ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG THỊ HƢƠNG LIÊN TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA VÀ THI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Hà Nội-2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG THỊ HƢƠNG LIÊN TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA VÀ THI PHÁP Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Phạm Xuân Thạch Hà Nội-2013
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 5
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 13
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 14
6. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 15
NỘI DUNG ............................................................................................................. 16
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN TRIỆU LUẬT .......................................................... 16
1.1 Khái lƣợc về tiểu thuyết lịch sử ..................................................................... 16
1.1.1 Khái niệm .................................................................................................... 16
1.1.2. Khái quát về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 .............................................................................................................................. 19
1.2 Khái lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật ..................................... 22
1.2.1 Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật. ......................... 22
1.2.2. Nguyên nhân lựa chọn thể tài tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật. 24
1.1.3. Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật trong bối cảnh chung của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 ............................. 27
Chƣơng 2: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA……………………………………………………… .......................... 34
2.1. Giới thuyết về khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa và văn học 34
2.1.1. Khái niệm văn hóa ..................................................................................... 34
2.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ....................................................... 36
3
2.2. Các thành tố văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật .............. 38
2.2.1. Không gian văn hóa miền Bắc Việt Nam thời Lê mạt ............................... 40
2.2.2. Con ngƣời trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật – những chủ thể văn hóa ........................................................................................................... 53
2.2.2.1. Hình tƣợng vua chúa ............................................................................... 54
2.2.2.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ ........................................................................ 58
2.2.2.3. Hình tƣợng những trung thần .................................................................. 63
Chƣơng 3: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP………………………………………………………………. ............ 66
3.1. Giới thuyết về khái niệm thi pháp và thi pháp học ....................................... 66
3.2. Các yếu tố thi pháp của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật ................... 68
3.2.1. Mối quan quan hệ giữa tính chân sử và hƣ cấu nghệ thuật........................ 68
3.2.1.1. Hƣ cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử .............................. 69
3.2.1.2. Hƣ cấu hoàn toàn .................................................................................... 74
3.2.2. Nghệ thuật kết cấu...................................................................................... 78
3.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................... 80
3.2.3.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua giới thiệu tiểu sử và miêu tả ngoại hình. ............................................................................................................ 80
3.2.3.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua miêu tả hành động ................... 84
3.2.3.3. Khắc họa tính cách nhân vật qua độc thoại nội tâm và miêu tả tâm lý nhân vật ................................................................................................................ 85
3.2.4. Ngôn ngữ .................................................................................................... 88
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 94
4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 97
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử đƣợc đánh giá là một trong số ít
các bộ phận tiểu thuyết có sự phát triển liên tục qua nhiều thời kỳ mà mỗi thời kỳ
đều gặt hái đƣợc thành tựu. Tiểu thuyết lịch sử từ đầu thế kỷ XX đến trƣớc năm
1945 nở rộ các tên tuổi Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai, Ngô Tất
Tố, Nguyễn Huy Tƣởng… với số lƣợng lớn các tác phẩm giá trị đóng góp không
nhỏ vào sự nghiệp hiện đại hóa văn học Việt Nam. Mặc dù trong giai đoạn 1945 –
1950, các sáng tác tiểu thuyết lịch sử có chiều hƣớng tạm lắng nhƣng ngay sau đó
từ những năm 50, 60 trở đi tiểu thuyết lịch sử đã phát triển trở lại. Đặc biệt là từ
sau Đổi mới tới nay, thể tài này phát triển rầm rộ với đông đảo các tác giả, nổi bật
trong đó là Nguyễn Quang Thân, Hoàng Công Khanh, Nguyễn Mộng Giác,
Nguyễn Xuân Khánh, Hàn Thế Dũng, Lê Đình Khanh, Võ Thị Hảo… Cho nên,
việc tìm hiểu thể tài có sự phát triển liên tục nhƣ vậy sẽ có những đóng góp hữu ích
vào việc làm sáng tỏ quy luật phát triển của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ngoài
ra, tiếp cận tiểu thuyết lịch sử trên nhiều khía cạnh còn giúp chúng ta có đƣợc
những hiểu biết về các vấn đề văn học đƣơng đại và có đƣợc cái nhìn sâu sắc hơn
về lịch sử và cuộc sống hiện tại.
Có một thực tế là việc nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam nói riêng (cho đến nay) còn tồn tại một số bộ phận tác giả, tác
phẩm ít đƣợc nhắc tới, thậm chí còn bị bỏ quên, vì thế, tiếp cận, tìm hiểu các tác
giả, tác phẩm này sẽ chúng ta ngày một hoàn chỉnh bức tranh chung về tiểu thuyết
lịch sử, về nền văn học nƣớc nhà. Xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ trƣớc,
nhà văn Nguyễn Triệu Luật đã để lại cho chúng ta một gia tài văn chƣơng, trong đó
có đến 8 tiểu thuyết lịch sử hoàn chỉnh đƣợc lƣu lại đến nay: Hòm đựng người (in
từng kỳ trên báo Nhật Tân vào năm 1936, thành sách năm 1938), Bà chúa
Chè (1938), Loạn kiêu binh (1939), Ngược đường Trường thi (Phổ thông bán
5
nguyệt san số 46, 1939), Chúa Trịnh Khải (1940), Rắn báo oán (1941), Thiếp
chàng đôi ngả (in chung với Rắn báo oán, 1941), Bốn con yêu và hai ông
đồ (1943). Các tác phẩm này đƣợc nhiều nhà phê bình, nhà văn đƣơng thời nhƣ
Lan Khai, Trúc Khê, Nguyễn Nhất Lang, Hiên Chy đánh giá cao và đƣợc dƣ luận
thời bấy giờ ƣu ái, ủng hộ, tuy nhiên sau khi ông mất, những tác phẩm trên cũng
không xuất hiện và không đƣợc đề cập đến nữa. Vì thế, cho đến thời điểm hiện tại,
số lƣợng nghiên cứu về tác giả này vẫn còn thƣa thớt, chƣa thực sự đánh giá đƣợc
đầy đủ và thuyết phục các giá trị của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, đồng
thời chƣa định hình rõ nét đƣợc vị trí, vai trò của tác giả Nguyễn Triệu Luật trong
dòng chảy lịch sử phát triển của tiểu thuyết lịch sử nƣớc nhà. Tiếp cận và tìm hiểu
một tác giả nhƣ Nguyễn Triệu Luật không chỉ giúp chúng ta có cơ hội nhìn nhận
lại phong cách, tài năng của tác giả, mà còn giúp ta hoàn chỉnh bức tranh chung về
tiểu thuyết lịch sử nƣớc nhà.
Ngoài ra, đối với việc phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học, hoặc một
bộ phận tác phẩm văn học thì việc tìm hiểu từ góc độ văn hóa và thi pháp sẽ giúp
chúng ta có đƣợc một cái nhìn khái quát hơn về tác phẩm cả về tƣ tƣởng lẫn nghệ
thuật. Tiếp cận tác phẩm dƣới góc độ văn hóa và thi pháp không chỉ cho ta một
hình dung tổng thể về tác phẩm văn học, tránh đƣợc việc nhìn nhận một cách phiến
diện, khiên cƣỡng, từ đó còn giúp chúng ta thấy đƣợc chân dung hoàn chỉnh về tài
năng cũng nhƣ tâm hồn của tác giả.
Những lý do trên đây đã cho tôi thấy đƣợc sự cấp thiết của một công trình
lần đầu tiên nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật từ góc độ văn hóa và
thi pháp.
2. Lịch sử vấn đề
Sinh thời, Nguyễn Triệu Luật là một tác giả tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng trên
văn đàn. Đời viết văn của ông đã thu hoạch đƣợc số lƣợng các tác phẩm tiểu thuyết
lịch sử không nhỏ (gồm tám cuốn tiểu thuyết hoàn thiện) và luôn đƣợc các nhà
nghiên cứu đƣơng thời đánh giá cao, song sau khi ông mất, ông và các tác phẩm
6
của mình trong một thời gian dài hầu nhƣ không đƣợc nhắc tới. Các công trình
nghiên cứu về tác phẩm mà cụ thể là tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật
không nhiều, chỉ lẻ tẻ các bài viết đăng trên một số tạp chí, sách, báo, nhất là
những bài phê bình về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật trƣớc năm 1945 thì
còn lại rất ít.
Cho tới nay chƣa thực sự có một công trình nào nghiên cứu tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Triệu Luật từ góc độ văn hóa và thi pháp, cũng chƣa hề có một công
trình nghiên cứu về ông với một dung lƣợng thích đáng. Chúng tôi xin đƣợc tổng
hợp tóm lƣợc một vài ý kiến đánh giá xung quanh tiểu thuyết lịch sử của ông dựa
vào hai nguồn tƣ liệu: đó là Phụ lục các bài viết, phê bình, nghiên cứu trong tuyển
tập Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật do ông Nguyễn Triệu Căn, con trai nhà
văn sƣu tập và các bài viết tham luận tham dự Hội thảo Nguyễn Triệu Luật (1903 -
1946) Con người và sự nghiệp của Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức vào ngày
23/8/2012 đã đƣợc hợp in trong cuốn Nguyễn Triệu Luật – Con người và tác phẩm,
Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2013.
Bàn về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật có những ý kiến trái
ngƣợc nhau. Một số nhà nghiên cứu khi tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Triệu
Luật cho rằng: chúng “khô khan, dài dòng, mải khoe kiến thức” [38], nhiều khi
giảm bớt tính văn chƣơng do các đoạn trữ tình ngoại đề, thuyết minh về lịch sử quá
nhiều. Tiểu thuyết lịch sử của ông khi vừa mới ra đời đã ngay lập tức bị nhắc lên
bàn cân để soi xét xem tác phẩm của ông có thực sự là tiểu thuyết lịch sử không?
Dẫn theo nhà văn Trúc Khê thì trên tờ Pháp Việt tạp chí số 254 ra ngày 16/1/1939,
Vũ Ngọc Phan đã có bài viết phê bình quyển Bà chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật.
Trong bài viết đó, Vũ Ngọc Phan khẳng định tính chất quyển Bà chúa Chè là của
một quyển lịch sử ký sự, bởi vì viết Bà chúa Chè Nguyễn Triệu Luật đã hết sức
chú ý vào việc sử dụng các sử liệu, chỉ muốn có thế nào thì nên thế ấy. Vũ Ngọc
Phan thậm chí còn kết luận: ông Luật đề lịch sử tiểu thuyết ở bìa ngoài là sai [19,
tr.165]. Sau này, chính Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, đã xếp Nguyễn
Triệu Luật vào nhóm " Những nhà viết lịch sử ký sự và truyện ký" gồm Đào Trinh
7
Nhất, Trần Thanh Mại, Phan Trần Chúc, Ngô Văn Triện [17].
Ngay sau đó, Trúc Khê đã có bài bút chiến nêu ra quan điểm ngƣợc chiều
với Vũ Ngọc Phan mang tên: Bà chúa Chè có phải là cuốn lịch sử ký sự không,
trong đó Trúc Khê đã lên tiếng bảo vệ Nguyễn Triệu Luật với những lập luận khá
đanh thép. Bài viết Trúc Khê không hoàn toàn bác bỏ lập luận của Vũ Ngọc Phan
(tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật là lịch sử ký sự) nhƣng cho rằng tuy có chỗ
hợp lý song không đầy đủ và sâu sắc dẫn đến đánh giá không chính xác. Ông
khẳng định Bà chúa Chè “vẫn là cuốn tiểu thuyết chứ không nên coi là lịch sử ký
sự” và nêu ra quan điểm rằng một cuốn lịch sử ký sự phải nêu toàn bộ sự thực,
không đƣợc bịa đặt, đƣợc ghi chép những chuyện tỉ mỉ của cá nhân dù không ảnh
hƣởng đến quần chúng, miễn là có “hứng vị”, nhƣng sự tƣởng tƣợng phải trong
khuôn khổ. Cuốn Bà chúa Chè tuy chuyên về sự thực nhƣng trong đó đã có nhiều
chỗ đƣợc “tiểu thuyết hóa”, thêm thắt một số chi tiết không có trong sách sử, thậm
chí sai so với sách sử, ví dụ nhƣ Đặng Thị cầm dao tự đâm vào cổ mình chết trƣớc
bàn thờ Tĩnh Vƣơng thì trong sách sử nói rằng nàng uống thuốc độc. Tuy nhiên,
Trúc Khê vẫn nhấn mạnh khả năng “kê cứu” lịch sử của tiểu thuyết Nguyễn Triệu
Luật vì khi viết tác giả đã hết sức chú ý đến sử liệu và đây có thể nguyên nhân dẫn
đến hiểu lầm của ông Vũ Ngọc Phan [19, tr.165].
Cũng với hƣớng khẳng định khả năng viết tiểu thuyết lịch sử theo lối “chú
trọng về sự thực” của Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai lại nhận xét nó nhƣ là một ƣu
điểm: “Cũng nhƣ tôi, ông Nguyễn Triệu Luật viết tiểu thuyết lịch sử. Nhƣng, khác
với tôi, ông Luật riêng chú trọng về sự thực, trong khi tôi chỉ khuynh hƣớng về
nghệ thuật. Đọc Gái thời loạn, Ai lên Phố Cát, Chiếc ngai vàng, Cái hột mận, nếu
ngƣời ta mơ màng, say đắm bởi những cái có thể có đƣợc thì đọc Hòm đựng người
và Bà chúa Chè, ngƣời ta phải sống đầy đủ những cái đã có rồi. Cái hay của ông
Luật là ở chỗ ấy”. Lan Khai ví von việc đọc tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật nhƣ
là “xem các bức ảnh” khiến cho sự việc, cảnh vật không còn nữa vẫn hiện lên đƣợc
nhƣ thật: “Ngƣời có thể mất đi rồi, cảnh có thể khác đi rồi, mà hình ảnh vẫn là hình
8
ảnh thực của những ngƣời và cảnh đã có thực” [19, tr.163].
Cũng qua tác phẩm Bà chúa Chè, nhà văn Nguyễn Tuân (lúc bấy giờ với bút
danh là Nhất Lang) đã có bài phê bình, trong đó khẳng định cái tài của ngƣời viết
tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật trong việc xử lý thành công một thể tài “khó
xơi”: “Viết đến chính sử, ngƣời ta thƣờng kể đến cái học – học khảo cứu – của sử
gia. Viết tiểu thuyết, ngƣời ta thƣờng bàn tới nghệ thuật của tác giả. Nói về lịch sử
tiểu thuyết, ngoài cái học kê cứu sở cứ vào tài liệu, ngƣời ta còn phải đếm xỉa tới
cái tài của bố cục, của tƣởng tƣợng. Cuốn Bà chúa Chè toàn thể đƣợc cả”. Tuy
nhiên, Nguyễn Tuân cũng chỉ ra một số hạn chế của tác phẩm một cách thẳng
thừng: nếu có chỗ khiến ngƣời ta phải phàn nàn về tác phẩm này thì chính là những
chỗ chú thích của tác giả. Ông phê bình Nguyễn Triệu Luật trong việc chú thích
quá nhiều, có ngƣời còn cho là thừa, “nếu không ngờ là tác giả muốn khoe chữ
Hán” hay “ngƣời ta có thể nói rằng lúc này Nguyễn Triệu Luật viết truyện lịch sử
đã đi vắng và chỉ còn lại Nguyễn Triệu Luật giáo học thôi”. Cả về đoạn Đặng Thị
gặp biến tác giả có nhắc đến chính chuyện riêng tƣ của bản thân mình nhƣng lại dễ
khiến độc giả đặt câu hỏi “tƣơng quan ở đâu” [Nguyễn Nhất Lang, Bà chúa Chè và
Nguyễn Triệu Luật, Phổ thông Bán nguyệt san số 32, 4/1939 dẫn theo Tài liệu 19,
tr.170].
Nhân đọc Hòm đựng người, Hiên Chy trong một bài viết đăng trên tờ Phổ
thông bán nguyệt san đã khẳng định mục đích viết Hòm đựng người của Nguyễn
Triệu Luật là: “Muốn bạn đọc đƣợc biết những phong tục cổ hủ, những lâu đài
cung điện tự ngàn xƣa, những nỗi khổ tâm của những oan hồn đã khuất” [19,
tr.178]. Tác giả còn chỉ ra những nét hấp dẫn, độc đáo trong cốt truyện, nhân vật,
thủ pháp miêu tả,... của tác phẩm và nhắc đến Nguyễn Triệu Luật với hai vai trò
“nhà văn” và “nhà khảo cổ” (vừa cung cấp những khung cảnh chân thực của các hủ
tục phong kiến tàn khốc lại vừa thêu dệt một mối tình đầy bi kịch của đôi trai tài
gái sắc Lê Duy Lễ - Đặng Ấu Mai). Qua đó, Hiên Chy nhận định: cuốn tiểu thuyết
đạt đƣợc giá trị cao về cả hai phƣơng diện: lịch sử và văn chƣơng. Tác giả còn
đánh giá rất cao khả năng tái hiện bối cảnh lịch sử của Nguyễn Triệu Luật: “ông đã
9
lồng truyện Hòm đựng người của ông nhƣ in vào thời đại” [19, tr.181].
Sau năm 1945, tên tuổi cũng nhƣ tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
vắng bóng hẳn trên văn đàn. Cho đến tận những năm 90 của thế kỷ XX, sau gần
nửa thế kỷ, ngƣời ta mới xuất bản trở lại những tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật,
và một lần nữa các tác phẩm của ông lại bắt đầu nhận đƣợc sự quan tâm trở lại.
Phần lớn các ý kiến đánh giá về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật đều
thống nhất về vai trò của tác giả đối với tiểu thuyết lịch sử nƣớc nhà đầu thế kỷ XX
đến 1945.
Tác giả Phạm Toàn nhận xét những tác phẩm của ông mang một tầm vóc
đáng kể không chỉ trong văn học nƣớc nhà mà còn có thể so sánh với văn học thế
giới: “những cuốn tiểu thuyết lịch sử của ông cuốn nào cũng hay, những văn phẩm
của trí tƣởng tƣợng ngang ngửa về giá trị nghệ thuật với những tác phẩm cùng thể
loại của các đại tác gia nƣớc ngoài” [19, tr.54]. Phạm Toàn khẳng định Nguyễn
Triệu Luật là một cây bút luôn trung thành với sự thực lịch sử song cũng nhắc tới
khả năng hƣ cấu, sáng tạo ở nhà văn với những đánh giá khả quan. Tác giả cho
rằng: đóng góp to lớn của Nguyễn Triệu Luật với tƣ cách nhà văn viết tiểu thuyết
lịch sử là ở hai điểm: thứ nhất là có công dùng văn phong tiểu thuyết để miêu tả và
dựng lại bối cảnh cho sinh động nhƣ thật; thứ hai là đã tôn cao đƣơc đặc điểm tâm
lý nhân vật. Từ đó, Phạm Toàn cũng chỉ ra cái “động cơ viết văn” của Nguyễn
Triệu Luật, đó là: “khai sáng cho ngƣời đƣơng thời – kể cả khai sáng trong tuyệt
vọng thì vẫn cứ vần đá từng viên mà vá trời!” [19, tr.75].
Phạm Tú Châu trong bài Tính lịch sử: khả năng và mức độ qua tiểu thuyết
Bà chúa Chè thì cho rằng tuy tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật nhƣ thật nhƣng
không hề thiếu đi các yếu tố hƣ cấu, chỉ lấy sử làm cái khung để từ đó tƣởng tƣợng
mà thôi [19, tr.105]. Phạm Tú Châu trƣớc khi viết bài này đã dành nhiều công sức
để tìm hiểu bối cảnh lịch sử của Bà chúa Chè. Qua những tìm hiểu ấy, tác giả
khẳng định lịch sử nguyên sinh giai đoạn này không có, Nguyễn Triệu Luật đã dựa
vào cuốn Hoàng Lê nhất thống chí để làm tƣ liệu viết nên tác phẩm này. Phạm Tú
Châu đã so sánh hai tác phẩm và liên tiếp chỉ ra những nét khác biệt, những chi tiết
10
hƣ cấu của Bà chúa Chè so với Hoàng Lê nhất thống chí để độc giả thấy đƣợc khả
năng sáng tạo của cây bút Nguyễn Triệu Luật. Tác giả nhận định tác phẩm dựa trên
tƣ liệu lịch sử xác thực mà vẫn có sự tô vẽ hợp lý, không hề khô khan, gò bó. Đƣợc
nhƣ vậy một phần là nhờ “kiến thức song trùng” (vừa thông thạo Hán học vừa am
hiểu Tây học) của nhà văn [19, tr.114].
Lý giải vấn đề tồn tại những đóng góp của Nguyễn Triệu Luật kể trên,
Nguyễn Xuân Khánh cho rằng nhà văn sở dĩ có cách miêu tả tâm lý nhân vật nhƣ
vậy, cách sử dụng xen lẫn hƣ cấu và sử sách nhƣ vậy là do chịu ảnh hƣởng sâu sắc
của tiểu thuyết phƣơng Tây du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX [19, tr.77]. Bài
viết Những quan niệm sáng tác tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Triệu Luật,
ông đã phân chia các tiểu thuyết lịch sử của nhà văn làm ba loại: Loại thứ nhất là
loại có nhân vật và sự kiện có thật 100%, loại thứ hai là câu chuyện nhân vật
không có thật trong lịch sử, loại thứ ba là loại trộn lẫn “cái hƣ và cái thực” [19,
tr.81]. Nguyễn Xuân Khánh còn dựa vào ba bài tựa trong ba cuốn tiểu thuyết Hòm
đựng người, Bà chúa Chè và Ngược đường Trường thi do chính Nguyễn Triệu
Luật viết để phân tích lý giải những quan niệm sáng tác của nhà văn.
Qua bài viết Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, tác giả Nguyễn Chí
Tình đã đánh giá: “Nguyễn Triệu Luật đã nghiên cứu khá công phu và tỏ ra có
trách nhiệm với sự thực lịch sử cả những khi ông đã đẩy ngòi bút hƣ cấu của mình
đi khá xa. Thiết tƣởng những ngƣời viết lịch sử, làm phim lịch sử ngày nay, và cả
những ngƣời chỉ nghĩ đến chính sử, có thể tìm thấy ở tác phẩm của Nguyễn Triệu
Luật không ít trang viết bổ ích”. Trong bài viết của mình, tác giả đã khoanh vùng
thời đại lịch sử mà tác giả Nguyễn Triệu Luật hay sử dụng trong tiểu thuyết lịch sử
của mình đó là thời vua Lê chúa Trịnh (trừ Rắn báo oán và Thiếp chàng đôi ngả).
Ông đánh giá cao việc nghiên cứu lịch sử công phu và tinh thần trách nhiệm của
nhà văn với lịch sử “cả những khi ông đẩy ngòi bút hƣ cấu của mình đi khá xa”,
đồng thời nhận định các nhà viết tiểu thuyết lịch sử, các nhà làm phim lịch sử ngày
nay có thể học hỏi đƣợc nhiều điều bổ ích từ tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật [19,
11
tr.214].
Mặc dù có nhiều cống hiến cho nền văn học nƣớc nhà nhƣ vậy nhƣng sau
khi Nguyễn Triệu Luật qua đời, các tác phẩm của ông cũng biến mất. Dƣơng Yến,
Hồng Mây trong bài viết Đau đáu về người viết lịch sử bị lãng quên từng nêu lên
một sự thực: “Tuy là một ngƣời viết sách về lịch sử nhƣng bản thân ông thì lại bị
ngƣời đời lãng quên. Chọn viết về những giai đoạn đau thƣơng của đất nƣớc, nhà
văn Nguyễn Triệu Luật là ngƣời có nhiều đóng góp đối với dòng tiểu thuyết lịch sử
và văn học Việt Nam những năm 1930. Thế nhƣng, một thời gian dài, tên ông gần
nhƣ đi vào quên lãng, không hề đƣợc nhắc, đƣợc biết đến trong các sử sách văn
học”, trong khi ông có cả “một khối lƣợng tác phẩm có giá trị”, “đủ để định vị
Nguyễn Triệu Luật trong văn học Việt Nam” (Phạm Xuân Nguyên). Tác giả cũng
nhận định rằng: ông Luật đã để lại cho đời một gia tài văn chƣơng quý giá, nhƣng
cuộc đời của ông chính ngƣời nhà cũng không biết rõ [19, tr.261]. Cho đến hiện
nay, theo tƣ liệu chúng tôi sƣu tầm đƣợc mới chỉ có duy nhất một công trình có
quy mô lớn về Nguyễn Triệu Luật là luận văn thạc sĩ Phong cách tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Triệu Luật của tác giả Mai Thị Thanh Hà ở Đại học Vinh, năm 2009.
Trong Luận văn, tác giả Thanh Hà đã xem xét phong cách tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Triệu Luật trên nhiều phƣơng diện: phƣơng diện lựa chọn đề tài, cảm hứng
sáng tạo và phƣơng diện hình thức nghệ thuật. Qua đó, tác giả đã phần nào đã nêu
bật đƣợc phong cách đặc sắc của Nguyễn Triệu Luật trong bức tranh chung của
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX – 1945 [20].
Nhƣ vậy, đa số các nhà phê bình, nghiên cứu đều khẳng định tài năng và vị
trí to lớn của tác giả Nguyễn Triệu Luật trong nền văn học nƣớc nhà, đặc biệt là
mảng tiểu thuyết lịch sử đang ngày càng phát triển mạnh mẽ ở nƣớc ta. Tuy chƣa
phải độc giả nào cũng đồng tình hoàn toàn với cách viết tiểu thuyết của Nguyễn
Triệu Luật nhƣng tất cả đều thấy rõ ở ông kiến thức sâu rộng về lịch sử nƣớc nhà,
về các phong tục, lễ nghi, lề lối, về các nhân vật lịch sử đã lùi xa vào quá khứ…
Mặc dù vậy, các bài viết không nhiều, dung lƣợng các bài viết không lớn, đa phần
là những ý kiến sơ lƣợc, còn thiếu vắng những bài viết chi tiết, cụ thể hơn với dung
12
lƣợng lớn. Nếu xem xét tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật dƣới góc độ thi pháp
và văn hóa thì vẫn chƣa có một công trình cụ thể nào tìm hiểu. Đôi khi một vài yếu
tố thi pháp đƣợc nhắc tới nhƣng cũng còn nhiều điểm cần hệ thống lại, và bổ sung
cho đầy đủ.
3. Mục đích nghiên cứu
- Mở ra một xu hƣớng tiếp cận mới cho việc tìm hiểu, nghiên cứu các tác
phẩm tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật.
- Đƣa ra những lý giải về quan điểm sáng tác tiểu thuyết lịch sử, các nhân tố
ảnh hƣởng đến việc sáng tác của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
- Giúp mọi ngƣời hình dung đƣợc phần nào vị thế của một tác giả tiểu thuyết
lịch sử tiêu biểu trong nền văn học nƣớc nhà.
- Thông qua việc tìm hiểu các tiểu thuyết lịch sử cả từ góc độ văn hóa lẫn thi
pháp của giúp ta hiểu thêm về tiếu thuyết lịch sử những năm đầu thế kỷ XX.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Khác với nhiều tác giả tiểu thuyết lịch sử đƣơng thời, hầu hết các tiểu thuyết
lịch sử của Nguyễn Triệu Luật chỉ xoay quanh một giai đoạn lịch sử nhất định: giai
đoạn lịch sử Việt Nam thời Lê Trịnh, thế kỷ XVII, XVIII (ngoại trừ Thiếp chàng
đôi ngả (nhà Hồ) và Rắn báo oán (nhà Lê)). Để nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Triệu Luật trong phạm vi của luận văn chúng tôi xin lƣợc chọn một số
tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu của ông viết về giai đoạn này. Trong đời viết văn của
mình, Nguyễn Triệu Luật chỉ để lại ba Lời tựa (hoặc Lời nói đầu) trong ba tác
phẩm khác nhau thể hiện quan niệm sáng tạo nghệ thuật của mình và coi các tác
phẩm văn học đó là tiêu biểu cho những quan niệm đó, Hòm đựng người và Bà
chúa Chè là hai trong số đó. Riêng Lời nói đầu của Bà chúa Chè có vẻ nhƣ là dành
cho cả ba cuốn Bà chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải, trong đó tác giả
nhắc tới cả ba tác phẩm trong một mối liên kết mạnh mẽ về nội dung, về kết cấu,
nhƣ “ba việc dính liền nhau” đƣợc chép riêng (vì thế, tìm hiểu tác phẩm Bà chúa
Chè chúng ta không thể không tìm hiểu về hai tác phẩm Chúa Trịnh Khải và Loạn
kiêu binh). Bên cạnh đó, không tính những lần xuất bản riêng lẻ, qua hai lần xuất
13
bản Tuyển tập các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật vào năm 1998 (Đinh
Xuân Lâm tuyển chọn, Nxb Giáo dục phát hành) và 2011 (Nguyễn Triệu Căn
tuyển chọn, Nxb Khoa học xã hội phát hành), bốn tiểu thuyết Hòm đựng người, Bà
chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải là bốn trƣờng hợp duy nhất xuất hiện
ở cả hai cuốn sách, đƣợc coi nhƣ những tác phẩm tiêu biểu trong tuyển tập tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật. Dựa vào những yếu tố sàng lọc kể trên,
trong giới hạn của luận văn, chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu đề tài của
mình trong bốn quyển tiểu thuyết hoàn chỉnh tiêu biểu của Nguyễn Triệu Luật mà
ông Nguyễn Triệu Căn, con trai của nhà văn đã sƣu tầm trong cuốn tuyển tập Tiểu
thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011: Hòm đựng
người, và bộ ba tác phẩm Bà chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải (Bởi
các tƣ liệu về tác phẩm Nguyễn Triệu Luật vẫn còn đang trong giai đoạn thu thập,
bổ sung nên ở các công trình tiếp theo chúng tôi xin mở rộng phạm vi nghiên cứu
cho hoàn chỉnh hơn nữa).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: là nghiên cứu hình thức nghệ thuật
của tác phẩm văn học bằng cách tìm hiểu văn bản qua việc phân tích các biểu hiện
ngôn từ của tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật (mối quan hệ giữa tính chân thực và hƣ
cấu, cách xây dựng nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ).
+ Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: tiếp cận văn học từ quan điểm văn hóa
học ƣu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa, trong đó tác phẩm văn học
đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính
trị, luật pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con ngƣời… từng tồn tại trong một không
gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mô
típ, hình tƣợng, ngôn ngữ,… trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật.
+ Phƣơng pháp lịch sử - xã hội: là phƣơng pháp có cơ sở là hoàn cảnh, điều
kiện xã hội và tiến trình phát triển lịch sử của chính bản thân văn học. Nó là đặt tác
giả Nguyễn Triệu Luật và các tác phẩm vào bối cảnh xã hội để nghiên cứu. Bằng
14
cách đó, hiện tƣợng văn học sẽ đƣợc nhìn nhận trong những mối quan hệ ngoại
sinh, đƣợc đánh giá đúng với những quy luật khách quan của chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
+ Các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh: phân tích – tổng hợp giúp cắt
nghĩa, phát hiện các yếu tố văn hóa, thi pháp; đối sánh giữa các các văn bản, tác
giả, các hệ thống giá trị văn hóa khác nhau để nhận diện nét độc đáo trong phong
cách cũng nhƣ tài năng, vị trí của nhà văn Nguyễn Triệu Luật.
6. Cấu trúc luận văn
Chƣơng một: KHÁI LƢỢC VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ TIỂU
THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT
Chƣơng hai: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT TỪ GÓC
ĐỘ VĂN HÓA
Chƣơng ba: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT TỪ GÓC
15
ĐỘ THI PHÁP
NỘI DUNG
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN TRIỆU LUẬT
Trong chƣơng này, ngƣời viết sẽ làm rõ khái niệm về tiểu thuyết lịch sử,
khái quát về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945 để có
đƣợc một hình dung tổng thể bức tranh chung về tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này.
Từ việc tìm hiểu bối cảnh chung đó, chúng tôi đi vào làm sáng tỏ một cách khái
lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật bằng cách tìm hiểu quan niệm về
tiểu thuyết lịch sử, nguyên nhân lựa chọn thể tài này của tác giả và các tác phẩm
của ông trong bối cảnh chung của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn những năm đầu thế
kỷ XX đến 1945.
1.1 Khái lƣợc về tiểu thuyết lịch sử
1.1.1 Khái niệm
Cho đến nay có thể thống kê khá nhiều những quan niệm khác nhau khi bàn
về khái niệm tiểu thuyết lịch sử, tuy nhiên trong khuôn khổ công trình này, chúng
tôi chỉ xin dẫn ra vài ý kiến tiêu biểu nhƣ sau:
Về khái niệm tiểu thuyết lịch sử, Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên - 1999) có quan niệm nhƣ sau (mục Thể
loại văn học lịch sử/ Tiểu thuyết lịch sử): “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này
có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hƣ cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự
kiện chính thì đƣợc sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng lời ăn
tiếng nói, trang phục, phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác
phẩm văn học lịch sử thƣờng mƣợn chuyện xƣa nói chuyện đời nay, hấp thu những
bài học quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con ngƣời và thời đại đã qua, song
không vì thế mà hiện đại hóa ngƣời xƣa, phá vỡ tính chân thực lịch sử của thể loại
này. Đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử và kịch lịch sử đòi hỏi nhà văn vừa phải là
ngƣời nghệ sĩ, vừa là nhà nghiên cứu, có vốn sống và hiểu biết phong phú, có quan
16
điểm lịch sử đúng đắn và tiến bộ” [21, tr.256]
Cũng bàn về khái niệm tiểu thuyết lịch sử, Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb
Thế giới lại quan niệm nhƣ sau: “Tác phẩm tự sự hƣ cấu lấy đề tài lịch sử làm nội
dung chính. Lịch sử trong ý nghĩa khái quát, là quá trình phát triển của tự nhiên và
xã hội. Các khoa học xã hội (cũng đƣợc gọi là các khoa học lịch sử) đều nghiên
cứu quá khứ của loài ngƣời trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy những
tiêu điểm chú ý của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử, thƣờng
là sự hình thành, hƣng thịnh, diệt vong của các nhà nƣớc, những biến cố lớn trong
đời sống xã hội của cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia nhƣ chiến
tranh, cách mạng cuộc sống và sự nghiệp của những nhân vật có ảnh hƣởng đến
tiến trình lịch sử” [17, tr.1728].
