ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LƯU THÚY LAN

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

CỦA HOÀNG QUẢNG UYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

THÁI NGUYÊN - 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LƯU THÚY LAN

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

CỦA HOÀNG QUẢNG UYÊN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

THÁI NGUYÊN - 2014

Luận văn đã được chỉnh sửa theo sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa

học chấm luận văn, ngày 7 tháng 6 năm 2014 tại Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

XÁC NHẬN XÁC NHẬN

CỦA KHOA CHUYÊN MÔN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích

dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực

và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014

Tác giả

i

Lưu Thúy Lan

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám

hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái

Nguyên cùng các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ trong suốt quá trình

học tập tại trường.

Tác giả xin chân thành cảm ơn Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Thư

viện tỉnh Thái Nguyên, Thư viện tỉnh Cao Bằng đã giúp tôi tìm hiểu các thông tin cần

thiết bổ sung cho luận văn. Cảm ơn nhà văn Hoàng Quảng Uyên, tác giả hai cuốn tiểu

thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải Phóng đã cung cấp nhiều thông tin và tư liệu quý báu để

tôi hoàn thành cuốn luận văn này!

Đặc biệt, tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên

hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh. Thầy luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong

suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn!

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp

đã giúp đỡ, động viên tác giả.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014

Tác giả

ii

Lưu Thúy Lan

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan .............................................................................................................. i

Lời cảm ơn................................................................................................................. ii

Mục lục..................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1

2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5

3.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................5

3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................................................6

4. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................6

5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................6

6. Đóng góp mới của luận văn.....................................................................................7

7. Cấu trúc của đề tài...................................................................................................7

Chương 1. TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA HOÀNG QUẢNG UYÊN VÀ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI...............................8

1.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác văn học của Hoàng Quảng Uyên.............................8

1.1.1. Tiểu sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên...........................................................8

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn học của nhà văn Hoàng Quảng Uyên ..........................10

1.2. Sáng tác của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận văn xuôi các dân tộc thiểu số

Việt Nam ..................................................................................................................11

1.3. Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam hiện đại .....................................................................................................12

1.3.1. Vài nét về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử.........................................12

1.3.2. Hai khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết lịch sử.................................................14

1.4. Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận tiểu thuyết lịch sử

iii

viết về Bác Hồ. .........................................................................................................15

Chương 2. NGUYÊN MẪU HỒ CHÍ MINH VÀ HƯ CẤU NGHỆ THUẬT

TRONG HAI TIỂU THUYẾT: “MẶT TRỜI PÁC BÓ” VÀ “GIẢI PHÓNG”

CỦA NHÀ VĂN HOÀNG QUẢNG UYÊN ...........................................................18

2.1. Hoàn cảnh ra đời của 2 tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng” của

Hoàng Quảng Uyên...................................................................................................18

2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tiểu thuyết “Mặt trời Pác Bó”. .......................................18

2.1.2. Hoàn cảnh ra đời của tiểu thuyết “Giải phóng”................................................18

2.2. Nguyên mẫu Hồ Chí Minh và những “cột mốc” lịch sử được tái hiện trung

thực trong “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng” ..........................................................19

2.3. Hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng” .................21

2.3.1. Tái hiện bức tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội ..........................................22

2.3.2. Khắc họa chân dung các nhân vật lịch sử đã sống và hoạt động cùng Bác .............30

2.3.3. Tái hiện chân dung của nguyên mẫu Hồ Chí Minh ở phương diện ngôn ngữ,

hành động; phẩm chất vĩ nhân và đời thường. ...........................................................33

2.3.3.1. Tái hiện chân dung ngoại hình......................................................................33

2.3.3.2. Tái hiện qua phương diện ngôn ngữ và hành động........................................36

2.3.3.3. Xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành nhân vật tiểu thuyết với hai

phẩm chất “Vĩ nhân” và “Đời thường”......................................................................38

2.3.4. Hư cấu để tái hiện đời sống nội tâm của Bác ...................................................55

2.4. Điểm khác biệt trong hai tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng” khi

sử dụng hư cấu nghệ thuật để xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành nhân vật

văn học .....................................................................................................................61

2.4.1. Chất kí trong Mặt trời Pác Bó đậm hơn Giải phóng .........................................61

2.4.2. Chất tiểu thuyết trong Giải phóng đậm hơn Mặt trời Pác Bó............................64

Chương 3. KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT

TRONG HAI TIỂU THUYẾT “MẶT TRỜI PÁC BÓ ” VÀ “GIẢI PHÓNG”

CỦA NHÀ VĂN HOÀNG QUẢNG UYÊN ...........................................................68

3.1. Khái niệm “Kết cấu” và kết cấu tiểu thuyết ........................................................68

3.1.1. Khái niệm “Kết cấu” và một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học.............68

iv

3.1.2. Kết cấu tiểu thuyết...........................................................................................70

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng của

Hoàng Quảng Uyên...................................................................................................71

3.2.1 Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật........................................................................71

3.2.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên ......................72

3.3. Giọng điệu trần thuật trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng của

Hoàng Quảng Uyên...................................................................................................76

3.3.1. Khái niệm giọng điệu và giọng điệu trần thuật.................................................76

3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên ......................78

v

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................90

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận hợp thành quan trọng

của nền văn học Việt Nam. Từ nền văn học dân gian đến văn học viết thời kỳ hiện

đại, văn học các dân tộc thiểu số luôn có mặt và đã góp phần tạo nên diện mạo của

một nền văn học dân tộc Việt Nam vừa phong phú, đa dạng, vừa thống nhất và giàu

bản sắc. Bên cạnh đội ngũ các nhà văn, nhà thơ người Kinh còn có đội ngũ các tác giả

người dân tộc thiểu số ngày càng đông đảo và trưởng thành, góp phần làm nên diện

mạo văn học hiện đại nước nhà. Vì vậy, việc nghiên cứu thơ văn các dân tộc thiểu số

là hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt là nghiên cứu các tác phẩm do chính các

tác giả người dân tộc thiểu số sáng tác. Các thế hệ cầm bút ngày một đông đảo và

trưởng thành hơn như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Viết Toại, Hoàng Hạc,

Triều Ân, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Vi Thị Kim Bình … Họ là những cây bút tiêu

biểu, có nhiều đóng góp đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số nói riêng

và cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Đội ngũ những người sáng tác văn

xuôi các dân tộc thiểu số (từ 1975 đến nay) có ý thức tìm hiểu về cội nguồn, về bản

sắc dân tộc trong văn học, tiếp tục sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ để gìn giữ vốn ngôn ngữ

dân tộc như Nông Viết Toại, có nhà văn thời kỳ đầu sáng tác bằng tiếng dân tộc, thời

gian sau sáng tác bằng tiếng Việt như Vi Hồng, cũng có tác giả ngay từ đầu đã dùng

tiếng Việt làm ngôn ngữ sáng tác như Triều Ân, Cao Duy Sơn …Trong đó, phải kể

đến nhà văn miền núi người dân tộc Nùng - Hoàng Quảng Uyên, một cây bút trưởng

thành sau năm 1975.

1.2. Ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên luôn hướng về những người con của

dân tộc miền núi phía Bắc. Tuy những trang viết của ông rất giản dị, mộc mạc

nhưng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc mang đậm nét riêng về phong tập tập quán,

về những phẩm chất văn hóa gắn với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc

thiểu số phía Bắc. Đọc những tác phẩm của ông, ta nhận thấy bản sắc văn hóa

dân tộc luôn đậm nét trong toàn bộ tác phẩm. Trong hơn 20 năm cầm bút, miệt

mài với quá trình sáng tạo nghệ thuật, ông đã tạo được dấu ấn riêng trong lòng

1

độc giả với một cá tính sáng tạo độc đáo.

1.3. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên sáng tác rất nhiều thể loại văn học khác nhau

như: Kí, lý luận phê bình, tiểu thuyết ... Độc giả vẫn chú ý đến ông ở thể loại kí với

các tác phẩm tiêu biểu như: Bài kí Thầy giáo Đại học - tác phẩm đặc sắc được trao

giải B (không có giải A) của Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp 1988; Bút kí Trí

thức tỉnh lẻ, in trên Báo Văn nghệ, những năm đầu “đổi mới”... Song 2 năm trở lại

đây, từ khi tập tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó ra đời và được trao giải thưởng trong cuộc

vận động sáng tác và quảng bá các tác phẩm Văn học - Nghệ thuật và Báo chí về

cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", đánh dấu

bước tiến mới trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn thì ông lại được độc giả biết đến

với thể loại tiểu thuyết.

1.4. Có thể nói, trong toàn bộ khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, từ trước tới

nay, chúng ta mới thấy xuất hiện 2 nhà văn tiêu biểu viết tiểu thuyết lịch sử. Đó là

nhà văn Nguyễn Trường Thanh và nhà văn Hoàng Quảng Uyên. Nhà văn Nguyễn

Trường Thanh với những tập tiểu thuyết lịch sử tái hiện chân dung của các nhân vật

lịch sử gắn với vùng đất và con người xứ Lạng. Riêng Hoàng Quảng Uyên là người

dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết lịch sử về Bác

Hồ kính yêu. Đó là một cố gắng, một tình yêu đáng ghi nhận của nhà văn Hoàng

Quảng Uyên trong việc tái hiện nhân vật lịch sử là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bởi

vậy, việc nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên là một công việc cần

thiết, mang ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.

1.5. Hiện nay, văn học địa phương cũng đã đưa vào giảng dạy tại hai cấp

học là bậc Trung học cơ sở và bậc Tiểu học. Do đó, việc thực hiện đề tài này

cũng sẽ góp một phần tư liệu bổ ích cho sự nghiệp giáo dục tại tỉnh Cao Bằng -

quê hương của tác giả Hoàng Quảng Uyên. Bên cạnh đó, rất nhiều nhà khoa học

tại Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã và đang bắt tay vào xây dựng bộ

giáo trình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại để giảng dạy cho hệ Đại

học và Sau đại học. Việc nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên

sẽ góp thêm tư liệu quan trọng cho việc giảng dạy và học tập học phần này trong

trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên nói riêng và trong hệ thống các

2

trường Đại học Sư phạm nói chung.

2. Lịch sử vấn đề

Trong hơn 20 năm gắn bó và miệt mài lao động nghệ thuật, đến nay, các sáng

tác của nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã có những thành công nhất định và được giới

nghiên cứu, phê bình văn học cũng như dư luận và bạn đọc quan tâm. Hàng loạt các

bài viết, bài báo phỏng vấn ông được đăng tải trên các báo, tạp chí và các phương tiện

truyền thông của Trung ương và địa phương nói về con người, cuộc đời và những

sáng tác của nhà văn Hoàng Quảng Uyên ở thể loại kí và thể loại tiểu thuyết lịch sử.

2.1. Những bài viết về tác phẩm kí của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

Đầu tiên, phải kể đến nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến về Kí của

Hoàng Quảng Uyên trong tác phẩm: Văn học và miền núi, phê bình - tiểu luận (NXB Văn

hóa dân tộc (2002): “Kí của Hoảng Quảng Uyên không những viết về dân tộc và miền núi

mà còn viết về những đề tài khác. Cũng như H Linh Niê, Hoàng Quảng Uyên có tài phân

tích mổ xẻ cho mọi người thấy đến ngọn ngành, gốc rễ của mọi sự vật, hiện tượng, cái

được, cái mất, cái vui, cái buồn trong cuộc sống xã hội hiện nay. Văn của ông thể hiện rất

rõ nét tính cách của người dân tộc là thẳng thắn, bộc trực. Ông lên án, phê phán những

hiện tượng tiêu cực trong xã hội với những câu văn châm biếm, dí dỏm có phần nào chua

cay. Nên kí của ông thường gây xôn xao dư luận.” [27, tr.18]. Đó là những đánh giá, nhận

xét khách quan, công bằng, đầy đủ và chính xác của nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến về

những đặc trưng trong thể Kí của Hoàng Quảng Uyên.

2.2. Những bài viết về con người và cuộc đời của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

Viết về con người Hoàng Quảng Uyên có bài phỏng vấn của Phong Điệp đăng

tải trên website Phongdiep.net có nhan đề: Nhà văn Hoàng Quảng Uyên: Xuống núi

để ... đi học. Đó là cuộc trò chuyện giữa nhà văn Hoàng Quảng Uyên với Phong Điệp

về việc "đào tạo nhà văn" [41] và quá trình Hoàng Quảng Uyên đã từng là học viên

khoá ba của trường viết văn Nguyễn Du; Về việc ông theo học lớp lý luận phê bình

văn học khoá I (đuợc tổ chức trong tháng 7 và tháng 8 năm 2008) do Hội nhà văn tổ

chức khi ông đã ở độ tuổi sáu mươi. Ông rất tự hào khi nhắc đến việc “làm mới” kiến

thức cho mình. Trong bài phỏng vấn ông tự khẳng định: “Tôi học khóa 3 trường viết văn

Nguyễn Du năm 1988. Năm nay là năm 2008. Nghĩa là 20 năm trôi qua, kiến thức của

tôi đã cũ đi nhiều và tôi có nhu cầu được làm mới. Khóa học này, tôi vẫn được học các

3

thầy như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Khắc Phi … nhưng những

kiến thức các thầy dạy chúng tôi hôm nay đã được bổ sung hơn rất nhiều so với 20 năm

trước. Vậy tại sao tôi lại không học cho được?”[41]. Bài phỏng vấn giúp người đọc có

cái nhìn mới mẻ về nhà văn Hoàng Quảng Uyên – một con người luôn vượt lên trên mọi

hoàn cảnh để không ngừng học hỏi, tìm tòi, khám phá cái mới và làm phong phú thêm,

mở rộng thêm cũng như bồi đắp thêm nguồn tri thức mới cho bản thân.

Còn với Y Phương – người bạn chí cốt tâm giao của Hoàng Quảng Uyên lại có bài

viết: Tản mạn cùng Hoảng Quảng Uyên đăng tải trên trang nhất Báo Văn nghệ công an,

mục đời sống văn hóa số ra ngày 10/11/2009 với lời mở đầu: “Phải đến hơn một năm rồi

nhà văn Hoàng Quảng Uyên chẳng có việc gì liên quan mà xuống Hà Nội. Sáng nay bỗng

nghe ai nói loáng thoáng Uyên đang có mặt ở Hội nhà văn [42]. Y Phương đã cho người

đọc thấy một Hoàng Quảng Uyên “còn ham sống và ham viết lắm” [42].

2.3. Những bài viết về tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

Đặc biệt phải kể đến bài viết của Trần Hoàng Thiên Kim có tựa đề Nhà văn Hoàng

Quảng Uyên: viết văn cùng cực như đi săn được đăng tải trên mạng Internet ngày 28

tháng 2 năm 2011 từ hai nguồn cand.com.vn và nguoibanduong.net ngay khi ông vừa

xuất bản cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó (NXB Hội nhà văn 2010) - Giải thưởng

cuộc vận động sáng tác và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật và báo chí về

cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", nhân kỷ

niệm 100 năm ngày Bác Hồ rời Bến Nhà Rồng (còn được gọi là Cảng Sài Gòn) ra đi

tìm đường cứu nước và 70 năm Bác Hồ về nước (Pác Bó - Cao Bằng) lãnh đạo thắng

lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là cuộc trò chuyện giữa nhà văn Hoàng

Quảng Uyên và phóng viên Trần Hoàng Thiên Kim về cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác

Bó cũng như những tâm sự chân thật về nghề viết văn của Hoàng Quảng Uyên theo

năm tháng. Trong cuộc trò chuyện, Hoàng Quảng Uyên đã tự khẳng định "Tiểu

thuyết chỉ là niềm đam mê thứ ba của tôi. Nhờ những đam mê và thành công với thể

loại lý luận - phê bình và thể ký nên tôi không quá khó khăn khi viết tiểu thuyết".

Cuộc trò chuyện đã giúp cho độc giả có cái nhìn khách quan về cái dễ và khó của một

nhà văn khi quyết định dùng ngòi bút của mình để khắc họa một bậc vĩ nhân như Chủ

tịch Hồ Chí Minh thành nhân vật tiểu thuyết. Đồng thời, giúp người đọc nhìn thấy

năng lực của nhà văn Hoàng Quảng Uyên không chỉ có niềm đam mê nghệ thuật mà

còn có khả năng đi tìm “ẩn số” và “giải mã” tập trung trong phạm vi đề tài con người

4

và thơ văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cùng với đó, bài viết Lặn lội thu thập tài liệu về Bác Hồ của phóng viên Minh

Quân đăng tải trên website thethaovanhoa.vn, ngày 4/9/2008 viết về quá trình 3 lần

nhà văn Hoàng Quảng Uyên lặn lội sang nước bạn để thu thập tài liệu về Bác với

những dự định, ấp ủ viết cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó. Với những tàì liệu, tình

cảm thu nhận được, Hoàng Quảng Uyên đã viết trên nhiều bài báo (cả ở Việt Nam và

Trung Quốc). Ông cũng đã hoàn tất một kịch bản phim tài liệu nhiều tập đó là: Bác

Hồ ở Quảng Tây - những tháng ngày lịch sử, dự kiến sẽ đuợc Đài Truyền hình Việt

Nam phối hợp với Đài truyền hình Quảng Tây - Trung Quốc thực hiện [43].

Trên đây là một số bài viết của những người đi trước đã nghiên cứu về con

người và những sáng tác của nhà văn Hoàng Quảng Uyên. Tuy nhiên, việc đánh

giá về các tác phẩm của ông, nhất là với thể lọai tiểu thuyết còn ít. Do đó, đề tài

chúng tôi nghiên cứu: “Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên” là bước

tiếp nối các ý kiến nghiên cứu trên, để từ đó, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ

hơn về giá trị của thể loại tiểu thuyết về đề tài lịch sử trong dòng chảy của nền

Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Đồng thời, việc nghiên cứu tiểu thuyết lịch

sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên sẽ bổ sung nguồn tư liệu bổ ích cho công tác

dạy và học văn học địa phương cũng như cho việc giảng dạy học phần này trong

trường Đại học sư phạm – Đại học Thái Nguyên nói riêng và trong hệ thống nhà

trường trên khắp cả nước Việt Nam nói chung. Hơn nữa, thông qua việc nghiên

cứu đề tài này còn giúp chúng tôi hiểu và kính yêu hơn về Bác, đặc biệt là những

ngày tháng Bác sống và hoạt động ở Việt Bắc. Là một người con của núi rừng

Việt Bắc, tôi luôn khao khát được tìm hiểu và khám phá về mảnh đất quê hương

mình, khao khát tìm hiểu cội nguồn của nơi “chôn nhau cắt rốn”. Chính vì thế,

việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này đối với riêng tôi là một công việc yêu thích

và rất cần thiết.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề nguyên mẫu và hư cấu, kết cấu,

ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật trong 2 tập tiểu thuyết lịch sử Mặt trời

Pác Bó, Nxb Hội nhà văn Việt Nam, năm 2010 và Giải phóng, Nxb Hội nhà văn Việt

5

Nam, năm 2013 của nhà văn Hoàng Quảng Uyên viết về Bác Hồ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài đi sâu vào nghiên cứu “Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên”

qua 2 tác phẩm đó là: Mặt trời Pác Bó – tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn 2010 và Giải

phóng – tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn 2013 ở các phương diện:

- Nguyên mẫu và hư cấu nghệ thuật; Kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật

- Trong phạm vi cho phép, chúng tôi có so sánh vấn đề nghiên cứu trong tiểu

thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên với một số tiểu thuyết lịch sử viết về Bác Hồ

của một số nhà văn khác như Sơn Tùng với Búp sen xanh, Bông sen vàng và nhà văn

Hồ Phương với Cha và con ...

4. Mục đích nghiên cứu

Đề tài đi sâu làm rõ vấn đề nguyên mẫu Hồ Chí Minh và hư cấu nghệ thuật, kết

cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong hai cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó,

NXB Hội nhà văn 2010 và Giải phóng, NXB Hội nhà văn 2013. Trên cơ sở đó, khẳng

định cá tính sáng tạo, vai trò, vị trí cũng như những đóng góp quan trọng của Hoàng

Quảng Uyên trong thể loại tiểu thuyết viết về đề tài Bác Hồ kính yêu. Đồng thời, giúp

cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc về chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong

suốt quá trình Người hoạt động cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn Bác ở chiến

khu Việt Bắc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để việc khảo sát và nghiên cứu, phân tích đề tài đạt kết quả như mong muốn,

chúng tôi đã lựa chọn và sử dụng kết hợp những phương pháp sau:

- Phương pháp hệ thống.

- Phương pháp thống kê phân loại

- Phương pháp nghiên cứu tác gia văn học

- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo thể loại.

- Phương pháp so sánh.

Các phương pháp nghiên cứu trên luôn luôn bổ sung cho nhau như một chỉnh thể

thống nhất, tạo nên sự hài hòa nhất định. Trong đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến

phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống và phân tích tác phẩm văn học theo thể

loại. Bởi ba phương pháp này sẽ giúp cho chúng tôi làm rõ hơn nghệ thuật hư cấu nhân

6

vật lịch sử trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên.

6. Đóng góp mới của luận văn

Việc nghiên cứu thành công đề tài này sẽ giúp cho bản thân tác giả cũng như

người đọc hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng

Quảng Uyên, đồng thời, góp thêm một nguồn tư liệu quý giá về phẩm chất, tài năng,

trí tuệ của nguyên mẫu Hồ Chí Minh. Đề tài được nghiên cứu thành công sẽ là tiền đề

quan trọng để khẳng định thêm những đóng góp mới của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

trong việc xây dựng chân dung nhân vật lịch sử bằng hư cấu nghệ thuật.

7. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc thành

ba chương gồm:

Chương 1: Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên và một số vấn đề lý

thuyết liên quan đến đề tài.

Chương 2: Nguyên mẫu Hồ Chí Minh và hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu

thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng.

Chương 3: Kết cấu, ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật trong hai tiểu

7

thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng của nhà văn Hoàng Quảng Uyên.

Chương 1

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA HOÀNG QUẢNG UYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN

ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác văn học của Hoàng Quảng Uyên

1.1.1. Tiểu sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên (tên khai sinh là Hoàng Dương Quý), sinh ngày

27/9/1950 tại làng Pác Cam, xã Quốc Phong, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.

Ông là người dân tộc Nùng. Bút danh Hoàng Quảng Uyên được lấy từ họ Hoàng

ghép với tên huyện Quảng Uyên (nơi ông được sinh ra).

Hoàng Quảng Uyên đã từng theo học trường cấp 1 và cấp 2 tại trường huyện

Quảng Uyên. Vốn là một học sinh thông minh, học giỏi nên khi học hết cấp 2, ông thi

đỗ vào lớp chuyên Toán của tỉnh Cao Bằng. Thời gian sau đó (từ năm 1968 đến năm

1972), ông thi đỗ và vào học khoa Vật Lý trường Đại học sư phạm Việt Bắc (nay là

trường Đại học sư phạm – Đại học Thái Nguyên). Trong quá trình học tại trường Sư

phạm, tuy theo học khối khoa học tự nhiên nhưng ông lại có niềm say mê đặc biệt đối

với văn học. “Máu nghề nghiệp” sáng tác văn chương trong Hoàng Quảng Uyên được

khơi nguồn từ đó. Vì xuất phát từ việc học khoa học tự nhiên nên Hoàng Quảng Uyên

chịu ảnh hưởng sâu sắc của lối tư duy khoa học, chính xác. Ông đã vận dụng một

cách khéo léo những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên vào trong các sáng tác

của mình. Do đó, những bài phóng sự của ông đều đảm bảo độ chân thực đến tận

cùng của vấn đề mà không hề né tránh. Chính vì thế, những tác phẩm do ông sáng tác

có nhiều điểm khác biệt so với nhiều nhà văn khác cùng thời.

Sau khi tốt nghiệp ra trường, ông trở thành một nhà giáo có kiến thức chuyên

môn vững vàng, lối giảng dạy dí dỏm và đặc biệt rất yêu thương học sinh và tôn trọng

đồng nghiệp. Hơn 7 năm (từ năm 1973 đến năm 1980) gắn bó với sự nghiệp giáo dục

và với các em học sinh, người thầy mẫu mực Hoàng Quảng Uyên đã nhận được nhiều

tình cảm yêu mến từ phía đồng nghiệp và lớp lớp thế hệ học sinh. Ông đã từng dành

nhiều tâm huyết với nghề dạy học nhưng do hoàn cảnh xã hội, do niềm say mê khám

phá đời sống xã hội trong ông quá lớn nên ông quyết định tìm một hướng đi mới, một

8

ngã rẽ mới, mặc dù tình yêu với ngành giáo dục vẫn còn sâu đậm. Do đó, từ năm

1980 đến năm 1981, ông quyết định chuyển sang làm báo và công tác tại Đài phát

thanh tỉnh Cao Bằng. Tuy thời gian làm báo ngắn ngủi và đầy gian khổ nhưng đó lại

là một trong những kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong cuộc đời ông. Ông đã từng tâm sự với

tôi: “ Những năm tôi là phóng viên Đài phát thanh Cao Bằng là những năm tháng

gian khổ mà đẹp nhất trong nghề làm báo. Những năm buồn ít, vui nhiều!”.

Thời gian sau đó, ông tiếp tục theo đuổi tình yêu đối với văn học. Ông rong

ruổi qua từng đường làng, ngõ xóm để tìm hiểu tư liệu. Đi đến đâu ông cũng chăm

chỉ tìm tòi, ghi chép. Năm 1986, Hoàng Quảng Uyên thi đỗ và theo học trường Viết

văn Nguyễn Du (khóa 3). Trong quá trình học tại trường, ông đã được đào tạo bài

bản, chuyên nghiệp, chính quy về những kiến thức cơ bản, kĩ năng viết văn và tác

phong nghề nghiệp cần có trong quá trình sáng tác của một người viết văn. Nhờ thế,

sau thời gian học ở trường (1986 – 1989), Hoàng Quảng Uyên đã có nhiều tác phẩm

được đông đảo bạn đọc đón nhận.

Đến năm 1990, Hoàng Quảng Uyên nghỉ chế độ khi ông vừa tròn 39 tuổi.

Từ năm 1998 đến năm 2000, Hoàng Quảng Uyên công tác ở báo Văn nghệ

(phóng viên hợp đồng). Năm 2006, Hoàng Quảng Uyên là đặc phái viên của Hội

nhà văn Việt Nam sang Trung Quốc để tìm hiểu thời gian 2 năm (1942 – 1943)

Chủ tịch Hồ Chí Minh bị Tưởng Giới Thạch bắt giữ ở Quảng Tây – Trung Quốc,

bị đày ải trong các nhà tù và sáng tác tác phẩm thơ “Nhật kí trong tù”. Đến năm

2007, Hội nhà văn Việt Nam mở trại sáng tác tiểu thuyết, từ đó Hoàng Quảng

Uyên “gõ cửa” với thể loại tiểu thuyết. Tuy ông mới chuyển hướng sáng tác của

mình theo thể loại này song ngòi bút của ông luôn tinh tế, sắc sảo và đã có thành

công bước đầu. Trước hết phải kể đến cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó được

xuất bản năm 2010. Với cuốn tiểu thuyết này, Hoàng Quảng Uyên đã vinh dự

được nhận giải thưởng trong sáng tác và quảng bá các tác phẩm Văn học - Nghệ

thuật và Báo chí về cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh", 2010. Đến năm 2013, tiểu thuyết Giải phóng ra đời và được xem như

là tập 2 trong bộ tiểu thuyết dài tập mà nhà văn dự định viết về Bác Hồ. Hiện

nay, ông là thành viên của Hội nhà văn Việt Nam và đang tiếp tục cống hiến

9

không ngừng nghỉ cho sự nghiệp sáng tác văn chương.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn học của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên là cây bút trưởng thành sau năm 1975. Những tác

phẩm của ông luôn có sức hấp dẫn, lay động người đọc bởi sức sáng tạo dồi dào của

nhà văn luôn ẩn sâu trong từng câu chữ. Trong vòng hơn 20 năm cầm bút, ông đã có

một sự nghiệp sáng tác đáng tự hào và có giá trị thể hiện trên nhiều thể loại khác

nhau, từ thể loại kí cho đến tiểu thuyết, các bài phóng sự. Nhà văn Hoàng Quảng

Uyên đã gặt hái được nhiều thành công với 2 tập kí, 2 tập truyện, 3 tập lí luận phê

bình, 2 vở kịch, 2 tiểu thuyết và hàng loạt các bài báo phóng sự.

Có thể kể đến thành công của ông trên bước đường sáng tác nghệ thuật với các

tác phẩm tiêu biểu như: Hai tập truyện: Kim Đồng (1996), Đức Thanh - người anh

đội nhi đồng cứu quốc (2012); Hai tập kí: Buồn vui (1999), Vọng tiếng non ngàn

(2001); Ba tập lí luận phê bình văn học: Một mình trong cõi thơ (2000), Nhật kí trong tù

và số phận và lịch sử (2007), Đi tìm nhật kí trong tù (2009); Hai kịch bản phim truyện:

Mật đắng (2002) và nhiều kịch bản phim tài liệu; Một vở kịch: Nước mắt rừng Pác Bó

(2010) và hai tập tiểu thuyết lịch sử: Mặt trời Pác Bó (2010) và Giải phóng (2013).

Trong đó, có nhiều tác phẩm của ông đạt đuợc trao giải thưởng. Cụ thể:

- Buồn vui - tập kí (NXB Văn hoá dân tộc, 1999) được trao giải C Hội Văn học

nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, 1999.

- Thầy giáo Đại học - kí được trao giải B (Không có giải A) - Bộ Đại học,

Trung học chuyên nghiệp 1988.

- Một mình trong cõi thơ - tập tiểu luận - Chân dung văn học (NXB Văn hoá

dân tộc, 2000) được trao giải C Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt

Nam, 2000.

- Vọng tiếng non ngàn - tập kí (NXB Văn hóa dân tộc 2001) được trao giải C

Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, 2001.

Nổi bật trong số đó là 2 tập tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng.

Tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó, được trao giải thưởng trong sáng tác và quảng bá

các tác phẩm Văn học - Nghệ thuật và Báo chí về cuộc vận động "Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", 2010. Ngay khi mới ra mắt bạn đọc, tác

phẩm đã tạo được chỗ đứng trong lòng công chúng và được các nhà văn, nhà thơ

10

cùng các nhà lí luận phê bình quan tâm. Đây là cuốn tiểu thuyết viết về những năm

tháng Bác Hồ ở Pác Bó - Cao Bằng (1941 - 1945) lãnh đạo cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc với biết bao gian truân, vất vả.

Nối tiếp cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó, năm 2013, nhà văn Hoàng Quảng

Uyên cho ra đời cuốn Giải phóng với gần Giải phóng với 25 chương và hơn 600

trang, được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam trong sáng tác và quảng bá các

tác phẩm Văn học - Nghệ thuật và Báo chí về cuộc vận động "Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", 2013. Đây là tập 2 trong bộ tiểu thuyết 5 tập

trong dự định sáng tác của nhà văn Hoàng Quảng Uyên, mà tập 1 là tiểu thuyết Mặt

trời Pác Bó. Nội dung tập Giải phóng tái hiện quá trình hoạt động cách mạng của

Bác từ năm 1945 đến năm 1954.

Với những giải thưởng đã đạt được cùng sự yêu mến của đông đảo bạn đọc dành

cho cây bút miền núi này, nhà văn Hoàng Quảng Uyên từng bước khẳng định vị trí

vững chắc của mình trong nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam.

1.2. Sáng tác của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận văn xuôi các dân tộc thiểu

số Việt Nam

Nhìn chung, văn xuôi các dân tộc thiểu số ra đời muộn, phát triển chậm và

không đồng đều. Trong sự hình thành văn xuôi các dân tộc thiểu số, văn học của

người Việt (dân tộc Kinh) có ảnh hưởng rất lớn. Nhiều nhà văn dân tộc thiểu số được

tiếp xúc với văn học Việt từ rất sớm. Những tiểu thuyết và truyện ngắn của Khái

Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan … trước cách mạng tháng Tám năm

1945, nhất là những tác phẩm viết về miền núi của những nhà văn người Kinh sau này

như: Tô Hoài, Nam Cao … đối với sự phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu

số Việt Nam, do Đảng đề ra, đã tạo điều kiện để văn học dân tộc thiểu số nói chung, văn

xuôi dân tộc thiểu số nói riêng hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặt khác,

việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng

không nhỏ đến tư duy nghệ thuật của một số nhà văn dân tộc. Trong tình hình ấy, sự phát

triển nhanh hay chậm của văn xuôi các dân tộc thiểu số phụ thuộc rất lớn vào tài năng, sự

nỗ lực lao động nghệ thuật của người sáng tạo ra nó.

