ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------- NGUYỄN THÙY MINH

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH THỂ LOẠI (QUA VIỆC KHẢO SÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM

NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------

NGUYỄN THÙY MINH

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LOẠI HÌNH THỂ LOẠI (QUA VIỆC KHẢO SÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Mai Thị Hương

Hà Nội - 2009

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................. 3

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .................................................................................... 4

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......................................... 6

4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU, Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN ................... 7

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................. 8

6. KẾT CẤU LUẬN VĂN ............................................................................ 8

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 11

Chương 1: ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ

KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT

NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY ....................................................................... 11

1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ: ......................................................................... 11

1.1.1. Giới thuyết khái niệm tiểu thuyết lịch sử: ...................................... 11

1.1.2. Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết lịch sử: ..................................... 13

1.2. KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .................................................... 20

1.2.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua các thời kì phát triển: ............... 20

1.2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong khuynh hướng phát triển chung

của thể loại tiểu thuyết những năm gần đây: ............................................ 22

Chương 2: CÁC PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH

SỬ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY ..................................................... 28

2.1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN, ĐIỂM NHÌN .................................................. 28

2.1.1. Những vấn đề lý thuyết: ................................................................. 28

2.1.2. Khảo sát tác phẩm: ......................................................................... 34

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

1

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

2.2. GIỌNG ĐIỆU: ...................................................................................... 48

2.2.1. Giọng điệu tự hào trước lịch sử : ..................................................... 49

2.2.2. Giọng điệu hoài nghi trước lịch sử : .............................................. 51

2.2.3. Giọng điệu mang tính nhân đạo sâu sắc: ........................................ 52

3.3. THỜI GIAN: ......................................................................................... 54

2.4. KẾT CẤU: ............................................................................................ 59

2.4.1. Tính “vòng tròn” của kết cấu: ........................................................ 60

2.4.2. Sự xâm nhập của các thể loại vào trong kết cấu tiểu thuyết: ......... 61

Chương 3: VẤN ĐỀ HƯ CẤU VÀ XU HƯỚNG HUYỀN THOẠI HÓA

TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 64

3.1. NHÂN VẬT: ........................................................................................ 64

3.1.1. Hệ thống nhân vật có thực trong lịch sử: ....................................... 65

3.1.1.1. Kiểu nhân vật lập trường tư tưởng hoặc tâm lý: ..................... 66

3.1.1.2. Kiểu nhân vật số phận – tính cách: ......................................... 74

3.1.2. Hệ thống nhân vật hư cấu hoàn toàn: ............................................. 79

3.1.2.1. Các nhân vật nữ: ...................................................................... 80

3.1.2.2. Nhân vật mang tính chất huyền ảo: ......................................... 82

3.2. XU HƯỚNG HUYỀN THOẠI HÓA:.................................................. 85

3.2.1. Không gian huyền ảo: .................................................................... 86

3.2.2. Việc sử dụng văn hóa dân gian và mô típ “vật hóa” nhân vật: ........... 88

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 92

THƯ MỤC THAM KHẢO ................................................................................. 94

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

2

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong khi các nhà phê bình và bạn đọc tâm huyết còn đang loay hoay

với câu hỏi tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu thì tiểu thuyết, từ trong nội tại

vẫn tồn tại và phát triển, thậm chí là bộ phận phát triển mạnh mẽ nhất của văn

học Việt Nam đương đại. Đặc biệt, những năm gần đây (chúng tôi tính từ năm

1986 đến nay), tiểu thuyết Việt Nam đang cố gắng đổi mới để theo kịp thế

giới và theo kịp sự vận động của lý luận thể loại. Dù chưa có những thành tựu

đặc biệt, những cố gắng cách tân của tiểu thuyết Việt Nam thời gian qua là

đáng ghi nhận. Trong hiện trạng chung trên, tiểu thuyết lịch sử (TTLS) nổi lên

như một mảng sáng dù nhỏ nhoi nhưng cũng để lại khá nhiều cảm xúc. Xét

trong không nhiều những tiểu thuyết gây được sự chú ý của giới phê bình và

bạn đọc thì có đến gần một nửa là TTLS. Ngoài việc nhận được sự quan tâm

của độc giả, TTLS cũng “thu hoạch” được khá nhiều giải thưởng chính thức.

Năm 2003, giải thưởng tiểu thuyết của Hội nhà văn Việt Nam được trao cho

cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh. Năm tiếp theo, giải

thưởng này lại được trao cho một tiểu thuyết lịch sử khác là Giàn thiêu của

Võ Thị Hảo. Dường như nhà văn Nguyễn Xuân Khánh rất có duyên với

TTLS vì một tác phẩm khác của ông, Mẫu thượng ngàn, cũng đã nhận được

giải thưởng tiểu thuyết của Hội nhà văn Hà Nội năm 2006.

Nói như vậy để thấy rằng, TTLS Việt Nam những năm gần đây là một

bộ phận quan trọng trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và

văn học Việt Nam đương đại nói chung. Vì thế, cũng đã có nhiều bài nghiên

cứu, phê bình và luận văn, luận án viết về TTLS Việt Nam . Tuy nhiên, vẫn

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

3

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

thực sự cần có một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống nhìn từ góc độ

đặc trưng thể loại. Do đó chúng tôi đã lựa chọn đề tài “ Tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại (Qua việc khảo sát một số tác

phẩm những năm gần đây)” cho luận văn của mình. Chúng tôi tiếp cận đối

tượng từ góc độ loại hình thể loại vì TTLS cũng là một tiểu loại trong thể loại

tiểu thuyết. Nó mang những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết và cũng có một

số đặc điểm riêng biệt của tiểu loại TTLS. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn

này sẽ góp phần để có một sự tổng hợp rộng hơn (không dám nói là toàn diện)

về TTLS Việt Nam những năm gần đây. Và nếu may mắn thì có thể tìm ra

được một số qui luật nào đó trong sự phát triển của TTLS Việt Nam.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Mặc dù TTLS là một đối tượng hấp dẫn, nhưng chưa có những công

trình nghiên cứu công phu về nó, đặc biệt là hầu như chưa có công trình nào

được xuất bản thành sách hay chuyên luận. Chỉ có chuyên luận Tiểu thuyết

lịch sử của GS.VS Phan Cự Đệ được in trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Tuy nhiên, chuyên luận này chỉ dừng lại ở việc khảo sát TTLS Việt Nam đến

hết thế kỷ XX, còn các tác phẩm gần 10 năm đầu thế kỷ XXI thì chưa được

nhắc đến.

Những bài nghiên cứu chủ yếu được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên

ngành hoặc trên mạng internet. Theo khảo sát của chúng tôi, về TTLS Việt

Nam những năm vừa qua có các bài nghiên cứu sau:

- Luận văn thạc sĩ khoa học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, năm

2005: Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (từ góc độ

thể loại), của Nguyễn Danh Phú.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

4

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

- Bài nghiên cứu Tiểu thuyết và lịch sử của Lại Nguyên Ân đăng trên diễn đàn

“Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu” của báo điện tử Vietnamnet ngày

31/10/2005.

- Bài nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, suy nghĩ từ những tác

phẩm mang chủ đề lịch sử và báo cáo khoa học Cá nhân hóa hư cấu của TS.

Phạm Xuân Thạch, được đăng trên website cá nhân của tác giả.

- Luận văn thạc sĩ khoa học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội năm

2008: Hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu của

Lê Thị Bích Hòa.

- Bài báo của nhà phê bình Hoài Nam có tên: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam:

tiểu thuyết hay truyện kể đăng trên diễn đàn “Tiểu thuyết Việt Nam đang ở

đâu” của Vietnamnet ( http://www.vnn.vn ngày 17/10/2008).

- Bài nghiên cứu của TS. Trần Thị An trên Tạp chí nghiên cứu văn học: Sức

ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn”.

- Bài phỏng vấn của nhà văn Trung Trung Đỉnh với tác giả Nguyễn Xuân

Khánh và Ngô Văn Phú Viết tiểu thuyết lịch sử cũng cần hư cấu được đăng

trên báo điện tử: http://www.vietbao.com

- Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1999, Luận án tiến sĩ

ngữ văn, trường Đại học Sư phạm, năm 1999 của Nguyễn Văn Lợi.

Những bài viết và công trình nghiên cứu trên đã tìm hiểu tiểu thuyết

trên nhiều khía cạnh khác nhau, như: nghệ thuật hư cấu, hình tượng nhân vật,

ảnh hưởng của văn hóa đến TTLS hay quá trình cá nhân hóa lịch sử... Tuy

nhiên, thường những công trình ấy chỉ tập trung vào một vấn đề hoặc một tác

phẩm cụ thể. Chúng ta chưa thấy sự tổng hợp hệ thống các đặc trưng trong

nhiều tác phẩm.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

5

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Điểm dừng đó chính là gợi ý cho chúng tôi lựa chọn và thực hiện luận

văn này.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Trong luận văn của mình, chúng tôi xuất phát từ góc độ loại hình

thể loại để nghiên cứu TTLS Việt Nam. Như đã nói, TTLS là một loại hình

của thể loại tiểu thuyết. Vì vậy, chúng tôi tiến hành khảo sát đối tượng ở khía

cạnh đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trên các cấp độ: phương thức tự sự và

hình tượng thẩm mỹ. Trong đó, cấp độ phương thức tự sự bao gồm các vấn

đề: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu, thời gian và kết cấu

văn bản; cấp độ hình tượng thẩm mỹ gồm vấn đề hư cấu (được thể hiện ở các

khía cạnh: hình tượng nhân vật và xu hướng huyền thoại hóa).

3.2. Về mặt tác phẩm, do dung lượng mỗi cuốn tiểu thuyết rất lớn và

giới hạn phạm vi đề tài nên chúng tôi không thể khảo sát tất cả TTLS đã từng

xuất bản mà chỉ tập trung vào một số tác phẩm xuất bản từ năm 1986 đến nay,

là thời kỳ mà tiểu thuyết Việt Nam nói chung có nhiều biến đổi đáng kể. Cụ

thể là các tác phẩm sau:

- Bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần (4 tập) gồm: Bão táp cung đình, Thăng

Long nổi giận, Huyền Trân công chúa và Vương triều sụp đổ (Hoàng Quốc

Hải)

- Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác)

- Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh)

- Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh)

- Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)

Sự lựa chọn tác phẩm hoàn toàn dựa trên quan sát và kinh nghiệm cá

nhân. Đây là những TTLS gây được sự chú ý của độc giả và những người

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

6

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

nghiên cứu văn học. Trong số đó, chúng tôi chọn tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ

của Nguyễn Mộng Giác (một nhà văn gốc Việt đang định cư ở Mỹ) vì thứ

nhất, về mặt ngôn ngữ thì đây là một tiểu thuyết viết bằng tiếng Việt; thứ hai,

về mặt nội dung, tiểu thuyết này nói về một thời kỳ lịch sử của Việt Nam,

mang đậm văn hóa Việt. Cũng vì xét trên hai phương diện đó nên một cuốn

TTLS gây được tiếng vang lớn trong giới phê bình về sự cách tân hình thức

và nội dung là Vạn Xuân của Yveline Feray không thuộc đối tượng tìm hiểu

của luận văn. Bởi, đây là cuốn tiểu thuyết do một nhà văn Pháp viết bằng

tiếng Pháp, và mặc dù nội dung về lịch sử Việt Nam nhưng được nhìn với con

mắt của một người nước ngoài.

Trong số các tác phẩm trên, cùng là đối tượng khảo sát nhưng mức độ

khảo sát của luận văn đối với từng tác phẩm cũng không giống nhau. Do định

hướng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung hơn vào các tác phẩm: Hồ

Quý Ly, Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh) và Giàn thiêu (Võ Thị

Hảo). Hai tác phẩm còn lại được khảo sát với mục đích tạo tính hệ thống và

toàn diện cho đối tượng nghiên cứu.

4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU, Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

Luận văn hướng tới một số mục tiêu cụ thể như sau:

- Tìm hiểu sự vận động, biến đổi của TTLS Việt Nam từ 1986 đến nay về

phương diện thể loại trên hai trục: lịch đại (trong tiến trình vận động, phát

triển của TTLS Việt Nam ) và đồng đại (so sánh tương quan với sự vận động

của thể loại tiểu thuyết với tư cách là một bộ phận trong đó).

- Tiến hành phân tích tác phẩm trên các vấn đề thuộc về lý thuyết thể loại tiểu

thuyết là: phương thức tự sự và hình tượng thẩm mỹ.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

7

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

- Bước đầu nêu lên qui luật vận động của TTLS Việt Nam từ 1986 đến nay;

đồng thời tìm hiểu xu hướng biến đổi của TTLS Việt Nam trong bối cảnh

cách tân của tiểu thuyết Việt Nam nói chung.

Với việc hướng đến những mục tiêu cụ thể trên, luận văn hi vọng đạt

được ý nghĩa: Qua việc khảo sát một số tác phẩm, bước đầu xâu chuỗi các

tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm gần đây thành một đối tượng thống

nhất và nghiên cứu đối tượng này trên cơ sở lý thuyết về thể loại. Từ đó, có

cái nhìn khái quát hơn về đặc trưng, cũng như sự vận động, phát triển của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đúng như tiêu đề, luận văn chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên cứu

loại hình học, cụ thể là loại hình học thể loại (typolopgy of genres). Vì TTLS

chỉ là một bộ phận của thể loại tiểu thuyết nên thuật ngữ “thể loại” được nhắc

đến ở đây chính là thể loại tiểu thuyết.

Và khi nghiên cứu trên lý thuyết của thể loại tiểu thuyết, chúng tôi chủ

yếu sử dụng lý luận, phương pháp luận và các thuật ngữ, khái niệm của tự sự

học/trần thuật học (narratology). Bên cạnh đó lý thuyết của thi pháp thể loại

(poetist of genres) cũng cung cấp cho chúng tôi một số công cụ hữu ích để

tiến hành luận văn này.

Ngoài ra, chúng tôi tham khảo một số phương pháp nghiên cứu khác để

bổ trợ như: phương pháp nghiên cứu văn hóa, phương pháp so sánh,…

6. KẾT CẤU LUẬN VĂN

Như trên đã nói, nội dung của luận văn là tìm hiểu TTLS Việt Nam

những năm gần đây trên lý thuyết của thể loại tiểu thuyết ở hai cấp độ: cấp độ

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

8

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

phương thức tự sự (bao gồm các vấn đề: người kể chuyện, điểm nhìn trần

thuật, giọng điệu, thời gian và kết cấu văn bản); cấp độ hình tượng thẩm mỹ

(gồm vấn đề hư cấu trên hai khía cạnh chính: nhân vật và xu hướng huyền

thoại hóa). Dĩ nhiên, việc phân chia hai cấp độ trên cũng mang tính tương đối

vì có những vấn đề vừa ở cấp độ phương thức tự sự, lại vừa ở cấp độ hình

tượng thẩm mỹ, ví dụ như vấn đề thời gian, vấn đề hư cấu.

Những nội dung trên được chúng tôi triển khai trong luận văn theo kết

cấu sau:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung

gồm 3 chương:

Chương 1: Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết lịch sử và khuynh hướng

phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm gần đây

Chương 2: Các phương thức tự sự trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

những năm gần đây

Chương 3: Vấn đề hư cấu và xu hướng huyền thoại hóa trong tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam những năm gần đây.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

9

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

10

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VÀ

KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ:

1.1.1. Giới thuyết khái niệm tiểu thuyết lịch sử:

Theo M.Bakhtin thể loại là “nhân vật chính” của nền văn học trong sự

so sánh tương quan với các phạm trù khác như trào lưu hay trường phái…Ông

cho rằng “Thể loại là hình thức điển hình của toàn bộ tác phẩm, của toàn bộ

sự biểu hiện nghệ thuật” [4,tr.150]. Nói một cách đơn giản, thể loại là phạm

trù phân loại tác phẩm, là qui ước chung trong nhận thức của mọi người như

một mô hình cấu tạo văn bản vừa để biểu đạt vừa để định hướng cho sự tiếp

thu biểu đạt. Trong phạm vi mỗi “loại” văn học (tự sự, trữ tình, kịch) là các

“thể” (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ trữ tình…), sự phân chia của chúng chủ

yếu dựa trên các tiêu chí: tố chất thẩm mỹ chủ đạo, giọng điệu, dung lượng và

cấu trúc chung của tác phẩm.

TTLS là một loại hình của thể loại tiểu thuyết. Tuy nhiên, cho đến nay

chưa có một khái niệm thống nhất nào về TTLS. Chúng ta lược qua một số

khái niệm trong các công trình chính thống: Trong cuốn Từ điển thuật ngữ

văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi xuất bản năm 1992

thì “tiểu thuyết lịch sử” không có khái niệm riêng mà được gộp trong khái

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

11

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

niệm “thể loại văn học lịch sử”, và được hiểu là “các tác phẩm văn học, nghệ

thuật, sáng tác về đề tài và nhân vật lịch sử” [6,tr.205]. Còn trong cuốn Từ

điển văn học của nhiều tác giả, nhà xuất bản Thế giới, năm 2004 thì định

nghĩa: “Thuật ngữ tiểu thuyết lịch sử chỉ một loại hình tiểu thuyết hoặc tác

phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính. Lịch sử, trong ý

nghĩa khái quát là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội”[41,tr.1725].

Ngoài ra, trong Literary Terms and Definitions, thuật ngữ TTLS cũng được

định nghĩa: “Tiểu thuyết lịch sử là tiểu thuyết trong đó nhân vật hư cấu tham

gia vào các sự kiện lịch sử, có liên quan đến các sự kiện lịch sử hoặc đóng vai

trò là chứng nhân của các sự kiện lịch sử có thật; và có quan hệ qua lại với

các nhân vật lịch sử” (tạm dịch) [46].

Như vậy có thể nhận thấy, tất cả các quan niệm trên đều khá thống nhất

nhau ở điểm: TTLS là một loại hình tiểu thuyết có đề tài lịch sử, cụ thể hơn là

các nhân vật hư cấu có liên quan đến lịch sử.

Tuy nhiên, tất cả các khái niệm trên đều chưa nói rõ được như thế nào

thì được coi là lịch sử và nhân vật hư cấu liên quan đến lịch sử ở mức độ nào

thì được coi là tiểu thuyết lịch sử. Vì sự chưa rõ ràng và cụ thể đó nên việc

xác định tác phẩm nào là TTLS còn thiếu thống nhất.

Bởi vì, lịch sử, trong nhận thức mang tính phổ quát và ở nội dung đơn

giản nhất có thể, là cái thuộc về quá khứ. Mà hầu hết các tác phẩm văn học

đều viết về quá khứ. Tuy nhiên, không phải quá khứ nào cũng sẵn sàng được

coi là lịch sử và dĩ nhiên không thể coi tất cả các tiểu thuyết viết về quá khứ

đều là TTLS. Ví dụ rõ nhất là các tiểu thuyết Việt Nam viết về hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ - quãng cách thời gian so với hiện tại ít nhất

cũng đã trên 30 năm – nhưng chúng ta khó có thể gọi đó là tiểu thuyết lịch sử,

mà các tiểu thuyết này thường được gọi là tiểu thuyết về đề tài chiến tranh

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

12

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

cách mạng. Vậy, quá khứ như thế nào mới được gọi là lịch sử và tiểu thuyết

nào mới được gọi là tiểu thuyết lịch sử? Trên thực tế, chưa có bất cứ một hệ

thống lý thuyết hay công cụ lý luận nào để xác định đâu là tiểu thuyết lịch sử.

Thường những tác phẩm được gọi là tiểu thuyết lịch sử đều do các nhà phê

bình và bạn đọc mặc nhận mà thôi. Điều đó dẫn đến việc một số tác phẩm

được người này định danh là tiểu thuyết lịch sử (hay tiểu thuyết về đề tài lịch

sử), người khác lại nói rằng không. Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo

Ninh là một ví dụ. Vì thế, để tránh những mâu thuẫn trong việc xác định đối

tượng nghiên cứu, trong luận văn của mình chúng tôi cũng xin giới thuyết

khái niệm “tiểu thuyết lịch sử” như sau: TTLS là tiểu thuyết viết về đề tài lịch

sử. Trong đó các nhân vật hư cấu tham gia trực tiếp vào các sự kiện lịch sử,

có liên quan đến các sự kiện lịch sử hoặc đóng vai trò là chứng nhân của các

sự kiện lịch sử có thật; và có quan hệ qua lại với các nhân vật lịch sử. Cụ thể,

lịch sử phải là quá khứ xa. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhà phê bình Hoài

Nam cho rằng: “lịch sử đích thực phải là lịch sử xa, thứ lịch sử mà con người

hiện tại được thừa hưởng (hoặc phải chịu đựng) như một thắt buộc định mệnh

của quá khứ trong khi họ hoàn toàn vô can với nó (xét theo hành vi)”. Một

tiểu thuyết được coi là TTLS “chính danh” trong văn học Việt Nam từ trước

tới nay chính là những tiểu thuyết lấy chất liệu từ loại “lịch sử” mà đối với

người viết hay người đọc là bất khả tư nghị.

Chúng tôi lựa chọn đối tượng khảo sát của luận văn này cũng dựa trên

quan điểm trên.

1.1.2. Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết lịch sử:

1.1.2.1. Trước hết, TTLS là một loại hình của thể loại tiểu thuyết nên

nó cũng có những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

13

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Có lẽ, quan điểm chính xác nhất về đặc trưng của tiểu thuyết chính là

thể loại này không có đặc trưng cố định, khép kín và hoàn tất. Bakhtin cho

rằng tiểu thuyết có “tính biến đổi”, “tính không hoàn thành” và vì thế không

thể có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi về những đặc trưng của thể loại tiểu

thuyết. Tiểu thuyết được coi là ra đời từ thời Hy Lạp – La Mã với những đoạn

văn “Đối thoại theo lối Sokrates”, nhưng phải đến thời kỳ Phục Hưng, và

chính xác hơn đến tận cuối thế kỷ XVIII nó mới có được vai xứng đáng trong

đời sống văn học. Đó là bởi vì trong thế giới cổ đại không diễn ra quá trình

định hướng vào hiện tại và tương lai, mà chỉ có xu hướng quay về quá khứ.

Bắt đầu từ thời Phục Hưng cái hiện tại không chỉ là sự tiếp nối của quá khứ

mà được coi là sự khởi đầu cho tương lai và khi đó tiểu thuyết mới phát huy

được vai trò của mình. Khi mà thế giới hiện đại càng ngày càng phức tạp, sâu

sắc, con người trở nên tỉnh táo và đòi hỏi hơn thì tiểu thuyết phát huy sức

mạnh lấn át của mình bên cạnh các thể loại đã trở nên khô cứng và dường như

bị “cốt hóa” và tiểu thuyết trở thành “sử thi của thời đại chúng ta”.

Tính “chưa hoàn bị” đó dẫn đến việc tiểu thuyết không hề có những qui

phạm về cả nội dung lẫn hình thức. Tiểu thuyết có khả năng lấn át cũng như

thu hút, hấp dẫn, dung nạp trong mình rất nhiều thể loại khác. “Tiểu thuyết là

thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định

hình….Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể

dự đoán được hết khả năng uyển chuyển của nó” [4,tr.23]. Bakhtin cho rằng

tiểu thuyết “gây nên tác động trong quá trình lịch sử chỉ là từng hình mẫu tiểu

thuyết riêng biệt chứ không phải một qui phạm thể loại cố định” [4, tr.24].

Không có một cái khuôn nào có thể đúc vừa mọi hình thể của tiểu thuyết: lịch

sử tiểu thuyết là lịch sử vượt qua, giễu nhại và chối bỏ những hình thức được

kiến tạo trước đó của chính mình. “Đó (tiểu thuyết) là thể loại mãi mãi tìm

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

14

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

tòi, mãi mãi tự khảo sát bản thân mình và xét lại tất cả những dạng thức đã

định hình của mình” [4,tr.84].

Tuy nhiên, trong quá trình “cố gắng tìm ra những đặc điểm cấu trúc cơ

bản nhất của cái thể loại mềm mại nhất này”, Bakhtin đã đưa ra ba đặc điểm

cơ bản làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc với tất cả các thể loại

khác:

1. Tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với

ý thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết.

2. Sự thay đổi cơ bản các tọa độ thời gian của hình tượng văn học

trong tiểu thuyết.

3. Khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết,

chính là khu vực xúc tiếp tối đa với cái hiện tại (đương đại) ở

thì không hoàn thành của nó.

[4,tr.36]

Có thể nói, ba đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết mà Bakhtin đưa ra trên

đã khái quát chính xác các đặc trưng tự sự của thể loại này. Đặc điểm thứ ba

cho thấy bản chất của thể loại tiểu thuyết xét trên cấp độ hình tượng thẩm mỹ.

