ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
DƯƠNG THÚY HẰNG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
DƯƠNG THÚY HẰNG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học -
Đại học Thái Nguyên và được sự đồng ý của người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, tôi đã thực hiện đề tài: “Tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú từ góc nhìn phân tâm học”.
Bản Luận văn được hoàn thành bằng sự nỗ lực và cố gắng của bản thân
trong suốt thời gian từ khi nhận đề tài đến khi kết thúc vào tháng 6 năm 2017.
Trong suốt quá trình viết Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình và hướng dẫn chu đáo của PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh.
Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất
của các thầy giáo, cô giáo khoa Văn- Xã hội, trường Đại học Khoa học – Đại
học Thái Nguyên để Luận văn được hoàn thành đúng thời hạn.
Đồng thời, tôi cũng nhận được sự động viên, chia sẻ của gia đình, bạn
bè đồng nghiệp, hỗ trợ tôi rất nhiều về mặt tinh thần.
Cho phép tôi bày tỏ lòng tri ân tới PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh và lời
cảm ơn sâu sắc tới các quý vị!
Thái Nguyên, tháng 6 – 2017
Học viên: Dương Thúy Hằng
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Thái Nguyên, tháng 6-2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Dương Thúy Hằng
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
Chương 1. PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT
NGUYỄN ĐÌNH TÚ TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC ....................... 11
1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học ........................................................... 11
1.1.1. Phân tâm học của S.Freud .................................................................... 11
1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học) ................... 16
1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học .................................... 19
1.3. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết của một số nhà văn trẻ Việt Nam
đương đại (Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương…) ................................ 21
1.4. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ...................... 25
1.4.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Tú ............................ 25
1.4.2. Ảnh hưởng từ phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ........ 28
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 31
Chương 2. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC QUA CÁI NHÌN VỀ HIỆN
THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
......................................................................................................................... 32
2.1. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn
hiện thực .......................................................................................................... 32
iv
2.1.1. Không gian hiện thực đặc biệt - nơi hình thành những ẩn ức cá nhân 32
2.1.2. Không gian hiện thực của tiềm thức và giấc mơ - nơi chứa đựng
Những ẩn ức, mặc cảm, nỗi đau con người...................................................35
2.1.3. Không gian hiện thực tâm linh, phi lí - nơi cứu rỗi tâm hồn con người
......................................................................................................................... 39
2.2. Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú ........................................................................................................... 43
2.2.1. Con người bản năng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ..................... 44
2.2.2. Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
......................................................................................................................... 55
2.2.3. Con người thần kinh, đa nhân cách trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú . 63
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 67
Chương 3. DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC TRONG NGHỆ THUẬT TIỂU
THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ ................................................................... 68
3.1. Biểu tượng nghệ thuật mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 68
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nghiêng về thế giới vô thức của
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú .................................................. 70
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú ............................................................................................. 74
3.3.1. Ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục .................................................. 74
3.3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 79
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn xuôi đương đại ngày càng xuất hiện những gương mặt trẻ, tiêu
biểu, gây được tiếng vang và sự quan tâm, chú ý của giới phê bình cũng như
bạn đọc. Tuy nhiên, những tác phẩm trẻ trung ấy vừa xuất hiện và còn nóng
hổi tính thời sự nên thành tựu nghiên cứu về chúng vẫn còn khiêm tốn. Bởi
thế, việc nghiên cứu những tác phẩm của họ là cần thiết để góp phần đánh giá
một cách toàn diện về diện mạo nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thế kỉ XXI.
1.2. Nguyễn Đình Tú là cây bút thuộc thế hệ 7x, từ rất sớm nhà văn này
đã có ý thức đi theo con đường chuyên nghiệp. Anh còn là một cây bút đa tài,
sáng tác ở nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau, từ truyện ngắn đến tiểu
thuyết, từ văn học thiếu nhi đến văn học về giới trẻ, về chiến tranh… Và ở thể
loại nào, tác phẩm của anh cũng để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng độc
giả. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, đổi mới “đứa con tinh thần” của mình,
tác phẩm Nguyễn Đình Tú luôn tạo nên những luồng dư luận nhiều chiều,
khen có, chê có, thích thú có, ghê sợ có… Bởi vậy mà các tác phẩm của
Nguyễn Đình Tú luôn “nóng hổi” tính thời sự và có sức hút đối với người
nghiên cứu.
1.3. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI đã
xuất hiện nhiều xu hướng đổi mới, cách tân cả về mặt nội dung và hình thức.
Để đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện đặc điểm, thành tựu và hạn chế của
thể loại văn học này cần áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong số
đó, hướng tiếp cận văn chương từ góc nhìn phân tâm học ngày càng được chú
ý. Đặt tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh sáng phân tâm học, người viết có
cơ sở khoa học để soi sáng các giá trị, chỉ ra các ưu điểm, nhược điểm trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Từ đó nhằm đánh giá sáng tác của ông một cách
toàn diện và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, đây là một công việc hết sức khó khăn
2
bởi bản thân lý thuyết Phân tâm học không dễ thấu hiểu và chưa được vận
dụng phổ biến trong nghiên cứu văn chương ở nước ta.
Vì những lí do trên, người viết lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn Phân tâm học” với mong muốn góp phần
khám phá và luận giải về những vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học ở Việt Nam
Phân tâm học đã được đưa vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam từ khá
sớm qua các công trình: Chuyên luận về Hồ Xuân Hương Thân thể và văn tài
(1936) của Nguyễn Văn Hanh, bài viết Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương của
Trương Tửu. Chuyên luận Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực (1995)
của Đỗ Lai Thuý. Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, Đáp lời con quái vật
Sphinx hay Ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu… in trong tập Bút pháp của
ham muốn, Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật, Phân tâm học và văn hoá
tâm linh cũng là những công trình có tính ứng dụng cao của Đỗ Lai Thuý.
Phân tâm học trong nghiên cứu văn học (bài giảng của Evelyne Grossman,
GS Văn học Pháp đương đại ĐH Pari, Nguyễn Thị Từ Huy dịch), Phân tâm
học và nghiên cứu, phê bình văn học nghệ thuật (bài báo khoa học của Lê
Đình Cúc, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), Phân tâm học trong
nghiên cứu văn học ở Việt Nam (đề tài khoa học cấp Đại học của Cao Thị
Hồng), Phân tâm học văn bản và phê bình văn học (bài báo khoa học của
Đoàn Anh Dương, Viên khoa học)...
Ngoài ra, trong phạm vi các trường Đại học cũng xuất hiện một số công
trình nghiên cứu văn học từ lý thuyết Phân tâm học dưới dạng các khoá luận
tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ.
3
2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Bàn về các tác phẩm cụ thể là Nháp, Kín, Phiên bản và Hoang tâm
người viết xin trích dẫn lại một số ý kiến tiêu biểu. Cụ thể là các bài viết:
Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú (Lương Giang), Nháp hay là một
sự xới xáo đáng trân trọng (Hoàng Anh), Nháp, từ một cuộc sống phàm phũ
đến dự cảm văn chương (Đình Khôi), Nháp hay là sự yếm thế tâm hồn (Hoài
Hương), Nháp và nỗi cô đơn khi… sex (Lương Nguyên), Nháp hay văn
chương dành cho giới trẻ? (Mai Đình Khôi).
Xoay quanh tác phẩm này đã có những cuộc bút chiến nảy lửa. Trong
bài viết “Nháp - sự tha hóa và vỏ bọc tri thức”, Bùi Công Thuấn đã lấy dẫn
chứng một số ý kiến nhận xét về Nháp: “Tiểu thuyết Nháp của Tú đúng là tác
phẩm mới ở dạng nháp thôi. Nó là cuốn trung bình non, có gì mà ầm ĩ lên
thế” (Lê Tự). “Chu Lai hiểu thực chất cuốn tiểu thuyết này như thế nào.
Nhưng ông này không đủ dũng cảm để nói thẳng, bởi thế ông phải dùng một
loại ngôn ngữ hỏa mù. Nhưng Chu Lai là người không giỏi thao tác loại ngôn
từ này nên mới viết như thế. Xin tác giả Nháp bình tĩnh và thành công trong
tác phẩm tới và nên quên đi những lời giới thiệu vô thưởng vô phạt như thế
này” (Ngô Hoàng Lễ). Bùi Công Thuấn đã phân tích cái vỏ bọc tri thức trong
tác phẩm để đi đến nhận xét: “Nếu như trước đây những cuốn như Bảy đêm
khoái lạc, Cô giáo Thảo bị coi là đồi trụy, bị truy quét thì Nháp còn đồi trụy
gấp nhiều lần những cuốn sách truyền tay nhau ấy chỉ vì nó được khoác cái
vỏ “tư tưởng” và vỏ trí thức khiến cho người ta phải lưỡng lự khi kết luận về
nó, không biết nó là một tác phẩm tư tưởng hay một cuốn sách đồi trụy. Sự
độc hại nguy hiểm của Nháp chính là ở chỗ lập lờ ấy” [110].
Bên cạnh những ý kiến phê phán là tiếng nói khẳng định. Võ Thị Xuân
Hà đánh giá: “Nháp không chỉ là một thông điệp lạnh lùng, Nháp không chỉ
có sex và giết người” [44]. Hay một số bài viết như: Một cách nhìn khác về
4
Nháp (Trần Tố Loan), Nháp không phải là một cuốn tiểu thuyết suy đồi (Nga
Sơn), Phản biện sex trong Nháp của Nguyễn Đình Tú (Lê Nhật Tăng). Nhà
phê bình Văn Giá có lời nhận xét: “Đọc Nháp, tôi cho rằng ít nhất Nguyễn
Đình Tú làm được việc rất quan trọng của tiểu thuyết: Thứ nhất, tiểu thuyết
có tư tưởng và thứ hai, nói được về thế hệ của chính anh trong xã hội hiện
nay” [39]. Đoàn Minh Tâm đánh giá Nháp có bốn cái mới như sau: “Một là
ngôn ngữ, hai là độ mở, ba là cách xây dựng nhân vật và bốn là tính giải trí.
Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có chất luật, chất lính biểu hiện ở tính hình
sự điều tra”. “Xây dựng kiểu nhân vật thần kinh là bước nỗ lực lớn của
Nguyễn Đình Tú trong việc làm mới chính mình” [106].
Đối với tiểu thuyết Phiên bản, cuốn tiểu thuyết đoạt giải B Cuộc thi
sáng tác tiểu thuyết, truyện và kí vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống
(giai đoạn 2007 - 2010) do Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức,
Đoàn Ánh Dương khẳng định: “Nguyễn Đình Tú không lập hồ sơ tội phạm
bằng án tích mà chủ yếu bằng thương tích”. Ông cho rằng: “Nguyễn Đình Tú
không chú ý đi sâu vào xây dựng tình huống, những tình tiết giàu kịch tính,
những hình ảnh li kỳ, gay cấn giống như những tác phẩm trinh thám của nhân
vật, thái độ, xúc cảm của nhân vật trong cái nhìn hồi cố” [28]. Phiên bản còn
nhận được những đánh giá, nhận xét ở nhiều bình diện, nhiều vấn đề qua các
bài viết như: Phiên bản hay tính thiện và tính ác trong một con người của Ma
Văn Kháng, Phiên bản, những mảng tối của cuộc đời của Nghiêm Tuấn,
Phiên bản của bạo lực và tính người của Giang Nam và Hoài Hương với bài
viết Nhà văn Nguyễn Đình Tú, tiểu thuyết Phiên bản: tội ác mang khuôn mặt
đàn bà.
Đến 2010, khi Kín ra đời thì cuốn sách dày hơn 400 trang này lại đi
sâu, bóc tách, lí giải chân dung lớp trẻ đương đại. Cuốn tiểu thuyết này tiếp
tục tạo nên sóng gió trên văn đàn. Nhà văn Nguyễn Hữu Quý không đánh giá
5
cao tác phẩm. Trong bài “Kín có bột chưa gột nên hồ”, ông nhận xét: “Vốn
sống, tư liệu là chất liệu quan trọng nếu không muốn nói là chủ yếu làm nên
tác phẩm, điều ấy ai cũng biết. Nhưng để những cái đó trở thành nhân vật,
chi tiết, không gian sinh động trong tiểu thuyết thì chẳng phải dễ dàng gì, nó
đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài trí, tâm sức của người cầm bút. Nếu không cao
tay, không nôn nóng vội vã, đôi khi có bột rồi ta cũng không gột nên hồ. Vốn
sống, tư liệu chỉ là thứ quặng thô, muốn thành sản phẩm tinh phải qua sàng
lọc, chế biến nghiêm ngắn với những công nghệ tiên tiến hiện đại càng có
chất lượng cao. Kín chưa phải là một sản phẩm tinh xảo, mới lạ”. [91]. Bên
cạnh đó lại có rất nhiều ý kiến bênh vực tác phẩm. Đối thoại với Nguyễn Hữu
Quý, Phí Thùy Hương cho rằng: “Trong mặt bằng tiểu thuyết hôm nay, thiết
nghĩ, với việc công bố Kín, Nguyễn Đình Tú đã cho ra đời một tác phẩm ấn
tượng. Theo cách nói của Nguyễn Hữu Quý, chất liệu trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú là thứ bột nhưng chưa gột nên hồ. Chúng tôi lại thấy ngược
lại, rằng Nguyễn Đình Tú đã làm nên thứ bánh có chất lượng, nói theo ngôn
ngữ kinh doanh tức là có thương hiệu riêng và được người tiêu dùng ủng hộ”
[61]. Lê Quốc Hiếu cũng nhận định “Kín là cảm thức về thân phận lạc loài,
hoang hoải của Nguyễn Đình Tú” [51]. Nhà nghiên cứu Inrasara còn dự cảm
“Kín chấm dứt một hành trình, mở ra một hành trình khác” [65] trong sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Tú.
Với lối viết độc đáo, mới lạ, “không giống ai”, Nguyễn Đình Tú đã mở
ra cho mình một hướng đi riêng trong làng văn, có lẽ vì vậy mà tác phẩm của
anh luôn có những ý kiến trái chiều, khen rất nhiều nhưng chê cũng không ít.
Đến nay, xoay quanh tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không chỉ dừng lại ở những
lời giới thiệu, những bài viết ngắn nêu ý kiến tranh luận, đánh giá của các nhà
văn, giới phê bình, một số công trình nghiên cứu bài bản, có hệ thống, quy mô
và chất lượng dưới dạng khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ đã làm rõ
6
nhiều khía cạnh về nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú như: khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thùy “Ngôn từ nghệ thuật
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, nó đã phân tích, kiến giải mối quan hệ
giữa ngôn từ tiểu thuyết và cảm quan về thế giới quan của nhà văn. Luận văn
thạc sĩ của Phạm Thị Bình với đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”, trong đó
khảo sát một số phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú.
2.3. Một số ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài
Trong tham luận trình bày tại Hội thảo “Văn học đương đại dưới cái
nhìn Phân tâm học”, bài viết Yếu tố kì ảo trong Nháp của Nguyễn Đình Tú từ
góc nhìn Phân tâm học đã phân tích và lý giải những chi tiết nghệ thuật bằng
lý thuyết của Freud: “Nói như Freud, chấn thương là nguồn gốc của mọi sự
bấn loạn về tinh thần. Mọi thương tổn đều có thể gây ra những rối loạn, ám
ảnh, hằn sâu trong tâm hồn mỗi người. Sự mặc cảm lan tỏa như một thứ bóng
đen gặm nhắm, bào mòn. “Nháp” không thiếu những mặc cảm như thế. Đó là
những thương tổn trong quá khứ, day dẳng trong hiện tại buộc con người đi
về trong nỗi sợ hãi, và cô đơn ghê gớm. Để chạm vào những lo âu, đau đáu
trong vô thức, hay chập chờn của nỗi sợ, Nguyễn Đình Tú lồng vào đó những
yếu tố kỳ ảo. Khi con người mất niềm tin, họ thường hay trốn vào siêu hình,
họ muốn tìm một nơi ẩn náu. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện như một sợi dây mong
mảnh giữ lấy tâm hồn người, níu lại, không để họ trượt dài trong buông xuôi,
vô vọng” [55].
Khoá luận tốt nghiệp “Giọng điệu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ yếu tố
tính dục” của Nguyễn Thị Phương Nhi, Đại học Đà Nẵng, 2012 đã bước đầu
đề cập đến quan niệm của nhà văn về tình dục và sự chi phối của tính dục đến
việc xây dựng nhân vật và lựa chọn giọng điệu trong các tiểu thuyết. Bài viết
Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết Nháp của Đoàn Minh Tâm
7
cũng đề cập đến việc nhà văn vận dụng Phân tâm học trong xây dựng nhân
vật: “Cùng với việc miêu tả nhân vật trong một “lát cắt cuộc sống đủ dài” mà
chúng tôi vừa đề cập ở trên, Nguyễn Đình Tú có bước thay đổi lớn lao khi lần
này anh miêu tả, xây dựng kiểu nhân vật tâm thần (được hiểu là lệch chuẩn về
tâm sinh lý). Dựa trên nguyên lý khá nổi tiếng của một nhà phân tâm học:
Mọi người đều là người điên, duy chỉ có người điên là giống họ hơn chúng ta
mà thôi, Nguyễn Đình Tú đã phác thảo nhiều chân dung những con bệnh thần
kinh mà tiêu biểu là Thạch và Nguyễn Toàn. Điểm khác biệt giữa hai nhân
vật này với các nhân vật như Bạch Đàn hay Minh Việt (trong hai tiểu thuyết
trước) là ở chỗ tuy cùng gặp bất hạnh trong cuộc sống nhưng bất hạnh của
họ không chịu tác động lớn của nhân tố bên ngoài - tức là do hoàn cảnh sống
đưa đẩy. Bất hạnh của Thạch và Nguyễn Toàn ở dạng hoàn toàn khác. Nó có
nguồn gốc tự bản thân họ. Họ phải chống chịu với những ý nghĩ, những ham
muốn bản năng - mà ý chí, lương tâm - biết là lệch lạc đang ngày đêm hiện
hữu nơi xác thân” [106]. Như vậy, ta có thể thấy các bài viết, các công trình
nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích yếu tố tính dục chứ chưa đi
sâu vào bản thể tinh thần và mới đề cập đến một tác phẩm cụ thể mà chưa có
sự tìm tòi, nghiên cứu toàn diện các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú từ góc
nhìn Phân tâm học. Với những lý do trên, người viết lựa chọn đề tài này với
hi vọng góp một cái nhìn thấu triệt hơn về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc
nhìn Phân tâm học.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Dấu ấn phân tâm học qua cái nhìn về con người và hiện thực cuộc
sống trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
8
Thông qua tìm hiểu dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú, luận văn góp phần soi sáng thêm những giá trị tư tưởng và đặc sắc
nghệ thuật của cây bút văn xuôi hiện đại này.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ
- Khái lược lý thuyết phân tâm học và việc vận dụng phân tâm học vào
phân tích tác phẩm văn học ở Việt Nam.
- Từ góc nhìn Phân tâm học, làm sáng tỏ những đóng góp riêng biệt của
Nguyễn Đình Tú qua cái nhìn nghệ thuật về hiện thực và con người.
- Phân tích sự chi phối của thuyết Phân tâm học trong những sáng tác
của Nguyễn Đình Tú.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn Phân tâm học: khái lược
hệ thống lý thuyết Phân tâm học, từ đó soi chiếu sự ảnh hưởng của lý thuyết
này đối với tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
- Phương pháp tổng hợp: Người viết tiếp cận văn bản tác phẩm Nguyễn
Đình Tú, phân tích các chi tiết sự kiện... để đi đến hình thành và xác lập luận
điểm khoa học về dấu ấn Phân tâm học trong các sáng tác đó một cách thống
nhất.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, Xã hội học):
nghiên cứu ảnh hưởng của nó đối với sáng tác và phê bình văn học trong đó
trực tiếp nghiên cứu ở tác phẩm Nguyễn Đình Tú.
- Phương pháp so sánh đồng đại lịch đại: trong những trường hợp cần
thiết, người viết sử dụng phương pháp so sánh để tìm thấy sự khác biệt trong
9
cách phản ánh hiện thực và con người của Nguyễn Đình Tú với các nhà văn
cùng thời và trước đó.
- Phương pháp thi pháp học.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu bốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú:
Nháp (2008, Nxb Thanh niên), Kín (2010, Nxb Văn học), Phiên bản (2011,
Nxb Văn học), Hoang tâm (2013, Nxb Hội Nhà văn).
- Ngoài ra luận văn còn so sánh, mở rộng tới những dấu vết của phân
tâm học trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy
Anh hay trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Phân tâm học và tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ
góc nhìn phân tâm học
Chương 2: Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn về hiện thực và con
người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Chương 3: Dấu ấn Phân tâm học trong nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú.
7. Đóng góp của luận văn
- Góp thêm cái nhìn mới mẻ về tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú và về
quan niệm nghệ thuật của nhà văn này về hiện thực và con người.
- Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ một góc nhìn khác, góc nhìn
Phân tâm học, từ đó lý giải các vấn đề về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm Nguyễn Đình Tú.
10
- Đánh giá những đóng góp cũng như vị trí của tác giả trong tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại
nói chung.
11
Chương 1
PHÂN TÂM HỌC VÀ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
1.1. Khái lược lý thuyết phân tâm học
1.1.1. Phân tâm học của S.Freud
Được mệnh danh là “Newton của tâm hồn” với câu nói đầy ấn tượng:
“Cái tôi không phải người chủ trong nhà của mình” cùng mong muốn được
vĩ đại như Anhxtanh, Copernic và Darwin, nhà triết học người Áo Sigmund
Freud (1856 - 1939) đã sáng lập ra Phân tâm học - một trường phái tư tưởng
hiện đại về lĩnh vực tâm lý học vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Ngay
từ khi ra đời, Phân tâm học đã thực sự gây choáng váng giới học thuật, thậm
chí, lúc bấy giờ người ta còn nói đến nó như một cuộc cách mạng về tư duy
trong triết học hiện đại.
Ở thế kỉ XV - XVI, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng ra đời ở nhiều
nước đã mở đầu cho thời kì quá độ từ chế độ phong kiến lên tư bản chủ
nghĩa ở châu Âu gắn liền với lý tưởng đấu tranh cho con người được phát
triển tự do, được tôn trọng, đề cao, được thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh
thần và con người cá nhân được giải phóng. Cuộc cách mạng công nghiệp
cuối thế kỉ XIX cùng những phát minh mới về hình ảnh, các loại sách báo về
tình dục đã làm thay đổi quan niệm của con người. Song song với sự phát
triển của kinh tế cùng những khát vọng tự do cá nhân thì trong đời sống tinh
thần xã hội tư bản cũng xuất hiện những mâu thuẫn hết sức gay gắt giữa một
bên là những quan niệm truyền thống đã ăn sâu vào nếp nghĩ không thể xoá
bỏ của loài người với một bên là những tư tưởng, quan niệm mới nhằm giải
phóng con người. Vì lẽ đó, bản thân cá nhân luôn phải sống trong sự đấu
tranh nội tâm giằng xé, dễ dẫn đến nảy sinh sự ức chế trong hoạt động tinh
thần, đặc biệt lại là sự ức chế tình dục. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX cũng
12
là thời kì bão táp của các cuộc cách mạng và chiến tranh thế giới, nước Áo-
quê hương của Freud cũng bị cuốn vào vòng xoáy đó: cái chết, sự đói nghèo,
đau khổ, mất mát đe doạ cuộc sống thể xác và tinh thần của mỗi con người,
những căn bệnh tâm lý luôn có nguy cơ phát triển theo. Chính thực trạng này
đã thúc đẩy những bác sĩ khoa học tâm thần đi tìm những phương pháp trị
bệnh mới. Trong khi lúc bấy giờ, phương pháp thôi miên mà người ta sử
dụng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn. Nhận
thấy sự hạn chế này, Freud đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nhằm tìm ra
phương pháp mới hiệu quả hơn. Ông cho rằng những bệnh nhân bị nhiễm
bệnh nhiễu tâm - chứng bệnh tâm thần do rối loạn nhân cách dẫn đến sống
trong lo sợ, lo âu, thất vọng, cuồng loạn… xuất phát từ những gì trải qua ban
đầu thuở ấu thơ, phát triển trong một thời gian dài và do bản năng tính dục
mạnh mẽ ức chế không được giải toả. Freud thay thế phương pháp thôi miên
bằng phương pháp liên tưởng tự do, cho phép bệnh nhân trình bày các ý
nghĩa trong trạng thái thư giãn tỉnh táo và thông giải các ẩn ức thuở ấu thơ,
các giấc mộng để giúp bệnh nhân nhận biết một cách có ý thức các tình
huống bị quên lãng, từ đó bộc lộ nguyên nhân gây bệnh. Cả quá trình nghiên
cứu tâm huyết và cũng khá nhiều nhà nghiên cứu bấy giờ ủng hộ. Freud đã
lập ra học thuyết Phân tâm học với tư cách là một triết học về tâm lý và nhân
cách con người mà chủ đạo là vô thức và tính dục.
Freud đã đưa ra triết học về thế giới tinh thần của con người với việc
phát hiện ra “bộ máy tâm thần”. Ông viết: “Quá trình tâm lý chủ yếu là
thuộc về tiềm thức, còn như quá trình tâm lý của ý thức chẳng qua chỉ là
một động tác bộ phận được tách ra từ toàn bộ tâm linh. Chúng ta cần nhớ
rằng trước nay người ta cho tâm lý là ý thức, ý thức dường như là đặc trưng
của đời sống tâm lý, và tâm lý học được xem là khoa học nghiên cứu nội
dung của ý thức. Cách nhìn này quá rõ ràng đến nỗi bất kì một sự phản đối
nào cũng bị xem là gây rối. Nhưng mà trái lại, Phân tâm học không đề
kháng thành kiến này, không thể không phủ nhận lối nói tâm lý là ý thức.
13
Phân tâm học cho rằng tâm linh có bao hàm tác dụng của tình cảm, tư
tưởng, dục vọng… mà tư tưởng và dục vọng đều có thể là tiềm thức” [98,
tr.265]. Nhà tâm lý học này đã nêu ra kết cấu 3 tầng của hoạt động tâm lý
con người như sau:
Hệ thống vô thức: là kho tàng của dục vọng bản năng sinh vật. Những
bản năng và dục vọng này chất chứa những năng lượng tâm lý mạnh mẽ, phục
tùng theo nguyên tắc khoái lạc và ra sức xâm lấn vào cõi ý thức để thoả mãn.
Hệ thống tiềm thức (tiền ý thức, hạ ý thức): được cấu thành bởi những
kinh nghiệm, làm thành bộ phận trung gian giữa hệ thống ý thức và vô thức,
trong đó cất giấu lương tâm và lý tưởng cá nhân được cấu thành bởi những
chuẩn tắc, quy phạm và quan niệm về giá trị, về xã hội, luân lý tôn giáo… có
nhiệm vụ ngăn không cho những bản năng mạnh mẽ xâm nhập vào ý thức.
Hệ thống ý thức: phục tùng nguyên tắc hiện thực, loại bỏ những bản
năng và dục vọng của con người, làm cho giữa cá nhân và xã hội thường
xuyên trong trạng thái đối lập. Bản năng và dục vọng bị dồn nén sẽ chuyển
dần vào lĩnh vực vô thức, để bảo toàn năng lượng tâm lý, cũng có khả năng
chuyển hoá thành bệnh tâm thần nếu không có lối thoát, không đủ sức chịu
đựng. Nó tìm cách giải thoát để được thoả mãn qua những giấc mơ và đặc biệt
hơn là thăng hoa trong những phát minh khoa học hoặc sáng tạo nghệ thuật.
S.Freud đã triển khai Phân tâm học vào nghiên cứu nhiều mảng đề tài
khác nhau từ con người đến văn hoá. Trong đó, tâm lý và nhân cách con
người luôn là những vấn đề đáng quan tâm. Theo ông, nhân cách con người
được xây dựng qua sự tương tác phức hợp giữa các xung năng với những
kinh nghiệm thời niên thiếu của họ. Hành vi con người là kết quả của cách
nuôi dạy, đối xử của bố mẹ khi còn ở thời tuổi nhỏ, đặc biệt trong năm năm
đầu tiên của cuộc đời. Trong lý thuyết của ông, con người tiếp tục thoả mãn
những mong muốn của họ theo cách mà họ tương tác với người khác trong
quá khứ, hay cách mà họ thoả mãn mong muốn của mình thời thơ ấu. Những
14
vấn đề quan trọng được họ đề cập tới trong lý thuyết của Freud đó là bản
năng, vô thức và cấu trúc nhân cách của con người. Về bản năng, ông cho
rằng con người được sinh ra với những bản năng thuộc về vô thức. Nó bao
gồm các bản năng sống (Eros) và các bản năng chết (Thanatos).
Bản năng sống: bao gồm tất cả những gì liên quan đến sự tồn tại của
cá nhân và tập thể như: đói khát, tình dục. Năng lượng của bản năng sống
này được ghi vào libido - bản năng tình dục. Tình dục là bản năng sống mà
Freud gắn vào tầm quan trọng nhất trong việc phát triển nhân cách. Nó là
năng lượng của sự sống, năng lực làm chúng ta sống, hoạt động, hưởng thụ,
tạo sự thăng bằng bên trong cơ thể chúng ta bằng cách làm cho con người
tránh được những căng thẳng, đau đớn, thoả mãn nhu cầu của con người.
Bản năng sống rất quan trọng để duy trì cuộc sống cá nhân cũng như sự tiếp
tục của loài.
Bản năng chết: là hệ thống năng lượng của những sinh vật sống săn
đuổi liên tục một trạng thái cân bằng và chỉ có thể đạt được thông qua cái
chết. Fred chủ trương mục tiêu của toàn bộ cuộc sống là cái chết, cái không
sinh sống có trước cái sinh sống. Bản năng chết thể hiện khuynh hướng bất
khả kháng của mọi sinh vật sống là quay về trạng thái vô cơ. Biểu hiện của
bản năng chết là lặp lại một trạng thái, nỗi buồn, nỗi đau có trước nào đó.