Trong văn xuôi các dân tộc thiểu số, đề tài về thiên nhiên đất nước, phong tục

tập quán và con người miền núi được các nhà văn phản ánh một cách chân thực, sinh

11

động. Tất cả những gì gắn bó với đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào

dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đều được thể hiện trong mảng sáng tác này. Tuy

nhiên, cũng phải lưu ý rằng: Không phải bất cứ tác phẩm nào viết về cuộc sống và con

người miền núi đều trở thành một tác phẩm đậm bản sắc văn hóa dân tộc vùng cao.

Từ 1945 đến 1975, nhiều nhà văn dân tộc thiểu số đã tìm được cho mình một

phong cách sáng tác riêng với nhiều hình thức thể hiện mới mẻ, độc đáo nhằm đem

lại cho độc giả có cái nhìn chân thực, toàn diện, đầy đủ hơn về bức tranh hiện thực

cuộc sống và con người đồng bào dân tộc thiểu số như: Nông Minh Châu, Triều Ân,

Vi Thị Kim Bình, Nông Viết Toại ... Trong quá trình viết văn, các nhà văn dân tộc

thiểu số thường băn khoăn, trăn trở về việc sử dụng thứ ngôn ngữ để sáng tác. Sau

năm 1975, có nhiều nhà văn vừa sáng tác bằng tiếng dân tộc vừa sáng tác bằng tiếng

Việt, nhưng cũng có nhà văn chỉ sáng tác bằng tiếng Việt. Ví dụ như: Y Phương, Cao

Duy Sơn, Dương Thuấn … Nhìn từ góc độ của từng dân tộc, có thể kể đến một số

nhà văn thời kì này như: Ma Trường Nguyên, Hà Đức Toàn, Vi Hồng (dân tộc Tày);

Mã A Lềnh (dân tộc Hmông); Vi Thị Kim Bình, Mã Thế Vinh (dân tộc Nùng) ...

Trong đó, phải kể đến nhà văn Hoàng Quảng Uyên (dân tộc Nùng). Ông viết truyện,

kí, tiểu thuyết … và đã có những đóng góp nhất định vào thành tựu chung của Văn

học dân tộc thiểu số Việt Nam.

1.3. Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam hiện đại

1.3.1. Vài nét về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử

Theo Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên: Tiểu thuyết là hình thức tự sự

cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi

trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời,

những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai

cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.

Theo nguồn vi.wikipedia.org: “Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư

cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng

lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật,

tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định”. Và

trong một cách hiểu khác, nhận định của Belinski: "tiểu thuyết là sử thi của đời

12

tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung

vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự

trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến

mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách” [48].

Đặc trưng lớn nhất của tiểu thuyết chính là khả năng phản ánh toàn vẹn và

sinh động đời sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất với hiện thực. Là một thể loại

lớn tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều

rộng của không gian cũng như chiều dài của thời gian, cho phép nhà văn mở rộng tối

đa tầm vóc của hiện thực trong tác phẩm.

“Thể loại văn học lịch sử còn bao gồm các tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng

tác về các đề tài và nhân vật lịch sử như tiểu thuyết lịch sử ... Các tác phẩm viết về đề

tài lịch sử có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu. Tuy nhiên, nhân vật

chính và sự kiện chính thì được sáng trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng

lời ăn tiếng nói, trang phục, phong tục tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ... Tác

phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thu những

bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, song

không vì thế mà hiện đại hóa người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử của thể loại này.”

[32, tr.302].

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Sử trong bài viết Suy nghĩ về lịch sử và tiểu

thuyết lịch sử (nguồn trandinhsu.wordpress.com): “Trong những năm gần đây, tiểu

thuyết lịch sử đã thực sự trở thành mối quan tâm của nhiều người, nhất là sau những

thành công của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị

Hảo, Nam Dao … những sáng tác đó khơi gợi cho chúng ta những suy nghĩ mới về

tiểu thuyết lịch sử và số phận của nó”. Ông còn nhận định: “Cái chính của tiểu thuyết

lịch sử là sáng tạo nhân vật và đời sống của một thời kì lịch sử cụ thể không lặp lại

đó. Sự kiện lịch sử là dấu ấn của một thời, không thể thiếu đối với tiểu thuyết lịch sử.

Song chúng ta quá quen với một quan niệm về sự thật lịch sử như là một cái gì khách

quan duy nhất, bất biến, chỉ thế này, không thể thế khác. Đó là vì chúng ta quá tin vào

sử và là một nhầm lẫn. Sự thật lịch sử trước hết là một sự thật” [41].

Nguồn tonvinhvanhoadoc.vn có bài viết: Tiểu thuyết lịch sử không phải cuộc

chơi của người trẻ của Thu An: “Tiểu thuyết là cỗ máy cái của văn học. Việc thiếu

13

vắng thành tựu của thể loại này là một chỗ trống đáng buồn cho bất cứ nền văn học

nào. Ở nước ta, trong mười năm qua, tiểu thuyết nở rộ và đã có những thành tựu nhất

định. Bên trong cái bộn bề và đa dạng của bức tranh tiểu thuyết thập kỷ qua, có thể

nhận thấy tiểu thuyết lịch sử là một trong những dòng chủ lưu và có nhiều đóng góp

về thành tựu cho thể loại văn học này” [47].

Nguồn vietvan.com có bài viết Tiểu thuyết lịch sử đương đại với quan niệm

nghệ thuật về con người của Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định: “Tiểu thuyết lịch sử

là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết

khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến

một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm "đinh treo" vừa tận

dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy

văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ” [49].

Nguyễn Xuân Khánh đã nhận định: “Tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại

lịch sử, minh họa lại lịch sử mà là phản ánh những vấn đề của con người hiện tại vì

chúng ta đang viết cho những người đang sống đọc, vì vậy phải đề cập đến những

điều mà họ quan tâm ... Trong tiểu thuyết tất cả là giả định để độc giả rộng quyền hư

cấu tưởng tượng, độc giả là người tham dự vào tiểu thuyết, tạo ra những góc nhìn còn

ẩn khuất trong lịch sử”.v.v.

Có rất nhiều quan niệm về tiểu thuyết lịch sử, nhưng cho dù quan niệm như

thế nào thì lịch sử vẫn luôn là mảnh đất hấp dẫn đối với nhiều nhà văn.

1.3.2. Hai khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết lịch sử

Các nhà nghiên cứu về loại hình tiểu thuyết lịch sử đã phân chia thành hai

khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết lịch sử như sau:

1.3.3.1. Khuynh hướng thứ nhất: Đây là khuynh hướng sáng tác tôn trọng tối

đa, chính xác tính khách quan của tiểu thuyết lịch sử và hư cấu có hạn chế trong phạm vi

cho phép để tái hiện sự thật lịch sử. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có: Hà Ân với “Sát

thát”, “Bão táp triều Trần” (Hoàng Quốc Hải) …

1.3.3.2. Khuynh hướng thứ hai: Đây là khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết lịch

sử mà sự thật lịch sử chỉ là cái cớ để từ đó qua những hư cấu tự do, nhà văn gửi gắm

dụng ý nghệ thuật của mình. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có các tác phẩm

như:“Giàn thiêu”của Võ Thị Hảo, “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh … Trong

14

số những nhà văn viết tiểu thuyết kể trên thì nhà văn Hoàng Quảng Uyên là một cây

bút mới với hai 2 cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng. Những sáng tác về

tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên luôn bám sát khuynh hướng thứ

nhất, đó là tôn trọng tối đa sự kiện lịch sử và hư cấu sự kiện, nhân vật trong phạm vi

cho phép. Nhân vật, sự kiện trong sáng tác của ông còn rất mới mẻ và xuất hiện trong

một quá khứ gần, còn nóng hổi tính thời sự, đây cũng là một khó khăn mà nhà văn

phải vượt qua. Đọc tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên viết về Bác Hồ cho ta thấy rõ

điều đó. Ông viết theo trình tự niên biểu của hệ thống sự kiện có trong lịch sử, dù hư

cấu có hạn chế nhưng vẫn theo nguyên tắc tôn trọng tối đa sự thật lịch sử.

1.4. Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên trong bộ phận tiểu thuyết lịch sử

viết về Bác Hồ.

Tuy không nhiều nhưng đã có một số nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử và thành

công với đề tài Bác Hồ. Có thể kể đến nhà văn Sơn Tùng với tiểu thuyết Búp sen

xanh, Bông sen vàng và nhà văn Hồ Phương với Cha và con ... Đã có không ít cuốn

sách viết về Bác và những người thân trong gia đình Bác, nhưng có lẽ tiểu thuyết Cha

và con của nhà văn Hồ Phương là một cuốn sách lần đầu tiên được viết ở thể loại tiểu

thuyết, trong đó đề cập sâu tới vai trò ảnh hưởng của người cha đến việc hình thành

tư tưởng yêu nước ở Bác cũng như tình cảm sâu đậm giữa hai cha con. Với hơn 300

trang sách, Cha và con đã khắc họa thành công chân dung Bác Hồ từ khi còn là cậu

bé 10 tuổi đến khi quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Không gian mở rộng từ làng

Sen, làng Chùa (Nam Đàn, Nghệ An), kinh đô Huế, Bình Khê, Phan Thiết - nơi cụ thân

sinh của Bác dạy học đến Sài Gòn - nơi chàng trai Nguyễn Tất Thành nhận thức được

rằng "muốn đánh Pháp phải hiểu được Pháp" nên đã quyết định lên đường xuất dương.

Viết về một thời kỳ lịch sử còn đậm đặc chất phong kiến, nhưng nhà văn Hồ Phương

chọn cách thể hiện nhanh, khá hiện đại, mang màu sắc điện ảnh.

Còn với nhà văn Sơn Tùng, tiểu thuyết Búp sen xanh ra đời đã để lại nhiều dấu

ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Búp sen xanh là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về lãnh

tụ kính yêu của dân tộc, đó là Bác Hồ. Xây dựng nên hình tượng Hồ Chí Minh từ khi

cất tiếng khóc chào đời tại Làng Chùa quê ngoại tới khi rời Bến Nhà Rồng ra đi tìm

đường cứu nước, tác phẩm được tác giả dày công sưu tầm tư liệu có liên quan và

chấp bút trong thời gian dài, bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành năm 1980. Nét chủ

15

đạo trong tâm linh của nhà văn Sơn Tùng chính là lòng kính yêu vô hạn của nhà văn

đối với Bác. Nhờ lòng kính yêu nằm trong sâu thẳm tâm linh đó mà bằng trên 300

trang viết, nhà văn đã dựng lại chân thực một khoảng đời từ thuở ấu thơ đến khi

Người lên tàu ra đi tìm đường cứu nước. Là nhà văn hiểu sâu sắc về tiểu sử Bác Hồ,

lại là người đưa lên những trang văn của mình hình tượng Bác Hồ bằng tất cả tâm

huyết, nên tiểu thuyết Búp sen xanh nói riêng và các tác phẩm viết về Bác nói chung

của nhà văn Sơn Tùng có sức hấp dẫn đặc biệt. Đọc “Búp sen xanh” người đọc hiểu

rõ hơn về cuộc đời của Bác và thêm kính yêu, tự hào về Bác.

Bông sen vàng ra đời tiếp theo Búp sen xanh càng khiến ta bồi hồi và tự hỏi:

trong cả cuộc đời lớn lao của Bác trải khắp năm châu bốn biển qua ngót một thế kỷ

còn bao điều ẩn khuất, phải chăng thời niên thiếu của Người cũng là một giai đoạn

quan trọng mà văn học đang cần sớm phát hiện. Bông sen vàng đã khẳng định sâu sắc

thêm một qui luật từng hé mở trong Búp sen xanh, đó là: Nhân cách hình thành từ

tuổi thơ của học sinh Nguyễn Sinh Côn lại chính là "cái gốc", “cái khởi thủy”, cốt

cách nhân bản trong cốt cách thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Với những trang viết đầy xúc động, nhà văn Sơn Tùng đã lay động lòng người

bằng những tình cảm kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Nhưng đối với nhà văn Hoàng Quảng Uyên thì ông lại có cái nhìn riêng và cách suy

nghĩ khác. Ông đã từng tâm sự: “Tôi đã rất “liều” khi đưa một bậc vĩ nhân như Chủ

tịch Hồ Chí Minh thành nhân vật tiểu thuyết trong khi rất nhiều người ngại viết. Ngại

nữa là những con người và giai đoạn lịch sử nói đến trong tiểu thuyết còn quá gần, nó

như một vòng kim cô trói buộc sự hư cấu, mà hư cấu và tưởng tượng là thủ pháp,

"thao tác" quan trọng của thể loại tiểu thuyết …” [30].

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên là người “viết Sử bằng Văn”. Bởi trong quan

niệm của ông: “Ngôn tri bất văn, truyền tri bất viễn”. Nghĩa là: lời nói không có văn thì

không truyền đi xa được. Nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên

còn rất gần với hiện tại và tất cả đều rất trung thành với lịch sử. Chính vì vậy, ông từng

tâm sự rằng: “Ông thích được mọi người gọi ông là Hoàng Quảng Uyên – người kể

chuyện về Bác Hồ và Pác Bó”.

Một trong những nguyên cơ quan trọng nhất để Hoàng Quảng Uyên chuyên

tâm viết tiểu thuyết lịch sử về Bác chính là niềm say mê đi tìm lý tưởng cộng sản, của

16

cuộc cách mạng tại quê hương ông. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên kể lại: năm 2003,

ông tình cờ đọc một bài báo của Hồng Khanh đăng trên báo Nhân dân có tựa đề:

“Niềm vui của Bác Hồ khi nhận lại tập Nhật kí trong tù”, Hoàng Quảng Uyên đã

phát hiện ra chi tiết: tập Nhật kí trong tù do Bác để quên ở nhà một người dân Cao

Bằng. Đến năm 1955, người dân đó đã gửi về văn phòng Chính phủ trả lại cho Bác.

Từ đó, Hoàng Quảng Uyên biết được tập Nhật kí trong tù của Bác có liên quan đến

Cao Bằng – quê hương thân yêu của ông nên luôn trăn trở và ấp ủ viết về quá trình

hoạt động cách mạng của Bác tại căn cứ địa cách mạng Cao Bằng.

Trong các sáng tác về Bác Hồ, bao giờ Hoàng Quảng Uyên cũng có ý thức

khắc họa hình tượng Bác Hồ như một con người đời thường chứ không phải đề cao

Người là một vị Thánh, chỉ được mọi người ngưỡng mộ mà không gần gũi. Cho nên,

khi đọc các tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên viết về Bác Hồ, người đọc mới nhận

thấy Bác trở nên vĩ đại thực sự trong sự giản dị đời thường ấy và nhà văn đã không hề

làm giảm bớt vinh quang của Bác. Đọc tiểu thuyết của ông, ta như thấy cả một chặng

đường lịch sử chân thực và nhân vật luôn là người thật, việc thật được hư cấu trong

17

phạm vi và mức độ nhất định.

Chương 2

NGUYÊN MẪU HỒ CHÍ MINH VÀ HƯ CẤU NGHỆ THUẬT

TRONG HAI TIỂU THUYẾT: “MẶT TRỜI PÁC BÓ” VÀ “GIẢI PHÓNG” CỦA

NHÀ VĂN HOÀNG QUẢNG UYÊN

2.1. Hoàn cảnh ra đời của 2 tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng” của

Hoàng Quảng Uyên

2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của tiểu thuyết “Mặt trời Pác Bó”.

Hoàng Quảng Uyên là người Cao Bằng nên ông luôn muốn khám phá, tìm

hiểu về cội nguồn dân tộc, quê hương. Ông rất am hiểu về phong tục, tập quán của

dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng và thông thuộc địa hình Pác Bó, mà Pác Bó lại là

nơi Bác Hồ - một nhân vật lịch sử đã từng ở và hoạt động cách mạng trong vòng 5

năm. Chính điều đó đã khơi nguồn cảm hứng cho Hoàng Quảng Uyên viết cuốn tiểu

thuyết Mặt trời Pác Bó. Tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó được thai nghén từ năm 2008,

đến năm 2010, cuốn tiểu thuyết đã hoàn thành và được bạn đọc đón nhận nhiệt tình.

Có thể nói: giai đoạn lịch sử mà Bác Hồ ở Pác Bó giống như một khu rừng rậm rạp ít

người khám phá và Hoàng Quảng Uyên một mình đứng giữa khu rừng ấy, luôn trăn

trở để tìm được một con đường riêng nhằm khắc họa hình tượng Bác Hồ.

2.1.2. Hoàn cảnh ra đời của tiểu thuyết “Giải phóng”

Tiểu thuyết “Giải phóng” ban đầu có tên là “Ba ngàn ngày chiến thắng”, gồm

25 chương như một bức tranh hoành tráng về cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện,

trường kỳ… của một dân tộc với ý chí “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng

phải giành cho được độc lập”. Để lấy cảm hứng sáng tác bộ tiểu thuyết quy mô này,

nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tự mình tổ chức những chuyến đi thực tế sang đất

Quảng Tây (Trung Quốc) nhiều lần, hay tìm về quê hương của Bác ở Nam Đàn, Nghệ

An … Những trang viết cuối cùng của tiểu thuyết được hoàn thành ở Trại sáng tác

tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Tam Đảo, tháng 4 năm 2013.

Có thể nói: Giải phóng là phần 2 của Mặt trời Pác Bó. Vẫn xuất phát từ nguyên

mẫu Hồ Chí Minh, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã viết cuốn tiểu thuyết này trong vòng

2 năm (từ năm 2011 đến năm 2012). Khoảng giữa tháng 5 năm 2013, tác phẩm ra mắt

bạn đọc và đã tạo ra luồng dư luận mới về nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi viết về chặng

18

đường hoạt động cách mạng tiếp theo của Bác, từ sau năm 1945 đến năm 1954.

2.2. Nguyên mẫu Hồ Chí Minh và những “cột mốc” lịch sử được tái hiện trung

thực trong “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng”

Chính bản thân Hoàng Quảng Uyên cũng chưa từng được gặp Bác mà chỉ biết và

tìm hiểu về Bác qua các tài liệu (đặc biệt là các tập hồi kí viết về Bác) thấy các nhà văn,

các nhà tư tưởng viết về Bác – một người suốt đời lo cho dân, cho nước, hy sinh cho dân

tộc … Một số tác phẩm viết về Bác có xu hướng thiên về khắc họa con người phi thường

trong Bác mà chưa quan tâm đứng mức đến phần con người bình thường. Do đó, nguyên

mẫu Hồ Chí Minh trong tâm trí Hoàng Quảng Uyên luôn luôn được đề cao, tôn trọng với

sự hài hòa, gắn kết phẩm chất con người phi thường với con người bình thường trong Bác.

Mỗi chương trong hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng đều có sự kiện lịch sử

được tái hiện trung thực. Qua khảo sát của chúng tôi, hầu như chương nào trong hai tác

phẩm cũng có sự kiện lịch sử tiêu biểu được nhà văn đã tái hiện trung thực.

Trong tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó, Hoàng Quảng Uyên đã xây dựng nhân vật Hồ

Chí Minh gắn với các sự kiện lịch sử quan trọng diễn ra tại tỉnh Cao Bằng. Từ lúc Bác Hồ

trở về Cao Bằng, chọn Pác Bó làm căn cứ địa cách mạng và vạch ra phương hướng, đường

lối, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc trên mảnh đất Cao Bằng.

Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, tập 1, giai đoạn 1930 – 1945 có ghi:

“Ngày 28 - 1 - 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất

Pác Bó, nơi có địa thế hiểm trở, núi non hùng vĩ, có quần chúng nhân dân đã được giác

ngộ, kiên cường đấu tranh, trung thành với Đảng, với cách mạng, có niềm tin vững chắc

vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của cách mạng ...” [2, tr. 76-77].

Dựa vào chi tiết này, trong Mặt trời Pác Bó, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tái

hiện chi tiết miêu tả lần đầu khi Bác vừa đặt chân lên mảnh đất quê hương, đứng trước cột

mốc 108 - cột mốc phân định biên giới Việt – Trung: “ … Một doàn người vượt Pò Vẩn,

chạm chân lên đất Việt, tại cột mốc 108. Mốc 108 là một phiến đá được đục, đẽo thành

hình khối, cao gần một mét, rộng nửa mét, dày chừng 30 phân, mặt trước có khắc chữ

Trung Quốc và chữ Pháp. Mốc được dựng từ một hiệp ước triều đình Mãn Thanh ký với

đế quốc Pháp, trải mưa, trải gió cột mốc đã ngả màu xám, chữ mờ đi.” [37, tr.12].

Đây là chi tiết được nhà văn tái hiện một cách trung thực sự kiện ngày đầu

tiên (28 - 1 – 1941), Bác Hồ đặt trên lên mảnh đất Cao Bằng, đi qua cột mốc 108 và

19

dừng chân tại trên đỉnh núi cao nhìn xuống bao quát khung cảnh thiên nhiên rộng lớn,

hùng vĩ. Địa thế và lòng dân Pác Bó rất xứng đáng được lãnh tụ đặt cơ quan, chỉ đạo

phong trào cách mạng, lấy hang Cốc Bó làm trụ sở. Từ đó, Pác Bó với ngọn núi “Các

Mác” với dòng suối “Lênin”, tại nơi Người làm việc và do Người đặt tên thể hiện tư

tưởng, mục tiêu, đường lối cách mạng, niềm tin tất thắng được vinh dự đi vào trang

sử vẻ vang hiện đại của dân tộc ta, gắn bó với sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí

Minh kính yêu.

Cũng trong cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, tập 1, giai đoạn 1930 – 1945

ghi rõ: “Tại Pác Bó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc liên tiếp mở nhiều lớp huấn luyện về tổ

chức Mặt trận Việt Minh, về chương trình Điều lệ Việt Minh cho các cán bộ người Cao

Bằng, đồng thời Người bắt tay vào chương trình thí điểm Việt Minh và tổ chức các đoàn

thể cứu quốc tại các châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình.” [2, tr.77].

Với sự kiện lịch sử này, Hoàng Quảng Uyên cũng tái hiện một cách trung

thực bằng một số chi tiết tiêu biểu trong Mặt trời Pác Bó. Đó là chi tiết các đại biểu

Bắc – Trung – Nam dự Hội nghị tại Khuổi Nặm. Dưới sự chỉ trì của đồng chí đại biểu

Quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc, các đại biểu ngồi quây quần, chăm chú nghe

người chủ trì vạch ra con đường định hướng cách mạng đó là “lập một Mặt trận dân

tộc thống nhất trong cả nước” [1, Tr.162] và sự kiện Bác mở nhiều lớp huấn luyện về

tổ chức Mặt trận Việt Minh, chương trình Điều lệ Việt Minh cho các cán bộ người

Cao Bằng: “Bác đã soạn 10 điều kỷ luật đội ... thảo những nguyên tắc xây dựng và

hoạt động của Hội” [1; Tr.245]. Hay “Bài tập sự đầu tiên của đội du kích Pác Bó,

những bài tập luyện luôn vang lên những tiếng hô “Nghiêm”, “Nghỉ”, “Bên phải

quay”, “Bên trái quay” ... những động tác bồng súng, chào, ném lựu đạn, tập bắn súng

các đội viên tập càng thuận thục nhờ sự huấn luyện bài bản của “giáo thụ” Lê Thiết

Hùng, Hoàng Sâm ... ” [37, tr. 248] ...

Bên cạnh những sự kiện được tái hiện trong Mặt trời Pác Bó, nhiều sự kiện

trong Giải phóng cũng được nhà văn Hoàng Quảng Uyên tái hiện một cách trung

thực với nhiều chi tiết nổi bật.

Trong hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ghi: “Đêm nằm trên Lán Nà

Lừa với Bác, “Bác trăng trối”: Dù có phải hy sinh đến đâu, dù có phải đốt cháy cả

dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Dựa vào chi tiết này, nhà văn đã

20

tái hiện lại một cách trung thực trong chương Mệnh người – vận nước. Đó là lúc Bác

ốm, Bác đã gọi Võ Nguyên Giáp đến dặn dò và nhắc nhở “Thời hồ, thời hồ, bất tái lai

– Thời gian và cơ hội không trở lại lần thứ hai … Dù có phải hy sinh đến đâu, dù có

phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” [38, tr.84]

Hay Hồi kí của Nguyễn Đình Thi trong cuốn Bác Hồ với văn nghệ sĩ được

nhà văn Hoàng Quảng Uyên lựa chọn để viết chương 5: Quốc Dân đại hội. Từng chi

tiết, sự kiện ghi chép trong Hồi kí đều được Hoàng Quảng Uyên tái hiện lại. Đó là chi

tiết Nguyễn Đình Thi ngồi trong phòng viết bản tham luận về một nền văn hóa mới

để lên chiến khu dự một hội nghị đặc biệt mà anh trở thành đại biểu chính thức của

giới văn hóa [38, tr.98]. Niềm vui của Nguyễn Đình Thi cũng như giới văn nghệ sĩ

khác như: Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu như hòa làm một khi cùng đến tham dự

hội nghị. Chi tiết Võ Nguyên Giáp giơ cả hai tay hướng về Nguyễn Đình Thi được tái

hiện rõ nét: “Chào nhạc sĩ, chào Nguyễn Đình Thi, tôi đã nghe bài hát Diệt phát xít

bừng sôi lửa chiến đấu của anh: “Mau mau mau vai kề vai không phân biệt già, trẻ,

trai hay gái. Vác súng gươm ta đi lên, ta tiến lên ta diệt quân thù…””[38, tr.102] …

Chỉ với vài chi tiết tiêu biểu, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện một

cách trung thực các nhân vật và sự kiện có trong lịch sử để đưa vào trong sáng tác của

mình. Các sự kiện lịch sử xuất hiện lần lượt theo theo thời gian tuyến tính, với trình

tự biên niên. Như vậy, có thể khẳng định: Hoàng Quảng Uyên sáng tác tiểu thuyết

lịch sử dựa trên khuynh hướng thứ nhất. Nghĩa là ông tôn trọng tối đa tính xác thực

của lịch sử và hư cấu có hạn chế trong phạm vi cho phép để tái hiện sự thật lịch sử.

2.3. Hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng”

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hư cấu là vận dụng trí tưởng tượng để sáng

tạo nên những nhân vật, phương tiện, những tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống và

thực hiện những mục đích nghệ thuật nhất định. Qua hoạt động hư cấu, nghệ sĩ nhào

nặn, tổ chức chất liệu được rút ra từ cuộc sống để tạo ra những tính cách, những số

phận, những hiện tượng mới, những sinh mệnh mới có ý nghĩa điển hình, vừa biểu

hiện tập trung chân lý cuộc sống, vừa biểu hiện cá tính sáng tạo, phong cách độc đáo

và ý tưởng thẩm mĩ của mình. Vì vậy, hư cấu là một trong những hoạt động cơ bản

của tư duy nghệ thuật, là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định của quá trình

21

sáng tạo nghệ thuật”. [9, tr.153]

Đối với nhà văn, quan sát, nghiên cứu và hiểu biết vẫn chưa đủ, còn cần

phải “bịa đặt”, sáng tạo ra nữa. Cho nên, không hư cấu thì không thể và cũng

không tồn tại được tính nghệ thuật. Trong tác phẩm cụ thể, các nghệ sĩ có cá tính

sáng tạo riêng, với những thể loại nghệ thuật và phương pháp sáng tác khác nhau.

Quá trình hư cấu diễn ra với những cách thức và mức độ khác nhau. Hư cấu bao

giờ cũng là một hoạt động cơ bản tất yếu của sáng tạo nghệ thuật

Theo tác giả Hoàng Phê trong Từ điển Tiếng Việt: Hư cấu là “tạo ra bằng tưởng

tượng” [21,tr.586]. Tuy nhiên, xét trên phương diện nghệ thuật thì nhà văn Hoàng Quảng

Uyên lại sử dụng hư cấu vào sáng tác tiểu thuyết lịch sử, viết về Bác Hồ kính yêu nhưng

ở phạm vi nhỏ hẹp hơn. Đó là việc nhà văn đã sắp sếp các sự kiện có thật trong lịch sử

theo trình tự thời gian thành một chỉnh thể thống nhất trong hai tác phẩm Mặt trời Pác

Bó và Giải phóng, đồng thời xây dựng nhân vật Hồ Chí Minh dựa trên nguyên mẫu Hồ

Chí Minh trong lịch sử. Bởi theo quan điểm của Hoàng Quảng Uyên, nếu một nhà văn

“sao chép lại, kể lại” một cách rành rọt, chi tiết đúng với những gì đã diễn ra trong lịch

sử thì chẳng khác nào ta “sao chép lại, chụp lại” nguyên si “bản gốc” và đương nhiên nó

sẽ không có giá trị, không gây được sự chú ý của độc giả.

2.3.1. Tái hiện bức tranh thiên nhiên và bức tranh xã hội

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên là lớp người trưởng thành sau năm 1975 nên trước

những đổi thay của quê hương, đất nước, của thời đại, ông đã tìm thấy nguồn cảm hứng

mới về cái tươi đẹp về cuộc sống, về thiên nhiên và con người trên mảnh đất quê hương

từ trong quá khứ. Tất cả đều được phản ánh qua từng trang viết của Hoàng Quảng Uyên

với nguồn cảm hứng bất tận nhằm tái hiện một bức tranh thiên nhiên với đầy đủ âm

thanh, màu sắc tươi sáng của núi rừng Việt Bắc đã lùi xa vào hoài niệm.

Để khắc họa bức tranh thiên nhiên, phong tục tập quán gắn với đời sống của

những con người miền núi một cách chân thực và rõ nét, nhà văn Hoàng Quảng Uyên

đã hư cấu qua một số chi tiết điển hình nhất, đắt giá nhất.

2.3.1.1. Tái hiện bức tranh thiên nhiên

Bức tranh thiên nhiên được thể hiện qua cảnh sắc núi rừng Cốc Bó. Nhà văn

Hoàng Quảng Uyên đã miêu tả cảnh sắc núi rừng Cốc Bó tươi tắn với những tia nắng

vàng lung linh len lỏi qua từng tán lá, cành hoa, tiếng chim Cáng lò gọi bàn tình,

22

tiếng róc rách của dòng nước len lỏi qua khe đá, tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa

xuân sống động, tràn đầy sức sống: “Nắng tràn trên cánh rừng đại ngàn Cốc Bó, trải

màu vàng tươi trên những cành hoa muôn sắc lung linh. Những cành lá mạy Báng,

mạy Mạ, cáp tao … lóng lánh đung đưa. Tiếng con chim Cáng lò gọi bạn tình chìm

trong nồng nàn mùa xuân. Dưới tán rừng xanh, dòng nước trong chảy từ đầu nguồn,

len lỏi qua khe đá. Róc rách reo vui. Hơi nước bốc lên đọng lại trên ngọn cỏ, lá cây

bên bờ suối. Ẩm ướt, lành lạnh”. [37, tr.5].

Mùa xuân hiện lên với đầy đủ âm thanh, màu sắc hòa cùng không khí đặc

trưng của miền núi. Đó là tiếng chim hót, tiếng nước chảy qua khe suối, là màu vàng

tươi của nắng xuân ấm áp, là không khí lành lạnh, ẩm ướt ...

Cùng với đó, bức tranh thiên nhiên còn được gởi mở qua không gian thiên

nhiên sinh động, hùng vĩ và nên thơ. Qua ngòi bút của tác giả, khung cảnh thiên

nhiên hiện ra đầy thơ mộng với nhiều sắc màu đan xen, hòa lẫn. Đó là màu tím thẫm

của quả dâu da, màu vàng tươi của hoa cây Mạy Mạ và hơn cả là những đỉnh núi ẩn

hiện trong làn sương mờ trắng: “Buổi sáng đầu hè đẹp, trời trong. Những cây dâu da

hai bên bờ suối đung đưa những chùm quả tím thẫm. Cây Mạy Mạ bên chiếc lán nở

những bông hoa vàng rực. Những đám ruộng bên Khuổi Nặm đã cấy xong, nước lập

lờ chân mạ. Phía xa, những đỉnh núi choàng mây trắng mộng mơ ...” [37, tr.159].

Nhà văn đưa người đọc tới một không gian rộng lớn hơn, bao quát hơn trong

khoảng thời gian nhất định là vào một buổi sáng đầu mùa hè. Không gian ấy thật trong

trẻo nhưng cũng thật nên thơ, khiến người đọc liên tưởng tới cõi “bồng lai tiên cảnh”.

