ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN QUỐC LINH

TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN QUỐC LINH

TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG

Nghành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi

trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên

cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Linh

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp cuối khóa, em đã

nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên, các nhà

nghiên cứu khoa học, Ban lãnh đạo khoa Ngữ văn, phòng Sau Đại học, Ban

giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Đặc biệt Phó giáo sư - Tiến

sĩ Phan Trọng Thưởng đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em trong việc nghiên cứu,

tìm hiểu và hoàn thành đề tài này.

Em xin cảm ơn quý thầy cô, các phòng ban, các tổ chức đoàn thể trong nhà

trường Đại học Sư phạm Thái nguyên đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất để em

hoàn thành khóa học. Bằng cả tấm lòng mình, em xin gửi tới Phó giáo sư -Tiến sĩ

Phan Trọng Thưởng lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.

Em xin cảm ơn Ban lãnh đạo Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Thái nguyên,

Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong, các bạn bè, đồng

nghiệp, những người thân đã nhiệt tình ủng hộ, chia sẻ khó khăn, khích lệ tinh

thần trong suốt thời gian qua.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Linh

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 9

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 9

7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 10

NỘI DUNG ....................................................................................................... 11

Chương 1: KHÁI HƯNG VÀ TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ.......................... 11

1.1. Khái Hưng .............................................................................................. 11

1.1.1. Cuộc đời và con người..................................................................... 11

1.1.2. Mối quan hệ với nhóm Tự lực văn đoàn ......................................... 14

1.2. Tiểu thuyết luận đề ................................................................................. 18

1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết và tiểu thuyết luận đề ................................... 18

1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn và Khái Hưng ................ 20

Chương 2: CÁC LUẬN ĐỀ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KHÁI HƯNG ... 25

2.1. Chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến .............................................. 25

2.2. Đề cao cái tôi cá nhân và nếp sống âu hóa ............................................. 36

2.3. Thể hiện ước mơ cải cách xã hội ............................................................ 44

Chương 3: NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG .... 47

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu ............................................ 47

3.1.1. Cốt truyện ........................................................................................ 47

iii

3.1.2. Kết cấu ............................................................................................. 55

3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ............................................. 61

3.2.1. Các tiểu loại nhân vật ...................................................................... 64

3.2.2. Các phương thức, biện pháp miêu tả nhân vật ................................ 72

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu .......................................... 78

3.3.1. Ngôn ngữ ......................................................................................... 78

3.3.2. Giọng điệu ....................................................................................... 87

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 95

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tự lực văn đoàn có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học

Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Trong sự tồn tại của nhóm, người ta

không thể không nhắc đến Khái Hưng. Với tài năng và tinh thần sáng tạo

không mệt mỏi, ông đã có những ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình hiện

đại hóa văn học nước nhà đầu thế kỷ XX, đồng thời góp phần làm rạng danh

tên tuổi của văn đoàn Tự lực.

Khái Hưng để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn. Những sáng tác

của ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp thanh niên trí thức Việt

Nam những năm 30 của thế kỷ XX, đồng thời tạo được sự ngưỡng mộ đối với

độc giả yêu mến văn học.

Khái Hưng sáng tác ở nhiều thể loại song có lẽ thành công nhất vẫn là tiểu

thuyết, mà trước hết là tiểu thuyết luận đề. Những tác phẩm của Tự lực văn

đoàn nói chung, Khái Hưng nói riêng đã trở nên quen thuộc với độc giả yêu

mến văn học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của Khái Hưng ngày càng

được khẳng định vững chắc. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về sự nghiệp

văn chương của ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó.

Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã góp phần

từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nửa

chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Trống mái, Gia đình, Thoát ly ,Thừa tự….là

những cuốn tiểu thuyết tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh

vực quyền được hưởng hạnh phúc của cá nhân con người. Trong tác phẩm của

mình, Khái Hưng tỏ ra đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người

phụ nữ trong gia đình phong kiến. Ông xây dựng khá thành công hình tượng

những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại những giáo

lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân ta hàng nghìn năm qua.

Đó là những cô gái tân thời có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương

Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công mà họ là nạn nhân phải gánh chịu. Vì

thế khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh

1

mẽ hơn ai hết. Hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn phù hợp với

quy luật khách quan của sự phát triển. Tác phẩm của Khái Hưng là những tiếng

nói đả phá hủ tục phong kiến, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, hướng tới cải

cách xã hội. Đây chính là đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện

đại hóa văn học dân tộc. Đến với tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng, chúng tôi

muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị trong sáng tác của ông trên cả hai khía

cạnh nội dung và nghệ thuật.

2. Lịch sử vấn đề

Như trên đã nói, Tự lực văn đoàn và nhất là Khái Hưng đã để lại cho văn

học Việt Nam những tác phẩm có giá trị. Tuy nhiên đây cũng là hiện tượng tạo

nên nhiều tranh luận trong lịch sử văn học nước nhà. Việc nghiên cứu, đánh giá

tác phẩm của Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp.

Mỗi một thời người ta lại có những quan điểm khác nhau. Có khi trong cùng

một thời nhưng hai miền Nam-Bắc cũng không đồng nhất ý kiến .

Chúng tôi tạm chia những đánh giá về Tự lực văn đoàn và Khái Hưng làm

3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất (trước năm1945):

Đây là giai đoạn Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được sự chú ý

của độc giả. Khái Hưng được người đọc đón nhận nồng nhiệt, nhất là ở thể loại

tiểu thuyết. Ông cũng là một trong những tác giả được giới nghiên cứu phê bình

quan tâm rất nhiều. Người ta nhắc đến Khái Hưng qua các bài đánh giá chung về

nhà văn, hoặc các bài phê bình, giới thiệu sách. Đó là các ý kiến của Trương Tửu,

Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Phan… đăng trên các báo Loa, Sông

Hương, Phụ nữ thời đàm, Ngọ báo, Nhật tân, Ích hữu… Ngoài ra còn một số công

trình nghiên cứu khác quan tâm tới tiểu thuyết của Khái Hưng.

Khi nhận xét về tác phẩm của Khái Hưng Dương Quảng Hàm đã viết

trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu (1942): “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội

nhưng lại thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng … Khái Hưng có một cách tả

người và tả cảnh tuy xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng, thanh tú khiến cho

người đọc thấy cảm” [11, tr. 455].

2

Trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) Vũ Ngọc Phan đã đánh giá tiểu

thuyết của Khái Hưng như sau: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết

phong tục hay tiểu thuyết tâm lí, cái đặc sắc mà người ta thấy trong các tác

phẩm của Khái Hưng là sự xét nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên

Việt Nam” [37, tr. 780].

Tiểu thuyết của Khái Hưng thời kì này được đánh giá cao về mặt nội dung

tư tưởng: chống lại chế độ phong kiến, muốn giải phóng cá nhân, giải thoát cho

người phụ nữ. Trên báo Loa (1935) Trương Chính cho rằng: “Nửa chừng xuân

là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện

luận cho quan hệ nhân sinh mới và công bố sự bất hợp thời của những tập quán

do nền luân lí cổ truyền tạo ra” [9, tr. 313].

Nhìn chung, giới phê bình trước năm 1945 đánh giá cao Khái Hưng và

nhóm Tự lực văn đoàn. Chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải phóng cá nhân

được chú ý quan tâm. Song một số nhà nghiên cứu đương thời lại cho rằng tiểu

thuyết của Khái Hưng vẫn còn một số hạn chế: đôi khi tư tưởng không thiết

thực, có tác phẩm kết cấu không chặt chẽ, thậm chí còn có những lỗi dùng từ

đặt câu …Các đánh giá này chỉ là những bước gợi mở chứ chưa đi sâu khám

phá những đóng góp trên phương diện nghệ thuật. Các công trình này còn

chung chung và có phần đơn giản.

Giai đoạn thứ hai (từ 1946-1986):

Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh cho nên suốt một thời gian dài tiểu

thuyết của Khái Hưng không được quan tâm. Sau năm 1954 nó mới được đề

cập đến. Nhưng do sự phức tạp của tình hình chính trị nên ở hai miền Nam -

Bắc có cách đánh giá khác nhau.

Ở miền Bắc:

Các tác phẩm của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn có thời gian dài bị cấm.

Năm 1957, sau khi tái bản cuốn Tiêu sơn tráng sĩ, trên các báo Văn nghệ quân

đội, Độc lập, Tổ quốc, Tuần báo văn, các tác giả Trần Thanh Mại, Vĩnh Mai,

Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Phú, Trương Chính, Lê Long, Trần Tín, Trần Chân

Dung đã tranh luận sôi nổi về tác phẩm này. Cuối thập niên 50 và đầu thập niên

3

60 của thế kỷ XX xuất hiện một số công trình nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết

của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn. Cụ thể là: Lược thảo lịch sử văn học Việt

Nam (1957) của nhóm Lê Quý Đôn; Văn học Việt Nam 1930-1945 (1961) của

Bạch Năng Thi và Phan Cự Đệ; Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam 1930-1945

(1964) của Viện Văn học…Đến những năm 70 thì những công trình như: Bàn về

cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại (1930-1945) của

Vũ Đức Phúc (1971), Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự Đệ, tập 1 (1974) và

các bài phê bình của Nguyễn Đức Đàn, Nam Mộc…đều nhắc đến Tự lực văn

đoàn và tiểu thuyết của Khái Hưng. Nhưng nhìn chung do quá chú trọng vào

chức năng giáo dục của văn học, do các nhà phê bình đã căn cứ vào những tiêu

chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các giá trị của văn

chương lãng mạn nên một số người đánh giá có phần quá nghiêm khắc, với

nhiều định kiến nặng nề. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh nỗi khổ của

người dân bị áp bức bóc lột mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day

dứt của thanh niên trí thức. Bởi thế cho nên văn chương của Khái Hưng nói

riêng, văn chương Tự lực văn đoàn nói chung mới chỉ được khen ngợi môt chút

về nội dung chống phong kiến và về những cách tân trong nghệ thuật tiểu

thuyết. Nhìn chung tiểu thuyết của Khái Hưng và của Tự lực văn đoàn thường

được hiểu là: xa rời thưc tiễn, tiêu cực, bạc nhược suy đồi, phản động, có

hại…Chẳng hạn như cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1939 - 1945 có ghi

nhận xét: “Trong những tác phẩm được xuất bản từ 1936 đến 1943, tuy vẫn có

một số yếu tố tốt như chống quan lại phong kiến trong gia đình, phản ánh sự ty

tiện của những con người đặt đồng tiền lên trên tất cả, phê phán một số địa chủ

tham lam, ngu dốt, nhưng những mặt tiêu cực trong tư tưởng, tình cảm của

Khái Hưng phát triển mạnh hơn. Tiêu sơn tráng sĩ (…), ca ngợi bọn phục vụ

cho một chế độ suy tàn, không nghĩ tới nhân dân (…).Trống mái tô vẽ lối sống

của tư sản (…).Chủ nghĩa cải lương phản động biểu hiện rõ rệt nhất trong Gia

đình. Ở đây tác giả muốn địa chủ là những người vừa có học, vừa rộng rãi,

muốn cải thiện đời sống cho dân nghèo…” [23, tr. 87].

4

Ở cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam cũng có nhận định: “Chỉ hiềm

một điều ông (tức Khái Hưng) ít chú ý đến xã hội, đến những vấn đề mấu chốt

của xã hội, chỉ quanh quẩn với những người trong giai cấp của mình, với một

nhân sinh quan đặc tiểu tư sản cho nên nội dung tư tưởng của ông rất nghèo

nàn” [32, tr. 337].

Ở miền Nam:

Tự lực văn đoàn lại được đề cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của

văn đoàn này được in lại và phổ biến rộng rãi. Ngoài các bài viết đăng trên các

tạp chí, còn có các công trình văn học được đưa vào giảng dạy trong nhà

trường, tiêu biểu như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn

Xung; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự

lực văn đoàn (1960) của Doãn Quốc Sỹ; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1972)

của Nguyễn Xuân Bào…Có những công trình nghiên cứu riêng về Khái Hưng

như: Khảo luận về Khái Hưng của Lê Hữu Mục; Luận đề về Khái Hưng của

Nguyễn Duy Diễn và Bằng Phong; Luận đề về Khái Hưng của Nguyễn Bá

Lương và Tạ Văn Ru… Có các bài báo, hồi ký viết về tiểu sử, về những kỷ

niệm sống và sáng tác của Khái Hưng như: Ba tôi của Trần Khánh Triệu;

Tưởng nhớ Khái Hưng của Vũ Bằng…Có các bài báo đánh giá lại những tiểu

thuyết của Khái Hưng theo phương pháp mới như: Hồn bướm mơ tiên của Tam

Ích; Tình yêu hiến dâng trong Hồn Bướm mơ tiên của Nguyễn Văn Trung…

Đặc biệt là có một số văn bản đi sâu nghiên cứu thân thế và tác phẩm của

Khái Hưng như: Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1932-1945,

của Thế Phong; Khái Hưng thân thế và tác phẩm của Thư Trung; Khái Hưng

người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu

Tương; Nhân nghĩ về Khái Hưng, Khái Hưng nhà văn và cuộc phấn đấu của

Dương Nghiễm Mậu; Về tiểu thuyết của Khái Hưng của Đặng Phùng Quân;

Thế giới nhân vật của Khái Hưng của Đào Trương Phúc; Người đàn bà trong

tác phẩm của Khái Hưng của Vũ Hạnh…

Số ít ý kiến chưa công nhận, họ cảm thấy những tác phẩm của Khái Hưng và

Tự lực văn đoàn có “một cái gì đó nhạt nhẽo, giả tạo, hời hợt, vụng về” [34, tr. 16].

5

Song phần đông đánh giá cao tiểu thuyết của Khái Hưng. Chẳng hạn Phạm Thế

Ngũ cho rằng: “Văn nghệ Tự lực văn đoàn còn như trăng mới lên, hoa mới nở,

người ta muốn vui, muốn nhìn đời qua cặp kính hồng” [30, tr. 424]. “Đến Tự

lực văn đoàn đưa ra chủ trương viết giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho (…). Văn ấy

có thể thấy mẫu mực trong tác phẩm đầu tay của Khái Hưng: Hồn bướm mơ

tiên” [30, tr. 429]. Thư Trung nhận ra rằng: “những tác phẩm của Khái Hưng

quả thật đã đặt ra những vấn đề quan trọng, đã đóng góp công lao vào sự tiến

hoá của xã hội Việt Nam (….) biết Khái Hưng là nhà văn của tuổi trẻ, của gia

đình,ba mươi năm trước; biết Khái Hưng là nhà văn có lòng yêu thương rộng

rãi, có lòng tin vào cuộc sống, biết Khái Hưng là nhà văn phong tục, nhà văn

tâm lý có biệt tài; biết học trong văn Khái Hưng những mẫu mực của một bút

pháp trong sáng, mực thước” [34, tr. 17]. Thế Phong ca ngợi: “Khái Hưng có

thiên bẩm viết tiểu thuyết (...) về nghệ thuật tiểu thuyết, không phải mỗi lúc lại

có thể có một Khái Hưng (…) có thể gọi Khái Hưng là người đầu tiên biết viết

tiểu thuyết trong lịch sử cực thịnh của văn chương Việt Nam ở giai đoạn đầu”

[39, tr. 46+47].

Có thể nói rằng các ý kiến đánh giá về Khái Hưng và Tự lực văn đoàn ở

giai đoạn này chưa có nhiều điểm mới so với giai đoạn trước. Phần lớn các ý

kiến đều đề cao, ghi nhận song còn mờ nhạt, chưa làm nổi bật được những

đóng góp cũng như hạn chế.

Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986):

Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, hoạt động sáng tác, xuất bản,

phê bình văn học cũng từng bước có sự thay đổi. Với quan điểm thông thoáng

và khách quan hơn nên việc nghiên cứu Tự lực văn đoàn nói chung và Khái

Hưng nói riêng đã thay đổi rõ rệt. Cho đến thời điểm này hầu hết tiểu thuyết của

ông đã được tái bản, hoạt động nghiên cứu, đánh giá, phê bình diễn ra sôi nổi.

Người ta đã tổ chức các hội nghị khoa học để xem xét lại văn chương của Tự lực

văn đoàn. Ngày 27-5-1989 khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối

hợp với Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp tổ chức cuộc Hội thảo

văn chương Tự lực văn đoàn. Tại đây các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên

6

tuổi như: Tô Hoài, Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trương Chính, Phong

Lê, Nguyễn Hoành Khung…đã tập trung khẳng định vai trò và những đóng góp

của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.

Sau hội thảo này, nhiều bài báo, chương sách có giá trị nghiên cứu về sáng

tác của Tự lực văn đoàn đã được xuất bản. Khi in lại các tác phẩm của Khái

Hưng, giới nghiên cứu đã có những đánh giá mới. Trong lời giới thiệu các tiểu

thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gia đình, Thừa tự, giáo sư Hà

Minh Đức vừa phân tích rất sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nghệ thuật, vừa chỉ

ra những hạn chế của tác giả. Giáo sư Phan Cự Đệ viết những bài giới thiệu cho

các tiểu thuyết: Tiêu sơn tráng sĩ, Trống mái, Gia đình, Đẹp, Băn khoăn, Thoát

ly. Qua đó ông đưa ra nhiều ý kiến vừa mới mẻ vừa có sức thuyết phục. Ví dụ:

“Cuốn tiểu thuyết (Đẹp) đã ca ngợi niềm say mê sáng tạo của những người

nghệ sĩ chân chính” [29, tr. 330]. Hoặc: “Không thể xem Băn khoăn là một

cuốn tiểu thuyết lãng mạn (…). Phần lớn được xây dựng bằng bút pháp hiện

thực” [29, tr. 346]. Phó Giáo sư Nguyễn Hoành Khung và Phó Giáo sư Lê Thị

Đức Hạnh cũng đã có các bài viết về Tự lực văn đoàn, văn xuôi lãng mạn Việt

Nam và phong trào Thơ mới…Qua những bài viết và các công trình nghiên cứu

này, những giá trị hiện thực, giá trị tiến bộ trong sáng tác của Tự lực văn đoàn

nói chung, của Khái Hưng nói riêng được ghi nhận, đánh giá đúng mức, công

bằng hơn. Những hạn chế cũng được nhìn nhận, phê phán thấu tình đạt lý hơn

so với giai đoan trước. Giáo sư Phan Cự Đệ đã viết trong Tự lực văn đoàn -

Con người và văn chương: “So với tiểu thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào thế giới nội tâm phong phú của con người”

[4, tr. 370]. Mặc dầu vậy, theo Giáo sư, ở những tác phẩm thời kỳ cuối Khái

Hưng, Nhất Linh không những không đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn

có xu hướng đẩy con người vào chủ nghĩa duy tâm và định mệnh” [4, tr. 330].

Theo thời gian, ngày càng có nhiều người nghiên cứu về Tự lực văn đoàn

và tiểu thuyết của Khái Hưng. Tiêu biểu là các tác giả Đào Trọng Thức, Tào

Văn Ân, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Dục Tú, Vũ Thị Khánh Dần, Dương Thị

Hương, Nguyễn Thị Tuyến, Trần Thị Kim Hoa, Đào Thu Hằng. Nhiều công

7

trình nghiên cứu đã được công bố, chẳng hạn như: luận án tiến sĩ “Bàn về tiểu

thuyết của Khái Hưng của tác giả Ngô Văn Thư; luận văn thạc sĩ “Những nhận

định bước đầu về tiểu thuyết của Khái Hưng” của Phạm Ngọc Phúc (tức Vu

Gia), “Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất

Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng” của Lại Thị Thúy Vân, “Nghệ thuật

tiểu thuyết Khái Hưng” của Nguyễn Hạ Uyên…Bằng sự nỗ lực kháo sát công

phu, kỹ lưỡng, kết hợp với việc vận dụng những phương pháp tiếp cận mới, họ

đã có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Đóng góp của Khái Hưng và của

Tự lực văn đoàn ngày càng được đánh giá phù hợp. Nhìn chung, mọi người đều

phải ghi nhận giá trị trong sáng tác của văn đoàn này. Chẳng hạn, Trịnh Hồ

Khoa viết: “Phải đến thế hệ nhà văn 32 (1932), bắt đầu từ Tự lực văn đoàn,

ngôn ngữ văn học mới được hoàn toàn đổi mới” [18, tr. 60].

3. Mục đích nghiên cứu

Như trên đã nói, việc nghiên cứu về Khái Hưng và Tự lực văn đoàn ngày

càng có những kết quả mới mẻ và xác đáng. Tuy nhiên giới nghiên cứu chủ yếu

đánh giá chung về văn chương Tự lực văn đoàn hoặc bàn về tất cả các tiểu

thuyết của Khái Hưng. Việc đi sâu nghiên cứu các luận đề và nghệ thuật trong

tiểu thuyết luận đề của ông thì vẫn còn ít người để ý tới. Bởi thế chúng tôi

mạnh dạn đi nghiên cứu các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng để thấy sự tôn

chỉ mục đích sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn ở nhà văn này. Trong luận

văn, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu cặn kẽ việc triển khai các luận đề và nhất là

nghệ thuật trong tiểu thuyết luận đề của ông. Qua luận văn chúng tôi muốn đưa

một tiếng nói nhỏ bé của mình vào để khẳng định, tôn vinh những đóng góp

của Khái Hưng trong việc thúc đẩy sự phát triển của văn chương và tiến bộ của

xã hội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.2. Đối tượng

Chúng tôi tập trung nghiên cứu luận đề chống lễ giáo phong kiến, giải

phóng cá nhân, hướng tới cải cách xã hội trong các tiểu thuyết của Khái Hưng.

Để làm rõ các luận đề này chúng tôi quan tâm tới hai kiểu nhân vật đối lập

8

nhau. Một bên là những người có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương

Tây, đại diện cho tư tưởng mới mẻ, tiến bộ. Một bên là những con người mang

nặng tư tưởng phong kiến cổ hủ, lạc hậu. Chúng tôi đi sâu phân tích tâm lý và

hành động của kiểu người thứ nhất để thấy tiếng nói chống phong kiến. Tương

tự như vậy chúng tôi đi sâu phân tích tâm lý của kiểu người thứ hai để thấy

tiếng nói đấu tranh giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ, hướng tới cải cách

xã hội. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi quan tâm tới sự đổi mới trong

nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng.

4.1. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi khảo sát chính là các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng như: Nửa

chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự.

Chúng tôi nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết của Nhất Linh như: Lạnh lùng,

Đoạn tuyệt, Đời mưa gió và tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo nhằm

bổ trợ thêm những hiểu biết về Tự lực văn đoàn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau :

- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp so sánh đối chiếu

- Phương pháp thống kê phân loại

- Phương pháp văn học sử

6. Đóng góp của luận văn

Với luận văn này, chúng tôi mong muốn tiếp tục ghi nhận những đóng góp

của Tự lực văn đoàn nói chung và của Khái Hưng nói riêng đối với văn học

Việt Nam. Luận văn đi vào khảo sát cụ thể các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

để thấy để thấy được những ảnh hưởng của ông trên cả hai lĩnh vực văn chương và

xã hội.

Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng chúng tôi muốn chỉ ra công

lao của ông trong công cuộc đấu tranh bênh vực cho cái mới, cái tiến bộ, lên

tiếng đòi phá bỏ những cái lạc hậu, khẳng định quyền sống tự do của cá nhân

con người, nhất là người phụ nữ. Đồng thời chúng tôi cũng nói lên những cách

9

tân trong nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng. Qua đó chúng tôi

khẳng định những ảnh hưởng quan trọng của ông trong việc tạo nên bước đổi

thay tích cực của văn chương Việt Nam hiện đại.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn đươc triển khai ở 3 chương:

Chương 1: Khái Hưng và tiểu thuyết luận đề

Chương 2: Các luận đề trong tiểu thuyết của Khái Hưng

Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

10

NỘI DUNG

Chương 1

KHÁI HƯNG VÀ TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ

1.1. Khái Hưng

1.1.1. Cuộc đời và con người

Khái Hưng sinh năm 1897 tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải

Dương, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Người dân Cổ Am nổi tiếng hiếu học,

coi trọng văn hóa và thực tế đã từng có nhiều người đỗ đạt trong các khoa thi

Hán học. Bởi vậy từ xưa ở đây người ta đã tự hào mà nói: Đông Cổ Am, Nam

Hành Thiện.

Thân phụ của ông là cụ Trần Mỹ (cụ vốn xuất thân trong gia đình dòng

dõi khoa bảng), một cử nhân Hán học, từng làm tuần phủ tỉnh Thái Bình. Cụ

Trần Mỹ có tới năm người vợ nên rất đông con. Khái Hưng là con của bà vợ cả

và là anh trai nhà văn Trần Tiêu.

Nhạc phụ của Khái Hưng là cụ Lê văn Đính (nguyên mẫu nhân vật Báo

trong tiểu thuyết Gia đình), người làng Dịch Diệp (một làng xưa nay đều có rất

nhiều người đỗ đạt), huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Cụ Đính cũng xuất thân

trong gia đình khoa bảng, là cử nhân Hán học và từng làm tuần phủ, tổng đốc

rồi thượng thư.

Như vậy, cả thân phụ và nhạc phụ của Khái Hưng đều là đại quan, đều

làm công chức cho Pháp, nhưng có gốc văn hóa cũ, không phải là bọn tay sai

bán nước cầu vinh hoặc xuất thân từ thầu khoán, bếp bồi, thông ngôn,… mới

phất. Cho nên, tuy làm việc cho Pháp nhưng họ không thật sự được tin dùng và

phần nào cũng có tư tưởng ghét Tây. Khái Hưng sống trong môi trường trưởng

giả, nhưng ông cũng có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với tư tưởng, ý thức, nếp

sống và văn hóa phương Tây. Nhà văn từng chứng kiến, trải nghiệm cuộc sống

đại gia đình phong kiến với bao hủ tục, luật lệ phiền toái, lạc hậu. Song ông

cũng thấy rõ trong hai cái đại gia đình Trần - Lê của mình vẫn còn những dấu

ấn đẹp của văn hóa cổ truyền. Những điều đó có ảnh hưởng đến sáng tác của

Khái Hưng.

11

Theo gia phả họ Trần ở làng Cổ Am, Khái Hưng tên thật là Trần Dư. Khi

buôn dầu ở Ninh Giang ông mới đổi thành Trần Khánh Giư. Khái Hưng là bút

danh chính do xếp chữ theo lối anagramme mà thành. Ngoài ra ông còn có các bút

danh khác như: Bán than, Nhát dao cạo, Chàng lẩn thẩn, Tò mò và Nhị Linh.

Lúc còn nhỏ Khái Hưng học chữ Nho, từ năm 12 tuổi mới theo Tây học.

Ở trường Albert Sarraut, ông nổi tiếng là tinh nghịch và giỏi Pháp văn. Ngay ở

thời kỳ này Khái Hưng đã hoạt động văn hóa văn nghệ và đạt được những

thành tích đáng trân trọng (ông dịch vở hài kịch Les Pleideurs của Racine được

Hội Trí tri Nam Định trao tặng giải nhất, dịch bài thơ Tình tuyệt vọng của Arve

và bài thơ Dưới trăng uống rượu một mình của Lí Bạch, Khái Hưng còn là tác

giả của bức họa Trăng xưa mô tả nỗi buồn nhớ Nhất Linh, người bạn thân thiết

vì công việc chống Pháp phải bỏ đi xa).

Khái Hưng đậu tú tài Pháp phần một (ban triết học) năm 1927, nhưng sau

đó ông không tiếp tục học lên để ra làm quan như đa số bạn học cùng thời mà

đã bỏ đi buôn dầu tại Ninh Giang. Do tính phóng khoáng, bán chịu không thu

được nợ nên ông đã thất bại sau 3 năm kinh doanh. Nhà văn bỏ Ninh Giang lên

Hà Nội dạy học ở trường tư thục Thăng Long, một trường nổi tiếng lúc bấy giờ.

Vừa dạy học Khái Hưng vừa làm chủ bút và viết một số bài đăng trên báo

Phong hóa của Phạm Hữu Ninh từ số 1 đến số 13. Ngoài ra ông còn viết nhiều

bài nghị luận đăng trên Văn học tạp chí.

Ở trường Thăng Long Khái Hưng đã gặp Nhất Linh. Bởi cùng chung một

quan niệm về văn chương và xã hội nên hai người nhanh chóng trở nên thân

thiết. (Nhất Linh đã viết trong lời đề từ tác phẩm Đoạn tuyệt của mình rằng:

“Tặng Khái Hưng, tác giả Nửa chừng xuân, nhà văn cùng quan niệm với tôi về

xã hội hiện thời”). Về sau, tình cảm hai người càng trở nên gắn bó khăng khít

hơn. Khi thấy vợ chồng Khái Hưng hiếm muộn, ông bà Nhất Linh còn cho một

người con trai thứ về làm con nuôi họ Trần. Cùng với Nhất Linh, Khái Hưng là

một trong những người đầu tiên tham gia vào ban biên tập báo Phong hóa, sau

này trở thành nhà văn chủ chốt, có đóng góp lớn cho nhóm Tự lực văn đoàn.

12

Thời thế thay đổi, năm 1939 Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, nhóm

Tự lực văn đoàn nghiêng về hoạt động chính trị. Khái Hưng cũng tham gia

phong trào này nhưng chủ yếu do tình bạn chứ không phải là có tham vọng.

Trần Khánh Triệu kể: “Theo lời mẹ tôi thì bản chất ba tôi là con người nghệ sĩ,

nhưng về sau tham gia hoạt động chính trị cũng chỉ là thấy anh em làm, ba tôi

cũng tha thiết muốn làm với anh em” [50, tr. 25]. Năm 1945, Khái Hưng có

nhận viết cho tờ Việt Nam, tờ Chính nghĩa, bởi lẽ “anh Tam, anh Long đã làm

chả lẽ mình lại xa anh em” [50, tr. 26]. Bởi không tìm ra con đường đúng, phù

hợp với hướng đi của lịch sử nên cuối đời Khái Hưng có lúc chống phá cách

mạng chứ không phải là cam tâm bán nước cầu vinh, cúi đầu làm nô lệ. Con

người của Khái Hưng là con người của văn chương, của những tư tưởng lãng

mạn chứ không phải là con người của hành động, của thực tiễn làm chính trị.

Khái Hưng còn có tư tưởng bài Pháp và chống quan lại từ rất sớm. Ở

truyện ngắn Tây xông nhà ông có kể rằng, vào tết năm 1930 gia đình nhà văn

đã bị bọn quan Pháp xông nhà và đe dọa: “Ông nói lí với tôi, phải không? Ông

nên biết: những ý tưởng bài Pháp, chống quan lại của ông sẽ chỉ đưa tai hại đến

cho ông. Rồi ông sẽ thấy” [16, tr. 46].

Trong văn chương của mình Khái Hưng đã từng đả kích, châm biếm bọn

quan Tây rất mạnh mẽ. Cũng ở truyện ngắn Tây xông nhà ông chỉ trích tên

quan đại là tội nhân, là tiểu nhân. Ông viết: “Tôi đã được Tây xông nhà. Người

Tây đó tên là Heineshilk - ấy là tôi theo vần đọc mà viết ra, chứ tôi cũng chưa

trông thấy tên hắn trên giấy bao giờ. Theo lời đồn, hắn là một người Áo can án

tử hình bỏ trốn sang nước Pháp đăng lính Lê dương đi Ma rốc dự chiến. Mãn

hạn hắn nhập Pháp tịch và được bổ đi coi một đồn lính khố xanh. Nếu muốn

tìm một kiểu mẫu tiểu nhân thì hắn thực là một người hoàn toàn. Đối với dân

gian hắn hống hách, đàn áp, bóc lột, chuyên chế như một ông vua chuyên chế.

Trái lại đối với ông Sứ hay ông Giám binh thì hắn quỵ lụy, nịnh nọt, đút lót

trung thành như tên mọi trung thành với chủ” [16, tr. 40].

Truyện ngắn Quan công sứ cũng là một tiếng nói bài Pháp. Ở đó Khái

Hưng đã để cho các nhân vật chế giễu viên công sứ là dốt nát, xấu xa.

Khái Hưng mất năm 1947 ở Nam Định.