Bản năng chết còn được thể hiện ở bản năng gây gổ, bản năng huỷ diệt, đặc
biệt là huỷ diệt chính bản thân mình. Bản năng chết được xem như là nền
tảng của toàn bộ hành vi hiếu chiến và tàn sát như: sát nhân, tự tử, thù
nghịch, tàn nhẫn, những lời thoá mạ, sự tấn công bằng vũ lực. Người có bản
năng chết mạnh thường có xu hướng tự tử. Theo Freud, những tham vọng
hiếu chiến, cội nguồn của những bản năng chết quan trọng ngang bằng với
bản năng sống trong việc thúc đẩy hành vi con người.
Trong con người luôn tồn tại hai loại bản năng có sức mạnh ngang
nhau và có xu hướng chống đối nhau, một loại thúc đẩy hành động sống và
15
chinh phục cuộc sống, một loại thúc đẩy sự buông xuôi, tan biến và dẫn đến
cái chết. Sự tương tác của hai bản năng này dẫn đến tính chất lưỡng năng
tình cảm trong cảm xúc con người.
Về cấu trúc nhân cách, Freud cho rằng nó có ba cấu thành: cái nó (Id),
cái tôi (Ego) và cái siêu tôi (Super Ego). Cái nó hoạt động theo nguyên tắc
thoả mãn, gồm bản năng vô thức và thúc đẩy con người thoả mãn những
mong muốn mà không tính tới các nguyên tác và các quy định của xã hội.
Cái tôi hoạt động và kiểm soát bằng thực tiễn thế giới xung quanh. Cái siêu
tôi hoạt động theo nguyên tác kiểm duyệt, bao gồm ý thức và đạo đức trong
mối quan hệ bên ngoài. Cả ba được quy định, ảnh hưởng lẫn nhau và có thể
gây mâu thuẫn dễ làm cho con người rơi vào tình trạng căng thẳng nhưng
chính Freud đã phát hiện ra giải pháp khắc phục là những cơ chế để tạo ra sự
cân bằng trong tâm lý của con người.
Tuy nhiên, trên thế giới, những ý kiến đánh giá đối với chủ nghĩa
Freud rất phức tạp. Nhà tâm lý học hành vi phương Tây B.F.Skinner đã kịch
liệt lên án Phân tâm học, cho nó là một thứ huyền thoại siêu hình. Liên Xô
cũng từng có xu hướng phủ định hoàn toàn Phân tâm học, cho nó là phản lý
tính, phản nghệ thuật. Phương Đông cũng không tránh khỏi lên án Phân tâm
học có lẽ do quá xa cách về truyền thống đạo đức. Ở Việt Nam, nhà phê bình
Phương Lựu bên cạnh việc khẳng định sức mạnh của Freud cũng cho rằng
tác giả đã “tuyệt đối hoá vô thức, đi đến chỗ phủ định vai trò chủ đạo của ý
thức đối với hành động của con người trong đời sống hiện thực. Hơn nữa,
ông chỉ thừa nhận trong vô thức cái bản năng tính dục như là hạt nhân cơ
bản mà không thấy những thuộc tính xã hội và văn hoá lịch sử của vô thức.”
[98,tr.276]
Bên cạnh đó, nhân loại cũng ghi nhận những sức mạnh và đóng góp
của học thuyết này. Phân tâm học với sự phát hiện thế giới vô thức của con
người góp phần vạch ra ranh giới giữa tâm lý học hiện đại và tâm lý học cổ
16
điển. Trong khi đó, tâm lý học cấu tạo của W.Wande chỉ nghiên cứu nội
dung tâm lý mà con người ý thức được, tâm lý học cơ năng của W.Janes chỉ
nghiên cứu sự nảy sinh ý thức trong mối tương tác giữa con người và ngoại
giới. Mặc dù có những đóng góp khác nhau nhưng các trường phái tâm lý nói
trên đều nghiên cứu các hoạt động ý thức rất rõ ràng. Còn Freud lại đưa ngành
tâm lý học sang một bước ngoặt mới với sự chú trọng nghiên cứu phần tiềm
thức và vô thức ẩn sâu trong tâm lý con người. Phân tâm học cũng gây ảnh
hưởng sâu sắc và bền vững đối với các lĩnh vực như y học, xã hội học, nghệ
thuật học, khoa học thực nghiệm, ngôn ngữ học…; chi phối lịch sử tư duy của
thế giới, góp phần định dạng lại kiến thức và giá trị của con người.
Freud đã xây dựng một học thuyết vĩ đại bắc cầu giữa triết học và tâm
lý học, tạo tiền đề cho sự phát triển của các học thuyết tiến bộ khác cũng
như những nghiên cứu và phát hiện khoa học liên ngành. Trước Freud không
có bất kì học thuyết nào có hệ thống để giúp cho việc cắt nghĩa tình trạng rối
loạn cảm xúc của con người như trong vô thức. Con người được thúc đẩy
như thế nào bởi những áp lực vô thức để tham dự vào các hành vi quan trọng
của mình, những hành vi đó phát triển và diễn tiến như thế nào, con người
biến đổi những hành vi đó theo hướng thiện ác ra sao… Trả lời những câu
hỏi này, có lẽ, giá trị thành công vĩ đại nhất của học thuyết Freud liên quan
đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống, không chỉ văn học nghệ thuật nói
riêng, Phân tâm học ra đời đã mang đến một cái nhìn tổng quan nhận thức về
bản chất và hành vi của con người. Sự phát triển của Phân tâm học cũng tạo
nên những bất đồng về quan điểm, nó phân ra làm nhiều nhánh khác nhau,
cũng chính điều đó tạo nên sự phong phú và đa dạng cho lý thuyết này.
1.1.2. Phân tâm học của Jung (còn được gọi là Tâm phân học)
Nhà phân tâm học người Thuỵ Sĩ Card Gustav Jung (1875 - 1961) là
học trò ưu tú của Freud. Jung có nhiều quan điểm đi ngược lại với quan
điểm của Freud nhưng lại là sự trái ngược với nhiều quan điểm tích cực như
17
cho rằng bệnh thần kinh không nhất thiết dựa trên sự dồn nén tình dục, các
giấc mơ không chỉ mang những ham muốn bị dồn nén… libido cũng là khái
niệm cơ bản trong lý thuyết của freud và Jung. Nhưng Jung cho rằng, libido
không chỉ là đặc điểm tình dục mà như một năng lượng sống nguyên cơ và
có tính vũ trụ. Đóng góp quan trọng của Jung trong Phân tâm học là xây
dựng lý thuyết vô thức tập thể - tài sản chung của nhân loại được cấu trúc
bởi những siêu mẫu hay cổ mẫu.
Theo quan niệm của Jung, ứng với mỗi trạng thái của con người sẽ có
một cổ mẫu tương ứng. Trong quá trình tìm kiếm cổ mẫu, Jung nhận thấy
một số cổ mẫu thể hiện quá trình phát triển tâm lý cá nhân theo một dòng
liên tục. Đó là Persona, Shadow, Anima, Animus, Self. Các cổ mẫu có tác
dụng dẫn đường và điều phối sự phát triển tâm lý con người từ một tâm thần
nguyên thuỷ chung thành những cá nhân riêng biệt mà Jung gọi là quá trình
cá nhân hoá (individuation).
Persona (mặt nạ nhân cách): Đây là loại cổ mẫu của tâm lý cầu đồng,
nó có tác dụng làm cho con người khi giao tiếp có thể che giấu “cái tôi thực”
và sắm một vai khác cho dễ phù hợp với xã hội. Phân tích Persona là đi tìm
cái đích thực cá nhân dưới lớp vô thức tập thể.
Shadow (cái bóng): Trong quá trình phát triển, đặc biệt để tạo dựng
một chiếc Pesona, con người buộc phải che giấu một phần nhân cách của
mình. Phần nhân cách bị che giấu đó, cả tốt lẫn xấu mà cái tôi hoặc là bị dồn
nén, hoặc là không bao giờ nhận biết được, có vai trò ngược lại với Persona,
gọi là Shadow. Về bản chất, Shadow được cấu thành chủ yếu từ ham muốn
bị dồn nén và những xung lực hoang dã, những động cơ thấp kém về đạo
đức, những huyễn tưởng trẻ con và những thù hận… tức là tất cả những gì
mà con người không tự hào. Những đặc trưng cá nhân không được nhận biết
này thường được trải nghiệm qua người khác thông qua sự phóng chiếu.
18
Anima (khía cạnh nữ tính ở nam giới): Đây vừa là một tổ hợp cá nhân,
vừa là một cổ mẫu trong tâm thần đàn ông. Đó là một nhân tố vô thức được
tái hiện lại ở mọi đứa bé trai và là nguồn gốc của những phóng chiếu tâm lý.
Lúc đầu, Anima được đồng nhất với người mẹ, nhưng sau đó nó được trải
nghiệm ở người phụ nữ khác và có ảnh hưởng chi phối tới toàn bộ cuộc đời
người đàn ông, Theo Jung, với tư cách là một nhân tố bên trong, Anima là
sự bổ sung cho Persona: Persona hình ảnh lý tưởng một người đàn ông muốn
vậy, được bù trừ ở bên trong bởi sự yếu kém nữ tính và vì ở bên ngoài, cá
nhân đóng một vai trò mạnh mẽ, nên ở bên trong anh ta chỉ là một người phụ
nữ, tức là Anima, vì Anima đã phản ứng là Persona. Nhưng bởi thế nên
người đàn ông không hoàn toàn nhận biết được yếu kém của mình và khi
anh ta càng đồng nhất mình với Persona, mặt đối trọng với nó, Anima sẽ
hoàn toàn ở trong bóng tối.
Animus (khía cạnh nam tính ở nữ giới): Giống như Anima, Animus
vừa là một tổ hợp cá nhân, vừa là một hình ảnh cổ mẫu, phụ nữ được bù trừ
bởi một yếu tố nam tính, do vậy, vô thức của phụ nữ cũng có dấu ấn nam tính.
Sefl (vô thức tự ngã/chân ngã): chiếm vị trí trung tâm trong các loại cổ
mẫu, nó có tác dụng tập trung những rời rạc của vô thức tập thể, có tác dụng
điều hoà nội tâm và ngoại giới. Sefl là cổ mẫu về sự tổng thể và trọng tâm
điều phối của tâm thần, một sức mạnh siêu cá nhân vượt qua cái tôi: Sefl
không chỉ là trung tâm mà còn là cái vòng tròn bao bọc cả ý thức lẫn vô
thức. Nó là trọng tâm của tổng thể này, giống như cái tôi là trọng tâm của ý
thức. Sefl xuất hiện trong những giấc mơ, huyền thoại và cổ tích dưới hình
ảnh một nhân cách siêu phàm. Do đó, về mặt thực nghiệm, Sefl biểu hiện
như là sự tương tác giữa ánh sang và bóng tối, mặc dù được nhận biết như là
một tổng thể và trong đó các mặt đối lập được thống nhất.
Jung cho rằng với tư cách là vô thức tập thể, các loại cổ mẫu này được
bảo lưu trong thần thoại nguyên thuỷ, đồng thời cũng được biểu hiện trong
19
những ảo giác mà giấc mơ của con người hiện đại. Ông cho rằng: loài người
sống trong thế giới các thần thoại hàng triệu năm, còn thế giới văn minh chỉ
mấy ngàn năm. Do đó, mặc dù ý thức con người văn minh khác xa với lối tư
duy thần thoại nhưng thực ra những cổ mẫu thần thoại đã ăn rễ sâu vào trong
vô thức của con người, những bóng mờ của tôn giáo đa số sẽ vụt hiện lên rõ
ràng khi chỉ một kích động thích hợp, chuyển vô thức ẩn chứa thành ý thức
tự thân mỗi người trong hành động. Như vậy, so với Freud, Jung xa rời cơ
sở thực nghiệm mơ hồ, ông đi sâu vào lĩnh vực văn hoá, thần bí, tâm linh,
đôi khi lý giải vấn đề một cách tư biện thuần thuý. Nhưng vì thế mà ông mở
ra một con đường mới để nghiên cứu lĩnh vực tưởng tượng của con người.
Ông có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hoá, nhất là về văn
hoá Phương Đông và văn học nghệ thuật. Mặt khác, Jung không giải thích
Libido theo lí thuyết bản năng tính dục của Freud, Jung cho cái bản ngã vô
thức chỉ là một bộ phận của vô thức. Vô thức cá nhân, cá thể là một lớp
mỏng nằm ngay cạnh dưới ý thức. Nó chứa đựng những nội dung và hoạt
động tâm lý không điều hoà được với ý thức nhưng có khả năng chuyển hoá
thành ý thức.
Lý thuyết Phân tâm học của Freud là nền tảng để các nhà nghiên cứu
khác đóng góp, bổ sung và phát triển. Phân tâm học ngày càng mở rộng và
phân thành nhiều nhánh nhỏ với những ưu nhược điểm bộc lộ ngày càng rõ
rệt. Do vậy, khi vận dụng lý thuyết này, ta cần vận dụng một cách hợp lý
trong từng lĩnh vực cụ thể.
1.2. Phân tâm học với nghiên cứu, phê bình văn học
Phân tâm học của Freud đã ảnh hưởng rộng rãi đến lĩnh vực sáng tác
và nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật. Trào lưu phê bình Phân tâm học
ra đời và rất thịnh hành ở Phương Tây những năm đầu thế kỉ XX. Nội dung
chủ yếu của các khuynh hướng phê bình không nằm ngoài các phương diện
vô thức, bản năng tính dục, cấu trúc nhân cách và giải thích giấc mơ. Mục
20
đích nghiên cứu của trào lưu này là tìm hiểu những biểu hiện vô thức và
những ẩn ức tâm lý dồn nén của nhà văn được thể hiện qua hệ thống biểu
tượng trong tác phẩm, cấu trúc tâm lý nhân vật, tâm lý độc giả. Theo tiến
trình nghiên cứu của Freud về những xung động bản năng như đã nói ở trên,
những gì thuộc về ham muốn, nếu không được giải toả sẽ bị dồn nén và nếu
không được giải thoát sẽ là nguyên nhân gây bệnh tâm thần. Có hai con
đường cơ bản để giải thoát những ham muốn tính dục mà không sợ vi phạm
đạo đức xã hội, đó là giấc mơ và những sáng tạo nghệ thuật. Nếu như giấc
mơ vượt qua sự kiểm soát của bản ngã và siêu ngã để bộc lộ những ham
muốn thầm kín bằng cách nguỵ trang bằng những hình ảnh biểu tượng, nó
thể hiện một cách tự do, cởi mở như những thông điệp vô thức. Thông qua
việc giải mã các biểu tượng trong giấc mơ người ta có thể hiểu rõ hơn tận
cùng hồn con người với những ẩn khuất trong thế giới tâm linh. Còn sáng
tạo nghệ thuật lại là phương tiện giải thoát, sự thăng hoa của những ham
muốn trong vô thức, những ẩn ức tính dục bị dồn nén của nghệ sĩ. Tác phẩm
nghệ thuật- sản phẩm của sự thăng hoa tính dục cũng giống như một giấc mơ
nhưng là giấc mơ tỉnh chứa đựng trong đó những ham muốn, những ẩn ức
tính dục của cả nghệ sĩ và của cả nhân vật. Ngoài ra, nó còn là sự vượt qua
kiểm soát của nhận thức biểu hiện qua những hành vi sai lạc, những câu nói
và sự đãng trí. Lý luận Freud cho rằng, nghệ sĩ chính là những người mà
trong tâm lý luôn luôn bị ám ảnh bởi tính dục, những người mất khả năng
hoặc những người quá thoả mãn về phương diện tính dục sẽ không thành đạt
trong sáng tạo nghệ thuật, chỉ những người nào, nhất là nữ giới không thoả
mãn được nhu cầu mạnh mẽ về tính dục thì mới có điều kiện để phát huy tài
năng về mặt nghệ thuật. Tính dục của họ không được thoả mãn trong thực tế
sẽ bị dồn nén và chuyển hoá sang hoạt động khác. Là một bác sĩ tâm thần,
Freud đã quá nhạy cảm về tính dục. Ông đưa ra các ví dụ như thơ của
W.Shakespeare, tiểu thuyết của P.Roust... đều có sự thăng hoa của tình dục.
21
Freud dễ dàng tìm thấy trong tác phẩm nghệ thuật những cảnh, những người,
những hình ảnh...phần nhiều đều là tượng trưng cho tính dục.
Phân tâm học cũng đặt nền tảng cho sự nở rộ của hàng loạt các tác
phẩm khai thác tâm lý đời sống bản năng, hoạt động tính dục, đời sống tâm
linh, những bí ẩn khó nhận biết của con người. Từ những năm 60, Phân tâm
học đã hiện diện qua sang tác của nhiều nhà văn thế giới với chủ đề tình dục,
về những biểu hiện đa dạng và nhiều màu sắc của đời sống bản năng con
người như Trăm năm cô đơn của G.Marquez, Rừng Na-uy của Haruki
Murakami, Kỉ nguyên ngờ vực của Nathalie Sarraute, Kẻ sát nhân đang ở
trong buồng của Tony Laine và Daniel Karlin… Phản ánh đời sống bản năng
con người nhưng các tác phẩm này không rơi vào dung tục, thô thiển mà vẫn
trở nên ám ảnh sâu sắc, giàu giá trị nhân văn, lột tả được các góc cạnh của đời
sống con người cho đến tận cùng những bi kịch thân phận của họ.
Ở Việt Nam, độc giả biết đến Phân tâm học gần một thế kỉ nay qua
sang tác của Vũ Trọng Phụng, một số tác giả của Tự lực văn đoàn qua hai
bài phê bình của Trương Tửu. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Phân
tâm học vẫn còn bị kì thị, lên án gay gắt và chưa được nhìn nhận đúng mức.
Trước năm 1975, Phân tâm học vào Việt Nam chủ yếu do lớp trí thức được
học tập và nghiên cứu tại nước ngoài đưa về nước, nhưng do nhiều yếu tố
chi phối nên dù xuất hiện mà Phân tâm học chưa thành một hệ hình lý thuyết
hoàn chỉnh. Cùng một vài nguyên nhân khác nên Phân tâm học chưa có sức
hấp dẫn với các ngành khoa học thực nghiệm, đặc biệt là với văn học nghệ
thuật. Qua thời gian, lý thuyết này đã chứng tỏ được sức ảnh hưởng của nó
và trở nên gần gũi hơn với nhà văn, độc giả và giới nghiên cứu phê bình ở
Việt Nam. Nó trở thành một khuynh hướng nghiên cứu phê bình văn học.
1.3. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết của một số nhà văn trẻ Việt
Nam đương đại (Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương…)
22
Ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, Phân tâm học đã tác động không nhỏ
tới lĩnh vực sáng tác và phê bình văn học. Ở phương Tây những năm đầu thế
kỉ XX, Phân tâm học chủ yếu xoay quanh các phương diện vô thức, bản
năng tính dục, cấu trúc nhân cách và bản năng giấc mơ. Mục đích nghiên
cứu của trào lưu này là tìm hiểu những biểu hiện vô thức và những ẩn ức
tâm lý dồn nén của nhà văn được biểu hiện qua hệ thống biểu tượng của tác
phẩm, cấu trúc tâm lý nhân vật, tâm lý độc giả.
Ở Việt Nam, dấu ấn Phân tâm học ít nhiều đã tác động đến các sáng
tác của Vũ Trọng Phụng, cùng một số tác giả Tự lực văn đoàn. Từ năm
1975, Phân tâm học vào Việt Nam tuy chưa trở thành một hệ hình lý thuyết
hoàn chỉnh song nó đã tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt đối với sáng tác và
phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam. Qua quá trình thử thách, chọn lọc,
nó ngày càng trở nên gần gũi hơn với nhà văn, độc giả và cả giới phê bình
và trở thành một khuynh hướng phê bình văn học.
Trong lĩnh vực sáng tác, các nhà văn đã có ý thức vận dụng lý thuyết
Phân tâm học đặc biệt là các nhà văn đương đại với tinh thần dấn thân, dám
tìm tòi, đổi mới, dám thử thách chính mình. Đó là những cây bút trẻ tiêu
biểu như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…
Nguyễn Bình Phương là một trong số những nhà văn Việt Nam hiện
đại có hành trình bền bỉ đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm phong phú và
phức tạp của con người, đó cũng là một hành trình đi xa nhất vào cõi vô thức
của con người. Hiện thực và con người trong tác phẩm của nhà văn là hiện
thực của tiềm thức, giấc mơ…Nguyễn Bình Phương quan niệm thế giới là
“Tất cả đang tồn tại”, tức là: “Quá khứ, hiện tại và tương lai cùng là một.
Nó cùng tồn tại vào một thời điểm.” [4, tr. 15]. Và thế giới hỗn mang đó là
thế giới của cả hiện thực và giấc mơ, thế giới được mộng hoá hay cả thế giới
của những hỗn mang, phi lý cùng những điều đa dạng và phức tạp của nó,
nhà văn thể hiện những điều này rõ nét qua Người đi vắng, Những đứa trẻ
23
chết già, Ngồi, Thoạt kỳ thuỷ… Trong cái nhìn về thế giới đó, nhà văn đã
đặt con người vào vị trí trung tâm, con người bị giằng xé bởi sự ám ảnh quá
khứ, hiện tại, tương lai, luôn phải đối diện với chính mình và thế giới xung
quanh, sống trong các lực hút đó là sống trong các cảm giác của đời sống, để
từ đó biết trân trọng từng giây từng phút. Trong thực tế sáng tác, Nguyễn
Bình Phương đã lang thang, trôi dạt vào nội tâm, tìm đến vô thức, phần sâu
kín nhất của con người, phơi bày ra ánh sáng những góc khuất, những ẩn ức,
ám ảnh, những cơn mộng mị để thấy được bản chất con người. Nguyễn Bình
Phương thường quan tâm đến những đối tượng có vấn đề trong tâm hồn,
những trục trặc cả công khai lẫn thầm kín. Chú ý tới những con người này là
chú ý tới sự bùng nổ trong vô thức, là lựa chọn cho mình một mảnh đất để
khai phá, đào sâu, thăm dò. Nhà văn cho rằng: “những người điên cho tôi
cảm giác lạ lùng về cuộc sống. Tôi không đánh giá điên là một tính thiện
“thoạt kỳ thuỷ” dù ở nghĩa bóng. Nếu cần nói tới vấn đề điên của một người
điên thì tôi nghĩ thoạt kỳ thuỷ họ không điên, sau đó có cái gì đấy làm họ
điên” [419, tr.19]. Trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương, người điên
chiếm một tỷ lệ khá lớn, họ trực tiếp nói ra sự điên loạn, tâm thần của mình
hoặc có những biểu hiện phức tạp, khó lường với chiều sâu của ẩn ức, những
chấn thương đã được giữ kín, bị che giấu. Hầu hết, họ đều mang dục tính
mạnh mẽ, họ chất chứa những khao khát, có lúc biểu hiện ra ngoài một cách
mãnh liệt, cũng có lúc nó bị kìm nén và hiện ra dưới hình thức khác một
cách gián đoạn tiêu biểu như nhân vật Tính, Hưng (Thoạt kỳ thuỷ), mụ
Quản, Bảo mù (Những đứa trẻ chết già), ông Điều (Người đi vắng). Nhà văn
không chỉ viết về người điên mà còn quan tâm đến những người có dấu hiệu
tâm thần bởi người có dấu hiệu thần kinh phức tạp hơn người điên vì họ có
sự hoà đồng với xã hội và thế giới xung quanh, chưa bị tách biệt ra, do vậy
việc soi chiếu và đánh giá họ là cực khó, đòi hỏi sự tinh tế và sắc sảo. Viết
về người điên là viết về những người đã rõ ràng bệnh lý, nhưng viết về
những người có dấu hiệu tâm thần thì cần dùng đến “kính chiếu yêu” mới
24
soi thấy vùng giáp ranh giữa tỉnh táo với bệnh hoạn. Đó là những nhân vật
như Khẩn trong Ngồi, nhân vật Em trong Trí nhớ suy tàn, Hoàn trong Người
đi vắng… Từ lý thuyết Phân tâm học, chúng ta thấy được hành trình sáng tác
của Nguyễn Bình Phương là hành trình tìm tòi, khám phá thế giới con người
từ nhiều chiều. Trong kiếp nhân sinh dằng dặc mà ngắn ngủi, con người đã
không ngưng đấu tranh với chính bản thân mình để chiến thắng hay gục ngã.
Nguyễn Việt Hà là nhà văn “nghiêm túc, có bản lĩnh, có trách nhiệm
nghề nghiệp” (Tạ Duy Anh). Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn
Việt Hà luôn quan niệm “văn chương bị lặp lại đáng sợ như văn chương nhạt
nhẽo”. Bởi vậy, Nguyễn Việt Hà đã luôn cố công tìm tòi, sáng tạo những thể
nghiệm mới, phá bỏ những nguyên tắc hình thức bất biến. Chính những
đóng góp đó đã giúp nhà văn tự làm mới mình, đưa văn chương xích lại gần
cuộc sống.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, độc giả bị thu hút bởi hiện
thực cuộc sống phong phú hiện lên qua từng trang giấy từ chủ đề về tình
yêu, tình bạn, vấn đề về tôn giáo, văn hoá, kinh tế… Không chỉ dừng lại ở
đó, Nguyễn Việt Hà còn vận dụng lý thuyết Phân tâm học để khám phá thế
giới con người đầy phức tạp. Có thể bắt gặp trong tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà kiểu khai thác “cá nhân hoá tâm hồn” con người, những giấc mơ tính
dục, bạo lực trong quá trình xây dựng chiều sâu tâm lý nhân vật. Trong hai
cuốn tiểu thuyết Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà đã
xây dựng nên kiểu nhân vật bất lực và chấp nhận thực tại. Đó là những con
người bất lực trong cuộc vật lộn với cái tôi cá nhân, loay hoay trong câu hỏi
“mình đang sống hay chỉ tồn tại”. Cuộc sống hối hả, phức tạp tạo cho con
người nhiều sức ép, hiện trạng này kéo dài, nặng nề khiến cho con người dần
chìm vào sự cô đơn, tinh thần bị bào mòn bởi dục vọng vật chất. Đổ vỡ niềm
tin, bất lực trước thực tại, con người không cân bằng được đời sống tinh
thần, chấp nhận dấn thân vào trò chơi cuộc sống với luật chơi nghiệt ngã là
25
cào bằng cảm xúc. Các nhân vật thường rơi vào vòng luẩn quẩn không biết
mình đi tới đâu, họ trăn trở day dứt bởi mang trong mình khát vọng và niềm
tin nhưng ngày một trở nên tầm thường trong kiếp “sống mòn”. Họ “bải
hoải, bàng hoàng rồi bừng tỉnh, đột nhiên thấy mình trống rỗng, vô nghĩa.
Mà vô nghĩa nhất là thấy cuộc đời nhạt nhẽo của mình cũng có một ý nghĩa.
Đó là khi sống gần hết với nó thì mới biết là nó vô nghĩa đến chừng nào”
[430, tr 30]. Song, Nguyễn Việt Hà cũng tìm thấy ở con người những suy tư,
khát vọng vượt thoát mà trước hết là khát vọng văn chương. Văn chương là
phương tiện giải thoát, nó giúp người viết có thể xây dựng thế giới tưởng
tượng, qua đó thoả mãn khát vọng của riêng mình. Nguyễn Việt Hà luôn để
nhân vật của mình trong trạng thái đấu tranh giữa thiện – ác nhưng con
người vẫn luôn ý thức được giá trị của niềm tin. Họ tha thứ, ân hận, sám hối.
Bởi có một toà án tự vấn luôn tồn tại trong mỗi bản thân con người, tiềm
tàng khả năng gây ra tâm bệnh. Mỗi trang viết của Nguyễn Việt Hà lấp lánh
sự tin tưởng, niềm hi vọng vào cái đẹp, thiên lương “rằng tất cả những người
thiện lương đều có thể mắc lỗi lầm, nhưng không bao giờ rơi vào sự quá
quắt đểu giả, đê tiện” (Cơ hội của chúa). Chính bởi vậy mà bên trong mỗi
nhân vật đều có sự đấu tranh không ngừng.
1.4. Dấu ấn phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
1.4.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Tú
Nguyễn Đình Tú sinh ngày 7 tháng 7 năm 1974 tại Kiến An, Hải
Phòng, tốt nghiệp Đại học Luật năm 1996 và tu nghiệp sĩ quan tại trường
Quân chính quân khu 3 năm 1997. Từ năm 1997 đến 2001, Nguyễn Đình Tú
công tác tại Viện Kiểm sát Quân sự quân khu 3. Năm 2001, anh về công tác
tại Ban văn - Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Nguyễn Đình Tú nguyên
là Trưởng ban văn xuôi và là Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội,
hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
26
Nguyễn Đình Tú là thế hệ nhà văn trẻ cùng thời với Đỗ Bích Thuý,
Nguyễn Vĩnh Tiến, Đỗ Hoàng Diệu… Anh được biết đến từ chuyên mục
“Tác phẩm tuổi xanh” trên báo Tiền phong cách đây hơn mười năm. Có thể
nói, anh là cây bút viết khá đều tay ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết. Ngoài những tập truyện ngắn, còn phải kể đến những tiểu thuyết
được dư luận đánh giá cao như: Hồ sơ một tử tù (2002), Bên dòng Sầu
Diện (2005), Nháp (2008), Phiên bản (2009), Kín (2010), Hoang tâm
(2013) và gần đây nhất là Xác phàm (2014). Có nhiều người nhận định, thế
hệ các nhà văn trẻ hiện nay ngại dấn thân vào lĩnh vực tiểu thuyết nhưng
Nguyễn Đình Tú đã khẳng định điều ngược lại. Anh đã không ngừng nỗ lực
sáng tạo để cho ra đời những đứa con tinh thần có giá trị. Điều này đã được
độc giả và các tên tuổi lớn trong làng văn ghi nhận. Trong đó có nhà văn
Chu Lai, ông đánh giá:“Nguyễn Đình Tú hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu
bước tiếp trên con đường tiểu thuyết mênh mang nắng gió” dù cho còn
nhiều “chông gai nhọc nhằn” [74].
Tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú là cuốn Hồ sơ một tử tù lúc
đầu có tên là Bên kia cát bụi. Cuốn sách tập trung vào đề tài tội phạm với sự
tha hoá của nhân vật Phạm Bạch Đàn, một tên tội phạm bị khép án tử hình
sau quá trình diễn biến khá phức tạp để biến từ một thanh niên nhà quê hiền
lành chất phác trở thành một tay giết người nguy hiểm, để rồi khi biết quay
đầu hướng thiện thì chỉ còn là giọt nước mắt hối hận muộn màng. Tác phẩm
như một nốt nhạc trầm giữa bản nhạc cuộc đời neo lại trong lòng người đọc
biết bao suy tư trăn trở. Tác phẩm đạt giải B cuộc thi sáng tác tiểu thuyết,
truyện và ký Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống giai đoạn 1998 -
2002 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức.
Nét mặt buồn là cuốn tiểu thuyết thứ 2 của Nguyễn Đình Tú, in năm
2005 và năm 2007 tái bản với cái tên gọi mới Bên dòng Sầu Diện. Tác
phẩm đạt 5 giải thưởng của Bộ Quốc phòng (2004 - 2009). Đây là cuốn tiểu
27
thuyết viết về đề tài chiến tranh, thể hiện cách tiếp cận chiến tranh của một
người viết trẻ với giọng điệu cảm thương xót xa. Những hình ảnh sống động
về chiến tranh, người lính, những người bước ra từ cuộc chiến trong Bên
dòng Sầu Diện là một cố gắng đáng trân trọng của tác giả.
Ba năm sau, tức năm 2008, Nguyễn Đình Tú tiếp tục ra mắt độc giả
tiểu thuyết Nháp. Cuốn tiểu thuyết đã lôi cuốn độc giả mạnh mẽ ngay từ lời
đề từ: “Cuộc đời nháp tôi bằng những số phận”. Mới tiếp cận, người đọc
ngỡ như đây là cuốn sách viết về sex, bởi lẽ trong hơn 300 trang thì có đến
một phần ba là những đoạn nóng bỏng và phập phồng những cảnh huống ân
ái. Song, cuốn sách lại mang người đọc đến với thế giới của những người trẻ
đang vùng vẫy để vượt thoát và đi tìm giá trị sống. Tác phẩm đã gây nên
cuộc bút chiến khá căng thẳng trên văn đàn.
Khi những dư âm của Nháp không những không lắng xuống và còn
lan toả mạnh mẽ thì năm 2009, Nguyễn Đình Tú lại công bố cuốn sách thứ
tư mang tên Phiên bản. Cuốn tiểu thuyết 400 trang viết về thế giới tội phạm
với cốt truyện ly kì, thủ pháp mới mẻ và sự đi sâu vào tâm lý nhân vật đã
cuốn hút độc giả mạnh mẽ. Phiên bản đã đem lại cho Nguyễn Đình Tú
những gặt hái to lớn trong đó phải kể đến giải B cuộc thi sáng tác tiểu
thuyết, truyện và kí giai đoạn 2007 - 2010 do Bộ Công an và Hội Nhà văn
Việt Nam phối hợp tổ chức.
Kín (2011) là tiểu thuyết đi sâu bóc tách, lí giải để làm bật lên chân
dung lớp trẻ đương đại thông qua hành trình tới những miền đất mới của
Quỳnh, những sinh hoạt quần hôn tập thể, sự nguy hiểm của giang hồ, bắt
cóc, mại dâm và cả thế giới tinh thần phong phú nhưng cũng đầy linh thiêng
của đạo Mẫu.
Đến Hoang tâm (2013), nhà văn dựng lên hai nhân vật mang tính biểu
tượng đó là “Anh” và “Son Phấn”, hai nhân vật đã thực hiện cuộc hành trình bí
28
ẩn để tìm lại cảm xúc của chính mình. Cuộc hành trình gợi nhắc chúng ta về
cuộc chiến tranh của dân tộc và trân trọng hơn giá trị đích thực của sự sống.
Năm 2014, cuốn tiểu thuyết Xác phàm đánh dấu mốc cho sự nghiệp
văn chương của Nguyễn Đình Tú. Ở cuốn tiểu thuyết này, nhà văn đã bao
quát hiện thực cuộc sống bề bộn với các vấn đề như đồng tính, chuyển giới,
cuộc chiến tranh biên giới tưởng như đã bị lãng quên.
Nhìn lại hành trình tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có thể thấy nhà
văn tuổi Dần này đã luôn nỗ lực không ngừng nghỉ để đóng góp tài năng và
tâm sức của mình vào lâu đài văn học Việt Nam đương đại ngày một bề thế
hơn. Giữa bức tranh văn học đa sắc màu, Nguyễn Đình Tú đã góp nên những
mảng màu mới mẻ, độc đáo mang dấu ấn riêng anh. Nhà văn đã biết lồng
ghép những vấn đề lịch sử với những vấn đề mang tính thời sự để làm giàu
giá trị cho tác phẩm của mình. Tất cả những nỗ lực của nhà văn đều được
độc giả ghi nhận.
1.4.2. Ảnh hưởng từ phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ viết về thế hệ trẻ, những trang văn
“vừa táo tợn vừa dịu dàng” của anh đã đem đến cho người đọc những cái
nhìn mới về giới trẻ ngày nay. Nguyễn Đình Tú lựa chọn mảng đề tài rất đặc
biệt, thay vì viết về những cái tốt, cái đẹp anh lại trực tiếp lựa chọn mảng đề
tài về cái xấu, cái ác về những tên tội phạm khét tiếng trong xã hội. Song
chính mảng đề tài này đã giúp tác phẩm của anh chạm đến những vấn đề
nhân loại.
Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của Viện
kiểm sát Quân sự Quân khu III, sau đó được điều về Tạp chí văn nghệ quân
đội giữ vị trí biên tập văn xuôi. Môi trường công tác mới với những chuyên
án lớn đã tạo ra cho nhà văn vốn hiểu biết và những tư liệu cần thiết kiến tạo
nên các tiểu thuyết. Anh chia sẻ với bạn đọc rằng: “Tôi có rất nhiều bộ hồ
sơ các vụ án hình sự trong tay nên việc dựng nhân vật và phân tích tâm lý
29
nhân vật cũng như lý giải quá trình đi đến tội phạm của họ là điều không
khó”. Nhà văn trẻ luôn nỗ lực lý giải con đường dẫn đến sự tha hoá biến
chất trong tâm hồn con người, nhìn nhận họ góc độ nhân văn cao cả nhất từ
đó mong muốn họ tìm về đúng bản chất tốt đẹp của mình.
Trên nền tảng lý thuyết Phân tâm học, Nguyễn Đình Tú có cái nhìn
mới mẻ, sâu sắc về tâm lý con người. Cũng từ việc vận dụng lý thuyết này,
người đọc có cơ hội soi chiếu sâu hơn những vấn đề được đặt ra trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú.
Dấu ấn Phân tâm học có dấu ấn đậm nét trong các tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú. Nó chi phối sâu sắc đến cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật trong tiểu thuyết của anh. Về nội dung, phân tâm học thể hiện ở
cái nhìn hiện thực cuộc sống. Đó là hiện thực đa chiều, không gian và thời
gian mở rộng. Các kiểu hiện thực tiềm thức, âm bản, mộng hoá, hỗn mang
phi lí. Trong hiện thực đó, cái thiện - ác, thật - giả đan xen nhau. Không có
một chân lý tuyệt đối mà chỉ có những hành động, cảm giác, khoảnh khắc
hình ảnh để con người bộc lộ nội tâm phong phú của mình. Ở phương diện
con người, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú xây dựng nên nhiều kiểu con người,
từ con người thô sơ, bộc trực đơn giản trong hành động suy nghĩ đến con
người uẩn khúc, biến hoá với những dạng thức tâm thần như dục tính, bạo
lực, ẩn ức, mặc cảm, chấn thương, đa nhân cách… Nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú đa dạng về tâm lý và hành động, luôn có sự giao
tranh giữa lý trí và bản năng, tâm lý và hành động, ý thức và vô thức trong
những phạm vi ứng xử đời thường, trong cuộc mưu sinh. Phân tâm học đã
giúp nhà văn khai thác góc khuất tối tăm nhất trong con người, đi tới tận
cùng tầng sâu vô thức để giải phẫu tâm lý con người.
Đặc biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, hình tượng người điên,
người đa nhân cách chiếm tỉ lệ lớn. Kiểu nhân vật này có những biểu hiện
khó lường, phức tạp với chiều sâu ẩn ức, những chấn thương được giữ kín
30
hoặc bị che giấu. Họ mang tính dục mạnh mẽ, chứa chất những khao khát có
lúc biểu đạt một cách mãnh liệt có lúc lại bị kìm nén và biểu hiện ở một hình
thức khác. Đó là những con người đa nhân cách với những hành vi phức tạp,
những mặt nạ trá hình. Để hiểu được nhân vật này, cần “kính chiếu yêu” để
phân định ranh giới giữa tỉnh táo và mù quáng, khoẻ mạnh và bệnh hoạn.
Nguyễn Đình Tú vừa khai thác ngôn ngữ, hành vi và diễn biến tâm lý để thể
hiện một cách chân thực, sống động và sâu sắc nhất kiểu nhân vật này.
31
Tiểu kết chương 1
Học thuyết Phân tâm học của S.Freud có tác động và ảnh hưởng sâu
rộng đến rất nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của xã hội hiện nay như tâm
lý học, y học, triết học, tội phạm học, văn học nghệ thuật, tôn giáo, giáo
dục… Đối với văn học nghệ thuật, học thuyết Phân tâm học không chỉ giới
hạn ở việc nghiên cứu tâm lý học sáng tạo của nhà văn mà còn dùng để cắt
nghĩa, khám phá thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, phức tạp của con
người. Dưới góc nhìn Phân tâm học, đặc biệt là với cấu trúc sơ đồ nhân cách
ba tầng mà Freud đã xây dựng, đã mở rộng phạm vi khám phá con người,
con người không chỉ được nhìn nhận từ bình diện xã hội mà còn được nhìn
nhận từ bình diện tự nhiên với những xung đột nội tâm, những va đập hoàn
cảnh, để từ đó con người được phát hiện khám phá đầy đủ hơn.
Từ lý thuyết Phân tâm học mà Freud soi chiếu và thực tiễn sáng tạo
văn học Nguyễn Đình Tú, tác giả luận văn nhận thấy tác giả đã tinh lọc tiếp
nhận những hạt nhân cơ bản của học thuyết Phân tâm học để nhìn nhận cắt
nghĩa đời sống, cắt nghĩa con người bằng một phong cách sáng tác độc đáo,
nhiều tìm tòi sáng tạo. Với một hành trình không mệt mỏi, tác giả đã đi sâu
khám phá, dò tìm cội nguồn tâm lý và hành vi của con người, những con
người vừa đặc biệt vừa không đặc biệt để từ đó cung cấp thêm một cái nhìn
đa dạng nhiều chiều về con người đã phải trải qua những cuộc đấu tranh
không ngừng nghỉ với chính bản thân mình để chiến thắng hay gục ngã. Hoà
vào bức tranh nhiều màu sắc của văn học đương đại, Nguyễn Đình Tú đã
góp một màu sắc độc đáo, mới mẻ vào làm phong phú bức tranh đó.
32
Chương 2
DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC QUA CÁI NHÌN VỀ HIỆN THỰC VÀ
CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
2.1. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua cái
nhìn hiện thực
Nghiên cứu dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn hiện thực trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú là một khâu vô cùng quan trọng trong việc triển khai
đề tài. Ở đây tác giả luận văn không chỉ nghiên cứu hiện thực với tư cách là
không gian sống, không gian tồn tại đơn thuần của con người mà muốn tìm
hiểu nó với tư cách là nền tảng, nguyên nhân, nguồn gốc hình thành nên
những ẩn ức cá nhân của nhân vật. Đó chính là động cơ chi phối những hành
động, suy nghĩ của các nhân vật trong tác phẩm. Và tìm hiểu những mảng
màu hiện thực này cũng giúp chúng ta lý giải sâu sắc hơn những điều bất
thường, khó giải thích trong quá trình hình thành tính cách, số phận, đường
đời nhân vật. Cái nhìn hiện thực muôn màu muôn vẻ này giống như “chiếc
chìa khoá vàng” mở ra cánh cửa tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú.
2.1.1. Không gian hiện thực đặc biệt - nơi hình thành những ẩn ức cá
nhân
Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ viết về thế hệ trẻ, đó là thế hệ của
chính anh. Chân dung của thế hệ trẻ hiện lên với rất nhiều màu vẻ: “Những
người trẻ trong tác phẩm được miêu tả đúng là thế hệ trẻ của thời hôm nay,
thời ta đang sống. Đây là thế hệ với rất nhiều cái hay song cũng không ít cái
dở, tuy nhiên đều mang trạng thái tâm lý hoang mang trước những câu hỏi
có tính chất tra vấn về ý nghĩa của đời sống. Nó là kết quả của một trạng
thái xã hội nói chung. Cá nhân riêng lẻ bị số phận đưa đẩy thế nào đó,
không một ai có thể biết trước được dù chỉ là một bước ngắn” [2]. Nguyễn
Đình Tú đã dựng lên trong tác phẩm của mình những mảng màu hiện thực
33
khác nhau về hiện thực cuộc sống để người đọc thấy được quá trình hình
thành lên nhân cách một con người trong xã hội hiện đại, bởi lẽ anh ý thức
sâu sắc được rằng: Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội (Max).
Tìm hiểu không gian hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú cũng là
cuộc truy tìm những nguyên nhân xã hội, môi trường sống tạo nên những số
phận khác nhau nhưng cùng mang những nỗi bất hạnh chung của thế hệ.
Như vậy, hiện thực cuộc sống vừa là con đường đẩy một bộ phận giới trẻ
hôm nay đến bi kịch lại vừa là nơi những mảnh đời tội nghiệp nương náu,
tồn tại, bấu víu.
Không gian hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình tú rất đa dạng và
được mở rộng biên độ. Trong Phiên bản đó là thành phố ngã ba sông, thế
giới ngầm với ba vùng lãnh địa đen, mà giới giang hồ không ai không biết,
là nơi bến xe nơi có rất nhiều người sống bằng nghề trộm cắp vặt, toàn bọn
choai choai, đói dài, đói rạc. Mỗi đứa là một hoàn cảnh, mỗi đứa là một lý
do chúng ra đứng bến. Trong Kín đó là bãi vàng Lũng Sơn, nơi vùng đất
nghịch “ngã ba sông”, là nhà ga Hải Thành, các quan bar, nhà hàng, sòng
bạc. Vì cuộc sống mưu sinh, vì miếng cơm manh áo mà con người phải trôi
dạt đến đó, hiện thực lại đẩy những con người nhưng Bình, Hoàn, Kiên, Lửa
Cháy trượt dài trên con đường tha hoá. Không gian hiện thực là nơi cái ác,
cái xấu ngự trị với những quy luật sống khắc nghiệt huỷ hoại những con
người như Hương Ga, Tùng hero, Tính dao mổ, Bình sói, Lộc ba tai, Vĩnh
con (Phiên bản). Họ bị cuộc đời vùi dập và họ tự vùi dập chính mình. Hiện
thực ấy là nỗi đau mà khi nếm trải sẽ trở thành vết thương nhức nhối, dằn
vặt nội tâm nhân vật: “Khi anh ra gặp em ở ngoài chợ, anh chỉ nghĩ đến sự
tiếc nuối tuổi học trò phải bỏ dở chừng chứ anh không hình dung hết được
những phức tạp chợ búa mà em đang nếm trải” [117, tr.211]. Hiện thực
cuộc sống khắc nghiệt khiến họ ngộ ra “chân lý” muốn tồn tại được buộc
phải có phe cánh, phải chà đạp lên người khác trước khi họ vùi dập mình
“Cộc ngộ ra rằng, nếu không có những tay đao tay búa thì không thể tồn tại
34
được ở đất nghịch này...Muốn giữ được thế chia ba thì Cộc phải có đủ dao
găm súng lục để sẵn sàng chiến khi cần thiết” [117, tr.140]. Các nhân vật
trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú hầu hết đều không có hoàn cảnh bình
thường, hoặc mồ côi, hoặc lạc cha mẹ, bị bạn bè xa lánh, người yêu phụ
bạc… Chính hoàn cảnh khắc nghiệt ấy đã hình thành nên bản năng sinh tồn,
kĩ năng tự vệ, tâm lý khác thường, những ẩn ức dằn vặt, giằng xé trong mỗi
tâm hồn con người.
Không gian hiện thực cũng là thế giới cô đơn và hoan lạc. Cô đơn là
một trạng thái bi kịch, nỗi đau tinh thần lớn nhất của con người mà hiện thực
chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch tinh thần ấy. Con người sống trong
một xã hội hiện đại nhưng họ không thể hiểu nhau. Sống trong gia đình
nhưng Quỳnh không được bố quan tâm, Thành bị mẹ bỏ rơi để theo một
người đàn ông Đức, Phương bị bố dượng hãm hiếp, Kiên bị bỏ rơi trên băng
ghế đá từ khi vừa sinh ra, Đại bị xem là người có vấn đề, một kẻ biêng biêng
không ai lại gần. Cuộc sống cô đơn lạc loài xuất hiện đặc biệt trong Nháp và
Kín. Trong Kín, Quỳnh - cô bé Lửa Cháy lạc chợ năm nào trở về nhà nhưng
không có tình yêu thương, sợi dây kết nối duy nhất giữa cô và bố đó là cây
ATM cùng số tiền cô được chu cấp một cách đều đặn. Ga Hải Thành với
hiện thực “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh ai nấy sống đã biến Hoàn thành một kẻ
săn người thuê. Kiên bị chính mẹ đẻ bỏ rơi trên ghế đá, phải tự mình chống
trả với cuộc đời khắc nghiệt để lớn lên: “Đất này dữ, trai hay gái đều thành
nghịch tặc cả. Kiếp này coi như nó thế, có tránh cũng chả được” [117,
tr.67]. Phương không thoát nổi nghề “làm phò”. Những thân phận bé nhỏ
trôi nổi này bị hiện thực tàn khốc đẩy dạt cuốn trôi mỗi người một nơi,
nhưng họ đã tìm thấy nhau trong “đơn côi trần thế”, họ sống cô đơn, cô độc
ngay giữa xã hội. Con người sống trong bề bộn các mối quan hệ xã hội, quan
hệ gần gũi thân thiết nhưng không thể hiểu được nhau, không cảm thông
chia sẻ được cho nhau. Con người tồn tại cô đơn trong cuộc đời, họ không
35
tìm thấy thứ mình cần mình từ đó chìm trong cô đơn hoan lạc, họ lao vào
men rượu, tình dục, chém giết.
Tìm hiểu không gian hiện thực đặc biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú là đi tìm hiểu không gian những con người có hoàn cảnh sống đặc biệt,
bộc lộ bản thân mình qua các mối quan hệ xã hội, cũng là tìm hiểu quá trình
hình thành và phát triển những yếu tố tiềm thức và vô thức trong mỗi cá thể
từ đó giúp chúng ta lý giải biểu hiện, hành động nhân vật từ bề sâu vô thức.
Không gian hiện thực đặc biệt - không gian tạm gọi là “dưới đáy xã hội”
cũng là nơi tác động, hình thành thân phận và nhân cách nhân vật, để nhân
vật bộc lộ chính mình, bộc lộ nội tâm sâu kín của mình qua ngôn ngữ và
hành động.
2.1.2. Không gian hiện thực của tiềm thức và giấc mơ - nơi chứa đựng
những ẩn ức, mặc cảm, nỗi đau con người
Freud chia giấc mơ làm hai phần, phần nội dung biểu hiện và phần nội
dung tiềm ẩn, trong đó phần nội dung tiềm ẩn bao gồm những khao khát, ẩn
ức vốn bị nhấn chìm trong vô thức. “Giấc mộng là “hành lang nối liền” giữa
vô thức và ý thức, giữa cõi mộng và cõi thực”, bởi vậy giấc mơ chứa đựng
bóng dáng cuộc đời, phô bày cả những điều sâu kín mà người nằm mơ
không hề biết đến, cho thấy cùng tồn tại với thế giới bên ngoài tưởng chừng
bình lặng mà người ta chứng kiến hàng ngày là một thế giới nội tâm không
hề êm đềm. Trong văn học thế giới, sự xuất hiện các giấc mơ của nhân vật
không phải là vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, điều đáng kể là ý thức sử dụng
giấc mơ, vô thức đã trở thành thủ pháp nghệ thuật nhằm khám phá, thể hiện
đời sống tinh thần con người trong sáng tác của một số tác giả như Kafka
(Giấc mơ), Murakami Haruki (Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ
biển…)… đã khai mở và phát triển không giới hạn đề tài phi lí, tạo nên một
cuộc cách tân nghệ thuật lớn lao cho cả một thời đại.
36
Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, nhận biết được vai trò của giấc
mơ, các nhà văn đã thể hiện sự thay đổi quan niệm về hiện thực, quan niệm
về đời sống và con người, từ đó, trong văn học, hiện thực và con người hiện
lên đa phương đa tầng, quanh co, sống động và chân thực nhất. Giấc mơ và
vô thức được vận dụng như một thủ pháp nghệ thuật trong sáng tác của
nhiều nhà văn như Nguyễn Danh Lam, Thuận, Nguyễn Đình Tú, Vũ Đình
Giang, Nguyễn Bình Phương...
Hiện thực của tiềm thức và giấc mơ được coi là “bức màn bí ẩn của
hiện thực”, đó là cái nhìn vào bên trong, nhìn từ bản chất ra ngoài hiện
tượng. Từ việc soi chiếu vào thế giới đó, người đọc có thể thấy được động
cơ của những hành vi, trạng huống, khai thác được những ẩn ức sâu kín
trong tâm hồn nhân vật. Nó là thế giới sâu kín nhất, là nơi bộc lộ những ẩn
ức nhu cầu không được thoả mãn bên ngoài và cũng chính là nơi thoả mãn
mọi nhu cầu con người khao khát mà thực tại không thể đáp ứng. Qua đây ta
thấy được những dằn vặt, những đấu tranh nội tâm, những dao động, những
góc nhìn cực đoan. Nó là những mộng ảo, day dứt, khát vọng, mặc cảm bị
cất giấu không bị chi phối bởi khách quan. Hiện thực này đã bị loại bỏ bởi
những quy chế đạo đức xã hội, cộng đồng. Trong tác phẩm không còn những
rào chắn về đạo đức, những hang cùng ngõ hẻm nhất của tâm hồn. Từ những
khát vọng vươn tới chân thiện mĩ đến những suy nghĩ thấp hèn đê tiện. Ngay
cả những nhân vật thiên sứ, nhân vật huyền thoại cũng được nhìn nhận từ
khía cạnh con người nhất. Hiện thực tiềm thức là hành trình đấu tranh không
mệt mỏi luôn diễn ra trong mỗi người và chiếm tỉ lệ lớn trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú.
Hiện thực chiến tranh trong quá khứ được tác giả vẽ lại trong khoảng
một giờ đồng hồ. Đặc biệt trong khoảng một giờ ấy, bộ mặt chiến tranh được
tác giả vẽ lên thông qua giấc mơ của nhân vật Anh (Vì quá mệt mỏi nên đã
ngủ quên ngay tại cửa phòng khách sạn Cửa Núi) một cách vừa hiện thực
37
vừa hư ảo trong sự đan cài giữa hai trục thời gian quá khứ và hiện tại. Nhờ
giấc mơ ấy mà người đọc biết được sự khủng khiếp của cuộc chiến tranh ở
chiến trường K cũng như hậu quả của cuộc chiến này gây ra cho nhân vật
Anh. Chính nó đã gây nên “chấn thương trong tâm hồn” của người lính trở
về từ chiến trường K năm xưa mà ta gọi đó là “hội chứng chiến trường K”.
Khung cảnh ác liệt của chiến tranh lần lượt hiện lên trước mắt Anh “Hằng bị
cắt đứt cuống họng, chết trong tư thế ngồi, tay buông thõng, hai gối chạm
vào nhau, đầu gác lên thanh tre dùng để gá các tấm liếp”[118 tr.77], “Gấm
bị K cắt đầu. Xác Gấm được vứt ngay gần lán trại, trong một tư thế như con
nằm ngửa, cửa mình bị cắm một củ sắn” [118, tr.80] “mái tóc ngắn tạo vẻ
đẹp trẻ trung, cá tính của Gấm bây giờ bết lại, ốp vào đầu cô những mảng
máu đen, thâm tím” [118, tr.82] ; “Có cái xác chúng cắt vú, có cái xác
chúng cắt mũi, có cái xác bị xẻo môi, có cái xác chúng mổ bụng...Anh khẽ
nhặt lên một đoạn tóc, một mảng da đầu, một cánh tay, một ống chân, một
con mắt, một mẩu môi, một vành tai, một chóp mũi, một đầu vú, một mảng
mông...Không một cái xác nào còn nguyên vẹn” [118, tr.78] và chính mình
cũng “đã bắn thằng K đầu tiên trong tư thế đang nằm trên nước” (Hoang
Tâm). Cuộc chiến tranh đã để lại những di chứng không phương thuốc nào
chữa lành cả về thể xác và tâm hồn của người lính trẻ. Nó đã cướp đi bản
năng tình dục trong người đàn ông như Anh. Anh bước ra khỏi cuộc chiến
nhưng không thể trở về cuộc sống bình thường, vợ anh đầu tiên đã đi tìm hết
các phương thuốc để chữa trị cho anh nhưng sau đó đành bó tay và ra đi
cùng người đàn ông khác.
Quỳnh trong Kín mơ về mẹ trên suốt chặng đường tìm về Hải Thành
cho thấy nỗi cô đơn thiếu vắng của cô bé từng lạc mẹ thuở nhỏ. Cô càng
khao khát hơn về một cuộc sống bình yên ở miền quê cùng ông nội và bố
mẹ. Những dòng kí ức đan cài với hiện thực cuộc sống nơi ga Hải Thành
nghiệt ngã cho thấy cuộc đấu tranh trong ngừng trong tình cảm và lý trí của
Quỳnh, nó càng khắc sâu hơn quãng đời bi kịch mà cô bé phải chịu đựng.
38
Tương tự với Kín và Hoang tâm, tiểu thuyết Phiên bản của Nguyễn
Đình Tú cũng có kết cấu song song giữa hiện thực và giấc mơ. Đó là giấc
mơ hay đúng hơn là kí ức của Diệu về quãng thời gian trước khi làm “Siêu
giang hồ”- Hương ga. Hai mảng màu hiện thực đối lập nhau giữa một bên là
hiện thực về cuộc chiến đẫm máu giữa các thế lực thù địch trong giang hồ
với một bên là hiện thực ngọt ngào êm đềm của quá khứ với mối tình đầu
ngọt ngào bên Nhân. Chính mối tình này đã nâng đỡ tâm hồn Diệu đi qua
bao đau thương, nhưng cũng chính nó khiến trái tim Diệu luôn bị giày vò,
giằng xé trong đau đớn.
Trong Nháp, tuổi thơ bị mẹ bỏ rơi theo người đàn ông Tây đã ám ảnh
hai cha con Thạch khiến cho anh luôn phải sống trong đau đớn, mất mát và
mặc cảm về bản năng sinh lý của người đàn ông. Những giấc mơ bị bỏ rơi
luôn ám ảnh hai cha con cậu: “Giấc mơ ấy đến vào lúc tôi sắp ngủ dậy. Tôi
và bố ở trong một ngôi làng nhỏ. Làng có rất nhiều đàn bà, chỉ có tôi và bố
là đàn ông. Bố cứ gào thét bắt tôi đóng cửa làng vào: Không cho bọn đàn
ông làng khác mò vào, nó sẽ lấy hết đàn bà làng mình. Nhưng rồi tôi đã
không làm gì cả. Và ngôi làng trở nên vắng tanh. Tôi ngồi trên một đống
rơm khô còn bố ngồi vắt vẻo trên một cành cây và nhìn tôi bằng đôi mắt rất
buồn. Tôi gọi bố xuống chơi với tôi, đừng ngồi trên cao như thế, sẽ ngã gãy
cổ mất. Bố bảo nhục lắm không xuống đâu. Tôi hỏi lại bố rằng có gì mà
nhục. Bố chỉ ra xung quanh: mọi người đi hết rồi. Tôi bảo tại vì lúc nào bố
cũng cầm sợi thừng to thế kia. Họ không chịu nổi sự đánh đập của bố. Bố
đưa sợi dây thừng ra và bảo bố sẽ dùng chính nó để tự tử. Vừa nói bố vừa
làm thành cái thòng lọng. Bố không muốn sống nữa. vậy làm thế nào bây
giờ? Tôi hỏi bố. Con hãy đốt đống rơm ấy lên. Nếu nó không thiêu cháy con
thì đàn bà làng này mới trở về. Bọn con trai làng khác chịu nóng rất giỏi.
Con phải giỏi như chúng nó…” [115, tr.172].
39
Như vậy, không gian của giấc mơ là không gian của tiềm thức vô
thức. Các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình
những nỗi đau, ám ảnh trong quá khứ. Nỗi đau đó đeo bám họ dai dẳng, bên
ngoài họ là những con người bình thường nhưng bên trong tâm hồn họ luôn
chất chứa những ẩn ức bị đè nén, kìm hãm và nó được biểu hiện qua giấc
mơ, giấc mơ chính là tấm gương phản ánh chiều sâu trong tâm hồn mỗi nhân
vật.
2.1.3. Không gian hiện thực tâm linh, phi lí - nơi cứu rỗi tâm hồn con
người
Các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú luôn ở trạng thái cô
đơn, tuyệt vọng, bấp bênh, mất niềm tin và phương hướng giữa cuộc đời
ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Cuộc đời họ là hành trình tìm lại niềm tin,
tìm lại chính mình, song dường như các nhân vật đều không tìm thấy được
điều họ cần tìm. Quy luật nghiệt ngã của cuộc sống có thể nhấn chìm, nuốt
chửng họ bất kì khi nào, con người nhỏ bé không còn nơi bám víu, nương
tựa, họ tìm đến niềm tin tôn giáo, lấy đó làm điểm tựa. Hiện thực về thế giới
tội phạm cố nhiên có phần rõ ràng, sáng tỏ nhất là khi Nguyễn Đình Tú đi
giải thích căn nguyên của góc khuất, mảng tối ấy dưới góc nhìn nhân văn.