Cũng là cảnh sắc của núi rừng, nhưng trong Giải phóng, tầm nhìn của nhà văn

bao quát hơn, tỉ mỉ hơn. Hoàng Quảng Uyên cũng sử dụng nghệ thuật hư cấu để làm

nổi bật lên vẻ đẹp của thiên nhiên vùng núi phía Bắc với những thác nước cao đầy

quyến rũ. Điểm nhìn của tác giả không chỉ dừng lại ở một đối tượng đơn thuần mà

theo trình tự từ gần đến xa, từ khái quát đến chi tiết: “Khuôn Tát rợp trong rừng chè,

đồi cọ, trong rừng có nhiều loại gỗ quý như cây Phách cao, to gốc cây vòng tay ôm

không xuể. Đặc biệt có dòng suối Khuôn Tát chảy len lỏi qua các mô đá qua hàng

triệu năm bị nước bào mòn thành những mô đá tròn, có những cây đa cổ thụ xum xuê

tỏa bóng mát. Từ cây đa cổ thụ trên đỉnh Đèo De xuôi theo dòng suối chừng một cây

23

số, nước đổ xuống một con thác 7 tầng, cao hơn 30m tung bọt trắng xóa” [38, tr.498].

Có thể thấy mọi sự vật, hiện tượng đều hội tụ qua lăng kính chủ quan của nhà

văn. Chỉ với hình ảnh các mô đá dưới lòng suối bị bào mòn theo thời gian khiến cho

chúng bị biến dạng hay dòng nước của con thác 7 tầng đổ xuống, tung bọt trắng xóa, nhà

văn đã cho người đọc thấy được khả năng đặc biệt của mình trong cách quan sát, miêu

tả, liên tưởng về các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên thật sinh động và tỉ mỉ.

Dưới ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên, cảnh sắc thiên nhiên không chỉ hiện lên

với gam màu tươi sáng mà nó còn gợi sự thâm u, huyền ảo nhưng cũng rất trữ tình:

“Sông Phó Đáy đoạn chảy quả thác Dẫng được mở rộng ra. Mùa nước to, nước chảy ầm

ào, vang vọng. Buổi sáng và chiều tối, trời lạnh hơi nước bốc mù mịt. Cảnh sắc thâm u,

huyền ảo. Đây là nơi yên ba thâm xứ (nơi khói sóng thăm thẳm), dễ gợi cảm hứng thơ”

[38, tr.508]. Hay: “Ánh trăng bàng bạc, trải ảnh vàng lên lau lách, cây cối hai bên bờ.

Nước chảy êm đềm, hắt ánh trăng lên thuyền. Xa xa hơi nước bảng lảng ...” [38, tr.508].

Một lần nữa khung cảnh thơ mộng lại được vẽ lên với hình ảnh hơi nước bốc

mù mịt gợi cảm giác rùng mình, ớn lạnh hay ánh sáng mờ ảo của nàng trăng phản

chiếu lên thuyền ... Tất cả đều là sự kết hợp tinh túy giữa con người với thiên nhiên

vạn vật để tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh. Những chi tiết này có sức lôi cuốn đặc

biệt đối với người đọc. Qua những trang viết miêu tả về thiên nhiên của nhà văn

Hoàng Quảng Uyên, người đọc như cảm thấy tận mắt chứng kiến cảnh đẹp tuyệt vời

do thiên nhiên ban tặng.

Với cái nhìn tỉ mỉ, chi tiết cùng giọng văn mượt mà đậm chất thơ, cùng nghệ

thuật hư cấu, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện bức tranh thiên nhiên giữa đại

ngàn Cốc Bó thật hùng vĩ và đa sắc màu tươi tắn. Là một nhà văn “chưa sành lắm” về

tiểu thuyết, song ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên luôn khiến người đọc đi từ ngạc

nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đó là nhờ vào nghệ thuật hư cấu khi miêu tả về

cảnh sắc thiên nhiên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hài hòa, sinh động, đậm cá

tính sáng tạo của Hoàng Quảng Uyên. Đây cũng chính là thành công của nhà văn

khi đạt được dụng ý nghệ thuật nhằm khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên

về núi rừng Việt Bắc để gửi tới người đọc.

2.3.1.2. Tái hiện bức tranh xã hội

Bên cạnh những trang viết về thiên nhiên tươi đẹp, nhà văn Hoàng Quảng Uyên

24

còn giúp người đọc hiểu rõ thêm về bức tranh làng bản, xã hội đã lùi xa vào quá khứ,

qua đó hướng người đọc đến một không gian văn hóa đặc trưng gắn với đời sống sinh

hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

Tác giả Hoàng Quảng Uyên là người rất am hiểu và thông thuộc về mảnh đất

Pác Bó, nên ông luôn có cái nhìn nhạy cảm, tinh tế về hiện thực xã hội, cho dù đó là

xã hội đã lùi vào quá khứ. Ngòi bút của ông đã tái hiện bức tranh làng bản hết sức

sinh động, tạo nên nét riêng.

Bức tranh làng bản được thể hiện ngay trong cái nhìn bao quát của nhà văn: “ …

cách đầu nguồn Cốc Bó vài trăm mét. Một ngôi nhà sàn thấp, nhỏ ẩn kín trong lùm cây.

Mái nhà lợp cỏ gianh, tường phía trước che chắn bởi những miếng gỗ cong vênh, 3 phía

tường còn lại che bằng lá Cáp tao đan dầy. Trước nhà có cái nhà sàn nhỏ, thấp lè tè, mặt

sàn ghép bằng những đoạn cây dài. Đứng trên sàn nhìn xuống bờ suối thấy rõ khoảnh đất

rộng Lũng Mịn. Ngước nhìn lên cao, chếch về phía tay phải là Lũng Pò Vẩn, nằm ở lưng

chừng núi, nơi có cột mốc phân định biên giới Trung – Việt …”. ) [37, tr.6]

Hình ảnh những ngôi nhà sàn thấp, nhỏ là hình ảnh mang nét đặc trưng riêng,

gắn với đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc. Đi bất cứ làng bản

nào thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những

ngôi nhà sàn đơn sơ lợp bằng cỏ gianh và được che chắn bởi những loại cây có sẵn

trong tự nhiên. Ở đây, nhà văn đứng giữa đất trời, thiên nhiên vạn vật để bao quát

không gian rộng lớn, hướng tầm nhìn vào khoảng không vô tận. Tác giả cảm thấy ấm

lòng khi được hòa mình với cuộc sống giản dị của đồng bào nơi đây.

Những địa danh quen thuộc của tỉnh Cao Bằng cũng được nhắc đến như một niềm tự

hào qua những trang viết về miền núi của Hoàng Quảng Uyên. Đó là “Làng Bó Cục nằm sát

biên giới, đối diện với làng Nà Lạn (Đông Khê), có gần chục nóc nhà dựng sát chân núi,

toàn nhà sàn mái lợp ngói âm dương …” [37, tr.146], là “Hang Nộc Ẻn là một cái hang nhỏ

trần hang cao. Trên những hốc đá có nhiều tổ chim Én. Thỉnh thoảng chim bay ra, bay vào,

ríu rít thật vui mắt, vui tai. Từ hang Nộc Ẻn nhìn xuống cánh đồng Nà Mạ, lúa xanh rờn như

che lấp con đường mòn dưới chân núi Tèo Lài, dẫn lên Pác Bó” [37, tr.277].

Những cái tên Làng Bó Cục, Hang Nộc Ẻn, Nà Mạ, Tèo Lài, Pác Bó là những

địa danh quen thuộc đối với đồng bào dân tộc tỉnh Cao Bằng, nhất là đối với dân tộc Tày

nơi đây. Mỗi địa danh có một đặc điểm riêng, song dù miêu tả ở khía cạnh nào thì những

25

đặc điểm ấy vẫn toát lên được nét đặc trưng của vùng núi phía Bắc. Điều đó thể hiện qua

hình ảnh của những ngôi nhà nằm sát chân núi, những con đường mòn ven triền đồi,

triền núi, những cánh đồng lúa xanh rờn uốn quanh chân đồi tựa như những chân bậc

thang đều tăm tắp ... Có thể thấy, nhà văn nhắc đến những địa danh này với một niềm lạc

quan, tự hào khôn tả.

Trong bức tranh làng bản ấy, nhà văn Hoàng Quảng Uyên cũng tái hiện một cách

chân thực bức tranh xã hội trong quá khứ: “Ở vùng biên giới này có nhiều phỉ quấy phá:

Phỉ “ngoại” từ Trung Quốc sang, phỉ “nội” lẩn lút trong hang, trong núi, phỉ “nghiệp dư” lẻ

tẻ vài tên kéo nhau đi ăn mảnh … gây bao nỗi khổ cho dân chúng. Bọn quan Tây, quan Ta

bất lực, không trấn áp nổi … Dân gọi bọn quan Tây, quan châu là con hổ, gọi bọn phỉ là

con báo. Dù hổ hay báo cũng là lũ ăn thịt sống cả” [37, tr.10]. Hay: “Vùng Hà Quảng

những năm 1938 – 1939 là vùng đất làm ăn của các loại phỉ. Nhân dân đói khổ, điêu đứng

vì bọn này. Châu ủy Hà Quảng đã phát động phong trào phòng chống phỉ bảo vệ xóm làng

rất có hiệu quả, nhưng bọn phỉ nhiều quá không thể đánh đuổi hết được ... ” [37, tr.224].

Qua nghệ thuật hư cấu, nhà văn đã so sánh bọn phỉ độc ác giống như con hổ,

con báo chuyên ăn thịt sống, nhà văn đã cho người đọc thấy được mức độ độc ác của

chúng đối với nhân dân. Bọn phỉ tập trung ở đâu thì nơi đó nhân dân sẽ đói khổ và sẽ

không có ai dám lên nương để phát rẫy trồng lúa, trồng khoai. Hình ảnh của bọn

“Phỉ” hiện lên với nhiều phương thức hoạt động. Chúng bòn rút của cải, bóc lột sức

lao động của người dân nghèo khổ và đe dọa, chèn ép họ bằng nhiều hình thức nham

hiểm, độc ác. Trước những hành động của bọn phỉ, dân làng luôn tìm cách chống trả

để đòi quyền sống, song do quy mô hoạt động của chúng ngày càng rộng, sức mạnh

của chúng ngày càng tăng nên người dân cũng chỉ còn biết cam phận.

Không dừng lại ở đó, nhà văn Hoàng Quảng Uyên còn tái hiện bức tranh xã

hội trong quá khứ trải qua những tháng ngày lịch sử từ công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa

giành chính quyền đầy khó khăn, vất vả: “Trong căn lán nhỏ bé trên đồi Nà Lừa

những chủ trương, quyết sách lớn được vạch ra và thực hiện. Những ngày đầu là công

tác chuẩn bị lực lượng đón Đồng Minh nhảy dù xuống căn cứ. Tổ chức cuộc chiến

đấu chống quân Nhật đánh vào khu giải phóng với việc phục kích và tiêu diệt quân

Nhật tại Làng Sảo, Đèo Chắn vào tháng 6/1945 và việc đối phó với những toán thổ

26

phỉ ở Đèo De âm mưu vào quấy phá khu giải phóng ...” [38, tr.37].

Đặc biệt là những ngày đầu tháng 8/1945 với sự chỉ đạo kịp thời và tích cực của

Hồ Chí Minh, hai hội nghị quan trọng được tổ chức thành công là Hội nghị toàn

quốc Đảng từ ngày 13 đến ngày 15/8 tại căn lán cách lán Nà Lừa 20m có hơn 30

Đại biểu các Đảng bộ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ tham dự ra quyết định phải kịp

thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền “trước khi

quân Anh và quân Tưởng vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật và trước khi

Pháp đưa lực lượng trở lại xâm lược nước ta và trong các ngày 16, 17/8/1945 tại

đình Tân Trào Quốc Dân đại hội được tổ chức thành công với việc thông qua mười

chính sách lớn của Việt Minh, thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, bầu ra Ban giải

phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời)” [38, tr 37].

Trước những biến động lớn của xã hội đương thời đầy rối ren, phức tạp,

khi quân Anh và quân Tưởng vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật và Pháp

chuẩn bị ráo riết cho trở lại xâm lược Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng

các đồng chí, đồng đội kịp thời vạch ra chủ trương, đường lối hoạt động cách

mạng của Việt Minh nhằm ngăn chặn hành động phi pháp của Thực dân Pháp đối

với dân tộc Việt Nam. Đó là phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền,

nêu cao lý tưởng cộng sản và lãnh đạo toàn dân kháng chiến.

Có thể thấy, dù bức tranh xã hội hiện về trong tưởng tượng có rối ren, phức tạp

đến đâu thì người đọc vẫn có thể hiểu và nắm bắt được tình hình xã hội ấy thông qua

ngòi bút tinh tế, nhạy bén của nhà văn Hoàng Quảng Uyên. Qua ngòi bút hiện thực

sắc sảo, Hoàng Quảng Uyên còn cho người đọc thấy trong bức tranh làng bản, xã hội

ấy tồn tại những phong tục tập quán tốt đẹp gắn bó với cuộc sống của đồng bào dân

tộc miền núi phía Bắc như: thờ ông bà, thờ tổ tiên, thờ thổ thần, chúc Tết ...

Trong tác phẩm Mặt trời Pác Bó, Hoàng Quảng Uyên miêu tả khá chi tiết

những phong tục của người Nùng Giang tại Cao Bằng. Khi gặp ông Máy Nì,

Ông Cụ (Hồ Chí Minh) chúc tết bằng tiếng địa phương Quảng Tây “Xìn nìn,

phát hỷ, phát sòi” (Nghĩa là: năm mới, chúc vui vẻ, phát tài) [37, tr.15].

Qua lời chúc của ông Cụ, người đọc dễ dàng nhận ra tục chúc tết của người

Nùng Giang gần giống với tục chúc tết của người Hoa bên Trung Quốc và cũng có

nét tương đồng với tục chúc tết của người Kinh ở Việt Nam. Cứ năm hết Tết đến, khi

27

mùa xuân đến gõ cửa từng nhà là họ lại dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp. Con

cháu chúc ông bà, con cái chúc bố mẹ, vợ chồng, hàng xóm láng giềng cùng chúc

nhau. Họ chúc sang năm mới mọi người đều vui vẻ, nhà nhà được bình an, hạnh

phúc, làm ăn ngày càng phát tài, phát lộc. Họ vẫn thường chúc nhau:

“Bươn chiêng pi mói

Mỏi lổ mội mói

Mọi lỏ mọi đay

Mỏi cần pìng an

Mọi cần cán xỉnh

Xỉnh lẻo, xỉnh lẻo!” [37, tr.18]

(Tháng giêng năm mới

Mọi thứ đều mới

Mọi việc đều hay

Mọi người bình an

Mọi người tốt đẹp

Mời cạn, mời cạn!)

Phong tục này đã được gìn giữ qua bao thế hệ và trở thành phong tục điển hình

của người Nùng Giang trong dịp Tết. Bên cạnh những lời hay, ý đẹp dành tặng nhau,

người Nùng Giang còn tặng nhau những phong bao lì xì màu đỏ thắm. “Lì xì” là

“mừng tuổi”. Chỉ vào dịp Tết, người Nùng Giang nói riêng hay người Kinh nói chung

mới dùng lì xì để trao nhau kèm theo những lời chúc tựa như: chúc con cháu mạnh

khỏe, hay ăn chóng lớn; chúc người lớn “công thành danh toại”, làm ăn phát tài, phát

lộc dồi dào. Những người nhận được lì xì cùng với lời chúc đều cảm thấy vui vẻ:

“Ông Ké thò tay vào túi áo rút ra một phong bao giấy điều đặt vào tay cô bé.

Năm mới ta chúc cháu!

Máy Nì mặt đỏ lựng, ấp chiếc phong bao trước ngực, ngước đôi mắt đen ngơ

ngác thoáng nhìn ông Ké, môi mấp máy” [37, tr.17]

Đó là niềm vui của con gái ông Máy Nì khi được ông Ké tặng lì xì. Không

chỉ có niềm vui mà cô bé còn cảm thấy xúc động, ngơ ngác trước hành động của

ông Ké, bởi lẽ chính cô bé cũng không hiểu vì sao ông lại biết được phong tục

28

của dân tộc mình!.

Chỉ với vài nét chấm phá, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã cho người đọc cảm

nhận được nét đặc trưng trong phong tục Tết của người Nùng Giang. Phong tục chúc

tết, tặng lì xì được người Nùng Giang lưu giữ như một nét đẹp truyền thống. Cho đến

ngày nay, phong tục này vẫn tồn tại và ngày càng khẳng định được giá trị truyền

thống văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi nói chung cũng như của

người Nùng Giang nói riêng.

Ngoài phong tục chúc tết, người Nùng Giang còn có tục Sầu Nèn. Cũng trong

tác phẩm Mặt trời Pác Bó, một lần nữa Hoàng Quảng Uyên lại dẫn dắt người đọc tìm

hiểu về phong tục Sầu Nèn của người Nùng Giang. Đây là một phong tục truyền

thống quý báu của dân tộc Việt gắn chặt với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Tục Sầu

Nèn diễn ra vào ngày mồng hai Tết hàng năm, với nghĩa: người còn sống dâng lễ thờ

cúng ông bà, tổ tiên để bày tỏ lòng kính trọng đối với những người đã khuất. Chính vì

thế, đồ lễ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên trong ngày mồng hai Tết phải được

chuẩn bị chu đáo với “một bên gánh là con gà sống thiến lông mượt, đuôi dài, cựa

ngắn, một bên là chiếc làn nhỏ có đựng bánh chưng, bánh khảo, thúc théc và một chai

rượu” [37, tr.8].

Từ lâu, tục Sầu Nèn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tín ngưỡng thờ Thần của

người Nùng Giang. Theo người dân nơi đây, những đồ ăn, thức uống được dâng lên bàn

thờ tổ tiên phải thật ngon và gồm nhiều loại khác nhau với mong muốn ông bà, tổ tiên và

những người đã khuất sẽ bảo vệ, chở che cho con cháu ...

Bằng sự quan sát, hiểu biết tinh tế, sâu sắc về phong tục, tập quán của đồng

bào dân tộc thiểu số, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã khắc họa thành công bức tranh

cuộc sống của người miền núi gắn với các phong tục tập quán diễn ra trong dịp Tết.

Với mỗi phong tục, nhà văn lại có cái nhìn mới mẻ, toàn diện, chân thực và sinh

động, nhưng không hề làm giảm giá trị văn hóa tinh thần còn được lưu giữ của đồng

bào dân tộc nơi đây. Qua tác phẩm Mặt trời Pác Bó, Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện

sinh động tục thờ Thần, tục chúc Tết của đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc ...

Bằng ngòi bút sắc sảo với cái nhìn tinh tế cùng khả năng quan sát tỉ mỉ, nhà

văn Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện một cách chân thực và sâu sắc nhất về bức tranh

làng bản, xã hội Cao Bằng. Qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, cuộc sống sinh

29

hoạt của người dân miền núi bên những chiếc nhà sàn đơn sơ, nhỏ bé hiện lên thật

chân thực và rõ nét. Những phong tục tập quán truyền thống của người Nùng Giang

được nhắc đến như một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Tuy nhiên, ẩn hiện sau mỗi bức

tranh đậm sắc màu đó là cả một xã hội đầy rối ren, phức tạp, song nhà văn đã dẫn dắt

người đọc, gạt bỏ những góc khuất u tối để hướng đến một tương lai tươi sáng tràn đầy

niềm tin và hy vọng.

Chính vì Hoàng Quảng Uyên là người con của dân tộc Nùng, sinh ra và lớn lên

tại mảnh đất Cao Bằng lịch sử nên ông luôn hướng về vùng đất tổ tiên, hướng về

nguồn cội dân tộc, nơi “chôn nhau cắt rốn” với một tình cảm chân thành, tha thiết.

Tất cả những ký ức đẹp đẽ về thiên nhiên, con người gắn với phong tục tập quán đều

lần lượt đi vào trang viết của ông, góp phần tô điểm và làm giàu có thêm nguồn tài

liệu viết về đề tài miền núi.

2.3.2. Khắc họa chân dung các nhân vật lịch sử đã sống và hoạt động cùng Bác

Trong quá trình hoạt động cách mạng, đã có rất nhiều đồng chí, đồng bào sống

gần gũi với Bác, coi Bác như một người cha, một người anh, một người bạn tri kỷ. Đó là:

“Lê Quảng Ba, người con của núi rừng Pác Bó, luôn có mặt cạnh Người trong suốt

những ngày “cháo bẹ, rau măng”; Đàm Quang Trung, người thanh niên bản Nà Nghiềng,

chỉ huy đội giải phóng quân giải phóng Thái Nguyên, tiến về Hà Nội được giao nhiệm

vụ chỉ huy cuộc duyệt binh lịch sử ngày mai; Chu Văn Tấn, chỉ huy đội cứu quốc quân,

“hùm xám Bắc Sơn”, nay là bộ trưởng Bộ quốc phòng trong Chính phủ lâm thời; Cháu

Trưng, cháu Loan, cháu Cầm, những người con gái Cao Bằng anh dũng kiên trung ... “.

Hình ảnh họ mãi khắc ghi trong lòng Bác, nhiều người đã hy sinh thân mình để bảo vệ

non sông, đất nước và trở thành tấm gương tiêu biểu trong phong trào đấu tranh cách

mạng, giành độc lập tự do cho dân tộc. Bên cạnh nguyên mẫu Hồ Chí Minh, nhà văn

Hoàng Quảng Uyên cũng rất thành công khi xây dựng hình tượng các nhân vật lịch sử đã

từng sống và hoạt động cách mạng cùng Bác ở nhiều phương diện.

Qua những trang viết của Hoàng Quảng Uyên, chân dung ngoại hình của các nhân

vật lịch sử có thật hiện lên khá chân thực và rõ nét. Mỗi nhân vật lịch sử, nhà văn lại xây

dựng với tính cá thể hóa, không hề trùng lặp và gây được ấn tượng đối với độc giả.

Có thể kể đến nhân vật lịch sử Phùng Chí Kiên, “người đàn ông trải nhiều sương gió,

30

thân hình vạm vỡ, da nâu sạm, mắt đen ...” [37, tr.180].

Phùng Chí Kiên được nói đến là một người đàn ông tuổi đời bốn mươi tráng

kiện, tràn đầy sinh lực và là một chiến sĩ cách mạng trung kiên, một trong những đội

viên đầu tiên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội thành lập ở Quảng

Châu năm 1925. Phùng Chí Kiên đã cùng Bác về Pác Bó và tích cực tham gia vào sự

nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Thân hình vạm vỡ với làn da nâu sạm khỏe

mạnh càng tôn thêm sức mạnh của một cán bộ quân sự xuất sắc. Trong quá trình hoạt

động cách mạng, Phùng Chí Kiên luôn kề vai sát cánh cùng với các đồng chí, đồng

đội trong mọi hoàn cảnh và trở thành một trong những Đảng viên tiêu biểu được Bác

tin tưởng giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng.

Ở đây, nhà văn đã sử dụng nghệ thuật hư cấu để phác họa chân dung ngoại hình

của nhân vật, biến các nhân vật lịch sử trở thành “hình mẫu lý tưởng”, trở thành “nhân vật

huyền thoại”, từ đó tạo nên sức mạnh của sự đoàn kết, tạo niềm tin tươi mới ở tương lai.

Bên cạnh đó, nhà văn còn tái hiện chân dung các nhân vật lịch sử thông qua

ngôn ngữ và hành động nhằm phác họa rõ nét tính cách của từng nhân vật. Ngôn ngữ

được thể hiện thông qua lời nói và hành động được gắn với những việc làm cụ thể.

Có thể nói đến Kim Đồng, đội trưởng đội cứu quốc làng Nà Mạ, tuy tuổi nhỏ

nhưng rất thông minh, gan dạ và dũng cảm. Kim Đồng đã nhiều lần đưa đón cán bộ

qua ngã ba Đôn Chương an toàn nên khi được Bác hỏi chuyện, Kim Đồng trả lời dứt

khoát: “Cháu không sợ đâu. Gặp bọn nó chúng cháu chào to: chào các quan ạ. Cháu

chào nhiều lần, cán bộ đi sau nghe tiếng mà tránh đi” [37, tr.279].

Trước câu trả lời đầy tự tin ấy, Bác cảm thấy rất yên tâm khi giao nhiệm vụ

dẫn đường cho Kim Đồng. Dù đang ở độ tuổi ăn, tuổi ngủ, tuổi học hành ... nhưng

những đứa trẻ như Kim Đồng lại phải chịu nhiều thiệt thòi và không được hưởng ấm no,

hạnh phúc khi nước nhà chưa độc lập. Xác định làm nhiệm vụ cứu quốc là vất vả nhưng

Kim Đồng lại cảm thấy vui khi được cống hiến sức mình cho cách mạng. Chỉ với câu trả

lời dứt khoát “Cháu không sợ đâu” đã thể hiện tinh thần dũng cảm, kiên cường của Kim

Đồng trước sự đàn áp của kẻ thù.

Nhà văn đã thực sự thành công khi hư cấu hình ảnh của một em bé nhi đồng

tham gia hoạt động cách mạng. Cũng có thể trước những hành động dã man của kẻ

thù, Kim Đồng cũng cảm thấy run sợ, bởi thực tế các em nhỏ ở lứa tuổi nhi đồng hầu

31

hết đều chưa ý thức được hành động cũng như chưa làm chủ được suy nghĩ của mình.

Hư cấu này gán với nhân vật Kim Đồng hoàn toàn phù hợp vì nhà văn hư cấu trong

mức độ và phạm vi cho phép.

Đức Thanh (tên gọi khác là Đàm Minh Viễn), người con của bản Nà Giềng,

huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng được Bác tin tưởng giao cho nhiều trọng trách quan

trọng. Sống và gắn bó với Bác một thời gian tại Pác Bó, Đức Thanh đã học được rất

nhiều điều từ vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Khi được Bác giao nhiệm vụ

đem Bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc vào Sài Gòn truyền đạt và thực hiện, Đức

Thanh vô cùng phấn khởi, ngay lập tức “cấp tốc lên đường” [38, tr.231] và “tỏ rõ tài

năng của mình, đưa ra những quyết định kịp thời chính xác” [38, tr.231 - 232]

Hành động Đức Thanh nhanh chóng lên đường để đem Bản chỉ thị kháng

chiến kiến quốc vào Sài Gòn truyền đạt và thực hiện đã thể hiện tinh thần, trách

nhiệm vô cùng lớn lao trước vận mệnh của dân tộc, của đất nước. Không quản ngại

khó khăn, gian khổ, vào đến Sài Gòn, Đức Thanh tỏ rõ tài năng, trực tiếp truyền đạt

chỉ thị một cách có hiệu quả, tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân sẵn sàng

đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Ở chi tiết này, nhà văn Hoàng Quảng Uyên

cũng hư cấu một phẩm chất trong tính cách của Đức Thanh. Hành động nhanh chóng

lên đường được dùng để gắn với nhân vật nhằm làm tăng thêm tính thời sự của chi

tiết. Bởi lẽ, khi được Bác giao nhiệm vụ, Đức Thanh có thể sẽ phải dành chút ít thời

gian chuẩn bị thêm một số tài liệu cần thiết để phục vụ cho việc truyền đạt chứ không

thể vừa nhận nhiệm vụ xong đã lên đường nhanh như vậy. Hơn nữa, từ ngoài Bắc vào

Nam là một chặng đường dài nên công tác chuẩn bị lại càng cần thiết. Tuy nhiên, việc

hư cấu này cũng hoàn toàn hợp lý vì đã làm cho tính cách nhiệt tình hết lòng vì cách

mạng của nhân vật trở nên rõ nét hơn.

Song song với lời nói và hành động, tâm trạng của các nhân vật cũng được

khắc họa khá rõ nét. Với mỗi nhân vật, nhà văn đều khéo léo lựa chọn cách miêu tả

mang tính đặc thù sao cho phù hợp với tính cách và hoàn cảnh của từng nhân vật.

Trong cả hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, Hồ Chí Minh hiện lên

là một người có tấm lòng yêu nước, thương dân đến vô tận. Trong số những người đã

từng gặp Bác, từng được sống và hoạt động cách mạng với Bác, có rất nhiều người

32

coi Bác như người cha, người thân trong gia đình. Họ luôn dành cho Bác một tình

cảm đặc biệt, một thứ tình cảm không thể nói bằng lời và họ luôn hướng về Bác với

một tấm lòng kính yêu thiết tha.

Nông Thị Trưng (tên thật là Nông Thị Bày) là người con của dân tộc Tày nơi

núi rừng Việt Bắc và là một cô du kích Pác Bó lanh lợi, hoạt bát, sống giàu tình cảm.

Khi mới được gia nhập đội du kích Pác Bó, Nông Thị Trưng “bật khóc, giơ hai tay

nắm chặt tay ông cụ” [37, tr.247]. Trong suốt thời gian tham gia hoạt động cách mạng

tại Pác Bó, được làm việc và trò chuyện cùng Bác, Nông Thị Trưng luôn kính trọng

Người bởi tác phong làm việc cùng cách quan tâm của Bác đối với đồng bào, đồng

chí. Chính vì vậy, khi gặp lại Bác sau một thời gian dài xa cách, Nông Thị Trưng vui

mừng reo lên gọi “Chú Thu” [38,tr.151], cái tên thân mật mà cô du kích Tày dùng để

gọi Bác khi còn ở Pác Bó. Vừa nhìn thấy Bác, Nông Thị Trưng “chạy đến, nắm lấy

bàn tay gầy guộc của chú Thu, mắt nhòe đi ...” [38, tr.151]

Chỉ với vài chi tiết tiêu biểu, nhà văn đã miêu tả được cuộc gặp gỡ giữa Bác

với đồng chí Nông Thị Trưng đầy xúc động. Hành động Nông Thị Trưng chạy đến,

nắm lấy bàn tay Bác giúp người đọc nhận ra mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa Bác

với đồng chí của mình cũng như cảm nhận được tình cảm đặc biệt của cô du kích Pác

Bó dành riêng cho Bác. Trước mặt Bác, chưa nói được lời nào, Nông Thị Trưng mắt

đã ngấn lệ. Cô vui mừng khi được gặp lại Bác và thấy Bác vẫn khỏe mạnh, nhưng

cũng thấy xót xa trước tấm thân gầy gò ấy.

Bằng nghệ thuật hư cấu, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện thành công chân

dung, ngoại hình, hành động, tâm trạng các nhân vật trong tác phẩm của mình ở nhiều

phương diện với cái nhìn đa chiều. Tính cách của từng nhân vật hiện lên qua ngòi bút của

nhà văn thật ấn tượng và sắc nét. Trong họ luôn luôn căng đầy khát vọng được chiến đấu,

chiến thắng kẻ thù, giành lại tự do cho dân tộc, cho đất nước. Nhà văn hư cấu nhưng vẫn

đảm bảo lôgic khách quan của đời sống và lôgic tính cách nhân vật.

2.3.3. Tái hiện chân dung của nguyên mẫu Hồ Chí Minh ở phương diện ngôn

ngữ, hành động; phẩm chất vĩ nhân và đời thường.

2.3.3.1. Tái hiện chân dung ngoại hình

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã từng bôn ba khắp năm châu, bốn bể để tìm

con đường giải phóng dân tộc và giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong suốt hành

33

trình tìm đường cứu nước ấy, Người đã phải chịu biết bao gian khổ, nhọc nhằn. Bàn

chân đã giẫm đạp lên biết bao trông gai, thử thách. Không ai có thể biết hết nỗi khổ ải

mà Người đã từng trải qua và từng phải hứng chịu, chỉ biết rằng, qua thân hình khắc

khổ, tiều tụy đầy xương xẩu ấy, chúng ta có thể cảm nhận được phần nào những khó

khăn, thiếu thốn mà Người đã trải qua.

Trong hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó, chân dung ngoại hình của Bác hiện lên

đầy khắc khổ, gầy guộc đến mức chỉ còn da bọc xương. Đó là hình ảnh của Bác qua

cái nhìn xót xa, đầy thương cảm của MacShin: “Ông Cụ gầy nhiều hơn với mọi người

tưởng, xương sườn nổi lên dưới làn da xám, xương bả vai như muốn trồi ra khỏi bọc

da sau lưng mỗi khi cử động ...” [37, tr.42].

Một vĩ lãnh tụ vĩ đại của cả một dân tộc hiện lên qua cái nhìn của MacShin

thật tiều tụy. Xương sườn nổi lên thấy rõ và có thể đếm được. Làn da xám đen,

“xương bả vai như muốn lồi ra khỏi bọc da sau lưng mỗi khi cử động”. Nhưng đằng

sau bức chân dung ngoại hình có phần tiều tụy vì thiếu thốn, tưởng chừng như không

có sức sống ấy, ta lại bắt gặp một con người hoàn toàn trái ngược, một con người ung

dung tự tại, ẩn chứa sức mạnh tinh thần vô song đầy lạc quan, bất khuất.