Đây là đặc trưng khiến cho tiểu thuyết khác biệt cơ bản với sử thi. Tiểu thuyết

là sự “đoạn tuyệt tuyệt đối” với sử thi. Nếu như đối tượng của sử thi phải là

“cái quá khứ dân tộc anh hùng”, “cái quá khứ tuyệt đối” và thế giới của sử thi

phải được cách ly với hiện tại bởi “một khoảng cách sử thi tuyệt đối” thì đối

tượng của tiểu thuyết chính là cái hiện tại dang dở, và thế giới của tiểu thuyết

xúc tiếp trực tiếp và tối đa với thế giới hiện tại. Thế giới trong tiểu thuyết là

thế giới hiện tại của tác giả, của bạn đọc. Giữa tác giả, bạn đọc và những nhân

vật của tiểu thuyết không hề có bất cứ khoảng cách nào. Tiểu thuyết kéo tất cả

mọi thứ xuống thấp hơn, gần cuộc sống hơn. Khi mà những qui định, những

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

15

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

chuẩn mực đã có độ vênh nhất định với cuộc sống, khi mà những hình tượng

nhân vật anh hùng đại diện cho cộng đồng không còn nhận được niềm tin của

con người mà thay vào đó là những con người cá nhân phức tạp hơn, đòi hỏi

hơn thì chính là lúc các “thể loại cao thượng” phải nhường chỗ cho tiểu

thuyết. Bakhtin khẳng định: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi

dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc

với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ được thời đại mới kế

thừa ở dạng đã hoàn tất (…) do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy

bén hơn bản thân hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi”

[4,tr.30]. Cũng bàn về khía cạnh này của tiểu thuyết, Kundera cho rằng tiểu

thuyết không chỉ là một thể loại văn học mà nó là một cấp độ trong tư duy

nghệ thuật. Văn học đạt đến tư duy tiểu thuyết là khi nó từ bỏ niềm tin về

tuyến tính nhân quả, về tính tất định của cuộc đời, và hiểu ra rằng ở đời có vô

số chân lý cùng tồn tại đồng thời. Tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần của thế

giới hiện đại, của thời đại mà khi “chân lý thần thánh duy nhất bị tan rã thành

hàng trăm chân lý tương đối mà những con người chia lấy cho nhau”. Milan

Kundera cho rằng tiểu thuyết thể hiện trong mình “tinh thần của phức tạp”,

“hiền minh của lưỡng lự”. Tiểu thuyết không đưa ra các câu trả lời mà đặt ra

câu hỏi. Trong tác phẩm Nghệ thuật tiểu thuyết, ông viết: “Tiểu thuyết không

khảo sát hiện thực mà khảo sát cuộc sống. Và cuộc sống không phải những gì

diễn ra, cuộc sống là vùng các khả năng của con người, tất cả những gì con

người có thể trở nên, tất cả những gì nó có thể” [15,tr.22]. Hiện thực đã là cái

bề bộn, vậy mà tiểu thuyết không khảo sát hiện thực mà khảo sát cuộc sống

(hiện sinh) và khảo sát “vùng khả năng của con người”. Vì vậy có lẽ tiểu

thuyết sẽ phải mãi mãi tìm cách để thực hiện sứ mạng của mình – một sứ

mạng không có sự kết thúc. Bởi sẽ không bao giờ con người khám phá hết

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

16

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

khả năng của mình và càng ngày con người càng có nhiều dạng để trở nên và

có nhiều hơn khả năng có thể.

Tính chất phức tạp và bề bộn trong sự xúc tiếp tối đa với “cái hiện tại ở

thì không hoàn thành” có tính quyết định và chi phối hai đặc trưng còn lại của

tiểu thuyết (các đặc trưng ở cấp độ phương thức tự sự) là tính chất đa ngữ của

ngôn ngữ và tính chất thay đổi của thời gian. Trong đó, có thể nói, đặc trưng

về thời gian là đặc trưng nổi bật ở tiểu thuyết.

Tiểu thuyết có ưu thế vượt trội so với các thể loại khác trong việc phản

ánh cuộc sống một phần nhờ vào đặc trưng thời gian của nó. Tiểu thuyết có

khả năng nhấn mạnh tính chất quá trình, tính chất dòng chảy thời gian của đối

tượng tự sự. Thời gian trong tiểu thuyết có thể căng ra hết cỡ, có thể rút ngắn

hết cỡ một cách linh hoạt. Chính vì vậy, trong khi nghiên cứu tiểu thuyết,

phạm trù thời gian được chú ý hơn nhiều so với phạm trù không gian. Thời

gian trong tiểu thuyết được hiểu là một yếu tố tổ chức cốt truyện, vừa là trục

tồn tại của nhân vật. Nó là phạm trù vừa thuộc về kĩ thuật tự sự, vừa thuộc

cảm quan thẩm mỹ của người viết.

1.1.2.2. Tiểu thuyết lịch sử có tất cả những đặc trưng trên của tiểu

thuyết. Ngoài ra, TTLS còn có những đặc trưng riêng khác biệt so với các loại

hình tiểu thuyết khác. Những đặc trưng đó xuất phát từ đối tượng TTLS là

lịch sử. Phải chăng có mâu thuẫn khi mà ở trên chúng ta đã nói rất nhiều đến

đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết là sự “xúc tiếp tối đa với hiện tại ở thì không

hoàn thành” trong khi TTLS lại nói đến quá khứ, thậm chí là “quá khứ xa”, là

cái “lịch sử tuyệt đối”. Có vẻ như xét từ góc độ đối tượng phản ánh thì TTLS

gần với sử thi hơn là tiểu thuyết. Tuy nhiên, chính quá trình cố gắng để không

trở thành sử thi mà trở thành tiểu thuyết đã tạo nên đặc trưng của TTLS so với

các loại hình tiểu thuyết khác. Đó là đặc trưng về nghệ thuật hư cấu.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

17

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Nếu như đối với các loại hình tiểu thuyết khác, người viết có thể mặc

sức hư cấu tất cả những gì mình muốn thì đối với TTLS lại không có được sự

tự do như vậy. Người viết TTLS như một người thợ sửa chữa lại một ngôi nhà

cũ chứ không được phép xây dựng một ngôi nhà mới hoàn toàn theo ý muốn

của mình. Và công việc sửa chữa ấy đôi khi lại đòi hỏi kĩ thuật và sức sáng

tạo nhiều hơn. Người viết TTLS chỉ được hư cấu trên những cứ liệu có sẵn,

thậm chí đã trở thành những nhận thức cố định trong suy nghĩ của mỗi người.

Hư cấu làm sao để vừa phải đúng với những gì đã diễn ra trong lịch sử vừa

phải làm cho cái “đã có”, “đã từng sống” ấy sinh động như cuộc sống đang

diễn ra trước mắt. Dù cho người viết muốn tái hiện lại cả một giai đoạn lịch

sử to lớn hay chỉ coi “lịch sử như là chiếc đinh để treo bức tranh cuộc sống”

(nhà văn A.Dumas) thì sự hư cấu của người viết vẫn phải nằm trong “vòng

kim cô” của những gì đã là lịch sử. Dù cho A.Dumas muốn kể về một thời kì

lịch sử phong kiến Pháp khác đi so với những gì được ghi trong chính sử thì

ông vẫn phải dựa vào những cứ liệu lịch sử (như các sự kiện lịch sử lớn,

phong tục tập quán, phong cách sống của thời kì đó) để tái hiện một cuộc

sống “giống như lịch sử” ở mức độ nhất định mà người đọc có thể chấp nhận,

để người đọc không phải tự hỏi đó là lịch sử nước Pháp hay lịch sử nước Anh

hay lịch sử bất cứ quốc gia nào khác. Và dù cho Dumas muốn lãng mạn hóa

các ông hoàng bà chúa bằng những mối tình thơ mộng thì cũng không thể

tách họ ra khỏi những biến cố lớn đã từng xảy trong cuộc đời họ (mà lịch sử

đã ghi nhận).

Như vậy có thể thấy rằng, nghệ thuật hư cấu trong TTLS khác biệt so

với nghệ thuật hư cấu trong các loại hình tiểu thuyết khác. Đó là “hư cấu

trong giới hạn”. Nói như vậy không có nghĩa sự hư cấu ở TTLS ít hơn so với

các loại hình tiểu thuyết khác, mà thậm chí ở TTLS còn đòi hỏi phải sáng tạo

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

18

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

hơn. Bởi rõ ràng để sinh ra một cái mới thì dễ hơn nhiều so với làm sống lại

những gì đã chết. Và công việc tái sinh lịch sử ấy chính là công việc của các

nhà văn viết TTLS.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

19

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

1.2. KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT

LỊCH SỬ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

1.2.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua các thời kì phát triển:

TTLS xuất hiện trong văn học Việt Nam từ thời kì trung đại. Cụ thể, từ

cuối thế kỉ XVIII đã có các tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia

Văn Phái. Dĩ nhiên trong thời trung đại, thời đại văn – sử - triết bất phân thì

vấn đề thể loại của tác phẩm này còn phải bàn nhiều. Tuy nhiên, văn học sử

vẫn coi đây là TTLS đầu tiên. Trong tác phẩm được coi là những TTLS đầu

tiên này chúng ta có thể tìm thấy những cứ liệu lịch sử khá chính xác so với

chính sử. Nói cách khá, đứng về mặt đặc trưng thể loại thì TTLS thời kì trung

đại gần với sử ký hơn là tiểu thuyết.

Từ thời cận đại đến trước năm 1945, TTLS cũng có một vai trò nhất

định thể hiện tinh thần yêu nước của người dân Việt trước cảnh nước mất nhà

tan. Một loạt các TTLS ra đời như một cố gắng lưu giữ lòng tự hào dân tộc

của người dân mất nước, như một lời hiệu triệu đứng lên. Tiêu biểu là các tác

phẩm Trùng Quang tâm sử (Phan Bội Châu, 1925), Tiếng sấm đêm đông,

Đinh Tiên Hoàng, Vua Bố Cái (Nguyễn Tử Siêu), Đêm hội Long Trì, An Tư

(Nguyễn Huy Tưởng), , Bà Chúa Chè (Nguyễn Triệu Luật) Vua Hàm Nghi

với việc kinh thành thất thủ (Ngô Tất Tố), Tiêu Sơn tráng sĩ (Khái

Hưng)…Mặc dù thời kì này, văn học đã bước sang cánh cửa hiện đại, thể loại

tiểu thuyết được du nhập từ phương Tây với đúng bản chất thể loại (ở thời kì

sơ khai) của nó, nhưng vì xuất phát điểm TTLS đã được gắn với mục đích

“Góp một tiếng nói nhằm nhóm lên ngọn lửa sục sôi vì nước trong lòng nhân

dân” nên các tác phẩm TTLS vẫn thấm nhuần triết lý văn học trung đại “văn

dĩ tải đạo”. Các nhà văn muốn gắn những vấn đề của thời đó (vấn đề của con

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

20

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

người trong cảnh nô lệ) vào các tác phẩm của mình và họ lựa chọn những câu

chuyện lịch sử, những nhân vật lịch sử phù hợp với tiêu chí ấy chứ chưa có

tác giả nào có ý định lật lại vấn đề hay “xét lại” một nhân vật lịch sử, một sự

kiện lịch sử nào đấy. Các nhà văn vẫn trung thành tuyệt đối với chính sử với

cảm hứng ngợi ca một chiều của cả cộng đồng. Đứng trên phương diện đặc

trưng thể loại thì chất tiểu thuyết chỉ là phương tiện để kể câu chuyện lịch sử

hấp dẫn hơn, thu hút người đọc hơn mà thôi.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đưa nhân dân thoát khỏi cảnh

nô lệ, mở ra một hiện thực hoàn toàn mới cho đất nước. Tuy nhiên, trên chặng

đường lịch sử từ 1945 đến 1975, đất nước Việt Nam vẫn không khi nào được

phép ngừng đấu tranh. Và khi đó, TTLS vẫn phải là loại hình văn học “có tác

dụng mạnh trong việc giáo dục tư tưởng cho quần chúng”. Quan niệm thẩm

mỹ của TTLS thời kì này cũng không có gì thay đổi so với trước. Chỉ có điều,

các tác giả biết chọn những đề tài lịch sử phù hợp với hoàn cảnh mới hơn

(không phải dành cho những người nô lệ mà dành cho những người chủ đất

nước đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc). Các TTLS thường có nội dung yêu

nước, truyền thống đấu tranh anh dũng trước kẻ thù. Có thể kể đến một số tác

phẩm như: Quận He khởi nghĩa, Bóng nước Hồ Gươm, Tổ quốc kêu gọi…

Mặc dù sau năm 1975, đất nước đã hoàn toàn thống nhất nhưng tư duy

nghệ thuật vẫn là tư duy cộng đồng, tư duy tập thể nên cũng giống như các

thể loại văn học khác, TTLS cũng không có bước tiến đặc biệt so với thời kì

trước đó. Dù cho đã có những mầm mống, những tiền đề cho một lối tư duy

khác nhưng nó chưa được công khai. Mười năm sau chiến tranh, cũng đã có

một số tiểu thuyết mang cảm quan khác biệt so với trước với những suy tư

trăn trở khác như: Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Gặp gỡ cuối năm, Cha và

con và…(Nguyễn Khải), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Chim én bay

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

21

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

(Nguyễn Trí Huân), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong

vườn, Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), nhưng ở loại hình

TTLS thì chưa có sự xuất hiện như vậy. Những suy nghĩ khác đi như trên vẫn

rất dè dặt và chỉ là số ít trong đời sống văn học. Các giá trị tập thể vẫn là các

giá trị vững chắc của xã hội, chân lý vẫn thuộc về số đông nên văn học nghệ

thuật vẫn chưa có bước đột phá nào cả về nội dung lẫn hình thức. Toàn xã hội

vẫn phải suy nghĩ theo một lối thống nhất nên TTLS cũng chẳng có ý định

“lật lại”, hay “xét lại” lịch sử làm gì.

Chỉ sau năm 1986, khi tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống được “cởi

trói”, TTLS cũng như các thể loại khác của văn học và nghệ thuật mới có

bước đột phá khác hẳn so với những thời kì trước đó. Và lúc đó TTLS mới

thực sự bộc lộ những đặc trưng thể loại của mình chứ không đơn thuần là

những câu chuyện lịch sử được cố gắng kể theo lối tiểu thuyết nữa.

1.2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong khuynh hướng phát triển

chung của thể loại tiểu thuyết những năm gần đây:

Hơn 20 năm trở lại đây (từ 1986), tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và

văn học Việt Nam nói chung có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sự thay đổi bắt đầu

từ một hiện thực xã hội mới dẫn đến một lối tư duy mới. Đó là một hiện thực

đa dạng hơn, nhiều màu sắc hơn, “cái tôi” được giải phóng khỏi cái cộng

đồng cao thượng. Không còn một chân lý tối thượng nữa mà bất cứ cá nhân

nào cũng có thể phát biểu chân lý của mình. Cuộc sống không đơn giản một

chiều nữa mà trở nên phức tạp hơn, nhiều giằng xé, nhiều suy tư hơn. Con

người được giải phóng khỏi những khuôn khổ, những giáo điều, có thể tự do

nói ra những ẩn ức, những trải nghiệm, những mong muốn cá nhân của mình.

Sự tự do ấy cùng với xu hướng phát triển tất yếu của cuộc sống là mảnh đất

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

22

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

màu mỡ của thể loại tiểu thuyết. Lúc này tiểu thuyết mới thực sự phát huy

được sức mạnh nội tại của thể loại, sức mạnh ở khả năng “xúc tiếp tối đa với

cái hiện tại ở thì không hoàn thành”. Không khí dân chủ của cuộc sống đã

đem đến cho thể loại tiểu thuyết sự phát triển mạnh mẽ. Tiểu thuyết Việt Nam

đã thoát khỏi cái áo chật hẹp của giai đoạn trước 1986, nó đã khoác lên mình

chiếc áo rực rỡ hơn và gần với thế giới hơn. Dù cho “chiếc áo” của tiểu thuyết

Việt Nam vẫn chưa đủ tầm vóc để sánh bước lên sàn thời trang cùng tiểu

thuyết thế giới nhưng nó cũng không quá xa lạ, quá lạc hậu với xu thế chung.

Trong quá trình đổi mới mình, về cả nội dung lẫn hình thức, có thể nói tiểu

thuyết Việt Nam tạo nên ba “làn sóng” nối tiếp nhau. “Làn sóng thứ nhất” với

sự góp mặt của các tác giả: Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng…;

“làn sóng thứ hai” với Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài,

Nguyễn Huy Thiệp…Và đặc biệt, sang đến đầu thế kỉ XXI, “làn sóng thứ ba”

xuất hiện với những cách tân táo bạo, mạnh mẽ hơn về nội dung và phương

thức tự sự. Trong các tác phẩm của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình

Phương hay tác giả Việt kiều Thuận…nhu cầu cá nhân hóa một cách triệt để

cách nhìn cuộc sống và những thử nghiệm kĩ thuật tự sự mới trở nên rõ nét

hơn. Những gì mà các nhà văn thuộc “làn sóng thứ nhất” và “làn sóng thứ

hai” bắt đầu được các nhà văn “làn sóng thứ ba” nối tiếp một cách quyết liệt

hơn với lối tư duy của một thế hệ “đã đủ xa cách để vượt qua khỏi những mặc

cảm và giáo điều trong cả văn học và cuộc sống” (Nguyễn Thanh Sơn).

Trong sự vận động mạnh mẽ ấy của thể loại tiểu thuyết, TTLS cũng có

sự biến đổi đáng chú ý. Tuy nhiên, do đặc trưng về đối tượng là lịch sử nên

TTLS không thể có những đổi mới triệt để như các tiểu thuyết ở “làn sóng thứ

ba”. Sự tìm tòi và đổi mới của TTLS chủ yếu trên phương diện nội dung: đó

là cách nhìn mới đối với lịch sử, cách nhìn cá nhân hóa lịch sử và nhãn quan

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

23

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

hiện thực. Từ sự đổi mới nội dung dẫn đến một số cách tân trên phương diện

phương thức tự sự như: đa dạng hóa điểm nhìn và giọng điệu trần thuật, có ý

thức trong việc sử dụng các yếu tố kì ảo...

Xét trên phương diện cách tiếp cận lịch sử, có thể chia TTLS Việt Nam

những năm gần đây thành ba loại chính như sau:

Thứ nhất là TTLS viết về lịch sử như nó vốn được nhìn nhận trong

chính sử và trong tâm thức chung của cộng đồng. Tiêu biểu là một số tác

phẩm như: các tác phẩm đồ sộ của Vũ Ngọc Đĩnh: Mười hai sứ quân (8 tập),

Bắn rụng mặt trời (8 tập), Đất Việt trời Nam của Đan Thành, bộ tiểu thuyết

Bão táp triều Trần, gồm 4 tập: Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận,

Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ của Hoàng Quốc Hải. Âm hưởng

chủ đạo trong các TTLS loại này là âm hưởng ngợi ca, tự hào. Lịch sử được

tiếp nhận với sự sùng bái của người viết và một “khoảng cách sử thi” rất rõ

ràng. Dĩ nhiên, các tác phẩm này cũng có cố gắng trong việc nhìn nhận lại

một vài nhân vật lịch sử (ví dụ Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung trong Bão táp

cung đình, hay Trần Ích Tắc trong Thăng Long nổi giận…) nhưng sự nhìn

nhận chỉ dừng lại ở giới hạn nhất định với mục đích làm sinh động hơn cho

nhân vật, cho tác phẩm mà thôi. Tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử, không

khí lịch sử là mục tiêu hướng đến của các nhà văn như Vũ Ngọc Đĩnh, Chu

Thiên, Hoàng Quốc Hải…Cảm hứng “nhìn lại” không phải là cảm hứng chủ

đạo, nó bị đè bẹp bởi cảm hứng tự hào bao trùm. Vì vậy, về mặt đặc trưng thể

loại, những TTLS này gần gũi với sử thi. Và trong luận văn của mình, để tiện

cho việc gọi tên, chúng tôi tạm định danh những tác phẩm này là TTLS sử thi.

Những tác phẩm này là sự tiếp nối của TTLS Việt Nam từ các thời kì trước.

Nói như vậy không có nghĩa những TTLS loại này không có chỗ đứng trong

sự phát triển của thể loại. Mặc dù không có sự đổi mới đặc biệt cả về cảm

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

24

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

quan nghệ thuật lẫn phương thức tự sự nhưng TTLS sử thi vẫn phát triển như

một dòng chảy trong sự phát triển chung của TTLS. Bởi vì nó vẫn đáp ứng

được nhu cầu của một bộ phận người đọc, nó vẫn đảm nhiệm chức năng mà

chỉ có loại hình TTLS mới làm được là giáo dục tinh thần yêu nước và là một

hình thức hấp dẫn bổ sung kiến thức lịch sử cho người đọc. Khi nói về tiểu

thuyết lịch sử Pi-ốt đại đế của mình, A.Tônxtôi từng khẳng định về đặc trưng

này của TTLS: “Bộ tiểu thuyết của tôi chính xác như một tác phẩm nghiên

cứu lịch sử và đó chính là sức mạnh của nó” (dẫn theo Phan Cự Đệ)

[40,tr.168]. Nói gì thì nói, dù xã hội có biến đổi phức tạp như thế nào thì vẫn

có những giá trị, những chân lý cao cả của cộng đồng mà ở mọi thời đại, con

người luôn hướng đến. Chính vì vậy, trong bối cảnh xã hội mới, TTLS sử thi

vẫn có chỗ đứng trong đời sống văn học và vẫn có không ít nhà văn theo đuổi

hướng sáng tác này. Cụ thể, gần đây (đầu năm 2009) cũng có một tác phẩm

theo khuynh hướng này đã nhận được sự chú ý rất lớn của công chúng là cuốn

tiểu thuyết lịch sử viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp Không phải huyền

thoại của nhà văn Hữu Mai.

Loại thứ hai là TTLS viết về lịch sử trong sự nhìn nhận, đánh giá lại

lịch sử. Cảm hứng chủ đạo trong các tiểu thuyết này là sự đánh giá lại một số

nhân vật, sự kiện lịch sử còn gây nhiều tranh cãi (như Hồ Quý Ly trong tác

phẩm cùng tên của Nguyễn Xuân Khánh, sử kiện "nồi da nấu thịt" giữa anh

em Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc) trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng

Giác). Trong những TTLS này, các nhân vật hay sự kiện lịch sử hiện lên với

những nét mới mẻ theo quan niệm cá nhân của người viết chứ không hoàn

toàn lệ thuộc vào chính sử. Có thể thấy được bước đầu của quá trình cá nhân

hóa lịch sử trong các tác phẩm này. Các TTLS loại này là “những ấn tượng và

những suy tư cá nhân về các vấn đề của lịch sử, nó nêu ra các vấn đề lịch sử

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

25

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

và phản chiếu những suy tư cá nhân về những vấn đề đó” (Phạm Xuân

Thạch). Dĩ nhiên, trong những TTLS này thì nhà văn vẫn coi lịch sử là đối

tượng trung tâm, và nhiệm vụ của nhà văn là tìm cách giải mã nó theo cách

nhìn của cá nhân mình. Vì vậy, hầu hết những sự kiện lịch sử lớn vẫn được

lựa chọn và giữ nguyên như trong chính sử, chỉ có điều cách giải thích nguyên

nhân cũng như bản chất của nó thì lại là những kiến giải mới mẻ đối với

người đọc. Mới mẻ ở cách giải mã của tác giả, cũng mới mẻ ở những vấn đề

thế sự mà tác giả gắn vào cho nó. Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là trong

các TTLS loại này là tâm lý nhân vật là một “vùng trắng” rất lớn để nhà văn

tập trung khai thác khiến tác phẩm của mình có một cảm giác mới lạ so với

chính sử. Từ việc khai thác tâm lý nhân vật, các nhân vật lịch sử không còn bị

xa cách, không còn bị khô cứng, ước lệ nữa mà trở thành những con người

theo đúng nghĩa của nó. Đôi khi một anh hùng cũng là một nạn nhân của lịch

sử. Vì vậy, đứng từ góc độ đặc trưng nổi bật của các TTLS loại này, chúng tôi

tạm gọi đây là những TTLS thế sự - tâm lý.

Nếu như chúng ta thấy được bước đầu của quá trình cá nhân hóa lịch sử

trong các TTLS như Hồ Quý Ly hay Sông Côn mùa lũ thì đến loại TTLS thứ

ba (với các tác phẩm như Giàn thiêu của Võ Thị Hảo hay Mẫu thượng ngàn

của Nguyễn Xuân Khánh…) thì quá trình cá nhân hóa lịch sử diễn ra một

cách triệt để. Lịch sử không được nhìn nhận như lịch sử của một đất nước,

một dân tộc, một vùng miền mà được nhìn nhận như lịch sử của cá nhân

người viết. Ở loại thứ hai, lịch sử được nhìn nhận theo quan niệm cá nhân,

người viết có thể lật lại, xét lại, đánh giá lại lịch sử theo quan điểm riêng của

mình, có thể gắn vào lịch sử những vấn đề của thời đại mình nhưng lịch sử

vẫn phải là trung tâm của tác phẩm (dù không hẳn là mục đích). Còn trong

các TTLS loại thứ ba thì lịch sử không còn là vấn đề trung tâm nữa. Người

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

26

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

viết chỉ coi lịch sử như “cái đinh”, như “chất liệu” để làm nổi lên những

vấn đề “Con người ở tầm phổ quát”. Với Giàn thiêu, mặc dù cả một triều đại

phong kiến qua mấy đời vua được tái hiện nhưng mục đích của Võ Thị Hảo

có lẽ không ở chỗ muốn đem lại cho người đọc một nhận thức nào đó về một

giai đoạn lịch sử, mà tác giả muốn người đọc suy tư về sự giải thoát, về niềm

tin tôn giáo và số phận, tâm hồn của một con người qua ba kiếp vẫn không

thoát khỏi vòng cương tỏa của dục vọng về tình yêu và quyền lực. Còn trong

Mẫu thượng ngàn thì lịch sử càng mờ nhạt hơn. Ở đó, người đọc chỉ thấy một

cách lý giải rất thú vị và hấp dẫn về sức mạnh của văn hóa cội nguồn người

Việt trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX, đầu

thế kỷ XX. Đặc điểm nổi bật trong các TTLS này là chất chính sử bị xóa mờ

bởi ảnh hưởng mạnh mẽ của dã sử. Các câu chuyện dân gian, các truyền

thuyết dân gian được người viết sử dụng rất nhiều khiến cho tác phẩm mang

màu sắc huyền thoại. Chính vì xuất phát từ đặc điểm này, chúng tôi tạm gọi

đây là những TTLS huyền thoại.

Có thể nói, cách nhìn nhận, cách ứng xử của người viết đối với lịch sử

đã tạo nên ba khuynh hướng trên của TTLS Việt Nam những năm gần đây.