13

1.1.2. Mối quan hệ với nhóm Tự lực văn đoàn

Người đứng đầu nhóm Tự lực văn đoàn là Nhất Linh, tức Nguyễn Tường

Tam. Ông sinh năm 1906 trong một gia đình quan lại ở tỉnh Hải Dương. Vào

đời, ông bắt đầu làm việc ở Sở tài chính Đông Dương. Nhưng rồi ông bỏ việc

và vào học trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1927 được học bổng của Hội Như

tây du học, ông sang Pháp học khoa học tự nhiên. Ba năm sau về nước với bằng

cử nhân, Nhất Linh mua lại trường tư thục của Nguyễn Văn Tòng, lấy giáo sư

mới (trong số ấy có Trần Khánh Giư) đổi tên trường là Thăng Long. Đầu năm

1932, ông mua lại tờ Phong hóa của Nguyễn Xuân Mai đã ra được 13 số đổi

thành một tờ báo hài hước, dùng tiếng cười làm vũ khí chế giễu những tệ nạn

của phong hóa An Nam. Phong hóa mới làm ăn phát đạt, Nguyễn Tường Tam

nhường trường cho một nhóm giáo sư khác và cùng với Trần Khánh Giư rút về

làm báo, viết sách, lập Tự lực văn đoàn, mở nhà xuất bản Đời nay.

Tự lực văn đoàn thành lập vào tháng 3 năm 1933 với các thành viên chính

thức là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng

Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ

Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Về sau thêm Xuân Diệu (Ngô Xuân

Diệu), Trần Tiêu (em Khái Hưng) nữa. Cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này còn

có các nhà thơ của phong trào Thơ Mới như : Huy Cận, Anh Thơ, Lưu Trọng

Lư, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh; các nhà văn như: Nguyên Hồng, Đỗ Đức Thu,

Phan Văn Dật, Mạnh Phú Tư, Vi Huyền Đắc… ; các họa sĩ nổi tiếng như: Tô

Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường... Cơ quan ngôn luận của nhóm

là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa (năm 1936) thì có tờ Ngày nay

thay thế.

Tự lực văn đoàn làm việc theo tinh thần anh em một nhà, dựa vào sức

mình, tổ chức không quá mười người nên không phải xin phép nhà nước.

Nhóm hoạt động với tư cách độc lập không theo một chỉ thị nào ngoài đường

lối do chính họ vạch ra. Không cần văn bản điều lệ, họ lấy lòng tin nhau làm

cốt. Họ nêu mục đích tôn chỉ, anh em trong nội bộ nhóm tự nguyện, tự giác

tuân theo.

14

Mục đích của Tự lực văn đoàn gồm 4 điểm như sau:

1. Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới. Người trong

đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ,

hết sức giúp đỡ nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong

những cuộc văn chương.

2. Người trong đoàn có quyền đề dưới tên mình chữ Tự lực văn đoàn và

bao nhiêu tác phẩm của mình đều được văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.

3. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo,

gửi đến để văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong văn đoàn có mặt ở hội

đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của đoàn và sẽ

tùy sức cổ động giúp. Tự lực văn đoàn không phải là một hội buôn bán sách.

4. Sau này, nếu có thể được, văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là “Giải

thưởng Tự lực văn đoàn” để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn

chỉ của văn đoàn.

Tháng 6 năm 1934, tôn chỉ của Tự lực văn đoàn được công bố trên báo

Phong hóa gồm có 10 điều tâm niệm:

1.Tự mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên

dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi.

Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.

2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho người và

xã hội ngày một hay hơn lên.

3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân,

và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính

cách An Nam.

5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

6. Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân,

khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính

cách trưởng giả, quý phái.

7. Trọng tự do cá nhân.

15

8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

9. Đem phương pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam.

10. Theo một điều trong chín điều trên đây cũng được, miễn là đừng trái

ngược với những điều khác.

Với mục đích và tôn chỉ đã đề ra, Tư lực văn đoàn đã mở ra một quan

niệm văn chương hết sức tiến bộ, thể hiện khát vọng xây dựng một nền văn học

dân tộc theo xu hướng hiện đại và niềm mong mỏi được đấu tranh cho sự giải

phóng cái tôi cá nhân, giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc của hệ tư

tưởng phong kiến, đồng thời muốn đem lại sự trong sáng cho ngôn ngữ tiếng

Việt. Nhờ tinh thần đoàn kết, niềm say mê văn chương, Tự lực văn đoàn đã gặt

hái được nhiều thành công vang dội, hoạt động của nhóm có ảnh hưởng quan

trọng đối với việc hiện đại hóa các thể loại văn học, nhất là tiểu thuyết.

Trước khi gặp Nhất Linh, Khái Hưng đã có những tư tưởng và quan điểm

sống gần gũi với nhà sáng lập Tự lực văn đoàn. Nhất Linh với bằng cử nhân

Pháp có thể kiếm một việc làm, một địa vị cao và chắc chắn trong xã hội,

nhưng đã chọn nghề viết văn, làm báo. Khái Hưng với bằng tú tài Tây, lại sinh

ra trong một gia đình quan lại cao cấp, có quyền thế, ông có điều kiện đi vào

con đường làm quan, làm giàu nhưng lại theo nghề tự do như buôn bán, dạy

học tư thục và viết văn. Nếu Nhất Linh được học ở Pháp, tiếp thu văn hóa Pháp ở

trình độ đại học, được sống trưc tiếp trong môi trường xã hội và văn hóa phương

Tây, thì Khái Hưng cũng được học ở trường Albert Sarraut và tiếp thu văn hóa

Pháp ở trình độ tú tài Tây. Khái Hưng sống trong một gia đình trưởng giả điển

hình nên ông có điều kiện tiếp thu văn hóa phương Tây. Khái Hưng lại giỏi Pháp

văn khiến ông có thể tự tìm hiểu thêm về văn hóa, văn chương Pháp (điều mà các

nhà văn thế hệ đi trước khó lòng làm được). Bởi vậy Khái Hưng và Nhất Linh gắn

bó với nhau trong hoạt động văn chương cũng là điều dễ hiểu.

Trước khi tham gia Tự lực văn đoàn, Khái Hưng đã hoạt động văn học,

quan niệm về xã hội và văn chương của ông tuy có những điểm mới nhưng vẫn

còn khuynh cổ. Tham gia biên tập báo Phong hóa mới rồi Tự lực văn đoàn,

được Nhất Linh và các bạn trong nhóm cổ vũ động viên Khái Hưng đã có

16

những chuyển biến rõ rệt về tư tưởng và nghệ thuật, ông đã đóng góp rất lớn

cho văn đoàn của mình. Nhà văn đã đứng hẳn về phía những tư tưởng tự do,

dân chủ và nếp sống văn hóa, văn minh phương Tây. Ông đã phê phán mạnh

mẽ lễ giáo và đại gia đình phong kiến cùng những hủ tục, những tín điều, giáo

lý của văn hóa cũ.

Ban đầu, mới tham gia biên tập báo Phong hóa Khái Hưng vẫn tiếp tục

viết văn nghị luận, vì ông nghĩ đấy là sở trường. Nhưng về sau, nhờ sự xây

dựng của anh em trong nhóm và nhất là sự khuyến khích của Nhất Linh ông

mới chuyển sang viết truyện. Ở thể loại này Khái Hưng đã có đóng góp lớn cho

văn đoàn Tự lực. Trong ba năm liền 1932, 1933, 1934, ông đã cho ra đời nhiều

truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch. Hoạt động báo chí và sáng tác văn chương của

ông khá phong phú, nhưng đóng góp nhiều và thành công hơn cho Tự lực văn

đoàn vẫn là văn chương với nhiều thể loại.

Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân (là hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên

của ông và cũng là của Tự lực văn đoàn) đã gây được tiếng vang rất lớn. Ở hai

tác phẩm này, bước đầu những quan niệm mới của nhóm Tự lực văn đoàn về xã

hội và nhân sinh đã in sâu vào thế giới nghệ thuật tiểu thuyết. Những ý tưởng

đả phá phong kiến Nho giáo, khẳng định tự do cá nhân và nếp sống mới đã

được thể hiện linh động qua các nhân vật. Đó là sự khẳng định tình yêu tự do

vượt ra ngoài sự bó buộc của nhà Phật trong Hồn bướm mơ tiên. Đó là cuộc

đấu tranh giữa cái mới với cái cũ, phê phán lễ giáo phong kiến chà đạp lên hạnh

phúc của tuổi trẻ, khẳng định hôn nhân một vợ một chồng, ngợi ca vẻ đẹp của

người bình dân trong Nửa chừng xuân. Có lẽ vì thế, bằng hai tác phẩm này

Khái Hưng đã góp phần làm cho độc giả bắt đầu yêu mến văn chương Tự lực

văn đoàn.

Đặt trong tiến trình lịch sử, Hồn bướm mơ tiên được đánh giá là một trong

những mốc mở đầu cho một thời kì mới của văn học. Nhận xét về điều này,

Giáo sư Thanh Lãng viết: “Nhưng điều đáng chú ý là sự ra đời của mấy truyện

như Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan,

Tôi kéo xe của Tam Lang. Từ cách xây dựng truyện, cách đặt vấn đề, cách mô

17

tả tâm lý các vai truyện mà nhất là lời văn dễ dãi linh động, ba tác giả này như

vạch ra một đường rạch lớn phân đôi hai thế hệ trước (13 - 32) và thế hệ sau

(32 - 45)” [25, tr. 33].

Khái Hưng đã góp phần làm phong phú thể loại tiểu thuyết. Theo Vũ

Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, Khái Hưng có các loại tiểu thuyết: lãng

mạn, tâm lý, phong tục. Theo Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học, tiểu

thuyết của Khái Hưng có các ý hướng: ý hướng thơ, ý hướng tranh đấu, ý

hướng lịch sử, ý hướng tâm lý. Có người lại cho rằng Khái Hưng viết các loại

tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết tâm lý. Qua các ý kiến đó ta thấy, với Khái

Hưng tiểu thuyết đã có nhiều hình thức: tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết luận

đề, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý…

Khái Hưng đã viết mười hai trên tổng số hai mươi cuốn tiểu thuyết của Tự

lực văn đoàn (ngoài ra ông còn có hai cuốn viết chung với Nhất Linh). Trong

đó có nhiều cuốn được đánh giá cao.

1.2. Tiểu thuyết luận đề

1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết và tiểu thuyết luận đề

Khái niệm tiểu thuyết

Tiểu thuyết ra đời sớm ở châu Âu, vào thời kì cá nhân con người không

còn cảm thấy lợi ích và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội

cổ đại. Nhưng phải đến thế kỉ XIX với sự xuất hiện của những cây bút “đại

thụ” như Xtăng đan, Banzăc, L. Tônxtôi, Đôxtôiepxki…thể loại tiểu thuyết mới

đạt tới sự hoàn thiện.

Nhà nghiên cứu M. Bakhtin cho rằng: tiểu thuyết là loại văn chương duy

nhất luôn biến đổi bởi nó phản ánh được một cách sâu sắc, cơ bản và nhạy bén

hơn sự chuyển biến của bản thân hiện thưc. Từ điển thuật ngữ văn học định

nghĩa: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực

đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số

phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các

điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [13, tr. 328]. Đây là

một trong những thể loại quan trọng bậc nhất của văn chương hiện đại. Nó

18

“không đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy

nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế

mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy” [27, tr. 21].

Ở Việt Nam tiểu thuyết phát triển muộn. Tận đầu thế kỉ XVIII với sự xuất

hiện của Nam Triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, nước ta

mới có tác phẩm có quy mô tiểu thuyết. Tuy nhiên những tác phẩm này vẫn

thuộc loai hình cổ điển phương Đông. Phải sang đầu thế kỉ XX, khi xã hội Việt

Nam chuyển từ phong kiến sang thực dân nửa phong kiến thì tiểu thuyết của

nước nhà mới mang tinh thần của thời đại mới. Qua sự giao lưu và tiếp nhận

những tinh hoa của văn học phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam mới thực sự trở

thành tiểu thuyết hiện đại.

Tiểu thuyết luận đề

Tiểu thuyết luận đề được hiểu là tiểu thuyết mà cốt truyện và số phận nhân

vật được dùng để chứng minh cho một luận đề (vấn đề triết học, đạo đức, xã

hội) có trước.

Tiểu thuyết luận đề khác với luận đề của tiểu thuyết. Luận đề của tiểu

thuyết chính là chủ đề, là vấn đề “triết lý xã hội, đạo đức và các loại hình tư

tưởng khác đặt ra trong tác phẩm” [2, tr. 46]. Chủ đề được hình thành từ hiện

thực cuộc sống thông qua sự khái quát hóa của nhà văn, chủ đề toát ra từ ý

nghĩa khách quan của tác phẩm.

Trong tiểu thuyết luận đề, luận đề là cái có trước. Cốt truyện và nhân vật

được tác giả sử dụng nhằm làm sáng tỏ luận đề. Nhà nghiên cứu Phạm Thế

Ngũ cho rằng: “Tiểu thuyết luận đề là tiếng để dịch thành ngữ Pháp Roman à

thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống của một tác

giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội nhân sinh.

Nhà văn viết ra một câu chuyện với chủ ý trình bày những nhân vật, dẫn dắt

các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan niệm riêng

của mình…Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ, tác giả đã rõ rệt chủ ý

19

bênh vực một quan niệm, để chống lại một quan niệm khác và rõ rệt uốn nắn

câu chuyện, khuôn đúc nhân vật, phục vụ cho chủ ý của mình” [30, tr. 244].

Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai

thác nhân vật và cốt truyện. Trong tiểu thuyết luận đề, độc giả dễ dàng nhận ra

sự can thiệp của tác giả. Ở đó nhà văn luôn xây dựng hai tuyến nhân vật đối

lập, có mâu thuẫn, xung đột gay gắt với nhau và nhân vật chính diện luôn là

“phát ngôn viên” cho tư tưởng của chính tác giả. Nhân vật cũng thường được

khai thác ở những khía cạnh có lợi cho luận đề. Kết thúc của tiểu thuyết luận đề

thường là kết thúc có hậu. Bởi vậy tiểu thuyết luận đề thường mang màu sắc

đạo đức và duy lý.

1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn và Khái Hưng

Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn

Đầu thế kỉ XX, tầng lớp trí thức Tây học ở nước ta ngày càng phát triển

mạnh mẽ. Họ tiếp nhận và chiụ ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây

hiện đại. Vì thế ý thức cá nhân trong họ trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi đó chế độ

gia đình phong kiến vẫn đầy rẫy những tập tục lạc hậu. Cuộc đối đầu giữa hai

phe cũ - mới ngày càng căng thẳng quyết liệt, khó có thể dung hòa. Trước tình

hình trên của xã hôi, Tự lưc văn đoàn nhanh chóng cho ra đời nhiều tác phẩm

có nội dung chống lễ giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân.

Những tác phẩm này ngay từ khi mới ra đời đã nhận được sự ủng hộ, yêu mến

của đại đa số độc giả trẻ tuổi, những người đang khao khát sống cuộc đời tự do.

Mở đầu cho cuộc chiến chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người

cá nhân là cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Ở tiểu thuyết

này, tuy luận đề chống lễ giáo phong kiến chưa được đặt ra trực tiếp nhưng

thông qua những hành động, suy nghĩ của các nhân vật, nhà văn gián tiếp phê

phán những tập tục lạc hậu của chế độ đại gia đình. Nhà văn kín đáo lên án sự

kìm hãm quyền được yêu, được tự do lựa chọn hạnh phúc lứa đôi. Bởi thế từ

khi mới ra đời, tác phẩm nhận được sự chào đón nồng nhiệt của độc giả. Bạn

đọc nói chung và thanh niên nói riêng đã tích cực ủng hộ cho Tự lực văn đoàn.

20

. Đây chính là yếu tố thúc đẩy, cổ vũ nhóm tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết có

luận đề chống lễ giáo phong kiến.

Các tiểu thuyết ra đời sau Hồn bướm mơ tiên như Đoạn tuyệt, Nửa chừng

xuân, Lạnh lùng, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự đã trực tiếp tấn công vào thành trì

của lễ giáo phong kiến. Các tiểu thuyết này đã phê phán nền luân lí bảo thủ,

phê phán những thứ mà phái cũ gọi là truyền thống, gia phong nền nếp. Cụ thể

đó là chế độ đa thê với quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ

có môt chồng” trong các tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt; là mâu thuẫn

muôn đời giữa mẹ chồng nàng dâu với quạn niệm nghiệt ngã “mất tiền mua

mâm bà đâm cho thủng” trong Đoạn tuyệt; là chế độ hôn nhân gả bán và tư

tưởng phải “môn đăng hộ đối” trong cả Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân; là

nghĩa vụ tam tòng và bổn phận thủ tiết của người đàn bà theo quan niệm “tại

gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” trong tác phẩm Lạnh lùng.

Trong các tiểu thuyết luận đề, Tự lực văn đoàn đã dụng công xây dựng

các nhân vật lí tưởng nhằm làm sáng tỏ luận đề của mình và thể hiện tôn chỉ,

mục đích hoạt động văn chương của nhóm. Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì

Tự lực văn đoàn là những cây bút “thấm nhuần văn hóa Pháp”. Các sáng tác

của họ chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mới mẻ. Họ ca ngợi và cổ vũ

cho cái mới, họ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới tư duy nghệ thuật lúc

bấy giờ. Nhanh chóng nắm bắt xung đột giữa mới và cũ trong xã hội, các nhà

văn của Tự lực văn đoàn sử dụng văn chương như một thứ vũ khí chống lại

những nền nếp, ý thức, tư tưởng đã lỗi thời. Bởi thế tiểu thuyết luận đề đã trở

thành hình thức văn chương có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu đấu tranh của

văn đoàn Tự lực. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn đi theo hai hướng:

Thứ nhất là đấu tranh chống lễ giáo phong kiến và giải phóng con người

cá nhân; thể hiện những khát vọng về cuộc sống tự do, được hưởng hạnh phúc,

được tự do yêu đương: Trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn, chúng ta thấy

có cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn khao khát được sống, được yêu, luôn muốn

thoát ra khỏi sự ràng buộc của những hủ tục luật lệ khắt khe. Bởi vậy, cuộc đấu

tranh quyết liệt giữa hai phe cũ và mới đã diễn ra. Một bên là những thanh niên

21

trí thức đại diện cho những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Một bên là những

nhân vật đại diện cho nền luân lí truyền thống luôn khăng khăng giữ lấy quan

điểm của mình. Thông qua các tiểu thuyết luận đề, Tự lực văn đoàn phê phán

mạnh mẽ lễ giáo phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền được hưởng

hạnh phúc chính đáng của cá nhân con người.

Thứ hai là cải cách xã hội: Nội dung cải cách xã hội trong các tiểu thuyết

luận đề của Tự lực văn đoàn mang đậm màu sắc cải lương tư sản. Những tiểu

thuyết theo hướng này là Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng

Đạo. Ở tiểu thuyết Gia đình như đã nói, tác giả Khái Hưng ca ngợi những địa

chủ giàu lòng nhân ái, biết quan tâm tới cuộc sống khổ cực của người nông

dân. Họ có những việc làm thiết thực nhằm cải thiện cuộc sống của những

người dân nghèo. Ở tác phẩm Con đường sáng tác giả Hoàng Đạo lại vẽ lên

bức tranh đẹp về một cuộc sống mới của người nông dân. Ở đó có sân vận

động, thư viện…địa chủ và nông dân cùng nhau vui vẻ mỗi khi được mùa. Tuy

nhiên, tất cả chỉ là hiện thực giả tạo, là những viễn cảnh không bao giờ có thật.

Nó được vẽ lên bởi trí tưởng tượng có phần chủ quan của nhà văn. Hơn nữa cốt

truyện và nhân vật được xây dựng một cách quá khiên cưỡng, gượng ép nhằm

chứng minh cho luận đề mà nhà văn đã đặt ra. Do đó tiểu thuyết luận đề đi theo

hướng này không thu được thành công.

Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

Khái Hưng có sáng tác ở nhiều thể loại: kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết.

Kịch gồm có Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942). Truyện ngắn gồm những tác

phẩm như: Dọc đường gió bụi (1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939),

Đồng xu (1939), Đội mũ lệch (1941). Tiểu thuyết chiếm số lượng nhiều hơn so

với hai thể loại trên. Đó là các tác phẩm: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng

xuân (1934), Gia đình (1935), Trống mái (1936), Thoát ly (1936), Thừa tự

(1940), Hạnh (1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941) … Trong đó Hồn

bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự là

những cuốn tiểu thuyết có tính chất luận đề.

22

Chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cảm hứng chủ

đạo và cũng là cảm hứng dồi dào nhất trong suốt sáng tác của Khái Hưng.

Bằng hai cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân, Khái Hưng

đã trở thành người đầu tiên của Tự lực văn đoàn tấn công vào thành trì của lễ

giáo phong kiến. Nếu như Hồn bướm mơ tiên mới chỉ là sự hé mở về một cuộc

chiến chống lại tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình phong kiến thì đến

Nửa chừng xuân, ngòi bút của nhà văn đã trực diện tấn công vào những phép

tắc luật lệ hà khắc, nghiệt ngã của xã hội này. Qua tác phẩm, Khái Hưng đã

khẳng định quyền tự do hôn nhân của con người.

Ở các tiểu thuyết Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, Khái Hưng tiếp tục đả phá

lễ giáo phong kiến. Mỗi tác phẩm khai thác một vấn đề, nhưng đều thể hiện

tinh thần phản phong quyết liệt. Trong tiểu thuyết Gia đình, tác giả đi vào mô

tả sự rạn nứt của đại gia đình phong kiến do tác động của xã hội tiến bộ. Ở

Thoát ly, nhà văn mô tả rất chân thật và sinh động sự vô nhân đạo của chế độ

đa thê, đồng thời lên án cảnh mẹ ghẻ áp bức hành hạ con chồng. Đến Thừa tự

Khái Hưng lại vẽ lên bức tranh về một gia đình quyền thế mà toàn những kẻ

hám lợi, nên ghen ghét thù oán lẫn nhau. Vẫn tiếp nối cảm hứng phê phán chế

độ đa thê nhưng ở đây Khái Hưng tập trung vào mối quan hệ dì ghẻ con chồng.

Mối quan hệ ấy thể hiện qua vấn đề thừa tự. Lợi ích của việc thừa tự là căn

nguyên gây ra những bất hòa, thù hận giữa những người ruột thịt.

Trong tiểu thuyết luận đề, Khái Hưng không chỉ tấn công vào lễ giáo

phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân, mà còn gửi gắm vào đó ước mơ

cải cách xã hội, mong muốn đem đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho người dân

quê nghèo khổ. Một số nhân vật địa chủ trong tiểu thuyết luận đề của Khái

Hưng vừa ý thức rõ về quyền sống cá nhân, có lối sống mới vừa đặc biệt quan

tâm đến đời sống của người nông dân. Họ gần gũi giúp đỡ những người nghèo

khổ. Mong ước của họ là cải cách xã hội và thay đổi cuộc sống của những

người dân quê. Tiểu thuyết Gia đình là tiếng nói ca ngợi những địa chủ tân học

có tấm lòng nhân ái. Họ đã đào giếng, mở trường học, mang đến một cuộc sống

văn minh cho người nông dân nghèo.

23

Khái Hưng tập trung thể hiện xung đột giữa cái mới và cái cũ nên tiểu

thuyết luận đề của ông thường có hai kiểu người. Những thanh niên thấm

nhuần tư tưởng hiện đại của phương Tây thì coi trọng tự do yêu đương và tự do

hôn nhân. Trong khi đó, các bậc phụ huynh đại diện cho tư duy truyền thống lại

quan niệm lấy vợ là phải tìm nơi môn đăng hộ đối. Trong tiểu thuyết Nửa

chừng xuân, Khái Hưng đã đả phá mạnh mẽ những tập tục không còn hợp thời,

những thứ từng ngày, từng giờ phong tỏa cuộc sống tự do của con người. Qua các

tiểu thuyết của mình, Khái Hưng tố cáo chế độ đại gia đình phong kiến hàng

nghàn năm qua đã đặt quy tắc lên trên tự do, đặt luân thường lên trên nhân đạo.

Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng.

Tuy nhiên đa số các ý kiến đều nghiêng về khen ngợi. Giáo sư Hà Minh Đức

nhận xét: “Đến Thừa tự, Gia đình, Thoát ly, Khái Hưng bộc lộ mặt mạnh của

ngòi bút đi sâu vào cảnh ngộ của những gia đình giàu có, phát hiện ra những

mâu thuẫn, những rạn nứt khó hàn gắn do tính chất lỗi thời của lễ giáo phong

kiến và quyền lực của đồng tiền gây ra”.

Tiểu kết chương 1

Có thể nói, tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn nói chung và của Khái

Hưng nói riêng đã tạo nên những giá trị mới cho văn học nước nhà. Bởi lẽ các

nhà văn đã tìm được hướng đi, có mục tiêu đấu tranh, lại mở ra những khát

vọng và quyền sống cho cá nhân con người. Đây chính là những điểm cách tân

và cũng là đóng góp tích cực của Tự lực văn đoàn cho sự đổi mới của văn

chương Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX.

Với sự đóng góp về cả số lượng và chất lượng tác phẩm, Khái Hưng giữ

vai trò là nhà văn trụ cột, có khả năng sáng tạo dồi dào nhất trong nhóm Tự lực

văn đoàn. Ông là nhà tiểu thuyết có tài năng và đã góp phần làm cho thể loại

này trở thành chủ lực của văn đoàn mình. Sáng tác của Khái Hưng góp phần

quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn cho văn chương của văn đoàn Tự lực.

24

Chương 2

CÁC LUẬN ĐỀ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KHÁI HƯNG

2.1. Chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến

Chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến là sở trường và là địa hạt Khái

Hưng gặt hái được nhiều thành công hơn cả. Bởi lẽ ông có rất nhiều thuận lợi.

Thuận lợi thứ nhất là: Khái Hưng đã sống và sáng tác trên tinh thần chống

phong kiến quyết liệt của Tự lực văn đoàn. Từ tôn chỉ, mục đích đến các hoạt

động sáng tạo của nhóm đều hướng đến việc “làm cho người ta biết rằng đạo

Khổng không hợp thời nữa”. Với lập trường duy tân cấp tiến của người trí thức

tư sản Tây học, các nhà văn của văn đoàn Tự lực đã chống phong kiến rất mạnh

mẽ. Giáo sư Thanh Lãng từng nhận xét: “Điều tai ác đáng chú ý hơn cả là Tự

lực văn đoàn coi việc đả phá, đàn áp, tiêu diệt Nho giáo như là một trong chín

tôn chỉ mà tất cả mọi người trong văn đoàn hầu như phải uống máu ăn thề với

nhau mà triệt để thi hành. Có nhiều nhà văn, nhiều tổ chức đôi khi cũng lên

tiếng đả kích Nho giáo rất kịch liệt phũ phàng, nhưng chưa có ai coi việc đàn

áp Nho giáo là tôn chỉ cả. Tất cả cái khác, cái mới quyết liệt, cái mới phũ phàng

của Tự lực văn đoàn là ở chỗ ấy” [23, tr. 29].

Thuận lợi thứ hai là: Nhà văn đã từng sống nhiều trong môi trường trưởng

giả. Sinh ra và lớn lên ở một gia đình quan lại phong kiến, sau này bố mẹ, anh

em bên vợ cũng đều là quan lại thời ấy nên ông hiểu rất rõ những xung đột về

tiền tài, về nếp sống, tư tưởng, tâm lý của tầng lớp này. Bản thân Khái Hưng

từng chịu cảnh dì ghẻ con chồng với bao nhiêu khổ ải khiến ông vô cùng căm

ghét. Ta hãy nghe Trần Khánh Triệu, con nuôi của Khái Hưng kể lại: “Sinh

trưởng trong một gia đình quan lại nhưng ngay từ tấm bé, theo lời mẹ tôi

thuật lại, ba tôi đã phải chịu đựng cảnh hành hạ của bà dì ghẻ khắc nghiệt”

[50, tr.150 ]. Mặt khác nhà văn lại được học hành, tiếp xúc với lối sống phóng

túng, tự do, bình đẳng của phương Tây. Do đó việc chống lễ giáo và đại gia

đình phong kiến đối với Khái Hưng là một lẽ đương nhiên.

Thuận lợi thứ ba là: Khái Hưng rất nghiêm túc trong công việc. Với ông, viết

văn là phản ánh những gì trông thấy, nghe thấy, là bộc lộ thành thật những điều

25

“giấu kĩ ở tận đáy lòng, những nỗi băn khoăn, những sự vui mừng, lo sợ, tức tối,

thèm muốn, ghen ghét đang ẩn náu trong khối óc, trong trái tim ta” [15, tr. 6 ].

Những điều kiện trên khiến cho cảm hứng chống phong kiến trở thành

nguồn sáng tạo dồi dào và thường trực trong sáng tác của Khái Hưng. Làm báo,

ông phê phán lễ giáo và đại gia đình phong kiến quyết liệt. Viết tiểu thuyết, ông

mở đầu cho những tiểu thuyết phản phong của Tự lực văn đoàn. Hồn bướm mơ

tiên và Nửa chừng xuân là những tiểu thuyết chống phong kiến đầu tiên của

văn đoàn này. Nếu Hồn bướm mơ tiên mới chỉ phác họa và hé mở cuộc chiến

chống chế độ đại gia đình, thì đến Nửa chừng xuân, ngòi bút của Khái Hưng đã

trực tiếp chĩa mũi tấn công vào lễ giáo và đạo đức phong kiến (hạnh phúc lứa

đôi của Mai và Lộc bị bà mẹ Lộc ngăn trở dẫn đến tan vỡ). Ngoài ra ở Nửa

chừng xuân nhà văn còn tái hiện cảnh người dân thôn quê bị cường hào áp bức,

bóc lột.

Ở các tiểu thuyết tiếp theo như: Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự,

Khái Hưng tiếp tục tấn công vào thành trì của lễ giáo phong kiến. Mỗi tác

phẩm khai thác một nội dung, nhưng đều thể hiện tinh thần phản phong quyết

liệt, mạnh mẽ. Trống mái biểu dương lối sống tự do, hồn nhiên, khỏe khoắn,

lành mạnh, vượt ra khỏi sự gò bó, tẻ nhạt, nhàm chán của môi trường trưởng

giả. Gia đình là bản cáo trạng kết tội xã hội phong kiến về nhiều phương diện.

Đó là chế độ quan trường, thói háo danh, tục lệ ma chay, khao vọng, giỗ

chạp…Đến Thoát ly, Khái Hưng tiếp tục phê phán chế độ đa thê, quan hệ dì

ghẻ con chồng, đề cao hôn nhân tự do một vợ một chồng. Tác phẩm Thừa tự lại

phản ánh mâu thuẫn giữa mẹ kế với con chồng xoay quanh vấn đề thừa tự.

Có thể nói, chống phong kiến là cảm hứng chủ đạo trên suốt chặng đường

dài của tiểu thuyết Khái Hưng. Nhà văn đã trở đi trở lại và thu hoạch được

nhiều thành công ở chủ đề này. Nhiều bức tranh, nhiều hình tượng nghệ thuật

của ông có giá trị hiện thực, giá trị phản phong sâu sắc.

Tiểu thuyết chống phong kiến của Khái Hưng và của các nhà văn khác

trong Tự lực văn đoàn giống nhau ở ba điểm sau đây:

26

Đối tượng Khái Hưng và những người Tự lực hướng đến là môi trường,

cuộc sống và tâm lí trưởng giả.

Trong tác phẩm của mình, Khái Hưng và các nhà văn Tự lực đều lấy gia

đình làm nền tảng cho câu chuyện. Cả Khái Hưng và các bạn trong nhóm đều

không cố ý cho các nhân vật tham gia vào xung đột xã hội. Tiểu thuyết của

Khái Hưng và Tự lực văn đoàn đều đi sâu khám phá những mâu thuẫn trong

các gia đình quyền thế. Đó là mâu thuẫn giữa cũ và mới, giữa cá nhân với

đại gia đình, giữa tập tục cổ truyền và văn minh, Âu hóa. Những xung đột về

tư tưởng, tình cảm, lối sống, xoay quanh các vấn đề hôn nhân gia đình phong

tục tập quán…là đối tượng phản ánh của Khái Hưng và các tác giả trong văn

đoàn Tự lực.

Khái Hưng cũng đi theo lập trường chung của cả nhóm. Khi miêu tả

những mâu thuẫn giữa cũ và mới, giữa cá nhân và đại gia đình ông tỏ thái độ

dứt khoát theo mới, Âu hóa, trọng tự do cá nhân, làm cho người ta thấy đạo

Khổng không hợp thời nữa. Trong khi ủng hộ phái mới Khái Hưng và cả nhóm

dứt khoát phê phán phái cũ. Bởi thế tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn có hai kiểu

người đối lập. Một bên là những con người hủ lậu, tham lam, hám tiền tài, háo

danh vọng, keo kiệt, giả dối, đố kị…Một bên là những người trẻ trung, vui tươi,

nhân hậu, tế nhị…

Các điểm tương đồng nêu trên được thể hiện trong các tác phẩm Hồn

bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự.