Là một thể tài mang ít nhiều tính đặc thù, tiểu thuyết lịch sử có những quy
luật sáng tạo riêng so với các thể tài khác. Ngƣời viết phải tuân thủ những yêu cầu
sáng tạo, phải đảm bảo màu sắc lịch sử, bên cạnh quyền hƣ cấu. Nó phải giải quyết
một nhiệm vụ kép đúng nhƣ Chế Lan Viên đã nói: tiểu thuyết lịch sử phải nhảy
qua hai vòng lửa “lửa lịch sử” và “lửa tiểu thuyết”. Cần lƣu ý, đề tài lịch sử ở đây
có thể hiểu đơn thuần là nói về câu chuyện xảy ra trong quá khứ mà ở đó, nhân vật
của nó đã không còn.
Trƣớc hết, tiểu thuyết lịch sử phải là tiểu thuyết do đó nó mang trọn những
đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết: nó phải có tính hƣ cấu bởi nó là sản phẩm của trí
tƣởng tƣợng, của sự hƣ cấu. Công việc của một nhà văn khác với nhà sử gia thông
thƣờng là đƣa đến cho bạn đọc những sản phẩm hấp dẫn của trí tƣởng tƣợng chứ
không phải là liệt kê, phân tích sử liệu. Nhận biết đƣợc tính chất đặc thù của tiểu
thuyết lịch sử là phải xử lý đƣợc mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu nghệ
thuật trong tác phẩm, bài Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong
truyện sử phục vụ các em, nhà văn Hà Ân từng khẳng định: “ngƣời sáng tác phải
xem các nguồn tài liệu và phải có kiến giải riêng”, “nhà văn xây dựng nhân vật lịch
sử thành nhân vật tiểu thuyết và đem tới cho các em triết lý mà mình ứng tâm chứ
17
không nhằm mục đích trình bày đầy đủ bối cảnh lịch sử” [2].
Bên cạnh việc tiểu thuyết lịch sử là một bộ phận của thể loại tiểu thuyết thì
đặc điểm nổi bật của nó là viết về đề tài lịch sử: về các nhân vật lịch sử, sự kiện
lịch sử hay giai đoạn lịch sử… Với loại tiểu thuyết lấy lịch sử làm đề tài thì mà yếu
tố tính chân xác của lịch sử vô cùng quan trọng. Nhà văn có thể sáng tạo nhƣng
nhất thiết phải tôn trọng sự thực lịch sử, phải bám sát những cái “đinh treo lịch sử”
để từ đó viết nên câu chuyện của mình. Cân bằng đƣợc hai việc vừa phải hƣ cấu
sáng tạo vừa phải dựa trên sự thực lịch sử là một công việc hết sức khó khăn bởi nó
đòi hỏi ở tác giả tri thức uyên bác của một nhà sử học kết hợp với nhiều kỹ năng
(mục đích là biến những tri thức đó thành tác phẩm nghệ thuật). Chúng tôi đồng ý
với quan điểm của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong cuốn Văn học Việt Nam thế
kỷ XX: “Trong quá trình sáng tác, các nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trong các
sự kiện lịch sử, vừa phải phát huy cao độ vai trò hƣ cấu, sáng tạo của nghệ thuật”
[13, tr.164]. Việc xử lý mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu sáng tạo của
tiểu thuyết lịch sử là công việc cần chú trọng hàng đầu, tạo nên sự thành bại của
tác phẩm. Nhƣ khi đánh giá cao thành tựu của Hồ Quý Ly, cuốn tiểu thuyết lịch sử
tiêu biểu cho thể tài này trong giai đoạn văn học sau Đổi mới, Lại Nguyên Ân đã
xem xét mối quan hệ giữa sự thực lịch sử - hƣ cấu nghệ thuật của tiểu thuyết lịch
sử qua Hồ Quý Ly và chỉ ra rằng: giá trị của Hồ Quý Ly thể hiện ở việc vừa đáp
ứng yêu cầu tái hiện đầy đủ kiến thức lịch sử, vừa vẫn rất tự do sáng tạo khi nhà
văn đã khắc họa sống động chân dung nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly, “vừa khai thác
tối đa các nguồn sử liệu, vừa phóng khoáng trong hƣ cấu tạo ra một thực tại tiểu
thuyết vừa tƣơng đồng với những thông tin còn lại về một thời đã lùi xa vừa in dấu
cách hình dung và trình bày riêng của tác giả” [3].
Có thể nói, tiểu thuyết lịch sử luôn chiếm một vai trò vô cùng quan trọng
trong lịch sử văn học nƣớc nhà. Bộ phận tiểu thuyết này đƣợc nhận định là một
trong những dạng tiểu thuyết ra đời sớm tại Việt Nam, khi văn học Quốc ngữ vừa
mới đƣợc nhen nhóm, tiểu thuyết lịch sử đã hiện diện qua những sáng tác của
Nguyễn Tử Siêu nhƣ Tiếng sấm đêm đông, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh
18
chiến sử, Giọt máu chung tình của Tân Dân hay Trùng Quang tâm sử của Phan Bội
Châu. Theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Thạch trong bài viết Văn xuôi tự sự trong
giai đoạn chuyển đổi hệ hình văn học thì: nó là “sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc
khi âm ỉ, khi bùng cháy dữ dội trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX”
[55, tr.389]. Trong bối cảnh Đất nƣớc đứng trƣớc nhiều đổi thay nhƣ hiện nay, tiểu
thuyết lịch sử xuất hiện không chỉ với chức năng giải trí mà còn để làm tròn vai trò
giáo dục lịch sử và giải quyết chính những vấn đề của hiện tại. Trong một thời
điểm mà giao lƣu văn hóa, lịch sử, xã hội diễn ra mạnh mẽ, cùng với đó là việc
giới trẻ Việt đang ngày càng “sính đồ ngoại”, thạo sử nƣớc ngoài hơn sử nƣớc
mình thì việc viết những thể tài nhƣ vậy quả là mang rất nhiều ý nghĩa mới. Tiểu
thuyết lịch sử nhƣ là một “khí cụ để vẽ nên những điểm tƣơng đồng giữa quá khứ
và hiện tại, và do đó làm sáng tỏ hiện tại” [9, tr.132].
1.1.2. Khái quát về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1945
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam là một bộ phận tiểu thuyết hiếm hoi có những
bƣớc phát triển liên tục và có đƣợc thành tựu qua nhiều giai đoạn của thế kỷ XX:
đầu thế kỷ XX – đến 1945, từ 1945 đến 1954, từ 1954 đến 1960, từ sau 1960 –
1985, 1985 đến nay, trong đó, giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945, tiểu thuyết
lịch sử và sự phát triển của nó đã đóng góp không nhỏ cho công cuộc hiện đại hóa
văn học nƣớc nhà. Ta có thể chia quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 thành hai chặng:
chặng thứ nhất là từ 1900 đến 1930, chặng thứ hai là từ 1930 đến 1945.
Vào những năm đầu của thể kỉ XX (khoảng ba mƣơi năm đầu thể kỉ XX)
với các tác phẩm tiêu biểu: Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Tiếng sấm
đêm đông, Vua Bố Cái của Nguyễn Tử Siêu, Giọt máu chung tình của Tân Dân
Tử... Thời kỳ này số lƣợng các tác phẩm chƣa thực sự nhiều, về nghệ thuật còn
chịu ảnh hƣởng từ tiểu thuyết chƣơng hồi, nhân vật chủ yếu thiên về hành động để
khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật chƣa đƣợc đào sâu tìm hiểu, câu văn còn mang
dấu ấn của câu văn biền ngẫu. Các tác phẩm này nhìn chung đều xoay quanh hai
nội dung chính: yêu nƣớc và thế sự: Ở nội dung yêu nƣớc, các tác phẩm đi vào 19
phản ánh các sự kiện quan trọng, ghi lại những chiến công dựng nƣớc và giữ nƣớc
của cha ông, khơi gợi những truyền thống văn hóa tốt đẹp (tiêu biểu nhƣ Trùng
Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Vua Bố Cái của Nguyễn Tử Siêu). Với nội dung
thế sự, các tác phẩm lại tập trung phản ánh cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn phong
kiến, phản ánh chân thực cuộc sống cùng cực của nhân dân… (nhƣ trong Đinh
Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu, Gia Long phục quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây
của Tân Dân Tử).
Từ năm 1930 đến năm 1945, tiểu thuyết lịch sử phát triển nhanh chóng,
mạnh mẽ hơn hẳn giai đoạn trƣớc, lan rộng khắp Bắc Nam với hàng loạt các tên
tuổi nhƣ Nguyễn Tử Siêu (Trần Nguyên chiến kỉ, Hai bà đánh giặc), Đinh Gia
Thuyết (Ngọn cờ vàng), Lan Khai (Cái hột mận, Ai lên phố Cát, Gái thời loạn),
Tân Dân Tử (Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc), Nguyễn Triệu Luật (Hòm
đựng người, Bà chúa Chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh),… Tiểu thuyết lịch
sử lúc này mở rộng sang theo hƣớng “dã sử” (một loại kí ức lịch sử đƣợc lƣu
truyền trong dân gian, khác với chính sử do nhà nƣớc tổ chức hoặc các học giả
biên soạn và ấn hành, phần lớn dã sử đƣợc truyền miệng từ đời này qua đời khác)
chứ không chỉ đóng khung trong chính sử. Bấy giờ phong trào yêu nƣớc đang dâng
cao, sự ra đời của tiểu thuyết lịch sử chính là sự cổ vũ nhiệt tình cho lòng yêu nƣớc
đó. Ðây là thời kỳ tiểu thuyết lịch sử có đƣợc bƣớc phát triển mạnh mẽ với số
lƣợng nhiều hơn hẳn thời kỳ trƣớc đó. Theo tác giả Bùi Văn Lợi trong Luận án
Tiến sĩ Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX đến 1945:
số lƣợng tác giả, tác phẩm thời kỳ này có sự tăng lên đáng kể so với giai đoạn
trƣớc năm 1930: Nếu nhƣ trƣớc năm 1930 số lƣợng tác giả mới chỉ vỏn vẹn 6
ngƣời thì đến giai đoạn 1930 – 1945 đã tăng thêm 10 ngƣời nâng tổng số tác giả
lên con số 16. Số lƣợng tác phẩm cũng tăng từ 14 tác phẩm ở giai đoạn trƣớc lên
47 tác phẩm (giai đoạn sau xuất hiện tới 33 tác phẩm mới) [31, tr.81]. Các tác
phẩm giai đoạn này đã có quy mô lớn hơn hẳn nhƣ: Trần Nguyên chiến kỷ dày 244
trang, Vua Quang Trung dày 219 trang, Hai bà đánh giặc dày 383 trang so với Vua
20
Bố Cái 63 trang, Lê Đại Hành 56 trang ở thời kỳ trƣớc quả là một bƣớc phát triển
lớn. Những con số này đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn 1930 – 1945 và cho ta hình dung đƣợc phần nào sự phát triển chiều
hƣớng đi lên của bộ phận văn học này trong bối cảnh văn học nói chung.
Nếu xét trên phƣơng diện lựa chọn đề tài: Các tác phẩm nhìn chung vẫn đi
vào thể hiện hai đề tài chính: yêu nƣớc và thế sự. Đề tài chống xâm lƣợc nổi bật
lên là các tác phẩm nhƣ Ngọn cờ vàng của Đinh Gia Thuyết, An Tư của Nguyễn
Huy Tƣởng, Trần Nguyên chiến kỷ của Nguyễn Tử Siêu. Ở đề tài nội trị là các tác
phẩm Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tƣởng, Ai lên phố Cát của Lan Khai, Bà
chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật… Một thực tế là lúc này, đất nƣớc chúng ta đang
bị giặc ngoại xâm đô hộ, các nhà văn đều muốn thể hiện thái độ, tình cảm của
mình với đất nƣớc, dân tộc. Do vậy, nội dung chính trong tiểu thuyết lịch sử thời
kỳ này là ca ngợi lịch sử dân tộc, ca ngợi con ngƣời Việt Nam anh hùng. Qua đó,
các nhà văn muốn khơi gợi lòng tự hào dân tộc, khích lệ lòng yêu nƣớc của ngƣời
đọc.
Nhìn chung ở giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945, các tác giả tiểu thuyết lịch
sử đã bắt đầu khai tâm lí nhân vật rất sắc sảo, lối kết cấu tác phẩm đã bắt đầu có sự
biến chuyển, xuất hiện nhiều tác phẩm có lối kết cấu không theo trật tự tuyến tính,
kết cấu theo hai tuyến nhân vật... Tuy nhiên, ở thời gian đầu, các tác phẩm văn còn
bị ảnh hƣởng của lối viết kể chuyện chƣơng hồi, kết cấu thời gian đơn tuyến, ngôn
ngữ biền ngẫu, kết thúc có hậu nhƣ các tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu, (Vua bà
Triệu Ẩu, Tiếng sấm đêm đông...), Phạm Minh Kiên (Việt Nam Lý trung hưng)...
Nhƣ vậy, qua những nét khái quát nói trên ta có thể thấy đƣợc sự phát triển
mạnh mẽ của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945. Đó
là một sự phát triển ngày một đi lên cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng: từ việc gia tăng
số lƣợng tác giả, tác phẩm lẫn hình thức thể hiện. Các tiểu thuyết càng về sau càng
có sự chuyển biến trong kết cấu tác phẩm, khai thác tâm lý nhân vật,… chịu ảnh
hƣởng từ tiểu thuyết phƣơng Tây hiện đại. Đây là những chuyển biến tích cực của
một bộ phận tiểu thuyết và sự chuyển biến ấy đã đóng góp một phần không nhỏ
21
vào gia tài chung của văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đến 1945.
1.2 Khái lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
1.2.1 Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật.
Trong quá trình sáng tác của mình, không chỉ một lần nhà văn Nguyễn Triệu
Luật đề cập đến quan niệm sáng tác. Riêng về tiểu thuyết lịch sử, ông để lại cho
đời ba bài tựa để làm rõ quan niệm sáng tác của mình, đó là Lời tựa của ba tác
phẩm Hòm đựng người (1936), Bà chúa Chè (1938), Ngược đường Trường thi
(1939).
So với cách viết tiểu thuyết trƣớc đó Nguyễn Triệu Luật có quan điểm hoàn
toàn mới. Bàn về cách viết tiểu thuyết lịch sử, ông khẳng định: “Trái lại, viết tiểu
thuyết lịch sử (Roman historique) không cần theo phép của sử học, không cần có
sự thật. Tác giả chỉ phải tƣởng tƣợng ra một câu chuyện “có thể có” ở một thời đại,
rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một chuyện không
đâu mà làm sống một thời đại. Những tiểu thuyết “Notre dame de Paris”, “Quatre
vingt treize” của Victor Hugo đều là bịa đặt, nhƣng đọc chuyện đó ta thấy cả thời
đại hồi vua Louis hồi Đại Cách mạng sống lại” (trích Lời nói đầu cuốn Hòm đựng
người) [33, tr.11]. Nhƣ vậy, ta thấy tác giả Nguyễn Triệu Luật đề cao cả tính chân
xác của lịch sử và tính hƣ cấu trong một tiểu thuyết lịch sử. Đối với nhà văn này
dƣờng nhƣ sự thực lịch sử và hƣ cấu đều hết sức quan trọng không thể coi nhẹ:
“Phần chân sử trong tự cũng nhƣ có giá mà phần lông bông thêm thắt may ra cũng
có giá. Tƣởng đó là một lối viết lịch sử tiểu thuyết nên cho nhập cả vào địa hạt văn
chƣơng…” (trích Lời tựa cuốn Ngược đường Trường thi) [33, tr.362].
Mặc dù yếu tố hƣ cấu rất quan trọng nhƣng là một nhà tiểu thuyết lịch sử có
tâm phải có trách nhiệm trung thành với lịch sử có sẵn. Theo lời Nguyễn Triệu
Luật thì dƣờng nhƣ ông muốn lịch sử phải luôn đƣợc tôn trọng, có thế nào phải
viết thế đấy, nhất định không đƣợc bóp méo lịch sử: “Tôi chỉ là thợ vụng, có thể
nào làm nên thế, gốc tre già cứ để là gốc tre già, chứ không có thể, và cũng không
muốn, hun khói lấy màu, vẽ vân cho thành gốc trúc hóa rồng” (trích Lời tựa cuốn
Bà chúa Chè, 1938) [33, tr.162]. Nhƣ vậy, ở đây tác giả muốn vạch định rõ
phƣơng châm sáng tác của mình, trong đó việc đánh giá lịch sử phải đƣợc xuất 22
phát từ lý trí khách quan, tránh đánh giá bằng tình cảm chủ quan, dễ làm sai lệch
lịch sử. Cũng vì ý thức tôn trọng lịch sử ấy mà mỗi tác phẩm của nhà văn đều đƣợc
tác giả viết dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ, công phu những dữ liệu lịch sử, tránh
việc quá dựa vào hƣ cấu mà làm sai lệch lịch sử. Bộ ba tiểu thuyết Bà chúa Chè,
Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh đã làm hiện lên cả một thời kỳ rối ren, u ám của
đất nƣớc xƣa với cái nền lịch sử chân thực: đó là một cơ chế quyền lực phức tạp
luôn ngấm ngầm tranh giành, đấu đá, chi phối lẫn nhau của vua Lê – chúa Trịnh;
đó là việc phế trƣởng lập thứ của Trịnh Sâm; việc quân Tam phủ làm cuộc bạo
loạn lập Trịnh Khải lên ngôi Chúa rồi lại ỉ công mà gây nhũng nhiễu, nhiều lần gây
sức ép với triều đình, tác oai, tác quái khắp nơi; đó là cuộc Bắc phạt của quân nhà
Tây Sơn khiến Trịnh Khải phải bỏ kinh thành chạy trốn, …
Từ những quan điểm kể trên, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của tác
giả Nguyễn Xuân Khánh: quan niệm tiểu thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Triệu
Luật có thể chia ra làm ba ý chính nhƣ sau:
Thứ nhất: Đối với tiểu thuyết mà nhân vật và sự kiện là những điều có thật
một trăm phần trăm thì những gì có thật trong lịch sử đƣợc đƣa vào tiểu thuyết
phải đƣợc tôn trọng, đánh giá một cách công bằng nhất, không đƣợc để tình cảm
làm thiên lệch.
Thứ hai: Cũng có khi nhà văn phải tƣởng tƣợng ra một câu chuyện có thể có
trong quá khứ rồi tự mình viết lại. Bởi trƣớc hết nhà tiểu thuyết lịch sử là một
ngƣời viết tiểu thuyết chứ không phải là nhà sử học. Việc đề cao yếu tố hƣ cấu
trong tác phẩm tiểu thuyết lịch sử là do chịu ảnh hƣởng từ phƣơng Tây.
Thứ ba: Dạng tiểu thuyết thứ ba mà Nguyễn Triệu Luật đề cập là dạng tiểu
thuyết trộn lẫn chân sử và hƣ cấu. Trong đó vai trò giữa chân sử và hƣ cấu đều hết
sức quan trọng. Đây là loại tiểu thuyết lịch sử hay đƣợc sử dụng ngày nay.
(Nguyễn Xuân Khánh, Những quan điểm sáng tác tiểu thuyết lịch sử của
nhà văn Nguyễn Triệu Luật, 8/2012) [19, tr.77].
Những quan niệm nghệ thuật này đã có tác động không nhỏ đến các sáng tác
23
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, đã giúp định hƣớng phong cách, sự
nghiệp của nhà văn trong suốt quá trình cầm bút. Từ việc tìm hiểu những quan
niệm này ta có thể tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật dễ dàng hơn, đồng
thời nó còn góp phần giúp chúng ta hiểu biết đƣợc phần nào về con ngƣời và tài
năng của tác giả.
1.2.2. Nguyên nhân lựa chọn thể tài tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Triệu Luật.
Nguyễn Triệu Luật là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những
năm 30 thế kỷ trƣớc. Ông cùng với nhiều tác giả tên tuổi bấy giờ nhƣ Ngọc Giao,
Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lê Văn Trƣơng, Vũ Bằng, Trần Huyền Trân, Thâm
Tâm,… tham gia vào nhóm Tân Dân hay còn gọi là nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
viết và xuất bản nhiều ấn phẩm văn hóa có giá trị, gây tiếng vang trên văn đàn bấy
giờ. Song, không giống nhƣ đa phần các bạn văn của mình chọn đề tài về cuộc
sống hiện tại bấy giờ, Nguyễn Triệu Luật tự tìm cho mình một con đƣờng riêng:
tìm về quá khứ. Cùng với Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật là một trong hai cây bút
viết tiểu thuyết lịch sử của nhóm Tân Dân, giúp cho đề tài lịch sử có chỗ đứng
vững chắc trong khối lƣợng không nhỏ các tác phẩm với đề tài khác của nhóm.
Lựa chọn một thể tài khó viết nhƣ tiểu thuyết lịch sử lại sáng tác nhiều, sáng
tác nhuần nhuyễn, nhận đƣợc sự yêu mến của đông đảo bạn đọc và giới phê
bình,… tất cả đòi hỏi một bản lĩnh không nhỏ ở Nguyễn Triệu Luật. Nguyên cớ
tìm đến với thể tài này của nhà văn có thể kể đến các nguyên nhân sau: nguyên
nhân xuất phát từ bối cảnh xã hội bấy giờ; nguyên nhân xuất phát từ gia thế của
nhà văn; nguyên nhân xuất phát từ công việc nhà văn làm cùng với nghề viết báo;
cuối cùng là nguyên nhân xuất phát từ hoài bão cá nhân của Nguyễn Triệu Luật.
Thứ nhất, bối cảnh xã hội rối ren của đất nƣớc bấy giờ đã có tác động không
nhỏ đến các sáng tác của nhà văn Nguyễn Triệu Luật. Sống giữa một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến đầu thế kỷ XX, nhà văn với tƣ cách một ngƣời dân của một đất
nƣớc nô lệ, đã sớm thấu hiểu sâu sắc nỗi đau khổ, nhục nhã dƣới ách áp bức, bóc
lột của thực dân, phong kiến. Cùng với công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân
Pháp thi hành nhiều đạo luật dã man và hà khắc đối với ngƣời dân Việt Nam. 24
Trong bối cảnh đó, từ ngƣời nông dân thấp cổ bé họng đến ngƣời trí thức tiểu tƣ
sản đều sống trong cuộc sống khiếp nhƣợc, lo sợ, buồn bã, chán nản. Thực dân
Pháp còn cho xây dựng nhiều nhà tù hơn trƣờng học, áp dụng chính sách ngu dân,
bắt ngƣời Việt Nam học tiếng Pháp, viết chữ Pháp, văn hóa, lịch sử hàng ngàn năm
của nƣớc Việt Nam không đƣợc phổ biến hay nhắc tới. Tình hình xã hội ấy đã thôi
thúc Nguyễn Triệu Luật một nhà văn có nhân tâm chọn đề tài lịch sử làm đề tài
chính cho các sáng tác của mình. Qua đó nhắc lại cho cả dân tộc những bài học
lịch sử của ông trong quá khứ, đem câu chuyện lịch sử soi sáng các vấn đề đƣơng
đại để từ đó khơi dậy, thức tỉnh mỗi con ngƣời Việt Nam trƣớc cảnh đất nƣớc lầm
than đang hiển hiện ngay trƣớc mắt. Chính Nguyễn Triệu Luật đã từng tâm sự
rằng: “Với tôi thì không phải những khi đất nƣớc bình yên, thịnh vƣợng mà những
khi đất nƣớc tang thƣơng, khốn đốn, tôi mới càng yêu đất nƣớc hơn” (dẫn theo
Nguyễn Chí Tình) [19, tr.33]. Cũng chính lý do này mà tác giả không lựa chọn
những thời điểm lịch sử hào hùng, tƣơi đẹp trong quá khứ mà lại chọn viết về một
thời điểm lịch sử nhiều rối ren, biến động nhƣ thời Lê mạt, Nguyễn Triệu Luật cho
rằng: “chính trong thời kỳ lắm cái đau, cái khổ ấy, lịch sử và dân tộc mới để lộ hết
thực chất, hết muôn mặt có thực của nó, và chúng ta cũng rút ra nhiều bài học hơn”
[19, tr.33].
Thứ hai, việc sinh trƣởng trong một gia đình Nho học truyền thống và quá
trình lớn lên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến việc lựa chọn thể tài của tác giả. Nguyễn
Triệu Luật xuất thân từ gia đình khoa bảng tiếng tăm. Ông nội tác giả, Hoàng Giáp
Nguyễn Tƣ Giản (1823 - 1890), từng làm đến Thƣợng thƣ Bộ lại dƣới triều Tự
Đức, cũng từng là một tác giả để lại cho đời nhiều áng văn thơ. Ông cũng là cháu
năm đời của Nguyễn Án, một danh sĩ nổi tiếng thời Lê Mạt – Nguyễn sơ, tác giả
Tang thương ngẫu lục (viết chung với Phạm Đình Hổ) nổi tiếng đƣơng thời. Gia
đình khoa bảng nền nếp đã sớm tôi rèn cậu bé Nguyễn Triệu Luật trong cái nôi của
giá trị văn hóa, lịch sử Việt Nam. Chịu ảnh hƣởng của Nho học, lớn lên lại theo
học trƣờng Tây (ông từng là sinh viên trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Đông Dƣơng,
25
ban xã hội) cho nên Nguyễn Triệu Luật am hiểu văn hóa, lịch sử một cách đa dạng,
sâu sắc. Gia thế và quá trình học tập ấy đã giúp tác giả có đƣợc những kiến thức
vững vàng, cũng nhƣ một nhãn quan tinh nhạy, một tầm văn hóa nhất định để sau
này mạnh dạn theo đuổi một thể tài “khó nhằn” nhƣ tiểu thuyết lịch sử.
Nguyên nhân thứ ba và cũng hết sức quan trọng trong việc tạo nên ý định
lựa chọn thể tài lịch sử của tác giả xuất phát từ nghề nghiệp của ông: một giáo viên
dạy Sử. Tốt nghiệp xong trƣờng Cao Đẳng Sƣ phạm, ông trở thành một giáo viên
chuyên dạy hai môn Văn học và Lịch sử. Suốt quá trình dài học tập về văn học và
lịch sử, lại bỏ nhiều thời gian nghiên cứu hai môn này trong thời gian giảng dạy đã
tạo cho Nguyễn Triệu Luật kiến thức nền vững chắc khiến cho việc lựa chọn tiểu
thuyết lịch sử tƣởng khó khăn nhƣng sự thực đó lại là “sở trƣờng” của ông.
Thứ tƣ là nguyên nhân xuất phát từ chính hoài bão cá nhân của tác giả. Sống
trong bầu không khí ngột ngạt của nhiều thập kỉ nô lệ dƣới ách thống trị của thực
dân, Nguyễn Triệu Luật sớm đã có trong mình một ngọn lửa căm thù giặc ghê
gớm, một ý chí quyết tâm cống hiến tuổi thanh xuân cho một tƣơng lai xán lạn hơn
cho dân tộc. Ông tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1929 với mong muốn
cùng với nhiều trí thức khác làm cuộc cách mạng thay đổi vận mệnh đất nƣớc
mình. Tuy vậy, sau khởi nghĩa Yên Bái (2/1930) thất bại, Quốc Dân Đảng tan rã,
bản thân Nguyễn Triệu Luật cũng phải ra tù vào tội, ông đâm ra hoang mang với
chính con đƣờng đã chọn. Vì thế, không thành công với con đƣờng cải cách xã hội,
Nguyễn Triệu Luật trở về đời thời viết văn, viết báo hỏng cải cách đời sống tinh
thần của ngƣời dân Việt. Hoài bão đó đã dẫn ông đến với tiểu thuyết lịch sử. Ông
viết nhiều cho các báo nhƣ Trung Bắc Tân Văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông
bán nguyệt san… với nhiều bài viết có giá trị đƣợc ngƣời đọc đƣơng thời đón nhận
nhiệt tình. Trong số đó, ông lựa chọn viết nhiều và tập trung viết những truyện lịch
sử, nhắc nhở, thức tỉnh ngƣời dân nƣớc nhà đang trong cảnh nô lệ lúc bấy giờ
những bài học lịch sử, văn hóa của cha ông. Tác giả Nguyễn Chí Tình đã từng
thuật lại cuộc đối thoại giữa cha ông và Nguyễn Triệu Luật, trong đó Nguyễn Triệu
Luật đã nhiều lần thể hiện sự xúc động khi nhắc tới công việc của nhà cách mạng:
26
Khi đồng chí Nguyễn Thái Học hi sinh, ông Luật đã rất buồn bã: “Xin lỗi ông Hiệu
trƣởng, hôm nay trong giờ Sử ở lớp đệ tam, tôi đã không theo đúng chƣơng trình
sắp sẵn. Vì hôm nay là ngày ngƣời đồng chí của tôi Nguyễn Thái Học đã bị hành
hình sau một cuộc chiến đấu anh dũng. Tôi quá xúc động, không thể giảng bài đã
chuẩn bị, mà phải kể lại tấm gƣơng của ngƣời anh hùng cho các học sinh. Tôi tin
rằng đó là một trang sử bổ ích”. Hay trong lần buổi gặp gỡ cuối cùng với cha tác
giả Nguyễn Chí Tình, Nguyễn Triệu Luật cũng thẳng thắn bộc lộ hoài bão và khát
vọng làm cách mạng của mình: “Nếu chúng ta chỉ biết hoạt động bằng viết văn,
viết báo, dạy học thì vẫn còn những ngƣời nhƣ thân phụ anh hay đồng chí Nguyễn
Thái Học của tôi phải lên máy chém mà thời thế vẫn chẳng thay đổi đƣợc. Chúng
ta phải tìm đến những gì khác hơn thế” [17, tr.35].
Bốn nguyên nhân kể trên, có cả khách quan lẫn chủ quan, đều góp phần
cùng nhau đƣa đẩy Nguyễn Triệu Luật đến với tiểu thuyết lịch sử.
1.1.3. Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật trong bối cảnh chung của
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX đến 1945
Văn học Việt Nam từ cuối những năm 20 của thể kỉ, đặc biệt là từ năm 1930
đến năm 1945 chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt tác giả viết tiểu thuyết lịch sử
nhƣ Nguyễn Tử Siêu, Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Huy Tƣởng,
Lan Khai, Khái Hƣng... Bằng các tác phẩm cụ thể, họ đã góp phần khẳng định sự
tồn tại và thành công của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Với những tác giả nhƣ
Nguyễn Tử Siêu, Phan Trần Chúc, Ðào Trinh Nhất... trong cách viết còn nặng về
ghi chép sự kiện lịch sử, bị ảnh hƣởng bởi lối viết kể chuyện chƣơng hồi của văn
học truyền thống. Với Lan Khai, Khái Hƣng, Chu Thiên... lịch sử chỉ là cái cớ để
nhà văn đi sâu khai thác những câu chuyện tình giai nhân diễm lệ, những anh hùng
hảo hán hành động phiêu lƣu,mạo hiểm kiểu giang hồ nghĩa hiệp... Cách viết của
họ thể hiện rõ khuynh hƣớng lãng mạn chủ nghĩa. Riêng đối với Nguyễn Triệu
Luật, lịch sử với ông là lịch sử chân thực. Ở tác giả luôn có sự trung thành tuyệt
đối với các nhân vật và sự kiện lịch sử.
Nguyễn Triệu Luật (1903 - 1946), bút hiệu là Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ,
27
quê ở Đông Anh, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng, nhiều ngƣời
đỗ đạt làm quan đến Thƣợng thƣ, Thị lang trong suốt các triều đại lịch sử. Ông vừa
là một nhà văn, vừa là một nhà báo, vừa tham gia dạy sử, nghiên cứu ngôn ngữ và
văn hóa. Nguyễn Triệu Luật có tổng cộng 8 cuốn tiểu thuyết lịch sử hoàn chỉnh
còn lƣu giữ lại đến ngày nay: Hòm đựng người (in từng kỳ trên báo Nhật Tân vào
năm 1936, 1938 in thành sách), Bà chúa Chè (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1938),
Loạn kiêu binh (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1939), Ngược đường Trường thi (Phổ
thông bán nguyệt san số 46, 1939), Chúa Trịnh Khải (Nxb Tân Dân - Hà Nội,
1940), Rắn báo oán (1941), Thiếp chàng đôi ngả (in chung với Rắn báo oán,
1941), Bốn con yêu và hai ông đồ (1943).