Chúng tôi không dám đánh giá khuynh hướng nào có ưu điểm hơn (vì một

khuynh hướng sáng tác đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống văn học thì nó

phải có sức mạnh nội tại của mình). Tuy nhiên, xét từ góc độ đặc trưng thể

loại thì các tác phẩm thuộc loại thứ hai và thứ ba có phần gần gũi hơn với sự

vận động và biến đổi của tiểu thuyết Việt Nam những năm gần đây trên cả

cấp độ hình tượng thẩm mỹ lẫn phương thức tự sự. Vì vậy, trong các chương

tiếp theo của luận văn, chúng tôi chủ yếu khảo sát những tác phẩm thuộc loại

thứ hai và thứ ba.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

27

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Chương 2

CÁC PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Theo Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ, cha đẻ

của chủ nghĩa cấu trúc, bất cứ tín hiệu nào cũng bao gồm một “cái biểu hiện”

và một “cái được biểu hiện” được hiểu là hình thức và ý nghĩa (nội dung). Văn

bản trần thuật/tự sự (truyện kể) được coi là một phức hợp tín hiệu bao gồm cái

biểu hiện là một diễn ngôn trần thuật (narrative discourse - Genette), tức là

cách thức trần thuật/tự sự, và cái được biểu hiện là câu chuyện (story), tức là

một chuỗi các hành động (sự kiện). Trong chương này, chúng tôi khảo sát các

phương thức tự sự của TTLS Việt Nam những năm gần đây tức là khảo sát

diễn ngôn tự sự. Tuy nhiên, cái biểu đạt và cái được biểu đạt luôn đi liền với

nhau, có nghĩa hình thức luôn thể hiện nội dung và ngược lại nội dung luôn qui

định hình thức. Vì vậy, chúng tôi không cực đoan chỉ chú trọng đến kĩ thuật tự

sự, mà luôn gắn nó với cái được biểu đạt. Từ việc phân tích các phương thức tự

sự sẽ lý giải được một số vấn đề ở cấp độ hình tượng thẩm mỹ. Cụ thể, chúng

tôi tập trung tìm hiểu những yếu tố được các nhà nghiên cứu (G.Genette, Micke

Bal, Chatman..) coi là lý thuyết công cụ cơ bản của tự sự học như: Người kể

chuyện, Điểm nhìn, Giọng điệu, Thời gian và Kết cấu.

2.1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN, ĐIỂM NHÌN

2.1.1. Những vấn đề lý thuyết:

Trong lý thuyết của “trường phái” tự sự học do Genette đứng đầu thì

Người kể chuyện – NKC (narrator) có vai trò hết sức quan trọng. NKC là vấn

đề cốt yếu của phương thức tự sự. Theo Manfred Jahn trong Narratology: A

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

28

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Guide to the Theory of Narrative (Trần thuật học: nhập môn lý thuyết trần

thuật), NKC là một trong hai yếu tố cơ bản của một truyện kể: “Một truyện kể

có một cốt truyện dựa trên hành động mà nhân vật tạo ra và trải nghiệm, và có

một người kể chuyện kể về nó” [13,tr.2]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học (A

Glossary of Literature terms), M.H.Abrams cho rằng “người kể chuyện biết

mọi thứ cần biết về nhân vật, sự kiện” [43;tr.134]. Tuy nhiên, cần phân biệt

khái niệm NKC (narrator) với tác giả (authorial). NKC là một nhân vật

(character) do tác giả hư cấu nên, đảm nhận chức năng dẫn dắt câu chuyện,

hoặc vừa dẫn dắt câu chuyện vừa là một nhân vật tham gia vào câu chuyện.

Còn tác giả là một con người thật (person) có cuộc sống thực ngoài đời. Đối

tượng tiếp nhận mà tác giả hướng đến là chúng ta (người đọc có thực), còn

đối tượng mà NKC hướng đến không phải là chúng ta mà chỉ là một người

tiếp nhận giả tưởng, bởi vì NKC không biết người đọc thực ngoài đời. Để

phân biệt mối quan hệ giữa tác giả-độc giả, NKC-người tiếp nhận giả tưởng…

(những thành phần cơ bản của cấu trúc chuẩn mực cho giao tiếp trần thuật)

Manfred Jahn đưa ra mô hình “Chinese Boxes” như sau:

(1) Tác giả và độc giả ở cấp độ giao tiếp không hư cấu

(2) NKC và người tiếp nhận ở cấp độ sắp xếp hư cấu và diễn ngôn

(3) Các nhân vật ở cấp độ hành động

[13,tr.5]

Như vậy, NKC chỉ có mối liên kết giao tiếp với người tiếp nhận của

mình ở cấp độ hư cấu. Tuy nhiên, trên thực tế lại có kiểu NKC vừa tham gia

cấp độ thứ hai vừa tham gia cấp độ thứ ba, đó là khi NKC ở ngôi thứ nhất và

là một nhân vật của câu chuyện. Vậy, có thể thấy lý thuyết tự sự về NKC khá

là phức tạp.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

29

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Trong quá trình sáng tác, hầu hết các tác giả tiểu thuyết đều phải lựa

chọn cho NKC của mình một trong hai cách chủ yếu: kể ở ngôi thứ nhất hoặc

ngôi thứ ba (cũng có những tác phẩm kể ở ngôi thứ hai như Linh sơn của Cao

Hành Kiện và một số tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI thuộc “làn sóng

thứ ba”. Tuy nhiên, kể ở ngôi thứ hai không phải là mô thức phổ biến). Dựa

vào ngôi kể của NKC, các nhà nghiên cứu gọi tên các kiểu trần thuật. Genette

(1972) đã đưa ra hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi: homodiegetic - trần

thuật ở ngôi thứ nhất (tức là những truyện kể có người kể chuyện ở ngôi thứ

nhất) và heterodiegetic – trần thuật ở ngôi thứ ba (tức là những truyện kể có

người kể chuyện ở ngôi thứ ba).

NKC ở ngôi thứ nhất, theo Chatman là NKC lộ diện (overt narrator),

được chia làm hai dạng: 1/ NKC xưng “tôi” chỉ có vai trò dẫn dắt câu

chuyện, không tham gia vào sự phát triển của cốt truyện. Tức là, “tôi” không

tham gia cấp độ hành động (theo mô hình “Chineses Boxes” của M. Jahn mà

chúng tôi đã nhắc đến), mà “tôi” chỉ là chủ thể của hành vi kể (tức là chỉ tham

gia cấp độ sắp xếp hư cấu). Chúng ta gọi đây là kiểu NKC ngôi thứ nhất –

chứng nhân. 2/ NKC xưng “tôi” là một nhân vật trong câu chuyện, tác động

trực tiếp vào sự phát triển của câu chuyện. Tức là, khi đó NKC tham gia cả

hai cấp độ liên kết: cấp độ sắp xếp hư cấu và cấp độ hành động. Chúng ta gọi

đây là kiểu NKC ngôi thứ nhất – nhân vật.

NKC ngôi thứ ba, Chatman gọi là NKC hàm ẩn (covert narrator). Đây là

kiểu NKC hoàn toàn chỉ tham gian cấp độ sắp xếp hư cấu mà thôi. Việc phân

chia các kiểu NKC ngôi thứ ba còn phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề điểm nhìn

của truyện kể.

Trong lý thuyết tự sự học thì vấn đề NKC luôn gắn liền với vấn đề Điểm

nhìn – ĐN (point of view – POV). Nói một cách nôm na nhất thì NKC trả lời

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

30

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

cho câu hỏi “Ai nói?”, còn ĐN trả lời cho câu hỏi “Ai nhìn?”. So với vấn đề

NKC, vấn đề ĐN phức tạp hơn với nhiều quan điểm khác nhau.

Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi (1884) coi ĐN chính là “mô tả

cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể hoặc một

cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn là sự lựa

chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự

kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với

cuộc sống hơn” (dẫn theo Thạc sĩ Cao Kim Lan trong Lý thuyết về điểm nhìn

nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg). Còn J.A Cuddon trong Dictionary

of Literary Terms and Literary Theory cho rằng ĐN là “vị trí của người kể

trong mối quan hệ với câu chuyện của anh ta” (dẫn theo Ths.Cao Kim Lan).

Trong tiểu luận Điểm nhìn, Phối cảnh và Thời gian (Viewpoint, Perspective

and Time), Will Greenway quan niệm: “Viewpoint hoặc point of view (điểm

nhìn) là một kĩ thuật tự sự. Đó là vị trí mà người kể chuyện tồn tại trong phạm

vi cơ cấu truyện kể”. [5,tr.142]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học,

M.H.Abrams cho rằng ĐN là một kĩ thuật tự sự, nó tương đương với thức

(mode) hoặc phối cảnh (perspective). Ông phân biệt ĐN của người kể chuyện

ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba như sau: Ngôi thứ nhất có: Người kể chuyện tự

ý thức (self-conscious narrator), Người kể chuyện không đáng tin cậy hoặc có

khả năng sai lầm (fallible or unreliable narrator). Ngôi thứ ba cũng được chia

ra làm hai dạng: Điểm nhìn thông suốt (omniscient POV) với người kể

chuyện thông suốt và người kể chuyện giáo huấn; Điểm nhìn hạn chế (limited

POV), tức người kể chuyện hạn chế bản thân trước những gì đã được trải

nghiệm mà sau này các nhà văn đã phát triển kiểu điểm nhìn này thông qua

trần thuật dòng ý thức [43,tr.231-234]

Cũng về vấn đề ĐN, Genette trong Fingure III đưa ra thuật ngữ

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

31

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

focalization (tiêu điểm - TĐ). Vì theo Genette, xét về mặt chức năng, ĐN

mang ý nghĩa của sự chọn lọc và giới hạn thông tin trần thuật. Cùng với thuật

ngữ focalization chúng ta có thêm thuật ngữ focalizer. Có rất nhiều cách dịch

thuật ngữ này sang tiếng Việt như: tiêu cự, người quan sát, người tiêu điểm

hóa, hoặc người mang tiêu điểm. Trong luận văn của mình chúng tôi sử dụng

cách dịch thuật ngữ focalizer là người tiêu điểm hóa (NTĐH) của TS. Nguyễn

Thị Thu Thủy trong bài viết Về khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba” và

“người kể chuyện ở ngôi thứ ba”. Vậy NTĐH là gì?

"Focalizer là một tác nhân mà điểm nhìn của nó hướng vào văn bản trần

thuật” [13,tr.50]. NTĐH là “người thể hiện quan điểm, đánh giá của nhân vật

về thế giới nhân vật, sự kiện trong tác phẩm – người mà qua những hành

động, cảm nhận, suy nghĩ làm điểm tựa cho NKC thực hiện hành vi kể” [40,

tr.144]. Cần phân biệt NTĐH với NKC là “người thực hiện hành vi kể, ghi lại

những gì mà nhân vật thấy, nhân vật nghĩ…” [40,tr.144]. Ngoài ra, cũng cần

phân biệt thuật ngữ NTĐH (focalizer) với thuật ngữ focalized character.

Focalized character (nhân vật được quan sát) thuần túy là nhân vật được quan

sát bởi người khác chứ nó không có những cảm nhận, những quan sát về nhân

vật khác như focalizer (NTĐH, hay còn có cách gọi khác là Người quan sát).

Trong khi Genette và Chatman chỉ quan tâm đến vấn đề giới hạn điểm

nhìn, đến nhân vật tiêu điểm (focal characters) thì các nhà trần thuật học khác

như Micke Bal hoặc Rimmon Kenan lại đề xuất ý kiến cho rằng: một NTĐH

có thể hoặc là “bên ngoài” (một người kể chuyện) hoặc “bên trong” (một

nhân vật). NTĐH bên ngoài được gọi là người kể chuyện – NTĐH (narrator –

focalizer), hay có cách gọi khác là người kể chuyện mang tiêu điểm. NTĐH

bên trong (internal focalizer) được gọi bởi những thuật ngữ khác nhau: nhân

vật tiêu điểm (focal characters), người phản ánh (reflector), hay nhân vật lọc

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

32

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

(filter characters).

Như vậy có thể thấy, vấn đề Người kể chuyện, Điểm nhìn, Tiêu điểm có

mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau và có vai trò vô cùng quan trọng trong

lý thuyết tự sự học. Cũng bởi tầm quan trọng của các vấn đề này mà rất nhiều

nhà lý luận nghiên cứu về nó theo những hướng khác nhau. Tóm lại, để tiện

cho việc áp dụng lý thuyết vào nghiên cứu tác phẩm, chúng tôi xin tổng hợp

lại mối quan hệ giữa NKC, ĐN, TĐ theo cách hiểu của mình như sau:

Truyện kể ngôi thứ nhất (homodiegetic): NKC xưng “tôi” (hoặc “chúng

tôi”, “ta”, “chúng ta”…) gồm hai trường hợp: 1/ NKC xưng “tôi” chỉ đóng vai

trò dẫn chuyện, tức là NKC “tôi” không mang tiêu điểm (NKC khác NTĐH).

2/ NKC xưng “tôi” là một nhân vật trong câu chuyện. NKC “tôi” vừa là chủ

thể của hành vi kể vừa mang tiêu điểm. (NKC = NTĐH = “tôi”).

Truyện kể ngôi thứ ba (heterodiegetic): NKC kể từ ngôi thứ ba, chia

làm ba trường hợp: 1/ NKC hàm ẩn, không kể từ điểm nhìn của mình mà “tựa

vào điểm nhìn của nhân vật để kể”. Giọng NKC hòa với giọng nhân vật đến

mức khó phân biệt, và thường người đọc cứ ngỡ đó là giọng kể của nhân vật.

Khi đó dù kể ở ngôi thứ ba nhưng tiêu điểm của truyện kể là tiêu điểm bên

trong. 2/ NKC hàm ẩn, kể một cách khách quan từ vị trí quan sát của chính

mình, tức là từ điểm nhìn bên ngoài. 3/ NKC hàm ẩn có khả năng “biết tuốt”,

có khả năng soi tỏ, lý giải mọi vấn đề, cả những vấn đề từ bên ngoài lẫn

những vấn đề bên trong chỉ nhân vật mới biết (tâm sự, tình cảm…). Anh ta

trở thành NKC “toàn tri”, và có điểm nhìn thông suốt từ ngoài vào trong

(omniscient POV).

Trong truyện kể từ ngôi thứ hai, NKC đồng thời là một nhân vật, kể

chuyện dưới dạng đối thoại với nhân vật khác và sử dụng ngôi nhân xưng thứ

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

33

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

hai. Tuy nhiên, mô thức truyện kể ngôi thứ hai không phổ biến trong tự sự nói

chung và tiểu thuyết nói riêng.

2.1.2. Khảo sát tác phẩm:

Có một khẳng định là các TTLS mà luận văn khảo sát chỉ có hai mô

thức trần thuật: từ ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất, còn hoàn toàn không xuất

hiện trần thuật ở ngôi thứ hai.

Dưới đây là những khảo sát của chúng tôi về ngôi kể của NKC và điểm

nhìn trong các TTLS đang xét:

Tác phẩm

(dẫn

Trần thuật ngôi thứ nhất (NKC xưng “tôi”) NKC-người chứng chuyện) A1

NKC - nhân vật (tham gia vào cốt truyện) A2

Trần thuật ngôi thứ ba (cid:13)(NKC dùng ĐTNX ngôi thứ 3) NKC hàm NKC hàm NKC hàm ẩn – Điểm ẩn – Điểm -Điểm ẩn thông nhìn nhìn khách bên nhìn suốt B3 quan bên trong B1 ngoài B2

táp

Toàn bộ tác phẩm

xen kẽ

phần lớn tác phẩm phần lớn phần lớn

thỉnh thoảng thỉnh thoảng

Bão triều Trần Sông Côn mùa lũ Giàn thiêu Hồ Quý Ly

3

phần lớn

Mẫu thượng ngàn

“tôi” kể về lý do biết câu chuyện tình của bà tổ cô (chương VII)

“tôi” (Hồ Nguyên Trừng) trong các chương II, VI, XII (P.1,2), XIII (P.3,4,5) “tôi” (bà Ba Váy) (chương XI: kể chuyện về cuộc đời mình, phần 3 chương XII: kể về việc cứu Lý Cỏn của sữa bằng mình

Phần chương XIII: NKC ngôi 3 kể về huyền thoại ông bà Đùng Đà từ điểm nhìn của Hoa

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

34

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Nhìn bảng trên chúng ta có thể thấy, bốn trong năm mô hình NKC và

điểm nhìn trần thuật đều xuất hiện trong các TTLS đang xét. Chỉ riêng mô

hình B2 (NKC hàm ẩn với ĐN khách quan từ bên ngoài) được các nhà tiểu

thuyết đương đại sử dụng rộng rãi như một sự thay thế cho mô hình B3 (NKC

hàm ẩn với ĐN thông suốt) thì không thấy xuất hiện. Ngoài ra, tần suất xuất

hiện của các mô hình A1, A2, B1, B3 cũng không đồng đều nhau và không

đồng đều giữa các tác phẩm, thậm chí trong chính bản thân một tác phẩm. Mô

hình NKC ngôi ba hàm ẩn với điểm nhìn thông suốt (B3) truyền thống vẫn

chiếm vị trí lớn. Xét trên phương diện sử dụng các mô hình NKC và ĐN, có

thể chia các tác phẩm khảo sát thành ba nhóm:

Thứ nhất là bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần. Chúng ta có thể thấy

xuyên suốt từ đầu đến cuối bốn tập của bộ tiểu thuyết này là sự thống nhất

trong việc sử dụng mô hình NKC ngôi ba hàm ẩn với điểm nhìn thông suốt

(B3). Sự thống nhất đó có lẽ do mô hình B3 này hoàn toàn đáp ứng được yêu

cầu của tác giả trong việc thể hiện câu chuyện của mình. Đó là một câu

chuyện cũng thống nhất về tư tưởng thẩm mỹ, quan niệm nhân sinh, dẫn đến

hình thức thể hiện nó cũng không cần sự khác biệt. Mô hình B3 là mô hình

NKC và ĐN truyền thống đã được sử dụng vô cùng rộng rãi trong các tiểu

thuyết trước đây. Sức mạnh của mô hình này là sự thống nhất giữa cái khách

quan và chủ quan. Ngoài ra, khả năng thông tỏ mọi sự việc của NKC ngôi thứ

ba với ĐN thông suốt từ ngoài vào trong giúp tác phẩm tái hiện chân thực một

thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc với rất nhiều chi tiết, sự kiện cũng như

những nhân vật lịch sử đã trở thành những biểu tượng đầy tự hào trong lòng

người đọc.

Nhóm thứ hai là các tác phẩm Sông Côn mùa lũ và Giàn thiêu. Hai tác

phẩm này cũng chủ yếu sử dụng mô hình B3. Sông Côn mùa lũ là một thiên

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

35

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

tiểu thuyết hoành tráng dựng lại toàn bộ giai đoạn lịch sử thời Tây Sơn. Thực

ra, về cơ bản tác phẩm này có đặc điểm rất giống với bộ tiểu thuyết Bão táp

triều Trần của Hoàng Quốc Hải. Tác giả dựng lại lịch sử với cảm hứng đầy tự

hào, khá trung thành với chính sử. Vì vậy, thiết nghĩ việc tác giả chủ yếu sử

dụng mô hình NKC và ĐN B3 là điều dễ hiểu. Còn đối với Giàn thiêu, cách

tiếp cận lịch sử của Võ Thị Hảo khác hẳn so với Nguyễn Mộng Giác và

Hoàng Quốc Hải. Cũng là một thời kì lịch sử dài, cũng là những nhân vật đã

định hình trong chính sử, nhưng mục đích của nữ nhà văn không phải ở cái

hiện thực lịch sử ấy, mà là số phận của những con người trong quá trình tìm

kiếm hạnh phúc và ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Một điểm nhìn toàn tri

và một người kể chuyện ngôi ngôi thứ ba (hàm ẩn nhưng vẫn có thể thể hiện

giọng điệu của mình) là đủ để Võ Thị Hảo đi đến cuối mục đích của mình,

vẫn đủ để đưa những số phận con người, những khao khát, ước mơ, những bi

kịch, ẩn ức…đến với bạn đọc. Dù không dụng công nhiều trong kĩ thuật tự sự

trên phương diện NKC và ĐN, nhưng đó không phải là hạn chế của tác phẩm

này. Nếu như sử dụng cái bình thường, truyền thống mà vẫn tạo được hiệu

quả như mong muốn còn hơn việc cách tân một cách gượng ép. Bởi vì sự

cách tân hình thức phải xuất phát từ sự phát triển nội tại của nội dung. Giàn

thiêu dù sử dụng một mô hình NKC-ĐN truyền thống nhưng vẫn mê hoặc

người đọc, bởi tác phẩm này còn có những điều khác nữa.

Tuy nhiên, ngoài mô hình B3, Sông Côn mùa lũ và Giàn thiêu còn sử

dụng thêm một mô hình nữa là NKC hàm ẩn với ĐN bên trong (B1). Sau đây

là khảo sát sơ lược của chúng tôi về mô hình NKC-ĐN này trong hai tác

phẩm.

Hãy xem xét một số đoạn văn sau trong Sông Côn mùa lũ:

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

36

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

- (1): “Lãng nghĩ: như vậy là cả nhà ghét bỏ mình. Chỉ có mẹ thương mình

(…). Cha không thương mình (…). Anh Kiên thì lạnh lẽo quá, chắc không

thương ai. Anh Chinh và chị An, rõ ràng họ ghét mình hơn ai hết. Ngồi khóc

thút thít ngoài bờ tre, Lãng nhìn vào nhà chờ một tiếng gọi. Cửa sổ đóng,

nhưng cửa lớn mở. Ánh đèn bên trong vẫn còn, tiếng nói chuyện lao xao từ

nhà mợ Hai Nhiều và nhà Lãng vẫn còn nghe được. “Họ” vẫn còn đó, nhưng

“họ” không thèm biết mình đang chờ họ gọi vào, họ an ủi, họ vỗ về…”

[52,tr.71]

- (2): “Đột nhiên An cảm thấy trong thân thể mình có điều gì khác thường.

Đầu cô nhức, tay chân rã rời. Chỉ vì mình vật vã khóc mấy ngày đấy thôi.

Nhưng…nhưng sao mình tệ thế này? Thằng Út mới lên ba còn có thể đái dầm,

Lãng những hôm bệnh có thể…Nhưng mình chừng này tuổi đầu? Chao ôi,

nếu mấy chị biết được!(...)Mẹ ơi, mẹ cứu con. Chỉ có mẹ mới cứu được con

thôi (…) Nhưng mẹ bỏ con rồi còn đâu. Làm thế nào bây giờ? Có ai cứu tôi

nữa không?” [52,tr.80]

Đoạn (1) kể về việc sau khi Lãng nói với An về việc Chinh nuốt sâu

trong miếu hoang, An tức giận mắng Lãng và Lãng giận dỗi bỏ ra ngoài. Rõ

ràng đoạn kể này không được kể từ điểm nhìn NKC, mà kể qua điểm nhìn của

nhân vật Lãng. Dấu hiệu nhận biết là hệ thống các đại từ nhân xưng ngôi ba

trong đoạn văn đều chỉ mối quan hệ với Lãng: mẹ, cha, anh Kiên, anh Chinh,

chị An, mợ Hai Nhiều. Những nhân vật này không có mối quan hệ với NKC

nên nếu câu chuyện trong đoạn văn trên mà được kể từ điểm nhìn của NKC

thì đại từ nhân xưng chỉ các nhân vật trên phải là: bà giáo, ông giáo Hiến,

Kiên, Chinh, An, bà Hai Nhiều.

Đoạn (2) là kể về “kinh nghiệm dậy thì của đời con gái” của An. Những

miêu tả và sự sợ hãi, hốt hoảng chỉ có thể là cảm nhận của nhân vật. Rồi đến

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

37

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

những câu hỏi, những đại từ “mình”…Không thể phân biệt được giọng kể của

NKC hay nhân vật. Tất cả khiến cho người đọc có cảm giác An đang tự kể về

những “trải nghiệm” của bản thân mình. Tuy nhiên, ngôi kể vẫn là ngôi thứ

ba, dùng tên “An”, nên vẫn là NKC không tham gia cấp độ hành động.

Trong Sông Côn mùa lũ, mô hình NKC-ĐN B1 xuất hiện với tần suất

tương đối nhiều (so sánh với các tác phẩm khác, chứ không phải tương quan

với mô hình B3, vì Sông Côn mùa lũ vẫn chủ yếu sử dụng mô hình B3).

Thường đó là những đoạn miêu tả tâm lý, tâm trạng hay tình cảm của nhân

vật. Dường như, về mặt nội dung, những đoạn này giống như những đoạn độc

thoại nội tâm của nhân vật, nhưng về mặt hình thức văn bản thì lại không thể

hiện là độc thoại nội tâm (vì những đoạn độc thoại nội tâm có dấu hiệu văn

bản là nằm trong hai dấu ngoặc kép, trong khi các đoạn văn bản này không

có).

Trong Giàn thiêu mô hình B1 được sử dụng ít hơn so với Sông Côn

mùa lũ, thỉnh thoảng mới xuất hiện. Sau đây là một đoạn văn bản sử dụng mô

hình này:

- (3): “Lý Trác bậm môi cố săn tìm trong mớ ký ức đã khô cứng. Sao trong

giọng nói và dáng điệu của mụ già này có cái gì đó quen quen. Cái ánh mắt

sắc tựa dao cau và giọng nói sang trọng kia thật chẳng giống một người đàn

bà quê mùa nghèo khổ.