Trong Hồn bướm mơ tiên, nhân vật Thi (tức Lan) đã trốn chạy khỏi đại gia đình

để không bị ép gả chồng. Đó cũng là một biểu hiện của tinh thần chống lễ giáo

phong kiến. Ở chốn từ bi, Lan vẫn không vượt qua được sức hấp dẫn của tình

yêu nam nữ. Cô chăm chú nghe sư cụ kể về người cháu trai học trường Canh

nông. Đến khi gặp Ngọc, cô làm quen rồi vui vẻ chỉ đường, tiếp đón, phục vụ

chu đáo. Trong tâm trí Lan ngày đêm luôn có hình bóng Ngọc. Lan đã yêu mê

man, đã bị hút hồn vì Ngọc. Ngược lại chàng sinh viên Ngọc danh nghĩa đến

thăm bác và vãn cảnh chùa nhưng cũng cố tìm hiểu Lan rồi yêu cô say đắm.

Nói về tình yêu tự do trong sáng của Lan và Ngọc cũng là một sự gián tiếp phê

phán lễ giáo và đại gia đình phong kiến.

27

Nửa chừng xuân được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự lực văn đoàn

trực tiếp tấn công vào lễ giáo phong kiến. Ở trong tác phẩm này, xung đột giữa

mới và cũ xoay quanh vấn đề hôn nhân diễn ra quyết liệt. Đại diện cho phái

mới là Mai, Lộc, Huy, Minh, Bạch Hải. Bởi thấm nhuần những tư tưởng và nếp

sống phương Tây nên họ coi trọng tự do yêu đương và hôn nhân. Họ cho rằng

hôn nhân phải dựa trên tình yêu, sự cảm thông, quý trọng lẫn nhau. Đại diện

cho phái cũ là bà Án (mẹ Lộc) lại quan niệm lấy vợ gả chồng là phải chọn nơi

môn đăng hộ đối. Nhà quan mà thông gia với bọn cùng đinh là mất thể diện,

mất danh giá tổ tiên, là bất hiếu với ông bà cha mẹ. Với bà, vợ mà cha mẹ lấy

cho, có cheo, có hỏi, có cưới mới quý chứ đồ liễu ngõ hoa tuồng thì chỉ tổ làm

bẩn nhà. Bà nghĩ rằng “ngoài vòng lễ nghi, vượt hẳn quyền thúc bá thì dẫu

sao người con gái cũng không thể gọi là một người con gái có đức hạnh

được” [48, tr. 148]. Vì thế, trong mắt bà, Mai chỉ là một con bé khốn nạn vô

giáo dục, một kẻ hạ lưu không xứng đáng làm vợ quan tham tả. Bà không coi

Mai là một người tử tế mà chỉ như một cô gái giang hồ, dơ bẩn, dùng lời ngon

ngọt dụ dỗ con bà. Bà tin “con có cha như nhà có nóc” còn Mai “là gái mà lại

mồ côi cha mẹ thì tránh làm sao khỏi sự lầm lỡ” [47, tr. 148]. Vì thế bà không

chấp nhận một người con dâu như vậy. Hai phái cũ và mới không thể dung hòa,

không thể hiểu nổi nhau. Có lần Huy (em Mai) đã nói hẳn với bà Án: “Cụ tức

là biểu hiện, tức là một người đại diện cho nền luân lí cũ. Mà tâm trí chúng

cháu đã trót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau khó lắm, thưa cụ. Cụ với

bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng một nguồn, cùng chảy ra bể, nhưng

mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn núi, gặp nhau sao được” [47, tr. 216].

Cùng mang tư tưởng mới như Huy, Lộc từng nói với mẹ: “lấy vợ là một sự

quan trọng một đời, phải tự chọn lấy một người ý hợp tâm đầu thì gia đình mới

được vui vẻ thuận hòa…Chứ xưa nay cha mẹ hỏi vợ cho con chỉ kén những chỗ

môn đăng hộ đối, như thế gia đình có sự êm thấm là nhờ ở sự bắt buộc mà có,

chi nhờ có lễ nghi mà có, chứ không phải vì tính tình của vợ chồng hợp nhau.

Theo lễ nghi, vợ phải phục tùng chồng, chồng bảo sao nghe vậy. Dẫu bị áp chế

cũng không dám hé môi. Như thế thì làm gì mà chả êm thấm” [47, tr. 136]. Lộc

28

nhất quyết xin bà Án cho mình lấy Mai vì theo anh Mai là người toàn diện cả

dung nhan lẫn đức hạnh.

Bà Án là người mang rất nhiều những lễ nghi đạo đức. Đó là con người

mà ý thức Nho giáo đã “ăn sâu vào tâm não, hòa vào mạch máu, đã thành một

cái di sản thiêng liêng về tinh thần bất vong bất diệt” [47, tr. 133]. Bề ngoài bà

cứ ca tụng những lễ nghi cổ truyền như ngũ luân, ngũ thường, tam tòng tứ đức,

chữ nhân chữ tín. Song bên trong không còn lòng nhân ái, và sự tôn trọng nhân

cách của những người không cùng tầng lớp với mình. Hai lần Mai và bà Án

gặp nhau là hai cuộc đối đầu quyết liệt. Cả hai lần đó Mai đều làm cho bà Án

bẽ mặt, đuối lí. Khái Hưng khiến cho người đọc rất bất bình với bà Án. Mặc dù

bà rất thương con và cũng có khi ân hận về hành vi tàn nhẫn của mình, nhưng

những thủ đoạn bà dùng để chia rẽ Lộc với Mai cùng ý định dùng hôn nhân làm

bậc thang danh vọng cho con, đặc biệt là thái độ lạnh lùng đến tàn nhẫn khiến

Mai phải bỏ nhà ra đi giữa lúc bụng mang dạ chửa, thì không chỉ khiến độc giả

căm thù một bà Án cụ thể mà còn căm phẫn cả nền luân lí, lễ giáo phong kiến.

Ngược lại, Mai đã chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta cảm thông,

yêu mến Mai bởi cô yêu đương tự do mà không rơi vào lố lăng phóng đãng,

gặp cảnh éo le mà có nhiều nghị lực, biết tự trọng, biết hy sinh, biết chung thủy.

Người ta cũng trân trọng, đề cao Mai bởi trong bất cứ hoàn cảnh nào cô cũng

không chấp nhận cảnh lẽ mọn. Cha mẹ không còn, không nơi nương tựa, một

mình nuôi em ăn học, khó khăn túng quẫn Mai định bán nhà để ra Hà Nội tìm

kế sinh nhai. Tuy bị Hàn Thanh giàu có dồn ép, dọa nạt, dỗ ngon dỗ ngọt lấy lẽ

hắn nhưng cô kiên quyết chối từ. Lúc ở vào tình thế khó khăn, để cứu mình,

cứu con, bảo vệ hạnh phúc, Mai phải cúi đầu xin kẻ quyền thế. Nhưng khi bà

Án tỏ ý cho phép Lộc lấy cô làm vợ lẽ thì “Mai đã căm tức, cười mũi: bẩm bà

lớn, nhà con không có mả đi lấy lẽ” [47, tr. 151]. Về sau, Lộc lấy con quan tuần

nhưng không có con, bà Án lên Phú Thọ để bắt đứa cháu trai và bày tỏ ý định

rước Mai về làm vợ hai con bà, một lần nữa Mai kiên quyết không chấp nhận.

Mai khẳng định dứt khoát rằng thà làm “chị xa, chị bếp chị bồi mà được một vợ

một chồng, yêu mến nhau…khi vui có nhau khi buồn có nhau” [47, tr. 214] còn

29

hơn làm cô huyện hai. Cô không muốn làm lẽ để hoặc là bị áp chế hoặc trở

thành kẻ áp chế người khác. Mặc dù Lộc đã tìm gặp lại, nhận lỗi và cầu xin

Mai sum họp nhưng cô vẫn từ chối để giữ mãi mối tình trong sáng cao đẹp.

Đến lúc này, Mai không muốn chia sẻ tình yêu với ai và cũng không muốn ai vì

mình mà đau khổ. Mai không chỉ mang tình yêu tự do mà còn là người kiên

quyết không chấp nhận cảnh chung chồng. Như vậy có thể nói, qua nhân vật

Mai, Khái Hưng đã tỏ thái độ quyết liệt chống lại chế độ đa thê. Mai là một

“chiến sĩ” đầu tiên của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trực tiếp chống lại lễ giáo

phong kiến.

Việc phê phán chế độ đa thê còn thể hiện ở các cuốn tiểu thuyết Gia đình,

Thoát ly, Thừa tự. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại nhấn mạnh một khía cạnh riêng.

Ở tiểu thuyết Gia đình tác giả đã vẽ lên một bức tranh phong tục và tâm lí

của gia đình quyền thế. Song tác phẩm lại đi sâu miêu tả những rạn nứt tình

cảm do những nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Là một đại khoa mang

nặng tư tưởng học để ra làm quan nên ông án Nguyễn ảnh hưởng đến con cái

tham vọng vinh hoa. Nhưng thời thế đã khác, chức tri huyện, tri phủ không còn

được coi trọng như trước nữa. Chức quan của Viết có những lúc làm cho Nga

tức tối, khổ sở, Phụng tự mãn, khinh thường người khác, ông bà Án đối xử với

con không công bằng. Song cũng có những lúc nó làm cho Phụng phải buồn

phiền, đau khổ. Vốn không phải người tốt, lại có chức quyền, sống trong môi

trường đầy những cám dỗ, Viết nhanh chóng trở thành kẻ tham nhũng, sa đọa,

bất nhân, tàn ác. Tác giả kể rằng: “Tàn ác lâu ngày đã trở thành thói quen. Buổi

đầu khi nghe bọn thơ lại xúi giục chàng làm việc bất nhân thì chàng áy náy, đắn

đo, rụt rè, có lần hối hận suốt đêm không ngủ được. Nhưng dần chàng đã trở

nên can đảm và giữ được trơ như đá, vững như đồng khi đứng trước những

hành vi thương tâm, khi có những hành vi dã man, tàn ngược” [47, tr. 540].

Trong tiểu thuyết Gia đình có lẽ An là người khổ nhất về đường quan lộ.

Từng đậu tú tài Tây nhưng anh không học lên để ra làm quan mà lại chủ trương

quy điền, vui thú với thiên nhiên đồng quê, sống cuộc đời tự do phóng khoáng.

Tuy vậy gia đình anh lại vốn có truyền thống khoa bảng, cả họ chờ đợi vào

30

chức quan của An để giành vị trí tiên chỉ và có thế lực trong làng. Gia đình,

dòng họ ép buộc anh từ bỏ ý nguyện. Định kiến chung của xã hội và gia đình

cứ bao vây anh, khiến cho anh rơi vào bi kịch. “Tấn bi kịch gia đình cách vài

ngày lại diễn ra một lần, mà tình ái giữa hai vợ chồng ngày một thêm phai nhạt

[47, tr. 506]. “Cái cảm giác sung sướng không trở lại nữa (…) sự trống rỗng

càng tăng. Nó như vết ung thư, mỗi ngày một loét rộng thêm thậm chí chàng

còn nghĩ đời chàng như một quả héo, chỉ còn đợi rụng” [47, tr. 498]. Sự xung

đột về quan điểm sống giữa An và Nga diễn ra suốt từ đầu tác phẩm. Bởi có

khát vọng được làm bà lớn cho bằng chị bằng em nên Nga ra sức thúc ép chồng

phải học lên để làm quan. Để đạt mục đích của mình, có lúc Nga dùng lời ngon

ngọt dỗ dành, có khi khích bác, lôi kéo họ hàng vào việc thúc ép chồng. Thậm

chí có thời điểm cô nặng nề quá đáng, mất hết vẻ dịu dàng khiến An đau khổ

đến mức muốn tự tử. Cuối cùng chàng đành chiều theo ý vợ cho êm ấm cửa

nhà. An lên Hà Nội học tiếp rồi ra làm quan, sống cuộc đời giả dối, xấu xa,

buồn chán. Cuốn tiểu thuyết như một bản cáo trạng dữ dội phanh phui tất cả bề

trong nhơ nhớp của cái nghề danh giá ấy dưới thời Pháp thuộc.

Nhà văn cũng miêu tả tỉ mỉ, sinh động những bức tranh ma chay, giỗ chạp,

khao vọng, cưới hỏi để làm tăng sức phê phán lễ giáo và đại gia đình phong

kiến. Khái Hưng chỉ rõ quan điểm khác biệt của hai phái cũ, mới trước những

tập tục, lễ nghi cổ truyền. Khi mẹ mất, “An thương xót đau đớn, tưởng như một

phần thân thể, một phần linh hồn lìa bỏ chàng để rời sang một thế giới khác.

Chàng ôm lấy thây mẹ gào khóc thảm thiết. Chàng không hề tưởng rằng tình mẫu

tử lại có thể bị cắt đứt một cách mau chóng và đột ngột như thế” [47, tr. 500].

Ngược lại, cha chàng vẫn “bình tĩnh, lạnh lùng, thản nhiên bàn đến các công

việc mời làng, mời xóm, cười đùa, nói chuyện với bác, chú và gào thét, quát

mắng đày tớ ầm ỹ” [47, tr. 500]. Đến lúc cha qua đời, bề ngoài An không tỏ ra

đau buồn như ngày mất mẹ “nhưng vết thương lòng chàng cảm thấy sâu hơn.

Vì chàng hiểu rằng mất mẹ, người con chỉ thiếu thốn tình yêu mến, nhưng mất

cha thì ngoài sự trông cậy nương nhờ ra, chàng như mất một sự thiêng liêng

huyền bí mà chàng không biết đích là sự gì” [47, tr. 500]. Trong khi đó chú

31

chàng lại cho tiến hành đủ thứ lễ nghi. “Chú làm trăm thứ lố lăng, nào mời thầy

bùa, thầy bèn, nào đặt nhà táng minh tinh, thuyết bát nhã, nào bắt rước nghênh

ngang ngoài đường những con lợn quay, những con gà luộc, lại thêm một sự lố

lăng vào bậc nhất trong sự lố lăng: thuê hai thằng đeo mặt nạ đi theo múa hát

pha trò để người xem cười phá lên từng cơn” [47, tr. 501].

Tiểu thuyết Thoát ly phản ánh sự áp bức đến ghê sợ của mẹ kế đối với con

chồng. Tài năng, vốn sống, sự căm giận của Khái Hưng tập trung cả ở tác phẩm

này. Bằng trải nghiệm của bản thân với cuộc sống dì ghẻ con chồng, nhà văn đã

mô tả rất chân thật chế độ đa thê vô nhân đạo. Truyện dì ghẻ đối xử tệ với con

chồng là câu chuyện muôn thuở. Ca dao có câu “Mấy đời bánh đúc có xương/

Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”. Song đến thời điểm này Khái Hưng mới

chỉ ra nhiều thảm kịch bi đát. Những con người trẻ tuổi với đầy khát khao tự do

cảm thấy gia đình dưới quyền dì ghẻ chẳng khác gì chốn ngục tù. Nhân vật

Lương đã đứng ra thành lập một hội với cái tên hài hước, “Hội bị tai nạn dì ghẻ

độc ác và mất dạy”. Anh phải bỏ trường Luật, đi dạy học tư lấy tiền nuôi em vì

không chịu được cảnh dì ghẻ con chồng. Bởi dì ghẻ mà gia đình Yến cũng tan

nát, cô bỏ nhà đi và dấn thân vào nghề gái nhảy. Từ sáu tuổi Hồng đã mồ côi

mẹ, cô sống trong sự ghẻ lạnh của cha và sự cay nghiệt của mẹ kế. Hai vai

chính của tấn thảm kịch, một người dì ghẻ độc ác, một người cha lãnh đạm

hoặc có lúc a dua, nhu nhược đã đánh đập nàng, lại thêm những đứa em ngang

nghạnh, tai ngược, “những quân do thám” khiến Hồng như tù nhân trong địa

ngục. Khi Hồng học năm thứ hai trường Nữ Sư phạm thì dì ghẻ bảo cha bắt cô

về để “dạy làm ăn”. Thực chất ý đồ của bà là để cho Hồng không thoát ly được

nữa mà chỉ như đầy tớ, con ở cho bà sai khiến. Bà còn bắt Hồng nhuộm răng

đen vì theo bà để răng trắng như vợ Tây là làm đĩ, nhục gia phong. Trong cái

gia đình ấy Hồng bị coi như kẻ thù. Cô bị tước đoạt mọi thứ nhân quyền, kể cả

quyền tự do hôn nhân. Người dì ghẻ tìm đủ mọi cách để phá đám hết chuyện

dạm hỏi này đến chuyện dạm hỏi khác. Bà từ chối gả Hồng cho một người vừa

đậu tú tài, không cho Hồng lấy một ông Tham góa vợ, gài bẫy để Hồng mang

tiếng lẳng lơ. Mục đích của bà là để gán Hồng cho cháu mình, một anh chàng

32

lêu lổng học ba năm ở lớp nhất mà chưa đậu nổi cái bằng cơ thủy. Cuộc đời của

Hồng như một tấm vải thưa, dệt toàn bằng những ngày sầu thảm. Đã có lúc quá

uất ức nàng vừa khóc vừa nói những lời chua chát: “Làm quả phụ hay làm gì

thì làm, làm cả gái giang hồ cũng được nhưng đừng ở trong một gia đình có

một người dì ghẻ như dì ghẻ của tôi” [47, tr. 709]. Hoặc “Thà vào ngồi tù, thà

dấn tân vào nơi hồng lâu, thanh lâu còn hơn quay về cái gia đình ấy!” [29, tr. 317 ].

Ở tác phẩm này, hình ảnh người mẹ kế hiện lên không chỉ với lương tâm xấu

xa mà còn với hình hài quái dị. Bà có “cái trán bóp lại dưới làn tóc vấn trần mỏng

manh vì không độn, đôi mắt lim dim không nhìn như còn ngái ngủ, cặp môi mỏng

dính như căng thẳng ra do một cái răng cài phía trong mồm” [47, tr. 734]. Đọc

Thoát ly ta thấy sự phê phán quyết liệt của nhà văn đối với mối quan hệ dì ghẻ

con chồng.

Cũng phê phán chế độ đa thê, nhưng ở Thừa tự Khái Hưng lại tập trung

vào mối quan hệ mẹ ghẻ con chồng xoay quanh việc ăn thừa tự. Vì quyền lợi

mà bà Ba cùng với đám con chồng chống đối nhau kịch liệt. Vì đồng tiền mà

những con người này luôn đối xử với nhau bằng những mưu mô, thủ đoạn. Ở

đây không có chỗ cho tình cảm gia đình, tình anh em ruột thịt. Một miếng lợi

nhỏ bà Ba nhả ra để lập thừa tự cũng đủ để làm cho hai người con chồng nghi

kị, xô xát nhau. Như vậy, với một đề tài quen thuộc, nhà văn một lần nữa khoét

sâu vào chỗ mục ruỗng của chế độ đại gia đình. Khái Hưng phơi bày cho độc

giả thấy bộ mặt thật của con người trong những gia đình quyền quý, những

mánh khóe, toan tính rất vụn vặt nhưng cũng rất con người.

Tuy nhiên, tiếng nói chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến của Khái

Hưng có những điểm riêng rõ nét. Dương Quảng Hàm đã viết trong Việt Nam

văn học sử yếu: “Các tác phẩm của ông (tức Khái Hưng) tuy vẫn có khuynh

hướng xã hội, nhưng lại thiên về mặt lí tưởng và có thi vị riêng” [12, tr. 446].

Tiểu thuyết của Khái Hưng phản ánh chân thực đời sống bằng thái độ khoan

hòa. Nhà văn lặng lẽ quan sát, thu thập những cảnh, những người để rồi dựng

lên bức tranh sinh động về cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Ở tác phẩm của

Khái Hưng, những xung đột mới - cũ chứa nhiều chất liệu của đời sống, nhiều

33

rung động nghệ thuật chứ không công thức, sơ lược. Trong khi đó Nhất Linh

thường lấy những quan niệm chính trị làm luận đề cho tiểu thuyết. Tính luận đề

và chất trí tuệ thể hiện rõ ở tiểu thuyết của ông. Nhất Linh coi trọng tính luận

đề hơn tính nghệ thuật. Bởi thế ông thường quan tâm, ghi nhận những chi tiết

có lợi cho luận đề.

Các nhân vật chính trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng và Đoạn tuyệt

của Nhất Linh đã thể hiện những nét tương đồng và khác biệt giữa hai nhà văn

này. Trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh, nhân vật Loan là một cô gái có học chữ

Tây, sống theo lối mới. Cô rất quyết liệt trong việc chống lễ giáo và đại gia

đình phong kiến. Ngay ở những trang đầu của tác phẩm, trước thông tin về cái

chết của cô Minh Nguyệt, Loan đã nói thẳng:

“Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà

ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử (…). Việc gì mà phải hết hi vọng. Mẹ

chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm” [52, tr.150]. Đối

với hạnh phúc trăm năm của mình, Loan có suy nghĩ rất hiện đại. Cô đã xin mẹ

cho mình tự quyết định việc hôn nhân. Cô đứng ngang hàng với chồng trong

ngày cưới để làm lễ gia tiên. Bị mẹ chồng đối xử cay nghiệt, Loan nói: “bà

cũng là người tôi cũng là người không ai hơn kém ai” [46, tr. 20]. Vì thế, cuối

cùng Loan được giải phóng. Mai trong Nửa chừng xuân thì khác. Bởi là con

nhà Nho và bản thân cũng học chữ Nho cho nên Mai chống lễ giáo phong kiến

bằng thái độ khoan hòa. Cô chịu đựng đau khổ, không chấp nhận cảnh lẽ mọn

nhưng vẫn giữ trọn mối tình chung thủy. Trong Đoạn tuyệt, bà phán Lợi là một

mẹ chồng độc ác và hoàn toàn cổ hủ. Nhưng trong Nửa chừng xuân “tác giả chỉ

muốn xây dựng một mệnh phụ có đầu óc đầy quan niệm cũ, chỉ vì con mà phải

già tay ràng buộc. Khái Hưng không mài bút cho sắc để lên án bà Án. Bởi thế

trong tác phẩm của ông bà Án bệ vệ, nói năng đanh thép, luôn chăm lo đến

tương lai của con giai. Bà lại còn biết ăn năn, hối hận, đấu dịu với Mai ở cuối

truyện” [47, tr. 245].

Miêu tả những tình cảm yêu đương, những suy nghĩ của giới trẻ, ngòi bút

Khái Hưng lãng mạn hơn so với Nhất Linh. Nhưng khi tái hiện cuộc sống thì

34

nhà văn lại tỏ ra rất chân thực. Ông đi sâu miêu tả cảnh ngộ của các gia đình

trưởng giả. Tư tưởng, chủ đề của các tác phẩm Nửa chừng xuân, Gia đình,

Thoát ly, Thừa tự được triển khai từ những câu chuyện có trong đời thực. Khái

Hưng chỉ ra tính chất lỗi thời của lễ giáo phong kiến và xem nó như là một

nguyên nhân chính dẫn đến những rạn nứt, mâu thuẫn trong các gia đình. Đó là

những mâu thuẫn có thật và rất gay gắt trong xã hội bấy giờ, nhất là ở thành thị.

Không phải đến thời của Khái Hưng vấn đề chống phong kiến mới được

đặt ra. Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ

Nôm của Hồ Xuân Hương đã từng thể hiện thái độ đề cao tự do, phê phán lễ

giáo và đại gia đình phong kiến chà đạp lên hạnh phúc của con người. Tuy vậy,

lễ giáo phong kiến chưa hiện ra với bộ mặt tàn bạo trong mối tình giữa Dao

Tiên và Lương Sinh, giữa Thúy kiều và Kim Trọng. Các tác giả cũng chưa

nhấn mạnh cái điều làm nên đau khổ cho con người ngoài vấn đề số mệnh.

Chưa ai chỉ trích thể chế xã hội gây trở ngại hoặc làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi.

Đến thời của Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách vẫn còn như vậy. Trong Giấc mộng

con, Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh dù không chịu ràng buộc bởi lễ

giáo nhưng cũng chỉ yêu nhau trong mộng tưởng. Ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc

Phách, Đạm Thủy và Tố Tâm đã tự do yêu đương trong khi hai gia đình không

hề biết. Song họ cũng không biết tự vượt qua rào cản của tư tưởng phong kiến.

Cuối cùng Tố Tâm vẫn yên bề gia thất với cậu Tú B theo mong muốn của

người mẹ. Nhưng đến Tự lực văn đoàn và Khái Hưng thì việc tố cáo những

ràng buộc cổ hủ của gia đình, họ hàng đã trở nên nhất quán và rõ ràng. Không

còn dung hòa mới cũ nữa, Tự lực văn đoàn dứt khoát theo mới, bác bỏ triệt để

lễ giáo phong kiến. Tuy nhiên, Khái Hưng chủ yếu chỉ tập trung khám phá, mô

tả những mâu thuẫn trong cuộc sống và tâm lí của các gia đình trưởng giả. Tiểu

thuyết của Khái Hưng ít đề cập đến những xung đột xã hội. Bởi lẽ hiểu biết của

ông về bản chất và tội ác giai cấp thống trị gây ra không thể so sánh được với

Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan. Nhà phê bình Hải Triều đánh giá: “Khái

Hưng là một ngôi sao chóng mờ (…). Giữa lúc đó, Nguyễn Công Hoan càng lâu

35

càng được công chúng hoan nghênh vì tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan gần người

hơn” [38, tr. 80]. Đến nay nhận định của Hải Triều vẫn còn nguyên giá trị.

2.2. Đề cao cái tôi cá nhân và nếp sống Âu hóa

Cùng với Tự lực văn đoàn, Khái Hưng mong muốn từ bỏ những hủ tục và

cải cách xã hội theo những quan niệm mới. Do vậy ngoài phê phán lễ giáo và

đại gia đình phong kiến, tiểu thuyết luận đề của ông còn thể hiện một quan

niệm mới về xã hội và nhân sinh. Trước hết Khái Hưng khẳng định cái tôi cá

nhân, đề cao nếp sống Âu hóa.

Theo tôn chỉ chung của nhóm Tự lực văn đoàn, từ những năm 1932,

1933, 1934, Khái Hưng đã viết các bài báo Hư danh, Ngó qua chủ nghĩa đại

gia đình, Yêu đời, Tập tục, Các ông nghị, Các ông nghị nhà quê, Khổng giáo,

Trẻ già, Âu hóa dân quê quan niệm mới…đăng trên Phong hóa.

Khái Hưng cho rằng: “Khổng giáo chẳng còn hợp thời nữa, và tiện gọn

hơn hết là đem một nền giáo dục mới thay vào” [22, tr. 118]. Theo nhà văn,

muốn cải cách thì phải làm cho dân chúng hiểu, dân chúng tin. Khi người ta đã

hiểu, đã tin thì người ta sẽ mạnh bạo cải cách. “Ta chẳng muốn cải cách, họ

cũng tự ý cải cách, tự ý Âu hóa” [22, tr. 128]. Vì thế Khái Hưng và những nhà

văn Tự lực đã sử dụng báo chí, văn chương làm phương tiện tuyên truyền

quảng bá ý thức. Họ muốn làm cho người dân hiểu và tin rằng muốn tiến hóa

thì phải theo mới, phải cải cách, phải Âu hóa. Khái Hưng quan niệm: “Một

nước già cỗi dân trí chỉ luẩn quẩn lưu luyến với tổ tiên như đứa con níu chặt lấy

váy mẹ, thì còn nhòm xa, biết rộng sao được mà hòng cải cách (…). Muốn kịp

các nước tân tiến ta phải theo họ, ta phải cải cách, ta phải mới, ta phải quả

quyết bỏ hết hủ tục, mà hủ tục rất nhiều, ta phải bỏ cái lòng quá tồn cổ của ta

đi” [22, tr.125 ]. Nhà văn so sánh việc Âu hóa giống như “triệt những cây cỏ

dại ở vườn, phải đào hết rễ, rồi đem trồng thay vào những cây có ích. Muốn bỏ

những hủ tục trong dân, phải mạnh bạo đem những điều hay, điều mới thế vào”

[22, tr. 261]. Ông cũng nhấn mạnh: “Cải cách xã hội thì phải mạnh bạo, quả

quyết theo Âu phải Âu hóa” [22, tr. 128].

36

Về xã hội đương thời, nhà văn quan niệm: “Ngày nay không còn là thời kỳ

của gia đình và của làng xóm. Đời nay là đời cá nhân (…). Nhà xã hội (…) bao

giờ cũng phải giữ nụ cười hi vọng mà rảo bước trên con đường tiến hóa. Con

đường ấy ngày nay chỉ có một: con đường Âu hóa” [22, tr. 127+ 128]. Theo

ông Âu hóa, văn minh quan trọng nhất là đề cao tự do cá nhân. Nền tảng của tự

do cá nhân thể hiện ở tinh thần trách nhiệm với cuộc đời của mỗi con người.

Bản thân mỗi cá nhân có những dự định và có quyền quyết định về cuộc đời

của mình. Ở khía cạnh này Khái Hưng cũng nhận định: “Trước hết ta phải nghĩ

đến quyền lợi cá nhân, đến bổn phận cá nhân, thì ta mới được hưởng sự sung

sướng” [22, tr.127]. Riêng về bổn phận cá nhân Khái Hưng cho rằng con người

vừa phải có lòng yêu thương giúp đỡ lẫn nhau vừa phải có tinh thần tự lực, tin

tưởng, lạc quan, yêu đời, phải vui vẻ mà sống. Ông từng viết: “Chúng ta yêu đời

thì chúng ta tránh được sự nhỏ nhen cuồng dại ấy. Ta sống ở thời hiện tại ta chỉ

nghĩ đến hiện tại. Ta nghĩ tới ta, tới những người đồng loại với ta. Ta muốn biết

mọi người cùng sống một đời sung sướng như nhau, cùng hấp thụ một làn không

khí trong sạch ở trong một thế giới một ngày một tốt đẹp thêm” [22, tr. 99].

Bằng thiện cảm và những rung động đắm say, Khái Hưng đã quảng bá, đề

cao cái tôi cá nhân và nếp sống Âu hóa. Ông biểu dương tình yêu và hôn nhân

tự do. Bởi theo ông những điều đó vừa phù hợp với lẽ phải ở đời, vừa đẹp và

đồng nghĩa với tiến bộ, văn minh.

Trong tiểu thuyết của mình, Khái Hưng thường đi sâu khám phá, miêu tả

một mẫu hình nhân vật mới. Đó là những con người cá nhân, trong đó nhiều

nhất là người trí thức Tây học. Họ xuất thân trong những gia đình quan lại, là

con của những ông tuần, ông án, bà phán, bà huyện. Nhưng họ không theo nền

nếp Nho giáo hay những tập tục cổ truyền. Họ theo Tây học nên rất trẻ trung,

trọng tự do cá nhân, đề cao nếp sống phương Tây.

Mang những tư tưởng mới, những trí thức Tây học trong tiểu thuyết của

Khái Hưng cảm thấy họ không hợp với nền luân lí cũ. Trong Nửa chừng xuân

Huy đã nói với bà Án: “Cụ tức là biểu hiện, tức là một người đại diện cho nền

luân lí cũ. Mà tâm trí chúng cháu đã trót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau

37

khó lắm, thưa cụ” [47, tr. 216]. Còn Lộc cũng bảo với Mai rằng: “Từ ngày còn

nhỏ, anh đã theo một nền giáo dục Âu Tây, óc anh đã nhiễm những tư tưởng

Âu Tây, anh hiểu, anh yêu, anh trọng cái giá trị, cái quyền tự do cá nhân. Mà

chắc em cũng thừa biết rằng hơn một năm nay, nghĩa là từ ngày anh biết em,

lúc nào anh cũng dạy em, anh muốn chôn sâu vào tâm tưởng em những tư

tưởng cao thượng ấy” [47, tr. 132].

Những con người đại diện cho lối sống mới coi Âu hóa là thức thời. An

trong tiểu thuyết Gia đình là một người như vậy. “Không bao giờ chàng quên

nhãng rằng nhờ cha sớm hiểu thời thế nên chàng mới nhận được nền học vấn

Âu Tây ngày nay” [47, tr. 499].

Nếu như hôn nhân theo quan niệm cũ là môn đăng hộ đối, là để nối dõi

tông đường, là cái cầu để tiến thân thì với họ hôn nhân chỉ đơn thuần là tình ái.