Nhà văn đã dùng biện pháp so sánh để miêu tả tấm thân gầy gò, ốm yếu của

Bác thật khiến người đọc rưng rưng, thương xót. Với điểm nhìn từ xa đến gần, nhà

văn Hoàng Quảng Uyên đã dùng ngoại hình để gợi liên tưởng về hoàn cảnh gian khổ

lúc bấy giờ. Một đất nước đang bị giặc ngoại xâm xâm chiếm, một dân tộc đang bị trà

đạp và nhân dân thì đói khổ trăm đường cùng với đó nạn đói trước năm 1945 hoành

hành dữ dội đã cướp đi biết bao sinh mệnh quý giá của hàng triệu người con đất Việt.

Qua việc miêu tả chân dung ngoại hình Bác, nhà văn muốn lột tả một chặng đường

lịch sử đầy khó khăn, thiếu thốn đã đi qua của dân tộc.

Mang trên mình cái dáng vẻ tiều tụy, khắc khổ nhưng những hành động mà

Bác thực hiện đều dứt khoát và khỏe khoắn: “hai chân đứng thế tấn vững như cây cột

nghiến, lúc tiến, lúc thoái dứt khoát, mạnh mẽ và đẹp. Bước chân ông Ké lướt trên

các tảng đá, đôi bàn tay khi thì đâm thẳng ra phía trước như mũi lao. Khi vặn người

qua trái, qua phải như thanh kiếm sắc chém gió, đẹp tựa rồng bay, hổ vồ” [37, tr. 24].

Bên cạnh hình ảnh khắc khổ ấy, ta vẫn bắt gặp hình ảnh Bác với phong cách,

cốt cách ngời sáng của một vị lãnh tụ hiện lên qua tiếng xì xào của các Đại biểu tham

34

dự Quốc dân đại hội: “... dáng điệu của ông cụ già gày gò, dong dỏng cao, chòm râu

cằm lưa thưa, vầng trán cao, đôi mắt hiền từ nhưng rất sáng, vận bộ quần áo Nùng

màu Chàm đã bạc” [38, tr.106].

Vẫn là dáng vẻ gày gò, dong dỏng cao, nhưng ở đây hình ảnh Bác toát lên vẻ

thông minh, sắc sảo với vầng trán cao, đôi mắt hiền từ mà rất sáng. Khi đến tham dự

Quốc dân đại hội, hình ảnh Bác vẫn giản dị đời thường qua bộ quần áo Nùng màu

Chàm đã bạc. Tuy vẻ yếu mệt vẫn hằn rõ trên gương mặt, song Bác vẫn gắng gượng

đứng trước đám đông để báo cáo về công tác ngoại giao. Điều này khiến cho mọi

người dân, nhất là “các đại biểu nhìn Cụ với vẻ cảm thông và kính trọng” [37, tr.110].

Ở đây, nhà văn Hoàng Quảng Uyên khắc họa hình ảnh Bác bằng phương

thức dùng “Điểm” để nói “Diện”. Về diện, ông đã chủ động khắc họa hình tượng

Bác trên nhiều bình diện khác nhau như hình ảnh một nguyên thủ quốc gia có tác

phong sinh hoạt bình dị (thông qua các chi tiết từ chối món canh gà hầm sâm khi

đang ốm được dân quân mang lên, mặc bộ quần áo kaki bạc màu, từ chối ở khách

sạn hạng sang mà lưu trú ở căn nhà bình dị khi sang thăm nước Pháp…); một bậc

thi nhân mang dáng vẻ tiên phong đạo cốt (qua các chi tiết tặng thơ, ngâm thơ,

vịnh thơ với các cụ Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng, cảm tác trên sông Đáy,

trên chiến khu Việt Bắc); một người cha già thân thuộc trong mọi gia đình Việt

Nam (thông qua các chi tiết nói chuyện với đồng chí Nông Thị Trưng, Vũ Đình

Huỳnh …); một nhà quân sự kiệt xuất (thông qua nhận định về chiến dịch Việt

Bắc thu đông và chiến dịch Biên giới 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ); một nhà

ngoại giao lỗi lạc có năng lực cảm hóa người tiếp xúc (thông qua các chi tiết đối

đáp với các chính khách Pháp, Trung, Mỹ). Về điểm, Hoàng Quảng Uyên chú

trọng miêu tả nhân cách vĩ đại của Người: lòng yêu hòa bình, yêu thương con

người tha thiết. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Hồ Chủ tịch hiện lên với hình ảnh con

người suốt đời phấn đấu cho nền hòa bình, tự do không chỉ của nước Việt Nam mà

còn của toàn thể nhân dân tiến bộ trên thế giới. Mặc dù tiên liệu việc phải chiến

tranh vũ trang với quân Pháp để giành độc lập cho nước nhà là không thể tránh

khỏi, nhưng tự đáy lòng, Bác vẫn hy vọng điều đó không xảy đến. Người đã tìm

mọi cách để trì hoãn chiến tranh, tránh cho dân tộc phải đổ máu (nhưng vẫn phải

35

giành được tự do, độc lập một cách thật sự) ...

Có thể thấy, Hoàng Quảng Uyên dùng một vài chi tiết nghệ thuật đắt giá để lột tả cái

toàn thể, cái lớn lao hơn là tầm vóc tư tưởng, tình cảm, ý chí, tâm hồn và trí tuệ của Bác.

2.3.3.2. Tái hiện qua phương diện ngôn ngữ và hành động

Bên cạnh chân dung ngoại hình khắc khổ và tiều tụy ấy, nhà văn Hoàng Quảng

Uyên còn cho người đọc thấy được một Hồ Chí Minh luôn ung dung, tự tin, tự tại thông

qua ngôn ngữ giao tiếp và hành động ứng xử. Trong hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và

Giải phóng, hành động của Bác xuất hiện dày đặc. Thông qua mỗi hành động, nhà văn

Hoàng Quảng Uyên đã vẽ nên một nét chân dung ngoại hình và tâm hồn của Bác.

Trong tác phẩm Mặt trời Pác Bó, người đọc không thể quên được hành động

Bác từ chối việc ông Máy Nì định cho muối vào chậu nước rửa chân dành cho mình.

Khi thấy ông Máy Nì nhúm một ít muối ám khói đã ngả màu vàng xỉn định thả vào

chậu nước rửa chân, Bác đã từ chối hết sức khéo léo mà vẫn không làm mất lòng chủ

nhà: “Cảm ơn lòng tốt của gia chủ. Hạt muối quý lắm xin để dành” [37, tr.19]

Hành động từ chối trên đã trở thành một việc làm có ích, nhất là trong hoàn

cảnh đất nước đang có giặc ngoại xâm, nhân dân đói khổ trăm đường. Qua hành động

này, người đọc thấy được tinh thần tiết kiệm cũng như bản tính thương dân của Bác.

Bác luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên, lên hết nên những gì nhân dân dành cho mình

(ngoài tình cảm), Bác đều cho đó là sự lãnh phí và không thực sự cần thiết.

Ngoài hành động cao cả ấy, nhà văn còn cho người đọc thấy được phẩm chất

kiên cường của một bậc đại nhân qua chương mười chín “Thiên đô, bảo quốc” trong

Giải phóng. Ở chương này, nhà văn đã hư cấu đoạn đối thoại giữa Bác với Pôn Muýt

– đặc phái viên của Cao ủy Bôlae trong sứ mệnh “tiếp xúc trở lại với Việt Minh”: Pôn

Muýt: “Thưa Chủ tịch, ngạn ngữ Việt Nam có một câu rất hay: “Còn nước còn tát!”

Tại sao chúng ta không cố!?”. Bác Hồ: “Một lần nữa cảm ơn Ngài đã hiểu và Ngài đã

ước mong, nhưng như Ngài thấy đó, chúng tôi đã tát cả bùn đất rồi. Không còn gì để

mà cố nữa. Chiến tranh hay hòa bình bây giờ là ở trong tay người Pháp!” ... Tôi biết

Ngài có nghiên cứu về Phật học! chắc Ngài nhớ lời Phật răn dạy chúng sinh “Buông

dao xuống có thể thành Phật”. Thánh Phao Lồ từng nổi tiếng sát hại người Thiên

36

chúa giáo, nhưng ông ta cũng đã buông dao để trở thành một trong những người có

công nhất đối với Thiên chúa giáo. Tôi đang mong chờ người Pháp buông dao! Dẫu

điều mong chờ của tôi không bao giờ đến thì ... tôi vẫn mong” [38, tr.269].

Thực chất trong lời đối thoại giữa Bác và Pôn Muýt – đặc phái viên của Cao

ủy Bôlae trong sứ mệnh “tiếp xúc trở lại với Việt Minh”, nhà văn Hoàng Quảng Uyên

đã sử dụng nghệ thuật hư cấu. Trong câu trả lời của Bác: “Một lần nữa cảm ơn Ngài

đã hiểu và Ngài đã ước mong, nhưng như Ngài thấy đó, chúng tôi đã tát cả bùn đất

rồi. Không còn gì để mà cố nữa. Chiến tranh hay hòa bình bây giờ là ở trong tay

người Pháp!” người đọc thấy được cá tính quyết đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh

trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Chiến tranh hay hòa bình, điều này không

còn quan trọng đối với nhân dân Việt Nam bởi nếu Pháp có mở cuộc tấn công xâm

lược Việt Nam ngay bây giờ thì tất cả cũng đã sẵn sàng. Lời khẳng định đó giống như

một lời đả kích khiến cho đối phương nghi ngờ nhưng cũng rất tò mò về sức mạnh

của cả dân tộc Việt. Chỉ với lời khẳng định người dân Việt Nam đã tát cạn cả bùn đất,

đã diễn tả sự kiên nhẫn tột cùng, làm tất cả những gì cần làm để cứu vãn nền hòa bình

của dân tộc Việt Nam của Bác. Không chỉ có thế, Bác tự tin sẽ có ngày Pháp “buông

dao” để hướng tới hòa bình cho dù điều đó diễn ra sớm hay muộn.

Chỉ với một đoạn đối thoại ngắn, nhà văn đã phác họa được phẩm chất cao đẹp

của Bác ẩn sau dáng vẻ bề ngoài tiều tụy ấy. Trước kẻ thù, Bác tỏ ra kiên quyết và

luôn bảo vệ chính kiến của mình.

Cùng với cái nhìn tinh tế, sự nhạy bén trước thời cuộc, nhà văn Hoàng Quảng

Uyên đã tái hiện nguyên mẫu Hồ Chí Minh qua phương diện ngôn ngữ, hành động

thật đặc sắc và ý nghĩa. Bởi lẽ, trong khi sử dụng nghệ thuật hư cấu để tái hiện

nguyên mẫu Hồ Chí Minh, nhà văn vẫn tuân thủ theo lôgíc của hoàn cảnh lịch sử và

lôgíc tính cách của Người. Chính vì vậy, nghệ thuật hư cấu ở đây được sử dụng rất

hợp lý vì tính cách nào thì ngôn ngữ và hành động sẽ thế ấy. Nghĩa là: Hồ Chí Minh

là một người không quản ngại khó khăn, gian khổ; là người suốt đời chỉ nghĩ đến

tương lai, hạnh phúc của nhân dân và là người thẳng thắn, kiên quyết ... nên khi thấy

người khác quan tâm đến mình như với một lãnh tụ, Bác đều từ chối và khi đứng

trước kẻ thù, Bác luôn kiên quyết ... tất cả những tính cách đó đều được bộc lộ và thể

37

hiện rõ ngay trong ngôn ngữ cùng hành động của Người.

2.3.3.3. Xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành nhân vật tiểu thuyết với hai

phẩm chất “Vĩ nhân” và “Đời thường”

Để xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và

Giải phóng thành nhân vật tiểu thuyết với hai phẩm chất “Vĩ nhân” và “Đời thường”,

nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã sử dụng nghệ thuật hư cấu thông qua nhiều phương

diện, từ đó, giúp người đọc thấy được hình tượng Hồ Chí Minh luôn ngời sáng qua

hai phẩm chất “Vĩ nhân” và “Đời thường”. Điều này thể hiện qua hàng loạt chi tiết,

hình ảnh, sự kiện được nói đến trong cả hai tiểu thuyết này.

Nhân vật Hồ Chí Minh với phẩm chất con người vĩ nhân

Có thể hiểu “con người vĩ nhân” là một con người có tư tưởng lớn lao, luôn có

những hành động cao cả, vượt trội hơn so với những người khác, vươn tới một lý

tưởng nhân văn đẹp đẽ vì dân tộc mình, vì nhân loại. Trong hai tiểu thuyết Mặt trời

Pác Bó và Giải phóng, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí

Minh thành một con người vĩ nhân vô cùng đặc sắc thể hiện ở phương diện: Bác là

một anh hùng giải phóng dân tộc với trí tuệ, tài năng, tầm nhìn xa trộng rộng, bản lĩnh

“thép”, ý chí “thép” trước bao khó khăn thử thách cũng như tài năng quân sự để làm

nên những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử dân tộc, và Bác là một nghệ sĩ cách

mạng, nghệ sĩ trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng

dân tộc vĩ đại.

Thứ nhất: phẩm chất vĩ nhân biểu hiện ở phương diện Bác là một anh hùng

giải phóng dân tộc

Qua hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, nhà văn Hoàng Quảng Uyên

đã cho người đọc thấy được Bác là một vĩ nhân thể hiện qua trí tuệ, tài năng và tầm

nhìn xa trông rộng. Hiện thực lịch sử đã chứng minh: trong cuộc đấu tranh dựng nước

và giữ nước, Hồ Chí Minh là một bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Trong bất cứ hoàn

cảnh nào, dù khó khăn đến đâu, Bác cũng luôn tìm được hướng đi phù hợp nhất.

Trong Mặt trời Pác bó, giữa trung tâm đại bản doanh, nơi bàn đá chông chênh mà

vững chắc, vị lãnh tụ mang cốt cách Tiên ông, thanh thoát nhẹ nhàng, điềm tĩnh, làm

việc không kể ngày đêm để “nghiên cứu tài liệu, đánh máy văn bản trên chiếc máy

38

chữ nhỏ luôn mang bên mình, dẫn dắt cách mệnh từng bước đi lên” [37, tr.50].

Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh thật đáng khâm phục. Ẩn sau ngoại hình

gầy gò, khắc khổ ấy, nhà văn đã cho người đọc thấy được tâm hồn thanh tao, trong

sáng suốt đời vì nước, vì dân và một bản lĩnh lớn. Bác ngày đêm nghiên cứu tài liệu

để soạn thảo luận cương chính trị nhằm dẫn dắt cách mạng đi đến thành công. Tuy

nơi làm việc nằm giữa đại ngàn Cốc Bó, chỉ có bàn đá chông chênh với chiếc máy

chữ nhỏ nhưng tất cả vẫn cùng với Bác trong phong thái ung dung, tự tại, chủ động,

bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh để đi tới

thành công.

Trong cách bàn tính chuyện đón tiếp đại biểu của Trương Phát Khuê, Bác tỏ rõ là

người mưu lược tài năng: “... Vài chỗ, nhưng mỗi chỗ ta đưa nó đến nhiều lần, địa điểm

đón tiếp, biểu dương lực lượng thay đổi sao cho nó không nhận ra, đưa nó đi bằng những

con đường khác nhau. Đi lòng vòng nhưng phải thật khéo” [37, tr.217].

Chỉ với chi tiết này, nhà văn đã cho người đọc thấy được tài năng xuất chúng

của Hồ Chí Minh. Việc hoan ngênh, chào đón đại biểu của Trương Phát Khuê là điều

nên làm, bởi theo Bác: nếu kẻ thù được tận mắt chứng kiến sức mạnh đoàn kết của

toàn dân ta thì sẽ thấy cảm phục và run sợ. Đón tiếp thì dễ, nhưng đón tiếp như thế

nào lại là vấn đề vô cùng quan trọng. Trước khi đại biểu của Trương Phát Khuê đến

“khảo sát” Khu căn cứ cách mạng Việt Minh, Bác đã định sẵn kế hoạch, chương trình

đón tiếp khá chu đáo. Bác dặn dò các đồng chí, đồng đội phải thật khôn khéo trong

việc dẫn đường chỉ lối. Đưa chúng đến vài chỗ, nhưng mỗi chỗ lại đưa đến nhiều lần

và đi bằng nhiều con đường khác nhau. Tại các địa điểm đến, lực lượng cách mạng

của ta sẽ ngày đêm tập luyện võ trang, các cán bộ Việt Minh sẽ được bố trí các loại

vũ khí tốt nhất để khi cần là có.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn là một người có tài năng quân sự để làm nên

những chiến thắng. Trong Giải phóng, Bác nắm bắt vận mệnh đất nước một cách

nhanh chóng: "Nay vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng,

Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên - Nên lập thành một khu

căn cứ lấy tên là khu Giải phóng. Thống nhất các lực lượng vũ trang lại là rất đúng,

nên đặt là Quân giải phóng" [38, tr.29].

Những địa danh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái

39

Nguyên là những nơi Bác Hồ đã từng đặt chân tới nên Người rất am hiểu về phong

tục tập quán cũng như cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân tại những nơi

này. Không chỉ tinh tường trong việc bàn kế sách, Hồ Chí Minh còn rất nhạy bén

trong việc nắm bắt thời cơ, vận mệnh của đất nước tại một số tỉnh miền núi phía Bắc.

Đây đều là những nơi có địa thế hiểm trở, đường xá đi lại khó khăn nhưng lại là nơi

lý tưởng để quân và dân ta hoạt động cách mạng, đồng thời thành lập Khu giải phóng.

Cùng với đó, lực lượng vũ trang ngày càng đông đảo, tạo điều kiện thuận lợi để tấn

công kẻ thù.

Chỉ bằng vài nét chấm phá, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã cho người đọc thấy

được tài năng và trí tuệ ngời sáng của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo

phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên khắp cả nước.

Bên cạnh tài năng, trí tuệ bậc thầy với khả năng tiên đoán tương lai, Bác còn

hiện lên qua tầm nhìn xa trông rộng đối với vận mệnh của dân tộc. Cũng bàn về

phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong Giải phóng, Bác nêu rõ lý do vì sao

cần phải tuyên bố việc giải tán Đảng Cộng Sản để cho đối phương hiểu sai mục đích

của quân và dân ta, cũng như để cho chúng lầm tưởng quân ta đã rút lui: “Ta tuyên bố

giải tán Đảng Cộng Sản nhưng thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, để cho

những kẻ chống cộng không có lý lẽ gì để tấn công ta. Đó là một điều vô cùng hệ

trọng. Chuẩn bị cho việc tuyên bố này hết sức cẩn thận, chính xác... ” và “Chúng ta

phải tạm nuốt quả đắng. Thời điểm tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Đông Dương

phải thích hợp nhưng không quá chậm!” [38, tr.207].

Đây thực sự là “kế sách” hợp lý để quân và dân ta rút vào hoạt động bí mật, chờ

thời cơ vùng lên đấu tranh, giành độc lập tự do. Nếu chỉ nhìn từ bề ngoài, quân giặc sẽ

chủ quan, lơ là và cho rằng: Đảng Cộng Sản chịu thất bại ngay khi trận chiến mới bắt

đầu, song thực chất dưới ánh sáng của Đảng, dưới sự lãnh đạo tài ba của vị chỉ huy

tối cao Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng

có sức lan tỏa sâu rộng đối với mọi tầng lớp nhân dân.

Không dừng lại ở đó, nhà văn còn cho người đọc thấy được Hồ Chí Minh

là người có khả năng tiên đoán vận mệnh của đất nước, dân tộc: “Sự nghiệp

cách mạng của chúng ta sẽ thành công, tuy hiện thời còn gặp nhiều khó khăn...”

40

[38, tr. 288].

Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển nhưng còn gặp

nhiều khó khăn, trắc trở, nhất là về vấn đề lương thực, vũ khí, thuốc men. Trên khắp

cả nước, lực lượng Việt Minh cùng toàn dân ta đang ngày đêm tập trung cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới ánh sáng của Đảng, của Việt Minh, mọi tầng lớp

nhân dân tích cực, hăng hái tham gia các lớp huấn luyện của tổ chức Mặt trận Việt

Minh cũng như tham gia các tổ chức, đoàn thể cứu quốc tại các Châu trên khắp tỉnh

Cao Bằng. Phong trào Việt Minh ngày càng phát triển, lực lượng cách mạng ngày

càng trưởng thành với khí thế và quyết tâm sôi nổi để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi

nghĩa giành chính quyền. Với những gì đã và đang diễn ra, sự nghiệp cách mạng chắc

chắn sẽ thành công như mong ước và niềm tin sắt đá của Bác Hồ. Đó cũng chính là

niềm mong mỏi của biết bao đồng chí, đồng bào đang bí mật hoạt động cách mạng để

cứu nước, cứu dân. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã hòa mình trong không khí sục sôi

của cao trào cách mạng để khẳng định, ngợi ca phẩm chất kiên cường của những

người làm cách mạng, nhất là đối với vị lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc, người đã mở

đường, dẫn lối để cách mạng đi đến thành công.

Một điểm đáng chú ý là bên cạnh một con người tài năng, trí tuệ với cốt

cách ung dung, tự tại của một người nghệ sĩ chân chính, trong cả hai tác phẩm

Mặt trời Pác Bó và Giải phóng tác giả còn cho người đọc thấy được Bác còn

mang trong mình phẩm chất anh hùng với ý chí và nghị lực phi thường. Phẩm

chất anh hùng trong Hồ Chí Minh được tác giả nhìn nhận ở nhiều phương diện.

Trong Mặt trời Pác Bó, phẩm chất anh hùng của Hồ Chí Minh được tác giả nhìn

nhận ở ý chí, nghị lực và niềm tin của Bác vào cách mạng : “Làm cách mạng là

nhiệm vụ của toàn dân, của đất nước giao cho, chứ không phải do ông trời nào phán

bảo cả ... Muốn cho cách mạng thắng lợi phải có dân, được dân đồng tình ủng hộ và

trực tiếp tham gia vào cuộc cách mạng, đó là lực lượng chủ yếu. Trải gần một trăm

năm sống đời nô lệ, bọn đế quốc, phong kiến đã làm cho dân tộc ta trở nên ngu dốt,

tối tăm. Nay ta phải giúp cho người dân học chữ, học văn hóa, học phương pháp tổ

chức cách mạng, đưa họ vào tổ chức chính trị, vũ trang, đồng lòng, đồng chí hướng

trên đường tranh đấu. Tạo ra một phong trào mạnh mẽ, rộng khắp, một cao trào cách

41

mạng như triều dâng, thác đổ” [37, tr.42-43].

Đối với Bác, cách mạng luôn là nòng cốt để nhân dân ta giành được thắng lợi.

Dù khó khăn đến đâu, Bác cũng không chịu lùi bước mà luôn hướng niềm tin vào

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Để cách mạng thành công, Bác đã động viên mọi

tầng lớp nhân phải đoàn kết để tạo nên một phong trào mạnh mẽ, nhóm tia lửa thành

ngọn lửa cách mạng đầy nhiệt huyết.

Ý chí và nghị lực của Bác còn được thể hiện trong phong cách ung dung, tự tại.

Khi bị bắt tại Túc Vinh, Bác tỏ ra điềm tĩnh viết thư cho Lê Quảng Ba: “Lập tức

thông báo cho mọi người biết: Hồ Chí Minh, đại biểu của Mặt trận Việt Minh chống

xâm lược của Việt Nam sang hội đàm với các lực lượng chống xâm lược của Trung

Quốc vì bị hiểu lầm đã bị bắt và giam ở Tịnh Tây. Đoàn đại biểu của Phân hội Việt

Nam, phản xâm lược sang Trung Quốc hội đàm có 3 người, nhưng đi đường núi một

người lạc đường, một người bị đá rơi vào chân không đi được, nên chỉ còn một mình

Hồ Chí Minh đi. Hồ Chí Minh là Đảng cộng sản Đảng nhưng không có bất cứ một

liên hệ nào với Đảng cộng sản Trung Quốc ... ” [37, tr.296-297].

Trong hoàn cảnh khó khăn, Hồ Chí Minh vẫn cố gắng vượt qua mọi thử thách

để hướng về cách mạng, hướng về dân tộc Việt Nam. Khi bị bắt ở Tịnh Tây -

Trung Quốc, Bác không hề có hành động phản kháng lại, song Người cũng không

cam chịu cảnh bị tù oan. Chính vì vậy, Người đã viết thư thông báo cho mọi người

biết là mình bị bắt oan khi là đại biểu của Mặt trận Việt Minh chống xâm lược của

Việt Nam sang hội đàm với các lực lượng chống xâm lược của Trung Quốc. Với

hình ảnh, tình tiết sinh động, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện lại nguyên

mẫu Hồ Chí Minh với ý chí và nghị lực kiên cường.

Trong Giải phóng, phẩm chất anh hùng của Bác hiện lên khá sắc nét. Khi nói

chuyện cùng Thiếu tá Thomas, Bác dứt khoát: “Thưa ngài Thomas, chúng tôi có thể

đón một triệu quân Mỹ nhưng với người Pháp thì không! Xin nhắc lại, không! dù chỉ

là một người” [38, tr.54]

Là một người có tầm nhìn xa trông rộng, nên trước lời đề nghị của Thiếu tá

Thomas, Bác đã thẳng thắn trả lời một cách dứt khoát, rành rọt. Khi vừa giới thiệu về

các thành viên trong trong đội, Thomas cảm nhận rất rõ ánh mắt không thiện cảm khi

42

giới thiệu hai cái tên đặc sệt Pháp là Môngpho và Lôgốt, đặc biệt là Trung sỹ Phác,

một cái tên thuần Việt trong đội Con Nai. Chính vì vậy, Bác mới thẳng thắn: “chúng

tôi có thể đón một triệu quân Mỹ nhưng với người Pháp thì không! Xin nhắc lại,

không! dù chỉ là một người”. Có lẽ vì người Pháp đã gây nên bao tội ác đối với dân

tộc Việt Nam nên Bác Hồ tỏ ra căm phẫn. Từ phủ định “Không” được nhắc lại hai lần

càng làm tăng thêm nỗi căm phẫn tột độ trong lòng Bác. Cũng qua câu nói ấy mà

phẩm chất của người anh hùng cách mạng trỗi dậy mãnh liệt. Người có thể tin và đón

chào những người Mỹ chân chính đến Việt Nam trong hoàn cảnh này, với thiện chí

này nhưng không bao giờ Bác chấp nhận bóng dáng của quân xâm lược Pháp, dù chỉ

là một người trên đất nước này.

Qua ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên, bên cạnh những phẩm chất con người vĩ

nhân, con người đời thường ấy, Bác còn hiện là một con người anh hùng với bản lĩnh

kiên cường, quyết đoán, quyết tâm chống lại mọi hành động xâm lược của kẻ thù, giành

thắng lợi lớn để dân tộc Việt Nam được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Không chỉ là người có tài năng với sự hiểu biết uyên thâm trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, nhất là trong giai đoạn

sống và làm việc tại Pác Bó, tỉnh Cao Bằng, con người vĩ nhân ấy còn bộc lộ khả

năng tiên đoán về vận mệnh của đất nước, của dân tộc.

Trong khi nói chuyện với các đồng chí của mình, Bác phân tích rõ về tình hình

đấu tranh của quân và dân ta tại một số tỉnh, thành trong cả nước, đồng thời tự tin

khẳng định: “Căn cứ địa Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kế sát biên giới,

lấy đó làm cơ sở liên lạc Quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát

triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được.

Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh

vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ” [38, tr.81].

Để cách mạng thành công rất cần sự đoàn kết thống nhất, cần chiến lược mở

rộng, phát triển trong phong trào cách mạng từ Cao Bằng ra toàn quốc. Chính vì thế,

Người đã khẳng định: chọn căn cứ địa Cao Bằng làm cơ sở liên lạc Quốc tế rất thuận

lợi. Cao Bằng là tỉnh kề sát biên giới lại có nhiều phong trào tốt nên Bác đã chọn nơi

đây đặt trụ sở.

Với giọng văn hào sảng, đanh thép, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã soi sáng

43

chân dung tâm hồn Bác với một niềm tự hào, ngợi ca. Không chỉ dừng lại ở đó, Bác

còn hiện lên với hình ảnh của một nhà tiên tri vĩ đại qua suy nghĩ của Patty: “Ông già

gày gò, Chủ tịch của Chính phủ lâm thời thực là một nhà tiên tri vĩ đại - Ông có thể

đoán được một cách chính xác ngày dân tộc ông, đất nước ông giành được độc lập.

Tiên tri hay là niềm tin, niềm mong ước - Có lẽ cả hai...” [38, tr.147-148].

Chính niềm tin đã giúp Bác chiến thắng tất cả khó khăn trước mắt để có thể

đoán định được tương lai. Niềm tin và niềm mong ước, đó là hai yếu tố không thể

tách rời, bởi nếu không có niềm tin thì không thể mong ước có ngày thắng lợi và nếu

không biết mong ước thì sẽ không bao giờ có niềm tin tồn tại trong suy nghĩ. Cả hai

yếu tố niềm tin và mong ước luôn tồn tại song song trong suy nghĩ, hành động của

Bác. Bác luôn đặt niềm tin vào thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt

Nam và luôn mong người dân sớm được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Thứ hai: phẩm chất vĩ nhân biểu hiện ở phương diện Bác là một nghệ sĩ cách

mạng – nghệ sĩ trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất

Bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế, Hoàng Quảng Uyên đã sử dụng nghệ thuật hư

cấu để xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh không chỉ là một vĩ nhân có tầm nhìn xa

trông rộng và tài năng kiệt xuất, mà còn là một người có tâm hồn thi sĩ, nhạy cảm trước

thiên nhiên, con người và vạn vật. Con người nghệ sĩ thể hiện qua những rung cảm thẩm

mĩ, rồi những rung cảm thẩm mĩ ấy kết tinh thành những tác phẩm bất hủ trước vẻ đẹp

thiên nhiên, con người và bản làng Việt Bắc.

Suốt thời gian sống và hoạt động cách mạng tại Pác Bó, Cao Bằng, Bác luôn

hòa mình vào thiên nhiên vạn vật để trải lòng mình. Tất cả những hình ảnh đẹp đẽ về

thiên nhiên như thu vào tầm mắt, tạo cho Bác cảm hứng dạt dào bất tận về thiên nhiên

vô cùng tươi đẹp với hình ảnh của sông, của núi diễm lệ đến tuyệt vời.

Bác về đây, đứng trước một phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, trước các đồng

chí và quần chúng nhân dân cùng chung ý chí, trong lòng bậc vĩ nhân lại chan chứa

một tâm hồn thi sĩ, dạt dào xúc cảm và Người đã sáng tác thành một bài thơ tuyệt tác

với tiêu đề: “Pác Bó hùng vĩ:

Non xa xa, nước xa xa

Nào phải thênh thang mới gọi là,

Đây suối Lê nin, kia núi Mác

44

Hai tay xây dựng một sơn hà. [37, tr.71]

Ở đây, nhà văn đã hư cấu để tái hiện lại hoàn cảnh Bác sáng tác bài thơ: “Ông

Ké bước đi chầm chậm, xuôi theo con suối … Đến con đường mòn rẽ lên núi ở phía

tay phải, bước lên trên một mô đá cao. Từ đây nhìn được cả một vùng điệp trùng núi,

điệp trùng mây. Tứ thơ chợt đến trong cảnh sắc đất trời vào tiết Vũ thủy. Cơn mưa

tẩy sạch bụi trần.” [37, tr.70].

Hoàn cảnh ấy được hư cấu khi tác giả nhấn mạnh: trong hoàn cảnh đất nước có

chiến tranh, có thể trong lòng Bác đang rất lo lắng cho vận mệnh của dân tộc

nhưng khi đứng trước phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp với cảnh Non xa xa, nước

xa xa, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn giữ được tinh thần lạc quan để có thể sáng

tác một bài thơ tứ tuyệt hay đến vậy. Qua nghệ thuật hư cấu, tâm trạng của Bác

được tái hiện rõ nét với một tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ luôn nhạy cảm trước cảnh sắc

thiên nhiên tươi đẹp.

Bên cạnh đó, nhà văn còn hư cấu để tái hiện tâm trạng Bác khi đứng trước

cảnh núi rừng Việt Bắc lung linh, huyền ảo: “Ông ké trầm ngâm một lúc rồi đứng

dậy, chỉ tay lên hang Cốc Bó, cách hơn một trăm mét cất giọng:

“Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thế mà sang” [37, tr.75]

Tâm trạng trầm ngâm suy nghĩ của một bậc thi sĩ được tác giả hư cấu gắn với

hành động cụ thể. Hành động chỉ tay lên hang Cốc Bó càng làm rõ hơn phẩm chất của

một thi sĩ cách mạng, đó là niềm tự hào về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của núi

rừng Pác Bó. Dưới ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên, tâm trạng ấy được hư cấu rất

thành công bởi lẽ, cũng có thể, khi sáng tác bài thơ này, Bác đang ngồi trầm ngâm

suy nghĩ tại hang Cốc Bó và viết thơ ra giấy chứ không hề có hành động chỉ tay

lên hang hoặc cất giọng đọc sang sảng. Đó chính là nét độc đáo của nhà văn trong

việc sử dụng nghệ thuật hư cấu nhằm giúp người đọc hiểu hơn về Bác, một con

người không chỉ có tình yêu đối với dân tộc, với nhân loại mà còn có một tình yêu

sâu đậm với thiên nhiên.