…Tháng Tám…cuối thu…Các học trò đeo tay nải lục tục lên kinh ứng

thí…Cái gã học trò nhỏ nhắn, vác tay nải màu vàng mang tên Lê Đóa đi

trước Lý Trác, ứng đối văn chương trôi chảy rành rọt, văn bài qua mỗi kỳ

khảo thí đều đứng đầu bảng. Mỗi khi nói năng, đôi mắt sáng với đuôi mắt dài

sắc tựa dao cau…Phải rồi! Lý Trác vụt nhớ lại, Hội Tường Đại Khánh năm

thứ nhất. Cái gã học trò nhỏ nhắn đó đỗ cùng khoa thi. (…) Lý Trác nhớ, bữa

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

38

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

yến tiệc cuối năm ấy đã như ong vỡ tổ khi Lý Trác dùng mưu mẹo lột khăn áo

của Lê Đóa, để lộ cái yếm bằng gấm màu hoa đào che bộ ngực nở nang đang

bị nén chặt của một cô giá giả trai” [,tr.47]

Đoạn (3) là đoạn kể về câu chuyện giữa Lý Trác và Lê Đóa (tức Lê Thị

Đoan), Lý Trác đã làm lộ thân phận giả trai đi thi của Lê Thị Đoan. Câu đầu

tiên trong đoạn trích trên có thể vẫn được kể từ ĐN của NKC ngôi ba. Tuy

nhiên sang câu thứ hai thì điểm nhìn đã được dịch chuyển sang nhân vật Lý

Trác. Từ đó, NKC đã dựa vào điểm nhìn của Lý Trác để kể câu chuyện trong

quá khứ, với những quan sát và nhận xét của nhân vật Lý Trác: ánh mắt sắc

tựa dao cau, giọng nói sang trọng, gã học trò nhỏ nhắn, như ong vỡ tổ…Trong

đoạn văn cũng có một dấu hiệu văn bản để người đọc xác định được đây là

câu chuyện được kể lần theo trí nhớ của nhân vật Lý Trác, đó là dấu ba chấm

(… Tháng Tám…cuối thu), và các câu “Phải rồi! Lý Trác vụt nhớ lại…”

Phải khẳng định là mô hình B3 vẫn chiếm vị trí chủ yếu trong hai tiểu

thuyết trên. Mô hình B1 chỉ được sử dụng xen kẽ, như một giải pháp phái

sinh. Nghĩa là, đôi khi mô hình NKC ngôi ba không còn phù hợp để thể hiện

câu chuyện nữa nhưng tác giả không muốn hoặc cảm thấy không cần thiết sử

dụng NKC ngôi thứ nhất mà chỉ cần thay đổi điểm nhìn thì mô hình B1 với

NKC vẫn là ngôi ba nhưng ĐN lại là bên trong (ĐN của nhân vật) được đưa

ra như một sự thỏa hiệp. Thường đó là những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật

hoặc một câu chuyện mà chỉ có nhân vật mới thấu hiểu được. Khi đó một

điểm nhìn của NKC hàm ẩn dường như quá xa cách. ĐN được di chuyển vào

cho một nhân vật và nhân vật đó trở thành NTĐH. NKC khi đó đã dựa vào

điểm nhìn của nhân vật để kể ở ngôi thứ ba. Những lúc này, giọng kể của

NKC đã hòa vào giọng kể của nhân vật, khiến cho người đọc nhầm tưởng đó

là nhân vật kể chuyện. Có thể gọi đó là hiện tượng NKC giấu mình đằng sau

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

39

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

nhân vật. Việc đôi lúc, truyện kể sử dụng mô hình B1 thay thế cho mô hình

B3 đem lại hiệu quả: làm giảm khoảng cách giữa NKC và câu chuyện. NKC

dường như được đặt chung tọa độ ý thức, tọa độ không - thời gian với nhân

vật khiến người đọc cảm thấy tính trực tiếp và sát thực trong lời kể của NKC

(hai đặc tính này thường chỉ thấy rõ ở mô hình A2: NKC xưng “tôi”-nhân

vật).

Chính việc sử dụng mô hình NKC - ĐN B1 phần nào khiến cho tác

phẩm mang nhiều âm hưởng sử thi như Sông Côn mùa lũ xóa mờ bớt đi

“khoảng cách sử thi” để gần với thể loại tiểu thuyết hơn. Chính mô hình này

và những mảng thế sự - tâm lý trong tác phẩm tạo cho Sông Côn mùa lũ sự

khác biệt so với Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải.

Nhóm thứ ba gồm hai tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn. So

với các tác phẩm còn lại thì hai tác phẩm này đa dạng hơn về mô hình NKC-

ĐN. Trong Hồ Quý Ly xuất hiện ba dạng: mô hình A2 (NKC xưng “tôi”-nhân

vật), B1 (NKC hàm ẩn – ĐN bên trong), B3 (NKC hàm ẩn - ĐN thông suốt).

Trong Mẫu thượng ngàn thậm chí đã xuất hiện 4 dạng: A1 (NKC xưng “tôi”-

người chứng), A2, B1, B3.

Đầu tiên, chúng ta khảo sát trường hợp Mẫu thượng ngàn. Đây là tác

phẩm có sự xuất hiện của nhiều mô hình NKC nhất trong số những TTLS mà

chúng tôi đang xét. Tuy nhiên, mật độ xuất hiện của các mô hình này thì lại là

điều đáng bàn. Trong tổng số 807 trang văn bản thì: A1 xuất hiện trong gần 2

trang (từ tr.306 đến 308), A2 xuất hiện trong 42 trang (chương XI từ tr.519-

554, phần 3 của chương XII từ tr.571-578), B1 thỉnh thoảng xuất hiện và

chiếm vị trí văn bản không lớn (chỉ trong trường hợp truyền thuyết về ông

Đùng bà Đà được kể từ điểm nhìn của Hoa, ở ngôi thứ ba là dài nhất: chiếm

khoảng 6 trang, từ tr.652-658), B3 chiếm toàn bộ văn bản còn lại. Như vậy có

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

40

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

thể thấy, mô hình B3 vẫn là mô hình chủ đạo, chiếm vị trí lấn át. Sau đó đến

mô hình A2. Mô hình A1 và B1 chiếm vị trí không đáng kể.

Mô hình A1 (NKC xưng “tôi”-người chứng) xuất hiện ở cuối chương

VII kể về bà tổ cô. Cuối câu chuyện về bà tổ cô, có khoảng 2 trang văn bản

xuất hiện NKC xưng “tôi” kể về chuyện tại sao mình biết được câu chuyện

của bà tổ cô: “Câu chuyện tình lạ lùng của bà tổ cô tôi đọc được trong cuốn

gia phả của họ Vũ Xuân ở làng Cổ Đình” [,tr.306]. Và chuyện “tôi” đi tìm

hiểu cái kết cục của câu chuyện bà tổ cô chữa bệnh cho ông Cam như thế nào.

Rõ ràng nhân vật NKC xưng “tôi” này không liên quan gì tới toàn bộ câu

chuyện ở cấp độ hành động với những nhân vật như: bà tổ cô, cô Mùi, ông

đồTiết, ông Trịnh Huyền, Julien…Vì vậy, “tôi” chỉ là một người dẫn chuyện,

cung cấp cho chúng ta thêm thông tin (ở cấp độ sắp xếp hư cấu). Nếu như

không có đoạn xuất hiện của NKC xưng “tôi” này thì cũng không ảnh hưởng

gì sự phát triển của câu chuyện đang được kể. Xét “tôi” trong mối tương quan

với câu chuyện chính đang được kể về làng Cổ Đình thì “tôi” không tham gia

cấp độ hành động mà chỉ là NKC dẫn dắt câu chuyện, nhưng ở một phương

diện nào đó có thể xét 2 trang văn bản do có NKC xưng “tôi” là một truyện kể

khác, kể về một câu chuyện khác (câu chuyện một nhân vật “tôi” đi tìm hiểu

về chuyện tình của bà tổ cô). Và trong câu chuyện đó thì “tôi” lại là nhân vật

chính. Ở một chừng mực nhất định, xét trên phương diện hình thức, hiện

tượng này có vẻ giống một dạng truyện lồng trong truyện. Đứng từ phương

diện ngôi kể và ĐN thì khi đó, NKC hàm ẩn ngôi thứ ba trong lớp văn bản kể

câu chuyện về những con người ở làng Cổ Đình lại trở thành nhân vật chính,

đồng thời là NKC ngôi thứ nhất trong lớp văn bản kể về câu chuyện đi tìm

hiểu kết cục cho câu chuyện tình của bà tổ cô. Hiện tượng thay đổi vai và

ngôi kể của NKC như trên chúng ta phân tích là hiện tượng khá phổ biến

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

41

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

trong các tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Nó như một biểu hiện của sự

cách tân kĩ thuật tự sự như một yêu cầu từ nội dung phản ánh là hiện thực đời

sống hoặc hiện thực tâm trạng đan xen, chồng chéo. Nhưng theo chúng tôi,

trong Mẫu thượng ngàn, hiện tượng này về bản chất không giống trong các

tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Từ góc độ nội dung, việc xuất hiện mô

hình NKC-ĐN B1 chỉ là một cách để tác giả cung cấp cho người đọc (ở cấp

độ không hư cấu) thêm thông tin về câu chuyện đang được kể, chứ nó chưa

đạt phải là kết cấu truyện lồng trong truyện như các tiểu thuyết Việt Nam thời

gian gần đây.

Việc sử dụng các dạng NKC - ĐN A2, B1 cũng chỉ là cách để “thay đổi

không khí” một chút khi câu chuyện được kể mãi ở dạng B3 dường như đã trở

nên nhàm chán, chứ nó không đem lại quá nhiều điều cho tác phẩm xét trên

phương diện hiệu quả thẩm mỹ. Chỉ có một điều cần lưu ý là khi sử dụng mô

hình A2 (tức là NKC xưng “tôi”-nhân vật) luôn có những dấu hiệu ngôn ngữ

như để nhắc nhở người đọc về sự thay đổi ngôi từ thứ ba sang thứ nhất và

thay đổi điểm nhìn. Cụ thể, khi NKC là nhân vật bà ba Váy xưng “tôi” thì

chương XI có tiêu đề là “Bà ba Váy kể chuyện”, và phần 3 của chương XII có

tiêu đề “Lời bà ba Váy” (trong khi bình thường các phần của một chương

trong văn bản không có tiêu đề). Có nghĩa là tác giả cố tình báo trước cho

người đọc về sự thay đổi ngôi kể và điểm nhìn. Vì vậy, khi đọc văn bản có

ngôi kể và ĐN mới người đọc cảm thấy không có gì bất ngờ, sự đón nhận

giống như một sự hiển nhiên. Điều đó dẫn đến hiệu quả tác động đối với

người đọc trong việc thay đổi ngôi kể và ĐN bị giảm đi rất nhiều.

Nhìn chung, tác giả của Mẫu thượng ngàn đã rất có ý thức tạo sự mới

mẻ trong cách tổ chức ngôi kể và ĐN trần thuật, thể hiện ở sự xuất hiện khá

đa dạng các mô hình NKC - ĐN. Tuy nhiên, sự đổi mới đó chỉ mới dừng ở

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

42

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

mức độ như một “thử nghiệm” kĩ thuật tự sự chứ chưa đạt đến cấp độ cảm

quan thẩm mỹ.

Trong trường hợp Hồ Quý Ly, ngoài mô hình B1 được coi là mô hình

phái sinh của dạng B3 (cũng giống như các tác phẩm thuộc nhóm thứ hai), sự

sắp xếp các mô hình NKC - ĐN còn lại trong tác phẩm này đáng để chúng ta

quan tâm. Để tiện cho việc theo dõi cách tổ chức hai mô hình NKC - ĐN chủ

yếu là A2 và B3, cũng như mối liên hệ giữa cách tổ chức đó với nội dung của

tác phẩm, chúng tôi cụ thể hóa bằng bảng sau:

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

43

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Nội dung chính

Phần văn bản Chương I (tr.10-50) Chương II (tr.51-106)

Mô hình NKC- ĐN B3 A2 “tôi”-Hồ Ng.Trừng B3

Chương III (tr.107-152)

B3

Chương IV (tr.153-206)

B3

Chương V (tr.207-299) ChươngVI (tr.301-355)

A2 “tôi”-HNT

B3

ChươngVII (tr.357-415)

B3

ChươngVIII (tr.417-470)

B3(cid:13)

B3

B3

Chương IX (tr.471-518) Chương X (tr.519-572) Chương XI (tr.573-666)

Chương XII (tr.667-768)

Hội thề Đồng Cổ + Giấc mơ “hầu mõm đỏ” của Nghệ Hoàng Về Hồ Nguyên Trừng: nhân thân, thế giới quan, cuộc sống, tình cảm, cuộc hôn nhân với Quỳnh Hoa Về ông vua già Nghệ Tôn: lên ngôi + HQL diệt trừ phản nghịch được gả công chúa Huy Ninh + Nghệ Tôn ủng hộ cải cách của HQL + nhường ngôi cho em là Duệ Tôn + Duệ Tôn chết khi đánh Chiêm Thành, Nghệ Tôn lại phải lên ngôi Nghệ Tôn chết, Thuận Tôn chính thức gánh vác non sông + Phe bảo thủ chờ thời + HQL thâu tóm quyền lực +Xử tử Nguyên Uyên và Nguyên Dận Cuộc nổi loạn của Phạm Sư Ôn + Chiến thắng Chế Bồng Nga của Trần Khát Chân + mối giao tình giữa TK.Chân và HN.Trừng Mối tình của HNT với Thanh Mai + HQL quyết định xây Tây Đô + TKC thể hiện rõ thái độ đối đầu với HQL Cuộc hôn nhân của Thuận Tôn và Thánh Ngẫu và cuộc sống của ông hoàng bà chúa +âm mưu của phe bảo thủ gửi gắm vào Ngọc Kiểm Thuận Tôn đi tu, nhường ngôi cho thái tử An +HQL thanh trừng những người ngăn cản việc dời đô Tư tưởng HQL trong sách Minh Đạo + Sử Văn Hoa viết Minh Đạo Luận HQL mời Sử Văn Hoa giải mộng + Tình cảm của HQL với bà Huy Ninh Phạm Sinh bị cả phe HQL và TKC lôi kéo + Phạm sinh quyết định từ bỏ tất cả và trốn đi + Sử Văn Hoa bị giết - Thanh Mai kể về cuộc đời cô - Vua Thuận Tôn bị bức tử + Thanh Mai và HNT lên Yên Tử

Chương XIII (tr.769-834)

- A2“tôi”-HNT (P.1,2) 29tr - B3 (P.3,4,5) - B3 (P1,2, 5 từ tr.825-827) - A2 “tôi”-HNT (P.3,4,5) 34tr

Hội thề Đốn Sơn - P1,2: khung cảnh Tây Đô trước hội - P3: Hội thi phú con ngựa lá - P4: Cuộc mưu sát HQL bất thành của phe bảo thủ - P5: Cuộc trừng trị người liên đới, trong đó có Thanh Mai. HNT buộc phải từ bỏ TM

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

44

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Sở dĩ chúng tôi phải lập một bảng thống kê dài như trên theo từng

chương của cuốn tiểu thuyết vì chúng tôi muốn có cái nhìn khái quát về cách

thức tổ chức ngôi kể và điểm nhìn trong Hồ Quý Ly. Qua bảng trên có thể

thấy, mô hình B3 (NKC hàm ẩn ngôi ba với ĐN thông suốt) vẫn chiếm vị trí

chủ yếu (có mặt trong 11 chương trên 13 chương của tác phẩm). Trong khi

mô hình A2 (NKC xưng “tôi”-nhân vật) có mặt trong 4 chương trên 13

chương của tác phẩm (trong đó, A2 chỉ xuất hiện hoàn toàn trong chương II

và VI, còn trong chương XII và XIII mô hình này chỉ xuất hiện trong một nửa

chương). Tính về số trang văn bản thì A2 chiếm vị trí trong 172 trang trên

tổng số 827 trang của tác phẩm. Mặc dù so với mô hình B3 thì sự xuất hiện

của A2 không nhiều nhưng đó là sự dụng công có ý đồ nghệ thuật của tác giả.

Dựa trên bảng kê nội dung chính trên chúng tôi nhận thấy: khi câu chuyện kể

về những sự kiện, những biến cố dữ dội của lịch sử thì mô hình B3 được sử

dụng, còn khi câu chuyện kể về những gì riêng tư liên quan đến một nhân vật

chính trong tác phẩm, Hồ Nguyên Trừng - con trai cả của Hồ Quý Ly, thì mô

hình A2 được sử dụng với NKC xưng “tôi” là nhân vật Hồ Nguyên Trừng.

Điều này khiến cho văn bản tác phẩm như được phân rã thành hai với hai

NKC và hai ĐN khác nhau. Có lẽ một trong những mục đích của tác giả khi

sử dụng A2 là muốn tạo tính tin cậy cho câu chuyện của mình. Bởi vì, Hồ

Nguyên Trừng là một nhân vật chính, để anh ta kể về những chuyện của mình

(như câu chuyện về thời thơ ấu, cuộc hôn nhân với Quỳnh Hoa, mối tình với

Thanh Mai...) từ điểm nhìn bên trong đem đến cho câu chuyện tính chất trực

tiếp, đáng tin cậy và thuyết phục hơn. Nhưng đó có phải là hiệu ứng duy nhất

của mô hình A2 trong Hồ Quý Ly. Chúng tôi thử đưa ra câu hỏi: Tại sao chỉ

những chuyện liên quan đến Hồ Nguyên Trừng nhưng ở khía cạnh đời sống

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

45

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

riêng tư lãng mạn: tình yêu, thời thơ ấu, suy nghĩ thầm kín mới được kể ở

ngôi thứ nhất từ điểm nhìn của nhân vật, còn những sự kiện dữ dội cũng liên

quan đến nhân vật này như việc ông ta phải tham gia vào các hoạt động chính

trị của Hồ Quý Ly thì lại được kể bởi mô hình B3? Tại sao không kể tất cả

câu chuyện theo một mô hình hoặc A2 hoặc B3?

Mục đích của việc sử dụng xen kẽ hai mô hình A2 và B3 là đa dạng

hóa ngôi kể và điểm nhìn trong tác phẩm từ đó dẫn đến đa dạng hóa hướng

tiếp cận vấn đề trong tác phẩm. Có lẽ, đây là một cố gắng đổi mới kĩ thuật tự

sự của Nguyễn Xuân Khánh để tiếp cận với một vấn đề còn nhiều tranh cãi là

con người và vai trò của Hồ Quý Ly trong lịch sử. Đó là câu trả lời cho câu

hỏi thứ hai. Còn câu hỏi thứ nhất thì giải quyết những vấn đề cụ thể hơn của

việc sử dụng ngôi kể và điểm nhìn. Việc sử dụng mô hình A2 để kể về những

khía cạnh riêng tư liên quan đến nhân vật Hồ Nguyên Trừng có mục đích thứ

nhất là: tạo tính trực tiếp và tin cậy cho câu chuyện (như trên đã nói). Ngoài

ra, việc chỉ có những chuyện liên quan đến đời sống riêng tư của Hồ Nguyên

Trừng mới được kể ở ngôi thứ nhất từ ĐN của chính nhân vật, còn lại sự tham

gia của nhân vật vào những sự kiện dữ dội khác thì lại được kể ở ngôi ba với

ĐN thông suốt có dụng ý khá lớn của tác giả. Hồ Nguyên Trừng là một nhân

vật, đại diện cho một loại tư tưởng trong tác phẩm. Ông là người đứng giữa

phe bảo thủ (Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng, Phạm Khả Vĩnh…) và phe

cách tân (Hồ Quý Ly, Nguyễn Cẩn, Hồ Hán Thương…). Ông không đồng ý

với sự cố chấp của phe bảo thủ. Còn đối với tư tưởng đổi mới của của Hồ Quý

Ly, ông rất ủng hộ nhưng không đồng ý với cách Hồ Quý Ly thực hiện tư

tưởng đó. Khi nói về cuốn sách Minh Đạo của Hồ Quý Ly, ông cho rằng:

“Quyển sách của cha bàn về sự đổi thay, nhưng là sự đổi thay cực nhanh. Và

điều đáng bàn chính ở chỗ đó” [54,tr.485]. Nhưng mặc dù không đồng tình

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

46

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

với chính sách quyết liệt của Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng vẫn phải tham

gia, vẫn phải là một phần của nó. Sự tham gia đó là miễn cưỡng, và cùng với

sự gia tăng của bạo lực trong chính sách của Hồ Quý Ly, càng ngày Nguyên

Trừng càng cảm thấy ngột ngạt, lạc lõng. Cái giá cho sự đổi mới càng ngày

càng đắt. Ông tham gia vào các hoạt động của Hồ Quý Ly càng ngày càng

như kẻ ngoài cuộc. Thực ra, sự tham gia đó không xuất phát từ bản thân nhận

thức của ông mà chỉ do bổn phận của một người con. Hơn nữa, trong bối cảnh

đó, chính bản thân Hồ Nguyên Trừng cũng không tìm được phương tiện nào

tốt hơn so với Hồ Quý Ly. Ông bị mâu thuẫn giữa mục đích đổi mới và

phương tiện thực hiện sự đổi mới đó. Lẽ đúng sai trong cách làm ấy đến bản

thân Hồ Nguyên Trừng cũng không biết rõ nên câu chuyện được đẩy ra ngoài

cho một NKC hàm ẩn, để sự phán xét dành cho người khác (sự phán xét mà

Hồ Nguyên Trừng không muốn và cũng không thể làm được). Chỉ có thời thơ

ấu, cuộc hôn nhân với Quỳnh Hoa, mối tình cảm động với Thanh Mai mới

thực sự thể hiện đúng bản chất của Hồ Nguyên Trừng, mới là nguồn an ủi

thực sự của ông. Vì thế, những câu chuyện này được kể ở ngôi thứ nhất với

điểm nhìn của chính nhân vật này. Trong con người Hồ Nguyên Trừng có hai

con người khác nhau: một Hồ Nguyên Trừng – con trai Hồ Quý Ly - với bổn

phận, trách nhiệm và một Hồ Nguyên Trừng lãng tử với tình yêu trong sáng.

Con người thứ nhất là con người bản thân Hồ Nguyên Trừng cũng không thực

sự rõ, không thực sự đồng tình, không thể phán xét nên được kể từ điểm nhìn

của một NKC ngôi ba. Sự phán xét đúng sai con người này được dành cho

một người có khả năng “toàn tri”, “thông suốt”. Còn con người thứ hai là con

người mà Hồ Nguyên Trừng sống thật với lòng mình, là con người mà bản

thân ông hiểu rõ nhất, chắc chắn nhất, dường như là con người bản chất của

ông nên việc kể từ điểm nhìn của chính nhân vật là hoàn toàn đáng tin cậy.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

47

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Tóm lại, ngoài việc sử dụng mô hình NKC - ĐN truyền thống và đơn

nhất, các tác giả TTLS đã bước đầu có ý thức trong việc đa dạng hóa các kiểu

NKC - ĐN trong cùng một tác phẩm. Tuy nhiên, sự cách tân mới dừng lại như

những “thử nghiệm” đơn giản và thuần túy kĩ thuật. Chưa có sự đột phá nào

trong vấn đề NKC và ĐN ở những tiểu thuyết này. Trong các TTLS đang xét,

chỉ có cách tổ chức NKC và ĐN trong Hồ Quý Ly là tạo được hiệu quả nhất

định trên cả phương diện kĩ thuật tự sự lẫn phương diện cảm quan thẩm mỹ…

2.2. GIỌNG ĐIỆU:

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển

thuật ngữ văn học thì giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng

đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn

qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm…” [6,tr.91].

Manfred Jahn, tác giả cuốn Trần thuật học: nhập môn lý thuyết trần

thuật cho rằng “giọng điệu (voice) được hiểu là đặc điểm âm thanh hay chất

giọng thể hiện qua văn bản” [13,tr.44]. Ông chia ra hai cấp độ của giọng điệu:

1/ Giọng điệu thuộc văn bản là những giọng điệu của NKC (= giọng điệu trần

thuật của văn bản) và của các nhân vật. 2/ Giọng điệu ngoài văn bản là giọng

điệu của tác giả.

Katies Wales trong Từ điển phong cách học (Dictionary of Stylistic) thì

phân biệt hai thuật ngữ “voice” và “tone” như sau: Voice được dùng “để miêu

tả ai là người nói trong trần thuật”. Tone “được dùng với nghĩa một phẩm chất

âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những cảm xúc hoặc tình cảm đặc

biệt nào đó” [45;tr.478].

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, M.H.Abrams quan niệm: Tone là

“thái độ của tác giả đối với người đọc”, còn voice được xác định: có một voice

bao trùm lên tất cả các voice hư cấu trong một tác phẩm và có một người ở

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

48

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

đằng sau tất cả những nhân vật văn học, thậm chí kể cả người kể chuyện ngôi

thứ nhất. [43,tr.218]

Phần lớn các ý kiến trên đều thống nhất: thuật ngữ “giọng điệu” phải

được hiểu trên hai cấp độ: 1/ Giọng điệu thuộc văn bản: là giọng điệu trần thuật

thể hiện thông qua giọng điệu của NKC và nhân vật . 2/ Giọng điệu ngoài văn

bản: thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng của tác giả đối với hiện thực được

miêu tả trong tác phẩm.

Khi khảo sát vấn đề giọng điệu trong các TTLS Việt Nam những năm

gần đây chúng tôi cũng xuất phát từ hai cấp độ trên của giọng điệu.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, ở cấp độ thuộc văn bản thì giọng điệu

trong các tác phẩm đang xét không có gì nổi bật. Giọng điệu vẫn là đơn âm.

Trong toàn bộ những tác phẩm đang xét thì giọng điệu trần thuật cơ bản vẫn là

giọng của NKC hàm ẩn ngôi ba với ĐN thông suốt (điều này có thể thấy rõ

trong khảo sát ở phần trên của luận văn). Ở đó không có ‘‘tính phức âm, tính

phân tầng’’ mà Bakhtin cho rằng được tạo ra từ sự ‘‘đối thoại hóa ở mức độ

này hay mức độ khác’’. Tính đối thoại không thể hiện ở việc các nhân vật đối

thoại nhiều hay ít, mà thể hiện trong mối quan hệ giữa tác giả - người kể

chuyện – nhân vật trên văn bản, trong việc “tổ chức những tiếng nói khác nhau

trong tiểu thuyết (...) những tiếng nói xã hội khác nhau và những tiếng nói cá

nhân khác nhau” [4;tr.137].

Vì không có gì đặc biệt trong giọng điệu ở cấp độ thuộc văn bản nên

phần này chúng tôi chỉ xin khảo sát giọng điệu ở cấp độ thứ hai: giọng điệu

ngoài văn bản.

Ở cấp độ ngoài văn bản, giọng điệu trong TTLS Việt Nam những năm

gần đây chủ yếu chia thành các loại sau :

2.2.1. Giọng điệu tự hào trước lịch sử :

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

49

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Đây là giọng điệu truyền thống của văn học cách mạng Việt Nam trước

1975 và là giọng điệu đặc trưng của thể loại sử thi. Một số TTLS Việt Nam

thừa hưởng và tiếp nhận giọng điệu này một cách hết sức tự nhiên. Đó là

trường hợp của các TTLS loại thứ nhất (TTLS sử thi – như cách chúng tôi phân

loại ở phần trên), tiêu biểu là Bão táp triều Trần. Ngoài ra, trong những tác

phẩm đang xét thì Sông Côn mùa lũ (một TTLS thuộc loại thứ hai – TTLS thế

sự - tâm lý) cũng lấy giọng tự hào là giọng điệu chính.

Trong những tác phẩm này, giọng điệu tự hào thống nhất từ đầu cho đến

cuối tác phẩm. Giọng điệu đó thể hiện trên tất cả phương diện của tác phẩm.