Ngoài ra, Nguyễn Triệu Luật còn có một cuốn tiểu thuyết nữa là Chúa cuối
mẻ đang in dở trên nguyệt san Tiểu thuyết thứ bảy (từ số 1, 6/1944 đến số 9,
3/19445). Tiểu thuyết lịch sử là đề tài chính trong sự nghiệp sáng tác văn học của
ông. “Đƣơng thời, ông là nhà văn đƣợc độc giả yêu thích, với bút pháp mổ xẻ và
hƣ cấu lịch sử táo bạo, trần trụi, và chân thực đến độ ngƣời đọc không hề mảy may
cảm thấy nhà văn nói thay lịch sử, không phá vỡ khuôn hình lịch sử dẫn đến bôi
bác lịch sử bằng những tƣởng tƣợng lãng mạn nhạt nhẽo. Lịch sử trong tiểu thuyết
của ông hàm chứa nhiều dự báo cho hiện tại, song vẫn là một lịch sử vận động tự
nó, theo đúng những quy luật nhƣ là nó đã từng là” [19; 247]. Không nhƣ nhiều tác
giả cùng thời, Nguyễn Triệu Luật không lựa chọn đề tài lịch sử trải qua nhiều thế
kỷ, ông có sự quan tâm đặc biệt tới giai đoạn lịch sử thời mạt vận của tập đoàn
phong kiến Lê mạt thế kỉ XVIII. Đã từng có độc giả viết thƣ trách hỏi ông, tại sao
không viết về lịch sử đau thƣơng của dân tộc hồi cuối thế kỷ XIX. Đáp lại, Nguyễn
Triệu Luật trả lời rằng: “Lịch sử chỉ là cuộc diễn lại những trò cũ. Bƣớc loạn
vong, đông tây cổ kim vẫn tƣơng tự nhƣ nhau. Đã thế thì, gần xa âu cũng thế thôi,
can chỉ phải xem việc gần mới biết việc gần. Con ngƣời ta, có ruột gan ra, thì
chuyện ngƣời xa muôn dặm, ngàn năm cũng đủ cảm. Mà không có ruột gan chi, thì
chuyện trong nhà, nƣớc mắt, ruột thịt, cũng vẫn thờ ơ” [33, tr.20]. Qua câu trả lời
với độc giả thời ấy, Nguyễn Triệu Luật thể hiện rõ quan điểm của mình khi lựa
28
chọn đề tài lịch sử. Chỉ cần có cái tâm với lịch sử thì chuyện xƣa hay chuyện nay
cũng đều có ý nghĩa cả. Tiểu thuyết lịch sử vốn lấy chuyện xƣa để nói nay. Ðất
nƣớc hiện tại đang trong cảnh nô lệ, Nguyễn Triệu Luật mong muốn bạn đọc nhìn
vào quá khứ để thấy lại lịch sử dân tộc, thức tỉnh lòng tự hào, tự tôn dân tộc và tấm
lòng yêu nƣớc ở mỗi con ngƣời. Cũng cùng chung ý đó, theo lời tác giả Nguyễn
Chí Tình thì thân sinh của ông và Nguyễn Triệu Luật có quan hệ rất thân thiết, khi
đƣợc cha tác giả hỏi về lý do lựa chọn thời điểm lịch sử đất nƣớc nhiều đau thƣơng
nhƣ nhà Lê – Trịnh để viết Nguyễn Triệu Luật đã trả lời: “tôi thấy mình bị hút về
những chuyện u ám trong lịch sử. Mà nói cho cùng, chính trong thời kỳ lắm cái
đau, cái khổ ấy, lịch sử và dân tộc mới để lộ hết thực chất, hết muôn mặt có thực
của nó, và chúng ta cũng rút ra nhiều bài học hơn. Với tôi thì không phải những khi
đất nƣớc bình yên, thịnh vƣợng mà những khi đất nƣớc tang thƣơng, khốn đốn, tôi
mới càng yêu đất nƣớc hơn” [19, tr.33].
Trong nhà Tân Dân, Nguyễn Triệu Luật là một nhà tiểu thuyết lịch sử có
một lối viết khác hẳn so với Lan Khai. Trong số các nhà tiểu thuyết lịch sử đƣơng
thời, Lan Khai đƣợc cho là ngƣời viết nhiều, viết khỏe nhất (đến hơn 20 tiểu
thuyết). Tiêu biểu nhƣ là: Ai lên phố Cát, Chiếc ngai vàng, Cái hột mận, Bóng cờ
trắng trong sương mù, Cánh buồm thoát tục, Theo lớp mây đưa, Cưỡi đầu voi
dữ… Các tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai chủ yếu quan tâm đến khía cạnh nghệ
thuật, tức ở sự hƣ cấu, sáng tạo trên một cái nền lịch sử. Ông cho rằng nếu nhà lịch
sử đi tìm cái “nguyên sự thực”, gác bỏ lại những điều huyền hoặc, mơ hồ thì nhà
viết tiểu thuyết lịch sử lại đƣợc quyền “biên chép tất cả để thêm hứng thú cho câu
chuyện mình kể [51, tr.47]. Ông chỉ cốt làm sao để làm sinh động hơn các nhân vật
lịch sử có thật, để qua nhân vật lịch sử, bài học lịch sử ông giãi bày tâm sự, quan
niệm của chính mình. Bên cạnh lớp nhân vật có thật trong lịch sử thì tác giả dành
nhiều trang viết cho những nhân vật hoàn toàn hƣ cấu nhƣ Thục Nƣơng, Yến
Xuân, nàng Nhạn, Tiên Nhân, Bội Ngọc,… Phong cách của Lan Khai có phần
thiên theo hƣớng lãng mạn và bao giờ trong đó cũng có mối tình trai gái đau
thƣơng nhƣ chuyện tình Chiêu Hoàng và Trần Cảnh trong Chiếc ngai vàng, nàng
29
Nhạn và Bàng Tuyết Hận trong Đỉnh non thần, Hoàng Thiếu Hoa và Thục Nƣơng
trong Gái thời loạn,... Vì mƣợn truyện kí thác tâm sự nên cách miêu tả nhân vật,
tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết của ông nhiều khi còn hơi hiện đại, với nhiều hƣ
cấu, thêm thắt nên đôi khi đọc tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai ngƣời ta lại lầm
tƣởng đang đọc tiểu thuyết tâm lý, tình cảm hay tiểu thuyết kiếm hiệp.
Khác với Lan Khai, phong cách viết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu
Luật lại thiên theo hƣớng hiện thực. Ông cố gắng khắc họa và trung thành ở mức
độ cao với các chi tiết lịch sử có thật. Những hƣ cấu, sáng tạo của Nguyễn Triệu
Luật chỉ mang tác dụng làm cho sự thực “thật hơn cả thật” mà thôi. Các hƣ cấu mà
ông cho là phần “lông bông” cũng chắt lọc ra từng chính những kiến thức khoa học
sâu rộng của tác giả về văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ. Nhiều nhà nghiên cứu khi
đọc tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật đã cho rằng ông chịu ảnh hƣởng quá
nhiều từ Hoàng Lê nhất thống chí. Thậm chí có một số quan điểm cực đoan còn
nhận định truyện của ông vừa khô khan, nặng nề các chi tiết lịch sử, thậm chí còn
bị cho là “thích khoe chữ”. Nguyên nhân gây ra những đánh giá trái chiều này là
do tác giả Nguyễn Triệu Luật luôn cố gắng tôn trọng lịch sử, “có thế nào viết thế
ấy” và do những kiến thức lịch sử phong phú, sinh động của chính tác giả (vốn là
một nhà sử học, một giáo viên dạy sử) mang lại. Tuy vậy, đây cũng có thể xem là
ƣu điểm của văn chƣơng Nguyễn Triệu Luật, các tiểu thuyết của Nguyễn Triệu
Luật không chỉ mang tới cho độc giả những bài học từ lịch sử chân thật, mà còn
đem đến những kiến thức văn hóa, kinh tế, chính trị, ngôn ngữ phong phú của một
thời đại đã qua. Xét cho cùng, so với việc cố thêm thắt, hƣ cấu sao cho hay, cho
bay bổng để thu hút ngƣời đọc, việc hƣ cấu sao cho sát thực, cho phù hợp với lịch
sử, cho ngƣời đọc khi đọc tác phẩm có đƣợc một trải nghiệm quay ngƣợc thời gian
đích thực (viết hƣ cấu mà không làm ngƣời ta nhận ra là hƣ cấu, lại cứ tin đó là sự
thực) thì đòi hỏi ngƣời viết phải dày công nghiên cứu, tìm tòi hơn nhiều.
Khác với nhiều nhà tiểu thuyết lịch sử đƣơng thời, Nguyễn Triệu Luật chỉ
tập trung viết về giai đoạn lịch sử xác định: nhà Lê mạt, cuối Lê đầu Nguyễn.
Chính vì vậy ông phải huy động một lƣợng kiến thức tổng hợp không nhỏ trên
30
nhiều lĩnh vực để có thể tái hiện sinh động thời đại lịch sử này trong nhiều tác
phẩm, hòng tạo nên một bức tranh lịch sử chung về một giai đoạn nhiều biến cố
của lịch sử nƣớc nhà. Bộ ba tác phẩm Bà chúa Chè, Chúa Trịnh Khải và Loạn kiêu
binh là một chuỗi tác phẩm liên hoàn, mỗi tiểu thuyết nhằm đến một nhân vật lịch
sử nhất định, một sự kiện nhất địch, quyển viết sau nối tiếp quyển viết trƣớc, quyển
trƣớc là nguyên nhân của quyển sau. Trong lời Tựa xuất bản Bà chúa Chè năm
1938 Nguyễn Triệu Luật cũng nói rất rõ: “Vì mê Bà chúa Chè (tức Đặng Thị Huệ -
V.Đ.H) chúa Trịnh Sâm mới bỏ con trƣởng lập con thứ. Vì bỏ con trƣởng lập con
thứ, triều đình mới sinh ra vây cánh. Vì bè đảng vây cánh, Kiêu binh mới làm loạn.
Vì muốn trị Kiêu binh, chúa Trịnh Khải mới giở tay không kịp, trong nội trị bỏ bễ,
ngoài vô tâm với cƣờng lân. Nhân tâm ly tán, nhà Trịnh mới đứng vào cái địa vị
mạt vận tàn hôi. Trong việc chôn nhà Trịnh, Bà chúa Chè là ngƣời đào hố; lũ kiêu
bình là lũ đứng chực đẩy ngƣời xuống hố; chúa Trịnh Khải là ngƣời bị chúng đẩy
nhƣng cứ chạy quanh miệng hố mà vừa tránh vừa tìm cách đuổi lũ chôn ngƣời. Lũ
chôn ngƣời chạy tan rồi, chúa đƣơng lúi húi một mình lấp hố thì vụt đâu có ngƣời
xa chạy đến, đẩy mạnh một cái, thế là xong đời, xong cả cơ đồ họ Trịnh. Tôi phải
đem ba việc: đào hố, đẩy ngƣời, và sa hố là ba việc dính liền nhau chép riêng ra.
Độc giả đọc xong Bà chúa Chè tức là đã xem việc đào hố. Sau đây đọc Chúa Trịnh
Khải và Loạn Kiêu Binh, độc giả sẽ đƣợc xem việc sa hố và đẩy ngƣời. Xong, độc
giả sẽ xem chuyện Cống Chỉnh là chuyện anh chàng từ xa chạy lại đẩy sấp ngƣời
xuống hố”. Có thể tổng hợp thế này: tiểu thuyết Bà chúa Chè là “khởi mào” sự suy
vong của nhà Trịnh, Loạn kiêu binh là sự suy tàn, khủng hoảng nghiêm trọng của
nhà Trịnh, Chúa Trịnh Khải là ngƣời cố gắng cứu vớt nhà Trịnh nhƣng không
thành. Tóm lại bộ ba tiểu thuyết quyển sau nối tiếp quyển trƣớc đã giúp độc giả có
đƣợc một cái nhìn toàn diện, chi tiết, hệ thống về một giai đoạn lịch sử, khiến lịch
sử hiện diện rõ nét, sinh động hơn đối với bạn đọc. Quyển Hòm đựng người lại, tác
giả viết trƣớc đó lại mang đến cho độc giả một ấn tƣợng khác hẳn về tiểu thuyết
Nguyễn Triệu Luật. Ở đây, tác giả chỉ dựa trên một giai đoạn lịch sử xác định
(cũng là Lê mạt) để viết nên những câu chuyện, những nhân vật hoàn toàn hƣ cấu.
31
Đây có thể coi là một trong những tiểu thuyết lịch sử nhiều hƣ cấu nhất của tác giả.
Tuy các nhân vật, câu chuyện không có thật, song ngƣời đọc khi đọc cuốn tiểu
thuyết này thì lại cảm thấy nó vô cùng chân thực. Nguyên do là vì những hƣ cấu
trong tác phẩm đƣợc tác giả viết nên dựa trên một quá trình tìm tòi, nghiên cứu lâu
năm về văn hóa, lịch sử của giai đoạn ấy. Những tòa lăng trắng muốt, những cung
nhân lặng lẽ nhƣ những bóng ma, những hình phạt ghê rợn của Tòa án cổ xƣa, …
tất cả đều đƣợc viết dựa trên các dữ liệu lịch sử có thật mà tác giả thu thập đƣợc.
Vì thế câu chuyện bi thảm của cung nữ Ấu Mai và biết bao ngƣời con gái chốn hậu
cung cả đời bị giam hãm trong cung điện rồi sơn lăng diễn ra trƣớc mắt độc giả
nhƣ một cuốn phim chân thực. Không chỉ cung cấp cho chúng ta một câu chuyện
đẫm nƣớc mắt của ngƣời cung nữ mà còn mang đến những kiến thức phong phú về
kiến trúc, luật pháp, trang phục, phong tục, ngôn ngữ của thời đại cuối Lê đầu
Nguyễn.
Nhƣ vậy, qua các tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Triệu Luật ta có thể thấy
đƣợc một bức tranh hoàn chỉnh cả về lịch sử, văn hóa, chính trị, kinh tế của một
giai đoạn lịch sử xác định (cuối Lê đầu Nguyễn). Đây cũng là nét đặc trƣng trong
sáng tác của nhà văn và cũng là điểm đặc biệt khiến tiểu thuyết lịch sử khác biệt.
Theo tác giả Mai Thị Thanh Hà, ông có lối viết lịch sử chân thực hơn hẳn sovới
các nhà tiểu thuyết lịch sử đƣơng thời. Viết tiểu thuyết lịch sử mà cuốn trƣớc nối
cuốn sau, cuốn sau là kết quả của cuốn trƣớc chứng tỏ ở tác giả một khả năng hệ
thống các kiến thức mạnh mẽ, một nhãn quan lịch sử sâu sắc. Với khối lƣợng tiểu
thuyết tƣơng đối nhiều (gần chục cuốn tiểu thuyết lịch sử) lại hầu hết viết về cùng
một thời điểm lịch sử, điều này đòi hỏi ở tác giả khả năng đào sâu tìm tòi và thách
thức cả ngòi bút sáng tạo của nhà văn. Vì vậy, trong dòng tiểu thuyết lịch sử đầu
thế kỷ XX, Nguyễn Triệu Luật xứng đáng trở thành một tác giả tiểu thuyết lịch sử
chân chính, một nhà văn có tài, có khả năng lôi cuốn đông đảo độc giả bởi những
câu chuyện lịch sử “không cố tình làm màu” mà vẫn chân thực “hơn cả thực”.
Tóm lại, trên đây chúng tôi vừa trình bày những nét khái lƣợc về tiểu thuyết
32
lịch sử nói chung và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn những năm đầu thế kỷ
XX đến 1945, từ cái nền đó chúng tôi nêu lên những nét khái quát về quan niệm
nghệ thuật, nguyên nhân chi phối sáng tác và giới thiệu các tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Triệu Luật nhằm giúp ngƣời đọc có đƣợc một hình dung nhất định về vị
trí, vai trò của tác giả trong nền văn học nƣớc nhà. Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi đi
sâu tiếp cận văn bản tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật một cách cụ thể ở các chƣơng
33
tiếp theo của công trình.
Chƣơng 2: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT
TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA
Trong chƣơng 2 của công trình, chúng tôi tiến hành tìm hiểu tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Triệu Luật từ góc độ văn hóa bằng cách chỉ ra giới thuyết về khái niệm
văn hóa, văn hóa học và phân tích các tiểu thuyết lịch sử dƣới nhiều góc độ: không
gian văn hóa, nhân vật – chủ thể văn hóa… Qua chƣơng này, chúng tôi hi vọng sẽ
mở ra một hƣớng tiếp cận hoàn toàn mới về tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật (tiếp
cận từ góc độ văn hóa), đồng thời chỉ ra đƣợc những giá trị mà các tiểu thuyết
mang lại, đóng góp phần nào vào việc nhìn nhận con ngƣời và tài năng của tác giả.
2.1. Giới thuyết về khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học
2.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác
nhau, gây nhiều tranh cãi. Theo Wikipedia, ở phƣơng Tây, theo gốc La tinh, văn
hóa ban đầu đƣợc hiểu là giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trồng trọt [27]. Với cách hiểu
này, văn hóa gắn liền với quá trình trong đó con ngƣời tạo ra các sản phẩm về vật
chất và tinh thần, gắn liền với quá trình giáo dục, nuôi dạy và đào tạo con ngƣời. Ở
Trung Hoa, thế kỷ thứ VI trƣớc công nguyên, Khổng Tử đã dùng thuật ngữ “văn”
với ý nghĩa là hình thức đẹp đẽ, biểu hiện trong lễ nhạc, đặc biệt trong ngôn ngữ,
giao tiếp, ứng xử của con ngƣời với đồng loại. Về sau, văn đƣợc hiểu là vẻ đẹp,
hóa là sự biến đổi, văn hóa là biến cải, biến đổi bồi đắp cho đẹp. Cùng với thời
gian và nhận thức của con ngƣời, ý nghĩa của văn hóa ngày càng đƣợc mở rộng
phong phú. Theo Lƣơng Văn Kế trong tác phẩm Thế giới đa chiều, ngay từ những
năm 1952, hai nhà nhân loại học Mĩ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã
từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi
tiếng thế giới [26, tr.313]. Tại hội nghị Quốc tế UNESCO năm 1992 ở Mexico, các
nhà văn hóa đến từ hơn 100 quốc gia đã thống nhất đƣa ra 200 định nghĩa về văn
34
hóa. Văn hóa đƣợc đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu nhƣ dân tộc học,
nhân loại học, dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,… và định
nghĩa về văn hóa ở mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó lại khác nhau. Năm 1994, nhà
nghiên cứu Phan Ngọc cũng sƣu tập và thống kê đƣợc đến 300 định nghĩa về văn
hóa trong cuốn Văn hóa Việt Nam với cách tiếp cận mới [36, tr.104].
Tại hội nghị quốc tế UNESCO năm 1992, văn hóa đã đƣợc các nhà khoa
học định nghĩa là “Tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và
cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm ngƣời trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản
của con ngƣời, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngƣỡng. Văn hóa
đem lại cho con ngƣời khả năng soi sét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho
chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách đạo lý” [9, tr.5 – 6].
Văn hóa là một khái niệm nhiều ý nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa đƣợc
dùng theo nghĩa thông dụng chỉ học thức, lối sống, theo nghĩa chuyên biệt chỉ trình
độ phát triển của một giai đoạn, còn theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ
những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến những tín ngƣỡng, phong tục, lối
sống,… Theo Từ điển Tiếng Việt (1997) của Nxb Giáo dục trang 1247, văn hóa
đƣợc định nghĩa bằng 4 nghĩa: “1 - Những giá trị vật chất, tinh thần do con ngƣời
tạo ra trong lịch sử nền văn hóa của các dân tộc; 2 – Đời sống tinh thần của con
ngƣời; 3 – Tri thức khoa học, trình độ học vấn; 4 – Lối sống, cách ứng xử có trình
độ cao, biểu hiện văn minh” [30, tr.1247]. Trong tác phẩm Toàn thư quốc tế về văn
hóa, trang 164 đã đƣa ra định nghĩa: “văn hóa là tập hợp các hệ thống biểu tƣợng,
nó quy định thế ứng xử của con ngƣời và làm cho một số đông ngƣời có thể giao
tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt”. Tác giả Phan Ngọc thì
nhận định: “Văn hóa là mối quan hệ trong óc một cá nhân hay một tộc ngƣời với
cái thế giới thực tại ít nhiều bị cá nhân hay tộc ngƣời này mô hình hóa theo cái mô
hình tồn tại trong biểu tƣợng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó
là văn hóa dƣới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng
35
của cá nhân hay tộc ngƣời khác” [37, tr.17].
Mặc dù có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhƣng tóm lại ta
có thể hiểu nhƣ sau: Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm: giá trị, chuẩn mực
quy tắc, thiết chế và những yếu tố có tính nhân tạo của một cộng đồng nhất định.
Văn hóa là cái mà con ngƣời và cộng đồng hình thành nên có tính tự nhiên, truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo ra tính khác biệt giữa tập hợp này với tập hợp
khác. Vì thế, đặc trƣng cơ bản của văn hóa là dân tộc và thẩm mỹ.
2.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Nhƣ chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong văn
hóa và vì thế chịu sự chi phối của văn hóa. Chúng tôi đồng ý với quan niệm của
Bakhtin khi cho rằng: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa.
Không thể hiểu nó ngoài bối cảnh nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong
đó nó tồn tại” [39, tr.29]. Trong quá trình sáng tác, mỗi nhà văn đều phải tạo nên đứa
con tinh thần dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và nhân loại. Có thể
coi văn học là một tấm gƣơng phản chiếu bộ mặt văn hóa của mỗi thời đại, mỗi dân
tộc và nó là sự kết tinh toàn bộ các phƣơng diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ
thuật của mình.
Sử dụng sức mạnh của ngôn từ, văn chƣơng có lợi thế diễn đạt trực tiếp lớp vỏ
tƣ duy lẫn bề sâu của cảm xúc, có khả năng to lớn trong việc hình thành giá trị tinh
thần và đời sống của văn hóa dân tộc. Vì thế, nếu hiểu văn hóa là những giá trị đọng
lại trong tâm trí con ngƣời sau sự vùi dập của thời gian thì hình ảnh đẹp và sâu sắc của
diện mạo, bản sắc văn hóa Việt Nam lại thể hiện rõ nét qua văn học. Để xây dựng tác
phẩm văn học, nhà văn có thể dựa vào những tƣ liệu từ sử học, kinh tế học, thống kê
học, xã hội học, dân tộc học. Chẳng thế mà các tiểu thuyết của Banzac luôn đƣợc coi
nhƣ một kho tƣ liệu phong phú về văn hóa, kinh tế, phong tục của nƣớc Pháp hay
những tác phẩm của M.Gorki bao chứa trong nó những hình ảnh sâu lắng của văn hóa
Nga (con ngƣời, xã hội, phong tục tập quán, …) và “tƣ tƣởng về tính tích cực xã hội
của văn học ở Gorki có các cội nguồn văn hóa sâu xa” [44].
Vì tính chất đặc thù kể trên mà văn học thƣờng đƣợc coi là một sản phẩm
36
văn hóa đặc biệt và là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa, một yếu tố chủ đạo
trong hệ thống văn hóa. Song, nó không phải là một yếu tố bất biến, nó cũng
thƣờng xuyên thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn văn hóa. Văn học biết tiếp
thu những gì ngoài hệ thống vốn có để phát triển. Nếu nhƣ tiếp thu đến một mức
độ nhất định thì yếu tố văn học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó
sẽ chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải thay đổi cùng với nó. Tuy vậy văn
học vẫn chỉ là một yếu tố của văn hóa, nó không thể trực tiếp tác động đến hệ
thống xã hội mà phải gián tiếp qua hệ thống văn hóa và chỉ có thể tác động đến hệ
thống xã hội thông qua văn hóa. Cho nên, nghiên cứu văn học phải dựa trên cái
khung nghiên cứu văn hóa.
Tìm hiểu một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa là vận dụng những
tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của các tác phẩm.
Một cách tổng quát phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa ƣu
tiên cho việc phục nguyên các không gian văn hóa, trong đó tác phẩm văn học đã
ra đời , xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị,
pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con ngƣời cũng nhƣ sự chi phối của các phƣơng
tiện khác nhau. Phƣơng pháp này là sự tổng hợp, trung gian giữa những phƣơng
pháp tìm hiểu văn bản khác nhau nhƣng vẫn có đặc trƣng riêng: thiên về giải mã
các hiện tƣợng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng đồng thời
nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian và thời
gian. Tác giả Trần Nho Thìn định nghĩa: “Cách tiếp cận văn hóa học… không chủ
trƣơng miêu tả thế giới nghệ thuật của các tác phẩm nhƣ một vũ trụ khép kín, có
giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm
văn hóa của thời đại nơi tác phẩm đƣợc sản sinh để tìm nguồn gốc của các dạng
thức quan niệm về con ngƣời, về không gian, thời gian trong tác phẩm. Tiếp cận
văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành, nơi yêu cầu vận dụng tổng hợp tri
thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học, … để giải mã các hiện tƣợng
thi pháp tác phẩm văn học” [48, tr.19].
Hiện nay ở nƣớc ta đã có không ít những công trình nghiên cứu văn học đi
37
sâu vào tìm hiểu văn học trong mối quan hệ với văn hóa nhƣ nghiên cứu của tác
giả Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997) của Trần Ngọc Vƣơng,
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học (1997) của Đỗ Thị Minh Thúy, Từ cái nhìn
văn hóa (1999) của Đỗ Lai Thúy, Văn học trung dại Việt Nam dưới cái nhìn văn
hóa (2007) của Trần Nho Thìn, Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa (2011)
của Lê Nguyên Cẩn, … Từ thực tế và những thành quả mà các công trình nghiên
cứu kể trên mang lại, chúng ta thấy đƣợc một số thế mạnh trong việc sử dụng
phƣơng pháp tiếp cận văn học dƣới góc nhìn văn hóa.
Việc tiếp cận tác phẩm văn học dƣới góc nhìn văn hóa đã cho phép khắc
phục đƣợc tình trạng đánh giá văn học trong phạm vi hạn hẹp, chuyên biệt. Bản
chất của văn hóa là phạm vi rộng bao gồm rất nhiều yếu tố, việc văn học đƣợc
chiếu qua lăng kính văn hóa sẽ giúp chúng ta có đƣợc cái nhìn nhiều chiều, đa
dạng hơn, tránh sự phiến diện, cực đoan, cảm tính trong nghiên cứu. “Việc nghiên
cứu nhƣ cũ thì phạm vi văn học bị hạn hẹp, còn chuyển sang nghiên cứu văn hóa
thì sẽ làm cho nghiên cứu văn học gắn với đời sống đƣơng đại, là một cách để nó
tự cứu mình” [45, 2].
Nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn văn hóa cũng là tìm hiểu vị trí của nhà
văn trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc. Mỗi nhà văn luôn sáng tác dƣới sự
chi phối của một nền văn hóa nhất định. Tác phẩm văn học chính là đứa con tinh
thần của nhà văn, một cá nhân lịch sử trong một nền văn hóa cụ thể. Vì thế, mỗi
nhà văn cũng có tƣ cách nhƣ nhà văn hóa, họ phản ánh lại trong chính tác phẩm
của mình những tinh hoa của văn hóa dân tộc mỗi giai đoạn.
Nhƣ vậy, việc tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa sẽ cung cấp cho chúng ta
một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn và mới mẻ hơn và tác phẩm văn học. Trong
công cuộc hội nhập và giao lƣu mạnh mẽ về văn hóa nhƣ hiện nay thì việc nhìn
văn học nhƣ một hiện tƣợng văn hóa sẽ làm cho nghiên cứu văn học gắn bó hơn
với đời sống đƣơng đại tạo nên sự hấp dẫn, sáng tạo trên việc tiếp nhận văn học.
2.2. Các thành tố văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
Giá trị văn hóa hay còn gọi là những giá trị xã hội, nó gắn liền với sự tồn tại
38
và phát triển của xã hội. Mỗi xã hội lại có những tiêu chí giá trị khác nhau tạo nên
một hệ thống các giá trị nhất định và dựa vào đó con ngƣời trong xã hội sẽ phát
triển và nuôi dƣỡng nhân cách của mình. Trên cơ sở ấy, mỗi nhà văn trƣớc hết có
tƣ cách là một cá nhân của xã hội nên sáng tác của họ sẽ bị chi phối bởi hệ thống
giá trị, quan niệm thẩm mỹ của xã hội đó. Những tác phẩm văn học vô hình trung
sẽ là kết tinh những tiêu chuẩn giá trị của xã hội sản sinh ra chúng hay là kết tinh
những giá trị văn hóa từ xã hội đó. Ở một tiểu thuyết lịch sử thì những giá trị này
lại có những điểm khác biệt so với các thể tài khác bởi nó không chỉ bị chi phối bởi
hệ giá trị thẩm mỹ của thời đại nó sinh ra mà còn chịu tác động sâu sắc bởi những
tiêu chuẩn giá trị trong xã hội quá khứ mà nó đề cập.
Với đặc thù riêng biệt của mình, viết về những nhân vật, những hiện tƣợng
những sự kiện xảy ra trong quá khứ, tiểu thuyết lịch sử phải có một phƣơng hƣớng
tiếp cận văn hóa học khác biệt. Việc tác giả, một cá nhân của thời điểm hiện tại,
chịu sự chi phối bởi các quan điểm thẩm mỹ, các giá trị văn hóa ở thời điểm hiện
tại nhƣng lại kể cho chúng ta một câu chuyện mang đề tài của quá khứ, tái hiện con
ngƣời, bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa xa xƣa khiến cho việc nghiên cứu tiểu
thuyết lịch sử dƣới góc độ văn hóa đặt ra một vấn đề phải tìm hiểu giá trị văn hóa
mà nội dung tác phẩm đề cập dƣới sự soi chiếu rộng hơn, trải dài từ quá khứ đến
hiện tại, tìm thấy mối liên kết giữa chúng.
Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật cũng mang trong mình vấn đề nhƣ
vậy. Là tiểu thuyết lịch sử, lẽ dĩ nhiên các tác phẩm ấy phải kể lại một câu chuyện
lấy các chi tiết lịch sử đã xa thời điểm sáng tác làm “đinh treo”. Số lƣợng lớn các
tác phẩm tập trung miêu tả giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam thời vua Lê chúa
Trịnh thế kỷ XVII, XVIII nhƣng lại câu chuyện quá khứ ấy lại đƣợc kể bởi một
nhà văn hiện đại, con ngƣời của thời điểm hiện tại Nguyễn Triệu Luật. Vì thế, khi
tiếp cận các tiểu thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Triệu Luật nhìn từ góc độ văn
hóa tức là nghiên cứu những yếu tố không gian văn hóa, về con ngƣời - những chủ
thể văn hóa đƣợc miêu tả trong tác phẩm thấy đƣợc những giá trị văn hóa xƣa, từ
39
đó xem xét nó trong các giá trị văn hóa của của chính thời đại sinh ra nó (thời đại
mà tác giả sống) và những quan điểm văn hóa của tác giả Nguyễn Triệu Luật
(trong tƣ cách một cá nhân của hiện tại).
2.2.1. Không gian văn hóa miền Bắc Việt Nam thời Lê mạt
Sinh trƣởng trong một gia đình khoa bảng, lớn lên với những câu chuyện kể
về lịch sử văn hóa nƣớc nhà, lại say mê, ham thích và chọn theo đuổi việc nghiên
cứu sử học, Nguyễn Triệu Luật sớm đã có những am hiểu sâu rộng và tỉ mỉ về lịch
sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt là xã hội vua Lê chúa Trịnh. Nhiều năm nghiên
cứu và tìm hiểu đã giúp cho tác giả có khả năng tái hiện sinh động, chi tiết một
không gian văn hóa miền Bắc Việt Nam của mấy trăm năm trƣớc.
Hoàn cảnh xã hội rối ren, suy vi đầu thế kỷ XX cũng khiến cho một ngƣời
con yêu nƣớc nhƣ Nguyễn Triệu Luật “không yên lòng”. Khởi nghĩa Yên Bái thất
bại năm 1929, tổ chức Quốc dân Đảng tan rã, bản thân cũng từng bị bắt giam,
Nguyễn Triệu Luật đành lui về Mặt trận văn hóa tƣ tƣởng. Sự kiện này có thể coi
là một bƣớc ngoặt trong sự nghiệp cầm bút của ông, ông trở về viết văn, viết báo,
giảng dạy một cách tích cực với nhiều tác phẩm đƣợc đăng báo, xuất bản. Thời
gian này ông viết nhiều tiểu thuyết lịch sử nhƣ ký thác tấm lòng yêu thƣơng, trân
trọng lịch sử và các giá trị văn hóa nƣớc nhà. Những tác phẩm này đã mở ra cho
bạn đọc nhiều thế hệ những không gian văn hóa sinh động, chân thực, giàu tìm tòi,
khám phá: từ những hoạt động sinh hoạt văn hóa thời xa xƣa đến các kiến trúc văn
hóa, các khung cảnh thiên nhiên đậm màu sắc văn hóa, cả những không gian cổ
xƣa trong mối liên hệ với không gian văn hóa hiện tại.