Lộc nói với Mai: “Anh xin thú thực: Khi anh bắt đầu yêu em, thì anh chỉ tưởng

tới hạnh phúc của ái tình, chứ không bao giờ anh có ý nghĩ về gia đình, về con

cái” [47, tr.132]. Mai cũng muốn đi đến hôn nhân với Lộc vì cô yêu chàng chứ

không phải bởi lẽ gì khác. Có lần Mai đã chia sẻ với bà Án: “Không phải con

sợ mất, sợ thiệt một thứ gì cho con, nhưng xa anh Lộc thì con không thể sống

được. Mà con chắc anh con cũng yêu con như con yêu anh con. Vả lại bà lớn

đã biết đâu người vợ chưa cưới của anh con yêu anh con, nhất là anh con thì

thực không yêu người ta một chút nào, vì nếu anh con yêu người ta thì đã chả

yêu con” [47, tr. 152].

Đối với họ, hạnh phúc gia đình là vợ chồng hòa thuận, cùng nhau làm

việc, cùng yêu mến, kính trọng lẫn nhau. Trước cuộc sống của Bảo và Hạc,

Minh rất cảm kích: “Anh chị sung sướng quá. Làm vua ở giang sơn của mình,

sống một cảnh đẹp, bình tĩnh. Hai vợ chồng cùng yêu việc đồng áng và cùng

yêu nhau” [47, tr. 548]. Còn Bảo thì “ao ước chóng được hưởng như anh chị

cái lạc thú gia đình, cái lạc thú êm ái, diu dàng của hai vợ chồng trẻ yêu nhau,

kính trọng nhau và sống với ít sự ham muốn trong một cảnh bình tĩnh đầy vẻ

nên thơ” [47, tr. 549]. Trong suy nghĩ của An, Bảo và Hạc sau này chắc chắn sẽ

hạnh phúc “vì thuở nhỏ hai người đã quen biết nhau, đã yêu nhau và ngày nay

38

hai người cũng ưng thuận lấy nhau” [47, tr. 553]. An cũng cho rằng: “Muốn

hưởng hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải có cùng một quan niệm, hay là

chồng phải cải hoán được vợ, phải làm cho vợ có cái quan điểm của chính

mình” [47, tr. 503]. Quan điểm về tình yêu của họ có chỗ đến ngày nay vẫn

còn nguyên tính mới mẻ, hiện đại. Đó là quan niệm tình yêu vượt ra ngoài giới

hạn của hôn nhân. Người ta sẵn sàng đến với nhau vì sự đồng cảm đồng điệu

chứ không nhất thiết cứ phải chung sống. Điều ấy được thể hiện qua lời của

Lộc với Mai. “Sao hai ta lẩn thẩn lại cứ quanh quẩn mãi trong vòng ái ân, trong sự

sum họp nhỉ ? Ta không yêu nhau ở ngoài sự sum họp được ư ?” [47, tr. 240].

Họ cũng không còn mang tư tưởng trọng nam khinh nữ của phong kiến

Nho giáo nữa. Đối với họ nam nữ đều bình đẳng như nhau. Trong tiểu thuyết

Trống mái, nhân vật Hiền sẵn sàng đặt mình trong tư thế ngang bằng với nam

giới. Cô nghĩ: “Đối với bọn họ mình phải quả quyết đứng ngang hàng, thì tự

nhiên được đứng ngang hàng ngay” [14, tr. 72]. “Muốn bình đẳng, phải đồng đẳng.

Mà trước hết, mà cần nhất phải đồng đẳng về thân thể tráng kiện” [13, tr. 16]. Đồng

quan điểm với Hiền, Lưu cũng phát biểu: “Ta sống ở thế kỷ trọng chủ nghĩa cá

nhân, nhưng muốn chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn đắc thắng thì không gì bằng

làm cho nam nữ bình đẳng về các phương diện” [14, tr. 142].

Về lối sống, những con người đại diện cho phái mới có suy nghĩ khác hẳn

so với phái cũ. Họ cho rằng yêu nghề là một sự sung sướng. Trước hai chị, Bảo

đã nói: “ngày nay chúng em yêu mến nghề nông quá. Thì ra hai chị ạ, bất cứ mình

theo nghề gì, hễ mình yêu nghề thì bao giờ cũng sung sướng” [47, tr. 608]. Những

con người theo mới còn có ý tưởng về cuộc sống tự lập. Nhân vật Hồng trong

Thoát ly muốn thoát ra khỏi gia đình có người mẹ ghẻ. Để được như vậy, cô

cho rằng mình “phải hết sức chiều chồng, cùng chồng lập nên một gia đình đầm

ấm, quả quyết làm việc giúp đỡ chồng” [47, tr. 675]. Hiền trong Trống mái lại

có suy nghĩ thật táo bạo và lãng mạn: “Ta yêu ai thì ta quyết lấy người ấy, ta

quyết xin mẹ ta cho phép lấy bằng được người ấy, do người ấy là một anh

chàng đánh cá chất phác, thơ ngây” [14, tr. 71]. Hơn thế “nàng mơ màng được

sống với chàng An Tiêm hay Lỗ Bình Sơn ở nơi hoang đảo, tự tìm lấy cái ăn, tự

39

chế tạo lấy cái mặc, và các thứ khí giới để chống cự lại loài thú dữ” [14, tr. 69].

“Hiền cảm thấy rõ ràng cả một đời nên thơ của kẻ sống trong vạn vật, sống với

vạn vật. Mỗi cử chỉ của mình, mỗi một câu nói của mình đều liên lạc nhịp

nhàng với cỏ cây với đất nước, với ánh sáng, với không khí bao bọc quanh

mình. Mỗi một hành vi của mình có một nghĩa, một nghĩa triết lý sâu xa, cái

hành vi không giả dối vì nó vừa còn phải có để nuôi sống tấm thân, vừa làm

cho tấm thân nở nang, khỏe mạnh, đẹp đẽ thêm ra” [14, tr. 71]. Hiền muốn có

một cuộc sống tự do, thoải mái và không thích sống cái đời bình thường , nhỏ nhen

hoặc trưởng giả. Theo cô cái cảnh sống mà chồng “mài đũng quần trên ghế các

công sở nào bị người trên quở mắng, nào phải tự hạ nịnh nọt kẻ nọ, kẻ kia (…) vợ

vênh vang xe nhà, ô tô, ra phết bà lớn, bà bé, với những bộ cánh sặc sỡ, lòe loẹt”

[14, tr. 70] thật chẳng hay ho gì.

Với họ sống là để vui vẻ hưởng thụ và chỉ cần quan tâm “cái đời hiện tại

không tưởng đến ngày mai” [47, tr. 579]. Thậm chí họ còn sống vô cảm, buông

thả. Họ đối xử với nhau theo kiểu “không tình, không cảm, gặp nhau một hôm,

kẻ cần sống, người cần thỏa lòng dục. Rồi mỗi người một ngả, nào ai còn tưởng

đến ai” [47, tr. 168].

Nhìn chung nhà văn thiên về khẳng định, đề cao cách sống của những con

người mới. Trong Nửa chừng xuân Khái Hưng vẽ lên bức tranh gia đình vui vẻ,

đầm ấm, chị em Huy cùng làm việc và yêu thương nhau. Người đọc ấn tượng

với cảnh: “Trong lò sưởi, ngọn lửa hồng rung động. Xây lưng lại lò sưởi Huy

ngồi bàn giấy hí hoáy viết, thỉnh thoảng lại ngừng bút ngẫm nghĩ. Đầu bàn phía

trong, Mai ngồi khâu, màu trắng của mấy vuông vải mới lóng lánh phản chiếu ánh

vàng dịu của cây đèn dầu có chụp giấy mầu xanh. Đầu bàn đối diện, Ái đứng quay

lưng ra ngoài và đương đánh vần đọc truyện Tấm Cám” [47, tr. 231].

Khái Hưng xây dựng hình ảnh những con người mới mang tâm hồn phong

phú, tinh tế, nhạy cảm. Ông và các nhà văn trong nhóm quan niệm: con người

không “sống như cỏ cây một đời sống tẻ ngắt và khô khan, phẳng lặng như mặt

nước ao tù. Cái đời sống cần là đời sống bên trong, đời sống của tâm hồn. Khi

tâm hồn đã rèn luyện thành một sợi dây đàn sẵn sàng rung động trước mọi vẻ

40

đẹp của vũ trụ, trước mọi cái cao quý của cuộc đời, chúng ta sẽ là người một

cách hoàn toàn hơn” [21, tr. 348]. Họ cho rằng: “Chính nhà tiểu thuyết có tài là

nhà văn diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của người, nhà văn

chúng mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu có” [21, tr. 349].

Nhân vật Mai trong Nửa chừng xuân là người có vẻ đẹp ngoại hình, có

quan niệm mới về hôn nhân và một tâm hồn phong phú. Con người cô chứa

đựng nhiều suy tư, cảm xúc mới mẻ. Có lúc Mai trong dáng vẻ “cô thiếu nữ

vào trạc mười bẩy, mười tám, chít khăn ngang, mặc áo trắng cổ gấu, chân đi

guốc, ngơ ngác nhìn sân trường, như muốn vào, nhưng còn dùng dằng lo sợ.

Nước da cô trắng xanh, quầng mắt đen sâu hoắm càng làm tăng vẻ rực rỡ long

lanh của hai con ngươi sáng dịu, trong cái mặt trái xoan, má hơi hóp, môi khô

khan, chỉ có hai con mắt là có vẻ hoạt động khác nào như hai ngôi sao lấp lánh

sau làn mây mỏng. Thoáng trông cô, cũng biết cô có điều tư lự” [47, tr. 75]. Có

khi “Mai ngước mắt nhìn lá xuân non mơn mởn đầu cành. Cái cảm tưởng về

mùa xuân dịu dàng êm ái, khiến Mai hé cặp môi tươi thắm cười với xuân, trong

lòng chứa chan hy vọng” [47, tr. 84]. Hay “Thung thăng trên con đường đỏ

dưới hạt mưa xuân lấm tấm, Mai mơ mộng vẩn vơ (…). Cô hy vọng sẽ sống

một đời tương lai tốt đẹp, cô chẳng biết tốt đẹp ra sao, chỉ yên trí nó khác xa

với cái đời hiện tại mà thôi. Hai bên đường, lá ngô trước gió rung động lao xao.

Cô cũng thấy người cô rung động. Cái rung động, cái cảm giác của sự sung

sướng hồn nhiên của tuổi thanh niên chứa đầy hy vọng như cái khí lực bồng bột

chứa trong cây, phát ra các búp non trên cành tơ mơn man [47, tr. 98]. Lại có

thời điểm Mai nhìn “chiếc buồm trắng con xen lẫn vào bọn buồm nâu sắc thẫm,

to bản, cột cao, rồi theo dòng nước, theo chiều gió trôi đi như lướt trong cảnh

rộng bao la, mà hiện vào xa xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ, vẩn vơ cho số phận

chiếc thuyền con lại vẩn vơ nghĩ đến thân phận mình” [47, tr. 91].

Tình cảm mẹ con của An trong tiểu thuyết Gia đình rất nồng nàn. Gặp mẹ

anh có cử chỉ thân mật như người phương Tây. “Một năm ở trường về nghỉ tết,

chàng bá lấy cổ mẹ hôn chụt hai bên má, tuy hồi đó chàng đã mười bốn, mười

lăm tuổi. Bà mẹ đẩy con ra cười ngặt nghẽo, khiến chàng thích chí lại hôn luôn

41

một cái nữa. Câu “con tôi tây quá” còn như văng vẳng bên tai chàng. Không,

chàng không tây, chàng chỉ nồng nàn yêu mẹ, và chàng không thấy cách nào tỏ

cho mẹ nhận rõ lòng thành thực của mình bằng cách yêu của người Tây

phương” [47, tr. 499].

Các nhân vật đại diện cho phái mới trong tiểu thuyết của Khái Hưng còn

muốn giành tình yêu thương cho tất cả nhân loại. Điều đó thể hiện qua suy nghĩ

của Bảo: “Lòng tốt của người đàn bà An Nam thường chỉ quẩn quanh trong gia

đình: bao nhiêu tình thương, bao nhiêu tư tưởng âu yếm người ta để cả vào con

cháu. Sao tình thương ấy, mình không ném tung ra khắp bốn phương, vì sự

sung sướng của mình không thể ví như một cái cù lao xanh tốt ở giữa biển khơi

đầy sóng gió được. Nó phải như một khu ruộng lúa chín trong một cánh đồng

lúa chín lan rộng mênh mông tới bốn phía chân trời” [47, tr. 628].

Những người phụ nữ mới trong tiểu thuyết của Khái Hưng có vẻ đẹp từ

nhan sắc đến giọng nói, cử chỉ. Trong Hồn bướm mơ tiên, chú tiểu Lan “có

nước da trắng mát, giọng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng con gái” [47, tr.10].

Lúc “cây đèn đèn dầu tây hình búp măng chiếu ánh lên mắt chú trông càng xinh

lắm. Ngọc ngắm chú lại tưởng đến bức tranh người con gái Nhật cầm chiếc đèn

xếp của nhà danh họa Utamaro” [47, tr. 14]. Nhân vật Mai trong Nửa chừng

xuân từng khiến họa sĩ Bạch Hải phải thốt lên: “tôi đi tìm kiếm mẫu đã nhiều,

song chưa gặp ai có nhan sắc như cô” [47, tr. 180]. Trước “cái nhan sắc tình tứ,

dịu dàng, e lệ âu yếm được nét bút nhà danh họa vờn chữa càng thêm tình tứ

dịu dàng, e lệ, âu yếm (…) Lộc lặng người đứng ngắm, mơ màng trong giấc

mộng xưa” [47, tr. 191]. Trong tiểu thuyết Trống mái, cô thiếu nữ tên Hiền có

vẻ đẹp khiến người phương Tây “cả đàn ông lẫn đàn bà, nhìn mình bằng cặp

mắt khen ngợi, thèm muốn, ghen tỵ nữa” [14, tr. 16]. Đi nghỉ mát, “Hiền nổi hẳn

giữa đám người ở bãi biển, khiến ai gặp nàng cũng phải tò mò nhìn” [14, tr. 17].

Đến thăm Vọi, “bàn tay cô thiếu nữ thơm tho, vừa mát rượi, lại thêm giọng cô

nói dịu dàng êm ái, khiến anh nhà quê, choáng váng mê man như mất linh hồn,

thong thả nghiêng mình xuống phản” [51, tr.461].

Không chỉ người khác nhận thấy họ đẹp mà bản thân những phụ nữ mới

cũng tự tin, thậm chí kiêu ngạo trước vẻ đẹp của bản thân mình. Có lúc, “Hiền

42

mỉm cười, nụ cười tự phụ của cô thiếu nữ đã làm cho nhiều anh choáng váng, tê

mê vì tri thức và nhan sắc của mình” [47, tr. 137]. Hiền biết rằng “cái đẹp về

hình thức, khó cảm được trái tim đột ngột của người có tri thức, nếu cái đẹp

hình thức ấy không chứa một tâm hồn tương đương” [14, tr. 136].

Như vậy, cuộc sống của cái tôi cá nhân với nếp sống Âu hóa không còn

cảnh ngục tù giam hãm, đầy ải con người, không còn cảnh anh em tụ họp để

tranh giành quyền lợi, để ghen ghét, nói xấu nhau. Dưới ngòi bút Khái Hưng,

cuộc sống mới là một giấc mộng, là thiên đường muôn hương sắc nơi trần thế.

Tuy nhiên khi sáng tác tiểu thuyết luận đề, nhà văn cũng băn khoăn về

cái tôi cá nhân và nếp sống Âu hóa. Mặc dù ông đã có những tìm tòi, khám

phá, miêu tả, ca ngợi cái đẹp của con người đô thị hiện đại, nhưng về cơ bản

Khái Hưng không phủ nhận vẻ đẹp truyền thống. Nhà văn thường ngợi ca vẻ

đẹp dịu dàng, tế nhị, trẻ trung, khỏe khoắn của người trí thức Tây học và thẩm

thức thị thành. Đồng thời, Khái Hưng cũng phê phán, lên án những lố lăng, trụy

lạc, thái quá trong đời sống của họ. Trong rất nhiều văn phẩm ông không hề

giấu giếm thái độ đó, thậm chí có lúc còn bộc lộ một cách trực tiếp, mạnh mẽ.

Trong tiểu thuyết Trống mái, tuy miêu tả một cô Hiền quá lãng mạn, có

nhiều khát vọng, mộng tưởng về quyền sống cá nhân, nhưng cũng có những

đoạn nhà văn phê phán rất nặng nề. Chẳng hạn như: “những người quen thuộc,

những chỗ họ hàng, bà con thấy Hiền quá tự nhiên từ ngôn ngữ cho đến cử chỉ,

thì đều tức cười cho bà Hậu không chịu uấn nắn dạy con” [14, tr. 14]. Hay:

“chung quanh, kẻ cười mát, người bĩu môi. Những bà đứng tuổi cho là Hiền tây

quá quay lảng đi thì thầm nói chuyện với nhau để tỏ ý khinh bỉ” [14, tr. 19].

Ở Thoát ly, Khái Hưng cũng phê phán lối sống chạy theo Âu hóa quá

đáng. Hà Nội Âu hóa nhanh đến mức mới xa có mấy năm, nay trở lại Hồng đã

“ngơ ngẩn như Mán rừng”. Hà thành trong ngày hội sinh viên, trẻ trung, vui

nhộn nhưng cũng có những biểu hiện suy đồi, chướng tai, gai mắt, khiến người

đi xem có phản ứng khó chịu. Có người nói: “Ông Trần! Ông cho thế là trẻ

trung, là vui đùa, tôi cho thế là lõa lồ, là đĩ thõa. Tệ hại mấy cái ông vô công rồi

nghề ngồi vẽ ra những kiểu quần áo mà họ cho là tân thời. Ông xem họ ăn

43

mặc thế kia thì còn coi công chúng vào đâu nữa? Sao không cởi trần ra

nhân thể” [47, tr. 670]. Thậm chí có người không chịu đựng được phải bỏ về.

Như vậy, tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã không chỉ khuôn vào cái

tôn chỉ của Tự lực văn đoàn mà còn thể hiện cái nhìn sâu xa hơn. Thay vì yêu

mến, cổ vũ triệt để theo mới - tự do cá nhân, Âu hóa, tiểu thuyết Khái Hưng đã

phơi bày và băn khoăn về sự Âu hóa quá trớn, về tình trạng trụy lạc của thanh

niên. Nhà văn như muốn lý giải: Chỉ có tâm hồn phong phú, có bản lĩnh, chí

khí vững vàng mới cứu thanh niên ra khỏi đời sống trụy lạc. Đây cũng là lời

kêu gọi chung của cả nhóm Tự lực văn đoàn. Từ đầu năm 1934, Nhất Linh, vị

chủ tướng của văn đoàn này đã thể hiện nỗi băn khoăn trong Ngược lên chiều

gió: “Thiếu niên tri thức từ 20 đến 25 tuổi bao giờ cũng qua cái thời kì khủng

hoảng về tinh thần. Họ không tin nữa. Họ sống phất phơ. Họ khổ sở, nếu họ

không có được tâm hồn mạnh mẽ kìm chế được mình…” [22, tr. 109]. Trong

Mười điều tâm niệm, Hoàng Đạo cũng đề xướng: Thanh niên sống phải có lý

tưởng, phải biết rèn luyện ý chí…Trong Một vài ý kiến về tiểu thuyết, Thạch

Lam cũng băn khoăn: Trong phong trào xã hội, có vấn đề được nhà văn ta theo

nhau nói đến, là vấn đề thanh niên trụy lạc. Nhưng với một đầu đề như thế, tôi

lấy làm lạ chưa có nhà văn nào diễn tả được đúng những tâm trạng và các nỗi

băn khoăn của thanh niên (mà các nhà văn đều là thanh niên). Bọn thanh niên

chúng ta không thấy mình ở trong những tác phẩm đó: “chúng ta chỉ thấy

những ý nghĩ và tâm lý của tác giả, một tác giả không biết cười, cũng không tự

biết mình, quyết đoán một cách sai lầm; bởi thế chúng ta dửng dưng và lãnh

đạm với tất cả những hành vi của những nhân vật trong truyện” [31, tr. 89].

2.3. Thể hiện ước mơ cải cách xã hội

Ngoài những phẩm chất như đã nói, những con người mới trong tiểu

thuyết của Khái Hưng còn có tinh thần vì cộng đồng, vì xã hội. Họ sống gần

gũi, sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ, dốt nát, đói rách. Họ có ước

nguyện cải cách xã hội, cải thiện đời sống dân quê. Là một tiểu thư con nhà

giàu nhưng Hiền sẵn sàng phát thuốc chữa bệnh cho dân nghèo. Hạc đang học

đốc tờ nhưng bỏ về lập đồn điền cùng với Bảo thực hiện ý tưởng cải cách. Hai

44

vợ chồng họ cũng thu tô nhưng chỉ dùng vào việc nộp thuế và cải tạo đời sống

tá điền. Họ cấp thuốc miễn phí, mở chợ, đắp đường, xây trường học, lập khu

nghỉ mát. Họ thành công đồng thời sống vui vẻ thỏa mãn với lao động và

chương trình từ thiện. Là một bà chủ đồn điền nhưng Bảo lại sung sướng thỏa

mãn khi “trông thấy ở trước mắt những người dân quê mặt mũi sạch sẽ, quần

áo sạch sẽ nô đùa trò chuyện thảnh thơi” [47, tr. 626]. Cả Bảo và Hạc đều

muốn làm việc và giúp ích cho đời. Họ hạnh phúc với điều đó và tin tưởng lạc

quan vào cuộc sống. Bảo nghĩ: “Rồi ở các làng khác, họ sẽ theo gương dựng

những nơi nghỉ mát cao ráo như thế cho dân làng” [47, tr. 626].

Tiểu thuyết của Khái Hưng cũng như của Tự lực văn đoàn đã xây dựng

hình ảnh những con người muốn sống vì người khác, muốn làm việc có ích cho

đời. Trong Hồn bướm mơ tiên Ngọc từng tuyên bố: “Gia đình! Tôi không có

gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại là vũ trụ, mục tiêu gia đình của

tôi là…hai linh hồn của đôi ta, ẩn núp dưới bóng từ bi Phật Tổ” [47, tr. 591]. Ở Nửa

chừng xuân, Lộc cũng nói: “Sao anh lại không nghĩ tới xã hội, đem hết nghị lực

tài trí ra làm việc cho đời (…). Trời ơi! Anh sung sướng quá, anh trông thấy rõ

rệt con đường tương lai sáng sủa của anh rồi. Đời anh từ nay thế nào rồi cũng

đổi khác hẳn. Đời anh từ nay sẽ không riêng của anh nữa. Anh sẽ vì người khác

mà sống, vì người khác, anh sẽ bỏ cái đời an nhàn phú quí mà dấn thân vào một

cuộc đời gió bụi. Anh đã trông thấy hiện ra trước mắt những sự cay cực lầm

than đương đợi anh. Nhưng anh không ngại vì có em…” [47, tr. 240].

Tuy có phần mơ hồ, nhưng những lời của Ngọc và Lộc là tâm sự, hoài

bão, khát vọng của một số người thời đó. Dù khó thành hiện thực song những

mong mỏi của các nhân vật cũng ít nhiều thể hiện ước mơ cải cách xã hội của

tác giả.

Tiểu thuyết của Khái Hưng mà trọng tâm là các tác phẩm Hồn bướm mơ

tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự đã khám phá,

miêu tả, giới thiệu một mẫu hình con người mới. Phần lớn trong số đó là những

người trí thức Tây học trẻ trung. Họ có ý thức về quyền sống cá nhân, có đời

sống tâm hồn phong phú, dồi dào, có vẻ đẹp thể chất và biết cách trang điểm.

45

Họ tự do lựa chọn lối sống của bản thân, tự do yêu đương, tự do kết hôn…

Không chỉ vậy, họ còn cảm thông thương xót, muốn giúp đỡ những người dân

quê nghèo khổ về cả vật chất lẫn tinh thần. Không chỉ sống cho riêng mình,

những con người mới này còn muốn giúp ích cho đời. Tiểu thuyết của Khái

Hưng và Tự lực văn đoàn đã mở ra một hướng đi mới, đem đến một quan niệm

về xã hội và nhân sinh hiện đại. Vì thế nó được thanh niên thành thị, nhất là

những thanh niên trí thức lúc bấy giờ nhiệt tình đón đọc. Điều đáng quý là Khái

Hưng và những người Tự lực đã biểu dương cái mới, thể hiện ước mơ cải cách

xã hội, cải thiện đời sống người dân quê. Tuy nhiên những ý tưởng đó cũng mơ

hồ, không tưởng, thiếu cơ sở xã hội và theo lập trường cải lương tư sản. Do vậy

nhiều người đã không ghi nhận những tư tưởng cải cách, duy tân của Tự lực

văn đoàn. Nguyễn Văn Xuân ở miền Nam đã đánh giá đó là “chuyến tàu quá

trễ”, nó nghèo nàn trống rỗng và đơn điệu. Các giáo sư Phan Cự Đệ, Hà Minh

Đức, Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng những cái mới, những lý tưởng cải

cách, duy tân của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn thiếu cơ sở xã hội, chỉ là vừa

tầm, chỉ có tác dụng lấp đầy tâm hồn trống rỗng của một bộ phận thanh niên

thành thị lúc bấy giờ.

Tiểu kết chương 2

Trên chặng đường phát triển của văn chương Việt Nam những năm 30 của

thế kỷ XX Khái Hưng đã góp phần mang đến một tiếng nói mới, một giá trị

mới. Là nhà văn trí thức Tây học theo lập trường duy tân cấp tiến, ông có một

quan niệm về xã hội và văn chương khá tiến bộ. Tiểu thuyết luận đề của nhà

văn vừa là bản cáo trạng phê phán lễ giáo, đại gia đình phong kiến, vừa quảng

bá, khẳng định ý thức, quyền sống cá nhân, nếp sống Âu hóa, cho thấy ước

mong đổi mới xã hội, đồng thời cũng nói lên những băn khoăn về tình trạng

suy đồi trụy lạc của một bộ phận thanh niên dưới chế độ cũ. Bằng tài năng và

những chiêm nghiệm từ cuộc sống, Khái Hưng đã miêu tả chân thực, sinh động

những bế tắc của một bộ phận thanh niên trí thức đương thời. Những tính chất

luận đề nêu trên không phải chỉ có trong sáng tác của Khái Hưng. Tuy nhiên

tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng vừa mang những nét chung của tiểu thuyết

Tự lực văn đoàn, vừa có những nét riêng khá rõ.

46

Chương 3

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu

3.1.1. Cốt truyện

Cốt truyện trong tác phẩm tự là sự miêu tả một cách nghệ thuật các sự kiện,

hoạt động trong đời sống nhân vật diễn ra trong không gian và thời gian. Ngoài các

mối liên hệ không gian, thời gian, nhân quả ở bên ngoài, giữa các sự kiện còn có

mối liên hệ về cảm xúc bên trong tạo thành hành vi kết cấu của cốt truyện. Theo Từ

điển thuật ngữ văn học, cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức

theo yêu cầu tư tưởng và yêu cầu nghệ thuật, tạo thành bộ phận cơ bản, quan

trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và

kịch” [13, tr. 99 ].

Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung

(chủ đề tư tưởng và tính cách, tính cách và hoàn cảnh) và các yếu tố thuộc hình

thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu…) của tác phẩm. Cốt truyện và kết

cấu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc liên kết hệ thống chủ đề và hệ

thống tính cách, hệ thống tính cách và hệ thống sự kiện càng hoàn thiện bao

nhiêu sẽ làm cho cốt truyện chặt chẽ bấy nhiêu. Ngược lại cốt truyện càng chặt

chẽ càng có ảnh hưởng tốt đến kết cấu chung.

Tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc mềm mại uyển chuyển nhất. Thành phần

cốt truyện của nó vẫn chưa rắn lại. Theo ý nghĩa khái quát nhất, cốt truyện là

những sự việc xảy ra, nhưng mỗi thời đại, mỗi xu hướng, mỗi nhà văn lại có sự

lựa chọn, tổ chức cốt truyện theo một cách thức riêng. Có người lựa chọn, tổ

chức, kết cấu câu chuyện theo diễn biến thời gian tự nhiên, có người tổ chức

theo tâm lý, có người lại viết những truyện “không có truyện nữa”, chỉ gợi ra

những sự kiện, biến cố, để người đọc tự sắp xếp, tự hiểu lấy.

Ở miền Nam trước đây, Doãn Quốc Sĩ trong Văn học và tiểu thuyết, đã

đưa ra một cách hình dung về sự phát triển của cốt truyện trong lịch sử tiểu

thuyết bao gồm bốn giai đoạn như sau:

47

“Vào thuở ban đầu, những truyện thần thoại, cổ tích (loại truyện truyền

khẩu qua nhiều thời đại), cốt truyện gay cấn, hấp dẫn dàn trải lên bề mặt;

những loại truyện giải trí phươu lưu, trinh thám, kỳ tình về sau cũng vậy; sau

đó cốt truyện chìm xuống thể nhập vào những nhân vật để giải thích chiều sâu

những động cơ luân lý xã hội, kế tiếp cốt truyện còn chìm xuống chiều sâu nữa

để thể hiện con người suy tư đối diện với những vấn đề siêu hình. Cốt truyện,

linh hồn của tiểu thuyết còn đó, chỉ biến thể đi thôi. Ai có thể quan niệm nổi

một thứ tiểu thuyết không cốt truyện. Vậy mà điều đó đã xảy ra với trường phái

tiểu thuyết Mới!” [41, tr. 248 ].

Các nhà nghiên cứu đều cho rằng kết cấu và cốt truyện trong tiểu thuyết

luận đề của Tự lực văn đoàn nói chung và của Khái Hưng nói riêng đã có nhiều

nét mới.

Cốt truyện giản dị, gần gũi

Ở thời kì văn học trung đại, người ta hay xây dựng cốt truyện với những

tình huống kịch tính, éo le và những chi tiết hoang đường kì ảo. Bởi đó là tiêu

chí đánh giá sự hấp dẫn, là yếu tố quyết định sự thành bại của tác phẩm. Cho

nên nhà văn chú trọng miêu tả cốt truyện hơn việc miêu tả tính cách nhân vật.

Sang đầu thế kỉ XX, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh dù đã có một số

đổi mới về nghệ thuật, nhưng về cơ bản cốt truyện vẫn mang tính truyền thống.

tác giả vẫn còn quá chú trọng vào những hành động, sự kiện. Đến tiểu thuyết

của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn cốt truyện đã có sự thay đổi rõ rệt.

Khái Hưng và những người Tự lực đã từ bỏ quan niệm văn chương tải

đạo, đề cao thứ văn chương gắn bó với cuộc đời. Họ thường nói: viết văn là

viết những điều trông thấy, nghe thấy, viết về những vấn đề nảy sinh trong đầu.

Khái Hưng không sử dụng cốt truyện ly kì, vay mượn, khuôn sáo. Ông lấy

nhân vật làm trung tâm của tác phẩm, đi sâu vào miêu tả những chi tiết tưởng

chừng như rất đơn giản trong bộn bề cuộc sống thường ngày nhằm làm nổi bật

tính cách, số phận của con người.

Từ những năm 1932, 1933, trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của

mình, và cũng là của Tự lực văn đoàn - Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân,

48

Khái Hưng đã xây dựng cốt truyện theo lối mới. Ông dường như muốn chối bỏ

những cốt truyện viết theo lối chương hồi, nệ cổ, vay mượn, khuôn sáo. Ông

không lựa chọn những chi tiết ly kỳ, hấp dẫn. Truyện của Khái Hưng giản dị,

gần gũi, lấy từ cuộc đời thật. Đầu năm 1934, khi viết lời Tựa cho Vàng và máu

của Thế Lữ, Khái Hưng đã phát biểu rõ quan niệm của mình. Ông cho rằng

truyện phải “gần như thực”, “trong truyện không sự gì đưa ra mà không hợp lý

không một cái kết quả nào là không có nguyên nhân chắc chắn, vững vàng”.

Nhà văn không thể “dễ dãi quá”, không thể “đem trí tưởng tượng ra mà bịa đặt

có khi không cần hợp lý chút nào. Trong thực tế sáng tác, Khái Hưng đã nỗ lực

xây dựng cốt truyện theo đúng tinh thần như vậy.

Cốt truyện trong Hồn bướm mơ tiên, là một chuyện tình “dưới bóng từ bi

Phật tổ”. Khái Hưng đã tạo dựng một câu chuyện riêng tư, một không khí yêu

đương giữa cảnh chùa chiền. Thông qua một cốt truyện giản dị, không khai

thác sâu vào những quan hệ éo le, phức tạp của đời sống xã hội, tác phẩm đã

chiếm được cảm tình của người đọc. Đó là câu chuyện về chàng sinh viên

“Ngọc gặp chú tiểu Lan ở chùa Long Giáng, kiều diễm trong bộ áo tu hành.