Không dừng lại ở đó, Hoàng Quảng Uyên còn cho người đọc thấy được chân

45

dung tâm hồn nghệ sĩ Hồ Chí Minh qua những câu thơ giàu hình ảnh:

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,

Lòng sông gương sáng bụi không mờ

Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.”[37, tr.333]

Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện hoàn cảnh Bác sáng tác bài thơ Mới ra tù tập

leo núi: “Một lần, leo lên núi Ngư Phong, một ngọn núi ở phía Tây bên kia bờ sông

Liễu Giang. Lên đến đỉnh, nhìn xuống dòng Liễu Giang xanh ngắt, không hề vẩn bụi.

Xa xa những ngọn núi choàng mây trắng, lớp lớp mờ dần trong tầm mắt…”[37,

tr.333]. Bằng nghệ thuật hư cấu, hoàn cảnh sáng tác bài thơ càng trở nên rõ nét hơn

khi vừa mới ra tù, Bác đã sáng tác thơ nhưng lại sáng tác trong hoàn cảnh tập leo núi.

Khi sáng tác, vị trí đứng của tác giả là ở trên cao, bao quát không gian rộng lớn gồm

có sông, có núi và có mây, tạo thành một bức tranh “Sơn thủy hữu tình”. Cùng với

đó, tâm trạng của Bác cũng được hư cấu khi: “chợt nhớ đến quê hương, nhớ những

người bạn chiến đấu… cảm thấy lòng mình trống trải”[ 37, tr.333]. Ở đây, Hoàng

Quảng Uyên cho người đọc thấy được nỗi trống trải, cô đơn của Bác khi nhớ về quê

hương, bạn bè, đồng chí, đồng đội.

Không dừng lại ở đó, nhà văn Hoàng Quảng Uyên còn hư cấu bức tranh thiên

nhiên để nói về hoàn cảnh Bác sáng tác bài thơ Nguyên tiêu: “Ánh trăng bàng bạc,

trải ánh vàng lên lau lách, cây cối hai bên bờ. Nước chảy êm đềm, hắt ánh trăng lên

thuyền. Xa xa hơi nước bảng lảng... Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở đầu thuyền thư

thái, mê mải ngắm trăng trên trời rồi lại nhìn trăng sóng sánh dưới sông, cảnh sắc làm

thức dậy hồn thơ, Người khe khẽ ngâm:

Kim dạ nguyên tiêu, nguyệt chính viên

Xuân Giang, Xuân thuỷ, tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. [38, tr.508]

Dưới ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên, vẻ đẹp của thiên nhiên càng trở nên lung

linh hơn, huyền ảo hơn. Không còn là ánh trăng khi mờ, khi tỏ mà là ánh trăng bàng

bạc, trải ánh vàng xuống lòng sông. Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng của người nghệ sĩ

cũng được hư cấu khi mê mải ngắm trăng trên trời rồi lại nhìn trăng sóng sánh dưới

46

sông để sáng tác thơ.

Chân dung người nghệ sĩ hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn Hoàng Quảng Uyên

khá chi tiết và ấn tượng. Hồ Chí Minh hiện lên trong hai tiểu thuyết không chỉ một

nhà văn, nhà thơ mà còn trở thành một nghệ sĩ cách mạng tài ba. Kháng chiến tuy

gian khổ, hi sinh lớn lao nhưng không hề làm suy giảm nguồn thi hứng của một con

người đầy phẩm chất nghệ sĩ. Bác Hồ làm thơ ngay cả trong những ngày tháng gian

lao vất vả nhất của cuộc đời cách mạng. Trong mọi hoàn cảnh, thời gian, vượt bao

trông gai, thử thách, tâm hồn nghệ sĩ vẫn trong sáng, tự tin và tràn đầy sức sống, vì

rung cảm nghệ sĩ còn được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng son sắt. Cho đến hôm

nay, âm vang của những vần thơ, lời thơ do Người sáng tác vẫn tạo được dấu ấn riêng

và có sức lay động lòng người. Đó chính là sự mới mẻ, góp phần tạo nên những trang

viết đặc sắc của riêng Hoàng Quảng Uyên trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.

Thứ ba: phẩm chất vĩ nhân qua cái nhìn, cảm nhận của đồng bào, đồng chí và

của các nhân vật ở bên kia chiến tuyến

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Bác đã sống và làm việc với rất

nhiều đồng chí, đồng đội khác, thậm chí còn thu phục, thuyết phục cả với kẻ thù,

chính những điều ấy đã khiến cho nhiều người nhìn Bác với cái nhìn cảm phục, ngợi

ca và coi Bác như người thân cùng chung huyết thống. Trong suy nghĩ của đồng chí,

đồng bào, Bác không chỉ có tài năng, nghị lực mà Bác còn trở thành tấm gương sáng

để mọi người học tập và làm theo. Con người vĩ nhân ấy hiện lên qua cảm nhận của

đồng bào, đồng chí và qua cảm nhận của những người đứng bên kia chiến tuyến.

Trong tác phẩm Giải phóng, Bác thực sự trở thành vĩ nhân khi Bác “là một bậc

tài nhân thu phục hết thảy mọi người” [38, tr.14]

Qua suy nghĩ của ông Giáo, Bác hiện lên là một người tài năng và có khả năng

thuyết phục mọi tầng lớp nhân dân đi theo cách mạng, làm cách mạng để giành lấy

chính quyền, giành lấy độc lập tự do cho dân tộc. Cũng là một con người bình

thường được sinh ra giữa trời đất như biết bao nhiêu người khác, thế nhưng ở Bác

luôn bộc lộ được trí tuệ thông minh, uyên bác hơn người. Ngoài trí lược tài cao, Bác

còn có khả năng tập hợp quần chúng thông qua ngôn ngữ giao tiếp đời thường, vừa

gần gũi, vừa thân thiết. Với người dân, Bác được coi như một “Ông Tổ”: “Ông cụ

47

đúng là Pỏ Cốc (ông tổ) rồi, dân mình có ông Cụ, chắc chắn giành lại được nước”

[38, tr.14]. Trong quan niệm của người xưa, “Ông Tổ” chính là đứng đầu, là người

khai sinh ra một dòng họ, một dòng tộc ... Với ý nghĩa này, Bác được coi như người

đứng đầu một dân tộc, có khả năng đưa đất nước ta thoát khỏi ách thống trị của thực

dân, đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Cũng trong tác phẩm Giải phóng, Bác còn khiến người đọc không chỉ cảm phục

trước sự hiểu biết uyên thâm về lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn kính phục trước sự

hiểu biết về lịch sử nước Mỹ hơn cả những người con của đất nước này. Trước sự

ngạc nhiên của Tam và MacShin, Bác lý giải về lịch sử nước Mỹ, về Tuyên ngôn độc

lập của nước Mỹ: “Tôi hiểu, các bạn nhiều hoài nghi! Tại sao trong lúc này tôi không

yêu cầu trợ giúp vũ khí, thuốc men, và tiền và nhiều thứ nữa. Những thứ đó hiện nay

chúng tôi đang rất thiếu, rất cần nhưng những nội dung của bản Tuyên ngôn độc lập

của Hoa Kỳ chính là đường hướng, là mục tiêu cần đạt tới của cuộc đấu tranh của dân

tộc tôi với sự đồng lòng ủng hộ của lực lượng Đồng Minh. Xin nói kỹ thêm, bản tuyên

ngôn đó được ngài GiépPhécXơn sau này là Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thảo

vào năm 1775 và được đại biểu của 13 bang Bắc Mỹ thông qua ngày 4/7/1776 sau này

trở thành Tuyên ngôn Độc Lập của nước Mỹ. Đó cũng chính là nguyện vọng của các dân

tộc thuộc địa như chúng tôi đứng lên giành độc lập, tự do... ” [38, tr.19].

Những minh chứng mà Bác nói rõ trước mặt Tam và MacShin càng thể hiện rõ niềm

tin vào con đường giải phóng dân tộc. Theo Bác phân tích, Việt Nam muốn giành độc lập

tự do cần dựa vào bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ để vạch ra đường lối đấu tranh.

Bác đã chỉ đích danh người sáng lập ra bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ chính là ngài

GiépPhécXơn sau này là Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thảo vào năm 1775 và

được đại biểu của 13 bang Bắc Mỹ thông qua ngày 4/7/1776. Lời nói của Bác khiến cả

Tam và MacShin đều cảm thấy ngạc nhiên vô cùng, bởi chính họ cũng không hiểu hết

được lịch sử phát triển của nước Mỹ, nơi họ được sinh ra và lớn lên.

Có thể nói: Hồ Chí Minh là một lãnh tụ có tầm nhìn xa trông rộng với tài năng

và trí tuệ uyên bác. Tầm nhìn chiến lược trong cách nhìn nhận, đánh giá về mặt chính

trị của Bác đối với sự nghiệp cách mạng, với vận mệnh của dân tộc cao cả hơn ai hết.

Trong mọi suy nghĩ, qua mọi hành động, ở Bác đều toát lên vẻ thanh tao, minh triết.

Con người vĩ nhân ấy trở thành một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, của thời đại

48

chúng ta và của cả mai sau.

Nhân vật Hồ Chí Minh với phẩm chất con người đời thường

Hồ Chí Minh là chiến sỹ cách mạng vĩ đại, là nhà chính trị xuất sắc nhưng bên

cạnh con người tài ba đó, Hồ Chí Minh cũng là con người bình thường như bao con

người khác, cũng có những cách ứng xử bình dị đối với công việc, với các mối quan

hệ hàng ngày. Giống như những người dân, những người đồng chí, đồng đội khác,

Hồ Chí Minh hiện lên là con người đời thường qua phong cách sinh hoạt giản dị, gần

gũi; qua tình cảm đằm thắm dành cho đồng bào, đồng chí và qua cách sinh hoạt, ăn ở

giản dị, đạm bạc. Ở đây, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã hư cấu để khắc họa con

người đời thường trong Hồ Chí Minh qua các phương diện: phẩm chất đời thường

trong phong cách sinh hoạt, trong hoạt động giao tiếp, ứng xử với đồng chí, đồng bào

và qua cái nhìn cùng cảm nhận của các nhân vật khác.

Thứ nhất: phẩm chất đời thường trong phong cách sinh hoạt

Đã có biết bao nhiêu lời ca ngợi phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh. Đó là

sự giản dị, trong sạch, thanh cao, sống chừng mực, yêu lao động và luôn quan tâm

giúp đỡ đồng bào, đồng chí.

Đầu tiên có thể kể đến cách ăn uống của Người trong Mặt trời Pác Bó với

những bữa cơm nghèo đạm bạc quây quần bên đồng chí, đồng đội: “Nồi cơm to độn

ngô, bát rau măng sào, bát canh phắc Bon của núi rừng Pác Bó. Đói và vui. Mọi

người cảm thấy ăn rất ngon miệng” [37, tr.149].

Dù Bác là một vị lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, là thượng khách của

nước Pháp và đã từng được tận hưởng những “sơn hào hải vị” tại nơi đất khách quê

người, nhưng chưa bao giờ Bác cảm nhận được hương vị ngon của những bữa ăn cao

sang ấy. Bác chỉ thực sự vui khi được ngồi cùng các đồng chí, đồng đội đồng cam

cộng khổ, cùng được ngồi với nhau san sẻ từng hạt cơm độn ngô khô khốc, chan bát

canh rau rừng mà trong lòng thấy ấm áp và ngon đến lạ thường. Những loại rau mọc

từ thiên nhiên đã trở thành món ăn thường xuyên của những người làm cách mạng.

Hương vị ngai ngái của măng vầu hòa lẫn mùi thơm dịu mát của phắc Bon rừng đã

tạo ra mùi vị đặc trưng riêng của bữa cơm nhà nghèo ấy. Dù cơm không đủ ăn, bụng

vẫn còn thấy đói nhưng trong lòng ai ai cũng đều cảm thấy hồ hởi bởi đây là bữa cơm

49

thân tình, bữa cơm của tình Bác cháu, tình đồng chí, đồng đội.

Tác phong sinh hoạt bình dị còn được thể hiện thông qua chi tiết Bác từ chối

món canh gà hầm sâm được dân quân mang lên để bồi dưỡng sức khỏe khi đang ốm:

“Bác không ăn những đồ ăn quý như thế! Bác có phải là Vua chúa đâu” và “Nước râu

ngô, nước ngô non thì được, còn những thứ khác thì các cháu mang về” [38, tr.74]

Hình ảnh Bác trở nên gần gũi hơn với đồng bào, đồng chí khi Bác tự khẳng

định mình không phải là bậc vua chúa. Bác kiên quyết từ chối món canh gà hầm sâm

bởi trong lòng Bác luôn nghĩ nhân dân đang đói khổ. Chính vì vậy, Bác cũng chỉ

thưởng thức những món ăn dân dã mà thường ngày nhân dân vẫn dùng. Đó là nước

râu ngô và nước ngô non. Nhìn thấy nhân dân đói khổ, cơm không đủ ăn, áo không

đủ mặc, lòng Bác đau nhói. Đã nhiều lần Bác “nhịn ăn một bữa, không phải để hành

hạ mình cho khổ sở mà nêu gương dè sẻn gạo cho đồng bào, nhằm làm giảm nạn

đói trong nước” [38, tr.298].

Sự ăn ở giản dị đến cực độ như một nhà ẩn sĩ đó là đức tính rõ rệt nhất của

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ với vài chi tiết tiêu biểu, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã

vẽ nên chân dung giản dị, đời thường và gần gũi của Hồ Chí Minh trong tác phong

sinh hoạt, trong nếp ăn ở ...

Phong cách sinh hoạt đời thường của Bác còn hiện lên qua những thói quen hàng

ngày. Đó là việc rèn luyện thể dục thể thao, cách giặt quần áo vào mỗi buổi sáng .v.v.

Không chỉ giản dị, đời thường trong lối sống, cách ăn uống mà Bác còn rất

chăm chỉ rèn luyện thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và Bác luôn coi đó là điều

không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày: : “... Quả nhiên, đi gần đến bờ suối

nhìn qua lùm cây, thấy ông Ké đang tập quyền. Chiếc khăn mặt vắt qua cổ, hai chân

đứng thế tấn vững như cây cột nghiến, lúc tiến, lúc thoái dứt khoát, mạnh mẽ và đẹp.

Bước chân ông Ké lướt trên các tảng đá, đôi bàn tay khi thì đâm thẳng ra phía trước

như mũi lao. Khi vặn người qua trái, qua phải như thanh kiếm sắc chém gió, đẹp tựa

rồng bay, hổ vồ” [37, tr.24]

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh để miêu

tả cách rèn luyện thể dục thể thao của Bác vô cùng ấn tượng với thế đứng tấn vững

như cây cột nhà, đôi bàn tay khi thì đâm thẳng ra phía trước như mũi lao và khi vặn

người qua trái, qua phải như thanh kiếm sắc chém gió, đẹp tựa rồng bay, hổ vồ.

50

Những động từ như “đâm thẳng”, “vặn người”, “chém gió”, “rồng bay”, “hổ vồ”

được sử dụng liên tiếp giúp người đọc thấy được đằng sau hình ảnh tiều tụy, gầy gò

ấy là một sức mạnh phi thường, một ý chí “thép” rắn rỏi đầy kiên cường và bất khuất.

Bác rèn luyện thể dục thể thao vừa để nâng cao sức khỏe, vừa để có một tinh thần thư

thái nhằm mục đích cống hiến được nhiều hơn cho nhân dân, cho Tổ quốc. Bên cạnh

đó, Bác còn có một thói quen là “mỗi buổi sáng từ nơi ở đi xuống con suối nhỏ

dưới chân đồi chừng nửa tiếng, khi đi lên Ông Cụ tay chống gậy, một vai vác ống

tre đựng nước, một vai vắt quần áo vừa giặt leo từng bước, từng bước giữa con

đường dốc đánh bậc, khoẻ khoắn và dứt khoát” [38, tr.37].

Hình ảnh tay chống gậy, một vai vác ống tre đựng nước, một vai vắt quần áo vừa

giặt khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh của người nông dân bình dị, chất phác.

Mang dáng vẻ bề ngoài ốm yếu nhưng Bác luôn dồi dào sức khỏe để làm nhiều việc

giống như những người lao động khác. Mọi hành động của Bác đều dứt khoát, khỏe

khắn, điều đó càng làm ta cảm thấy tự hào và thấy Bác càng gẫn gũi hơn.

Với hành loạt chi tiết, hình ảnh nói về tác phong sinh hoạt đời thường của Hồ

Chí Minh, nhà văn đã cho người đọc hiểu thêm về chân dung tâm hồn của vị lãnh tụ

đáng kính. Không chỉ ăn uống đạm bạc, khắc khổ, mà Bác còn sẵn sàng hy sinh tất cả

vì lợi ích dân tộc, vì đồng chí, đồng bào. Khi Hồ Chí Minh còn sống cũng như khi đã

mất, hình ảnh của Người, phong cách sinh hoạt, ứng xử và cuộc đời của Người luôn

là hình ảnh cao đẹp để mọi người học tập và làm theo.

Thứ hai: phẩm chất đời thường trong hoạt động giao tiếp, ứng xử với đồng chí,

đồng bào

Trong hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, con người đời thường trong

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hiện lên qua hàng loạt hành động gắn với phong cách sinh

hoạt thường ngày.

Hình ảnh Hồ Chí Minh hiện lên rất đỗi chân thực, gần gũi thông qua hành

động “chặt lá rừng, chặn nước dâng cao và làm cái phản nằm trên mảng dành cho

người ốm”. Cũng như những đồng chí khác, Bác ý thức trong mọi hành động của

mình, không hề phân biệt bản thân mình là một lãnh tụ với những người dân lao

động bình dị: “Hóa ra suốt đêm qua, ông cụ chặt lá rừng, chặn nước dâng cao và

51

làm cái phản nằm trên mảng dành cho người ốm...” [37, tr.136].

Sự quan tâm tới các đồng chí, đồng đội bằng những việc làm và hành động cụ

thể khiến cho Bác cảm thấy vui và thoái mái hơn. Việc chặt lá rừng, chặn nước dâng

cao và làm cái phản nằm trên mảng dành cho người ốm là hành động, là cách quan

tâm của Bác đến đồng chí, đồng đội. Bác lo cho dân cũng chính là lo cho bản thân

mình, dân có khỏe thì Bác mới yên lòng.

Song song với những hành động đời thường ấy, Bác còn bộc lộ tình cảm của

mình với đồng chí, đồng đội qua cách xưng hô thân mật, gần gũi: “Mình hay viết

ngắn, ngắn thì quần chúng dễ đọc, dễ nhớ, đọc văn của các chú thấy nhiều tính từ,

nhiều câu phức hợp, đọc mệt ...” [37, tr.177].

Trong khi nói chuyện với các đồng chí, Bác dùng từ “mình” và “các chú” để

xưng hô, tạo cảm giác gần gũi, thân mật giống như những người sống chung dưới

một nhà. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù đi đến đâu, ở nơi nào, gặp ai

Bác cũng coi như người nhà và luôn đối xử với họ một cách chân thành, sâu sắc. Bác

xưng hô thân mật cũng là cách để nhắc nhở các đồng chí của mình trong lối dùng từ,

viết câu cũng như trong cách soạn thảo Nghị quyết phải vừa ngắn gọn, dễ hiểu lại vừa

dễ nhớ với nội dung trọng tâm là: Độc lập dân tộc, tích cực chuẩn bị lực lượng chính

trị và lực lượng vũ trang tiến tới tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

Ngoài ra, “Khi công việc truyền tin hoàn thành Ông Cụ ngồi nói chuyện với

mọi người những câu chuyện thân tình và gần gũi... ” [38, tr.38].

Qua những câu chuyện đời thường Bác kể, hình ảnh một người ông, một

người cha, một người chỉ huy, một ông tiên cốt cách phong trần đọng lại trong tâm

trí mọi người, thực sự là những nguồn sáng, nguồn động viên để họ dấn bước trên

những chặng đường giải phóng đầy hy sinh và gian khổ.

Chỉ với một vài chi tiết tiêu biểu, nhà văn đã cho người đọc thấy được Chủ

tịch Hồ Chí Minh là một người có cốt cách thanh cao. Mọi suy nghĩ của Bác đều

gắn với những hành động cụ thể và tất cả đều xuất phát từ trái tim yêu nước,

thương dân thắm thiết, chân thành của Người. Ngoài việc quan tâm, chăm lo cho

người khác, Bác thường xuyên trò chuyện với các đồng chí, đồng đội ngày đêm kề

vai sát cánh vừa để hiểu rõ hơn về cuộc sống của từng người cũng vừa là biểu hiện

của tình cảm chân thành trong trái tim Bác – một người cha, người anh hùng vĩ đại

52

mà gần gũi với đồng chí, với nhân dân của mình.

Thứ ba: phẩm chất đời thường qua cái nhìn và cảm nhận của các nhân vật khác

Hồ Chí Minh vốn là người có phong cách giản dị, đời thường nhưng trong suy

nghĩ của người khác, tính giản dị, đời thường ấy càng hiện lên đậm nét hơn, ấn tượng

hơn. Trong hai tác phẩm này, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã xây dựng hình ảnh con

người đời thường trong Bác qua hai phương diện, đó là: hình ảnh của Bác trong cảm

nhận của đồng chí, đồng bào và hình ảnh của Bác trong cảm nhận của những người

đứng bên kia chiến tuyến.

Hình ảnh Bác trong cảm nhận của đồng chí, đồng bào

Trong tác phẩm Mặt trời Pác Bó, qua suy nghĩ của ông Máy Nì, hình ảnh của

Bác hiện lên rất đỗi giản dị, khiến người khác cảm thấy xót thương những cũng đầy

tự hào: “Đôi bàn chân khô ráp, xương xẩu của ông Ké mỗi khi cựa mình chạm vào

chân ông lại làm ông suy nghĩ gần xa” [37, tr.21].

Dáng hình gầy gò, bàn chân khô ráp, xương xẩu đầy khắc khổ ấy hằn sâu

trong suy nghĩ của ông Máy Nì khiến ông cảm thấy động lòng trắc ẩn. Chính ông

Máy Nì không thể biết rằng, ông Ké nằm cạnh ông đây đã ba mươi năm xa tổ quốc,

bàn chân đã đạp qua bao gai góc, đặt lên muôn nẻo đường khắp các phương trời Á –

Âu, tìm đường cứu nước, cứu dân. Bao nhiêu năm xa quê hương, xa Tổ quốc, giờ Bác

đến giữa núi rừng thâm u của Pác Bó hùng vĩ để vạch ra con đường giải phóng để đưa

dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm đen nô lệ, nghèo khó. Trải qua biết bao gian nan,

thử thách, bàn chân Bác đã bước đến nhiều phương trời khác nhau để tìm được con

đường giải phóng cho dân tộc. Ở những nơi Bác từng đến, cũng có nhiều nơi cũng

chịu cảnh nô lệ lầm than, người dân bị áp bức, vùi dập đến tận xương tủy mà không

có lối thoát nhưng cũng có những nơi người dân lại được tận hưởng cuộc sống tự do

với lối sinh hoạt sa hoa, lộng lẫy. Tất cả những những gì Bác từng được chứng kiến

tại nhiều nước trên thế giới khiến quyết tâm tìm đường cứu nước để dân tộc Việt

Nam được độc lập tự do trong Bác càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Sau ba

mươi năm xa Tổ quốc, Bác đã tìm thấy niềm tin tất thắng vào cuộc cách mạng, dẫu

cho cuộc cách mạng ấy còn nhiều khó khăn, gian khổ.

Ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên hướng người đọc tới lòng tự hào và niềm

53

xúc động vô bờ. Tự hào về một người con đất Việt xa quê tìm đường cứu nước. Tự

hào về một con người vĩ nhân trong việc định hướng phát triển sự nghiệp cách mạng,

dẫn đường chỉ lối để cách mạng hướng tới thành công. Tự hào về một con người vĩ

đại khi vượt qua bao gian khổ, hy sinh bản thân mình để cứu nước, cứu dân mà không

hề nghĩ đến lợi ích cá nhân ...

Hình ảnh Bác trong cảm nhận của những người đứng bên kia chiến tuyến

Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh được cả thế giới biết đến là một bậc đại nhân, đại

trí, đại dũng, song trong suy nghĩ của những người không cùng màu da, sắc tộc, Người

hiện lên là một người “không "oai" chút nào” nhưng vẫn tạo ra một ấn tượng đặc biệt với

những ai tiếp xúc Người và “Đó là một người có tầm vóc trung bình, gầy gò, vầng trán

cao, để râu cằm và râu mép theo kiểu các cụ già An Nam. Đặc biệt ông có đôi mắt rất

sáng. Con người ông toát lên vẻ khắc khổ trong bộ quần áo cổ cứng không cài cúc cổ, chân

đi đôi giày vải màu xanh, đế bện bằng dây gai! không uy nghiêm, mà tỏ ra thiện chí và

thấu hiểu” [38, tr.239].

Hình ảnh của Bác hiện ra dưới con mắt của Xa Lăng là một người rất đỗi bình

thường với tầm vóc trung bình, gầy gò, vầng trán cao, để râu cằm và râu mép. Nhìn bề

ngoài, nhiều người cho rằng Bác là một cụ già mang phong cách của người An Nam toát

lên vẻ khắc khổ. Bộ quần áo Bác đang mặc trên người cũng giản dị quá đỗi với chân đi đôi

giày vải màu xanh, đế bện bằng dây gai! Nhưng Bác có đôi mắt rất sáng. Đôi mắt ấy toát

lên vẻ thông minh, nhanh nhẹn, biết nhìn người, nhìn đời. Chính ấn tượng đặc biệt về Bác

được tạo ra từ đôi mắt sáng ấy.

Con người đời thường trong Hồ Chí Minh qua cảm nhận của người khác là

một con người không oai phong, mà tỏ ra thiện chí và thấu hiểu. Nếu như trong suy

nghĩ của ông Máy Nì, Bác hiện lên là người khắc khổ với dáng vẻ bề ngoài đầy tiều

tụy thì với Xa lăng, Bác lại là con người có vẻ ngoài giản dị đến khắc khổ nhưng lại

để lại ấn tượng bằng đôi mắt sáng.

Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khắc họa thành công chân dung đời thường của

Hồ Chí Minh với nhiều điểm nhìn đan xen, tạo nên cái mới lạ và độc đáo trong phong

cách sáng tạo nghệ thuật của mình. Tuy tỷ lệ khác nhau nhưng nhà văn đã sử dụng hư

cấu nghệ thuật để miêu tả, tái hiện, lý giải đời sống tâm hồn của Bác trong một số

54

hoàn cảnh đặc biệt, điều mà lịch sử không thể làm được. Lịch sử có thể ghi lại được

hình ảnh của Bác về ngày giờ, Bác nói gì? làm gì? viết gì? nhưng không thể thấy

được tâm hồn Bác cũng như thấy được Bác đang suy nghĩ những gì? tâm hồn của Bác

như thế nào khi đứng trước cảnh, trước người, trước sự việc đang diễn ra hay trước

đồng chí, đồng đội và cả khi đứng trước kẻ thù .v.v. Điều ấy chỉ có văn học làm được

bằng hư cấu nghệ thuật, song đây không phải là hư cấu tùy tiện mà là hư cấu đảm bảo

tính lôgic ở hai phương diện. Đó là: tính lôgic của tính cách nhân vật: Tính cách nào,

trí tuệ nào, tâm hồn nào thì sẽ ứng xử như thế ấy trong hoàn cảnh, tình huống ấy. Bởi

vậy, nếu không nắm chắc được cái “Thần” của Bác thì không thể hư cấu được hoặc

hư cấu sai. Và thứ hai tính lôgic của hoàn cảnh lịch sử: nghĩa là hư cấu nhưng bám

sát tính lịch sử của nhân vật và hoàn cảnh ở thời điểm lịch sử ấy. Bởi trong hoàn cảnh

lịch sử cụ thể này thì một bậc “Đại nhân, đại trí, đại dũng” như Bác sẽ hành động,

ứng xử và có suy nghĩ, trạng thái, cảm xúc, tình cảm như thế là tất yếu.

Với việc sử dụng nghệ thuật hư cấu đặc sắc, Hoàng Quảng Uyên một lần nữa đưa

người đọc quay trở lại với quá khứ. Mặc dù nhà văn hư cấu, song đó lại là hư cấu trong

phạm vi cho phép. Nhà văn không hề thần thánh hóa hình tượng nhân vật của mình mà

luôn gắn hình tượng ấy với những khoảnh khắc, những sự kiện lịch sử đã từng diễn ra

trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Dưới ngòi bút của Hoàng

Quảng Uyên, nguyên mẫu Hồ Chí Minh được tái hiện một cách trung thực qua chân

dung, ngôn ngữ, hành động và được soi sáng qua hai phẩm chất “vĩ nhân” và “đời

thường”. Đó chính là thành công lớn nhất của Hoàng Quảng Uyên khi sử dụng nghệ

thuật hư cấu để tái hiện nguyên mẫu Hồ Chí Minh trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó

và Giải phóng.

2.3.4. Hư cấu để tái hiện đời sống nội tâm của Bác

Trong hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, ngoài việc hư cấu tái hiện chân

dung ngoại hình, Hoàng Quảng Uyên còn hư cấu để tái hiện đời sống nội tâm của Bác ở hai

phương diện, đó là: sử dụng lời độc thoại trực tiếp và lời nửa trực tiếp.

2.3.4.1. Độc thoại trực tiếp

Có thể hiểu: Độc thoại là lời nói một mình, trước và sau không có lời nào của

ai khác nhưng người thứ ba đó đang nghe, nghe mà không trả lời như trong kịch và

55

trong phim.

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học: “Độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân

vật đối với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt

động … suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó.” [9, tr.122]

Có thể hiểu: Độc thoại nội tâm là lời độc thoại dùng vào việc miêu tả quá trình

ý nghĩ trong nội tâm và là lời nói thầm kín, viết ra để đọc chứ không nhằm nói ra

thành tiếng như trong kịch mà người đọc qua đó có thể tiếp xúc được, hiểu được tâm

trạng của nhân vật độc thoại nội tâm.

Hay nói cách khác: Độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân vật nói với chính

bản thân, trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý bên trong; kiểu nói thầm, mô phỏng hoạt

động suy nghĩ, xúc cảm của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó. Thủ pháp

này được sử dụng rộng rãi trong văn học.

Trong mỗi một tác phẩm, nhà văn Hoàng Quảng Uyên lại cho người đọc thấy

được niềm lo âu, sự chờ đợi khắc khoải, niềm tin son sắt ẩn sâu trong lòng khi Bác

luôn hướng về cách mạng.

Trong Mặt trời Pác Bó, nhà văn diễn tả tâm trạng của Bác qua lời độc thoại

nội tâm của Người: “Nhà khai hội đã làm xong mà người đến khai hội chưa thấy đâu.

Lần khai hội này quan trọng lắm, quan trọng với cách mạng, quan trọng với thời cơ, thời

cuộc. Thông tri đã được gửi đi ngay sau Tết mời đại biểu cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam. Đã

hơn hai tháng rồi mà chưa nhận được tin gì. Đại biểu Nam Kỳ xa hàng nghìn cây số không

nói làm gì. Đến chậm hoặc không thể đến nhưng đại biểu trung ương ở Bắc Giang, Bắc

Ninh sao có thế chậm như vậy được! hay là có chuyện gì xảy ra? … Đến giờ đã chậm mất

hai tháng rồi. Đồng chí Lôi Minh Hạ, giờ này đồng chí đang ở đâu?”. [37, tr.124].

Luôn hướng về cách mạng, lo cho các đồng chí, đồng bào là phẩm chất cao

quý của những người làm cách mạng. Để giành thắng lợi cho dân tộc, Bác đã vạch ra

con đường, định hướng phát triển cách mạng tại Pác Bó – Cao Bằng. Thời cơ, thời

cuộc và cách mạng là những yếu tố quan trọng để tạo nên thành công, thế nhưng con

người lại là yếu tố mang tính quyết định. Chính vì vậy, khi các đồng chí đại biểu ba

kỳ Bắc, Trung, Nam chưa đến tham dự cuộc họp quan trọng thì Bác cảm thấy lo lắng,

sốt ruột. Nhiều câu hỏi được Bác đưa ra nhưng không hề có câu giải đáp: “Đến chậm

56

hoặc không thể đến nhưng đại biểu trung ương ở Bắc Giang, Bắc Ninh sao có thế

chậm như vậy được! hay là có chuyện gì xảy ra? Đến giờ đã chậm mất hai tháng rồi.