* Các hoạt động sinh hoạt văn hóa
Tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật khắc họa một cách chân thực những hoạt
động sinh hoạt văn hóa của ngƣời dân miền Bắc Việt Nam trong quá khứ: từ những
sinh hoạt văn hóa cầu kỳ, xa hoa của giới cầm quyền chốn cung đình, lăng tẩm đến
những nét sinh hoạt văn hóa của ngƣời bình dân giản dị nhƣng đậm đà bản sắc…
từ những nét sinh hoạt dân gian sinh động nhƣ hát đối, hát đúm bên đồi chè, cha
40
con nhà Nho khai bút ngày mồng một Tết,… đến những bữa tiệc hào nhoáng cung
đình, hay việc vì thờ phụng một cái quan tài mà biết bao thiếu nữ phải chôn vùi
tuổi trẻ chốn Sơn Lăng…
Trƣớc hết, Nguyễn Triệu Luật đã viết nên những trang tiểu thuyết đầy tìm
tòi làm sống dậy cả một không gian văn hóa cung đình của quá khứ vài trăm năm
trƣớc. Tác giả tỏ ra rất am hiểu về các lễ tiết, các quy cách phức tạp chốn cung
đình cũng nhƣ những sinh hoạt mang tính hƣởng thụ xa hoa của tầng lớp thống trị
trong xã hội. Nói đến cung vua, phủ chúa thì ngƣời ta thƣờng hay nghĩ đến những
sự lộng lẫy, giàu có, độc nhất vô nhị. Sinh hoạt của vua chúa, đời sống trong cung
đình vốn ít đƣợc dân gian nhắc tới bởi ngày trƣớc, dân gian sợ húy kỵ nên ngày
nay cũng ít tài liệu nói về việc ấy. Sống trong cảnh trí lộng lẫy, xa hoa, cung vua
phủ Chúa tất nhiên mang nhiều nghi lễ, nhiều sinh hoạt cầu kỳ, khác lạ. Trong đó,
các lễ nghi và yến tiệc ngƣời xƣa thƣờng đặt ra thể hiện tính chất trang nghiêm,
long trọng vừa để mừng một dịp tiết lễ hay một sự kiện trọng đại nào đó, vừa để
ban thƣởng cho những hoàng thân quốc thích hay các quan có công giúp triều đình
phong kiến trong việc “bình hồ, trị quốc”.
Trong nhiều tiểu thuyết lịch sử, tác giả Nguyễn Triệu Luật dã dày công mô
tả hết sức chi tiết các lễ nghi, lễ tiết, các yến tiệc cung đình vô cùng xa hoa thời Lê
mạt. Ở Bà chúa Chè, tác giả đã tỉ mỉ miêu tả lại nghi lễ “Dâng hoa” (chƣơng III),
dành gần hai trang văn bản (trang 161 – 162 cuốn Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu
Luật, Nxb Khoa học xã hội, 2011) để miêu tả cụ thể các nguồn gốc, hình thức, quy
cách của nghi lễ này: “Trong nội phủ chúa Trịnh, về đời chúa Tĩnh Đô Vƣơng
Sâm, những vƣờn hoa chăm nom rất kỹ lƣỡng, vì chúa thích chơi hoa. Mỗi buổi
sáng, một ngƣời thị nữ phải dâng lên một lẵng hoa. Hoa dâng lên phải theo đúng
tiết. Cứ mƣời lăm ngày, qua một tiết, là phải đổi thức hoa.
Chúa muốn theo nhƣ 24 tiết hoa của Tàu. Sách Tàu chép rằng mỗi một năm,
từ tiết tiểu hàn đến tiết cốc vũ, gồm tám tiết, mỗi tiết chia ra làm ba thì hầu, mỗi thì
hầu năm hôm. Mỗi thì hầu có một trận gió riêng, mỗi trận gió ăn vào một thứ hoa.
Cứ gió ấy thổi đến thì hoa ấy nở, dƣờng nhƣ gió thủ tín cùng hoa tới để mở đài hoa
41
ra. Gió ấy gọi là hoa tín phong.
Tám tiết, 24 thì hầu và 24 ngọn hoa tín phong cùng 24 thứ hoa hứng gió mà
nở” [33, 161 - 162]. Nhƣ chúng ta đã biết, việc chơi hoa trong cung vua phủ chúa
là một thú chơi đã có từ rất lâu và việc các cung nữ, phi tần của nhà vua trồng hoa,
thƣởng thức hoa đã trở thành một nét sinh hoạt chốn hậu cung. Ngày xƣa, trong
mỗi dinh thự, phủ đệ của vua chúa, quan lại đều có một vƣờn hoa, thƣờng là trồng
các loại hoa quý hiếm nhƣ lan, mai, thủy tiên, hải đƣờng, … Tại nội cung, các loài
hoa lại càng quý hiếm, đa dạng hơn và đƣợc các cung nhân chăm sóc cẩn thận.
Mỗi năm họ đều trồng cả trăm thứ hoa đẹp để có dịp dâng lên nhà vua nhân các
ngày lễ tết. Các gia đình quý tộc, quan lại thời xƣa cũng thƣờng trồng hoa trong
nội phủ để thƣởng ngoạn, dùng cho các dịp lễ trong năm, hoặc để phô trƣơng, khoe
bày sự phú quý hay khí tiết của mình. Hoa là một chuẩn mực vẻ đẹp Á Đông. Khi
xƣa ngƣời con gái đẹp thƣờng đƣợc ví nhƣ hoa. Ví dụ nhƣ trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã nhiều lần ví vẻ đẹp của nàng Kiều nhƣ một “đóa trà mi”, nhƣ “hoa
đào”. Ngƣời quân tử khi xƣa cũng thƣờng đem hoa mai để so sánh với khí tiết
thanh cao của mình. Vƣờn hoa giữa cung đình, trăm thứ hoa muôn màu, muôn vẻ
chẳng khác nào tập hợp các vẻ đẹp trong thiên hạ. Lễ dâng hoa đƣợc đề cập ở đây
không chỉ mang ý nghĩa dâng lên vua chúa vẻ đẹp của của các loại hoa, mà còn là
cơ hội tranh giành sự chú ý nhỏ nhoi từ Chúa thƣợng. Trăm ngàn mĩ nữ trong cung
nhƣng chỉ thờ một chủ cũng nhƣ trăm thứ hoa trong vƣờn thƣợng uyển, đẹp nhƣng
sẽ là vô nghĩa, sẽ là uổng công chăm sóc nếu không đƣợc tiến dâng Chúa thƣợng.
Chƣơng III của Bà chúa Chè cũng mô tả việc cung nhân thi nhau trồng hoa, tìm
mọi cách ép cho hoa nở đúng theo “tiết”, đúng thời gian để dâng lên chúa nhƣng
cuối cùng trong biết bao ngƣời lại chỉ có một vị đƣợc dâng hoa:
“Cứ sắp đến một tiết dâng hoa thì viên Nội giám rút thăm lấy một thẻ. Rút
đúng thẻ ngƣời nào thì cung nữ nhà ngƣời ấy dâng hoa. Tiết dâng hoa đầu năm
Nhâm Thìn thăm gắp đã vào cung nguyên phi họ Dƣơng rồi; tiết dâng hoa năm
42
ngoái năm Quý Tỵ lại về phần cung bà tân Ngọc Khoan.
Năm nay, sao thăm gắp lại về Ngọc Khoan năm nữa. Hơn một năm nay, bà
đợi dịp mà lại qua mất. Công vun xới vƣờn hoa trong mấy năm, thế là uổng cả”
[33, tr. 163 - 164].
Cái thú vui chơi hoa còn đƣợc nhắc tới trong Bà chúa Chè trong cả việc xây
dựng “nhà riêng” cho Đặng Thị Huệ. Vì Đặng Thị mang tên một loài hoa đẹp và
cũng chính nàng đã dâng hoa huệ cho Chúa khi còn là cung nữ, Chúa yêu quý mà
xây tặng nàng Bội Lan Thất (hoa huệ có tên nữa là bội lan) “xung quanh bốn mặt
đều trồng toàn huệ. Đến mùa hoa nở, đứng trên Tả Xuyên Đƣờng cùng hậu đƣờng
trông sang toàn cảnh nhƣ một cái cung xây trên đám mây trắng. Chiều chiều mùa
hạ, vào khoảng giờ Thân giở đi, hƣơng hoa huệ thơm ngát cả một vùng. Nhà chúa
mỗi buổi chiều lui vào hậu đƣờng làm việc; hƣơng hoa xông đến lại nhắc ngài cái
ngƣời trùng tên với hoa”. Cũng vì việc hoa huệ là tên của vợ Chúa mà ngƣời trong
cung phải kiêng gọi chệch tên hoa thành “hoa tuệ” [33, tr.174].
Cái thú thƣởng hoa mai của giới quý tộc trong tác phẩm còn đƣợc nhắc đến
thông qua bữa tiệc vƣơng giả của gia đình nhà Chúa nhân rằm tháng tám. Tiệc này
không chỉ là thƣởng thức hoa mai mà còn là tiệc tổ chức nhân rằm tháng tám. Vẻ
hào nhoáng, sang trọng của bữa tiệc phần nào phô bày sự giàu có của vua chúa bấy
giờ: “Ngoài sân dƣới gốc cây mai già đã bày sẵn tiệc thƣởng nguyệt. Trên một cái
sập gỗ kim giao trắng bóng nhƣ ngà, bày đủ các thức hoa quả thì trân cùng những
món thực phẩm thƣởng nguyệt: ốc nhồi, gỏi cá. Xung quanh mâm, đặt ba chiếc
nệm điêu thử để chỗ sẵn ba ngƣời ngồi: chúa, Đặng Thị và vƣơng tử Cán” [33,
tr.189].
Bên cạnh sở thích hƣởng thụ những thứ quý hiếm, vua chúa cũng đặt ra
những nghi lễ cầu kỳ, xa hoa. Ví dụ nhƣ lễ “già năm” của Trịnh Khải đƣợc miêu tả
cuối chƣơng II của Bà chúa Chè. Chỉ một cái lễ đầy tháng cho cháu trai của Chúa
nhƣng đã khiến biết bao ngƣời trong cung phải tất bật chuẩn bị. Bữa tiệc diễn ra
hết sức trang trọng: “Từ hôm mồng mƣời, đoàn vũ nữ trong cung đã phải tập múa
lục dật, tập hát khúc trình tƣờng”, “Một hồi sau, chúa, nguyên phi, thế tử, Ngọc
43
Hoan cùng đến. Chúa và nguyên phi ngồi ở sập sơn then thếp vàng giữa nhà. Cạnh
sập ấy, bên tả một chiếc đoản kỷ, thế tử ngồi; bên hữu một chiếc đoản kỷ nữa,
Ngọc Hoan ngồi. Cạnh chiếc đoản kỷ ấy, một ngƣời cung nhân đứng bồng một đứa
trẻ. Đứa trẻ ấy đầu đội mũ màu vàng nhợt thêu một con rồng bằng kim tuyến, mình
mặc áo kim ngân đoạn màu huyền”, “Sau khi yên vị từng ngƣời phải ra chiếu bái
lạy Chúa Minh Đô” [33, tr.158 – 159]. Sinh động hơn cả là việc miêu tả lễ “thí
nhi” (thử trẻ): “Trên một chiếc sập to kê gian bên, bày đủ các thứ đồ chơi chế theo
hình đủ các vật dùng của tứ dân: bút, mực, giấy, nghiên, cày, bừa, búa, đục, bay,
kéo, v.v... Ngƣời cung nhân đặt Trịnh Tông lên sập” để Trịnh Tông tự lựa chọn vật
mình thích. Việc này mang ý nghĩa tƣợng trƣng cho sự nghiệp tƣơng lai mà đứa trẻ
sẽ chọn.
Thực tế, nghi lễ này mang nhiều ảnh hƣởng từ văn hóa dân gian của ngƣời
Việt. Theo phong tục nƣớc ta, đứa bé sinh đƣợc tròn một tháng thì phải cúng đầy
tháng cho con. Lễ mừng con đầy tháng cũng cúng mụ nhƣ khi đầy cữ, kết hợp
cúng thổ công và cúng gia tiên. Trong dịp này, nhiều gia đình đã mời họ hàng, bạn
bè tới ăn cỗ để mừng cho đứa trẻ đã qua thời kỳ trứng nƣớc đƣợc một tháng tuổi.
Trong sách Bắc bộ lục có nói: Tục Lĩnh Nam nhà giàu đẻ con đƣợc ba ngày, hoặc
đầy tháng, thì tắm cho con, làm một bữa tiệc gọi là "đoàn du phạn" (nghĩa là bữa
cơm tròn trặn trơn tru). Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn viết: … Đến hôm đầy
tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi, đều có làm cỗ cúng gia tiên, bầy tiệc
ăn mừng. Bà con, ngƣời quen thuộc, dùng thơ, câu đối, đồ chơi, đồ quần áo trẻ để
mừng nhau. Mà nhất là tiệc một trăm ngày là tiệc đầy tuổi tôi to hơn cả [dẫn theo
Tài liệu 6, trang 11-12]. Ngoài việc cúng lễ cầu mong cho bé hay ăn mau lớn, luôn
khỏe mạnh, trƣớc kia còn có tục lệ thử đứa trẻ. Hôm ấy, bé đƣợc tắm gội sạch sẽ
mặc quần áo mới. Nếu là con trai thì bày cung tên, bút giấy, cƣa đục..., con gái thì
bày kim chỉ, dao kéo, thúng mẹt, rổ rá. Sau lễ cúng, ngƣời lớn đặt đứa trẻ ngồi
trƣớc mọi đồ vật để xem nó thích thứ gì. Ngƣời Trung Hoa gọi tục lệ này là ''Thí
nhi'' nghĩa là ''thử trẻ". Nếu đứa bé trai nhặt cây kiếm hay cái cung có thể đoán sau
44
này nó sẽ theo nghề võ. Nhặt bút giấy sẽ theo đƣờng văn chƣơng. Nhặt cƣa đục sau
sẽ thành thợ mộc. Còn bé gái nếu chọn kim chỉ dao kéo sau sẽ có tài nội trợ vá
may, nếu chọn rổ rá, thúng mẹt chắc lớn lên sẽ đi buôn bán v.v...
Trong tác phẩm Loạn kiêu binh, chƣơng IV có nhắc tới cả việc thƣởng yến
cho dân chúng của vua Lê. Trong chƣơng này, tác giả đã cho chúng ta thấy đƣợc
một nét sinh hoạt cung đình nhằm thể hiện sự giàu có và hào phóng của giai cấp
thống trị: thƣờng thì “Vua ban cho thần dân ăn uống gọi là ban yến (tứ yến). Theo
sự nhận biết của phần đông dân gian thì vua đã ban yến cho thần dân, thức ăn phải
là sơn hào hải vị, da tây vây cá, tóm lại là thức ăn “không phàm thƣờng””. Tuy
nhiên, tác giả cũng đem việc đó để gợi nhắc cái tình thế “tƣợng gỗ làm vì” của vua
Lê, nhà Lê làm vua nhƣng thực quyền lại trong tay nhà Trịnh: “Gỏi cá trấn, cháo
ám cá quả, tuy là món ngon, tuy là món ăn nhà vua thích dùng, tuy là món ăn thì
trân, nhƣng nó có vẻ “phàm thƣờng” quá” [33, 312].
Cùng với những nét sinh hoạt kể trên, trong các tác phẩm nhiều lần nhắc đến
sự nghiêm ngặt của cung quy. Tẩm cung luôn luôn canh phòng cẩn mật, đến độ
Trịnh Khải là con chúa (trong chƣơng đầu của Chúa Trịnh Khải) muốn vào thăm
Chúa Trịnh Sâm còn bị ngăn lại, đành uất ức ra về. Các chi tiết miêu tả những việc
làm thƣờng ngày của các vị Chúa đều cho thấy rõ nét quy của cung đình. Ví dụ
nhƣ Chúa phê duyệt tấu sớ nhất định không đƣợc làm phiền, nếu không có khi đầu
lìa khỏi cổ (chƣơng III của Bà chúa Chè), ngay cả việc di chuyển của Chúa trong
cung cũng phải có thị nữ, thái giám theo hầu, cạnh Chúa luôn có Thái giám tâm
phúc kề cận, việc lựa chọn các bà hoàng hầu Chúa cũng phải thông qua Thái giám.
Bên cạnh đó, các tác phẩm Bà chúa Chè, Hòm đựng người còn vẽ ra một
bức tranh sinh động miêu tả số phận, đời sống, sinh hoạt gắn với những cung nữ
trong phủ Chúa.
Từ xa xƣa, ở các triều đại phong kiến Việt Nam mỗi vị vua chúa đều chứa
trong hậu cung của mình vô số mĩ nữ. Số lƣợng các cô gái có thể đến cả trăm, cả
ngàn ngƣời nhƣng đều phải giữ mình trong sạch và chỉ đƣợc có quan hệ tình cảm
với một đấng quân vƣơng duy nhất. Nhắc tới chốn cung vua, phủ chúa nhiều ngƣời
45
lập tức liên tƣởng đến hậu cung biết bao nhiêu cung tần mĩ nữ, cả đời không đƣợc
rời khỏi cấm cung. Vì thế sinh hoạt chốn cung đình không thể không nhắc tới đời
sống của họ.
Trong chƣơng II tác phẩm Bà chúa Chè, tác giả miêu tả trong các bà vợ, mỗi
đêm Chúa Trịnh Sâm cho truyền một ngƣời vào hầu hạ mình chuyện chăn gối.
Chúa sẽ truyền thẻ có ghi tên ngƣời đƣợc vào hầu rồi chuyển tới cho Thái giám
Khê Trung hầu, sau đó Khê Trung hầu sẽ sắp xếp mang ngƣời con gái đó vào nội
đƣờng chờ sẵn. Nhƣng đôi khi vì quá say đắm sắc đẹp của bà vợ này mà Chúa bỏ
bẵng bà kia. Đó cũng là lẽ thƣờng tình giữa hậu cung bao nhiêu ngƣời đẹp. Vì thế
mới có chuyện Thái giám Khê Trung hầu vì muốn giúp đỡ cho Ngọc Hoan vốn đã
bị ghẻ lạnh từ lâu đƣợc có cơ hội hầu hạ Chúa. Vị thái giám này đã cố ý nghe
nhầm tên của Ngọc Khoan, ngƣời đang đƣợc Chúa hết mực ân sủng thành Ngọc
Hoan để đƣa nàng vào nội điện. May mắn là sau đó, mặc dù không đƣợc ngó
ngàng tới nữa nhƣng Ngọc Hoan đã mang thai, sinh ra vƣơng tử Trịnh Tông sau
này.
Qua hồi ức của nhân vật Thái giám Khê Trung hầu trong chƣơng V tác
phẩm Loạn kiêu binh ta biết thêm nhiều câu chuyện chốn khuê phòng của nhà vua
chúa đƣợc chính ông ghi chép lại. Tất cả mọi chuyện từ bổng lộc cho lũ nội thần
đến sổ biên tên các cung tần, mĩ nữ trong cung các đời Chúa Trịnh đều đƣợc ghi
chép lại. Đến cả cái việc “nhảm nhí trong khuê phòng ở nhà vua chúa” mỗi lần
trong mấy ngàn lần chúa sủng hạnh các cung nhân (trong suốt ba mƣơi năm làm
Thái giám của Khê Trung hầu) cũng đƣợc ghi chép, có thẻ ghi lại về sau. Thậm chí
để cho việc trong nội cung thêm sinh động tác giả còn liên hệ đến việc trong Hán
chế về mục kén hoàng hậu ngƣời ta còn bắt phân biệt màu sắc của bộ phận sinh
dục nữ “Đƣợc kén làm hoàng hậu, ra phải vạch trƣớc ra cho mĩ quan họ xem xem
đỏ nhạt hay đỏ thẫm” [33, 356].
Các cung nữ tuy là thờ chung một chúa mà sống trong cung cấm nhƣng đến
khi vị chúa đó băng hà rồi các cung nữ vẫn không đƣợc thả về. Thậm chí họ bị đày
đi Sơn lăng, chôn vùi tuổi trẻ trong một nấm mồ trắng toát, lạnh ngắt để hƣơng
46
khói thờ phụng cái quan tài của vị vua chúa đó. Trong tác phẩm Hòm đựng người,
Nguyễn Triệu Luật đã miêu tả sinh động sinh hoạt của các cung nữ trong Sơn lăng.
Những cung nữ này bị đày đến đây, bị canh gác quản thúc nghiêm ngặt. Hàng ngày
họ phải hƣơng khói, trông nom linh vị của vua chúa. So với thời còn sống trong
cung cấm, ít nhất còn nuôi tia hi vọng nhỏ là đƣợc gặp mặt chúa, thì cuộc sống
trong sơn lăng quả là đen tối, u ám. Sinh hoạt hàng ngày của họ chỉ gói gọn trong
việc cặm cụi chăm sóc cho một ngƣời đã chết và than vãn, khóc lóc với nhau về
kiếp đời bạc bẽo của mình: “Mỗi ngày hai lần sớm tối, bọn cung nhân áo trắng
theo sau ông Tông Nhân Lệnh, từ điện Kiền Long đến đền thờ ở lăng làm lễ chiêu
tịch”, “Trừ những lễ nghi phiền phức ra, bọn cung nhân không phải làm gì cả.
Những lúc nhàn rỗi, hoặc ngồi ở hiên Nam điện Kiền Long, hoặc đi rong trong
lăng, dƣới những bóng thông reo, ven những bờ ao đài tạ, câu chuyện họ nói với
nhau toàn là những lời buồn bực uất ức oán vọng, than vãn” [33, 24]. Chính Đặng
Thị Huệ trong Bà chúa Chè sau khi bị đày tới Sơn lăng dƣờng nhƣ cũng hóa điên,
khi khóc khi cƣời, cuối cùng tự kết liễu cuộc đời trƣớc bàn thờ của Chúa Tĩnh Đô
(chƣơng cuối của Bà chúa Chè).
Có thể nói, những sinh hoạt trong chốn cung đình mang qua tiểu thuyết lịch
sử của Nguyễn Triệu Luật hiện lên hết sức chân thực, sinh động. Việc này có đƣợc
là do sự đầu tƣ tìm hiểu nghiên cứu các dữ liệu lịch sử và văn hóa trong nhiều năm
của tác giả. Trong các tiểu thuyết của mình, Nguyễn Triệu Luật dành đa số dung
lƣợng để miêu tả không gian cung đình với những biến động sóng gió của nó. Song
không phải vì thế mà các tác phẩm của ông thiếu đi bóng dáng của không gian văn
hóa chốn dân gian.
Không gian văn hóa làng xã trên nhiều miền quê miền Bắc Việt Nam thời
Lê mạt hiện lên trong văn chƣơng Nguyễn Triệu Luật hết sức chân thực. Những
sinh hoạt đời thƣờng của ngƣời nông dân chân lấm tay bùn cũng đƣợc tác giả nhắc
tới một cách ƣu ái. Ví nhƣ vẻ đẹp của buổi hái chè bên sƣờn đồi cùng nhau cất lên
tiếng hát đúm, hát quan họ đối đáp của những cô gái hái chè tổng Ném, huyện Tiên
Du hiện lên hết sức nên thơ trong tác phẩm Bà chúa Chè. Sinh hoạt lao động sản
47
xuất của các cô gái đƣợc miêu tả nhƣ một bức tranh màu sắc: “Các cô gái hái chè
cô nào cô ấy thi nhau mà ăn mặc để khoe màu với Chúa. Trông mỗi ngƣời con gái
tựa nhƣ cái nụ hoa hàm tiếu đứng dƣới gốc chè. Chiếc áo đổi vai, trên bằng lụa
mầu nâu, dƣới bằng the thâm khép kín cái ngực, để lấp ló khi ẩn, khi hiện chiếc
yếm nhiễu đại hồng. Phần the thâm dƣới áo, lẫn với màu thâm chiếc váy sồi, trông
tựa nhƣ cái cuống hoa. Phần lụa hung hung nửa trên áo, phản màu với phần dƣới,
trông nhƣ cái đài hoa đỡ lấy những cánh hoa: còn lấp ló bên trong. Cái nhị hoa
cũng còn đƣơng phong lại bằng một chiếc khăn vuông trùm mỏ quạ, để lộ những
khuôn mặt tròn tròn đo đỏ tƣơi tƣơi xinh xinh”, “Hơn trăm đoá hoa quê, dƣới hơn
trăm gốc chè, giọng hát đúm lanh lảnh vang khắp ngọn đồi khe núi” [33, 140]. Hay
trong buổi gánh nƣớc của cƣ dân làng Văn Giáp (Loạn kiêu binh, chƣơng V),
ngƣời đọc cũng bắt gặp hình ảnh vui tƣơi vừa thả gầu, gánh nƣớc vừa buông câu
hát: “Xã Tèo cƣời ngặt nghẽo, vừa đặt gánh nƣớc lên vai. Bƣớc chân đi miệng cất
tiếng hát” [33, 346].
Trong không gian văn hóa làng xã đó, không thể không nhắc tới cái thói
quen “ngồi lê đôi mách”, tò mò chuyện ngƣời ta của dân làng. Để rồi sau đó mỗi
khi ngồi dƣới gốc đa nghỉ ngơi, hay mỗi khi lao động sản xuất họ lại cùng nhau
mang những chuyện dù cỏn con chẳng đáng gì ấy ra mà bàn tán. Nói nhƣ Nguyễn
Triệu Luật, việc tán chuyện gẫu đó cũng là một thứ “văn hóa”: “Ở ta, mỗi làng nhƣ
cái ao tù lặng nƣớc. Một hòn sỏi con, một hạt cát nhỏ, ném vào cũng đủ làm cho ao
gợn sóng. Làn sóng dẫu nhỏ, nhƣng cũng rào rạt ra bốn mặt, vỗ khẽ vào bờ, rồi lại
lăn tăn gợn ra cho đến chỗ cũ, rồi từ đó lại gợn đi bốn phía, mãi mãi mới dứt hẳn.
Sau khi ấy ao tù lại phẳng lặng nhƣ xƣa. Một việc gì mới xảy ra, từ việc nhà cu
Tèo đổ giàn mƣớp đến nhà ông cai Tẹo thua kiện, là đƣợc ngƣời làng bàn ra tán
vào” [33, 344]. Thế cho nên khi ở Thanh Hóa, ngƣời nhà của Ấu Mai dọn ra ở để
tiện chuẩn bị cho ngày đƣợc gặp nàng cũng bị ngƣời dân xung quanh đồn đại, to
nhỏ mãi (Hòm đựng người) hay gia quyến nhà đại quan Nguyễn Lệ đến thôn Văn
Giáp cũng trở thành việc lý thú để bàn ra tán vào của ngƣời dân thôn Văn Giáp
48
(Loạn kiêu binh).
Nhờ những sinh hoạt văn hóa cả chốn cung đình lẫn làng quê mà ngƣời đọc
có thể hình dung đƣợc rõ nét nhất hình ảnh chung về văn hóa xã hội của cả một
thời kỳ lịch sử trong quá khứ. Qua những hình dung đó ta thấy đƣợc một không
gian văn hóa Bắc Việt thời Lê Mạt hiện lên sinh động, chi tiết. Điều đặc biệt là khi
viết về các sinh hoạt văn hóa trong các không gian văn hóa này, Nguyễn Triệu
Luật không chỉ miêu tả những cái tốt đẹp, ông còn miêu tả những nét văn hóa khác
nhƣ cung quy rƣờm rà, các hủ tục tồn tại trong văn hóa, chốn cung đình cũng đƣợc
miêu tả nhƣ một nơi đầy rẫy sự tranh giành quyền lực của vua chúa, tranh giành vị
thế của các cung nhân hay thói nịnh thần của quan lại, sự u mê, yếu kém, chơi bời
cầu kỳ, tốn kém của vua chúa, cũng nhƣ thói văn hóa ngồi lê đôi mách của quần
chúng... thậm chí đôi khi chúng còn gây ấn tƣợng hơn cả những nét tốt đẹp. Lý giải
việc đó, Nguyễn Triệu Luật từng nói: “Dầu yêu dân tộc mình đến bao nhiêu thì tôi
cũng không tán thành những ai chỉ muốn nhìn thấy những cái hay, cái đẹp của dân
tộc mình. Đừng ru ngủ nhau bằng những bản “ba lát” ngọt ngào. Tốt đẹp cả thì đã
không nhƣ thế này. Tôi có nói ra những sự thật ấy là để chúng ta tỉnh táo nhận ra
trách nhiệm của mình, nhất là với những ngƣời đƣợc gọi là có học, là kẻ sĩ nhƣ
chúng ta” [19, tr.33]. Nhƣ vậy với dụng ý phản ánh sự thực một cách chân thực
nhất có thể và tìm về lịch sử để mang đến cho ngƣời đọc hôm nay những bài học
lịch sử đắt giá, tác giả đã xây dựng nên những sinh hoạt văn hóa sinh động, nhiều
màu sắc, đa chiều của một thời kỳ lịch sử cũng u ám, đen tối chẳng kém gì thời kỳ
mà tác giả đang sống. Qua đó tác giả muốn thể hiện thái độ vừa yêu quý, trân trọng
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, vừa muốn chỉ ra và loại bỏ những nét văn hóa còn
chƣa tốt đẹp, thức tỉnh những ngƣời đọc hôm nay từ bài học khi xƣa soi lại chính
mình bây giờ, tự nhận ra trách nhiệm của mình với văn hóa và lịch sử nƣớc nhà.
* Các kiến trúc văn hóa
Trong các tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Triệu Luật còn hay đƣa vào
những đoạn miêu tả các công trình kiến trúc dinh thự, lăng tẩm, chùa chiền tạo nên
những trang viết thấm đƣợm bản sắc. Kiến trúc của ngƣời Việt luôn hòa nhập vào
49
thiên nhiên để trở thành một tổng thể, một tổng thể thống nhất, êm ái, nhẹ nhàng,
và đầy chất trữ tình [5]. Căn nhà ngƣời Việt lại tạo ra một hình thức kiến trúc mở
để phù hợp với điều kiện môi trƣờng nóng ẩm. Đặc trƣng của nó là sự cao ráo,
thông thoáng, tiếp cận với thiên nhiên và không gian bên ngoài đƣợc sử dụng rất
nhiều trong sinh hoạt, tƣờng thƣờng mỏng, nhiều cửa sổ và những yếu tố nhƣ cây
xanh, mặt nƣớc là những yếu tố không thể thiếu đƣợc trong kiến trúc cổ truyền
Việt Nam [52]. Đối với những kiến trúc lớn, khu chính của quần thể đƣợc lấy làm
trung tâm, phía trƣớc mặt có hồ nƣớc, phía sau dựa vào núi. Điều này ta cũng thấy
rất rõ ở nhiều chùa hay những ngôi nhà Bắc Bộ xƣa, phía trƣớc nhà hay chùa luôn
có một chiếc ao nhỏ nhƣ để hứng lấy ánh sáng của trời đất. Ở chùa thƣờng có thêm
những hòn non bộ để tạo nên sự cân đối hài hoà giữa con ngƣời và vũ trụ.
Chƣơng đầu của tác phẩm Hòm đựng người dẫn dắt ngƣời đọc thƣởng
ngoạn cách bài trí thanh tao, trang nhã trong nhà riêng của vị quan về hƣu Đặng Tri
phủ. Quang cảnh đƣợc miêu tả vừa cổ kính, rêu phong vừa thanh đạm, nên thơ. Từ
“tiến sĩ môn” bị rấp phải đi đƣờng vòng đã mở ra một cảnh trí tƣơi đẹp: đƣờng bọc
đào liễu san sát, trong nhà hồ nƣớc rộng rãi, xung quanh nhiều loài cây đẹp, ở giữa
hồ có hai hòn giả sơn cao đến 3 trƣợng, trƣớc cửa dán đôi câu đối:
“Hà tấp nhập sơn, nghệ cúc, tài lan, tự gia biệt thú.
Túng nhiên xuất hộ, tá thư, cô tửu, diệc ngã sinh nhai”
(Chẳng cứ đi đâu, sửa cúc, vun lan, ở nhà riêng thú; Có khi ra cửa, đeo bầu,
mƣợn sách, thôi cũng qua ngày) [33, 15]. Cũng mang bài trí thanh tao, phủ đệ của
gia đình Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Lệ trong Loạn kiêu binh đƣợc miêu tả bề thế mà
tinh tế với những nét đẹp theo lối kiến trúc phƣơng Đông có nhiều khu nhà riêng,
lối vào cổng có trồng hàng cây thủy tùng, đi một đoạn có ao sen và một cái nhà bát
giác để xem sách. Cổng xây kiểu đại khoa, đôi bên có cột đồng trụ nề đôi câu đối
tự tán dƣơng, Bên tƣờng trồng nhiều tử vi, hồng vi, ngân vi rủ cả ra ngoài tƣờng
nhà [33, 316].
Kiến trúc tôn giáo nhƣ Tháp chuông chùa Thiên Bảo của Thăng Long xƣa
cũng đƣợc tác giả miêu tả cụ thể trong chƣơng VIII, Hòm đựng người. Trong kiến
50
trúc đền chùa luôn coi trọng việc xây dựng tháp chuông bởi theo quan niệm Phật
giáo: Chuông không biết bắt đầu có từ bao giờ, nhƣng việc dùng chuông thì trong
các kinh truyện thƣờng có nhắc đến. Kinh Tăng Nhất A Hàm có chép: “Mỗi khi
tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo đƣợc tạm thời dừng
nghỉ, chúng sanh chịu hình phạt đƣợc tạm thời an vui” [39]. Tháp chuông chùa từ
xƣa đã trở thành một biểu tƣợng của kiến trúc Phật giáo, không gian Phật giáo.