Ngọc ngờ Lan là gái nên đã để tâm theo dõi. Cốt truyện có sức hấp dẫn trước

tiên là ở sự truy tìm giữa cái thực và cái hư. Lan là con gái hay là con trai? Tại

sao người con gái xinh đẹp này lại phải cải trang và xin gửi mình vào nơi cửa

Phật. Điều bí ẩn ấy là cái mà Ngọc tìm kiếm và cũng là mối quan tâm ở người

đọc. Càng thấy mình đoán trúng, Ngọc càng đem lòng yêu. Lan không khỏi bồi

hồi: ái tình nảy nở trong tâm hồn cô gái đi tu! Lan đấu tranh để khỏi sa ngã.

Thái độ muốn dứt khoát, nhưng lòng vẫn cứ yêu. Ngọc cũng chẳng gạt bỏ được

mối tình. Kết cục hai người xa nhau, mà “yêu nhau trong linh hồn trong lí

tưởng”… mà vẫn có thể gặp nhau” [36, tr. 67]. Lan mộ đạo Phật, vẫn ở lại

chùa, tuy nhiên tâm trí cô đã vương vấn sự đời. Tác phẩm kết thúc trong khung

cảnh: “Bây giờ sắc trời dìu dịu, vạn vật như theo tiếng chuông chiều thong thả

sắp rơi vào quãng êm đềm tịch mịch.

Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất

quanh co lượn khúc dưới chân đồi.

49

Gió chiều hiu hiu…

Lá rụng!” [47, tr. 59].

Tiểu thuyết Nửa chừng xuân kể về cuộc đời một người con gái nền nếp, có

nhan sắc, cha mẹ mất sớm, cô phải nuôi em trai ăn học. Mai yêu Lộc con của

gia đình có quyền thế. Lộc là một trí thức mới, anh đã nhiệt tình giúp đỡ Mai

vượt qua những khó khăn. Hai người vừa là chỗ quen biết cũ, vừa nặng ân

nghĩa, lại đằm thắm say mê trong tình yêu tự do. Song hạnh phúc của hai người

đã bị lễ giáo của đại gia đình phong kiến ngăn cản. Vì mẹ không chấp nhận nên

Lộc đã phải nhờ một bà cụ già làm bà Án để tiến hành việc hôn lễ. Biết rõ điều

đó nhưng do yêu Lộc, Mai vẫn chấp nhận để rồi hai người sống chung hạnh

phúc với nhau. Bà Án (mẹ Lộc) đã tìm ra tổ ấm đó và quyết phá vỡ hạnh phúc

của cặp vợ chồng trẻ bằng nhiều mưu kế xảo quyệt. Lộc đã mắc vào mưu kế

của bà Án, anh nghi ngờ Mai và vâng lời mẹ lấy con gái ông Tuần. Nhưng rồi

vợ chồng Lộc sống với nhau không hạnh phúc, không có con. Bà Án lại tìm

gặp Mai để đòi lại đứa cháu nhỏ nhưng không được chấp nhận. Khi biết rõ Mai

là người trong trắng, Lộc vô cùng đau khổ, chàng tìm gặp cô để tạ lỗi và xin

được đoàn tụ. Dù vẫn yêu Lộc nhưng Mai đã kiên quyết từ chối và khuyên anh

hãy giữ mãi tình yêu đó. Với cốt truyện như vậy, tác phẩm là đòn tấn công vào

lễ giáo và đại gia đình phong kiến và khẳng định quyền tự do hôn nhân của lớp

thanh niên, những con người mới lúc bấy giờ.

Tiểu thuyết Thừa tự kể về gia đình ông Án. Ông có 3 người vợ. Khi vợ cả

và vợ hai mất đi, quyền lực rơi vào tay người vợ ba. Khi ông Án qua đời, con

cái đã trưởng thành và ra ở riêng. Bà Ba ở cùng cô con gái trong sự giàu có.

Mỗi người một cuộc sống, tưởng như không làm phiền gì đến nhau. Nhưng rồi

đến một ngày, bà Ba ngỏ ý muốn được một trong hai anh em Trình và Khoa

(con bà hai) nhận làm thừa tự. Cả Trình và Khoa đều cảm thấy việc thừa tự bà

Ba là không thích hợp. Nhưng hai anh em lại ở cạnh nhau nên những người vợ

tò mò, thóc mách của họ bắt đầu sinh chuyện khiến anh em hiểu lầm lẫn nhau.

Mâu thuẫn căng thẳng đến mức họ không nhìn mặt nhau nữa. Sau đó nhờ Bỉnh

(con bà cả) khuyên nhủ, hai bên mới hiểu ra đó là chuyện hão và khẳng định

50

không nhận thừa tự. Bà Ba lại mang món hời này đi kén rể và đã gả được Cúc

(con gái bà) cho cậu cử Phan, con một bà huyện chuyên đi “đào mỏ” mà không

mất một đồng xu nào cho chàng rể.

Cùng với Nửa chừng xuân, Thừa tự, hai tiểu thuyết Gia đình và Thoát ly

vẫn là những truyện kể về xung đột giữa phái trẻ và phái già trong các gia đình

quyền thế. Thời thế đổi thay, các thế hệ bố mẹ, cha chú và con cháu không

cùng một quan niệm sống nữa. Giữa họ xung đột về tư tưởng, tình cảm, lối

sống đã trở nên gay gắt, khó bề hàn gắn. Nếu như ở Nửa chừng xuân là xung

đột giữa cha mẹ và con cái, giữa trẻ và già về quan niệm hôn nhân và gia đình

thì Thoát ly và Thừa tự là xung đột giữa mẹ ghẻ và con chồng. Những người

con chồng càng thức tỉnh về ý thức cá nhân, về quyền sống của con người thì

mâu thuẫn ấy càng trở nên quyết liệt. Tiểu thuyết Gia đình lại là xung đột giữa

tư tưởng sống tự do của lớp người mới với những định kiến, tập tục của lễ giáo

và đại gia đình phong kiến.

Như vậy có thể nói Khái Hưng đã không sử dụng cốt truyện sẵn có trong

văn học dân gian hay vay mượn từ văn học Trung Quốc. Ông lấy cốt truyện từ

trong chính hiện thực cuộc sống và dùng hư cấu nghệ thuật để xây dựng nên

những tác phẩm đặc sắc, có giá trị về mặt tư tưởng. Cốt truyện trong tiểu thuyết

của Khái Hưng đã được xây dựng theo lối mới. Nó bình thường, giản dị, gần

gũi với cuộc sống. Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đúng là truyện và người

của cuộc đời thật, là cảm nghĩ chân thành của tác giả trước hiện thực bên ngoài.

Chính sự cách tân cốt truyện truyền thống này đã góp phần đổi mới văn học

Việt Nam hiện đại.

Cốt truyện đa tuyến, mở và không có hậu

Nếu cốt truyện trong các tiểu thuyết của Nhất Linh (Đoạn tuyệt, Đôi bạn)

và Hoàng Đạo (Con đường sáng) thường đơn tuyến, chặt chẽ, hợp lô gíc thì cốt

truyện trong tiểu thuyết của Khái Hưng thường đa tuyến. Với cốt truyện như

vậy, ông có thể mở rộng phạm vi phản ánh, đánh giá, lý giải của tác phẩm.

Tiểu thuyết Nửa chừng xuân ngoài việc kể về chuyện tình giữa Mai và

Lộc (tuyến chính), Khái Hưng còn cho thấy cuộc sống, số phận, tính cách của

51

những nhân vật khác (tuyến phụ). Đó là chuyện về một cụ Hàn với ba bà vợ mà

vẫn tìm đủ mọi thủ đoạn ép Mai về làm thiếp. Là câu chuyện tình yêu đơn

phương nhưng say đắm của Minh và Bạch Hải giành cho Mai. Hay chuyện về

một cô gái xinh đẹp, bản chất tốt nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy mà trở thành gái

giang hồ bị xã hội coi thường, khinh rẻ…Tất cả các nhân vật, các sự kiện trong

tác phẩm đều hướng vào việc làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của Mai.

Tiểu thuyết Gia đình kể về quan niệm hôn nhân và gia đình của những thế

hệ khác nhau. Đó là quan niệm của thế hệ đi trước như: ông án Báo, ông điều

Vạn (chú của An), bố mẹ Viết, bố mẹ Hạc…và của thế hệ sau như: An, Nga,

Phụng, Viết, Hạc, Bảo…

Ở tiểu thuyết Thoát ly, ngoài tuyến chính là xung đột giữa Hồng và bà

Phán còn có những tuyến phụ như: xung đột giữa Lương, Yến và bà Thông với

dì ghẻ. Khái Hưng vừa miêu tả sự đấu tranh nhu nhược của Hồng vừa miêu tả

thái độ đấu tranh kiên quyết, mạnh mẽ của Hảo (chị Hồng) và vợ chồng bà

Thông. Qua đó tác giả cho thấy gia đình truyền thống đã rạn nứt, lỗi thời,

không có hạnh phúc trọn vẹn, chỉ có gia đình mới, được xây dựng trên cơ sở

tình yêu tự do mới có niềm vui và hạnh phúc đủ đầy.

Nếu kết thúc truyện cổ bao giờ cũng là cái kết có hậu thì tiểu thuyết của

Khái Hưng không đem lại những kết thúc trọn vẹn.

Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên kết thúc khi Lan và Ngọc vẫn chưa trở

thành vợ chồng. Dẫu tâm hồn Lan đã vương vấn sự đời, nhưng cô vẫn say đạo

Phật hơn. Ngọc cũng thề là suốt đời sẽ “không lấy ai, chỉ sống trong thế giới

mộng ảo của ái tình lí tưởng, của ái tình bất vong, bất diệt” [47, tr.59].

Tác phẩm Nửa chừng xuân khép lại mà hai nhân vật chính vẫn chưa đoàn

tụ bên nhau. Dù Lộc đã hối hận và thành thật tạ lỗi với Mai, nhưng cô vẫn

không chấp nhận trở lại sống cùng chàng, vì cô chọn “yêu nhau ở ngoài sự sum

họp” [47, tr. 238].

Các tiểu thuyết Trống mái, Gia đinh, Thoát ly,Thừa tự cũng đều có cốt

truyện mở, không có hậu.

52

Cốt truyện chú trọng tâm lý và dung hợp Á- Âu

Khi xây dựng cốt truyện, Khái Hưng không chú trọng tái hiện trực tiếp đời

sống, không chú trọng diễn tả những sự kiện, biến cố bề ngoài mà thường chú ý

đến diễn biến nội tâm. Khái Hưng thường đi sâu miêu tả thế giới bên trong của

con người. Khi kể chuyện ông thường quan tâm nhiều đến phản ứng bên trong

của các nhân vật. Truyện của nhà văn thường có mở đầu và kết thúc là những

diễn biến tâm trạng, quá trình diễn biến câu chuyện cũng hay xuất hiện những

cảm xúc, suy tư. Khái Hưng không tường thuật sự kiện theo diễn biến thời gian

của tự nhiên mà theo diễn biến tâm lý.

Ngay ở cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng đã xây

dựng cốt truyện chú trọng đến tâm lý nhân vật. Ở đó tác giả tập trung miêu tả

tình yêu lãng mạn của đôi nam nữ thanh niên. Nhà văn cho chúng ta thấy cả

một quá trình diễn biến tâm lý tỉ mỉ của hai nhân vật. Trước hết là cái cảm tình

nảy sinh trong buổi đầu gặp gỡ. Tiếp đến “Ngọc ngờ tiểu Lan là gái, cái cảm

tình ấy ngày một tăng lên, cho đến khi Ngọc biết chắc tiểu Lan là gái rồi thì

tình yêu đã tràn ngập trong lòng Ngọc. Lan cũng có cảm tình với Ngọc, cô

ngày càng thân mật với Ngọc hơn, nhưng vẫn trốn tránh tình yêu, mà ghen,

ghen vì yêu, muốn cho Ngọc đi xa mà lại thầm mong Ngọc ở lại. Cuối cùng khi

Ngọc ra đi, hẹn “ngày khác sẽ gặp nhau” Lan có vẻ nghĩ ngợi nhìn Ngọc, mỉm

cười không nói gì, sẽ gật. Rồi Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn

xuống con đường quanh co lượn khúc dưới chân đồi” [47, tr. 69].

Cốt truyện trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân cũng chú trọng đến tâm lý.

Mở đầu tác phẩm này Khái Hưng miêu tả Mai “dùng dằng lo sợ” và như “có

điều tư lự”. Sau đó nhà văn tái hiện dòng tâm tư của Mai trước cảnh chiều xuân

Tây hồ, hay trước cảnh mưa xuân…Thế rồi Mai gặp Lộc, được Lộc giúp đỡ, cô

đã yêu mến, biết ơn và sẵn sàng lấy Lộc. Mai đau khổ, cầu xin, van nài bà Án

chấp nhận cho mình kết duyên cùng Lộc. Cuối cùng là nỗi niềm băn khoăn,

luyến tiếc của Mai khi không thể sống chung cùng Lộc.

Tiểu thuyết Trống mái cũng được kể theo diễn biến tâm lý của nhân vật.

Tác giả chủ yếu tập trung miêu tả tâm trạng cô Hiền. Khi mới vào Sầm Sơn nghỉ

53

mát cô rất buồn chán. Từ lúc gặp Vọi, Hiền bắt đầu vui vẻ, thích thú. Cô theo Vọi

đi xem hòn Trống Mái, nhờ Vọi chở mảng đi tắm biển, mời Vọi đến dự tiệc trà.

Hết kỳ nghỉ mát, Hiền trở về thành phố khiến Vọi ốm tương tư và chết khiến cho

Hiền ân hận, hối tiếc.

Mở đầu tiểu thuyết Thừa tự là băn khoăn của Bỉnh, Trình, Khoa về thái độ

thay đổi đột ngột của bà Ba. Sau đó, tác phẩm mới đi sâu phanh phui âm mưu của

bà Ba, và sự lục đục, bất hòa giữa hai gia đình Trình, Khoa. Mâu thuẫn ấy được

giải quyết khi vợ chồng Bỉnh phân tích phải trái, Trình, Khoa, Chuyên, Tính đã

hòa giải và dứt khoát không nhận thừa tự.

Đây là một bước chuyển biến rõ rệt so với truyện thơ Nôm thời trung đại

và tiểu thuyết ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Thừa nhận đóng góp này của Khái

Hưng, nhà nghiên cứu Trương Chính viết: “Trước Hồn bướm mơ tiên những

quyển tiểu thuyết mà người ta gọi là tâm lí tiểu thuyết không tâm lí chút nào cả.

Tác giả chúng nó không có óc quan sát, không có tài giải phẫu. Muốn che lấp sự

kém cỏi về khoa tâm lý của họ và muốn cảm động người đọc, họ đã bằng lòng đặt

nhân vật trong truyện vào những cảnh huống đặc biệt, rắc rối, bi đát, nhưng không

thực chút nào, và họ phải phiên dịch những đoạn đã cóp được trong tiểu thuyết

Tây, hay phải gọt những câu văn kêu và rỗng, làm rẻ giá cuốn truyện.

Ông Khái Hưng dùng một cách phô diễn tâm lý khác hẳn, giản dị hơn,

nhưng tinh tế hơn” [47, tr. 61].

Một số tiểu thuyết của Khái Hưng còn có cốt truyện dung hợp Á - Âu. Các

cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình,

Thoát ly, Thừa tự… vừa giữ được vẻ thi vị của phương Đông, vừa viết theo lối

khoa học của phương Tây.

Tuy có hoàn cảnh riêng nhưng câu chuyện tình yêu của một cô gái đẹp

nương nhờ nơi cửa Phật trong tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên khiến người ta

liên tưởng đến vở chèo Quan âm thị Kính. Đồng thời cũng cho bạn đọc thấy ái

tình hiện đại của đôi nam nữ thanh niên Lan và Ngọc ở chốn từ bi. Tiểu thuyết

Nửa chừng xuân vừa gợi nhớ câu thơ “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên

hương” trong Truyện Kiều vừa cho thấy tình yêu của lớp người mới trong sáng,

54

nồng nàn, thi vị. Tiểu thuyết Trống mái có nét giống với các truyện Chử đồng

tử, Trương Chi, hay truyện Cây tre trăm đốt. Nhưng đó cũng là truyện về cô

gái mới ở thành thị, vừa xinh đẹp, vừa dễ tính lại có lòng tốt. Cô đã khơi dậy

những rung động âm thầm, những nhớ nhung và tương tư ở anh chàng đánh cá

ngây thơ, chất phác. Sự tàn ác, cay nghiệt của người dì ghẻ trong tiểu thuyết

Thoát ly làm ta liên tưởng đến truyện cổ tích Tấm Cám, đến câu ca dao “Mấy

đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”. Song đó cũng

là câu chuyện cảm động về một cô gái mới đã thức tỉnh quyền sống cá nhân,

yêu thích cuộc sống tự do, tự lập. Cô đứng lên đấu tranh chống lại sự áp chế,

đọa đày tàn ác của dì ghẻ.

Như vậy, cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã được xây

dựng theo lối mới. Nó giản dị, gắn với cuộc đời thực, mở, đa tuyến, không có

hậu, chú trọng tâm lý nhân vật và đôi khi có sự dung hợp Á - Âu. Nhà văn đoạn

tuyệt với lối viết chương hồi, khuôn sáo, vay mượn. Cốt truyện của ông cũng

không ly kì hấp dẫn, không đặt trọng tâm ở tuyến sự kiện. Có lẽ, do sự kết hợp

truyền thống tự sự của dân tộc và phương Đông với nghệ thuật tiểu thuyết của

phương Tây cho nên tiểu thuyết của Khái Hưng vừa mới mẻ vừa trở nên gần gũi,

quen thuộc, được đông đảo độc giả yêu mến và đón nhận.

3.1.2. Kết cấu

Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm” [13, tr. 156].

Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ chức tác

phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài

giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong. Bố cục

là một phương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: “tổ chức

hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm, tổ

chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày,

bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện…sao cho toàn bộ tác phẩm trở thành một

chỉnh thể nghệ thuật” [13, tr. 157 ].

Kết cấu trong truyện cổ thường theo công thức: gặp gỡ - li biệt - đoàn tụ.

Với kết thúc có hậu, nhân vật cuối cùng được sống trong hạnh phúc viên mãn.

55

Do đó, cốt truyện không phát triển theo lô gic mà theo ý muốn chủ quan của tác

giả. Truyện thường kể theo trình tự thời gian tự nhiên và kết cấu thường song

tuyến nhân vật với hàng loạt sự kiện, hành động. Tác phẩm luôn bị gò theo

những mô típ quen thuộc như: chính - tà, thiện - ác, tài tử - giai nhân...

Đến đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã có những thay đổi lớn lao.

Trước những ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học ta đã từ bỏ kết cấu

chương hồi truyền thống và thay vào đó là kết cấu tâm lý mới mẻ, hiện đại.

Nhưng trước những năm 30, tiểu thuyết Nho phong của Nhất Linh về cơ

bản vẫn theo thi pháp văn học trung đại, các sự kiện vẫn diễn ra theo trật tự thời

gian một chiều. Chuyện tình giữa nàng Lê Nương và chàng Dương Văn được

xây dựng theo kết cấu quen thuộc: gặp gỡ, tai biến và đoàn tụ. Nhìn chung, về

mặt kết cấu, tiểu thuyết Nho phong vẫn mang đậm dấu ấn của truyện thơ truyền

thống và dấu vết của tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại.

Thay cho kiểu kết cấu chương hồi trong truyện cổ, tiểu thuyết Tự lực văn

đoàn đã sử dụng kết cấu theo lối mới. Kiểu kết cấu này đã làm thay đổi toàn bộ

thi pháp tiểu thuyết của lớp nhà văn đi trước.

Tiểu thuyết của Khái Hưng “là những tác phẩm có đầu, có đuôi, sự việc

diễn ra theo trình tự hợp lý, và dù không phải là tiểu thuyết luận đề đi nữa thì

mỗi tác phẩm cũng có một chủ đích , một dụng ý mà mọi người đều hiểu được”

[45, tr. 36 ]. Có đầu, có cuối không phải là gặp việc gì thì cứ thuật từ đầu đến

cuối, rồi mới kể tiếp đến việc khác. Giáo sư Phan Cự Đệ nhận định: “Hầu hết

những cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng đều kết cấu theo quy luật

tâm lý, chứ không theo trình tự thời gian của các sự kiện (…). Nói chung, Tự

lực văn đoàn đã xây dựng được một loại tiểu thuyết có kết cấu và cốt truyện

chặt chẽ…” [3, tr. 87].

Các tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái…đều có

kết cấu tâm lý khác nhau. Qua đó tác giả nhằm miêu tả những diễn biến tinh vi,

phức tạp của đời sống nội tâm nhân vật. Các hành động của nhân vật đều được

bộc lộ từ sự khởi động của căn nguyên tâm lý phức tạp. Cách mở đầu tiểu

thuyết của Khái Hưng rất tự nhiên, dễ dàng dẫn dắt người đọc đi vào số phận,

56

cuộc đời nhân vật để cùng chia sẻ, đồng cảm với nỗi niềm riêng của họ. Khép

lại mỗi tác phẩm đều trong cảnh chia tay, chết chóc, biệt ly…Mỗi tiểu thuyết có

một kết thúc nhưng dường như câu chuyện vẫn còn bỏ ngỏ, khuyến khích sự

phát triển ý tưởng của mỗi độc giả. Đó chính là hiệu quả của lối kết cấu mở

trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng.

Hồn bướm mơ tiên là tác phẩm mở đầu cho một lối viết mới. Theo Thanh

Lãng thì “Hồn bướm mơ tiên khép hẳn một thế hệ nghệ thuật và mở ra một thế

hệ khác hẳn” [23, tr 753 ]. Khái Hưng đã đổi mới văn chương từ bản chất đến

thể chất hay nói khiêm tốn hơn, ông đã đem vào văn chương một hình thức

nghệ thuật mới. Trước kia, cuốn tiểu thuyết nào cũng gợi ra một mỗi buồn u

uất, cũng bao hàm những ý tưởng đen tối, làm tiêu tan những sinh lực bồng bột

trong lòng người. Nhân vật trong truyện bao giờ cũng vâng theo một luật lệ bất

di bất dịch: không thể thực hiện được những nguyện vọng cao xa vì thân thế, vì

gia đình, vì xã hội. Họ chỉ biết khóc than, rồi một ngày kia ngã trên giường

bệnh, hay kết liễu đời mình bằng thuốc phiện, giấm thanh, hay bằng một cách

nào khác, nhưng vẫn hèn nhát như nhau. Tiểu thuyết của Khái Hưng không như

thế. Người trong truyện của ông trẻ trung vui vẻ, yêu đời, ham sống chứ không

đau buồn, ủy mỵ. Ngọc gặp Lan rồi hai người thầm yêu trộm nhớ, dẫu đến khi

ôm trong lòng một mối tình tuyệt vọng, Ngọc cũng cố tìm “trong thế giới ảo

mộng của ái tình lý tưởng” một nguồn an ủi. Chàng nói với Lan: “ Ngọc chẳng

dám mơ mộng nọ kia, chỉ ao ước thỉnh thoảng được lên chùa nhìn thấy mặt Lan

là đủ rồi. Vậy xin Lan cứ ở đây tu hành, rồi ngày Ngọc được nghỉ, lại cho Ngọc

phóng xe lên chùa gặp Lan…” [29, tr. 197 ]. Lúc chia tay chàng vẫn vui cười:

“Thôi thế chào Lan ở lại nhé. Ngày khác sẽ gặp nhau” [29, tr. 197 ]. Nụ cười

ấy, vẫn hay, cũng chẳng khác nào một tiếng khóc, mà toàn cuốn Hồn bướm mơ

tiên cũng man mác một nỗi buồn kín đáo, nhưng ta thấy ở Ngọc một tâm hồn

rắn rỏi. Ở nhiều chỗ khác trong truyện (nhất là lúc ông tả những cô gái quê đáo để,

tinh ranh) bản tính yêu đời lại phát lộ ra, thẳng thắn, hồn nhiên. “Đọc Khái Hưng

ta thấy cõi lòng sáng lên như soi dọi bởi những tia vui trong trẻo. Nói rằng Hồn

bướm mơ tiên mở một kỷ nguyên mới trong lịch sử văn học Việt Nam và tác giả

nó là một nhà luân lý cũng không phải quá đáng” [29, tr.198 ].

57

Kết cấu trong Nửa chừng xuân chủ yếu phát triển theo diễn biến tâm trạng

nhân vật nên khá tự do, linh hoạt... Trong lời giới thiệu tác phẩm Nửa chừng

xuân, Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét: “Viết Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã

có những đống góp về mặt nghệ thuật tiểu thuyết. So với những tiểu thuyết viết

ra khoảng năm sáu năm về trước, nghệ thuật tiểu thuyết trong Nửa chừng xuân

đã có những bước tiến vượt bậc. Tác phẩm có kết cấu chặt, tổ chức cốt truyện

có nhiều tình huống éo le, giàu kịch tính được sắp xếp chặt chẽ, hợp lý. Các

chương xen kẽ nhau theo trình tự không gian, thời gian hợp lý, không liên kết

theo chương hồi” [17, tr.16].

Hiện thực cuộc sống là vấn đề được các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn

quan tâm hướng tới nên không gian trong tác phẩm thường là không gian của

cuộc sống đời thường. Không gian bên ngoài đã phản chiếu không gian tâm

trạng của nhân vật. Đúng như đại thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào

cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở Nửa chừng xuân,

một không gian thê lương, ảm đạm hiện về tâm hồn Huy trong đêm cụ Tú ra đi:

“Bên ngoài, gió vẫn thổi vù vù, hạt mưa lốp bốp trên mái ngói. Văng vẳng ở

xóm xa tiếng chó sủa đêm” [17, tr. 26 ]. Nỗi buồn của con người có nhiều khi

như thấm sâu vào cảnh vật. Cho nên nhìn đâu cũng thấy không gian mịt mùng,

vô định, nhân vật cảm giác như chính thân phận mình đang nổi trôi giữa dòng

đời: “Mai tỳ tay lên bao cửa nhìn xuống con sông sâu thẳm, nước đỏ lờ đờ,

điểm hạt mưa xuân lấm tấm. Chiếc buồm trắng con xen lẫn vào bọn buồm nâu

sắc thẫm, to bản cột cao, rồi theo dòng nước, theo chiều gió trôi đi như lướt

trong cảnh rộng bao la, mà biến vào đám xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ vẩn vơ

cho số phận chiếc thuyền con lại trạnh nghĩ đến thân phận mình” [17, tr. 43 ].

Khi lòng người vui tươi, phấn khởi thì cảnh vật, không gian cũng như bừng lên

sức sống để đón chào niềm hạnh phúc. Sau lần đầu gặp Lộc, trong lòng Mai

xao động, hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Cô gái đang ở vào độ tuổi hồn

nhiên, mơ mộng ngập chìm trong niềm hạnh phúc hân hoan. Cảnh vật xung

quanh cô lúc ấy như muốn sẻ chia nỗi niềm cùng nhân vật: “Hai bên đường, lá

ngô trước gió rung động, lao xao. Cô cũng thấy người cô rung động. Cái rung

58

đông, cái cảm giác của sự sung sướng hồn nhiên của tuổi thanh xuân chứa chan

hy vọng như cái khí lực bồng bột chứa trong cây, phát ra các búp non trên cành

tơ mơn mởn” [17, tr.52 ]. Còn với Lộc: “Tia vàng ánh sáng mặt trời xuyên qua

khe cửa, Lộc tưởng tượng ngoài kia cảnh vật đương tưng bừng đón chào một

ngày quang đãng” [17, tr. 263].

Do kết cấu tâm lý nên mạch truyện trong tiểu thuyết của Khái Hưng

không theo trình tự thời gian tuyến tính mà phát triển theo dòng ý thức, theo

tâm trạng của nhân vật. Không chỉ sống trong hiện tại, các nhân vật trong tiểu

thuyết của Khái Hưng còn thường hồi tưởng lại cuộc đời của họ trong quá khứ

với cả niềm vui, nỗi buồn. Những hồi tưởng ấy giúp người đọc thấu hiểu và

cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh của nhân vật. Trong Nửa chừng xuân “Mai chỉ

cố làm ra vẻ can đảm được đến thế. Trí Mai ôn lại cuộc đời quá khứ thì thốt nhiên

lòng Mai tủi cực, thổn thức” [17, tr. 225 ]. Câu hỏi trong hiện tại đã đưa Huy quay

trở lại miền kí ức đau thương: “Câu hỏi của chị như gợi sự đau đớn ở trong lòng

Huy, như vẽ ra một bức tranh bi thảm. Hồi đó về cuối thu. Cụ Tú Lãm nằm ở

giường bệnh, người gầy xọp chỉ còn nắm xương da bọc…” [17, tr. 25].

Thời gian trong tác phẩm của Khái Hưng không phải thời gian cơ học mà

là thời gian diễn tiến theo cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Gặp lại nhau sau nhiều

năm xa cách, Lộc và Mai hạnh phúc tới mức tưởng như thời gian ngừng trôi:

“Hạnh phúc bao bọc, âu yếm hai tâm hồn khoáng đạt, đã siêu thoát ra ngoài

vòng tư tưởng nặng nề, u ám” [17, tr. 262].

Kết cấu tâm lý cũng cho phép tiểu thuyết của Khái Hưng có cách mở đầu

và kết thúc rất hiện đại: “Tác phẩm mở đầu bằng cảm giác. Kết thúc cũng bằng

cảm giác làm cho người đọc cùng thể nghiệm cảm giác với nhân vật” [42, tr. 58].

Mở đầu Nửa chừng xuân là hình ảnh Mai đang ngơ ngác bên ngoài trường bảo hộ

mong tìm gặp em. Với cách mở đầu như vậy tác giả dễ dàng dẫn dắt người đọc

đi vào số phận, cuộc đời nhân vật để cùng chia sẻ và đồng cảm với nhân vật.

Truyện cổ thường khép lại bằng một kết thúc có hậu với cảnh đại đoàn

viên. Kết thúc đó thường đem đến cho độc giả sự thoải mái về tinh thần bởi sự

thắng thế của cái thiện đối với cái ác, chính nghĩa đối với gian tà. Khác với

59

truyện cổ, tiểu thuyết của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn có kết thúc mở, giúp

cho người đọc có nhiều liên tưởng phong phú, đa dạng, đưa ra nhiều hướng suy

nghĩ về cuộc đời, số phận nhân vật. Tác phẩm Nửa chừng xuân phẩm khép lại

trong cảnh chia tay đầy tiếc nuối giữa Mai và Lộc. Câu chuyện kết thúc nhưng

vẫn khuyến khích sự phát triển ý tưởng của mỗi người đọc. Liệu đây có phải là

cuộc chia tay mãi mãi hay chỉ là tạm thời? Liệu Mai và Lộc có trở về bên nhau

để tiếp tục tình yêu say đắm còn dang dở…Rất nhiều câu hỏi vẫn đươc đặt ra

khi câu chuyện kết thúc nhưng tác giả lại để người đọc tự đưa ra kết luận theo

suy nghĩ riêng của mỗi người. Cuốn tiểu thuyết khép lại nhưng số phận, cuộc

đời nhân vật vẫn ám ảnh, day dứt mãi trong tâm tư người đọc. Đó chính là hiệu

quả mà lối kết cấu tâm lý trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng nói riêng,

của Tự lực văn đoàn nói chung đem lại cho văn học Việt Nam giai đoạn đâù

thế kỉ XX.

Gia đình là bức tranh phong tục và tâm lý của một gia đình quyền quý.

Ông bà án Báo có ba cô con gái Phụng, Nga và Bảo. Phụng lấy chồng là Viết

làm tri huyện. Nga lấy An đậu tú tài rồi về làm ruộng. Bảo lấy Hạc, sinh viên

trường thuốc bỏ học đi làm đồn điền. Nga ghen với cái danh “bà huyện” của

chị nên lo lắng, thúc giục chồng tiếp tục đi học để thi ra làm quan. An có tâm

hồn phóng khoáng nhưng nhu nhược, sau phải ngả theo vợ lên Hà Nội học luật

rồi ra làm tri huyện. Chàng có dịp nếm trải tất cả cái bề trong thối nát và trống

rỗng của nghề làm quan. Nga thì bắt đầu toại nguyện vì đã lập được công danh

cho chồng, trả thù được chị. Nhưng An lừng khừng không chịu bóc lột dân để

tích cực làm giàu, kéo dài cuộc sống chơi bời chán nản nên Nga cũng sinh buồn

phiền. Trong khi đó vợ chồng Hạc dứt khoát với thành kiến và hư danh, lập đồn

điền, làm công cuộc xã hội, sống đơn giản, thấy hạnh phúc ở chỗ làm hạnh

phúc cho người khác.