Đó là hiện thực có phần huyền ảo, linh diệu, nhiệm màu. Cái phần siêu hình,
ẩn dật này đôi khi lại nằm ngay trong vẻ ngoài bình dị quen thuộc của đời
sống. Nhà văn Bùi Hiển trong bài tiểu luận văn học Cánh cửa sổ mở ra cõi
mung lung viết: “Đúng ra có thể nói: Mở vào. Vì cái chốn mung lung cần
phải soi rọi vào ấy, lại chính là tâm hồn, tâm thức, tâm linh và những điều
gì diễn ra trong tầng sâu ý thức, trong bộ não, trái tim con người trước khi
thể hiện ra ngoài (mà cũng có thể không thể hiện) bằng cử chỉ và hành
động… Văn học với chức năng của nó là khám phá bản thể con người (song
song với việc khám phá ngoại giới), lẽ tự nhiên nó rất khao khát soi vào
những miền uẩn ức của nội tâm, vào những động cơ thầm kín đến mức tăm
40
tối của những ứng xử ý thức: các hiện tượng mà người ta gọi siêu tâm lý.”
(Nguyễn Tuệ Xương, Vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới). Đó có thể là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn
chưa đến đích”. Đó chính là nơi tồn tại trong cõi mông lung mà ta cần soi
rọi, phải hướng đến trong tiếng gọi tha thiết từ cõi lòng mình. Cõi mông
lung đó “chính là tâm hồn, tâm thức, tâm linh, là những điều gì diễn ra
trong tầng sâu ý thức, trong bộ não, trái tim của con người trước khi thể
hiện ra ngoài” (Nguyệt Tuệ Xương- vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới). Toàn bộ cái đời sống bên trong gắn liền với tín
ngưỡng, niềm tin vào những thế lực siêu hình cùng các mối quan hệ bí ẩn
của con người, những sức mạnh thuộc về trực giác, linh cảm, những khả
năng kì lạ khoa học chưa giải thích được, nhưng có thể diễn tả bằng nghệ
thuật, những cảm xúc về cái linh thiêng, cùng những khoảnh khắc vụt sáng
của toàn bộ tâm thức như có sự mách bảo của một nhà thông thái vô hình.
Không gian tôn giáo có mặt trong hầu hết các tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú và đóng vai trò như một thế giới bí ẩn của “cái tôi” nhân vật, là nơi
trú ngụ, nơi trở về trong tâm hồn nhân vật sau những đớn đau họ phải đối
mặt trong cuộc đời đầy rẫy những tổn thương, mất mát. Không gian tâm linh
còn thể hiện niềm tin tâm linh trong mỗi con người, đó là niềm tin hướng
thiện hay khao khát hướng thiện trước cuộc đời đầy nghiệt ngã. Trong bài
viết “Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp- một chặng đường tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú”, Đoàn Minh Tâm phát hiện ra “Hệ thống những hình tượng tôn
giáo. Những hình tượng như ngôi chùa, nhà thờ, sư ông, đức cha…cũng
thường xuyên xuất hiện với mật độ cao trong truyện ngắn và tiểu thuyết.”
[105].
Chùa Áng Sơn là nơi Hiến-người bạn thơ ấu của Bạch Đàn gửi gắm
cuộc đời mình sau những ngày tháng tuổi thơ cực nhọc, phải bon chen để
sống với đời. Và chính bản thân Bạch Đàn sau lần nói chuyện với Hiến-khi
41
đã là nhà sư Pháp Thiện-cũng có ý nương nhờ cửa Phật để xoá đi những
nghiệp chướng mình gây nên với hồi ức xưa trong câu hát của ông đò:
“Mênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn
nơi. Phép nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn
người”(Hồ sơ một tử tù). Cả cuốn sách mênh mang màu sắc Đạo Phật cho
tới dòng cuối cùng “Bây giờ nếu có du khách nào đến chùa Áng Sơn sẽ
không khỏi ngạc nhiên khi được biết trong đất chùa có xây một ngôi mộ cho
kẻ tử tù… nhìn dải phướn nhỏ tung bay trong gió”(Hồ sơ một tử tù). Màu
sắc của thứ văn hoá tâm linh ấy còn được gợi ra từ hình ảnh cây thánh giá
trước ngực Nhung “Nhung vừa làm dấu thánh vừa đọc một bài kinh bằng
thứ giọng ê a nghe rất buồn ngủ. Mái tóc buông xuống một bên ngực Nhung,
sợi dây có đeo thánh giá mắc hờ bên mép cổ áo làm Nhung hiện lên như một
nữ tu uẩn khúc, đớn đau trong dáng hình trinh nữ thánh thiện. Trí tò mò làm
hắn đứng yên như một bức tượng, lắng nghe cho bằng hết những lời cầu
nguyện của Nhung”(Hồ sơ một tử tù), những hồi ức của Nhung về một xứ
Đạo “nàng nhớ về một cái nhà thờ lớn rất rộng. Mẹ nàng thường đưa nàng
đến đó tham gia các buổi hành lễ với rất nhiều thủ tục rối rắm phức tạp”,
những dụ ngôn về con chiên lạc bầy của Chúa, câu chuyện của người đàn
ông, người đàn bà và con rắn mà Nhung kể cho Đàn nghe…
Trong Nháp, khi Đại đã sa chân vào con đường tội lỗi, chùa Tử Tội
vừa là nơi hắn trú ngụ, ẩn nấp, vừa là nơi hắn tìm được phần thiện trong con
người mình. Sau những ngày ẩn mình dưới nắp cống và trong bàn thờ, được
sư ông ở đó giác ngộ, Đại bỏ đi ý định quyên sinh, quyết tâm “quay lại tìm
bờ”. Sự ám ảnh của thế giới tâm linh ấy còn hiện hữu trong hình ảnh của
Thảo, một con chiên của Chúa, như một biểu tượng cho cái cao đẹp thuần
khiết, sáng trong, ở hình ảnh vị linh mục đã yêu quý Thảo, đã dạy cho Đại
biết bao nhiêu điều, đã gợi ra cho anh niềm yêu mến với tiếng đàn huyền
diệu Richard Clayderman, ở những bí ẩn của cả thế giới trẻ thơ nơi phố Núi
42
huyền thoại… Nhà thờ Phố Núi trong Nháp và hình ảnh Chúa trong tâm
thức của Thảo luôn là đích đến, là cõi tuyệt đối để con người nương tựa.
Trong Phiên bản, bức tượng Phật được Tân đặt trong phòng riêng là
cách hắn hối cải tội lỗi của mình, giúp hắn giải thoát, cứu chuộc linh hồn,
giải phóng con người ra khỏi ngục tù hoang mang. Chúa và câu kinh thánh
xuất hiện ở Phiên bản như tấm gương để Diệu nhận ra góc khuất trong tâm
hồn mình từ đó thanh lọc đi những vết đen trong tâm hồn Diệu. Đọc Phiên
bản, yếu tố văn hoá tâm linh tác động vào quá trình phạm tội hoặc giác ngộ
của những kẻ giang hồ chưa rõ lắm. Ngoài những đoạn nói đến kinh thánh là
sự ám ảnh của câu chuyện cổ tích về con giao long đối với Diệu - một con
chiên của chúa. Hình ảnh bà lão giết nhầm con nuôi của mình là Giao long
trắng ở suối Mô Cuống để cuối cùng phần thắng thuộc về giao long đen phải
chăng là một ẩn dụ về sự tồn tại đương nhiên của thế giới tội phạm. Có mối
liên hệ mật thiết giữa câu chuyện cổ tích này với cuộc đời Diệu. Diệu đã đọc
nó trên chuyến tàu vượt biên, trước khi xảy ra vụ chém giết của bọn cướp
biển và khi cô gái ấy mơ thấy những con giao long người trườn từ dưới biển
lên thì thảm hoạ xảy ra. Từ đó về sau, mỗi lần giao long xuất hiện là mỗi lần
Diệu- Hương Ga giết người. Cái chết của Hưng mã, Tuấn chợ đều có sự
tham dự của giao long. Dường như, hình ảnh con giao long là hiện thân của
cái xấu, cái ác, nó luôn tồn tại trong mỗi con người và ngay trong chính cô
bé Diệu. Trong mỗi cá thể con người đều tồn tại cả mầm thiện và mầm ác,
chúng luôn đấu tranh, va đập với nhau. Đó là cuộc đấu tranh không ngừng
và có lẽ không bao giờ có hồi kết.
Các nhân vật luôn tìm đến không gian tôn giáo là tìm đến niềm tin
tưởng, hi vọng vào những điều bình dị trong cuộc sống, giúp đời sống tinh
thần thăng hoá. Không gian văn hoá dân gian cùng tín ngưỡng thờ Mẫu
xuyên suốt trong Kín qua câu chuyện về Mẫu Liễu Hạnh, từ người ông đã
cứu rỗi cuộc đời lầm lạc của cô bé Quỳnh. Người ông trong câu chuyện rất
43
mê Đạo Mẫu, trở thành con nhang đệ tử của đạo Tứ Phủ, bị cơ đày sau đó đã
làm lễ trình đồng mở phủ. Khi đứa cháu gái mà ông yêu thương nhất mất
tích. Ông đã tìm đến hi vọng cuối cùng đó là ông ra hầu đồng ở chính ngôi
điện của mình.
Xuất hiện trong các tiểu thuyết, không gian văn hoá tâm linh giúp con
người sau những phút giây bề bộn tìm thấy sự bình yên, chỗ dựa tinh thần. Nó
còn là chiếc chìa khoá để mở ra cánh cửa bí ẩn của cái tôi trong mỗi cá nhân.
Đối chiếu giữa dấu ấn Phân tâm học trong tác phẩm của Nguyễn Đình
Tú và Nguyễn Bình Phương ta thấy nó vừa có điểm tương đồng vừa mang
những nét khác biệt. Nếu như Nguyễn Đình Tú xây dựng hiện thực giấc mơ,
phi lý và hiện thực tâm linh mang màu sắc tôn giáo thì Nguyễn Bình Phương
lại khai thác hiện thực âm bản, hiện thực giao tranh giữa thế giới âm bản và
dương bản (Người đi vắng, Ngồi), hiện thực đa tầng hỗn mang phi lý (Đứa
trẻ chết già, Người đi vắng). Nếu như dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú nhằm đi vào truy tìm cái căn nguyên, gốc rễ của những ẩn
ức, những yếu tố tạo nên thế giới vô thức vô cùng phức tạp trong con người
thì Nguyễn Bình Phương lại thiên về mô tả, tái hiện. Như vậy, ta có thể thấy
được một bước tiến lớn của Nguyễn Đình Tú trong việc tìm tòi, sáng tạo
nghệ thuật. Song, độc giả có thể dễ dàng nhận ra sự tương đồng trong tiểu
thuyết của hai nhà văn này qua việc thể hiện nỗi cô đơn trong xã hội đương
đại. Đó là thế giới hoang hoải, cô đơn cùng cực, con người không chia sẻ,
không thể chia sẻ, con người cô đơn trong một xã hội rộng lớn không tìm
thấy tiếng nói tri âm.
2.2. Dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn con người trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú
Nằm trong dòng văn học sau 1975, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có
những điểm chung trong việc nhìn nhận, đánh giá, tiếp cận con người. Quan
niệm về con người là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết trước, không
44
thể biết hết. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là "tổng hòa các
mối quan hệ xã hội". Con người hành động có khi theo sự chỉ huy của ý
thức, của lí trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói của tâm linh, của
vô thức, bản năng. Rất khó có thể “định tính” hay “định lượng” cho con
người mà không làm tổn thương đến bản chất người của nó. Khi trình bày
mẫu người giản đơn đến máy móc, duy ý chí đến thô thiển của một thời
nhiều ấu trĩ, vụng dại, Nguyễn Khải cũng phát biểu về cái bí ẩn của cuộc đời
qua lời nhân vật chất vấn: “Nếu mọi sự đều có lí, đều có thể hiểu được thì
làm gì còn văn chương hả ông?” (Nhóm bạn thời kháng chiến). Vậy là con
người cần đến văn chương vì nó tự biết nó là một thế giới vô cùng tận, khó
có thể hiểu hết, nó kì vọng ở khả năng khám phá và biểu hiện của văn
chương. Và sức hấp dẫn có được của văn xuôi hiện nay chính là ở chỗ nó
liên tục phát hiện những cái khuất lấp, ẩn chìm, những sức mạnh kì lạ đã chi
phối và dẫn dắt số phận riêng của mỗi cá nhân, không ai giống ai cả.
Khi đi tìm hiểu, khám phá nhân vật trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn
Đình Tú đã chú trọng đi sâu vào cõi vô thức, bản năng của con người để khám
phá cái “tiểu vũ trụ” đầy bí ẩn ấy. Qua khảo sát bốn tiểu thuyết trên và vận
dụng lý thuyết Phân tâm học, người viết khai thác con người trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú ở những khía cạnh sau: Con người bản năng; Con người ẩn
ức, mặc cảm, cô đơn; Con người thần kinh, đa nhân cách.
2.2.1. Con người bản năng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
2.2.1.1. Sự đấu tranh giữa bản năng sống và bản năng chết trong con người
Phân tâm học của S.Freud đã chỉ ra rằng: “Đời sống tình cảm sơ đẳng
của chúng ta chịu sự chi phối của hai lực lượng đối nghịch, vừa thúc đẩy
chúng ta thèm muốn, vừa thúc đẩy chúng ta sợ, vừa thương vừa ghét, vừa
chiếm hữu vừa sẻ chia...” [98].
Theo Freud những bản năng sống gắn bó chặt chẽ với những lực
lượng gây hấn những bản năng chết; bản năng chết có thể quay về chính
45
chúng ta hay quay về phía những người khác. Luận điểm của Freud có thể
hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa đen, nghĩa hiển ngôn tức là con người sống bằng
thân xác nhưng chết về tinh thần, họ không có đời sống tinh thần như họ
mong ước nên họ muốn huỷ hoại thân xác của mình. Còn hiểu theo nghĩa
hàm ngôn thì con người luôn cố gắng giết chết dục vọng đen tối để sống với
chính mình. Tư tưởng này rất gần với đạo Phật.
Cuộc sống khơi dậy năng lực của chúng ta để thỏa mãn những nhu cầu
của chúng ta. Nhưng đồng thời nó cũng duy trì những nhu cầu này, làm cho
chúng xuất hiện thường xuyên, do đó chúng ta dễ lo âu và đau khổ. Có nhiều
hình thức của lo âu và đau khổ, gắn liền với những đòi hỏi an toàn và quyền
hành, không bao giờ thỏa mãn hoàn toàn được. Sống tức là phải sống những
giây phút căng thẳng, không thỏa mãn, và cứ như vậy lẫn lộn với nhau. Sống
tức là phải tranh đấu khó nhọc để duy trì một sự quân bình mỏng manh giữa
cơ thể và thiên nhiên, giữa những ước muốn của chúng ta và thực tế. Chính
vì vậy mà khi sự lo âu, đau khổ, thất vọng hay thất bại làm hao mòn sinh lực
của chúng ta, chúng ta lại thấy nảy sanh trong chúng ta một sự lo sợ truyền
kiếp: sợ tranh đấu, sợ cuộc sống. Lúc đó cái chết xuất hiện như là sự trở về
đời sống hạnh phúc và vô thức của thai nhi, vừa vượt khỏi đời sống thai nhi
này, cái chết được coi như là sự trở về thân phận bình yên và bất động của
vật chất vô tri vô giác. Như vậy trong mỗi người chúng ta có những lực
lượng chết (forces de mort) diễn tả sự nuối tiếc đời sống thai nhi trong bụng
mẹ. Ngược lại ý chí sống là một sự tranh đấu không ngừng chống lại những
lực lượng của già yếu và chết.
Chính vì vậy mà Freud nghĩ rằng nguyên tắc bất biến thúc đẩy chúng
ta giảm bớt những căng thẳng, tới một mức nào đó có thể thúc đẩy chúng ta
muốn chết: giết chết những thèm muốn của mình, tức là tránh được sự đau
khổ không thỏa mãn được chúng. Như vậy trong mỗi chúng ta có hai lực
lượng vô thức mạnh ngang nhau chống đối với nhau: một lực lượng thúc đẩy
chúng ta hành động, sống và chinh phục; một lực lượng khác thúc đẩy chúng
46
ta buông xuôi, tan biến và chết. Trong thực tế cả hai lực lượng này kết hợp
với nhau một cách chặt chẽ và khó hiểu. Cả hai đều thúc đẩy chúng ta tìm
kiếm trở lại một thế quân bình đã mất, một sự yên lành phát xuất từ sự thống
nhất giữa chúng ta với thiên nhiên. Nhưng một lực lượng thúc đẩy chúng ta
thỏa mãn những thèm muốn, còn lực lượng kia thì lại kéo chúng ta trở về với
hư vô, để khỏi đau khổ.
Cả hai lực lượng này vừa đối nghịch với nhau, vừa đồng lõa với nhau,
là nguyên nhân chính đưa tới tính cách lưỡng năng tình cảm của tâm linh con
người. Ý chí muốn sống là một cái gì gây hấn vì nó là một sự chinh phục
không ngừng. Nhưng đồng thời trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta, bản
năng chết thúc đẩy chúng ta tự làm cho mình đau đớn, làm cho gây hấn tính
của chúng ta quay trở về chính mình, như là để trừng phạt mình tại sao lại
muốn tiếp tục sự tranh đấu sống; hoặc là làm như vậy bản năng chết lại muốn
tránh cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ, phát sinh từ những thèm muốn
phi lý. Khi xã hội bó buộc chúng ta phải dồn nén một số những thèm muốn
của chúng ta một cách vô tình xã hội đã kêu gọi tới bản năng chết này.
Thật vậy đời sống tình cảm sơ đẳng của chúng ta chịu sự chi phối của
hai lực lượng đối nghịch, vừa thúc đẩy chúng ta thèm muốn, vừa thúc đẩy
chúng ta sợ, vừa thương vừa ghét, vừa chiếm hữu vừa sẻ chia, vừa muốn được
bảo vệ vừa muốn được cai trị người khác, vừa thích mạo hiểm vừa muốn an
toàn. Tình yêu con người vừa là cho vừa là chiếm hữu, hành động tình dục
vừa là buông xuôi vừa là gây hấn. Tình yêu và hận thù, khuất phục và bạo
động, rộng lượng và ích kỷ, tất cả đều sống chung với nhau trong phần sâu
thẳm của vô thức, vừa được thể hiện trong hành động một cách luân phiên,
làm cho thái độ của chúng ta khó hiểu vô cùng.
Như vậy đời sống tình cảm của con người được đặt trên nền tảng xung
khắc, một ý niệm căn bản của Phân tâm học của Freud - xung khắc giữa
những năng lượng sống và những năng lượng chết.
Xuyên suốt các tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là hành trình đấu tranh
không ngừng giữa sự sống và cái chết của các nhân vật. Quỳnh (Kín) là
47
người mang bản năng chết rất mạnh mẽ. Trong cuộc sống hoang mang,
Quỳnh đã rơi vào trầm cảm và tìm đến cái chết “Con đau. Tất cả đang đánh
đập con, chà sát con, dẫm đạp con. Con sợ. Con hãi. Con kinh khiếp. Con
đang chết. Và con thấy cái chết có màu, có mùi, có vị, có hình thù, có âm
thanh, có nhục cảm...” [116, tr.12]. Dù đã được đẩy đi khá xa khỏi cái ranh
giới địa lý, ranh giới văn hoá bản địa này thì cô cũng chẳng tìm được gì,
chẳng biết bấu víu vào đâu. Cũng giống như Tráng với một thân phận khá
đặc biệt đã không tìm được chốn dung thân, cho dù đó là một nơi hoàn toàn
xa lạ với quê hương bản quán. Quỳnh không chỉ một lần tìm đến cái chết.
Lần thứ nhất nằm trong căn phòng của mình, Quỳnh thấy “kiếp người chỉ
mang thứ màu lễnh loãng phù vân” và “nghĩ đến sự vô nghĩa của việc có mặt
trên cõi đời này”, cô đã “tiêu hết những thứ cuộc đời kí gửi” và đi đến hành
động uống hai viên thuốc ngủ rồi lấy dao lam cắt mạch máu cổ tay. Buổi
sinh nhật lần thứ 20 chính là hành vi Quỳnh tìm đến cái chết lần thứ hai.
Nếu như tìm đến cái chết lần thứ nhất Quỳnh đã huỷ hoại thể xác mình thì
khi tìm đến cái chết lần thứ hai, cô đã huỷ hoại mình về tinh thần. Màn trình
diễn thác loạn và bệnh hoạn của mười hai con giáp chính là nút phóng quả
tên lửa huỷ diệt vào chính tâm hồn cô. Ở biến cố lần thứ nhất sau lần cháy
chợ, khi chui từ dưới cống lên, Quỳnh không biết mình là ma hay là người,
còn ở biến cố thứ hai sau buổi sinh nhật, cô đã thực sự không còn là người.
Khi một người đã vượt qua cái chết để nhận thức được giá trị của sự sống
nhưng với Quỳnh, cái sự không chết của cô chỉ càng đẩy cô vào ngõ cụt. Cô
đã thoát xác lần thứ hai để giờ không biết phải sống ra sao trong một ngõ tối
với những bức tường có màu sắc huỷ diệt. Không chết “vậy con phải sống
thế nào ?”. Quỳnh đã hỏi mẹ như vậy. Quỳnh hội tụ mọi yếu tố của một con
người có bản năng chết mãnh liệt, Quỳnh đã đi đến hết cái ngõ tối hun hút,
bế tắc và giật mình vấp phải bức tường chắn có màu sắc huỷ diệt. Đó là cái
trò lên đồng “linh tinh tình phộc” - “vũ điệu thân xác của muông thú” - “Đệ
nhất khoái cảm trần gian” do Phong cùng đám bạn nghĩ ra để tổ chức sinh
48
nhật lần thứ 20 cho Quỳnh. Quỳnh ra khỏi “căn phòng tận thế” với một trái
tim đang vỡ. Quỳnh thấy mình đang chết. Nhưng mỗi lần cái chết cận kề,
tiếng nói của mẹ lại cất lên, dẫn dắt, đưa lối để Quỳnh bước tiếp. Tiếng nói
của mẹ chính là tiếng nói của sự sống. Bản thân Quỳnh không tìm được lý
tưởng nên cô luôn có ý định tự tử, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn là tiếng
nói của lý trí, là khao khát sống chưa bao giờ nguội tắt. Quỳnh quyết định
rời khỏi cuộc sống hiện tại. Quỳnh và các bạn của cô, những tâm hồn bị sa
mạc hoá, bị truy sát và bức tử bởi những vấn đề của cuộc sống hiện đại đang
cố gắng tìm mọi cách để giành giật sự sinh tồn.
Trong Kín không chỉ có Quỳnh mà còn “ăm ắp những thân phận khổ
đau, chìm nổi, bi thương, bất hạnh”, nhưng họ luôn đấu tranh không ngừng
để được sống. Hoàn là một đứa trẻ vô cùng bất hạnh. Sinh ra trong gia đình
làng chài ven biển, bố mẹ bị biển vùi chết trong chuyến ra khơi. Số phận đưa
Hoàn trôi dạt ra bến ga Hải Thành với bộ đồ nghề đánh giày trên tay. Có thể
nói, Hoàn là đứa trẻ có bản năng sống mãnh liệt, nhờ đó mà nó có thể đương
đầu với mọi khó khăn thử thách để sinh tồn ở mảnh đất đầy bạo lực đó. Đứa
con của biển cả hoang dại lần đầu tiên biết đến một sự thật rằng, thế gian
này đâu đâu cũng có chủ. Hoàn đã phải trả phí cuộc đời mình bằng tấm thân
đầy thương tích bởi sự ra tay trừng phạt của đám hung thần và đám ma đói
ma khát dưới trướng. Để có thể tồn tại trước cuộc đời đầy rẫy những cay
đắng, Hoàn đã buộc phải biến mình thành một tên cướp, ra tù vào tội, khuôn
mặt ngày một trở nên sứt sẹo, gớm ghiếc. Lộc mũ bông là thế lực đối địch
với Hoàn, hắn được coi là hung thần nơi bến ga Hải Thành. Song, sự tàn ác
của hắn của hắn cũng xuất phát từ bản năng sinh tồn. Lộc có xuất thân tội
nghiệp, là con của gái điếm, bị vứt ở nhà ga, bị HIV di truyền từ mẹ. Toàn
thân tróc lở, nước vàng cứ chảy ra. Bản năng bạo lực của hắn mạnh mẽ như
một tấm rào che giấu đi những tổn thương mà hắn phải chịu đựng. Bạo lực
giúp Lộc mũ bông có thể tồn tại dù phải chà đạp lên sự sống của kẻ khác.
49
Dưới trướng của hắn lúc nào cũng có dăm bảy thằng ma đói ma khát sẵn
sàng nhảy vào đánh đập bất cứ ai.
Bản năng sống mãnh liệt của các nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú còn thể hiện ở bản năng tự vệ của bản thân trước các thế lực thù
địch. Điều này thể hiện rất rõ qua Phiên bản, Kín và Hoang tâm. Trong
Phiên bản, Hương Ga, Tùng hero, Tính dao mổ, Bình sói, Lộc ba tai, Vĩnh
con đều là những kẻ có máu mặt trong giang hồ. Để tồn tại ở nơi “đất
nghịch” như ngã ba sông, họ phải giết chóc đánh chém lẫn nhau. Diệu từ
một cô bé hiền lành, ngây thơ trở thành Hương ga - đàn chị giang hồ khét
tiếng.
Trong Phân tâm học, bản năng sống còn gắn với năng lực tình dục.
Nhân vật Anh (Hoang tâm) khát khao tìm lại năng lực tình dục của mình
cũng chính là tìm lại sự sống vốn có, tìm lại cuộc đời của một con người
bình thường, lành lặn trước kia mà chiến tranh đã cướp đi của Anh. Son
Phấn phải tìm lại được khát khao tình dục để có được nhan sắc, khả năng
duy trì nòi giống cũng như duy trì bộ tộc người Mụ không bị diệt vong.
Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã viết về cuộc đấu tranh không ngừng
giữa người với người để tranh giành sự sống. Qua đó, người đọc thấy được
bộ mặt cuộc sống khắc nghiệt và quy luật sinh tồn. Nguyễn Đình Tú còn
khắc hoạ sống động và sâu sắc quá trình đấu tranh giữa bản năng sống và
bản năng chết diễn ra trong vô thức mỗi con người để thấy được giá trị, ý
nghĩa của con người trong xã hội hiện đại.
2.2.1.2. Con người mang bản năng tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Phân tâm học tìm hiểu trạng thái tâm lí của vấn đề tính dục, từ đó xem
xét những ảnh hưởng của nó đối với tinh thần của con người. Bản năng tính
dục là nguồn gốc của mọi công trình sáng tạo vĩ đại nhất. Có hai loại tính
dục: tính dục lành mạnh là loại tính dục có ích và tính dục sa đọa khiến con
người sa sút về mặt thể chất lẫn tâm hồn, gây nên tâm bệnh. Khai thác yếu tố
50
bản năng trong tác phẩm với ý nghĩ “bản năng thì không có định hướng,
không có sự chung thủy, cũng không có kết cục nào đang chờ đợi ở phía
trước cả”, nhân vật của Nguyễn Đình Tú hiện lên chân thật với những cảm
xúc rất nhân văn, rất con người. Và từ bản năng đó con người gọi tên được
các giá trị khác trong cuộc sống. Nguyễn Đình Tú đã khẳng định chắc nịch
vai trò của tình dục trong các tác phẩm của mình “Thời gian qua tôi đã phải
trả lời rất nhiều những câu hỏi liên quan đến sex trong tác phẩm của mình.
Ở đây tôi chỉ xin trả lời một cách ngắn gọn như thế này: chỉ khi nào sex
không còn tồn tại trong đời sống thì nó sẽ không còn được đề cập trong tác
phẩm của tôi nữa.” (Theo Vnexpress.net).
Nguyễn Đình Tú đã viết về bản năng tính dục ở nhiều góc độ. Trước
hết, anh muốn khẳng định tính dục chính là tính người, là phạm trù văn hoá.
Điều đó được thể hiện rất sâu sắc trong Hoang tâm. Ngòi bút nhân đạo của
nhà văn không chỉ khoét quá sâu vào bi kịch tổn thương tinh thần của người
lính thời hậu chiến mà còn tìm ra một liệu pháp cứu rỗi linh hồn, chữa lành
vết thương trong tâm tưởng. Liệu pháp ấy, như lời phán truyền của thầy bói
“Phải đến đất Nguyên Thủy, vào Cửa Núi mà tìm lại chính mình” [118,
tr.16]. Với Nguyễn Đình Tú cái có thể xoa dịu nỗi thương tổn tinh thần kia
không phải là sự văn minh, giàu có của đời sống hiện đại mà trái lại là
những gì thô sơ và hoang dã. Thứ đánh thức những khát khao nhân tính của
con người không tồn tại trong ánh sáng mà tồn tại ở một nơi “quanh năm
không có ánh mặt trời”. Cuộc sống hiện đại hỗn tạp, xô bồ nhiều khi khiến
con người đánh mất sự bình yên trong bản thể, tâm hồn trở nên hoang hoải,
nhàu nhĩ. Dưới ánh sáng mặt trời nhiều khi lại bày ra nhan nhản những
hoang phế, đổ vỡ, bất an. Thuốc an thần - sản phẩm của nền y học hiện đại
dường như không có tác dụng. Để tìm lại giấc ngủ, đánh thức “mầm dục”,
anh đã phải cùng Son Phấn phiêu lưu trong Cửa Núi, tìm đến với tộc người
Mã, người Khi, người Mụ - những tộc người còn giữ nguyên được vẻ đẹp
hoang sơ, thuần khiết, hoàn toàn xa lạ với những ồn ào, náo động của đời
51
sống hiện đại. Suốt thời gian ở trong Cửa Núi, người đàn bà mang tên Son
Phấn đã đánh thức khát khao tình dục trong Anh. “Cô làm rất từ từ, như
thầy thuốc chữa bệnh cho bệnh nhân, như người mẹ hút những ung nhọt trên
cơ thể con trai, như con chó cái liếm lành vết thương cho con chó đực”
[118, tr.106]. Bản năng tình dục là một trong những biểu hiện quan trọng
nhất của tính người, là một nỗi khát khao đầy nhân bản. Khi mầm dục sống
lại cũng có nghĩa là nhân vật đã tìm lại được chính mình. Cuộc hành trình ấy
phải chăng là hành trình tìm lại những giá trị văn hóa hồn nhiên đã bị đánh
mất sau bao nhiêu tháng ngày ngụp lặn trong một thời đại quá ngổn ngang,
bề bộn, cái mà Inrasara gọi là “cuộc trở về với căn tính văn hóa”. Có cái gì
như là sự vọng lại từ luật phản phục (quay trở về) trong tư tưởng Lão Trang,
hướng con người tìm về với sự chất phác của bản thể, sự thanh sạch của tâm
hồn mà lãng quên bao nhiêu ưu phiền trần thế.