Tháp chuông tƣợng trƣng cho đất Phật, cho vùng đất đƣợc che chở bởi sức mạnh
tâm linh chống lại điều ác, điều xấu. Chuông chùa Thiên bảo đƣợc nhắc tới trong
Hòm đựng người đƣợc miêu tả là một tháp chuông thiêng, thời Lê Thái Tổ có
nhiều ngƣời đến xin thỉnh nguyện. Đến thời Lê mạt quả chuông đã bị rời đi, gác
chuông bỏ hoang đã rêu mốc cả nhƣng vẫn đƣợc cho là rất linh thiêng, linh thiêng
tới độ mà ngƣời ta đâm sợ không dám tới gần nữa. Tuy vậy ở chính nơi linh thiêng
mà ác quỷ vốn không thể tới gần ấy lại chứng kiến cái chết bi thảm của hai cung
nữ Ấu Mai và Tố Hà, những ngƣời phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến,
những ngƣời sống mà bị coi nhƣ ma quỷ trong xã hội ấy. Chính điều này đã tạo
nên điểm nhấn cho tác phẩm Hòm đựng người, chỉ ra cho chúng ta về một tình
trạng xã hội u ám, thảm khốc của xã hội khi cái đẹp và khát khao vƣơn tới hạnh
phúc không tìm đƣợc chỗ đứng.
Ngoài ra, trong các tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Triệu Luật cũng
từng nhiều lần đề cập tới các kiến trúc uy nghiêm của cung đình, lăng tẩm nhà Lê
Trịnh. Nơi vua chúa ở hiện lên nguy nga, bề thế với nhiều tòa kiến trúc khác nhau.
Đến nơi ăn chốn ở cho vợ chúa cũng đƣợc miêu tả hoa lệ, lộng lẫy nhƣ đọan miêu
tả Bội Lan thất, nơi ở của Đặng Thị Huệ, bốn bề ngào ngạt hƣơng hoa huệ (chƣơng
IV, Bà chúa Chè ). Lăng tẩm của các vua chúa đƣợc miêu tả với không khí âm u,
lạnh lẽo, kín cổng cao tƣờng, bất xuất bất nhập, nhƣ nấm mồ lớn chôn tuổi thanh
xuân của các cung nữ. Đại diện cho công lý của vƣơng triều là Bộ Hình (chuyên
giải quyết các vụ án lớn) cũng đƣợc nhắc tới với lối kiến trúc uy nghiêm đến ghê
rợn: “Ngoài cổng Bộ Hình hai lá cờ đỏ trên thêu hai chữ: "Tĩnh Túc" cắm hai bên
rồi từ cổng đi thẳng vào công đƣờng, đôi bên cũng cắm hai hàng cờ ngũ hành bát
51
quái. Xen lẫn với cờ, hai hàng lính mặc áo nỉ đỏ cầm mã tấu, roi, quất, hèo hoa,
thiết lĩnh làm tăng thêm vẻ nghiêm trọng một chốn công môn. Sắc đỏ thƣờng vẫn
là sắc vui mừng mà để vào nơi này trông có vẻ dữ tợn ghê gớm, tƣởng nhƣ sắp có
việc máu chảy thịt rơi”.
Những kiến trúc văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật đa
phần đều đƣợc miêu tả tỉ mỉ, đặc biệt là các kiến trúc phủ đệ của các bậc đại Nho,
những ngƣời nổi tiếng nhƣ những vị quan tốt, những bậc quân tử,... đƣợc miêu tả
hết sức trân trọng với phong thái tao nhã, hài hòa với thiên nhiên, phần nào thể
hiện đƣợc chính phẩm cách, đạo đức, con ngƣời của họ.
* Không gian văn hóa cổ xưa trong mối liên tưởng từ không gian văn hóa
của hiện tại.
Trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Triệu Luật rất hay
sử dụng phƣơng pháp từ một bối cảnh của hiện tại gợi nhắc, liên tƣởng bối cảnh
đó, địa điểm đó từng nhƣ thế nào trong quá khứ và ngƣợc lại. Trong mối liên tƣởng
đó thƣờng xuất hiện một mâu thuẫn: giữa sự huy hoàng, nổi tiếng của các địa danh
xƣa với sự mất mát đi, thiếu vắng đi ở chính những nơi đó ở thời điểm hiện tại.
Hình ảnh tháp chuông chùa Thiên Bảo linh thiêng khi xƣa nay chỉ còn để lại
dấu tích duy nhất là một con ngõ phố Khâm Thiên đi vào chùa Liên Hoa [33, 116].
Trong Chúa Trịnh Khải tác giả cũng dùng một vài con đƣờng ở hiện tại nhắc ngƣời
ta nhớ về một không gian cho trò chơi dân gian, khu “trƣờng đấu gà” hiện đã
không còn: “Cách đây hai mƣơi năm ba mƣơi năm, quãng đất giữa những con
đƣờng Phổ Nhi (Rue Colomb), con đƣờng Rollandes, sau phố Hàng Lọng
(Route Mandarine) có một cái hồ tục gọi là Hồ Tây Cú. Phía tây và phía bắc hồ,
có hai khu đất hoang, không ra vƣờn, không ra bãi cỏ, đất mà chữ Pháp có tiếng
gọi rất đúng là terrain vague (đất vu vơ, không nhất định gọi là gì đƣợc). Hồi
hai mƣơi năm năm trƣớc đây, trứ giả còn là một thằng bé lên mƣời tuổi, đã từng
chơi đùa ở đó. Ở chỗ đầu đƣờng Rollandes, chỗ đỗ ô tô đi Nam Định, Hà Đông,
có một cái ngõ đi thông ra phố Hàng Lọng… Ban ngày - nhất là về sáng và
chiều - trẻ con ở trong hai ngõ chật hẹp đổ dồn cả ra quãng đất hoang kia chơi.
52
Ở khoảng đất phía tây cái hồ, chỗ hai ngõ nối nhau, có khu đất gọi là "trƣờng
đấu gà". Cứ mỗi sáng chiều, phƣờng gà chọi đem gà đến đó, đọ nhau, kháo
nhau, và đấu thử” [33, 216]. Trong Loạn kiêu binh, dƣờng nhƣ phố Hàng Bồ vốn
rất bình thƣờng của hiện tại lại có ý nghĩa hoàn toàn khác vào thời Lê Trịnh. Phố
này xƣa kia đƣợc mệnh danh là “phố Quan lớn” “san sát những phủ đệ, biệt thự
riêng của các vị đại thần, nhất là các vị ngƣời các trấn” [33, 314].
Hình dung các không gian văn hóa cổ xƣa có thêm sự liên tƣởng so sánh với
hiện tại vô hình trung đã mang đến cho tác phẩm những ý nghĩa mới. Từ việc nhìn
nhận những giá trị văn hóa tích cực, và tốt đẹp xƣa kia nay đã không còn tác giả
nhƣ gợi lên một nỗi niềm nhớ tiếc quá khứ tốt đẹp, tự hào với những giá trị văn
hóa khi xƣa của cha ông. Lấy bối cảnh lịch sử văn hóa cả quá khứ làm nội dung
chính, việc liên hệ rộng tới hình bóng còn sót lại của chúng ở hiện tại dễ làm ngƣời
đọc cảm thấy gần gũi hơn, dễ đón nhận hơn bài học của quá khứ và đem bài học
quá khứ soi sáng những vấn đề hiện tại: “đối thoại với những vấn đề lớn của con
ngƣời hiện tại thông qua bài học lịch sử” [1].
2.2.2. Con ngƣời trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật –
những chủ thể văn hóa
Xét trên toàn bộ quá trình phát triển của xã hội, trong mối quan hệ với văn
hóa, con ngƣời tồn tại hai tƣ cách: vừa là chủ thể, vừa là đối tƣợng (con ngƣời
hƣởng những thành quả của sự phát triển). Theo góc nhìn văn hóa, có thể thấy rằng
con ngƣời sáng tạo ra văn hóa, mặt khác chính con ngƣời là đối tƣợng của văn hóa.
Con ngƣời hiện diện với tƣ cách chủ thể sáng tạo của văn hóa vừa là khách thể văn
hóa. Hình tƣợng con ngƣời chúng tôi đề cập đến, con ngƣời trong tiểu thuyết lịch
sử của Nguyễn Triệu Luật, không phải đƣợc nhìn nhận, đánh giá qua ánh sáng của
thi pháp học mà là kiểu nhân vật đƣợc nhìn nhận trên bình diện lý thuyết và lịch sử
văn học. Dƣới góc nhìn văn hóa, cái đáng lƣu ý nhất khi xem xét hình tƣợng nhân
vật dƣới góc nhìn văn hóa là xem họ đã kết tinh những đặc sắc gì của không gian
53
văn hóa họ đƣợc sinh ra.
2.2.2.1. Hình tƣợng vua chúa
Ở Nguyễn Triệu Luật hình tƣợng vua chúa là một trong những hình tƣợng
đƣợc ông quan tâm, đầu tƣ sáng tạo nhất. Xét trong bộ ba tiểu thuyết Bà chúa Chè
– Loạn kiêu binh và Chúa Trịnh Khải, ta có thể thấy loại hình này xuất hiện với
một tần số lớn.
Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đã
chịu ảnh hƣởng rất lớn từ văn hóa cũng nhƣ tƣ tƣởng của nhà nƣớc Trung Quốc.
Một trong số những ảnh hƣởng đó là ảnh hƣởng về Nho giáo. Vì vậy trong nhà
nƣớc phong kiến Việt Nam, theo quan điểm của Nho giáo thì vua đƣợc coi là
Thiên tử (con của trời) hay còn gọi là thuyết “Thiên mệnh” do Khổng Tử sáng lập
thì địa vị của vua trong thời kỳ phong kiến đƣợc hiểu nhƣ sau: Theo quan niệm của
Nho giáo thì Thƣợng đế đƣợc coi là trời, và vua là ngƣời đại diện cho Thƣợng đế
hay chính là đại diện cho trời xuống cai trị mọi mặt đời sống của dân từ kinh tế,
chính trị, văn hóa đến các lĩnh vực khác của đời sống hay nói cách khái quát là
“thay trời hành đạo”và đồng thời là ngƣời đại diện cho dân trƣớc Thƣợng đế. Mọi
ý chỉ mệnh lệnh của nhà vua đều tuân theo“mệnh trời” nên trong các chiếu chỉ mà
ngƣời truyền đi thƣờng có “phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết… Vì vậy
mà thần dân phải tuyệt đối thực hiện và phục tùng ý chỉ của vua. Ngoài ra vua còn
lập đàn tế trời cầu cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, ngƣời dân có một
cuộc sống ấm no, thái bình. Địa vị của vua đã bao trùm lên toàn bộ đất nƣớc,
thuyết “Thiên mệnh” đặt ra cho vua một trách nhiệm lớn lao phải chăm lo, yêu
thƣơng thần dân của mình, lấy dân làm gốc. Đây là cơ sở vững chắc cho nhà nƣớc
phong kiến đề cao quyền lực của nhà vua. Theo Trần Ngọc Vƣơng trong cuốn Văn
học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung: “Trong lịch sử các chế độ chuyên chế
phƣơng Đông, ngôi vua đã đƣợc khẳng định là tất yếu phải tồn tại, và một khi đã
tồn tại là tối thƣợng, bất khả tƣ nghị. Ngôi vua là một cƣơng vị đặc biệt, loại hình
nhân cách hoàng đế là một loại hình nhân cách đặc biệt, có tác động vô cùng to lớn
54
chi phối lịch sử hình thành và phát triển các loại hình nhân cách khác nhau trong
xã hội phƣơng Đông” [48, tr.53]. Vì thế theo lẽ thƣờng tình, hình tƣợng này phải
đƣợc gắn với sự uy nghiêm, với quyền lực tối thƣợng trong xã hội
Ở các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật ta không thể không xem xét
tới cái không gian văn hóa lịch sử mà các ông vua, vị chúa đó đƣợc sản sinh ra. Đó
là thời kỳ cuối của nhà Lê trung hƣng, khi mà các vị vua nhà Lê thực chất là chỉ
nhƣ những con bù nhìn trên bàn cờ chính trị. Các chúa Trịnh mới là những ngƣời
truyền đời nhau nắm trong tay thực quyền nhƣng chúa Trịnh lại không phải là vua,
trƣớc thiên hạ chúa vẫn phải ra bộ nhún nhƣờng, cung kính với đức vua. Điều này
đã làm nảy sinh mâu thuẫn lớn đối với cái gọi là nắm trong tay mọi quyền lực của
đấng quân chủ. Nhà vua ngƣời giữ thiên mệnh lại không thể điều hành luật pháp,
quân đội. Nhà Chúa kẻ nắm trong tay quyền lực lại không thể tự mình đứng ra làm
chủ toàn thiên hạ, phải cúi đầu thi lễ trƣớc vị vua do mình tự đặt ra.
Nhân vật Chúa Trịnh Sâm trong Bà chúa Chè đƣợc xây dựng là một hình
tƣợng đấng cầm quyền sáng suốt, tài ba. Sự tài ba đó bộc phát ngay từ thời trẻ đã
đƣợc nhận định là giỏi giang, là “thiếu niên anh tuấn” [33, 290]. Khi chƣa tại
thƣợng ngôi chúa, Trịnh Sâm là một thế tử vừa đa tình lại vừa rất mực tài ba, đến
Thái giám Khê Trung hầu trong suy nghĩ cũng phải khen ngợi “Mình cũng chịu cái
tài ông thế tử này! Một đêm không có đàn bà là không chịu đƣợc; thế mà mê man
đến đâu, ông cũng không bỏ công việc hằng ngày. Ngƣời ta cứ nói gái đẹp làm
nghiêng thành đổ nƣớc, nhƣng có lẽ nghiêng hay đổ cũng là vì ngƣời đàn ông. Mê
gái mà vẫn không quên việc, ông thế tử này là một” [33, 150]. Trịnh Sâm say đắm
nữ sắc, yêu vì Ngọc Khoan, Đặng Thị Huệ nhƣng ban ngày ta lại luôn bắt gặp hình
ảnh băn khoăn việc nƣớc của ông. Trong suốt chƣơng III của Bà chúa Chè, chúa
luôn băn khoăn việc chiếm lấy Thuận Quảng, nung nấu quyết tâm chiếm lấy Phú
Xuân. Bản thân Chúa Trịnh Sâm trong mắt các đại thần luôn là một đấng vua sáng
suốt khiến bao nhiêu trung thần của triều đình nhƣ Việp Quận công Ngũ Hoàng
Phúc, Hành Tham tụng Nguyễn Nghiễm một lòng thần phục, trung thành, quyết
55
đem tính mạng ra để lập chiến công “đền ơn chúa thƣợng” [33, 173].
Bên cạnh là một vị chúa, một ngƣời cầm quyền sáng suốt, chúa vẫn có lúc bị
lòng ghen ghét, ham muốn quyền lực và nữ sắc che mờ mắt. Trong Loạn kiêu binh,
chƣơng II có miêu tả thuở niên thiếu của Trịnh Sâm. Mặc dù rất mực thông minh,
xuất sắc nhƣng đứng trƣớc Thái tử Duy Vĩ cũng tài giỏi không kém, lại ngồi trên
vƣơng vị cao quý hơn hẳn, Trịnh Sâm đem lòng đố kỵ, thề quyết không đội chung
trời cùng Duy Vĩ, lúc vừa lên ngôi Trịnh Sâm đã tìm ngay mƣu kế hãm hại Thái tử,
đổ cho là tƣ thông cùng thiếp của Tiên Vƣơng bị tống vào ngục giam rồi bị giết.
Giết đƣợc Duy Vĩ, một hi vọng chấn hƣng của họ Lê song lại là mối họa lớn cho
nhà Trịnh, Trịnh Sâm bớt đi đƣợc phần nào nỗi lo quyền lực bị đe dọa. Việc này
cũng giống nhƣ các chúa Trịnh khác từng làm, họ đều lập các vị hoàng thân nhu
nhƣợc, nhỏ tuổi, hoặc tỏ ra hợp tác với họ Trịnh làm vua để dễ bề điều khiển, sai
khiến.
Ngoài ra, ở nhân vật chúa Trịnh Sâm cũng có khía cạnh rất nhân văn, đó là
việc hết mực yêu thƣơng Đặng Thị Huệ. Trong con mắt các nhà Nho thời trƣớc thì
Đặng Thị Huệ với những hành động làm khuynh đảo cả phủ chúa chẳng khác gì
một “yêu nữ” mê hoặc chúa Trịnh. Nhƣng dƣới ngòi bút của nhà tiểu thuyết thế kỷ
XX, thì mối tình của Trịnh Sâm và Đặng Thị lại có phần đẹp đẽ, lãng mạn. Đặng
Thị Huệ gặp đƣợc Chúa khi liều mạng dâng lên loài hoa huệ ngũ sắc, loại huệ có
tất cả năm màu kỳ diệu lạ thƣờng. Còn chúa Trịnh vừa gặp nàng đã mê đắm nhan
sắc và sau đó hoàn toàn để nàng chiếm lấy trái tim. Đối với Đặng Thị Huệ, Trịnh
Sâm dƣờng nhƣ là một vị vua hết mực si tình. Năm lần bày lƣợt nàng tìm kế sinh
sự nhƣ đập vỡ cả viên ngọc có giá liên thành mà chúa Trịnh rất quý, ấy vậy mà
Trịnh vƣơng không nỡ trách mắng còn phải tìm cách dỗ dành nàng [33, 175]. Chúa
không chỉ yêu nhan sắc mà còn trọng cả sự sáng suốt của Đặng Thị. Vì thế Chúa
đem cả việc lập phế Thế tử, chuyện quốc gia đại sự bàn bạc với nàng. Với Đặng
Thị Huệ và thế tử Cán, chúa luôn hết mực trân trọng. Đến khi gần đất xa trời, chúa
còn gửi gắm cận thần thân tín lo lắng cho tƣơng lai của Thế tử nhỏ và Tuyên phi.
56
Hình tƣợng một vị chúa si tình nhƣ vậy chắc chỉ có trong văn học hiện đại mà thôi.
Đối lập với Trịnh Sâm là ông hoàng Duy Vĩ trong Loạn kiêu binh. Sinh ra
đã có tƣ chất thông minh, xuất chúng lại nắm giữ ngôi báu tƣơng lai, thái tử Duy
Vĩ lại tỏ ra hết sức khiêm nhƣờng, sớm nhạy cảm nhận biết đƣợc mối nguy hại từ
phía nhà Trịnh nên gần nhƣ lui về “ở ẩn”. Ông rời bỏ hoàng cung lộng lẫy tới sống
trong một ngôi “nhà gạch sơ sài lẩn sau những khóm trúc, mai”, từ bỏ địa vị, danh
tƣớc, bổng lộc. Khi có ngƣời nhắc tới tƣớc vị trƣớc kia, ông hoàng này đều kiên
quyết từ chối, tỏ ý không muốn nhắc đến nó nữa. Tuy nhiên xa lánh danh vọng
cũng không giúp cho vị thái tử thất thế tránh khỏi cái họa sát thân, ông vẫn bị
ngƣời khác vu vạ, giáng tội. Duy Vĩ mặc dù khí chất của một ông hoàng cao ngạo,
một đấng quân tử ngay thẳng, lại có tài ba hơn ngƣời nhƣng lại bó tay chịu trói
không thể tự cứu đƣợc chính mình (chƣơng II của Loạn kiêu binh).
Bên cạnh đó, nhân vật Trịnh Khải, một vị chúa đƣợc lập nên bởi đám kiêu
binh và cũng vì kiêu binh mà đau đầu, khốn đốn cũng là một đấng cầm quyền đƣợc
tác gỉa dành nhiều trang miêu tả. Theo lịch sử, chúa Đoan Nam Vƣơng Trịnh Khải
vốn là một vƣơng tử thất thế không đƣợc sự sủng ái của Chúa Tĩnh Đô vƣơng
Trịnh Sâm. Khi mất đi Trịnh Sâm cũng truyền ngôi cho con trai thứ là Trịnh Cán
còn Khải bị giam lỏng trong phủ chúa nhƣ một phạm nhân. Trịnh Khải đã phải cấu
kết với quân Tam phủ làm một cuộc binh biến để giành lấy vƣơng vị. Khi ngồi trên
muôn ngƣời rồi, quyền khuynh bá trong tay rồi thì Trịnh Khải lại bị chính lũ kiêu
binh đã lập mình làm chúa khống chế. Kiêu binh cậy công, cậy đông chiếm giữ
kinh thành, vây hãm chúa thƣợng khiến cho Trịnh Khải nhƣ “cá mắc câu” phải một
mực nghe theo chúng. Trịnh Khải trong Chúa Trịnh Khải và Loạn kiêu binh thì
không hoàn toàn chỉ có cái bóng nhu nhƣợc. Trịnh Khải cũng là một vị chúa muốn
chăm lo cho thần dân nhƣng lại bị hoàn cảnh bức bách khiến cho cuối cùng phải hi
sinh biết bao trung thần cho bọn kiêu binh mặc sức chém giết cho hả dạ. Dẹp xong
loạn kiêu binh thì Trịnh Khải chƣa kịp hƣởng thái bình đã phải chết trong cuộc
chạy loạn sau khi kinh thành thất thủ trƣớc quân Tây Sơn. Mang trong mình ham
muốn quyền uy nhƣng lại luôn là kẻ bị động, luôn là nạn nhân của số phận, của
57
lịch sử, Trịnh Khải đáng thƣơng hơn là đáng trách.
Ngoài ra, trong nhiều tác phẩm còn đề cập đến các vị vua chúa, hoàng tử
vƣơng tôn khác nhƣ Hoàng thái tôn Duy Khiêm, vua Lê Hiển Tông, Trịnh Cán, …
những nhân vật này đều có điểm chung là đƣợc tác giả miêu tả khá ƣu ái, không có
ai là phản diện. Điều này có lẽ có nguyên cớ từ những cảm tình cá nhân của tác giả
đối với nhà Lê Trịnh và do cách nhìn mới của một nhà văn hiện đại đối với những
câu chuyện lịch sử đã qua.
Tóm lại, hình tƣợng vua chúa trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
không chỉ hiện lên với vai trò là ngƣời đại diện cho “mệnh trời”, nắm giữ quyền
lực tối thƣợng, chi phối toàn bộ xã hội phong kiến, mà còn hiện lên rất sinh động
với nhiều khía cạnh nhân văn. Nét đặc sắc ở đây là vua chúa không chỉ là những
nhân vật của lịch sử mà còn mang những suy nghĩ rất con ngƣời, rất tự nhiên bằng
cách xây dựng nhân vật bằng các thủ pháp hiện đại chịu ảnh hƣởng bởi những tƣ
duy, những giá trị văn hóa hiện đại của thế kỷ XX. Ở các vị vua chúa này ngoài
những lo nghĩ cho dân cho nƣớc còn là những tính toán cho địa vị cá nhân, những
ganh đua ích kỉ, hẹp hòi, thậm chí cả sự sợ hãi (bởi sự đe dọa từ những thế lực
khác), đôi khi lại có cả những chuyện tình cảm lãng mạn chẳng khác nào câu
chuyện tình cảm trai gái của thế kỷ XX… Từ một loạt hình tƣợng lịch sử có thật
vốn bị đóng khung, đại diện cho quyền lực và sức mạnh của vƣơng triều họ nhƣ
đƣợc “giải thiêng”, hiện lên sống động, gần gũi nhƣ những ngƣời bình thƣờng
trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thƣờng gặp: cũng có những khi bạc nhƣợc, bất
lực, yếu đuối, sợ hãi (Trịnh Khải trong những ngày cuối đời ở Chúa Trịnh Khải),
cũng có những khía cạnh khác lạ nhƣ si tình, tuy là một ông chúa sáng suốt nhƣng
lại luôn nghe và tin những lời gièm pha của ngƣời thiếp yêu (trƣờng hợp của Trịnh
Sâm trong Bà chúa Chè)... Đây chính là minh chứng của việc tác phẩm nghệ thuật
là sản phẩm của thời đại sinh ra nó, ngay cả với tiểu thuyết mang đề tài lịch sử,
miêu tả các nhân vật lịch sử đã không còn nữa.
2.2.2.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ
Nho giáo là một học thuyết không những chỉ nổi tiếng ở phƣơng Đông mà
58
còn trên toàn thế giới. Có rất nhiều vấn đề mà Nho giáo đặt ra nhƣng tất cả vẫn quy
tụ về mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Đấy là mối quan hệ đơn giản nhất
mà cũng rất phức tạp vì con ngƣời phải có những quan hệ với những cộng đồng
khác nhau nhƣ gia đình, xã hội, nhà nƣớc… [25, tr.123]. Nho giáo “đề xƣớng một
tôn ti trật tự chặt chẽ… quy định vị trí rõ ràng của mỗi cá nhân và xác định quan hệ
thứ bậc giữa các cá nhân” [19, tr.155]. Những tƣ tƣởng của Nho giáo đối với ngƣời
phụ nữ về bản chất là sự tƣớc đoạt quyền lợi của nữ giới. Ngƣời phụ nữ trở thành
ngƣời bị giam hãm, áp bức trong “tam cƣơng”, “ngũ thƣờng”. Cả cuộc đời họ bị
chi phối bởi nam giới, bị tƣớc đoạt mọi khả năng tự mình phấn đấu trong xã hội.
Lấy câu chuyện quá khứ làm nội dung chính, các nhân vật nữ trong các tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật đều là những phụ nữ sống dƣới sự kiềm tỏa
của Nho giáo. Tuy vậy, trong con mắt của nhà tiểu thuyết hiện đại, hình tƣợng
ngƣời phụ nữ của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật có thêm nhiều nét mới.
Đặc biệt đối với những phụ nữ có lối sống vƣợt ra khỏi sự kìm kẹp của lễ giáo
phong kiến nhƣ nhân vật Ấu Mai của Hòm đựng người hay Đặng Thị Huệ của Bà
chúa Chè, tác giả mạnh dạn lựa chọn họ làm nhân vật nữ chính trong tác phẩm của
mình trong đó dành nhiều ƣu ái khi miêu tả số phận, cuộc đời, phẩm chất của họ.
Ấu Mai là cô con gái sinh ra trong gia đình gia giáo có truyền thống Nho
học, ông nội Đặng Phi Hiển từng giữ chữ Tri huyện. Sinh ra trong gia đình có địa
vị nhƣ vậy nhƣng số phận của Ấu Mai lại chịu nhiều lận đận. Cha mất sớm trong
một tai nạn, Ấu Mai bị tiến cung nhƣng chƣa bao giờ đƣợc sủng hạnh của quân
vƣơng, tuổi còn trẻ mà bị đầy ra Sơn lăng “sống cùng những ngƣời đã chết”. Trong
suốt quãng đời bi kịch bị giam lỏng trong cung rồi trong Sơn lăng, chuỗi ngày êm
đềm, tƣơi đẹp nhất để nàng nhớ về là những ngày tháng chìm đắm trong mối tình
với ông hoàng thất thế Vũ Lăng hầu. Ở chốn sơn lăng, ngƣời cung nữ dƣờng nhƣ
càng nhỏ bé, đáng thƣơng hơn khi tƣởng rằng mình vĩnh viễn bị “chôn sống” trong
Sơn Lăng không bao giờ có ngày quay về gặp lại gia đình hay ngƣời tình cũ, hoàn
cảnh éo le này đã làm cho Ấu Mai cô con gái gia đình Nho giáo kia muốn vƣợt qua
ranh giới lễ giáo, cùng gia đình thông đồng đƣa ông hoàng Vũ Lăng hầu vào Sơn
59
lăng ở cùng với mình. Theo quan niệm của xã hội phong kiến thì việc này là hoàn
toàn trái với lễ giáo, là không thể chấp nhận đƣợc, và vi phạm nghiêm trọng cung
quy của triều đình, thế nên kết quả tất yêu là Ấu Mai, ngƣời tình và cả gia đình
phải chịu một cái chết bi thảm không tránh khỏi. Tuy vậy, sau tất cả, điều đáng ghi
nhận ở ngƣời con gái quả cảm này lại chính là ý đồ dám vƣợt lên tất cả để giành
lấy hạnh phúc của mình giữa biết bao nhiêu cung nữ cam chịu sống cuộc đời câm
lặng, không hi vọng.
Đặng Thị Huệ trong Bà chúa Chè cũng xuất thân trong gia đình Nho học,
thấu hiểu đạo lý sách thánh hiền. Vì thế nàng sớm đã nhận ra số phận không thể
xoay chuyển của ngƣời phụ nữ giữa vòng cƣơng tỏa của Nho giáo nhƣng từ tấm bé
trong đầu ngƣời con gái tài sắc này luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ “đảo hành nghịch
thi”. Nàng tâm niệm: “Thì cơ, muốn có thì phải đổi chỗ ở, bƣớc sang một dịp cầu
khác. May ra... Ta cũng chẳng cầu gì làm một đứa thị nữ, ta chỉ cầu lọt vào hoàng
cung vƣơng phủ để chờ xem có dịp gì không. Không vào rừng, sao bắt đƣợc cọp”
[33, 144]. Nàng đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, vào cung làm thị nữ rồi leo từng
bƣớc nên địa vị Tuyên phi. Trong quá trình đó, không khi nào nàng để mình đƣợc
thảnh thơi mà luôn lo lắng tìm cách tiến thân, củng cố địa vị của mình. Khi làm thị
nữ thì tìm mọi cách để lọt vào mắt xanh của chúa; lúc làm vợ chúa, đƣợc sủng ái
nhất rồi thì tìm thầy tìm thuốc hòng kiếm cho mình một đứa con trai gia tăng địa
vị; khi có con trai thì tìm cách gây bè, kết đảng nhằm đảm bảo cho mình và đứa
con một tƣơng lai vững chắc sau khi chúa băng hà. Cả cuộc đời ngắn ngủi của
nàng, có lẽ chỉ toàn những vật lộn, tranh đấu, hòng mƣu cầu một tƣơng lai tốt đẹp
hơn cho bản thân mình. Và quả thực nàng đã làm đƣợc, từ một cô gái hái chè tổng
Ném nàng trở thành mẫu nghi thiên hạ, nắm trong tay quyền lực to lớn, khuynh
đảo cả triều chính. Để đạt đƣợc mục đích, nàng đã vƣợt mọi khuôn khổ chật hẹp
của lễ giáo phong kiến. Nếu ngƣời con gái thời phong kiến phải thờ cha, thờ
chồng, thờ con thì nàng làm trái lại hết. Khi sống với cha: cãi lời cha để vào cung
làm thị nữ. Khi sống bên Trịnh Sâm: tìm cách xúi giục chúa đi ngƣợc lại lễ giáo
“bỏ trƣởng lập thứ”, mặt khác tiết lộ cả bí mật quốc gia của chúa (nói với vợ
60
Hoàng Đình Bảo về việc chúa đang theo dõi từng hành động của Đình Bảo và có ý
kết tội ông là âm mƣu làm phản) để mua chuộc, lôi kéo Đình Bảo về phe cánh của
mình. Khi chồng chết đáng lẽ phải thủ tiết thờ chồng thì nàng lại tƣ tình với Hoàng
Đình Bảo ở ngay trong hậu cung. Nếu chiếu theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo
thì Đặng Thị đúng là kẻ “tội đồ” đáng chết, và trong mắt các bậc hủ Nho sẽ chẳng
khác gì “yêu quái” (nhƣ chính cái quan niệm mà nhà Nho quy chụp cho những mĩ
nữ trong sách cổ từng làm điên đảo triều chính nhƣ Đát Kỷ, Bao Tự, Điêu
Thuyền). Kết cục tất yếu là kế hoạch “đảo hành nghịch thi” thất bại. Sau binh biến
của lũ kiêu binh nàng bị bắt và giam giữ nghiêm ngặt trong nhà giam Hộ Tăng
Đƣờng. Đến đƣờng cùng những tƣởng nàng đã yên phận, ai ngờ nàng không chịu
ngồi yên, một lần nữa nàng bỏ trốn. Kế hoạch không thành, bị đày đến Sơn Lăng,
ngƣời ta tƣởng nàng đã hóa điên hoặc đã nhất mực yên phận (vì nàng sống lầm lũi,
không hề cƣời nói suốt thời gian dài). Ai ngờ chính lúc này nàng thực hiện cuộc
đào thoát thay đổi số phận cuối cùng trong cuộc đời mình: trong ngày lễ Đại tƣờng
tiên vƣơng, nàng đã dùng dao tự sát ngay trƣớc bàn thờ, chính thức giải thoát mình
ra khỏi số phận một ngƣời con gái bị bó hẹp những giáo lý của xã hội phong kiến.
Theo quan niệm đƣơng thời hay trong những tƣ liệu còn sót lại về Đặng Thị
Huệ nhƣ vài dòng ghi chép trong Hoàng Lê nhất thống chí thì Đặng Thị đƣợc nhắc
tới nhƣ một nhân vật phản diện, dùng nhan sắc và thủ đoạn để lấy đƣợc lòng yêu
của Chúa nhƣng dƣới con mắt nhân văn của nhà tiểu thuyết thế kỷ XX thì mọi
hành động của Đặng Thị Huệ dƣờng nhƣ chỉ là sự đƣa đẩy của một mong muốn
chính đáng trong đời sống con ngƣời: mong muốn thay đổi vận mệnh mình. Cái
chết của nhân vật này trong Hoàng Lê nhất thống chí chỉ đƣợc miêu tả là “uống
thuốc độc” chết nhƣng ở Bà chúa Chè tác giả dành nhiều đoạn miêu tả về những
ngày cuối cùng của Đặng Thị Huệ và thay đổi cái chết thành dùng dao tự sát trƣớc
bàn thờ Tiên vƣơng (chƣơng cuối Bà chúa Chè).