Thoát ly là một chuyện dì ghẻ con chồng. Con chồng ở đây là cô Hồng,

thiếu nữ dịu dàng, đáng thương. Mẹ mất từ năm Hồng lên sáu tuổi, cha cô là

ông phán Trinh để vợ lẽ cầm quyền trong nhà. Đó là một người đàn bà nham

hiểm, kiêu căng, nanh ác, coi Hồng như quân thù và tìm mọi dịp để hành hạ.

60

Hồng mơ tưởng thoát ly bằng nhận lấy Thân nhưng run rủi thay, sắp làm lễ

cưới thì Thân chết. Cái viễn tưởng tù ngục kéo dài. Nhân một dịp đi chơi Hà

Nội, Hồng gặp Lương, một giáo sư ngỏ ý thương nàng. Mới đầu Hồng chê

Lương xấu trai sau biết Lương thành thật nên cảm động và, muốn xây dựng với

chàng. Nhưng dì ghẻ để tâm phá hoại cho kỳ được hạnh phúc của nàng. Bà bày

mưu, dương bẫy để Hồng mang tiếng là lẳng lơ, chim giai. Cuối cùng Hồng

liều trốn đi Hà Nội tìm Lương. Nhưng Lương từ khi thất tình vì Hồng đã sống

trụy lạc với vũ nữ. Hồng tuyệt vọng toan tự tử, nhờ chị em biết, khuyên giải,

nên lại phải trở về gia đình. Nàng sống trong suy mòn vè tinh thần, thể chất rồi

ốm không ai săn sóc thuốc thang, phải chết trên giường bệnh trước con mắt vẫn

đầy nanh ác và lỗ miệng tru tréo của dì ghẻ. Chết đối với nàng chính là một

cách thoát ly.

Thừa tự lại vạch ra diễn biến tâm lý bên trong một gia đình quyền quý

khác. Ông án Thân có hai đời vợ trước với ba người con trai là Bỉnh, Trình,

Khoa. Ba anh em tuy khác mẹ nhưng vì mẹ chết cả nên biết thương nhau. Họ

đoàn kết để chống lại người vợ ba của cha nhỏ tuổi mà vừa khôn vừa xảo

quyệt. Bỉnh chí thú nên sớm đỗ đạt rồi ra làm tri huyện. Trình và Khoa học

hành dở dang, về làng sống với ruộng vườn, bên cạnh cái gia tài kếch sù của

người dì ghẻ. Bà này chỉ được một cô con gái tên Cúc và từ khi ông Án chết thì

giữa mẹ kế và đám con chồng coi như đã đoạn giao. Câu chuyện mở ra từ quyết

định của bà Ba. Bà tỏ ý muốn chọn một trong hai anh em Trình và Khoa làm

thừa tự bà. Điều này làm đảo lộn cuộc sống của hai anh em, nhất là hai chị em

dâu trước đây vẫn hòa thuận và đồng tâm với nhau trong sự khinh ghét người dì

ghẻ giàu có. Thật ra đó chỉ là một thủ đoạn của bà Ba nhằm phá âm mưu của

bọn con chồng, mua chuộc tình cảm của họ, để gả chồng con gái được êm

thấm. Nhờ sự can thiệp của Bỉnh nên Trình và Khoa, nhất là Tính và Chuyên

dẹp bỏ được bất hòa, đồng tình khước từ đề nghị của bà Ba.

3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật

Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là phương tiện để nhà

văn khái quát hiện thực. B. Brecht đã nhận xét: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ

61

thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống, mà là

hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả” [1, tr. 213].

Chức năng của nhân vật là: “Khái quát những quy luật cuộc sống con

người, thể hiện những hiểu biết, những ao ước và kì vọng về con người. Nhà

văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan

niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát tính

cách, số phận con người và các quan niệm về chúng” [8, tr. 279]. Nhân vật là

sản phẩm của vốn sống trực tiếp và những tìm kiếm, khát khao của nhà văn.

Qua nhân vật nhà văn thể hiện được quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ

về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn với tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Trong tiểu thuyết, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc

thể hiện tư tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Nhân vật là người dẫn dắt độc giả đi

vào những thế giới khác nhau của đời sống. Từ lâu vấn đề nhân vật trong tiểu

thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong cuốn Dẫn luận thi pháp

học, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Nhân vật văn học biểu hiện cách hiểu

của nhà văn về con người theo một quan điểm nhất định và qua các đặc điểm

mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn học chính là mô hình về con người của tác

giả” [42, tr. 48].

Nhưng cũng như các yếu tố khác, cách xây dựng nhân vật của các nhà văn

trong tiểu thuyết thường rất uyển chuyển, mềm mại. Mỗi nhà văn, nhất là các

nhà văn lớn, thường có nhiều phương pháp xây dựng nhân vật mang những

cách cảm nhận và phương thức miêu tả riêng.

Suốt chặng đường sáng tác của Khái Hưng, chúng ta thấy nhà văn khá

rành tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đọc tiểu thuyết của ông, chúng ta khó có

thể quên Ngọc, chú tiểu Lan trong Hồn bướm mơ tiên, bà Án, Hàn Thanh trong

Nửa chừng xuân, An, Bảo, huyện Viết trong Gia đình, huyện Bỉnh, sư Giáp, bà

Ba trong Thừa tự...Ông biết sử dụng nhân vật đi từ tác dụng rung động đến tác

dụng xúc động, hình thái ấy cứ trở đi trở lại như sự chờn vờn của ánh sáng đối

với bóng tối nên người đọc có thể đọc liền một mạch rồi lúc nào đó lại lần dở

từng trang. Nhờ vậy tác phẩm trở thành “ruột gan” của người đọc và những cái

62

không định thuộc nó cũng bám vào trí nhớ. Để thấy rõ điều này, ta hãy đọc một

đoạn trích trong tác phẩm Nửa chừng xuân:

“Ngồi một mình trong phòng khách, tìm sẵn hết các ý tưởng để chốc nữa

đối phó với Mai, bà nghĩ thầm: “Ta lên đây là để bắt thằng cháu về…Trời ơi!

thằng bé mới kháu khỉnh làm sao!...Nhưng muốn bắt được cháu về thì chỉ có

hai cách…phải khôn khéo lắm mới được”. (…).

Mai chưa kịp trả lời thì bà Án nói luôn:

- Hôm nay tôi thân hành lên đây là vì bổn phận cũng có, nhưng điều thứ

nhất là vì…là vì…thôi có mình mợ với tôi ở đây, can gì phải úp mở…Tôi lên

đây là vì sự hối hận bắt buộc phải xin lỗi mợ.

Mai vội vàng đáp:

- Ấy chết! Cụ dạy quá lời, con đâu dám.

- Không, mợ cứ để tôi nói dứt câu đã. Phải, kể ra tôi già nua tuổi tác thế

này mà hạ mình, xin lỗi mợ thì cũng có hơi quá thật. Song thiết tưởng, bất cứ

bề trên đối với kẻ dưới, hay bề dưới đối với bề trên, ai ai cũng nhận biết lỗi

mình. Tôi, thì tôi biết lỗi ngay, tôi hối hận ngay hôm sau…khi cô… khi

mợ…bỏ nhà ra đi” [53, tr. 355 + 356 + 357]. Văn Khái Hưng đại loại như vậy

nên người đọc dễ chấp nhận, đón đọc say sưa, mỗi tác phẩm phải tái bản nhiều

lần. Ghi nhận đóng góp của ông trong việc góp phần xây dựng nền tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại, nhà văn Vu Gia viết: “Nhân vật trong tiểu thuyết của ông

không có gì là siêu nhân, là lý tưởng mà là những người chúng ta có thể gặp

thường ngày, hay đã gặp ở đâu đó, gần với chúng ta, ở cạnh chúng ta, nhưng laị

chịu đi tới tận cùng cuộc sống của chính mình” [10, tr.109 ]. Nhìn chung, Khái

Hưng đã hòa nhập vào nhân vật, nhưng biết che dấu bàn tay của mình và không

mượn cửa miệng nhân vật làm cái loa cho tác giả. Ông đặt nhân vật vào những

hoàn cảnh buộc phải phát huy hết khả năng, bản sắc cá tính của mình.

Khái Hưng khá thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Cách xây

dựng nhân vật của ông có những sáng tạo, mới mẻ, độc đáo, thể hiện một lối tư

duy mới khác biệt rõ rệt với nhân vật trong văn học trung đại. Nhà văn không

còn miêu tả nhân vật bằng những nét ước lệ tượng trưng, bằng điển cố, điển

63

tích, khuôn mẫu, không chỉ chấm phá để cốt làm nổi rõ thần thái nhân vật. Các

nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng cũng không còn chia thành hai tuyến

rõ rệt: chính diện, phản diện. Những nhân vật chính diện thường có tài, sắc.

Trai thì phong lưu anh tuấn hơn người, giỏi cầm, kì, thi họa, học vấn trác tuyệt,

nếu phải ra trận thì bách chiến bách thắng, sức dư muôn người…Gái thì khiến

cho “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Những nhân vật phản diện

thường gian ác, háo sắc, nham hiểm hại người, thông đồng với giặc, mưu lợi

cầu vinh. Trái lại đó là những nhân vật được xây dựng theo một kiểu tư duy

nghệ thuật mới, thể hiện một cách cảm nhận và một lối diễn đạt mới. Ở phương

diện này, các nhà nghiên cứu đã khẳng định vai trò mở đường và cách tân trong

nghệ thuật tiểu thuyết của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn. Tiêu biểu như ý kiến

của Phạm Thế Ngũ: “Đến đây (tiểu thuyết Tự lực văn đoàn) tiểu thuyết ta mới

đạt tới những tính cách phân biệt một tiểu thuyết tân thức. Các nhà văn trong

Tự lực văn đoàn đã thành công trong kỹ thuật xây dựng nhân vật và có ý thức

xem nhân vật là trung tâm của tác phẩm” [30, 447]. Đúng như vậy, từ những

tiểu thuyết đầu tay Khái Hưng đã viết theo lối mới. Tác giả đã không mượn

chuyện, mượn người, mượn cảnh từ văn học Trung Hoa, đã chối bỏ lối tư duy

khuôn sáo ước lệ. Tiểu thuyết của ông đã đặt trọng tâm vào nhân vật chứ không

phải cốt truyện. Nhân vật của Khái Hưng được miêu tả trong mối liên hệ tiếp

xúc tối đa với đời sống hiện thực. Hình tượng nghệ thuật được diễn tả trong đời

thường, trong cuộc sống gia đình nhưng vẫn giàu ý nghĩa xã hội. Nhà văn Vu

Gia cho rằng: “Nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng rất người. Họ đứng

sừng sững giữa cuộc đời bình thường, ngay thẳng và mãnh liệt theo đuổi sự

sống. Họ chấp nhận khổ đau, thậm chí cả cái chết để tìm ra hạnh phúc tối thiểu

mà đã là con người thì phải có” [10, tr. 107 ]. Nhà văn đã khai thác nhiều cảnh

ngộ, nhiều chi tiết chân thực, khiến cho nhân vật được miêu tả khá sinh động,

có hồn, tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.

3.2.1. Các tiểu loại nhân vật

Sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp trong những năm 30 của thế kỉ

XX, một số trí thức đã nhận thấy sức mạnh của phương Tây và sự lạc hậu của

64

xã hội ta. Họ không bằng lòng với thực trạng của nước nhà và muốn thoát khỏi

tình cảnh lệ thuộc. Họ thấy cần phải nâng cao dân trí, cải tạo xã hội. Nhưng họ

không phủ nhận triệt để, không thấy cần thay đổi tận gốc rễ chế độ hiện thời.

Bởi thế Tự lực văn đoàn đã dùng báo chí, văn chương, nghệ thuật và các hoạt

động xã hội để vận động cải cách trong khuôn khổ một nước thuộc địa. Các tác

phẩm văn chương của họ đóng một vai trò không nhỏ trong tiến trình vận động

đổi mới. Họ mô tả cuộc đấu tranh mới - cũ, tích cực cổ vũ, quảng bá, nâng cao

đời sống mới. Từ những quan niệm mới về con người, Khái Hưng cùng những

nhà văn Tự lực không chấp nhận mô hình con người cũ, những con người của

gia đình, họ hàng, làng xã. Đồng thời thế vào đấy, họ tập trung đề cao, khẳng

định mẫu hình nhân vật mới. Đó là những con người trẻ tuổi, tân thời, được tiếp

thu văn minh phương Tây nên rất trọng tự do cá nhân.

Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã thể hiện một quan niệm, một cách

cảm nhận mới về con người. Ở đó nhân vật đã không còn những ước lệ, công

thức như trong văn học cổ. Tác giả đã ý thức rất rõ về nhiệm vụ của nhà tiểu

thuyết “là chỉ tả ra những cảnh ngộ, những hình trạng, những tính tình của một

xã hội, của một thời đại mà thôi” [47, tr. 86]. Trong hành trình sáng tạo, tác giả

đã nỗ lực tìm tòi khám phá, mô tả mẫu hình con người ở thời đại của ông.

Nhân vật đại diện cho lễ giáo và đại gia đình phong kiến

Khái Hưng là nhà văn Tây học, được tiếp thu những tinh hoa văn hóa, văn

học phương Tây. Hơn nữa, sinh ra trong một gia đình quan lại, Khái Hưng hiểu

rõ những xấu xa, bi kịch trong các gia đình quyền thế. Với lập trường duy tân

cấp tiến cùng sự trải nhiệm cuộc sống của bản thân, theo Mục đích, Tôn chỉ của

Tự lực văn đoàn, Khái Hưng đã khám phá, miêu tả những mẫu hình nhân vật

đại diện cho lễ giáo và đại gia đình phong kiến.

Dưới cái nhìn của Khái Hưng và các nhà văn Tự lực, lễ giáo phong kiến

cũng như lối sống cũ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Đó là thế lực cản trở tiến bộ,

văn minh cần phải kiên quyết loại bỏ. Tư tưởng, thái độ ấy như một nguyên tắc

65

cơ bản chi phối tư duy nghệ thuật và sự tìm tòi, khám phá, miêu tả nhân vật của

Khái Hưng.

Khái Hưng có sở trường trong việc xây dựng những nhân vật phụ nữ đại

diện cho tầng lớp trên. Tuy hoàn cảnh, địa vị, hành động, tính cách mỗi người

một khác nhưng họ đều là đại diện của giai cấp phong kiến và tiểu tư sản.

Hình tượng bà Án, biểu tượng của lễ giáo và đại gia đình phong kiến được

Khái Hưng khắc họa rõ nét ở tiểu thuyết Nửa chừng xuân. Trong lời giới thiệu

cuốn sách Văn xuôi lãng mạn Việt nam (1930 - 1945) nhà nghiên cứu Nguyễn

Hoành Khung đã nhận xét: “Lực lượng cũ tập trung ở nhân vật bà Án, một

mệnh phụ “ở ăn thì nết cũng hay - nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Đây

không phải là một chân dung biếm họa đơn giản mà là một hình tượng nghệ

thuật chân thực, cho thấy chính những quan niệm, lề thói phong kiến đã giết

chết lương tâm, lương tri ở người đàn bà quý tộc này, khiến bà trở thành độc

ác, thủ đoạn hèn hạ, một “hung thần” phá hoại hạnh phúc tuổi trẻ” [19, tr. 27].

Đọc tác phẩm, ta thấy nhận xét đó rất đúng. Bởi lẽ bề ngoài bà Án đề cao lễ

nghi, tập tục cổ (với những “ngũ luân, ngũ thường”, “tam tòng, tứ đức”) nhưng

thực chất bên trong bà đã không còn lòng nhân ái và sự tôn trọng đối với những

người ở tầng lớp dưới mình. Nhân vật bà Án được miêu tả khá cụ thể, chân

thực, không sơ lược, đơn giản. Con người này luôn có ý thức về quyền hành

của kẻ có địa vị và tiền bạc. Đây cũng là một bà mẹ vừa nghiêm khắc vừa xảo

quyệt. Mặc dù đã có lúc bà Án nhắc đến chữ nhân của đạo Nho nhưng về bản

chất bà chỉ là một kẻ tàn nhẫn, ích kỷ, xa lạ với mọi người.

Những người đàn bà ở tầng lớp trên cũng được Khái Hưng miêu tả, phê

phán xác đáng ở tiểu thuyết Gia đình. Trong tác phẩm này Khái Hưng đã miêu

tả đủ hết các hạng người. Phụng quá quắt, hợm hĩnh một cách khó chịu. Cô tỏ

ra khinh bỉ, lấn át em chỉ vì chồng mình là tri huyện. Nga lại hay ghen tỵ, so bì,

không chịu được cảnh kẻ khác giàu có, sang trọng, sung sướng hơn mình. Cô

chỉ để tâm đến những hào nhoáng bề ngoài và những danh giá hão huyền. Bởi

thế cô chán nản, khổ sở vì mình chỉ là một “cô Tú” trong khi chị mình là một

“bà Huyện”. Cô đau đớn khi thấy cha khinh rẻ chồng mình và tha thiết chồng

66

chị. “Cũng là con, cũng là rể, nàng bảo thế, một đàng thầy coi như viên ngọc

quý, một đàng thầy coi như hòn sỏi, hòn gạch, chịu sao được” [29, tr. 299 ].

Lòng ghen tỵ ấy đã lên đến tột cùng. Khi muốn giúp cuộc nhân duyên giữa Bảo

và em gái mình, Nga nghĩ thầm: “Bây giờ chị em tử tế với nhau, yêu nhau như

chân như tay. Nhưng nay mai nếu nhà chồng nó thần thế, hách dịch hơn nhà

chồng mình, biết đâu nó lại không coi mình như rơm, như rác” [47, tr. 654].

Lòng ghen tỵ ấy đã trở thành lòng nham hiểm, đố kỵ sâu sắc. Nếu Phụng và

Nga có lòng đố kỵ ghê gớm thì bà Án lại khôn khéo, quỷ quyệt. Bà nhằm vào

điểm yếu của Nga và không bỏ lỡ cơ hội để khiêu khích, châm chọc cô. Trong

những lần cãi vã giữa Phụng và Nga, bà Án bênh Phụng và dìm Nga ra mặt.

Có lúc bà thẳng thẳng thắn bày tỏ thái độ của mình: “Thì cô bảo cậu ấy đi học

rồi thi đỗ tri huyện chứ sao, việc gì phải ghen ghét” [47, tr. 527]. Nhìn vào

những mẫu người như vậy, nhà nghiên cứu Trương Chính đã nhận xét: “Tôi

chưa từng thấy trong Văn học Việt Nam, một nhà văn, kể cả Nhất Linh, đã tả

người đàn bà một cách xác đáng như Khái Hưng, ở đây là người với tất cả

những cái nhỏ nhen, tinh quái của người” [47, tr. 656].

Bàn về cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Thoát ly nhà văn Vu Gia

viết: “Lần theo chặng đường tiểu thuyết của Khái Hưng, đến đây chúng ta có

thể khẳng định, phê phán lễ giáo phong kiến và nói đến những tầng lớp trên, thì

ngòi bút sắc sảo của ông dựng lên được những bức chân dung sinh động đáng

cho những người sáng tác sau ông học tập” [10, tr. 81]. Ở tác phẩm này nhà văn

xây dựng thành công hình tượng bà Phán, bà mẹ ghẻ ác độc một cách điển

hình. Những lời thực lòng, thực dạ trước khi nhắm mắt lìa đời của người con

chồng mà bà luôn tìm cách hành hạ, vẫn không làm cho lòng bà dịu lại: “ bà

thẳng người lên, thét: À ra con này láo thực. Bà tội lỗi gì với mày mà mày bảo

tha lỗi cho bà, hử con kia? Bà quý hóa mày, bà nâng niu mày như hòn ngọc

trên tay…” [10, tr. 81+82]. Hành động của bà trước lời trăng trối của đứa con

chồng đủ bộc lộ hết những gì bà cho là “quý hóa”, “nâng niu”. Qua Thoát ly

Khái Hưng làm cho hình ảnh người dì ghẻ trong truyện “ngày xửa ngày xưa”

như hiện ra sừng sững trước mắt độc giả.

67

Trong cuốn tiểu thuyết Thừa tự, Khái Hưng miêu tả khá chân thực nhân

vật đại diện cho lễ giáo và đại gia đình phong kiến. Nhà văn quan sát, miêu tả tỉ

mỉ những cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ của bà Ba. Ông cũng tỏ ra sắc sảo và có sở

trường khi miêu tả những chuyện đời thường, đời tư, những phương diện phức

tạp trong cuộc sống hàng ngày.

Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng cũng tập trung khám phá miêu tả, phê

phán khá mạnh mẽ những địa chủ, quan lại trong xã hội đương thời.

Trong Nửa chừng xuân, nhân vật Hàn Thanh là người giàu có, xảo quyệt,

tàn ác nhất vùng. “Hắn giàu nhất hàng huyện và thứ nhì, thứ ba trong hàng

tỉnh”. Hắn có ba người vợ, mỗi người có một dinh cơ riêng. Hắn là một con cáo

già chuyên hà hiếp người dân và không bao giờ “kém cạnh nước gì”. Vì tư thù,

hắn có thể sai người đốt nhà người khác. Lão cường hào ấy vừa ngọt nhạt dụ dỗ

vừa đe dọa Mai: “Nhà cô mà tôi đã không mua thì tôi đố đứa nào ở vùng này dám

mua nổi. Không những thế, còn khốn khổ cực nhục với tôi nữa” [47, tr. 73].

Ở tiểu thuyết Gia đình, Khái Hưng đã lên án mạnh mẽ tầng lớp quan lại

dưới thời Pháp thuộc. Nhân vật tiêu biểu trong đó là huyện Viết. Từ ngày nhậm

chức, hắn bắt đầu biến chất, trở thành kẻ tham nhũng, sa đọa. Có lúc chính hắn

tự nhận mình có thói quen tàn ác. Nếu như ban đầu làm một việc bất nhân hắn

cảm thấy bứt dứt, áy náy thì về sau Viết trơ như đá, vững như đồng khi có

những hành vi dã man, tàn ngược. Thấy bạn đồng nghiệp nào hơi có lòng liêm

sỉ là hắn liệt ngay vào hạng đạo đức giả. Viết vốn không phải người tốt, lại

sống trong môi trường xấu nên càng lún sâu vào tội lỗi. Qua nhân vật này, nhà

văn thể hiện một cái nhìn mới về xã hội. Giờ đây thời thế đã ít nhiều có sự thay

đổi, người ta không còn nhìn chức tri phủ, tri huyện như xưa nữa. Đúng như An

tự nhủ: “Phải, ta bình tĩnh sao được! Thời nay, hai chữ “quan trường” đã trở

nên có cái ý nghĩa ghê sợ, huyền bí. Đến ta, ta cũng rùng mình mỗi khi ta nghe

kể những câu chuyện về quan, những công trình tàn ác của một vài viên tri

huyện, tri phủ bất lương mà mục đích làm quan là đi bóc lột dân quê ngu dại.

Ta biết thế mà ta còn đâm đầu vào!...Hừ, chẳng qua chỉ tại vợ ta, chú ta và cậu

68

ta, chỉ tại gia đình ta cả!” [29, tr. 306 + 307 ]. Cái chức quan tri huyện tri phủ

đến thời điểm này đã “rẻ lắm rồi, bị tai tiếng nhiều lắm rồi”.

Như vậy, Khái Hưng đã có đóng góp trong việc sớm đưa vào văn học hình

ảnh những con người đại diện cho tầng lớp địa chủ, quan lại phong kiến. Mẫu

hình nhân vật này sẽ được các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam

Cao tiếp tục phê phán mạnh mẽ sâu sắc hơn.

Nhân vật đại diện cho những con người mới tự do, Âu hóa

Theo điều 7 trong Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn (Trọng tự do cá nhân), khi

sáng tác tiểu thuyết, Khái Hưng và các nhà văn trong nhóm đã đặt trọng tâm

vào khám phá, miêu tả, quảng bá cho mẫu hình con người cá nhân, cá thể. Khái

Hưng khá thành công trong xây dựng mẫu hình con người mới, nhất là hình

tượng người trí thưc Tây học và những cô gái mới. Tuy là con những ông tuần,

bà án, nhưng họ không theo nền nếp Nho gia hay tập tục cổ truyền ông cha để

lại mà họ theo mới, họ trọng tự do cá nhân và nếp sống phương Tây.

Những nhân vật trí thức Tây học trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

nhận thức rõ họ không còn phù hợp với lối sống và nền luân lí cũ. Đối với họ,

tự do, Âu hóa là tân tiến, thức thời. Nhân vật An trong tiểu thuyết Gia đình

không bao giờ quên rằng “nhờ cha sớm hiểu thời thế nên chàng mới nhận được

nền học vấn và giáo dục Âu Tây ngày nay” [47, tr. 499].

Giống như các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn, cảm hứng chủ đạo

trong các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng là tập trung thể hiện những mẫu

hình con người có khát vọng về quyền sống cá nhân và nếp sống Âu hóa. Trước

hết, đó là hình tượng những thanh niên trí thức, những người có quan niệm hôn

nhân mới, tình cảm và lối sống mới.

Đối với những con người mới này, hôn nhân là kết quả của tình yêu tự do

chứ không còn là môn đăng hộ đối, là phương tiện tiến thân. Trong Nửa chừng

xuân Mai và Lộc đến với nhau hoàn toàn tự nguyện. Lộc thừa nhận khi đã yêu

Mai, anh chỉ nghĩ tới hạnh phúc ái tình. Mai cũng khẳng định xa Lộc cô không thể

sống được. Mai muốn lấy Lộc bởi cô yêu chàng chứ không phải điều gì khác.

69

Miêu tả con người cá nhân, cá thể, Khái Hưng rất đề cao đời sống tình

cảm. Đây cũng là một đặc điểm cơ bản, nổi bật trong cách nhìn nhận, miêu tả

con người mới của Tự lực văn đoàn. Họ cho rằng con người không “sống như

cỏ cây một đời sống tẻ ngắt và khô khan, phẳng lặng như mặt nước ao tù”. “Cái

đời sống cần là đời sống bên trong, đời sống của tâm hồn” [20, tr. 502]. “Chính

nhà tiểu thuyết có tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển

chuyển của người, nhà văn chúng mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu

có” [20, tr. 503].

Bởi thế những con người mới trong tiểu thuyết của Khái Hưng còn có tâm

hồn phong phú, tinh tế, nhạy cảm. Từ những cuốn đầu tay, khi xây dựng nhân

vật, nhà văn đã đi sâu miêu tả đời sống nội tâm.

Trong Hồn bướm mơ tiên tác giả miêu tả rất cụ thể những biến động tâm

lý nhân vật Ngọc và tiểu Lan: “Ngọc liếc mắt nhìn chú tiểu, thì chú tiểu vừa đi,

miệng vừa lâm dâm cầu nguyện, nét mặt có vẻ mặc tưởng trầm tư.

Cái buồn rất hay lây. Đi cùng đường với một người, từ hình dung cho tới

tâm hồn, nhuộm tuyền một vẻ ủ ê chán ngán, Ngọc thấy trong lòng bỗng nẩy ra

mối buồn vẩn vơ man mác, đoái nghĩ tới những cảnh náo nhiệt phiền phức ở

Hà thành.” [47, tr. 13].

Ở Nửa chừng xuân, Khái Hưng miêu tả những rung động tinh tế trong

tâm hồn Mai: “Thung thăng trên con đường đỏ dưới hạt mưa xuân lấm tấm,

Mai mơ mộng vẩn vơ (…). Cô hy vọng sẽ sống một đời tương lai tốt đẹp, cô

chẳng biết tốt đẹp ra sao, chỉ yên trí nó khác xa với cái đời hiện tại mà thôi. Hai

bên lề đường, lá ngô trước gió rung động lao xao. Cô cũng thấy người cô rung

động. Cái rung động, cái cảm giác của sự sung sướng hồn nhiên của tuổi thanh

niên chứa đầy hy vọng như cái khí lực bồng bột chứa trong cây, phát ra các búp

non trên cành tơ mơn mởn” [47, tr. 98].

Trong tiểu thuyết Gia đình, tác giả miêu tả tình cảm của Bảo với mọi

người: “Lòng tốt của người đàn bà An Nam thường chỉ quanh quẩn trong gia

đình: bao nhiêu tình thương, bao nhiêu tư tưởng âu yếm người ta để cả vào con

cháu. Sao tình thương ấy, mình không ném tung ra khắp bốn phương, vì sự

70

sung sướng của mình không thể ví như một cái cù lao xanh tốt ở giữa biển khơi

đầy sóng gió được. Nó phải như một khu ruộng lúa chín trong một cánh đồng

lúa chín lan rộng mênh mông tới bốn phía chân trời” [47, tr. 628].

Trong tiểu thuyết của Khái Hưng, những con người mới còn có tư tưởng

nam nữ bình quyền và tinh thần vì cộng đồng. Ở một số tác phẩm Khái Hưng

xây dựng hình tượng những con người mới biết cảm thông, giúp đỡ người

nghèo và muốn cải thiện đời sống người dân quê. Cô Hiền trong Trống mái vừa

không có sự phân chia đẳng cấp, vừa cảm phục tình hữu ái giai cấp của những

người dân chài. Cô cũng có tấm lòng cảm thông, giúp đỡ người nghèo, biết ân

hận trước những việc làm không hay của mình. Vợ chồng Hạc, Bảo trong Gia

đình là chủ ấp. Bảo hoàn toàn tâm đầu ý hợp với chồng. Họ đang thực hiện một

chương trình “cải thiện”. Hai vợ chồng hăng hái lao động và sống vui vẻ, thỏa

mãn trong công cuộc từ thiện. Họ mong muốn làm sao để những người dân quê

có công ăn việc làm, có đời sống vật chất và tinh thần khá hơn cho nên dùng

tiền thu tô vào việc mở đường, làm chợ, xây trường học…phục vụ chính cuộc

sống người dân nông thôn. Chỉ có bà mẹ chồng (bà Toàn) là nghĩ khác. Khi

thấy bà Toàn thở dài mà nói: “Anh ấy chỉ bày đặt ra công việc cho thêm vất vả,

chẳng năm nào là anh ấy không nghĩ ra thứ nọ thứ kia” thì Bảo đáp: “ Thưa mẹ,

người ta phải bận việc luôn thì mới sung sướng được. Khu nghỉ mát nhà con

dựng lên ở đồi Nam, khi nào xong thì mẹ với con vui vẻ biết bao! Đàn bà con

trẻ trong hàng ấp khi rảnh việc đến đó nghỉ ngơi…Còn gì sung sướng bằng

trông thấy ở trước mắt những người dân quê mặt mũi sạch sẽ, áo quần sạch sẽ

nô đùa trò chuyện thảnh thơi. Rồi ở các làng khác, họ sẽ theo gương dựng

những nơi nghỉ mát cao ráo như thế cho dân làng. Con nghĩ đến điều đó thì

sung sướng quá. Thưa mẹ, người ta chỉ có thể sung sướng khi ngắm thấy chung

quanh mọi người đều sung sướng” [29, tr. 309 ].

Như vậy, theo Tôn chỉ chung của Tự lực văn đoàn, trong tiểu thuyết luận

đề, Khái Hưng đã cố gắng miêu tả mẫu hình con người “trọng tự do cá nhân”.

“Khái Hưng đã vén mở, tạo dựng ra một mẫu người, hình ảnh thanh niên ở thời

đại ông, làm sống lại một thế hệ đang còn khai phá” [40, tr. 70].

71

3.2.2. Các phương thức, biện pháp miêu tả nhân vật

Các nhà nghiên cứu, phê bình ở cả hai miền Nam - Bắc đều đã chú ý đến

nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng.

Nhiều ý kiến ghi nhận, miêu tả nhân vật là thành công lớn, là bước tiến

vượt bậc của nghệ thuật tiểu thuyết Khái Hưng. Tuy vẫn còn một số hạn chế

như: nội tâm nhân vật chưa thật có góc cạnh, có cá tính rõ nét, đôi khi theo

tưởng tượng hơn là quan sát. Song tác giả cũng đã góp phần mở đường và

khẳng định một bước tiến lớn của văn học đương thời. Theo thời gian, nghệ

thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng cũng có những vận

động, biến đổi khá rõ.