Bản năng tính dục còn thể hiện qua nhân vật Son Phấn - cô gái điếm
người Mụ, người đi cùng nhân vật Anh trong suốt cuộc hành trình vào sâu
trong Cửa Núi, cũng là người giúp Anh đánh thức những khát khao để tìm
lại chính mình. Họ đi cùng nhau, đồng cam cộng khổ, quan hệ tình dục với
nhau. Cô là nữ tộc trưởng đầy quyền lực của tộc người Mụ, bỏ ra ga Nguyên
Thủy để kiểm chứng về mầm dục của mình theo một luật tục đầy tính nhân
văn. “Nữ tộc trưởng phải là người còn mầm dục trong người. Còn mầm dục
thì còn có quyền lựa chọn đàn ông. Còn mầm dục thì dân tộc Mụ mới tiếp
tục sinh sôi, nảy nở, mới trở thành biểu tượng của sự bất diệt”[118, tr.282].
Một điều thú vị diễn ra trong Hoang tâm: nữ tộc trưởng hóa thân thành gái
điếm để đi tìm mầm dục và khi mầm dục đã được đánh thức bởi một người
đàn ông mặc cảm và bệnh hoạn thì cô gái điếm lại hiện ra nguyên dạng là
một nữ tộc trưởng đầy quyền uy. Đối với nhà văn nữ tộc trưởng hay gái
điếm không quan trọng. Dù ở địa vị nào trong xã hội thì cái quan trọng là có
giữ được mầm dục hay không. Còn giữ được mầm dục tức là còn giữ được
cái phần “nhân tính nguyên sơ” của loài người. Nguyễn Đình Tú cũng đã
52
từng nói rằng sống mà không còn mầm dục, tức là không còn ham muốn, đã
tắt hết lửa lòng thì cũng chẳng còn gì nữa. Như vậy xuyên suốt Hoang tâm là
hành trình tìm lại bản năng tính dục của hai nhân vật Anh và Son Phấn. Điều
đó đã giúp họ tìm lại được cuộc sống bình thường trước đây.
Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được miêu tả như một nhu
cầu tự nhiên, một phần tất yếu của cuộc sống, động lực thúc đẩy con người
hướng về điều tốt đẹp. Nhân vật Hương ga trong tiểu thuyết Phiên bản đang
ở cái tuổi mới lớn, hừng hực sức yêu. Những tháng ngày kiếm sống nơi bến
bãi, lang thang, cô đơn, phút giây khoái cảm bên Hưng mã là nguồn sống
cho sự tồn tại của Hương ga: “Da thịt em lâu lắm rồi mới lại được những
ngón tay đàn ông vuốt ve, mò mẫm, nâng niu, mơn trớn như thế này. Hai
bầu vú em căng lên, sự thèm khát trong em trỗi dậy, em để mặc Hưng bù
đắp cho em bằng những va chạm đê mê” [117, tr.266]. Hương ga luôn hi
vọng Hưng mã sẽ là bến bờ hạnh phúc của cuộc đời cô. Vì thế Hương ga yêu
hết mình và tận hưởng những giây phút thăng hoa cùng Hưng mã mà không
hề suy nghĩ, đắn đo: “Hưng dẫn em đi qua miền cực lạc của trai gái, của
cuộc sống bụi đời, của những ngày tháng đứng bãi, của những mộng mơ mê
đắm đầu đường xó chợ. Hưng sở hữu một cơ thể gầy gò nhưng dẻo dai,
những hình xăm trên cơ thể Hưng rất ấn tượng với em. Hưng lại rất có kinh
nghiệm trong cái chuyện cọ xát da thịt (…), làm em tê dại bởi khoái cảm”
[117, tr.184-185].
Tính dục phản ánh tính cách con người. Hành vi tình dục không chỉ
gói gọn ở tính chất xác thịt mà nó là kết quả của tình yêu đẹp đẽ. Tình yêu
giữa Hương ga và Tùng hê rô trong tiểu thuyết Phiên bản là một tình yêu
đẹp, hết lòng vì nhau. Bên Tùng, Hương ga được sống với chính mình, tận
hưởng những giây phút thăng hoa trong sự thỏa mãn: “Ngay cả những lúc
quỳ trước em, đổ bóng lên người em, dồn dập vào trong em, em vẫn cảm
nhận được sự gượng nhẹ từ Tùng. Tùng sợ cái khung người quá khổ sẽ đè
53
bẹp em, nghiền nát em, tổn thương em. Tùng dẻo dai nhưng không mạnh
bạo. Sự đều đặn của Tùng như mồi lửa kiên nhẫn đưa vào khối nước đá
trong em làm chúng tan chảy. Sự tan chảy ấy trở thành thác lũ quay lại cuốn
phăng Tùng đi” [117, tr.301]. Tình yêu giữa Tùng hê rô và Hương ga được
xây đắp từ những nghĩa cử cao đẹp của tình người. Họ biết sống cho nhau và
vì nhau. Giữa bản năng và nhân tính, họ nghiêng về nhân tính nhiều hơn.
Tính dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không chỉ là bản năng mà
còn thể hiện chất nhân văn, nhân bản, tình người cao đẹp. Nhà văn miêu tả
cảnh ái ân, hoan lạc của những nhân vật trong tác phẩm, thật sự là những
khoảnh khắc rất “người”. Người đọc thật sự rung động và hòa cùng cảm xúc
với các nhân vật khi đọc đoạn văn miêu tả giây phút đầu tiên Đại cùng
Duyên trong tiểu thuyết Nháp mang đầy tính bản năng. Nguyễn Đình Tú đã
miêu tả cảnh ân ái giữa Đại và Duyên thật lãng mạn và cảm xúc. Từ không
gian gợi tình đưa đẩy, đến những biểu hiện gợi tình của giới tính, tất cả hiện
lên thật hài hòa: “Gió mơn man da thịt. Bên thì mở lòng, bên thì tò mò,
mong mỏi. Thế là những nụ hôn trao nhau. Thế là những chiếc cúc bật tung.
Đại ơi, Duyên sợ lắm! Sợ gì? Đau! Không đau đâu. Thế là người phủ lên
người, da thịt phủ lên da thịt, hoàng hôn phủ lên hoàng hôn. Cả đám hoa dạ
thảo ven hồ nát bấy dưới hai thân hình căng tràn sức thanh xuân” [115,
tr.131]. Từ phút thăng hoa, khoái lạc ấy, Đại cảm thấy hân hoan trong lòng.
Cùng với sự biến đổi về mặt tâm lý, là cả một sự thay đổi lớn đang diễn ra
bên trong tâm hồn của cả hai người. Nguyễn Đình Tú thật tinh tế và tỏ ra
thấu hiểu tâm lý nhân vật khi nói lên những cảm xúc của họ: “Cả hai đều
cảm thấy có một cái gì đó đang nứt ra trong mình. Những bước chân đầu
tiên thật ngượng ngạo, khắp da thịt đâu cũng thấy tê tê giần giật, cảm xúc
dâng lên trái chiều và căng cứng, vừa thích thú vừa e ngại, vừa trống rỗng
vừa bồi hồi” [115, tr.131].
54
Nguyễn Đình Tú quan niệm bản năng tính dục rất mạnh mẽ, nó chi
phối đến mọi mặt của đời sống con người. Trong Kín, khi Quỳnh lạc vào
trận địa của nghĩa quân Bãi Sậy trước kia, cô đã gặp linh hồn của những
quân sĩ chết trận. “Sống sao chết vậy”, họ luôn thèm khát mùi vị của đàn bà:
“Cô nâng người tôi lên một chút được không? Tôi thèm hôn vào mớ tóc của
cô quá. Tôi nằm đây lâu lắm rồi. Máu không chảy nữa rồi. tiếng rên la cũng
tắt hết rồi. Hết cả đau đớn nữa. Chúng tôi quen với sự chết rồi. Nhưng vẫn
không quên được mùi tóc, không quên được mùi da thịt đàn bà con gái. Cô
nâng tôi dậy một chút đi. Tôi muốn hít ngửi mùi tóc của cô (…) Quỳnh vội
nhấc đầu lên. Nhưng hình như có bàn tay nào đó đã nắm được tóc của
Quỳnh. bàn tay ấy mò lên cổ Quỳnh… Những bàn tay ấy không làm Quỳnh
đau nhưng chúng đang đua nhau lần tìm, vuốt ve cơ thể khiến Quỳnh không
chịu nổi. Có một bàn tay giật mạnh tấm áo của Quỳnh. Cả một mảng lưng
trắng bóc của Quỳnh phơi ra ánh nắng.” [116, tr.73].
Viết về đời sống tính dục, Nguyễn Đình Tú đã rất khéo léo trong việc
miêu tả những tình huống ái ân, những cảm xúc giao hoan và cả vẻ đẹp phồn
thực của cơ thể con người mà không bị lặp, không gây cảm giác nhàm chán.
Ngòi bút của nhà văn dẫn độc giả tránh khỏi cảm giác khó chịu, khi tiếp cận
với những chi tiết tưởng như dữ dội, sa đà mà chừng mực, vừa phải và biết
dừng lại đúng lúc. Bởi vậy, người đọc chứng kiến những cung bậc tính dục
thật tự nhiên và đồng cảm theo diễn biến tâm lý của nhân vật.
Tuy nhiên, Nguyễn Đình Tú cũng nhìn nhận bản năng tính dục với
những mặt trái, mặt tiêu cực, con người đôi khi lạm dụng, sống theo bản
năng để thoả mãn nhu cầu thân xác mà không tìm được những giá trị sống
đích thực. Trong thế giới hoang hoải, lạc loài của Kín, Quỳnh và những kẻ
xung quanh cô buông thả bản năng đến rùng mình. Chủ động dùng tình dục
để thấy được sự hiện hữu của bản thân. Quỳnh luôn đến với những người
đàn ông xung quanh mình để được gần gũi về thể xác, tìm những cảm xúc
55
thăng hoa trong tâm hồn qua quan hệ xác thịt. Chính bởi vậy mà Quỳnh
chưa bao giờ thoả mãn được bản thân mình. Quỳnh và câu chuyện tình dục
của mình đi ngược lại các chuẩn mực đạo đức, toát lên sự trào lộng thậm chí
là mỉa mai phê phán về nhân cách của một bộ phận không nhỏ trong thế hệ
hôm nay.
So sánh giữa hình ảnh con người mang bản năng tính dục trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, độc giả có thể
nhận thấy rằng, hai nhà văn này đều nhìn nhận con người mang bản năng
tính dục mạnh mẽ. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương bị vây
bủa trong tham sân si, tiền tài, danh vọng, sắc dục, họ trở thành những kẻ bị
truy bức và đi truy bức (Sơn trong Ngồi, ông Phùng trong Thoạt kỳ thuỷ, lão
Liêm ông Trình trong Những đứa trẻ chết già). Các nhân vật đều đi theo
tiếng nói của bản năng, họ nổi giận, khao khát và hành động mà không có
khả năng kìm chế.
Qua việc xây dựng các nhân vật với bản năng tính dục mạnh mẽ
những khao khát được thoả mãn nhu cầu chính đáng của mỗi người. Nguyễn
Đình Tú đã mạnh dạn đề cao nhu cầu bản năng ở mỗi người. Tuy nhiên, cần
nhìn nhận tình dục một cách lành mạnh, chính đáng. Tránh sa vào tình dục
lệch lạc, bệnh hoạn.
2.2.2. Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
2.2.2.1. Ẩn ức tính dục
Viết về lối sống của thế hệ trẻ và văn hoá tính dục của họ, Nguyễn
Đình Tú đã xoáy vào tận cùng cái chua cay, vào vết thương đang sung tấy
của ẩn ức bản năng. Trong Nháp, mẹ Thạch - người đàn bà không chịu nổi
cuộc sống thiếu thốn son phấn, ở lại xứ người mà quên đi tổ ấm nhỏ, chỉ vì
cái công cụ sinh sản của đàn ông Đức, chỉ vì thoả mãn dục tính của chính
mình đã để lại vết thương sâu hoắm trong lòng cha con Thạch cùng nỗi ám
ảnh nhược tiểu giống loài. Vết thương đó còn lấy đi cái nhân cách mà đáng
56
lẽ sẽ định hình tốt trong người con trai. Bằng giọng điệu khinh thường, cười
cợt những cũng đầy trăn trở, cái xót xa, vô nghĩa trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú nổi lên trong thế đối lập giữa tình thương và tình dục: “Chẳng lẽ
người phụ nữ nào đi Tây cũng bỏ chồng chỉ vì cái của nợ ấy của những
thằng đàn ông Phương Tây? Nếu thế thì chán cho cái giống người Việt quá.
Chán cho cái của quý ấy của đám đàn ông nước mình quá” [115, tr.23-24].
Ở bố của Thạch, niềm tin vào sự chung thuỷ của vợ đồng nghĩa với sự hi
sinh, nhưng đáp lại tấm lòng thương yêu đó là cái nhìn “tởm lắm” của kẻ
đầu ấp tay gối. Tình yêu lúc này trở thành không tưởng trước sự phản bội
của người đàn bà khát dục: “Bố tôi như bao người đàn ông mất vợ khác, tin
vào tình vợ chồng của mình, tin vào điều viển vông rằng, sự khốn nạn ấy xảy
ra với ai chứ không xảy ra với mình” [115, tr.24]. Trong cảnh sụp đổ hạnh
phúc gia đình, người bố mất niềm tin vào cuộc sống, còn Thạch mất đi cái
nhìn thiêng liêng về tình yêu, dục tính. Anh ngô nghê, hồn nhiên trong tình
yêu dành cho Yến với ý nghĩ chở che của phái mạnh. Nhưng những ẩn ức, tự
tin về khả năng tình dục do chấn thương tâm lý từ bi kịch hôn nhân của bố
mẹ đã khiến cho tình yêu của anh và Yến đi vào ngõ cụt. Thạch luôn nghi
ngờ về sự chung thuỷ của Yến: “Yến có vẻ đọc được nỗi ám ảnh bội phản từ
trong sâu thẳm ký ức của tôi. Và Yến nhiều lần khẳng định rằng chỉ yêu một
mình tôi thôi. Tôi sẽ tin điều đó nếu Yến chỉ lên giường với tôi. Nhưng ai
dám bảo là Yến không một lần ngủ với ai đó, ngoài tôi? Yến hay giao du với
nghệ sĩ. Yến lại có đời sống tình dục mạnh mẽ thế? Và Yến khá xinh đẹp. Tất
cả những điều này khiến những ý nghĩ của tôi nhuốm màu phiền muộn”
[115, tr.81]. Và sự ghen tuông của Thạch lên đến đỉnh điểm khi Jack Cleary
xuất hiện. Sự tự tin về khả năng tình dục dày vò Thạch “mỗi khi ngủ với Yến
xong hắn lại thầm so sánh với Jack, không biết hắn với Jack ai thượng
phong hơn trước Yến?” [115, tr.91]. Thạch nhận ra rằng “bi kịch của hắn là
không vung lên được nắm đấm của một thằng con trai có dòng máu gia
trưởng bốn ngàn năm đang chảy trong người” [115, tr.93]. Để giải toả
57
những mặc cảm của mình và cũng chính là trả thù cho bố, cho chính bản
thân mình, Thạch lao vào mối quan hệ với Me-lơ-ni, người phụ nữ phương
Tây “hắn thấy trước mặt hắn lúc này không phải là Me nữa mà là Yến, thậm
chí là cái mặt gì đó mờ nhoà, nhang nhác giống mẹ hắn” và “hắn thấy Yến
đang nhăn nhó phía sau khoảng tối đó. Và hình như cả mẹ hắn nữa. Mẹ hắn
đang có cái dáng vẻ của một sự hối lỗi. Hoá ra hắn cũng can trường lắm
chứ. Hắn đang dội những trái phá khủng khiếp vào sự coi thường dục tính
của cha con hắn” [115, tr.218]. Từ bi kịch gia đình, Thạch biến thành kẻ
mang bi kịch tình yêu lứa đôi. Anh đến với tình dục, tình yêu chỉ với ý nghĩ
trả thù, chứng minh năng lực bản thân mà không hề có những cảm xúc lành
mạnh. Từ những ẩn ức tình dục, Thạch mang cả những suy nghĩ bạo lực, sau
sự liên tưởng giữa việc phản bội của Yến với mẹ mình, trong Thạch, tình
yêu đã hoá thành thù hận, yêu thương biến thành bạo lực “Hôm nay hắn lại
đến gặp con quỷ cái đó Đ ạ. Yến mặc váy trắng hoa đen ngồi bắt chéo chân
chờ hắn ở Cinema Lý Nam Đế với mắt to, lông mi dài, bờ môi cong. Vừa
nhìn thấy cái mặt khát dục ấy là hắn lại muốn đánh” [115, tr.90]. Những ám
ảnh nhược tiểu ám vào suy nghĩ ngày càng bấn loạn của anh. Bệnh hoạn với
thú vui riêng, Thạch trở thành nạn nhân của xã hội cùng với lối sống ngày
càng xa rời các chuẩn mực xã hội. Với vẻ ngoài đĩnh đạc, văn minh, Thạch
cố che đậy cái thú vui bệnh hoạn luôn ám ảnh trong ý nghĩ.
Trong Kín, quãng đời lưu lạc của Quỳnh đã để lại vết thương không
bao giờ lành trong tâm hồn cô. Để có thể tồn tại nơi nhà ga Hải Thành, cô bé
Lửa Cháy đã sớm phải bước chân vào nghề “bán thân nuôi miệng”. Hành
trình mưu sinh đó đã khiến cô gái trẻ mất đi niềm tin vào tình yêu và cuộc
sống. Khi trở về đoàn tụ cùng gia đình, Quỳnh không sao thoát ra khỏi
những kí ức đau thương đó, nó luôn ám ảnh, dày vò cô, khiến cô hoang
mang, mất niềm tin, phương hướng. Quỳnh lao vào tình dục để tìm lại chính
mình, tìm lại những cảm xúc, những rung động để biết mình còn sống.
Nhưng vũ điệu “linh tinh tình phộc” càng khiến cô thêm khủng hoảng.
58
Những ẩn ức tính dục đôi khi còn trở thành một căn bệnh thần kinh
trầm trọng, gây nên tội ác cho xã hội. Trong Phiên bản, viết về thế giới tội
phạm, Nguyễn Đình Tú đã lý giải hành động máu lạnh giết người hàng loạt
bởi sự ám ảnh của ẩn ức tính dục. Đó là kẻ giết người do mất năng lực tình
dục nên khi thấy bất kì đôi nam nữ nào âu yếm nhau hắn cũng nổi máu bạo
lực. Và bởi mất năng lực tình dục nên hắn sinh ra lòng hận thù, muốn cắt hết
“của quý” của đàn ông làm thú vui. Viết về loại tội phạm này, Nguyễn Đình
Tú đã lý giải quá trình hình thành tội phạm hết sức tinh tế và thuyết phục:
“Khi ông ta bỏ đi Tân đã vào xem mấy cái lọ đó và tá hỏa khi thấy trong đó
ngâm toàn “của quý” của đàn ông. Tân nhờ chính quyền sở tại xác minh hộ
nhân thân của người đàn ông kia. Và Tân phát hiện ông ta từng đi viện điều
trị dài ngày. Tại bệnh viện tâm thần thành phố, khi xem lại bệnh án của
người đàn ông bí ẩn trên lòng hồ, Tân được biết ông ta không có năng lực
tình dục và rất có khoái cảm thị dâm.
Hóa ra ông ta đã làm đến bốn vụ mà không hề bị phát hiện. Ba vụ
trước đây ông ta thường vùi xác nạn nhân xuống lòng hồ nên không để lại
dấu tích. Vụ thứ tư vì ông ta không kịp phi tang nên mới để cơ quan điều tra
vào cuộc. Đã ngoài bốn mươi tuổi, lại mắc chứng tâm thần phân liệt, bình
thường thì không sao, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy hành động tình ái của các
đôi trai gái là ông ta nổi cơn điên, ông ta có khoái thú cắt của quý của đàn
ông cất đi, thỉnh thoảng mang ra ngắm chơi. Còn với phụ nữ thì ông ta chỉ
thích cấu véo để nghe họ kêu gào, la hét rồi sẽ giết họ trước khi họ kiệt sức.
Trò thị dâm quái đản của một kẻ tâm thần, bệnh hoạn trong khu rừng Nga bị
Tân phát giác và Tân đã theo nguyên tắc “trả giá ngang bằng” để làm lại y
như những gì mà người đàn ông kia đã làm với những nạn nhân của bốn vụ
án trước” [117, tr.79-80].
Nguyễn Đình Tú đã cho người đọc thấy được sự chi phối của ẩn ức
tính dục đến đời sống con người, nó không chỉ chi phối đời sống tâm lý mà
59
còn chi phối đến những hành vi của con người trong cuộc sống. Ẩn ức tính
dục trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được xem như một căn bệnh hết sức
nguy hiểm và cần có những liệu pháp chữa trị hợp lý, kịp thời.
2.2.2.2. Ẩn ức mặc cảm, cô đơn
“Cô đơn là bản chất của con người” (S. Freud). S.Freud luôn nhìn con
người với tư cách là cá nhân riêng tư, cá thể, không trộn lẫn với ai và không
có phiên bản khác. Mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ bí ẩn. Không ai hoàn toàn
hiểu nó, và bản thân nó cũng không thể hiểu được người khác dù luôn có ý
thức muốn được hiểu và hiểu được người khác. Nhu cầu hiểu và được
hiểu này thể hiện qua nhu cầu giao tiếp, tự thể hiện, nhu cầu nhập cuộc với
xã hội để trưởng thành, để tồn tại. Nhưng trong quá trình nhập cuộc, dấn
thân, con người luôn phải trượt từ môi trường đang là sang môi trường sẽ là,
từ môi trường quen thuộc sang môi trường xa lạ để tương thông với tha
nhân, để tìm thấy hơi ấm của bầy đàn, để hóa giải sự cô đơn, cô độc. Hành
trình đó có sự chi phối của bản năng vô thức.
Cô đơn cũng có nhiều kiểu loại: cô đơn trong sáng hay cô đơn trong
cõi hoang mang cực độ. Ở khía cạnh tính dục, nhân vật của Nguyễn Đình Tú
cô đơn trong những vết thương quá khứ và còn cứa sâu ở hiện tại. Nhân vật
thường tìm đến tình yêu như điểm tựa vững chắc khỏa lấp tâm hồn. Nhưng
tình yêu không ngự trị trong trái tim, họ tìm đến tình dục như giải thoát khỏi
cảm giác sợ hãi, lo lắng khi cảm nhận được sự tồn tại thực của những cảm
xúc mang tính chất tạm thời. Dù vậy, các nhân vật lạc loài cứ xoay cuộc đời
mình trong cái vòng tròn mồ côi - như chính thân phận họ. Con người cố tìm
một lối thoát trong chông chênh phương hướng. Họ - những người trẻ cứ
phải đấu tranh để tồn tại, cố tách ra khỏi vòng lẩn quẩn giữa thù hận và yêu
thương, giữa thấp hèn và thanh cao, cả giữa sự sống và cái chết… Cô đơn từ
trong bản thể, con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú sống khao khát
giao hòa nhưng chỉ thấy đơn độc.
60
Đi vào ma trận thế giới Kín, lắp ghép những hồi ức loang chảy của
các nhân vật, người đọc sẽ xâu chuỗi được “ăm ắp những thân phận khổ đau,
chìm nổi, bi thương, bất hạnh bị đẩy đến tận cùng của sự cô đơn, lạc loài”.
Đó là số phận cô đơn của Hoàn. Hoàn sinh ra trong một gia đình làng chài
ven biển. Bố mẹ bị biển vùi chết trong một chuyến ra khơi. Đứa trẻ lớn lên
cùng sóng gào và cát xoáy cùng những tiếng thở dài não ruột của người bà.
Cho đến một ngày thằng bé từ biệt bà, từ biệt làng chài với “vô số những số
phận người bị xô dạt chẳng khác gì những cành củi mục” để ra đi. Một ngày
kia đoàn tàu chợ đưa nó đến nhà ga Hải thành với bộ đồ nghề đánh giày
trong tay. Sống tại mảnh đất Hải Thành, nó thực sự trở thành một linh hồn
cô độc. Một đứa trẻ phải chống chọi với tất cả những thế lực thù địch để tồn
tại. Chúng hành hạ, bóc lột, tiêu diệt nhau vì lợi ích cá nhân. Sau khi xóm
lều giải tán, Hoàn phải vào trường giáo dưỡng, bị cách ly với thế giới bên
ngoài. Trốn khỏi trường giáo dưỡng nhưng Hoàn không thể trở về hoà nhập
với xã hội như một người bình thường, Hoàn trở thành một tên cướp, dính
vòng tù tội khi chưa là vị thành niên. Khuôn mặt đầy những sứt sẹo gớm
ghiếc mãi mãi là dấu tích của một cuộc đời bất hạnh, tội lỗi và là vách ngăn
giữa Hoàn với mọi người xung quanh. Cuộc đời Hoàn “quả chẳng ra cái cóc
khô gì”.
Đó là sự lạc lõng, bơ vơ của Phương, một cô bé cành vàng lá ngọc,
sống trong giàu sang nhung lụa nhưng lại sống trong “chim lồng cá chậu”,
xa vắng tình thương và sự chăm sóc của mẹ. Phương phải sống cùng bố
dượng trong ngôi nhà ba tầng. Bi kịch xảy đến với cô gái từ khi cô chưa kịp
bước chân vào đời. Lão dượng “dê già” mất nhân tính nhiều lần giở trò đồi
bại khiến cô bị dồn nén, bức bách đến phát điên. Không có sự giúp đỡ và
cũng không thể cầu cứu ai, cô bé mười ba tuổi đã phải dùng dao thái đâm bố
dượng để giải cứu cho chính mình rồi bỏ chạy. Cuộc hành trình lang thang
vô định đã xô dạt cuộc đời cô đến bến ga Hải Thành sống kiếp bụi đời rồi
trượt sâu vào con đường làm điếm. Suốt những năm tháng của tuổi thanh
61
xuân, dù có nhan sắc nhưng Phương không hề được cảm nhận những rung
động của tình yêu chân thành, những người đàn ông đi qua cuộc đời cô chỉ
đơn thuần vì “tình một đêm”. Phương đã để mặc cho cuộc đời trôi dạt,
không tìm thấy cho mình một bến đỗ, một điểm tựa tinh thần. Cô tiểu thư
hôm nào nay trở thành tinh cáo trong cái nghề bán xác nuôi thân. Khi gặp lại
những người bạn cũ, Phương không dám đối diện mà phải trốn tránh.
Đó là cuộc đời cô đơn của Kiên. Kiên bị người tình của mẹ vứt lại trên
chiếc ghế đá lạnh lẽo ở nhà chờ sân ga. Kiên được người đàn bà làm lao
công ở nhà ga nhặt về nuôi. Cuộc đời cô độc bất hạnh của Kiên trượt dài khi
mẹ nuôi của cậu bị tàu kẹp chết. Mười hai tuổi đời, Kiên không cha, không
mẹ, đói cơm, rách áo, thất học, lạc loài. Kiên luôn ôm ấp trong lòng tình cảm
với cô bé Lửa Cháy nhưng số phận lại đẩy hai người sang hai ngã rẽ khác
nhau trên đường đời. Tình yêu với Kiên gắn liền với món nợ “tình” mà cậu
cả đời không thể trả nổi. Nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn Kiên luôn réo
rắt, nhức nhối cất lên qua bài hát “Vết thù trên lưng ngựa hoang” được cậu
cài làm nhạc chờ điện thoại.
Đó còn là sự cô đơn của Phong. Phong là cậu ấm trong gia đình giàu
có. Bố làm trong ngành ngoại giao, mẹ là dân buôn bất động sản, nhà đất có
ở khắp nơi nên cũng đi suốt. Phong sống trong vàng bạc, khi thì ở trong một
căn hộ chung cư mười tám tầng, vài bữa thấy về một biệt thự sang trọng trên
khu Tây Hồ nhưng luôn cô đơn, lẻ loi, thiếu thốn tình cảm gia đình. Anh
khao khát được sống theo ý mình, được quyết định cuộc đời mình. Song, là
con một, anh sinh ra là để thực hiện hai khát vọng lớn: phải có học vấn như
bố, phải biết kinh doanh như mẹ. Phong bất hạnh trong chính căn nhà của
mình, không tìm được tiếng nói chung với chính người thân ruột thịt của
mình bởi “đó đâu phải là khát vọng của anh mà là của ông bà già chứ, tại sao
lại bắt anh phải thực hiện?”, “anh phải sống cho anh chứ”, “tại sao cứ phải
học trong khi đầu óc không chứa được chữ nghĩa” (Kín).
62
Đó là những ẩn ức cô đơn, mặc cảm trong Tráng, anh “hiện diện như
nỗi ám ảnh khủng khiếp về sự bí ẩn của kiếp người”. Tráng là một chàng trai
trong sạch, thánh thiện, tinh khiết đến vô trùng nhưng thượng đế đã ném cho
Tráng “sở thích quái đản” là tìm kiếm khoải cảm tình dục ở người đồng giới.
Tráng sinh ra là với hình hài một con người nhưng lại không được sống một
kiếp người trọn vẹn. Bị mọi người phát hiện mình đang “kê gian” với bạn
tình bên một vách núi trên đường lên cao nguyên nên Tráng cùng bạn tình
đã vội vàng lên xe bỏ chạy và rơi xuống vực mà chết. Cả kiếp đời của Tráng
là những tháng ngày lẩn trốn, nguỵ trang trong hình hài một người đàn ông
điển trai, bên trong vỏ bọc ấy là một tâm hồn lạc loài, bơ vơ, tội nghiệp.
Đi đến đỉnh điểm của những ẩn ức cô đơn lạc loài là thân phận của cô
bé Quỳnh, một cô bé với tâm hồn ngây thơ trong sáng luôn đi tìm lời giải
đáp cho câu hỏi về cái tôi giữa cuộc đời. Sau những tháng ngày chìm nổi, lạc
loài trong kiếp nhân sinh, Quỳnh được trở về trong vòng tay của bố. Ngỡ
tình yêu thương của người cha sẽ lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn
cô nhưng cô chỉ thấy bố mình như một cỗ máy với những thao tác ngày ngày
được lặp đi lặp lại để rồi cô thêm hoang mang rơi vào trầm cảm. Quỳnh tìm
đến tình dục để khoả lấp nỗi cô đơn, để gắn kết tâm hồn mình với thế giới,
để thấy mình đang tồn tại. Song, trải qua cuộc tình với Phong, Tráng cô càng
thêm hụt hẫng, chơi vơi. Bố Quỳnh không tìm được tiếng nói chung với con
gái đã đưa Quỳnh đến một vùng đất khác, đẩy cô xa khỏi ranh giới địa lý
văn hoá bản địa để quên đi những kí ức bi thương nhưng lại càng làm cho cô
bơ vơ không tìm được gì, không biết bấu víu vào đâu. Đối diện với sự biến
mất của tình yêu thương, sự sụp đổ của những mối đồng cảm trong gia đình,
Quỳnh vừa hoang mang, vừa đơn độc, vừa vùng vẫy để thoát ra sự bế tắc.
Quỳnh đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Tự tử không thành, Quỳnh
lao vào tình dục đồi trụy với màn thác loạn của mười hai con giáp. Lần này
thì cô thực sự đi vào ngõ cụt tăm tối. Quỳnh quyết định đi khỏi cuộc sống
hiện tại, đi khỏi ngôi nhà của mình-căn biệt thự có những khóm lam tường
63
đẹp đến nao lòng với một người bố luôn thờ ơ với mọi diễn biến nội tâm của
Quỳnh, đi khỏi Hà Thành - nơi với Quỳnh nó là xa lánh và tạm bợ, nơi
“không bồi đắp thêm được phù sa cho tâm hồn Quỳnh mà ngược lại lại sa
mạc hoá, đập nát và bức tử nó”. Cô phải đi tìm một thời kí ức của mình liên
quan đến Hải Thành, nhà ga, chợ Kẻ Mơ, quê nội… Vào cái đêm cô sắp sửa
tìm lại được cái mình cần tìm thì cô lại cảm thấy tâm hồn mình bị chấn động
mạnh, thấy cả một thế giới trong mình đang đảo điên, rung lắc “con tim yếu
ớt ấy chưa kịp lành lặn để có thể đập những nhịp đập bình an trước quá
khứ”.
Có thể nói, trong nỗi cô đơn, lạc loài đến cùng cực trong gia đình,
Quỳnh khao khát nhận được sự sẻ chia, quan tâm đầy yêu thương để được
sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, để có thể tìm lại chính mình. Có lẽ hành
động mất tích là cách duy nhất Quỳnh có thể thoát ra khỏi cuộc sống nhàm
chán và thấy được vị trí của mình trong lòng ông bố.
Mỗi nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình
ẩn ức lạc loài, cô đơn. Họ không tìm thấy sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm
hồn ở những người xung quanh. Họ lao vào tình dục, bạo lực như một cách
giải toả ẩn ức từ đó không ít người đã trượt dài trên con đường tha hoá. Nhà
văn đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng tha hoá ở giới trẻ hiện
đại và cảnh tỉnh mỗi người cần tỉnh táo, sống có lý tưởng và trách nhiệm với
bản thân.
2.2.3. Con người thần kinh, đa nhân cách trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Trong Nháp, hình tượng người điên, đa nhân cách chiếm một tỉ lệ lớn.
Kiểu nhân vật này có biểu hiện khó lường, phức tạp với chiều sâu ẩn ức,
những chấn thương được giữ kín, bị che giấu. Họ mang tính dục mạnh mẽ,
chất chứa những khao khát, có lúc biểu đạt một cách mãnh liệt có lúc lại bị,
kìm nén và biểu hiện ở một hình thức khác. Đoàn Minh Tâm có nhận xét về
kiểu nhân vật này trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú: “Xây dựng kiểu nhân
64
vật thần kinh là bước nỗ lực lớn của Nguyễn Đình Tú trong việc làm mới
chính mình”. Trong Nháp, Đại được coi là nhân vật thần kinh. Cả tác phẩm
duy nhất có Đại bị coi là nhân vật tâm thần, bị bạn bè xa lánh, kì thị: “Một
thằng tâm thần, một kẻ hoang tưởng, một gã chập mạch. Một dạng dặt dẹo,
một tên khố bện, một kiểu ma cô vật vờ nơi giảng đường, trường nào chẳng
có vài ba đứa”; “Đại là người không bình thường, hơi đao đao, hơi biêng
biêng, hơi chập chập, hơi có vấn đề…” [115, tr.9]. Song thực tế, Đại rất tỉnh
táo, suy nghĩ chín chắn, hành động đúng mực như một người bình thường có
nhân cách, biết tự trọng như lời nhận xét của các bạn cùng lớp “Cậu ấy học
không đến nỗi nào, đạo đức cũng được, người ngợm cũng sáng sủa, chỉ mỗi
tội, thỉnh thoảng hơi biêng biêng” [115, tr.11]. Chẳng hạn những suy nghĩ
của Đại lúc trốn ở chùa Tử Tù. Anh ta tìm ra và phát hiện chỗ nào có thể
trốn, đó là cái cống và gầm bàn thờ. Đại đã trốn ở đó an toàn hai mươi tám
ngày. Và khi nghe sư trụ trì nói chuyện với cây trúc xanh, Đại hiểu được
những vấn đề ẩn sau lời nói bóng gió đó. Hay việc cậu liên tục giành được
học bổng, tư duy của cậu khá tốt “Lạy trời, tư duy của Đại khá mạch lạc,
mấy môn Khoa học cơ sở Đại đều thi tốt. Vào năm thứ hai Đại vẫn được học
bổng ở mức cao nhất. Đại rất mê môn Lịch sử các học thuyết chính trị. Đại
say mê các nhà tư tưởng và có thể tranh luận không biết mệt về họ. Đây
chính là điều khiến cho các bạn trong lớp quý Đại. Nhưng đây cũng chính là
lý do để mọi người nghi ngờ Đại có phẩm chất đặc biệt của một nhà hâm
học” [115, tr.131]. Rõ ràng, Đại có những hành động khôn ngoan, cả trong
suy nghĩ và hành động. Vậy, tại sao Đại bị coi là nhân vật thần kinh? Nhà
phân tích tâm lý học S. Freud cho rằng: Mọi người đều bị điên, duy chỉ có
người điên là giống họ hơn chúng ta mà thôi. Nguyễn Bình Phương lại cho
rằng: “những người điên cho tôi cảm giác lạ lùng về cuộc sống. Tôi không
đánh giá điên là một tính thiện “thoạt kỳ thuỷ” dù ở nghĩa bóng. Nếu cần
nói tới vấn đề điên của một người điên thì tôi nghĩ thoạt kỳ thuỷ họ không
điên, sau đó có cái gì đấy làm họ điên” [115]. Để hiểu rõ về nhân vật Đại,
65
nhà văn đã đưa người đọc xuyên suốt hành trình kí ức của Đại. Những kí ức
tuổi thơ bên cô bé mắt nâu với lời hứa trồng cây sấu trước nhà đã theo Đại
suốt những năm tháng đi học. Kỉ niệm đẹp với Thảo khiến cho Đại không
sao dứt khỏi quá khứ để hoà nhập với hiện thực. Mối tình ngây thơ trong
sáng với Thảo trở thành vết thương trong tâm hồn Đại. Mối tình đầu dang dở
khiến Đại luôn sống vật vờ với hiện thực. Đại không thể đáp lại tình cảm
của Duyên toàn tâm, toàn ý mà chỉ có sự va chạm xác thịt để thoả mãn dục
vọng bản năng của người đàn ông. Khi làm tình với Duyên, Đại phải dùng
viên ngọc ước như một liều thuốc tinh thần.
Cùng với Đại là Thạch và Nguyễn Toàn, chính những điểm chung
trong tâm hồn đã đưa Thạch và Đại trở thành đôi bạn tri kỉ. Họ cùng gặp
những bất hạnh trong cuộc sống. Thạch và Nguyễn Toàn có vẻ ngoài rất
bảnh bao, có chỗ đứng trong xã hội. Bề ngoài họ là những con người hoàn
toàn bình thường nhưng bên trong lại có sự lệch lạc trong tư tưởng, suy
nghĩ. Họ không chiến thắng được những ham muốn lệch lạc cả thân xác nên
đã tạo ra một vỏ bọc hoàn hảo, song quan sát cuộc hội thoại của họ, ta có thể
thấy những mặt trái trong tâm hồn biểu hiện qua ngôn ngữ đối thoại:
“- Galacloai: Bạn làm nghề gì?
- Damocoi: Theo bạn thì tôi làm nghề gì?
- Galacloai: Tôi đoán bạn là một nhà báo. Tôi có đọc một vài entry
của bạn và rất thích.
- Damocoi: Chúng ta có thể tiếp tục nói chuyện về dương vật được
không?
- Galacloai: Nếu bạn muốn. Hôm nay bạn có vẻ nôn nóng nhỉ?
- Damocoi: Vì tôi đã biết bạn là một nhà nam khoa. Cho tôi được nêu
những tò mò của mình nhé?
- Galacloai: Sẵn sàng.
66
- Damocoi: Phụ nữ thường thích dương vật như thế nào?
- Galacloai: Công ty Lyfestyle Condom đã thực hiện một cuộc khảo
sát về kích thước dương vật đối với 200 phụ nữ từ 18 đến 25 tuổi có ngoại
hình, sắc tộc và thói quen tình dục khác nhau. Kết quả cho thấy có đến 82%
chị em cho biết họ hài lòng với những dương vật dài để thoả mãn họ. Sự đủ
dài đó là khoảng 6 inch, tức là 15,3 cm. Như vậy câu trả lời cho bạn là: Phụ
nữ thích dương vật “đủ dài”!
- Damocoi: Đấy mới chỉ là 82%, còn 18% phụ nữ nữa thì sao?” [115,
tr.186]
Hai nhân vật này đã cùng sa vào bi kịch do chính họ tạo nên. Khi mặt
nạ trá hình rơi xuống, họ phải hiện nguyên hình, người bị giết, người phải
đối mặt với toà án.
Phản ánh, phân tích về hiện tượng chấn thương tâm lý dẫn đến bùng
phát về bạo lực, xét trên khía cạnh nhân văn, nó chỉ cho ta rằng mọi sự đều
có nguyên nhân sâu xa nào đó, chính xác, đều có một “vô thức” nào đó trong
các sự kiện và cần phải cắt nghĩa nó đúng theo bản chất của nó để tránh xa
vào những phán xét hàm hồ, phiến diện. Đi sâu vào khám phá cái phần vô
thức này tìm hiểu căn nguyên của nó, chính là tìm hiểu và khám phá con
người để từ đó biết lọc lựa điều chỉnh cho cuộc sống. Đấy chính là chức
năng cao cả của văn học.
67
Tiểu kết Chương 2
Ở khía cạnh hiện thực, người viết nhận thấy rằng thế giới hiện thực đặc
biệt trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú vô cùng độc đáo, đa tầng, hấp dẫn. Hiện
thực được nhìn từ nhiều góc độ, được lý giải, khám phá một cách sâu sắc. Nhà
văn vừa khám phá một cách tự nhiên, vừa dụng công xây dựng nhằm đi sâu
vào lý giải chiều sâu tâm hồn con người. Từ đó, ta có thể thấy rằng, Nguyễn
Đình Tú không nhìn con người từ vẻ bề ngoài, khai thác con người từ hành
động lời nói đơn thuần mà cố gắng khám phá họ từ bên trong. Qua đó ta thấy
cái nhìn nhân văn cao cả của một cây bút tài năng.
Con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là con người bản năng và
con người ẩn ức. Có nhân vật cố gắng vùng vẫy, tìm cách tự giải thoát nhưng có
những nhân vật bị ẩn ức và bản năng vây bủa không tìm được lối thoát. Khám
phá con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, người đọc rút ra được bài học
kinh nghiệm trong cách nhìn nhận đánh giá con người, có thêm bài học về cách
ứng xử với xã hội và với chính bản thân. Đó là ý nghĩa vô cùng quý báu mà nhà
văn muốn gửi gắm và người đọc ngộ ra sau khi đến với tiểu thuyết của anh.
Tuy nhiên, dù phản ánh một bộ phận giới trẻ nhưng tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú vẫn mang đến cho người đọc cảm giác ám ảnh, bi quan bởi nó thiếu đi
ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Kết thúc các tác phẩm nhân vật không tìm
cho mình lối thoát nên gây cho người đọc cảm giác u ám, nặng nề.
Về khía cạnh xã hội, người đọc có thể thấy những nguyên nhân trực tiếp
và gián tiếp thúc đẩy hành động của nhân vật. Để từ đó có thái độ cảm thông
hay phê phán một cách đúng đắn, hợp lý nhất.
Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã mang đến cho độc giả những tình cảm
nhân văn, những bài học sâu sắc qua cái nhìn về con người từ góc nhìn Phân
tâm học. Qua đây ta thấy tài năng cùng quá trình nỗ lực tìm tòi sáng tạo, nỗ lực
đổi mới mình của nhà văn 7x. Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh
sáng lý thuyết Phân tâm học giúp ta đánh giá nhà văn này cùng những tác
phẩm của anh một cách toàn diện, khoa học hơn.
68
Chương 3
DẤU ẤN PHÂN TÂM HỌC TRONG
NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ
3.1. Biểu tượng nghệ thuật mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú
Trong các tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú đã xây dựng rất
nhiều hình ảnh, chi tiết nghệ thuật mang tính biểu tượng có dấu ấn Phân tâm
học. Khảo sát bốn tiểu thuyết trên, người viết nhận thấy các biểu tượng trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đều mang ý nghĩa thanh tẩy. Các nhân vật của
Nguyễn Đình Tú đều mang trong mình những ẩn ức bị kìm nén không có
cách giải toả. Nhà văn đã tạo ra những biểu tượng có khả năng thanh tẩy
những vết đen sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật.
Biểu tượng gợi sự thanh tẩy trong Phiên bản là gì? Mở đầu tiểu
thuyết, ngay từ trong tiềm thức, là trăng. Trăng với tất cả biến thể của nó,
mặt trăng tròn đầy, ánh vàng dịu nhẹ,… hối thúc nhân vật phân thân, bộc lộ.
Bởi cái bình yên bao trùm kia, ánh sáng yếu ớt kia, ban đầu, dễ trở thành cái
trêu giễu kẻ yêng hùng, nhưng khi nó đã lan thấm vào tâm hồn, như cái lạnh
lẽo đêm sương ngấm vào da thịt, nó trở nên gần gũi, tạo sự sẻ chia, tin cậy.
Nó đòi hỏi đối thoại, và sau đó, là bộc bạch. Đến cuối tác phẩm, trăng gợi
nhắc đến Nhân, trăng là Nhân. Nhân là người bạn trai mà Diệu đã yêu ngay
từ thuở học sinh. Đến khi trở thành Hương “ga” nổi tiếng giang hồ thành
phố Ngã ba sông, anh công an tên Nhân vẫn luôn là hình ảnh gắn bó với
những giấc mơ hoàn lương. Diệu là nửa thanh sạch của Hương “ga” ngày
càng dấn sâu vào vũng bùn tội lỗi. Diệu là tình yêu mà Nhân theo đuổi suốt
bao năm trời. Nên ở một góc độ nào đó, Hương “ga” khao khát có Nhân bao
nhiêu thì cũng chính là khao khát được trở về là Diệu bấy nhiêu. Nhân, vì
thế, như nghĩa từ nguyên của nó, là người, tính người, tình người. Trăng và
Nhân, bồi đắp nghĩa cho nhau, để trở nên đủ đầy. Chỉ có điều, Hương “ga”
69
không “sở hữu” được Nhân, cũng như thế, ánh trăng chỉ làm mờ nhòe được
nỗi thống khổ của cuộc đời chứ không hóa giải được nỗi thống khổ ấy. Ánh
trăng trong Phiên bản là ánh sáng của tâm hồn luôn loé lên chất vấn, soi
chiếu chính bản thể nhân vật để nhân vật nhận ra mình sau quá trình sống
đầy tội lỗi. Ánh trăng là tiếng nói lương tri, là sâu thẳm tính thiện trong con
người Hương ga- phiên bản đầy tội lỗi của Diệu. Ánh trăng giúp Hương ga
tìm được lại chính mình, tìm lại được hình ảnh cô bé Diệu ngây thơ, hiền
lành trong sáng với mối tình học trò.
Trong Nháp, viên ngọc ước của Thảo để lại cho Đại vừa là kỉ vật tình
yêu vừa là công cụ thanh tẩy tâm hồn. Khao khát tình yêu ở Đại là nỗi khát
khao tìm đến cái đẹp thánh thiện hoàn mỹ của Đại để rồi sa vào bi kịch và
thức tỉnh. Cái đẹp tuyệt đối ở đây được thể hiện qua hình ảnh Thảo, một
người bạn gái thuở nhỏ của Đại. Hình ảnh Thảo gắn liền với viên ngọc ước
có khả năng đem lại cho nhân vật sự khoái thú thần tiên mỗi khi thực hiện
hành vi giao ái. Viên ngọc kỷ niệm của Thảo như một quả cầu pha lê của
tình yêu, có sức hội tụ và đốt cháy tình cảm con người hiện lên trong tiểu
thuyết Nháp vừa thực mà vừa hư. Lúc hư là lúc nhân vật đang trải nghiệm
bằng một đời sống tâm lý ảo, còn lúc thực lại là lúc đời sống tâm lý được
đánh tráo ở một dạng thức khác “Viên ngọc để trong một lớp lụa tơ tằm, rồi
ẩn sau một lớp vải áo, thế mà vẫn phát sáng được thì rõ ràng đây phải là
một viên ngọc quý, Duyên bỏ nó ra ra tay ngắm. Viên ngọc lại bình thường,
không phát sáng và cũng chẳng có gì đặc biệt. Duyên đặt nó lên vạt áo của
Đại thì nó phát ra thứ ánh sáng mờ mờ. Phải rồi. Áo Đại có chất gì đó và
khi tương thích với viên ngọc này thì nó sẽ phát sáng” [117, tr.132]. Mỗi khi
quan hệ với Duyên, Thạch đều phải dùng viên ngọc ước ngậm vào miệng thì
bản lĩnh đàn ông mới có thể trỗi dậy, nếu không Đại không thể gần gũi với
bất kì ai .
70
Trong Nháp, giữa hiện thực bộn bề, giữa một xã hội chao đảo mà con
người dễ sa vào vực thẳm của bản năng và ẩn ức, hình ảnh viên ngọc ước là
biểu tượng lấp lánh của một tình yêu, khát vọng tuổi trẻ trong sáng xuyên
suốt từ đầu đến cuối tác phẩm.
Tìm hiểu biểu tượng mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú, ta có thể nhận thấy việc xây dựng những hình ảnh biểu
tượng một cách sáng tạo, độc đáo của nhà văn. Những hình ảnh mang tính
biểu tượng này được đan cài trong tác phẩm một cách linh hoạt, giúp nhà
văn truyền tải những thông điệp ý nghĩa.
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nghiêng về thế giới vô thức
của nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
Nội tâm nhân vật là một thế giới khép kín đầy bí ẩn, đây cũng là nơi
chất chứa những tâm tư, tình cảm, tiếng nói sâu thẳm trong trái tim con
người. Để bộc lộ thế giới tinh thần nhân vật, nhà văn đã xây dựng thế giới
nội tâm nhân vật phong phú nhằm mô tả nhân vật từ bên trong, thâm nhập
vào tiềm thức nhân vật. Một trong những khả năng của độc thoại nội tâm là
thể hiện những giằng xé âm thầm của con người. Như Faullkner đã nói: Độc
thoại nội tâm thể hiện trái tim con người đang gây hấn với chính nó.
Hương ga trong Phiên bản luôn độc thoại với chính mình: “Em có
lắm chuyện không hả anh? Em cũng có ra vẻ thương người không hả anh?
Thực ra em không nghĩ nhiều đến thế khi giúp con Mỹ đâu. Chỉ là một chút
ngẫu hứng bốc đồng thôi. Em cũng không cố ý chọc tức mụ béo kia. Em có
nhiều thứ phải nghĩ lúc này, hơi đâu mà cứ gây sự với người ta làm gì. Ngay
lúc ấy cũng vậy. Em đang nghĩ đến anh với lời hẹn không thành tối hôm qua.
Nghĩ đến bà với hai con mắt đỏ hoe xì xụp đắp bát cơm quả trứng cho thằng
cháu trai chết mà không nhìn được mặt. Nghĩ đến anh Hưng "mặt nạ" với
những câu chuyện tù tội ám ảnh. Nghĩ đến cả cái quầy hàng ế ấm và nghề
làm hương chết đói của hai bà cháu. Từng ấy ý nghĩ là quá sức chứa đối với
71
cái đầu của em rồi. Em không muốn những lời nói của mụ béo kia tiếp tục
nhồi vào hai tai làm bộ não em nổ tung ra mất. Em đi như chạy về nhà. Em
vứt con cá quả xuống đất rồi leo lên giường nằm. Em không khóc. Đã từ lâu
rồi em không còn nước mắt nữa. Em cứ nằm ngửa mà nhìn trừng trừng lên
trần nhà. Lòng em như có nước chảy. Bà thấy em vậy, lại gần em, nắm tay
em, nhìn em như hút nước. Bà nghĩ em bị ai nói gì đó nên buồn. Bà bảo em
ra chợ để công việc bán buôn làm em quên đi tất cả. Nhưng bà có biết đâu
chính chợ búa là nơi em bị người ta hắt hủi, cạnh khóe, chế giễu, chửi rủa.
Bà ơi, sao nhà mình lại chán thế hả bà? Tổ cha mày, chán gì mà chán, đất
này nhà nào chả thế? Sao đất này lại thế? Thì nó là đất nghịch mà. Sao nó
lại là đất nghịch? Thì từ ngày xưa bà đã nghe các cụ kể thế. Kể làm sao hả
bà?”[117, tr.132].
Đây là đoạn độc thoại của cô bé Diệu tự nói với chính mình, sau đó là
quãng đời là sát thủ giang hồ khét tiếng. Đoạn độc thoại đã cho thấy những
ẩn ức mà cuộc đời đem lại cho Diệu, đẩy Diệu vào đường cùng, muốn sống
sót ở đất ngã ba sông buộc phải mạnh mẽ để tự bảo vệ mình.
Đó còn là tiếng nói vô thức biểu hiện qua giấc mơ của Thạch: “Giấc
mơ ấy đến vào lúc tôi sắp ngủ dậy. Tôi và bố ở trong một ngôi làng nhỏ.
Làng có rất nhiều đàn bà, chỉ có tôi và bố là đàn ông. Bố cứ gào thét bắt tôi
đóng cửa làng vào: Không cho bọn đàn ông làng khác mò vào, nó sẽ lấy hết
đàn bà làng mình. Nhưng rồi tôi đã không làm gì cả. Và ngôi làng trở nên
vắng tanh. Tôi ngồi trên một đống rơm khô còn bố ngồi vắt vẻo trên một
cành cây và nhìn tôi bằng đôi mắt rất buồn. Tôi gọi bố xuống chơi với tôi,
đừng ngồi trên cao như thế, sẽ ngã gãy cổ mất. Bố bảo nhục lắm không
xuống đâu. Tôi hỏi lại bố rằng có gì mà nhục. Bố chỉ ra xung quanh: mọi
người đi hết rồi. Tôi bảo tại vì lúc nào bố cũng cầm sợi thừng to thế kia. Họ
không chịu nổi sự đánh đập của bố. Bố đưa sợi dây thừng ra và bảo bố sẽ
dùng chính nó để tự tử. Vừa nói bố vừa làm thành cái thòng lọng. Bố không
72
muốn sống nữa. vậy làm thế nào bây giờ? Tôi hỏi bố. Con hãy đốt đống rơm
ấy lên. Nếu nó không thiêu cháy con thì đàn bà làng này mới trở về. Bọn con
trai làng khác chịu nóng rất giỏi. Con phải giỏi như chúng nó…” [115,
tr.172]. Giấc mơ là nỗi ám ảnh không nguôi của Thạch và bố sau bao nhiêu
năm mẹ Thạch bỏ rơi bố con đi tìm hạnh phúc riêng, nỗi đau ấy cứ nhức
nhối, rỉ máu không nguôi.
Quỳnh trong Kín vốn là một cô bé cành vàng lá ngọc nhưng trớ trêu
thay số phận lại đưa đẩy cô vào góc khuất cuộc đời. Khi không tìm được sự
cảm thông, sẻ chia từ người thân, người yêu, bạn bè, Quỳnh có xu hướng tự
trấn an bản thân. Những đoạn độc thoại chủ yếu là lời tâm sự của cô với
người mẹ đã mất - người gắn bó với cô nhất. Qua những đoạn độc thoại đó
cho ta thấy sự khủng hoảng trong tâm hồn nhân vật: “Mọi người vẫn khen
con xinh. Con xinh vì con giống mẹ. Da thịt con vẫn căng tràn vì con mới
bước vào độ tuổi đôi mươi. Tóc tai, quần áo, đồ nữ trang, mỹ phẩm giúp con
nổi bật trong đám đông. Nhưng con không nghĩ ngợi nhiều về cái vẻ bề
ngoài. Đó chỉ là hình thức. Hình thức ấy không cứu nổi một nội tâm đang
thao thức bởi sự chết. Tim con đang vỡ và những mạch máu đang sủi bọt
trong lồng ngực. Con không có được cảm giác bình an” [116, tr.13].
Ngoài những đoạn độc thoại nội tâm còn là những đoạn đối thoại nội
tâm, nhân vật thường tự phân thân hay đối thoại với một nhân vật khác trong
ý thức, tâm tưởng để tìm được sự đồng cảm, sẻ chia hay giãi bày những ẩn
ức. Những đoạn đối thoại nội tâm này xuất hiện dày đặc trong Phiên bản.
Hương ga là một trùm xã hội đen có tiếng, là thủ lĩnh số một nơi ngã ba
sông nhưng lại không tìm được tri kỉ để giải toả những oan ức, hiểu lầm
trong cuộc sống, cô yêu Nhân tha thiết nhưng cũng không dám mở lòng
trước Nhân. Nhưng sâu thẳm trong trái tim, tiếng nói yêu thương dạt dào với
Nhân luôn ngân nga đầy yêu thương nhưng cũng vô cùng xót xa: “Lần đầu
tiên em được ngồi sau xe máy của một người con trai. Mà người ấy lại đang
73
mang trên mình bộ sắc phục cảnh sát. Em chợt nghĩ: Tại sao người đó lại
không phải là anh nhỉ?” [117, tr.195].
Sau quãng đời lầm lạc, Hương ga luôn tự vấn chính bản thân mình. Để
làm sáng tỏ chính tâm hồn mình, cô không ngại tự vấn chính bản thân mình
qua những lời đối thoại với ánh trăng:
“Nữ hoàng? Ha, ha... Mi hãy nhìn lại mi một lần nữa đi. Mi có khác
gì một xác chết, và đế chế của mi, khác gì bong bóng xà phòng đang tan ra
thê thảm. Mi hãy sám hối đi. Mi chỉ còn thời gian để sám hối về những việc
mình làm. Mi không còn nhiều thời gian để tranh cãi với ta nữa đâu. Ta ở
đây là để giúp mi. Mi hiểu không?
- Giúp ta?
- Phải. Giúp mi sám hối về những việc mi làm. Giúp mi thanh lọc tâm
hồn, tẩy rửa những cặn bã trong cái đầu đang tê liệt bởi hai vì sao lọt vào
miệng mi đêm qua.”
“Sao ngươi lại đọc cho ta nghe câu ấy? Ngươi muốn bằng cách đó để
đánh thức trí nhớ trong ta, để ta có thể nhanh chóng nhận ra mình là ai ư?
Nó chỉ làm ta nhớ ra một con người mà ta đã gặp, đó là thằng Chín tháng.
Nhưng đó chỉ là một mảnh vụn ký ức thôi. Ta còn phải nhặt lên bao nhiêu
mảnh vụn như thế nữa thì mới sắp xếp nổi một hình hài có tên gọi là Ta?
Sao ngươi cứ thích nói nhiều đến hai từ tội lỗi thế? Thằng Chín tháng cũng
cứ đi tìm hoài những cái thật ngớ ngẩn chứa đựng bên trong hai từ Tội
phạm. Nó học cả đời mà cũng chỉ để lý giải hai từ ấy. Nhưng rõ ràng là nó
vẫn không lý giải được. Bằng chứng là trong những công trình nghiên cứu
của nó, khi những thao tác khoa học không giúp nó tiếp cận được chân lý,
nó phải vịn vào Chúa Trời. Mà Chúa thì toàn nói những điều không thể hiểu
nổi. Đấy, người cứ đọc lại mà xem, “bởi một người mà tội lỗi vào trong thế
gian”, “lại bởi tội lỗi mà có sự chết”, “sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi
người”, “mọi người đều đã phạm tội”. Ha, ha... Đấy, trúc trắc, quẩn quanh,
74
lộn ngược, lộn xuôi rồi lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Biết hiểu thế
nào nhỉ? Ta vẫn hình dung rằng, thằng Chín tháng đang cầm hai tay hai con
dao mổ, một con là khoa học pháp lý, một con là ánh sáng Thiên Chúa để
khám nghiệm tế bào ung thư có từ khi loài người xuất hiện, ấy là Tội phạm,
thế nhưng nó đã cắt rạch được những gì, đã chẩn đoán ra sao, đã quy nạp
diễn giải thế nào, đã kết luận được vì sao tế bào ấy vẫn tiếp tục di căn?
Chưa! Nó chưa tìm ra được điều gì cả. Nó đang loay hoay và chết chìm
trong sở thích khoa học có khởi nguyên mà không có kết thúc ấy. Ngươi giải
đáp giúp nó đi. Ngươi mầu nhiệm đến mức có thể khôi phục lại sự suy tàn
của trí nhớ, có thể huy động được những mảnh vụn ký ức để tái tạo nên một
linh hồn, lẽ nào ngươi không chỉ ra được cho nó cái mà nó đi tìm là gì?”
[117, tr.206-207].
Qua những đoạn đối thoại và độc thoại nôi tâm, Nguyễn Đình Tú đưa
người đọc đi xuyên suốt quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật để hiểu về thế
giới tâm hồn sâu kín của con người. Mỗi con người là một vũ trụ khép kín, để
lý giải những hành động cũng như cuộc đời họ cần tìm hiểu những nguyên
nhân sâu xa thúc đẩy nhân vật hành động. Nguyễn Đình Tú đã rất tinh tế, sâu
sắc và am hiểu con người mới có thể xây dựng một thế giới nhân vật cùng với
thế giới nội thâm phong phú, không ai giống ai. Nó là minh chứng cho tài
năng và nỗ lực sáng tạo không người của nhà văn với đời với nghề.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu mang dấu ấn Phân tâm học trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú
3.3.1. Ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục
Dấu ấn Phân tâm học được thể hiện trực tiếp, rõ nét qua ngôn ngữ tiểu
thuyết của Nguyễn Đình Tú. Là một nhà văn không hề né tránh các vấn đề
nhạy cảm như vấn đề giới tính, tình dục mà còn khai thác nó như một yếu tố
đặc biệt quan trọng đối với sự sống nhân loại, Nguyễn Đình Tú đã sử dụng
ngôn ngữ như một phương tiện đắc đụng để thể hiện hành động, ngôn ngữ,
75
cử chỉ mang đậm màu sắc Phân tâm học. Qua đó, nhà văn thể hiện được
những ý tưởng mới mẻ và táo bạo của mình. Khảo sát dấu ấn Phân tâm học
trong ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, người viết nhận thấy nó thể
hiện rõ nét ngôn ngữ miêu tả hoạt động tính dục.
* Ngôn ngữ hiện thực táo bạo, miêu tả trần trụi, chạm thẳng vào vấn
đề nhạy cảm
Trong Nháp, những trang miêu tả hoạt động tình dục chiếm phần lớn
dung lượng của cuốn tiểu thuyết. Có lẽ bởi đó mà nó bị coi là cuốn sách có
nội dung đồi trụy và gây nhiều tranh cãi trên giới văn đàn. Đặc biệt, cuốn
tiểu thuyết còn viết về cả hoạt động tình dục sa đoạ giữa những kẻ cùng giới.
Nhà văn muốn hướng đến lý giải nỗi ám ảnh cay đắng đã đeo đuổi nhân vật,
khiến nhân vật đi chệch hướng. Thạch không tìm được sự thoả mãn tình dục
ở Yến và Menloni bởi sự ám ảnh nhược tiểu nên đã tìm đến với Galacloai. Ở
Galacloai, với sự lạm dụng thuốc kích dục, anh đã trượt một vết dài vào con
đường lầm lạc, bệnh hoạn. Những trang văn miêu tả trực tiếp và nửa trực
tiếp những đoạn làm tình của hai nhân vật này phần nào đã chuyển tải được
dụng ý của nhà văn “phủ định cái đẹp tuyệt đối và khước từ tính giao lệch
lạc”: “Rồi rắn trườn xuống lùa vào trong chiếc quần lót mỏng mảnh đang
bám hờ hững ở phần dưới eo. Bằng một động tác rất nhanh và gọn, rắn tháo
tuột tấm lót ấy ra khỏi người tôi. Vật dương tôi căng cứng. Hình như tôi
nhìn thấy tượng sinh thực khí ở góc phòng ngả nghiêng, lay động. Nào ly
thứ chín. Hai thanh niên Nhật đã nằm xuống tấm đệm đặt ở giữa phòng. Họ
dùng bờ môi nâng đỡ nhẹ nhàng thiên thần nhỏ bé của nhau. Trong tư thế
nằm tráo đầu đuôi, thiên thần nhỏ bé của cả hai đều được mơn trớn vuốt ve,
đều được chiều chuộng bởi bờ môi mềm và mảnh, lưỡi không ngừng khua
khoắng. Nào ly thứ mười. Tôi nằm vật ra giường, mắt lim dim nhớ tới giỏ
hoa mộc miên của Yến. Tôi không còn là cái giỏ rỗng không nảy tưng tưng
trên triền núi, rơi tun hút xuống khe sâu nữa. Cái giỏ đã được xếp vào đó
76
đầy những nụ hoa hình đài sen và tôi phải rướn lên trước những cú ngậm
rợn người của rắn. Chắc chắn ngẫu tượng linga ở góc phòng cũng đang
hứng tình vì tôi thấy chúng nó không ngừng động đậy. Ly thứ mười một,
mười hai, chai rượu được chuyển lên góc tủ đầu giường. Rắn không rời tôi
ra nữa. Rắn ngậm chặt vật dương của tôi trong cái miệng toả ra thứ từ
trường cảm xúc mê đắm. Cũng cái miệng này chà đi xát lại trên hai đầu vú
săn chắc của tôi, làm mềm tan những đầu dây thần kinh ở đó” [115, tr.190].
Nguyễn Đình Tú không hề né tránh, không ngần ngại dùng ngôn ngữ miêu
tả trực tiếp những cảnh làm tình, giao hoan giữa Thạch và Meloni. Ngôn ngữ
miêu tả tình dục một cách trần trụi được sử dụng một cách triệt để trong
Nháp:“Để nguyên thân thể mát rượi như thế cô nhảy lên giường với tôi.
“Anh mang bao chưa?”. “Từ từ đã chứ”. Đôi vú bánh dầy khá căng. Thân
hình lẳn. Cặp đùi hơi ngắn. Khuôn mặt hơi bầu bĩnh và đôi mắt có những
ánh nhìn rất trẻ. Đủ hứng thú. Tôi lao vào cô gái. Nhưng cô không hào hứng
lắm với giai đoạn khởi đầu. Cô lại hỏi tôi “Bao đâu?”. Tôi đứng dậy lục túi
quần lấy condom đưa cho cô ta. Rất nhanh, cô lấy nó ra khỏi lớp túi bằng
giấy bạc (…). Ngay khi tôi dừng lại, lập tức cô gái buông tôi ra, tay cô đưa
xuống nắn đầu bao cao su. Chắc chắn đã đáng đồng tiền cho sự nhàu nhò
tấm thân của mình rồi, cô nhảy ngay xuống giường, tót vào nhà tắm” [117,
tr.174].
Bằng ngôn ngữ hiện thực, chạm thẳng vào những vấn đề nhạy cảm,
cây bút táo bạo Nguyễn Đình Tú đã tái hiện trước mắt người đọc đời sống
sinh hoạt tình dục của giới trẻ hiện đại. Nhà văn không ngần ngại vạch trần
những tiêu cực, mặt trái trong lối sống của giới trẻ để cảnh tỉnh, báo động
cho họ. Có lẽ chính bởi cách sử dụng ngôn ngữ trần trụi, táo bạo, thẳng thắn
nên đã có không ít những tranh cãi xoay quanh tiểu thuyết của anh. Tìm hiểu
ngôn ngữ trong tác phẩm của anh, người viết cho rằng cần có cái nhìn khách
quan, đúng đắn để hiểu được những thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải.
77
* Ngôn ngữ ẩn dụ, tượng trưng gợi cảm xúc ái ân
Ngoài những đoạn văn miêu tả trực tiếp, Nguyễn Đình Tú còn thành
công trong những đoạn văn miêu tả hoạt động ân ái lãng mạn, đậm chất thơ.
Những câu văn miêu tả sex trong Phiên bản khá tài hoa. Đó là đoạn văn
miêu tả cảnh giao ái của Hương ga và Tư mã - một kẻ giang hồ người toàn
hình xăm. Tác giả đã dựa theo những hình xăm trên người Hưng để miêu tả
phút giây nồng nàn của đôi lứa: “Rồi Hưng lần mò tháo cởi mọi thứ còn lại
trên cơ thể em. Nào là đàn sẻ ri bay qua người em. Nào là mặt trăng phủ
ánh vàng lên người em. Nào là ông mặt trời chiếu ánh nắng vàng gay gắt
lên người em. Nào là Đức Phật hiện ra đưa em về miền cực lạc. Nào là
những con rết thả nọc độc vào từng mạch máu của em. Bức hoạ bì đưa lại
cho em tất cả các loại cảm giác ấy. Em quằn quại, rên xiết dưới làn da
Hưng. Bức hoạ bì bọc kín em lại, vò xé em, lật em nghiêng ngửa, cuộn vào
rồi lại trải ra, úp xuống rồi lại ngược lên, xô đẩy, công phá hàng vạn tế bào
ở em nở tung ra.” [117, tr.156]. Đoạn văn đã tạo nên những mỹ cảm đẹp đẽ
trong lòng người đọc về những khát vọng chính đáng của con người. Nhà
văn cũng có phần ưu ái cho Diệu-Hương ga, mỗi khi viết về cảnh quan hệ
của Hương ga với những người đàn ông đi qua đời cô dù tự nguyện hay
không tự nguyện, Nguyễn Đình Tú đều sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, tượng
trưng, ám chỉ hoạt động tình dục. Cũng có những đoạn văn miêu tả sex gián
tiếp nhưng cũng gây nên ám ảnh cho người đọc. Đó là cảnh Diệu bị bọn
cướp biển hãm hiếp tập thể: “Người em như bị bóng đè, toàn thân căng ra,
không sao cựa quậy được. Một cái gì đó thật là khủng khiếp thọc vào người
em. Em đau đớn đến ngất lịm đi. Và em lại tỉnh dậy và thấy mình liên tục bị
nhồi trên đầu sóng. Trên em, dưới em là hai, ba con giao long đầu người
đang gào rú những tiếng quái đản, ngập ngụa nhục dục. Ôi chao, em thấy
người mình như bị xé ra với mênh mang nước”(Phiên bản). Hay cảnh
Hương ga bị Tuấn chợ làm nhục: “Em thấy mình như đang dập dềnh trên
sóng nước. Cơ thể em đang nằm dưới một con giao long gớm nghiếc. Những
78
cẳng tay, cẳng chân đầy lông lá của nó đang nghều ngoào quắp lấy em. Con
giao long ấy đang tìm cách xé rách em. Da thịt em căng ra như mặt trống.
Móng vuốt của giao long không ngừng cào lên bề mặt căng nhức ấy, tạo
những rung vang đau đớn khắp người em. Con giao long vẫn đang mê mải
tìm cách xé rách em từ phía dưới, vết rách ấy sẽ làm em chết mất. cảm giác
này em đã trải qua một lần rồi, ở đâu thì em không nhớ, nhưng đó là điều
mà em khiếp đảm nhất. Em vẫn đang cố chống đỡ nhưng em sắp bị khuất
phục rồi. Con giao long đang vô hiệu tứ chi em. Hai đùi dưới em đã bị
khống chế rồi. Một lưỡi dao lửa thốc thẳng vào hai đùi em, xoáy sâu vào
tâm can em, tạo một vết lửa xém lên tận đỉnh đầu em. Nỗi kinh hoàng nhất
đã diễn ra. Em không sao chịu nổi. Con dao lửa cứ khua khoắng trong
người em, lem lém, nhức nhối, hơ đốt, buốt rát. Em cố nhấc đầu lên, há mồm
ra đớp không khí. Và trong ánh nhìn lờ mờ, em thoáng thấy có chiếc rìu
đang để ở ngay tầm tay với của em. Em cầm chiếc rìu đó lên, bổ thật mạnh
vào người con giao long. Không một tiếng hét hay sự quẫy đạp khủng khiếp
nào diễn ra. Con giao long đổ gục xuống, tuột khỏi em, nằm lù lù như một
đống thịt trên mặt đất.” [117, tr.61]. Trong Phiên bản, có mẫu số chung
xuất hiện đó là mỗi khi Diệu gặp phải biến cố về tình dục thì hình ảnh con
giao long - thuỷ quái lại xuất hiện. Dường như con giao long là tượng trưng
của bạo lực trong tình dục.
Hay đoạn miêu tả cảnh thác loạn của Quỳnh và nhóm bạn trong Kín:
“Nến được châm lên. Lò đốt trầm cũng bắt đầu toả hương. Nhạc chầu văn
tha thướt như suối nguồn trong núi chảy ra xen lẫn với các giai điệu rốc
đùng đoàng… Khỉ không còn biết mình là ai và không nhớ nổi bất cứ điều gì
nữa kể từ khi tấm vải điều trên đầu rơi xuống và những mảnh áo giấy lần
lượt bị giật ra khỏi người. Chó cắn, lợn cào, hổ vồ, gà mổ, ngựa đá, rồng
lượn, rắn bò, trâu húc, chuột gặm, mèo vờn… Cảm giác nóng bỏng, căng
cứng làm khỉ như muốn bốc thành ngọn lửa thiêu cháy hết tất cả mọi thứ
xung quanh. Bất cứ con giáp nào đến với khỉ cũng nhận thấy xúc cảm mạnh
79
mẽ đang dâng trào mãnh liệt từ sau tấm mặt nạ vô hồn kia. Chó - mèo lăn xả
vào nhau cùng thứ âm thanh nồng nàn ma quái hắt ra từ hai chiếc loa thùng
để góc nhà. Rồng - rắn cũng quấn lấy nhau, rập rình theo điệu trầu văn tha
thiết” [116, tr.358].
Những đoạn văn miêu tả gián tiếp để tránh cảm giác thô tục về cảnh
quần hôn của Quỳnh và nhóm bạn song lại gây ám ảnh, ghê rợn trong lòng
người đọc về sự thác loạn, ăn chơi sa đoạ, trác táng của giới trẻ. Đó là một
hiện tượng đáng buồn trong lối sống của một bộ phận thanh niên. Đó là sự
xuống cấp trầm trọng về nhân cách, băng hoại về đạo lý cũng là sự khủng
hoảng niềm tin và lý tưởng của một bộ phận giới trẻ.
3.3.2. Giọng điệu
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu được định nghĩa là
“Thái độ, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng
được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,
sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã,
ngợi ca hay châm biếm (…) giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng
điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài
liệu và sắp xếp hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu và
ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng,
xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngưng. Giọng điệu là một phạm
trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện
hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác
phẩm gắn với cái giọng điệu trời phú của mỗi tác giả nhưng mang nội dung
khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể hiện” [48, tr.135-136]. Việc
tạo ra giọng điệu nghệ thuật riêng là nỗ lực không ngừng của mỗi nhà văn.
Tổng hòa các sắc thái giọng điệu trong một tác phẩm, người đọc sẽ có cơ sở
80
quan trọng để đánh giá phong cách, sắc thái tình cảm của người viết. Nhìn từ
góc độ tương tác thẩm mĩ với yếu tố tính dục, ta thấy tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú nổi bật với bốn kiểu giọng điệu cơ bản: bỗ bã, trào lộng; đắng chát
triết lí; hoài niệm xót xa và giọng vô âm sắc.
* Giọng điệu bỗ bã, trào lộng
Tiểu thuyết đương đại áp sát vào đời sống, tiếp xúc suồng sã đến thô
bạo hiện thực với sự mở rộng các phạm trù thẩm mĩ, đời thường hóa chúng.
Ở đó, cái xấu không dè dặt né tránh mà thể hiện dưới hình thức những cái
hài đời. Khi những chuẩn mực bị lệch pha, cái hài, qua giọng điệu bỗ bã,
trào lộng, tích cực góp phần nói lên cái vô nghĩa lí ở đời. Viết về lối sống
của thế hệ trẻ và văn hóa tính dục ở họ, Nguyễn Đình Tú, qua lăng kính hiện
thực, xoáy vào tận cùng cái chua cay, vào vết thương đang sưng tấy của
những ẩn ức bản năng.
Mẹ Thạch - người đàn bà không chịu nổi cuộc sống thiếu thốn “son
phấn”, ở lại xứ người mà quên đi tổ ấm nhỏ, chỉ vì cái công cụ sinh sản của
đàn ông Đức, chỉ vì thoả mãn dục tính của mình, để lại vết thương sâu hoắm
trong lòng cha con Thạch cùng nỗi ám ảnh nhược tiểu giống loài. Vết
thương đó còn lấy đi cái nhân cách mà đáng lẽ sẽ định hình tốt trong người
con trai. Bằng giọng điệu khinh thường, cười cợt nhưng cũng đầy trăn trở,
cái xót xa, vô nghĩa trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú nổi lên trong thế đối
lập giữa tình thương và tình dục: “Chẳng lẽ người phụ nữ nào đi Tây cũng
bỏ chồng chỉ vì cái của nợ ấy của những người đàn ông phương Tây? Nếu
thế thì chán cho cái giống người Việt quá. Chán cho cái của quý ấy của đám
đàn ông nước mình quá” [117, tr.23-24].
Ở người bố, niềm tin vào sự chung thủy của vợ cũng đồng nghĩa với
sự hi sinh, nhưng đáp lại tấm lòng yêu thương đó là cái nhìn “tởm lắm” của
kẻ đầu ấp tay gối. Tình yêu lúc này trở thành không tưởng trước sự phản bội
của người đàn bà khát dục: “Bố tôi như bao người đàn ông mất vợ khác, tin
81
vào tình vợ chồng của mình, tin vào điều viển vông rằng, sự khốn nạn ấy xảy
ra với ai chứ không xảy ra với mình” [117, tr.24].
Từ bi kịch gia đình, Thạch biến thành kẻ mang bi kịch tình yêu lứa
đôi. Những ám ảnh nhược tiểu ám vào suy nghĩ ngày càng bấn loạn của anh.
Bệnh hoạn với thú vui riêng, Thạch trở thành nạn nhân của xã hội cùng lối
sống ngày càng xa rời mọi giá trị và chuẩn mực. Với vẻ bề ngoài đĩnh đạc,
văn minh, Thạch cố che đậy cái thú bệnh hoạn luôn ám ảnh trong ý nghĩ.
Qua giọng điệu trào lộng, tác giả để nhân vật tự bộc lộ, tự dè bỉu sự trống
rỗng trong giá trị con người của mình: “Nhưng tôi không dám chường mặt ra
để gặp ai cả. Tôi phải giữ gìn danh phận của mình” - một phóng viên chuyên
viết về pháp luật của một tờ báo vốn ra đời là để “góp phần chăm lo, bảo vệ
hạnh phúc gia đình như một thực thể cấu thành nên xã hội”.
Đối với Thạch, tình yêu bao hàm cả tình dục, nhưng chính anh đã đẩy
tình dục vào cảm xúc riêng lẻ của thỏa mãn đơn thuần: “Mười bốn tuổi Đại
đã yêu. Cậu ấy khẳng định như thế. Tôi thì không nghĩ đó là tình yêu. Một
thằng bé mười bốn với một cô bé mười hai thì đã biết gì mà yêu? Hơn nữa
tôi vẫn luôn cho rằng tình yêu phải bao hàm tình dục. Đại đã khám phá
được những gì của cảm xúc bản thân vào cái tuổi ấy” [115, tr.67].
Dù sao thì tình yêu đó vẫn tồn tại mãi trong Đại. Nhưng bản năng tình
dục của một người đàn ông đã chiến thắng tiếng nói của con tim, Đại nhớ
nhưng Thảo nhưng vẫn đến với Duyên họ khám phá nhau ở bờ hồ và chuyện
đó còn tiếp diễn trong suốt hành trình dài. Ở Đại tình yêu và tình dục song
song nhưng không cùng nhau. Anh dành cho Thảo cái tình trong trắng,
không nhuốm màu nhục dục. Còn việc anh đến với Duyên lại là sự cuốn hút
giới tính thân quen. Trước sự phũ phàng, tự làm đau mình trong niềm tin vẻ
đẹp tuyệt đối ở Đại, Nguyễn Đình Tú để người trong cuộc tự nói lên cái trớ
trêu trong quan hệ của mình: “Thật chả ra làm sao! Đi ra biển hú hí với
82
nhau, đã chẳng hứng tình lên được lại đem viên ngọc của người kia ra ngó
nghiêng thì có ngao ngán không cơ chứ?” [117, tr.132].
Nguyễn Đình Tú đã sử dụng cách nói như bâng quơ, hồn nhiên, để từ
đó, tác giả cho thấy ý vị thâm trầm, sâu cay từ cái xấu xa, phi lí của cuộc
sống. Đặc biệt, vấn đề vốn được xem là nhạy cảm, qua chất trào lộng, đã
vượt ra khuôn khổ “kín”, phơi bày tất cả hỉ, nộ, ái, ố với đời. Trước cái gọi
là tình yêu, Nguyễn Đình Tú cho ta thấy sự vô nghĩa lí ở chính nơi con
người được sống là mình nhất.
Tính trào lộng, mai mỉa sự giả dối, hai mặt, đê tiện thể hiện rõ ở Hưng
“mã” với ý nghĩ dựa vào nhau mang đầy nhục dục, đầy toan tính của y.
Nhưng bản thân sự giả dối đó rất hợp tình đối với trái tim cô đơn của Diệu.
Chính trong hoàn cảnh ấy, cái phi lí trở thành có lí. Đẩy người yêu vào tình
một đêm để thu xếp công việc, đấng nam nhi là Hưng còn có thể làm chỗ
dựa cho “người yêu”. Điều đó cho thấy cái khốn nạn của một kiếp người mà
Diệu phải vịn vào: “Ông Hưng là khôn nhất...Chỉ được cái lỗ mồm. Kẹt sỉ
nhất trần đời. Mà chả tốt đẹp đéo gì với mày đâu. Đã lại thấy cặp kè với
mấy con bớp ở ga rồi đấy” [116, tr.190].
Trong thế giới hoang hoải, lạc loài của Kín, Quỳnh và những kẻ xung
quanh cô sống buông thả bản năng đến rùng mình. Chủ động dùng tình dục
để thấy được sự hiện hữu của bản thân, Quỳnh và câu chuyện tình dục của
mình đi ngược lại các chuẩn mực đạo đức, toát lên sự trào lộng vào nhân
cách của một thế hệ.
Lấy câu triết lí của cha ông mà vin vào đời sống tình dục phóng
khoáng trong Kín, cái giọng giễu nhại, bỗ bã châm biếm của tác giả ý nhị
nhưng sâu xa vô cùng: “Các cụ nói cấm có sai. Lửa gần rơm lâu ngày cũng
bén. Nhốt một trai một gái vào chung một nhà thì cái chuyện yêu đương nhất
định phải xảy ra” [116, tr.212]. Và nghịch lí của khát khao, của vị thế tình
dục ở nam giới qua hình ảnh ví von xưa là cái cười buồn về sự khác thường
83
của giới trẻ nay:“Mỗi khi Tráng bước ra từ phòng tập, Quỳnh luôn có cái
cảm giác miếng tóp mỡ ngào ngạt đang lướt qua mặt mèo” [116, tr.213].
Trước bao sự thay đổi của giá trị, tình yêu đúng nghĩa là điều khó có
thể tồn tại; ở đây chỉ có thể là cảm xúc của tình dục. Mà tình dục chỉ để thỏa
mãn cơn khát tình. Tính dục phóng khoáng được nói một cách hồn nhiên,
bật lên cái cười trào lộng sâu sắc: “Cách khỏa lấp tốt nhất hình bóng một
người con trai cũ là mang về nhà mình một người con trai mới”.
Cái vô nghĩa lí tồn tại trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú với tất cả các
cung bậc qua giọng điệu trào lộng tạo nên bức tranh phi lí, ngổn ngang thể
hiện bao điều trăn trở của tác giả. Chỉ có điều, dẫu giọng điệu của Nguyễn
Đình Tú trào lộng, chua cay nhưng vẫn nồng ấm trong khắc khoải một cuộc
sống tươi sáng hơn.
Giọng bỗ bã, trào lộng như tự nhiên, có khi hóm hỉnh nhưng đôi lúc
lắm mỉa mai, chua chát. Bằng cách ấy, nhân vật của nhà văn hiện lên với
những cảm xúc trần trụi nhưng có ý nghĩa nhân sinh lớn lao. Nó không chỉ
trả con người về với những khát vọng nhân bản, khát vọng của cái đẹp mà
còn phản ánh một thế giới hỗn loạn, vô nghĩa lí. Ẩn sau tất cả các sắc thái
của giọng bỗ bã, trào lộng là khát khao những giá trị nhân văn ở con người.
* Giọng điệu triết lí đắng chát
Với tiểu thuyết hiện đại, nhà văn không chỉ nhìn thấy hiện thực ở bề
mặt cuộc đời mà còn tìm hiện thực ẩn chìm bên trong con người, soi ngắm
số phận cá nhân để khái quát những vấn đề nhân thế. Tác phẩm thường được
cấu trúc như dòng chảy của lịch sử tâm hồn với điểm nhìn của người trần
thuật thiên về khám phá, chiêm nghiệm. Giọng điệu triết lí được đan dệt từ
lời nhân vật, phối hợp những tâm tư, trải nghiệm ở nhà văn nhằm diễn tả sự
phức tạp, nhiêu khê của cuộc sống mà con người không thể lường hết.
84
Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, sắc điệu triết lí toát lên khi đề cập
đến những vấn đề phức tạp trong cuộc sống, trên hành trình nhân vật khắc
khoải đi tìm những giá trị đích thực cùng những bày tỏ và nhận định khái
quát của tác giả về con người, về cuộc đời. Sự gắn bó với “cô người yêu bé
nhỏ” của Thạch cũng là sự lớn lên từng ngày của Yến. Chính quá trình hiểu
nhau đó lại khiến mối quan hệ đậm mùi nhục cảm của họ đi vào ngõ cụt.
Hơn ai hết, Thạch đã xót xa nhận ra cái kết cục hiển nhiên đó: “Yến đã
trưởng thành rồi. Con chim đã mọc đủ lông đủ cánh rồi, nó phải bay theo
những đường lượn của riêng nó, không thể cứ bắt nó lượn duy nhất một kiểu
trước tổ ấm của mình” [117, tr.81]. Cái chua chát, hoài nghi về cuộc đời và
con người xuất phát từ trải nghiệm nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt, những phát
biểu có tính khái quát ấy thường được lồng vào lời nói, suy nghĩ của nhân
vật một cách tự nhiên.
Với cách nói ví von giàu tính suy ngẫm, chiêm nghiệm, Nguyễn Đình
Tú sử dụng cái nghịch dị để thể hiện sự hỗn tạp, trớ trêu của cuộc đời. Ở đó,
cảm giác cuộc sống thật như một trò đùa để hoài nghi tất cả: “Và sau khi
sinh hoạt, thằng nào cũng ngỡ bạn tình của mình chỉ là một con bò cái ngu
muội, còn mình là người đã nắm chắc chiếc dây thừng trong tay”[117,
tr.165].
Tình dục từ xưa được xem là đặc quyền của phái mạnh, mà phái nữ
chỉ có thể bị động trong cảm xúc. Nhưng ở thế giới hiện đại với sự phát triển
không ngừng của phái nữ, ý thức phái tính ngày càng bộc lộ mạnh mẽ. Sự
bình đẳng giới đưa đến đời sống tình dục mới, đôi khi phái yếu lại là người
làm chủ, giữ thế thượng phong.
Đời sống phát triển theo nhiều dạng thức, trong đó nổi bật lên với cái
gọi là mua bán “khoái cảm trần gian”. Thấu cảm điều này, Nguyễn Đình Tú
một mặt hiểu được sự vô nghĩa lí của ham muốn và thỏa mãn, mặt khác
thấm thía được cái xót xa, bi đát của những chung chạ kiểu nắng sớm mưa
85
chiều: “Cái trò ăn bánh trả tiền có bao giờ nhuốm màu lãng mạn đâu? Cục
súc lắm, thô thiển lắm, tởm lợm lắm, thói đời xưa nay thế cả, mới mẻ gì đâu
mà giả dạng ngỡ ngàng, bực bội?” [117, tr.175].
Đằng sau mỗi câu chuyện tính dục là những suy tư về cuộc sống, về
con người, về tình yêu và hạnh phúc. Ở đó, tình yêu và tình dục chưa hay đã
hòa hợp thì khao khát muôn đời của con người vẫn là được sống, được yêu.
Mỗi trang văn, vì thế, là những suy nghĩ, những trăn trở, day dứt khôn nguôi
của một cây bút đầy nhiệt tâm, giàu trải nghiệm.
Triết lí về bản thể cũng lặp đi lặp lại trong tiểu thuyết Nguyễn Đình
Tú. Sau những dòng thổn thức nhẹ nhàng nhưng cuộn trào bởi bản năng là
tiếng nói rất người. Sự hòa hợp giữa tình và cảnh là những thổn thức của tự
nhiên mà chính những lúc cô đơn con người càng khát khao giao hòa nhất:
“Mùa đông thường đem lại cho Kiên sự tủi thân. Trong cơn lạnh giá, dường
như con người ta cảm nhận rõ sự cô đơn hơn. Và mỗi khi mùa đông đến,
trong lớp chăn ủ ấm, Kiên nhận ra sự rạo rực khác thường của cơ thể”
[116, tr.200].
Sự cô đơn trong bản thể còn ở dạng không thể hòa hợp như quy luật
vốn có mà đi theo một lối khác vì “xét cho cùng là lỗi ở thượng đế chứ đâu
phải lỗi ở Tráng”. Đối với Tráng, Quỳnh có cảm giác ngưỡng vọng, như
đứng trước những gì chính cô không lí giải được: “Tráng là một chàng trai
trong sạch, thánh thiện và tinh khiết đến vô trùng. Những cái gì thánh thiện
người ta thường vọng tâm tôn thờ hơn là kéo vào lòng mình mà yêu thương,
ôm siết, cắn cấu” [116, tr.283]
Đi tìm bản thể, nhân vật tiểu thuyết đương đại thường rơi vào tâm
trạng cô đơn, khủng hoảng. Con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú
cũng vậy, sau những giờ phút đối diện với bản thể họ đã tìm cái chết hay thả
mình vào những ham muốn vô độ, bệnh hoạn như một lựa chọn thích hợp.
Thực tại hiện tồn trở nên vô nghĩa. Mỗi tác phẩm là một cuộc tìm kiếm bản
86
thể đầy giằng xé. Ngẫm, suy, triết lí… chính là một trong những yếu tố đậm
nổi, chúng làm thành một giọng chủ đạo trong bản hợp âm nhiều chất giọng
của nhà văn.