Những nhân vật nữ vƣợt qua vòng kiềm tỏa nhƣ thế giữa xã hội phong kiến
Việt Nam đƣợc đề cập đến trong văn học không phải là không có. Ví dụ nhƣ hình
tƣợng nàng Nhị Khanh vƣợt qua lễ giáo dám tự mình trao thân cho Trình Trung
61
Ngộ trong Chuyện cây gạo, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ; nàng Kiều dám tự
mình đính ƣớc nhân duyên với Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, hình
tƣợng ngƣời phụ nữ dám nhìn ngôi đền thái thú và sự nghiệp của một đấng nam
nhi bằng nửa con mắt (Đền thái thú của Hồ Xuân Hƣơng), ... đều là ngƣời con gái
không thể xem xét dƣới góc độ đạo đức luân lý của Nho giáo. Hình tƣợng này có lẽ
bắt nguồn từ sự suy yếu của chế độ phong kiến thời Lê Trịnh kéo theo sự suy thoái
của Nho học. Thêm vào đó có những “yếu tố của một nền kinh tế đô thị” và một
môi trƣờng văn hóa đô thị cùng các yếu tố “phi cổ truyền” đang đƣợc hình thành
trong cả nƣớc, “tạo nên trong đời sống tinh thần một luồng sinh khí mới”, “nảy
sinh những định hƣớng nhằm phá vỡ các khuôn khổ” vốn có của xã hội [53, tr.69].
Nhƣng những trƣờng hợp nhƣ thế trong văn chƣơng cổ vẫn rất hiếm hoi, nhân vật
Đặng Thị Huệ hiện ra ở đây không còn giống nhƣ một nhân vật trong sách sử nữa
mà nhƣ một con ngƣời đời thực với những suy nghĩ, những mong muốn hiện đại,
muốn năm bắt và làm chủ vận mệnh của mình. Có đƣợc điều này phải sang đến thế
kỷ XX khi văn học phƣơng Tây xâm lấn vào đời sống văn hóa tinh thần của con
ngƣời Việt, khi chủ nghĩa cá nhân xuất hiện thì cái con ngƣời với quan điểm thực
dụng nhƣ Đặng Thị Huệ (“thà rằng hƣởng nhiều mà chết non còn hơn chết già mà
khổ sở”) mới thực sự xuất hiện. Mặt khác, câu chuyện về tình yêu của các nhân vật
nữ, vốn là cấm kỵ trong văn học cổ thời kỳ trƣớc thì lại đƣợc miêu tả hết sức tự
nhiên: từ câu chuyện tình yêu sóng gió của Ấu Mai và ông hoàng Duy Lễ đến
chuyện tình vƣợt trên mọi phép tắc xã hội của Đặng Thị và Quận Huy. Những
trang viết miêu tả ngƣời nhân vật Đặng Thị Huệ trong mối tình với Hoàng Đình
Bảo của Bà chúa Chè rất chân thực, hiện đại, tróng đó nhân vật Đặng Thị hiện vừa
nhân bản, vừa tự nhiên chẳng khác nào các cô gái trong tiểu thuyết lãng mạn của
Tự lực văn đoàn: “nàng đƣợc luôn luôn trông thấy cái sức lực cƣờng tráng, cái khí
phách tuổi trẻ anh hùng, cái chí quật cƣờng của một ngƣời hết sức che chở, hết sức
trung thành với nàng. Thế là tự nhiên nàng so sánh, cân nhắc, rồi tự nhiên đem
lòng yêu dấu. Con ngƣời ấy, sao hôm nay mãi chƣa thấy vào? Ô hay! Cuối giờ Dậu
rồi, mà sao chƣa thấy vào?”. Đặng Thị thậm chí còn không ngần ngại thể hiện ra
62
ngoài tình cảm của Huy Quận: “Khi chỉ còn hai ngƣời, Tuyên phi nói: Thiếp mong
chàng mãi. Hãy để quân quốc trọng sự đó”, rồi thậm chí còn chủ động
trƣớc“Tuyên phi vừa cƣời vừa đứng dậy đi đến chỗ Đình Bảo ngồi: Vâng thì từ
mai thiếp xin nghe... Nhƣng hôm nay...”. Hành động ấy, tình cảm ấy chẳng khác
nào các cô gái hiện dại của thế kỷ XX nhƣ Lan trong Đẹp, chủ động đi tìm tình yêu
của mình mặc dù giữa cả hai có khoảng cách tuổi tác cả thế hệ, hay nhƣ Hiền trong
Trống mái, một cô gái thành thị tân học mơ mộng về tình yêu với chàng ngƣ dân
Vọi nghèo khó…
Có thể nói, trong khí xây dựng các hình tƣợng nhân vật nữ trong tiểu thuyết
lịch sử của mình, Nguyễn Triệu Luật đã đem cả những tƣ tƣởng, giá trị mới về văn
hóa vào để áp dụng. Qua các nhân vật nữ của mình ông dƣờng nhƣ muốn thể hiện
khát khao tự giải phóng cá nhân, đòi quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc cho
ngƣời phụ nữ. Cũng vì thế mà hình tƣợng ngƣời phụ nữ của tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Triệu Luật vừa chân thực, tự nhiên vừa nhân bản, giàu sức sống đến kì lạ.
2.2.2.3. Hình tƣợng những trung thần
Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật nổi bật lên những anh hùng
dám hi sinh tính mạng xả thân vì lợi ích của vƣơng triều phong kiến, mà cụ thể là
đấng quân chủ của mình. Nho giáo đề cao Trung – Hiếu – Tiết – Nghĩa bốn đức
tính cần có của ngƣời quân tử. Trong đó ngƣời quân tử phải một lòng thờ đức quân
vƣơng của mình vô điều kiện, dám liều mình xả thân để bảo vệ lợi ích của vƣơng
triều phong kiến. Nhƣ tác giả Trần Trọng Kim từng tổng kết quan niệm “trung
quân” nhƣ sau: “Ở trong nhà thì con phải hiếu với cha mẹ, ở trong nƣớc thì thần
dân phải trung với quân” [29, tr.155]. Trong tác phẩm Loạn kiêu binh, ta thấy nổi
lên một hình ảnh đẹp của các trung thần nhƣ Chiêm Võ một võ tƣớng sức địch
muôn ngƣời nhƣng vì bảo vệ chủ nhân là Trịnh Khải phải chịu tra gƣơm vào vỏ
nộp mạng cho kiêu binh để kiêu binh mặc sức mà đâm chém. Những lời trƣớc khi
lìa xa cõi đời của một võ tƣớng tài ba lại vô cùng chua xót: trƣớc khi nộp mạng cho
kiêu binh ông tuốt thanh Phƣợng Huy giơ lên trời:“Thanh kiếm này đã bao lần
chém đầu quân nghịch tặc, ngày nay thật vô dụng” [33, tr.339]. Tấm lòng trung
63
hiếu với đấng quân vƣơng còn thể hiện ở các nhân vật khác nhƣ Lý Trần Quán,
Nguyễn Đƣờng trong Chúa Trịnh Khải. Nguyễn Đƣờng vốn xuất thân trong một
gia đình trung thần, khi chúa chạy loạn sau thất bại trƣớc quân Tây Sơn lại vô tình
để chúa lọt vào tay em trai mình là Nguyễn Noãn, kẻ đang âm mƣu bắt sống Trịnh
Khải nộp cho quân Tây Sơn lính thƣởng. Sau khi chúa băng hà, Nguyễn Đƣờng đã
tự giày vò bản thân mình cho đến tận hơi thở cuối cùng, ông còn dặn ngƣời nhà
không cho các con trai ra làm quan cho triều khác để giữ gìn lòng trung hiếu với
nhà Trịnh. Lý Trần Quán một viên Thiêm Sai Tri lại đã hết lòng chăm lo cho chúa
những ngày tháng chạy loạn đến làng Hạ Lôi và rơi vào tay bọn phản tặc. Tuy
nhiên học trò của Lý Trần Quán là Nguyễn Trang câu kết với Nguyễn Noãn bán
đứng chúa, giải lên kinh giao nộp cho quân Tây Sơn. Ngăn cản không đƣợc, Lý
Trần Quán sau khi chúa băng hà đã tự chôn sống mình để tỏ lòng trung với nhà
Trịnh:
“Quán sai đào ở vƣờn sau nhà một cái huyệt, đặt áo quan vào đó. Đoạn đội
mũ, mặc áo tiến sĩ, quay mặt về hƣớng nam lạy tám lạy:
- Tôi bất trung bất nghĩa là Lý Trần Quán xin theo Vƣơng thƣợng.
Lạy xong, ông cởi mũ áo, chít khăn trắng, mặc áo trắng, xuống huyệt nằm
trong áo quan rồi bảo Trần chủ nhân:
- Ông đậy nắp ván thiên cho tôi.
Chủ nhân đậy áo quan. Đậy vừa xong, tiếng trong áo quan lại nói ra:
- Còn thiếu một lời, tôi xin nói nốt.
Nắp quan tài lại mở ra:
Tam niên chi hiếu dĩ hoàn
Thập phần chi trung vị tận
(Ba năm đạo hiếu đà đầy đủ
Một nghĩa vua tôi chửa hết nào)”
[33, tr.277]
Trong Bà chúa Chè Việp Quận Công Ngũ Hoàng Phúc mặc dù đã cao tuổi
64
nhƣng vẫn quyết tâm lên đƣờng ra trận giúp chúa Trịnh Sâm mở mang và giữ yên
bờ cõi: “Ý chúa thƣợng đã quyết, đạo tôi phải theo. Thần còn ngày nào thì giặc
Nam chƣa đáng lo ngày ấy” [33, tr.173].
Đặt trong bối cảnh xã hội nhƣng năm 30, 40 của thế kỷ XX, hình tƣợng bậc
trung thần nhƣ trên mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Nó gợi nhắc chúng ta về một thời
kỳ lịch sử trong quá khứ khi mà tồn tại giá trị tốt đẹp trung hiếu, mỗi cá nhân phải
có trách nhiệm với cơ đồ, vận mạng của đất nƣớc, thức tỉnh mỗi con ngƣời lòng tự
hào về phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời Việt trong quá khứ, cũng nhƣ truyền thống
yêu nƣớc, sẵn sang xả thân cho sự nghiệp giữ vững vƣơng triều của các trung thần,
nghĩa sĩ phong kiến.
Nhƣ vậy, trong chƣơng này chúng tôi đã phân tích, tìm hiểu tiểu thuyết lịch
sử của Nguyễn Triệu Luật từ góc độ văn hóa bằng cách tiếp cận không gian văn
hóa, con ngƣời – những chủ thể văn hóa… Trong các tác phẩm, mặc dù Nguyễn
Triệu Luật dành nhiều tình cảm trân trọng, bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp
nhƣng ông cũng không hề tránh né khi nói về những điều còn chƣa đẹp. Tác giả
cho rằng việc rút ra bài học của quá khứ sẽ giúp cho chúng ta hôm nay nhìn nhận
lại hôm nay, thức tỉnh ta để ta nhận thấy đƣợc trách nhiệm của mình với lịch sử và
văn hóa dân tộc ngày hôm nay. Ngoài ra, các hệ giá trị thẩm mỹ mới của văn hóa
thế kỷ XX đã ảnh hƣởng tới quá trình xây dựng các bối cảnh văn hóa, các chủ thể
văn hóa (nhân vật) quá khứ của tác phẩm, làm chúng biến đổi ít nhiều, đƣa chúng
ra khỏi ranh giới của những quan niệm của nền văn hóa thời kỳ phong kiến với các
65
quan niệm, chuẩn mực Nho giáo truyền thống.
Chƣơng 3: TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ NGUYỄN TRIỆU LUẬT
TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP.
Trong chƣơng 3, chúng tôi xin đi vào tiếp cận, tìm hiểu tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Triệu Luật theo hƣớng tiếp cận thi pháp học. Ở chƣơng này chúng tôi
sẽ trình bày khái lƣợc về khái niệm thi pháp và thi pháp học, rồi trên cơ sở lý luận
đó chúng tôi sẽ tìm hiểu phân tích các yếu tố thi pháp nổi bật của tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Triệu Luật nhƣ: mối quan hệ giữa chân sử và hƣ cấu nghệ thuật, nghệ
thuật kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ.
3.1. Giới thuyết về khái niệm thi pháp và thi pháp học
Thuật ngữ thi pháp và thi pháp học hiện nay đã không còn xa lạ với những
ngƣời làm công tác nghiên cứu khoa học nữa. Đã có rất nhiều khái niệm và cách
trình bày khác nhau xung quanh thuật ngữ này nhƣng trong khuôn khổ của Luận
văn chúng tôi chỉ xin đƣợc liệt kê một vài ý kiến nhƣ sau: Theo GS Trần Đình Sử
trong chuyên đề Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, đã đƣa ra hai cách hiểu về
khái niệm thi pháp: một là hiểu thi pháp nhƣ là nguyên tắc, biện pháp chung làm
cho văn bản, phát ngôn trở thành tác phẩm nghệ thuật…Hai là hiểu thi pháp nhƣ là
những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật cụ thể tạo thành đặc sắc nghệ thuật của
một tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lƣu… Cả hai cách đều có chung mục đích
khám phá các nguyên tắc phổ quát hoặc cụ thể, lịch sử làm thành nghệ thuật [42,
tr.5]. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Thi pháp hiện đại, thì định nghĩa“thi pháp là
phƣơng pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình
thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc
chìm ẩn của tác phẩm…” [22, tr.9]. Còn với tác giả Nguyễn Thị Dƣ Khánh trong
công trình Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, nói đến thi pháp chủ
yếu “là nói đến quá trình sáng tạo những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, là nói
đến những phƣơng thức, phƣơng tịên, những thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ
66
ngôn từ” [28, tr.10].
Dựa trên các định nghĩa kể trên về thi pháp, chúng tôi xin tổng kết lại là: Thi
pháp là hệ thống các phƣơng thức, phƣơng tiện biểu hiện đời sống bằng hình tƣợng
nghệ thuật trong tác phẩm văn học nhằm hƣớng tới việc tìm hiểu các tầng ý nghĩa
trong một tác phẩm. Từ việc tìm hiểu khái niệm thi pháp sẽ giúp chúng ta hình
dung một cách rõ ràng hơn về khái niệm thi pháp học.
Cũng nhƣ khái niệm thi pháp, thi pháp học cũng là một khái niệm đƣợc
nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu trong nhiều năm qua: Ở Việt nam, GS Trần Đình Sử
là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp nghiên cứu về thi pháp và
thi pháp học bằng một loạt các công trình nhƣ: Dẫn luận thi pháp học, Một số vấn
đề thi pháp học hiện đại, Thi pháp Truyện Kiều, … Trong đó, ở cuốn Một số vấn
đề thi pháp học hiện đại, ông nêu lên quan niệm về thi pháp học nhƣ là: bộ môn
nghiên cứu tất cả mọi phƣơng diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc,
phƣơng diện tạo thành nghệ thuật cũng nhƣ sự vận động phát triển của chúng [42,
tr.8]. Một nhà nghiên cứu khác, GS Lê Ngọc Trà trong cuốn Lý luận và văn học ở
mục một số vấn đề về thi pháp học cũng đã định nghĩa: “Thi pháp học là một lĩnh
vực của khoa văn học, nghiên cứu hệ thống các phƣơng tiện, cách thể hiện và tổ
chức ý thức nghệ thuật trong sáng tạo văn chƣơng” [49, tr. 142]. Ông chỉ ra rằng
đối tƣợng nghiên cứu đầu tiên của thi pháp học các yếu tố và cấu trúc của tác
phẩm văn học nhƣ ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật, kết cấu và chủ thể nghệ thuật.
Ông chủ trƣơng tiếp cận văn bản theo nhiều lớp yếu tố: Lớp yếu tố thứ nhất đó là
ngôn từ nghệ thuật; Lớp thứ hai là thế giới nghệ thuật bao gồm nhân vật, cốt
truyện và các chi tiết đƣợc mô tả, thời gian và không gian nghệ thuật; Tiếp đó thi
pháp học khảo sát kết cấu của tác phẩm… [14, tr. 142-145]. Từ điển thuật ngữ văn
học, mục “Thi pháp học và thi pháp” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
chủ biên) thì chủ trƣơng phân chia thi pháp học thành ba phạm trù nghiên cứu:
“Xét về cách tiếp cận, thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu: Thi pháp học đại
cƣơng (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ thống hóa hay thi pháp
học vĩ mô); thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô);
67
thi pháp học lịch sử ”. Trong đó, “thi pháp học chuyên biệt tiến hành miêu tả tất cả
các phƣơng diện nói trên (tức thi pháp thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn
ngữ, mô típ…) của sáng tác văn học nhằm xây dựng “mô hình”- hệ thống hóa cá
biệt của các thuộc tính tác động thẩm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tƣơng quan
của tất cả các yếu tố nói trên trong chỉnh thể nghệ thuật” [21, tr.256 - 257].
Tóm lại, có thể nói, các định nghĩa trên dù cách diễn đạt có những chỗ khác
nhau nhƣng quan niệm thi pháp về thi pháp học căn bản lại thống nhất ở một số
điểm:
- Thi pháp là hệ thống các phƣơng thức, phƣơng tiện biểu hiện đời sống
bằng hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm văn học (hệ thống đó bao gồm: thể loại,
kết cấu, không gian, thời gian, ngôn ngữ).
- Thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó.
- Có thể chia thi pháp học thành ba bộ phận chủ yếu. Nhƣng khi miêu tả các
phƣơng diện của thi pháp tác phẩm, tác giả, trào lƣu, thời đại, dân tộc thì đó là
nhiệm vụ của thi pháp học chuyên biệt.
3.2. Các yếu tố thi pháp của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
3.2.1. Mối quan quan hệ giữa tính chân sử và hƣ cấu nghệ thuật
Nhƣ đã nói ở trên do tính đặc thù nên tiểu thuyết lịch sử có những phƣơng
thức sáng tạo riêng của nó. Tiểu thuyết lịch sử trƣớc hết phải là tiểu thuyết, tức là
chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hƣ cấu, tuy nhiên khi lựa chọn đề tài lịch sử
thì nhân vật và sự kiện phải đƣợc sáng tạo dựa trên các sử liệu xác thực trong lịch
sử. Mối quan hệ giữa tính chân sử và hƣ cấu nghệ thuật dƣờng nhƣ luôn là vấn đề
muôn thuở khi bàn về bất kì một cuốn tiểu thuyết lịch sử nào. Tiểu thuyết lịch sử
đòi hỏi ở ngƣời cầm bút rất cao khả năng xử lý mối quan hệ ấy trong tác phẩm. Nói
nhƣ Nguyễn Thị Tuyết Minh: “Nhà văn có thể tự do lựa chọn nhân vật, chi tiết, sự
kiện lịch sử nhƣng ngƣợc lại, cũng bị chính những yếu tố đó quy định. Khi viết về
một thời đại lịch sử hoặc một nhân vật lịch sử, đối với nhà văn bên cạnh tài năng
còn là vấn đề nhãn quan, vấn đề “vốn” – không chỉ đơn thuần là vốn sống, mà còn
68
là vốn hiểu biết nhiều mặt về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn
hóa…, để có thể miêu tả lịch sử”chân thực hơn lịch sử”. Tiểu thuyết lịch sử ƣu tiên
khẳng định tính chất hƣ cấu của cốt truyện nhƣng tạo cho nó một cái vẻ giống nhƣ
thật” [34, tr.40]. Để xem xét mối quan hệ giữa tính chân sử và hƣ cấu nghệ thuật
trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu
theo hai hƣớng: hƣ cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử; hƣ cấu hoàn
toàn của tác giả.
3.2.1.1. Hƣ cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử
Bàn về tiểu thuyết lịch sử, tác giả Phạm Xuân Thạch từng nhận định: “Ở
đây, có lẽ chúng ta đã chạm tới vấn đề có tính bản chất của những tiểu thuyết về đề
tài lịch sử: câu hỏi về cái gọi là “sự thật lịch sử”” [47]. Tiểu thuyết muốn đƣợc xác
định là mang đề tài lịch sử phải dựa trên “sự thực lịch sử”, dùng nó làm bộ khung
cho mọi hƣ câu, sáng tạo của mình. Dƣờng nhƣ Nguyễn Triệu Luật cũng muốn lịch
sử phải luôn đƣợc tôn trọng, có thế nào phải viết thế đấy, nhất định không đƣợc
bóp méo lịch sử, ông tâm sự: “Tôi chỉ là thợ vụng, có thể nào làm nên thế, gốc tre
già cứ để là gốc tre già, chứ không có thể, và cũng không muốn, hun khói lấy màu,
vẽ vân cho thành gốc trúc hóa rồng” (trích Lời tựa cuốn Bà chúa Chè, 1938). Việc
đánh giá lịch sử phải đƣợc xuất phát từ lý trí khách quan, tránh đánh giá bằng tình
cảm chủ quan, dễ làm sai lệch lịch sử. Bản thân ông thông qua tiểu thuyết của
mình cũng luôn là ngƣời chịu khó tìm hiểu cẩn trọng và tỉ mẩn lịch sử. Ông thƣờng
chọn lối viết hƣ cấu từ những sự kiện và nhân vật lịch sử để sáng tác.
Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật bắt gặp nhiều những nhân
vật có thật trong lịch sử nhƣ Trịnh Sâm, Trịnh Khải, Đặng Thị Huệ, Trịnh Cán,
Hoàng Đình Bảo,… những sự kiện có thật nhƣ việc phế con trƣởng lập con thứ của
Trịnh Sâm, sự việc loạn kiêu binh hay cuộc tấn công kinh thành Thăng Long của
quân nhà Tây Sơn… Dựa vào số lƣợng tƣ liệu ít ỏi từ lịch sử và những truyện kể
dân gian tác giả đã sáng tạo nên cả một giai đoạn lịch sử rối ren, suy yếu của xã hội
69
phong kiến Lê mạt.
Theo tác giả Phạm Tú Châu qua bài viết Tính lịch sử: Khả năng và mức độ
qua tiểu thuyết Bà chúa Chè thì “lịch sử nguyên sinh về giai đoạn này không có”,
“tác giả đã dựa vào hai nguồn chính là lịch sử để lại và lịch sử thuật kể. Đọc Bà
chúa Chè chúng ta thấy tác giả đã tận dụng đƣợc truyền thuyết dân gian về Tuyên
phi… nhƣng chủ yếu là từ lịch sử thuật kể: Hoàng Lê nhất thống chí” [19, tr.107].
Nguyễn Triệu Luật đã dùng những sự kiện chính trong Hoàng Lê nhất thống chí để
làm khung để dựa vào đó mà thêm thắt, sáng tạo bằng cách vận dụng kiến thức về
lịch sử văn hóa và trí tƣởng tƣợng của mình.
Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ nhất có nhắc đến việc dâng hoa của Đặng
Thị Huệ trong vài câu: “Một hôm, tiệp dƣ (Một cấp bực của vợ vua, dƣới bậc phi)
Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bƣng một khay hoa đến trƣớc nơi chúa
ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phƣợng mày ngài, vẻ ngƣời mƣời
phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tƣ thông với ả.” [35, tr.12]. Chỉ
vài dòng nhƣ vậy mà Nguyễn Triệu Luật viết đƣợc hẳn một chƣơng khá đầy đặn
miêu tả từ chuyện Chúa thích chơi hoa theo sách Tàu ra sao, các cung nhân thi
nhau trông cả trăm thứ hoa, ép cho nó nở đúng thì tiết thế nào, chuyện bà Trần Thị
Vinh không bốc đƣợc thẻ dâng hoa thì ủ dột ra sao, Thị Huệ dâng hoa lên nhƣ thế
nào, đối thoại với chúa ra sao… Tất cả những chi tiết của 12 trang văn bản ấy (từ
trang 161 – 173 của Tuyển tập tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Khoa
học xã hội, 2011) lại bắt đầu bằng có đôi ba dòng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Sự việc Đặng Thị Huệ đập vỡ viên ngọc của chúa ở chƣơng VI, Bà chúa
Chè cũng xuất hiện trong Hoàng Lê nhất thống chí: “Thị Huệ từ lúc đƣợc nhà chúa
chiều chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện gì không vừa ý, là ả xây xẩm mặt
mày, rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối lòng chúa.
Chúa có một viên ngọc dạ quang, lấy đƣợc trong khi đánh dẹp phƣơng Nam,
vẫn xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên
ngọc. Chúa nói:
- Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!
70
Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng:
- Làm gì cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt
khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh ngƣời nhƣ vậy?
Rồi ả tự ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng
nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa” [35]
Sự việc tuy đƣợc miêu tả khá chi tiết trong Hoàng Lê nhất thống chí nhƣng
thực sự đầy đủ hơn khi đƣa vào Bà chúa Chè nó đƣợc thêm thắt nhiều câu đối
thoại làm tăng thêm sự hấp dẫn cho chƣơng truyện.
Chi tiết Tuyên phi tự tử cũng xuất hiện trong Hoàng Lê nhất thống chí
nhƣng chỉ gói gọn ba từ “uống thuốc độc”: “Sau một thời gian giam giữ ngặt, Thị
Huệ đƣợc cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh
Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin đƣợc chết theo chồng. Đến ngày giỗ của
chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuộc độc mà chết, đƣợc táng cách Vọng lăng
(lăng Trịnh Sâm) một dặm” [35, tr.89]. Khi viết về cái chết của Đặng Thị Huệ ở
tác phẩm Bà chúa Chè, Nguyễn Triệu Luật đã sửa lại thành: “tự tử” bằng một con
dao ngay trƣớc bàn thờ đấng tiên vƣơng, đoạn miêu tả về việc tự vẫn ấy dài đến
mấy trang văn bản chứ không phải chỉ có mấy dòng nhƣ Hoàng Lê nhất thống chí.
Nếu không có khả năng sáng tạo thì làm sao Nguyễn Triệu Luật có thể biến vài
dòng nhỏ nhoi trong sách sử thành hẳn một chƣơng truyện với nhiều chi tiết hƣ cấu
mà khi đọc độc giả không thể phân biệt đƣợc đâu là chi tiết lịch sử đâu là chi tiết
đƣợc thêm thắt vào nhƣ vậy. Đặc biệt, cái chết của Đặng Thị trong tác phẩm đã có
thêm một tình tiết nhỏ, đó là việc Đặng Thị khi tranh cãi với chúa về việc đập ngọc
đã khéo thêm cả tích xƣa… Từ việc đập một viên ngọc một cách vô lý mà vẫn
đƣợc chúa Tĩnh đô dễ dàng bỏ qua trong Hoàng Lê nhất thống chí [35, tr.13], tác
giả đã khéo thêm vào câu chuyện “đập ngọc” một lý do để chúa không chỉ tha thứ
mà càng thêm yêu, thêm nể Thị Huệ, đó là việc thêm chuyện Thị Huệ mƣợn tích
Lạn Tƣơng Nhƣ đòi đập ngọc quý trong tích xƣa. Chính việc thêm thắt đó đã giúp
tác giả lý giải đƣợc tại sao Đặng Thị ngang ngƣợc là vậy mà lại có đƣợc lòng yêu
của ông chúa tài hoa, tinh tế nhƣ Trịnh Sâm và đồng thời cũng làm cho diễn biến
71
hành động, tâm lý của nhân vật Đặng Thị Huệ thêm hợp lý, chân thật.
Nhân vật Trịnh Khải cũng là một nhân vật có thật trong lịch sử đƣợc tác giả
đem vào trong tác phẩm. Trung thành với những dữ liệu lịch sử có thật, Nguyễn
Triệu Luật mô tả nhân vật này khá sát với Hoàng Lê nhất thống chí: Trịnh Khải tên
hồi nhỏ là Tông, sinh ra đã không đƣợc Trịnh Sâm yêu quý, càng lớn càng bị ghét
bỏ. Đến khi Trịnh Cán ra đời thì chúa “bỏ trƣởng lập thứ”, lập Cán làm Thế tử…
Chuyện kiêu binh tôn Khải nhƣ lên ngôi chúa nhƣ thế nào, sau đó liên tục gây sức
ép cho Khải ra sao đều đƣợc ghi lại. Cái tác giả thêm thắt ở đây là những chi tiết
miêu tả đời sống nội tâm phong phú của Trịnh Khải trong suốt ngày tháng thăng
trầm của cuộc đời. Đặc điểm này đã kéo gần một nhân vật lịch sử nhƣ Trịnh Khải
đến với bạn đọc thế kỷ XX hơn. Qua đó tác giả đã chạm vào những góc khuất sâu
trong tâm hồn Trịnh Khải nhằm lý giải hành động, cách giải quyết sự việc của
nhân vật này. Đoạn Trịnh Khải lên thuyền của Nguyễn Noãn ở chƣơng cuối Chúa
Trịnh Khải đƣợc mô tả rất chi tiết. Trịnh Khải một thân một mình giữa đêm thanh
vắng, chỉ có trăng trên đầu bầu bạn hiện lên sinh động, cô độc, tuyệt vọng qua
những đoạn mô tả tâm trạng và độc thoại nội tâm của nhân vật:
“Ngồi mạn thuyền, Trịnh Vƣơng băn khoăn lo lắng. Muốn nhìn xem mặt tên
Noãn có giống Nguyễn Đƣờng không thì một ngọn đèn dầu không đủ ánh sáng.
Nếu thật là em Nguyễn Đƣờng thì không ngại gì, vì nhà hắn là một vọng tộc vùng
Giang Bắc, bẩy đời nay đã sản ra bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ. Nhƣng nếu không
phải… Thôi nhƣng lúc ấy cũng không phải lúc phân vân đƣợc nữa: đành cũng đến
đâu hay đó mà thôi. Ngửa mặt trông trời, trời sao nhấp nhánh. Trịnh Vƣơng sực
nhớ lại năm xƣa Tả tƣ Giảng Ngô Thì Nhậm giảng ông nghe bộ sách "Quản
Khuy", rồi vƣơng cố tìm xem các sao Đế Tọa ở nơi nào. Gió nồm nam vẫn thổi
mạnh, đƣa những tiếng ồn ào nơi kinh sƣ đến. Bây giờ, giặc Tây Sơn đƣơng làm cỏ
thành Thăng Long đây.
Mới cách đây vài giờ ta còn là một vị vƣơng gia hách dịch mà nay một mình
ngồi giữa dòng sông, tấm thân gửi thác trong tay một ngƣời lạ mặt chƣa rõ ruột
gan. Sóng động mạn thuyền, nƣớc kêu bì bạch nhƣ gợi tấm lòng buồn bã chán
72
chƣờng.
Còn mẹ ta? vợ ta? con ta? Bây giờ ở đâu, còn hay mất? Mẹ ta bị tiên vƣơng
ghét bỏ sinh đƣợc có mình ta.
Trong hai mƣơi năm trời, xiết bao cực nhục khổ sở, mới đƣợc thƣ thái trong
dạ chừng vài bốn năm nay. Bây giờ mẹ một nơi, con một nơi, an nguy mất còn đôi
nơi bóng chim tăm cá, chỉ thƣơng cho vợ ta, tƣởng … sƣớng nhất trần gian, có ngờ
đâu ngày nay? Con ta mới hơn tuổi tôi, nào đã tội tình gì? Làm đứa nông phu khi
loạn li còn giữ đƣợc cha mẹ vợ con, làm thân ngƣời vƣơng giả đã lỡ bƣớc thì
không bằng một đứa nông phu.” [33, tr.269 - 230].
Nhân vật Khê Trung hầu xuất hiện trong bộ ba tiểu thuyết Bà chúa Chè,
Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh là một nhân vật đặc biệt. Ông là thái giám hầu
cận của chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm và sau này là cả Đoan Nam Vƣơng Trịnh Khải
nhƣng trong Hoàng Lê nhất thống chí, nhân vật này lại đã tự tử bằng thuốc độc sau
vụ việc Trịnh Khải làm phản bị bại lộ: “Khê trung hầu vốn đã theo ta từ lúc chƣa
lên ngôi, cũng có công lao, đặc ân cho tự liệu”… “Mệnh lệnh ban xuống, Khê
Trung hầu và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử” [35, tr.24]. Nhƣ vậy có
nghĩa là toàn bộ những trang viết có liên quan đến Khê Trung hầu về sau nhƣ việc
ông ta vẫn hầu hạ Trịnh Khải sau khi lên ngôi chúa là hoàn toàn hƣ cấu. Thêm vào
đấy, từ một nhân vật xuất hiện hời hợt trong Hoàng Lê nhất thống chí, trong bộ ba
tiểu thuyết Bà chúa Chè, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải, Khê Trung hầu đã trở
nên sinh động hơn hẳn nhờ những diễn biến nội tâm phong phú của ông. Đoạn
nhân vật này giúp đỡ Dƣơng Ngọc Hoan đang héo hon trong cung đƣợc chúa vời
đến hầu hạ đƣợc miêu tả chi tiết với nhiều đọan đối thoại, độc thoại nội tâm dài
đến 7 trang văn bản (từ trang 150 – 156 của Bà chúa Chè, in trong Tuyển tập Tiểu
thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Khoa học xã hội, 2011). Trong khi toàn bộ
sự việc trong Hoàng Lê nhất thống chí chỉ có vài dòng: “Nhƣng từ sau khi vào
cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị
thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi
viên quan hầu là Khê trung hầu. Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh. Hôm
73
sau, chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ý giả làm nghe
lầm, đƣa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhƣng
đã trót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng.
Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho
chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả. Thái phi trải qua một trận mƣa
móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai. Năm Quí-mùi, Cảnh hƣng 24
(1763)” [35, tr.14].
Nhƣ vậy, chỉ dựa trên cái nền các dữ liệu lịch sử ít ỏi có sẵn, những nhân
vật, sự kiện lịch sử dƣờng nhƣ trong mỗi câu chuyện lại đƣợc hƣ cấu, gia công
thêm cho đầy đủ, chân thực, gần gũi hơn nữa. Mặc dù luôn tỏ ra trung thành với
các dữ liệu lịch sử sẵn có nhƣng nhà văn chỉ dựa trên sƣờn, khung của câu chuyện
lịch sử rồi thêm thắt những tình tiết mới, nhờ thế các nhân vật lịch sử mang tên
tuổi, dáng dấp in bóng trong sách sử đƣợc nhìn nhận một cách đa chiều hơn. Từ
những nhân vật lịch sử họ vụt trở thành những nhân vật có tính cách, có cá tính,
thậm chí còn mang cả hơi thở của con ngƣời hiện đại (Trịnh Sâm, Ấu Mai, Đặng
Thị Huệ, Trịnh Khải). Tuy vậy, khi đọc tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật
nhiều ngƣời còn khó lòng nhận ra những hƣ cấu từ chính những sử liệu có thật đó
bởi ngay cả những phần thêm thắt cũng là kết quả của việc tác giả dành nhiều tâm
huyết nghiên cứu các dữ liệu văn hóa, lịch sử có liên quan để tổng hợp thành. Có
thể nói, xóa nhòa ranh giới của hƣ cấu nghệ thuật và sự thực lịch sử chính là thế
mạnh của nhà văn Nguyễn Triệu Luật.
3.2.1.2. Hƣ cấu hoàn toàn
Một số ý kiến đánh giá tiểu thyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật là loại tiểu
thuyết “khô khan, dài dòng, mải khoe kiến thức” (Phạm Thế Ngũ), hoặc là ôm đồm
các chi tiết, các nhân vật lịch sử, bản thân Nguyễn Triệu Luật cũng là một nhà
nghiên cứu lịch sử nên việc tìm tòi sử liệu đƣa vào trong tác phẩm văn học đối với
ông cũng không khó khăn gì, song không vì vậy, các tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Triệu Luật thiếu đi những trang viết về các nhân vật, sự kiện hoàn toàn hƣ
cấu. Chính tác giả từng tâm niệm rằng: “Trái lại, viết tiểu thuyết lịch sử (Roman
74
historique) không cần theo phép của sử học, không cần có sự thật. Tác giả chỉ phải
tƣởng tƣợng ra một câu chuyện “có thể có” ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lồng
vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một chuyện không đâu mà làm sống một
thời đại. Những tiểu thuyết “Notre dame de Paris” “Quatre vingt treize” của Victor
Hugo đều là bịa đặt, nhƣng đọc chuyện đó ta thấy cả thời đại hồi vua Louis hồi Đại
Cách mạng sống lại” (trích Lời nói đầu cuốn Hòm đựng người).
Cuốn Hòm đựng người của Nguyễn Triệu Luật là một tiểu thuyết lịch sử
đậm chất hƣ cấu, hầu hết các truyện trong tác phẩm là hƣ cấu hoàn toàn chỉ dựa
trên cái nền của một giai đoạn lịch sử xác định mà thôi. Hầu hết các nhân vật trong
tác phẩm đều là do chính tác giả tạo ra nhƣ Ấu Mai, Vũ Lăng hầu, Đặng tri phủ, Tố
Hà, mẹ Ấu Mai, Thúy Hồng, Kiều Cảnh,… Trong đó câu chuyện tình yêu giữa Ấu
Mai và Vũ Lăng hầu là một hƣ cấu mang nhiều dấu ấn của các tiểu thuyết lãng
mạn đầu thế kỷ XX. Trên các nền các biến cố lịch sử của triều đại Lê mạt cuối thế
kỷ XVII, với không gian cung đình, sơn lăng của vua Lê chúa Trịnh, tác giả đã
khéo léo gài lồng một cốt truyện ly kì về vụ án dâm loạn tại Quả Thịnh lăng của
cung nữ Ấu Mai và Vũ Lăng hầu. Những tình tiết của cốt truyện ấy đa phần hƣ
cấu: từ cuộc gặp gỡ của đôi nam nữ lần đầu tiên khi Ấu Mai đang trên đƣờng rời
cung về thăm nhà bị bọn cƣớp chặn đƣờng trêu ghẹo đƣợc Vũ Lăng hầu giải cứu,
đến việc Ấu Mai thông đồng cùng ngƣời tình và con hầu Thúy Hồng mang trai vào
Sơn Lăng tằng tịu, hoặc chuyện Tố Hà, bạn thân của Ấu Mai phản bội nàng, tên
Kiều Cảnh đày tớ của gia đình Ấu Mai bán đứng chủ nhân nhƣ… tất cả đều hƣ
cấu. Nửa sau của tác phẩm này là Tòa án xét xử vụ thông dâm giữa Ấu Mai và ông
hoàng Duy Lễ Vũ Lăng hầu đƣợc viết dựa trên những kiến thức của tác giả về việc
xét xử, tra tấn, các kiểu cung hình từ nhẹ đến nặng thời phong kiến của tác giả.
Đan xen vào những trang viết liệt kê các kiểu hình phạt dã man và có phần khô
khan ấy, là những hƣ cấu của tác giả về diễn biến nội tâm phức tạp của các nhân
vật Ấu Mai, Tố Hà (hiện lên rất rõ trong chƣơng V của tác phẩm). Chƣơng cuối
cùng là những hƣ cấu của tác giả về cái chết đầy bi kịch của Ấu Mai và Tố Hà, hai
nhân vật nữ chính. Ấu Mai khi biết gia đình đều đã chết vì tra tấn, một mình trên
75
tháp chuông Thiên Bảo chịu phơi nắng sƣơng, nàng toan chết thì lại bị ngăn lại. Tố
Hà sau khi phản bội Ấu Mai đƣợc thả tự do, đáng lẽ nên vui vẻ tiếp tục sống nhƣng
do cắn dứt chuyện Ấu Mai cô trở về tìm nàng trên tháp chuông, rồi cùng Ấu Mai tự
vẫn. Hai cung nữ Ấu Mai, Tố Hà, hai ngƣời phụ nữ sinh ra trong sự kiềm tỏa của lễ
giáo phong kiến nhƣng sớm do mƣu cầu hạnh phúc cá nhân đã vƣợt ra ngoài khuôn
khổ. Cái chết bi thảm của những ngƣời phụ nữ có lối sống vƣợt ra khỏi vòng lễ
giáo nhƣ một điều tất yếu, hiển nhiên đã đƣợc báo trƣớc.
Trong Loạn kiêu binh, nhân vật chú Phan Tự Minh là một nhân vật hƣ cấu
hoàn toàn. Việc miêu tả quang cảnh cuộc nổi loạn của kiêu binh từ điểm hìn của
nhân vật này đã làm cho những sử liệu khô khan về cuộc nổi loạn có thật trở nên
chân thực, rõ nét hơn. Qua cách nhìn nhận của Phan Tự Minh về thời cuộc đang
diễn ra trƣớc mắt, những hƣ cấu nghệ thuật dễ dàng len lỏi vào câu chuyện lịch sử
làm sống động câu chuyện lịch sử. Ví dụ nhƣ chi tiết hƣ cấu về một cửa tiệm tên là
Thái Bạch bị quân Tam phủ nổi loạn gây khó dễ (qua con mắt chú Phan Tự Minh)
làm cho việc kiêu binh nhũng nhiễu dân lành vốn là sự thực lịch sử lại càng giống
thật hơn (gần gũi với hiện thực đời sống), do vậy gần gũi với bạn đọc hơn:
“Vừa nói đến đấy thì tiếng ồn ào đạp phá chửi bới đã rầm rầm bên nhà xế
cửa. Đứng dậy mở chiếc cửa lỗ tròn con bằng cái bát, chú ghé mắt nhìn sang.
Bên kia dãy phố trƣớc cửa hiệu Thái Bạch tửu điếm, một lũ kiêu binh đƣơng
đạp phá reo hò:
- Phá cửa, đập bể trốc chúng nó ra! Bay lại chứa quân phản tặc à? Mau mau
mở cửa không choa phá bể cửa thì đừng trách!
Len vào giữa tiếng quát tháo ẩm ỹ, ngƣời ta còn nghe thấy tiếng ngƣời bên
trong hiệu cố hết sức cãi lại minh oan:
- Nhà hàng thì phải tiếp khách chứ!
Một lúc cửa bị phá. Bọn Kiêu binh ập vào. Tiếng bát đĩa, tiếng bàn ghế đổ,
tiếng xô xát. Một lúc, họ lôi ra ba ngƣời máu me đầm đìa” [33, tr.283]
Trong Bà chúa Chè thì nhân vật ông Đồ Nam, thân sinh của Đặng Thị Huệ
là một nhân vật hƣ cấu. Không có tài liệu ghi chép gì về gia thế của Đặng Thị Huệ.
76
Nhƣng việc Đặng Thị Huệ là ngƣời cơ mƣu, giỏi giang, thông hiểu việc nƣớc,
đƣợc chúa Trịnh Sâm nhiều lần còn đem chuyện quốc gia ra bàn bạc cùng thì Đặng
Thị thì cho rằng con nhà có học cũng là hợp lý. Tuy không phải nhân vật chính
nhƣng nhân vật ông Đồ Nam, một nhà Nho “công không thành, danh không toại”,
bạc nhƣợc, sống phụ thuộc vào sự tần tảo của ngƣời vợ và sau này là đứa con gái
cả khá sinh động. Trong chƣơng đầu của tác phẩm Bà chúa Chè, ông Đồ Nam mặc
dù đƣợc miêu tả là nghèo đói, không có khả năng mƣu sinh song dù nghèo cũng
không muốn con mình vào phủ chúa làm kẻ hầu ngƣời hạ cho ngƣời khác. Chi tiết
này đã thể hiện phần nào sự tấm lòng của ngƣời cha, cái sĩ khí của một nhà Nho
cao khiết không muốn bi chi phối bởi miếng cơm manh áo. Sự xuất hiện của nhân
vật này ở chƣơng I và chi tiết ngăn cản Huệ và cung, đã làm cho chƣơng I của tác
phẩm thêm phần hấp dẫn, khiến ngƣời đọc cảm thấy tò mò cho số phận của Đặng
Thị sẽ diễn biến tiếp nhƣ thế nào. Ở đây, ngƣời cha nhƣ đại diện của chuẩn mực
phong kiến, cho các đạo lý Nho gia; còn cô con gái Đặng Thị Huệ là là ngƣời phá
cách, muốn vƣợt lên những ràng buộc đó. Chi tiết sau mƣời hai năm xa cách, ông
Đồ tìm gặp con gái, nay đã là một Vƣơng phi thất thế bị giam trong Sơn lăng giàu
ý nghĩa. Ngƣời cha đến gặp con nhằm thức tỉnh cô con gái nhận ra sai lầm của cái
lối “đảo hành nghịch thi” nàng đã chọn từ đầu. Song đến cuối cùng Đặng Thị vẫn
cả quyết: “Con vẫn cho là phải. Con làm trái thƣờng thì đƣợc hƣởng phú quí cực
vọng trong mƣời năm… Thà rằng hƣởng nhiều mà chết non còn hơn chết già mà
khổ sở” [33, tr.213]. Hình ảnh ông đồ Nam buồn rầu ra về, “đi thất thểu nhƣ ngƣời
điên dại” cho thấy sự khuất phục của các lễ giáo phong kiến trƣớc những ý tƣởng
táo bạo mƣu cầu hạnh phúc cá nhân của con ngƣời.
Tóm lại, sự xuất hiện những hƣ cấu hoàn toàn trong tiểu thuyết của Nguyễn
Triệu Luật đã góp phần làm tăng tính hấp dẫn, thu hút độc giả cho các tác phẩm.
Việc sử dụng loại hƣ cấu này là đặc điểm mới xuất hiện của tiểu thuyết lịch sử thế
kỷ XX. Việc xuất hiện những nhân vật, sự kiện hoàn toàn hƣ cấu trên cái phông
nền lịch sử xác định là cơ hội để nhà văn tháo gỡ đƣợc phần nào những ràng buộc
77
của tính chân thực lịch sử, đƣa tiểu thuyết lịch sử gần gũi hơn với thời đại ngày
nay bằng việc cung cấp những chi tiết nhân vật, sự kiện khách quan mang ý nghĩa
điển hình.
3.2.2. Nghệ thuật kết cấu
Tác giả Phan Cự Đệ từng định nghĩa nhƣ sau về kết cấu: “Tác phẩm nghệ
thuật bao gồm nhiều yếu tốn nhiều thành phần phức tạp. Tất cả những bộ phận
khác nhau đó đƣợc nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một hệ thống, một trật tự nhất
định gọi là kết cấu” [12, tr. 757]. Theo sách Lý luận văn học do Hà Minh Đức chủ
biên, kết cấu là “sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự
tổ chức, sắp xếp các yếu tố, chất liệu tạo thành nội dung của các tác phẩm trên cơ
sở đời sống khách quan và theo một chiều hƣớng tƣ tƣởng nhất định” [15, tr.143].
Kết cấu làm nhiệm vụ nhƣ mối liên kết giữa các yếu tố nội dung và hình thức trong
một tác phẩm văn học, có vai trò quan trọng trong việc định hình tác phẩm, xây
dựng hình tƣợng và sự phát triển của sƣờn cốt truyện. Xét về mặt hình thức, có
nhiều loại kết cấu khác nhau: kết cấu chƣơng hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu đơn
tuyến, đa tuyến,… Tác giả Bùi Văn Lợi thì: “kết cấu các tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1900 – 1945 tƣơng đối đa dạng: vừa có loại kết cấu chƣơng hồi,
vừa có loại kết cấu của tiểu thuyết hiện đại phƣơng Tây” [31]. Theo khảo sát của
chúng tôi trên cả 8 tiểu thuyết còn sót lại, tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật không có
tác phẩm nào mang kết cấu chƣơng hồi, tất cả đều đƣợc viết theo lối kết cấu của
tiểu thuyết hiện đại: kết kết cấu không tuân theo trật tự tuyến tính.
Bà chúa Chè là một tiểu thuyết có nhiều sự xáo trộn thời gian trong văn bản.
Nhìn chung là tác phẩm là một câu chuyện tuần tự từ khi Đặng Thị Huệ còn là cô
gái hái chè làng Ném đến khi kết liễu cuộc đời ở Sơn Lăng, tuy vậy, ở mỗi chƣơng
của tác phẩm thì lại có sự lắp ghép, xáo trộn các mốc thời gian với nhau: Ở chƣơng
I, câu chuyện bắt đầu vào năm 1702 cùng với việc ra đời của cây cầu bắc giữa làng
Bịu và làng Ném sau đó chuyển ngay đến mốc năm 1771 khi Đặng Thị Huệ 15 tuổi
với cuộc sống lam lũ của cô gái hái chè. Sau đó, theo dòng suy nghĩ miên man của
78
nhân vật, thời gian câu chuyện lại lùi về 5 năm trƣớc (khoảng năm 1766) khi mẹ
Đặng Thị Huệ qua đời để lại gánh nặng nuôi bố, nuôi em cho cô bé Huệ mƣời tuổi.
Tiếp đó là mốc Huệ mƣời một trong ngày đầu năm mới. Cuối cùng quay trở lại
tuyến tính vào thời điểm Đặng Thị Huệ 15 tuổi. Trong sáu chƣơng của tác phẩm
thì chỉ hai chƣơng là hoàn toàn tuân thủ thời gian tuyến tính của tác phẩm mà thôi.
Trong tác phẩm Chúa Trịnh Khải, mặc dù nhìn chung toàn tác phẩm là câu
chuyện kể với trục thời gian tuyến tính (tại thời điểm 160 năm trƣớc), song riêng
chƣơng I của tác phẩm thì lại có lối kết cấu khác hẳn. Ở chƣơng mở đầu, tác giả
bắt đầu với việc kéo lùi thời gian tới tận thời điểm rất hiện tại tác giả đang sống
(trƣớc hai mƣơi ba năm), sau đó lại lùi đến 160 năm tới thời Tĩnh Đô vƣơng, rồi lại
qua hồi tƣởng của nhân vật Ngô Thì Sĩ lùi tiếp 34 năm nữa vào buổi khai bút ngày
tết ở gia đình ông, sau cùng lại quay về thời điểm 160 năm trƣớc. Trong chƣơng
này có những đoạn điểm nhìn của ngƣời kể chuyện biết tuốt đã nhập hẳn vào điểm
nhìn của nhân vật, ví dụ: khi miêu tả về nhân vật Ngô Thì Sĩ, ngƣời kể chuyện nhƣ
hòa cả vào câu chuyện cuộc đời của nhân vật và thuật lại câu chuyện qua con mắt
nhìn nhận của nhân vật này, hồi tƣởng lại quãng đời đã qua, khiến mạch truyện
theo dòng hồi tƣởng ấy bị đẩy lùi thời gian về quá khứ 34 năm trƣớc.
Ở Loạn kiêu binh, nguyên chƣơng I của tác phẩm là thời gian tuyến tính một
trục nhƣng đến chƣơng hai, thời gian trở lại quá khứ đến tận thời Thái tử Duy Vĩ
còn sống và mô tả những diễn biến xung quanh mối quan hệ của Thái tử Duy Vĩ và
Trịnh Sâm, rồi ở chƣơng III, câu chuyện lại quay lại trục tuyến tính vốn có. Trong
mỗi một chƣơng, thời gian hầu nhƣ đều tuân thủ tuyến tính nhƣng riêng đến
chƣơng IV của tác phẩm thì xảy ra hiện tƣợng xáo trộn trật tự thời gian: đang nói
chuyện chạy loạn của vợ con Nguyễn Lệ thì truyện lại lùi về quá khứ để miêu tả sự
việc trƣớc đó (cả nhà Nguyễn Lệ đến trạm Mai Dịch thì tạm chia làm hai ngả chạy
trốn kiêu binh, Nguyễn Lệ tìm đến em mình để xin cầu viện, còn vợ con lại cậy
nhờ ngƣời quen ở làng Vân Giáp).
Nhìn chung về kết cấu, tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật có kết cấu
khá hiện đại. Không giống với tiểu thuyết chƣơng hồi cổ điển, tiểu thuyết Nguyễn
79
Triệu Luật có hiện tƣợng xáo trộn các mốc thời gian, về kết cấu không tuân theo
tuyến tính. Mặc dù vẫn chƣa có sự chuyển biến mạnh mẽ, còn đơn giản, chƣa thực
sự bứt phá, nhƣng nhờ lối kết cấu kể trên, tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật đã
tạo ra đƣợc một không khí lịch sử linh hoạt hơn, mới mẻ hơn so với tiểu thuyết lịch
sử chƣơng hồi trƣớc đó.
3.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là: “Con ngƣời cụ thể
đƣợc miêu tả trong tác phẩm… Khái niệm nhân vật văn học có khi đƣợc sử dụng
nhƣ một ẩn dụ, không chỉ một con ngƣời cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tƣợng nổi
bật nào đó trong tác phẩm… Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính
ƣớc lệ, không thể đồng nhất nó với con ngƣời có thật trong đời sống” [21, tr.202].
Trong một tác phẩm , nhân vật không chỉ thể hiện tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm
mà còn thể hiện quan điểm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn. Tô Hoài thì cho
rằng nhân vật trong một tác phẩm văn học hiện đại là cái đáng quan tâm hàng đầu:
“Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng
tác” [23, tr.47]. Theo tác giả Phan Cự Đệ thì: “Các nhà tiểu thuyết hiện đại chủ
yếu suy nghĩ bằng nhân vật chứ không phải bằng cốt truyện” [12, tr.731]. Với tầm
quan trọng nhƣ vậy, việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm
văn học sẽ giúp chúng ta thuận lợi hơn trong việc tiếp cận ý đồ sáng tạo của nhà
văn.
3.2.3.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua giới thiệu tiểu sử và
miêu tả ngoại hình.
Cũng giống nhƣ nhiều tiểu thuyết lịch sử đƣơng thời, tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Triệu Luật cũng ít nhiều xuất hiện yếu tố của tiểu thuyết chƣơng hồi từ
xây dựng nhân vật theo lối xây dựng nhân vật nhƣ là khắc họa tính cách nhân vật
thông qua việc giới thiệu tiểu sử và miêu tả ngoại hình. Thủ pháp này cho phép nhà
80
văn thông qua việc giới thiệu tiểu sử nhân vật hé lộ tính cách của nhân vật.
Trong tác phẩm Bà chúa Chè, Nguyễn Triệu Luật đã sử dụng đối thoại giữa
những ngƣời tổng Ném về gia cảnh của Đặng Thị Huệ để hiện lên phần nào những
đức tính tốt đẹp của nàng:
“- Tội nghiệp con bé! Một thân lo cả trăm chiều. Mới tí tuổi đầu đã vất vả.
Thế mới biết không gì bằng có mẹ. Bố nó là học trò lại gặp cảnh gà trống nuôi con,
thành ra con bé phải gánh vác cả. Sáng mờ đất đã phải lên đồi hái chè rồi về thổi
cơm. Cơm xong đi bán chè, trƣa về nộp tiền cho ông Quản, rồi thì băm bèo nấu
cám, vá áo,... thôi trăm công nghìn việc. Con bé cũng ngoan.
- Rồi thì trời đền công cho. Bé vất vả rồi sau lớn mới sƣớng, nhƣ thế càng
hay. Con bé tuy còn bé, nhƣng trông ngƣời khá lắm. Nhất là cái dáng đi, cái miệng
cƣời thật là ung dung nhƣ bà chúa. Ra ngoài, tôi đố ai biết nó phải lo nghĩ.” [33,
tr.132]
Ở đây tác giả đã sử dụng cả hai cách, dùng tiểu sử nhân vật lẫn miêu tả
ngoại hình để làm tôn lên đƣợc đức hi sinh, chịu thƣơng chịu khó của cô gái trẻ
mới mƣời lăm tuổi đã phải sớm gánh vác nỗi lo cơm áo của gia đình. Việc miêu tả
ngoại hình “cái dáng đi, cái miệng cƣời ung dung nhƣ bà chúa” cho ta thấy đƣợc
một phần bản lĩnh, khí chất hơn ngƣời, luôn tìm cách khắc phục hoàn cảnh của Thị
Huệ, và liên tƣởng tới ngƣời đàn bà “quyền nghiêng thiên hạ” sau này.
Hay trong đoạn khác tác giả miêu tả nhan sắc của Đặng Thị Huệ để thể hiện
tính cách, khí chất, qua đó dự cảm trƣớc số phận lắm thị phi của nàng: “Mặt nàng
trái xoan, đôi mắt hơi xếch điểm bộ lòng đen đen ngời. Cái vẻ sáng nhƣ gƣơng, sắc
nhƣ dao của khoé mắt đƣợc cái sắc đen thẫm của lòng đen làm dịu lại. Thật là sáng
nhƣ tia chớp mà êm đềm nhƣ nƣớc hồ thu.
Nàng cúi gầm mặt xuống, thì nhƣ đem cả làn thu ba chìm tận đáy lòng, mà
khi nàng ngƣớc mắt nhìn lên thì nhƣ đem hết tinh hoa bật lên một tia sáng làm
chóa mắt ngƣời xem” [33, 142].
Từ đoạn văn trên, ta có thể thấy đƣợc một cách rõ nét nhan sắc khuynh
thành của Đặng Thị Huệ. Nhƣng bên cạnh đó, thần thái từ nhan sắc đó nhƣ “đôi
81
mắt xếch điểm bộ lòng đen ngời ngời”, “khi nàng ngƣớc mắt lên…bật lên một tia
sáng làm chóa mắt ngƣời xem” thì có vẻ nhƣ quá sắc sảo, quá rực rỡ. Những nét
đẹp đó tuy nổi trội nhƣng lại khiến ngƣời ta dễ dàng phật ý, ganh ghét. Những
đƣờng nét sắc sảo ấy cũng thể hiện một phần nét tính cách mạnh mẽ, dám đƣơng
đầu với mọi rào cản xã hội của Đặng Thị Huệ.
Ở tác phẩm Hòm đựng người, đoạn miêu tả tiểu sử Thái hậu Trịnh Thị Hành
đã cho ta thấy phần nào tính cách nham hiểm của bà ta: “Con mẹ Trịnh Thị Hành
(tên thái hậu) nó ác nghiệt quá, Hoàng Khảo tôi không biết quí gì mà lấy nó. Trƣớc
nó lấy Cƣơng Quận công Lê Trụ, đã đƣợc bốn con. Sau Trụ mƣu trừ họ Trịnh, bố
nó là thằng Trịnh Tráng mới lôi nó về đem vào cung tiến Hoàng Khảo tôi. Giá
không có nó thì tôi lên ngôi quí chứ còn gì đến thằng ranh Duy Vũ (tên vua Huyền
Tông), mà không có nó thì cô đâu phải uổng hoài xuân xanh trong cung cấm mãi
thế” [33, tr.51].
Nhân vật Kiều Cảnh của Hòm đựng người thì đƣợc khắc họa nét tính cách
qua những miêu tả của tác giả về hình dáng của y: “Thằng Kiều Cảnh xem tƣớng
mặt chuột kẹp, môi thâm da thiết bì, dáng đi nhƣ con cáo, mắt liếc nhƣ mắt lang,
chắc không phải đứa tử tế. Nuôi ong tay áo, sau có việc nào, hối sao cho kịp”
[33, tr.38]. Nhƣ ông bà ta vẫn nói: “trông mặt mà bắt hình dong”, dựa vào gƣơng
mặt, vóc dáng, cử chỉ của một cá nhân, ngƣời Việt thƣờng suy luận, liên tƣởng đến
cả phẩm chất, tính tình của họ, ví dụ nhƣ theo quan niệm nhân tƣớng học của
ngƣời Việt thì một ngƣời mặt mày nhƣ ngọc, mặt mày sáng láng, buồn vui không
lộ ra nét mặt nhƣ Lƣu Bị trong tiểu thuyết Tam quốc chí của Trung Quốc là ngƣời
thể gây dựng sự nghiệp lớn, hay dáng ngƣời to béo đẫy đà, màu da nhờn nhợt của
mụ tú bà trong Truyện Kiều là kiểu ngƣời xấu xa, lắm chiêu trò. Theo đó, một
ngƣời môi thâm, mặt chuột, dáng đi nhƣ cáo rất dễ bị ngƣời ta nghi ngờ là kẻ gian
xảo, phản phúc, một kẻ sẽ mang đến tai họa cho ngƣời khác trong tƣơng lai. Tóm
lại, với những miêu tả kể trên về nhân vật Kiều Cảnh, ngƣời ta dễ hình dung về y
nhƣ một kẻ không chỉ có ngoại hình xấu xí mà định hƣớng ngƣời đọc về nhân
82
cách, con ngƣời y.
Nguyễn Hoãn trong Bà chúa Chè thì hiện lên với một tiểu sử khiến nhiều
ngƣời phải nghi ngờ phẩm cách của ông: “tuy là ngƣời khoa bảng xuất thân, văn
hay chữ tốt, nhƣng tính nết tròn trặn quá. Ông chỉ đáng chê ở cái chỗ tính tròn trặn
quá ấy mà thôi. Vì tròn trặn, nên ông chỉ cầu "duyệt lòng ngƣời", mặc lòng cái
cách "duyệt lòng ngƣời" nhiều khi có thƣơng tổn đến cái phẩm giá nhà nho của
ông. Cái tính thích "duyệt lòng ngƣời" khiến ông thờ nhà Trịnh rồi lại ra đón chúa
Tây Sơn, rồi lại theo Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lại theo Võ Văn Nhậm, rồi kết cục
theo nhà Tây Sơn” [33, tr.178]. Chỉ riêng cái việc xuất thân khoa bảng, chịu ảnh
hƣởng của Nho học mà lại đi thờ nhiều chủ nhƣ vậy đã là một dấu hỏi lớn rồi. Nếu
nhƣ vì vạn cùng bất đắc dĩ mà phải thờ hai chủ, thì nhà Nho ngày xƣa cũng thƣờng
thấy đó là điều xấu hổ, là sự sỉ nhục. Nhƣng Nguyễn Hoãn lại có vẻ luôn thuận
theo thế cuộc, theo đến bốn vị khác nhau (chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, Nguyễn Hữu
Chỉnh, Võ Văn Nhậm) thì ông ta không lẽ nào có thể là một “chính nhân quân tử”.
Ở Loạn kiêu binh, nhân vật Phan Tự Minh cũng đƣợc tác giả áp dụng thủ
pháp này: “Những ngƣời Tàu sang ở An Nam, nếu họ vào làng ta cả, ăn mặc ta cả,
thì họ xóa nhèm hẳn cả quốc tịch họ, họ hình nhƣ bị đồng hóa… Đến đời chú Phan
Tự Minh chủ hiệu Nam Phan, nhà Thanh truyền đƣợc bốn đời và hơn một trăm
năm. Dân Tàu đã hết coi là kẻ thù rồi và đã nhận vua nhà Thanh là chính thống rồi,
nhất là sau những võ công văn trị của mấy đời Khang Hy, Kiền Long. Chú đã gọi
cam Thiều Châu là cam Tàu, cam Đồng Dụ là cam ta” [33, tr.281]. Việc miêu tả
tiểu sử chú Phan Tự Minh, một ngƣời Tàu đời thứ tƣ ở An Nam đã làm hiện lên
phần nào nét tính cách hòa đồng, thân thiện của chú, đồng thời lý giải những quan
tâm của nhân vật này đối với tình hình an nguy của Thăng Long trong “đại nạn”
loạn kiêu binh.
Nhìn chung, bằng thủ pháp khắc họa tính cách nhân vật qua việc miêu tả
tiểu sử, ngoại hình, Nguyễn Triệu Luật đã giúp ngƣời đọc có những hình dung ban
đầu về tính tình, nhân cách của nhân vật, làm tiền đề lý giải những hành động, diễn
biến tâm lý của nhân vật ở phía sau. Đặc biệt, bằng việc sử dụng thủ pháp này, tác
83
giả đã sáng tạo đƣợc những đoạn miêu tả ngoại hình nhân vật rất hiện đại, đã vƣợt
lên hẳn so với tiểu thuyết chƣơng hồi trƣớc đó nhƣ đoạn miêu tả ngoại hình của
Đặng Thị Huệ đã nói ở trên chẳng khác nào những đoạn miêu tả các nhân vật nữ
hiện đại của thế kỷ XX trong tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn cả.
3.2.3.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua miêu tả hành động
Một đặc điểm khác trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết chƣơng hồi chữ
Hán là khắc họa tính cách nhân vật thông qua miêu tả hành động. Với việc miêu tả
hành động, các nhà tiểu thuyết cổ điển có thể nêu bật đƣợc tính cách của nhân vật
trong diễn biến của cốt truyện. Cũng mang đặc điểm đó, nhiều nhân vật trong tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật đƣợc khắc họa rõ nét hơn qua chính hành
động của mình.
Trong tác phẩm Bà chúa Chè, hành động trông thấy ngọc quý chúa đang đeo
liền “thò tay rút hòn ngọc ra ngắm nghía mãi rồi lại tung lên lấy tay đỡ lấy để đùa”,
sau đó tru chéo: “Chúa Thƣợng quí vật hơn ngƣời! Lỡ ra vỡ thì chúa thƣợng giết
thần thiếp chứ gì! Thôi thì tấm thân đã không đƣợc chuộng bằng hòn đá Quảng
Nam thì thà chết cho xong, sống làm gì. Đầu thần thiếp cùng ngọc này cùng vỡ!
Nói đoạn, nàng cầm hòn ngọc quật xuống thềm vỡ tan rồi ngồi phục xuống: Tấm
thân vứt bỏ xin chịu tội trƣớc mặt chúa thƣợng” [33, tr.175] đã bộc lộ đƣợc phần
nào tính cách ngang ngƣợc, “coi trời bằng vung” của Đặng Thị Huệ. Tuy vậy chính
việc dám đập ngọc mà khéo lại gài một tích cũ trong sách cổ, rồi dám ví chúa quí
ngọc hơn ngƣời của Đặng Thị Huệ khiến chúng ta thấy đƣợc phần nào nét tinh
ranh của nàng. Nàng đập một viên ngọc “giá trị liên thành” nhƣng dùng nó thể hiện
sự hiểu biết về điển tích, điển cố khiến chúa không những không thể giận mà lại
càng nể phục, thƣơng yêu.
Trong Loạn kiêu binh, hành động của Thái tử Duy Vĩ khi bị giáng tội oan
trƣớc Trịnh Sâm thể hiện rất rõ lòng tự tôn, sự dũng cảm và và ý chí không chịu
khuất phục, luồn cúi của vị Thái tử tài hoa bạc mệnh:
“Đến phủ, trƣớc mặt chúa Trịnh, Thái tử đứng thẳng ngƣời, trừng mắt nhìn
84
mà không thèm nói gì. Huy Định sai cởi trói rồi quát:
- Lê Duy Vĩ, sao không lạy?
Thái tử không chịu:
- Việc thoán thí phế lập, họ hàng nhà chúng bay đã quen đi rồi. Khi nào tao
lại phải lạy đứa loạn thần. Hay giở làm sao sau này đã có thanh sử đó. Tao có tội
gì?” [33, tr.297].