Miêu tả tâm lý nhân vật

Thành công nổi bật của Khái Hưng trong nghệ thuật tiểu thuyết, trong xây

dựng nhân vật là miêu tả tâm lý. Độc giả và giới nghiên cứu, phê bình nhiều thế

hệ đã mến mộ và khen ngợi ông. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại đánh giá cao

Hồn bướm mơ tiên ở một số phương diện, nhất là “cách phô diễn tâm lý của

những vai chủ động” [23, tr. 701]. Trong cuốn Nhà văn hiện đại nhà phê bình

Vũ Ngọc Phan cũng không tiếc lời ngợi ca: “Hiện nay, nhà văn mà được nam

nữ thanh niên yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả,

có lẽ chỉ có Khái Hưng. Khái Hưng là nhà văn rất hiểu tâm lý phụ nữ. Ông hiểu

rõ đàn bà Việt Nam trong cả phái già lẫn phái trẻ” [6, tr. 29]. Các nhà nhiên

cứu, phê bình Nguyễn Văn Xung, Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Trương Chính,

Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung…cũng đều

chú ý nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Khái Hưng.

Miêu tả thế giới nội tâm là bước tiến vượt bậc của thi pháp tiểu thuyết Khái

Hưng. Qua từng thời điểm khác nhau, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của

Khái Hưng cũng có những vân động, biến đổi khá rõ.

Khái Hưng bộc lộ khả năng miêu tả tâm lý nhân vật ngay từ ở tiểu thuyết

đầu tay. Nhà nghiên cứu Trương Chính đã nhận xét: “Ông Khái Hưng dùng

một cách phô diễn tâm lý khác hẳn, giản dị hơn, nhưng tinh tế hơn. Hiểu rằng

một cử chỉ, một dáng điệu, một sắc mặt có thể biểu lộ một trạng thái của tâm

72

hồn, nên tác giả Hồn bướm mơ tiên chỉ tả cái dáng điệu ấy, vẽ cái cử chỉ ấy.

Vài nhận xét có ý tứ cũng đủ làm hoạt động những nhân vật trong truyện. Đó

chính là một đặc điểm phải nhớ” [47, tr. 61].

Giáo sư Hà Minh Đức cũng cho rằng: “Ở tác phẩm đầu tay này (Hồn

bướm mơ tiên) đã bộc lộ khả năng miêu tả tâm lý của Khái Hưng, đặc biệt đối

với nhân vật nữ. Cùng với Lan, các nhân vật nữ của Khái Hưng ở nhiều cuốn

tiểu thuyết sau đều nổi lên trong các câu chuyện. Ông hiểu tâm lý nhân vật, biết

diễn tả tình cảm nhân vật khá tinh tế và không can thiệp vào cuộc đời nhân vật

bằng quá nhiều lời bình luận dài dòng” [47, tr. 66].

Tuy nhiên trong các tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, tâm

lý nhân vật vẫn đều chủ yếu được miêu tả theo quan niệm cổ điển, truyền

thống. Tính cách tâm lý nhân vật như là những gì đã được định hình sẵn. Mặc

dù là một thế giới bên trong thầm kín nhưng đời sống nội tâm con người vẫn có

thể hiểu được. Đó là cái rõ ràng, hợp lý, có mở đầu, có kết thúc. Qua tác phẩm

của mình, Khái Hưng tỏ ra tin tưởng tâm lý con người hoàn toàn có thể hiểu

được tường tận, rõ ràng. Trong Nửa chừng xuân ông viết: “Người đàn bà, nhất

là người yêu bao giờ cũng là một nhà tâm lý học trông rõ lòng người, như là

trông vào trang giấy có chữ” [47, tr. 201]. Nhà văn quan niệm: nhân vật sống,

hoạt động, là nhân vật được xây dựng từ “những chuyện giản dị”, những sự xảy

ra hàng ngày”, từ “nhận xét thực mà tả ra” không cần “những tình tiết ngoắt

ngoéo, tối tăm, nhiều khi rất trẻ con” [15, tr. 5]. Theo ông, muốn tả một cơn

giận thì không những phải tả đúng “hiện trạng của cơn giận dữ”, mà còn “phải

hỏi lòng ta, ta phải hỏi kí ức ta xem khi ta tức giận thì ý nghĩ và tính tình ta ra

sao, thì cảm giác ta ra sao, hơn thế, ta phải sống lại một cơn giận” [15, tr. 6].

Bởi quan niệm như vậy cho nên Khái Hưng coi trọng việc tìm hiểu, quan sát,

trải nghiệm. Nhà văn miêu tả nhân vật qua sự thấu hiểu của mình về những sự

việc xảy ra và những suy nghĩ, cử chỉ, động tác, lời đối thoại ở mỗi thời điểm,

hoàn cảnh khác nhau. Khi viết lời tựa cho cuốn Hồn bướm mơ tiên, Nhất Linh

đã nhận xét: “Tác giả không bàn luận lôi thôi. Ông khéo đem một vài nhận xét

tinh vi, một vài việc xảy ra thích đáng để phô diễn tâm lý những nhân vật trong

73

truyện” [47, tr. 8]. Nhà nghiên cứu Trương Chính cũng viết: “Ông chú ý đến

những ý nghĩ, cử chỉ, và sự biến đổi bên trong của nhân vật hơn là hình thức bề

ngoài. Ông phân biệt rõ được các động cơ khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau của

một hành động, và làm cho ta thấy rõ được sự mâu thuẫn đó. Ông là một nhà văn

quan sát kĩ và có một hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người” [29, tr. 43 + 44].

Trong Nửa chừng xuân nhà văn cho người đọc thấy những vui buồn của

nhân vật Mai trước ngoại cảnh. Có lúc “Mai ngước mắt nhìn lên, búp xuân non

mơn mởn đầu cành. Cái cảm tưởng về xuân dịu dàng êm ái, khiến Mai hé cặp

môi tươi thắm, mỉm cười với xuân, trong lòng chứa chan hy vọng” [47, tr. 84].

Có khi nhìn con thuyền trôi “Mai thở dài lo sợ vẩn vơ cho số phận chiếc thuyền

con lại chạnh nghĩ vơ vẩn đến thân phận mình” [47, tr. 91]. Khái Hưng còn

miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp, tinh tế trong lòng người phụ nữ trẻ, lỡ dở tình

duyên ở độ tuổi nửa chừng xuân qua những cử chỉ, giọng nói, nụ cười: “Tay

Mai cầm bức thư run lẩy bẩy. Mặt Mai dần đỏ, rồi tái đi. Rồi cất giọng khàn

khàn, ướt những nước mắt (…) Mai gượng cười cúi xuống bế con lên hôn rất

nồng nàn. Nàng có ngờ đâu rằng tình xưa còn ấm trong tình mẫu tử và cái hôn

kia chỉ là hôn tiếc rẻ một quãng đời đã mất” [47, tr. 188 + 189].

Đến tiểu thuyết Trống mái tính cách, tâm lý nhân vật đã được Khái Hưng

miêu tả phần nào theo khuynh hướng hiện đại. Nó như một quá trình diễn tiến,

biến đổi khó lường trước. Tâm lý, tính cách nhân vật Vọi có sự đổi thay đột

ngột, bất thường. Nhà văn không chỉ miêu tả trên bình diện ý thức mà còn len

lách vào tầng sâu của thế giới tiềm thức, vô thức. Giáo sư Thanh Lãng nhận

xét: “Vọi cái thời chưa gặp Hiền chỉ là một Vọi giả, che đậy, dồn ép, đang ngủ,

giấu kín; Hiền đã đánh thức dậy cái Vọi đang ngủ và ghi nhận, qua cái mộc

mạc khô khan ấy, một cuộc bão tố đang nổi dậy” [23, tr. 740].

Tâm trạng của anh chàng đánh cá Vọi đã được nhà tiểu thuyết hiện đại

Khái Hưng miêu tả khác rất xa anh chàng Trương Chi trong truyện cổ. Tác giả

như biết hết tâm tư nhân vật và thuật kể lại. Nội tâm nhân vật không chỉ được

miêu tả trên một mặt phẳng mà còn được miêu tả cụ thể, sinh động với những

74

trạng thái ghen tuông, hụt hẫng, ám ảnh, bâng khuâng và những suy tư, liên

tưởng. Thành phố biển cuối mùa nghỉ mát, không còn bóng dáng cô Hiền, anh

chàng đánh cá cảm thấy rất buồn. Năm nào cũng vậy, cứ sang đầu tháng chín là

bãi biển vắng ngắt “nhưng năm nay Vọi mới nhận thấy cái cảnh tiều tụy của

thành phố không người” [14, tr.168]. Tuy vẫn đi biển cùng với bạn, nhưng Vọi

đã bị cô Hiền hút hết hồn. “Cái lòng yêu nghề, cái vui sướng tung lưới ở ngoài

biển rộng, cái ham thích mạo hiểm phiêu dạt lang thang mấy ngày trời trên làn

sóng dữ ở Vọi không còn nữa. Từ vui vẻ nhanh nhẹn, chàng trở nên buồn tẻ

nặng nề. Trước kia chàng hay nói bông đùa với bạn nghề bao nhiêu, thì nay

chàng lẩn thẩn ít lời bấy nhiêu. Ai cũng nhận thấy rằng chàng đổi hẳn tính nết”

[14, tr. 168 + 169]. Một buổi chiều, Vọi thoái thác đau bụng, để hai em con nhà

cậu lên mảng đi thả lưới. Khi mảng đã ra xa, chàng lững thững đi từ đầu nọ đến

đầu kia bãi Sầm Sơn. Rồi “trong cái cảnh rực rỡ ánh sáng, Vọi ủ dũ như bông

hoa tàn héo rũ bên hàng dậu” [14, tr.169]. Một mảnh vỏ quả dừa khô trong

hang đá cũng gợi lên trong tâm trí anh chàng đánh cá bao nhiêu kỉ niệm, hồi ức,

liên tưởng êm đềm về một đoạn đời xưa. Hương vị nước dừa ngọt, dịu êm,

thơm mát như còn phảng phất đâu đây. “Vọi ngắm nghía mảnh vỏ dừa khô,

trong lòng ngao ngán. Trời đã nhá nhem tối, chàng vẫn ngồi trên tảng đá như một

pho tượng. Bỗng chẳng biết nghĩ gì Vọi bưng mặt khóc rưng rức” [14, tr. 175]. Một

chiếc lá rơi vào trong lòng, cũng gợi lên bao nhiêu liên tưởng, xốn xang trong

tâm thức Vọi. Anh “cầm mân mê trong tay, tò mò ngắm nghía … Màu chiếc lá

rụng đỏ như màu vỏ xò vừa nhắc chàng nhớ tới bộ áo tắm Hiền thường mặc.

Tất cả cái thời kì tắm biển lại hiện ra rõ rệt, hiện ra với những cô thiếu nữ trắng

trẻo, xinh tươi mà trong số đó, cô Hiền trắng trẻo, xinh tươi nhất” [14, tr.181].

Đến khi nghe tin cô Hiền lấy chồng, Vọi suy sụp hẳn. “Mặt Vọi tái đi, thân thể

Vọi run lẩy bẩy. Vọi chậm chạp, lảo đảo, đi theo Phụng. Chàng cũng chẳng biết

đi đâu. Tiếng Phụng chàng nghe như trong giấc chiêm bao” [14, tr. 187].

Khái Hưng quả là đã biết khám phá nội tâm nhân vật, đưa ngòi bút vào

phanh phui mổ xẻ những khía cạnh tinh vi, sâu kín của đời sống tinh thần con

75

người. Ông đã biểu hiện được một cách sinh động, rõ ràng, gợi cảm những tâm

hồn lắt léo, phức tạp.

Miêu tả nhân vật phụ

Trong các tiểu thuyết luận đề, Khái Hưng còn hay lựa chọn miêu tả những

nhân vật phụ, những nhân vật có khi tương đồng, có khi đối lập nhau để mở

rộng phạm vi lý giải, đánh giá và phản ánh cuộc sống. Đồng thời để chủ đề tác

phẩm hay tính cách nhân vật chính được thể hiện sâu sắc tự nhiên hơn.

Ở tiểu thuyết Nửa chừng xuân, ngoài miêu tả tình yêu nồng nàn, lý tưởng

của Mai và Lộc, Khái Hưng còn miêu tả tình yêu của Minh và Bạch Hải. Mỗi

người có một kiểu yêu riêng: Minh thì cao thượng, không cố chấp. Bạch Hải

vừa tài tử, vừa ga lăng. Nhưng rút cuộc, cả hai đều không chinh phục được Mai

vì cô tôn thờ tình yêu lí tưởng. Cô nghĩ mình đã yêu Lộc thì suốt đời sẽ không

yêu ai được nữa.

Đến các tiểu thuyết Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, số lượng nhân vật phụ có

sự gia tăng rõ rệt. Nhà văn dã dùng các nhân vật phụ để chắp nối những mảnh

vụn của cảnh trạng, động tác hay diễn biến tâm lý rải rác. Qua đó nhằm khêu

gợi một cách kín đáo và tự nhiên sự chú ý của người đọc. Nhà nghiên cứu Đào

Trường Phước cho rằng: “Đó là những nét chấm phá có thể nói là tinh xảo trên

một bức họa linh động (…). Trong các tác phẩm này, những sự việc dàn trải

từng mẩu sinh hoạt của mỗi nhân vật, khiến người đọc có cảm tưởng được đối

diện một sân khấu trên đó các động tác, ngôn ngữ,…liên tiếp diễn đạt một dòng

sống miên man và linh hoạt” [40, tr. 96].

Trong Gia đình, nhà văn miêu tả các cặp vợ chồng: bố mẹ Nga, bố mẹ

Viết, bố mẹ Hạc và các gia đình An - Nga, Viết - Phụng, Hạc - Bảo… để nhấn

mạnh tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh mới - cũ, và sự tan rã, lỗi thời của

mô hình gia đình cũ dựa trên nền tảng của tư tưởng Nho gia.

Trong Thoát ly, Khái Hưng cũng cho thấy thái độ đánh giá, cảm nhận

khác nhau đối với Âu hóa và “đời sống mới”. Trong ngày hội sinh viên, kẻ thì

reo cười ầm ĩ, người lại vươn cổ thét gào. Có người cho là “hơn kém nhau chỉ ở

chỗ trẻ trung và biết vui đùa”, có người lại cho là “thô bỉ quá”, “lõa lồ đĩ thõa

76

quá”, người Bắc kì tiến, tiến đến chỗ suy đồi” mau chóng quá. Sự cay nghiệt

của dì ghẻ đối với con chồng cũng bị lên án bằng những thái độ khác nhau: có

cách phản ứng cực đoan của Lương và Yến, có cách đấu tranh tiêu cực, đầu

hàng dẫn đến cái chết thương tâm của Hồng, có cách chống đối quyết liệt của

Hảo và bà Thông.

Ở tiểu thuyết Thừa tự, nhân vật bà mối (bà hai) vừa đem đến cho tác phẩm

một sự linh động, vừa góp phần bộc lộ tính cách keo kiệt, bủn xỉn nhưng biết

cách sử dụng đồng tiền của bà Ba.

Từ Nửa chừng xuân đến Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, cách miêu tả nhân

vật phụ của Khái Hưng đã có những vận động, biến đổi khá nhiều. Nhà phê

bình Trương Chính đã nhận thức rõ điều này. Ông viết: “Theo ý nhiều người

thì Gia đình chưa được hoàn hảo chỉ vì ông Khái Hưng hơi đãng trí: ông không

phân biệt được vai chính và vai phụ. Trước mắt quan sát của ông, ai cũng đồng

một giá trị, nghĩa là ai cũng cần được ta chăm sóc và dò xét tới. An, Hạc, Viết,

ông đều tả một cách tỉ mỉ và tận tâm như nhau. Những nhân vật khác, ông điều

Vạn, cụ án Bùi, cho chí cô huyện Linh, bà Phán San, ông cũng giới thiệu đầy

đủ và phân minh. Như vậy việc chính mất hẳn độ lực mà toàn cuốn truyện mất

hẳn quân bình. Một điều đáng phàn nàn” [47, tr. 657]. Nhưng theo Trương

Chính “đó không phải là “một điều đáng phàn nàn”, mà ông Khái Hưng cũng

không “đãng trí” như họ lầm tưởng. Vì vai chính trong một cuốn truyện không

phải chỉ là một nhân vật nhất định. Có thể là nhiều nhân vật (…). Có thể là một

tư tưởng hay một luận đề. Vai chính trong “Gia đình” là chế độ đại gia đình.

Bởi thế ông Khái Hưng đã cố tìm tất cả những cái đáng ghét, tất cả những cái

đáng khinh, bất cứ trong một gia đình nào. Bởi thế ông đã kể lại một cách mạch

lạc những chuyện vặt vãnh, lôi thôi…” [47, tr. 657].

Với Khái Hưng, như đã nhắc tới ở trên, nhân vật tiểu thuyết là những con

người đời thường, có lúc người ta tốt, có lúc người ta xấu. Nhà văn hiểu thế nào

là nhân vật tiểu thuyết và biết từ chối vị trí cố định của mình mà nhập thân vào

nhân vật. Ông biết làm cho người đọc say mê, yêu thích, giận hờn với những

nhân vật mà mình tạo dựng trong tác phẩm. Thậm chí, có lúc nào đó, người đọc

77

cũng thấy nhân vật trong tiểu thuyết có chút gì giống bản thân mình, giống

người mà mình đã gặp, đã quen. Nghĩ cho cùng sức hấp dẫn của tác phẩm là ở

chỗ nhà văn đã làm cho người đọc cảm thấy lo sợ, hồi hộp cùng với người

trong cuộc.

Như vậy tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã thể hiện sự cách tân đáng

kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nhân vật. Nhà văn xây dựng cốt

truyện theo lối mới, vừa giản dị, gần gũi, vừa đa tuyến, mở, không có hậu, vừa

chú trọng tâm lí, vừa có sự dung hợp Á, Âu…Khái Hưng đã đặt trọng tâm sáng

tạo vào xây dựng nhân vật, đi sâu miêu tả đời sống nội tâm với những khám

phá, phát hiện sâu sắc, mới mẻ.

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu

3.3.1. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, trong sáng, mềm mại, hiện đại

Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng của nghệ thuật tiểu thuyết. Vài thập

niên cuối thế kỉ XIX do sự biến chuyển của hình thái kinh tế, xã hội, văn hóa,

ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ văn học nói riêng cũng có những chuyển

biến, những cách tân và đánh dấu một bước ngoặt lớn. Năm 1887 Nguyễn

Trọng Quản đã viết cuốn truyện Thầy Lazaro Phiền. Đó là truyện đầu tiên của

văn học Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Trong lời tựa cho tác phẩm,

tác giả đã nêu rõ chủ trương: “Tôi có dụng ý lấy tiếng thường mọi người nói

hàng ngày mà làm ra một truyện cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều

truyện hay” [31, tr. 21]. Trung thành với quan điểm đó, tác phẩm này không hề

có một câu văn biền ngẫu.

Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỷ XX, cuộc cách tân ngôn ngữ văn

học tiếp tục được đẩy mạnh. Song lối văn vẫn chịu ảnh hưởng nhiều bởi Trung

Quốc và Pháp.

Phải đến những năm 1932 - 1945, ngôn ngữ văn học mới được đổi mới hoàn

toàn. Ở phương diện này tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng cũng có những

thành công rõ rệt. Ông là một trong số những người mở đường và có đóng góp

không nhỏ cho tiến trình hiện đại hóa văn xuôi nước nhà.

78

Đối với công việc văn chương Khái Hưng cho rằng: “Những cái tầm

thường khó chịu không bao giờ ở cốt truyện. Nó chỉ ở tư tưởng, ở cách viết, ở

nghệ thuật. Viết văn với Khái Hưng là “tìm lời ca tụng cái đẹp, cái tươi của vạn

vật muôn năm không già…” Với ông, cái “thích nhất” của nhà văn là “cả ngày

ngồi (…) mà nghĩ, mà sửa soạn, gọt giũa cho những câu văn lạt lẽo trở nên đậm

đà, những câu giả dối trở nên thành thực” [47, tr. 899]. Cách hành văn trong

tiểu thuyết của Khái Hưng chứng tỏ ông là nhà văn thấm nhuần tư tưởng Âu

Phương. Thế Phong cho rằng đó “không phải là lối văn dài giòng, khúc trắc,

khó hiểu lôi thôi, kể lể như loại tiểu thuyết phôi thai Hồ Biểu Chánh hay Tố

Tâm Hoàng Ngọc Phách. Cách hành văn sáng sủa, kết thúc truyện đột ngột, hợp

với giác quan và tâm lý chuyển biến của lớp người đương thời. Đọc văn ông,

nhất là truyện ngắn, như chúng ta vừa nói ở trên, hương vị buồn man mác, nói

riêng, truyền cảm, nói chung, thoáng như hoa thơm trong truyện tình Premier

amour của Tourguenieff, đôi khi đài điếm cao sang như Anna Karénine của

Léson Tolstoi” [29, tr.78 + 79 ].

Chủ trương chung của Tự lực văn đoàn là “dùng một lối văn giản dị, dễ

hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách An Nam”. Trung thành với tôn

chỉ của nhóm, ngay từ Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân ngôn ngữ của

Khái Hưng đã sáng sủa, thanh thoát, nhẹ nhàng, linh động, có khả năng diễn

đạt hơn hẳn những câu văn biền ngẫu. Người đọc dễ nhận ra điều đó qua những

đoạn văn tả cảnh: “Gió thổi dữ. Các tà áo Lan bay phất phới, mà trái tim kia

như chịu sức mạnh của gió, cũng phập phồng trong ngực, như là sắp nhấp nhô

tựa sóng”. Hay “Mặt trời đã xế về tây. Luồng gió lạnh thổi, Lan rùng mình ngơ

ngác nhìn quanh như sợ có người đứng nghe trộm được những ý nghĩ bất chính

của mình. Lan cố không tư tưởng nữa muốn theo gương sư cụ ngồi tĩnh tọa để

tìm chân lí” [47, tr. 55].

Trong tác phẩm của Khái Hưng có những đoạn văn tả cảnh quyện với tả

tình: “Ánh sáng trong vắt của vầng thái dương tháng chạp, chiếu qua rặng lim

um tùm. Mấy cây trẩu chung quanh vườn sắn xơ xác cành khô. Luồng gió

thoảng, lá vàng rơi lác đác. Lan ngồi dưới ánh nắng, thì thầm đọc kinh, thỉnh

79

thoảng lại đặt quyển sách xuống ngơ ngác nhìn. Tiếng lá rụng trên vườn sắn

như có mãnh lực gì khiến Lan ôn lại quãng đời dĩ vãng. Lan nhắm mắt trong trí

lại tưởng tượng ra cái cảnh lá rụng khi đi qua chùa Long Vân, cái cảnh bên bờ

suối mấy gốc thông già, chiều hiu hắt, lá thông khô theo dòng suối trôi đi… Lá

rụng !” [47, tr. 55].

Các đoạn văn của ông đã không còn những trần ngôn sáo ngữ, chữ Nho,

điển tích, điển cố, từ cổ, đăng đối nặng nề. Các câu văn của Khái Hưng khúc

triết, đơn giản, dễ hiểu. Chúng vừa có khả năng diễn tả trạng thái khác nhau của

ngoại cảnh, vừa cho thấy những biến động tâm lý tinh tế của con người. Dưới

ngòi bút của Khái Hưng, tiếng Việt đã thuần thục, nhuần nhuyễn, trong sáng và

hiện đại.

Nếu đem đối chiếu với lời văn của một số tác giả cùng thời, ta dễ dàng

nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt. Lời văn trong Thề non nước của Tản Đà còn

đầy những sáo ngữ: “Nhạn én đổi thay, tháng ngày thấm thoắt, kể từ độ đề

tranh sơn thủy tới nay gần đã ba đông, lận đận chân mây, bể trần chìm nổi, thân

thế dẫu mỗi người một khác, mà nghĩ cũng như nhau” [18, tr. 91]. Trong Tố

Tâm của Hoàng Ngọc Phách cũng còn những câu biền ngẫu, những sáo ngữ:

“Rồi đây cánh hồng bay bổng, tin nhạn vắng tanh là cuộc đời bắt buộc, chứ em

còn sống ở cõi trần này còn tưởng đến anh xin anh đừng nghĩ gì mà khổ tâm

em lắm đó…Giấy ngắn tình dài khôn tả xiết, gửi mấy lời kính lại tình quân, xin

tình quân soi xét cho người bạc mệnh” [18, tr. 111]. Lời văn của Khái Hưng có

nhạc điệu, ảnh hưởng của hội họa, chú trọng miêu tả các màu sắc và hình dáng,

khác với lời văn tả cảnh khuôn sáo ước lệ cũ: “Về phía đông nam mấy trái đồi

phản chiếu ánh chiều tà nhuộm một màu sắc da cam. Da trời xanh nhạt lơ thơ

máy đám mây hồng. In trên cánh đồng lúa chín mầu vàng thẫm, con cò trắng

thong thả bay về phía tây, đôi cánh lờ đờ cất lên đập xuống loang loáng ánh

mặt trời…” [29, tr. 212 ].

Khi nhận xét về lối viết của Khái Hưng, Nhất Linh cho rằng nó “có hai

đặc sắc khác những lối viết truyện xưa nay, tác giả không tả cảnh rườm rà,

không bàn luận lôi thôi” [26, tr.10]. Nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ cũng đánh

80

giá: “Không tả cảnh rườm rà, không bàn luận lôi thôi, lời văn giản dị nhanh

nhẹn, bấy nhiêu đức tính đủ làm một cuộc cách mạng cắt đứt với giai đoạn cũ”

[30, tr.103]. Và “lối văn An Nam giản dị, gẫy gọn cần phải đạt tới ấy đại để

chính là lối văn của Khái Hưng mà ông (Nhất Linh) đã chào đón trong bài Tựa

Nửa chừng xuân” [30, tr. 440].

Khái Hưng hay sử dụng các từ láy nhằm diễn đạt các cung bậc khác nhau

của tình yêu. Bằng ngôn ngữ, ông có thể diễn tả cụ thể, linh động đời sống bên

trong của tâm hồn con người. Chúng ta có thể thấy điều ấy qua lời than thở của

Ngọc với Lan: “Nếu Lan đi thì Ngọc sẽ chết khô chết héo mất. Ngọc chẳng

dám mơ màng chi, chỉ ao ước thỉnh thoảng lên chùa nhìn thấy mặt Lan là đủ

rồi” [47, tr. 58].

Khi tả cảnh lời văn của Khái Hưng rất trôi chảy, có những đoạn giàu hình

ảnh, sắc màu: “Phía tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng, lấp loáng qua các

khe lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất cùng cây cùng cỏ.

Khoảnh khắc, mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in

hình trong cái cảnh nhuộm đồng một mầu tím thẫm” [47, tr. 12]. Có những

đoạn giàu âm thanh: “Trong làn không khí yên tĩnh êm đềm, tiếng chuông

thong thả, ngân nga…như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của thiên nhiên. Lá

cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảm tiếng gọi của Mầu

Ni, muốn theo về hư không tịch mịch” [47, tr. 13]. Nhà văn có thiện cảm và hay

dùng những tiếng điệp thanh để thể hiện những rung cảm thắm dịu của người viết

trước ngoại cảnh: “Đêm khuya, gió lạnh vù vù thổi qua khe cửa bức màn. Ngọn đèn

dầu hỏa chiếu ánh sáng rung rinh lờ mờ vào những câu đối sơn đen, sơn đỏ treo ở

cột tường”. Hay “Trong lò sưởi ngọn lửa đỏ tươi vùn vụt bốc lên. Bụi than vàng

lấm tấm như hoa, tiếng củi cháy lách tách reo vui” [29, tr. 144 ].

Sau Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái…ngôn ngữ của Khái

Hưng càng giản dị, gần gũi hơn với đời sống. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã ghi

nhận: văn của Khái Hưng “thật bình dị, thật sáng suốt, rất thích hợp với những ý

tưởng chín chắn của một tiểu thuyết gia có nhiều lịch duyệt” [30, tr. 37].

81

Ngôn ngữ trần thuật đổi mới

Trần thuật là một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức của tác phẩm văn

học, nó có chức năng giới thiệu, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh. Nghệ

thuật trần thuật của nhà văn góp phần quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của

văn bản.

Nghệ thuật trần thuật thể hiện trước hết ở việc sử dụng các điểm nhìn trần

thuật của người viết. Khi sáng tác tiểu thuyết, mỗi nhà văn phải lựa chọn cho

mình một chỗ đứng nhất định để kể lại câu chuyện. Việc vận dụng linh hoạt các

các điểm nhìn trần thuật góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Những đổi mới của Khái Hưng trong nghệ thuật ngôn ngữ không chỉ ở

từng chữ, từng câu được lựa chọn và đặt đúng chỗ, phát huy đúng hiệu quả diễn

đạt của nó mà còn thể hiện ở những đổi mới của kiểu trần thuật, của lời kể. Ở

phương diện này Khái Hưng cũng được mệnh danh là một nhà tiểu thuyết có

biệt tài. Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

sẽ góp phần khẳng định những cách tân của ông đối với nền văn xuôi hiện đại

Việt Nam. Để thấy được điều đó ta cần nhìn lại tiểu thuyết trong khoảng 30

năm đầu thế kỷ XX.

Cho đến đầu thập niên 30 của thế kỷ trước, nghệ thuật trần thuật trong văn

học nước nhà vẫn còn rất lạc hậu và hạn chế. Trong Bàn về tiểu thuyết, Phạm

Quỳnh đã nhận xét về kỹ thuật phô diễn trong văn ta và văn Tầu:

“Văn Tầu và văn ta là lối văn chép sử, việc gì cũng chép từ đầu đến cuối,

cứ theo thứ tự trước sau, không gián đoạn một khúc nào, không đảo ngược một

phần nào, như nói về một người thì phải kể hết lai lịch người ấy, từ đời ông đến

đời cha, từ thuở nhỏ đến tuổi lớn, lần lượt như chép gia phả vậy” [44, tr. 37].

Nhưng đến Khái Hưng thì khác, khi xây dựng tiểu thuyết ông sử dụng khá

nhiều hình thức trần thuật.

Trần thuật ở ngôi thứ ba, đây là phương thức trần thuật mà nhà văn là

người đứng ở đằng sau biết hết mọi chuyện rồi kể lại một cách khách quan.

Phương thức trần thuật này được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên ở mỗi nhà

văn lại có những nét riêng. Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền nhận xét: “Nếu

82

như lối trần thuật khách quan của Ngô Tất Tố nghiêm túc tỉnh táo “nhìn trước

ngó sau”; lối trần thuật của Nguyễn Công Hoan hóm hỉnh, tinh quái; lối trần thuật

của Vũ Trọng Phụng tỉnh bơ, mỉa mai cay độc, uất hận, đầy hằn học; thì Nam Cao

lại có lối kể rửng rưng, lạnh lùng, chua chát đến tàn nhẫn” [43, tr. 189].

Khái Hưng cũng thường trần thuật theo hình thức này. Ngay từ tiểu thuyết

Hồn bướm mơ tiên, nhà văn đã đứng đằng sau nhân vật, biết hết mọi chuyện và

thuật kể lại. Chẳng hạn như đoạn văn sau:

“Trên con đường Bắc Ninh - Đông Triều, chiếc ô tô hàng bon bon chạy.

Bỗng một người hành khách bận âu phục thò đầu ra ngơ ngác nhìn rồi kêu:

Cho tôi xuống đây. Sau một tiếng còi lanh lảnh, chiếc xe từ từ đỗ. Người hành

khách xuống xe, đi rẽ sang tay phải theo con đường đất gồ ghề, cong queo.

Tuy lúc đó đã vào quãng năm giờ chiều mà nắng tháng năm hãy còn gay

gắt. Mặt trời xiên ánh sáng xuống cái lạch nước phía bên đường, rồi phản chiếu

lên, khiến người lữ hành phải đội nghiêng cái mũ dạ về bên trái để che cho khỏi

chói mắt” [47,tr. 9].

Kiểu trần thuật biết hết cũng được sử dụng trong Nửa chừng xuân. Tác phẩm

này có đoạn:

“Một buổi chiều thứ bẩy. Trường Bảo hộ đương ở trong cảnh nhộn nhịp.

Tiếng giầy, tiếng guốc qua sân rất là huyên náo.

Trong phòng khách nhà trường, cha mẹ học trò ngồi đợi lượt vào phòng

ông phó đốc để xin phép cho con ra. Tiếng nói chuyện ồn ào, nào ông hỏi thăm

về việc học của con, nào bà mắng con vì bị phạt phải ở lại trong trường. Rồi

từng bọn hoặc hai ba, hoặc bốn năm người cùng nhau ra cổng trường gọi xe

tay, hay chờ xe điện về phố” [47, tr. 75].

