hình nghệ thuật lại có cách chiếm lĩnh khác

nhau. Nếu “hội họa và điêu khắc miêu tả các sự vật một cách tĩnh tại, nêu ra

các nét và tỉ lệ không gian của chúng” thì “việc chiếm lĩnh không gian nghệ

thuật, văn học lại có ƣu thế riêng so với điêu khắc và hội họa. Vận dụng các

từ ngữ để chỉ ra các sự vật, nhà văn có khả năng dịch chuyển từ bức tranh này

sang bức tranh khác một cách nhanh chóng lạ thƣờng, dễ dàng đƣa ngƣời đọc

vào những miền không gian khác nhau” [16;26].

Không gian nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả trong việc

miêu tả cuộc sống, bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm, tâm hồn của con ngƣời. Không

gian nghệ thuật chính là một kí hiệu đặc biệt để diễn đạt những phạm trù

ngoài thời gian, hoặc để thể hiện tâm trạng của nhân vật, hoặc để đánh giá

nhân vật đó về mặt đạo đức, thẩm mỹ.

3.2.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya

Đặc điểm chính là không gian cổ tích, huyền thoại, nhƣng đây là thủ pháp

để khám phá hiện thực thời đại Phục Hƣng lúc đó, dùng cái ảo để khám phá

104

cái thực, bao hàm hai kiểu không gian: không gian của ngƣời khổng lồ, lý

tƣởng, và không gian trần tục, hiện thực của ngƣời thƣờng.

3.2.2.1. Không gian của người khổng lồ, lý tưởng

Rabơle không chỉ biến ngòi bút của mình thành chiếc búa để ra sức đập

phá thế giới cũ mà ông còn tích cực tham gia vào việc xây dựng thế giới mới.

Nói đúng hơn ông ƣớc mơ một thế giới tốt đẹp hơn và đề xuất đƣợc nhiều ý

kiến táo bạo nhằm mở đƣờng tới đó. Theo dòng tƣ tƣởng của Rabơle, trong

cuốn tiểu thuyết này, ta thấy không gian tu viện Thêlem (Thélème, gốc từ chữ

Hi Lạp nghĩa là ƣớc vọng, tự do) chính là không gian lý tƣởng mà Rabơle

cũng nhƣ rất nhiều ngƣời sống dƣới xã hội phong kiến Trung cổ mong muốn

xây dựng. Không gian đó thể hiện niềm khao khát mãnh liệt về một thế giới

công bằng cho con ngƣời, nơi con ngƣời đƣợc giải phóng khỏi những tƣ

tƣởng thần học, triết học kinh viện, chủ nghĩa giáo điều. Rabơle đã say sƣa vẽ

lên không gian tu viện Thêlem và miêu tả nó tỉ mỉ chi tiết đến mức mà câu

chuyện về nó đƣợc kéo dài đến sáu chƣơng. Câu chuyện về “miền đất hứa”

mang tên tu viện Thêlem xuất hiện lần đầu tiên vào chƣơng LII (Nói về

chuyện Garganchuya cho xây dựng tu viện Thêlem cho thầy tu nhƣ thế nào),

việc xây dựng tu viện này bắt nguồn từ ý tƣởng táo bạo của thầy Jăng, đó là

“thiết kế dòng tu của thầy trái ngƣợc với tất cả dòng tu khác”. Ngay trong

chƣơng này, chúng ta đã thấy những luật lệ hoàn toàn khác biệt của tu viện

Thêlem, tu viện Thêlem là một “phát kiến” vĩ đại trong công cuộc giải phóng

con ngƣời khỏi mọi giáo điều hà khắc. Thầy Jăng và Garganchuya đã quyết

tâm xây dựng lên tu viện của con ngƣời, vì con ngƣời. Ở tu viện đó sẽ không

xây tƣờng bao quanh, không có đồng hồ hoặc nhật quỹ gì cả. Garganchuya đã

đƣa ra quan điểm rất tiến bộ khi cho rằng, “sự điên dại nhất của thế gian là tự

cai quản mình theo tiếng chuông, chứ không theo sự chỉ đạo của lƣơng tri và

ý chí”. Tu viện này dành cho tất cả mọi ngƣời, tu viện coi trọng quyền bình

105

đẳng cá nhân của mỗi con ngƣời vì thế nó chấp nhận cả nam và nữ đến tu

hành (nữ từ mƣời đến mƣời lăm tuổi và nam từ mƣời hai đến mƣời tám tuổi)

và họ sẽ ra khỏi tu viện khi nào họ thích. Trong điều kiện con ngƣời bị giam

cầm bởi sự u mê của hệ tƣ tƣởng phong kiến - giáo hội đầu thế kỉ XVI, những

quan điểm về việc xây dựng luật lệ trong tu viện Thêlem có ý nghĩa quan

trọng trong việc giải phóng tƣ tƣởng xã hội khỏi màn sƣơng tôn giáo. Với tƣ

cách là một nhà nhân văn chủ nghĩa, Rabơle đã xây dựng cho thế hệ sau một

mô hình phác thảo sơ khai về một “xã hội không tƣởng”.

Trong những chƣơng tiếp theo, ngƣời đọc sẽ dần dần đƣợc chứng kiến gần

nhƣ toàn bộ quá trình xây dựng tu viện Thêlem. Chƣơng LIII (Nói về chuyện

tu viện Thêlem đƣợc xây dựng và cung cấp tiền nhƣ thế nào), bằng việc tiếp

tục sử dụng bút pháp phóng đại, Rabơle đƣa ra một loạt những con số vƣợt

quá sức tƣởng tƣợng của hiện thực “hai mƣơi bảy trăm nghìn tám trăm ba

mƣơi mốt con cừu lông sù”, “mƣời sáu trăm sáu mƣơi chín êquy mặt trời và

cũng từng ấy êquy thất tinh”, “hai mƣơi ba trăm sáu mƣơi nghìn năm trăm

mƣời bốn đồng quý tộc hoa hồng”. Rabơle dƣờng nhƣ đang cố gắng hạ bệ cả

những con số, thế giới này vốn ẩn chứa vô vàn những bí ẩn, những sự hoàn

chỉnh “không chính xác” mà con ngƣời chƣa khám phá ra vì vậy Rabơle cố

gắng gỡ bỏ sự thiêng liêng của những con số, giễu nhại công khai và trần tục

hóa ý nghĩa của những con số. Tu viện Thêlem là “tòa nhà xây theo hình lục

giác, mỗi góc có xây một cái tháp tròn lớn đƣờng kính sáu mƣời bộ và tất cả

đều kích thƣớc và hình dáng nhƣ nhau. Dòng sông Loar chảy phía Bắc. Một

trong những tháp kia đƣợc xây gần sát dòng sông này, gọi là tháp Actix và

dịch về phía đông, là một tháp khác gọi là Calaer; tháp tiếp theo là tháp

Anatol, tháp sau đó gọi là Mêxem-brin; sau nữa gọi là Hexpêri; tháp cuối

cùng gọi là Cryêrê. Mỗi tháp cách này một quãng ba trăm mƣời hai bộ. Tất cả

106

đƣợc xây thành sáu tầng…trong tòa nhà có đến chín nghìn ba trăm ba mƣơi

hai phòng”.