Tất cả những phát ngôn, những quan điểm đều mang tính cộng đồng, tính

“khả nhiên” được thừa nhận. Giọng điệu đó được truyền đến người đọc một

cách trực tiếp, không tạo ra bất cứ quá trình đối thoại, cật vấn, hoài nghi nào ở

người đọc khi họ tiếp nhận.

Trong bộ Bão táp triều Trần, những nhân vật như vua Trần Nhân Tông,

Hưng Đạo Vương, Trần Quốc Toản, Huyền Trân, An Tư…được xây dựng là

những nhân vật vô cùng đẹp đẽ, thập toàn thập bích…Những chiến công của

vua tôi nhà Trần cũng chứa chất hào khí. Tất cả tạo nên một không khí tự hào

về truyền thống yêu nước thấm đẫm chất sử thi.

Đối với Sông Côn mùa lũ, giọng điệu tự hào kia không hừng hực như

Bão táp triều Trần. Cái cung bậc hào sảng đó đôi khi bị trầm xuống bởi

những mảng thế sự, tâm lý đan xen. Tuy nhiên, đó chỉ là những lắng đọng tạm

thời để lòng tự hào lại vút lên. Dù có những suy tư, những điều chưa thật hoàn

mỹ, nhưng cuối cùng, Nguyễn Huệ vẫn là một anh hùng kiệt xuất. Cả thời kì

lịch sử ấy dù có nước mắt của những người mẹ, người vợ gánh chịu bao vất

vả, đau thương thời loạn lạc ; dù có cảnh “nồi da nấu thịt” giữa anh em Tây

Sơn nhưng đó vẫn là thời kì anh hùng với những con người kiệt xuất. Bè

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

50

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

chính trong tác phẩm vẫn là bè cao, bè hùng, phơi phới.

2.2.2. Giọng điệu hoài nghi trước lịch sử :

Đó là trường hợp của tác phẩm Hồ Quý Ly. Tất cả những sự kiện lịch

sử, con người lịch sử đều được đưa ra xem xét lại với con mắt hoài nghi trước

lịch sử. Tác giả không bị những định kiến lịch sử làm cho nhầm lẫn. Những

vấn đề lịch sử được soi rọi ở nhiều khía cạnh khác nhau. Lịch sử cho rằng Hồ

Quý Ly là bạo chúa. Chưa chắc. Tác phẩm cho thấy mọi hành động của ông ta

đều có lý do. Để tạo điều kiện cho cái mới tồn tại, ông ta phải dọn dẹp hết

những cái cũ đi, đó là lẽ thường. Vậy Hồ Quý Ly phải chăng là một nhân vật

cách tân vĩ đại như một số ý kiến khác. Cũng không hẳn, bởi trong cách làm

của ông vẫn thiếu một cái gì đó, cái mà nhân vật Sử Văn Hoa (một nhân vật

mang tư tưởng của tác giả) gọi là “hồn sông núi”. Chính vì thế ông đã thất

bại.

Tất cả mọi vấn đề lịch sử đều được xem xét với tinh thần hoài nghi như

vậy. Những nhân vật đã đi vào tâm thức của người dân như Trần Khát Chân

cũng được xem xét ở những khía cạnh khác. Ông có hoàn toàn là một người

quân tử, một vị anh hùng không khi cũng dùng mưu mô, thủ đoạn để đạt mục

đích của mình (sai Thanh Mai và Phạm Sinh làm nội gián bên Hồ Nguyên

Trừng và Hồ Quý Ly, và ông cũng có thể là người đã ra lệnh giết chết vợ

chồng Sử Văn Hoa). Chiến thắng Chế Bồng Nga của Trần Khát Chân có hoàn

toàn là nhờ tài thao lược của vị thượng tướng này không, khi mà một yếu tố

quan trọng tạo nên nó là sự đầu hàng của tên hầu cận vua Chiêm Thành, Ba

Lậu Kê ?

Người đọc bị rối rắm trong mớ câu hỏi đó, và luôn phải tự tìm cho

mình câu trả lời từ nhiều điểm nhìn khác nhau.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

51

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

2.2.3. Giọng điệu mang tính nhân đạo sâu sắc:

Khác với Bão táp triều Trần, Sông Côn mùa lũ hay Hồ Quý Ly hai cuốn

tiểu thuyết Giàn thiêu và Mẫu thượng ngàn lại không đặt lịch sử làm vấn đề

trung tâm của tác phẩm, mà hướng trọng tâm vào vấn đề số phận của những

con người cá nhân, khát vọng tự do và tình yêu của con người hay vấn đề sức

mạnh của văn hóa dân tộc trong bối cảnh lịch sử.

Trong bối cảnh lịch sử mà các tác phẩm văn học cách mạng thường gọị

là “đêm trường nô lệ” hay “thời kì đau thương” thì số phận của con người thật

mong manh và đau khổ. Nguyễn Xuân Khánh cũng viết về số phận người

dân, đặc biệt là người phụ nữ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, khi thực dân

Pháp xâm lược Việt Nam với cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Nhưng khác với

các nhà văn cách mạng, tác giả của Mẫu thượng ngàn tập trung khai thác sức

mạnh trường tồn từ trong gốc rễ văn hóa của nhân dân. Cũng viết về những

cuộc đời éo le, oan trái của người phụ nữ nhưng giọng điệu của tác giả không

phải là “giọng ngùn ngụt lửa căm hờn” đối với kẻ thù, mà giọng cảm thương

đi vào chiều sâu, lắng đọng và vô cùng da diết. Tác phẩm mang nhiều ảnh

hưởng của văn hóa phồn thực. Trong khi chưa đủ sức đứng lên tiêu diệt kẻ thù

thì người dân Việt chống chọi lại với kẻ thù bằng văn hóa dân tộc. Họ tìm về

với cội nguồn văn hóa như tìm về với người mẹ của mình để được chở che, để

được làm lành những vết thương. Và chính văn hóa dân tộc là thứ khiến kẻ

thù sợ hãi nhất. Tư tưởng nhân đạo của tác giả chính là ở đó. Mặc dù, giọng

điệu mang tính nhân đạo không thể hiện một cách dồn dập nhưng nó ẩn hiện

và vẫn là chủ âm trong tác phẩm này. Có những lúc sự cảm thương cho số

phận con người của tác giả được gửi gắm trực tiếp qua giọng kể của NKC:

“Có ai đã nhìn thấy một đám ma trên cánh đồng chiêm vào mùa mưa tầm tã

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

52

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

chưa? Có ai đã trông thấy một đoàn thuyền thúng chở đầy ắp những người

khăn trắng như cò, nối đuôi nhau trên những cánh đồng mênh mông trắng xóa

chưa? Có ai đã mục kích những con người sống ngâm da chết ngâm xương,

khóc than rầu rĩ, tiễn đưa nhau đến chỗ thiên thu cách biệt chưa?” [55, tr.19].

Dường như tác giả đã hóa thân thành NKC để kêu lên những tiếng than

thương xót đó.

Cũng nói về số phận của những cá nhân, nhưng Võ Thị Hảo không đặt

nhân vật trong bối cảnh lịch sử tang thương mà đặt trong bối cảnh một thời

hòa bình. Con người không bị đày đọa bởi kẻ thù mà bị đày đọa bởi chính

những cuồng vọng của mình. Lòng hận thù, giấc mơ quyền lực đã đẩy con

người vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Đó là một chàng Từ Lộ dù đã trải

hai kiếp vẫn chưa trả hết nợ. Lòng hận thù và những dục vọng cường quyền

của chàng đã không những tạo nên bi kịch cho chàng mà còn khiến cho những

người yêu thương chàng cũng bị đày đọa (Nhuệ Anh, Ngạn La). Giọng điệu

mang tính nhân đạo được ẩn dưới những câu văn dữ dội, bỏng rát: “ Dưới ánh

mặt trời gay gắt, chen giữa màu đỏ những chiếc áo chết của các cung nữ, màu

đỏ của hình tam giác vẽ bằng máu uyên ương trên trán họ, màu đỏ của những

súc gỗ làm sạn đạo, cái màu đen sẫm như cánh quạ của những chiếc áo

choàng đao phủ gợi những bữa tiệc máu âm phủ…”[51,tr.35]. Ẩn đằng sau

những câu văn chói nhức ấy, người đọc cảm nhận được lòng xót thương cho

thân phận của những cung nữ bị chết thiêu. Có những lúc, lời tác giả, lời

NKC, lời nhân vật hòa vào nhau khi nỗi đau lên đến tột cùng: “Đọa xứ! Bến

Đá sông Gâm. Bè nứa và chiếc nón lá của người tỳ kheo. Cơn giông sầm đổ.

Rồi trời quanh tạnh và hoa gạo như những bụm máu qua vai một người con

trai. Thác Oán. Túp lều lau sậy le lói bếp lửa. Người đàn ông Cá Bơn..Ta

những tưởng dứt bỏ lòng trần, đường tu trọn kiếp. Nào ngờ…” [51,tr.284].

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

53

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Hầu hết các câu trong đoạn văn trên đều là câu đặc biệt. Đoạn văn như một

đoạn phim hồi tưởng. Mỗi câu văn là một hình ảnh cận cảnh và ghép lại thành

đoạn phim cuộc đời sư bà chùa Trầm (Nhuệ Anh). Nỗi đau đớn của Nhuệ

Anh khi gặp lại Từ Lộ trong hình hài vua Thần Tông với cuộc sống dục vọng

vô độ dường như không lời tả được. Và đoạn văn trên không rõ đâu là giọng

NKC, đâu là giọng nhân vật. NKC đã giấu mình sau nhân vật để cảm nhận

trực tiếp nỗi đau khổ của nhân vật. Chúng ta thấy đâu đó trong những câu văn

cũng có cả nỗi đau của một người phụ nữ có thực thương xót cho những

người phụ nữ (những nhân vật của mình).

Tính chất nhân đạo sâu sắc là đặc trưng trong giọng điệu xét trên cấp

độ ngoài văn bản của hai tác phẩm này. Cảm hứng nhân đạo là cảm hứng

truyền thống nhưng không bao giờ cũ của văn học nhân loại. Xét cho cùng

văn học là vì con người. Nguyễn Xuân Khanh và Võ Thị Hảo đã tiếp cận lịch

sử từ khía cạnh đó. Và cảm hứng nhân đạo (sự thương xót, yêu thương với

những số phận con người) tạo nên giọng điệu chủ yếu của hai tác phẩm này.

Tuy nhiên, nếu xét trên cấp độ thuộc văn bản, thì giọng điệu trong Mẫu

thượng ngàn và Giàn thiêu còn có một đặc tính khác, đó là tính huyền ảo mê

hoặc. Dường như thuộc tính này là phương tiện để cho hai tác giả làm mới

giọng điệu nhân đạo truyền thống. Võ Thị Hảo và Nguyễn Xuân Khánh đã sử

dụng rất nhiều chất liệu dã sử, truyền thuyết dân gian và những chi tiết phi

hiện thực để khiến tác phẩm của mình mang màu sắc huyền ảo mê hoặc người

đọc. Về vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập cụ thể hơn trong phần sau của luận

văn.

3.3. THỜI GIAN:

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

54

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

3.3.1. Xét từ góc độ triết học, phạm trù “thời gian” luôn đi liền với

phạm trù “không gian”, đó là “hình thức cơ bản của mọi tồn tại” (Ănghen).

Trên thực tế, không có tồn tại nào nằm ngoài không gian và thời gian.

Thời gian và không gian trong văn học chính là sự soi chiếu thời gian

và không gian hiện thực vào tác phẩm. Từ góc độ thể loại tiểu thuyết, vấn đề

thời gian có vai trò quan trọng hơn vấn đề không gian rất nhiều. Vì thế, trong

phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề thời gian trong các TTLS Việt Nam

những năm gần đây.

Khi nhắc đến “thời gian” trong tiểu thuyết người ta phân biệt: 1/ Thời

gian kể (tức là thời gian của diễn ngôn, trong văn bản được nhận biết bằng số

trang và thứ tự các sự kiện chính được kể). 2/ Thời gian của cái được kể (tức

là thời gian của cốt truyện: gồm khoảng thời gian của sự kiện- bao nhiêu năm,

và trật tự niên biểu của các sự kiện đó – cái nào diễn ra trước). Cách thức tổ

chức thời gian kể và thời gian được được kể thể hiện kĩ thuật tự sự.

Xem xét vấn đề thời gian trong các TTLS Việt Nam chúng tôi nhận

thấy:

- Thời gian kể và thời gian được kể thường rất dài. Tức là các TTLS

đều nói về một thời kì lịch sử dài với dung lượng rất lớn. Trong số các TTLS

đang xét thì Bão táp triều Trần kể về gần 200 năm thời nhà Trần trong 1748

trang văn bản, Sông Côn mùa lũ kể về toàn bộ cuộc khởi nghĩa và lên ngôi

cho đến khi chết của Quang Trung trong 1442 trang văn bản cỡ lớn, Hồ Quý

Ly kể về hơn 30 năm cuối thời nhà Trần trong 834 trang văn bản, Giàn thiêu

kể về hơn 50 năm lịch sử trong 542 trang văn bản, Mẫu thượng ngàn kể về

khoảng hơn 50 năm cuối thế kỉ XIX, đầu XX trong 807 trang văn bản. (Đơn

vị trang văn bản được dựa và các bản mà chúng tôi khảo sát). Có một lưu ý

nhỏ là những tiểu thuyết mang giọng điệu tự hào thì có dung lượng rất lớn, có

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

55

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

tàm vóc của một sử thi. Trong khi đó, các tác phẩm có cái nhìn mới đối với

lịch sử (Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Giàn thiêu) thì độ dài văn bản được

rút ngắn hơn. Tuy nhiên, ở khía cạnh này của thời gian, các tác phẩm đang xét

không có điều gì đặc biệt. Ở đây, chúng tôi không nhận thấy hiện tượng dồn

nén hoặc kéo dãn của thời gian như các tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI.

- Trật tự thời gian niên biểu của sự kiện trong phần lớn các tác phẩm

không có sự xáo trộn đáng kể. Trong 5 tác phẩm thì Bão táp triều Trần và

Sông Côn mùa lũ được kể theo đúng trật tự thời gian niên biểu (kiểu kể

chuyện theo thời gian tuyến tính truyền thống của các tiểu thuyết chương hồi).

Chỉ có ba tác phẩm còn lại có sự xáo trộn thời gian kể so với thời gian niên

biểu. Trong đó chỉ có Giàn thiêu là cách tổ chức thời gian có ý nghĩa từ góc

độ phương thức tự sự.

Vì vậy, chúng tôi chỉ khảo sát trường hợp của Giàn thiêu.

3.3.2. Khảo sát về trật tự thời gian của những sự kiện chính trong tác

phẩm Giàn thiêu, chúng tôi có bảng sau:

Phần

Sự kiện chính

Qui chiếu thời gian niên biểu 1127

Năm Quảng Hựu thứ 4 Ngay sau thời điểm trên Ngay sau thời điểm trên Ngay sau thời điểm trên Ngay sau thời điểm trên Ngay sau thời điểm trên Ngay sau thời điểm trên

Chương I: Giàn thiêu Chương II: Đêm nguyên tiêu Chương III: Công đường Chương IV: Đại đăng khoa Chương V: Cửu trùng Chương VI: Tiếng gọi Chương VII: Tiểu đăng khoa Chương VIII: Ngược thác oán Chương IX:

Cuộc hành hình cung nữ sau khi Nhân Tông chết Biến cố đến với gia đình Từ Lộ: Cha bị Diên Thành hầu hãm hại Từ Lộ kêu oan cho cha trên công đường nhưng thất bại Từ Lộ vì mối thù từ chối tình yêu của Nhuệ Anh, Lý Câu tìm cách cưới N.Anh Từ Lộ kêu oan cho cha với Nhân Tông và Ỷ Lan đường nhưng thất bại Từ Lộ tìm Đại Điên trả thù cho cha nhưng bị Đại Điên đánh cho ngất đi Đám cưới không thành của Lý Câu – Nhuệ Anh Trên đường đi Thiên Trúc, gặp Nhuệ Anh ở Thác Oán Ngạn La bị giam ở lãnh cung chứng kiến 1127, Sau sự kiện

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

56

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

cảnh Dương thái hậu và Ỷ Lan Dương Hoán thả Ngạn La khỏi lãnh cung

hành hình cung nữ 1128

1129

Thần Tông gặp sư bà chùa Trầm trong buổi lễ Phật Thần Tông mời sư bà chùa Trầm vào cung nói chuyện Vua hóa hổ

1129, sau thời điểm trên 1136

Sư bà đi tìm Minh Không chữa bệnh cho vua Chữa bệnh cho vua

Từ Lộ được Dã nhân nuôi và tu luyện thành công Từ Lộ giết chết Đại Điên trả thù cho cha mẹ Từ cảm hóa vợ chồng đồ tể, lập chùa tu hành trên núi Phật tích Từ trở thành đại sự Từ Đạo Hạnh nhưng vẫn khát khao dục vọng Từ Đạo Hạnh đầu thai làm Thần Tông

1136, ngay sau thời điểm trên 1136, ngay sau thời điểm trên Sau sự kiện gặp N.Anh ở thác Oán Ngay sau sự kiện trên Ngay sau sự kiện trên 10 năm sau sự kiện trên Sau sự kiện trên

1136

Lãnh cung Chương X: Long sàng Chương XI: Niệm xứ Chương XII: Đọa xứ Chương XIII: Hổ Chương XIV: Cô Phong Chương XV: Nghiệp chướng Chương XVI: Hành cước Chương XVII: Báo oán Chương XVIII: Thiền sư Chương XIX: Vinh hoa Chương XX: Đầu thai Chương XXI: Giải thoát

1138

Chương XXII: Lãnh tiếu nhân gian Chương XXIII: Tà thư Chương XXIV: Đoạn đầu đài Chương XXV: Lửa

Quay lại việc chữa bệnh cho Thần Tông, Từ không muốn rời bỏ hình hài vua Thần tông Thần Tông và Ngạn La du ngoạn hồ Dâm Đàm, sư bà giải thoát cho Lý Câu và gặp lại cá chàng Cá Bơn Lý Trác với mưu đồ xử tử cuốn “tà thư” của Lê Thị Đoan Cuộc xử tử cuốn “tà thư” và cái chết đầy khí tiết của Lê Đan Thần Tông chết. Cung nữ bị hỏa thiêu. Ngạn La tự tử trên giàn thiêu

1138, sau thời điểm trên 1138, sau thời điểm trên 1138, sau thời điểm trên

Dựa vào bảng trên, chúng ta có thể nhận thấy, cốt truyện của tác phẩm

được triển khai theo hai mạnh chính:

Mạch 1 theo cuộc đời Từ Lộ: các chương II, III, IV, V , VI , VII, VIII,

XVI, XVII, XVIII, XIX , XX .

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

57

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Mạch 2 theo cuộc đời Lý Thần Tông: các chương I , IX , X, XI, XII,

XIII, XIV, XXI, XXII, XXIII, XIV, XV.

Cái tài của Võ Thị Hảo là đã sắp xếp các sự kiện của cuộc đời hai nhân

vật này thành cuộc đời của một nhân vật. Chúng ta có thể hình dung trật tự

niên biểu bằng sơ đồ sau: (qui ước kí hiệu đoạn văn bản Chương I là I,

Chương II là II…)

I(13)-II(1)-III(2)- IV(3)-V(4)-VI (5)-VII (6)-VIII(7)-IX(14)-X(15)-XI(16)-

XII(17)-XIII(18)-XIV(19)-XV(20)-XVI(8)-XVII(9)-XVIII(10) -XIX(11)-

XX(12)-XXI(21)-XXII(22)-XXIII(23)-XXIV(24)-XXV(25)

Nếu chia các sự kiện làm 3 nhóm: nhóm 1 là các sự kiện về cuộc đời

Từ Lộ cho đến lúc gặp Nhuệ Anh trên thác Oán (Chương II đến VIII), Nhóm

2 là các kiện về cuộc đời Từ Lộ đi Thiên Trúc tu hành và trở thành Từ Đạo

Hạnh đến khi thoát xác đầu thai vào con Sùng Hiền hầu (Chương XVI đến

XX), Nhóm 3 là các sự kiện về cuộc đời Thần Tông (Chương I, chương IX

đến XV, chương XXI đến XXV),

thì qua sơ đồ trên chúng ta sẽ thấy thấy hiện tượng sau: Trật tự niên

biểu của sự kiện giữa các nhóm khác nhau thì có sự xáo trộn, còn sự kiện

trong cùng một nhóm thì hầu như được kể theo theo đúng trật tự niên biển,

chỉ riêng trật tự các sự kiện của nhóm 3 là trong bản thân nhóm cũng có sự

xáo trộn.

Cụ thể trong tác phẩm, sự kiện vua Thần Tông tham dự cuộc hành hình

các cung nữ sau khi Nhân Tông chết mở đầu -> Sau đó là đến cuộc đời Từ Lộ

đoạn từ đầu, khi bố bị giết đến sự kiện trên đường đi Thiên Trúc gặp Nhuệ

Anh (những sự kiện trong quãng đời này được kể theo đúng trật tự thời gian)

-> Tiếp theo quay lại các sự kiện trong cuộc đời vua Thần Tông (từ sau khi

tham dự cuộc hành hình cung nữ cho đến khi bị hóa hổ) -> Sau đó lại là các

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

58

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

sự kiện cuộc đời Từ Lộ (từ lúc chia tay Nhuệ Anh ở thác Oán đến khi trở

thành đại sư Từ Đạo Hạnh và đầu thai là con trai Sùng Hiền hầu) -> Cuối

cùng quay lại quãng đời cuối cùng của Thần Tông cho đến chết (từ chương

XXI đến XXV, lần đầu tiên thứ tự thời gian kể và thời gian niên biểu trùng

nhau).

Có thể thấy, sự xáo trộn thời gian trong Giàn thiêu không tạo ra hiệu

ứng rối bời, đan xen, chồng chéo của văn bản như thủ pháp mà các nhà tiểu

thuyết thuộc “làn sóng thứ ba” thực hiện. Nhưng cách thức tổ chức thời gian

của Giàn thiêu đã góp phần rất lớn trong việc tổ chức cốt truyện của tác

phẩm. Nó khiến cho việc lắp ghép tiểu sử của hai nhân vật khác nhau trong sử

sách thành cuộc đời một nhân vật tiểu thuyết hết sức hợp lý. Đồng thời tạo

được sự hứng thú, tạo cảm giác mới lạ ở người đọc khi tiếp nhận tác phẩm.

Thiết nghĩ đó đã là thành công của tác giả Giàn thiêu rồi.

2.4. KẾT CẤU:

Kết cấu được hiểu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác

phẩm (…) không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên

ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong,

nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm (…) bao gồm : tổ chức hệ

thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật; nghệ thuật tổ

chức những liên kết cụ thể của các thành phần của cốt truyện; nghệ thuật trình

bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở

thành một chỉnh thể nghệ thuật.” [6,tr.106].

Dưới góc nhìn của các nhà tự sự học thì nghiên cứu vấn đề kết cấu

chính là nghiên cứu bố cục của một tự sự, mà việc đó giống như một nghiên

cứu “cú pháp” của truyện kể.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

59

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Có thể hiểu “Kết cấu của một tác phẩm không chỉ bao hàm việc sắp đặt

một bố cục các tình tiết, sự kiện mà còn bao hàm cả việc sử dụng và tổ chức,

phối hợp các kỹ thuật trần thuật để tạo nên một công trình nghệ thuật nhân tạo

mang dấu ấn của sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ” (Phạm Xuân Thạch,

Vấn đề kết cấu truyện ngắn Thạch Lam).

Như vậy có thể thấy, kết cấu của một tác phẩm thể hiện trên nhiều khía

cạnh của phương thức tự sự như: việc tổ chức điểm nhìn, tổ chức thời gian…

Trong phần này, chúng tôi chỉ điểm qua một số đặc điểm cơ bản của

kết cấu TTLS Việt Nam những năm gần đây, sau khi khảo sát sơ bộ các tác

phẩm.

2.4.1. Tính “vòng tròn” của kết cấu:

Trong số những tác phẩm đang xét, chúng tôi thấy xuất hiện tính “vòng

tròn” (kết thúc quay lại mở đầu) của kết cấu, mà chúng ta hay gọi là kiểu “kết

cấu vòng tròn”. Đó là trường hợp của Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. Dựa vào hai

bảng khảo sát ở những phần trên, chúng ta nhận thấy:

Trong Hồ Quý Ly, mở đầu là cảnh một hội thề, là hội thề Đồng Cổ; còn

kết thúc cũng là một hội thề, đó là hội thề Đốn Sơn. Thần Đồng Cổ được coi

là thần hộ quốc của các ông vua Trần và ông vua già Nghệ Tôn đã sử dụng

hội thề này như một sự khẳng định lại vị trí của mình, như một lời nhắc nhở

Hồ Quý Ly. Nhưng rồi ông vua già Nghệ Tôn cũng không giữ được ngôi báu.

Đến lượt mình, khi thâu tóm được quyền lực và xây dựng Tây Đô, Hồ Quý

Ly cũng mở một hội thề ở quê hương mình để khẳng định sức mạnh của một

thế lực mới. Nhưng hội thề đã trở thành cuộc thanh trừng đẫm máu bè đảng

chống đối của Hồ Quý Ly. Kết thúc bằng hội thề Đốn Sơn, khiến người đọc

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

60

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

liên tưởng đến hội thề Đồng Cổ và bỗng nghĩ đến kết cục sự nghiệp của Hồ

Quý Ly.

Trong Giàn thiêu kết cấu vòng tròn thể hiện ở việc, cả mở đầu và kết

thúc đều là hình ảnh “giàn thiêu” ngút trời mùi thịt cháy và sắc đỏ của máu.

Mở đầu là giàn thiêu cuộc hành hình cung nữ sau cái chết của Nhân Tông và

kết thúc là giàn thiêu cuộc hành hình cung nữ sau cái chết của Thần Tông.

Ngạn La là nạn nhân của cả hai cuộc hành hình này. Cô thoát được giàn thiêu

của Nhân Tông nhưng không thể thoát khỏi giàn thiêu của Thần Tông. Hình

ảnh giàn thiêu là biểu tượng (cũng là kết quả) của dục vọng con người, dục

vọng quyền lực của Ỷ Lan thái hậu. Tính vòng tròn của kết cấu này liệu có

phải là một ẩn dụ cho triết lý: cái gì bắt đầu bằng dục vọng thì cũng sẽ kết

thúc bằng dục vọng, cho dù cho trải qua bao kiếp đời đi chăng nữa.