Trần thuật ở ngôi thứ ba là hình thức tự sự Khái Hưng thường dùng và

thành công nhất. Đó là những lời trần thuật giản dị, trong sáng, hiện đại.

Khái Hưng kể chuyện từ điểm nhìn gần, đó là hình thức trần thuật mà

người kể chuyện như đứng ở bên cạnh, đứng rất gần nhân vật, biết rõ mọi suy

nghĩ, cảm nhận và kể lại theo điểm nhìn, giọng điệu của họ.

83

Từ những cuốn tiểu thuyết đầu tay (Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân)

Khái Hưng đã trần thuật ở điểm nhìn này.

Trong Hồn bướm mơ tiên có khá nhiều đoạn nhà văn đã thuật lại tâm trạng

của Ngọc và Lan. Chẳng hạn như đoạn:

“Dựa lưng vào một cây chè cỗi, cành lá rườm rà, bên cạnh một cái rổ

không, Lan ngồi ngẫm nghĩ đến những sự xảy ra từ tối hôm qua, vẻ lo buồn in

trên nét mặt rầu rầu, Lan đăm đăm nhìn trời, lâm râm khấn cùng Phật tổ xin

ngài xuống cứu vớt tấm linh hồn sắp đắm đuối. Bỗng có tiếng động bên mình.

Lan giật mình quay lại: con vành khuyên đương lách tách nhảy trên cành lá

rậm. Lan mỉm cười ngắm nghía con chim con xinh xắn mướt lông rồi giơ bàn

tay ra vẫy. Con chim kinh sợ bay vụt, tiếng sột soạt trong đám lá, Lan thở dài

nói một mình:

- Trốn, thế nào cũng phải trốn” [47, tr. 50].

Hay đoạn:

“Lan cầm mảnh giấy ghé đến gần đèn đọc đi đọc lại ba bốn lượt, rồi tặc

lưỡi, cuộn nhỏ lại thò vào trong thông phong châm lửa đốt. Nét mặt rầu rầu Lan

nhìn ngọn lửa cháy cho đến khi tờ giấy cháy thành than” [47, tr. 53].

Trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân Khái Hưng cũng dùng lối trần thuật ở

điểm nhìn gần để thuật kể về nhân vật Mai ở nhiều thời điểm. Chẳng hạn đoạn

kể về Mai trước cảnh cha già:

“Cạnh chiếc hỏa lò, than xoan đỏ ối, lách tách nổ liên thanh. Mai quỳ bên

giường hai tay nắm bàn tay của cha già, như cố giữ người ốm lại không cho rời

sang thế giới bên kia” [47, tr. 79].

Sau Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân kiểu trần thuật ở điểm nhìn

gần còn trở đi trở lại.

Ở Thừa tự, hình ảnh mẹ ghẻ hiện lên thật đáng ghét trong con mắt của

Chuyên: “Cái con người chưa đến bốn chục tuổi kia mà cũng đòi làm mẹ nàng

ư! Mà cũng chảnh lỏn cũng tai ngược, hách dịch với nàng sao! Nàng là con

quan, con một quan phu, con gái yêu một bậc mệnh phụ, chẳng lẽ lại cúi mình

đi hầu hạ một người đàn bà ít tuổi và không biết “sản xuất” ở nơi tối tăm, hèn

84

hạ nào (…), me gì, me tây ấy à ? [47, tr. 970]. Trong suy nghĩ của Trâm (vợ

Bỉnh) cũng vậy: “Tôi thiết tưởng hơn hết là cậu nói thẳng vào mặt cô ta rằng cô

ta giàu thì mặc cô ta, cô ta đi đâu hống hách thì đi, không được về làng mà

hống hách xằng” [47, tr. 968].

Bà Phán trong Thoát ly cũng giống như bà Ba trong Thừa tự. Bà từng nói

với Hồng: “Thế nào, chị đã sắm đủ các thứ rồi đấy chứ!”. Bà dùng cả đôi mắt

cười nheo và cặp môi mỏng khít nhách ra hai mang tai để làm tăng cái nghĩa

mỉa mai của câu nói mà bà cho là chua chát lắm” [47, tr. 693]. Bà nhiếc móc:

“Có đem mà gả cho voi! Cho voi nó giày!...Tưởng hãy còn trinh tiết lắm đấy!

Hãy còn sạch sẽ lắm đấy!” [47, 748].

Với cách kể chuyện theo điểm nhìn, giọng điệu của nhân vật, Khái Hưng

đã bóc trần bộ mặt của lớp người cũ bảo thủ, xấu xa, tàn ác. Nhưng cũng với hình

thức trần thuật ấy, nhà văn đi sâu miêu tả đời sống bên trong của những con người

mới. Qua đó ông khẳng định, trân trọng, nâng lưu những vẻ đẹp của họ. Vẫn trong

Thoát ly, Khái Hưng kể về tâm trạng của Hồng khi nghĩ về tương lai:

“Cùng Thân lập gia đình, lập tiểu gia đình riêng, sống với nhau một giang

sơn. Có thế thôi, giản dị biết bao! Nàng chưa yêu Thân, rồi thì nàng yêu, mà

nàng chắc sẽ yêu. Sau này, khi nàng thoáng nghĩ đến kí vãng, thì còn sự hy

sinh, sự nhẫn nhục gì mà nàng không chịu nhận lấy để gây hạnh phúc cho gia

đình, cho những người sống chung quanh nàng! Và nàng nghĩ: “Thế nào mình

cũng sung sướng hay ít ra cũng không khổ như trước” [47, tr. 689].

Xây dựng tiểu thuyết luận đề Khái Hưng còn sử dụng thể thức trần thuật

ở nhiều điểm nhìn với nhiều giọng.

Trong tiểu thuyết Thoát ly, lối sống Âu hóa ở Hà Nội đã được thuật kể

theo nhiều điểm nhìn. Có người thích thú, đề cao, ngưỡng mộ, có người cho là

trụy lạc sa đọa…

Trong tiểu thuyết Thừa tự, nhà văn cũng trần thuật theo cái nhìn của nhiều

nhân vật khi thuật kể về bà Ba:

“Bà Ba giàu lắm. Cũng không ai biết bà ta giàu tới bực nào. Người này

đồn bà ta có tới chục vạn… người kia quả quyết một con số to gấp năm thế. Họ

85

bảo: “Trong mười mấy năm bà ta theo ông Án ở chỗ làm quan, quyền bính, tiền

nong có ở trong tay, thì làm gì mà không có tới năm chục vạn ?” Một người

khác thêm: “Phải, vì khi bà ta lấy ông Án, cái vốn riêng của bà ta đã tới gần

chục vạn rồi cơ mà!”

Sự thực, bà ta có bốn năm tòa nhà cho thuê ở Hải Phòng, ở Hà Nội và hơn

trăm mẫu ruộng ở quê chồng…” [47, tr. 953].

Trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng có những lời bình của người viết

về các đối tượng được thuật kể. Những lời đó xuất hiện không nhiều và thường

tự nhiên, ngắn gọn, xác đáng. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đưa ra một ví dụ rất

điển hình. Đó là lời nhận xét của Khái Hưng về phái yếu: “Đàn bà họ rất ghét

những người đứng trung lập. Về hùa cùng họ hay chống cự lại họ, phải dứt

khoát chọn lấy một đường, nếu không sẽ không yên được nơi họ. Đương đêm

họ đánh thức dậy để bàn chuyện nhà, để nói xấu kẻ thù, nếu mình ậm ừ trả lời

cho xong chuyện, họ sẽ làm ầm cửa ầm nhà lên ngay” [30, tr. 21].

Nhà văn hay sử dụng ngôn ngữ miêu tả. Trong tiểu thuyết của ông ta thấy

có nhiều bức tranh thiên nhiên. Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại nhận xét rằng:

Tác giả Hồn bướm mơ tiên đã “đem tâm hồn ra trước tạo vật, mô tả những

cảm giác vì cảnh tượng mà sinh ra, ca tụng trời, đất, non sông theo lòng

cảm khái của mình (…). Đó là một lối ông Khái Hưng đã dùng khi tả cảnh

đồi, cảnh chùa, vườn sắc” [24, tr. 702]. Dưới ngòi bút của Khái Hưng cảnh

vật nhiều lúc hiện lên rất thi vị, thanh tao, huyền ảo. Cảnh ấy có thể thấy

trong Hồn bướm mơ tiên:

“Về phiá đông nam mấy trái đồi phản chiếu ánh chiều tà nhuộm một màu

da cam. Da trời xanh nhạt lơ thơ mấy đám mây hồng. In trên cánh đồng lúa

chín vàng thẫm, con cò trắng thong thả bay về phía tây, đôi cánh lờ đờ cất lên

đáp xuống loang loáng ánh mặt trời. Bên chiếc quán gạch cũ ẩn núp dưới đám

mây đen, trên con đường hẻm, vài ba đứa mục đồng cưỡi trâu hát nghêu ngao

trở về trong xóm” [46, tr. 25].

Hay trong Trống mái:

86

“Hiền mỉm cười: Anh không thấy đẹp, có lẽ anh nhìn mãi quen mắt rồi.

Tôi tưởng những đêm trăng tròn, khi ăn cơm chiều xong, lên đây ngồi nói

chuyện thì còn gì thú vị bằng? Tiếng sóng rào rào không ngớt làm cho lời nói

của mình có ý nghĩa thầm kín, những ngọn phi lao nghiêng theo chiều gió như

khúc khích cười, cố lắng tai nghe. Đằng xa làn nước trắng xóa dưới ánh trăng

vàng như nụ cười bất tuyệt của một giai nhân” [14, tr. 103 ].

Ngoài ra trong các tiểu thuyết Nửa chừng xuân,Gia đình …cũng có những

trang miêu tả thiên nhiên. Đó là những nét chấm phá rất thanh, rất nổi về những

cảnh đồi chè thoai thoải miền trung châu, hay cảnh ruộng vườn tươi mát ở vùng

đồng bằng Bắc bộ. Qua những bức tranh này, tác giả gợi lên phong vị dân tộc đậm

đà và không khí thơ mộng, gần gũi, thân quen của cảnh sắc làng quê Việt Nam.

3.3.2. Giọng điệu

Trong đời sống thường ngày, lời nói thường biểu thị một sắc thái biểu

cảm nhất định. Trong văn chương, giọng điệu là thái độ, tình cảm của nhà văn

đối sự vật, hiện tượng, con người được nhắc đến ở tác phẩm. Nó cũng là yếu tố

quan trọng góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Giọng điệu có phụ

thuộc vào đặc điểm của đối tượng được miêu tả. Nhưng phần nhiều, giọng điệu

trong văn học thể hiện cảm xúc, thái độ, cách đánh giá chủ quan của nhà văn

đối với hiện thực. Giọng điệu là một trong các tiêu chí đánh giá tài năng của tác

giả và sức hấp dẫn trong sáng tác của họ.

Nhà văn có nhiều giọng trần thuật và mỗi người thường có một số giọng

điệu trần thuật riêng. Giọng điệu chủ yếu của Nguyễn Công Hoan là suồng sã,

giễu cợt; Vũ Trọng Phụng là hài hước, mỉa mai, phẫn uất, cay độc; Nguyên

Hồng là thiết tha, sôi nổi; Nam Cao là buồn thương da diết. Giọng điệu trong

tiểu thuyết của Khái Hưng vừa đa dạng vừa có nét riêng biệt.

Giọng điệu giản dị, thanh tao, bóng bẩy

Khi quảng bá, đề cao cái tôi cá nhân và nếp sống Âu hóa, Khái Hưng

thường thuật kể theo giọng văn “giản dị nhưng thanh tao, bóng bẩy nhưng

trong sáng, nhịp nhàng nhưng không mất vẻ tự nhiên” [47, tr. 63]. Giọng văn

ấy thể hiện ngay trong Hồn bướm mơ tiên:

87

“Tiếng lá tý tách trên bờ rào khô bỗng gợi đến những chuyện cũ hầu qua…

Ánh sáng trong vắt của vừng thái dương tháng chạp chiếu qua rặng lim um

tùm. Mấy cây trẩu chung quanh vườn sắn xơ xác cành khô. Luồng gió thoảng

qua, lá vàng rơi lác đác” [47, tr. 62].

Giọng điệu như vậy còn trở lại khi nhà văn miêu tả cảnh đẹp làng quê:

“Phía tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng, lấp loáng qua các khe đám lá

xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất, cùng cây, cùng cỏ. Khoảnh

khắc, mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong

cái cảnh nhuộm đồng một màu tím thẫm.

Trong làn không khí yên tĩnh, êm đềm, tiếng chuông chùa thong thả ngân

nga…như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của thiên nhiên. Lá cây rung động,

ngọn cỏ thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảm cái tiếng gọi của Mầu Ni muốn

theo về nơi hư không tịch diệt” [47, tr. 70].

Cả khi miêu tả cảnh sư cụ tụng kinh, nhà văn cũng thể hiện giọng thanh

tao, trìu mến: “Tiếng kinh du dương, mùi trầm ngào ngạt, Ngọc tưởng tượng

sống trong một thế giới khác, thế giới mộng ảo, thần tiên” [47, tr. 70].

Nhận xét về giọng điệu của những đoạn văn này, nhà nghiên cứu Trương

Chính cho rằng, đó là lời trần thuật “phảng phất một âm điệu thơm tho, thấm

vào hồn ta như một mùi hương đậm” [47, tr. 62].

Ở tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Khái Hưng cũng trần thuật bằng giọng văn

nhẹ nhàng:

“Lộc ôn tồn nói:

- Thôi anh đi, anh vui vẻ mà đi. Chúng ta sẽ xa nhau, mỗi người sống

riêng một cuộc đời. Đời em, anh chắc sẽ được yên lặng. Còn đời anh, anh đã

nói sắp sửa đổi khác hẳn, anh chưa biết rồi nó ra sao. Anh chỉ biết, anh sẽ mãi

mãi được sung sướng, vì anh tin rằng ngày ngày, tháng tháng lúc nào em cũng

âu yếm nghĩ đến anh, như thế cũng đủ an ủi anh rồi…Em ở xa anh nhưng tâm

trí hai ta lúc nào cũng gần nhau, thì trọn đời hai ta vẫn gần nhau” [47, tr. 241].

88

Trong lời thuật kể có lúc thấp thoáng âm điệu trầm bổng, du dương: “Bấy

giờ nhìn qua cửa sổ ngắm nhìn cảnh đồi thoai thoải sau chùa, chàng thấy hiện

ra nhiều vẻ xinh đẹp, những vẻ xinh đẹp huyền bí, chàng tưởng dưới đám lá

chè lấp lánh, ngọn gió dịu dàng mơn mởn rung động kia, một cô tiên yểu điệu

đương ngồi mơ màng tưởng nhớ tới ai” [47, tr. 73].

Giọng châm biếm, giễu nhại

Bên cạnh giọng điệu thanh tao, trong sáng, tiểu thuyết luận đề của Khái

Hưng còn có giọng châm biếm, giễu nhại.

Trong tiểu thuyết Thoát ly, để phê phán thói cay nghiệt của dì ghẻ đối với

con chồng, nhà văn đã sử dụng giọng giễu nhại thuật kể về bà Phán. Khi Hồng

ở Hà Nội về, cả nhà đang ăn cơm, ông Phán giục Hồng ngồi vào ăn cho xong

bữa đi. Hồng từ chối. “Bà Phán bĩu môi, kéo dài từng tiếng:

- Hay chị ấy chê cơm thừa không ăn ? Vậy Thảo bỏ đũa bát đấy xuống

bếp dọn mâm khác hầu chị đi con”.

Thảo nói:

- “Bẩm mẹ, chừng chị con đã ăn quà trên xe rồi”. Bà phán cười theo và bảo:

- “Có là đồ quạ mổ thì mới ăn quà trên xe hàng như thế, phải không chị

Hồng (…). À con này giỏi thật ! Nó nói gióng một, gióng hai với tôi ! Cho mày

đi Hà Nội để mày học những tính nết vô phép vô tắc ấy phải không con kia

?...Hay cô sắp đi ở riêng, ở tây rồi, cô định vượt quyền tôi ngay từ bây giờ đấy

!” [47, tr. 694].

Cũng giọng điệu ấy tác giả miêu tả hình ảnh bà Phán khi ngồi đối diện với

chồng: “Ngồi dối diện ông Phán, cánh tay phải tỳ mạnh xuống gối xếp, bà Phán

đưa mắt dữ tợn lườm chồng để nhắc ông một điều gì” [47, tr. 735].

Đả kích, châm biếm giễu cợt rõ nhất có lẽ là đoạn thuật kể qua tâm trạng

nhân vật Hồng: “Bao nhiêu ý định làm lành vụt biến mất. Chỉ còn lại một lòng

căm tức: Hồng đăm đăm nhìn dì ghẻ như để thách. Cái trán bóp lại dưới vành

tóc vấn trần mỏng manh vì không độn, đôi mắt lim dim không nhìn, như còn ngái

ngủ, cặp môi mỏng như căng ra do một cái răng cài phía trong mồm” [47, tr. 734].

89

Tiểu kết chương 3

Như vậy, Khái Hưng đã có những cách tân đáng kể trong nghệ thuật tiểu

thuyết. Ông đã xây dựng những tác phẩm có cốt truyện theo lối mới: đa tuyến,

mở, không có hậu, dung hợp Á Âu và kết cấu theo tâm lý. Bằng những phương

thức biểu hiện mới mẻ, tinh tế, nhà văn đã đặt trọng tâm sáng tạo vào việc xây

dựng nhân vật. Ông đi sâu miêu tả đời sống nội tâm con người, qua đó có

những khám phá, phát hiện sâu sắc. Không chỉ đóng góp trong việc đổi mới

cách xây dựng cốt truyện và nhân vật, Khái Hưng còn có những cách tân trong

nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ văn chương. Trong tiểu thuyết luận đề, ông

đã trần thuật ở nhiều điểm nhìn, ở nhiều giọng. Dù thuật kể ở điểm nhìn nào,

bằng giọng điệu nào, nhà văn cũng gặt hái được nhiều thành tựu. Khái Hưng

cũng đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng một lối văn An Nam giản dị, dễ

hiểu, trong sáng, mềm mại, giàu màu sắc, âm hưởng, có khả năng diễn tả sinh

động cuộc sống và tâm hồn con người.

90

KẾT LUẬN

1. Tự lực văn đoàn có ước muốn cải cách xã hội và văn chương. Họ không

có cảm tình với xã hội đương thời nhưng không trực tiếp chống đối hay phê

phán. Họ chỉ muốn đổi mới trong khuôn khổ pháp luật đương thời cho phép. Bởi

thế những người của Tự lực đã dùng văn chương làm vũ khí chống lại những hủ

tục, những giáo lý phong kiến lạc hậu, bênh vực quyền hưởng tự do, hạnh phúc

chính đáng của cá nhân con người. Tất cả những điều ấy đã chi phối sâu sắc tư

duy của nhóm và làm nên mô hình chung của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.

2. Khái Hưng là một nhà văn trụ cột của Tự lực văn đoàn. Ông sáng tác

nhiều thể loại nhưng thành công nhất là tiểu thuyết. Nhà văn đã góp phần làm

cho thể loại này trở thành chính yếu của văn chương Tự lực và của nền văn học

mới. Với vốn sống, cá tính và tài năng riêng, sáng tác của Khái Hưng thể hiện

một quan niệm xã hội và văn chương khá tiến bộ. Tiểu thuyết luận đề của ông

vừa là bản cáo trạng phê phán lễ giáo, đại gia đình phong kiến vừa đề cao cái

tôi cá nhân và nếp sống Âu hóa, thể hiện ước mơ cải cách. Khi đấu tranh giải

phóng cá nhân, chống lại đạo đức và lễ giáo phong kiến, nhà văn đã miêu tả

xung đột giữa các thế hệ về tư tưởng, tình cảm, nếp sống. Qua đó ông để lại

nhiều tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Do khéo lựa

chọn mâu thuẫn và xây dựng hình tượng nhân vật nên tiểu thuyết luận đề của

Khái Hưng vừa có giá trị phản phong vừa có ý nghĩa xã hội. Từ những nhân vật

của mình, ông đã làm cho người đọc căm phẫn cả môt nền đạo đức và lễ giáo

phong kiến bảo thủ, lạc hậu, tàn bạo. Không chỉ vậy, ngòi bút Khái Hưng còn

tấn công vào bọn địa chủ, cường hào, quan lại độc ác, xấu xa.

Mặt khác, tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng nhằm mục đích khẳng định,

ngợi ca những hình mẫu con người mới, những con người mang cả vẻ đẹp hình

thể lẫn tâm hồn, có khát vọng về cuộc sống tự do cá nhân vượt ra khỏi những

ràng buộc của nền luân lý cũ. Tác phẩm của Khái Hưng còn thể hiện mong ước

tình yêu và hôn nhân tự do, ước muốn cải tạo xã hội, cải thiện cuộc sống người

91

dân quê. Trong một số tiểu thuyết Khái Hưng lại nói lên nỗi băn khoăn của ông

về tình trạng trụy lạc của thanh niên dưới chế độ hiện thời.

3. Mặc dù là tiểu thuyết luận đề nhưng tác phẩm của Khái Hưng cũng có

những đóng góp đáng kể trên phương diện nghệ thuật. Với những bước tiến

vượt bậc, sáng tác của nhà văn đã có ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình

hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam, mà trước hết là ở phương diện cốt

truyện và kết cấu. Từ những cuốn tiểu thuyết đầu tiên, Khái Hưng đã đoạn

tuyệt với lối văn chức năng tải đạo, ước lệ khuôn sáo của thời trung đại. Ông

cũng vượt lên khỏi những thể nghiệm, chập chững của tiểu thuyết ba mươi năm

đầu thế kỷ XX. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện đại, ông làm cho cốt truyện

không còn mang tính công thức, vay mượn, hoài cổ, ly kỳ, phức tạp, mà rất

giản dị, gần gũi với hiện thực. Nó thường đa tuyến, mở và kết thúc không có

hậu. Tác giả khéo xây dựng những tuyến phụ để vừa mở rộng dung lượng phản

ánh hiện thực, vừa thể hiện chủ đề một cách sâu sắc, tinh tế hơn. Bên cạnh đó

có những tiểu thuyết mà cốt truyện có sự dung hợp Á-Âu. Đó là sự kết hợp khá

nhuần nhuyễn truyền thống dân tộc và phương Đông với phương Tây. Bởi vậy

truyện của ông vừa giàu chất khái quát tượng trưng, vừa mang tính cụ thể, chân

thực. Khái Hưng đã xóa bỏ kết cấu chương hồi, xây dựng kết cấu theo quy luật

tâm lý. Nhà văn không quan tâm nhiều vào việc thuật lại sự kiện, biến cố,

không chú ý trình tự thời gian mà thường chú trọng vào diễn biến nội tâm nhân

vật. Tiểu thuyết luận đề của ông thường mở đầu, kết thúc bằng những trạng thái

tâm lý, cảm giác, cảm xúc của nhân vật.

Khái Hưng cũng có những cách tân về ngôn ngữ, giọng điệu và cách xây

dựng nhân vật. Nhà văn coi trọng nhân vật hơn cốt truyện. Khi xây dựng nhân

vật, ông rất chú trọng miêu tả đời sống nội tâm. Khái Hưng có những tìm tòi,

khám phá tâm lý của nhiều loại người, nhất là phái trẻ và phụ nữ. Đây là một

điểm mới của tiểu thuyết lúc bấy giờ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Khái Hưng

từng bước được hoàn thiện, đổi mới. Ở những cuốn tiểu thuyết đầu, tâm lý

92

nhân vật được xây dựng theo chiều thuận. Nó là đời sống bên trong, thầm kín

nhưng vẫn là những gì có thể hiểu được, đoán được bởi hợp lý trí, lô gíc.

Nhưng về sau, nhà văn hướng hẳn ngòi bút vào miêu tả sự phức tạp của tâm lý

con người. Khi ấy tâm lý nhân vật là những trạng thái đang hình thành, đang

diễn biến. Nó chợt đến, chợt đi, là ý thức nhưng còn là tiềm thức, vô thức, là

sản phẩm của hoàn cảnh gia đình, xã hội, giáo dục song cũng là của huyết

thống, bản năng, thần bí, khó nắm bắt. Nhà văn xây dựng hai kiểu nhân vật đối

lâp nhau. Một bên là những con người mới trọng tự do cá nhân, một bên là

những con người đại diện cho lễ giáo phong kiến với những lề thói cổ hủ, bất

hợp thời. Trong cuộc đấu tranh giữa hai kiểu người này nhà văn luôn đứng về

phía những con người mới, bênh vực và bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền tự

do lựa chọn hạnh phúc của họ. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng

có tư tưởng, tình cảm và phẩm chất mới. Họ có khả năng cảm nhận sự đổi thay

của thời cuộc, thấu hiểu tâm tư người khác. Khái Hưng cũng có nhiều sáng tạo

trong việc sử dụng các phương thức, biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Ông thành công trong miêu tả hành động, cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ đối thoại,

thành công trong nghệ thuật trần thuật, miêu tả nhân vật phụ. Khái Hưng có

những đóng góp đáng kể cho sự phát triển ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam. Đến

tiểu thuyết của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn lời văn An Nam đã trở nên uyển

chuyển, mềm mại, giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho và trong sáng. Nhà văn cũng

góp phần đổi mới diễn ngôn tự sự Việt Nam, làm cho nó không còn đơn điệu,

tẻ nhạt. Với lối trần thuật đa giọng điệu, đa điểm nhìn nhà văn đã tạo được sự

thay đổi quan trọng trong việc diễn tả đời sống nội tâm của con người.

Có thể nói Khái Hưng và Tự lực văn đoàn vừa thực tâm muốn cải tạo xã

hội, cải thiện đời sống người dân quê vừa có những đóng góp quan trọng trong

việc thúc đẩy sự phát triển của văn học nước nhà. Cùng với các nhà văn trong

nhóm Khái Hưng góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết, đưa văn học Việt Nam

thoát khỏi hệ thống thi pháp cổ trung đại, hình thành hệ thống thi pháp văn học

93

hiện đại, nhanh chóng theo kịp sự phát triển chung của văn học khu vực và trên

thế giới. Dù còn nhiều điểm chưa được công nhận song về cơ bản công lao của

Khái Hưng là không thể phủ định.

4. Đề tài Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng xin góp tiếng nói nhỏ bé vào

việc tiếp tục ghi nhận những đóng góp của Khái Hưng trong sự thúc đẩy phát

triển của văn chương và xã hội. Nghiên cứu, tìm hiểu tiểu thuyết luận đề của

Khái Hưng là công việc lý thú, hấp dẫn nhưng cũng đầy khó khăn phức tạp.

Bởi thế cho nên đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận

được những lời góp ý, chỉ bảo chân thành của quý thày cô và các bạn.

Xin trân trọng cảm ơn!

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A. Brech (1965), Sân khấu, tập 2.

2. Lại nguyên Ân (2002), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp.

4. Phan Cự Đệ (2000), Tự lưc văn đoàn - con người và văn chương,Tuyển tập

Phan Cự Đệ, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết tâm lý”, Tạp chí

nhà văn, (số 7).

7. Hà Minh Đức (1989), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Hà Minh Đức (chủ biên), (2001), Lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn Trào lưu - tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Vu Gia (1993), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, Nxb văn hóa, Hà Nội.

11. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục Quốc gia

xuất bản, Hà Nội.

12. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, tái

bản, Hà Nội.

13. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004),

Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Khái Hưng (1935), Trống mái, Nxb Đời nay, Hà Nội.

15. Khái Hưng (1937), Tựa Gió đầu mùa của Thach Lam, Ngày 2 - 12.

16. Khái Hưng (1966), Câu chuyện văn chương, Lời nguyền, Nxb Phượng

Hoàng, Sài Gòn.

17. Khái Hưng (1992), Nửa chừng xuân, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên

nghiệp, Hà Nội.

18. Mai Hương (tuyển chọn) (2000), Tự lực vă đoàn trong tiến trình văn học

dân tộc, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

95

19. Nguyễn Hoành Khung (1989), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam

(1930-1945), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Thạch Lam (1941), Theo dòng, Nxb Đời nay, Hà Nội.Trích theo Phan Trọng

Thưởng, Nguyễn Cừ, Văn chương tự lực văn đoàn, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà

Nội (1999)

21. Thanh Lãng (1964 - 1965), Mười ba năm tranh luận văn học, tập 4, Ngày

nay, Ban nghiên cứu văn học Việt Nam, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn,

chứng chỉ văn chương Quốc âm, niên khóa 1964 – 1965

22. Thanh Lãng (1964 – 1965 ), Mười ba năm tranh luận văn học, tập 9, Phong

hóa, Ban nghiên cứu văn học Việt Nam, Trường Đại học văn khoa Sài Gòn,

chứng chỉ văn chương Quốc âm, niên khóa 1964 - 1965.

23. Thanh Lãng (1964 - 1965), Mười ba năm tranh luận văn học, tập 11, Phong

hóa, Ban nghiên cứu văn học Việt Nam, Trường Đại học văn khoa Sài Gòn,

chứng chỉ văn chương Quốc âm, niên khóa 1964 - 1965.

24. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1896 - 1945), quyển

hạ, Nxb Trình bày, Sài Gòn.

25.Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học Việt Nam thế hệ 32 -45, Nxb Khai trí,

Sài Gòn

26.Nhất Linh (1933), Tựa Hồn bướm mơ tiên, Trích theo Khái Hưng, Hồn

bướm mơ tiên, Nxb Đồng Tháp, 1997.

27.M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,

Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

28.Trần Thanh Mại (1934), Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng một sự công

kích không chính đáng của báo Nhật tân, Phong hóa, (số 83), ngày 26 - 1. Trích

theo Thanh Lãng, Mười ba năm tranh luận văn học, tập 11 trang 699.

29.Phương Ngân (tuyển chọn) (2000), Khái Hưng, nhà tiểu thuyết xuất sắc của

Tự lực văn đoàn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

30.Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tâp 3, Quốc

học tùng thư xuất bản, SG.

96

31.Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn) (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong

văn học Việt nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

32.Nhiều tác giả (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, Nxb Xây

dựng, Hà Nội.

33.Nhiều tác giả (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 -1945, Nxb

Văn hóa, Hà Nội.

34.Nhiều tác giả (1972), Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, Nxb Nam Hà, Sài Gòn.

35.Nhiều tác giả (1987), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

36.Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tái bản) Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37.Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb Văn học-Hội nghiên

cứu giảng dạy văn học thành phố HCM.

38.Thái Phỉ (1934), Trích trong Ngọ báo phê bình Khái Hưng, Phong hóa, (Số 99).

39.Thế Phong (1959), Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930 -

1945, Nxb Vàng son, Sài Gòn.

40.Đặng Phùng Quân (1972), “Về tiểu thuyết của Khái Hưng”, Khái Hưng,

thân thế và tác phẩm, Nxb Nam Hà, Sài Gòn.

41.Doãn Quốc Sĩ (1965), Văn học và tiểu thuyết, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn.

42.Trần Đình Sử (2000), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43 Trần Đăng Suyền (1991), “Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao”, Tạp chí

văn nghệ quân đội, (Số 12).

44.Tràng Thiên (1963), “Tiểu thuyết đi đâu về đâu”, Tạp chí Bách khoa (Số

147, 151), Ngày 15 - 2 đến ngày 15 - 4.

45.Tràng Thiên (1963), Tiểu thuyết hiện đại, Nxb Thời mới, Sài Gòn.

46.Phan Trọng Thưởng - Nguyễn Cừ, (tuyển chọn giới thiệu) (1999), Văn

chương Tự lực văn đoàn, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà nội

47.Phan Trọng Thưởng - Nguyễn Cừ (tuyển chọn giới thiệu) (1999), Văn

chương Tự lực văn đoàn, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48.Phan Trọng Thưởng - Nguyễn Cừ (tuyển chọn giới thiệu), (1999), Văn

chương Tự lực văn đoàn, tập3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

97

49.Phan Trọng Thưởng - Nguyễn Cừ (Tuyển chọn) (2001), Văn chương Tự lực

văn đoàn, Nxb Giáo duc, Hà Nội.

50.Trần Khánh Triệu (1964), “Ba tôi”, Văn, (số 22), ngày 15 - 11.

51.Nguyễn Thị Tuyến (2003), Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Luận án

tiến sĩ ngữ văn, Hà Nội.

52.Tuyển tập Tự lực văn đoàn (1999), tập 1, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

53.Tuyển tập Tự lực văn đoàn (1999), tập 2, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

98