Đồng chí Lôi Minh Hạ, giờ này đồng chí đang ở đâu?”. Thông qua các câu hỏi ấy, ta

thấy Hồ Chí Minh không chỉ lo cho vận mệnh của dân tộc mà còn lo cho tính mạng

của các đồng chí, đồng đội thân thương.

Nỗi băn khoăn, trăn trở của Bác còn được thể hiện qua dòng suy ngẫm về cuộc

khai thác của Thực dân Pháp trong Giải phóng: “Hồ Chí Minh rời bàn viết đến bên

cửa sổ nhìn xuống: Đường phố vắng tanh, hình bóng của đứa trẻ xiêu vẹo, khuất

dần nơi góc phố cùng tiếng rao chìm vào đêm vắng ... Tám mươi năm Thực dân

Pháp đến đất nước này “bảo hộ”, “khai phá”đã để lại những gì? Chúng đã để lại một

đất nước nghèo đói, một xã hội không có chút tự do, dân chủ nào, một xã hội nhà tù

nhiều hơn trường học, người dân bị bần cùng trong ngu muội, ruộng đất, tài nguyên

bị chúng cướp không. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, bòn rút tận xương tủy,

khiến dân ta nghèo nàn, xác xơ, tiêu điều ...”[38, tr. 137-138].

Trong đêm thanh vắng, Hồ Chí Minh vẫn suy nghĩ, trăn trở về vận mệnh của

dân tộc trong khoảng thời gian Thực dân Pháp đến bảo hộ, khai phá Việt Nam. Mặc

dù cuộc chiến chống Thực dân Pháp đã đi qua, song bao nhiêu ký ức về một thời

Pháp thuộc vẫn còn vương vấn. Nhưng có lẽ người đọc dễ dàng nhận thấy điều Bác

trăn trở nhất chính là không thể đem lại cho nhân dân một cuộc sống tự do, hạnh phúc

sớm hơn mà để nhân dân phải chịu đói, chịu khổ và bị hành hạ trăm đường bằng

những thứ thuế vô lý, bằng những nhà tù tăm tối của thực dân phong kiến ...

Những lúc trầm tư suy nghĩ về thời cơ của cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh còn

“cảm thấy lúc này thời gian vùn vụt. Lò lửa chiến tranh đang bốc cao ngùn ngụt, quân

đội phát xít Đức đang áp sát biên giới … Chiến tranh thật thảm khốc”[37, tr.202]. Tất

cả những suy nghĩ về cuộc chiến tranh đều được Bác ghi rõ trong bức thư Kính cáo

đồng bào với những lời khích lệ tinh thần yêu nước, khơi dậy truyền thống đánh giặc

của cha ông mà đoàn kết đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. Đứng giữa khoảng

không tĩnh lặng, lòng Bác luôn trĩu nặng suy tư với niềm tin vô hạn: “Đòng bào, hãy

mau đứng dậy! Việt Nam cách mạng thành công muôn năm – Thế giới cách mạng

thành công muôn năm”[37, tr.203]. Người tin rằng, thời cơ đến thì cách mạng ở Việt

Nam và trên thế giới ắt sẽ thành công. Đó là niềm tin của một người làm cách mạng,

57

niềm tin của vị chỉ huy tối cao của dân tộc Việt Nam.

Không chỉ mang trong mình nỗi lo cho dân cho nước, có đôi lúc Hồ Chí Minh

cũng tự kiểm điểm bản thân mình qua dòng suy ngẫm: “Giá như những giấy tờ cũ để

lại cả ở Lam Sơn thì có thể sẽ không bị rầy rà … nào ngờ những giấy tờ này lại quay

ra hại chủ”[37, tr.293]. Hồ Chí Minh tự trách mình tính toán không kỹ nên đã bị hai

tên lính hương cảnh bắt giữ. Trong tình cảnh ấy, Người tự nhủ “mình phải nhìn cho

rộng, suy cho kỹ - tấn công, phòng thủ không được sơ hở. Giành chiến thắng trở về

với quê hương, đất nước, về với Cách mạng”[37, tr.310]

Những trăn trở, suy ngẫm, cảm xúc trong tâm hồn Bác đều do nhà văn sử dụng

hư cấu mà tái hiện, dù đó chỉ là “sản phẩm nghệ thuật của tưởng tượng” nhưng vẫn

chân thực, hợp lý và thuyết phục người đọc. Giữa lúc nguy nan, Hồ Chí Minh vẫn

luôn giữ được phong thái tự tin, tự chủ. Người luôn một lòng hướng về cách mạng, về

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầy khó khăn và gian khổ. Người tự động viên

mình phải cố gắng vượt qua hoàn cảnh, phải nhìn cho rộng thì mới mong có được ấm

no, hạnh phúc. Đó chính là thành công của nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi tái hiện

đời sống nội tâm của Bác qua kiểu lời độc thoại trực tiếp.

Có thể nói: bằng nghệ thuật hư cấu, Hoàng Quảng Uyên đã tái hiện một cách

trung thực tính cách vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua đó soi sáng chân dung tâm

hồn Bác, một con người luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích cách mạng lên trên hết qua

những sáng tạo về độc thoại nội tâm của Người.

2.3.4.2. Lời nửa trực tiếp

Theo Từ điển thuật ngữ Văn học: “Lời nửa trực tiếp là biện pháp diễn đạt lời văn,

khi lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả (về mặt chấm câu, ngữ pháp) nhưng về

mặt nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật.”[9, tr.187]

Có thể hiểu: Lời nửa trực tiếp là lời của nhân vật người trần thuật miêu tả tâm

trạng, nội tâm của nhân vật. Nó có sự hòa thanh của hai giọng điệu đó là: giọng

điệu người trần thuật (hoặc giọng điệu của một nhân vật khác) và giọng điệu của

Bác. Lời nửa trực tiếp đều xuất hiện trong cả hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và

Giải phóng nhằm diễn tả suy nghĩ của Bác trước vận mệnh của đất nước, của dân

tộc. Qua kiểu ngôn ngữ nghệ thuật này, Hoàng Quảng Uyên đã diễn tả rất thành

công đời sống nội tâm của Bác - một nhân vật lịch sử luôn trăn trở, suy nghĩ về

58

vận mệnh của dân, của nước.

Trước hết, đời sống nội tâm của Bác được Hoàng Quảng Uyên miêu tả lần đầu

khi Bác vừa đặt chân lên mảnh đất quê hương, đứng trước cột mốc 108 - cột mốc

phân định biên giới Việt – Trung: “ … ông cụ cao tuổi nhất trong đoàn vượt lên

trước, bước đến bên cột mốc, đặt nhẹ bàn chân lên đất mẹ rồi chợt lặng đi, thời gian

như ngừng trôi. Ông cụ hơi cúi người, đưa tay sờ lên hàng chữ trên cột đá, đọc kỹ

từng chữ, đôi mắt Cụ trĩu buồn. Trên cột mốc không hề có một chữ Việt! Đất Việt mà

không phải của người Việt! Hai chữ Việt Nam đã không còn trên bản đồ thế giới lâu

lắm rồi. Nỗi đau, nỗi nhục nào lớn hơn?” [37, tr.12].

Khi nhìn thấy cột mốc 108, cột mốc phân định ranh giới Việt – Trung, Hồ Chí

Minh cảm nhận được một nỗi nhục khôn tả, một nỗi nhục chung của cả dân tộc.

Trong suy nghĩ của Bác: “Đất Việt mà không phải của người Việt!” bởi Người phát

hiện ra trên cột mốc 108 không hề được ghi một chữ tiếng mẹ đẻ nào. Bác coi đó là

một sự sỉ nhục quá lớn đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Theo như suy nghĩ của Bác

thì đất nước Việt Nam đã bị loại ra khỏi bản đồ thế giới. Nỗi nhục nào hơn nỗi nhục

mất nước, nỗi đau nào hơn nỗi đau bị sỉ nhục với cả một dân tộc. Chính điều này đã

khiến Bác càng quyết tâm hơn trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm

một “chỗ đứng” cho dân tộc Việt Nam. Giọng điệu trong đoạn văn này vừa là giọng

điệu của Bác, vừa là giọng điệu của nhân vật người trần thuật.

Bên cạnh đó, nhà văn cũng cho người đọc hiểu được tâm trạng cô đơn của vị

lãnh tụ khi chia tay các đồng chí, đồng đội của mình. Với việc sử dụng nghệ thuật

miêu tả khéo léo, nhà văn cho người đọc thấy được tâm trạng của Bác hiện lên theo

đúng cốt cách, phẩm chất của Người: “Bước chân của ông Ké ngập ngừng nhưng ông

không quay lại nhìn các đồng chí của mình, ông biết họ vẫn nhìn theo ông, ông đi

chậm lại khuất sau núi rồi ngồi nghỉ trên tảng đá. Ông cảm nhận đến tận cùng nỗi

trống vắng, cô đơn... ” [37, tr. 182]

Dựa vào hoàn cảnh cụ thể và có thật ấy, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã vẽ lên

bức tranh tâm trạng của Bác thật sắc nét. Xa các đồng chí mà lòng Bác đầy lưu luyến,

vấn vương với bước chân đi chậm lại và ngập ngừng. Tâm trạng ấy được thể hiện chỉ

bằng hai từ “trống vắng” và “cô đơn”. Cả hai từ đều mang sắc thái miêu tả tâm trạng,

nói lên sự bơ vơ của Bác giữa thiên nhiên vạn vật, giữa một hoàn cảnh còn đầy khó

59

khăn, nguy hiểm.

Bên cạnh đó, ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên còn cho người đọc cảm nhận

được niềm vui khôn tả của Hồ Chí Minh trước thắng lợi của dân tộc: “Chủ tịch Hồ

Chí Minh thật sự vui mừng vì toàn quốc khởi nghĩa diễn ra hết sức mau lẹ, giành

thắng lợi hoàn toàn” [38. tr.130]. Niềm vui ấy được nói đến như chính niềm vui của

tác giả. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, dân tộc đứng lên giành được độc

lập tự do là điều dáng vui mừng, song ở đây, người đọc cảm nhận được Bác không

chỉ vui mừng mà còn “thực sự vui mừng”. Nhà văn đã khéo léo lựa chọn từ ngữ để tái

hiện niềm vui ấy của Bác.

Niềm vui của Bác còn được Hoàng Quảng Uyên nhắc đến với “cảm giác thăng

hoa và viên mãn hiện trên đôi mắt hiền từ của Người” [38, tr.142]. Bằng nghệ thuật

miêu tả tâm trạng độc đáo qua kiểu lời nửa trực tiếp có sự hòa thanh giọng điệu của

người trần thuật với giọng điệu nhân vật Hồ Chí Minh, Hoàng Quảng Uyên giúp

người đọc nhận ra giá trị niềm vui ẩn sâu trong “đôi mắt biết nói” của Hồ Chí Minh.

Chỉ qua đôi mắt mà nhà văn có thể vẽ nên bức tranh tâm trạng thật ấn tượng. Tâm

trạng của Bác hiện lên rõ nét khi có được niềm vui trọn vẹn và đó cũng là niềm vui

của riêng Hồ Chí Minh khi Người soạn thảo thành công bản Tuyên ngôn Độc lập.

Tuy nhiên, bên cạnh những niềm vui khôn tả ấy, “chưa đêm nào, Người ngon

giấc vì những công việc Người phải giải quyết ngày càng nhiều mà không thể để tồn

đọng” [38, tr.179]. Trọng trách của Người ngày càng lớn khi những cuộc họp, những

cuộc đấu trí với bọn Việt Cách, Việt Quốc, những cuộc họp của Hội đồng Chính phủ,

những luận bàn, thống nhất với các đồng chí liên tiếp diễn ra. Tuy không biểu hiện

bằng hành động, song chỉ với ngôn ngữ miêu tả “chưa đêm nào Người được ngủ ngon

giấc”, Hoàng Quảng Uyên đã giúp người đọc cảm nhận được nỗi băn khoăn, trăn trở

của Bác đối với vận mệnh của đất nước, của dân tộc lớn đến nhường nào.

Chỉ với vài chi tiết tiêu biểu người đọc thấy được Hoàng Quảng Uyên đã

“nhập vai” rất khéo để miêu tả tâm trạng thật của Bác khi nghĩ về dân tộc, cách mạng.

Chỉ có hiểu được tính cách, hoàn cảnh của Bác và đặt mình vào hoàn cảnh giống như

Bác thì nhà văn mới có thể tưởng tượng Bác đang nghĩ gì và tại sao lại hành động như

vậy. Đây là một trong những yếu tố nghệ thuật đặc sắc, góp phần tạo nên thành công

60

trong sáng tác văn học của nhà văn Hoàng Quảng Uyên về hình tượng Bác Hồ kính yêu.

2.4. Điểm khác biệt trong hai tiểu thuyết: “Mặt trời Pác Bó” và “Giải phóng”

khi sử dụng hư cấu nghệ thuật để xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành

nhân vật văn học

Hai tác phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng thuộc thể loại tiểu thuyết, song

độ đậm nhạt của chất tiểu thuyết trong hai tác phẩm lại có sự chênh lệch khá lớn.

Trong Mặt trời Pác Bó, nhà văn thiên nhiều về “Kí” nên khi đọc tác phẩm này, người

đọc dễ dàng nhận thấy chất ký đậm hơn chất tiểu thuyết, điều này khiến cho tác phẩm

giống như một cuốn biên niên sử ghi chép lại toàn bộ chuỗi sự kiện có trong lịch sử

bằng ngôn ngữ văn chương. Ngược lại, trong Giải phóng, chất tiểu thuyết lại đậm

hơn chất kí bởi nhà văn sử dụng nghệ thuật hư cấu để tái hiện chân dung ngoại hình,

chân dung tâm hồn nhân vật, nguyên mẫu đã thực sự trở thành nhân vật tiểu thuyết.

2.4.1. Chất kí trong Mặt trời Pác Bó đậm hơn Giải phóng

Trước hết có thể hiểu: Kí nghĩa là kể chuyện, trần thuật, bám sát người thật,

việc thật, tôn trọng tính chính xác, tính khách quan và hư cấu có hạn chế. Còn tiểu

thuyết là nhào nặn chất liệu hiện thực đời sống qua lăng kính chủ quan của người

nghệ sĩ, dùng hư cấu tự do để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật và nhân vật

điển hình. Còn khái niệm “chất kí” và “chất tiểu thuyết” được chúng tôi sử dụng có

nội hàm như sau: chất kí là những đặc trưng của kí, những nguyên tắc nghệ thuật cơ

bản của kí trong Mặt trời Pác Bó đậm hơn trong Giải phóng. Còn chất tiểu thuyết là

những đặc trưng thể loại, nguyên tắc nghệ thuật cơ bản của tiểu thuyết trong Giải

phóng lại đậm hơn trong Mặt trời Pác Bó. Bởi dường như có sự giao thoa tiếp hiến

đặc trưng của hai thể loại kí và tiểu thuyết trong sáng tác của Hoàng Quảng Uyên nên

chúng tôi tạm dùng khái niệm này.

Khi đọc hai tiểu thuyết này chúng ta dễ dàng nhận thấy trong tiểu thuyết Mặt

trời Pác Bó nhà văn Hoàng Quảng Uyên “thiên” về kí sự. Không phải ngẫu nhiên mà

chất kí trong “Mặt trời Pác Bó” lại đậm hơn, rõ nét hơn so với tiểu thuyết Giải phóng

mà bởi một điều dễ hiểu là khi mới bắt đầu viết tiểu thuyết về Bác Hồ, nhà văn

Hoàng Quảng Uyên còn “chưa mạnh dạn” trong cách biểu hiện, miêu tả hay hư cấu

nhân vật có thật trong lịch sử thành một nhân vật điển hình, tiêu biểu trong văn học.

Chính vì thế, khi đọc tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được thể loại ký được sử

61

dụng nhiều hơn và đậm nét hơn, nghĩa là hàm lượng chất ký được sử dụng nhiều

khiến cho tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó gần giống với cuốn sử biên niên ghi chép lại

một cách chân thực những sự kiện diễn ra trong lịch sử theo mốc thời gian cố định.

Người đọc dễ dàng nhận thấy ở chương tám trong tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó,

nhà văn đã ghi chép lại sự kiện các đồng chí Trung ương khởi hành từ Vũ Lễ, Bắc

Sơn đi dự Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ tám: “Tháng

11- 1940, Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ bảy họp tại

Đình Bảng, Bắc Ninh ... Một ngày đầu tháng 3-1941, một đoàn 7 người, trang phục

gọn ghẽ, vai đeo túi nải đựng quần áo, lương thực, vũ khí mang trong người khởi

hành từ làng Phật (Đình Cả)” [37, tr.125-127]

Trong đoạn ký này, Hoàng Quảng Uyên đã ghi chép một cách chân thực diễn biến

của sự kiện chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ tám

gắn với mốc thời gian cụ thể, chi tiết theo từng tháng, từng năm.

Bên cạnh đó, nhiều sự kiện diễn ra trong quãng thời gian Hồ Chí Minh bị giam

ở Tịnh Tây, Trung Quốc cho đến khi bị giải đến Quế Lâm cũng được nhà văn

Hoàng Quảng Uyên ghi chép lại một cách ngắn gọn như “chép” lại những việc thật,

người thật đã diễn ra: “Trong lúc chờ tra xét thêm và giải lên trên lĩnh thưởng ...

Không ai trả lời. Lời chất vấn đanh thép gửi vào không gian, truyền đến muôn sau”

(37, tr.307 - 316).

Một đoạn văn dài 9 trang ghi chép lại chính xác toàn bộ thời gian và địa điểm

Hồ Chí Minh từ khi bị bắt giam trong nhà tù Trung Quốc. Bằng ngòi bút hiện thực,

nhà văn đã miêu tả chi tiết hình ảnh nhà tù “tổng hợp” giam cầm các loại tội phạm và

không gian nhà tù chật hẹp, đời sống nhà tù nhếch nhác với đủ các loại chấy rận

cũng như “quy định chung quái đản” của nhà tù nơi đây. Cùng với đó, hình ảnh

người tù hiện lên rõ nét với tâm trạng ngổn ngang. Trong suốt quá trình bị giam giữ,

tù nhân Hồ Chí Minh bị giải qua khắp mười ba huyện, bị đày đọa thân xác. Chính vì

đi qua nhiều nơi nên Bác được chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt của người dân Trung

Quốc gần giống với người Việt Nam. Chính thời gian này, Bác đã sáng tác tập thơ

Nhật ký trong tù nhằm ghi chép lại một cách chân thực những điều mắt thấy tai nghe.

Không dừng lại ở đó, trên những trang viết của Hoàng Quảng Uyên, “chất ký”

còn được thể hiện trong cách miêu tả mối quan hệ giữa các nhân vật gắn với nhiều sự

62

kiện xuất hiện trong thủ pháp liệt kê: “”Gia đình ông Hồ Học Lãm từ bệnh viện Quý

Dương (tỉnh Quế Châu) chuyển về Quế Lâm tiện điều trị bệnh cho ông Hồ Học Lãm

... Phùng Ngọc Tường cùng Lý Tôn Nhân lập tức đến tổng hành dinh của Tưởng

Giới Thạch ...”[37, tr. 317-330]

Hàng loạt mối quan hệ giữa các nhân vật Hồ Học Lãm, Hồ Diệc Lan, Hồ Chí

Minh ... được nhà văn ghi chép lại một cách rõ ràng, rành mạch. 13 trang viết với

nhiều sự kiện tiêu biểu được nhà văn thống kê cụ thể, chi tiết, giúp người đọc hình

dung được diễn biến sự việc diễn ra theo tuần tự thời gian như đang đọc một tác

phẩm Kí văn học.

Đến chương hai mươi, bắt đầu từ trang 335 đến trang 338, một lần nữa nhà

văn lại bộc lộ “khả năng viết ký” của mình khi nói đến tình hình chiến tranh thế giới

diễn biến mau lẹ với chiến thắng của phe Đồng Minh và việc Trương Phát Khuê

mưu tính kế độc, thúc đẩy kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”: “Tình hình chiến tranh

thế giới diễn biến mau lẹ ...viên đại tá vừa được thăng chức sau chuyến khảo sát lực

lượng bên trong Việt Nam rất có kết quả” [37]...

Đó là những đoạn văn tiêu biểu thể hiện rõ “chất kí” trong sáng tác của nhà

văn Hoàng Quảng Uyên. Trong khi đó, những đoạn văn mang tính tiểu thuyết lại mờ

nhạt hơn, nghĩa là chân dung tâm hồn của nhân vật chưa được soi sáng, chưa bộc lộ

hết những tâm tư, tình cảm của nhân vật trong tiểu thuyết, dù như thế, trong tác

phẩm này, vẫn có những thành công, nhân vật Hồ Chí Minh hiện lên tuy chưa thật

sắc nét nhưng vẫn đủ làm rung động lòng người, bởi chất liệu người thật, việc thật.

Có thể nói đến nghệ thuật dựng truyện của nhà văn Hoàng Quảng Uyên cũng khiến

người đọc bất ngờ và ấn tượng. Điều đó được nhà văn khẳng định trong chương hai mươi

mốt “Chiến trận Thu – Đông (1947)” khi miêu tả từng tốp máy bay vận tải dàn đội hình

mỗi tốp 3 chiếc, ồ ạt thả 2 tiểu đoàn quân dù xuống chiếm các điểm cao, quân Pháp đã bắt

được Nguyễn Văn Tố - một nhân sĩ có tiếng có chân trong Chính phủ Việt Minh, giữ chức

vụ tương đương Chủ tịch Quốc hội và họ lầm tưởng ông là Chủ tịch Hồ Chí Minh vì ông có

thân hình cực giống Hồ Chí Minh [38, tr. 475].

Trong đoạn văn trên, tâm trạng của nhân vật bị ẩn đi, lấp sau hàng loạt hành

động của quân Pháp. Như vậy, có thể thấy trong Mặt trời Pác Bó, chân dung nhân

vật chưa thực sự được soi sáng, tính cách nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh còn khá mờ

63

nhạt, chưa bộc lộ được hết phẩm chất của một bậc “Đại nhân, đại trí, đại dũng”.

2.4.2. Chất tiểu thuyết trong Giải phóng đậm hơn Mặt trời Pác Bó

So với Mặt trời Pác Bó, Giải phóng đã khắc họa thành công hơn hình tượng và

bức tranh tâm trạng của các nhân vật lịch sử, mà điển hình là nguyên mẫu Hồ Chí

Minh. Qua những đoạn văn miêu tả cuộc đối thoại giữa Hồ Chí Minh với các nhân

vật khác, nhà văn đã cho người đọc thấy được một con người vĩ nhân luôn đứng trên

lập trường dân tộc, luôn tự tin vào tài năng, trí tuệ của mình.

Toàn cảnh tiểu thuyết được mở rộng trong hai mươi năm chương, bắt đầu từ

chương một “Đường tới Tân Trào” và chương kết “Trận chiến cuối cùng” về chiến

dịch và thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Nhà văn tuy tuân thủ theo nguyên tắc của tiểu

thuyết chương hồi, “chia đều” cho tất cả các sự kiện của cuộc kháng chiến trường kì

kéo dài chín năm, nhưng vẫn chú ý tới những điểm nhấn lịch sử - nghệ thuật. Trong

Giải phóng, người đọc cảm nhận một cách rõ ràng “chất tiểu thuyết” cô đọng qua các

biến cố, bước ngoặt của hoàn cảnh lịch sử. Nhờ những biến cố ấy mà chất tiểu thuyết

trong Giải phóng trở nên đậm đà hơn, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét hơn và

hiện thực lịch sử được tái hiện một cách chân thực, sinh động hơn.

Từng chương trong Giải phóng như một bức tranh phác họa chân dung Hồ Chí

Minh trở thành một nhân vật tiểu thuyết đích thực. Trong chương bốn “Mệnh người

vận nước” viết về thời điểm nước sôi, lửa bỏng của cách mạng những ngày trước

Tổng khởi nghĩa, đúng lúc đó, Bác Hồ lâm bệnh nặng. Đây là chương chứa nhiều

kịch tính và là một tình huống lịch sử điển hình, gây ấn tượng với độc giả: “Trước

mắt ĐêPhuốcNô là một Ông Già nằm trong góc tối căn phòng dưới hình hài một bộ

xương được bao bọc bởi làn da vàng khô, nhìn chằm chằm người trước mặt bằng đôi

mắt đờ đẫn. Ông Già có bộ râu dài lởm chởm, lơ phơ dưới cái cằm nhọn. Hoagơlăng

nhìn lướt nhanh người bệnh, kéo ĐêPhuốcNô lùi ra đằng sau một chút nói nhỏ:

- Người này chẳng sống được bao lâu nữa!” [38, tr.79]

Hồ Chí Minh đã trở thành một nhân vật tiểu thuyết đích thực, không còn thấp

thoáng bóng dáng nhân vật tiểu thuyết như trong Mặt trời Pác Bó. Là nhân vật tiểu

thuyết vì Hồ Chí Minh hiện lên bằng xương, bằng thịt với “một bộ xương được bao

bọc bởi làn da vàng khô” và “đôi mắt đờ đẫn”. Chân dung ngoại hình được tác giả

khắc họa rõ nét, tạo nên “hình ảnh thật” của Bác trong cách cảm, cách nghĩ của đồng

64

chí, đồng bào và cả của những người bên kia chiến tuyến.

Qua ngòi bút của nhà văn, hình ảnh Bác trở nên sống động và “thật hơn cả sự

thật” bởi đã đạt tới tính điển hình. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Bác đã nói

với đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp): “Chú Văn, đêm nay chú ở với Bác, Bác có

nhiều điều cần nói với chú, Bác sợ không còn dịp... Chú Văn, Bác nhắc chú câu này:

"Thời hồ, thời hồ, bất tái lai" - thời gian và cơ hội không trở lại lần thứ hai - lúc này

điều kiện trong nước và ngoài nước đều rất thuận lợi... Vì vậy Đảng ta nhất định phải

lãnh đạo nhân dân giành được độc lập... Dù có phải hy sinh đến đâu, dù có phải chiến

đấu đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.” [38, tr. 83-

84]. Còn đồng chí Võ Nguyên Giáp thì “lòng rối bời. Bác thì ốm nằm đây, các đồng chí

đại biểu ba miền Bắc - Trung - Nam, nhất là các đồng chí Trung ương gặp nhiều trắc trở

trên đường đi chưa đến đủ. Các văn bản Bác đang thảo thì đang dở dang. Võ Nguyên

Giáp miên man suy nghĩ, lúc sực tỉnh thì Bác đã thiếp đi.” [38, tr.82]

Trong câu nói với Võ Nguyên Giáp, Bác càng trở nên gần gũi hơn với đồng chí,

đồng đội. Dù đang bị ốm, Bác vẫn không quên nhiệm vụ giải phóng dân tộc cũng như

trách nhiệm của một vị lãnh tụ tối cao. Bác ân cần dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp, dù hy

sinh, vất vả đến đâu cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Theo Bác, đó là nhiệm

vụ thiêng liêng, cao cả cần phải thực hiện nhanh chóng và kịp thời. Từng lời nói của Bác

càng làm cho tâm trạng của Võ Nguyên Giáp thêm lo lắng.

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Hoàng Quảng Uyên còn thể hiện “những

trang viết ngoạn mục” về cuộc đấu tranh chính trị bằng ngoại giao của Đảng và Lãnh

tụ Hồ Chí Minh trong chương mười ba “Đường tới Pari” nhằm khẳng định dũng khí

của người cách mạng chân chính dám xả thân vì nghĩa lớn, vì quyền lợi của dân tộc,

đất nước.

Trước âm mưu của Pháp muốn tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, Hồ chí Minh và

các đồng chí, đồng đội kiên trung đã bền bỉ đấu tranh trên đất kẻ thù ròng rã nhiều

tháng trời để đạt mục đích. Nhưng nhiệm vụ khó khăn nhất chính là phải làm để nhân

dân Việt Nam hiểu rõ một sự thật “Hồ Chí Minh không phải là người bán nước …

Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song

chân lí đó không bao giờ thay đổi” [38, tr. 295].

Người đọc giàu trí tưởng tượng sẽ hình dung ra những giây phút đáng nhớ khi

Chủ tịch Hồ Chí Minh cầm bút viết lá thư tâm huyết gửi đồng bào Nam Bộ. Những

65

điểm nhấn lịch sử mang tính nghệ thuật ấy làm cho Giải phóng có được chất tiểu

thuyết sâu đậm và rõ nét hơn, từ đó tạo hứng thú cho độc giả tiếp cận lịch sử từ văn

chương, một cách tiếp cận có hiệu quả nhất vì nhà văn không phải là nhà chép sử mà

nhà văn là người chép lại lịch sử cuộc đời.

Bên cạnh đó, tác giả cũng cho người đọc thấy được một khung cảnh trữ tình,

nhưng không hề không hạn chế tầm vóc của nhân vật chính Hồ Chí Minh qua chương

hai mươi hai “Trăng rừng Việt Bắc”. Kháng chiến tuy gian khổ, hi sinh lớn lao nhưng

không hề làm suy giảm nguồn thi hứng của một con người đầy phẩm tính nghệ sĩ.

Trong tĩnh lặng tâm hồn, thơ cất cánh bay lên “Chiếc thuyền chở Chủ tịch Hồ Chí

Minh rời Văn phòng Chính phủ - Thủ tướng phủ ở thác Dẫng khi trăng lên. Ánh trăng

bàng bạc, trải ánh vàng lên lau lách, cây cối hai bên bờ. Nước chảy êm đềm, hắt ánh

trăng lên thuyền. Xa xa hơi nước bảng lảng ... Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở đầu thuyền

thư thái, mải mê ngắm trăng trên trời rồi lại nhìn trăng sóng sánh dưới sông, cảnh sắc làm

thức dậy hồn thơ, Người khe khẽ ngâm: “Kim dạ nguyên tiêu, nguyệt chính viên/Xuân

giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên/Yên ba thâm xứ đàm quân sự/Dạ bán quy lai nguyệt mãn

thuyền” [38, tr.508]. “Thuyền vẫn trôi trong đêm trăng trên sông thật lãng mạn, yên bình,

dường như tiếng súng, tiếng bom đạn ở đâu xa lắm. Những tiếng nổ đã tắt từ lâu để

nhường cho những tiếng thơ hào sảng, âm vang cất lên giữa khói sương mịt mùng của một

đêm trăng rằm, đêm trăng đẹp nhất trong năm” [38, tr.510].

Bác Hồ đã làm thơ ngay cả trong những ngày tháng, giờ phút gian lao, vất vả nhất

của cuộc đời cách mạng. Dường như ngoại cảnh sục sôi, nóng bóng khói lửa bao nhiêu

thì trong tâm hồn thi sĩ lại lắng đọng, phong phú và sâu sắc bấy nhiêu.

Có thể nói: Văn chương đã chắp cánh cho lịch sử và soi sáng lịch sử. Độc giả

như được sống trong không khí của những ngày tiền khởi nghĩa qua hàng loạt các sự

kiện lịch sử được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Tâm trạng của Bác được soi sáng

nhiều chiều, đó là yêu thương với đồng chí, đồng đội; căm giận với kẻ thù và rung

động trước vẻ đẹp của thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ.

Hầu như trong Giải phóng, người đọc ít gặp những đoạn văn miêu tả, ghi chép

lại các sự kiện diễn ra trong lịch sử. Nếu có cũng chỉ là tỉnh lược một vài sự kiện gắn

với quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh tại Tân Trào: “Chính phủ Liên hiệp được

thành lập đã hoạt động có hiệu quả trong việc chống thù trong, giặc ngoài đó là do

66

đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương (thông qua Việt Minh) và bởi

sự lãnh đạo tài trí của Hồ Chí Minh với những nước cờ cao tay và bằng năng lực cảm

hoá kỳ diệu, chính vì vậy mà Chính phủ này tồn tại được 8 tháng. Khi quân Tưởng

rút về nước bọn Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam bỏ chạy

theo quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh được sự uỷ nhiệm của quốc hội đứng ra

thành lập Chính phủ mới theo tinh thần: Một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp

nhân tài, không phân biệt đảng phái; Một Chính phủ vì dân, kiên quyết phấn đấu cho

độc lập và thống nhất của Tổ quốc; Một Chính phủ mà trong đó không có phần tử

phản cách mạng. Chính phủ mới thành lập ngày 3-11-1946 được gọi là chính phủ

liên hiệp quốc dân, trước ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) chỉ hơn một

tháng đã theo Chủ tịch Hồ Chí Minh "Thiên đô" lên chiến khu Việt Bắc, lãnh đạo

thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thành phần

Chính phủ đó ta thấy nhiều gương mặt được Việt Minh và Hồ Chí Minh cảm hoá như

các bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Hiến, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Văn Tố,

Nguyễn Văn Tạo...”[38, tr.187 - 188]

Đoạn văn trên “mang nặng chất ký” bởi nhà văn cũng chỉ liệt kê các sự kiện

theo từng mốc thời gian.

Trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, nhà văn luôn có cách sáng

tạo riêng khi xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành nhân vật lịch sử. Mỗi một tác

phẩm được thể hiện đều mang đậm cá tính sáng tạo đặc sắc của Hoàng Quảng Uyên.

Không thể phủ nhận việc Hoàng Quảng Uyên đã từng thành công ở thể loại ký nên

hầu hết trong sáng tác của mình ông đều chịu ảnh hưởng của “lối viết ký” và khi tiếp

cận với đề tài mới với một thể loại mới, nhà văn vẫn chưa thể thoát khỏi “Kí” để

thiên về tiểu thuyết. Đó là một hạn chế nhất định không phải chỉ riêng đối với nhà văn

Hoàng Quảng Uyên, mà nhiều nhà văn khác cũng sẽ mắc phải khi tiếp cận với một thể

loại hoàn toàn mới. Tuy nhiên, dù đó là hạn chế nhưng tác phẩm đầu tay ở thể loại tiểu

67

thuyết của nhà văn Hoàng Quảng Uyên vẫn được người đọc đón nhận nhiệt tình.

Chương 3

KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG

HAI TIỂU THUYẾT “MẶT TRỜI PÁC BÓ ” VÀ “GIẢI PHÓNG”

CỦA NHÀ VĂN HOÀNG QUẢNG UYÊN

3.1. Khái niệm “Kết cấu” và kết cấu tiểu thuyết

3.1.1. Khái niệm “Kết cấu” và một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học

3.1.1.1. Khái niệm “Kết cấu”

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh

thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận ... Tất cả những yếu tố, bộ phận đó

được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một

nội dung nghệ thuật nhất định. Kết cấu là một tiêu chí quan trọng để đánh giá về

“chất” của một tác phẩm văn học. Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về kết cấu

trong các bộ giáo trình Lí luận văn học và Từ điển thuật ngữ văn học. Sách Lí luận

văn học do GS. Hà Minh Đức (chủ biên) viết: “Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các

bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo

thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan theo chiều hướng tư

tưởng nhất định”.

Tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn “150 Thuật ngữ văn học” đưa ra: Kết cấu

là “Sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật; tức là sự cấu tạo tác

phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối

thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu - là kết quả của nhận thức thẩm mỹ,

phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội dung độc lập; các phương

thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả.”.

Từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi

(đồng chủ biên) thì coi kết cấu, là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác

phẩm. Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn bố cục. Tổ

chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài

giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến

trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu bao gồm bố cục, tổ chức tính cách, tổ chức

68

thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ

thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt

truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật ”.

Kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh nghệ thuật của tác

phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc. Phân tích kết cấu tác phẩm, người

đọc có thể so sánh nó với các hình thức, thủ pháp kết cấu chung nhưng điều quan

trọng là phải xuất phát từ bản thân tác phẩm và xem nó có thể hiện tốt nhất chủ đề tư

tưởng của tác phẩm hay không.

Qua những khái niệm của nhà lí luận trên để thấy một điều rằng: mỗi tác phẩm là

một “sinh mệnh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức

cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác phẩm. Có thể ví kết cấu giống như một mạng

lưới được đan bện bởi sự cố kết của những đường dây mắt xích mà từ mạng lưới này tác

phẩm sẽ hiện lên trong tính chỉnh thể và sinh động nhất. Kết cấu còn bộc lộ nhận thức,

tài năng, phong cách của người nghệ sĩ.

Vai trò quan trọng nhất của kết cấu là tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập

trung, tư tưởng thống nhất, sao cho chủ đề tư tưởng thấm sâu vào từng bộ phận của

tác phẩm kể cả những chi tiết nhỏ nhất; Kết cấu đóng vai trò quan trọng trong việc

thực hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề tư tưởng với hệ thống tính cách; tổ chức

bố cục của cốt truyện thành các phần, chương, đoạn, lớp, cảnh một cách hợp lý. Nhờ

kết cấu, tác phẩm văn học trở nên mạch lạc có “vẻ duyên dáng của sự trật tự”.

3.1.1.2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học

Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng. Nó

có thể chịu sự quy định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự và kịch với kết cấu tác

phẩm trữ tình) của từng giai đoạn lịch sử khác nhau (có những hình thức kết cấu chỉ

tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng sau đó lại bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay

vào đó là một kết cấu mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới). Vì vậy, khó có thể xác

định những hình thức kết cấu nếu thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên, ở đây có thể

tìm hiểu một số hình thức kết đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên

nhiều tác phẩm có giá trị như: Kết cấu theo trình tự thời gian; Kết cấu theo hai tuyến

nhân vật đối lập; Kết cấu đa tuyến; Kết cấu tâm lí và kết cấu trong tác phẩm trữ tình,

69

tự sự, kịch .v.v. .

Có thể nói: các hình thức kết cấu dù phong phú và đa dạng cũng chỉ là hữu hạn

trong khi thực tế sáng tác thì vô hạn. Trong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận dụng

nhiều hình thức kết cấu khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, không thể quy

những tác phẩm cụ thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần xem xét tác động

nghệ thuật của kết cấu đối với người đọc cũng như chức năng cụ thể của nó trong

việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.1.2. Kết cấu tiểu thuyết

Khái niệm kết cấu là một công cụ lý luận quan trọng trong phê bình, phân tích

tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một hoạt động của nghệ thuật tự sự ngôn từ, do vậy kết cấu

tiểu thuyết phải được tìm hiểu trên cơ sở quan sát cả ba bình diện sáng tác (viết), văn

bản (tác phẩm tri giác bằng sự đọc) và tiếp nhận (đọc hiểu giải mã).

Tiểu thuyết có nhiều dạng thức kết cấu tùy theo yêu cầu của đề tài, chủ

đề hoặc theo sở trường của người viết và kết cấu cho phép tạo nên một diện mạo

chung nhất về tiểu loại: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề,

tiểu thuyết đa thanh ... Do đó, có thể hiểu kết cấu tiểu thuyết không có quy phạm cố

định và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để vận dụng một

cách linh hoạt trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.

Về mặt kết cấu, hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng của nhà văn

Hoàng Quảng Uyên đều xây dựng trên nguyên tắc của “tiểu thuyết chương hồi”. Có

thể hiểu “Chương” là một thể tài văn học, “Hồi” là một sự chuyển đổi, là vận chuyển,

chuyển biến, quay lưng lại (phản hồi, hồi báo) thể hiện một động tác một cách lần

lượt và thứ tự. Còn “Tiểu thuyết chương hồi” là hình thức chủ yếu của tiểu thuyết

trường thiên trung đại Trung Quốc có đặc điểm là dùng tiểu mục để phân hồi câu

chuyện liên tiếp, mạch lạc, chỉnh tề.

Hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng đều có hai mươi năm chương, mỗi

chương đều có “lời rao” mở đầu, giúp độc giả hình dung trước diễn biến của cốt truyện.

Mỗi chương trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên giống như một bức tranh và khi liên

kết tất cả những bức tranh đó lại sẽ trở thành một bức tranh liên hoàn, giúp người đọc hình

dung được quá trình vận động của cả một thời đại. Tuy nhiên, từng chương lại làm nổi bật

được từng sự kiện tiêu biểu, nghĩa là nếu người đọc đọc từng chương vẫn có thể hiểu được

70

nội dung chứ không phải cứ phải đọc hết hai mươi năm chương trong cuốn tiểu thuyết.

Trong tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên, mỗi câu thơ, mỗi đề từ được sử dụng

trở thành điểm cốt lõi thâu tóm nội dung của cả chương đó. Có thể nói đến chương

Mười hai "Diễu võ, dương oai!", đề từ dùng câu nói của Bác “Nếu đô đốc muốn đem

tàu bè ra để lung lạc tôi, thì ông ta đã lầm to. Những tàu bè đó không thể nào đi

ngược các dòng sông của chúng tôi” [38, tr.253]. Nhà văn sử dụng lời đề từ để nhấn

mạnh nội dung được đề cập đến trong toàn chương. Việc sử dụng lời đề từ giúp người

đọc hiểu rõ hơn về nội dung cũng như dụng ý sáng tác của tác giả ở mỗi chương.

Hay chương hai mươi năm "Trận chiến cuối cùng", lời đề từ nhấn mạnh:

“Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi

chung của tất cả dân tộc bị áp bức trên thế giới" (Hồ Chí Minh - tháng 5/1954) [38,

tr.573]. Với chương này, Hoàng Quảng Uyên nhấn mạnh ý nghĩa cũng như tầm quan

trọng của Chiến thắng Điện Biên Phủ ngay trong lời rao mở đầu để giúp người đọc hình

dung được diễn biến của trận chiến cuối cùng giữa quân dân ta với thực dân Pháp.

Cũng có khi Hoàng Quảng Uyên lại trích dẫn nguyên văn một bài thơ do Hồ

Chí Minh sáng tác ngay trong lời đề từ. Trong chương bốn, trích dẫn nguyên văn bài

thơ Tức cảnh Pác Bó: “Non xa xa, nước xa xa/ Nào phải thênh thang mới gọi là? Đây

suối Lê Nin, kia núi Mác/ Hai tay gây dựng một sơn hà.”[37, tr.63] …

Có thể nói: tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên có sự móc nối về thời gian

nhưng nhà văn lại có sự đổi mới trong cách thể hiện về mặt nội dung, nghĩa là mỗi

chương lại tập trung thể hiện một sự kiện và từng bước giải quyết các sự kiện ấy một

cách trọn vẹn. Đó cũng là một cách tạo sự hấp dẫn của tác phẩm theo thể thức truyền

thống. Thêm một lần nữa chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: đổi mới không có

nghĩa là chối bỏ mà chính là làm cho truyền thống trở nên mới mẻ hơn, hiện đại hơn.

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng

của Hoàng Quảng Uyên

3.2.1 Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học: “Ngôn ngữ là công cụ, chất liệu cơ bản của

văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M.Gokir khẳng

định: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học ... Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học

là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng

71

của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu

sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng

tác.” [9, tr.215]. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật: (với nghĩa chuyên môn) ngôn ngữ

dùng trong tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà quan trọng hơn

là có chức năng thẩm mĩ. Ngôn ngữ nghệ thuật bao gồm ngôn ngữ trong các tác phẩm

tự sự, trữ tình và tác phẩm sân khấu. Hay nói cách khác: Ngôn ngữ là chất liệu để

sáng tác văn học, bởi vậy nó sẽ là phương tiện xây dựng nên những hình tượng nghệ

thuật sinh động và bộc lộ quan điểm, tư tưởng của nhân vật.

3.2.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên

Ngôn ngữ nghệ thuật gần gũi với phong cách giao tiếp của nhân dân vùng cao

gắn với các sự vật quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, lao động của đồng bào dân

tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Nhiều thành ngữ, tục ngữ cùng nhiều từ ngữ địa

phương được sử dụng trong hai tác phẩm, tạo nên nét độc đáo riêng trong sáng tác

của Hoàng Quảng Uyên.

Trong tác phẩm Mặt trời Pác Bó, từ ngữ địa phương được dùng gắn với sự vật

quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, lao động của đồng bào vùng cao, mà ở đây là

của dân tộc Tày (Cao Bằng). Theo người dân địa phương, “Slấn” [37, tr.112] có

nghĩa là miếu thờ thổ thần. Trong đời sống tâm linh của người Tày, thờ cúng tổ tiên

là một trong những tín ngưỡng tiêu biểu và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên là muốn nhắc nhở con cháu phải giữ gìn truyền thống, vừa

khẳng định và củng cố nền tư hữu (tức là kế thừa tài sản). Cho nên, bàn thờ tổ tiên

được đặt ở nơi quan trọng nhất của mỗi nhà. Thờ cúng tổ tiên là trách nhiệm của con

trưởng. Không kể các dịp lễ tết, người ta thường dâng hương hoa, lễ vật mỗi tháng 2

lần vào ngày mùng một và ngày rằm âm lịch. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi

gia đình, người Tày còn thờ thổ công (theo tiếng địa phương gọi là “Cốc bản”), thổ

đại, thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thấn (thần). Vì trong quan niệm của

người Tày, thổ công là vị thần bảo vệ làng bản, mùa màng ... Chính vì vậy, cho đến

ngày nay, tục thờ cúng tổ tiên vẫn được người Tày lưu giữ và thực hiện.

Ngoài tục thờ cúng tổ tiên, trong đời sống sinh hoạt, người Tày sử dụng nhiều

từ ngữ nói về các sự vật gắn với quá trình lao động. Đó là “Chiếc loỏng” nghĩa là

chiếc thuyền đập lúa [37, tr. 113]. Được hình thành và phát triển trên cơ sở của một

72

nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, mang tính chất tự cung tự cấp, nên đời sống lao

động của người Tày chịu ảnh hưởng khá sâu sắc. Những công cụ hỗ trợ sản xuất như:

Cuốc, xẻng, búa, liềm, thuyền đập lúa ... đều do người dân tự tay chế tác sao cho phù

hợp với đặc điểm sản xuất của từng vùng miền. Trong số đó, chiếc thuyền dùng để

đập lúa là một phát minh mang tính sáng tạo được làm bằng gỗ. Để làm được một

chiếc thuyền như thế, những người thợ phải tìm được loại cây gỗ thân to rồi đem về

sản xuất thủ công bằng cách đục đẽo đến khi thành hình trăng lưỡi liềm, mặt tiếp đất

bằng phẳng, mặt trên hõm sâu khoảng hai mươi centimét và hai bên đầu chiếc thuyền

đẽo thừa mỗi bên khoảng năm mươi centimét dành để đập lúa. Mỗi khi đến vụ gặt, người

Tày thường khiêng chiếc thuyền ra cánh tận đồng. Lúa được cắt xong, người dân sẽ dùng

sức để đập từng bó lúa đã được bó gọn lại cho đến khi từng hạt lúa đã tách ra khỏi rơm ...

Hiện nay, tại một số nơi vùng sâu vùng xa, những “chiếc loỏng”vẫn là một trong những

công cụ chính phục vụ cho quá trình sản xuất lúa nước.

Bằng sự hiểu biết của mình về phong tục, tập quán của người Tày ở Cao Bằng,

nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về đời sống tâm linh

cũng như đời sống lao động của những người dân tộc nơi đây.

Cùng với việc sử dụng từ ngữ địa phương, trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác

Bó và Giải phóng, nhà văn còn sử dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao vừa

quen, vừa lạ tạo nên nét độc đáo riêng.

Trong Mặt trời Pác Bó, nhà văn đã sử dụng nhiều thành ngữ quen thuộc vốn của

Trung Hoa vì nay đã được Việt hóa như: “Quốc thái, dân an” – nghĩa là đất nước có yên

bình thì nhân dân mới được no ấm, hạnh phúc [37, tr. 116, 117].

Theo nghĩa trên thì Quốc thái, dân an gắn liền với văn hóa nhân bản và tâm

linh qua các thành ngữ Tôn miếu xã tắc, An cư lạc nghiệp, Phong điều vũ thuận,

Thiên hạ thái bình … An lạc là cốt lõi của văn hóa nông nghiệp, cầu mong sao đất

nước thanh bình, nhân dân sống ngày an lành, đêm an lành. Cầu cho đất nước thịnh

vượng, mọi nhà đều được yên vui là tinh anh của lễ cầu Quốc thái, dân an. Ở đây,

thành ngữ Quốc thái, dân an được nhà văn sử dụng gắn với hoàn cảnh đất nước có

chiến tranh, nhân dân đói khổ, dân tộc lầm than, cả đất nước đang cầu mong được

yên lành, tự do và hạnh phúc. Cùng với đó, thành ngữ mang tính giáo huấn, răn dạy

cũng được nhà văn sử dụng, tạo nên nét độc đáo:“Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” –

73

Cái gì mình không muốn thì chớ đem thi hành với mọi người [38, tr. 308]

Lời răn dạy này xuất phát từ sách Luận ngữ của Khổng Tử. Luận Ngữ là sách

sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương

thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các

thiên không có liên hệ với nhau. Khi hỏi về cách xử thế giữa người với người. Khổng

Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thị ư nhân” với nghĩa là đừng làm những gì mình không

muốn người khác làm lại cho mình. Cũng với nghĩa răn dạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã nói với các đồng chí, đồng bào nên làm những việc có ích cho bản thân mình và

cho những người khác. Những việc bị coi là xấu xa, không tốt thì nên cùng nhau

tránh. Ở đây, lời răn dạy của Bác hàm chứa ý nghĩa sâu xa là không muốn dùng chiến

tranh để gây nên những cuộc chiến đẫm máu, làm cho các dân tộc trên thế giới xung

đột, làm hại lẫn nhau. Hay: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” – Không nhịn được

điều nhỏ, tất hỏng việc lớn [38, tr.333]. Câu nói đề cao chữ nhẫn, mỗi con người cần có

một tính cách rất quan trọng, đó là nhẫn nại. Nếu con người vì mục đích lớn mà chịu

nhẫn nhục, vượt qua khó khăn gian khổ về mặt thể xác và tinh thần, thì sẽ đạt được thành

công. Ngược lại, những ai nóng vội, hiếu thắng, trong công việc không cẩn trọng, bỏ qua

những việc nhỏ để tập trung vào công việc trọng tâm thì ắt sẽ hỏng việc.

Có thể thấy, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã rất thành công khi trích dẫn và sử

dụng những thành ngữ trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, góp phần

làm sáng rõ thêm sự cao đẹp của nguyên mẫu Hồ Chí Minh cũng như tái hiện một số

phong tục, tập quán của dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.

Ngoài việc sử dụng những thành ngữ, từ ngữ địa phương, nhà văn Hoàng

Quảng Uyên còn sử dụng tiếng địa phương của dân tộc thiểu số dịch ra, tạo nên

hương sắc lạ bằng việc dẫn dắt người đọc hòa với thiên nhiên, con người nơi núi rừng

Pác Bó thông qua bài ca dao giàu hình ảnh:

“Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”

[37, tr.143]

Đây là ca dao của người Việt, thể hiện sự ngậm ngùi của người lính thời phong

kiến phải đi đồn trú tại Cao Bằng – nơi “Ma thiêng nước độc của một thời xa xưa”.

Hương sắc lạ và độc đáo ấy còn được thể hiện qua bài hát chúc mừng năm mới

74

tốt lành, bình an của dân tộc Tày (Cao Bằng) trong tiểu thuyết “Mặt trời Pác Bó”:

“Bươn chiêng pi mói

Mỏi lổ mội mói

Mọi lỏ mọi đay

Mỏi cần pìng an

Mọi cần cán xỉnh

Xỉnh lẻo, xỉnh lẻo!” [37, tr.18]

(Tháng giêng năm mới

Mọi thứ đều mới

Mọi việc đều hay

Mọi người bình an

Mọi người tốt đẹp

Mời cạn, mời cạn!)

Lời chúc mừng năm mới sử dụng bằng thứ tiếng Tày địa phương đã tạo nên nét

độc đáo, tinh tế trong cách cảm nhận của nhà văn về thuần phong mĩ tục của đồng

bào dân tộc thiểu số. Năm mới, họ chúc nhau mọi điều đều hay, mọi người đều gặp

may mắn, bình yên và hạnh phúc. Chén rượu ngày Tết nâng lên, hạ xuống càng thể

hiện niềm vui khôn tả của những người dân nơi đây. Câu văn ngắn dễ đọc, dễ nhớ kết

hợp với cách ngắt nhịp đều đặn đã tạo nên nét riêng trong sáng tạo nghệ thuật của

Hoàng Quảng Uyên.

Bên cạnh đó, một số khẩu ngữ người địa phương thường sử dụng trong giao tiếp

cũng xuất hiện khá nhiều. Trong lời khuyên dành cho ông Máy Nì, Quảng Ba nói:

“Đừng “quay rì”(nghĩ xa xôi) thế” [37; tr.36] chỉ ý nghĩa là không nên lo lắng và suy

nghĩ xa xôi như vậy, điều ấy có thể sẽ không xảy ra thực tế đâu. Và khi Cò Shâng và Cò

Ngấn bị bọn lính kiểm tra, Cò Shâng nói nhỏ: “Phao lớ” (Chạy thôi)[37, tr.99]. Trong

hoàn cảnh này, việc sử dụng từ “Phao lớ” có ý nghĩa gợi tả hơn cả. Nếu tác giả chỉ dùng

từ : “Chạy thôi!” chưa nói lên hết sự nguy hiểm gần kề, “phao lớ” không chỉ có ý nghĩa

là chạy, mà còn ý nói chạy thật nhanh, trong hoàn cảnh mình đang bị truy bắt.

Ngoài ra, trong cảnh sinh hoạt hay ở một số đoạn đối thoại, các nhân vật trong

hai tiểu thuyết còn sử dụng tiếng Trung, tiếng Pháp để giao tiếp hoặc đặt tên gọi ...

làm phong phú hơn, sinh động hơn trong ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn Hoàng

75

Quảng Uyên.

Trong lời đối thoại giữa ông Ké và Máy Nì: “Phải đấy ông Ké ạ. Tiếng nói cũng có

phần giống nhưng ở bên này tiếng nói nặng hơn. Ở đây họ gọi tôi là Quốc Súng, sang

Mổng Mà họ gọi tôi là Cò Sheng. “ Cò Sheng” – ông Ké bỗng quay người lại: “Chữ Sheng

chữ thăng ở dưới, chữ nhật ở trên nghĩa là mặt trời mọc, là trời sáng”” [37, tr. 22].

Chỉ với cách đặt tên, nhà văn cho người đọc thấy được sự giao lưu giữa ngôn

ngữ Việt – Trung rất phong phú và đa dạng. Nghĩa của những từ ngữ dùng để đặt tên

riêng thường gắn với các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên nhằm tôn vinh giá trị văn

hóa của cội nguồn dân tộc. “ Cò Sheng” dịch theo nghĩa tiếng Việt nghĩa là “trời

sáng”. Hồ Chí Minh vui mừng trước tên gọi của người dân dành cho ông Máy Nì.

Tên gọi này không chỉ gợi mối thân tình thắm thiết mà còn có ý nghĩa tượng trưng

cho niềm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng của cả một dân tộc, một thời đại.

Bằng khả năng quan sát tỉ mỉ cùng vốn từ ngữ phong phú, nhà văn đã tái hiện một

bức tranh toàn cảnh về cuộc sống, về lối sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số

thông qua việc sử dụng ngôn ngữ giản dị được chắt lọc từ trong cuộc sống.

3.3. Giọng điệu trần thuật trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng

của Hoàng Quảng Uyên

3.3.1. Khái niệm giọng điệu và giọng điệu trần thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường

tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn,

quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, phát biểu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, đơn

sơ, hùng kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm.” và “Giọng điệu phản ánh lập

trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong

việc tạo nên phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [9, tr.134]

Trong quá trình sáng tác, nếu muốn thành công trong bất kỳ mảng đề tài nào

thì mỗi tác giả đều phải dày công xây dựng cho mình một giọng điệu riêng mang đậm

dấu ấn cá nhân. Chính vì vậy, Giọng điệu có thể được hiểu là “Giọng nói hay lối nói

biểu thị một thái độ nhất định (giọng mỉa mai, chán chường) hay như ngữ điệu (giọng

lên xuống, lúc trầm lúc bổng)” [21, tr.503].

Cũng trong Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là

76

việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự

vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm

cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận,

lời ghi chú của tác giả…. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn

ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính

sáng tạo của tác giả.

Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự sự. Trong

tiểu thuyết, trần thuật tập trung vào số phận một hoặc nhiều cá nhân trong quá trình

hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây được triển khai trong không gian

và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Với đặc điểm

đó, trần thuật trong tiểu thuyết là một phương diện thi pháp đặc trưng của thể loại.

Trần thuật tồn tại với nội dung trần thuật và hình thức trần thuật. Nếu như trong đời

sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì trong văn học, giọng điệu

giúp chúng ta nhận ra tác giả. Người đọc có thể nhận thấy tất cả các chiều sâu tư

tưởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng

sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là cảm

hứng chủ đạo của nhà văn. Trong khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu,

nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo.

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (kể cả truyện ngắn mà giới nghiên cứu gọi là

đoản thiên tiểu thuyết) có một số giọng điệu như: giọng điệu trữ tình sâu lắng của

Nguyễn Huy Thiệp (Chảy đi sông ơi), Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận); giọng

điệu suy ngẫm, triết lý với cảm quan nhìn nhận lại hiện thực của Bảo Ninh (Nỗi buồn

chiến tranh), Dương Hướng (Bến không chồng), Nguyễn Khải(Gặp gỡ cuối năm,

Thời gian của người…) Ma Văn Kháng (Ngược dòng nước lũ); giọng điệu hài hước,

giọng điệu diễu nhại trong văn chương của Phạm Thị Hoài lại có giọng điệu thông tục

đời thường trong tiểu thuyết của Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng)… Nói chung tiểu thuyết

là đa thanh, nhiều bè, nhiều giọng điệu. Việc tạo được giọng điệu đa dạng, phong phú

là đánh dấu một bước trưởng thành trong tư duy nghệ thuật.

Trong hai cuốn tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, giọng điệu mà nhà

văn Hoàng Quảng Uyên sử dụng vẫn là giọng điệu đơn thanh, trong đó giọng điệu trữ

tình ngưỡng mộ, ngợi ca đóng vai trò chủ đạo. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng nhiều

77

giọng điệu trần thuật khác, tạo nên nét độc đáo trong bút pháp sáng tác của mình.

3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên

3.3.2.1. Giọng điệu trữ tình ngưỡng mộ, ngợi ca

Đây là giọng điệu chủ đạo mà nhà văn Hoàng Quảng Uyên dùng để nói về nguyên

mẫu Hồ Chí Minh và những người đồng chí, đồng đội trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác

Bó và Giải phóng. Qua giọng điệu này, nhà văn đã cho người đọc thấy được điểm nhìn

“chiêm ngưỡng” của chính tác giả trong việc ngợi ca những người anh hùng lý tưởng của

thời đại, hình mẫu người anh hùng của nhân dân. Đó chính là Hồ Chí Minh, là Võ Nguyên

Giáp, Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Nông Thị Trưng .v.v. Họ đều là những con người

xuất thân bình thường mà trở nên phi thường trong những chiến công, vẻ đẹp của sức

mạnh tinh thần và đôi khi cả trong những đau thương, mất mát.

Giọng điệu trữ tình ngưỡng mộ, ngợi ca được thể hiện ngay trong những câu văn

dung dị, đời thường nhưng toát lên được ý chí, nghị lực phi thường của Bác.

Trong Mặt trời Pác Bó, Hoàng Quảng Uyên giúp người đọc cảm nhận thấy được

sự tinh anh, thông minh, tài ba, uyên bác của Hồ Chí Minh qua đôi mắt biết nói. Đôi mắt

ấy sáng, luôn nhìn thẳng vào người đối diện giống như đang truyền sức mạnh và niềm tin

vào tương lai tươi sáng: “Đôi mắt ông Ké rất sáng, luôn nhìn thẳng, ánh mắt như có mãnh

lực, như mời gọi lại, như có sức kìm giữ khiến người đối diện luôn phải giữ một khoảng

cách nhất định” [37, tr. 16]

Một niềm thành kính ngưỡng mộ ẩn sâu trong trong từng lời văn mà tác giả đã

dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hình ảnh vị cha già Hồ Chí Minh “đã bao

năm xa Tổ quốc, bàn chân đã đạp qua bao gai góc, đặt lên muôn nẻo đường khắp các

phương trời Á – Âu” [37, tr. 21] được nhà văn nhắc đến như một niềm tự hào lớn lao.

Con đường Người ra đi tìm lại tự do ấm no hạnh phúc cho nhân dân đầy chông gai

thử thách, nhưng trên tất cả, bằng tình yêu vô bờ với quê hương, bằng tình thương vô

cùng với nhân dân, Bác đã vượt qua mọi khó khăn khắc nghiệt của cuộc đời để đem

ánh sáng tự do về cho quê hương. Bàn chân đã khô ráp, chai sạn bởi bao khó khăn,

gian khổ, song Người vẫn cố gắng vượt qua tất cả để giành được độc lập, tự do cho

dân tộc. Chỉ bằng vài nét phác họa cùng với việc sử dụng các động từ miêu tả hành

động “đạp, đặt”, Hoàng Quảng Uyên đã khắc họa một cách chân thực về quá trình

bôn ba tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đầy gian lao, vất vả nhưng cũng chứa

78

đầy tinh thần trách nhiệm với dân tộc, với Tổ quốc của Người.

Trong tác phẩm Giải phóng nhà văn cũng đã không ít lần thể hiện sự cảm phục,

ngưỡng mộ với Bác. Những chỉ thị, mệnh lệnh của Bác đã được so sánh thật lãng mạn

“Lời lãnh tụ như luồng sáng vạch thẳng đường đi tới” với giọng điệu đậm chất ngợi ca.

Hay tác giả cũng khẳng định: “Ông già trong cảm nhận của anh là một người đã hiến

dâng cả cuộc đời để giành lại tự do cho nhân dân mình. Một người thoạt nhìn rất cô đơn,

luôn luôn nén mình, từ chối những tiện nghi và hạnh phúc bình thường của cuộc sống

con người nhưng thực ra lại rất dễ gần, dễ mến. Có cảm giác rằng, ông chẳng làm gì

khác ngoài việc suy nghĩ và hành động duy nhất: giành độc lập cho dân tộc ông”. Đôi

khi tác giả khiến người đọc thêm kính yêu Bác bởi những chi tiết vô cùng giản dị mà

thiêng liêng vô cùng “Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày ở Pháp về hầu như chưa có giây

phút nào được nghỉ ngơi. Công việc đối nội, đối ngoại đã chiếm hết thì giờ của Người,

đến mức anh cả Nguyễn Sinh Khiêm và chị Nguyễn Thị Thanh từ quê ra thăm em trai là

chủ tịch nước, Người cũng không có đủ thì giờ để hàn huyên, thoả nỗi niềm sau gần bốn

mươi năm mới gặp lại những người anh em thân thiết nhất.” [38, tr.222]

Sự cảm phục, ngưỡng mộ của nhà văn dành cho Bác còn được thể hiện những

trang viết đầy kịch tính khi Bác quyết định sang thăm nước Pháp dù biết phía trước

còn nhiều khó khăn, nguy hiểm: “Tin Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp

làm các tầng lớp nhân dân, các cơ quan Đảng, Đoàn thể, Chính phủ vừa mừng vừa lo.

Mừng vì cuối cùng Pháp mặc nhiên công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng

hoà, công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập! lo là vì trong tình hình chính trị

phức tạp rối ren, phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, rất cần sự chèo lái của vị Chủ

tịch kính yêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp công việc ở nhà sẽ ra sao? Và sang

PaRi - "Hang ổ của thực dân Pháp", liệu có an toàn tính mạng hay không?...Hồ Chí

Minh không phải không biết điều đó nhưng với mục đích mở ra con đường làm cho

quốc tế thừa nhận Việt Nam, dẫn dân tộc Việt Nam đến một vị trí ngày càng chắc

chắn trên trường quốc tế... Đã chấp nhận cuộc hành trình gian khổ và nguy hiểm này”

[38, tr. 277-278]

Nhà văn cũng không quên nói đến những công lao to lớn của Bác với giọng điệu

thành kính, cảm phục: “Vậy là sau đúng 35 năm kể từ khi người thanh niên yêu nước

Nguyễn Tất Thành đến PaRi trên chặng đường dài 30 năm tìm đường cứu nước, cứu

79

dân, giờ đã trở thành chủ tịch nước Việt Nam mới với tên gọi Hồ Chí Minh, trở thành

thượng khách của nước Pháp. Một chặng đường dài dâu bể giành độc lập tự do cho tổ

quốc, cho nhân dân đã kết thúc, mở ra một chặng đường mới, một chặng đường chìm

trong máu và lửa để bảo vệ nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ, bước trên đường vinh

quang”. [38, tr.300]

Sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước vất vả, nay Bác đã trở thành Chủ

tịch nước Việt Nam với tên gọi Hồ Chí Minh và trở thành thượng khách của nước

Pháp. Đó không chỉ là niềm tự hào của riêng tác giả mà trở thành niềm tự hào chung

của một dân tộc, một quốc gia.

Có thể nói, viết về Bác với tất cả niềm kính yêu vô hạn nên những trang văn của

tác giả Hoàng Quảng Uyên luôn chan chứa niềm kính phục, tự hào. Những câu

chuyện về Bác luôn được nhà văn kể lại với giọng điệu đầy tự hào, ngưỡng mộ. Sự

chân thật trong giọng điệu và cảm xúc đã thực sự làm nên sức hấp dẫn cho những

trang văn của Hoàng Quảng Uyên.