Nhân vật Nguyễn Huệ tuy chỉ xuất hiện vài dòng ngắn ngủi nhƣng với thủ
pháp khắc họa tính cách bằng hành động, tác giả đã cho chúng ta thấy đƣợc hình
ảnh của một ngƣời vừa khí khái, vừa công bằng, có tầm nhìn, lại có tấm lòng tốt
đẹp: “Long Nhƣơng tƣớng quân nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ vỗ vào thi thể Trịnh
Vƣơng:
- Đáng tiếc! Ngƣời đẹp trai nhƣ thế này! Thật đáng tiếc. Nếu sớm biết hàng
ta thì cũng đƣợc giàu sang! Sao mà thân làm tội đời nhƣ thế này!
Đoạn cho khâm liệm đúng lễ đối với một bực vƣơng giả, sai lấy cỗ xe Tiểu
long Bình đính đƣa đến an táng ở trại Phƣơng Liệt, gần mộ Cung Quốc công Trịnh
Cán” [33, tr.276]. Việc Nguyễn Huệ, ngƣời thắng trận, ngƣời đang đứng ở vị thế
cao hơn lại có thái độ cởi mở, tôn trọng, hòa nhã với kẻ thất bại, kẻ đã mất hết
quyền lực trong tay đã thể hiện đƣợc phần nào nhân cách cao đẹp của nhân vật.
Nhìn chung, cũng giống nhƣ nhiều nhà tiểu thuyết đƣơng thời, tác giả
Nguyễn Triệu Luật thƣờng sử dụng thủ phápkhắc họa tính cách nhân vật thông qua
những hành động, thậm chí nhiều ngƣời còn cho rằng: đa phần nhân vật trong tác
phẩm của ông nặng về hành động nhiều hơn là tâm lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
những trang miêu tả tâm lý của nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu
Luật cũng không hề kém phần giá trị.
3.2.3.3. Khắc họa tính cách nhân vật qua độc thoại nội tâm và miêu tả
tâm lý nhân vật
Có thể nói, thủ pháp miêu tả tâm lý nhân vật và độc thoại nội tâm, qua đó
khắc họa tính cách nhân vật là thủ pháp hay đƣợc sử dụng trong tiểu thuyết hiện
85
đại. Trong tác một tác phẩm, việc miêu tả tâm lý nhân vật và những độc thoại nội
tâm của nhân vật sẽ làm nhân vật đó hiện lên toàn diện hơn, giúp khai phá nhiều
khía cạnh, nhiều uẩn khúc xung quanh các nhân vật văn học.
Để làm nổi bật các nhân vật chính của mình, Nguyễn Triệu Luật thƣờng sử
dụng thủ pháp này trong trần thuật. Trong tác phẩm Hòm đựng người, chƣơng V,
tác giả đã giành nhiều đoạn miêu tả sự giằng co nội tâm phức tạp của nhân vật Tố
Hà và Ấu Mai. Sau khi vụ vụng trộm giữa Ấu Mai và Vũ Lăng hầu bị phanh phui,
tất cả những kẻ liên quan đến vụ án đều bị giam lại chờ xét xử, lúc này, tâm trí Tố
Hà đã diễn ra một cuộc tranh đấu dữ dội giữa một bên là hại ngƣời chị em tốt của
mình là Ấu Mai sẽ đau khổ, sẽ không nỡ nhƣ thế nào và một bên là giữ tình bạn
nhƣng mối thù chung không thể trả, nỗi mong ngóng gặp gỡ gia đình, ngƣời thân
và ngƣời yêu ở quê nhà thì mãi không nguôi. Ở phần này, có đoạn tác giả còn cho
nhân vật này phân thân làm hai để đấu tranh, dằn vặt nhau, đấu tố lẫn nhau:
“Một đêm, nàng tự xẻ khối óc ra làm đôi, một nửa làm quan toà buộc cái tội
trái lời thề, trái lời thề với ngƣời bạn thân, một nửa làm thày cãi hộ biện cho
cái phải vị kỷ của nàng.
- Tố Hà! Mày phải nhớ ơn cha mẹ. Ơn ấy không thể sao quên đƣợc. Tội gì
mà vì chút tình bằng hữu mới mẻ, bỏ ngƣời sinh ra mày, cơm nặng, áo may cho
mày!
- Tố Hà mày nhẫn tâm giết ngƣời để tìm bố mẹ à? Mà bố mẹ mày đã chắc gì
còn sống! Tình bằng hữu tuy mới, nhƣng là ngƣời còn sống; bố mẹ dẫu là ơn đầy
sống bể nhƣng là ngƣời không chắc đã còn. Mày giết mấy mạng ngƣời, mày giết
một gia đình để đi tìm lũ ngƣời có lẽ chết rồi ƣ?
…
- Cái đó cũng có lẽ... Cha mẹ tôi, anh em tôi đều là máu mủ họ Mạc, có lẽ
đều bị giết hại cả rồi, cái đó cũng có lẽ... Nhƣng Cao Trƣờng Bộ thì có máu mủ gì
với họ Mạc mà bị nạn ấy. Tôi phải đi tìm ngƣời cũ của tôi, ngƣời đã cùng tôi non
chỉ bể thề. Một lời đã ƣớc đến chết không quên.
86
- Nhƣng giết chết hàng trăm mạng, mày nhẫn tâm à?
- Chết thế nào đến trăm mạng đƣợc. Việc vỡ ra chỉ chết Ấu Mai và vài đứa
đầy tớ nhà Ấu Mai mà thôi.
- Đổi một ngƣời bạn lấy một ngƣời chồng mà cũng vì tình thế bắt buộc chứ
nào tôi có nhẫn tâm phụ ai?” [33, tr.72 – 73].
Ở Bà chúa Chè, nhân vật Đặng Thị Huệ cũng có một bức tranh tâm trạng
đầy tranh đấu trong cái đêm dám cãi lời cha chuẩn bị theo bà Tiệp dƣ vào làm con
đòi trong phủ chúa: “Đêm hôm ấy, hai cha con đều trằn trọc không ngủ đƣợc. ông
Đồ vì tủi nhục, Huệ vì cái định kiến và cái hi vọng của nàng. Nàng nghĩ: Thì cơ,
muốn có thì phải đổi chỗ ở, bƣớc sang một dịp cầu khác. May ra... Ta cũng chẳng
cầu gì làm một đứa thị nữ, ta chỉ cầu lọt vào hoàng cung vƣơng phủ để chờ xem có
dịp gì không. Không vào rừng, sao bắt đƣợc cọp, mà đã vào rừng thì vào đƣờng
hoàng hay vào chui rúc cũng thế mà thôi” [33, tr.144]. Qua đoạn độc thoại nội tâm
này, ta phần nào thấy đƣợc nét tính cách vừa quyết đoán, vừa thực dụng, không
muốn sống cuộc sống gò bó, cam chịu định mệnh của Đặng Thị Huệ.
Độc thoại nội tâm của Trịnh Khải khi còn ở Tam Nhàn đƣờng thể hiện sự
tuyệt vọng hoàn toàn trƣớc cảnh ngộ bị ghét bỏ của mình, đồng thời tự mình an ủi
rằng cái ngƣỡng vọng quyền lực mà mình bị tƣớc đoạt kia cũng chẳng tốt đẹp gì:
“Phen này thì chết! Quân phụ bảo ta chết thì ta chết! Chết mà lại rảnh. Đất họ
Trịnh nhà ta, theo phong thủy là thế đất: phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ;
nhị bách dư niên, tiêu tường nãi họa. Kể từ Thái vƣơng đến bây giờ đã đƣợc hơn
hai trăm năm rồi. Cái vạ diệt vong chỉ đời sau là thấy. Đƣợc dựng làm chúa nữa thì
bất quá cũng là giơ mình ra chịu làm con hi sinh mà thôi, quí báu gì. Âu là chết!”.
Những diễn biến nội tâm đƣợc miêu tả sau đó cũng tiếp nối mạch tâm trạng này
làm cho nhân vật Trịnh Khải hiện lên với hình ảnh vừa bất lực, vừa đáng thƣơng,
nhƣng cũng đồng thời thể hiện đƣợc nét tính cách bạc nhƣợc, hay lo sợ, chán nản,
thất vọng của nhân vật.
Với những trang viết miêu tả nội tâm cùng cách sử dụng độc thoại thƣờng
xuyên của mình (hầu nhƣ tác phẩm này, chƣơng nào cũng sử dụng độc thoại), tác
87
giả Nguyễn Triệu Luật đã xây dựng nên những nhân vật vô cùng sống động, nhƣ
bƣớc ra từ cuộc sống hàng ngày. Cũng vì thế mà các nhân vật lịch sử, hay sự kiện
lịch sử trở nên bớt khô khan, chân thực hơn, qua đó, một lần nữa, nhân vật đƣợc
nhìn nhận lại, đánh giá lại ở nhiều khía cạnh.
Nói tóm lại, trong tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Triệu Luật đã sử
dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật. Qua đó,
các nhân vật đặc biệt là các nhân vật lịch sử hiện lên chân thực và hấp dẫn hơn hẳn,
giúp chúng ta có đƣợc cái nhìn nhiều chiều về các họ hơn. Ngoài ra, đọc tiểu
thuyết Nguyễn Triệu Luật, ta còn bắt gặp việc tác giả sử dụng cả thủ pháp miêu tả
thiên nhiên trong khắc họa tâm trạng nhân vật nhƣ là đoạn miêu tả một đêm trăng
đông lạnh lẽo nơi Sơn lăng cuối chƣơng II, Hòm đựng người: “Ngoài gió ngàn thổi
mạnh, xao xác hơi may, thổi nghiêng khóm trúc la đà, vuốt mạnh lá thông thành
tiếng. Trông khóm trúc nhƣ ngƣời tội nhân cúi đầu van ngọn cuồng phong. Nghe
tiếng thông reo nhƣ tiếng rền rĩ oan thảm của chốn Sơn lăng lạnh lẽo” [33, tr.35].
Trong đoạn văn này, tác giả đã miêu tả sự lạnh lẽo, cô tịch đáng đáng sợ của cảnh
vật để khắc họa tâm trạng buồn tủi, cô đơn,oán hận số phận nghiệt ngã chất chứa
trong lòng của biết bao nhiêu cung nữ bị nhốt giữa bốn bức tƣờng sơn lăng (nơi
thực chất là một nấm mồ chôn những ngƣời còn sống). Qua đó, ta thấy đƣợc phần
nào ảnh hƣởng của dòng văn học lãng mạn đầu thế kỷ XX trong sáng tác của tác
giả Nguyễn Triệu Luật.
3.2.4. Ngôn ngữ
Mỗi nhà văn trƣớc hết phải là một nhà nghệ sĩ của ngôn từ. Bởi ngôn ngữ có
vai trò hết sức quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, nó là yếu tố đầu tiên của văn
học. Nhà văn muốn có tác phẩm hay thì trƣớc tiên anh ta phải có đƣợc một hệ
thống ngôn từ phong phú, có phong cách riêng bằng cách liên tục trau dồi, học hỏi
từ nhiều nguồn, cả trong sách vở lẫn ngoài thực tế. Đối với tiểu thuyết lịch sử,
dạng tiểu thuyết mang tính chất đặc thù thì việc trau chuốt ngôn ngữ càng phải
đƣợc coi trọng. Tiểu thuyết lịch sử do chịu sự chi phối của đặc trƣng thể loại nên
88
bản thân nó phải tạo nên đƣợc một bức tranh ngôn từ đặc biệt, sao cho ngƣời đọc
thấy đƣợc ngôn ngữ đó phải mang màu sắc lịch sử của không gian lịch sử mà tác
phẩm đề cập, nhƣng không đƣợc quá khiêng cƣỡng, xa rời độc giả hiện đại. Theo
khảo sát của chúng tôi, nếu phân chia theo không gian văn hóa, tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Triệu Luật tồn tại hai lớp ngôn ngữ: ngôn ngữ cung đình và ngôn ngữ
bình dân.
* Ngôn ngữ cung đình cổ kính, trang trọng
Đa số các tác phẩm đều xuất hiện một không gian cung đình nhà Lê - Trịnh
cho nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong bối cảnh không gian này mang đậm
màu sắc lịch sử, trang trọng. Biểu hiện đầu tiên của loại ngôn ngữ này là các cung
cách xƣng hô của vua quan trong triều đình, việc nhắc tƣớc vị trƣớc tên ngƣời
trong tác phẩm. Trong các tác phẩm thƣờng xảy ra hiện tƣợng xuất hiện dày đặc
các tƣớc hiệu khác nhau của quan lại, vua chúa, ví dụ nhƣ trong văn bản trang 230
của Chúa Trịnh Khải in trong Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Khoa
học Xã hội, 2011 xuất hiện bốn vị quan thì khi viết tên cả bốn đều có tên tƣớc hiệu
ở đằng trƣớc: Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, Đốc đồng Ngô Thì Nhậm, Hân
Quận công Nguyễn Phƣơng Đĩnh, Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Ly. Việc nhắc tƣớc hiệu
nhƣ vậy tuy là có thể làm cho văn bản thêm giàu màu sắc lịch sử và cung cách
cung đình nhƣng lại khiến độc giả rất khó theo dõi, dễ gây nhầm lẫn các nhân vật
với nhau. Trong một số trƣờng hợp, việc sử dụng tƣớc hiệu quá nhiều sẽ làm mất
đi sự tự nhiên của câu văn, khiến văn mất đi sức hút. Ngoài ra, các từ dùng để xƣng
hô trong giao tiếp, đối thoại nơi cung vua, phủ chúa cũng mang đậm dấu ấn cung
đình nhƣ: vƣơng thƣợng, thƣợng công, thế tử, hoàng tử, trừ quân, chúa, trƣởng tử,
hoàng hậu, thái phi, tiệp dƣ, lệnh bà, khanh, trẫm, chầu, … thực sự hiệu quả trong
việc gây dựng nên một không gian cung đình xƣa với những nét trang trọng chuẩn
mực của nó.
Biểu hiện thứ hai của ngôn ngữ mang màu sắc cung đình là kiểu ngôn ngữ
sử dụng nhiều điển tích, điển cố. Theo công trình Phong cách tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Triệu Luật của Mai Thị Thanh Hà, tác giả đã thống kê đƣợc 39 lần điển
89
tích, điển cố đƣợc sử dụng [20, tr.110]. Trong đó, việc sử dụng điển tích, điển cố
thƣờng đƣợc dùng riêng trong ngôn ngữ của tầng lớp quan lại, vua chúa trong tác
phẩm. Ví dụ, trong Bà chúa Chè, đoạn đối thoại giữa Đặng Thị Huệ và chúa Trịnh
Sâm xung quanh việc đập vỡ viên ngọc quý làm ta có thể thấy đƣợc việc khéo léo
sử dụng điển cố văn chƣơng một cách tự nhiên, thoải mái của họ:
“Có thế mà nàng tru tréo lên:
- Chúa Thƣợng quí vật hơn ngƣời! Lỡ ra vỡ thì chúa thƣợng giết thần thiếp
chứ gì! Thôi thì tấm thân đã không đƣợc chuộng bằng hòn đá Quảng Nam thì thà
chết cho xong, sống làm gì. Đầu thần thiếp cùng ngọc này cùng vỡ!
Nói đoạn, nàng cầm hòn ngọc quật xuống thềm vỡ tan rồi ngồi phục xuống:
- Tấm thân vứt bỏ xin chịu tội trƣớc mặt chúa thƣợng.
Chúa Tĩnh Đô phải lấy tay đỡ nàng dậy rồi dỗ dành:
- Thôi đi! Cô Lạn Tƣơng Nhƣ! Đây không phải triều đƣờng nƣớc Tần mà cô
cũng không phải sứ nƣớc Triệu mà đe "thần đầu dữ bích câu toái" (đầu tôi cùng
ngọc này cùng vỡ).
Nàng đứng dậy nói:
- Chúa thƣợng tiếc hòn ngọc là phải. Hòn ngọc ấy cũng có giá liên thành.
- Không phải là ta quý hòn ngọc hơn ái khanh, nhƣng hòn ngọc ấy quân sĩ
đã vƣợt ngàn dặm mang về, ta quí là quí tƣớng sĩ đã xông pha tên đạn, dãi gió, dầm
sƣơng... mới mang đƣợc hai trấn Thuận Quảng với hòn ngọc ấy về. Nay khanh đập
vỡ thì thôi.
Những câu nói của nàng đều khéo dùng điển cố văn chƣơng khiến chúa
Trịnh đã yêu lại càng thêm yêu, đã nể lại tăng bội phần nể” [33, 176]
Đây là đoạn đối thoại có sử dụng câu nói nổi tiếng “thần đầu kim dữ bích
câu toái” của Lạn Tƣơng Nhƣ, sứ giả nƣớc Triệu khi xƣa. Theo tích cũ, ngƣời này
đã đem viên dạ Minh Châu từ nƣớc Triệu sang đổi lấy 15 thành nƣớc Tần mặc dù
biết rõ ý đồ của Tần vƣơng là cƣớp ngọc rồi xóa bỏ giao ƣớc ngay sau đó. Trong
truyện, để đối phó với vua Tần, ông ta đã dùng kế đem viên ngọc quý toan đập vỡ
90
để đe dọa Tần vƣơng phải giữ đúng lời hứa (dựa theo tác phẩm Đông Chu liệt quốc
của Phùng Mộng Long cuối đời Minh, chƣơng 96 do Nxb Tác gia Bắc Kinh phát
hành) [38].
* Ngôn ngữ bình dân
Ngoài không gian cung đình, các tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật còn tồn
tại không gian văn hóa làng quê, phố thị, những không gian sinh hoạt của ngƣời
bình dân xƣa. Ở đó, tác giả đã sử dụng một loạt ngôn ngữ mang màu sắc bình dân
vừa giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động, đồng thời vừa đảm
bảo tính lịch sử của thời điểm lịch sử mà tác phẩm đề cập.
Biểu hiện đầu tiên của ngôn ngữ dân gian là các tác giả sử dụng nhiều thành
ngữ, tục ngữ, ca dao trong giao tiếp, sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân. Ví nhƣ
trong Bà chúa Chè, có riêng một đoạn toàn là các câu hát, ca dao dân ca dân gian:
“Rồi thì nƣơng chè vang lên những tiếng hát đúm, hát quan họ:
Đêm qua mất một cành sòi
Để thuốc em nhạt để sồi kém thâm
Đó là tiếng hát một cô trách vì đâu mà nồi thuốc nhuộm của mình nhạt, nên
tấm sồi nàng nhuộm kém thâm.
Đáp câu ấy, một cô khác thay con trai trả lời:
Đêm qua anh bẻ cành sòi
Anh vin lá thắm tìm tòi nhà em
Một cô khác, ý chừng ghen cách ăn mặc của chị em, hát chua ngoa:
Chị giầu chị mặc xống xanh,
Chúng em khốn khó quấn quanh lụa đào
Chị giầu chị tát cá ao
Chúng em khốn khó đi trao cá mè.
Chị giầu chị lấy ông Nghè
Chúng em khốn khó trở về lấy vua
Một chị khác đáp lại:
Lấy vua chầu chực trong cung
91
Sao bằng mộc mạc mặc lòng sớm khuya” [33, tr.140]
Những câu hát dân gian ấy đã góp phần làm sinh động không gian văn hóa
làng quê miền Bắc, tạo nên những nét đẹp rất riêng của vùng quê Kinh Bắc cái nôi
của những điệu hát quan họ, hát đúm lay động lòng ngƣời. Ngoài ra, trong các tác
phẩm còn sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ. Theo Mai Thị Thanh Hà tổng kết
thì trong Hòm đựng người có 30 câu thành ngữ, tục ngữ, Bà chúa Chè có 10 câu,
Chúa Trịnh Khải có 7 câu, Loạn kiêu binh có 21 câu. Những câu nhƣ : đoán già
đoán non, tình ngay lí gian, còn nƣớc còn tát, dây cà dây muống, dãi gió dầm
sƣơng, cháy nhà ra mặt chuột… [20, tr.112]. Nhƣ vậy, trong tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Triệu Luật có nhiều đoạn xen lẫn lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động:
đó là thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong đối thoại hàng ngày, trong những sinh hoạt
lao động sản xuất, trong cả những làn điệu hát đối đáp đƣợc cất lên cho khuây
khỏa nỗi cực nhọc mƣu sinh… Từ việc sử dụng nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ,
ca dao, tác giả đã đƣa tiểu thuyết lịch sử đến gần với nhiều đối tƣợng độc giả hơn,
và giúp bạn đọc thêm hiểu, thêm yêu, gắn bó hơn với cái giá trị truyền thống tốt
đẹp, các nét đẹp văn hóa của làng quê Bắc Bộ.
Là một nhà tiểu thuyết tận tâm, luôn đòi hỏi sự chân thực cao độ trong các
tác phẩm của mình, ở một số chỗ, tác giả còn sử dụng phƣơng ngữ. Trong sự kiện
loạn quân Tam phủ đƣợc nhắc đến trong bộ ba tác phẩm Bà chúa Chè, Chúa Trịnh
Khải và Loạn kiêu binh, tác giả bên cạnh việc gài lồng các sự kiện lịch sử có thật
còn sử dụng phƣơng ngữ nhƣ một công cụ tạo độ chân thực cho các trang viết.
Nắm bắt đặc điểm của bọn quân Tam phủ, những kẻ vốn xuất thân từ vùng Thanh
Nghệ, nên ngôn ngữ hàng ngày của họ đƣợc tác giả tái hiện khác biệt với ngôn ngữ
của dân chúng kinh thành: trong những đối thoại, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày
của quân Tam phủ, tác giả sử dụng nhiều phƣơng ngữ: mần, răng, bay, đù, xứ Đù,
chi, mi, mô, rứa, … mang đến cảm giác chân thực, hấp dẫn cho nội dung văn bản.
Nhƣ vậy, với hai lớp ngôn ngữ kể trên, ta có thể thấy đƣợc tài sử dụng ngôn
ngữ linh hoạt, phù hợp, sự lựa chọn vốn từ với sự đầu tƣ nghiên cứu tỉ mỉ, công
phu của tác giả. Đó là cái tài và cũng là cái tâm của một nhà tiểu thuyết lịch sử
92
chân chính. Tuy vậy, ở các tác phẩm thƣờng xuất hiện việc sử dụng rất nhiều từ cổ
khiến tác giả phải liên tục chú thích làm cho độc giả không thể theo dõi câu chuyện
một cách liền mạch, gây tình trạng khó đọc, khó theo dõi tác phẩm.
Tóm lại, bên cạnh việc tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật dƣới góc độ
văn hóa, tìm hiểu các tác phẩm góc độ thi pháp học, ta có đƣợc một bức tranh tổng
thể về các đặc điểm, tƣ tƣởng và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật.
Cũng qua đó, ta thấy đƣợc phong cách viết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu
Luật, đánh giá đƣợc khả năng sử dụng và khai thác các chất liệu lịch sử trong sáng
tác của ông, cũng nhƣ những đóng góp về cách tân tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
93
Triệu Luật trong quá trình hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX.
KẾT LUẬN
Là một trong hai cây bút viết tiểu thuyết lịch sử của nhóm Tân Dân (bên
cạnh Lan Khai), Nguyễn Triệu Luật đã để lại cho đời “một khối lƣợng tác phẩm có
giá trị đủ để “định vị” ông trong văn học Việt Nam [theo Phạm Xuân Nguyên, tài
liệu 19, tr.16]. Khác nhà văn Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật không lựa chọn nhiều
giai đoạn lịch sử khác nhau mà hầu hết chỉ tập trung vào một giai đoạn lịch sử Lê
Trịnh thế kỷ XVIII. Trong tám quyển tiểu thuyết lịch sử hoàn chỉnh của Nguyễn
Triệu Luật còn sót lại, chúng tôi đã lựa chọn ra bốn quyển tiểu thuyết tiêu biểu Bà
chúa Chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh, Hòm đựng người để phân tích và làm
rõ các giá trị của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật dƣới góc độ văn hóa và thi
pháp.
1. Việc xem xét tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật dƣới góc độ văn hóa
là một cách tiếp cận mới. Sử dụng phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học có thể giúp
chúng ta có đƣợc một cái nhìn toàn diện hơn về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu
Luật: vận dụng tri thức về văn hóa để nhận diện, giải mã các yếu tố thi pháp của
tác phẩm, ƣu tiên việc phục nguyên các không gian văn hóa, khắc phục việc đánh
giá các tác phẩm trong phạm vi hạn hẹp, chuyên biệt. Qua việc phân tích văn bản
của bốn cuốn tiểu thuyết lịch sử Bà chúa Chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh,
Hòm đựng người, chúng tôi đã xem xét tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhƣ
là kết tinh những giá trị văn hóa bằng việc phân tích không gian văn hóa miền Bắc
Việt Nam thời Lê mạt, phân tích con ngƣời - những chủ thể văn hóa của không
gian đó. Khi phân tích không gian văn hóa miền Bắc Việt Nam thời Lê mạt, chúng
tôi đi sâu vào việc phản ánh các hoạt động sinh hoạt, các kiến trúc văn hóa, các
không gian văn hóa cổ xƣa trong mối liên tƣởng với không gian văn hóa hiện tại.
Từ đó, chúng ta có thể thấy đƣợc khả năng tái hiện không gian văn hóa của tác giả
trong tƣơng quan so sánh giữa hai hệ giá trị văn hóa quá khứ và lịch sử. Khi phân
tích con ngƣời trong tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhƣ những chủ thể văn hóa,
chúng tôi đã làm rõ vấn đề này qua việc tiếp cận ba loại hình tƣợng: hình tƣợng
94
vua chúa, hình tƣợng ngƣời phụ nữ và hình tƣợng trung thần trong tiểu thuyết lịch
sử Nguyễn Triệu Luật. Các hình tƣợng này đƣợc vừa đƣợc xem xét dƣới góc độ là
sản phẩm của nền văn hóa mà nó thuộc về trong lịch sử, vừa tìm kiếm những tƣ
tƣởng, những nét mới ở chúng do sự thay đổi những hệ giá trị văn hóa của thời
điểm sáng tác các tác phẩm.
2. Bên cạnh việc xem xét tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật từ góc độ
văn hóa, chúng tôi cũng xem xét các tác phẩm này theo một hƣớng mới khác: từ
góc độ thi pháp. Việc tiếp cận dƣới góc độ thi pháp sẽ giúp chúng ta tìm hiểu văn
bản tác phẩm qua phân tích các biểu hiện nghệ thuật ngôn từ của tác phẩm để
khám phá các lớp ý nghĩa, tƣ tƣởng của tác phẩm. Sử dụng phƣơng pháp thi pháp
học trong việc nghiên cứu văn bản tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, đầu tiên
chúng tôi nghiên cứu đến mối quan hệ giữa tính chân thực và hƣ cấu nghệ thuật
trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật qua việc chỉ ra hai hƣớng tiến hành
tiếp cận: hƣ cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử và hƣ cấu hoàn toàn.
Sau đó, chúng tôi đi vào phân tích biểu hiện của các yếu tố thi pháp khác nhau
trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhƣ: nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ. Qua mỗi yếu tố đƣợc chỉ rõ chúng tôi tìm cách khái
quát những giá trị tƣ tƣởng, ý nghĩa ẩn sâu của tác phẩm và những nét cách tân
trong sáng tác của tác giả.
3. Qua việc phân tích các văn bản từ hai góc nhìn kể trên, chúng tôi thấy
đƣợc những giá trị nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
một cách đầy đủ, khoa học, tránh đƣợc tình trạng phân tích phiến diện, hạn hẹp gây
những quan niệm sai lầm không đáng có. Trong các công trình tiếp theo, chúng tôi
sẽ tiếp tục hệ thống, bổ sung các tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật một cách đầy đủ
hơn, hoàn chỉnh hơn nữa. Khám phá các giá trị của tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật,
chúng tôi phần nào đã định hình đƣợc vị trí của tác giả trong dòng chảy lịch sử văn
hóa nƣớc nhà. Khai thác các sử liệu trong quá khứ trong tác phẩm sử dụng phƣơng
thức sáng tạo của văn học hiện đại, vì thế, so với các nhà tiểu thuyết cổ điển,
Nguyễn Triệu Luật đã có một bƣớc tiến đáng kể trong việc cách tân nghệ thuật tiểu
95
thuyết. Việc soi rọi các tiểu thuyết lịch sử của mình dƣới cả hai hệ giá trị quá khứ
và hiện tại đã giúp nhà văn có đƣợc nhãn quan sáng suốt trong việc xử lý các chất
liệu lịch sử: tính chân thực trong tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật đã đạt đến
mức thật hơn cả sự thật, xóa nhòa ranh giới giữa các hƣ cấu và các sự thực lịch sử
trong các tiểu thuyết lịch sử của ông. Với những đóng góp nhƣ vậy, ông xứng đáng
đứng vào hàng ngũ những tác gia tiểu thuyết hàng đầu trong công cuộc hiện đại
96
hóa văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX – 1945.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thu An (2013), Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng,
phebinhvanhoc.com.vn
2. Hà Ân (1979), Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật
trong truyệnlịch sử phục vụ các em, Tạp chí văn học số 3
3. Lại Nguyên Ân (2000), Hồ Quý Ly, Tạp chí Nhà văn số 6
4. M.Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Doxtoiepxki, Nxb Giáo
dục.
5. Trần Lâm Biền (2013), Vài ý kiến về Kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng
Việt Nam thời kỳ mới, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam số 6
6. Phan Kế Bính (2001), Việt Nam phong tục, Nhà xuất bản Văn hóa
Thông Tin, Hà Nội
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (6/2007), Ngữ văn 11 nâng cao tập
một, NXB Giáo dục
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Ngữ văn 9 tập một, NXB Giáo dục 8.
Drothy Brewster & John Angus Burrel (2003), Tiểu thuyết hiện đại 9.
(Dƣơng Thanh Bình dịch), Nxb Lao động
10. Nguyễn Đình Chú (1976), Tìm hiểu quan niệm anh hùng của Phan
Bội Châu, Tạp chí Văn học số 12
11. Nguyễn Đình Chú (1981), Văn học Việt Nam những chặng đường
chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb Khoa học xã hội
Phan Cự Đệ (2000), Tuyển tập Phan Cự Đệ, Tập II, Nxb Văn học 12.
Phan Cự Đệ (chủ biên - 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb 13.
Giáo dục, Hà Nội
14. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập I, Nxb ĐH và
THCN Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
16. Nhiều tác giả (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt
97
Nam, Nxb Giáo dục
17. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà
Nội
18. Nhiều tác giả (2009), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Giáo dục
19. Nhiều tác giả (2013), Nguyễn Triệu Luật: Con người và tác phẩm,
Nxb Lao động, Hà Nội
20. Mai Thị Thanh Hà (2009), Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn
Triệu Luật, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH Vinh
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên - 1999), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
22. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn
23. Tô Hoài (1959), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học,
Hà Nội
24. Vũ Đức Hoan (2011), Nhóm Tân Dân trong đời sống văn học Việt
Nam 1945, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
25. Nguyễn Phạm Hùng (1989), Sự xuất hiện khuynh hướng trong văn
học Việt Nam cổ, Tạp chí Văn học số 1
26. Lƣơng Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều , NXB Thế giới, tr.313
27. Khái niệm văn hóa, Wikipedia.com
28. Nguyễn Thị Dƣ Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ
thi pháp, NXBGD
29. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb Văn hóa thông tin
30. Đức Thịnh Lê (1989), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu,
Nxb Khoa học xã hội
31. Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu
thế kỷ XX đến 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, ĐH Sƣ phạm
32. Phùng Mộng Long, Đông Châu liệt quốc, vnthuquan.net
33. Nguyễn Triệu Luật (2011), Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật,
98
Nxb Khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
34. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2013), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1945, Nxb Công an nhân dân
35. Ngô gia văn phái (1970), Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyễn Đức Vân,
Kiều Thu Hoạch dịch, Nxb Văn học
36. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam với cách tiếp cận mới, Nxb
Văn hóa thông tin
37. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
38. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên, tập 3,
Nxb Đồng Tháp
39. Đoàn Đức Phƣơng (2008), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
Nxb ĐHQG Hà Nội
40. Đặng Đức Siêu (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội.
41. Thích Thiện Siêu, Ý nghĩa một số pháp khí Phật giáo, phathoc.net
42. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Bộ
GD và ĐT, Hà Nội
43. Trần Đình Sử (2003), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục
44. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục
45. Trần Đình Sử (28/5/2013), M. Gorki trong phê bình văn học Nga Hậu
xô viết, trandinhsu.wordpress.com
46. Trần Đình Sử, Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học
Trung Quốc, vanhoanghean.com
47. Phạm Xuân Thạch (2005), Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề
lịch sử, vietnamnet.vn
48. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội
49. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ
50. Hà Xuân Trƣờng, Văn hóa – khái niệm thực tiễn, Nxb Văn hóa thông
99
tin
51. Lê Anh Tú (2010), Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1900 – 1930,
Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội
52. Nguyễn Bảo Tuấn (2013), Sự tương đồng và dị biệt giữa kiến trúc cổ
Việt Nam và Trung Quốc, nghethuatthanh.net
53. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb
QG Hà Nội
54. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Đại học quốc gia Hà nội
55. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên - 2010), Giáo trình văn học Việt Nam ba
mươi năm đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
100
56. Nhƣ Ý (chủ biên - 1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục