ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG THÚY HẰNG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG THÚY HẰNG

TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CẢM ƠN

Được sự phân công của Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học -

Đại học Thái Nguyên và được sự đồng ý của người hướng dẫn khoa học

PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, tôi đã thực hiện đề tài: “Tiểu thuyết Nguyễn Đình

Tú từ góc nhìn phân tâm học”.

Bản Luận văn được hoàn thành bằng sự nỗ lực và cố gắng của bản thân

trong suốt thời gian từ khi nhận đề tài đến khi kết thúc vào tháng 6 năm 2017.

Trong suốt quá trình viết Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận

tình và hướng dẫn chu đáo của PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh.

Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất

của các thầy giáo, cô giáo khoa Văn- Xã hội, trường Đại học Khoa học – Đại

học Thái Nguyên để Luận văn được hoàn thành đúng thời hạn.

Đồng thời, tôi cũng nhận được sự động viên, chia sẻ của gia đình, bạn

bè đồng nghiệp, hỗ trợ tôi rất nhiều về mặt tinh thần.

Cho phép tôi bày tỏ lòng tri ân tới PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh và lời

cảm ơn sâu sắc tới các quý vị!

Thái Nguyên, tháng 6 – 2017

Học viên: Dương Thúy Hằng

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố

trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Thái Nguyên, tháng 6-2017

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Thúy Hằng

iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 7

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8

5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9

6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9

7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9

Chương 1. PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT

NGUYỄN ĐÌNH TÚ TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC ....................... 11

1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học ........................................................... 11

1.1.1. Phân tâm học của S.Freud .................................................................... 11

1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học) ................... 16

1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học .................................... 19

1.3. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết của một số nhà văn trẻ Việt Nam

đương đại (Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương…) ................................ 21

1.4. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ...................... 25

1.4.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Tú ............................ 25

1.4.2. Ảnh hưởng từ phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ........ 28

Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 31

Chương 2. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC QUA CÁI NHÌN VỀ HIỆN

THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

......................................................................................................................... 32

2.1. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn

hiện thực .......................................................................................................... 32

iv

2.1.1. Không gian hiện thực đặc biệt - nơi hình thành những ẩn ức cá nhân 32

2.1.2. Không gian hiện thực của tiềm thức và giấc mơ - nơi chứa đựng

Những ẩn ức, mặc cảm, nỗi đau con người...................................................35

2.1.3. Không gian hiện thực tâm linh, phi lí - nơi cứu rỗi tâm hồn con người

......................................................................................................................... 39

2.2. Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn con người trong tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú ........................................................................................................... 43

2.2.1. Con người bản năng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ..................... 44

2.2.2. Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

......................................................................................................................... 55

2.2.3. Con người thần kinh, đa nhân cách trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú . 63

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 67

Chương 3. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC TRONG NGHỆ THUẬT TIỂU

THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ ................................................................... 68

3.1. Biểu tượng nghệ thuật mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 68

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nghiêng về thế giới vô thức của

nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú .................................................. 70

3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 74

3.3.1. Ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục .................................................. 74

3.3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 79

Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn xuôi đương đại ngày càng xuất hiện những gương mặt trẻ, tiêu

biểu, gây được tiếng vang và sự quan tâm, chú ý của giới phê bình cũng như

bạn đọc. Tuy nhiên, những tác phẩm trẻ trung ấy vừa xuất hiện và còn nóng

hổi tính thời sự nên thành tựu nghiên cứu về chúng vẫn còn khiêm tốn. Bởi

thế, việc nghiên cứu những tác phẩm của họ là cần thiết để góp phần đánh giá

một cách toàn diện về diện mạo nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thế kỉ XXI.

1.2. Nguyễn Đình Tú là cây bút thuộc thế hệ 7x, từ rất sớm nhà văn này

đã có ý thức đi theo con đường chuyên nghiệp. Anh còn là một cây bút đa tài,

sáng tác ở nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau, từ truyện ngắn đến tiểu

thuyết, từ văn học thiếu nhi đến văn học về giới trẻ, về chiến tranh… Và ở thể

loại nào, tác phẩm của anh cũng để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng độc

giả. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, đổi mới “đứa con tinh thần” của mình,

tác phẩm Nguyễn Đình Tú luôn tạo nên những luồng dư luận nhiều chiều,

khen có, chê có, thích thú có, ghê sợ có… Bởi vậy mà các tác phẩm của

Nguyễn Đình Tú luôn “nóng hổi” tính thời sự và có sức hút đối với người

nghiên cứu.

1.3. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI đã

xuất hiện nhiều xu hướng đổi mới, cách tân cả về mặt nội dung và hình thức.

Để đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện đặc điểm, thành tựu và hạn chế của

thể loại văn học này cần áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong số

đó, hướng tiếp cận văn chương từ góc nhìn phân tâm học ngày càng được chú

ý. Đặt tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh sáng phân tâm học, người viết có

cơ sở khoa học để soi sáng các giá trị, chỉ ra các ưu điểm, nhược điểm trong

tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Từ đó nhằm đánh giá sáng tác của ông một cách

toàn diện và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, đây là một công việc hết sức khó khăn

2

bởi bản thân lý thuyết Phân tâm học không dễ thấu hiểu và chưa được vận

dụng phổ biến trong nghiên cứu văn chương ở nước ta.

Vì những lí do trên, người viết lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn Phân tâm học” với mong muốn góp phần

khám phá và luận giải về những vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học ở Việt Nam

Phân tâm học đã được đưa vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam từ khá

sớm qua các công trình: Chuyên luận về Hồ Xuân Hương Thân thể và văn tài

(1936) của Nguyễn Văn Hanh, bài viết Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương của

Trương Tửu. Chuyên luận Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực (1995)

của Đỗ Lai Thuý. Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, Đáp lời con quái vật

Sphinx hay Ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu… in trong tập Bút pháp của

ham muốn, Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, Phân tâm học và văn hoá

tâm linh cũng là những công trình có tính ứng dụng cao của Đỗ Lai Thuý.

Phân tâm học trong nghiên cứu văn học (bài giảng của Evelyne Grossman,

GS Văn học Pháp đương đại ĐH Pari, Nguyễn Thị Từ Huy dịch), Phân tâm

học và nghiên cứu, phê bình văn học nghệ thuật (bài báo khoa học của Lê

Đình Cúc, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), Phân tâm học trong

nghiên cứu văn học ở Việt Nam (đề tài khoa học cấp Đại học của Cao Thị

Hồng), Phân tâm học văn bản và phê bình văn học (bài báo khoa học của

Đoàn Anh Dương, Viên khoa học)...

Ngoài ra, trong phạm vi các trường Đại học cũng xuất hiện một số công

trình nghiên cứu văn học từ lý thuyết Phân tâm học dưới dạng các khoá luận

tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ.

3

2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Bàn về các tác phẩm cụ thể là Nháp, Kín, Phiên bản và Hoang tâm

người viết xin trích dẫn lại một số ý kiến tiêu biểu. Cụ thể là các bài viết:

Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú (Lương Giang), Nháp hay là một

sự xới xáo đáng trân trọng (Hoàng Anh), Nháp, từ một cuộc sống phàm phũ

đến dự cảm văn chương (Đình Khôi), Nháp hay là sự yếm thế tâm hồn (Hoài

Hương), Nháp và nỗi cô đơn khi… sex (Lương Nguyên), Nháp hay văn

chương dành cho giới trẻ? (Mai Đình Khôi).

Xoay quanh tác phẩm này đã có những cuộc bút chiến nảy lửa. Trong

bài viết “Nháp - sự tha hóa và vỏ bọc tri thức”, Bùi Công Thuấn đã lấy dẫn

chứng một số ý kiến nhận xét về Nháp: “Tiểu thuyết Nháp của Tú đúng là tác

phẩm mới ở dạng nháp thôi. Nó là cuốn trung bình non, có gì mà ầm ĩ lên

thế” (Lê Tự). “Chu Lai hiểu thực chất cuốn tiểu thuyết này như thế nào.

Nhưng ông này không đủ dũng cảm để nói thẳng, bởi thế ông phải dùng một

loại ngôn ngữ hỏa mù. Nhưng Chu Lai là người không giỏi thao tác loại ngôn

từ này nên mới viết như thế. Xin tác giả Nháp bình tĩnh và thành công trong

tác phẩm tới và nên quên đi những lời giới thiệu vô thưởng vô phạt như thế

này” (Ngô Hoàng Lễ). Bùi Công Thuấn đã phân tích cái vỏ bọc tri thức trong

tác phẩm để đi đến nhận xét: “Nếu như trước đây những cuốn như Bảy đêm

khoái lạc, Cô giáo Thảo bị coi là đồi trụy, bị truy quét thì Nháp còn đồi trụy

gấp nhiều lần những cuốn sách truyền tay nhau ấy chỉ vì nó được khoác cái

vỏ “tư tưởng” và vỏ trí thức khiến cho người ta phải lưỡng lự khi kết luận về

nó, không biết nó là một tác phẩm tư tưởng hay một cuốn sách đồi trụy. Sự

độc hại nguy hiểm của Nháp chính là ở chỗ lập lờ ấy” [110].

Bên cạnh những ý kiến phê phán là tiếng nói khẳng định. Võ Thị Xuân

Hà đánh giá: “Nháp không chỉ là một thông điệp lạnh lùng, Nháp không chỉ

có sex và giết người” [44]. Hay một số bài viết như: Một cách nhìn khác về

4

Nháp (Trần Tố Loan), Nháp không phải là một cuốn tiểu thuyết suy đồi (Nga

Sơn), Phản biện sex trong Nháp của Nguyễn Đình Tú (Lê Nhật Tăng). Nhà

phê bình Văn Giá có lời nhận xét: “Đọc Nháp, tôi cho rằng ít nhất Nguyễn

Đình Tú làm được việc rất quan trọng của tiểu thuyết: Thứ nhất, tiểu thuyết

có tư tưởng và thứ hai, nói được về thế hệ của chính anh trong xã hội hiện

nay” [39]. Đoàn Minh Tâm đánh giá Nháp có bốn cái mới như sau: “Một là

ngôn ngữ, hai là độ mở, ba là cách xây dựng nhân vật và bốn là tính giải trí.

Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có chất luật, chất lính biểu hiện ở tính hình

sự điều tra”. “Xây dựng kiểu nhân vật thần kinh là bước nỗ lực lớn của

Nguyễn Đình Tú trong việc làm mới chính mình” [106].

Đối với tiểu thuyết Phiên bản, cuốn tiểu thuyết đoạt giải B Cuộc thi

sáng tác tiểu thuyết, truyện và kí vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống

(giai đoạn 2007 - 2010) do Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức,

Đoàn Ánh Dương khẳng định: “Nguyễn Đình Tú không lập hồ sơ tội phạm

bằng án tích mà chủ yếu bằng thương tích”. Ông cho rằng: “Nguyễn Đình Tú

không chú ý đi sâu vào xây dựng tình huống, những tình tiết giàu kịch tính,

những hình ảnh li kỳ, gay cấn giống như những tác phẩm trinh thám của nhân

vật, thái độ, xúc cảm của nhân vật trong cái nhìn hồi cố” [28]. Phiên bản còn

nhận được những đánh giá, nhận xét ở nhiều bình diện, nhiều vấn đề qua các

bài viết như: Phiên bản hay tính thiện và tính ác trong một con người của Ma

Văn Kháng, Phiên bản, những mảng tối của cuộc đời của Nghiêm Tuấn,

Phiên bản của bạo lực và tính người của Giang Nam và Hoài Hương với bài

viết Nhà văn Nguyễn Đình Tú, tiểu thuyết Phiên bản: tội ác mang khuôn mặt

đàn bà.

Đến 2010, khi Kín ra đời thì cuốn sách dày hơn 400 trang này lại đi

sâu, bóc tách, lí giải chân dung lớp trẻ đương đại. Cuốn tiểu thuyết này tiếp

tục tạo nên sóng gió trên văn đàn. Nhà văn Nguyễn Hữu Quý không đánh giá

5

cao tác phẩm. Trong bài “Kín có bột chưa gột nên hồ”, ông nhận xét: “Vốn

sống, tư liệu là chất liệu quan trọng nếu không muốn nói là chủ yếu làm nên

tác phẩm, điều ấy ai cũng biết. Nhưng để những cái đó trở thành nhân vật,

chi tiết, không gian sinh động trong tiểu thuyết thì chẳng phải dễ dàng gì, nó

đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài trí, tâm sức của người cầm bút. Nếu không cao

tay, không nôn nóng vội vã, đôi khi có bột rồi ta cũng không gột nên hồ. Vốn

sống, tư liệu chỉ là thứ quặng thô, muốn thành sản phẩm tinh phải qua sàng

lọc, chế biến nghiêm ngắn với những công nghệ tiên tiến hiện đại càng có

chất lượng cao. Kín chưa phải là một sản phẩm tinh xảo, mới lạ”. [91]. Bên

cạnh đó lại có rất nhiều ý kiến bênh vực tác phẩm. Đối thoại với Nguyễn Hữu

Quý, Phí Thùy Hương cho rằng: “Trong mặt bằng tiểu thuyết hôm nay, thiết

nghĩ, với việc công bố Kín, Nguyễn Đình Tú đã cho ra đời một tác phẩm ấn

tượng. Theo cách nói của Nguyễn Hữu Quý, chất liệu trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú là thứ bột nhưng chưa gột nên hồ. Chúng tôi lại thấy ngược

lại, rằng Nguyễn Đình Tú đã làm nên thứ bánh có chất lượng, nói theo ngôn

ngữ kinh doanh tức là có thương hiệu riêng và được người tiêu dùng ủng hộ”

[61]. Lê Quốc Hiếu cũng nhận định “Kín là cảm thức về thân phận lạc loài,

hoang hoải của Nguyễn Đình Tú” [51]. Nhà nghiên cứu Inrasara còn dự cảm

“Kín chấm dứt một hành trình, mở ra một hành trình khác” [65] trong sự

nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Tú.

Với lối viết độc đáo, mới lạ, “không giống ai”, Nguyễn Đình Tú đã mở

ra cho mình một hướng đi riêng trong làng văn, có lẽ vì vậy mà tác phẩm của

anh luôn có những ý kiến trái chiều, khen rất nhiều nhưng chê cũng không ít.

Đến nay, xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không chỉ dừng lại ở những

lời giới thiệu, những bài viết ngắn nêu ý kiến tranh luận, đánh giá của các nhà

văn, giới phê bình, một số công trình nghiên cứu bài bản, có hệ thống, quy mô

và chất lượng dưới dạng khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ đã làm rõ

6

nhiều khía cạnh về nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú như: khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thùy “Ngôn từ nghệ thuật

trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, nó đã phân tích, kiến giải mối quan hệ

giữa ngôn từ tiểu thuyết và cảm quan về thế giới quan của nhà văn. Luận văn

thạc sĩ của Phạm Thị Bình với đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, trong đó

khảo sát một số phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú.

2.3. Một số ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài

Trong tham luận trình bày tại Hội thảo “Văn học đương đại dưới cái

nhìn Phân tâm học”, bài viết Yếu tố kì ảo trong Nháp của Nguyễn Đình Tú từ

góc nhìn Phân tâm học đã phân tích và lý giải những chi tiết nghệ thuật bằng

lý thuyết của Freud: “Nói như Freud, chấn thương là nguồn gốc của mọi sự

bấn loạn về tinh thần. Mọi thương tổn đều có thể gây ra những rối loạn, ám

ảnh, hằn sâu trong tâm hồn mỗi người. Sự mặc cảm lan tỏa như một thứ bóng

đen gặm nhắm, bào mòn. “Nháp” không thiếu những mặc cảm như thế. Đó là

những thương tổn trong quá khứ, day dẳng trong hiện tại buộc con người đi

về trong nỗi sợ hãi, và cô đơn ghê gớm. Để chạm vào những lo âu, đau đáu

trong vô thức, hay chập chờn của nỗi sợ, Nguyễn Đình Tú lồng vào đó những

yếu tố kỳ ảo. Khi con người mất niềm tin, họ thường hay trốn vào siêu hình,

họ muốn tìm một nơi ẩn náu. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện như một sợi dây mong

mảnh giữ lấy tâm hồn người, níu lại, không để họ trượt dài trong buông xuôi,

vô vọng” [55].

Khoá luận tốt nghiệp “Giọng điệu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ yếu tố

tính dục” của Nguyễn Thị Phương Nhi, Đại học Đà Nẵng, 2012 đã bước đầu

đề cập đến quan niệm của nhà văn về tình dục và sự chi phối của tính dục đến

việc xây dựng nhân vật và lựa chọn giọng điệu trong các tiểu thuyết. Bài viết

Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết Nháp của Đoàn Minh Tâm

7

cũng đề cập đến việc nhà văn vận dụng Phân tâm học trong xây dựng nhân

vật: “Cùng với việc miêu tả nhân vật trong một “lát cắt cuộc sống đủ dài” mà

chúng tôi vừa đề cập ở trên, Nguyễn Đình Tú có bước thay đổi lớn lao khi lần

này anh miêu tả, xây dựng kiểu nhân vật tâm thần (được hiểu là lệch chuẩn về

tâm sinh lý). Dựa trên nguyên lý khá nổi tiếng của một nhà phân tâm học:

Mọi người đều là người điên, duy chỉ có người điên là giống họ hơn chúng ta

mà thôi, Nguyễn Đình Tú đã phác thảo nhiều chân dung những con bệnh thần

kinh mà tiêu biểu là Thạch và Nguyễn Toàn. Điểm khác biệt giữa hai nhân

vật này với các nhân vật như Bạch Đàn hay Minh Việt (trong hai tiểu thuyết

trước) là ở chỗ tuy cùng gặp bất hạnh trong cuộc sống nhưng bất hạnh của

họ không chịu tác động lớn của nhân tố bên ngoài - tức là do hoàn cảnh sống

đưa đẩy. Bất hạnh của Thạch và Nguyễn Toàn ở dạng hoàn toàn khác. Nó có

nguồn gốc tự bản thân họ. Họ phải chống chịu với những ý nghĩ, những ham

muốn bản năng - mà ý chí, lương tâm - biết là lệch lạc đang ngày đêm hiện

hữu nơi xác thân” [106]. Như vậy, ta có thể thấy các bài viết, các công trình

nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích yếu tố tính dục chứ chưa đi

sâu vào bản thể tinh thần và mới đề cập đến một tác phẩm cụ thể mà chưa có

sự tìm tòi, nghiên cứu toàn diện các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú từ góc

nhìn Phân tâm học. Với những lý do trên, người viết lựa chọn đề tài này với

hi vọng góp một cái nhìn thấu triệt hơn về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc

nhìn Phân tâm học.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng

Dấu ấn phân tâm học qua cái nhìn về con người và hiện thực cuộc

sống trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

8

Thông qua tìm hiểu dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú, luận văn góp phần soi sáng thêm những giá trị tư tưởng và đặc sắc

nghệ thuật của cây bút văn xuôi hiện đại này.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ

- Khái lược lý thuyết phân tâm học và việc vận dụng phân tâm học vào

phân tích tác phẩm văn học ở Việt Nam.

- Từ góc nhìn Phân tâm học, làm sáng tỏ những đóng góp riêng biệt của

Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn nghệ thuật về hiện thực và con người.

- Phân tích sự chi phối của thuyết Phân tâm học trong những sáng tác

của Nguyễn Đình Tú.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học: khái lược

hệ thống lý thuyết Phân tâm học, từ đó soi chiếu sự ảnh hưởng của lý thuyết

này đối với tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.

- Phương pháp tổng hợp: Người viết tiếp cận văn bản tác phẩm Nguyễn

Đình Tú, phân tích các chi tiết sự kiện... để đi đến hình thành và xác lập luận

điểm khoa học về dấu ấn Phân tâm học trong các sáng tác đó một cách thống

nhất.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, Xã hội học):

nghiên cứu ảnh hưởng của nó đối với sáng tác và phê bình văn học trong đó

trực tiếp nghiên cứu ở tác phẩm Nguyễn Đình Tú.

- Phương pháp so sánh đồng đại lịch đại: trong những trường hợp cần

thiết, người viết sử dụng phương pháp so sánh để tìm thấy sự khác biệt trong

9

cách phản ánh hiện thực và con người của Nguyễn Đình Tú với các nhà văn

cùng thời và trước đó.

- Phương pháp thi pháp học.

5. Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn tập trung nghiên cứu bốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú:

Nháp (2008, Nxb Thanh niên), Kín (2010, Nxb Văn học), Phiên bản (2011,

Nxb Văn học), Hoang tâm (2013, Nxb Hội Nhà văn).

- Ngoài ra luận văn còn so sánh, mở rộng tới những dấu vết của phân

tâm học trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy

Anh hay trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,…

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Phân tâm học và tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ

góc nhìn phân tâm học

Chương 2: Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn về hiện thực và con

người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Chương 3: Dấu ấn Phân tâm học trong nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú.

7. Đóng góp của luận văn

- Góp thêm cái nhìn mới mẻ về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú và về

quan niệm nghệ thuật của nhà văn này về hiện thực và con người.

- Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ một góc nhìn khác, góc nhìn

Phân tâm học, từ đó lý giải các vấn đề về nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm Nguyễn Đình Tú.

10

- Đánh giá những đóng góp cũng như vị trí của tác giả trong tiểu

thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại

nói chung.

11

Chương 1

PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học

1.1.1. Phân tâm học của S.Freud

Được mệnh danh là “Newton của tâm hồn” với câu nói đầy ấn tượng:

“Cái tôi không phải người chủ trong nhà của mình” cùng mong muốn được

vĩ đại như Anhxtanh, Copernic và Darwin, nhà triết học người Áo Sigmund

Freud (1856 - 1939) đã sáng lập ra Phân tâm học - một trường phái tư tưởng

hiện đại về lĩnh vực tâm lý học vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Ngay

từ khi ra đời, Phân tâm học đã thực sự gây choáng váng giới học thuật, thậm

chí, lúc bấy giờ người ta còn nói đến nó như một cuộc cách mạng về tư duy

trong triết học hiện đại.

Ở thế kỉ XV - XVI, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng ra đời ở nhiều

nước đã mở đầu cho thời kì quá độ từ chế độ phong kiến lên tư bản chủ

nghĩa ở châu Âu gắn liền với lý tưởng đấu tranh cho con người được phát

triển tự do, được tôn trọng, đề cao, được thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh

thần và con người cá nhân được giải phóng. Cuộc cách mạng công nghiệp

cuối thế kỉ XIX cùng những phát minh mới về hình ảnh, các loại sách báo về

tình dục đã làm thay đổi quan niệm của con người. Song song với sự phát

triển của kinh tế cùng những khát vọng tự do cá nhân thì trong đời sống tinh

thần xã hội tư bản cũng xuất hiện những mâu thuẫn hết sức gay gắt giữa một

bên là những quan niệm truyền thống đã ăn sâu vào nếp nghĩ không thể xoá

bỏ của loài người với một bên là những tư tưởng, quan niệm mới nhằm giải

phóng con người. Vì lẽ đó, bản thân cá nhân luôn phải sống trong sự đấu

tranh nội tâm giằng xé, dễ dẫn đến nảy sinh sự ức chế trong hoạt động tinh

thần, đặc biệt lại là sự ức chế tình dục. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX cũng

12

là thời kì bão táp của các cuộc cách mạng và chiến tranh thế giới, nước Áo-

quê hương của Freud cũng bị cuốn vào vòng xoáy đó: cái chết, sự đói nghèo,

đau khổ, mất mát đe doạ cuộc sống thể xác và tinh thần của mỗi con người,

những căn bệnh tâm lý luôn có nguy cơ phát triển theo. Chính thực trạng này

đã thúc đẩy những bác sĩ khoa học tâm thần đi tìm những phương pháp trị

bệnh mới. Trong khi lúc bấy giờ, phương pháp thôi miên mà người ta sử

dụng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn. Nhận

thấy sự hạn chế này, Freud đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nhằm tìm ra

phương pháp mới hiệu quả hơn. Ông cho rằng những bệnh nhân bị nhiễm

bệnh nhiễu tâm - chứng bệnh tâm thần do rối loạn nhân cách dẫn đến sống

trong lo sợ, lo âu, thất vọng, cuồng loạn… xuất phát từ những gì trải qua ban

đầu thuở ấu thơ, phát triển trong một thời gian dài và do bản năng tính dục

mạnh mẽ ức chế không được giải toả. Freud thay thế phương pháp thôi miên

bằng phương pháp liên tưởng tự do, cho phép bệnh nhân trình bày các ý

nghĩa trong trạng thái thư giãn tỉnh táo và thông giải các ẩn ức thuở ấu thơ,

các giấc mộng để giúp bệnh nhân nhận biết một cách có ý thức các tình

huống bị quên lãng, từ đó bộc lộ nguyên nhân gây bệnh. Cả quá trình nghiên

cứu tâm huyết và cũng khá nhiều nhà nghiên cứu bấy giờ ủng hộ. Freud đã

lập ra học thuyết Phân tâm học với tư cách là một triết học về tâm lý và nhân

cách con người mà chủ đạo là vô thức và tính dục.

Freud đã đưa ra triết học về thế giới tinh thần của con người với việc

phát hiện ra “bộ máy tâm thần”. Ông viết: “Quá trình tâm lý chủ yếu là

thuộc về tiềm thức, còn như quá trình tâm lý của ý thức chẳng qua chỉ là

một động tác bộ phận được tách ra từ toàn bộ tâm linh. Chúng ta cần nhớ

rằng trước nay người ta cho tâm lý là ý thức, ý thức dường như là đặc trưng

của đời sống tâm lý, và tâm lý học được xem là khoa học nghiên cứu nội

dung của ý thức. Cách nhìn này quá rõ ràng đến nỗi bất kì một sự phản đối

nào cũng bị xem là gây rối. Nhưng mà trái lại, Phân tâm học không đề

kháng thành kiến này, không thể không phủ nhận lối nói tâm lý là ý thức.

13

Phân tâm học cho rằng tâm linh có bao hàm tác dụng của tình cảm, tư

tưởng, dục vọng… mà tư tưởng và dục vọng đều có thể là tiềm thức” [98,

tr.265]. Nhà tâm lý học này đã nêu ra kết cấu 3 tầng của hoạt động tâm lý

con người như sau:

Hệ thống vô thức: là kho tàng của dục vọng bản năng sinh vật. Những

bản năng và dục vọng này chất chứa những năng lượng tâm lý mạnh mẽ, phục

tùng theo nguyên tắc khoái lạc và ra sức xâm lấn vào cõi ý thức để thoả mãn.

Hệ thống tiềm thức (tiền ý thức, hạ ý thức): được cấu thành bởi những

kinh nghiệm, làm thành bộ phận trung gian giữa hệ thống ý thức và vô thức,

trong đó cất giấu lương tâm và lý tưởng cá nhân được cấu thành bởi những

chuẩn tắc, quy phạm và quan niệm về giá trị, về xã hội, luân lý tôn giáo… có

nhiệm vụ ngăn không cho những bản năng mạnh mẽ xâm nhập vào ý thức.

Hệ thống ý thức: phục tùng nguyên tắc hiện thực, loại bỏ những bản

năng và dục vọng của con người, làm cho giữa cá nhân và xã hội thường

xuyên trong trạng thái đối lập. Bản năng và dục vọng bị dồn nén sẽ chuyển

dần vào lĩnh vực vô thức, để bảo toàn năng lượng tâm lý, cũng có khả năng

chuyển hoá thành bệnh tâm thần nếu không có lối thoát, không đủ sức chịu

đựng. Nó tìm cách giải thoát để được thoả mãn qua những giấc mơ và đặc biệt

hơn là thăng hoa trong những phát minh khoa học hoặc sáng tạo nghệ thuật.

S.Freud đã triển khai Phân tâm học vào nghiên cứu nhiều mảng đề tài

khác nhau từ con người đến văn hoá. Trong đó, tâm lý và nhân cách con

người luôn là những vấn đề đáng quan tâm. Theo ông, nhân cách con người

được xây dựng qua sự tương tác phức hợp giữa các xung năng với những

kinh nghiệm thời niên thiếu của họ. Hành vi con người là kết quả của cách

nuôi dạy, đối xử của bố mẹ khi còn ở thời tuổi nhỏ, đặc biệt trong năm năm

đầu tiên của cuộc đời. Trong lý thuyết của ông, con người tiếp tục thoả mãn

những mong muốn của họ theo cách mà họ tương tác với người khác trong

quá khứ, hay cách mà họ thoả mãn mong muốn của mình thời thơ ấu. Những

14

vấn đề quan trọng được họ đề cập tới trong lý thuyết của Freud đó là bản

năng, vô thức và cấu trúc nhân cách của con người. Về bản năng, ông cho

rằng con người được sinh ra với những bản năng thuộc về vô thức. Nó bao

gồm các bản năng sống (Eros) và các bản năng chết (Thanatos).

Bản năng sống: bao gồm tất cả những gì liên quan đến sự tồn tại của

cá nhân và tập thể như: đói khát, tình dục. Năng lượng của bản năng sống

này được ghi vào libido - bản năng tình dục. Tình dục là bản năng sống mà

Freud gắn vào tầm quan trọng nhất trong việc phát triển nhân cách. Nó là

năng lượng của sự sống, năng lực làm chúng ta sống, hoạt động, hưởng thụ,

tạo sự thăng bằng bên trong cơ thể chúng ta bằng cách làm cho con người

tránh được những căng thẳng, đau đớn, thoả mãn nhu cầu của con người.

Bản năng sống rất quan trọng để duy trì cuộc sống cá nhân cũng như sự tiếp

tục của loài.

Bản năng chết: là hệ thống năng lượng của những sinh vật sống săn

đuổi liên tục một trạng thái cân bằng và chỉ có thể đạt được thông qua cái

chết. Fred chủ trương mục tiêu của toàn bộ cuộc sống là cái chết, cái không

sinh sống có trước cái sinh sống. Bản năng chết thể hiện khuynh hướng bất

khả kháng của mọi sinh vật sống là quay về trạng thái vô cơ. Biểu hiện của

bản năng chết là lặp lại một trạng thái, nỗi buồn, nỗi đau có trước nào đó.

Bản năng chết còn được thể hiện ở bản năng gây gổ, bản năng huỷ diệt, đặc

biệt là huỷ diệt chính bản thân mình. Bản năng chết được xem như là nền

tảng của toàn bộ hành vi hiếu chiến và tàn sát như: sát nhân, tự tử, thù

nghịch, tàn nhẫn, những lời thoá mạ, sự tấn công bằng vũ lực. Người có bản

năng chết mạnh thường có xu hướng tự tử. Theo Freud, những tham vọng

hiếu chiến, cội nguồn của những bản năng chết quan trọng ngang bằng với

bản năng sống trong việc thúc đẩy hành vi con người.

Trong con người luôn tồn tại hai loại bản năng có sức mạnh ngang

nhau và có xu hướng chống đối nhau, một loại thúc đẩy hành động sống và

15

chinh phục cuộc sống, một loại thúc đẩy sự buông xuôi, tan biến và dẫn đến

cái chết. Sự tương tác của hai bản năng này dẫn đến tính chất lưỡng năng

tình cảm trong cảm xúc con người.

Về cấu trúc nhân cách, Freud cho rằng nó có ba cấu thành: cái nó (Id),

cái tôi (Ego) và cái siêu tôi (Super Ego). Cái nó hoạt động theo nguyên tắc

thoả mãn, gồm bản năng vô thức và thúc đẩy con người thoả mãn những

mong muốn mà không tính tới các nguyên tác và các quy định của xã hội.

Cái tôi hoạt động và kiểm soát bằng thực tiễn thế giới xung quanh. Cái siêu

tôi hoạt động theo nguyên tác kiểm duyệt, bao gồm ý thức và đạo đức trong

mối quan hệ bên ngoài. Cả ba được quy định, ảnh hưởng lẫn nhau và có thể

gây mâu thuẫn dễ làm cho con người rơi vào tình trạng căng thẳng nhưng

chính Freud đã phát hiện ra giải pháp khắc phục là những cơ chế để tạo ra sự

cân bằng trong tâm lý của con người.

Tuy nhiên, trên thế giới, những ý kiến đánh giá đối với chủ nghĩa

Freud rất phức tạp. Nhà tâm lý học hành vi phương Tây B.F.Skinner đã kịch

liệt lên án Phân tâm học, cho nó là một thứ huyền thoại siêu hình. Liên Xô

cũng từng có xu hướng phủ định hoàn toàn Phân tâm học, cho nó là phản lý

tính, phản nghệ thuật. Phương Đông cũng không tránh khỏi lên án Phân tâm

học có lẽ do quá xa cách về truyền thống đạo đức. Ở Việt Nam, nhà phê bình

Phương Lựu bên cạnh việc khẳng định sức mạnh của Freud cũng cho rằng

tác giả đã “tuyệt đối hoá vô thức, đi đến chỗ phủ định vai trò chủ đạo của ý

thức đối với hành động của con người trong đời sống hiện thực. Hơn nữa,

ông chỉ thừa nhận trong vô thức cái bản năng tính dục như là hạt nhân cơ

bản mà không thấy những thuộc tính xã hội và văn hoá lịch sử của vô thức.”

[98,tr.276]

Bên cạnh đó, nhân loại cũng ghi nhận những sức mạnh và đóng góp

của học thuyết này. Phân tâm học với sự phát hiện thế giới vô thức của con

người góp phần vạch ra ranh giới giữa tâm lý học hiện đại và tâm lý học cổ

16

điển. Trong khi đó, tâm lý học cấu tạo của W.Wande chỉ nghiên cứu nội

dung tâm lý mà con người ý thức được, tâm lý học cơ năng của W.Janes chỉ

nghiên cứu sự nảy sinh ý thức trong mối tương tác giữa con người và ngoại

giới. Mặc dù có những đóng góp khác nhau nhưng các trường phái tâm lý nói

trên đều nghiên cứu các hoạt động ý thức rất rõ ràng. Còn Freud lại đưa ngành

tâm lý học sang một bước ngoặt mới với sự chú trọng nghiên cứu phần tiềm

thức và vô thức ẩn sâu trong tâm lý con người. Phân tâm học cũng gây ảnh

hưởng sâu sắc và bền vững đối với các lĩnh vực như y học, xã hội học, nghệ

thuật học, khoa học thực nghiệm, ngôn ngữ học…; chi phối lịch sử tư duy của

thế giới, góp phần định dạng lại kiến thức và giá trị của con người.

Freud đã xây dựng một học thuyết vĩ đại bắc cầu giữa triết học và tâm

lý học, tạo tiền đề cho sự phát triển của các học thuyết tiến bộ khác cũng

như những nghiên cứu và phát hiện khoa học liên ngành. Trước Freud không

có bất kì học thuyết nào có hệ thống để giúp cho việc cắt nghĩa tình trạng rối

loạn cảm xúc của con người như trong vô thức. Con người được thúc đẩy

như thế nào bởi những áp lực vô thức để tham dự vào các hành vi quan trọng

của mình, những hành vi đó phát triển và diễn tiến như thế nào, con người

biến đổi những hành vi đó theo hướng thiện ác ra sao… Trả lời những câu

hỏi này, có lẽ, giá trị thành công vĩ đại nhất của học thuyết Freud liên quan

đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống, không chỉ văn học nghệ thuật nói

riêng, Phân tâm học ra đời đã mang đến một cái nhìn tổng quan nhận thức về

bản chất và hành vi của con người. Sự phát triển của Phân tâm học cũng tạo

nên những bất đồng về quan điểm, nó phân ra làm nhiều nhánh khác nhau,

cũng chính điều đó tạo nên sự phong phú và đa dạng cho lý thuyết này.

1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học)

Nhà phân tâm học người Thuỵ Sĩ Card Gustav Jung (1875 - 1961) là

học trò ưu tú của Freud. Jung có nhiều quan điểm đi ngược lại với quan

điểm của Freud nhưng lại là sự trái ngược với nhiều quan điểm tích cực như

17

cho rằng bệnh thần kinh không nhất thiết dựa trên sự dồn nén tình dục, các

giấc mơ không chỉ mang những ham muốn bị dồn nén… libido cũng là khái

niệm cơ bản trong lý thuyết của freud và Jung. Nhưng Jung cho rằng, libido

không chỉ là đặc điểm tình dục mà như một năng lượng sống nguyên cơ và

có tính vũ trụ. Đóng góp quan trọng của Jung trong Phân tâm học là xây

dựng lý thuyết vô thức tập thể - tài sản chung của nhân loại được cấu trúc

bởi những siêu mẫu hay cổ mẫu.

Theo quan niệm của Jung, ứng với mỗi trạng thái của con người sẽ có

một cổ mẫu tương ứng. Trong quá trình tìm kiếm cổ mẫu, Jung nhận thấy

một số cổ mẫu thể hiện quá trình phát triển tâm lý cá nhân theo một dòng

liên tục. Đó là Persona, Shadow, Anima, Animus, Self. Các cổ mẫu có tác

dụng dẫn đường và điều phối sự phát triển tâm lý con người từ một tâm thần

nguyên thuỷ chung thành những cá nhân riêng biệt mà Jung gọi là quá trình

cá nhân hoá (individuation).

Persona (mặt nạ nhân cách): Đây là loại cổ mẫu của tâm lý cầu đồng,

nó có tác dụng làm cho con người khi giao tiếp có thể che giấu “cái tôi thực”

và sắm một vai khác cho dễ phù hợp với xã hội. Phân tích Persona là đi tìm

cái đích thực cá nhân dưới lớp vô thức tập thể.

Shadow (cái bóng): Trong quá trình phát triển, đặc biệt để tạo dựng

một chiếc Pesona, con người buộc phải che giấu một phần nhân cách của

mình. Phần nhân cách bị che giấu đó, cả tốt lẫn xấu mà cái tôi hoặc là bị dồn

nén, hoặc là không bao giờ nhận biết được, có vai trò ngược lại với Persona,

gọi là Shadow. Về bản chất, Shadow được cấu thành chủ yếu từ ham muốn

bị dồn nén và những xung lực hoang dã, những động cơ thấp kém về đạo

đức, những huyễn tưởng trẻ con và những thù hận… tức là tất cả những gì

mà con người không tự hào. Những đặc trưng cá nhân không được nhận biết

này thường được trải nghiệm qua người khác thông qua sự phóng chiếu.

18

Anima (khía cạnh nữ tính ở nam giới): Đây vừa là một tổ hợp cá nhân,

vừa là một cổ mẫu trong tâm thần đàn ông. Đó là một nhân tố vô thức được

tái hiện lại ở mọi đứa bé trai và là nguồn gốc của những phóng chiếu tâm lý.

Lúc đầu, Anima được đồng nhất với người mẹ, nhưng sau đó nó được trải

nghiệm ở người phụ nữ khác và có ảnh hưởng chi phối tới toàn bộ cuộc đời

người đàn ông, Theo Jung, với tư cách là một nhân tố bên trong, Anima là

sự bổ sung cho Persona: Persona hình ảnh lý tưởng một người đàn ông muốn

vậy, được bù trừ ở bên trong bởi sự yếu kém nữ tính và vì ở bên ngoài, cá

nhân đóng một vai trò mạnh mẽ, nên ở bên trong anh ta chỉ là một người phụ

nữ, tức là Anima, vì Anima đã phản ứng là Persona. Nhưng bởi thế nên

người đàn ông không hoàn toàn nhận biết được yếu kém của mình và khi

anh ta càng đồng nhất mình với Persona, mặt đối trọng với nó, Anima sẽ

hoàn toàn ở trong bóng tối.

Animus (khía cạnh nam tính ở nữ giới): Giống như Anima, Animus

vừa là một tổ hợp cá nhân, vừa là một hình ảnh cổ mẫu, phụ nữ được bù trừ

bởi một yếu tố nam tính, do vậy, vô thức của phụ nữ cũng có dấu ấn nam tính.

Sefl (vô thức tự ngã/chân ngã): chiếm vị trí trung tâm trong các loại cổ

mẫu, nó có tác dụng tập trung những rời rạc của vô thức tập thể, có tác dụng

điều hoà nội tâm và ngoại giới. Sefl là cổ mẫu về sự tổng thể và trọng tâm

điều phối của tâm thần, một sức mạnh siêu cá nhân vượt qua cái tôi: Sefl

không chỉ là trung tâm mà còn là cái vòng tròn bao bọc cả ý thức lẫn vô

thức. Nó là trọng tâm của tổng thể này, giống như cái tôi là trọng tâm của ý

thức. Sefl xuất hiện trong những giấc mơ, huyền thoại và cổ tích dưới hình

ảnh một nhân cách siêu phàm. Do đó, về mặt thực nghiệm, Sefl biểu hiện

như là sự tương tác giữa ánh sang và bóng tối, mặc dù được nhận biết như là

một tổng thể và trong đó các mặt đối lập được thống nhất.

Jung cho rằng với tư cách là vô thức tập thể, các loại cổ mẫu này được

bảo lưu trong thần thoại nguyên thuỷ, đồng thời cũng được biểu hiện trong

19

những ảo giác mà giấc mơ của con người hiện đại. Ông cho rằng: loài người

sống trong thế giới các thần thoại hàng triệu năm, còn thế giới văn minh chỉ

mấy ngàn năm. Do đó, mặc dù ý thức con người văn minh khác xa với lối tư

duy thần thoại nhưng thực ra những cổ mẫu thần thoại đã ăn rễ sâu vào trong

vô thức của con người, những bóng mờ của tôn giáo đa số sẽ vụt hiện lên rõ

ràng khi chỉ một kích động thích hợp, chuyển vô thức ẩn chứa thành ý thức

tự thân mỗi người trong hành động. Như vậy, so với Freud, Jung xa rời cơ

sở thực nghiệm mơ hồ, ông đi sâu vào lĩnh vực văn hoá, thần bí, tâm linh,

đôi khi lý giải vấn đề một cách tư biện thuần thuý. Nhưng vì thế mà ông mở

ra một con đường mới để nghiên cứu lĩnh vực tưởng tượng của con người.

Ông có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hoá, nhất là về văn

hoá Phương Đông và văn học nghệ thuật. Mặt khác, Jung không giải thích

Libido theo lí thuyết bản năng tính dục của Freud, Jung cho cái bản ngã vô

thức chỉ là một bộ phận của vô thức. Vô thức cá nhân, cá thể là một lớp

mỏng nằm ngay cạnh dưới ý thức. Nó chứa đựng những nội dung và hoạt

động tâm lý không điều hoà được với ý thức nhưng có khả năng chuyển hoá

thành ý thức.

Lý thuyết Phân tâm học của Freud là nền tảng để các nhà nghiên cứu

khác đóng góp, bổ sung và phát triển. Phân tâm học ngày càng mở rộng và

phân thành nhiều nhánh nhỏ với những ưu nhược điểm bộc lộ ngày càng rõ

rệt. Do vậy, khi vận dụng lý thuyết này, ta cần vận dụng một cách hợp lý

trong từng lĩnh vực cụ thể.

1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học

Phân tâm học của Freud đã ảnh hưởng rộng rãi đến lĩnh vực sáng tác

và nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật. Trào lưu phê bình Phân tâm học

ra đời và rất thịnh hành ở Phương Tây những năm đầu thế kỉ XX. Nội dung

chủ yếu của các khuynh hướng phê bình không nằm ngoài các phương diện

vô thức, bản năng tính dục, cấu trúc nhân cách và giải thích giấc mơ. Mục

20

đích nghiên cứu của trào lưu này là tìm hiểu những biểu hiện vô thức và

những ẩn ức tâm lý dồn nén của nhà văn được thể hiện qua hệ thống biểu

tượng trong tác phẩm, cấu trúc tâm lý nhân vật, tâm lý độc giả. Theo tiến

trình nghiên cứu của Freud về những xung động bản năng như đã nói ở trên,

những gì thuộc về ham muốn, nếu không được giải toả sẽ bị dồn nén và nếu

không được giải thoát sẽ là nguyên nhân gây bệnh tâm thần. Có hai con

đường cơ bản để giải thoát những ham muốn tính dục mà không sợ vi phạm

đạo đức xã hội, đó là giấc mơ và những sáng tạo nghệ thuật. Nếu như giấc

mơ vượt qua sự kiểm soát của bản ngã và siêu ngã để bộc lộ những ham

muốn thầm kín bằng cách nguỵ trang bằng những hình ảnh biểu tượng, nó

thể hiện một cách tự do, cởi mở như những thông điệp vô thức. Thông qua

việc giải mã các biểu tượng trong giấc mơ người ta có thể hiểu rõ hơn tận

cùng hồn con người với những ẩn khuất trong thế giới tâm linh. Còn sáng

tạo nghệ thuật lại là phương tiện giải thoát, sự thăng hoa của những ham

muốn trong vô thức, những ẩn ức tính dục bị dồn nén của nghệ sĩ. Tác phẩm

nghệ thuật- sản phẩm của sự thăng hoa tính dục cũng giống như một giấc mơ

nhưng là giấc mơ tỉnh chứa đựng trong đó những ham muốn, những ẩn ức

tính dục của cả nghệ sĩ và của cả nhân vật. Ngoài ra, nó còn là sự vượt qua

kiểm soát của nhận thức biểu hiện qua những hành vi sai lạc, những câu nói

và sự đãng trí. Lý luận Freud cho rằng, nghệ sĩ chính là những người mà

trong tâm lý luôn luôn bị ám ảnh bởi tính dục, những người mất khả năng

hoặc những người quá thoả mãn về phương diện tính dục sẽ không thành đạt

trong sáng tạo nghệ thuật, chỉ những người nào, nhất là nữ giới không thoả

mãn được nhu cầu mạnh mẽ về tính dục thì mới có điều kiện để phát huy tài

năng về mặt nghệ thuật. Tính dục của họ không được thoả mãn trong thực tế

sẽ bị dồn nén và chuyển hoá sang hoạt động khác. Là một bác sĩ tâm thần,

Freud đã quá nhạy cảm về tính dục. Ông đưa ra các ví dụ như thơ của

W.Shakespeare, tiểu thuyết của P.Roust... đều có sự thăng hoa của tình dục.

21

Freud dễ dàng tìm thấy trong tác phẩm nghệ thuật những cảnh, những người,

những hình ảnh...phần nhiều đều là tượng trưng cho tính dục.

Phân tâm học cũng đặt nền tảng cho sự nở rộ của hàng loạt các tác

phẩm khai thác tâm lý đời sống bản năng, hoạt động tính dục, đời sống tâm

linh, những bí ẩn khó nhận biết của con người. Từ những năm 60, Phân tâm

học đã hiện diện qua sang tác của nhiều nhà văn thế giới với chủ đề tình dục,

về những biểu hiện đa dạng và nhiều màu sắc của đời sống bản năng con

người như Trăm năm cô đơn của G.Marquez, Rừng Na-uy của Haruki

Murakami, Kỉ nguyên ngờ vực của Nathalie Sarraute, Kẻ sát nhân đang ở

trong buồng của Tony Laine và Daniel Karlin… Phản ánh đời sống bản năng

con người nhưng các tác phẩm này không rơi vào dung tục, thô thiển mà vẫn

trở nên ám ảnh sâu sắc, giàu giá trị nhân văn, lột tả được các góc cạnh của đời

sống con người cho đến tận cùng những bi kịch thân phận của họ.

Ở Việt Nam, độc giả biết đến Phân tâm học gần một thế kỉ nay qua

sang tác của Vũ Trọng Phụng, một số tác giả của Tự lực văn đoàn qua hai

bài phê bình của Trương Tửu. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Phân

tâm học vẫn còn bị kì thị, lên án gay gắt và chưa được nhìn nhận đúng mức.

Trước năm 1975, Phân tâm học vào Việt Nam chủ yếu do lớp trí thức được

học tập và nghiên cứu tại nước ngoài đưa về nước, nhưng do nhiều yếu tố

chi phối nên dù xuất hiện mà Phân tâm học chưa thành một hệ hình lý thuyết

hoàn chỉnh. Cùng một vài nguyên nhân khác nên Phân tâm học chưa có sức

hấp dẫn với các ngành khoa học thực nghiệm, đặc biệt là với văn học nghệ

thuật. Qua thời gian, lý thuyết này đã chứng tỏ được sức ảnh hưởng của nó

và trở nên gần gũi hơn với nhà văn, độc giả và giới nghiên cứu phê bình ở

Việt Nam. Nó trở thành một khuynh hướng nghiên cứu phê bình văn học.

1.3. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết của một số nhà văn trẻ Việt

Nam đương đại (Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương…)

22

Ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, Phân tâm học đã tác động không nhỏ

tới lĩnh vực sáng tác và phê bình văn học. Ở phương Tây những năm đầu thế

kỉ XX, Phân tâm học chủ yếu xoay quanh các phương diện vô thức, bản

năng tính dục, cấu trúc nhân cách và bản năng giấc mơ. Mục đích nghiên

cứu của trào lưu này là tìm hiểu những biểu hiện vô thức và những ẩn ức

tâm lý dồn nén của nhà văn được biểu hiện qua hệ thống biểu tượng của tác

phẩm, cấu trúc tâm lý nhân vật, tâm lý độc giả.

Ở Việt Nam, dấu ấn Phân tâm học ít nhiều đã tác động đến các sáng

tác của Vũ Trọng Phụng, cùng một số tác giả Tự lực văn đoàn. Từ năm

1975, Phân tâm học vào Việt Nam tuy chưa trở thành một hệ hình lý thuyết

hoàn chỉnh song nó đã tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt đối với sáng tác và

phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam. Qua quá trình thử thách, chọn lọc,

nó ngày càng trở nên gần gũi hơn với nhà văn, độc giả và cả giới phê bình

và trở thành một khuynh hướng phê bình văn học.

Trong lĩnh vực sáng tác, các nhà văn đã có ý thức vận dụng lý thuyết

Phân tâm học đặc biệt là các nhà văn đương đại với tinh thần dấn thân, dám

tìm tòi, đổi mới, dám thử thách chính mình. Đó là những cây bút trẻ tiêu

biểu như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…

Nguyễn Bình Phương là một trong số những nhà văn Việt Nam hiện

đại có hành trình bền bỉ đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm phong phú và

phức tạp của con người, đó cũng là một hành trình đi xa nhất vào cõi vô thức

của con người. Hiện thực và con người trong tác phẩm của nhà văn là hiện

thực của tiềm thức, giấc mơ…Nguyễn Bình Phương quan niệm thế giới là

“Tất cả đang tồn tại”, tức là: “Quá khứ, hiện tại và tương lai cùng là một.

Nó cùng tồn tại vào một thời điểm.” [4, tr. 15]. Và thế giới hỗn mang đó là

thế giới của cả hiện thực và giấc mơ, thế giới được mộng hoá hay cả thế giới

của những hỗn mang, phi lý cùng những điều đa dạng và phức tạp của nó,

nhà văn thể hiện những điều này rõ nét qua Người đi vắng, Những đứa trẻ

23

chết già, Ngồi, Thoạt kỳ thuỷ… Trong cái nhìn về thế giới đó, nhà văn đã

đặt con người vào vị trí trung tâm, con người bị giằng xé bởi sự ám ảnh quá

khứ, hiện tại, tương lai, luôn phải đối diện với chính mình và thế giới xung

quanh, sống trong các lực hút đó là sống trong các cảm giác của đời sống, để

từ đó biết trân trọng từng giây từng phút. Trong thực tế sáng tác, Nguyễn

Bình Phương đã lang thang, trôi dạt vào nội tâm, tìm đến vô thức, phần sâu

kín nhất của con người, phơi bày ra ánh sáng những góc khuất, những ẩn ức,

ám ảnh, những cơn mộng mị để thấy được bản chất con người. Nguyễn Bình

Phương thường quan tâm đến những đối tượng có vấn đề trong tâm hồn,

những trục trặc cả công khai lẫn thầm kín. Chú ý tới những con người này là

chú ý tới sự bùng nổ trong vô thức, là lựa chọn cho mình một mảnh đất để

khai phá, đào sâu, thăm dò. Nhà văn cho rằng: “những người điên cho tôi

cảm giác lạ lùng về cuộc sống. Tôi không đánh giá điên là một tính thiện

“thoạt kỳ thuỷ” dù ở nghĩa bóng. Nếu cần nói tới vấn đề điên của một người

điên thì tôi nghĩ thoạt kỳ thuỷ họ không điên, sau đó có cái gì đấy làm họ

điên” [419, tr.19]. Trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương, người điên

chiếm một tỷ lệ khá lớn, họ trực tiếp nói ra sự điên loạn, tâm thần của mình

hoặc có những biểu hiện phức tạp, khó lường với chiều sâu của ẩn ức, những

chấn thương đã được giữ kín, bị che giấu. Hầu hết, họ đều mang dục tính

mạnh mẽ, họ chất chứa những khao khát, có lúc biểu hiện ra ngoài một cách

mãnh liệt, cũng có lúc nó bị kìm nén và hiện ra dưới hình thức khác một

cách gián đoạn tiêu biểu như nhân vật Tính, Hưng (Thoạt kỳ thuỷ), mụ

Quản, Bảo mù (Những đứa trẻ chết già), ông Điều (Người đi vắng). Nhà văn

không chỉ viết về người điên mà còn quan tâm đến những người có dấu hiệu

tâm thần bởi người có dấu hiệu thần kinh phức tạp hơn người điên vì họ có

sự hoà đồng với xã hội và thế giới xung quanh, chưa bị tách biệt ra, do vậy

việc soi chiếu và đánh giá họ là cực khó, đòi hỏi sự tinh tế và sắc sảo. Viết

về người điên là viết về những người đã rõ ràng bệnh lý, nhưng viết về

những người có dấu hiệu tâm thần thì cần dùng đến “kính chiếu yêu” mới

24

soi thấy vùng giáp ranh giữa tỉnh táo với bệnh hoạn. Đó là những nhân vật

như Khẩn trong Ngồi, nhân vật Em trong Trí nhớ suy tàn, Hoàn trong Người

đi vắng… Từ lý thuyết Phân tâm học, chúng ta thấy được hành trình sáng tác

của Nguyễn Bình Phương là hành trình tìm tòi, khám phá thế giới con người

từ nhiều chiều. Trong kiếp nhân sinh dằng dặc mà ngắn ngủi, con người đã

không ngưng đấu tranh với chính bản thân mình để chiến thắng hay gục ngã.

Nguyễn Việt Hà là nhà văn “nghiêm túc, có bản lĩnh, có trách nhiệm

nghề nghiệp” (Tạ Duy Anh). Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn

Việt Hà luôn quan niệm “văn chương bị lặp lại đáng sợ như văn chương nhạt

nhẽo”. Bởi vậy, Nguyễn Việt Hà đã luôn cố công tìm tòi, sáng tạo những thể

nghiệm mới, phá bỏ những nguyên tắc hình thức bất biến. Chính những

đóng góp đó đã giúp nhà văn tự làm mới mình, đưa văn chương xích lại gần

cuộc sống.

Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, độc giả bị thu hút bởi hiện

thực cuộc sống phong phú hiện lên qua từng trang giấy từ chủ đề về tình

yêu, tình bạn, vấn đề về tôn giáo, văn hoá, kinh tế… Không chỉ dừng lại ở

đó, Nguyễn Việt Hà còn vận dụng lý thuyết Phân tâm học để khám phá thế

giới con người đầy phức tạp. Có thể bắt gặp trong tiểu thuyết Nguyễn Việt

Hà kiểu khai thác “cá nhân hoá tâm hồn” con người, những giấc mơ tính

dục, bạo lực trong quá trình xây dựng chiều sâu tâm lý nhân vật. Trong hai

cuốn tiểu thuyết Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà đã

xây dựng nên kiểu nhân vật bất lực và chấp nhận thực tại. Đó là những con

người bất lực trong cuộc vật lộn với cái tôi cá nhân, loay hoay trong câu hỏi

“mình đang sống hay chỉ tồn tại”. Cuộc sống hối hả, phức tạp tạo cho con

người nhiều sức ép, hiện trạng này kéo dài, nặng nề khiến cho con người dần

chìm vào sự cô đơn, tinh thần bị bào mòn bởi dục vọng vật chất. Đổ vỡ niềm

tin, bất lực trước thực tại, con người không cân bằng được đời sống tinh

thần, chấp nhận dấn thân vào trò chơi cuộc sống với luật chơi nghiệt ngã là

25

cào bằng cảm xúc. Các nhân vật thường rơi vào vòng luẩn quẩn không biết

mình đi tới đâu, họ trăn trở day dứt bởi mang trong mình khát vọng và niềm

tin nhưng ngày một trở nên tầm thường trong kiếp “sống mòn”. Họ “bải

hoải, bàng hoàng rồi bừng tỉnh, đột nhiên thấy mình trống rỗng, vô nghĩa.

Mà vô nghĩa nhất là thấy cuộc đời nhạt nhẽo của mình cũng có một ý nghĩa.

Đó là khi sống gần hết với nó thì mới biết là nó vô nghĩa đến chừng nào”

[430, tr 30]. Song, Nguyễn Việt Hà cũng tìm thấy ở con người những suy tư,

khát vọng vượt thoát mà trước hết là khát vọng văn chương. Văn chương là

phương tiện giải thoát, nó giúp người viết có thể xây dựng thế giới tưởng

tượng, qua đó thoả mãn khát vọng của riêng mình. Nguyễn Việt Hà luôn để

nhân vật của mình trong trạng thái đấu tranh giữa thiện – ác nhưng con

người vẫn luôn ý thức được giá trị của niềm tin. Họ tha thứ, ân hận, sám hối.

Bởi có một toà án tự vấn luôn tồn tại trong mỗi bản thân con người, tiềm

tàng khả năng gây ra tâm bệnh. Mỗi trang viết của Nguyễn Việt Hà lấp lánh

sự tin tưởng, niềm hi vọng vào cái đẹp, thiên lương “rằng tất cả những người

thiện lương đều có thể mắc lỗi lầm, nhưng không bao giờ rơi vào sự quá

quắt đểu giả, đê tiện” (Cơ hội của chúa). Chính bởi vậy mà bên trong mỗi

nhân vật đều có sự đấu tranh không ngừng.

1.4. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

1.4.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Tú

Nguyễn Đình Tú sinh ngày 7 tháng 7 năm 1974 tại Kiến An, Hải

Phòng, tốt nghiệp Đại học Luật năm 1996 và tu nghiệp sĩ quan tại trường

Quân chính quân khu 3 năm 1997. Từ năm 1997 đến 2001, Nguyễn Đình Tú

công tác tại Viện Kiểm sát Quân sự quân khu 3. Năm 2001, anh về công tác

tại Ban văn - Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Nguyễn Đình Tú nguyên

là Trưởng ban văn xuôi và là Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội,

hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

26

Nguyễn Đình Tú là thế hệ nhà văn trẻ cùng thời với Đỗ Bích Thuý,

Nguyễn Vĩnh Tiến, Đỗ Hoàng Diệu… Anh được biết đến từ chuyên mục

“Tác phẩm tuổi xanh” trên báo Tiền phong cách đây hơn mười năm. Có thể

nói, anh là cây bút viết khá đều tay ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu

thuyết. Ngoài những tập truyện ngắn, còn phải kể đến những tiểu thuyết

được dư luận đánh giá cao như: Hồ sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu

Diện (2005), Nháp (2008), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm

(2013) và gần đây nhất là Xác phàm (2014). Có nhiều người nhận định, thế

hệ các nhà văn trẻ hiện nay ngại dấn thân vào lĩnh vực tiểu thuyết nhưng

Nguyễn Đình Tú đã khẳng định điều ngược lại. Anh đã không ngừng nỗ lực

sáng tạo để cho ra đời những đứa con tinh thần có giá trị. Điều này đã được

độc giả và các tên tuổi lớn trong làng văn ghi nhận. Trong đó có nhà văn

Chu Lai, ông đánh giá:“Nguyễn Đình Tú hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu

bước tiếp trên con đường tiểu thuyết mênh mang nắng gió” dù cho còn

nhiều “chông gai nhọc nhằn” [74].

Tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú là cuốn Hồ sơ một tử tù lúc

đầu có tên là Bên kia cát bụi. Cuốn sách tập trung vào đề tài tội phạm với sự

tha hoá của nhân vật Phạm Bạch Đàn, một tên tội phạm bị khép án tử hình

sau quá trình diễn biến khá phức tạp để biến từ một thanh niên nhà quê hiền

lành chất phác trở thành một tay giết người nguy hiểm, để rồi khi biết quay

đầu hướng thiện thì chỉ còn là giọt nước mắt hối hận muộn màng. Tác phẩm

như một nốt nhạc trầm giữa bản nhạc cuộc đời neo lại trong lòng người đọc

biết bao suy tư trăn trở. Tác phẩm đạt giải B cuộc thi sáng tác tiểu thuyết,

truyện và ký Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống giai đoạn 1998 -

2002 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức.

Nét mặt buồn là cuốn tiểu thuyết thứ 2 của Nguyễn Đình Tú, in năm

2005 và năm 2007 tái bản với cái tên gọi mới Bên dòng Sầu Diện. Tác

phẩm đạt 5 giải thưởng của Bộ Quốc phòng (2004 - 2009). Đây là cuốn tiểu

27

thuyết viết về đề tài chiến tranh, thể hiện cách tiếp cận chiến tranh của một

người viết trẻ với giọng điệu cảm thương xót xa. Những hình ảnh sống động

về chiến tranh, người lính, những người bước ra từ cuộc chiến trong Bên

dòng Sầu Diện là một cố gắng đáng trân trọng của tác giả.

Ba năm sau, tức năm 2008, Nguyễn Đình Tú tiếp tục ra mắt độc giả

tiểu thuyết Nháp. Cuốn tiểu thuyết đã lôi cuốn độc giả mạnh mẽ ngay từ lời

đề từ: “Cuộc đời nháp tôi bằng những số phận”. Mới tiếp cận, người đọc

ngỡ như đây là cuốn sách viết về sex, bởi lẽ trong hơn 300 trang thì có đến

một phần ba là những đoạn nóng bỏng và phập phồng những cảnh huống ân

ái. Song, cuốn sách lại mang người đọc đến với thế giới của những người trẻ

đang vùng vẫy để vượt thoát và đi tìm giá trị sống. Tác phẩm đã gây nên

cuộc bút chiến khá căng thẳng trên văn đàn.

Khi những dư âm của Nháp không những không lắng xuống và còn

lan toả mạnh mẽ thì năm 2009, Nguyễn Đình Tú lại công bố cuốn sách thứ

tư mang tên Phiên bản. Cuốn tiểu thuyết 400 trang viết về thế giới tội phạm

với cốt truyện ly kì, thủ pháp mới mẻ và sự đi sâu vào tâm lý nhân vật đã

cuốn hút độc giả mạnh mẽ. Phiên bản đã đem lại cho Nguyễn Đình Tú

những gặt hái to lớn trong đó phải kể đến giải B cuộc thi sáng tác tiểu

thuyết, truyện và kí giai đoạn 2007 - 2010 do Bộ Công an và Hội Nhà văn

Việt Nam phối hợp tổ chức.

Kín (2011) là tiểu thuyết đi sâu bóc tách, lí giải để làm bật lên chân

dung lớp trẻ đương đại thông qua hành trình tới những miền đất mới của

Quỳnh, những sinh hoạt quần hôn tập thể, sự nguy hiểm của giang hồ, bắt

cóc, mại dâm và cả thế giới tinh thần phong phú nhưng cũng đầy linh thiêng

của đạo Mẫu.

Đến Hoang tâm (2013), nhà văn dựng lên hai nhân vật mang tính biểu

tượng đó là “Anh” và “Son Phấn”, hai nhân vật đã thực hiện cuộc hành trình bí

28

ẩn để tìm lại cảm xúc của chính mình. Cuộc hành trình gợi nhắc chúng ta về

cuộc chiến tranh của dân tộc và trân trọng hơn giá trị đích thực của sự sống.

Năm 2014, cuốn tiểu thuyết Xác phàm đánh dấu mốc cho sự nghiệp

văn chương của Nguyễn Đình Tú. Ở cuốn tiểu thuyết này, nhà văn đã bao

quát hiện thực cuộc sống bề bộn với các vấn đề như đồng tính, chuyển giới,

cuộc chiến tranh biên giới tưởng như đã bị lãng quên.

Nhìn lại hành trình tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có thể thấy nhà

văn tuổi Dần này đã luôn nỗ lực không ngừng nghỉ để đóng góp tài năng và

tâm sức của mình vào lâu đài văn học Việt Nam đương đại ngày một bề thế

hơn. Giữa bức tranh văn học đa sắc màu, Nguyễn Đình Tú đã góp nên những

mảng màu mới mẻ, độc đáo mang dấu ấn riêng anh. Nhà văn đã biết lồng

ghép những vấn đề lịch sử với những vấn đề mang tính thời sự để làm giàu

giá trị cho tác phẩm của mình. Tất cả những nỗ lực của nhà văn đều được

độc giả ghi nhận.

1.4.2. Ảnh hưởng từ phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ viết về thế hệ trẻ, những trang văn

“vừa táo tợn vừa dịu dàng” của anh đã đem đến cho người đọc những cái

nhìn mới về giới trẻ ngày nay. Nguyễn Đình Tú lựa chọn mảng đề tài rất đặc

biệt, thay vì viết về những cái tốt, cái đẹp anh lại trực tiếp lựa chọn mảng đề

tài về cái xấu, cái ác về những tên tội phạm khét tiếng trong xã hội. Song

chính mảng đề tài này đã giúp tác phẩm của anh chạm đến những vấn đề

nhân loại.

Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của Viện

kiểm sát Quân sự Quân khu III, sau đó được điều về Tạp chí văn nghệ quân

đội giữ vị trí biên tập văn xuôi. Môi trường công tác mới với những chuyên

án lớn đã tạo ra cho nhà văn vốn hiểu biết và những tư liệu cần thiết kiến tạo

nên các tiểu thuyết. Anh chia sẻ với bạn đọc rằng: “Tôi có rất nhiều bộ hồ

sơ các vụ án hình sự trong tay nên việc dựng nhân vật và phân tích tâm lý

29

nhân vật cũng như lý giải quá trình đi đến tội phạm của họ là điều không

khó”. Nhà văn trẻ luôn nỗ lực lý giải con đường dẫn đến sự tha hoá biến

chất trong tâm hồn con người, nhìn nhận họ góc độ nhân văn cao cả nhất từ

đó mong muốn họ tìm về đúng bản chất tốt đẹp của mình.

Trên nền tảng lý thuyết Phân tâm học, Nguyễn Đình Tú có cái nhìn

mới mẻ, sâu sắc về tâm lý con người. Cũng từ việc vận dụng lý thuyết này,

người đọc có cơ hội soi chiếu sâu hơn những vấn đề được đặt ra trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú.

Dấu ấn Phân tâm học có dấu ấn đậm nét trong các tiểu thuyết của

Nguyễn Đình Tú. Nó chi phối sâu sắc đến cả hai phương diện nội dung và

nghệ thuật trong tiểu thuyết của anh. Về nội dung, phân tâm học thể hiện ở

cái nhìn hiện thực cuộc sống. Đó là hiện thực đa chiều, không gian và thời

gian mở rộng. Các kiểu hiện thực tiềm thức, âm bản, mộng hoá, hỗn mang

phi lí. Trong hiện thực đó, cái thiện - ác, thật - giả đan xen nhau. Không có

một chân lý tuyệt đối mà chỉ có những hành động, cảm giác, khoảnh khắc

hình ảnh để con người bộc lộ nội tâm phong phú của mình. Ở phương diện

con người, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú xây dựng nên nhiều kiểu con người,

từ con người thô sơ, bộc trực đơn giản trong hành động suy nghĩ đến con

người uẩn khúc, biến hoá với những dạng thức tâm thần như dục tính, bạo

lực, ẩn ức, mặc cảm, chấn thương, đa nhân cách… Nhân vật trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú đa dạng về tâm lý và hành động, luôn có sự giao

tranh giữa lý trí và bản năng, tâm lý và hành động, ý thức và vô thức trong

những phạm vi ứng xử đời thường, trong cuộc mưu sinh. Phân tâm học đã

giúp nhà văn khai thác góc khuất tối tăm nhất trong con người, đi tới tận

cùng tầng sâu vô thức để giải phẫu tâm lý con người.

Đặc biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, hình tượng người điên,

người đa nhân cách chiếm tỉ lệ lớn. Kiểu nhân vật này có những biểu hiện

khó lường, phức tạp với chiều sâu ẩn ức, những chấn thương được giữ kín

30

hoặc bị che giấu. Họ mang tính dục mạnh mẽ, chứa chất những khao khát có

lúc biểu đạt một cách mãnh liệt có lúc lại bị kìm nén và biểu hiện ở một hình

thức khác. Đó là những con người đa nhân cách với những hành vi phức tạp,

những mặt nạ trá hình. Để hiểu được nhân vật này, cần “kính chiếu yêu” để

phân định ranh giới giữa tỉnh táo và mù quáng, khoẻ mạnh và bệnh hoạn.

Nguyễn Đình Tú vừa khai thác ngôn ngữ, hành vi và diễn biến tâm lý để thể

hiện một cách chân thực, sống động và sâu sắc nhất kiểu nhân vật này.

31

Tiểu kết chương 1

Học thuyết Phân tâm học của S.Freud có tác động và ảnh hưởng sâu

rộng đến rất nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của xã hội hiện nay như tâm

lý học, y học, triết học, tội phạm học, văn học nghệ thuật, tôn giáo, giáo

dục… Đối với văn học nghệ thuật, học thuyết Phân tâm học không chỉ giới

hạn ở việc nghiên cứu tâm lý học sáng tạo của nhà văn mà còn dùng để cắt

nghĩa, khám phá thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, phức tạp của con

người. Dưới góc nhìn Phân tâm học, đặc biệt là với cấu trúc sơ đồ nhân cách

ba tầng mà Freud đã xây dựng, đã mở rộng phạm vi khám phá con người,

con người không chỉ được nhìn nhận từ bình diện xã hội mà còn được nhìn

nhận từ bình diện tự nhiên với những xung đột nội tâm, những va đập hoàn

cảnh, để từ đó con người được phát hiện khám phá đầy đủ hơn.

Từ lý thuyết Phân tâm học mà Freud soi chiếu và thực tiễn sáng tạo

văn học Nguyễn Đình Tú, tác giả luận văn nhận thấy tác giả đã tinh lọc tiếp

nhận những hạt nhân cơ bản của học thuyết Phân tâm học để nhìn nhận cắt

nghĩa đời sống, cắt nghĩa con người bằng một phong cách sáng tác độc đáo,

nhiều tìm tòi sáng tạo. Với một hành trình không mệt mỏi, tác giả đã đi sâu

khám phá, dò tìm cội nguồn tâm lý và hành vi của con người, những con

người vừa đặc biệt vừa không đặc biệt để từ đó cung cấp thêm một cái nhìn

đa dạng nhiều chiều về con người đã phải trải qua những cuộc đấu tranh

không ngừng nghỉ với chính bản thân mình để chiến thắng hay gục ngã. Hoà

vào bức tranh nhiều màu sắc của văn học đương đại, Nguyễn Đình Tú đã

góp một màu sắc độc đáo, mới mẻ vào làm phong phú bức tranh đó.

32

Chương 2

DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC QUA CÁI NHÌN VỀ HIỆN THỰC VÀ

CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

2.1. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua cái

nhìn hiện thực

Nghiên cứu dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn hiện thực trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú là một khâu vô cùng quan trọng trong việc triển khai

đề tài. Ở đây tác giả luận văn không chỉ nghiên cứu hiện thực với tư cách là

không gian sống, không gian tồn tại đơn thuần của con người mà muốn tìm

hiểu nó với tư cách là nền tảng, nguyên nhân, nguồn gốc hình thành nên

những ẩn ức cá nhân của nhân vật. Đó chính là động cơ chi phối những hành

động, suy nghĩ của các nhân vật trong tác phẩm. Và tìm hiểu những mảng

màu hiện thực này cũng giúp chúng ta lý giải sâu sắc hơn những điều bất

thường, khó giải thích trong quá trình hình thành tính cách, số phận, đường

đời nhân vật. Cái nhìn hiện thực muôn màu muôn vẻ này giống như “chiếc

chìa khoá vàng” mở ra cánh cửa tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.

2.1.1. Không gian hiện thực đặc biệt - nơi hình thành những ẩn ức cá

nhân

Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ viết về thế hệ trẻ, đó là thế hệ của

chính anh. Chân dung của thế hệ trẻ hiện lên với rất nhiều màu vẻ: “Những

người trẻ trong tác phẩm được miêu tả đúng là thế hệ trẻ của thời hôm nay,

thời ta đang sống. Đây là thế hệ với rất nhiều cái hay song cũng không ít cái

dở, tuy nhiên đều mang trạng thái tâm lý hoang mang trước những câu hỏi

có tính chất tra vấn về ý nghĩa của đời sống. Nó là kết quả của một trạng

thái xã hội nói chung. Cá nhân riêng lẻ bị số phận đưa đẩy thế nào đó,

không một ai có thể biết trước được dù chỉ là một bước ngắn” [2]. Nguyễn

Đình Tú đã dựng lên trong tác phẩm của mình những mảng màu hiện thực

33

khác nhau về hiện thực cuộc sống để người đọc thấy được quá trình hình

thành lên nhân cách một con người trong xã hội hiện đại, bởi lẽ anh ý thức

sâu sắc được rằng: Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội (Max).

Tìm hiểu không gian hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú cũng là

cuộc truy tìm những nguyên nhân xã hội, môi trường sống tạo nên những số

phận khác nhau nhưng cùng mang những nỗi bất hạnh chung của thế hệ.

Như vậy, hiện thực cuộc sống vừa là con đường đẩy một bộ phận giới trẻ

hôm nay đến bi kịch lại vừa là nơi những mảnh đời tội nghiệp nương náu,

tồn tại, bấu víu.

Không gian hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình tú rất đa dạng và

được mở rộng biên độ. Trong Phiên bản đó là thành phố ngã ba sông, thế

giới ngầm với ba vùng lãnh địa đen, mà giới giang hồ không ai không biết,

là nơi bến xe nơi có rất nhiều người sống bằng nghề trộm cắp vặt, toàn bọn

choai choai, đói dài, đói rạc. Mỗi đứa là một hoàn cảnh, mỗi đứa là một lý

do chúng ra đứng bến. Trong Kín đó là bãi vàng Lũng Sơn, nơi vùng đất

nghịch “ngã ba sông”, là nhà ga Hải Thành, các quan bar, nhà hàng, sòng

bạc. Vì cuộc sống mưu sinh, vì miếng cơm manh áo mà con người phải trôi

dạt đến đó, hiện thực lại đẩy những con người nhưng Bình, Hoàn, Kiên, Lửa

Cháy trượt dài trên con đường tha hoá. Không gian hiện thực là nơi cái ác,

cái xấu ngự trị với những quy luật sống khắc nghiệt huỷ hoại những con

người như Hương Ga, Tùng hero, Tính dao mổ, Bình sói, Lộc ba tai, Vĩnh

con (Phiên bản). Họ bị cuộc đời vùi dập và họ tự vùi dập chính mình. Hiện

thực ấy là nỗi đau mà khi nếm trải sẽ trở thành vết thương nhức nhối, dằn

vặt nội tâm nhân vật: “Khi anh ra gặp em ở ngoài chợ, anh chỉ nghĩ đến sự

tiếc nuối tuổi học trò phải bỏ dở chừng chứ anh không hình dung hết được

những phức tạp chợ búa mà em đang nếm trải” [117, tr.211]. Hiện thực

cuộc sống khắc nghiệt khiến họ ngộ ra “chân lý” muốn tồn tại được buộc

phải có phe cánh, phải chà đạp lên người khác trước khi họ vùi dập mình

“Cộc ngộ ra rằng, nếu không có những tay đao tay búa thì không thể tồn tại

34

được ở đất nghịch này...Muốn giữ được thế chia ba thì Cộc phải có đủ dao

găm súng lục để sẵn sàng chiến khi cần thiết” [117, tr.140]. Các nhân vật

trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú hầu hết đều không có hoàn cảnh bình

thường, hoặc mồ côi, hoặc lạc cha mẹ, bị bạn bè xa lánh, người yêu phụ

bạc… Chính hoàn cảnh khắc nghiệt ấy đã hình thành nên bản năng sinh tồn,

kĩ năng tự vệ, tâm lý khác thường, những ẩn ức dằn vặt, giằng xé trong mỗi

tâm hồn con người.

Không gian hiện thực cũng là thế giới cô đơn và hoan lạc. Cô đơn là

một trạng thái bi kịch, nỗi đau tinh thần lớn nhất của con người mà hiện thực

chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch tinh thần ấy. Con người sống trong

một xã hội hiện đại nhưng họ không thể hiểu nhau. Sống trong gia đình

nhưng Quỳnh không được bố quan tâm, Thành bị mẹ bỏ rơi để theo một

người đàn ông Đức, Phương bị bố dượng hãm hiếp, Kiên bị bỏ rơi trên băng

ghế đá từ khi vừa sinh ra, Đại bị xem là người có vấn đề, một kẻ biêng biêng

không ai lại gần. Cuộc sống cô đơn lạc loài xuất hiện đặc biệt trong Nháp và

Kín. Trong Kín, Quỳnh - cô bé Lửa Cháy lạc chợ năm nào trở về nhà nhưng

không có tình yêu thương, sợi dây kết nối duy nhất giữa cô và bố đó là cây

ATM cùng số tiền cô được chu cấp một cách đều đặn. Ga Hải Thành với

hiện thực “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh ai nấy sống đã biến Hoàn thành một kẻ

săn người thuê. Kiên bị chính mẹ đẻ bỏ rơi trên ghế đá, phải tự mình chống

trả với cuộc đời khắc nghiệt để lớn lên: “Đất này dữ, trai hay gái đều thành

nghịch tặc cả. Kiếp này coi như nó thế, có tránh cũng chả được” [117,

tr.67]. Phương không thoát nổi nghề “làm phò”. Những thân phận bé nhỏ

trôi nổi này bị hiện thực tàn khốc đẩy dạt cuốn trôi mỗi người một nơi,

nhưng họ đã tìm thấy nhau trong “đơn côi trần thế”, họ sống cô đơn, cô độc

ngay giữa xã hội. Con người sống trong bề bộn các mối quan hệ xã hội, quan

hệ gần gũi thân thiết nhưng không thể hiểu được nhau, không cảm thông

chia sẻ được cho nhau. Con người tồn tại cô đơn trong cuộc đời, họ không

35

tìm thấy thứ mình cần mình từ đó chìm trong cô đơn hoan lạc, họ lao vào

men rượu, tình dục, chém giết.

Tìm hiểu không gian hiện thực đặc biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình

Tú là đi tìm hiểu không gian những con người có hoàn cảnh sống đặc biệt,

bộc lộ bản thân mình qua các mối quan hệ xã hội, cũng là tìm hiểu quá trình

hình thành và phát triển những yếu tố tiềm thức và vô thức trong mỗi cá thể

từ đó giúp chúng ta lý giải biểu hiện, hành động nhân vật từ bề sâu vô thức.

Không gian hiện thực đặc biệt - không gian tạm gọi là “dưới đáy xã hội”

cũng là nơi tác động, hình thành thân phận và nhân cách nhân vật, để nhân

vật bộc lộ chính mình, bộc lộ nội tâm sâu kín của mình qua ngôn ngữ và

hành động.

2.1.2. Không gian hiện thực của tiềm thức và giấc mơ - nơi chứa đựng

những ẩn ức, mặc cảm, nỗi đau con người

Freud chia giấc mơ làm hai phần, phần nội dung biểu hiện và phần nội

dung tiềm ẩn, trong đó phần nội dung tiềm ẩn bao gồm những khao khát, ẩn

ức vốn bị nhấn chìm trong vô thức. “Giấc mộng là “hành lang nối liền” giữa

vô thức và ý thức, giữa cõi mộng và cõi thực”, bởi vậy giấc mơ chứa đựng

bóng dáng cuộc đời, phô bày cả những điều sâu kín mà người nằm mơ

không hề biết đến, cho thấy cùng tồn tại với thế giới bên ngoài tưởng chừng

bình lặng mà người ta chứng kiến hàng ngày là một thế giới nội tâm không

hề êm đềm. Trong văn học thế giới, sự xuất hiện các giấc mơ của nhân vật

không phải là vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, điều đáng kể là ý thức sử dụng

giấc mơ, vô thức đã trở thành thủ pháp nghệ thuật nhằm khám phá, thể hiện

đời sống tinh thần con người trong sáng tác của một số tác giả như Kafka

(Giấc mơ), Murakami Haruki (Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ

biển…)… đã khai mở và phát triển không giới hạn đề tài phi lí, tạo nên một

cuộc cách tân nghệ thuật lớn lao cho cả một thời đại.

36

Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, nhận biết được vai trò của giấc

mơ, các nhà văn đã thể hiện sự thay đổi quan niệm về hiện thực, quan niệm

về đời sống và con người, từ đó, trong văn học, hiện thực và con người hiện

lên đa phương đa tầng, quanh co, sống động và chân thực nhất. Giấc mơ và

vô thức được vận dụng như một thủ pháp nghệ thuật trong sáng tác của

nhiều nhà văn như Nguyễn Danh Lam, Thuận, Nguyễn Đình Tú, Vũ Đình

Giang, Nguyễn Bình Phương...

Hiện thực của tiềm thức và giấc mơ được coi là “bức màn bí ẩn của

hiện thực”, đó là cái nhìn vào bên trong, nhìn từ bản chất ra ngoài hiện

tượng. Từ việc soi chiếu vào thế giới đó, người đọc có thể thấy được động

cơ của những hành vi, trạng huống, khai thác được những ẩn ức sâu kín

trong tâm hồn nhân vật. Nó là thế giới sâu kín nhất, là nơi bộc lộ những ẩn

ức nhu cầu không được thoả mãn bên ngoài và cũng chính là nơi thoả mãn

mọi nhu cầu con người khao khát mà thực tại không thể đáp ứng. Qua đây ta

thấy được những dằn vặt, những đấu tranh nội tâm, những dao động, những

góc nhìn cực đoan. Nó là những mộng ảo, day dứt, khát vọng, mặc cảm bị

cất giấu không bị chi phối bởi khách quan. Hiện thực này đã bị loại bỏ bởi

những quy chế đạo đức xã hội, cộng đồng. Trong tác phẩm không còn những

rào chắn về đạo đức, những hang cùng ngõ hẻm nhất của tâm hồn. Từ những

khát vọng vươn tới chân thiện mĩ đến những suy nghĩ thấp hèn đê tiện. Ngay

cả những nhân vật thiên sứ, nhân vật huyền thoại cũng được nhìn nhận từ

khía cạnh con người nhất. Hiện thực tiềm thức là hành trình đấu tranh không

mệt mỏi luôn diễn ra trong mỗi người và chiếm tỉ lệ lớn trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú.

Hiện thực chiến tranh trong quá khứ được tác giả vẽ lại trong khoảng

một giờ đồng hồ. Đặc biệt trong khoảng một giờ ấy, bộ mặt chiến tranh được

tác giả vẽ lên thông qua giấc mơ của nhân vật Anh (Vì quá mệt mỏi nên đã

ngủ quên ngay tại cửa phòng khách sạn Cửa Núi) một cách vừa hiện thực

37

vừa hư ảo trong sự đan cài giữa hai trục thời gian quá khứ và hiện tại. Nhờ

giấc mơ ấy mà người đọc biết được sự khủng khiếp của cuộc chiến tranh ở

chiến trường K cũng như hậu quả của cuộc chiến này gây ra cho nhân vật

Anh. Chính nó đã gây nên “chấn thương trong tâm hồn” của người lính trở

về từ chiến trường K năm xưa mà ta gọi đó là “hội chứng chiến trường K”.

Khung cảnh ác liệt của chiến tranh lần lượt hiện lên trước mắt Anh “Hằng bị

cắt đứt cuống họng, chết trong tư thế ngồi, tay buông thõng, hai gối chạm

vào nhau, đầu gác lên thanh tre dùng để gá các tấm liếp”[118 tr.77], “Gấm

bị K cắt đầu. Xác Gấm được vứt ngay gần lán trại, trong một tư thế như con

nằm ngửa, cửa mình bị cắm một củ sắn” [118, tr.80] “mái tóc ngắn tạo vẻ

đẹp trẻ trung, cá tính của Gấm bây giờ bết lại, ốp vào đầu cô những mảng

máu đen, thâm tím” [118, tr.82] ; “Có cái xác chúng cắt vú, có cái xác

chúng cắt mũi, có cái xác bị xẻo môi, có cái xác chúng mổ bụng...Anh khẽ

nhặt lên một đoạn tóc, một mảng da đầu, một cánh tay, một ống chân, một

con mắt, một mẩu môi, một vành tai, một chóp mũi, một đầu vú, một mảng

mông...Không một cái xác nào còn nguyên vẹn” [118, tr.78] và chính mình

cũng “đã bắn thằng K đầu tiên trong tư thế đang nằm trên nước” (Hoang

Tâm). Cuộc chiến tranh đã để lại những di chứng không phương thuốc nào

chữa lành cả về thể xác và tâm hồn của người lính trẻ. Nó đã cướp đi bản

năng tình dục trong người đàn ông như Anh. Anh bước ra khỏi cuộc chiến

nhưng không thể trở về cuộc sống bình thường, vợ anh đầu tiên đã đi tìm hết

các phương thuốc để chữa trị cho anh nhưng sau đó đành bó tay và ra đi

cùng người đàn ông khác.

Quỳnh trong Kín mơ về mẹ trên suốt chặng đường tìm về Hải Thành

cho thấy nỗi cô đơn thiếu vắng của cô bé từng lạc mẹ thuở nhỏ. Cô càng

khao khát hơn về một cuộc sống bình yên ở miền quê cùng ông nội và bố

mẹ. Những dòng kí ức đan cài với hiện thực cuộc sống nơi ga Hải Thành

nghiệt ngã cho thấy cuộc đấu tranh trong ngừng trong tình cảm và lý trí của

Quỳnh, nó càng khắc sâu hơn quãng đời bi kịch mà cô bé phải chịu đựng.

38

Tương tự với Kín và Hoang tâm, tiểu thuyết Phiên bản của Nguyễn

Đình Tú cũng có kết cấu song song giữa hiện thực và giấc mơ. Đó là giấc

mơ hay đúng hơn là kí ức của Diệu về quãng thời gian trước khi làm “Siêu

giang hồ”- Hương ga. Hai mảng màu hiện thực đối lập nhau giữa một bên là

hiện thực về cuộc chiến đẫm máu giữa các thế lực thù địch trong giang hồ

với một bên là hiện thực ngọt ngào êm đềm của quá khứ với mối tình đầu

ngọt ngào bên Nhân. Chính mối tình này đã nâng đỡ tâm hồn Diệu đi qua

bao đau thương, nhưng cũng chính nó khiến trái tim Diệu luôn bị giày vò,

giằng xé trong đau đớn.

Trong Nháp, tuổi thơ bị mẹ bỏ rơi theo người đàn ông Tây đã ám ảnh

hai cha con Thạch khiến cho anh luôn phải sống trong đau đớn, mất mát và

mặc cảm về bản năng sinh lý của người đàn ông. Những giấc mơ bị bỏ rơi

luôn ám ảnh hai cha con cậu: “Giấc mơ ấy đến vào lúc tôi sắp ngủ dậy. Tôi

và bố ở trong một ngôi làng nhỏ. Làng có rất nhiều đàn bà, chỉ có tôi và bố

là đàn ông. Bố cứ gào thét bắt tôi đóng cửa làng vào: Không cho bọn đàn

ông làng khác mò vào, nó sẽ lấy hết đàn bà làng mình. Nhưng rồi tôi đã

không làm gì cả. Và ngôi làng trở nên vắng tanh. Tôi ngồi trên một đống

rơm khô còn bố ngồi vắt vẻo trên một cành cây và nhìn tôi bằng đôi mắt rất

buồn. Tôi gọi bố xuống chơi với tôi, đừng ngồi trên cao như thế, sẽ ngã gãy

cổ mất. Bố bảo nhục lắm không xuống đâu. Tôi hỏi lại bố rằng có gì mà

nhục. Bố chỉ ra xung quanh: mọi người đi hết rồi. Tôi bảo tại vì lúc nào bố

cũng cầm sợi thừng to thế kia. Họ không chịu nổi sự đánh đập của bố. Bố

đưa sợi dây thừng ra và bảo bố sẽ dùng chính nó để tự tử. Vừa nói bố vừa

làm thành cái thòng lọng. Bố không muốn sống nữa. vậy làm thế nào bây

giờ? Tôi hỏi bố. Con hãy đốt đống rơm ấy lên. Nếu nó không thiêu cháy con

thì đàn bà làng này mới trở về. Bọn con trai làng khác chịu nóng rất giỏi.

Con phải giỏi như chúng nó…” [115, tr.172].

39

Như vậy, không gian của giấc mơ là không gian của tiềm thức vô

thức. Các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình

những nỗi đau, ám ảnh trong quá khứ. Nỗi đau đó đeo bám họ dai dẳng, bên

ngoài họ là những con người bình thường nhưng bên trong tâm hồn họ luôn

chất chứa những ẩn ức bị đè nén, kìm hãm và nó được biểu hiện qua giấc

mơ, giấc mơ chính là tấm gương phản ánh chiều sâu trong tâm hồn mỗi nhân

vật.

2.1.3. Không gian hiện thực tâm linh, phi lí - nơi cứu rỗi tâm hồn con

người

Các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú luôn ở trạng thái cô

đơn, tuyệt vọng, bấp bênh, mất niềm tin và phương hướng giữa cuộc đời

ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Cuộc đời họ là hành trình tìm lại niềm tin,

tìm lại chính mình, song dường như các nhân vật đều không tìm thấy được

điều họ cần tìm. Quy luật nghiệt ngã của cuộc sống có thể nhấn chìm, nuốt

chửng họ bất kì khi nào, con người nhỏ bé không còn nơi bám víu, nương

tựa, họ tìm đến niềm tin tôn giáo, lấy đó làm điểm tựa. Hiện thực về thế giới

tội phạm cố nhiên có phần rõ ràng, sáng tỏ nhất là khi Nguyễn Đình Tú đi

giải thích căn nguyên của góc khuất, mảng tối ấy dưới góc nhìn nhân văn.

Đó là hiện thực có phần huyền ảo, linh diệu, nhiệm màu. Cái phần siêu hình,

ẩn dật này đôi khi lại nằm ngay trong vẻ ngoài bình dị quen thuộc của đời

sống. Nhà văn Bùi Hiển trong bài tiểu luận văn học Cánh cửa sổ mở ra cõi

mung lung viết: “Đúng ra có thể nói: Mở vào. Vì cái chốn mung lung cần

phải soi rọi vào ấy, lại chính là tâm hồn, tâm thức, tâm linh và những điều

gì diễn ra trong tầng sâu ý thức, trong bộ não, trái tim con người trước khi

thể hiện ra ngoài (mà cũng có thể không thể hiện) bằng cử chỉ và hành

động… Văn học với chức năng của nó là khám phá bản thể con người (song

song với việc khám phá ngoại giới), lẽ tự nhiên nó rất khao khát soi vào

những miền uẩn ức của nội tâm, vào những động cơ thầm kín đến mức tăm

40

tối của những ứng xử ý thức: các hiện tượng mà người ta gọi siêu tâm lý.”

(Nguyễn Tuệ Xương, Vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi

mới). Đó có thể là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn

chưa đến đích”. Đó chính là nơi tồn tại trong cõi mông lung mà ta cần soi

rọi, phải hướng đến trong tiếng gọi tha thiết từ cõi lòng mình. Cõi mông

lung đó “chính là tâm hồn, tâm thức, tâm linh, là những điều gì diễn ra

trong tầng sâu ý thức, trong bộ não, trái tim của con người trước khi thể

hiện ra ngoài” (Nguyệt Tuệ Xương- vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt

Nam thời kì đổi mới). Toàn bộ cái đời sống bên trong gắn liền với tín

ngưỡng, niềm tin vào những thế lực siêu hình cùng các mối quan hệ bí ẩn

của con người, những sức mạnh thuộc về trực giác, linh cảm, những khả

năng kì lạ khoa học chưa giải thích được, nhưng có thể diễn tả bằng nghệ

thuật, những cảm xúc về cái linh thiêng, cùng những khoảnh khắc vụt sáng

của toàn bộ tâm thức như có sự mách bảo của một nhà thông thái vô hình.

Không gian tôn giáo có mặt trong hầu hết các tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú và đóng vai trò như một thế giới bí ẩn của “cái tôi” nhân vật, là nơi

trú ngụ, nơi trở về trong tâm hồn nhân vật sau những đớn đau họ phải đối

mặt trong cuộc đời đầy rẫy những tổn thương, mất mát. Không gian tâm linh

còn thể hiện niềm tin tâm linh trong mỗi con người, đó là niềm tin hướng

thiện hay khao khát hướng thiện trước cuộc đời đầy nghiệt ngã. Trong bài

viết “Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp- một chặng đường tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú”, Đoàn Minh Tâm phát hiện ra “Hệ thống những hình tượng tôn

giáo. Những hình tượng như ngôi chùa, nhà thờ, sư ông, đức cha…cũng

thường xuyên xuất hiện với mật độ cao trong truyện ngắn và tiểu thuyết.”

[105].

Chùa Áng Sơn là nơi Hiến-người bạn thơ ấu của Bạch Đàn gửi gắm

cuộc đời mình sau những ngày tháng tuổi thơ cực nhọc, phải bon chen để

sống với đời. Và chính bản thân Bạch Đàn sau lần nói chuyện với Hiến-khi

41

đã là nhà sư Pháp Thiện-cũng có ý nương nhờ cửa Phật để xoá đi những

nghiệp chướng mình gây nên với hồi ức xưa trong câu hát của ông đò:

“Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn

nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn

người”(Hồ sơ một tử tù). Cả cuốn sách mênh mang màu sắc Đạo Phật cho

tới dòng cuối cùng “Bây giờ nếu có du khách nào đến chùa Áng Sơn sẽ

không khỏi ngạc nhiên khi được biết trong đất chùa có xây một ngôi mộ cho

kẻ tử tù… nhìn dải phướn nhỏ tung bay trong gió”(Hồ sơ một tử tù). Màu

sắc của thứ văn hoá tâm linh ấy còn được gợi ra từ hình ảnh cây thánh giá

trước ngực Nhung “Nhung vừa làm dấu thánh vừa đọc một bài kinh bằng

thứ giọng ê a nghe rất buồn ngủ. Mái tóc buông xuống một bên ngực Nhung,

sợi dây có đeo thánh giá mắc hờ bên mép cổ áo làm Nhung hiện lên như một

nữ tu uẩn khúc, đớn đau trong dáng hình trinh nữ thánh thiện. Trí tò mò làm

hắn đứng yên như một bức tượng, lắng nghe cho bằng hết những lời cầu

nguyện của Nhung”(Hồ sơ một tử tù), những hồi ức của Nhung về một xứ

Đạo “nàng nhớ về một cái nhà thờ lớn rất rộng. Mẹ nàng thường đưa nàng

đến đó tham gia các buổi hành lễ với rất nhiều thủ tục rối rắm phức tạp”,

những dụ ngôn về con chiên lạc bầy của Chúa, câu chuyện của người đàn

ông, người đàn bà và con rắn mà Nhung kể cho Đàn nghe…

Trong Nháp, khi Đại đã sa chân vào con đường tội lỗi, chùa Tử Tội

vừa là nơi hắn trú ngụ, ẩn nấp, vừa là nơi hắn tìm được phần thiện trong con

người mình. Sau những ngày ẩn mình dưới nắp cống và trong bàn thờ, được

sư ông ở đó giác ngộ, Đại bỏ đi ý định quyên sinh, quyết tâm “quay lại tìm

bờ”. Sự ám ảnh của thế giới tâm linh ấy còn hiện hữu trong hình ảnh của

Thảo, một con chiên của Chúa, như một biểu tượng cho cái cao đẹp thuần

khiết, sáng trong, ở hình ảnh vị linh mục đã yêu quý Thảo, đã dạy cho Đại

biết bao nhiêu điều, đã gợi ra cho anh niềm yêu mến với tiếng đàn huyền

diệu Richard Clayderman, ở những bí ẩn của cả thế giới trẻ thơ nơi phố Núi

42

huyền thoại… Nhà thờ Phố Núi trong Nháp và hình ảnh Chúa trong tâm

thức của Thảo luôn là đích đến, là cõi tuyệt đối để con người nương tựa.

Trong Phiên bản, bức tượng Phật được Tân đặt trong phòng riêng là

cách hắn hối cải tội lỗi của mình, giúp hắn giải thoát, cứu chuộc linh hồn,

giải phóng con người ra khỏi ngục tù hoang mang. Chúa và câu kinh thánh

xuất hiện ở Phiên bản như tấm gương để Diệu nhận ra góc khuất trong tâm

hồn mình từ đó thanh lọc đi những vết đen trong tâm hồn Diệu. Đọc Phiên

bản, yếu tố văn hoá tâm linh tác động vào quá trình phạm tội hoặc giác ngộ

của những kẻ giang hồ chưa rõ lắm. Ngoài những đoạn nói đến kinh thánh là

sự ám ảnh của câu chuyện cổ tích về con giao long đối với Diệu - một con

chiên của chúa. Hình ảnh bà lão giết nhầm con nuôi của mình là Giao long

trắng ở suối Mô Cuống để cuối cùng phần thắng thuộc về giao long đen phải

chăng là một ẩn dụ về sự tồn tại đương nhiên của thế giới tội phạm. Có mối

liên hệ mật thiết giữa câu chuyện cổ tích này với cuộc đời Diệu. Diệu đã đọc

nó trên chuyến tàu vượt biên, trước khi xảy ra vụ chém giết của bọn cướp

biển và khi cô gái ấy mơ thấy những con giao long người trườn từ dưới biển

lên thì thảm hoạ xảy ra. Từ đó về sau, mỗi lần giao long xuất hiện là mỗi lần

Diệu- Hương Ga giết người. Cái chết của Hưng mã, Tuấn chợ đều có sự

tham dự của giao long. Dường như, hình ảnh con giao long là hiện thân của

cái xấu, cái ác, nó luôn tồn tại trong mỗi con người và ngay trong chính cô

bé Diệu. Trong mỗi cá thể con người đều tồn tại cả mầm thiện và mầm ác,

chúng luôn đấu tranh, va đập với nhau. Đó là cuộc đấu tranh không ngừng

và có lẽ không bao giờ có hồi kết.

Các nhân vật luôn tìm đến không gian tôn giáo là tìm đến niềm tin

tưởng, hi vọng vào những điều bình dị trong cuộc sống, giúp đời sống tinh

thần thăng hoá. Không gian văn hoá dân gian cùng tín ngưỡng thờ Mẫu

xuyên suốt trong Kín qua câu chuyện về Mẫu Liễu Hạnh, từ người ông đã

cứu rỗi cuộc đời lầm lạc của cô bé Quỳnh. Người ông trong câu chuyện rất

43

mê Đạo Mẫu, trở thành con nhang đệ tử của đạo Tứ Phủ, bị cơ đày sau đó đã

làm lễ trình đồng mở phủ. Khi đứa cháu gái mà ông yêu thương nhất mất

tích. Ông đã tìm đến hi vọng cuối cùng đó là ông ra hầu đồng ở chính ngôi

điện của mình.

Xuất hiện trong các tiểu thuyết, không gian văn hoá tâm linh giúp con

người sau những phút giây bề bộn tìm thấy sự bình yên, chỗ dựa tinh thần. Nó

còn là chiếc chìa khoá để mở ra cánh cửa bí ẩn của cái tôi trong mỗi cá nhân.

Đối chiếu giữa dấu ấn Phân tâm học trong tác phẩm của Nguyễn Đình

Tú và Nguyễn Bình Phương ta thấy nó vừa có điểm tương đồng vừa mang

những nét khác biệt. Nếu như Nguyễn Đình Tú xây dựng hiện thực giấc mơ,

phi lý và hiện thực tâm linh mang màu sắc tôn giáo thì Nguyễn Bình Phương

lại khai thác hiện thực âm bản, hiện thực giao tranh giữa thế giới âm bản và

dương bản (Người đi vắng, Ngồi), hiện thực đa tầng hỗn mang phi lý (Đứa

trẻ chết già, Người đi vắng). Nếu như dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú nhằm đi vào truy tìm cái căn nguyên, gốc rễ của những ẩn

ức, những yếu tố tạo nên thế giới vô thức vô cùng phức tạp trong con người

thì Nguyễn Bình Phương lại thiên về mô tả, tái hiện. Như vậy, ta có thể thấy

được một bước tiến lớn của Nguyễn Đình Tú trong việc tìm tòi, sáng tạo

nghệ thuật. Song, độc giả có thể dễ dàng nhận ra sự tương đồng trong tiểu

thuyết của hai nhà văn này qua việc thể hiện nỗi cô đơn trong xã hội đương

đại. Đó là thế giới hoang hoải, cô đơn cùng cực, con người không chia sẻ,

không thể chia sẻ, con người cô đơn trong một xã hội rộng lớn không tìm

thấy tiếng nói tri âm.

2.2. Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn con người trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú

Nằm trong dòng văn học sau 1975, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có

những điểm chung trong việc nhìn nhận, đánh giá, tiếp cận con người. Quan

niệm về con người là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết trước, không

44

thể biết hết. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là "tổng hòa các

mối quan hệ xã hội". Con người hành động có khi theo sự chỉ huy của ý

thức, của lí trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói của tâm linh, của

vô thức, bản năng. Rất khó có thể “định tính” hay “định lượng” cho con

người mà không làm tổn thương đến bản chất người của nó. Khi trình bày

mẫu người giản đơn đến máy móc, duy ý chí đến thô thiển của một thời

nhiều ấu trĩ, vụng dại, Nguyễn Khải cũng phát biểu về cái bí ẩn của cuộc đời

qua lời nhân vật chất vấn: “Nếu mọi sự đều có lí, đều có thể hiểu được thì

làm gì còn văn chương hả ông?” (Nhóm bạn thời kháng chiến). Vậy là con

người cần đến văn chương vì nó tự biết nó là một thế giới vô cùng tận, khó

có thể hiểu hết, nó kì vọng ở khả năng khám phá và biểu hiện của văn

chương. Và sức hấp dẫn có được của văn xuôi hiện nay chính là ở chỗ nó

liên tục phát hiện những cái khuất lấp, ẩn chìm, những sức mạnh kì lạ đã chi

phối và dẫn dắt số phận riêng của mỗi cá nhân, không ai giống ai cả.

Khi đi tìm hiểu, khám phá nhân vật trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn

Đình Tú đã chú trọng đi sâu vào cõi vô thức, bản năng của con người để khám

phá cái “tiểu vũ trụ” đầy bí ẩn ấy. Qua khảo sát bốn tiểu thuyết trên và vận

dụng lý thuyết Phân tâm học, người viết khai thác con người trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú ở những khía cạnh sau: Con người bản năng; Con người ẩn

ức, mặc cảm, cô đơn; Con người thần kinh, đa nhân cách.

2.2.1. Con người bản năng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

2.2.1.1. Sự đấu tranh giữa bản năng sống và bản năng chết trong con người

Phân tâm học của S.Freud đã chỉ ra rằng: “Đời sống tình cảm sơ đẳng

của chúng ta chịu sự chi phối của hai lực lượng đối nghịch, vừa thúc đẩy

chúng ta thèm muốn, vừa thúc đẩy chúng ta sợ, vừa thương vừa ghét, vừa

chiếm hữu vừa sẻ chia...” [98].

Theo Freud những bản năng sống gắn bó chặt chẽ với những lực

lượng gây hấn những bản năng chết; bản năng chết có thể quay về chính

45

chúng ta hay quay về phía những người khác. Luận điểm của Freud có thể

hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa đen, nghĩa hiển ngôn tức là con người sống bằng

thân xác nhưng chết về tinh thần, họ không có đời sống tinh thần như họ

mong ước nên họ muốn huỷ hoại thân xác của mình. Còn hiểu theo nghĩa

hàm ngôn thì con người luôn cố gắng giết chết dục vọng đen tối để sống với

chính mình. Tư tưởng này rất gần với đạo Phật.

Cuộc sống khơi dậy năng lực của chúng ta để thỏa mãn những nhu cầu

của chúng ta. Nhưng đồng thời nó cũng duy trì những nhu cầu này, làm cho

chúng xuất hiện thường xuyên, do đó chúng ta dễ lo âu và đau khổ. Có nhiều

hình thức của lo âu và đau khổ, gắn liền với những đòi hỏi an toàn và quyền

hành, không bao giờ thỏa mãn hoàn toàn được. Sống tức là phải sống những

giây phút căng thẳng, không thỏa mãn, và cứ như vậy lẫn lộn với nhau. Sống

tức là phải tranh đấu khó nhọc để duy trì một sự quân bình mỏng manh giữa

cơ thể và thiên nhiên, giữa những ước muốn của chúng ta và thực tế. Chính

vì vậy mà khi sự lo âu, đau khổ, thất vọng hay thất bại làm hao mòn sinh lực

của chúng ta, chúng ta lại thấy nảy sanh trong chúng ta một sự lo sợ truyền

kiếp: sợ tranh đấu, sợ cuộc sống. Lúc đó cái chết xuất hiện như là sự trở về

đời sống hạnh phúc và vô thức của thai nhi, vừa vượt khỏi đời sống thai nhi

này, cái chết được coi như là sự trở về thân phận bình yên và bất động của

vật chất vô tri vô giác. Như vậy trong mỗi người chúng ta có những lực

lượng chết (forces de mort) diễn tả sự nuối tiếc đời sống thai nhi trong bụng

mẹ. Ngược lại ý chí sống là một sự tranh đấu không ngừng chống lại những

lực lượng của già yếu và chết.

Chính vì vậy mà Freud nghĩ rằng nguyên tắc bất biến thúc đẩy chúng

ta giảm bớt những căng thẳng, tới một mức nào đó có thể thúc đẩy chúng ta

muốn chết: giết chết những thèm muốn của mình, tức là tránh được sự đau

khổ không thỏa mãn được chúng. Như vậy trong mỗi chúng ta có hai lực

lượng vô thức mạnh ngang nhau chống đối với nhau: một lực lượng thúc đẩy

chúng ta hành động, sống và chinh phục; một lực lượng khác thúc đẩy chúng

46

ta buông xuôi, tan biến và chết. Trong thực tế cả hai lực lượng này kết hợp

với nhau một cách chặt chẽ và khó hiểu. Cả hai đều thúc đẩy chúng ta tìm

kiếm trở lại một thế quân bình đã mất, một sự yên lành phát xuất từ sự thống

nhất giữa chúng ta với thiên nhiên. Nhưng một lực lượng thúc đẩy chúng ta

thỏa mãn những thèm muốn, còn lực lượng kia thì lại kéo chúng ta trở về với

hư vô, để khỏi đau khổ.

Cả hai lực lượng này vừa đối nghịch với nhau, vừa đồng lõa với nhau,

là nguyên nhân chính đưa tới tính cách lưỡng năng tình cảm của tâm linh con

người. Ý chí muốn sống là một cái gì gây hấn vì nó là một sự chinh phục

không ngừng. Nhưng đồng thời trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta, bản

năng chết thúc đẩy chúng ta tự làm cho mình đau đớn, làm cho gây hấn tính

của chúng ta quay trở về chính mình, như là để trừng phạt mình tại sao lại

muốn tiếp tục sự tranh đấu sống; hoặc là làm như vậy bản năng chết lại muốn

tránh cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ, phát sinh từ những thèm muốn

phi lý. Khi xã hội bó buộc chúng ta phải dồn nén một số những thèm muốn

của chúng ta một cách vô tình xã hội đã kêu gọi tới bản năng chết này.

Thật vậy đời sống tình cảm sơ đẳng của chúng ta chịu sự chi phối của

hai lực lượng đối nghịch, vừa thúc đẩy chúng ta thèm muốn, vừa thúc đẩy

chúng ta sợ, vừa thương vừa ghét, vừa chiếm hữu vừa sẻ chia, vừa muốn được

bảo vệ vừa muốn được cai trị người khác, vừa thích mạo hiểm vừa muốn an

toàn. Tình yêu con người vừa là cho vừa là chiếm hữu, hành động tình dục

vừa là buông xuôi vừa là gây hấn. Tình yêu và hận thù, khuất phục và bạo

động, rộng lượng và ích kỷ, tất cả đều sống chung với nhau trong phần sâu

thẳm của vô thức, vừa được thể hiện trong hành động một cách luân phiên,

làm cho thái độ của chúng ta khó hiểu vô cùng.

Như vậy đời sống tình cảm của con người được đặt trên nền tảng xung

khắc, một ý niệm căn bản của Phân tâm học của Freud - xung khắc giữa

những năng lượng sống và những năng lượng chết.

Xuyên suốt các tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là hành trình đấu tranh

không ngừng giữa sự sống và cái chết của các nhân vật. Quỳnh (Kín) là

47

người mang bản năng chết rất mạnh mẽ. Trong cuộc sống hoang mang,

Quỳnh đã rơi vào trầm cảm và tìm đến cái chết “Con đau. Tất cả đang đánh

đập con, chà sát con, dẫm đạp con. Con sợ. Con hãi. Con kinh khiếp. Con

đang chết. Và con thấy cái chết có màu, có mùi, có vị, có hình thù, có âm

thanh, có nhục cảm...” [116, tr.12]. Dù đã được đẩy đi khá xa khỏi cái ranh

giới địa lý, ranh giới văn hoá bản địa này thì cô cũng chẳng tìm được gì,

chẳng biết bấu víu vào đâu. Cũng giống như Tráng với một thân phận khá

đặc biệt đã không tìm được chốn dung thân, cho dù đó là một nơi hoàn toàn

xa lạ với quê hương bản quán. Quỳnh không chỉ một lần tìm đến cái chết.

Lần thứ nhất nằm trong căn phòng của mình, Quỳnh thấy “kiếp người chỉ

mang thứ màu lễnh loãng phù vân” và “nghĩ đến sự vô nghĩa của việc có mặt

trên cõi đời này”, cô đã “tiêu hết những thứ cuộc đời kí gửi” và đi đến hành

động uống hai viên thuốc ngủ rồi lấy dao lam cắt mạch máu cổ tay. Buổi

sinh nhật lần thứ 20 chính là hành vi Quỳnh tìm đến cái chết lần thứ hai.

Nếu như tìm đến cái chết lần thứ nhất Quỳnh đã huỷ hoại thể xác mình thì

khi tìm đến cái chết lần thứ hai, cô đã huỷ hoại mình về tinh thần. Màn trình

diễn thác loạn và bệnh hoạn của mười hai con giáp chính là nút phóng quả

tên lửa huỷ diệt vào chính tâm hồn cô. Ở biến cố lần thứ nhất sau lần cháy

chợ, khi chui từ dưới cống lên, Quỳnh không biết mình là ma hay là người,

còn ở biến cố thứ hai sau buổi sinh nhật, cô đã thực sự không còn là người.

Khi một người đã vượt qua cái chết để nhận thức được giá trị của sự sống

nhưng với Quỳnh, cái sự không chết của cô chỉ càng đẩy cô vào ngõ cụt. Cô

đã thoát xác lần thứ hai để giờ không biết phải sống ra sao trong một ngõ tối

với những bức tường có màu sắc huỷ diệt. Không chết “vậy con phải sống

thế nào ?”. Quỳnh đã hỏi mẹ như vậy. Quỳnh hội tụ mọi yếu tố của một con

người có bản năng chết mãnh liệt, Quỳnh đã đi đến hết cái ngõ tối hun hút,

bế tắc và giật mình vấp phải bức tường chắn có màu sắc huỷ diệt. Đó là cái

trò lên đồng “linh tinh tình phộc” - “vũ điệu thân xác của muông thú” - “Đệ

nhất khoái cảm trần gian” do Phong cùng đám bạn nghĩ ra để tổ chức sinh

48

nhật lần thứ 20 cho Quỳnh. Quỳnh ra khỏi “căn phòng tận thế” với một trái

tim đang vỡ. Quỳnh thấy mình đang chết. Nhưng mỗi lần cái chết cận kề,

tiếng nói của mẹ lại cất lên, dẫn dắt, đưa lối để Quỳnh bước tiếp. Tiếng nói

của mẹ chính là tiếng nói của sự sống. Bản thân Quỳnh không tìm được lý

tưởng nên cô luôn có ý định tự tử, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn là tiếng

nói của lý trí, là khao khát sống chưa bao giờ nguội tắt. Quỳnh quyết định

rời khỏi cuộc sống hiện tại. Quỳnh và các bạn của cô, những tâm hồn bị sa

mạc hoá, bị truy sát và bức tử bởi những vấn đề của cuộc sống hiện đại đang

cố gắng tìm mọi cách để giành giật sự sinh tồn.

Trong Kín không chỉ có Quỳnh mà còn “ăm ắp những thân phận khổ

đau, chìm nổi, bi thương, bất hạnh”, nhưng họ luôn đấu tranh không ngừng

để được sống. Hoàn là một đứa trẻ vô cùng bất hạnh. Sinh ra trong gia đình

làng chài ven biển, bố mẹ bị biển vùi chết trong chuyến ra khơi. Số phận đưa

Hoàn trôi dạt ra bến ga Hải Thành với bộ đồ nghề đánh giày trên tay. Có thể

nói, Hoàn là đứa trẻ có bản năng sống mãnh liệt, nhờ đó mà nó có thể đương

đầu với mọi khó khăn thử thách để sinh tồn ở mảnh đất đầy bạo lực đó. Đứa

con của biển cả hoang dại lần đầu tiên biết đến một sự thật rằng, thế gian

này đâu đâu cũng có chủ. Hoàn đã phải trả phí cuộc đời mình bằng tấm thân

đầy thương tích bởi sự ra tay trừng phạt của đám hung thần và đám ma đói

ma khát dưới trướng. Để có thể tồn tại trước cuộc đời đầy rẫy những cay

đắng, Hoàn đã buộc phải biến mình thành một tên cướp, ra tù vào tội, khuôn

mặt ngày một trở nên sứt sẹo, gớm ghiếc. Lộc mũ bông là thế lực đối địch

với Hoàn, hắn được coi là hung thần nơi bến ga Hải Thành. Song, sự tàn ác

của hắn của hắn cũng xuất phát từ bản năng sinh tồn. Lộc có xuất thân tội

nghiệp, là con của gái điếm, bị vứt ở nhà ga, bị HIV di truyền từ mẹ. Toàn

thân tróc lở, nước vàng cứ chảy ra. Bản năng bạo lực của hắn mạnh mẽ như

một tấm rào che giấu đi những tổn thương mà hắn phải chịu đựng. Bạo lực

giúp Lộc mũ bông có thể tồn tại dù phải chà đạp lên sự sống của kẻ khác.

49

Dưới trướng của hắn lúc nào cũng có dăm bảy thằng ma đói ma khát sẵn

sàng nhảy vào đánh đập bất cứ ai.

Bản năng sống mãnh liệt của các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú còn thể hiện ở bản năng tự vệ của bản thân trước các thế lực thù

địch. Điều này thể hiện rất rõ qua Phiên bản, Kín và Hoang tâm. Trong

Phiên bản, Hương Ga, Tùng hero, Tính dao mổ, Bình sói, Lộc ba tai, Vĩnh

con đều là những kẻ có máu mặt trong giang hồ. Để tồn tại ở nơi “đất

nghịch” như ngã ba sông, họ phải giết chóc đánh chém lẫn nhau. Diệu từ

một cô bé hiền lành, ngây thơ trở thành Hương ga - đàn chị giang hồ khét

tiếng.

Trong Phân tâm học, bản năng sống còn gắn với năng lực tình dục.

Nhân vật Anh (Hoang tâm) khát khao tìm lại năng lực tình dục của mình

cũng chính là tìm lại sự sống vốn có, tìm lại cuộc đời của một con người

bình thường, lành lặn trước kia mà chiến tranh đã cướp đi của Anh. Son

Phấn phải tìm lại được khát khao tình dục để có được nhan sắc, khả năng

duy trì nòi giống cũng như duy trì bộ tộc người Mụ không bị diệt vong.

Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã viết về cuộc đấu tranh không ngừng

giữa người với người để tranh giành sự sống. Qua đó, người đọc thấy được

bộ mặt cuộc sống khắc nghiệt và quy luật sinh tồn. Nguyễn Đình Tú còn

khắc hoạ sống động và sâu sắc quá trình đấu tranh giữa bản năng sống và

bản năng chết diễn ra trong vô thức mỗi con người để thấy được giá trị, ý

nghĩa của con người trong xã hội hiện đại.

2.2.1.2. Con người mang bản năng tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Phân tâm học tìm hiểu trạng thái tâm lí của vấn đề tính dục, từ đó xem

xét những ảnh hưởng của nó đối với tinh thần của con người. Bản năng tính

dục là nguồn gốc của mọi công trình sáng tạo vĩ đại nhất. Có hai loại tính

dục: tính dục lành mạnh là loại tính dục có ích và tính dục sa đọa khiến con

người sa sút về mặt thể chất lẫn tâm hồn, gây nên tâm bệnh. Khai thác yếu tố

50

bản năng trong tác phẩm với ý nghĩ “bản năng thì không có định hướng,

không có sự chung thủy, cũng không có kết cục nào đang chờ đợi ở phía

trước cả”, nhân vật của Nguyễn Đình Tú hiện lên chân thật với những cảm

xúc rất nhân văn, rất con người. Và từ bản năng đó con người gọi tên được

các giá trị khác trong cuộc sống. Nguyễn Đình Tú đã khẳng định chắc nịch

vai trò của tình dục trong các tác phẩm của mình “Thời gian qua tôi đã phải

trả lời rất nhiều những câu hỏi liên quan đến sex trong tác phẩm của mình.

Ở đây tôi chỉ xin trả lời một cách ngắn gọn như thế này: chỉ khi nào sex

không còn tồn tại trong đời sống thì nó sẽ không còn được đề cập trong tác

phẩm của tôi nữa.” (Theo Vnexpress.net).

Nguyễn Đình Tú đã viết về bản năng tính dục ở nhiều góc độ. Trước

hết, anh muốn khẳng định tính dục chính là tính người, là phạm trù văn hoá.

Điều đó được thể hiện rất sâu sắc trong Hoang tâm. Ngòi bút nhân đạo của

nhà văn không chỉ khoét quá sâu vào bi kịch tổn thương tinh thần của người

lính thời hậu chiến mà còn tìm ra một liệu pháp cứu rỗi linh hồn, chữa lành

vết thương trong tâm tưởng. Liệu pháp ấy, như lời phán truyền của thầy bói

“Phải đến đất Nguyên Thủy, vào Cửa Núi mà tìm lại chính mình” [118,

tr.16]. Với Nguyễn Đình Tú cái có thể xoa dịu nỗi thương tổn tinh thần kia

không phải là sự văn minh, giàu có của đời sống hiện đại mà trái lại là

những gì thô sơ và hoang dã. Thứ đánh thức những khát khao nhân tính của

con người không tồn tại trong ánh sáng mà tồn tại ở một nơi “quanh năm

không có ánh mặt trời”. Cuộc sống hiện đại hỗn tạp, xô bồ nhiều khi khiến

con người đánh mất sự bình yên trong bản thể, tâm hồn trở nên hoang hoải,

nhàu nhĩ. Dưới ánh sáng mặt trời nhiều khi lại bày ra nhan nhản những

hoang phế, đổ vỡ, bất an. Thuốc an thần - sản phẩm của nền y học hiện đại

dường như không có tác dụng. Để tìm lại giấc ngủ, đánh thức “mầm dục”,

anh đã phải cùng Son Phấn phiêu lưu trong Cửa Núi, tìm đến với tộc người

Mã, người Khi, người Mụ - những tộc người còn giữ nguyên được vẻ đẹp

hoang sơ, thuần khiết, hoàn toàn xa lạ với những ồn ào, náo động của đời

51

sống hiện đại. Suốt thời gian ở trong Cửa Núi, người đàn bà mang tên Son

Phấn đã đánh thức khát khao tình dục trong Anh. “Cô làm rất từ từ, như

thầy thuốc chữa bệnh cho bệnh nhân, như người mẹ hút những ung nhọt trên

cơ thể con trai, như con chó cái liếm lành vết thương cho con chó đực”

[118, tr.106]. Bản năng tình dục là một trong những biểu hiện quan trọng

nhất của tính người, là một nỗi khát khao đầy nhân bản. Khi mầm dục sống

lại cũng có nghĩa là nhân vật đã tìm lại được chính mình. Cuộc hành trình ấy

phải chăng là hành trình tìm lại những giá trị văn hóa hồn nhiên đã bị đánh

mất sau bao nhiêu tháng ngày ngụp lặn trong một thời đại quá ngổn ngang,

bề bộn, cái mà Inrasara gọi là “cuộc trở về với căn tính văn hóa”. Có cái gì

như là sự vọng lại từ luật phản phục (quay trở về) trong tư tưởng Lão Trang,

hướng con người tìm về với sự chất phác của bản thể, sự thanh sạch của tâm

hồn mà lãng quên bao nhiêu ưu phiền trần thế.

Bản năng tính dục còn thể hiện qua nhân vật Son Phấn - cô gái điếm

người Mụ, người đi cùng nhân vật Anh trong suốt cuộc hành trình vào sâu

trong Cửa Núi, cũng là người giúp Anh đánh thức những khát khao để tìm

lại chính mình. Họ đi cùng nhau, đồng cam cộng khổ, quan hệ tình dục với

nhau. Cô là nữ tộc trưởng đầy quyền lực của tộc người Mụ, bỏ ra ga Nguyên

Thủy để kiểm chứng về mầm dục của mình theo một luật tục đầy tính nhân

văn. “Nữ tộc trưởng phải là người còn mầm dục trong người. Còn mầm dục

thì còn có quyền lựa chọn đàn ông. Còn mầm dục thì dân tộc Mụ mới tiếp

tục sinh sôi, nảy nở, mới trở thành biểu tượng của sự bất diệt”[118, tr.282].

Một điều thú vị diễn ra trong Hoang tâm: nữ tộc trưởng hóa thân thành gái

điếm để đi tìm mầm dục và khi mầm dục đã được đánh thức bởi một người

đàn ông mặc cảm và bệnh hoạn thì cô gái điếm lại hiện ra nguyên dạng là

một nữ tộc trưởng đầy quyền uy. Đối với nhà văn nữ tộc trưởng hay gái

điếm không quan trọng. Dù ở địa vị nào trong xã hội thì cái quan trọng là có

giữ được mầm dục hay không. Còn giữ được mầm dục tức là còn giữ được

cái phần “nhân tính nguyên sơ” của loài người. Nguyễn Đình Tú cũng đã

52

từng nói rằng sống mà không còn mầm dục, tức là không còn ham muốn, đã

tắt hết lửa lòng thì cũng chẳng còn gì nữa. Như vậy xuyên suốt Hoang tâm là

hành trình tìm lại bản năng tính dục của hai nhân vật Anh và Son Phấn. Điều

đó đã giúp họ tìm lại được cuộc sống bình thường trước đây.

Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được miêu tả như một nhu

cầu tự nhiên, một phần tất yếu của cuộc sống, động lực thúc đẩy con người

hướng về điều tốt đẹp. Nhân vật Hương ga trong tiểu thuyết Phiên bản đang

ở cái tuổi mới lớn, hừng hực sức yêu. Những tháng ngày kiếm sống nơi bến

bãi, lang thang, cô đơn, phút giây khoái cảm bên Hưng mã là nguồn sống

cho sự tồn tại của Hương ga: “Da thịt em lâu lắm rồi mới lại được những

ngón tay đàn ông vuốt ve, mò mẫm, nâng niu, mơn trớn như thế này. Hai

bầu vú em căng lên, sự thèm khát trong em trỗi dậy, em để mặc Hưng bù

đắp cho em bằng những va chạm đê mê” [117, tr.266]. Hương ga luôn hi

vọng Hưng mã sẽ là bến bờ hạnh phúc của cuộc đời cô. Vì thế Hương ga yêu

hết mình và tận hưởng những giây phút thăng hoa cùng Hưng mã mà không

hề suy nghĩ, đắn đo: “Hưng dẫn em đi qua miền cực lạc của trai gái, của

cuộc sống bụi đời, của những ngày tháng đứng bãi, của những mộng mơ mê

đắm đầu đường xó chợ. Hưng sở hữu một cơ thể gầy gò nhưng dẻo dai,

những hình xăm trên cơ thể Hưng rất ấn tượng với em. Hưng lại rất có kinh

nghiệm trong cái chuyện cọ xát da thịt (…), làm em tê dại bởi khoái cảm”

[117, tr.184-185].

Tính dục phản ánh tính cách con người. Hành vi tình dục không chỉ

gói gọn ở tính chất xác thịt mà nó là kết quả của tình yêu đẹp đẽ. Tình yêu

giữa Hương ga và Tùng hê rô trong tiểu thuyết Phiên bản là một tình yêu

đẹp, hết lòng vì nhau. Bên Tùng, Hương ga được sống với chính mình, tận

hưởng những giây phút thăng hoa trong sự thỏa mãn: “Ngay cả những lúc

quỳ trước em, đổ bóng lên người em, dồn dập vào trong em, em vẫn cảm

nhận được sự gượng nhẹ từ Tùng. Tùng sợ cái khung người quá khổ sẽ đè

53

bẹp em, nghiền nát em, tổn thương em. Tùng dẻo dai nhưng không mạnh

bạo. Sự đều đặn của Tùng như mồi lửa kiên nhẫn đưa vào khối nước đá

trong em làm chúng tan chảy. Sự tan chảy ấy trở thành thác lũ quay lại cuốn

phăng Tùng đi” [117, tr.301]. Tình yêu giữa Tùng hê rô và Hương ga được

xây đắp từ những nghĩa cử cao đẹp của tình người. Họ biết sống cho nhau và

vì nhau. Giữa bản năng và nhân tính, họ nghiêng về nhân tính nhiều hơn.

Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không chỉ là bản năng mà

còn thể hiện chất nhân văn, nhân bản, tình người cao đẹp. Nhà văn miêu tả

cảnh ái ân, hoan lạc của những nhân vật trong tác phẩm, thật sự là những

khoảnh khắc rất “người”. Người đọc thật sự rung động và hòa cùng cảm xúc

với các nhân vật khi đọc đoạn văn miêu tả giây phút đầu tiên Đại cùng

Duyên trong tiểu thuyết Nháp mang đầy tính bản năng. Nguyễn Đình Tú đã

miêu tả cảnh ân ái giữa Đại và Duyên thật lãng mạn và cảm xúc. Từ không

gian gợi tình đưa đẩy, đến những biểu hiện gợi tình của giới tính, tất cả hiện

lên thật hài hòa: “Gió mơn man da thịt. Bên thì mở lòng, bên thì tò mò,

mong mỏi. Thế là những nụ hôn trao nhau. Thế là những chiếc cúc bật tung.

Đại ơi, Duyên sợ lắm! Sợ gì? Đau! Không đau đâu. Thế là người phủ lên

người, da thịt phủ lên da thịt, hoàng hôn phủ lên hoàng hôn. Cả đám hoa dạ

thảo ven hồ nát bấy dưới hai thân hình căng tràn sức thanh xuân” [115,

tr.131]. Từ phút thăng hoa, khoái lạc ấy, Đại cảm thấy hân hoan trong lòng.

Cùng với sự biến đổi về mặt tâm lý, là cả một sự thay đổi lớn đang diễn ra

bên trong tâm hồn của cả hai người. Nguyễn Đình Tú thật tinh tế và tỏ ra

thấu hiểu tâm lý nhân vật khi nói lên những cảm xúc của họ: “Cả hai đều

cảm thấy có một cái gì đó đang nứt ra trong mình. Những bước chân đầu

tiên thật ngượng ngạo, khắp da thịt đâu cũng thấy tê tê giần giật, cảm xúc

dâng lên trái chiều và căng cứng, vừa thích thú vừa e ngại, vừa trống rỗng

vừa bồi hồi” [115, tr.131].

54

Nguyễn Đình Tú quan niệm bản năng tính dục rất mạnh mẽ, nó chi

phối đến mọi mặt của đời sống con người. Trong Kín, khi Quỳnh lạc vào

trận địa của nghĩa quân Bãi Sậy trước kia, cô đã gặp linh hồn của những

quân sĩ chết trận. “Sống sao chết vậy”, họ luôn thèm khát mùi vị của đàn bà:

“Cô nâng người tôi lên một chút được không? Tôi thèm hôn vào mớ tóc của

cô quá. Tôi nằm đây lâu lắm rồi. Máu không chảy nữa rồi. tiếng rên la cũng

tắt hết rồi. Hết cả đau đớn nữa. Chúng tôi quen với sự chết rồi. Nhưng vẫn

không quên được mùi tóc, không quên được mùi da thịt đàn bà con gái. Cô

nâng tôi dậy một chút đi. Tôi muốn hít ngửi mùi tóc của cô (…) Quỳnh vội

nhấc đầu lên. Nhưng hình như có bàn tay nào đó đã nắm được tóc của

Quỳnh. bàn tay ấy mò lên cổ Quỳnh… Những bàn tay ấy không làm Quỳnh

đau nhưng chúng đang đua nhau lần tìm, vuốt ve cơ thể khiến Quỳnh không

chịu nổi. Có một bàn tay giật mạnh tấm áo của Quỳnh. Cả một mảng lưng

trắng bóc của Quỳnh phơi ra ánh nắng.” [116, tr.73].