Rabơle đã dành toàn bộ dung lƣợng của chƣơng LV để trích lại “Bài văn

bia khắc trên cổng lớn của tu viện Thêlem. Hẳn ngƣời đọc sẽ không giấu nổi

những thắc mắc nhƣ, hẳn bài văn này phải có đặc điểm gì đáng lƣu ý và đây

phải chăng là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của nhà nhân văn chủ nghĩa

Rabơle. Bài văn bia này là lời dè chừng, lời chửi đối với “những kẻ vờ vĩnh,

sùng tín mê muội” đang muốn đem những trò “tu giả cầy, giả cáo”, trò lừa

bịp, sự giả dối, lòng tham không đáy…vào tu viện Thêlem:

“Chớ vào đây, những kẻ vờ vĩnh, sùng tín mê muội”

“Chớ vào đây, những luật gia lòng tham không đáy”

“Chớ vào đây, chúng bay, bọn cho vay cắt cổ”

“Chớ vào đây, hỡi chúng bay, bọn thô lỗ ngu si”

Điệp ngữ “Chớ vào đây” lặp lại bốn lần nhấn mạnh sự châm biếm, giễu

cợt dành cho những đối tƣợng nghiêm cấm không đƣợc phép bƣớc chân vào

tu viện. Giọng điệu thơ vừa là lời chế giễu, mỉa mải những kẻ sùng tín, những

kẻ giáo điều, những kẻ hèn nhát chỉ biết vơ vét cho đầy túi chứ không quan

tâm đến lợi ích của nhân dân. Đồng thời đó còn là lời chửi rủa:

“Buộc dây vào cổ nhƣ lũ chó;

Tiền công chúng bay là ở giá treo cổ”

Không những thế, bài văn bia này lại có âm hƣởng giống với “lời rao

quảng trƣờng”, lời mời chào mọi ngƣời hãy đến với tu viện Thêlem. Trái

ngƣợc với điệp ngữ “chớ vào đây” thì trong những đoạn thơ sau điệp ngữ

“hãy vào đây” đƣợc lặp lại ba lần và xuất hiện nhƣ lời mời gọi tha thiết.

“Hãy vào đây, các bạn, và hãy là khách quý”

“Hãy vào đây, các bạn, nói Kinh thánh

Theo nghĩa sinh động, mặc cho ai chê trách”

107

“Hãy vào đây, các bạn phụ nữ dòng dõi cao sang!”

Để dè chừng những kẻ “sùng tín” mê muội, trên bài văn bia sử dụng động từ

mạnh nhƣ “xéo” (“xéo đi nơi khác”, “xéo khỏi địa hạt này”) và giọng điệu

khinh bỉ, mỉa mai; còn khi mời gọi mọi ngƣời, giọng điệu bài văn bia chuyển

sang âm hƣởng vui tƣơi, nhẹ nhàng đi kèm nhiều lợi ích mọi ngƣời đƣợc

hƣởng nếu bƣớc chân vào tu viện Thêlem.

“Nơi đây đƣợc ăn mừng

Bằng những hòa âm vui vẻ”

“Đây là nơi mà các lợi tức

Rất dồi dào: để cho các bạn hàng nghìn”

“Nơi đây các bạn sẽ có chỗ trú ẩn và cộng sự”

“Nơi đây là nơi an cƣ danh dự”

Qua lời mời chào trên bài văn bia, bức tranh về thế giới tu viện Thêlem cứ

dần dần đƣợc hoàn chỉnh. Nối tiếp dòng mạch cảm xúc của mình, Rabơle tiếp

tục phác thảo những nét chi tiết hơn về tu viện “không tƣởng” này. Nếu nhƣ

trong các chƣơng trên, Rabơle tập trung phác thảo về mô hình của tu viện

Thêlem, thì những chƣơng sau đó (chƣơng LV, LVI, LVII) tác giả lại tiến gần

hơn về phía tu viện để miêu tả về dinh thự của các tu sĩ: “Ở giữa sân có một

bể nƣớc tráng lệ bằng bạch ngọc đẹp, bên trên, có tƣợng ba nữ thần Kiều

diễm, với những chiếc sừng phong dụ, và những tƣợng đó tuôn nƣớc ra từ vú,

mồm, tai, mắt và các lỗ khác của thân thể. Bên trong ngôi nhà trông ra cái sân

sau đó xây trên những cột lớn bằng mã não thiên thanh và ngọc đá vân, có

những cửa tô và cuốn vòng cung theo lối cổ, bên trong cửa có những hành

lang đẹp, dài và rộng, có trang trí những tranh vẽ, những sừng hƣơu, sừng kỳ

lân, tê giác, sừng hà mã, ngà voi và những vật ngoạn mục khác”. Khung cảnh

tu viện Thêlem không khác gì nơi ở của các vị thần, nó đƣợc xây dựng bằng

những hình dáng kì lạ nhất mà chƣa có tu viện nào xây dựng, nó đƣợc trang

108

trí bằng những vật “tráng lệ” và “độc đáo” đến mức không một tu viện nào

thời đó có thể dám trang trí bằng những vật ấy.

Nếu nhƣ trong các trƣờng Đại học của bọn Thần học, học sinh phải nhồi

nhét vào đầu thứ ngôn ngữ chết - Tiếng La Tinh, phải học thuộc lòng những

diễn thuyết mẫu của những diễn giả nổi tiếng, phải “nuốt từng lời” trong Kinh

thánh, phải học những kiến thức bị bóp méo, xuyên tạc nhằm phục vụ lợi ích

của Giáo hội (nhƣ Trái Đất là một cái đĩa nổi, cái rốn của vũ trụ chính là

thành phố Giêruxalem - vùng đất Thánh); thì phép tắc ở tu viện Thêlem chỉ

duy nhất có một điều “Muốn làm gì tùy ý”. Theo sự lí giải của tác giả thì sự

tự do ở đây không đồng nghĩa với việc con ngƣời buông thả và sa vào những

thói hƣ tật xấu mà bởi vì “những con ngƣời tự do, có dòng dõi tốt, có học thức

tốt, thƣờng sống với những bầu bạn hào nhã, thì do bản chất tự nhiên họ đã có

một bản năng và sức mạnh kích thích, nó bao giờ cũng thúc đẩy họ tới những

việc làm đạo đức và kéo họ xa lánh thói hƣ tật xấu, cái đó họ gọi là danh dự.

Những con ngƣời đó, khi họ bị đè nén và nô dịch bởi sự chế ngự và cƣỡng

bách đê hèn thì họ chuyển hƣớng lòng thiết tha cao quý của họ, vốn nhằm tới

đạo đức một cách tự do, sang việc đánh đổ, bẻ gẫy cái ách nô lệ kia, vì bao

giờ chúng ta cũng làm những điều bị cấm đoán và thèm muốn cái gì chúng ta

bị từ chối cự tuyệt”. Bên cạnh việc đánh giá, đề cao bản chất tự nhiên của con

ngƣời, Rabơle dƣờng nhƣ còn muốn đề cập đến quy luật vận động tất yếu của

lịch sử, có áp bức thì sẽ có đấu tranh, con ngƣời sẽ “đánh đổ, bẻ gẫy cái ách

nô lệ kia”. Điều này gắn với những sự kiện lịch sử có thật, nhiều cuộc khởi

nghĩa nông dân đã diễn ra tại các nƣớc Châu Âu nhằm lật đổ sự thống trị của

bọn vua quan, quý tộc và tăng lữ của giáo hội Thiên chúa giáo.