2.4.2. Sự xâm nhập của các thể loại vào trong kết cấu tiểu thuyết:

Như Bakhtin từng nhận xét: tiểu thuyết là thể loại có thể “thu hút nhiều

thể loại khác” do cấu trúc rất linh hoạt của mình.

Trong các TTLS Việt Nam, chúng ta nhận thấy có sự xâm nhập của rất

nhiều thể loại khác vào kết cấu của tác phẩm: thơ, sử ký, lời hát chầu văn, lời

kinh Phật…

Thể loại sử ký xuất hiện nhiều nhất trong Sông Côn mùa lũ. Đó là

những đoạn ghi chép của nhân vật Lãng về những trận chiến của Quang

Trung Nguyễn Huệ. Lãng như một sử quan bên cạnh Nguyễn Huệ. Những ghi

chép của xuất hiện dầy đặc trong những đoạn văn bản kể về những trận đánh

của Nguyễn Huệ. Đây như một cách để miêu tả các trận đánh của Nguyễn

Huệ ở góc độ khác. Thực chất, những đoạn ghi chép của Lãng cũng là sản

phẩm hư cấu nhưng ở dạng sử ký.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

61

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Còn văn bản sử ký thật sự xuất hiện trong tác phẩm Hồ Quý Ly. Đó là

đoạn viết về âm mưu giết Hồ Quý Ly ở hội thề Đốn Sơn của Trần Khát Chân

thất bại được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư. Đoạn sử này được trích

nguyên văn, đưa vào tác phẩm một cách trực tiếp (được đặt trong dấu ngoặc

kép) với mục đích đưa ra một cái nhìn lịch sử đối với sự kiện này. Hồ Quý Ly

cũng có những văn bản thơ (Phượng hoàng hề của Hồ Nguyên Trừng, thơ của

thiền sư Huyền Giác, Trần Thái Tôn, Nguyễn Trãi…).

Trong Giàn thiêu thì có rất nhiều văn bản thuộc thể loại thơ. Đó là thơ

do tác giả sáng tác (Ru cá Bơn, Bài ca đầu lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ).

Có một điều đáng chú ý, cả ba bài thơ này xuất hiện độc lập trong văn bản,

xen giữa các chương. Xét về mặt kết cấu thì mỗi bài thơ được coi như một

chương văn bản (xem xét dấu hiệu văn bản mỗi bài thơ được sắp xếp như một

chương, nhưng không có tên chương), đồng thời như lời mở đầu cho một

phần tác phẩm. Cụ thể, Ru cá Bơn mở đầu phần văn bản gồm các chương từ

XVII đến XXII, Bài ca đầu lâu dã nhân mở đầu phần văn bản gồm các

chương từ IX đến XVI, Bài ca chu sa đỗ tễ mở đầu phần văn bản gồm các

chương từ XXIII đến XXV. Ngoài ra, trong Giàn thiêu cũng có rất nhiều lời

trong kinh Phật. Lời kinh Phật xen kẽ trong văn bản, nhưng có một đoạn lời

kinh Phật rất dài có vai trò chức năng như các bài thơ Ru cá Bơn, Bài ca đầu

lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ. Lời Phật đứng như một chương mở đầu tác

phẩm, đứng trước các chương từ I đến VIII. Xem xét bố cục tác phẩm, chúng

tôi nhận thấy bên cạnh các chương nội dung văn bản, lời phật và ba bài thơ

mang tính huyền ảo trên dường như nằm trong một kết cấu riêng, có sức sống

nội tại nhằm thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm.

Còn với Mẫu thượng ngàn do viết về đạo Mẫu nên những lời chầu văn

được đưa vào tác phẩm rất nhiều.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

62

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Sự qui tụ của các thể loại khác trong TTLS, xét từ khía cạnh kết cấu,

phần nào làm cho tác phẩm trở nên mềm mại và đa dạng hơn.

Chương 3

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

63

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

VẤN ĐỀ HƯ CẤU VÀ XU HƯỚNG HUYỀN THOẠI HÓA TRONG

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

“Hư cấu” là thuộc tính nổi bật của tự sự nói chung và tiểu thuyết nói

riêng. Chính vì vậy mà thuật ngữ “tiểu thuyết” trong tiếng Anh là fiction (điều

hư cấu, điều tưởng tượng). Trong Từ điển thuật ngữ văn học (Việt Nam), “hư

cấu” được định nghĩa là “vận dụng trí tưởng tượng để sáng tạo nên những

nhân vật, câu chuyện, những tác phẩm nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống

và thực hiện những mục đích nghệ thuật nhất định” [6,tr.103] Khi nói đến

nghệ thuật hư cấu là nói đến một vấn đề bản chất của tiểu thuyết. Đối với

TTLS thì vấn đề hư cấu lại có một đặc điểm khác: hư cấu trên những sử liệu

sẵn có. Chính điều đó tạo nên đặc trưng thể loại của loại hình tiểu thuyết này.

Hư cấu là phạm trù thuộc cả hai cấp độ: phương thức tự sự và hình

tượng thẩm mỹ. Trong chương 2, chúng tôi đã đề cập đến các phương thức tự

sự trong TTLS Việt Nam những năm gần đây, nghĩa là cũng đã đề cập đến

một khía cạnh của nghệ thuật hư cấu.

Trong chương này, chúng tôi xin đi sâu hơn về vấn đề hư cấu của

TTLS Việt Nam những năm gần đây trên hai phương diện: nhân vật và xu

hướng huyền thoại hóa.

3.1. NHÂN VẬT:

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, M. H. Abrams giải thích về thuật

ngữ nhân vật (character) như sau: “Dưới con mắt của độc giả, nhân vật là

người mang những phẩm chất đạo đức, tính cách, xúc cảm được biểu hiện

bằng lời nói – tức đối thoại – và bằng việc làm – tức hành động.” [43;tr.33]

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

64

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Theo quan điểm truyền thống của các nhà nghiên cứu Việt Nam thì

nhân vật hay còn gọi là nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu tả

trong tác phẩm văn học (…) Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy

tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống (…)

Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người.”

[6, tr.162]

Nhân vật được coi là phạm trù trung tâm ở cấp độ hình tượng thẩm mỹ

của tiểu thuyết.

Đối với các TTLS đang xét, chúng tôi khảo sát vấn đề nhân vật theo hai

hệ thống: Hệ thống nhân vật có thực trong lịch sử và Hệ thống nhân vật hoàn

toàn hư cấu.

3.1.1. Hệ thống nhân vật có thực trong lịch sử:

Trong số năm TTLS đang xét thì chỉ có bốn tác phẩm là có những nhân

vật chính là nhân vật có thật trong lịch sử. Riêng trong Mẫu thượng ngàn các

nhân vật chính đều là những nhân vật hư cấu.

Trong Bão táp triều Trần, hầu hết các nhân vật chính đều là những

nhân vật có thật trong lịch sử, như: Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung, Trần Quốc

Tuấn, Trần Cảnh, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Huyền

Trân, An Tư, Nghệ Tôn, Trần Khát Chân, Hồ Quý Ly… Đây là những nhân

vật một chiều, hết sức thống nhất về tính cách và hành động Những nhân vật

này thường được miêu tả ở phương diện hành động, trong sự tác động đối với

lịch sử hoặc theo hướng tích cực (các nhân vật chính diện) hoặc tiêu cực (các

nhân vật phản diện). Vì thế chúng tôi không đi sâu khảo sát hệ thống nhân vật

trong tác phẩm này, mà xin đề cập kĩ hơn về hệ thống nhân vật lịch sử trong

Sông Côn mùa lũ, Hồ Quý Ly và Giàn thiêu.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

65

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Từ góc độ loại hình và chức năng biểu đạt, chúng tôi chia các nhân vật

lịch sử trong ba tác phẩm đang xét thành hai loại: 1/ Kiểu nhân vật lập trường

tư tưởng hoặc tâm lý. 2/ Kiểu nhân vật số phận – tính cách.

3.1.1.1. Kiểu nhân vật lập trường tư tưởng hoặc tâm lý:

Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ có thể được coi là nhân

vật tâm lý; còn tiêu biểu cho kiểu nhân vật lập trường, tư tưởng là hệ thống

nhân vật chính trong Hồ Quý Ly.

Nguyễn Huệ là nhân vật đã định hình trong chính sử và tâm thức của

người đọc là người dân Việt Nam. Khi xây dựng nhân vật này, Nguyễn Mộng

Giác vẫn trung thành với hình tượng Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải.

Ông không hề có ý định “lộn trái” nhân vật này như một số tác phẩm gần đây.

Tuy nhiên, điều khiến cho nhân vật Nguyễn Huệ mới mẻ hơn, sinh động hơn

và trở thành một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm chính là

là việc “thế sự hóa” nhân vật lịch sử bằng bút pháp miêu tả tâm lý. Nguyễn

Huệ xuất hiện không ồn ã, rất kiệm lời. Con người Nguyễn Huệ hiện lên dần

dần và qua thời gian con người ấy càng rõ nét hơn. Nguyễn Huệ xuất hiện đầu

tiên trong Sông Côn mùa lũ với tư cách là cậu em út trong gia đình ông Biện

và là cậu học trò sáng dạ của ông giáo Hiến, sau đó là một vị thủ lĩnh trẻ của

Tây Sơn thượng, rồi Long Nhương tướng quân, Bắc Bình Vương, và cuối

cùng là Quang Trung hoàng đế. Tầm vóc lịch sử của Nguyễn Huệ ngày càng

lớn. Cái con người lịch sử ấy của Nguyễn Huệ thì ai cũng biết. Tuy nhiên, bên

cạnh đó, Nguyễn Mộng Giác còn cho chúng ta thấy một Nguyễn Huệ đời

thường, với những tình cảm, suy tư và cả những nỗi đau hết sức con người.

Cái con người “đời thường” ấy của Nguyễn Huệ luôn gắn liền với mối tình

không thành với An, con gái ông giáo Hiến. Một con người đánh đông dẹp

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

66

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

bắc như Nguyễn Huệ nhưng lại lo sợ trước người con gái ấy: “Cậu cũng sợ

gặp con gái thầy ở nhà bếp. Cái gì đã khiến Huệ dè dặt như vậy? Huệ đã

nhiều lần tự hỏi và chưa tìm ra câu trả lời đích xác.” [52,tr.100] Những đoạn

miêu tả tâm lý đó xuất hiện khá nhiều trong văn bản: “Suốt mấy tháng trọ học

ở nhà thầy, Huệ chưa có lần nào nói chuyện tự nhiên với riêng An. Khám phá

ra điểm yếu đuối của mình, cậu khổ sở. Lòng tự ái của người con trai bị âm

thầm động chạm. Cậu ngại gặp An như ngại soi gương thấy vài vết mụn trên

da mặt dậy thì của mình.” [52,tr.101] Cái tâm trạng rung động rất thật của một

chàng trai trẻ trước người con gái mình thầm yêu thương được khắc họa hết

sức sinh động. Nhưng giữa Huệ và An dường như luôn bị ngăn cách bởi một

“hố sâu trang nghiêm” nên mối tình vẫn mãi chỉ là mối tình âm thầm mà thôi.

Sự thông minh, nhanh nhẹn của Huệ, trong tình yêu dường như không có ích

lợi gì, thậm chí nó lại trở thành rào cản khiến cho An không thể lại gần Huệ:

“An nghĩ điểm đáng ghét của Huệ chính là sự thông minh chuẩn xác đó.

Đứng trước mặt Huệ, nói chuyện với Huệ cô bé cảm thấy mình bị mất mát

quá nhiều.” [52,tr.126]. Chính vì thế, đôi lúc Huệ so sánh mình với Lợi, cảm

thấy ghen với Lợi: “Sao tôi thấy anh chàng Lợi ba hoa toàn những chuyện

không đâu vào đâu hết, An lại thú vị cười khúc khích mãi.” [52, tr.128].

Nguyễn Huệ cũng như bất cứ người đàn ông nào khác, cũng có ghen tuông và

sự ghen tuông ấy khiến cho con người nhỏ nhen hơn. Và đặc biệt, tác giả đã

khắc họa rất chân thực tâm trạng của Huệ khi lần đầu tiên cảm nhận được tình

cảm của An trong hoàn cảnh Huệ sắp chia tay gia đình ông giáo: “Huệ trở ra

qua lối cửa sau nhà bếp, gặp An đang đứng ở đấy. Anh dừng lại. Bóng tối che

giùm không cho hai người trông thấy vẻ bối rối của nhau. An run run nói:

- Anh nhớ quấn khăn cổ. Không lại cảm.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

67

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Huệ cảm động, cả đời chưa được người con gái nào ân cần dặn dò như

vậy nên cảm thấy hãnh diện ngây ngất. Anh muốn nói với An một câu gì thật

âu yếm, thật đơn sơ mà chân thành như câu An vừa thốt ra, nhưng trong cơn

lúng túng tìm mãi không ra lời. Huệ cố dằn xúc động nói:

- Cám ơn An.

Huệ ngước lên nhìn An, thấy tất cả vẻ đẹp quyến rũ của một nụ cười e

ấp. Không tự chủ được mình, Huệ tiến tới định nắm bàn tay An. An rụt tay

về, giọng hơi hốt hoảng:

- Đừng, anh Huệ!” [52, tr.173-174]

Đây là lần gần gũi nhất của hai người. Càng về sau, lịch sử càng khiến cho

Huệ và An ngày một chia cắt. Cái rụt tay về của An khiến cho mối tình của

hai người mãi là tình câm; khiến cho suốt cả cuộc đời, cả Huệ và An luôn

phải tự hỏi về tình cảm của người kia đối với mình. Và có lẽ, chính vì đây mãi

là mối tình câm nên nó đẹp và hoàn hảo đến vậy. Huệ vẫn luôn lưu giữ tình

yêu đó cho riêng mình như một bí mật thiêng liêng không kể đến những thay

đổi của con người và cuộc đời.

Khía cạnh tâm lý của nhân vật Nguyễn Huệ cũng được xây dựng thông

qua mối quan hệ với nhân vật ông giáo Hiến. Ông giáo Hiến tiêu biểu cho

những nhà nho thời loạn: hiểu biết nhưng cố cựu, sợ hành động, sợ sự đối

mới. Ở ông có bi kịch của trí thức không hợp thời. Nguyễn Huệ tôn trọng sự

hiểu biết của ông giáo nhưng lại không đồng tình với những định kiến cố hữu

của ông giáo. Ông vừa yêu quý, kính trọng vừa thấy thương người thầy của

mình. Nguyễn Huệ là hình ảnh mơ ước của ông giáo Hiến.

Hệ thống nhân vật chính trong Hồ Quý Ly là điển hình cho kiểu nhân

vật lập trường tư tưởng. Đó là những ẩn dụ tư tưởng: những kẻ “bị quỷ ám”

(Phạm Xuân Thạch) bị ám ảnh bởi những lý tưởng cuồng vọng (Nguyễn Cẩn,

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

68

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Hồ Hán Thương, Trần Khát Chân); những lãnh tụ chính trị theo đuổi những lý

tưởng công chính (nhân danh sự đổi mới) nhưng bị giằng xé giữa mục đích và

phương tiện để rồi cuối cùng rơi vào một trạng thái phi nhân (kiểu Hồ Quý

Ly) và kẻ sĩ, những người thao thức vì số phận cả dân tộc và nhân dân, lựa

chọn con đường đi về phía nhân dân (đó là Phạm Sinh và phần nào là Hồ

Nguyên Trừng).

Mặc dù ở hai phe đối đầu: Nguyễn Cẩn, Hồ Hán Thương (phe cải cách)

và Trần Khát Chân (phe bảo thủ) giống nhau ở một điểm là họ đều điên cuồng

với lý tưởng của mình. Để dành được sự tin cậy của Hồ Quý Ly, Nguyễn Cẩn

– một công tử phong lưu sẵn sàng bỏ đi cái quý nhất của người đàn ông và trở

thành công cụ đắc lực trong tay Hồ Quý Ly. Hồ Hán Thương cũng là một kẻ

cuồng tín. Anh ta sùng kính cha mình. Hán Thương thích rồng “Bởi vì trong

con rồng có hàm chứa con rắn. Mà con rắn thì vừa độc vừa hiểm.” [54,tr.94]

Còn Trần Khát Chân mới đầu cũng có cảm tình với Hồ Quý Ly, nhưng càng

ngày sự cải cách của Hồ Quý Ly càng quyết liệt thì thái độ đối đầu của

thượng tướng càng tăng. Và ông đã dùng mọi thủ đoạn, mọi âm mưu để phá

tan kế hoạch của Hồ Quý Ly: từ việc sử dụng cung nữ Ngọc Kiểm bên cạnh

Thuận Tôn, đến ý định sử dụng Thanh Mai làm nội gián bên cạnh Hồ Nguyên

Trừng và việc lôi kéo Phạm Sinh phục vụ âm mưu ám sát Hồ Quý Ly…Để

đạt được mục đích, Trần Khát Chân cũng sử dụng đúng những thủ đoạn,

những âm mưu, những bạo lực như chính đối thủ của mình. Lý tưởng cuồng

vọng khiến cho những con người này điên đảo trong âm mưu, thủ đoạn,

không còn nghĩ đến điều gì khác nữa.

Ở giữa những kẻ cuồng vọng ấy là những kẻ sĩ tỉnh táo, biết lựa chọn

cho mình con đường đi về phía nhân dân, hợp với “hồn sông núi”. Trên

phương diện nào đó, đó là Hồ Nguyên Trừng. Ngoài ra, còn có hai nhật vật

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

69

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

hoàn toàn hư cấu khác đại diện cho loại nhân vật tư tưởng này, là Phạm Sinh

và Sử Văn Hoa. Hồ Nguyên Trừng là con trai cả của Hồ Quý Ly, là một lãng

tử. Ý chí của nhân vật này thể hiện trong “giấc mộng bay”: “Vãn sinh thấy

mình mọc cánh. Vâng đúng là đôi cánh chim (…) Thú thực là ý muốn bay rất

cao. Nhưng không hiểu sao lại chỉ bay được là là trên đầu những ngọn tre,

những ngôi nhà (…) một loại chim không biết bay cao” [54,tr.37]. Hồ

Nguyên Trừng cũng là con người có chí lớn. Ông là người ủng hộ nhiệt tình

tư tưởng cải cách, đổi mới của Hồ Quý Ly. Nhưng ông biết cân nhắc giữa

mục đích và phương tiện. “Cái may” của Hồ Nguyên Trừng, theo Sử Văn Hoa

là “lũy tre, nếp nhà, mặt đất còn níu kéo cậu lại, vì cậu gắn bó với chúng. Nếu

không cậu sẽ bay vút lên trời cao, và biết đâu đấy…bầu trời thì to rộng, ai mà

lường hết được cái kết cục” [54,tr.38]. Phương tiện để đạt được mục đích của

Hồ Quý Ly càng ngày càng bạo lực hơn, để cho cái mới có cơ hội tồn tại,

người ta phải đánh đổi bằng quá nhiều cái cũ, trong đó có những thứ dù cũ kĩ

nhưng đã trở thành văn hóa, trở thành “hồn sông núi” mà trong cơn bão ấy

cũng bị cuốn đi. Đó là lúc Hồ Nguyên Trừng nhận ra những bất cập trong

chính sách của Hồ Quý Ly. Và ông có quyết định cho con đường đi của mình.

Với Quỳnh Hoa, người vợ của cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị, ông lựa

chọn giải pháp: “Nàng ơi! Ta với nàng, chúng mình cùng nhau họp làm một

phái nhé” [54,tr.66]. Nếu như Hồ Hán Thương thích rồng vì trong con rồng có

sự “vừa thâm vừa hiểm” của con rắn thì Hồ Nguyên Trừng lại thích phượng

hoàng. Chàng là người có chí lớn, nhưng bên cạnh đó chàng cũng coi trọng

những lẽ khác ở đời như tình yêu. Và khi chưa tìm được phương tiện thích

hợp để thực hiện chí lớn của mình thì chàng tìm về với tình yêu. Và mối tình

với Thanh Mai đã làm dịu bớt tâm hồn Nguyên Trừng giữa những kẻ cuồng

khác. Tuy về mặt nhận thức, Hồ Nguyên Trừng rất rõ ràng, nhưng về mặt

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

70

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

hành động thì ông không làm được điều đó. Mặc dù nhận thấy chính sách của

Hồ Quý Ly bất ổn (“quá nhanh”), quá bạo liệt nhưng ông vẫn phải tham gia,

vẫn phải là một phần của nó. Ông phải tham gia vì bổn phận của một người

con, mà cũng một phần do chưa tìm được phương tiện nào tốt hơn. Mặc dù,

tất cả những hành động của Nguyên Trừng đều ở chừng mực, điều cố gắng

hạn chế tối đa bạo lực (ví dụ như trong việc giam giữ Sử Văn Hoa). Bị mâu

thuẫn, day dứt giữa tư tưởng và hành động, nhưng Nguyên Trừng có quá

nhiều ràng buộc để không thể lựa chọn con đường đi một cách dứt khoát như

Phạm Sinh hay Sử Văn Hoa. Để cuối cùng, lịch sử đã không cho phép ông là

kẻ đứng bên lề. Lịch sử tước bỏ những chốn ẩn náu của Nguyên Trừng và đẩy

ông ra giữa sân khấu lịch sử. Cuối cùng ông đã phải từ bỏ Thanh Mai (trước

lựa chọn hoặc từ bỏ hoặc Thanh Mai sẽ chết) để dấn thân vào thời cuộc: “Ở

phía xa xa, tiếng trống ngũ liên mỗi lúc một gấp gáp. Con thuyền đã nhổ neo.

Thanh Mai nâng vạt áo lên, hai bàn tay ngọc ôm lấy mặt. Tôi vẫy tay cho đến

lúc con đò lẫn vào màn sương đêm trên sông. Tôi lặng lẽ đi về phía tiếng

trống” [54,tr.834]. Hồ Nguyên Trừng đã buộc phải đi về phía tiếng trống, mà

không thể quay lưng bỏ đi như Phạm Sinh, dù biết nơi đó mình sẽ là một kẻ

“độc hành”. Chính vì mâu thuẫn giữa một Hồ Nguyên Trừng tư tưởng và một

Nguyên Trừng hành động nên chúng tôi coi nhân vật này thuộc loại nhân vật

– kẻ sĩ lựa chọn con đường đi về phía nhân dân chỉ trên một phương diện nhất

định (đó là con người tư tưởng), chứ không hoàn toàn như Phạm Sinh và Sử

Văn Hoa. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật Hồ Nguyên Trừng chỉ được

nhắc đến bởi một câu: “Cả tướng quốc Trừng nói: Thần không ngại đánh, chỉ

sợ lòng dân có theo hay không thôi.” (câu nói khi Hồ Quý Ly cho bàn về việc

đánh quân Minh [35,tr.681]. Và sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: “Mệnh trời ở lòng

dân, lời nói của Trừng đúng ở chỗ chủ yếu” [35,tr.681]. Có thể nói, Nguyễn

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

71

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Xuân Khánh đã dựa vào chỉ rất ít tư liệu nhưng đã xây dựng một nhân vật Hồ

Nguyên Trừng đa chiều rất hấp dẫn.

Từ góc độ ngữ nghĩa, nếu chia nhân vật trong các TTLS Việt Nam

những năm gần đây thành ba dạng nhân vật : nhân vật – chủ thể của tiến trình

lịch sử, nhân vật - nạn nhân của lịch sử và nhân vật – kẻ quan sát lịch sử

(Phạm Xuân Thạch trong Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – suy nghĩ từ

những tác phẩm về chủ đề lịch sử) thì Hồ Nguyên Trừng là nhân vật mang cả

ba phương diện này. Ông là chủ thể của tiến trình lịch sử (là một nhân vật

quan trọng trong hệ thống chính trị của Hồ Quý Ly), cũng là nạn nhân của

lịch sử (lịch sử đã cướp đi của ông tình yêu, nơi ẩn náu an toàn của tâm hồn),

đồng thời trên một khía cạnh nào đó là kẻ quan sát của lịch sử (mặc dù tham

gia vào hành động lịch sử nhưng với tâm thế của một con người ngoài cuộc,

đứng từ xa qua sát và đưa ra những nhận xét của mình).

Bên cạnh Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quý Ly cũng được Nguyễn Xuân

Khánh dụng công xây dựng. Có thể nói, Hồ Quý Ly là sự tổng hợp giữa kiểu

nhân vật Hồ Nguyên Trừng và các nhân vật như Hồ Hán Thương và Nguyễn

Cẩn. Ông là người đã đề xuất chính sách cải cách với mục đích vô cùng chính

đáng là mong muốn chấn hưng đất nước. Ông thật lòng với mục đích này, tuy

nhiên cái mục nát, nhu nhược của nhà Trần đã cản trở mục đích ấy. Để cho

cái mới có thể phát triển ông đã phải dùng phương tiện là bạo lực. Và càng

ngày càng bạo lực hơn. Hồ Quý Ly không lãng mạn như Nguyên Trừng

nhưng cũng không cuồng vọng như Hồ Hán Thương. Với tư cách là một thủ

lĩnh chính trị, ông phải quyết liệt thực hiện tư tưởng và chính sách của mình.