Viết về đời sống tính dục, Nguyễn Đình Tú đã rất khéo léo trong việc

miêu tả những tình huống ái ân, những cảm xúc giao hoan và cả vẻ đẹp phồn

thực của cơ thể con người mà không bị lặp, không gây cảm giác nhàm chán.

Ngòi bút của nhà văn dẫn độc giả tránh khỏi cảm giác khó chịu, khi tiếp cận

với những chi tiết tưởng như dữ dội, sa đà mà chừng mực, vừa phải và biết

dừng lại đúng lúc. Bởi vậy, người đọc chứng kiến những cung bậc tính dục

thật tự nhiên và đồng cảm theo diễn biến tâm lý của nhân vật.

Tuy nhiên, Nguyễn Đình Tú cũng nhìn nhận bản năng tính dục với

những mặt trái, mặt tiêu cực, con người đôi khi lạm dụng, sống theo bản

năng để thoả mãn nhu cầu thân xác mà không tìm được những giá trị sống

đích thực. Trong thế giới hoang hoải, lạc loài của Kín, Quỳnh và những kẻ

xung quanh cô buông thả bản năng đến rùng mình. Chủ động dùng tình dục

để thấy được sự hiện hữu của bản thân. Quỳnh luôn đến với những người

đàn ông xung quanh mình để được gần gũi về thể xác, tìm những cảm xúc

55

thăng hoa trong tâm hồn qua quan hệ xác thịt. Chính bởi vậy mà Quỳnh

chưa bao giờ thoả mãn được bản thân mình. Quỳnh và câu chuyện tình dục

của mình đi ngược lại các chuẩn mực đạo đức, toát lên sự trào lộng thậm chí

là mỉa mai phê phán về nhân cách của một bộ phận không nhỏ trong thế hệ

hôm nay.

So sánh giữa hình ảnh con người mang bản năng tính dục trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, độc giả có thể

nhận thấy rằng, hai nhà văn này đều nhìn nhận con người mang bản năng

tính dục mạnh mẽ. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương bị vây

bủa trong tham sân si, tiền tài, danh vọng, sắc dục, họ trở thành những kẻ bị

truy bức và đi truy bức (Sơn trong Ngồi, ông Phùng trong Thoạt kỳ thuỷ, lão

Liêm ông Trình trong Những đứa trẻ chết già). Các nhân vật đều đi theo

tiếng nói của bản năng, họ nổi giận, khao khát và hành động mà không có

khả năng kìm chế.

Qua việc xây dựng các nhân vật với bản năng tính dục mạnh mẽ

những khao khát được thoả mãn nhu cầu chính đáng của mỗi người. Nguyễn

Đình Tú đã mạnh dạn đề cao nhu cầu bản năng ở mỗi người. Tuy nhiên, cần

nhìn nhận tình dục một cách lành mạnh, chính đáng. Tránh sa vào tình dục

lệch lạc, bệnh hoạn.

2.2.2. Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

2.2.2.1. Ẩn ức tính dục

Viết về lối sống của thế hệ trẻ và văn hoá tính dục của họ, Nguyễn

Đình Tú đã xoáy vào tận cùng cái chua cay, vào vết thương đang sung tấy

của ẩn ức bản năng. Trong Nháp, mẹ Thạch - người đàn bà không chịu nổi

cuộc sống thiếu thốn son phấn, ở lại xứ người mà quên đi tổ ấm nhỏ, chỉ vì

cái công cụ sinh sản của đàn ông Đức, chỉ vì thoả mãn dục tính của chính

mình đã để lại vết thương sâu hoắm trong lòng cha con Thạch cùng nỗi ám

ảnh nhược tiểu giống loài. Vết thương đó còn lấy đi cái nhân cách mà đáng

56

lẽ sẽ định hình tốt trong người con trai. Bằng giọng điệu khinh thường, cười

cợt những cũng đầy trăn trở, cái xót xa, vô nghĩa trong tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú nổi lên trong thế đối lập giữa tình thương và tình dục: “Chẳng lẽ

người phụ nữ nào đi Tây cũng bỏ chồng chỉ vì cái của nợ ấy của những

thằng đàn ông Phương Tây? Nếu thế thì chán cho cái giống người Việt quá.

Chán cho cái của quý ấy của đám đàn ông nước mình quá” [115, tr.23-24].

Ở bố của Thạch, niềm tin vào sự chung thuỷ của vợ đồng nghĩa với sự hi

sinh, nhưng đáp lại tấm lòng thương yêu đó là cái nhìn “tởm lắm” của kẻ

đầu ấp tay gối. Tình yêu lúc này trở thành không tưởng trước sự phản bội

của người đàn bà khát dục: “Bố tôi như bao người đàn ông mất vợ khác, tin

vào tình vợ chồng của mình, tin vào điều viển vông rằng, sự khốn nạn ấy xảy

ra với ai chứ không xảy ra với mình” [115, tr.24]. Trong cảnh sụp đổ hạnh

phúc gia đình, người bố mất niềm tin vào cuộc sống, còn Thạch mất đi cái

nhìn thiêng liêng về tình yêu, dục tính. Anh ngô nghê, hồn nhiên trong tình

yêu dành cho Yến với ý nghĩ chở che của phái mạnh. Nhưng những ẩn ức, tự

tin về khả năng tình dục do chấn thương tâm lý từ bi kịch hôn nhân của bố

mẹ đã khiến cho tình yêu của anh và Yến đi vào ngõ cụt. Thạch luôn nghi

ngờ về sự chung thuỷ của Yến: “Yến có vẻ đọc được nỗi ám ảnh bội phản từ

trong sâu thẳm ký ức của tôi. Và Yến nhiều lần khẳng định rằng chỉ yêu một

mình tôi thôi. Tôi sẽ tin điều đó nếu Yến chỉ lên giường với tôi. Nhưng ai

dám bảo là Yến không một lần ngủ với ai đó, ngoài tôi? Yến hay giao du với

nghệ sĩ. Yến lại có đời sống tình dục mạnh mẽ thế? Và Yến khá xinh đẹp. Tất

cả những điều này khiến những ý nghĩ của tôi nhuốm màu phiền muộn”

[115, tr.81]. Và sự ghen tuông của Thạch lên đến đỉnh điểm khi Jack Cleary

xuất hiện. Sự tự tin về khả năng tình dục dày vò Thạch “mỗi khi ngủ với Yến

xong hắn lại thầm so sánh với Jack, không biết hắn với Jack ai thượng

phong hơn trước Yến?” [115, tr.91]. Thạch nhận ra rằng “bi kịch của hắn là

không vung lên được nắm đấm của một thằng con trai có dòng máu gia

trưởng bốn ngàn năm đang chảy trong người” [115, tr.93]. Để giải toả

57

những mặc cảm của mình và cũng chính là trả thù cho bố, cho chính bản

thân mình, Thạch lao vào mối quan hệ với Me-lơ-ni, người phụ nữ phương

Tây “hắn thấy trước mặt hắn lúc này không phải là Me nữa mà là Yến, thậm

chí là cái mặt gì đó mờ nhoà, nhang nhác giống mẹ hắn” và “hắn thấy Yến

đang nhăn nhó phía sau khoảng tối đó. Và hình như cả mẹ hắn nữa. Mẹ hắn

đang có cái dáng vẻ của một sự hối lỗi. Hoá ra hắn cũng can trường lắm

chứ. Hắn đang dội những trái phá khủng khiếp vào sự coi thường dục tính

của cha con hắn” [115, tr.218]. Từ bi kịch gia đình, Thạch biến thành kẻ

mang bi kịch tình yêu lứa đôi. Anh đến với tình dục, tình yêu chỉ với ý nghĩ

trả thù, chứng minh năng lực bản thân mà không hề có những cảm xúc lành

mạnh. Từ những ẩn ức tình dục, Thạch mang cả những suy nghĩ bạo lực, sau

sự liên tưởng giữa việc phản bội của Yến với mẹ mình, trong Thạch, tình

yêu đã hoá thành thù hận, yêu thương biến thành bạo lực “Hôm nay hắn lại

đến gặp con quỷ cái đó Đ ạ. Yến mặc váy trắng hoa đen ngồi bắt chéo chân

chờ hắn ở Cinema Lý Nam Đế với mắt to, lông mi dài, bờ môi cong. Vừa

nhìn thấy cái mặt khát dục ấy là hắn lại muốn đánh” [115, tr.90]. Những ám

ảnh nhược tiểu ám vào suy nghĩ ngày càng bấn loạn của anh. Bệnh hoạn với

thú vui riêng, Thạch trở thành nạn nhân của xã hội cùng với lối sống ngày

càng xa rời các chuẩn mực xã hội. Với vẻ ngoài đĩnh đạc, văn minh, Thạch

cố che đậy cái thú vui bệnh hoạn luôn ám ảnh trong ý nghĩ.

Trong Kín, quãng đời lưu lạc của Quỳnh đã để lại vết thương không

bao giờ lành trong tâm hồn cô. Để có thể tồn tại nơi nhà ga Hải Thành, cô bé

Lửa Cháy đã sớm phải bước chân vào nghề “bán thân nuôi miệng”. Hành

trình mưu sinh đó đã khiến cô gái trẻ mất đi niềm tin vào tình yêu và cuộc

sống. Khi trở về đoàn tụ cùng gia đình, Quỳnh không sao thoát ra khỏi

những kí ức đau thương đó, nó luôn ám ảnh, dày vò cô, khiến cô hoang

mang, mất niềm tin, phương hướng. Quỳnh lao vào tình dục để tìm lại chính

mình, tìm lại những cảm xúc, những rung động để biết mình còn sống.

Nhưng vũ điệu “linh tinh tình phộc” càng khiến cô thêm khủng hoảng.

58

Những ẩn ức tính dục đôi khi còn trở thành một căn bệnh thần kinh

trầm trọng, gây nên tội ác cho xã hội. Trong Phiên bản, viết về thế giới tội

phạm, Nguyễn Đình Tú đã lý giải hành động máu lạnh giết người hàng loạt

bởi sự ám ảnh của ẩn ức tính dục. Đó là kẻ giết người do mất năng lực tình

dục nên khi thấy bất kì đôi nam nữ nào âu yếm nhau hắn cũng nổi máu bạo

lực. Và bởi mất năng lực tình dục nên hắn sinh ra lòng hận thù, muốn cắt hết

“của quý” của đàn ông làm thú vui. Viết về loại tội phạm này, Nguyễn Đình

Tú đã lý giải quá trình hình thành tội phạm hết sức tinh tế và thuyết phục:

“Khi ông ta bỏ đi Tân đã vào xem mấy cái lọ đó và tá hỏa khi thấy trong đó

ngâm toàn “của quý” của đàn ông. Tân nhờ chính quyền sở tại xác minh hộ

nhân thân của người đàn ông kia. Và Tân phát hiện ông ta từng đi viện điều

trị dài ngày. Tại bệnh viện tâm thần thành phố, khi xem lại bệnh án của

người đàn ông bí ẩn trên lòng hồ, Tân được biết ông ta không có năng lực

tình dục và rất có khoái cảm thị dâm.

Hóa ra ông ta đã làm đến bốn vụ mà không hề bị phát hiện. Ba vụ

trước đây ông ta thường vùi xác nạn nhân xuống lòng hồ nên không để lại

dấu tích. Vụ thứ tư vì ông ta không kịp phi tang nên mới để cơ quan điều tra

vào cuộc. Đã ngoài bốn mươi tuổi, lại mắc chứng tâm thần phân liệt, bình

thường thì không sao, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy hành động tình ái của các

đôi trai gái là ông ta nổi cơn điên, ông ta có khoái thú cắt của quý của đàn

ông cất đi, thỉnh thoảng mang ra ngắm chơi. Còn với phụ nữ thì ông ta chỉ

thích cấu véo để nghe họ kêu gào, la hét rồi sẽ giết họ trước khi họ kiệt sức.

Trò thị dâm quái đản của một kẻ tâm thần, bệnh hoạn trong khu rừng Nga bị

Tân phát giác và Tân đã theo nguyên tắc “trả giá ngang bằng” để làm lại y

như những gì mà người đàn ông kia đã làm với những nạn nhân của bốn vụ

án trước” [117, tr.79-80].

Nguyễn Đình Tú đã cho người đọc thấy được sự chi phối của ẩn ức

tính dục đến đời sống con người, nó không chỉ chi phối đời sống tâm lý mà

59

còn chi phối đến những hành vi của con người trong cuộc sống. Ẩn ức tính

dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được xem như một căn bệnh hết sức

nguy hiểm và cần có những liệu pháp chữa trị hợp lý, kịp thời.

2.2.2.2. Ẩn ức mặc cảm, cô đơn

“Cô đơn là bản chất của con người” (S. Freud). S.Freud luôn nhìn con

người với tư cách là cá nhân riêng tư, cá thể, không trộn lẫn với ai và không

có phiên bản khác. Mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ bí ẩn. Không ai hoàn toàn

hiểu nó, và bản thân nó cũng không thể hiểu được người khác dù luôn có ý

thức muốn được hiểu và hiểu được người khác. Nhu cầu hiểu và được

hiểu này thể hiện qua nhu cầu giao tiếp, tự thể hiện, nhu cầu nhập cuộc với

xã hội để trưởng thành, để tồn tại. Nhưng trong quá trình nhập cuộc, dấn

thân, con người luôn phải trượt từ môi trường đang là sang môi trường sẽ là,

từ môi trường quen thuộc sang môi trường xa lạ để tương thông với tha

nhân, để tìm thấy hơi ấm của bầy đàn, để hóa giải sự cô đơn, cô độc. Hành

trình đó có sự chi phối của bản năng vô thức.

Cô đơn cũng có nhiều kiểu loại: cô đơn trong sáng hay cô đơn trong

cõi hoang mang cực độ. Ở khía cạnh tính dục, nhân vật của Nguyễn Đình Tú

cô đơn trong những vết thương quá khứ và còn cứa sâu ở hiện tại. Nhân vật

thường tìm đến tình yêu như điểm tựa vững chắc khỏa lấp tâm hồn. Nhưng

tình yêu không ngự trị trong trái tim, họ tìm đến tình dục như giải thoát khỏi

cảm giác sợ hãi, lo lắng khi cảm nhận được sự tồn tại thực của những cảm

xúc mang tính chất tạm thời. Dù vậy, các nhân vật lạc loài cứ xoay cuộc đời

mình trong cái vòng tròn mồ côi - như chính thân phận họ. Con người cố tìm

một lối thoát trong chông chênh phương hướng. Họ - những người trẻ cứ

phải đấu tranh để tồn tại, cố tách ra khỏi vòng lẩn quẩn giữa thù hận và yêu

thương, giữa thấp hèn và thanh cao, cả giữa sự sống và cái chết… Cô đơn từ

trong bản thể, con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú sống khao khát

giao hòa nhưng chỉ thấy đơn độc.

60

Đi vào ma trận thế giới Kín, lắp ghép những hồi ức loang chảy của

các nhân vật, người đọc sẽ xâu chuỗi được “ăm ắp những thân phận khổ đau,

chìm nổi, bi thương, bất hạnh bị đẩy đến tận cùng của sự cô đơn, lạc loài”.

Đó là số phận cô đơn của Hoàn. Hoàn sinh ra trong một gia đình làng chài

ven biển. Bố mẹ bị biển vùi chết trong một chuyến ra khơi. Đứa trẻ lớn lên

cùng sóng gào và cát xoáy cùng những tiếng thở dài não ruột của người bà.

Cho đến một ngày thằng bé từ biệt bà, từ biệt làng chài với “vô số những số

phận người bị xô dạt chẳng khác gì những cành củi mục” để ra đi. Một ngày

kia đoàn tàu chợ đưa nó đến nhà ga Hải thành với bộ đồ nghề đánh giày

trong tay. Sống tại mảnh đất Hải Thành, nó thực sự trở thành một linh hồn

cô độc. Một đứa trẻ phải chống chọi với tất cả những thế lực thù địch để tồn

tại. Chúng hành hạ, bóc lột, tiêu diệt nhau vì lợi ích cá nhân. Sau khi xóm

lều giải tán, Hoàn phải vào trường giáo dưỡng, bị cách ly với thế giới bên

ngoài. Trốn khỏi trường giáo dưỡng nhưng Hoàn không thể trở về hoà nhập

với xã hội như một người bình thường, Hoàn trở thành một tên cướp, dính

vòng tù tội khi chưa là vị thành niên. Khuôn mặt đầy những sứt sẹo gớm

ghiếc mãi mãi là dấu tích của một cuộc đời bất hạnh, tội lỗi và là vách ngăn

giữa Hoàn với mọi người xung quanh. Cuộc đời Hoàn “quả chẳng ra cái cóc

khô gì”.

Đó là sự lạc lõng, bơ vơ của Phương, một cô bé cành vàng lá ngọc,

sống trong giàu sang nhung lụa nhưng lại sống trong “chim lồng cá chậu”,

xa vắng tình thương và sự chăm sóc của mẹ. Phương phải sống cùng bố

dượng trong ngôi nhà ba tầng. Bi kịch xảy đến với cô gái từ khi cô chưa kịp

bước chân vào đời. Lão dượng “dê già” mất nhân tính nhiều lần giở trò đồi

bại khiến cô bị dồn nén, bức bách đến phát điên. Không có sự giúp đỡ và

cũng không thể cầu cứu ai, cô bé mười ba tuổi đã phải dùng dao thái đâm bố

dượng để giải cứu cho chính mình rồi bỏ chạy. Cuộc hành trình lang thang

vô định đã xô dạt cuộc đời cô đến bến ga Hải Thành sống kiếp bụi đời rồi

trượt sâu vào con đường làm điếm. Suốt những năm tháng của tuổi thanh

61

xuân, dù có nhan sắc nhưng Phương không hề được cảm nhận những rung

động của tình yêu chân thành, những người đàn ông đi qua cuộc đời cô chỉ

đơn thuần vì “tình một đêm”. Phương đã để mặc cho cuộc đời trôi dạt,

không tìm thấy cho mình một bến đỗ, một điểm tựa tinh thần. Cô tiểu thư

hôm nào nay trở thành tinh cáo trong cái nghề bán xác nuôi thân. Khi gặp lại

những người bạn cũ, Phương không dám đối diện mà phải trốn tránh.

Đó là cuộc đời cô đơn của Kiên. Kiên bị người tình của mẹ vứt lại trên

chiếc ghế đá lạnh lẽo ở nhà chờ sân ga. Kiên được người đàn bà làm lao

công ở nhà ga nhặt về nuôi. Cuộc đời cô độc bất hạnh của Kiên trượt dài khi

mẹ nuôi của cậu bị tàu kẹp chết. Mười hai tuổi đời, Kiên không cha, không

mẹ, đói cơm, rách áo, thất học, lạc loài. Kiên luôn ôm ấp trong lòng tình cảm

với cô bé Lửa Cháy nhưng số phận lại đẩy hai người sang hai ngã rẽ khác

nhau trên đường đời. Tình yêu với Kiên gắn liền với món nợ “tình” mà cậu

cả đời không thể trả nổi. Nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn Kiên luôn réo

rắt, nhức nhối cất lên qua bài hát “Vết thù trên lưng ngựa hoang” được cậu

cài làm nhạc chờ điện thoại.

Đó còn là sự cô đơn của Phong. Phong là cậu ấm trong gia đình giàu

có. Bố làm trong ngành ngoại giao, mẹ là dân buôn bất động sản, nhà đất có

ở khắp nơi nên cũng đi suốt. Phong sống trong vàng bạc, khi thì ở trong một

căn hộ chung cư mười tám tầng, vài bữa thấy về một biệt thự sang trọng trên

khu Tây Hồ nhưng luôn cô đơn, lẻ loi, thiếu thốn tình cảm gia đình. Anh

khao khát được sống theo ý mình, được quyết định cuộc đời mình. Song, là

con một, anh sinh ra là để thực hiện hai khát vọng lớn: phải có học vấn như

bố, phải biết kinh doanh như mẹ. Phong bất hạnh trong chính căn nhà của

mình, không tìm được tiếng nói chung với chính người thân ruột thịt của

mình bởi “đó đâu phải là khát vọng của anh mà là của ông bà già chứ, tại sao

lại bắt anh phải thực hiện?”, “anh phải sống cho anh chứ”, “tại sao cứ phải

học trong khi đầu óc không chứa được chữ nghĩa” (Kín).

62

Đó là những ẩn ức cô đơn, mặc cảm trong Tráng, anh “hiện diện như

nỗi ám ảnh khủng khiếp về sự bí ẩn của kiếp người”. Tráng là một chàng trai

trong sạch, thánh thiện, tinh khiết đến vô trùng nhưng thượng đế đã ném cho

Tráng “sở thích quái đản” là tìm kiếm khoải cảm tình dục ở người đồng giới.

Tráng sinh ra là với hình hài một con người nhưng lại không được sống một

kiếp người trọn vẹn. Bị mọi người phát hiện mình đang “kê gian” với bạn

tình bên một vách núi trên đường lên cao nguyên nên Tráng cùng bạn tình

đã vội vàng lên xe bỏ chạy và rơi xuống vực mà chết. Cả kiếp đời của Tráng

là những tháng ngày lẩn trốn, nguỵ trang trong hình hài một người đàn ông

điển trai, bên trong vỏ bọc ấy là một tâm hồn lạc loài, bơ vơ, tội nghiệp.

Đi đến đỉnh điểm của những ẩn ức cô đơn lạc loài là thân phận của cô

bé Quỳnh, một cô bé với tâm hồn ngây thơ trong sáng luôn đi tìm lời giải

đáp cho câu hỏi về cái tôi giữa cuộc đời. Sau những tháng ngày chìm nổi, lạc

loài trong kiếp nhân sinh, Quỳnh được trở về trong vòng tay của bố. Ngỡ

tình yêu thương của người cha sẽ lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn

cô nhưng cô chỉ thấy bố mình như một cỗ máy với những thao tác ngày ngày

được lặp đi lặp lại để rồi cô thêm hoang mang rơi vào trầm cảm. Quỳnh tìm

đến tình dục để khoả lấp nỗi cô đơn, để gắn kết tâm hồn mình với thế giới,

để thấy mình đang tồn tại. Song, trải qua cuộc tình với Phong, Tráng cô càng

thêm hụt hẫng, chơi vơi. Bố Quỳnh không tìm được tiếng nói chung với con

gái đã đưa Quỳnh đến một vùng đất khác, đẩy cô xa khỏi ranh giới địa lý

văn hoá bản địa để quên đi những kí ức bi thương nhưng lại càng làm cho cô

bơ vơ không tìm được gì, không biết bấu víu vào đâu. Đối diện với sự biến

mất của tình yêu thương, sự sụp đổ của những mối đồng cảm trong gia đình,

Quỳnh vừa hoang mang, vừa đơn độc, vừa vùng vẫy để thoát ra sự bế tắc.

Quỳnh đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Tự tử không thành, Quỳnh

lao vào tình dục đồi trụy với màn thác loạn của mười hai con giáp. Lần này

thì cô thực sự đi vào ngõ cụt tăm tối. Quỳnh quyết định đi khỏi cuộc sống

hiện tại, đi khỏi ngôi nhà của mình-căn biệt thự có những khóm lam tường

63

đẹp đến nao lòng với một người bố luôn thờ ơ với mọi diễn biến nội tâm của

Quỳnh, đi khỏi Hà Thành - nơi với Quỳnh nó là xa lánh và tạm bợ, nơi

“không bồi đắp thêm được phù sa cho tâm hồn Quỳnh mà ngược lại lại sa

mạc hoá, đập nát và bức tử nó”. Cô phải đi tìm một thời kí ức của mình liên

quan đến Hải Thành, nhà ga, chợ Kẻ Mơ, quê nội… Vào cái đêm cô sắp sửa

tìm lại được cái mình cần tìm thì cô lại cảm thấy tâm hồn mình bị chấn động

mạnh, thấy cả một thế giới trong mình đang đảo điên, rung lắc “con tim yếu

ớt ấy chưa kịp lành lặn để có thể đập những nhịp đập bình an trước quá

khứ”.

Có thể nói, trong nỗi cô đơn, lạc loài đến cùng cực trong gia đình,

Quỳnh khao khát nhận được sự sẻ chia, quan tâm đầy yêu thương để được

sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, để có thể tìm lại chính mình. Có lẽ hành

động mất tích là cách duy nhất Quỳnh có thể thoát ra khỏi cuộc sống nhàm

chán và thấy được vị trí của mình trong lòng ông bố.

Mỗi nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình

ẩn ức lạc loài, cô đơn. Họ không tìm thấy sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm

hồn ở những người xung quanh. Họ lao vào tình dục, bạo lực như một cách

giải toả ẩn ức từ đó không ít người đã trượt dài trên con đường tha hoá. Nhà

văn đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng tha hoá ở giới trẻ hiện

đại và cảnh tỉnh mỗi người cần tỉnh táo, sống có lý tưởng và trách nhiệm với

bản thân.

2.2.3. Con người thần kinh, đa nhân cách trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Trong Nháp, hình tượng người điên, đa nhân cách chiếm một tỉ lệ lớn.

Kiểu nhân vật này có biểu hiện khó lường, phức tạp với chiều sâu ẩn ức,

những chấn thương được giữ kín, bị che giấu. Họ mang tính dục mạnh mẽ,

chất chứa những khao khát, có lúc biểu đạt một cách mãnh liệt có lúc lại bị,

kìm nén và biểu hiện ở một hình thức khác. Đoàn Minh Tâm có nhận xét về

kiểu nhân vật này trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú: “Xây dựng kiểu nhân

64

vật thần kinh là bước nỗ lực lớn của Nguyễn Đình Tú trong việc làm mới

chính mình”. Trong Nháp, Đại được coi là nhân vật thần kinh. Cả tác phẩm

duy nhất có Đại bị coi là nhân vật tâm thần, bị bạn bè xa lánh, kì thị: “Một

thằng tâm thần, một kẻ hoang tưởng, một gã chập mạch. Một dạng dặt dẹo,

một tên khố bện, một kiểu ma cô vật vờ nơi giảng đường, trường nào chẳng

có vài ba đứa”; “Đại là người không bình thường, hơi đao đao, hơi biêng

biêng, hơi chập chập, hơi có vấn đề…” [115, tr.9]. Song thực tế, Đại rất tỉnh

táo, suy nghĩ chín chắn, hành động đúng mực như một người bình thường có

nhân cách, biết tự trọng như lời nhận xét của các bạn cùng lớp “Cậu ấy học

không đến nỗi nào, đạo đức cũng được, người ngợm cũng sáng sủa, chỉ mỗi

tội, thỉnh thoảng hơi biêng biêng” [115, tr.11]. Chẳng hạn những suy nghĩ

của Đại lúc trốn ở chùa Tử Tù. Anh ta tìm ra và phát hiện chỗ nào có thể

trốn, đó là cái cống và gầm bàn thờ. Đại đã trốn ở đó an toàn hai mươi tám

ngày. Và khi nghe sư trụ trì nói chuyện với cây trúc xanh, Đại hiểu được

những vấn đề ẩn sau lời nói bóng gió đó. Hay việc cậu liên tục giành được

học bổng, tư duy của cậu khá tốt “Lạy trời, tư duy của Đại khá mạch lạc,

mấy môn Khoa học cơ sở Đại đều thi tốt. Vào năm thứ hai Đại vẫn được học

bổng ở mức cao nhất. Đại rất mê môn Lịch sử các học thuyết chính trị. Đại

say mê các nhà tư tưởng và có thể tranh luận không biết mệt về họ. Đây

chính là điều khiến cho các bạn trong lớp quý Đại. Nhưng đây cũng chính là

lý do để mọi người nghi ngờ Đại có phẩm chất đặc biệt của một nhà hâm

học” [115, tr.131]. Rõ ràng, Đại có những hành động khôn ngoan, cả trong

suy nghĩ và hành động. Vậy, tại sao Đại bị coi là nhân vật thần kinh? Nhà

phân tích tâm lý học S. Freud cho rằng: Mọi người đều bị điên, duy chỉ có

người điên là giống họ hơn chúng ta mà thôi. Nguyễn Bình Phương lại cho

rằng: “những người điên cho tôi cảm giác lạ lùng về cuộc sống. Tôi không

đánh giá điên là một tính thiện “thoạt kỳ thuỷ” dù ở nghĩa bóng. Nếu cần

nói tới vấn đề điên của một người điên thì tôi nghĩ thoạt kỳ thuỷ họ không

điên, sau đó có cái gì đấy làm họ điên” [115]. Để hiểu rõ về nhân vật Đại,

65

nhà văn đã đưa người đọc xuyên suốt hành trình kí ức của Đại. Những kí ức

tuổi thơ bên cô bé mắt nâu với lời hứa trồng cây sấu trước nhà đã theo Đại

suốt những năm tháng đi học. Kỉ niệm đẹp với Thảo khiến cho Đại không

sao dứt khỏi quá khứ để hoà nhập với hiện thực. Mối tình ngây thơ trong

sáng với Thảo trở thành vết thương trong tâm hồn Đại. Mối tình đầu dang dở

khiến Đại luôn sống vật vờ với hiện thực. Đại không thể đáp lại tình cảm

của Duyên toàn tâm, toàn ý mà chỉ có sự va chạm xác thịt để thoả mãn dục

vọng bản năng của người đàn ông. Khi làm tình với Duyên, Đại phải dùng

viên ngọc ước như một liều thuốc tinh thần.

Cùng với Đại là Thạch và Nguyễn Toàn, chính những điểm chung

trong tâm hồn đã đưa Thạch và Đại trở thành đôi bạn tri kỉ. Họ cùng gặp

những bất hạnh trong cuộc sống. Thạch và Nguyễn Toàn có vẻ ngoài rất

bảnh bao, có chỗ đứng trong xã hội. Bề ngoài họ là những con người hoàn

toàn bình thường nhưng bên trong lại có sự lệch lạc trong tư tưởng, suy

nghĩ. Họ không chiến thắng được những ham muốn lệch lạc cả thân xác nên

đã tạo ra một vỏ bọc hoàn hảo, song quan sát cuộc hội thoại của họ, ta có thể

thấy những mặt trái trong tâm hồn biểu hiện qua ngôn ngữ đối thoại:

“- Galacloai: Bạn làm nghề gì?

- Damocoi: Theo bạn thì tôi làm nghề gì?

- Galacloai: Tôi đoán bạn là một nhà báo. Tôi có đọc một vài entry

của bạn và rất thích.

- Damocoi: Chúng ta có thể tiếp tục nói chuyện về dương vật được

không?

- Galacloai: Nếu bạn muốn. Hôm nay bạn có vẻ nôn nóng nhỉ?

- Damocoi: Vì tôi đã biết bạn là một nhà nam khoa. Cho tôi được nêu

những tò mò của mình nhé?

- Galacloai: Sẵn sàng.

66

- Damocoi: Phụ nữ thường thích dương vật như thế nào?

- Galacloai: Công ty Lyfestyle Condom đã thực hiện một cuộc khảo

sát về kích thước dương vật đối với 200 phụ nữ từ 18 đến 25 tuổi có ngoại

hình, sắc tộc và thói quen tình dục khác nhau. Kết quả cho thấy có đến 82%

chị em cho biết họ hài lòng với những dương vật dài để thoả mãn họ. Sự đủ

dài đó là khoảng 6 inch, tức là 15,3 cm. Như vậy câu trả lời cho bạn là: Phụ

nữ thích dương vật “đủ dài”!

- Damocoi: Đấy mới chỉ là 82%, còn 18% phụ nữ nữa thì sao?” [115,

tr.186]

Hai nhân vật này đã cùng sa vào bi kịch do chính họ tạo nên. Khi mặt

nạ trá hình rơi xuống, họ phải hiện nguyên hình, người bị giết, người phải

đối mặt với toà án.

Phản ánh, phân tích về hiện tượng chấn thương tâm lý dẫn đến bùng

phát về bạo lực, xét trên khía cạnh nhân văn, nó chỉ cho ta rằng mọi sự đều

có nguyên nhân sâu xa nào đó, chính xác, đều có một “vô thức” nào đó trong

các sự kiện và cần phải cắt nghĩa nó đúng theo bản chất của nó để tránh xa

vào những phán xét hàm hồ, phiến diện. Đi sâu vào khám phá cái phần vô

thức này tìm hiểu căn nguyên của nó, chính là tìm hiểu và khám phá con

người để từ đó biết lọc lựa điều chỉnh cho cuộc sống. Đấy chính là chức

năng cao cả của văn học.