Không gian tu viện Thêlem chính là “thiên đàng” giữa “địa ngục”, là ƣớc

mơ nhỏ bé của hàng trăm triệu con ngƣời giữa thời thế “tán tác, đảo điên”

trong thời đại Phục Hƣng.

109

3.2.2.2. Không gian trần tục, hiện thực của người thường

Không gian trần tục, hiện thực trong tiểu thuyết Garganchuya rộng, đa

dạng và đƣợc miêu tả tỉ mỉ. Nó trải dài trên nhiều địa danh địa lý có thật và

mở rộng theo cả chiều dài và chiều rộng. Nó bao gồm không gian những bữa

tiệc đến những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ. Nó hàm chứa cả môi trƣờng

hành hƣơng của những nhà tu hành đến không gian chiến trƣờng tàn khốc, các

loại không gian là những đƣờng nét khác nhau để tạo nên hình ảnh con ngƣời

khổng lồ Garganchuya, con ngƣời thách thức những giáo điều của chủ nghĩa

kinh viện - thầy tu Jăng.

Không gian núi rừng

Trong sử thi Hy Lạp, các nhân vật anh hùng thƣờng hƣớng lòng mình về

đồng bằng màu mỡ và biển cả bao la cùng khát vọng chinh phục nó. Với họ,

thiên nhiên chẳng qua là một nguồn lợi vô cùng và có thể khai thác phục vụ

cho lợi ích của con ngƣời. Một khi đã chế ngự đƣợc sự dữ dằn của nó, phẩm

chất anh hùng đƣợc khẳng định. Nhƣng bƣớc vào thời đại hòa bình, lao động

xây đắp nền văn minh, con ngƣời hiểu rằng cần phải đến với thiên nhiên.

Trong hành trình phiêu lƣu, cập bến nào, Ulysses cũng tìm hiểu mảnh đất ở

đó bằng con mắt của con ngƣời khao khát bắt tay với thiên nhiên, hợp lực với

thiên nhiên để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho con ngƣời. Có lẽ tƣ tƣởng

cân bằng sinh thái của phƣơng Tây hiện đại về cơ bản cũng xuất phát từ cái

nhìn này của Ulysses, con ngƣời sống hòa hợp với thiên nhiên vì chính điều

đó đảm bảo lợi ích vật chất lâu dài của họ. Trên đƣờng đến Pari, Garganchuya

và những ngƣời bạn đồng hành đã đi qua một “cánh rừng rộng, chiều dài đến

ba mƣơi nhăm dặm và chiều ngang đến mƣời bẩy dặm hay vào khoảng đó.

Cánh rừng này phong phú và dồi dào một cách kinh khủng về các giống ruồi

bò và ong vàng đến độ thật là một nạn giặc cƣớp đối với bọn ngựa cái, lừa và

ngựa đực khốn khổ”. Nhƣng cuối cùng cánh rừng đó đã bị hủy diệt và bây giờ

110

cánh rừng đó chỉ còn là một mảnh đất trống không còn cây cối, không còn

ruồi ong gì nữa. Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới có ghi: Rừng là

“biểu tƣợng cho cuộc sống, cây có thể coi nhƣ một sợi dây liên hệ, một thứ

trung gian giữa đất, nơi nó cắm rễ với vòm trời nơi ngọn cây nối liền hoặc

chạm tới”. Hủy diệt khu rừng cũng đồng nghĩa với việc lợi ích của con ngƣời

không còn, và những quý tộc xứ Bôxơ (tên gọi mới của khu rừng) chỉ “ngáp

gió trừ bữa” (ý chỉ sự nghèo khổ). Không gian núi rừng Bier (Bièvre, rừng ở

Fôngtenơblô) cũng là nơi Garganchuya tu luyện để đạt tới đỉnh cao về tất cả

các môn văn học, toán học, thiên văn học, sinh vật học, thể dục thể thao, cổ

ngữ, ngoại ngữ, vệ sinh, lao động chân tay. Mối quan hệ giữa thiên nhiên và

con ngƣời đƣợc đề cao, con ngƣời nên sống theo chân lý “sống là phải biết

yêu thƣơng hòa hợp”, dù cho đó là đối với con ngƣời hay đối với thiên nhiên.

Không gian tiệc tùng – ăn uống

Cuốn tiểu thuyết này mở đầu bằng không gian bữa tiệc vui vẻ của ngày lễ

giết gia súc. “Họ đã cho giết ba trăm sáu mƣơi bảy nghìn mƣời bốn con bò

béo (…) Sau bữa ăn, tất cả mọi ngƣời xô bồ kéo ra bãi Xôlxe, và ở đó, trên cỏ

dày rậm, họ nhảy múa theo tiếng sáo vui nhộn và tiếng kèn bong bóng du

dƣơng, một cách rất hoạt bát đến nỗi trông thấy họ vui đùa nhƣ thế thật là một

thú tiêu khiển thần tiên”. Cỗ tiệc là điều không thể thiếu trong các cuộc vui

hội hè - dân gian. Nó là sự sung sƣớng, hoan hỉ của con ngƣời sau khi đã kết

thúc công việc lao động. Không gian bữa tiệc gắn với những trò giải trí,

những vui nhộn hội hè, những ngày ăn mặn và tinh thần tự do phóng khoáng,

thoải mái đùa giỡn của con ngƣời. Toàn bộ chƣơng V là cuộc chuyện trò trên

bàn rƣợu của những kẻ say khƣớt, một loạt những lời nói chẳng biết là của ai

đƣợc liệt kê liên tiếp. Và có thể chính những kẻ say khƣớt đó cũng chẳng thể

nhận ra mình là ai vào giờ phút này. Nhiều câu trong Kinh thánh xuất hiện

trong lời của những tên say khƣớt này, vừa hạ bệ vừa tái tạo lại nội dung Kinh

111

thánh theo “cách ghi nhớ tuyệt vời hơn” nhƣ: “Tớ uống có giờ, nhƣ con la của

giáo hoàng”; “Tớ uống trong kinh nhật dụng nhƣ một ông cha đẹp lão chủ trì

tu viện”.

Không gian bữa tiệc cũng đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời

Garganchuya. Garganchuya ra đời khi bữa tiệc mừng lễ hội giết gia súc đang

diễn ra và câu nói đầu tiên của chàng khi tới thế gian này là “Uống! uống!

uống”. Khi Garganchuya trở về nhà, Grăngguziê cùng đã tổ chức một bữa tiệc

lớn với “mƣời sáu con bò thiến, ba con bò cái tơ, ba mƣơi con bò non, sáu

mƣơi ba con dê sữa, chín mƣời nhăm con cừu, ba trăm con lợn sữa sốt vang,

hai trăm hai hai con chim đa đa, bảy trăm con dê gà, bốn trăm con gà trống

thiền vỗ béo ở Lu đuy noa và Cornuai, sáu nghìn gà tơ và cũng ngần ấy những

chim bồ câu, trăm con gà mái tơ vỗ béo, mƣời bốn trăm con thỏ rừng non, ba

trăm linh ba con u-tac và một nghìn bảy trăm con gà trống thiến vỗ béo. (…)

mƣời tám con thú rừng mà vị lãnh chúa đất Grăngmông gửi cho cùng với một

trăm bốn mƣơi con trĩ mà vị lãnh chúa đất Exar gửi đến và vài tá chim bồ câu

rừng, chim công con, le le, buytor, cuốc li, thƣ cƣu, gà gô Châu Phi, ngỗng

trời, dẽ gà rừng, cò văn tự, vịt ngũ sắc, cò mổ thìa, cò bợ, cò hƣơng, sâm cầm,

cò trắng, hạc trắng, xích hoàng hà, gà Ấn Độ rất nhiều thịt băm viên rán chả

và rất nhiều món canh”. Không gian bữa tiệc với đầy đủ các món ăn và các

loại chim thú thể hiện sự sung túc, no đủ. Việc liệt kê đầy đủ các món ăn

trong bữa tiệc đó giúp ngƣời đọc dễ dàng hình dung quy mô cũng nhƣ chất

lƣợng của bữa tiệc chào đón các vị anh hùng của Grăngguziê và sự hào phóng

của ông. Bữa tiệc này cũng chính là bữa tiệc ăn mừng chiến thắng đầu tiên

của Garganchuya và những ngƣời bạn đồng hành đối với quân giặc trên

đƣờng trở về nhà. Không gian bữa tiệc là điểm kết thúc chiến thắng của con

ngƣời nhƣng nó cũng chứa đựng một sự khởi đầu mới.

112

Trong tác phẩm của Rabơle, hình tƣợng ăn uống không chỉ mang ý nghĩa

đơn giản là lấp đầy cái dạ dày mà nó còn mang ý nghĩa chinh phục thế giới.

“Cuộc gặp gỡ giữa con ngƣời và thế giới diễn ra qua các miệng gặm nhấm,

cắn xé và nghiền nuốt là một trong những đề tài cổ xƣa nhất và quan trọng

nhất trong tƣ duy hình tƣợng của loài ngƣời. Ở đây con ngƣời gặm nhấm thế

giới, cảm nhận mùi vị của thế giới đƣa thế giới vào cơ thể mình, biến nó

thành một phần của bản thân mình” [33;446].

3.3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya

3.3.1. Giới thuyết về thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện

phƣơng thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại

bị chi phối bởi dòng thời gian thì thế giới nghệ thuật cũng tồn tại và chịu ảnh

hƣởng lớn của thời gian nghệ thuật. Thời gian là “hình thức nội tại của hình

tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [22;160]. Cùng với không

gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng

xuất phát từ một điểm nhìn trần thuật nhất định trong thời gian. Khác với thời

gian khách quan đƣợc đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật đƣợc đo

bằng nhiều thƣớc đo khác nhau, bằng sự lặp đi lặp lại đều đặn của các hiện

tƣợng đời sống đƣợc ý thức: sự sống, cái chết, sự chia ly, mùa này, mùa

khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà

ta có thể thể nghiệm đƣợc trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ

dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá

khứ hay tƣơng lai. Thời gian nghệ thuật không mang tính khách quan mà

mang tính chủ quan, gắn với cảm nhận của con ngƣời. Thời gian nghệ thuật

còn gắn với việc tác giả tổ chức chất liệu trong tác phẩm. Thời gian nghệ

thuật gồm có thời gian sự kiện và thời gian tâm tƣởng.

113

Trong chuyên luận Thi pháp cổ điển Nga, Viện sĩ Đ.X Likhachốp đã phát

biểu quan điểm của mình về vấn đề thời gian nghệ thuật. Đây có thể coi là

quan điểm tích cực đóng góp vào công việc nghiên cứu văn học: “Thời gian

nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lƣới nghệ thuật. Nó buộc thời gian cú

pháp và quan niệm triết học về thời gian phải phục vụ cho những nhiệm vụ

nghệ thuật của nó”.Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử (trong Thi pháp thơ Tố

Hữu): “thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan

điểm của tác giả về thời gian mà là một hiện tƣợng thời gian sinh động, gợi

cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian đƣợc dùng làm hình thức nghệ thuật

để phản ánh và tổ chức tác phẩm (…) Còn thời gian thật sự có tính chất nghệ

thuật, đó là thời gian của hành động kể chuyện và thời gian của văn

bản…”[21;190].

Điểm qua một số quan niệm về thời gian nghệ thuật của các nhà nghiên

cứu, chúng tôi rút ra quan niệm về thời gian nghệ thuật nhƣ sau:

“Thời gian nghệ thuật là nhân tố nằm trong mạng lƣới nghệ thuật của tác

phẩm văn học. Nó thể hiện cái nhìn tâm lý chủ quan về thời gian, cách cảm

nhận và ứng xử đối với cuộc sống theo quan điểm, ý đồ riêng của tác giả một

cách có hiệu quả nghệ thuật”.

3.3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Garganchuya

3.3.2.1. Thời gian tuyến tính - hiện thực

Trong Garganchuya, ngƣời ta cảm nhận đƣợc thời gian từ những đổi thay,

biến cố trong tự nhiên (sáng, trƣa, chiều, tối) trong đời ngƣời (sinh ra, lớn lên,

lấy vợ, sinh con, già, chết) trong phong tục xã hội (các ngày lễ hội…). Thời

gian ở đây đƣợc tính bằng chiều dài của con ngƣời, hay nói cụ thể hơn là

quanh xung quanh nhân vật trung tâm Garganchuya.

Mở đầu tiểu thuyết, tác giả giới thiệu về sự ra đời kì lạ của Garganchuya:

Gargamel (mẹ Garganchuya) mang thai chàng đến tận tháng thứ mƣời một;

114

“Buổi sau bữa ăn trƣa, hôm mùng 3 tháng 2” Gargamel bị xổ ruột và hạ sinh

Garganchuya. Tiếp đó, tác giả ghi lại cách Garganchuya đƣợc nuôi dạy đến

“một năm mƣời tháng”, rồi quá trình phát triển của Garganchuya “từ ba đến

năm tuổi”, “khi cậu gần hết năm tuổi”. Sau đó là quá trình học tập của

Garganchuya. Và kết thúc tác phẩm là chiến thắng của chàng trong công cuộc

giữ gìn mảnh đất quê hƣơng. Nội dung chủ yếu của cuốn tiểu thuyết là nói về

cuộc đời của Garganchuya. Vì vậy, tuyến thời gian chính yếu, xuyên suốt toàn

bộ tác phẩm là tuyến thời gian vận động tiến hóa hay nói cách khác quan hệ

thời gian trong tác phẩm Garganchuya là thời gian tiếp nối thời gian.