Nhưng ông cũng nhận thấy sự bất ổn trong cách làm ấy, sự bất ổn của việc

dụng cương quá mà thiếu sự mềm mại. Và mâu thuẫn giữa mục đích và

phương tiện luôn day dứt ông. Ông thực sự muốn đổi mới, muốn xây dựng

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

72

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

một cái mới và muốn tất cả mọi người đều ủng hộ mình. Những kẻ bảo thủ

như Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh chống đối ông, ông biết và không ngạc

nhiên. Nhưng những kẻ sĩ (Sử Văn Hoa, Phạm Sinh), những kẻ có tài, có thể

giúp rất nhiều cho đất nước cũng rời bỏ ông (mặc dù không chống đối) dù ông

hết lòng thu phục họ, khiến ông đau đớn hơn cả. Giấc mộng quay lưng của

“kẻ mặt trắng” là câu trả lời dứt khoát của kẻ sĩ trong thiên hạ đối với ông và

nó luôn ám ảnh ông. Qua đó ông nhận thấy được điểm yếu trong cách làm của

mình, phần nào dự cảm được kết cục. Tuy nhiên, là thủ lĩnh chính trị, ông

không thể thoái bước và không thể tỏ ra do dự. Ông vẫn phải kiên định đi con

đường gian nan mà cô độc của mình. Để rồi, mỗi khi trong lòng bị dày vò thì

ông lại tìm đến bức tượng bà công chúa Huy Ninh mong nhận được sự che

chở và gột rửa. Đó là lúc con người “thủ lĩnh chính trị” hùng mạnh nhường

chỗ cho con người cá nhân yếu đuối: “Đêm nay, nhìn pho tượng trắng ngần

hai tay giơ ra phía trước như muốn can ngăn ấy, nhìn vào khuôn mặt đá trắng

buồn héo hắt và thương xót ấy…ông mới thấy hết nỗi cô đơn của mình mênh

mông đến nhường nào!(…) “Ngủ đi!Ngủ đi!Cứ nhắm mắt lại!Hãy quên hết,

quên hết đi…” Giọng thì thầm của bà bỗng vang trong lòng ông…như nhiều

đêm ông đã gặp. Và người đàn ông hùng mạnh ấy đã gối đầu lên chân pho

tượng đá.” [54,tr.572]

Hồ Quý Ly rõ ràng là kiểu nhân vật – chủ thể của tiến trình lịch sử

nhưng cũng có một khía cạnh khiến ông giống kiểu nhân vật – nạn nhân của

lịch sử.

Tính chất đa chiều ở nhân vật Hồ Quý Ly đã được tác giả Nguyễn

Xuân Khánh xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật rất phù hợp. Ông để cho

nhân vật của mình được nhìn ở nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật

khác nhau trong truyện. Đối với những kẻ sùng bái như Hồ Hán Thương thì

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

73

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Hồ Quý Ly là “một con rồng đang nằm ngủ”, Nguyễn Cẩn thì coi ông là

“minh chủ”. Kẻ thù (Trần Khát Chân) thì nhận xét: “ Thái sư là người tài cao

học rộng, mưu lược, quyết đoán, muốn đổi thay đất nước…” [54,tr.304] và

“Còn Hồ Quý Ly, ông ta đang làm biến pháp… Nhưng liệu ông ta có chỉ

dừng lại ở sự canh tân thôi hay không” [54,tr.297], “Quý Ly thâm hiểm

nhưng thật mưu lược” [54,tr.298]. Hồ Nguyên Trừng thì nhận ra chí lớn:

“Cha muốn một cuộc đổi đời, một cuộc đảo lộn trời long đất lở ở xứ này. Bởi

vậy, cha không thể như bốn vị tứ phụ này đem thân phò tá bốn ông vua trẻ

thơ.” [54,tr.103]. Còn trong con mắt những kẻ sĩ như Phạm Sinh thì Hồ Quý

Ly là một con người vừa ngạo mạn vừa hấp dẫn: “Con căm ghét ông ta đến

cùng cực. Nhưng gặp mặt ông ta con lại bị hấp dẫn vô cùng. Cứ tưởng đó là

loài yêu quái ngậm máu phun người chẳng tanh nhưng không phải. Ông ta

thông minh, có thể nói sâu sắc đến tinh tế, nhưng đầy tham vọng. Nói thế nào

cho đúng đây…phải, tham vọng đến độ ngạo mạn.” [54,tr.756].

Có thể nói, hình tượng nhân vật Hồ Quý Ly trong tác phẩm của

Nguyễn Xuân Khánh là hình tượng vô cùng hấp dẫn, đa chiều trong cả tư

tưởng, hành động và tâm lý (So sánh với hình tượng nhân vật này trong

Vương triều sụp đổ của Hoàng Quốc Hải: Hồ Quý Ly của Hoàng Quốc Hải là

một con người một chiều và mang nặng định kiến của lịch sử). Với hệ thống

nhân vật chính trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không đặt ra câu trả

lời cho một nghi án lịch sử mà một mang thông điệp có ý nghĩa thời sự: “băn

khoăn về một nền chính trị công chính và chỗ đứng của người trí thức trong

cơn bão lịch sử” [30].

3.1.1.2. Kiểu nhân vật số phận – tính cách:

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

74

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Tiêu biểu là hai nhân vật Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh và Thần Tông Dương

Hoán trong Giàn thiêu. Mặc dù, nói là hai nhưng thực chất chỉ là một nhân

vật, với tính cách thống nhất qua hai kiếp người. Và một nhân vật khác,

Nguyên Phi Ỷ Lan.

Đối với Võ Thị Hảo, lịch sử không phải là mục đích mà chỉ là “chất

liệu để phản chiếu con người ở tầm phổ quát” [30]. Vì thế nhân vật trong

Giàn thiêu không được nhìn nhận ở khía cạnh lịch sử, ở vai trò lịch sử mà ở

khía cạnh là một số phận cá nhân với tính cách rất con người.

Võ Thị Hảo đã sử dụng những tư liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư và

Thiền Uyển tập anh về nhân vật Từ Đạo Hạnh và Thần Tông để xây dựng nên

hình tượng nhân vật của mình.

Về mặt tiểu sử và sự phát triển các sự kiện chính trong cuộc đời, nhân

vật của Võ Thị Hảo không khác mấy so với trong các sử sách. Từ Lộ là công

tử con nhà quan, đàn hay sáo giỏi, thông minh lanh lợi nhưng vì mối thù của

cha nên phải dứt bỏ mối tình thơ mộng với tiểu thư Nhuệ Anh để tìm đường

tu luyện phép thuật trở về trả thù cho cha. Sau khi phải nếm mật nằm gai, Từ

Lộ cũng tu được phép thuật. Chàng trở về giết Đại Điên trả thù cho cha. Sau

khi định tự tử theo Nhuệ Anh không thành, Từ Lộ lên núi Phật Tích và trở

thành đại sư Từ Đạo Hạnh. Sau đó, Từ Đạo Hạnh đầu thai thành Dương Hoán

con của Sùng Hiền hầu và trở thành vua Thần Tông.

Tuy nhiên, để Từ Lộ/Từ Đạo Hạnh – Thần Tông trở thành một nhân vật

trải qua hai kiếp với số phận và tính cách vô cùng hấp dẫn thì Võ Thị Hảo đã

mất rất nhiều tâm sức. Số phận và tính cách của nhân vật được lấp đầy vào

những “điểm trắng” của nhân vật trong sử sách. Từ Lộ/Từ Đạo Hạnh – Thần

Tông trong sử sách như bộ xương khô cần tác giả đắp thêm da thịt, thổi linh

hồn vào. Và thực sự Võ Thị Hảo đã rất thành công. Trong kiếp thứ nhất của

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

75

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

cuộc đời mình, Từ Lộ đã sống cho lòng hận thù. Chàng bị lòng hận thù che

khuất không còn nhận ra được điều thực sự ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng lạ

là khi trả được thù nhà rồi, Từ Lộ bỗng cảm thấy lòng trống rỗng: “Thù cha

mẹ đã trả xong. Từ chợt nhận ra cuộc đời chàng hoàn toàn trống rỗng.”

[51,tr.389]. Trước sự đón nhận cái chết một cách nhẹ nhàng của Đại Điên, từ

cảm thấy cái giá mà mình phải trả cho kết cục này thật không đáng: “Từ Lộ

bước qua xác Đại Điên, không khỏi thoáng một chút ghen tị.” [51,tr.387].

Phải chăng Từ Lộ ghen tị vì Đại Điên đã được nếm đủ hương vị của cuộc đời,

trong khi vì mục đích trả thù mà Từ chưa thật sự sống cho bản thân như một

con người. Vì vậy, khi đã trả thù xong chàng lại cảm thấy tiếc cuộc đời.

Chính ham muốn được sống lại cuộc đời ấy đã khiến Từ Lộ không thể nhảy

xuống dòng Thác Oán để theo Nhuệ Anh. Việc Từ Lộ nhìn thấy hình bóng

Nhuệ Anh trong cô gái hái măng đã khơi dậy dục vọng trong Từ. Và Từ đã

quyết định trở lại để sống nốt cuộc đời của mình. Nhưng những gì đã qua

không thể lấy lại được. Từ giờ đây không thể sống cuộc đời của chàng công

tử Từ Lộ trong đêm nguyên tiêu đứng chờ người yêu được nữa. Từ chỉ có thể

sống cuộc đời tu hành của một đại sư. Và chàng Từ Lộ trở thành đại sư Từ

Đạo Hạnh. Từ Lộ đạt đến tột cùng quyền lực trong vai trò là một đại sư. Ông

có hàng trăm chúng sinh nhất nhất nghe lời. Nhưng từ thâm tâm, một sự thèm

khát cuộc sống trần tục mà mình mới được nhấm nháp một chút trên dòng

thác Oán luôn dày vò con người đại sư: “Ta có thật lòng tin rằng có Niết Bàn?

Dường như càng đi đường đến Niết Bàn càng xa. Ta nay đã ngoài tứ thập.

“Tứ thập nhi bất hoặc”. Vậy mà đôi lần ngẫm thân phận mình, trong lòng sao

bỗng xa xót như chưa kịp sống, chưa được sinh ra trên cõi đời này”

[51,tr.427]. Những cảnh của cuộc sống đời thường như cánh đồng lúa, cảnh

xóm làng ẩn hiện luôn khiến Từ xao động. Ông cảm thấy ghen tị với niềm tin

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

76

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

đơn giản và quá dễ dàng của đám chúng sinh. Bởi ông là kẻ “hay xét đoán và

nghi hoặc” nên có lẽ Đức Phật không chìa tay đón. Ông thấy có lỗi khi thuyết

giảng chúng sinh phải diệt dục trong khi ông “bao đêm ta từng nghiến chặt

răng trên giường đá của tăng viện, cắn nát cả một bên tay để diệt ngọn lửa

dục…” [51,tr.429]. Kể về những day dứt của nhân vật, tác giả sử dụng rất

nhiều độc thoại nội tâm. Đây là đoạn văn bản có nhiều độc thoại nội tâm nhất

trong tác phẩm.

Cuộc đời của đại sư Từ Đạo Hạnh dù có quyền lực nhưng cuộc sống tu

hành khổ hạnh không cho phép Từ thỏa mãn khao khát được sống lại cuộc đời

đã không được sống. Và dục vọng về vinh hoa phú quý là lý do mà Từ Đạo

Hạnh đầu thai thành Thần Tông – Dương Hoán. Trong việc giải thích nguyên

nhân của sự đầu thai này, Võ Thị Hảo đã có kiến giải rất hay và mới mẻ. Sách

Thiền Uyển tập anh kể: Vua Nhân Tông lúc bấy giờ đã già mà không có con,

nghe nói vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà

nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là

Giác Hoàng (tương truyền chính là Đại Điên). Vua đem lòng yêu mến và có ý

định lập làm hoàng thái tử. Vua cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm phép

thác thai. Từ Đạo Hạnh nghe chuyện nghĩ: Đứa bé này dùng phép yêu dị để

mê hoặc mọi người, làm loạn chính pháp. Sư Đạo Hạnh làm bùa chú khiến

Giác Hoàng không thác thai được. Sư bị vua khép tội, nhưng được Sùng Hiền

hầu xin vua cứu mạng và xin cho thác sinh. Sư đã đầu thai làm con Sùng Hiền

hầu để trả ơn và để “tạm giữ ngôi vua” .

Như vậy theo Thiền Uyển tập anh thì lý do Từ đầu thai thành Thần

Tông là vì muốn trả ơn Sùng Hiền Hầu cứu mình và tạm giữ ngôi vua. Còn

Võ Thị Hảo lại cho rằng dục vọng mới là nguyên nhân. Trong sách, Giác

Hoàng (Đại Điên) là người có ý định chiếm ngôi vua trước, và để giữ không

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

77

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

cho ngôi vua rơi vào tay Giác Hoàng, Từ Đạo Hạnh mới làm bùa chú phá

Giác Hoàng và sau đó mới quyết định đầu thai. Võ Thị Hảo lại lật ngược trật

tự này. Tác giả giải thích: Từ vì muốn có được quyền lực và vinh hoa của kẻ

đứng đầu thiên hạ nên khi Sùng Hiền hầu đến cầu tự, ông đã quyết định và lên

kế hoạch đầu thai làm vua. Trong khi chờ thực hiện kế hoạch này, thì Từ vẫn

thuyết giảng cho chúng sinh như một đại sư. Chỉ khi Từ thoát xác biến thành

một linh hồn, nhập vào bụng của Sùng phu nhân thì lúc đó hồn Từ mới biết

Đại Điên cũng có ý định giống mình và đã ở sẵn trong bụng của Sùng phu

nhân. Hồn Từ đuổi hồn Đại Điên đi và thác thai thành Dương Hoán. Như vậy,

Từ đầu thai thành vua hoàn toàn do dục vọng cá của bản thân chứ không vì

bất một tác động bên ngoài nào. Lúc đó Từ đã trở thành con người như chính

kẻ thù của mình.

Và sang kiếp thứ hai, Từ Lộ - Thần Tông sống sa đọa trong vinh hoa

phú quý và dục vọng như để trả nợ cho kiếp trước. Trong con người ông vua

trẻ này luôn có một Từ Lộ/Từ Đạo Hạnh khát khao dục vọng. Dục vọng đã

biến Thần Tông thành ông vua hổ. Nhưng khi được đại sư Minh Không chữa

khỏi bệnh thì cũng vì dục vọng mà Từ dù đã định siêu thoát nhưng hồn Từ lại

không từ bỏ được thân xác của ông vua: “ Đại sư bỏ tay ra, nhìn lên, thấy

luồng khí xanh mang hình người đàn ông cầm tích trượng lúc nãy đã lại nhập

rất nhanh vào thân xác đức vua.” [51,tr.473] Đại sư Minh Không than rằng:

“Ta chỉ chữa được bệnh, chứ không cắt được căn.” [51,tr.473]

Quả thật cuộc đời Từ Lộ - Thần Tông đã bị cương tỏa của dục vọng. Ở

kiếp đầu, chàng Từ Lộ đã bỏ phí cả cuộc đời để theo đuổi dục vọng thù hận.

Ở kiếp thứ hai, ông vua Thần Tông hối hả sống trong dục vọng quyền lực và

nhục vọng để trả nợ cho bản thân ở kiếp trước. Nhưng Thần Tông càng sống

gấp thì cái nợ của kiếp trước càng lớn hơn và cuối cùng ông đã chết trong dục

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

78

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

vọng mãi mãi không được thỏa mãn. Thân xác của đại sư vẫn không hư nát có

nghĩa ông vẫn chưa siêu thoát, vẫn ở trong bể trầm luân của dục vọng, cái dục

vọng mà Từ đã dùng cả hai kiếp của mình theo đuổi mà chưa thỏa mãn.

Từ Lộ/Từ Đạo Hạnh – Thần Tông thực sự là một nhân vật của tiểu

thuyết với số phận và tính cách đạt tới tầm “Con Người ở nghĩa phổ quát”

Bên cạnh nhân vật chính là Từ Lộ - Thần Tông, Nguyên phi Ỷ Lan cũng

là một nhân vật lịch sử được dựng lại hấp dẫn. Nguyên phi Ỷ Lan trong chính

sử đã được “lộn trái”. Trái với hình ảnh một bà Nguyên phi nhân hậu, hiền

lành, sùng đạo Phật vẫn tồn tại trong tâm thức người Việt, Võ Thị Hảo dựa vào

một câu trong Đại Việt sử ký toàn thư: “ Linh Nhân có tính ghen, cho mình là

mẹ đẻ mà không dự chính sự, mới kể với vua rằng: “Mẹ già này khó nhọc mới

có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng, toan để mẹ già này

vào đâu?”” [35,tr.301]) để xây dựng một bà Linh Nhân hoàng thái hậu quyền

bính, và là nguồn gốc của tục lệ dã man thiêu phi tần, cung nữ theo vua khi vua

chết. Bà đã bức tử Dương Thái hậu và 76 cung nữ để chiếm vị trí hoàng thái

hậu. Sau đó để gột rửa tội lỗi, bà ta đã cho xây rất nhiều chùa chiền dưới vỏ bọc

của một bà hoàng sùng đạo. Khi Lý Đạo Thành có ý đụng đến “vết nhơ lương

tâm” này của bà thì bà đã ra tay trừng trị. Tuy nhiên, chùa chiền không xóa

được tội lỗi của Ỷ Lan. Linh Nhân thái hậu đã phải chịu quả báo hằng đêm cho

đến lúc chết và cả sau khi chết. Qua cuộc đối thoại mang màu sắc huyền ảo

giữa Ỷ Lan và Dương Thái hậu dưới hầm mộ trước sự chứng kiến của Ngạn La

đã đem đến cho người đọc một cái nhìn khá đầy dủ về nhân vật này theo quan

điểm của tác giả ([51,tr.232-240]). Đó là một Ỷ Lan quyền bính nhưng cũng vô

cùng tàn nhẫn. Ỷ Lan cũng là một con người bị dày vò bởi dục vọng - dục vọng

quyền lực.

3.1.2. Hệ thống nhân vật hư cấu hoàn toàn:

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

79

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Đối với những nhân vật hư cấu hoàn toàn, ngòi bút của nhà văn được tự

do hơn. Qua khảo sát các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy hai nhóm nhân vật

sau được các tác giả TTLS dụng công xây dựng: các nhân vật nữ và nhân vật

mang tính chất huyền ảo (sự phân loại này chỉ dựa trên việc khảo sát hiện

tượng chứ không dựa trên bất cứ tiêu chí nào).

3.1.2.1. Các nhân vật nữ:

Có thể nói, trong số những nhân vật hư cấu hoàn toàn thì nhân vật nữ

chiếm số lượng khá lớn. Và các nhân vật này nhận được nhiều ưu ái của các

tác giả TTLS. Thường đó là những người con gái đẹp cả hình thức lẫn tâm

hồn. Có thể kể ra đây những ví dụ như: An trong Sông Côn mùa lũ, Nhuệ

Anh, Ngạn La trong Giàn thiêu và hệ thống nhân vân vật nữ trong Mẫu

thượng ngàn. Đặc điểm nổi bật ở những nhân vật nữ này là ở họ có sức mạnh

phi thường, đó có thể là sức mạnh gột rửa, cảm hóa, sức mạnh sinh tồn…

An trong Sông Côn mùa lũ tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam ở mọi

thời đại. Đó là người phụ nữ rất thực, đảm đang tần tảo, hi sinh, gánh vác gia

đình. Dù họ bé nhỏ nhưng có sức mạnh phi thường, là chỗ dựa vũng chãi của

những người đàn ông.

Hai nhân vật nữ chính trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo lại được khai

thác ở khía cạnh khác. Nhuệ Anh (sư bà chùa Trầm) và Ngạn La được miêu tả

như cái gì đó phi thường, siêu nhiên. Nhuệ Anh thì được gọi là “Người Đàn

Bà Không Tuổi”, là “Thần nữ”, là “Phù thủy”. Ở nhân vật này có sức mạnh

của sự gột rửa. Khi Thần Tông hóa hổ, đại sư Minh Không chỉ có thể khiến

vua tỉnh lại bằng những kỉ vật ở kiếp trước nhưng không thể làm sạch hết

lông hổ trên người vua. Chỉ có nước mắt của Nhuệ Anh mới làm đám lông

trên người vua biến mất. Chỉ có Nhuệ Anh mới gột rửa được tâm hồn của

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

80

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Thần Tông. Cũng là Nhuệ Anh đã làm cho ông già điên Lý Câu tỉnh lại, và

cũng là Nhuệ Anh đã khiến chàng Cá Bơn lần đầu tiên muốn thoát ra khỏi

khúc sông hẹp của mình. Nhuệ Anh có thể cầu mưa xuống như một ẩn dụ về

sức mạnh của nhân vật này (Bởi nước là biểu tượng cho sự thanh lọc cao

nhất). Nếu như ở Nhuệ Anh có sức mạnh của một “Thần nữ”, thì Ngạn La

khiến người ta liên tưởng đến một “Yêu nữ”. Vẻ đẹp huyền bí với cái rốn màu

chu sa của Ngạn La được miêu tả như có thể quyến rũ được cả Diêm Vương.

Ngạn La trở thành “vưu vật” trong tay các ông vua. Nàng là biểu tượng cho

dục vọng. Nhưng có một điều kì lạ, dù được coi là biểu tượng của dục vọng,

nhưng Ngạn La lại là người đàn bà duy nhất ngăn cản được dục vọng của

Thần Tông. Đến khi chết Ngạn La vẫn là một trinh nữ. Nhân vật Ngạn La

phải chăng là biểu tượng cho cái dục vọng mà Thần Tông không bao giờ đạt

được trong suốt hành trình theo đuổi của mình.

Cũng như Nhuệ Anh và Ngạn La, hệ thống nhân vật nữ trong Mẫu

thượng ngàn mang tính biểu tượng cao. Nhưng các nhân vật này cũng rất hiện

thực, rất sinh động. Đó là: bà tổ cô, cô Mùi, bà ba Váy, thím Pháo, Nhụ,

Hoa… Đây là những nhân vật mang tính phồn thực. Nguyễn Xuân Khánh coi

đây mới chính là những con người đích thực của dân tộc Việt Nam chứ không

phải là cụ đồ Tiết, nghĩa quân Trịnh Huyền hay những chàng trai mang tư

tưởng tiến bộ như Huy, Tuấn; lại càng không phải là bọn tay sai như Lý Cỏn,

Hương Ất hay Quản Boong. Chính vì thế, trong chương VI có tên “Người Cổ

Đình” là câu chuyện Điều dẫn Nhụ đi thăm bà tổ cô, cô Mùi, bà ba Váy, thím

Pháo, Hoa và ông hộ Hiếu. Có nghĩa, tác giả cho rằng chính những con người

ấy, những con người theo cái nhìn thông thường là bất thường, là bỏ đi, là dở

hơi, mới là linh hồn của làng quê, chứ không phải những kẻ quyền cao chức

trọng, những người học rộng, tài cao. Những nhân vật này có số phận vô cùng

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

81

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

đau khổ, nhưng rồi họ đón nhận đau khổ một cách vô cùng bình tĩnh, hay

đúng hơn là vô cùng “tự nhiên”. Bởi trong họ có sức mạnh của cội nguồn văn

hóa. Bà tổ cô sau bao sóng gió cuộc đời cũng quay trở về với đền Mẫu bên

sông Son. Cô Mùi cũng lấy cái sức mạnh phồn thực từ trong cội nguồn tín

ngưỡng dân gian để chống chọi với sự đày đọa của ba đời chồng. Bà ba Váy,

thím Pháo cũng nhờ vào cái sức mạnh ấy mà trải qua biết bao đau khổ. Và

Nhụ, nỗi đau thể xác và tinh thần do Julien gây nên cho cô tưởng chỉ có cái

chết mới gột rửa được nhưng cũng đã được sức mạnh văn hóa ấy làm cho dịu

nhẹ. Tất cả các nhân vật nữ này đều được miêu tả hết sức phồn thực, khác

thường từ vẻ bề ngoài cho đến tâm hồn, tính cách bên trong. Tất cả họ sau

những vùi dập của cuộc đời, cuối cùng đều tìm đến sự gột rửa và siêu thoát

trong Đạo Mẫu. Và bản thân họ cũng trở thành một biểu tượng sức mạnh của

sự gột rửa. Trong hoàn cảnh đau thương của cuộc sống, khi mà lớp người cũ

như cụ đồ Tiết, Trịnh Huyền không đủ sức cứu nước; lớp người mới như

Huy, Tuấn chưa trưởng thành để cứu dân, thì người dân Việt vẫn sống và đem

sức mạnh từ cội rễ văn hóa dân tộc ra để chống lại kẻ thù. Và sức mạnh ấy

được gửi gắm trong hình tượng những nhân vật nữ trên. Tất cả họ như hình

ảnh của văn hóa dân tộc, bền bỉ với sức sống trường tồn.

Đặc điểm của hệ thống nhân vật nữ trong các TTLS vừa xét khiến cho

chúng ta liên tưởng đến xu hướng nữ quyền của các tác giả tiểu thuyết hiện

nay.

3.1.2.2. Nhân vật mang tính chất huyền ảo:

Tức là những nhân vật khác với con người với quan niệm: “bản chất

của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Ở những nhân vật này có

nhiều yếu tố hoang đường và mang ý nghĩa biểu tượng cao.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

82

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Qua khảo sát chúng tôi thấy: trong các tác phẩm Bão táp triều Trần và

Sông Côn mùa lũ không có loại nhân vật này. Trong Hồ Quý Ly xuất hiện rất

ít (đó là nhân vật con ma Ngọc Lan mà Hồ Nguyên Trừng hay gặp trong thời

thơ ấu). Loại nhân vật này chủ yếu tập trung trong Mẫu thượng ngàn, và đặc

biệt là Giàn thiêu.

Trong tác phẩm Mẫu thượng ngàn, nhân vật thuộc loại này là nhân vật

ông Đùng bà Đà. Hai ông bà chỉ là những nhân vật trong truyền thuyết nhưng

người dân làng Cổ Đình vẫn coi đây là những nhân vật có thật, là tổ tiên của

họ và được nhớ đến hơn cả Thành hoàng làng. Nhân vật ông Đùng bà Đà

được hiện thực hóa ở cấp độ hành động của tác phẩm (tức là trở thành nhân

vật của câu chuyện) thông qua cặp hình nhân trong lễ hội Cổ Đình: “ Trước

mắt cô, hiện ra hình ảnh người đàn bà vui thích đến mức chấn động. Toàn

thân rung rinh; mồm há to và con mắt đảo đi đảo lại. Nhưng sau đó thì sao?

Người đàn bà khổng lồ kia bỗng chìm trong khói lửa. Đến lúc ấy đôi con mắt

trợn tròn, cái mồm bà há hốc…” [55,tr.760]. Đọc đoạn văn trên ai bảo là đang

miêu tả một hình nhân vô hồn. Đó chỉ có thể là miêu tả một con người vì hình

nhân ấy đã được thổi linh hồn. Nhân vật ông Đùng bà Đà tiêu biểu cho khát

vọng về tình yêu, về sự sinh sôi nảy nở của con người.