3.4.2.2. Giọng điệu hoài niệm thắm thiết

Nhìn từ góc độ thể loại, phần lớn tiểu thuyết luôn hướng người đoc quay trở về

với quá khứ, với những gì đã “một thời vang bóng”. Chính vì vậy, việc sử dụng giọng

điệu hoài niệm trong thể loại tiểu thuyết trở thành một yếu tố quan trọng, góp phần tạo ra

đặc trưng riêng trong sáng tác của nhà văn Hoàng Quảng Uyên. Những câu chuyện mà

tác giả kể về Bác luôn được nhìn với độ lùi nhất định về thời gian. Bởi thế giọng điệu

hoài niệm tha thiết là điều dễ nhận thấy trong sáng tác của Hoàng Quảng Uyên.

Trong Mặt trời Pác Bó tác giả kể lại: “Nắng tràn trên cánh rừng đại ngàn Cốc

Bó, trải màu vàng tươi trên những cánh hoa muôn sắc lung linh. Những cành lá Mạy

Báng, mạy Mạ, Cáp tao ... lóng lánh đung đưa. Tiếng con chim Cáng lò gọi bạn tình

trong nồng nàn xuân. Dưới tán rừng xanh, dòng nước trong chảy từ đầu nguồn, len lỏi

qua khe đá. Róc rách reo vui. Hơi nước bốc lên đọng lại trên ngọn cỏ, lá cây bên bờ

suối. Ẩm ướt, lành lạnh.” [37, tr.5]. Hình ảnh thiên nhiên trong ký ức của tác giả như

đang hiện hữu ngay trước mắt. Tất cả những gam màu tươi sáng, lung linh của cỏ

cây, hoa lá như vẫn còn tươi nguyên trong ký ức của tác giả.

Những tình cảm thân thương, gần gũi với đồng chí, đồng bài luôn là những

80

ký ức đẹp đẽ về “một thời đã xa”. Mặc cho đêm đông giá rét, họ vẫn quây quần

xum họp vui vẻ: “Sau bữa cơm không rau, không muối là đêm vui đầm ấm, cảm

động diễn ra thâu đêm cạnh đống lửa cháy bập bùng giữa rừng mùa đông giá lạnh

…Cuộc vui kéo dài, không khí lúc sôi nổi, lúc trầm lắng đọng lại sâu sắc trong

lòng của mỗi cán bộ, chiến sĩ trước ngày ra trận...” [37, tr.388]

Tình cảm giữa đồng chí, đồng đội đã trở thành những ký ức đẹp đẽ trong lòng

mỗi người lính cách mạng. Ai cũng cũng mang trong mình tình yêu quê hương đất

nước và hơn cả là tinh thần cách mạng sục sôi đang rực cháy. Từng người đồng đội tự

giới thiệu về mình như một lời khắc ghi, lời nhắc nhở luôn nhớ về nhau trong những

tháng ngày chiến đấu vất vả.

Trong tác phẩm Giải phóng, chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp những trang văn

mang âm hưởng hoài niệm tha thiết. Khung cảnh thiên nhiên cũng hiện lên qua từng

trang viết: “Buổi sáng Lam Sơn thật trong trẻo. Hơi lạnh thoảng dìu dịu. Ông Cụ từ

đầu nguồn Ngườm Bốc đi lên, khăn vắt vai, dáng nhanh nhẹn, hứng khởi. Mọi người

nhanh chóng sắp xếp chuẩn bị lên đường. Bữa sáng có xôi đỗ xanh thơm dẻo và

những nắm cơm gạo trắng, thịt kho mang theo... Tất cả đứng một hàng ngang dưới

gốc cây vải nghe Ông Cụ truyền lệnh rồi đi xuống bản vừa lúc đội bảo vệ mang vác

thiết bị từ Nà Dưởng vừa đến. Ông Cụ ngó nghiêng tìm kiếm hai người bạn Đồng

Minh cho tới khi nhìn thấy họ vui vẻ giơ tay vẫy mới yên tâm lên đường.”[38, tr. 5].

Những câu chuyện mà tác giả kể lại như vừa mới diễn ra ngày hôm qua. Nó vẫn

còn nguyên vẹn trong ký ức của tác giả. Từng câu nói, từng việc làm của Bác luôn là dấu

ấn khó phai nhòa. Phải có một tình yêu tha thiết đến nhường nào tác giả mới có thể viết

được những câu văn thấm thía ân tình, chan chứa hoài niệm đến thế về Bác.

Kỷ niệm về Bác luôn đem đến cho người đọc cũng như chính tác giả những nỗi

niềm xúc động tha thiết. Bởi vậy những dòng văn đầy cảm xúc là điều người đọc dễ

dàng nhận thấy: “Công việc đã xong. Các đồng chí bảo vệ chuẩn bị đưa Chủ tịch Hồ Chí

Minh rời Vạn Phúc. Tất cả đã được gói ghém cẩn thận! Mà có gì đâu, tư trang của Người

chỉ có hai bộ quần áo, chiếc máy chữ và túi tài liệu. Người chưa muốn rời nơi này mặc

dù các đồng chí bảo vệ rụt rè nhắc nhở nhiều lần. Người chưa muốn đi, chưa muốn xa

Hà Nội thân yêu chỉ vài giờ nữa thôi sẽ ngập trong máu lửa”[38, tr. 385].

Thời gian đã lùi xa, những những năm tháng được sống bên Bác luôn là những

81

năm tháng không thể nào quên. Những kỷ niệm khó quên ấy mãi mãi sẽ thấm sâu vào

trái tim của tác giả. Tác giả cũng đã khẳng định với tình yêu tha thiết, trìu mến dành

cho Bác: “Năm nay đã là năm thứ tám của cuộc chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

bước sang tuổi sáu mươi tư nhưng vẫn là một người dồi dào nghị lực và sức sống, có sức

vóc như một thanh niên, mặt tuy rám nắng và gầy nhưng vẫn hồng hào khỏe mạnh, đôi

mắt sáng ánh lên niềm vui, hiền từ, đượm vẻ ưu tư luôn cuốn hút...”[38, tr. 352]

Với giọng điệu hoài niệm thắm thiết, Hoàng Quảng Uyên đã dẫn dắt người đọc

hướng về quá khứ và không quên gửi gắm những tình cảm tha thiết của mình ở đó.

Có lẽ, do bản thân tác giả cũng là người luôn lưu giữ những kỷ niệm đẹp về một thời

đã xa nên các trang viết của ông cũng bộc lộ những ưu tư, hoài niệm với những gì đã

diễn ra trong quá khứ. Quá khứ như vẫn vẹn nguyên trong kí ức của tác giả, cũng như

tình yêu, niềm kính trọng mà tác giả giành cho chủ tịch Hồ Chí Minh là không bao

giờ phai nhạt và như thế, quá khứ ấy sẽ không bao giờ bị lãng quên.

3.4.2.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước, bông đùa

Có một điều dễ dàng nhận ra trong các tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên khi

viết về Bác là ta luôn thấy hiện lên hai hình ảnh song song. Một nhà cách mạng yêu

nước, một vị lãnh tụ của dân tộc, một người chỉ huy, một nhà chiến lược, một nhà

ngoại giao, và bên cạnh đó là một con người bình thường trong cuộc sống đời thường

giản dị đến vô cùng.

Nếu như khi viết về Bác với tư cách là một nhà chính trị, một lãnh tụ, tác giả viết

bằng giọng văn trang nghiêm, ngợi ca, trân trọng thì khi viết về Bác trong cuộc sống đời

thường ta bắt gặp một giọng văn dí dỏm, hài hước, bông đùa.

Trong tác phẩm Giải phóng tác giả viết về câu chuyện mượn ngựa của dân trong

chuyến đi công tác của Bác đầy thú vị, hỏm hỉnh : “Ông Cụ lại móc từ túi ra nhiều tờ

tiền đưa cho Mỹ Đức rồi quay sang nói với hai người bạn Đồng Minh điều gì đó.

Người cao, da trắng nở nụ cười rất tươi, bước đến cầm lấy cương con ngựa to khoẻ,

nhảy phắt lên lưng, quất roi. Con ngựa lồng lên phi về phía trước. Mọi người thích

thú nhìn theo, một lúc mới thấy anh ta phi trở lại, nhảy xuống ngựa. Anh ta giơ tay

ngang đầu chào ông Cụ... Ông Cụ cười rất vui nói với mọi người:

- Thế cũng hay. Hôm qua anh ta đã kêu nhức chân. Anh ta đang hăng, đừng để

82

anh ta cụt hứng” [38, tr.14]

Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn Hoàng Quảng Uyên còn tái hiện tính cách hài

hước của Bác qua một tình huống tưởng như không thể hài hước khi Bác gặp gỡ các

viên tướng người Pháp.

Năm 1946, sau chuyến thăm chính thức nước Pháp với tư cách là thượng khách

của nước này, Bác về nước bằng tàu thủy. Về đến vùng biển của Cam Ranh, Bác

nhận được bức điện của Đô đốc Đắc Giăng-li-ơ, xin gặp Bác trong cảng, mục đích

của chúng là diễu võ dương oai để uy hiếp tinh thần Bác. Trong bộ quần áo giản dị,

Bác ngồi giữa một bên là Đô đốc Hải quân Pháp, bên kia là Thống soái lục quân Pháp

ở Viễn Đông với những bộ quân phục sáng loáng các thứ bội tinh, quân hàm, quân

hiệu. Đô đốc Đắc Giăng-li-ơ nói đùa nhưng đầy sự mỉa mai bóng gió:

- Thưa ông Chủ tịch, ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của Hải quân và

Lục quân đó.

Bác thản nhiên mỉm cười :

- Đô đốc biết đó, giá trị là ở bức họa chứ không phải ở bộ khung. Chính bức

tranh mới đem lại giá trị cho cái khung [38, tr.329]

Trước những lời uy hiếp của Đô đốc Đắc Giăng-li-ơ, Bác đã trả lời một cách

rành rọt nhưng cũng rất hài hước, dí dỏm. Qua câu trả lời ấy, người đọc thấy được sự

tinh anh trong suy nghĩ của Bác về một vấn đề liên quan đến vận mệnh của dân tộc. Bác

không coi trọng hình thức bề ngoài mà chỉ quan tâm đến giá trị đích thực của một bức

tranh, còn cái khung chỉ là để trang trí chứ không hề có một chút giá trị nào. Cùng với

đó, lời nói của Bác còn hàm chứa ẩn ý sâu xa, đó là: Bác chính là bức tranh tuy giản dị,

mộc mạc nhưng giá trị của nó thì vô cùng lớn lao, còn hai tên tướng Pháp ngồi hai bên

với những bộ quân phục sáng loáng các thứ bội tinh, quân hàm, quân hiệu chỉ là khung

tranh dùng để trang trí mà thôi. Chính sự hiểu biết cũng như lòng tự tin của Người đã

khiến cho đối phương vô cùng cảm phục vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Có thể nói: bên cạnh những lúc trăn trở, suy tư về vận mệnh của dân tộc, Hồ

Chí Minh còn hiện lên là một con người hài hước, dí dỏm. Thông qua ngôn ngữ và

hành động của Bác, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã giúp người đọc thêm yêu mến,

83

kính trọng và gần gũi với Bác hơn.

3.4.2.4. Giọng điệu châm biếm đả kích, tố cáo tội ác của kẻ thù

Trong một tác phẩm văn học, giọng điệu châm biếm đả kích thường được tác giả

sử dụng để phê phán, khắc họa loại nhân vật phản diện. Giọng điệu này thường gắn với

ngôn ngữ thông tục đời thường chỉ có một sắc thái biểu cảm là căm thù, khinh bỉ, đồng

thời tố cáo tội ác của kẻ thù, lột trần bản chất xấu xa, phi nhân tính của chúng.

Trong hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng, nhà văn Hoàng Quảng

Uyên đã sử dụng thành công giọng điệu này thông qua việc sử dụng ngôn ngữ thông

tục, đời thường để đả kích sâu cay hành động dã man của thực dân Pháp đối với dân

tộc Việt Nam. Là người đã từng chứng kiến cảnh những người nghèo khổ thuộc tầng

lớp dưới đáy của xã hội bị giai cấp thống trị của một số quốc gia trên thế giới trà đạp,

áp bức đến tận xương tủy nên Hồ Chí Minh luôn mang trong mình nỗi đau xót xa,

căm phẫn những kẻ chuyên cậy thế quyền đi ức hiếp những kẻ yếu hơn mình. Và khi

đất nước, dân tộc Việt Nam bị giặc ngoại xâm lấn chiếm, nỗi căm phẫn ấy càng mãnh

liệt hơn, quyết liệt hơn. Với cái nhìn tinh tế, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã lựa chọn

nhiều sự kiện, chi tiết tiêu biểu diễn ra trong lịch sử nhằm bộc lộ rõ hơn, sâu hơn về

nỗi băn khoăn, trăn trở cũng như nỗi căm phẫn tột cùng của Bác đối với kẻ thù.

Tội ác của kẻ thù bị vạch trần mọi lúc, mọi nơi : “Trải gần một trăm năm sống

đời nô lệ, bọn đế quốc, phong kiến đã làm cho dân tộc ta trở nên ngu dốt, tối tăm.

Nay ta phải giúp cho người dân học chữ, học văn hóa, học phương pháp tổ chức cách

mạng, đưa họ vào các tổ chức chính trị, vũ trang, đồng lòng, đồng chí hướng trên

đường tranh đấu. Tạo ra một phong trào mạnh mẽ, rộng khắp, một cao trào cách

mạng như triều dâng, thác đổ ...” [37, tr.42].

Nhà văn đứng trên lập trường dân tộc, tố cáo những tội ác của quân xâm lược

đối với dân tộc Việt Nam. Với lời lẽ dứt khoát, tác giả nhấn mạnh phải giúp cho

người dân học chữ, tiếp cận với các tổ chức cách mạng, cùng đoàn kết đứng lên

chống lại kẻ thù xâm lược. Có như thế mới tạo được phong trào đấu tranh cách mạng

rộng lớn trên khắp cả nước.

Cùng với đó, nhà văn khẳng định: “Đi theo quân Tưởng vào Việt Nam là một lũ

Việt Gian, phản quốc. Chúng sống lưu vong nhờ vào sự o bế của Tưởng Giới Thạch.

Với bản chất bịp bợm, đầu cơ chính trị, chúng thấy “thời” của chúng đã đến, nên

84

cùng kéo ùa vào “dây máu, ăn phần”” [38, tr.173].

Những từ ngữ “Việt gian, phản quốc, bịp bợm, dây máu, ăn phần” được nhà văn sử

dụng liên tiếp chỉ trong một đoạn văn ngắn gồm hai câu nhằm vạch trần bản chất của

những kẻ “sống lưu vong” nhờ vào quân Tưởng. Đó là những kẻ chuyên cậy quyền, cậy

thế mà bòn rút của dân, làm chuyện bất nhân, bất chính, phản quốc, hại dân.

Tác giả cũng đanh thép trong lời tố cáo : “Xảo trá và lật lọng đó là bản tính của

những kẻ có đầu óc thực dân nặng nề đứng đầu là cao uỷ Đácgiăngliơ, đại diện đầu

tiên của Pháp ở Đông Dương, người ngay từ đầu đã cố tình đi ngược các thoả hiệp

giữa chính phủ Việt Nam và Pháp bằng cách tiến hành chiến tranh ở Nam Bộ và Nam

Trung Bộ, lập ra chính phủ Nam Kỳ và nước cộng hoà Nam Kỳ giả hiệu nhằm chia cắt

Việt Nam. Triệu tập hội nghị Đà Lạt thứ hai lập ra liên bang Đông Dương gồm các đại

biểu bù nhìn của Căm pu chia, Lào, Nam Bộ, Nam Trung Bộ với âm mưu từng bước

chiếm lại Đông Dương, chia cắt Việt Nam và cô lập chính phủ Hồ Chí Minh. Tổ chức

phong toả, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và Thủ đô Hà Nội.”[38, tr. 393]

Với giọng văn mỉa mai, châm biếm sâu cay, nhà văn Hoàng Quảng Uyên đã tố

cáo tội “Xảo trá và lật lọng” của Pháp thông qua những hành động và việc làm cụ thể

như: cố tình đi ngược các thoả hiệp giữa chính phủ Việt Nam với Pháp bằng cách tiến

hành chiến tranh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, lập ra chính phủ Nam Kỳ và nước

cộng hoà Nam Kỳ với danh nghĩa giả hiệu nhằm chia cắt Việt Nam. Bên cạnh đó, qua

lời tố cáo của nhà văn, người đọc thấy rõ hơn âm mưu bước chiếm lại Đông Dương

và cô lập chính phủ Hồ Chí Minh của Pháp thông qua liên bang Đông Dương gồm

các đại biểu bù nhìn của Căm pu chia, Lào, Nam Bộ, Nam Trung Bộ ...

Cũng là giọng điệu châm biếm, đả kích nhưng tác giả lại có cái nhìn tỉ mỉ hơn:

“Bọn Tưởng với danh nghĩa và nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, danh thì oai như

vậy, nhưng thực tế đó là một đội quân Ô hợp. Binh lính ốm yếu, mặt mũi bủng beo,

chân tay phù thũng, râu tóc bơ phờ, quân phục rách rưới, bẩn thỉu, gồng gánh lễ mễ,

có những toán quân đem cả đàn bà, trẻ con, đi tới đâu là cướp phá, vơ vét của cải đến

đấy. Tệ hại hơn, chúng đánh đạp dân chúng, hãm hiếp phụ nữ, bắt dân chúng tiếp tay

bọn phản động chống phá cách mạng …”[38, tr.197-198].

Chỉ với một đoạn văn ngắn, nhà văn đã vạch trần quân Tưởng với giọng điệu mỉa

mai, khinh bỉ. Núp dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật, quân Tưởng càng lộ rõ bản chất

85

xấu xa, vô trách nhiệm. Qua ngòi bút châm biếm, nhà văn cho người đọc thấy được bộ

dạng nhéch nhác, tồi tệ của quân Tưởng với toán “binh lính ốm yếu, mặt mũi bủng beo,

chân tay phù thũng, râu tóc bơ phờ, quân phục rách rưới, bẩn thỉu”.

Đôi khi tác giả lại mỉa mai kẻ thù : “Không khí chiến tranh đang bị dồn nén.

Dồn nén để nổ tung. Nhìn vẻ ngoài, dường như êkíp mới được cử sang thay

Đácgiăngliơ, Xanhtơni, Pi Nhông, VaLuy... là những kẻ... yêu hoà bình! Ít nhất là

theo những gì mà báo chí cánh hữu Pháp thổi phồng và “vẽ vời” về một kết quả

thương lượng trong tầm tay. Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Ngày 1-4-1947, BôLae

đến Hà Nội. Ngày 5-5-1947, BôLae đọc một bài diễn văn “khẳng định” sự có mặt của

người Pháp ở Đông Dương là lẽ đương nhiên và vị trí Đông Dương trong Liên hiệp

Pháp đã được xác định.” [38, tr. 465].

Giọng điệu của nhà văn chuyển từ châm biếm sang mỉa mai thực dân Pháp.

Giọng điệu mỉa mai ấy thể hiện rõ qua những cách cảm và cách nghĩ của chính tác

giả. Nhà văn cho rằng, những viên tướng người Pháp “là những kẻ ... yêu hòa bình!”

nhưng thực chất ý đồ của chúng là muốn đánh chiếm toàn bộ Đông Dương. Tác giả

sử dụng dấu chấm than nhằm làm tăng thêm tính mỉa mai đối với kẻ thù. Chúng

không hề yêu hòa bình mà luôn nung nấu kế hoạch xâm chiếm và thâu tóm các nước

yếu thế hơn trở thành thuộc địa của chúng.

Có thể nói: giọng điệu trong hai tiểu thuyết lịch sử “Mặt trời Pác Bó” và “Giải

phóng” của nhà văn Hoàng Quảng Uyên thuộc giọng điệu đơn thanh, nghĩa là nhiều

giọng điệu và có một giọng điệu chủ đạo, các giọng điệu khác ở vị trí phối thuộc với

giọng điệu chủ đạo và không bình đẳng với nhau. Do đó, giọng điệu nhà văn Hoàng

Quảng Uyên rất phù hợp với tiểu thuyết lịch sử viết về một bậc vĩ nhân là Hồ Chí

Minh. Hơn nữa, đây là bộ tiểu thuyết lịch sử đầu tiên gồm hai tập mà nhà văn Hoàng

Quảng Uyên – là người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam đầu tiên viết

tiểu thuyết lịch sử về Bác Hồ kính yêu trong giai đoạn lịch sử này. Ông đã mạnh dạn,

xông xáo khi đặt nét bút đầu tiên viết về quá trình hoạt động cách mạng của Bác từ

khi Bác đặt chân lên mảnh đất Cao Bằng, giữa núi rừng Pác Bó đại ngàn đến khi lãnh

86

đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi và trở về Hà Nội.

KẾT LUẬN

1. Luận văn chọn nghiên cứu vấn đề nguyên mẫu Hồ Chí Minh trong tiểu thuyết

lịch sử của Hoàng Quảng Uyên bởi Hoàng Quảng Uyên là nhà văn dân tộc thiểu

số ở miền núi phía Bắc Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết lịch sử về Bác Hồ kính

yêu. Những trang viết của ông đều phản ánh một cách chân thực về vị lãnh tụ kính

yêu của dân tộc – Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng gắn bó với mảnh đất Cao

Bằng, nơi mà nhà văn đã được sinh ra, lớn lên và với Việt Bắc - “Thủ đô gió

ngàn” trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Với tấm lòng thiết tha, tự hào về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Hoàng Quảng

Uyên đã viết nên những trang văn thể hiện lòng kính yêu của mình đối với Bác một

cách chân thành, sâu sắc. Với những trang viết thành công về Hồ Chí Minh vĩ đại,

Hoàng Quảng Uyên đã nhanh chóng tự khẳng định mình ở vị trí một cây bút viết tiểu

thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, và của nền văn học các

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng.

2. Khi nghiên cứu đề tài này, luận văn đã tập trung nghiên cứu nguyên mẫu Hồ

Chí Minh gắn với những “cột mốc” lịch sử được tái hiện trung thực trong hai tác

phẩm Mặt trời Pác Bó và Giải phóng. Dựa vào lịch sử, nhà văn đã hư cấu thành công

nhân vật Hồ Chí Minh thông qua hai phương diện: con người vĩ nhân và con người

đời thường. Con người vĩ nhân ấy được hư cấu để tái hiện thành công qua tài năng, trí

tuệ với tầm nhìn xa trông rộng trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc; vĩ nhân ở

một tâm hồn nghệ sĩ tràn đầy niềm tin và tự hào trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp,

hùng vĩ của núi rừng Việt Bắc. Hoàng Quảng Uyên đã tập trung hư cấu nguyên mẫu

Hồ Chí Minh trong tác phẩm ở các phương diện ngoại hình, tính cách, hành động, nội

tâm, bên cạnh đó ông cũng sử dụng nghệ thuật hư cấu để xây dựng chân dung một số

nhân vật lịch sử có thật đã gắn bó với Bác trong suốt quá trình hoạt động cách mạng.

Sự hư cấu có hạn chế với những phạm vi và góc độ nhất định để vừa thực hiện chức

năng sáng tạo nghệ thuật của văn học, vừa tôn trọng tối đa tính khách quan của sự

thật lịch sử. Hoàng Quảng Uyên đã cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp từ chân

dung tâm hồn của Hồ Chí Minh với niềm tự hào lớn lao. Một con người luôn

87

hướng về cách mạng, về dân tộc để giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Qua nghệ

thuật hư cấu, Hoàng Quảng Uyên đã cho người đọc có được cái nhìn sâu sắc hơn

về nhân cách, phẩm chất của vị lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc.

Trong những sáng tạo đặc sắc của Hoàng Quảng Uyên, trong hai tiểu thuyết

này, bên cạnh nghệ thuật hư cấu để xây dựng nguyên mẫu Hồ Chí Minh thành nhân

vật lịch sử Hồ Chí Minh, nhà văn còn thể hiện tài năng của mình ở các phương diện:

kết cấu nghệ thuật, giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Ở phương diện kết

cấu, nhà văn đã sử dụng kết cấu của tiểu thuyết chương hồi, một hình thức chủ yếu

của tiểu thuyết trường thiên trung đại Trung Quốc có đặc điểm là dùng tiểu mục để

phân hồi câu chuyện liên tiếp, mạch lạc, chỉnh tề nhằm làm nổi bật được từng sự kiện

tiêu biểu được nói đến, đồng thời giúp hiểu rõ hơn về nội dung cũng như dụng ý sáng

tác của tác giả trong mỗi chương. Ở phương diện nghệ thuật, nhà văn sử dụng ngôn

ngữ nghệ thuật gần gũi với phong cách giao tiếp của nhân dân vùng cao gắn với các

sự vật quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, lao động của đồng bào dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc thông qua nhiều thành ngữ, tục ngữ cùng nhiều từ ngữ địa phương

được sử dụng trong hai tác phẩm, tạo nên nét độc đáo riêng trong sáng tác của Hoàng

Quảng Uyên. Bên cạnh đó, nhà văn còn sử dụng một cách linh hoạt, khéo léo giọng

điệu trần thuật, đó là giọng điệu ngưỡng mộ, ngợi ca chiếm vị trí giọng điệu chủ đạo;

giọng điệu hoài niệm thắm thiết; giọng điệu dí dỏm, hài hước, bông đùa và giọng điệu

châm biếm, đả kích, tố cáo tội ác của kẻ thù. Các giọng điệu luôn ở vị trí phối thuộc

với giọng điệu chủ đạo và không bình đẳng với nhau. Chính vì vậy, giọng điệu của

nhà văn Hoàng Quảng Uyên rất phù hợp với tiểu thuyết lịch sử viết về một bậc vĩ

nhân là Hồ Chí Minh.

3. Nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên có ý nghĩa

khoa học và thực tiễn quan trọng nhằm khám phá giá trị nội dung, nghệ thuật trong

tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quảng Uyên. Qua hai tác phẩm, người đọc

không chỉ được gặp lại bức tranh lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong giai

đoạn tiền khởi nghĩa và giai đoạn kháng chiến chống Pháp, mà còn thêm hiểu và kính

yêu hơn về nhân cách, tài năng, trí tuệ và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

đối với đất nước, từ đó, nhằm khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo và đóng góp của

88

nhà văn Hoàng Quảng Uyên trong thể loại tiểu thuyết về đề tài Bác Hồ kính yêu.

Việc nghiên cứu thành công đề tài Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên

sẽ góp thêm một tiếng nói về loại hình tiểu thuyết lịch sử, cùng những đặc trưng của nó, đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử viết về Bác Hồ kính yêu, đồng thời sẽ là tư liệu tham khảo

bổ ích cho quá trình giảng dạy văn học địa phương ở Cao Bằng nói riêng và cho công tác

dạy và học học phần Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Qua việc

nghiên cứu đề tài này, chúng ta càng hiểu hơn về nhân cách sáng ngời của vị lãnh tụ vĩ

đại của dân tộc Việt Nam. Những việc làm, hành động và lời nói của Bác trong tác phẩm

sẽ trở thành tấm gương để mọi người dân Việt Nam học tập và làm theo. Qua đó, góp

phần đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

trong thời đại mới.

Việc nghiên cứu thành công tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quảng Uyên sẽ góp phần

nhỏ bé để bổ sung, làm đầy đặn và toàn diện hơn cho công tác nghiên cứu phê bình văn

học về mảng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam ít lâu nay vẫn còn nhiều bất cập. Chúng

tôi hy vọng rằng sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục thế hệ trẻ, nhất là đối

với những bạn đọc tiểu thuyết này thực sự hiểu sâu sắc về chân dung Chủ tịch Hồ Chí

Minh kính yêu. Sau khi nghiên cứu xong đề tài này, chúng tôi nghĩ phạm vi đề tài có thể

được mở rộng nếu được nghiên cứu ở góc độ cao hơn như: Các tiểu thuyết lịch sử viết về

Bác Hồ kính yêu trong văn xuôi văn học hiện đại, chất thơ trong tiểu thuyết lịch sử của

Hoàng Quảng Uyên hay Hoàng Quảng Uyên với chân dung nhân vật lịch sử ...

Hoàng Quảng Uyên thực sự là một cây bút dũng cảm khi “mạnh dạn” viết về Bác

Hồ kính yêu với một phong cách sáng tạo mới mẻ và độc đáo. Chỉ qua hai tiểu thuyết

lịch sử này, người đọc cảm nhận được tình yêu trọn vẹn của nhà văn đối với Chủ tịch

Hồ Chí Minh vĩ đại. Hai tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó và Giải phóng đã khắc họa một

cách toàn diện chân dung Bác Hồ kính yêu trong những thời khắc lịch sử quan trọng

nhất của dân tộc từ khi Người trở về hoạt động cách mạng năm 1941, lãnh đạo cuộc

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đến chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy

89

lừng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên, Thái

Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

2. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng (1995), Lịch sử

Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, tập 1, giai đoạn 1930 – 1945, Ban tuyên giáo tỉnh ủy

Cao Bằng.

3. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng (1988), Lịch sử đấu tranh cách

mạng huyện Hà Quảng, tập 1, giai đoạn 1930 – 1945, Ban chấp hành Đảng bộ

huyện Hà Quảng xuất bản.

5. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Đặng Anh Đào (1992), Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, Tạp chí văn học số 6.

7. Đặng Anh Đào (1993), Sự tự do của tiểu thuyết – một khía cạnh thi pháp, Tạp

chí văn học số 3.

8. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành

Hưng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phương, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu

(2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

10. Hồ Mộ La (2011), Hồi tưởng về cha tôi Hồ Học Lãm, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

11. Phong Lê (2013), Phác thảo Văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX), Nxb Tri

thức, Hà Nội.

12. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

13. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc

Hòa, Thành Thế Thái Bình (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

14. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn Việt Nam hiện đại: Chân dung và phong cách,

Nxb trẻ thành phố Hồ Chí Minh.

15. M.Bakhtin (1992), Lí luận về thi pháp tiểu thuyết, Nxb Bộ văn hóa thông tin và

90

thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

16. Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong

văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến đầu năm 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. Nhiều tác giả (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa

dân tộc.

18. Nhiều tác giả (1995), Bác Hồ về nước, Nxb Văn học, Hà Nội.

19. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học Việt Nam.

22. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Giáo trình lí luận văn học, tập 2, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

23. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

24. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử,

phần 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

25. Nguyễn Việt Thanh (chủ biên), Nguyễn Văn Mạch, Nguyễn Thị Thanh Hải,

Đinh Huyền Trang (2010), Di tích lịch sử - lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh

trên đất Tuyên Quang, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang.

26. Hằng Thi, Thiên Sơn (chủ biên), Kiều Việt Quang (2011), Hiện tượng Sơn Tùng

trong văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

27. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc.

28. Lâm Tiến (2011), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa – Thông tin.

29. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc.

30. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa

dân tộc.

31. Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo (đồng chủ biên) (2011), Văn học dân tộc thiểu số

Việt Nam thời kì hiện đại – một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

32. Trần Thị Việt Trung (2010), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại (giai

đoạn từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945), Nxb Đại học Thái Nguyên.

33. Sơn Tùng (2008), Trái tim quả đất, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

34. Sơn Tùng, 3 tập: Búp sen xanh, Nxb Văn học, Hà Nội.

91

35. Sơn Tùng (2010), Bông sen vàng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

36. Phùng Văn Tửu (1996), Tiểu thuyết Pháp hiện đại tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

37. Hoàng Quảng Uyên (2010), Mặt trời Pác Bó, Nxb Hội nhà văn Việt Nam.

38. Hoàng Quảng Uyên (2013), Giải phóng, Nxb Hội nhà văn Việt Nam.

39. Hoàng Quảng Uyên (2010), Đi tìm Nhật kí trong tù: Số phận và lịch sử, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

40. Hoàng Quảng Uyên (2010), Đi tìm Nhật kí trong tù: Những câu chuyện nhỏ, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

Website:

41. http://trandinhsu.wordpress.com

42. http:vnca.cand.com.vn.

43. http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/lan-loi-thu-thap-tai-lieu-ve-bac-ho.

44. http://phongdiep.net.

45. http://www.nguoibanduong.net

46. http://trandinhsu.wordpress.com/2013/04/03/suy-nghive-lich-su-va-tieu-thuyet-

lich-su/.

47. http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-binh/2261-tieu-thuyet-lich-su-

khong-phai-la-cuoc-choi-cua-nguoi-tre.

48. http://vi.wikipedia.org.

92

49. http://vietvan.com.