Độ dài thời gian trong tác phẩm có đặc điểm chung là tính tiếp nối liên tục,

không lặp lại. Hƣớng diễn biến của loại thời gian này vừa có điểm gần giống

thời gian ngoài thực tế, thể hiện ở chỗ nó đƣợc chia thành từng mốc thời gian

phát triển cụ thể theo qui luật tuyến tính. Nhƣng các câu chuyện và sinh hoạt

trong các ngày đó có thể hoán đổi cho nhau, biến hóa linh hoạt. Sự không phù

hợp giữa thời gian nghệ thuật trong văn học với thời gian thực tại (vật lí)

chứng tỏ thời gian nghệ thuật đƣợc xây dựng theo cách cảm nhận thời gian

của con ngƣời.

Trong tiểu thuyết còn có sự xuất hiện của một loạt những ngày lễ gắn với

cuộc sống hiện thực của con ngƣời: Lễ hội giết gia súc, lễ hội giả trang và lễ

hội thu hoạch nho.

Lễ hội giết gia súc đƣợc mô tả gắn với những bữa tiệc vui vẻ và sự ra đời

kì lạ của Garganchuya. “Ngƣời ta xử trảm ba trăm sáu mƣơi bảy nghìn không

trăm mƣời con bò thiến béo, và quyết định ƣớp muối trộn với dầu, tính sao

cho đủ đến mùa xuân”. Sự no đủ vật chất - thân xác, sự no đủ thừa thãi, sinh

sôi và tăng trƣởng chính là “âm hƣởng chủ đạo” tràn ngập trong lễ hội này. Lễ

hội này cũng chính là phông nền cho sự sinh đẻ của Gargamella. Sự sống, cái

chết, sự ra đời, phóng uế, ăn uống hòa lẫn với nhau.

115

Ngày thứ ba béo là ngày của lễ hội giả trang. Không khí hội giả trang của

lễ tiễn mùa đông xuyên suốt toàn bộ tình tiết, nó gắn kết vào cùng một nút

thắt nghịch dị việc giết thịt, phanh xé và làm lòng gia súc, cũng nhƣ cuộc

sống thân xác, sự dồi dào no đủ, cỗ tiệc, rồi tự do vui vẻ và cuối cùng là cả

việc sinh nở.

Cuộc chiến tranh của vua Picrôcôl đƣợc triển khai trong không khí của lễ

hội thu hoạch nho (Vendange). Đây là một trong những lễ hội quan trọng của

nƣớc Pháp. Vào thời gian thu hoạch nho thậm chí các công sở phải đóng cửa,

các tòa án không làm việc, bởi vì tất cả mọi ngƣời đều đang bận bịu trong

vƣờn nho. Đó là sự giải thoát con ngƣời ra khỏi mọi công việc và các mối bận

tâm, ngoại trừ những gì gắn trực tiếp với rƣợu. Nguyên nhân gây chiến là

cuộc xung đột giữa những ngƣời nông dân canh giữ vƣờn nho và những thợ

làm bánh đa vùng Lerne. Những ngƣời nông dân muốn ăn bánh đa với nho

tƣơi (món ăn giúp tẩy sạch dạ dày), nhƣng những ngƣời thợ làm bánh đa lại

không bán và lăng mạ đám nông dân. Vì thế giữa họ xảy ra cuộc ẩu đả. Món

ăn kết hợp bánh đa tiểu mạch và nho bị hạ thấp dƣới dạng cải trang do tính

chất tiêu chảy của nó, và nó cực phù hợp cho những ngƣời bị táo bón.

3.3.2.2. Thời gian siêu hình với “khoảng cách sử thi tuyệt đối”

Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê: Siêu hình nghĩa là “không có hình

thể, vƣợt ra khỏi thế giới vật chất”. Nhƣ vậy, thời gian siêu hình là thời gian

vƣợt ra khỏi thế giới vật chất. Bên cạnh thời gian hiện thực trong đời sống

con ngƣời là thời gian của ngƣời khổng lồ Garganchuya. Sự tiếp nhận những

tri thức từ các ông thầy ngụy biện đƣợc liệt kê chi tiết đến từng tháng, từng

năm: Garganchuya học thuộc bảng chữ cái La tinh mất “năm năm ba tháng”;

Học thuộc những cuốn Donat, Facel, Theodolel, Alanuyx, Parabolls mất

“mƣời ba năm sáu tháng và hai tuần lễ”; Rồi những cuốn sách khác mất “hơn

mƣời tám năm và mƣời một tháng”, “mƣời sáu năm hai tháng”. Nhƣ vậy

116

Garganchuya mất đến hơn năm mƣơi hai năm để tiếp thu đủ thể loại kiến thức

“hổ lốn” của các ông thầy ngụy biện. Đối với con ngƣời bình thƣờng, khoảng

thời gian này bằng với một nửa quãng thời gian tồn tại của họ. Nhƣng với

ngƣời khổng lồ thì đó chỉ là một quãng thời gian ngắn trong cuộc đời của họ

mà thôi. Thời gian của ngƣời khổng lồ vƣợt ra khỏi sự chi phối của thời gian

hiện thực, thời gian cuộc đời con ngƣời, nó hƣớng tới một chiều thời gian mới

kéo dài hơn, bao la hơn và xứng với tầm vóc của ngƣời khổng lồ hơn.

Một đặc điểm chúng ta cần chú ý nữa về thời gian nghệ thuật trong tiểu

thuyết Garganchuya đó là: Thời gian siêu hình có “khoảng cách sử thi tuyệt

đối”. Sử thi tuyệt đối hóa quá khứ, phân cách nó với hiện tại bằng “khoảng

cách sử thi tuyệt đối”. Sử thi kể những gì ngƣợc trở lại với thời gian, một quá

khứ tuyệt đối vốn đã hoàn tất và khép kín cả trong tổng thể cũng nhƣ ở từng

bộ phận một chỉnh thể. Sử thi quan tâm đến quá khứ của cộng đồng, quan tâm

đến những phạm trù quá khứ. Sử thi tập trung xây dựng những nhân vật anh

hùng, có thể là một tù trƣởng, ngƣời đứng đầu bộ tộc…điểm chung của các

nhân vật này là đều mang trong mình sức mạnh, niềm tin, mặt tốt đẹp của cả

cộng đồng. Chẳng hạn nhƣ Ramayana – thiên sử thi vĩ đại đầy chất bi hùng,

là bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh hiện thực đời sống, tƣ tƣởng của nhân

dân Ấn Độ cổ đại, trong đó có ngƣời anh hùng Rama hiện lên với những

phẩm chất cao quý của cộng đồng, tấm lòng chung thủy kiên trinh của Xita

đại diện nét đẹp mẫu mực của ngƣời phụ nữ trong thời đại đó.