67

Tiểu kết Chương 2

Ở khía cạnh hiện thực, người viết nhận thấy rằng thế giới hiện thực đặc

biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú vô cùng độc đáo, đa tầng, hấp dẫn. Hiện

thực được nhìn từ nhiều góc độ, được lý giải, khám phá một cách sâu sắc. Nhà

văn vừa khám phá một cách tự nhiên, vừa dụng công xây dựng nhằm đi sâu

vào lý giải chiều sâu tâm hồn con người. Từ đó, ta có thể thấy rằng, Nguyễn

Đình Tú không nhìn con người từ vẻ bề ngoài, khai thác con người từ hành

động lời nói đơn thuần mà cố gắng khám phá họ từ bên trong. Qua đó ta thấy

cái nhìn nhân văn cao cả của một cây bút tài năng.

Con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là con người bản năng và

con người ẩn ức. Có nhân vật cố gắng vùng vẫy, tìm cách tự giải thoát nhưng có

những nhân vật bị ẩn ức và bản năng vây bủa không tìm được lối thoát. Khám

phá con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, người đọc rút ra được bài học

kinh nghiệm trong cách nhìn nhận đánh giá con người, có thêm bài học về cách

ứng xử với xã hội và với chính bản thân. Đó là ý nghĩa vô cùng quý báu mà nhà

văn muốn gửi gắm và người đọc ngộ ra sau khi đến với tiểu thuyết của anh.

Tuy nhiên, dù phản ánh một bộ phận giới trẻ nhưng tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú vẫn mang đến cho người đọc cảm giác ám ảnh, bi quan bởi nó thiếu đi

ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Kết thúc các tác phẩm nhân vật không tìm

cho mình lối thoát nên gây cho người đọc cảm giác u ám, nặng nề.

Về khía cạnh xã hội, người đọc có thể thấy những nguyên nhân trực tiếp

và gián tiếp thúc đẩy hành động của nhân vật. Để từ đó có thái độ cảm thông

hay phê phán một cách đúng đắn, hợp lý nhất.

Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã mang đến cho độc giả những tình cảm

nhân văn, những bài học sâu sắc qua cái nhìn về con người từ góc nhìn Phân

tâm học. Qua đây ta thấy tài năng cùng quá trình nỗ lực tìm tòi sáng tạo, nỗ lực

đổi mới mình của nhà văn 7x. Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh

sáng lý thuyết Phân tâm học giúp ta đánh giá nhà văn này cùng những tác

phẩm của anh một cách toàn diện, khoa học hơn.

68

Chương 3

DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC TRONG

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

3.1. Biểu tượng nghệ thuật mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú

Trong các tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú đã xây dựng rất

nhiều hình ảnh, chi tiết nghệ thuật mang tính biểu tượng có dấu ấn Phân tâm

học. Khảo sát bốn tiểu thuyết trên, người viết nhận thấy các biểu tượng trong

tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đều mang ý nghĩa thanh tẩy. Các nhân vật của

Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình những ẩn ức bị kìm nén không có

cách giải toả. Nhà văn đã tạo ra những biểu tượng có khả năng thanh tẩy

những vết đen sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật.

Biểu tượng gợi sự thanh tẩy trong Phiên bản là gì? Mở đầu tiểu

thuyết, ngay từ trong tiềm thức, là trăng. Trăng với tất cả biến thể của nó,

mặt trăng tròn đầy, ánh vàng dịu nhẹ,… hối thúc nhân vật phân thân, bộc lộ.

Bởi cái bình yên bao trùm kia, ánh sáng yếu ớt kia, ban đầu, dễ trở thành cái

trêu giễu kẻ yêng hùng, nhưng khi nó đã lan thấm vào tâm hồn, như cái lạnh

lẽo đêm sương ngấm vào da thịt, nó trở nên gần gũi, tạo sự sẻ chia, tin cậy.

Nó đòi hỏi đối thoại, và sau đó, là bộc bạch. Đến cuối tác phẩm, trăng gợi

nhắc đến Nhân, trăng là Nhân. Nhân là người bạn trai mà Diệu đã yêu ngay

từ thuở học sinh. Đến khi trở thành Hương “ga” nổi tiếng giang hồ thành

phố Ngã ba sông, anh công an tên Nhân vẫn luôn là hình ảnh gắn bó với

những giấc mơ hoàn lương. Diệu là nửa thanh sạch của Hương “ga” ngày

càng dấn sâu vào vũng bùn tội lỗi. Diệu là tình yêu mà Nhân theo đuổi suốt

bao năm trời. Nên ở một góc độ nào đó, Hương “ga” khao khát có Nhân bao

nhiêu thì cũng chính là khao khát được trở về là Diệu bấy nhiêu. Nhân, vì

thế, như nghĩa từ nguyên của nó, là người, tính người, tình người. Trăng và

Nhân, bồi đắp nghĩa cho nhau, để trở nên đủ đầy. Chỉ có điều, Hương “ga”

69

không “sở hữu” được Nhân, cũng như thế, ánh trăng chỉ làm mờ nhòe được

nỗi thống khổ của cuộc đời chứ không hóa giải được nỗi thống khổ ấy. Ánh

trăng trong Phiên bản là ánh sáng của tâm hồn luôn loé lên chất vấn, soi

chiếu chính bản thể nhân vật để nhân vật nhận ra mình sau quá trình sống

đầy tội lỗi. Ánh trăng là tiếng nói lương tri, là sâu thẳm tính thiện trong con

người Hương ga- phiên bản đầy tội lỗi của Diệu. Ánh trăng giúp Hương ga

tìm được lại chính mình, tìm lại được hình ảnh cô bé Diệu ngây thơ, hiền

lành trong sáng với mối tình học trò.

Trong Nháp, viên ngọc ước của Thảo để lại cho Đại vừa là kỉ vật tình

yêu vừa là công cụ thanh tẩy tâm hồn. Khao khát tình yêu ở Đại là nỗi khát

khao tìm đến cái đẹp thánh thiện hoàn mỹ của Đại để rồi sa vào bi kịch và

thức tỉnh. Cái đẹp tuyệt đối ở đây được thể hiện qua hình ảnh Thảo, một

người bạn gái thuở nhỏ của Đại. Hình ảnh Thảo gắn liền với viên ngọc ước

có khả năng đem lại cho nhân vật sự khoái thú thần tiên mỗi khi thực hiện

hành vi giao ái. Viên ngọc kỷ niệm của Thảo như một quả cầu pha lê của

tình yêu, có sức hội tụ và đốt cháy tình cảm con người hiện lên trong tiểu

thuyết Nháp vừa thực mà vừa hư. Lúc hư là lúc nhân vật đang trải nghiệm

bằng một đời sống tâm lý ảo, còn lúc thực lại là lúc đời sống tâm lý được

đánh tráo ở một dạng thức khác “Viên ngọc để trong một lớp lụa tơ tằm, rồi

ẩn sau một lớp vải áo, thế mà vẫn phát sáng được thì rõ ràng đây phải là

một viên ngọc quý, Duyên bỏ nó ra ra tay ngắm. Viên ngọc lại bình thường,

không phát sáng và cũng chẳng có gì đặc biệt. Duyên đặt nó lên vạt áo của

Đại thì nó phát ra thứ ánh sáng mờ mờ. Phải rồi. Áo Đại có chất gì đó và

khi tương thích với viên ngọc này thì nó sẽ phát sáng” [117, tr.132]. Mỗi khi

quan hệ với Duyên, Thạch đều phải dùng viên ngọc ước ngậm vào miệng thì

bản lĩnh đàn ông mới có thể trỗi dậy, nếu không Đại không thể gần gũi với

bất kì ai .

70

Trong Nháp, giữa hiện thực bộn bề, giữa một xã hội chao đảo mà con

người dễ sa vào vực thẳm của bản năng và ẩn ức, hình ảnh viên ngọc ước là

biểu tượng lấp lánh của một tình yêu, khát vọng tuổi trẻ trong sáng xuyên

suốt từ đầu đến cuối tác phẩm.

Tìm hiểu biểu tượng mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú, ta có thể nhận thấy việc xây dựng những hình ảnh biểu

tượng một cách sáng tạo, độc đáo của nhà văn. Những hình ảnh mang tính

biểu tượng này được đan cài trong tác phẩm một cách linh hoạt, giúp nhà

văn truyền tải những thông điệp ý nghĩa.

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nghiêng về thế giới vô thức

của nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Nội tâm nhân vật là một thế giới khép kín đầy bí ẩn, đây cũng là nơi

chất chứa những tâm tư, tình cảm, tiếng nói sâu thẳm trong trái tim con

người. Để bộc lộ thế giới tinh thần nhân vật, nhà văn đã xây dựng thế giới

nội tâm nhân vật phong phú nhằm mô tả nhân vật từ bên trong, thâm nhập

vào tiềm thức nhân vật. Một trong những khả năng của độc thoại nội tâm là

thể hiện những giằng xé âm thầm của con người. Như Faullkner đã nói: Độc

thoại nội tâm thể hiện trái tim con người đang gây hấn với chính nó.

Hương ga trong Phiên bản luôn độc thoại với chính mình: “Em có

lắm chuyện không hả anh? Em cũng có ra vẻ thương người không hả anh?

Thực ra em không nghĩ nhiều đến thế khi giúp con Mỹ đâu. Chỉ là một chút

ngẫu hứng bốc đồng thôi. Em cũng không cố ý chọc tức mụ béo kia. Em có

nhiều thứ phải nghĩ lúc này, hơi đâu mà cứ gây sự với người ta làm gì. Ngay

lúc ấy cũng vậy. Em đang nghĩ đến anh với lời hẹn không thành tối hôm qua.

Nghĩ đến bà với hai con mắt đỏ hoe xì xụp đắp bát cơm quả trứng cho thằng

cháu trai chết mà không nhìn được mặt. Nghĩ đến anh Hưng "mặt nạ" với

những câu chuyện tù tội ám ảnh. Nghĩ đến cả cái quầy hàng ế ấm và nghề

làm hương chết đói của hai bà cháu. Từng ấy ý nghĩ là quá sức chứa đối với

71

cái đầu của em rồi. Em không muốn những lời nói của mụ béo kia tiếp tục

nhồi vào hai tai làm bộ não em nổ tung ra mất. Em đi như chạy về nhà. Em

vứt con cá quả xuống đất rồi leo lên giường nằm. Em không khóc. Đã từ lâu

rồi em không còn nước mắt nữa. Em cứ nằm ngửa mà nhìn trừng trừng lên

trần nhà. Lòng em như có nước chảy. Bà thấy em vậy, lại gần em, nắm tay

em, nhìn em như hút nước. Bà nghĩ em bị ai nói gì đó nên buồn. Bà bảo em

ra chợ để công việc bán buôn làm em quên đi tất cả. Nhưng bà có biết đâu

chính chợ búa là nơi em bị người ta hắt hủi, cạnh khóe, chế giễu, chửi rủa.

Bà ơi, sao nhà mình lại chán thế hả bà? Tổ cha mày, chán gì mà chán, đất

này nhà nào chả thế? Sao đất này lại thế? Thì nó là đất nghịch mà. Sao nó

lại là đất nghịch? Thì từ ngày xưa bà đã nghe các cụ kể thế. Kể làm sao hả

bà?”[117, tr.132].

Đây là đoạn độc thoại của cô bé Diệu tự nói với chính mình, sau đó là

quãng đời là sát thủ giang hồ khét tiếng. Đoạn độc thoại đã cho thấy những

ẩn ức mà cuộc đời đem lại cho Diệu, đẩy Diệu vào đường cùng, muốn sống

sót ở đất ngã ba sông buộc phải mạnh mẽ để tự bảo vệ mình.

Đó còn là tiếng nói vô thức biểu hiện qua giấc mơ của Thạch: “Giấc

mơ ấy đến vào lúc tôi sắp ngủ dậy. Tôi và bố ở trong một ngôi làng nhỏ.

Làng có rất nhiều đàn bà, chỉ có tôi và bố là đàn ông. Bố cứ gào thét bắt tôi

đóng cửa làng vào: Không cho bọn đàn ông làng khác mò vào, nó sẽ lấy hết

đàn bà làng mình. Nhưng rồi tôi đã không làm gì cả. Và ngôi làng trở nên

vắng tanh. Tôi ngồi trên một đống rơm khô còn bố ngồi vắt vẻo trên một

cành cây và nhìn tôi bằng đôi mắt rất buồn. Tôi gọi bố xuống chơi với tôi,

đừng ngồi trên cao như thế, sẽ ngã gãy cổ mất. Bố bảo nhục lắm không

xuống đâu. Tôi hỏi lại bố rằng có gì mà nhục. Bố chỉ ra xung quanh: mọi

người đi hết rồi. Tôi bảo tại vì lúc nào bố cũng cầm sợi thừng to thế kia. Họ

không chịu nổi sự đánh đập của bố. Bố đưa sợi dây thừng ra và bảo bố sẽ

dùng chính nó để tự tử. Vừa nói bố vừa làm thành cái thòng lọng. Bố không

72

muốn sống nữa. vậy làm thế nào bây giờ? Tôi hỏi bố. Con hãy đốt đống rơm

ấy lên. Nếu nó không thiêu cháy con thì đàn bà làng này mới trở về. Bọn con

trai làng khác chịu nóng rất giỏi. Con phải giỏi như chúng nó…” [115,

tr.172]. Giấc mơ là nỗi ám ảnh không nguôi của Thạch và bố sau bao nhiêu

năm mẹ Thạch bỏ rơi bố con đi tìm hạnh phúc riêng, nỗi đau ấy cứ nhức

nhối, rỉ máu không nguôi.

Quỳnh trong Kín vốn là một cô bé cành vàng lá ngọc nhưng trớ trêu

thay số phận lại đưa đẩy cô vào góc khuất cuộc đời. Khi không tìm được sự

cảm thông, sẻ chia từ người thân, người yêu, bạn bè, Quỳnh có xu hướng tự

trấn an bản thân. Những đoạn độc thoại chủ yếu là lời tâm sự của cô với

người mẹ đã mất - người gắn bó với cô nhất. Qua những đoạn độc thoại đó

cho ta thấy sự khủng hoảng trong tâm hồn nhân vật: “Mọi người vẫn khen

con xinh. Con xinh vì con giống mẹ. Da thịt con vẫn căng tràn vì con mới

bước vào độ tuổi đôi mươi. Tóc tai, quần áo, đồ nữ trang, mỹ phẩm giúp con

nổi bật trong đám đông. Nhưng con không nghĩ ngợi nhiều về cái vẻ bề

ngoài. Đó chỉ là hình thức. Hình thức ấy không cứu nổi một nội tâm đang

thao thức bởi sự chết. Tim con đang vỡ và những mạch máu đang sủi bọt

trong lồng ngực. Con không có được cảm giác bình an” [116, tr.13].

Ngoài những đoạn độc thoại nội tâm còn là những đoạn đối thoại nội

tâm, nhân vật thường tự phân thân hay đối thoại với một nhân vật khác trong

ý thức, tâm tưởng để tìm được sự đồng cảm, sẻ chia hay giãi bày những ẩn

ức. Những đoạn đối thoại nội tâm này xuất hiện dày đặc trong Phiên bản.

Hương ga là một trùm xã hội đen có tiếng, là thủ lĩnh số một nơi ngã ba

sông nhưng lại không tìm được tri kỉ để giải toả những oan ức, hiểu lầm

trong cuộc sống, cô yêu Nhân tha thiết nhưng cũng không dám mở lòng

trước Nhân. Nhưng sâu thẳm trong trái tim, tiếng nói yêu thương dạt dào với

Nhân luôn ngân nga đầy yêu thương nhưng cũng vô cùng xót xa: “Lần đầu

tiên em được ngồi sau xe máy của một người con trai. Mà người ấy lại đang

73

mang trên mình bộ sắc phục cảnh sát. Em chợt nghĩ: Tại sao người đó lại

không phải là anh nhỉ?” [117, tr.195].

Sau quãng đời lầm lạc, Hương ga luôn tự vấn chính bản thân mình. Để

làm sáng tỏ chính tâm hồn mình, cô không ngại tự vấn chính bản thân mình

qua những lời đối thoại với ánh trăng:

“Nữ hoàng? Ha, ha... Mi hãy nhìn lại mi một lần nữa đi. Mi có khác

gì một xác chết, và đế chế của mi, khác gì bong bóng xà phòng đang tan ra

thê thảm. Mi hãy sám hối đi. Mi chỉ còn thời gian để sám hối về những việc

mình làm. Mi không còn nhiều thời gian để tranh cãi với ta nữa đâu. Ta ở

đây là để giúp mi. Mi hiểu không?

- Giúp ta?

- Phải. Giúp mi sám hối về những việc mi làm. Giúp mi thanh lọc tâm

hồn, tẩy rửa những cặn bã trong cái đầu đang tê liệt bởi hai vì sao lọt vào

miệng mi đêm qua.”

“Sao ngươi lại đọc cho ta nghe câu ấy? Ngươi muốn bằng cách đó để

đánh thức trí nhớ trong ta, để ta có thể nhanh chóng nhận ra mình là ai ư?

Nó chỉ làm ta nhớ ra một con người mà ta đã gặp, đó là thằng Chín tháng.

Nhưng đó chỉ là một mảnh vụn ký ức thôi. Ta còn phải nhặt lên bao nhiêu

mảnh vụn như thế nữa thì mới sắp xếp nổi một hình hài có tên gọi là Ta?

Sao ngươi cứ thích nói nhiều đến hai từ tội lỗi thế? Thằng Chín tháng cũng

cứ đi tìm hoài những cái thật ngớ ngẩn chứa đựng bên trong hai từ Tội

phạm. Nó học cả đời mà cũng chỉ để lý giải hai từ ấy. Nhưng rõ ràng là nó

vẫn không lý giải được. Bằng chứng là trong những công trình nghiên cứu

của nó, khi những thao tác khoa học không giúp nó tiếp cận được chân lý,

nó phải vịn vào Chúa Trời. Mà Chúa thì toàn nói những điều không thể hiểu

nổi. Đấy, người cứ đọc lại mà xem, “bởi một người mà tội lỗi vào trong thế

gian”, “lại bởi tội lỗi mà có sự chết”, “sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi

người”, “mọi người đều đã phạm tội”. Ha, ha... Đấy, trúc trắc, quẩn quanh,

74

lộn ngược, lộn xuôi rồi lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Biết hiểu thế

nào nhỉ? Ta vẫn hình dung rằng, thằng Chín tháng đang cầm hai tay hai con

dao mổ, một con là khoa học pháp lý, một con là ánh sáng Thiên Chúa để

khám nghiệm tế bào ung thư có từ khi loài người xuất hiện, ấy là Tội phạm,

thế nhưng nó đã cắt rạch được những gì, đã chẩn đoán ra sao, đã quy nạp

diễn giải thế nào, đã kết luận được vì sao tế bào ấy vẫn tiếp tục di căn?

Chưa! Nó chưa tìm ra được điều gì cả. Nó đang loay hoay và chết chìm

trong sở thích khoa học có khởi nguyên mà không có kết thúc ấy. Ngươi giải

đáp giúp nó đi. Ngươi mầu nhiệm đến mức có thể khôi phục lại sự suy tàn

của trí nhớ, có thể huy động được những mảnh vụn ký ức để tái tạo nên một

linh hồn, lẽ nào ngươi không chỉ ra được cho nó cái mà nó đi tìm là gì?”

[117, tr.206-207].

Qua những đoạn đối thoại và độc thoại nôi tâm, Nguyễn Đình Tú đưa

người đọc đi xuyên suốt quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật để hiểu về thế

giới tâm hồn sâu kín của con người. Mỗi con người là một vũ trụ khép kín, để

lý giải những hành động cũng như cuộc đời họ cần tìm hiểu những nguyên

nhân sâu xa thúc đẩy nhân vật hành động. Nguyễn Đình Tú đã rất tinh tế, sâu

sắc và am hiểu con người mới có thể xây dựng một thế giới nhân vật cùng với

thế giới nội thâm phong phú, không ai giống ai. Nó là minh chứng cho tài

năng và nỗ lực sáng tạo không người của nhà văn với đời với nghề.

3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú

3.3.1. Ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục

Dấu ấn Phân tâm học được thể hiện trực tiếp, rõ nét qua ngôn ngữ tiểu

thuyết của Nguyễn Đình Tú. Là một nhà văn không hề né tránh các vấn đề

nhạy cảm như vấn đề giới tính, tình dục mà còn khai thác nó như một yếu tố

đặc biệt quan trọng đối với sự sống nhân loại, Nguyễn Đình Tú đã sử dụng

ngôn ngữ như một phương tiện đắc đụng để thể hiện hành động, ngôn ngữ,

75

cử chỉ mang đậm màu sắc Phân tâm học. Qua đó, nhà văn thể hiện được

những ý tưởng mới mẻ và táo bạo của mình. Khảo sát dấu ấn Phân tâm học

trong ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, người viết nhận thấy nó thể

hiện rõ nét ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục.

* Ngôn ngữ hiện thực táo bạo, miêu tả trần trụi, chạm thẳng vào vấn

đề nhạy cảm

Trong Nháp, những trang miêu tả hoạt động tình dục chiếm phần lớn

dung lượng của cuốn tiểu thuyết. Có lẽ bởi đó mà nó bị coi là cuốn sách có

nội dung đồi trụy và gây nhiều tranh cãi trên giới văn đàn. Đặc biệt, cuốn

tiểu thuyết còn viết về cả hoạt động tình dục sa đoạ giữa những kẻ cùng giới.

Nhà văn muốn hướng đến lý giải nỗi ám ảnh cay đắng đã đeo đuổi nhân vật,

khiến nhân vật đi chệch hướng. Thạch không tìm được sự thoả mãn tình dục

ở Yến và Menloni bởi sự ám ảnh nhược tiểu nên đã tìm đến với Galacloai. Ở

Galacloai, với sự lạm dụng thuốc kích dục, anh đã trượt một vết dài vào con

đường lầm lạc, bệnh hoạn. Những trang văn miêu tả trực tiếp và nửa trực

tiếp những đoạn làm tình của hai nhân vật này phần nào đã chuyển tải được

dụng ý của nhà văn “phủ định cái đẹp tuyệt đối và khước từ tính giao lệch

lạc”: “Rồi rắn trườn xuống lùa vào trong chiếc quần lót mỏng mảnh đang

bám hờ hững ở phần dưới eo. Bằng một động tác rất nhanh và gọn, rắn tháo

tuột tấm lót ấy ra khỏi người tôi. Vật dương tôi căng cứng. Hình như tôi

nhìn thấy tượng sinh thực khí ở góc phòng ngả nghiêng, lay động. Nào ly

thứ chín. Hai thanh niên Nhật đã nằm xuống tấm đệm đặt ở giữa phòng. Họ

dùng bờ môi nâng đỡ nhẹ nhàng thiên thần nhỏ bé của nhau. Trong tư thế

nằm tráo đầu đuôi, thiên thần nhỏ bé của cả hai đều được mơn trớn vuốt ve,

đều được chiều chuộng bởi bờ môi mềm và mảnh, lưỡi không ngừng khua

khoắng. Nào ly thứ mười. Tôi nằm vật ra giường, mắt lim dim nhớ tới giỏ

hoa mộc miên của Yến. Tôi không còn là cái giỏ rỗng không nảy tưng tưng

trên triền núi, rơi tun hút xuống khe sâu nữa. Cái giỏ đã được xếp vào đó

76

đầy những nụ hoa hình đài sen và tôi phải rướn lên trước những cú ngậm

rợn người của rắn. Chắc chắn ngẫu tượng linga ở góc phòng cũng đang

hứng tình vì tôi thấy chúng nó không ngừng động đậy. Ly thứ mười một,

mười hai, chai rượu được chuyển lên góc tủ đầu giường. Rắn không rời tôi

ra nữa. Rắn ngậm chặt vật dương của tôi trong cái miệng toả ra thứ từ

trường cảm xúc mê đắm. Cũng cái miệng này chà đi xát lại trên hai đầu vú

săn chắc của tôi, làm mềm tan những đầu dây thần kinh ở đó” [115, tr.190].

Nguyễn Đình Tú không hề né tránh, không ngần ngại dùng ngôn ngữ miêu

tả trực tiếp những cảnh làm tình, giao hoan giữa Thạch và Meloni. Ngôn ngữ

miêu tả tình dục một cách trần trụi được sử dụng một cách triệt để trong

Nháp:“Để nguyên thân thể mát rượi như thế cô nhảy lên giường với tôi.

“Anh mang bao chưa?”. “Từ từ đã chứ”. Đôi vú bánh dầy khá căng. Thân

hình lẳn. Cặp đùi hơi ngắn. Khuôn mặt hơi bầu bĩnh và đôi mắt có những

ánh nhìn rất trẻ. Đủ hứng thú. Tôi lao vào cô gái. Nhưng cô không hào hứng

lắm với giai đoạn khởi đầu. Cô lại hỏi tôi “Bao đâu?”. Tôi đứng dậy lục túi

quần lấy condom đưa cho cô ta. Rất nhanh, cô lấy nó ra khỏi lớp túi bằng

giấy bạc (…). Ngay khi tôi dừng lại, lập tức cô gái buông tôi ra, tay cô đưa

xuống nắn đầu bao cao su. Chắc chắn đã đáng đồng tiền cho sự nhàu nhò

tấm thân của mình rồi, cô nhảy ngay xuống giường, tót vào nhà tắm” [117,

tr.174].

Bằng ngôn ngữ hiện thực, chạm thẳng vào những vấn đề nhạy cảm,

cây bút táo bạo Nguyễn Đình Tú đã tái hiện trước mắt người đọc đời sống

sinh hoạt tình dục của giới trẻ hiện đại. Nhà văn không ngần ngại vạch trần

những tiêu cực, mặt trái trong lối sống của giới trẻ để cảnh tỉnh, báo động

cho họ. Có lẽ chính bởi cách sử dụng ngôn ngữ trần trụi, táo bạo, thẳng thắn

nên đã có không ít những tranh cãi xoay quanh tiểu thuyết của anh. Tìm hiểu

ngôn ngữ trong tác phẩm của anh, người viết cho rằng cần có cái nhìn khách

quan, đúng đắn để hiểu được những thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải.

77

* Ngôn ngữ ẩn dụ, tượng trưng gợi cảm xúc ái ân

Ngoài những đoạn văn miêu tả trực tiếp, Nguyễn Đình Tú còn thành

công trong những đoạn văn miêu tả hoạt động ân ái lãng mạn, đậm chất thơ.

Những câu văn miêu tả sex trong Phiên bản khá tài hoa. Đó là đoạn văn

miêu tả cảnh giao ái của Hương ga và Tư mã - một kẻ giang hồ người toàn

hình xăm. Tác giả đã dựa theo những hình xăm trên người Hưng để miêu tả

phút giây nồng nàn của đôi lứa: “Rồi Hưng lần mò tháo cởi mọi thứ còn lại

trên cơ thể em. Nào là đàn sẻ ri bay qua người em. Nào là mặt trăng phủ

ánh vàng lên người em. Nào là ông mặt trời chiếu ánh nắng vàng gay gắt

lên người em. Nào là Đức Phật hiện ra đưa em về miền cực lạc. Nào là

những con rết thả nọc độc vào từng mạch máu của em. Bức hoạ bì đưa lại

cho em tất cả các loại cảm giác ấy. Em quằn quại, rên xiết dưới làn da

Hưng. Bức hoạ bì bọc kín em lại, vò xé em, lật em nghiêng ngửa, cuộn vào

rồi lại trải ra, úp xuống rồi lại ngược lên, xô đẩy, công phá hàng vạn tế bào

ở em nở tung ra.” [117, tr.156]. Đoạn văn đã tạo nên những mỹ cảm đẹp đẽ

trong lòng người đọc về những khát vọng chính đáng của con người. Nhà

văn cũng có phần ưu ái cho Diệu-Hương ga, mỗi khi viết về cảnh quan hệ

của Hương ga với những người đàn ông đi qua đời cô dù tự nguyện hay

không tự nguyện, Nguyễn Đình Tú đều sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, tượng

trưng, ám chỉ hoạt động tình dục. Cũng có những đoạn văn miêu tả sex gián

tiếp nhưng cũng gây nên ám ảnh cho người đọc. Đó là cảnh Diệu bị bọn

cướp biển hãm hiếp tập thể: “Người em như bị bóng đè, toàn thân căng ra,

không sao cựa quậy được. Một cái gì đó thật là khủng khiếp thọc vào người

em. Em đau đớn đến ngất lịm đi. Và em lại tỉnh dậy và thấy mình liên tục bị

nhồi trên đầu sóng. Trên em, dưới em là hai, ba con giao long đầu người

đang gào rú những tiếng quái đản, ngập ngụa nhục dục. Ôi chao, em thấy

người mình như bị xé ra với mênh mang nước”(Phiên bản). Hay cảnh

Hương ga bị Tuấn chợ làm nhục: “Em thấy mình như đang dập dềnh trên

sóng nước. Cơ thể em đang nằm dưới một con giao long gớm nghiếc. Những

78

cẳng tay, cẳng chân đầy lông lá của nó đang nghều ngoào quắp lấy em. Con

giao long ấy đang tìm cách xé rách em. Da thịt em căng ra như mặt trống.

Móng vuốt của giao long không ngừng cào lên bề mặt căng nhức ấy, tạo

những rung vang đau đớn khắp người em. Con giao long vẫn đang mê mải

tìm cách xé rách em từ phía dưới, vết rách ấy sẽ làm em chết mất. cảm giác

này em đã trải qua một lần rồi, ở đâu thì em không nhớ, nhưng đó là điều

mà em khiếp đảm nhất. Em vẫn đang cố chống đỡ nhưng em sắp bị khuất

phục rồi. Con giao long đang vô hiệu tứ chi em. Hai đùi dưới em đã bị

khống chế rồi. Một lưỡi dao lửa thốc thẳng vào hai đùi em, xoáy sâu vào

tâm can em, tạo một vết lửa xém lên tận đỉnh đầu em. Nỗi kinh hoàng nhất

đã diễn ra. Em không sao chịu nổi. Con dao lửa cứ khua khoắng trong

người em, lem lém, nhức nhối, hơ đốt, buốt rát. Em cố nhấc đầu lên, há mồm

ra đớp không khí. Và trong ánh nhìn lờ mờ, em thoáng thấy có chiếc rìu

đang để ở ngay tầm tay với của em. Em cầm chiếc rìu đó lên, bổ thật mạnh

vào người con giao long. Không một tiếng hét hay sự quẫy đạp khủng khiếp

nào diễn ra. Con giao long đổ gục xuống, tuột khỏi em, nằm lù lù như một

đống thịt trên mặt đất.” [117, tr.61]. Trong Phiên bản, có mẫu số chung

xuất hiện đó là mỗi khi Diệu gặp phải biến cố về tình dục thì hình ảnh con

giao long - thuỷ quái lại xuất hiện. Dường như con giao long là tượng trưng

của bạo lực trong tình dục.

Hay đoạn miêu tả cảnh thác loạn của Quỳnh và nhóm bạn trong Kín:

“Nến được châm lên. Lò đốt trầm cũng bắt đầu toả hương. Nhạc chầu văn

tha thướt như suối nguồn trong núi chảy ra xen lẫn với các giai điệu rốc

đùng đoàng… Khỉ không còn biết mình là ai và không nhớ nổi bất cứ điều gì

nữa kể từ khi tấm vải điều trên đầu rơi xuống và những mảnh áo giấy lần

lượt bị giật ra khỏi người. Chó cắn, lợn cào, hổ vồ, gà mổ, ngựa đá, rồng

lượn, rắn bò, trâu húc, chuột gặm, mèo vờn… Cảm giác nóng bỏng, căng

cứng làm khỉ như muốn bốc thành ngọn lửa thiêu cháy hết tất cả mọi thứ

xung quanh. Bất cứ con giáp nào đến với khỉ cũng nhận thấy xúc cảm mạnh

79

mẽ đang dâng trào mãnh liệt từ sau tấm mặt nạ vô hồn kia. Chó - mèo lăn xả

vào nhau cùng thứ âm thanh nồng nàn ma quái hắt ra từ hai chiếc loa thùng

để góc nhà. Rồng - rắn cũng quấn lấy nhau, rập rình theo điệu trầu văn tha

thiết” [116, tr.358].

Những đoạn văn miêu tả gián tiếp để tránh cảm giác thô tục về cảnh

quần hôn của Quỳnh và nhóm bạn song lại gây ám ảnh, ghê rợn trong lòng

người đọc về sự thác loạn, ăn chơi sa đoạ, trác táng của giới trẻ. Đó là một

hiện tượng đáng buồn trong lối sống của một bộ phận thanh niên. Đó là sự

xuống cấp trầm trọng về nhân cách, băng hoại về đạo lý cũng là sự khủng

hoảng niềm tin và lý tưởng của một bộ phận giới trẻ.