Trong Giàn thiêu chúng ta có thể kể tên các nhân vật mang tính chất

huyền ảo là: Dã nhân, chàng cá Bơn, hồn Từ Đạo Hạnh trước lúc đầu thai và

hồn Đại điên. Võ Thị Hảo xây dựng các nhân vật mang nhiều dấu vết của loài

vật như Dã nhân (đúng là một con đười ươi thật nhưng gắn tính chất của một

người mẹ) và chàng cá Bơn (là người nhưng bị biến đổi gần giống như cá) với

mục đích gì? Trên con đường tu luyện phép thuật, Từ Lộ được Dã nhân cứu

bằng sữa của mình. Và dã nhân đã nuôi chàng như một người mẹ nuôi con

trong vòng sáu năm để chàng tu luyện thành tài. Đến khi Từ Lộ tinh thông

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

83

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

phép thuật cũng là lúc Dã nhân bị chết do ăn phải quả độc do Từ luyện thành.

Quả độc ấy như chính lòng hận thù của Từ Lộ, và một cách gián tiếp Từ đã

giết chết Dã nhân, ân nhân của mình, người mẹ của mình bằng lòng hận thù.

Sau này, khi sống ở kiếp vua Thần Tông, Từ vẫn luôn nhớ tới mùi sữa mà Dã

nhân đã cho mình uống và chỉ có uống sữa của người mẹ thì Thần Tông mới

khỏi cơn khát. Còn chàng cá Bơn là người đã cứu Nhuệ Anh khi cô gieo mình

xuống thác Oán. Có thể nói, chàng cá Bơn đã sinh ra Nhuệ Anh – sư bà chùa

Trầm. Sau này chàng đã đi tìm Nhuệ Anh khắp nơi, và chỉ được gặp nàng khi

cái chết đến.

Dã nhân đã nuốt quả độc là lòng hận thù của Từ Lộ, để xóa đi căn

nguyên trong bi kịch cuộc đời chàng. Nhưng sự hi sinh của Dã nhân đã vô

ích, chàng vẫn đi theo con đường của mình. Giá như việc Dã nhân nuốt quả

độc có thể hóa giải được thù hận trong lòng Từ Lộ thì số phận của Từ đã

khác, đã bớt đi một bi kịch. Còn Nhuệ Anh, nàng từ bỏ chàng cá Bơn để quay

về với cuộc sống con người, để dõi theo bước chân của Từ Lộ và nàng đã bị

đọa đày. Cuối cùng nàng mới nhận ra rằng: “Đây rồi người đàn ông suốt đời

không phản bội nàng. Người đàn ông suốt đời bị cầm tù trong thân phận cá.

Nhưng cái chết đã đưa chàng vượt khỏi bến bờ của những dòng sông hẹp.”

[51,tr.498] Những trang viết về cái chết của chàng cá Bơn là những trang văn

gây xúc động lòng người.

Dã nhân và chàng cá Bơn như là những lựa chọn có thể trong số phận

của Từ Lộ và Nhuệ Anh. Những lựa chọn sẽ đưa họ đến một thế giới từ thời

hồng hoang: không lừa lọc, không hận thù, không dục vọng. Thế nhưng cả hai

đã không chọn.

Còn hai nhân vật hồn sư Từ Đạo Hạnh và hồn Đại Điên chỉ xuất hiện

rất ngắn ngủi trong ba trang văn bản (từ trang 455 đến 458). Nhân vật hồn Từ

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

84

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Đạo Hạnh như là phái sinh của nhân vật này từ thời điểm Từ Đạo Hạnh thoát

xác đến trước khi đầu thai thành Dương Hoán. Thường khi con người được

thoát khỏi thân xác để nhìn tất cả từ trên cao, người ta sẽ ngộ được nhiều điều.

Nhưng khi là hồn, dục vọng trong con người Từ Lộ vẫn không mất đi: “Và

một mối ghen tức khủng khiếp đối với Sùng hầu khiến hồn của Từ run lên

từng đợt, những muốn xé tan ông ta ra để nhào tới, giành giật lấy tấm thân của

Sùng hầu phu nhân.” [51,tr.456]

Có thể nói, việc xây dựng những nhân vật mang tính chất huyền ảo thể

hiện một sự tìm tòi trong nghệ thuật hư cấu của các tác giả TTLS, thể hiện

một phần xu hướng huyền thoại hóa trong TTLS Việt Nam những năm gần

đây. Đó là một cố gắng trong việc cách tân nghệ thuật xây dựng hình tượng

nhân vật để gần hơn với tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.

3.2. XU HƯỚNG HUYỀN THOẠI HÓA:

Huyền thoại hóa cũng là vấn đề đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến

khi bàn về TTLS nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam những năm gần đây nói

chung.

Chúng tôi hiểu huyền thoại hóa nghĩa là sử dụng nhiều yếu tố huyền ảo

trong tác phẩm. Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Huyền ảo. Có vẻ kì lạ,

vừa như thực, vừa như hư, đầy vẻ bí ẩn” [34;tr.855]. Như vậy, ta có thể khẳng

định “không có thật” hay “yếu tố hoang đường” là thuộc tính đầu tiên của

huyền ảo.

Xu hướng huyền thoại hóa trong TTLS Việt Nam được thể hiện trên một

số khía cạnh chính: hệ thống các nhân vật mang tính chất kì ảo, kiến tạo

những không gian huyền ảo, và việc sử dụng dày đặc chất liệu từ dân gian,

trong đó có câu chuyện theo mô típ “vật hóa” nhân vật. Vấn đề hệ thống các

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

85

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

nhân vật kì ảo chúng tôi đã đề cập đến trong phần trên của luận văn. Sau đây

chúng tôi đi vào tìm hiểu các khía cạnh còn lại của xu hướng huyền thoại hóa

trong TTLS Việt Nam những năm gần đây, qua hai tác phẩm Giàn thiêu và

Mẫu thượng ngàn.

3.2.1. Không gian huyền ảo:

Trong hai tác phẩm đang xét, mặc dù đều là những TTLS nhưng không

gian được huyền ảo hóa một cách triệt để. Dường như tất cả những không

gian ấy đều không có thực.

Trong Mẫu thượng ngàn, làng cổ Đình là một ngôi làng có thật. Hình

ảnh những cây đa đầu làng, những ngôi đền, những ngọn núi, con sông là

những hình ảnh đặc trưng của làng quê Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả những cái

bình dị ấy đều được gắn cho một màu sắc huyền bí. Cây đa làng được gọi là

ông “Thần thụ”, được miêu tả dưới con mắt dân làng như sau: bốn rễ phụ

xung quanh “các cụ bảo đó là bốn quân hầu”, các rễ nhỏ khác thõng xuống

như những mớ tóc dài, những bình vôi treo trên cây đa được gọi là “ông bình

vôi” nhìn xa như những đầu lâu…[55,tr.219]. Rõ ràng những miêu tả này

mang đậm cái nhìn của tín ngưỡng dân gian, được tác giả sử dụng như một

cách làm “thiêng hóa” những gì đã trở nên thân thuộc. Ngọn núi Đùng cũng

mang dáng dấp huyền thoại, người dân làng Cổ Đình không ai dám lên đó.

Rồi đền Mẫu được huyền hoặc bằng câu chuyện con mãng xà đuổi Julien

Messemer. Đối với người dân làng đó là những không gian thiêng, là nơi bất

khả xâm phạm, là nơi những người con của dân làng được bảo vệ: Ngôi chùa

đổ bên gốc đa là nơi trú thân của ông hộ Hiếu, một nhân vật cũng mang màu

sắc truyền kỳ. Còn khu rừng sau núi Đùng là ngôi nhà an toàn của đôi trai gái

bị săn đuổi anh Mường Rồ và cô Ngơ. Đền Mẫu là nơi trở về của những

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

86

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

người con sau những đau khổ như bà tổ cô, cô Mùi và sau này là Nhụ và con

gái. Đó là không gian mà câu chuyện được diễn ra.

Trong Giàn thiêu không gian bị huyền ảo hóa ở hai cấp độ: biến những

không gian thật trở nên kì bí, và xây dựng những không gian hoàn toàn không

có thực.

Những không gian như: Na Ngạn khi thiêu sống các cung nữ, thác Oán

sông Gâm và túp lều của chàng cá Bơn, không gian lãnh cung khi Ngạn La

chứng kiến cuộc đối thoại giữa những hồn ma… là những không gian thật

được kì ảo hóa. Tiêu biểu là không gian lãnh cung trong cuộc hỏi tội Linh

Nhân thái hậu của Dương hoàng hậu và 76 cung nữ. Đó là không gian được

miêu tả với “lũ chuột khổng lồ”, với thứ “ánh sáng lành lạnh” , “những tiếng

thì thào”, “những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối

nhau chuyển động xếp lại theo trật tự răm rắp, thành hình người”, “khuôn mặt

trắng bợt chỉ có đôi môi đỏ chót”, “những con mắt đỏ như than của lũ

chuột”… Đó không thể là một không gian hiện thực mà chỉ có thể là không

gian của địa ngục trong các truyền thuyết.

Tác giả Giàn thiêu cũng mất rất nhiều công sức trong việc thể hiện

những không gian không hề có thực trên đời, mà chỉ có trong các câu chuyện

dân gian thôi như: đường lên Thiên Trúc, những vùng núi cao tuyết phủ xa

xôi nơi ở của Đức Phật…

Tất cả không gian ấy là tọa độ tồn tại của các nhân vật trong tác phẩm.

Nó tạo cho người đọc một cảm giác mới lạ, huyền ảo như lạc vào cõi phi thực

nào đó.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

87

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

3.2.2. Việc sử dụng văn hóa dân gian và mô típ “vật hóa” nhân vật:

Một trong những thủ pháp huyền thoại hóa tác phẩm của Võ Thị Hảo

và Nguyễn Xuân Khánh là tận dụng văn hóa dân gian (những truyện kể dân

gian, các phong tục, lễ hội dân gian) như một chất liệu của tiểu thuyết.

Câu chuyện truyền thuyết về ông Đùng bà Đà và lễ hội Cổ Đình được

coi là chìa khóa để giải mã tác phẩm Mẫu thượng ngàn. Bởi câu chuyện này

mang đậm văn hóa phồn thực của đạo Mẫu. Câu chuyện ông Đùng bà Đà

được khúc xạ đến câu chuyện của những nhân vật trong tác phẩm. Đầu tiên là

câu chuyện tình giữa chàng Mường Rồ và cô Ngơ. Câu chuyện tình kì lạ này

được kể trước truyền thuyết về ông Đùng bà Đà. Lúc câu chuyện được kể

người đọc chỉ có cảm giác là lạ về câu chuyện này, chỉ cảm thấy có cái gì đó

khác thường, chứ chưa biết cụ thể. Đến khi được biết truyền thuyết ông Đùng

bà Đà thì người đọc mới xác định cái cảm giác kì lạ đó là bởi chuyện tình anh

Mường Rồ và cô Ngơ là sự soi chiếu vào hiện thực của câu chuyện truyền

thuyết. Cái hình dáng khổng lồ của anh Mường, cái khả năng phồn thực kì lạ

của cô Ngơ, tất cả đều khác thường như ông Đùng bà Đà trong truyền thuyết.

Cũng bởi sự khác thường ấy mà Mường Rồ và cô Ngơ cũng phải chạy trốn

khỏi thế giới con người để đi vào rừng sâu. Và truyền thuyết này sau đó lại

được soi chiếu vào một câu chuyện tình khác là chuyện tình giữa Điều và

Nhụ. Hình ảnh “Người con trai cõng vợ trên lưng, chạy vào rừng sâu.”

[55,tr.770] của Điều sau khi Nhụ bị Julien hãm hại phải chăng cũng giống

như hình ảnh trong truyền thuyết “Người ta còn nhìn thấy bà Đà cõng chồng

chạy trốn vào rừng sâu.” [55,tr.657] sau khi ông Đùng bị dân làng bắn tên

trúng.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

88

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Nếu như trong Mẫu thượng ngàn những câu chuyện dân gian xuất hiện

trong tác phẩm như một khúc xạ vào thế giới nhân vật thì trong Giàn thiêu

chất liệu này được sử dụng trực tiếp hơn. Nó không là sự khúc xạ mà tác giả

lấy câu chuyện dân gian làm cốt truyện cho tác phẩm của mình.

Ví dụ câu chuyện dân gian được kể trong sách Thiền Uyển tập anh và

được lưu truyền trong dân gian về sự đầu thai của nhà sư Từ Đạo Hạnh được

Võ Thị Hảo lấy làm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của nhân vật Từ.

Hay những chuyện khác như xác Từ Vinh trôi trên sông Tô bất ngờ dựng

ngược chỉ vào nhà Diên Thành hầu, Từ lên Thiên Trúc gặp sưu Tzu, Từ tu

được phép đi mây về gió, dùng phép thuật giết chết Đại Điên…Ở đây chất liệu

huyền thoại đã trở thành máu thịt của tác phẩm. Sự huyền thoại hóa đã đạt tới

mức độ rất nhuần nhuyễn, không gượng ép: câu chuyện hoang đường nhưng

không ai (cả người đọc lẫn người viết) thắc mắc về tính chân thực của nó.

Trong đó, chúng ta phải kể đến chi tiết rất quan trọng : vua Thần Tông

hóa hổ. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, chuyện vua Thần Tông bị ốm và được

đại sư Minh Không chữa trị chỉ được ghi như sau: “Vua bệnh nặng, chữa

thuốc không khỏi, nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư…(Tục

truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác trong khi ốm đem thuốc và

thần chú giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn

rằng20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay. Tức là

việc này)” [35,tr.346] ; sách Thiền Uyển tập anh cũng không nói gì về chuyện

vua hóa hổ. Có lẽ câu chuyện vua ốm qua lời kể của dân gian đã được thêm

thắt vào để trở thành câu chuyện “vua hóa hổ”. Võ Thị Hảo đã sử dụng chi

tiết huyền ảo này trong tác phẩm của mình ngoài những ý nghĩa về mặt nội

dung còn như một thủ pháp huyền thoại hóa.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

89

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

Chi tiết này, không khỏi khiến chúng ta nhớ đến một mô típ nhân vật bị

“vật hóa” trong văn học (nằm trong xu hướng biến hình hóa) khởi đầu bởi nhà

văn Franz Kafka. Theo quan điểm của Diệp Tú Sơn trong Mỹ học tiểu thuyết

thì nhân vật tiểu thuyết trải quá trình phát triển qua các giai đoạn: ma hóa –

phàm hóa – biến hình hóa. Trong đó “ma hóa đặc trưng cho nhân vật tiểu

thuyết trong giai đoạn phôi thai” [25,tr.13]. “Tiểu thuyết” ở đây được hiểu là

tác phẩm tự sự, tiểu thuyết trong giai đoạn phôi thai chính là các thần thoại,

truyền thuyết, các truyện kể kiểu Liêu trai chí dị. Còn phàm hóa là “Sự kiện

các nhân vật tiểu thuyết từ trời cao trở về với nhân gian” [25,tr.12]. Đây là mô

hình nhân vật của tiểu thuyết cổ điển cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX trên thế

giới. “Biến hình hóa cũng chính là ma hóa, nhưng là ma hóa một cách tự

giác, ở một cấp độ cao hơn”[25,tr.13]. Và biến hình cũng thể hiện khuynh

hướng sáng tác huyền thoại hóa trong văn học thế giới

Nhân vật có thể được biến hình theo kiểu: vật hóa, dị dạng hóa hoặc

thậm chí bị biến mất (kiểu nhân vật – phản nhân vật)

Sở dĩ xuất hiện xu hướng biến hình, là do “Những nhân vật được xây

dựng trong tiểu thuyết kiểu cũ (với tất cả những thủ pháp cũ đã được dùng để

xây dựng nhân vật) không còn chứa được hiện thực tâm lý ngày nay”

(N.Sarraute – dẫn theo Diệp Tú Sơn trong Mỹ học tiểu thuyết). Có thể nói,

biến hình không phải là xu thế phát triển cao độ, càng không phải là giai đoạn

phát triển sau cùng của nhân vật tiểu thuyết, nhưng đó là một xu hướng khá

phổ biến của các nhà tiểu thuyết để nhằm phản ánh hiện thực tâm lý ngổn

ngang, nhiều chiều của thế giới hiện thực.

Với chi tiết “vua hóa hổ” phần nào Võ Thị Hỏa khiến chúng liên tưởng

đến kiểu nhân vật này trong tiểu thuyết thế giới. Tuy nhiên, sự “biến hình” ở

nhân vật Thần Tông chỉ có hiệu ứng lạ hóa nhân vật chứ chưa đạt được đến

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

90

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

bản chất của sự biến hình nhân vật như “là sự ngoại hóa một cách siêu thực

những tâm tư, những cảm giác của tác giả trong trạng thái tiềm thức, là sự

ngoại hóa của các trạng thái sinh tồn, của vị trí bản thể của con người mà tác

giả cảm nhận được.”[25, tr.13]

Và dĩ nhiên cũng không thể coi Giàn thiêu là một tiểu thuyết theo

khuynh hướng huyền thoại như những tác phẩm của Kafka. Chúng tôi chỉ coi

Giàn thiêu có xu hướng huyền thoại hóa, được hiểu như một thủ pháp

nghệ thuật làm cho thể loại TTLS mới lạ, hấp dẫn hơn.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

91

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

KẾT LUẬN

Tất cả những vấn đề mà luận văn đặt ra đều nhằm mục đích:

- Tìm hiểu sự vận động, biến đổi của TTLS Việt Nam từ 1986 đến nay về

phương diện thể loại trên hai trục: lịch đại (trong tiến trình vận động, phát

triển của TTLS Việt Nam ) và đồng đại (so sánh tương quan với sự vận động

của thể loại tiểu thuyết với tư cách là một bộ phận trong đó).

- Tiến hành phân tích tác phẩm trên các vấn đề thuộc về lý thuyết thể loại tiểu

thuyết là: phương thức tự sự và hình tượng thẩm mỹ.

- Bước đầu nêu lên quy luật vận động của TTLS Việt Nam từ 1986 đến nay;

đồng thời tìm hiểu xu hướng biến đổi của TTLS Việt Nam trong bối cảnh

cách tân của tiểu thuyết Việt Nam nói chung.

Hướng tới những mục đích trên, chúng tôi tiến hành khảo sát tác phẩm

và đưa ra một số kết luận sau:

- TTLS Việt Nam từ 1986 đến nay nằm trong bối cảnh vận động chung của

tiểu thuyết Việt Nam nói chung. Trong đó, đã có những cố gắng trong việc

cách tân nội dung cũng như hình thức.

- Tuy nhiên, sự cách tân về kỹ thuật tự sự của TTLS không mạnh mẽ, táo bạo

như các loại hình tiểu thuyết khác mà chỉ dừng ở bước đầu. Sự đổi mới

phương thức tự sự chỉ là những cố gắng học hỏi, nó chưa xuất phát từ đòi hỏi

nội tại của cấu trúc tác phẩm. Đó chưa hẳn là điểm yếu của TTLS. Vì trong

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

92

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

khi những thử nghiệm về kỹ thuật tự sự mới của tiểu thuyết nói chung còn

chưa thật sự đem lại hiệu quả như mong muốn thì TTLS chỉ đổi mới kỹ thuật

ở mức độ vừa phải, tạo ra sự mới lạ cho tác phẩm nhưng vẫn duy trì được độ

ổn định khiến độc giả dễ chấp nhận.

- Có lẽ, sự cách tân đáng kể nhất của TTLS chính là ở nội dung, hay chính

xác hơn là ở cách tiếp cận và phản ánh lịch sử của các nhà văn. Bên cạnh

lối tiếp cận truyền thống: Tiếp cận lịch sử như vốn có trong chính sử và tâm

thức chung của cộng đồng, các nhà văn đã có cách tiếp cận mới hơn: Tiếp cận

lịch sử trên quan điểm cá nhân, cảm hứng xét lại và Tiếp cận lịch sử như

“chất liệu để phản chiếu những vấn đề của Con Người ở tầm phổ quát”.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

93

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

THƯ MỤC THAM KHẢO

I/ TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tiếng Việt

[1]. Trần Thị An, Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu

thượng ngàn, Tạp chí nghiên cứu văn học

[2]. Lại Nguyên Ân, Tiểu thuyết và lịch sử, chuyên đề “Tiểu thuyết Việt Nam

đang ở đâu” trên http://www.vnn.vn ngày 31/10/2005

[3]. Arixtot, Nghệ thuật thơ ca, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/1997.

[4]. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển dịch và

giới thiệu, Nxb Hội nhà văn, 2003.

[5]. Hoàng Cẩm Giang, Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI,

Luận văn thạc sĩ văn học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2007.

[6]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, 1992.

[7]. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, 2000.

[8]. Lê Thị Bích Hòa, Hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử qua Hồ Quý Ly và

Giàn thiêu, Luận văn thạc sĩ văn học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà

Nội, 2008.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

94

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

[9]. Nguyễn Thái Hòa, Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục,

2000.

[10]. Nguyễn Hòa, Tiểu thuyết Việt Nam năm 2005, những tín hiệu tốt lành,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 2/2006.

[11]. Kate Humburger, Logic học các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch, Trần

Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.

[12]. Nguyễn Xuân Khánh, Ngô Văn Phú, Viết tiểu thuyết lịch sử cũng cần hư

cấu, trên http://vietbao.com, cập nhật ngày 3/5/2003.

[13]. Manfred Jahn, Trần thuật học - Nhập môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn

Thị Như Trang dịch, tài liệu Khoa Văn học, ĐHKHXH & NV.

[14]. Julia Kristeva, Một thi học đổ nát, Phạm Xuân Thạch dịch,

http://thachpx.googlepages.com

[15]. Milan Kundera, Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà

Nẵng, 1998.

[16]. Cao Kim Lan, Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R.

Kellogg, Tạp chí nghiên cứu Văn học số 10.2008.

[17]. Mã Giang Lân (chủ biên), Quá trình hiện đại hoá văn họcViệt Nam 1900

- 1945, Nxb Văn hóa thông tin, 2000.

[18]. Nguyễn Văn Lợi, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến

năm 1999, Luận án Tiến sĩ văn học, ĐHSP Hà Nội, 1999.

[19]. IU. Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá

Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004

[20]. E.M.Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn, Song Mộc

dịch, Nxb Đại học Quốc Gia, 2004.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

95

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

[21]. Hoài Nam, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: tiểu thuyết hay truyện kể,

chuyên đề “Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu” trên http://www.vnn.vn ngày

17/10/2008.

[22]. Nguyễn Danh Phú, Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn

Mộng Giác (từ góc độ thể loại), Luận văn thạc sĩ văn học, ĐH Khoa học Xã

hội và Nhân văn Hà Nội, 2005.

[23]. Salman Rushdie, Tiểu thuyết chưa chết, Báo Văn nghệ trẻ số 9/2005.

[24]. Guy Scarpetta, Sử thi hay tiểu thuyết, Tạp chí Le monde diplomatique

(Thế giới ngoại giao) số tháng 3/2003, đăng trên tạp chí Tia sáng số 2/2004.

[25]. Diệp Tú Sơn, Mỹ học tiểu thuyết, Nguyễn Kim Sơn dịch, tài liệu khoa

Văn, Hà Nội, 2004.

[26]. Borix Suskov, Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm

mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1980.

[27]. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, 1998.

[28]. Phạm Xuân Thạch, Cá nhân hóa hư cấu, báo cáo khoa học đăng trên

trang web cá nhân http://sites.google.com/site/thachpx/

[29]. Phạm Xuân Thạch, Kết cấu truyện ngắn Thạch Lam,

http://sites.google.com/site/thachpx/

[30]. Phạm Xuân Thạch, Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, suy nghĩ từ những

tác phẩm mang chủ đề lịch sử, http://sites.google.com/site/thachpx/

[31]. Nguyễn Thị Phương Thanh, Những cách tân đáng chú ý của tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ văn học, ĐHSP Hà Nội, 2005.

[32]. Tzvetan Todorov, Dẫn luận về văn chương kì ảo, Đặng Anh Đào, Lê

Hồng Sâm dịch, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội, 2008.

[33]. Tzvetan Todorov, Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm

dịch, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội, 2004.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

96

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

[34]. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998.

[35]. Nhiều tác giả, Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Cao Huy Giu dịch, Đào

Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2006.

[36]. Nhiều tác giả, Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Giu dịch, Đào

Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2006.

[37]. Nhiều tác giả, Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, 2002.

[38]. Nhiều tác giả, Lý luận văn học (ĐHKHXH & NV), Nxb Giáo dục, 1997.

[39]. Nhiều tác giả, Thiền Uyển tập anh,

http://www.quangduc.com/lichsu/79thienuyentapanh-ha.html/

[40]. Nhiều tác giả, Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học

Sư phạm Hà Nội, 2003.

[41]. Nhiều tác giả, Từ điển văn học, Nxb Thế giới, 2004.

[42]. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, 2005

2. Tiếng Anh

[43]. Abrams, M.H, A Glossary of Literature terms, I.N.C New York, 1971.

[44]. Talib, Ismail, Narrative Theory: A brief introduction,

http://courses.nus.edu.sg/course/ellibst/NarrativeTheory/

[45]. Katie Wales, A dictionary of stylistics, Longman, London, 1990.

[46]. Dr. Wheeler, Literature terms and definitions,

http://web.cn.edu/kwheeler/lit_terms_H.html

II/ TÁC PHẨM

[47]. Hoàng Quốc Hải, Bão táp cung đình, Nxb Phụ Nữ, 2006.

[48]. Hoàng Quốc Hải, Huyền Trân công chúa, Nxb Phụ Nữ, 2006.

[49]. Hoàng Quốc Hải, Thăng Long nổi giận, Nxb Phụ Nữ, 2006.

[50]. Hoàng Quốc Hải, Vương triều sụp đổ, Nxb Phụ Nữ, 2006.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

97

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thùy Minh

[51]. Võ Thị Hảo, Giàn thiêu, Nxb Phụ Nữ, 2005.

[52]. Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, Tập 1, Nxb Văn học, 2003.

[53]. Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, Tập 2, Nxb Văn học, 2003.

[54]. Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ Nữ, 2002.

[55]. Nguyễn Xuân Khánh, Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ Nữ, 2006.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nhìn từ góc độ loại hình thể loại….

98