Garganchuya mƣợn tích truyện dân gian về ngƣời khổng lồ, cũng tức là

quay ngƣợc trở lại với quá khứ. Rabơle đã tự tạo ra “khoảng cách sử thi tuyệt

đối” để tách cuốn tiểu thuyết của mình ra khỏi hiện tại. Tuy nhiên, thời gian

trong Garganchuya không hoàn toàn giống với thời gian sử thi mà nó vẫn có

những đặc điểm riêng biệt. “Theo M.Bakhtin thì thời gian sử thi là một thời

quá khứ tuyệt đối với ba ý nghĩa nhƣ sau: a) Đó là quá khứ của dân tộc. Nó

117

tuyệt đối vì không còn quá khứ nào trƣớc đó nữa, nó là quá khứ đầu tiên. b)

Đó là kí ức của cộng đồng, chứ không phải ký ức cá nhân, không phải là nhận

thức. c) Đó là thế giới tách hẳn với hiện tại, tách hẳn thời của ngƣời kể, ngƣời

kể không thể nhìn thấy đƣợc thời đó, không sờ mó, không thâm nhập vào đó

đƣợc, không có quan điểm riêng đối với nó” [22;69]. Hãy cùng chúng tôi đặt

thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết Garganchuya bên cạnh sử thi để thấy rõ

khoảng cách giữa chúng. Thời gian trong sử thi là kí ức của cộng đồng thì

Garganchuya là câu chuyện về một cá nhân cụ thể. Nếu nhƣ trƣớc đây, con

ngƣời nằm trong sự thống nhất trực tiếp với cộng đồng thì giờ đây con ngƣời

đƣợc tách riêng với tƣ cách là một cá nhân. Con ngƣời làm chủ bản thân mình

theo nghĩa chung của nó, không còn lệ thuộc vào bất cứ sự hoang đƣờng hay

viễn tƣởng nào. Thêm vào đó, ngƣời kể chuyện trong Garganchuya đóng vai

trò rất quan trọng trong tác phẩm này, đó là ngƣời chứng kiến câu chuyện, lý

giải một số tình tiết trong câu chuyện, và thậm chí ngƣời kể chuyện này còn

đƣa ra những quan điểm riêng của mình một cách táo bạo.

Nhƣ vậy, về thời gian nghệ thuật, chúng ta thấy đƣợc cả những đặc điểm

về thời gian của sử thi và tiểu thuyết trong Garganchuya. Sự quy định về mặt

thể loại, sự khác biệt về thời đại ra đời đã tạo ra sự khác biệt về mặt thời gian

nghệ thuật trong cuốn tiểu thuyết Garganchuya và sử thi. Đặc trƣng của sử thi

là lời tiên tri, lời sấm truyền đƣợc thực hiện hoàn toàn trong khuôn khổ quá

khứ tuyệt đối. Những lời sấm truyền đó đôi khi chỉ là những ƣớc mơ mang

màu sắc huyễn tƣởng. Còn đối với tiểu thuyết, đó là lời tiên đoán, dự báo, tiểu

thuyết có tham vọng tiên đoán những sự thực, dự báo và ảnh hƣởng đến cái

tƣơng lai hiện thực, tƣơng lai của tác giả và độc giả. Trong khi sử thi là sự

thống nhất, tính cộng đồng trong sử thi đƣợc đẩy lên cao độ trong quá trình

sáng tạo nghệ thuật thì tiểu thuyết đã có sự hình thành những chất liệu khác

biệt so với sử thi. Các tác giả tiểu thuyết thời kì Phục Hƣng đã có những suy

118

nghĩ và hành động bắt nguồn từ cuộc sống thực tại, các nhân vật trong tác

phẩm cũng có thế giới quan, nhân sinh qua khác nhau, từ đó có những quan

điểm sống, cách sống khác nhau.

Tiểu kết chƣơng 3:

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu ta nghiên cứu tiểu thuyết Garganchuya từ góc

độ thi pháp thể loại mà bỏ qua kết cấu, thời gian nghệ thuật và không gian

nghệ thuật trong cuốn tiểu thuyết này. Toàn bộ tiểu thuyết đƣợc chia thành

năm mƣơi tám chƣơng và đƣợc đánh số La Mã từ đầu đến cuối. Mạch kể

chuyện chủ yếu xoay quanh nhân vật trung tâm - Garganchuya. Vai trò của

ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất đóng vai trò quan trọng trong mƣời chƣơng

đầu tiên của tác phẩm, ứng với câu chuyện về chào đời của Garganchuya, câu

chuyện về sự chuẩn bị phẩm phục cho Garganchuya khi cậu mới chào đời. Từ

những chƣơng sau, tiểu thuyết đƣợc kể ở ngôi thứ ba. Cách kể này nhằm nhấn

mạnh tính khách quan của các sự kiện, đồng thời với đó là sự giảm thiểu, rút

gọn các bình luận – trữ tình ngoại đề từng xuất hiện khá nhiều trong các

chƣơng trƣớc gắn với ngƣời kể chuyện xƣng “tôi”. Bàn về kết cấu của tiểu

thuyết Garganchuya ngoài việc nói về vấn đề tổ chức điểm nhìn trần thuật

ngƣời kể chuyện, chúng ta nên nhắc đến hai kiểu kết cấu nữa, đó là kết cấu

theo trình tự thời gian và kết cấu liên văn bản. Kết cấu theo trình tự thời gian

là kết cấu quen thuộc với độc giả vì nó là kiểu kết cấu truyền thống xuất hiện

trong rất nhiều tác phẩm văn chƣơng truyền thống. Ngoài kết cấu truyền

thống trên, chúng tôi còn nhận thấy, tiểu thuyết này còn có sự xuất hiện của

kết cấu liên văn bản. Chúng ta đề xuất và phân tích kết cấu này trong tiểu

thuyết Garganchuya nhƣ một nỗ lực góp phần đƣa ra cách đọc, cách nhìn

nhận mới về tiểu thuyết này.

Hai thành tố quan trọng trong thi pháp tiểu thuyết là thời gian nghệ thuật

và không gian nghệ thuât, chúng tạo ra hai chiều kích cơ bản của văn bản

119

nghệ thuật. Thành tố không gian là đặc thù của hiện thực bên ngoài và khi đi

vào tác phẩm văn học nó có khả năng chuyển đổi tùy thuộc sự cảm nhận hay

cách giới thiệu cụ thể của tác giả. Không gian của Rabơle đƣợc chia thành hai

loại: Không gian trần tục, ngƣời thƣờng và không gian của ngƣời khổng lồ, lý

tƣởng. Không gian trần tục với các loại không gian núi rừng, không gian bữa

ăn – tiệc tùng, không gian chiến địa là nơi biểu thị giá trị của nhân vật, đồng

thời cũng cho thấy mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, nhƣng cũng là một

đấu trƣờng quyết liệt giữa các nhân vật. Không gian lý tƣởng biểu hiện rõ rệt

nhất qua không gian tu viện Thêlem, tu viện này chính là công trình đƣợc xây

dựng lên bởi những tƣ tƣởng tiến bộ của các nhân vật nhƣ Garganchuya, thầy

tu Jăng hay cũng chính là thế giới “không tƣởng” mà Rabơle muốn xây dựng

trong cuộc sống hiện thực.