3.3.2. Giọng điệu

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu được định nghĩa là

“Thái độ, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng

được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,

sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã,

ngợi ca hay châm biếm (…) giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ

tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên

phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng

điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài

liệu và sắp xếp hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu và

ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng,

xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngưng. Giọng điệu là một phạm

trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện

hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác

phẩm gắn với cái giọng điệu trời phú của mỗi tác giả nhưng mang nội dung

khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể hiện” [48, tr.135-136]. Việc

tạo ra giọng điệu nghệ thuật riêng là nỗ lực không ngừng của mỗi nhà văn.

Tổng hòa các sắc thái giọng điệu trong một tác phẩm, người đọc sẽ có cơ sở

80

quan trọng để đánh giá phong cách, sắc thái tình cảm của người viết. Nhìn từ

góc độ tương tác thẩm mĩ với yếu tố tính dục, ta thấy tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú nổi bật với bốn kiểu giọng điệu cơ bản: bỗ bã, trào lộng; đắng chát

triết lí; hoài niệm xót xa và giọng vô âm sắc.

* Giọng điệu bỗ bã, trào lộng

Tiểu thuyết đương đại áp sát vào đời sống, tiếp xúc suồng sã đến thô

bạo hiện thực với sự mở rộng các phạm trù thẩm mĩ, đời thường hóa chúng.

Ở đó, cái xấu không dè dặt né tránh mà thể hiện dưới hình thức những cái

hài đời. Khi những chuẩn mực bị lệch pha, cái hài, qua giọng điệu bỗ bã,

trào lộng, tích cực góp phần nói lên cái vô nghĩa lí ở đời. Viết về lối sống

của thế hệ trẻ và văn hóa tính dục ở họ, Nguyễn Đình Tú, qua lăng kính hiện

thực, xoáy vào tận cùng cái chua cay, vào vết thương đang sưng tấy của

những ẩn ức bản năng.

Mẹ Thạch - người đàn bà không chịu nổi cuộc sống thiếu thốn “son

phấn”, ở lại xứ người mà quên đi tổ ấm nhỏ, chỉ vì cái công cụ sinh sản của

đàn ông Đức, chỉ vì thoả mãn dục tính của mình, để lại vết thương sâu hoắm

trong lòng cha con Thạch cùng nỗi ám ảnh nhược tiểu giống loài. Vết

thương đó còn lấy đi cái nhân cách mà đáng lẽ sẽ định hình tốt trong người

con trai. Bằng giọng điệu khinh thường, cười cợt nhưng cũng đầy trăn trở,

cái xót xa, vô nghĩa trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú nổi lên trong thế đối

lập giữa tình thương và tình dục: “Chẳng lẽ người phụ nữ nào đi Tây cũng

bỏ chồng chỉ vì cái của nợ ấy của những người đàn ông phương Tây? Nếu

thế thì chán cho cái giống người Việt quá. Chán cho cái của quý ấy của đám

đàn ông nước mình quá” [117, tr.23-24].

Ở người bố, niềm tin vào sự chung thủy của vợ cũng đồng nghĩa với

sự hi sinh, nhưng đáp lại tấm lòng yêu thương đó là cái nhìn “tởm lắm” của

kẻ đầu ấp tay gối. Tình yêu lúc này trở thành không tưởng trước sự phản bội

của người đàn bà khát dục: “Bố tôi như bao người đàn ông mất vợ khác, tin

81

vào tình vợ chồng của mình, tin vào điều viển vông rằng, sự khốn nạn ấy xảy

ra với ai chứ không xảy ra với mình” [117, tr.24].

Từ bi kịch gia đình, Thạch biến thành kẻ mang bi kịch tình yêu lứa

đôi. Những ám ảnh nhược tiểu ám vào suy nghĩ ngày càng bấn loạn của anh.

Bệnh hoạn với thú vui riêng, Thạch trở thành nạn nhân của xã hội cùng lối

sống ngày càng xa rời mọi giá trị và chuẩn mực. Với vẻ bề ngoài đĩnh đạc,

văn minh, Thạch cố che đậy cái thú bệnh hoạn luôn ám ảnh trong ý nghĩ.

Qua giọng điệu trào lộng, tác giả để nhân vật tự bộc lộ, tự dè bỉu sự trống

rỗng trong giá trị con người của mình: “Nhưng tôi không dám chường mặt ra

để gặp ai cả. Tôi phải giữ gìn danh phận của mình” - một phóng viên chuyên

viết về pháp luật của một tờ báo vốn ra đời là để “góp phần chăm lo, bảo vệ

hạnh phúc gia đình như một thực thể cấu thành nên xã hội”.

Đối với Thạch, tình yêu bao hàm cả tình dục, nhưng chính anh đã đẩy

tình dục vào cảm xúc riêng lẻ của thỏa mãn đơn thuần: “Mười bốn tuổi Đại

đã yêu. Cậu ấy khẳng định như thế. Tôi thì không nghĩ đó là tình yêu. Một

thằng bé mười bốn với một cô bé mười hai thì đã biết gì mà yêu? Hơn nữa

tôi vẫn luôn cho rằng tình yêu phải bao hàm tình dục. Đại đã khám phá

được những gì của cảm xúc bản thân vào cái tuổi ấy” [115, tr.67].

Dù sao thì tình yêu đó vẫn tồn tại mãi trong Đại. Nhưng bản năng tình

dục của một người đàn ông đã chiến thắng tiếng nói của con tim, Đại nhớ

nhưng Thảo nhưng vẫn đến với Duyên họ khám phá nhau ở bờ hồ và chuyện

đó còn tiếp diễn trong suốt hành trình dài. Ở Đại tình yêu và tình dục song

song nhưng không cùng nhau. Anh dành cho Thảo cái tình trong trắng,

không nhuốm màu nhục dục. Còn việc anh đến với Duyên lại là sự cuốn hút

giới tính thân quen. Trước sự phũ phàng, tự làm đau mình trong niềm tin vẻ

đẹp tuyệt đối ở Đại, Nguyễn Đình Tú để người trong cuộc tự nói lên cái trớ

trêu trong quan hệ của mình: “Thật chả ra làm sao! Đi ra biển hú hí với

82

nhau, đã chẳng hứng tình lên được lại đem viên ngọc của người kia ra ngó

nghiêng thì có ngao ngán không cơ chứ?” [117, tr.132].

Nguyễn Đình Tú đã sử dụng cách nói như bâng quơ, hồn nhiên, để từ

đó, tác giả cho thấy ý vị thâm trầm, sâu cay từ cái xấu xa, phi lí của cuộc

sống. Đặc biệt, vấn đề vốn được xem là nhạy cảm, qua chất trào lộng, đã

vượt ra khuôn khổ “kín”, phơi bày tất cả hỉ, nộ, ái, ố với đời. Trước cái gọi

là tình yêu, Nguyễn Đình Tú cho ta thấy sự vô nghĩa lí ở chính nơi con

người được sống là mình nhất.

Tính trào lộng, mai mỉa sự giả dối, hai mặt, đê tiện thể hiện rõ ở Hưng

“mã” với ý nghĩ dựa vào nhau mang đầy nhục dục, đầy toan tính của y.

Nhưng bản thân sự giả dối đó rất hợp tình đối với trái tim cô đơn của Diệu.

Chính trong hoàn cảnh ấy, cái phi lí trở thành có lí. Đẩy người yêu vào tình

một đêm để thu xếp công việc, đấng nam nhi là Hưng còn có thể làm chỗ

dựa cho “người yêu”. Điều đó cho thấy cái khốn nạn của một kiếp người mà

Diệu phải vịn vào: “Ông Hưng là khôn nhất...Chỉ được cái lỗ mồm. Kẹt sỉ

nhất trần đời. Mà chả tốt đẹp đéo gì với mày đâu. Đã lại thấy cặp kè với

mấy con bớp ở ga rồi đấy” [116, tr.190].

Trong thế giới hoang hoải, lạc loài của Kín, Quỳnh và những kẻ xung

quanh cô sống buông thả bản năng đến rùng mình. Chủ động dùng tình dục

để thấy được sự hiện hữu của bản thân, Quỳnh và câu chuyện tình dục của

mình đi ngược lại các chuẩn mực đạo đức, toát lên sự trào lộng vào nhân

cách của một thế hệ.

Lấy câu triết lí của cha ông mà vin vào đời sống tình dục phóng

khoáng trong Kín, cái giọng giễu nhại, bỗ bã châm biếm của tác giả ý nhị

nhưng sâu xa vô cùng: “Các cụ nói cấm có sai. Lửa gần rơm lâu ngày cũng

bén. Nhốt một trai một gái vào chung một nhà thì cái chuyện yêu đương nhất

định phải xảy ra” [116, tr.212]. Và nghịch lí của khát khao, của vị thế tình

dục ở nam giới qua hình ảnh ví von xưa là cái cười buồn về sự khác thường

83

của giới trẻ nay:“Mỗi khi Tráng bước ra từ phòng tập, Quỳnh luôn có cái

cảm giác miếng tóp mỡ ngào ngạt đang lướt qua mặt mèo” [116, tr.213].

Trước bao sự thay đổi của giá trị, tình yêu đúng nghĩa là điều khó có

thể tồn tại; ở đây chỉ có thể là cảm xúc của tình dục. Mà tình dục chỉ để thỏa

mãn cơn khát tình. Tính dục phóng khoáng được nói một cách hồn nhiên,

bật lên cái cười trào lộng sâu sắc: “Cách khỏa lấp tốt nhất hình bóng một

người con trai cũ là mang về nhà mình một người con trai mới”.

Cái vô nghĩa lí tồn tại trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú với tất cả các

cung bậc qua giọng điệu trào lộng tạo nên bức tranh phi lí, ngổn ngang thể

hiện bao điều trăn trở của tác giả. Chỉ có điều, dẫu giọng điệu của Nguyễn

Đình Tú trào lộng, chua cay nhưng vẫn nồng ấm trong khắc khoải một cuộc

sống tươi sáng hơn.

Giọng bỗ bã, trào lộng như tự nhiên, có khi hóm hỉnh nhưng đôi lúc

lắm mỉa mai, chua chát. Bằng cách ấy, nhân vật của nhà văn hiện lên với

những cảm xúc trần trụi nhưng có ý nghĩa nhân sinh lớn lao. Nó không chỉ

trả con người về với những khát vọng nhân bản, khát vọng của cái đẹp mà

còn phản ánh một thế giới hỗn loạn, vô nghĩa lí. Ẩn sau tất cả các sắc thái

của giọng bỗ bã, trào lộng là khát khao những giá trị nhân văn ở con người.

* Giọng điệu triết lí đắng chát

Với tiểu thuyết hiện đại, nhà văn không chỉ nhìn thấy hiện thực ở bề

mặt cuộc đời mà còn tìm hiện thực ẩn chìm bên trong con người, soi ngắm

số phận cá nhân để khái quát những vấn đề nhân thế. Tác phẩm thường được

cấu trúc như dòng chảy của lịch sử tâm hồn với điểm nhìn của người trần

thuật thiên về khám phá, chiêm nghiệm. Giọng điệu triết lí được đan dệt từ

lời nhân vật, phối hợp những tâm tư, trải nghiệm ở nhà văn nhằm diễn tả sự

phức tạp, nhiêu khê của cuộc sống mà con người không thể lường hết.

84

Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, sắc điệu triết lí toát lên khi đề cập

đến những vấn đề phức tạp trong cuộc sống, trên hành trình nhân vật khắc

khoải đi tìm những giá trị đích thực cùng những bày tỏ và nhận định khái

quát của tác giả về con người, về cuộc đời. Sự gắn bó với “cô người yêu bé

nhỏ” của Thạch cũng là sự lớn lên từng ngày của Yến. Chính quá trình hiểu

nhau đó lại khiến mối quan hệ đậm mùi nhục cảm của họ đi vào ngõ cụt.

Hơn ai hết, Thạch đã xót xa nhận ra cái kết cục hiển nhiên đó: “Yến đã

trưởng thành rồi. Con chim đã mọc đủ lông đủ cánh rồi, nó phải bay theo

những đường lượn của riêng nó, không thể cứ bắt nó lượn duy nhất một kiểu

trước tổ ấm của mình” [117, tr.81]. Cái chua chát, hoài nghi về cuộc đời và

con người xuất phát từ trải nghiệm nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt, những phát

biểu có tính khái quát ấy thường được lồng vào lời nói, suy nghĩ của nhân

vật một cách tự nhiên.

Với cách nói ví von giàu tính suy ngẫm, chiêm nghiệm, Nguyễn Đình

Tú sử dụng cái nghịch dị để thể hiện sự hỗn tạp, trớ trêu của cuộc đời. Ở đó,

cảm giác cuộc sống thật như một trò đùa để hoài nghi tất cả: “Và sau khi

sinh hoạt, thằng nào cũng ngỡ bạn tình của mình chỉ là một con bò cái ngu

muội, còn mình là người đã nắm chắc chiếc dây thừng trong tay”[117,

tr.165].

Tình dục từ xưa được xem là đặc quyền của phái mạnh, mà phái nữ

chỉ có thể bị động trong cảm xúc. Nhưng ở thế giới hiện đại với sự phát triển

không ngừng của phái nữ, ý thức phái tính ngày càng bộc lộ mạnh mẽ. Sự

bình đẳng giới đưa đến đời sống tình dục mới, đôi khi phái yếu lại là người

làm chủ, giữ thế thượng phong.

Đời sống phát triển theo nhiều dạng thức, trong đó nổi bật lên với cái

gọi là mua bán “khoái cảm trần gian”. Thấu cảm điều này, Nguyễn Đình Tú

một mặt hiểu được sự vô nghĩa lí của ham muốn và thỏa mãn, mặt khác

thấm thía được cái xót xa, bi đát của những chung chạ kiểu nắng sớm mưa

85

chiều: “Cái trò ăn bánh trả tiền có bao giờ nhuốm màu lãng mạn đâu? Cục

súc lắm, thô thiển lắm, tởm lợm lắm, thói đời xưa nay thế cả, mới mẻ gì đâu

mà giả dạng ngỡ ngàng, bực bội?” [117, tr.175].

Đằng sau mỗi câu chuyện tính dục là những suy tư về cuộc sống, về

con người, về tình yêu và hạnh phúc. Ở đó, tình yêu và tình dục chưa hay đã

hòa hợp thì khao khát muôn đời của con người vẫn là được sống, được yêu.

Mỗi trang văn, vì thế, là những suy nghĩ, những trăn trở, day dứt khôn nguôi

của một cây bút đầy nhiệt tâm, giàu trải nghiệm.

Triết lí về bản thể cũng lặp đi lặp lại trong tiểu thuyết Nguyễn Đình

Tú. Sau những dòng thổn thức nhẹ nhàng nhưng cuộn trào bởi bản năng là

tiếng nói rất người. Sự hòa hợp giữa tình và cảnh là những thổn thức của tự

nhiên mà chính những lúc cô đơn con người càng khát khao giao hòa nhất:

“Mùa đông thường đem lại cho Kiên sự tủi thân. Trong cơn lạnh giá, dường

như con người ta cảm nhận rõ sự cô đơn hơn. Và mỗi khi mùa đông đến,

trong lớp chăn ủ ấm, Kiên nhận ra sự rạo rực khác thường của cơ thể”

[116, tr.200].

Sự cô đơn trong bản thể còn ở dạng không thể hòa hợp như quy luật

vốn có mà đi theo một lối khác vì “xét cho cùng là lỗi ở thượng đế chứ đâu

phải lỗi ở Tráng”. Đối với Tráng, Quỳnh có cảm giác ngưỡng vọng, như

đứng trước những gì chính cô không lí giải được: “Tráng là một chàng trai

trong sạch, thánh thiện và tinh khiết đến vô trùng. Những cái gì thánh thiện

người ta thường vọng tâm tôn thờ hơn là kéo vào lòng mình mà yêu thương,

ôm siết, cắn cấu” [116, tr.283]

Đi tìm bản thể, nhân vật tiểu thuyết đương đại thường rơi vào tâm

trạng cô đơn, khủng hoảng. Con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

cũng vậy, sau những giờ phút đối diện với bản thể họ đã tìm cái chết hay thả

mình vào những ham muốn vô độ, bệnh hoạn như một lựa chọn thích hợp.

Thực tại hiện tồn trở nên vô nghĩa. Mỗi tác phẩm là một cuộc tìm kiếm bản

86

thể đầy giằng xé. Ngẫm, suy, triết lí… chính là một trong những yếu tố đậm

nổi, chúng làm thành một giọng chủ đạo trong bản hợp âm nhiều chất giọng

của nhà văn.

Giọng triết lí trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không diễn đạt một

cách ồn ào mà đắng chát qua từng số phận, từng tình huống nhân vật để từ

đó bật lên cái chiêm nghiệm sâu cay của những ẩn ức: “Bao nhiêu đêm thần

tiên chế ngự tôi rồi. Bao nhiêu đêm bản thân tôi chế ngự tôi rồi. Đêm nay để

quỷ chế ngự xem có khác gì những đêm qua không? Đời người được bao

nhiêu đêm!” [117, tr.219].

Ý nghĩa triết lí bị bóp méo, ý thức vươn đến cuộc sống đúng nghĩa

được nhào nặn lại qua bi kịch méo mó tâm hồn của Thạch. Đó là cả thế giới

vỡ vụn, thế giới của ảo giác, bản năng, vô thức; thế giới của những con

người tìm đến khoái lạc về thân xác nhưng ám ảnh, hoảng loạn về tinh thần.

Bi kịch của các nhân vật nằm ở chỗ không tìm được ý nghĩa sống và vì vậy

cũng là bi kịch của sự buông thả theo đam mê, nhục vọng. Chính trong

buông thả họ càng khát khao được sống, và khi khát khao đến bế tắc, cái

chết là sự giải thoát, cái chết cũng mang đầy chiêm nghiệm: “Người ta sống

để ăn, để mặc, để học hành, vui chơi, làm việc, giao ái và muộn phiền.

Quỳnh đã hưởng hết những điều cần hưởng, đã tiêu hết những thứ cuộc đời

ký gửi, nếu có kéo dài thêm sự sống chỉ để nhận về mình những muộn phiền

mà thôi” [116, tr.288].

Triết lí tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú bắt nguồn từ những cách nghĩ

riêng và có phần phi chính thống. Những lời bàn luận đắng chát thường

khiến tác phẩm trở nên mới mẻ, bất ngờ. Người đọc, hoặc gật gù đồng ý

hoặc cau mày nghi ngại, song đều phải ngẫm nghĩ. Vì vậy, tính vấn đề của

tác phẩm, chiều sâu của câu chuyện được nâng cao.

Trước ý nghĩa vô thường của đời người, Nguyễn Đình Tú biết cái tất

yếu của việc “trời sinh ra những kiếp ngọc đời thì trời cũng sinh ra kiếp bụi

87

đời” (Phiên bản). Dù vậy qua những kiếp bụi đời đầy mất mát và khổ tâm,

ngòi bút nhà văn nồng nàn yêu thương nhưng cũng đầy day trở. Trước nguy

cơ tan vỡ tình người, nhà văn với nhạy cảm, nhức nhối về cõi đời, cõi người

ấy đã riết róng gióng lên hồi chuông gọi mời tha thiết: “Bây giờ là lúc không

phải chỉ dành tặng nhau những tấm lòng. Tình bạn tốt đẹp phải là cùng nhìn

về một phía, cùng nắm chặt tay nhau đi cùng một hướng”.

Nhìn chung, điều đáng quý trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là

những suy nghĩ bắt nguồn từ những day dứt của tác giả trước những ẩn ức

tình dục của nhân vật với nhiều trạng huống khác nhau. Tuy việc lý giải ở

đây vẫn chủ yếu dựa trên cảm tính, nhưng không thể phủ nhận rằng chính

giọng điệu triết lí đã đưa người đọc tới sự cảm nhận sâu sắc và thấm thía

hơn về tình yêu và tình dục ngày nay.

* Giọng hoài niệm xót xa

Không dùng cốt truyện rõ ràng với các tình tiết diễn tiến theo trình tự

logic khách quan, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được kết cấu theo dòng ý thức

của các nhân vật có đời sống tâm linh không an tại và mang nhiều ẩn ức, ám

ảnh dồn nén. Bên cạnh đó, sự rối bời của tâm trạng nhân vật cũng khiến

những sự kiện, hình ảnh vá víu, chồng chất lên nhau. Đây là môi trường thuận

lợi cho sự tồn sinh của sắc giọng hoài niệm gắn liền với hành trình vật vã truy

tầm kí ức của nhân vật hòng nhận ra “bản lai diện mục” của mình.

Đa phần các câu chuyện đều bắt đầu ở thì hiện tại, sau đó theo dòng ý

thức nhân vật trôi ngược về quá khứ. Thỉnh thoảng kỉ niệm quá khứ giao cắt

với cảm giác hiện tại ngầm gợi ra một sự đối chiếu, liên kết đầy bất ngờ, thú

vị. Hành trình ngược quá khứ để góp nhặt những kỉ niệm của một thời xa cũ

là điều kiện giúp con người sống với chính bản thân, phơi trải tâm can sâu

kín với nhiều nỗi xa xót, u hoài.

Nháp mở đầu bằng vụ án mà nhân vật xưng tôi đang tham gia viết bài

và trong tôi bỗng xuất hiện những ý nghĩ về Đại. Như một nỗi ám ảnh, từ

88

nỗi băn khoăn về tung tích của Đại đã đưa Thạch về với quá khứ, lúc này kí

ức đã dẫn lối về miền xáo trộn những ý nghĩ khôn nguôi. Đời sinh viên, nỗi

đau, tình yêu, tình bạn… cùng những trăn trở về cuộc sống hiện tại cứ đan

xen vào nhau tạo nên dòng chảy nội tâm phong phú và sống động. Cũng từ

dòng ý thức đó hiện lên hình ảnh, câu chuyện của Đại với mảng ký ức quằn

quại, đớn đau. Để rồi toàn bộ câu chuyện là sự khai chảy những thổn thức

của thế hệ Nháp. Đối với nhân vật Nháp, quá khứ không thể là dĩ vãng mà

hiện hữu hàng ngày trong tâm trí họ; chỉ cần một sự gợi nhắc xa xăm đã có

thể dậy lên mạch sóng tâm trạng. Tất nhiên, họ không thể sống đủ đầy ở

hiện tại, bởi hiện tại mang trong mình bước đi của quá khứ. Hiện tại và quá

khứ đan xen nhau trong ý nghĩ rối bời của tôi, cũng đan xen trong sự hoán

đổi, là hiện tại nhưng cũng là quá khứ, rồi cũng có thể quá khứ là hiện tại.

Việc gặp gỡ giữa các nhận vật khi Đại ra tù và sự dịch chuyển tiêu cực trong

Nháp cùng với quãng thời gian trước đó đan xen trong nhiều lớp truyện, vừa

nối tiếp vừa chồng lên nhau, đôi khi có vẻ ngẫu nhiên chỉ bằng một mô hình:

kể - hồi cố - diễn giải; đồng thời người kể chuyện - nhân vật tôi không thay

đổi điểm nhìn mà truyện cho tôi chuyển dịch điểm nhìn của anh ta, lúc thì ở

bên ngoài lúc thì ở bên trong câu chuyện anh ta kể. Dịch chuyển đó thường

là sự hóa thân của tôi vào một nhân vật trong câu chuyện đang kể. Điều này

tạo nên dòng chảy miên man của câu chuyện với “lát cắt đủ dài” trong cuộc

đời dằng dặc của các nhân vật. Nhờ thế, người đọc không hẳn là nghe kể

chuyện nữa và như đang cảm dòng tâm tư của nhân vật, đang thấy họ sống

trước mắt mình.

Giọng hoài niệm thường gắn liền với hồi ức, ảo giác, ẩn ức, chiêm

bao… nhằm phơi mở những miền sâu kín của tâm hồn, kể cả vùng nằm

ngoài sự kiểm soát của lí trí. Tác phẩm như dòng chảy ào ạt của kí ức. Đó là

một dòng ý thức tràn ngập những đam mê, hồi ức, sám hối, ám ảnh, giấc mơ

và cả sự mộng du.

89

Trong Phiên bản, sự phân chia đánh dấu truyện thành các khúc chỉ là

bố cục bề mặt của tác phẩm. Với ba ngôi kể: Ta - Em - Thị thì thực chất cái

kết cấu bề sâu, ẩn chìm chính là dòng chảy hồi ức của nhân vật “em”. Trong

truyện, thời gian không theo bất cứ một trật tự nào, các khúc cũng sắp xếp

một cách như ngẫu nhiên, góp nhặt nhưng lại rất phù hợp với tâm lý nhân

vật, là thời gian theo cái nhìn bên trong của Diệu.

Cũng như Nháp, thời gian trong Phiên bản bắt đầu ở thời điểm hiện

tại, với sự mờ ảo trong khúc kể của ngôi Ta, với dáng dấp của một cuộc hỏi

cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Đó là hoài nghi: “Ta là ai?”.

Đó cũng là khởi đầu của việc đào xới lại kí ức. Trên hành trình tìm câu trả

lời, tất cả quá khứ hiện lên dưới nhiều lăng kính qua ba ngôi kể, từ đó phác

lộ kí ức, bức chân dung của Diệu hay Hương ga. Nhân vật Em với dòng

chảy nội tâm dào dạt đã hướng sự chú ý của người đọc vào bi kịch bên trong

của Thị. Rõ ràng chỉ khi con người cô đơn nó mới sống với mình nhiều như

thế cùng dòng tâm tư luôn là những dằn vặt, ngờ vực, đớn đau…

Nhìn chung, truyện Nguyễn Đình Tú ngay cả trong cách kể phi tuyến

tính thì mạch kể cứ bện xoắn vào nhau theo kiểu đồng hiện kép, song song

xen lẫn quá khứ với hiện tại. Vì vậy, giọng hoài niệm thường song hành với

thời gian dịch chuyển theo “gia tốc” ngược: hiện tại - quá khứ hoàn thành -

quá khứ - hiện tại tiếp diễn. Nỗ lực “đi tìm thời gian đã mất” đã tái hiện chân

xác chân dung “con người bên trong con người”, rút ngắn tối đa khoảng

cách giữa nhân vật và người đọc.

Đánh dấu như từng chương mục nhưng Kín để chất liệu cuộc sống

ngồn ngộn ùa vào, thậm chí thời gian bị lộn trái chiều trong dòng ý thức của

Quỳnh. Từ sự nổi loạn, Quỳnh bứt ra khỏi cuộc sống ngột ngạt, đi tìm cho

mình quãng kí ức xưa. Cũng từ đó, hành trình hoàn ức của Quỳnh mở ra cả

thế giới ngồn ngồn hỉ, nộ, ái, ố của những vòng tròn mồ côi. Trong Kín,

người viết để cho các tuyến nhân vật di chuyển đan bện vào nhau, các sự

90

kiện đẩy đưa theo chiều quá khứ - hiện tại, các nhân vật va chạm và xung

đột. Đọng lại mạch chảy xuyên suốt là những dòng ký ức của cô bé Lửa

Cháy.

Có thể thấy, với giọng hoài niệm, Nguyễn Đình Tú đã chạm vào thế

giới tâm linh và phơi mở trước mắt người đọc những miền sâu kín của tâm

hồn, miền vô thức của con người. Đó cũng là cách diễn đạt mới của nhà văn

về con người và hiện thực cuộc sống nhiều xô bồ, đảo lộn với chân dung

phức tạp.

* Giọng điệu vô âm sắc

Giọng điệu vô âm sắc là cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang

tính hành vi. Kiểu giọng này phần lớn là trần thuật ở ngôi thứ ba mang tính

chất trung tính, thiếu điểm nhìn bên trong. Người kể chuyện với thái độ

dửng dưng khi chỉ tái hiện sự việc hay hành động bên ngoài. Nhân vật của

Nguyễn Đình Tú là những tâm hồn méo mó trong xã hội rối bời. Điểm nhìn

trong tiểu thuyết của anh liên tục chuyển đổi. Đó là những câu chuyện mà

nhân vật thay nhau kể, bộc bạch. Người kể chuyện ngôi thứ ba đứng ngoài

kể lại với giọng điệu vô âm sắc. Tất cả nhằm tô đậm thế giới khép kín, phần

nào khủng hoảng về tâm trạng, niềm tin.

Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, giọng vô âm sắc do người kể

chuyện cố ý bẻ vụn câu văn và kìm nén âm giọng. Các câu văn vô âm sắc

thường ngắn gọn, những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm bị triệt tiêu. Người

kể chuyện thậm chí lược bỏ lời chỉ dẫn khi kể lại các đoạn thoại của nhân

vật hay bỏ cả chủ thể phát ngôn: “Tôi hỏi một cách thờ ơ: “Thảo nào?”.

“Một cô bạn gái của tớ.” “Người yêu à?”. “Không…”. “Đang tán tỉnh à?”.

“Không…”. “Bạn bình thường thôi chứ gì?”. “Không…”. “Cô ấy không

muốn nhận à?”. “Không phải”[115, tr.20-21]. Trong trường hợp này, đoạn

đối thoại của hai nhân vật giản lược đến mức tối đa. Đó là đối thoại rời rạc,

mỗi người giao tiếp theo đuổi một ý nghĩ riêng.

91

Chú trọng đề cập đến nỗi cô đơn, đến các mối quan hệ riêng của con

người hiện đại, suốt chiều dài câu chuyện, đôi lúc là giọng điệu trống rỗng,

vô cảm do người kể chuyện không dừng lại để tả hay bình luận, chẳng hạn:

“Tuấn chợ trần truồng, nằm quay đơ dưới chân giường. Em nửa nằm nửa

ngồi trên giường, cặp đùi trắng nhờn nhợt. Mùi rượu bốc lên nồng nặc”

[117, tr.229] hay: “Chẳng còn dấu vết gì cả. Chiếc khăn lau đã được giặt

sạch tinh. Lớp da bọc ghế lạnh tanh, sáng bóng như chưa hề có một sự ân ái

nào từng diễn ra ở đây”[115, tr.80]. Ở đây, giọng điệu trần thuật vô âm sắc

góp phần làm nổi rõ một hiện thực phân rã, vỡ vụn, phi trật tự, qua đó làm

nổi lên trạng thái cô đơn của con người. Câu chữ không màu mè, không quá

trau chuốt mà trở nên vô cảm, như một lưỡi dao mổ lạnh lùng lách vào sâu

thẳm tâm hồn nhân vật.

Người kể chuyện với thái độ lãnh đạm, dửng dưng khi chỉ tái hiện sự

việc hay những hành động bên ngoài. Họ hụt hẫng, không tìm thấy chỗ tựa

về mặt tinh thần trong một cuộc sống phi lí, xơ cứng về tâm hồn. Cảm thức

về cái phi lí, sự đổ vỡ đã chi phối giọng điệu tiểu thuyết: “Để nguyên thân

thể mát rượi như thế cô nhảy lên giường với tôi. “Anh mang bao chưa?”.

“Từ từ đã chứ”. Đôi vú bánh dầy khá căng. Thân hình lẳn. Cặp đùi hơi

ngắn. Khuôn mặt hơi bầu bĩnh và đôi mắt có những ánh nhìn rất trẻ. Đủ

hứng thú. Tôi lao vào cô gái. Nhưng cô không hào hứng lắm với giai đoạn

khởi đầu. Cô lại hỏi tôi “Bao đâu?”. Tôi đứng dậy lục túi quần lấy condom

đưa cho cô ta. Rất nhanh, cô lấy nó ra khỏi lớp túi bằng giấy bạc (…). Ngay

khi tôi dừng lại, lập tức cô gái buông tôi ra, tay cô đưa xuống nắn đầu bao

cao su. Chắc chắn đã đáng đồng tiền cho sự nhàu nhò tấm thân của mình

rồi, cô nhảy ngay xuống giường, tót vào nhà tắm” 116, tr.174].

Giọng điệu vô âm sắc trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú còn thể hiện

những rạn nứt đáng sợ trong đời sống giao tiếp hiện đại: Con người nói với

92

nhau nhưng không hề hiểu nhau. Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ chỉ là

cái vỏ rỗng không, phi giao tiếp:

“Hôm nay em có một thông tin cho anh?

Em quyết định lấy Jack?

Vâng.

Anh tưởng thủ tục lâu như thế, đủ để em suy nghĩ lại?