Thành tố thời gian tùy thuộc trƣớc hết vào sự nhận thức và tƣởng tƣợng

của tác giả và đƣợc nhận ra qua cách thức quan niệm hay dƣới các hình thái

ngôn ngữ. Thời gian tuyến tính – hiện thực cho phép chúng ta khám phá và

cảm nhận nội dung câu chuyện về nhân vật Garganchuya, gắn liền với sự ra

đời, thời niên thiếu, sự học tập, các chuyến phiêu lƣu của nhân vật cũng nhƣ ý

nghĩa của chúng. Nhƣng không phải chỉ đơn giản có vậy, tác giả còn sử dụng

thời gian siêu hình “khoảng cách sử thi tuyệt đối”. Nhƣ vậy, thời gian trong

Garganchuya là thời gian “khổng lồ” kéo dài và vƣợt ra khỏi hiện tại, đồng

thời nó giống sử thi ở điểm quay về với quá khứ (nhƣng không hƣớng về quá

khứ tuyệt đối). Sự mở rộng nhiều chiều thời gian chính là cách xử lý thời gian

đặc biệt của Rabơle.

120

KẾT LUẬN

Tiểu thuyết Garganchuya là tiểu thuyết đóng vai trò quan trọng trong dòng

chảy của nền văn học Phục hƣng. Cuốn sách này không những mở ra trƣớc

mắt chúng ta một thế giới nghệ thuật đặc thù mà còn chứa đựng những hệ tƣ

tƣởng vĩ đại của thời Phục hƣng: Chế giễu, lên án, đả kích thế giới Trung cổ,

phong kiến và Nhà thờ; khẳng định sức mạnh tiềm năng của con ngƣời; tinh

thần lạc quan vào một thế giới tốt đẹp hơn. Garganchuya giống “nhƣ dòng

sông cuộc đời cuồn cuộn chảy, mang theo trong lòng nó biết bao phù sa màu

mỡ để bối đắp cho một thế giới mới đang sinh thành, cuốn phăng nhiều rác

rƣởi do thế giới cũ để lại” [12;156].

Sau nghiên cứu tiểu thuyết Garganchuya từ góc nhìn thi pháp thể loại,

chúng tôi rút ra một số kết luận nhƣ sau:

Về nhân vật, tiểu thuyết Garganchuya có ba kiểu nhân vật chủ yếu: Nhân

vật lý tƣởng (ngƣời khổng lồ); Nhân vật hiện thực (Vua, quan lại, quý tộc) và

nhân vật hài kịch (thầy tu). Rabơle không gạt bỏ những nhân vật vốn đã quen

thuộc nhƣ tiểu thuyết hiệp sĩ, truyền thuyết dân gian về những ngƣời khổng

lồ, nhƣng Rabơle đã thực sự thành công khi kết hợp những nhân vật “xƣa cũ”

đó với khả năng sáng tạo của một ngƣời nghệ sĩ thiên tài. Chỉ cần một lần hòa

tâm hồn mình với cuốn tiểu thuyết vĩ đại này, chúng ta có thể tận hƣởng niềm

vui sƣớng khi gặp lại những gì quen biết cũ, những giá trị tƣởng nhƣ đã bị

lãng quên. Việc mƣợn tích xƣa để nói chuyện thế sự đƣơng thời chúng ta

cũng có thể bắt gặp trong nhiều tác phẩm cùng thời với Garganchuya, tiêu

biểu là Truyện mười ngày của Boccacio. Bàn về nhân vật, Truyện mười ngày

huy động một số lƣợng nhân vật phong phú, cũng có những nhân vật đại diện

cho tầng lớp quý tộc nhƣ lãnh chúa Cane đenla Xcala (Phẩm giá chí cao của

người nghèo); Tăngcređ vua thành Xalecnơ (Thắng lợi của cái chết)…hay đó

có thể là tầng lớp tu sĩ nhƣ các nữ tu (Viện cung nữ của chàng câm), tu sĩ

121

Rơnô (Thuốc tẩy giun), Uximbanđa (Nữ tu sĩ)…Tuy nhiên, do sự quy định về

thi pháp thể loại nên các nhân vật của Boccacio chƣa đƣợc khắc họa cụ thể và

rõ nét, “họ chỉ là hình tƣợng ƣớc lệ, tƣợng trƣng cho những trạng thái tâm

hồn, phù hợp với các chủ đề các truyện”, đồng thời những nhân vật trên cũng

góp phần làm nổi bật khát vọng, tâm tƣ của chung của những con ngƣời Ý thế

kỉ XVI. Xây dựng những “ngƣời khổng lồ” mang hơi thở của thời đại Phục

Hƣng cũng không phải điều hiếm gặp trong văn xuôi Trung cổ. Hamlet,

Ôtenlô…trong những vở bi kịch của Shakespeare chính là những ngƣời

“khổng lồ” mang dáng dấp của những con ngƣời bình thƣờng. Hamlet khổng

lồ với tƣ cách là một con ngƣời có lƣơng tri, luôn luôn suy nghĩ. Chàng từ giã

cõi đời một cách thanh thản vì nghĩ mình đã làm tròn sứ mệnh cao cả, Hamlet

chết nhƣng chân lí đƣợc phơi bày, lý tƣởng đƣợc khẳng định. Cái chết của

Hamlet có giá trị thức tỉnh thời đại, mở đƣờng cho nhân loại đi lên. Ôtenlô

hiện lên với hai nét khổng lồ dễ thấy, đó là con ngƣời anh hùng và con ngƣời

có niềm tin yêu quá lớn vào nhân loại. So với các tác phẩm văn xuôi cùng

thời, tiểu thuyết Garganchuya đã làm nên điểm đặc biệt: Rabơle xây dựng

một thế giới nhân vật phong phú và đã khắc họa thành công chân dung ngƣời

khổng lồ Garganchuya cùng một số nhân vật mang ý nghĩa chủ đề của tác

phẩm. Không những thế, thế giới nhân vật trong Garganchuya chính là kiểu

mẫu cho một số loại nhân vật ra đời trong thời kì văn học cận đại.

Về kết cấu trong tiểu thuyết Garganchuya cũng nhƣ các tác phẩm văn xuôi

thời Phục hƣng nói chung đều kế thừa kiểu kết cấu truyền thống: Kết cấu theo

trình tự thời gian. Điểm đƣa Garganchuya khác biệt so với các tác phẩm văn

xuôi cùng thời và gần hơn với các tiểu thuyết hiện đại là việc sử dụng kết cấu

liên văn bản và sự tổ chức điểm nhìn của ngƣời kể chuyện. Nhƣ vậy, có thể

thấy rằng, nhà văn đã nỗ lực rất nhiều trong việc không ngừng tìm kiếm các

122

hình thức cấu trúc phù hợp nhất cho sáng tác của mình. Sự cố gắng đổi mới

của nhà văn có ý nghĩa tích cực cho sự phát triển của tiểu thuyết thời kì sau.

Về không gian nghệ thuật, trong Garganchuya vẫn có sự xuất hiện của các

kiểu không gian cổ tích, huyền thoại, nhƣng đây là thủ pháp để khám phá hiện

thực thời đại Phục hƣng lúc đó, dùng cái ảo để khám phá cái thực, bao hàm

hai kiểu không gian: không gian của ngƣời khổng lồ, lý tƣởng, và không gian

trần tục, hiện thực của ngƣời thƣờng. Cùng với không gian nghệ thuật thì thời

gian nghệ thuật cũng là yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm. Về thời gian

nghệ thuật có thời gian tuyến tính - hiện thực và thời gian siêu hình với

“khoảng cách sử thi tuyệt đối”. Nhìn chung các tác phẩm văn xuôi thời kì

Trung cổ, Phục hƣng và cả những tiểu thuyết nổi tiếng thế kỉ XVIII, XIX

thƣờng tuân thủ trật tự thời gian tuyến tính. Thời gian siêu hình “khoảng cách

sử thi tuyệt đối” là kiểu thời gian đặc biệt ở tiểu thuyết Garganchuya, kiểu

thời gian vừa thể hiện sự hiểu biết sâu rộng của Rabơle về thể loại sử thi

nhƣng cũng thể hiện những cách tân của Rabơle trong những bƣớc đầu hình

thành thể loại tiểu thuyết.