Ngay cả khi lấy Jack rồi em vẫn có thể suy nghĩ lại.

Vậy hôm nay là ngày chúng ta chính thức nói lời chia tay.”[115, tr.92]

Ngôn ngữ trần thuật nhiều lúc thiên về khả năng dung chứa thông tin,

khả năng phản ánh hơn là khả năng biểu cảm: “Lớp bụng ấy chà xát lên

phần rốn của Quỳnh. Nửa dưới thân thể Quỳnh trở nên nóng ran. Cặp đùi

của chàng sinh viên gia sư khá mềm. Cánh tay anh ta dài ngoằng và nhiều

gân xanh. Ngực anh ta mảnh. Mọi sự cọ xát đều không tự tin. Nhưng anh ta

khá dẻo dai và không phải không biết cách thỏa mãn Quỳnh. Chỉ có điều

anh ta luôn đóng vai là con bò đực để người dắt sợi dây thừng là Quỳnh”

[116, tr.177].

Trên đây là những giọng điệu đa âm luôn có sự hòa kết trong thế giới

nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Bốn sắc giọng chủ yếu này đã góp

phần không nhỏ tạo nên một nét phong cách của anh so với những nhà văn

trẻ thành danh với đề tài tính dục trong văn xuôi Việt Nam đương đại.

93

Tiểu kết chương 3

Tiểu thuyết luôn là thể loại biến động mạnh nhất về hình thức nghệ

thuật. Một tác phẩm tiểu thuyết thành công phải là sự kết hợp hài hoà nhuần

nhuyễn giữa nội dung với hình thức. Với nội dung ở chương 2, dưới góc

nhìn Phân tâm học, bút pháp nghệ thuật thiên biến vạn hoá của Nguyễn Đình

Tú đã truyền tải sắc nét, rõ ràng, đầy đủ và chính xác ý đồ của nhà văn.

Người viết nhận thấy Nguyễn Đình Tú là một trong những tác giả chú trọng

và đạt được những thành công không nhỏ trong việc tìm tòi, sáng tạo nghệ

thuật trong tiểu thuyết trên nhiều phương diện như xây dựng biểu tượng, xây

dựng thế giới vô thức của nhân vật và sử dụng ngôn ngữ giọng điệu mang

dấu ấn Phân tâm học. Những khía cạnh này liên quan mật thiết với nhau,

chúng thống nhất hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên dấu ấn nghệ thuật tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú. Nếu như Nguyễn Bình Phương đã khéo léo sử dụng

bút pháp huyền thoại hoá, đặt nhân vật trong những bối cảnh đặc biệt để

nhân vật tự bộc lộ mình, bình thường hoá những hành vi bất thường, không

khoa trương, ngoa ngôn về những hành vi phi lý thì Nguyễn Đình Tú khai

thác triệt để những kiến thức về tâm lí học tội phạm, hiểu biết về tâm lý bản

năng của con người cùng những tình cảm, tấm lòng trắc ẩn dành cho một bộ

phận không nhỏ những số phận bất hạnh, lạc loài dưới đáy xã hội, bên lề

cuộc đời để nhân vật được bộc lộ mình, lý giải nguyên nhân hình thành nên

hành động tính cách của mình. Nguyễn Đình Tú đã để các nhân vật vừa

tương tác với nhau, vừa độc lập như những “tiểu vũ trụ” để thể hiện nội tâm,

thể hiện thế giới vô thức “bất khả tri” của mình.

Soi chiếu nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới góc nhìn Phân

tâm học đã góp phần khám phá những đóng góp mới mẻ của tác giả trong

lâu đài tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

94

KẾT LUẬN

1. Phân tâm học kể từ khi S.Freud sáng lập cho đến nay đã tác động

nhiều mặt tới đời sống con người. Nó đã góp phần đi tìm những ẩn số trong

đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Đình Tú là cây bút thuộc thế hệ 7x,

một cây bút đa tài, sáng tác ở nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau. Và ở thể

loại nào, tác phẩm của anh cũng gây được những dấu ấn sâu sắc trong lòng

độc giả. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, đổi mới “đứa con tinh thần” của

mình, tác phẩm Nguyễn Đình Tú luôn tạo nên những luồng dư luận nhiều

chiều, khen có, chê có, thích thú có, ghê sợ có… Bởi vậy mà các tác phẩm

của Nguyễn Đình Tú luôn “nóng hổi” và có sức hút đối với người nghiên

cứu. Qua đây có thể khẳng định Nguyễn Đình Tú là một nhà văn trẻ dũng

cảm đã dám khai phá một lối đi riêng đầy nhọc nhằn và bước đầu gặt hái

được những thành công. Trong văn học Việt Nam đương đại, không phải ai

cũng đủ tài, đủ tâm và sự dũng cảm để mở ra một con đường đi được ghi

nhận trong sáng tác như thế. Để đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện diện

mạo của nền văn học này cần áp dụng nhiều phương pháp, cách thức, học

thuyết. Trong số đó, hướng tiếp cận văn chương từ góc nhìn phân tâm học

ngày càng được chú ý. Đặt tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh sáng phân

tâm học, người viết có cơ sở khoa học để soi sáng các giá trị, chỉ ra các ưu

điểm, nhược điểm trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Việc vận dụng lí

thuyết Phân tâm học vào việc nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là một

cách tiếp cận và khám phá giá trị tư tưởng cùng những đóng góp nghệ thuật

của nhà văn. Bởi vậy đề tài có ý nghĩa lý luận sâu sắc.

2. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú thể hiện rất

rõ nét từ nhận thức về hiện thực và về con người; về quan niệm khám phá,

đánh giá con người mà trong đó yếu tố vô thức và tình dục được khai thác

triệt để. Đây là một sự cách tân, đổi mới mạnh mẽ của nhà văn so với tiểu

thuyết giai đoạn trước đó.

95

Nghiên cứu dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn hiện thực trong tiểu

thuyết Nguyễn Đình Tú, tác giả luận văn không chỉ nghiên cứu hiện thực với

tư cách là không gian sống, không gian tồn tại đơn thuần của con người mà

muốn tìm hiểu nó với tư cách là nền tảng, nguyên nhân, nguồn gốc hình

thành nên những ẩn ức cá nhân của nhân vật. Không gian trong tiểu thuyết

Nguyễn Đình Tú đa dạng, muôn màu muôn vẻ với những mảng hiện thực

sáng-tối rõ rệt. Con người sinh sống và tồn tại trong không gian ấy thường

mang những hoàn cảnh, số phận éo le, nó là nguyên nhân trực tiếp hình

thành nên những ẩn ức cá nhân. Hiện thực đó còn là hiện thực của giấc mơ,

hiện thực phi lí, nơi ẩn chứa hay bộc lộ rõ ràng nhất những ẩn ức của nhân

vật, qua đó thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Hiện thực tâm linh gắn

liền với những tín ngưỡng tôn giáo là nơi cứu rỗi linh hồn mỗi con người khi

lầm đường lạc lối. Không gian tâm linh còn khẳng định bản tính thiện luôn

tồn tại trong mỗi con người. Đây là một khía cạnh thể hiện tính nhân văn của

ngòi bút Nguyễn Đình Tú.

3. Khi đi tìm hiểu, khám phá nhân vật trong tiểu thuyết của mình,

Nguyễn Đình Tú đã chú trọng đi sâu vào cõi vô thức, bản năng của con

người để khám phá cái “tiểu vũ trụ” đầy bí ẩn ấy. Qua khảo sát bốn tiểu

thuyết trên và vận dụng lý thuyết Phân tâm học, người viết khai thác con

người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ở những khía cạnh: Con người bản

năng; Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn; Con người thần kinh, đa nhân

cách. Khám phá con người ở nhiều góc độ dưới ánh sáng của Phân tâm học

giúp nhà văn thể hiện được chiều sâu trong mỗi nhân vật. Đồng thời góp một

cái nhìn mới mẻ, chân thực, toàn diện về con người hiện đại. Anh đã đào sâu

những vấn đề bức xúc của giới trẻ hiện nay, đặt ra những câu hỏi lớn của

giới trẻ hiện đại: Phải sống làm sao? Sống thế nào từ đó gợi hướng trả lời

cho những câu hỏi đó. Đặc biệt là vấn đề tình dục và quan hệ tình dục ở giới

trẻ hiện nay, vừa có những cái lệch lạc, bệnh hoạn vừa có những khát khao

nhu cầu chính đáng, trong sáng, lành mạnh. Phản ánh những vấn đề nóng hổi

96

có tính thời sự ấy góp phần trả lời những câu hỏi bức xúc của dư luận về đời

sống của lớp trẻ và sự xuống cấp của văn hoá hiện nay cũng như đi tìm

nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ấy thì Nguyễn Đình Tú không chỉ thể hiện

tài năng nghệ thuật của mình mà còn thể hiện trách nhiệm công dân của nhà

văn trước những vấn đề nhức nhối đang tồn tại trong xã hội hiện nay.

Việc nhìn nhận con người dưới ánh sáng lý thuyết Phân tâm học đã

khẳng định tài năng của nhà văn bởi tất cả những vấn đề trên đã được xây

dựng thành những hình tượng sống, ám ảnh. Đặc biệt, dấu ấn của Phân tâm

học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú cho thấy một sự lựa chọn trúng và

đúng của nhà văn. Bởi vấn đề tính dục là vấn đề nhạy cảm trong xã hội

phương Đông nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng. Mặc dù không có

tuyên ngôn, nhưng dường như tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã phản ánh một

“cuộc cách mạng tình dục” của lớp trẻ. Hơn hết, nhà văn đã trung thực và

dũng cảm phản ánh những góc khuất ít được các nhà văn khác đào sâu khai

thác: Đó là vấn đề tính dục và quan niệm về tính dục của một bộ phận không

nhỏ trong lớp trẻ hiện nay.

Như vậy, nhìn nhận con người từ lý thuyết Phân tâm học là một

hướng đi đầy táo bạo và ý nghĩa của nhà văn trong dòng văn học Việt Nam

đương đại.

4. Dấu ấn Phân tâm học còn chi phối mạnh mẽ tới bút pháp nghệ thuật

của nhà văn. Nguyễn Đình Tú đã công phu trong việc xây dựng nhân vật

bằng nhiều thủ pháp để từ đó nhân vật bộc lộ tính cách, nội tâm, hành vi,

thông qua đối thoại và độc thoại để lột tả nội tâm nhân vật. Nhà văn bộc lộ

sự am hiểu tâm lý con người hiện đại thông qua việc lựa chọn và sử dụng

ngôn ngữ đối thoại, độc thoại. Đi sâu vào việc phân tích diễn biến tâm lý

nhân vật để lý giải nhất cử nhất động của họ. Hệ thống giọng điệu và ngôn

ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú rất đa dạng và phong phú. Những

97

khám phá nghệ thuật của Nguyễn Đình Tú đã mang dấu hiệu cách tân rõ rệt

của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

5. Triển khai đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn Phân

tâm học”, người viết đã liên hệ, so sánh với các tiểu thuyết khác của anh

cũng như những tiểu thuyết của các nhà văn khác như Nguyễn Bình Phương,

Uông Triều....để thấy điểm chung và nét khác biệt trong cách nhìn nhận,

khám phá và thể hiện con người. Từ đó để thấy rõ hơn sự tìm tòi, sáng tạo

của Nguyễn Đình Tú. Mặc dù tiểu thuyết của anh còn nhiều hạn chế như

việc chỉ phản ánh một bộ phận giới trẻ hiện nay với đời sống tinh thần

khủng hoảng, mất phương hướng; chỉ đi sâu vào truy tìm nguyên nhân, gốc

tích của tội lỗi mà không tìm ra lối thoát cho họ khiến các tác phẩm có phần

nặng nề, bi quan. Song không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của anh

đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng và văn học Việt Nam nói

chung.

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu An (2011), Đừng vội tin khán giả, Nguồn: antgct.cand.com.vn,

ngày 20/01/2011.

2. Hoàng Anh (2008), Nháp hay là một sự xới xáo đáng trân trọng,

http://evan.vnexpress.net/, ngày 17/10/2008.

3. Hồ Huy Hoàng Anh (2008), Nguyễn Đình Tú và "Nháp", Nguồn:

tienphong.vn, ngày 16/09/2008.

4. Nguyễn Thị Lan Anh (2010), Vô thức nhân vật trong tiểu thuyết

Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ Phân tâm học, Luận văn Thạc sĩ khoa

học Ngữ văn, Trường ĐHSPHN, Hà Nội.

5. Mai Anh (2011), Tiểu thuyết trẻ nhiều nhưng thiếu sức nặng, Nguồn:

baomoi.com, ngày 22/07/2011.

6. Quang Anh (2009), Phiên bản = bạo lực + sex?, Nguồn: tienphong.vn,

ngày 15/11/2009.

7. Nghiêm Tuấn Anh (2010), Phiên bản - Những mảnh tối cuộc đời,

Nguồn: nxbcand.vn, ngày 26/11/2010.

8. Nguyễn Hoàng Tuệ Anh, “Từ góc độ triết học bàn về một số vấn đề

cơ bản của văn học Phương Tây hiện đại”, Tạp chí Triết học, số 5, 1999.

9. Thái Phan Vàng Anh (2010), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ

góc nhìn hậu hiện đại, Nguồn: http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-

cuu/tieu_thuyet_viet_nam_dau_the_ki_xxi_goc_nhin_hau_hien_dai-4.html,

ngày 14/09/2010.

10. Thái Phan Vàng Anh (2011), "Lạ hóa" và những thể nghiệm của tiểu

thuyết đầu thế khỉ XXI, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn.

11. Thái Phan Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết

Việt Nam đương đại, Nguồn: vanhoanghean.vn, ngày 19/12/2010.

99

12. Vũ Anh (2008), Thời của "Tiểu thuyết trẻ"?, Nguồn: baomoi.com,

ngày 18/12/2008.

13. Trâm Anh (2010), "Lạ hóa" văn chương - Tất yếu hay làm khó?,

Nguồn: suckhoedoisong.vn, ngày 01/11.2010.

14. Thủy Anna (2009), Trình ra ba "phiên bản" về một con người, Nguồn:

baomoi.com, ngày 15/10/2009.

15. Thủy Anna (2010), Một không gian Kín đầy khoái cảm sex,Nguồn:

nguyentrongtao.org.

16. M.Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn.

17. “Báo cáo của Hội đồng chung khảo tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt

Nam 1998-2000 (2001)”, Tạp chí văn nghệ quân đội, 10/2001.

18. Báo cáo tổng kết cuộc thi tiểu thuyết 2002- 2004 của Hội Nhà văn

Việt Nam (2005), Báo văn nghệ số 37, 10/2005.

19. Báo cáo tổng kết văn học 5 năm 2000- 2004 của Ban chấp hành Hội

Nhà văn Việt Nam (2005), Diễn đàn văn nghệ Việt Nam tháng 4 năm 2005.

20. Lê Huy Bắc (2013), Chí Phèo dưới cái nhìn Phân tâm học,

http://nguvan.hnue.edu.vn, ngày 21/05/2013.

21. Nguyễn Thị Bình (2008), "Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại", Tạp chí văn học, số 5/2008.

22. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau năm 1975, Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ Văn, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975, một

cái nhìn khái quát”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2, 2007.

24. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết nước ta từ

thời điểm đổi mới đến nay, Báo cáo đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

100

25. Nguyễn Trọng Bình (2010), Văn chương trẻ - rất cần một chiều sâu và

tầm nhìn văn hóa, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày 29/09/2010.

26. Nguyễn Lệ Chi (2011), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Tôi muốn xây

dựng hình ảnh nữ giang hồ thời đại mới, Nguồn: nguyenlechi.vn

27. Nguyễn Xuân Diện (2011), Viết về người lính, còn mấy mặn mà?,

Nguồn: suckhoedoisong, ngày 27/08/2011.

28. Đoàn Ánh Dương (2009), Phiên bản hay một hồ sơ thanh tẩy,

evan.vnexpress, ngày 30/11/2009.

29. Trần Đan (2010), Đi tìm tiểu thuyết Việt Nam, Nguồn:

thanhnien.com.vn.

30. Trần Minh Đức (2009), Bàn về khía cạnh trần thuật trong tiểu thuyết,

http://www.talawas.org/?p=14131, ngày 30/11/2009.

31. Cát Đường (2011), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: lập đường dây nóng

trên sách, http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-van-nguyen-dinh-tu-lap-

duong-day-nong-tren-sach-n20110209102314552.htm, ngày 09/02/2011.

32. Cúc Đương (2010), Tiểu thuyết Việt Nam… chưa hết,

http://thethaovanhoa.vn/bong-da/tieu-thuyet-viet-nam-chua-chet-

n20101222110821629.htm, ngày 22/12/2010.

33. Đặng Anh Đào (1999), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương tây

hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

34. Lam Điền (2005), Cuộc sống đặt hàng gì ở nhà văn, Nguồn:

vietbao.vn.

35. Phong Điệp (2011), Nguyễn Đình Tú đang mạo hiểm với sách điện tử

Việt Nam?, Nguồn: phongdiep.net.

36. Phong Điệp (2010), Tiểu thuyết Việt Nam: đang chuyển động không

nhỏ, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn

101

37. Hương Giang (2010), Nhà văn Nguyễn Đình Tú 3 năm ra 3 tiểu

thuyết, Nguồn:http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-van-nguyen-dinh-tu-3-

nam-ra-3-tieu-thuyet-n20101026103104852.htm, ngày 26/10/2010.

38. Hương Giang (2010), Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú,

Wesite:http://yume.vn/nhap-tieu-thuyet-moi-cua-nguyen-dinh-tu-

35ad49a7.html, ngày 04/04/2009.

39. Văn Giá (2017), Thứ nhận diện tiểu tiểu thuyết ngắn của Việt Nam

vần đây, Nguồn: evan.vnexpress.vn

40. Cao Thị Hà (2007), Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,

Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội.

41. Lưu Hà (2005), Bốn tác phẩm đạt giải A cuộc thi tiểu thuyết lần II,

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/4-tac-pham-doat-giai-

a-cuoc-thi-tieu-thuyet-lan-ii-1885351.html , ngày 25/08/2005.

42. Lưu Hà (2005), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại chưa có thương hiệu,

Nguồn: evan.vnexpress.vn.

43. Ngân Hà (2010), Cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam lần

thứ 3: Không có đột phá, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn, ngày 21/12/2010.

44. Võ Thị Xuân Hà (2008), Nháp - không chỉ là một thông điệp lạnh

lùng… Lao động - Thứ Sáu, 19.9.2008.

45. Võ Thị Xuân Hà (2008), Nguyễn Đình Tú: Nháp không chỉ là sex và

giết người, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-dinh-tu-

nhap-khong-chi-co-sex-va-giet-nguoi-2138569.html, ngày 17/09/2008.

46. Nguyễn Mạnh Hà (2009), Tư duy tiểu thuyết - khái niệm của hệ hình,

http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=884&so=9, số

147/06/2009

102

47. Ngân Hà (2011), Văn học trẻ 2010 văn xuôi lấn át thơ,

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Van-hoc-tre-2010-Van-

xuoi-lan-at-tho-4661.html, ngày 01/04/2011

48. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (2006), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Võ Thị Hảo (2005), Tôi lạc quan hơn ở tiểu thuyết,

http://pda.vietbao.vn/Van-hoa/Vo-Thi-Hao-Toi-lac-quan-ve-tieu-thuyet-

Viet-Nam/20499009/103/, ngày 12/10/2005.

50. Đào Huy Hiệp (2010), Độ dài và cấu trức tiểu thuyết, Nguồn:

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/do-dai-va-cau-truc-tieu-

thuyet-2141548.html, ngày 19/08/2005.

51. Lê Quốc Hiếu (2011), Kín - Cảm thức về thân phận lạc loài hoang

hoải của Nguyễn Đình Tú, http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-

nam/tac-pham-va-du-luan/2595-kin-cam-thuc-ve-than-phan-lac-loai-hoang-

hoai-cua-nguyen-dinh-tu.html.

52. Hoàng Hoa (2010), Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Kín, Nguồn:

www.baomoi.com, ngày 29/10/2010.

53. Nguyễn Chí Hoan (2008), Dịch chuyển tiêu cực trong tiểu thuyết

Nháp, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/dich-chuyen-

tieu-cuc-trong-tieu-thuyet-nhap-1971991.html, ngày 29/09/2009.

54. Nguyễn Ngọc Hoàn (2009), Tại sao ông Bùi Công Thuấn lại khiếp sợ

Nháp đến thế?, Nguồn: phongdiep.net

55. Hội thảo “Văn học đương đại dưới cái nhìn Phân tâm học”, Yếu tố kì

ảo trong Nháp của Nguyễn Đình Tú,

https://www.facebook.com/476849869097120/photos/a.477722962343144.1

073741828.476849869097120/488962751219165/?type=1&theater

103

56. Nguyễn Trí Huân (2001), Báo cáo giải thưởng năm 2001 của hội đồng

chung khảo, Báo văn nghệ số 10 năm 2003.

57. Lê Huệ (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: "Hot" nhưng phải văn học,

Báo thanh niên Việt Nam.

58. Quang Hưng (2010), Đọc Kín của Nguyễn Đình Tú, Nguồn:

http://danviet.vn/tin-tuc/doc-34kin34-cua-nguyen-dinh-tu-5097.html, ngày

11/11/2010.

59. Hoài Hương (2011), Nháp hay là sự yếm thế tâm hồn con người, phụ

lục Nháp, Nxb Thanh niên.

60. Hoài Hương (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên

bản: Tội ác mang khuôn mặt đàn bà?,

http://hoaikhanh.vnweblogs.com/a201460/nha-van-nguyen-dinh-tu-va-tieu-

thuyet-phien-ban-toi-ac-mang-khuon-mat-dan-ba.html, ngày 04/12/2009

61. Phí Thủy Hương (2010), Kín - "Có bột chưa gột nên hồ" hay "cái

bánh văn chương của Nguyễn Đình Tú"? , http://tonvinhvanhoadoc.vn/tin-

tuc-su-kien/van-de-binh-luan/1843-kin-qco-bot-chua-got-nen-hoq-hay-qcai-

banh-van-chuong-cua-nguyen-dinh-tuq.html

62. Hoa Tử Huyền (2009), Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên bản,

Nguồn: http://trannhuong.net/tin-tuc-2488/nha-van-nguyen-dinh-tu-va-tieu-

thuyet--phien-ban.vhtm, ngày 17/10/2009.

63. Thương Huyền (2010), Trao giải Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 Hội

nhà văn Việt Nam, Nguồn: baomoi.com, ngày 21/12/2010.

64. http://www.banvannghe.com/a447/van-hoc-trong-nuoc-tieu-thuyet-

nguyen-dinh-tu.

104

65. Inrasara (2011), Kín - Chấm dứt một hàn trình mở ra một hành trình

khác, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/kin-cham-

dut-mot-hanh-trinh-mo-ra-hanh-trinh-khac-1971052.html, ngày 24/10/2011

66. Ma Văn Kháng (2009), Phiên bản hay tính thiện và ác của con người,

Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phien-ban-hay-tinh-

thien-va-tinh-ac-cua-con-nguoi-1971960.html, ngày 19/10/2009.

67. Hoàng Đăng Khoa (2013), "Kín của Nguyễn Đình Tú và "câu hỏi lớn

về cái gọi là khiếp người", Nguồn: https://www.facebook.com/

476849869097120/photos/a.477722962343144.1073741828.4768498690971

20/498853296896777/?type=1&theater, ngày 23/12/2013.

68. Đình Khôi (2008), Nháp, từ một cuộc sống phàm phũ đến dự cảm văn

chương, http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/

69. Mai Đình Khôi, Nháp hay văn chương dành cho giới trẻ?, Nguồn:

tuanvietnam.vietnamnet.vn.

70. Trần Hoàng Thiên Kim (2010), Các nhà văn trẻ: thổi lường khí mới

"vào đề tài an ninh, Nguồn: http://cand.com.vn/van-hoa/Cac-nha-van-tre-

thoi-luong-khi-moi-vao-de-tai-An-ninh-170926/, ngày 12/12/2010.

71. Nhân Kiệt (2008), Tiểu thuyết của các nhà văn cấp úy, Nguồn:

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/tieu-thuyet-cua-cac-nha-

van-cap-uy-2137673.html, ngày 16/06/2009.

72. Trần Hoàng Thiên Kim (2003), Nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú và "Hồ

sơ một tử tù", Nguồn: http://pda.vietbao.vn/Van-hoa/Nha-van-tre-Nguyen-

Dinh-Tu-va-Ho-so-mot-tu-tu/410008195/181/, ngày 29/11/2003.

73. Phong Lan (2010), Nguyễn Đình Tú hé lộ chuyện Kín, Nguồn:

http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/1835-nguyen-dinh-tu-he-

lo-chuyen-kin.html

105

74. Chu Lai (2008), Một bút pháp táo tợn và dịu dàng, Phụ lục Nháp, nxb

Thanh niên, 2011.

75. Ngô Tự Lập (2011), Thế hệ Nháp, Phụ lục Nháp, nxb Thanh niên.

76. Nguyễn Hữu Liêm, Freud và huyền thoại vô thức,

http://taophunghoiquan.blogspot.com/2012/09/freud-va-huyen-thoai-vo-

thuc.html, ngày 09/09/2012.

77. Diệu Linh (2010), Nguyễn Đình Tú: Bạn sẽ không chết chìm trong

"Kín", Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-

dinh-tu-ban-doc-se-khong-chet-chim-trong-kin-2136263.html, ngày

25/10/2010.

78. Phạm Thùy Linh (2010), "Phiên bản - Góc tiếp cận nhân văn", Báo

Hải Phòng cuối tuần.

79. Trần Tố Loan (2008), Một cái cách nhìn khác về Nháp, Nguồn:

evan.vnexpress.vn.

80. Trần Tố Loan (2010), Điển hình nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn

Đình Tú, Nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/360-do-x/1585-

diem-nhin-nghe-thuat-trong-tieu-thuyet-nguyen-dinh-tu.html

81. Phương Lựu, “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật”,

Tạp chí văn học, số 2, 2001.

82. Phương Lựu (2004), Lí luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

83. Hoang Mai (2009), "Phiên bản" mới của nhà văn Nguyễn Đình Tú,

Nguồn: hanoimoi.com.vn

84. Ân Nam (2007), Nguyễn Đình Tú: Viết để sống chứ không viết để

chết, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-dinh-

tu-viet-de-song-chu-khong-viet-de-chet-2140376.html, ngày 07/02/2007.

106

85. Lương Nguyên (2008), Nháp và nỗi cô đơn khi…sex,

http://vietbao.vn/ Van-hoa/Nhap-va-noi-co-don-khi-sex/75193234/181/,

ngày 18/09/2008.

86. Lãm Nguyễn (2010), Kín - Cuộc tìm lối của người trẻ, Nguồn:

dulich.tuoitre.vn

87. Hoang Thị Nhạn (2009), Những tìm tòi về thể nghiệm tiểu thuyết của

những cây bút trẻ Việt Nam đương đại, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn,

Hà Nội.

88. Nguyễn Thị Hải Phương (2010), Kiểu cốt truyện phân mảnh trong tiểu

thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Nguồn: Hội thảo khoa học trẻ I- Khoa Ngữ

văn ĐHSP Hà Nội.

89. Tú Phương (2008), Nguyễn Đình Tú và ám ảnh "Nháp", Nguồn:

cand.com

90. Vân Quế (2010), Nguyễn Đình Tú sẽ ngừng viết khi không còn ai chê,

Nguồn :http://anninhthudo.vn/giai-tri/se-ngung-viet-khi-khong-con-ai-

che/386532.antd, ngày 02/12/2010.

91. Nguyễn Hữu Quý (2010), Kín có bột chưa gột nên hồ, Nguồn:

http://vannghequandoi.com.vn/Diem-sach/Kin-Co-bot-nhung-chua-got-nen-

ho-4645.html, ngày 01/04/2011.

92. Nguyễn Hữu Quý (2007), 5 nhà văn cấp úy ở nhà số 4, Nguồn:

http://nguyenhuuquy.vnweblogs.com/a36308/5-nha-van-cap-uy-o-nha-so-

4.html, ngày 12/11/2007.

93. Nguyễn Hữu Quý (2009), Thế giới tội phạm trong "phiên bản" của

Nguyễn Đình Tú, Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.php?

story_fbid=503522409763199&id=476849869097120&substory_index=0,

ngày 01/01/2009.

107

94. Tiểu Quyên (2010), Kín - Những vòng tròn mồ côi, Nguồn:

http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/kin-nhung-vong-tron-mo-coi-

20101109013044119.htm, ngày 09/11/2010.

95. Trần Sáng (2008), Một vài suy nghĩ khi đọc Nháp, Nguồn:

lethieunhon.com

96. M.Stein (2001), Bản đồ tâm hồn con người của Jung, Nxb Tri thức,

Hà Nội.

97. S.Freud (2001), Vật tổ và cấm kị, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

98. S.Freud (2002), Nhập môn phân tâm học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

99. S.Freud (2004), Nhập môn phân tâm học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

100. S.Freud (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nxb

Thế giới,, Hà Nội.

101. S.Freud (2010), Tâm lý học đám đông và sự phân tích cái tôi, Nxb Tri

thức, Hà Nội.

102. Nga Sơn (2008), "Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Nháp không phải là một

cuốn tiểu thuyết suy đồi", Tạp chí TTGD tháng 12/2008.

103. Nga Sơn (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: "Phiên bản" hay một cuộc

vượt thoát để tìm về bản ngã, Nguồn: http://www.baomoi.com/nha-van-

nguyen-dinh-tu-phien-ban-hay-mot-cuoc-vuot-thoat-de-tim-ve-ban-

nga/c/3458216.epi, ngày 08/11/2009.

104. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

105. Đoàn Minh Tâm (2008), Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp- một chặng

đường tiểu thuyết Nguyễn Minh Tú, Nguồn:

http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=1085&so=4

108

106. Đoàn Minh Tâm (2008), Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của Nháp,

Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nhung-yeu-to-tao-

nen-su-hap-dan-cua-tieu-thuyet-nhap-2138355.html, ngày 13/11/2008.

107. Đoàn Minh Tâm (2007), Tiểu thuyết của các cất bút trẻ - đọc và cảm

nhận, Nguồn: http://vietvan.vn/vi/bvct/id231/Tieu-thuyet-cua-cac-cay-but-

tre,-doc-va-cam-nhan/

108. Lê Nhật Tăng (2009), Phản biện sex trong "Nháp" của Nguyễn Đình

Tú, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phan-bien-sex-

trong-nhap-cua-nguyen-dinh-tu-1972574.html, ngày 27/09/2008.

109. Nguyễn Thị Minh Thái (2010), Kín - một dòng tiểu thuyết miên man,

Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/kin-mot-dong-tieu-

thuyet-mien-man-1971348.html, ngày 23/11/2010.

110. Bùi Công Thuấn (2010), Nháp, sự tha hoá và vỏ bọc tri thức, Nguồn:

http://4phuong.net/ebook/48812762/nhap-su-tha-hoa-va-vo-boc-tri-

thuc.html

111. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn

hóa thông tin,Hà Nội.

112. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp ham muốn, Nxb Tri thức, Hà Nội.

113. Trần Văn Toàn (2007), Vấn đề tình dục trong VHVN qua truyện ngắn

Chí Phèo của nhà văm Nam Cao, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-

cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/5940-van-de-tinh-

duc-trong-van-hoc-viet-nam-tu-va-qua-truyen-ngan-chi-pheo-cua-nam-

cao.html , ngày 15/10/2016.

114. Trần Văn Toàn (2003), Về diễn ngôn tình dục trong văn xuôi Nghệ

thuật Việt Nam, http://toantransphn.blogspot.com/2015/02/dien-ngon-ve-

tinh-duc-trong-van-xuoi-hu_80.html

115. Nguyễn Đình Tú (2008), Nháp, Nxb Thanh Niên,Hà Nội.

109

116. Nguyễn Đình Tú (2010), Kín, Nxb Văn học, Hà Nội.

117. Nguyễn Đình Tú (2011), Phiên bản, Nxb Văn học, Hà Nội.

118. Nguyễn Đình Tú (2013), Hoang tâm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

119. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, Nxb Phụ nữ,

Hà Nội.

120. Vnexpress (2008), Nguyễn Đình Tú và những ám ảnh mang tên Nháp,

Nguồn:http://www.itaexpress.com.vn/tin_ita/th_thao_gi_i_tri/van_hoa_d_c/

nguy_n_dinh_tu_va_nh_ng_am_nh_mang_ten_nhap, ngày 02/10/2008.