Các yếu tố về nhân vật, kết cấu, không gian và thời gian nghệ thuật gắn bó

và hòa quyện với nhau, tạo thành một thể thống nhất không thể tách rời. Yếu

tố này bổ sung và hoàn thiện cho yếu tố kia góp phần truyền tải nội dung, tƣ

tƣởng của Rabơle đến độc giả.

Nhƣ vậy, về mặt thể loại, Garganchuya là sự bừng nở của một dòng tiểu

thuyết riêng chỉ có trong thời đại Phục hƣng. Đến thế kỉ XIX, khi tiểu thuyết

hiện thực phát triển và đánh dấu bƣớc phát triển của nó với một loạt các tác

phẩm nhƣ: Đỏ và đen, Tu viện thành Parme (Stendhal); Tấn trò đời (Honoré

de Balzac)…thì dòng tiểu thuyết này đã thực sự biến mất. Đó là quy luật,

“không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, một nền nghệ thuật sáng

chói nhất lên đến đỉnh cao rồi cũng phải nhƣờng ánh vinh quang lại cho thế

123

hệ sau. Nhƣng những tên tuổi đã ngự trị trên của những nền nghệ thuật sáng

chói ấy mãi mãi sẽ là bức tƣợng đài bất tử chứng minh sự tồn tại, sự hƣng

thịnh của nền nghệ thuật ấy. Tiểu thuyết Garganchuya chính là thành tựu

đáng tự hào của nền văn học Phục hƣng, cùng với Đônkihôtê, nó là một trong

những tiền đề nghệ thuật đặc biệt quan trọng, một sự khai phá, mở đƣờng cho

tiểu thuyết đăng quang chính thức trong hai trào lƣu lãng mạn và hiện thực

chủ nghĩa thế kỷ XIX.

124

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca (tái bản lần 4), Nxb Văn học, Hà

Nội.

2. Alain Gheerbrant, Jean Chevalier (1997, Phạm Vĩnh Cƣ, Nguyễn

Xuân Giao, Lƣu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vĩ

dịch), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

3. Lại Nguyên Ân chủ biên (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Bùi Văn Ba - Thành Thế Thái Bình - Nguyễn Xuân Nam đồng chủ

biên (1976), Thường thức Lí luận Văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

5. Benac Henri (2005, Nguyễn Thế Công dịch), Dẫn giải ý tưởng văn

chương,Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

6. Lê Nguyên Cẩn (2006), Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong

nhà trường, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội.

7. Minh Chính (2002), Văn học phương tây giản yếu, Nxb Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Văn Dân (2003), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Dân (2002), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

10. Trƣơng Đăng Dung (2003), Tác phẩm văn học như là quá trình,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Đặng Anh Đào (1997), Văn học phương Tây, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

125

12. Hà Minh Đức chủ biên (2007), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

13. Francois Rabelais (1983, Tuấn Đô dịch), Garganchuya, Nxb Văn

học, Hà Nội.

14. Francois Rabelais (1981, Tuấn Đô dịch), Păngtagruyen, NxbVăn

học, Hà Nội.

15. Lê Bá Hãn - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên

(2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

16. Đặng Thị Hạnh (2005), Lịch sử văn học Pháp, Nxb Đại học Quốc

Gia Hà Nội, Hà Nội.

17. Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm (1985), Văn học lãng mạn và văn

học hiện thực Phương Tây thế kỉ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp Hà Nội, Hà Nội.

18. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

19. Tô Hoài (1987), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học,

Hà Nội.

20. Nguyễn Thái Hòa (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

21. Đỗ Đức Hiểu chủ biên (2003), Từ điển Văn học bộ mới, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

22. Đỗ Đức Hiểu - Phan Quý chủ biên (2005), Lịch sử văn học Pháp

Trung cổ - Thế kỉ XVI và thế kỉ XVII, Tập 1, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

23. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

24. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội.

126

25. John Bowker (2011, Lƣu Văn Hy dịch), Từ điển tôn giáo thế giới

giản yếu, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Khỏa (1999), Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng

dụng, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Khỏa (2002), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

28. Phƣơng Lựu chủ biên (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội

29. Phƣơng Lựu (1997), Tiếp nhận văn học , Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

30. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử (2008), Giáo trình lý luận văn học, Tập

2, Nxb Đại học Sƣ Phạm Hà Nội, Hà Nội.

31. M. Bakhtin (1992, Trần Đình Sử dịch), Lý luận về thi pháp tiểu

thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. M. Bakhtin (1993, Trần Đình Sử dịch), Những vấn đề thi pháp

Đôxtôiepxki, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

33. M. Backhtin (2006, Từ Thị Loan dịch), Sáng tác Francois Rabelais

từ nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

34. M.B.Khrapchenco (2002, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu),

Những vấn đề về lí luận và nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

35. Milan Kundera (1998, Nguyên Ngọc dịch), Nghệ thuật tiểu thuyết,

Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng

36. Lã Nguyên (1999), Nhân vật Sếchpia trong bối cảnh văn hóa lịch

sử, Nxb Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

37. Hoàng Nhân, Nguyễn Ngọc Ban, Đỗ Đức Hiểu (1979), Lịch sử văn

học Phương Tây 2, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

127

38. Lƣơng Ninh chủ biên (1998), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo

Dục, Hà Nội.

39. Nguyễn Quân (2008), Ghi chú về nghệ thuật, Nxb Trẻ, Hà Nội.

40. Phạm Quỳnh (1996), Khảo về tiểu thuyết: những ý kiến, những quan

điểm của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam từ đầu thế kỉ XX - 1945, Nxb

Hội Nhà Văn, Hà Nội.

41. Trần Đình Sử (2012), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo Dục,

Hà Nội.

42. Trần Đình Sử (1993), Mấy vấn đề về thi pháp học hiện đại, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội.

43. Trần Đình Sử (1997), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

44. Trần Đình Sử (2001), Văn học-Chuyên đề lí luận văn học-Một số

vấn đề về thi pháp học, tập 2, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

45. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

46. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẩm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo

Dục, TP Hồ Chí Minh.

47. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

48. Lƣơng Duy Trung chủ biên (1990), Văn học phương Tây, Nxb Đại

học sƣ phạm Hà Nội, Hà Nội.

49. Tzvetan Todorov (1995), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học sƣ phạm

Hà Nội, Hà Nội.

50. Xavier Darcas (1996, Phan Quang Định dịch), Lịch sử văn học

pháp, Nxb Văn học, Hà Nội.

128

129