Giọng triết lí trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú không diễn đạt một
cách ồn ào mà đắng chát qua từng số phận, từng tình huống nhân vật để từ
đó bật lên cái chiêm nghiệm sâu cay của những ẩn ức: “Bao nhiêu đêm thần
tiên chế ngự tôi rồi. Bao nhiêu đêm bản thân tôi chế ngự tôi rồi. Đêm nay để
quỷ chế ngự xem có khác gì những đêm qua không? Đời người được bao
nhiêu đêm!” [117, tr.219].
Ý nghĩa triết lí bị bóp méo, ý thức vươn đến cuộc sống đúng nghĩa
được nhào nặn lại qua bi kịch méo mó tâm hồn của Thạch. Đó là cả thế giới
vỡ vụn, thế giới của ảo giác, bản năng, vô thức; thế giới của những con
người tìm đến khoái lạc về thân xác nhưng ám ảnh, hoảng loạn về tinh thần.
Bi kịch của các nhân vật nằm ở chỗ không tìm được ý nghĩa sống và vì vậy
cũng là bi kịch của sự buông thả theo đam mê, nhục vọng. Chính trong
buông thả họ càng khát khao được sống, và khi khát khao đến bế tắc, cái
chết là sự giải thoát, cái chết cũng mang đầy chiêm nghiệm: “Người ta sống
để ăn, để mặc, để học hành, vui chơi, làm việc, giao ái và muộn phiền.
Quỳnh đã hưởng hết những điều cần hưởng, đã tiêu hết những thứ cuộc đời
ký gửi, nếu có kéo dài thêm sự sống chỉ để nhận về mình những muộn phiền
mà thôi” [116, tr.288].
Triết lí tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú bắt nguồn từ những cách nghĩ
riêng và có phần phi chính thống. Những lời bàn luận đắng chát thường
khiến tác phẩm trở nên mới mẻ, bất ngờ. Người đọc, hoặc gật gù đồng ý
hoặc cau mày nghi ngại, song đều phải ngẫm nghĩ. Vì vậy, tính vấn đề của
tác phẩm, chiều sâu của câu chuyện được nâng cao.
Trước ý nghĩa vô thường của đời người, Nguyễn Đình Tú biết cái tất
yếu của việc “trời sinh ra những kiếp ngọc đời thì trời cũng sinh ra kiếp bụi
87
đời” (Phiên bản). Dù vậy qua những kiếp bụi đời đầy mất mát và khổ tâm,
ngòi bút nhà văn nồng nàn yêu thương nhưng cũng đầy day trở. Trước nguy
cơ tan vỡ tình người, nhà văn với nhạy cảm, nhức nhối về cõi đời, cõi người
ấy đã riết róng gióng lên hồi chuông gọi mời tha thiết: “Bây giờ là lúc không
phải chỉ dành tặng nhau những tấm lòng. Tình bạn tốt đẹp phải là cùng nhìn
về một phía, cùng nắm chặt tay nhau đi cùng một hướng”.
Nhìn chung, điều đáng quý trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là
những suy nghĩ bắt nguồn từ những day dứt của tác giả trước những ẩn ức
tình dục của nhân vật với nhiều trạng huống khác nhau. Tuy việc lý giải ở
đây vẫn chủ yếu dựa trên cảm tính, nhưng không thể phủ nhận rằng chính
giọng điệu triết lí đã đưa người đọc tới sự cảm nhận sâu sắc và thấm thía
hơn về tình yêu và tình dục ngày nay.
* Giọng hoài niệm xót xa
Không dùng cốt truyện rõ ràng với các tình tiết diễn tiến theo trình tự
logic khách quan, tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú được kết cấu theo dòng ý thức
của các nhân vật có đời sống tâm linh không an tại và mang nhiều ẩn ức, ám
ảnh dồn nén. Bên cạnh đó, sự rối bời của tâm trạng nhân vật cũng khiến
những sự kiện, hình ảnh vá víu, chồng chất lên nhau. Đây là môi trường thuận
lợi cho sự tồn sinh của sắc giọng hoài niệm gắn liền với hành trình vật vã truy
tầm kí ức của nhân vật hòng nhận ra “bản lai diện mục” của mình.
Đa phần các câu chuyện đều bắt đầu ở thì hiện tại, sau đó theo dòng ý
thức nhân vật trôi ngược về quá khứ. Thỉnh thoảng kỉ niệm quá khứ giao cắt
với cảm giác hiện tại ngầm gợi ra một sự đối chiếu, liên kết đầy bất ngờ, thú
vị. Hành trình ngược quá khứ để góp nhặt những kỉ niệm của một thời xa cũ
là điều kiện giúp con người sống với chính bản thân, phơi trải tâm can sâu
kín với nhiều nỗi xa xót, u hoài.
Nháp mở đầu bằng vụ án mà nhân vật xưng tôi đang tham gia viết bài
và trong tôi bỗng xuất hiện những ý nghĩ về Đại. Như một nỗi ám ảnh, từ
88
nỗi băn khoăn về tung tích của Đại đã đưa Thạch về với quá khứ, lúc này kí
ức đã dẫn lối về miền xáo trộn những ý nghĩ khôn nguôi. Đời sinh viên, nỗi
đau, tình yêu, tình bạn… cùng những trăn trở về cuộc sống hiện tại cứ đan
xen vào nhau tạo nên dòng chảy nội tâm phong phú và sống động. Cũng từ
dòng ý thức đó hiện lên hình ảnh, câu chuyện của Đại với mảng ký ức quằn
quại, đớn đau. Để rồi toàn bộ câu chuyện là sự khai chảy những thổn thức
của thế hệ Nháp. Đối với nhân vật Nháp, quá khứ không thể là dĩ vãng mà
hiện hữu hàng ngày trong tâm trí họ; chỉ cần một sự gợi nhắc xa xăm đã có
thể dậy lên mạch sóng tâm trạng. Tất nhiên, họ không thể sống đủ đầy ở
hiện tại, bởi hiện tại mang trong mình bước đi của quá khứ. Hiện tại và quá
khứ đan xen nhau trong ý nghĩ rối bời của tôi, cũng đan xen trong sự hoán
đổi, là hiện tại nhưng cũng là quá khứ, rồi cũng có thể quá khứ là hiện tại.
Việc gặp gỡ giữa các nhận vật khi Đại ra tù và sự dịch chuyển tiêu cực trong
Nháp cùng với quãng thời gian trước đó đan xen trong nhiều lớp truyện, vừa
nối tiếp vừa chồng lên nhau, đôi khi có vẻ ngẫu nhiên chỉ bằng một mô hình:
kể - hồi cố - diễn giải; đồng thời người kể chuyện - nhân vật tôi không thay
đổi điểm nhìn mà truyện cho tôi chuyển dịch điểm nhìn của anh ta, lúc thì ở
bên ngoài lúc thì ở bên trong câu chuyện anh ta kể. Dịch chuyển đó thường
là sự hóa thân của tôi vào một nhân vật trong câu chuyện đang kể. Điều này
tạo nên dòng chảy miên man của câu chuyện với “lát cắt đủ dài” trong cuộc
đời dằng dặc của các nhân vật. Nhờ thế, người đọc không hẳn là nghe kể
chuyện nữa và như đang cảm dòng tâm tư của nhân vật, đang thấy họ sống
trước mắt mình.
Giọng hoài niệm thường gắn liền với hồi ức, ảo giác, ẩn ức, chiêm
bao… nhằm phơi mở những miền sâu kín của tâm hồn, kể cả vùng nằm
ngoài sự kiểm soát của lí trí. Tác phẩm như dòng chảy ào ạt của kí ức. Đó là
một dòng ý thức tràn ngập những đam mê, hồi ức, sám hối, ám ảnh, giấc mơ
và cả sự mộng du.
89
Trong Phiên bản, sự phân chia đánh dấu truyện thành các khúc chỉ là
bố cục bề mặt của tác phẩm. Với ba ngôi kể: Ta - Em - Thị thì thực chất cái
kết cấu bề sâu, ẩn chìm chính là dòng chảy hồi ức của nhân vật “em”. Trong
truyện, thời gian không theo bất cứ một trật tự nào, các khúc cũng sắp xếp
một cách như ngẫu nhiên, góp nhặt nhưng lại rất phù hợp với tâm lý nhân
vật, là thời gian theo cái nhìn bên trong của Diệu.
Cũng như Nháp, thời gian trong Phiên bản bắt đầu ở thời điểm hiện
tại, với sự mờ ảo trong khúc kể của ngôi Ta, với dáng dấp của một cuộc hỏi
cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Đó là hoài nghi: “Ta là ai?”.
Đó cũng là khởi đầu của việc đào xới lại kí ức. Trên hành trình tìm câu trả
lời, tất cả quá khứ hiện lên dưới nhiều lăng kính qua ba ngôi kể, từ đó phác
lộ kí ức, bức chân dung của Diệu hay Hương ga. Nhân vật Em với dòng
chảy nội tâm dào dạt đã hướng sự chú ý của người đọc vào bi kịch bên trong
của Thị. Rõ ràng chỉ khi con người cô đơn nó mới sống với mình nhiều như
thế cùng dòng tâm tư luôn là những dằn vặt, ngờ vực, đớn đau…
Nhìn chung, truyện Nguyễn Đình Tú ngay cả trong cách kể phi tuyến
tính thì mạch kể cứ bện xoắn vào nhau theo kiểu đồng hiện kép, song song
xen lẫn quá khứ với hiện tại. Vì vậy, giọng hoài niệm thường song hành với
thời gian dịch chuyển theo “gia tốc” ngược: hiện tại - quá khứ hoàn thành -
quá khứ - hiện tại tiếp diễn. Nỗ lực “đi tìm thời gian đã mất” đã tái hiện chân
xác chân dung “con người bên trong con người”, rút ngắn tối đa khoảng
cách giữa nhân vật và người đọc.
Đánh dấu như từng chương mục nhưng Kín để chất liệu cuộc sống
ngồn ngộn ùa vào, thậm chí thời gian bị lộn trái chiều trong dòng ý thức của
Quỳnh. Từ sự nổi loạn, Quỳnh bứt ra khỏi cuộc sống ngột ngạt, đi tìm cho
mình quãng kí ức xưa. Cũng từ đó, hành trình hoàn ức của Quỳnh mở ra cả
thế giới ngồn ngồn hỉ, nộ, ái, ố của những vòng tròn mồ côi. Trong Kín,
người viết để cho các tuyến nhân vật di chuyển đan bện vào nhau, các sự
90
kiện đẩy đưa theo chiều quá khứ - hiện tại, các nhân vật va chạm và xung
đột. Đọng lại mạch chảy xuyên suốt là những dòng ký ức của cô bé Lửa
Cháy.
Có thể thấy, với giọng hoài niệm, Nguyễn Đình Tú đã chạm vào thế
giới tâm linh và phơi mở trước mắt người đọc những miền sâu kín của tâm
hồn, miền vô thức của con người. Đó cũng là cách diễn đạt mới của nhà văn
về con người và hiện thực cuộc sống nhiều xô bồ, đảo lộn với chân dung
phức tạp.
* Giọng điệu vô âm sắc
Giọng điệu vô âm sắc là cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang
tính hành vi. Kiểu giọng này phần lớn là trần thuật ở ngôi thứ ba mang tính
chất trung tính, thiếu điểm nhìn bên trong. Người kể chuyện với thái độ
dửng dưng khi chỉ tái hiện sự việc hay hành động bên ngoài. Nhân vật của
Nguyễn Đình Tú là những tâm hồn méo mó trong xã hội rối bời. Điểm nhìn
trong tiểu thuyết của anh liên tục chuyển đổi. Đó là những câu chuyện mà
nhân vật thay nhau kể, bộc bạch. Người kể chuyện ngôi thứ ba đứng ngoài
kể lại với giọng điệu vô âm sắc. Tất cả nhằm tô đậm thế giới khép kín, phần
nào khủng hoảng về tâm trạng, niềm tin.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú, giọng vô âm sắc do người kể
chuyện cố ý bẻ vụn câu văn và kìm nén âm giọng. Các câu văn vô âm sắc
thường ngắn gọn, những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm bị triệt tiêu. Người
kể chuyện thậm chí lược bỏ lời chỉ dẫn khi kể lại các đoạn thoại của nhân
vật hay bỏ cả chủ thể phát ngôn: “Tôi hỏi một cách thờ ơ: “Thảo nào?”.
“Một cô bạn gái của tớ.” “Người yêu à?”. “Không…”. “Đang tán tỉnh à?”.
“Không…”. “Bạn bình thường thôi chứ gì?”. “Không…”. “Cô ấy không
muốn nhận à?”. “Không phải”[115, tr.20-21]. Trong trường hợp này, đoạn
đối thoại của hai nhân vật giản lược đến mức tối đa. Đó là đối thoại rời rạc,
mỗi người giao tiếp theo đuổi một ý nghĩ riêng.
91
Chú trọng đề cập đến nỗi cô đơn, đến các mối quan hệ riêng của con
người hiện đại, suốt chiều dài câu chuyện, đôi lúc là giọng điệu trống rỗng,
vô cảm do người kể chuyện không dừng lại để tả hay bình luận, chẳng hạn:
“Tuấn chợ trần truồng, nằm quay đơ dưới chân giường. Em nửa nằm nửa
ngồi trên giường, cặp đùi trắng nhờn nhợt. Mùi rượu bốc lên nồng nặc”
[117, tr.229] hay: “Chẳng còn dấu vết gì cả. Chiếc khăn lau đã được giặt
sạch tinh. Lớp da bọc ghế lạnh tanh, sáng bóng như chưa hề có một sự ân ái
nào từng diễn ra ở đây”[115, tr.80]. Ở đây, giọng điệu trần thuật vô âm sắc
góp phần làm nổi rõ một hiện thực phân rã, vỡ vụn, phi trật tự, qua đó làm
nổi lên trạng thái cô đơn của con người. Câu chữ không màu mè, không quá
trau chuốt mà trở nên vô cảm, như một lưỡi dao mổ lạnh lùng lách vào sâu
thẳm tâm hồn nhân vật.
Người kể chuyện với thái độ lãnh đạm, dửng dưng khi chỉ tái hiện sự
việc hay những hành động bên ngoài. Họ hụt hẫng, không tìm thấy chỗ tựa
về mặt tinh thần trong một cuộc sống phi lí, xơ cứng về tâm hồn. Cảm thức
về cái phi lí, sự đổ vỡ đã chi phối giọng điệu tiểu thuyết: “Để nguyên thân
thể mát rượi như thế cô nhảy lên giường với tôi. “Anh mang bao chưa?”.
“Từ từ đã chứ”. Đôi vú bánh dầy khá căng. Thân hình lẳn. Cặp đùi hơi
ngắn. Khuôn mặt hơi bầu bĩnh và đôi mắt có những ánh nhìn rất trẻ. Đủ
hứng thú. Tôi lao vào cô gái. Nhưng cô không hào hứng lắm với giai đoạn
khởi đầu. Cô lại hỏi tôi “Bao đâu?”. Tôi đứng dậy lục túi quần lấy condom
đưa cho cô ta. Rất nhanh, cô lấy nó ra khỏi lớp túi bằng giấy bạc (…). Ngay
khi tôi dừng lại, lập tức cô gái buông tôi ra, tay cô đưa xuống nắn đầu bao
cao su. Chắc chắn đã đáng đồng tiền cho sự nhàu nhò tấm thân của mình
rồi, cô nhảy ngay xuống giường, tót vào nhà tắm” 116, tr.174].
Giọng điệu vô âm sắc trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú còn thể hiện
những rạn nứt đáng sợ trong đời sống giao tiếp hiện đại: Con người nói với
92
nhau nhưng không hề hiểu nhau. Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ chỉ là
cái vỏ rỗng không, phi giao tiếp:
“Hôm nay em có một thông tin cho anh?
Em quyết định lấy Jack?
Vâng.
Anh tưởng thủ tục lâu như thế, đủ để em suy nghĩ lại?
Ngay cả khi lấy Jack rồi em vẫn có thể suy nghĩ lại.
Vậy hôm nay là ngày chúng ta chính thức nói lời chia tay.”[115, tr.92]
Ngôn ngữ trần thuật nhiều lúc thiên về khả năng dung chứa thông tin,
khả năng phản ánh hơn là khả năng biểu cảm: “Lớp bụng ấy chà xát lên
phần rốn của Quỳnh. Nửa dưới thân thể Quỳnh trở nên nóng ran. Cặp đùi
của chàng sinh viên gia sư khá mềm. Cánh tay anh ta dài ngoằng và nhiều
gân xanh. Ngực anh ta mảnh. Mọi sự cọ xát đều không tự tin. Nhưng anh ta
khá dẻo dai và không phải không biết cách thỏa mãn Quỳnh. Chỉ có điều
anh ta luôn đóng vai là con bò đực để người dắt sợi dây thừng là Quỳnh”
[116, tr.177].
Trên đây là những giọng điệu đa âm luôn có sự hòa kết trong thế giới
nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Bốn sắc giọng chủ yếu này đã góp
phần không nhỏ tạo nên một nét phong cách của anh so với những nhà văn
trẻ thành danh với đề tài tính dục trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
93
Tiểu kết chương 3
Tiểu thuyết luôn là thể loại biến động mạnh nhất về hình thức nghệ
thuật. Một tác phẩm tiểu thuyết thành công phải là sự kết hợp hài hoà nhuần
nhuyễn giữa nội dung với hình thức. Với nội dung ở chương 2, dưới góc
nhìn Phân tâm học, bút pháp nghệ thuật thiên biến vạn hoá của Nguyễn Đình
Tú đã truyền tải sắc nét, rõ ràng, đầy đủ và chính xác ý đồ của nhà văn.
Người viết nhận thấy Nguyễn Đình Tú là một trong những tác giả chú trọng
và đạt được những thành công không nhỏ trong việc tìm tòi, sáng tạo nghệ
thuật trong tiểu thuyết trên nhiều phương diện như xây dựng biểu tượng, xây
dựng thế giới vô thức của nhân vật và sử dụng ngôn ngữ giọng điệu mang
dấu ấn Phân tâm học. Những khía cạnh này liên quan mật thiết với nhau,
chúng thống nhất hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên dấu ấn nghệ thuật tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú. Nếu như Nguyễn Bình Phương đã khéo léo sử dụng
bút pháp huyền thoại hoá, đặt nhân vật trong những bối cảnh đặc biệt để
nhân vật tự bộc lộ mình, bình thường hoá những hành vi bất thường, không
khoa trương, ngoa ngôn về những hành vi phi lý thì Nguyễn Đình Tú khai
thác triệt để những kiến thức về tâm lí học tội phạm, hiểu biết về tâm lý bản
năng của con người cùng những tình cảm, tấm lòng trắc ẩn dành cho một bộ
phận không nhỏ những số phận bất hạnh, lạc loài dưới đáy xã hội, bên lề
cuộc đời để nhân vật được bộc lộ mình, lý giải nguyên nhân hình thành nên
hành động tính cách của mình. Nguyễn Đình Tú đã để các nhân vật vừa
tương tác với nhau, vừa độc lập như những “tiểu vũ trụ” để thể hiện nội tâm,
thể hiện thế giới vô thức “bất khả tri” của mình.
Soi chiếu nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới góc nhìn Phân
tâm học đã góp phần khám phá những đóng góp mới mẻ của tác giả trong
lâu đài tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
94
KẾT LUẬN
1. Phân tâm học kể từ khi S.Freud sáng lập cho đến nay đã tác động
nhiều mặt tới đời sống con người. Nó đã góp phần đi tìm những ẩn số trong
đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Đình Tú là cây bút thuộc thế hệ 7x,
một cây bút đa tài, sáng tác ở nhiều đề tài, nhiều thể loại khác nhau. Và ở thể
loại nào, tác phẩm của anh cũng gây được những dấu ấn sâu sắc trong lòng
độc giả. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi, đổi mới “đứa con tinh thần” của
mình, tác phẩm Nguyễn Đình Tú luôn tạo nên những luồng dư luận nhiều
chiều, khen có, chê có, thích thú có, ghê sợ có… Bởi vậy mà các tác phẩm
của Nguyễn Đình Tú luôn “nóng hổi” và có sức hút đối với người nghiên
cứu. Qua đây có thể khẳng định Nguyễn Đình Tú là một nhà văn trẻ dũng
cảm đã dám khai phá một lối đi riêng đầy nhọc nhằn và bước đầu gặt hái
được những thành công. Trong văn học Việt Nam đương đại, không phải ai
cũng đủ tài, đủ tâm và sự dũng cảm để mở ra một con đường đi được ghi
nhận trong sáng tác như thế. Để đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện diện
mạo của nền văn học này cần áp dụng nhiều phương pháp, cách thức, học
thuyết. Trong số đó, hướng tiếp cận văn chương từ góc nhìn phân tâm học
ngày càng được chú ý. Đặt tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú dưới ánh sáng phân
tâm học, người viết có cơ sở khoa học để soi sáng các giá trị, chỉ ra các ưu
điểm, nhược điểm trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Việc vận dụng lí
thuyết Phân tâm học vào việc nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú là một
cách tiếp cận và khám phá giá trị tư tưởng cùng những đóng góp nghệ thuật
của nhà văn. Bởi vậy đề tài có ý nghĩa lý luận sâu sắc.
2. Dấu ấn Phân tâm học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú thể hiện rất
rõ nét từ nhận thức về hiện thực và về con người; về quan niệm khám phá,
đánh giá con người mà trong đó yếu tố vô thức và tình dục được khai thác
triệt để. Đây là một sự cách tân, đổi mới mạnh mẽ của nhà văn so với tiểu
thuyết giai đoạn trước đó.
95
Nghiên cứu dấu ấn Phân tâm học qua cái nhìn hiện thực trong tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú, tác giả luận văn không chỉ nghiên cứu hiện thực với
tư cách là không gian sống, không gian tồn tại đơn thuần của con người mà
muốn tìm hiểu nó với tư cách là nền tảng, nguyên nhân, nguồn gốc hình
thành nên những ẩn ức cá nhân của nhân vật. Không gian trong tiểu thuyết
Nguyễn Đình Tú đa dạng, muôn màu muôn vẻ với những mảng hiện thực
sáng-tối rõ rệt. Con người sinh sống và tồn tại trong không gian ấy thường
mang những hoàn cảnh, số phận éo le, nó là nguyên nhân trực tiếp hình
thành nên những ẩn ức cá nhân. Hiện thực đó còn là hiện thực của giấc mơ,
hiện thực phi lí, nơi ẩn chứa hay bộc lộ rõ ràng nhất những ẩn ức của nhân
vật, qua đó thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Hiện thực tâm linh gắn
liền với những tín ngưỡng tôn giáo là nơi cứu rỗi linh hồn mỗi con người khi
lầm đường lạc lối. Không gian tâm linh còn khẳng định bản tính thiện luôn
tồn tại trong mỗi con người. Đây là một khía cạnh thể hiện tính nhân văn của
ngòi bút Nguyễn Đình Tú.
3. Khi đi tìm hiểu, khám phá nhân vật trong tiểu thuyết của mình,
Nguyễn Đình Tú đã chú trọng đi sâu vào cõi vô thức, bản năng của con
người để khám phá cái “tiểu vũ trụ” đầy bí ẩn ấy. Qua khảo sát bốn tiểu
thuyết trên và vận dụng lý thuyết Phân tâm học, người viết khai thác con
người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú ở những khía cạnh: Con người bản
năng; Con người ẩn ức, mặc cảm, cô đơn; Con người thần kinh, đa nhân
cách. Khám phá con người ở nhiều góc độ dưới ánh sáng của Phân tâm học
giúp nhà văn thể hiện được chiều sâu trong mỗi nhân vật. Đồng thời góp một
cái nhìn mới mẻ, chân thực, toàn diện về con người hiện đại. Anh đã đào sâu
những vấn đề bức xúc của giới trẻ hiện nay, đặt ra những câu hỏi lớn của
giới trẻ hiện đại: Phải sống làm sao? Sống thế nào từ đó gợi hướng trả lời
cho những câu hỏi đó. Đặc biệt là vấn đề tình dục và quan hệ tình dục ở giới
trẻ hiện nay, vừa có những cái lệch lạc, bệnh hoạn vừa có những khát khao
nhu cầu chính đáng, trong sáng, lành mạnh. Phản ánh những vấn đề nóng hổi
96
có tính thời sự ấy góp phần trả lời những câu hỏi bức xúc của dư luận về đời
sống của lớp trẻ và sự xuống cấp của văn hoá hiện nay cũng như đi tìm
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng ấy thì Nguyễn Đình Tú không chỉ thể hiện
tài năng nghệ thuật của mình mà còn thể hiện trách nhiệm công dân của nhà
văn trước những vấn đề nhức nhối đang tồn tại trong xã hội hiện nay.
Việc nhìn nhận con người dưới ánh sáng lý thuyết Phân tâm học đã
khẳng định tài năng của nhà văn bởi tất cả những vấn đề trên đã được xây
dựng thành những hình tượng sống, ám ảnh. Đặc biệt, dấu ấn của Phân tâm
học trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú cho thấy một sự lựa chọn trúng và
đúng của nhà văn. Bởi vấn đề tính dục là vấn đề nhạy cảm trong xã hội
phương Đông nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng. Mặc dù không có
tuyên ngôn, nhưng dường như tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú đã phản ánh một
“cuộc cách mạng tình dục” của lớp trẻ. Hơn hết, nhà văn đã trung thực và
dũng cảm phản ánh những góc khuất ít được các nhà văn khác đào sâu khai
thác: Đó là vấn đề tính dục và quan niệm về tính dục của một bộ phận không
nhỏ trong lớp trẻ hiện nay.
Như vậy, nhìn nhận con người từ lý thuyết Phân tâm học là một
hướng đi đầy táo bạo và ý nghĩa của nhà văn trong dòng văn học Việt Nam
đương đại.
4. Dấu ấn Phân tâm học còn chi phối mạnh mẽ tới bút pháp nghệ thuật
của nhà văn. Nguyễn Đình Tú đã công phu trong việc xây dựng nhân vật
bằng nhiều thủ pháp để từ đó nhân vật bộc lộ tính cách, nội tâm, hành vi,
thông qua đối thoại và độc thoại để lột tả nội tâm nhân vật. Nhà văn bộc lộ
sự am hiểu tâm lý con người hiện đại thông qua việc lựa chọn và sử dụng
ngôn ngữ đối thoại, độc thoại. Đi sâu vào việc phân tích diễn biến tâm lý
nhân vật để lý giải nhất cử nhất động của họ. Hệ thống giọng điệu và ngôn
ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú rất đa dạng và phong phú. Những
97
khám phá nghệ thuật của Nguyễn Đình Tú đã mang dấu hiệu cách tân rõ rệt
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
5. Triển khai đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn Phân
tâm học”, người viết đã liên hệ, so sánh với các tiểu thuyết khác của anh
cũng như những tiểu thuyết của các nhà văn khác như Nguyễn Bình Phương,
Uông Triều....để thấy điểm chung và nét khác biệt trong cách nhìn nhận,
khám phá và thể hiện con người. Từ đó để thấy rõ hơn sự tìm tòi, sáng tạo
của Nguyễn Đình Tú. Mặc dù tiểu thuyết của anh còn nhiều hạn chế như
việc chỉ phản ánh một bộ phận giới trẻ hiện nay với đời sống tinh thần
khủng hoảng, mất phương hướng; chỉ đi sâu vào truy tìm nguyên nhân, gốc
tích của tội lỗi mà không tìm ra lối thoát cho họ khiến các tác phẩm có phần
nặng nề, bi quan. Song không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của anh
đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu An (2011), Đừng vội tin khán giả, Nguồn: antgct.cand.com.vn,
ngày 20/01/2011.
2. Hoàng Anh (2008), Nháp hay là một sự xới xáo đáng trân trọng,
http://evan.vnexpress.net/, ngày 17/10/2008.
3. Hồ Huy Hoàng Anh (2008), Nguyễn Đình Tú và "Nháp", Nguồn:
tienphong.vn, ngày 16/09/2008.
4. Nguyễn Thị Lan Anh (2010), Vô thức nhân vật trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ Phân tâm học, Luận văn Thạc sĩ khoa
học Ngữ văn, Trường ĐHSPHN, Hà Nội.
5. Mai Anh (2011), Tiểu thuyết trẻ nhiều nhưng thiếu sức nặng, Nguồn:
baomoi.com, ngày 22/07/2011.
6. Quang Anh (2009), Phiên bản = bạo lực + sex?, Nguồn: tienphong.vn,
ngày 15/11/2009.
7. Nghiêm Tuấn Anh (2010), Phiên bản - Những mảnh tối cuộc đời,
Nguồn: nxbcand.vn, ngày 26/11/2010.
8. Nguyễn Hoàng Tuệ Anh, “Từ góc độ triết học bàn về một số vấn đề
cơ bản của văn học Phương Tây hiện đại”, Tạp chí Triết học, số 5, 1999.
9. Thái Phan Vàng Anh (2010), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ
góc nhìn hậu hiện đại, Nguồn: http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-
cuu/tieu_thuyet_viet_nam_dau_the_ki_xxi_goc_nhin_hau_hien_dai-4.html,
ngày 14/09/2010.
10. Thái Phan Vàng Anh (2011), "Lạ hóa" và những thể nghiệm của tiểu
thuyết đầu thế khỉ XXI, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn.
11. Thái Phan Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, Nguồn: vanhoanghean.vn, ngày 19/12/2010.
99
12. Vũ Anh (2008), Thời của "Tiểu thuyết trẻ"?, Nguồn: baomoi.com,
ngày 18/12/2008.
13. Trâm Anh (2010), "Lạ hóa" văn chương - Tất yếu hay làm khó?,
Nguồn: suckhoedoisong.vn, ngày 01/11.2010.
14. Thủy Anna (2009), Trình ra ba "phiên bản" về một con người, Nguồn:
baomoi.com, ngày 15/10/2009.
15. Thủy Anna (2010), Một không gian Kín đầy khoái cảm sex,Nguồn:
nguyentrongtao.org.
16. M.Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn.
17. “Báo cáo của Hội đồng chung khảo tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt
Nam 1998-2000 (2001)”, Tạp chí văn nghệ quân đội, 10/2001.
18. Báo cáo tổng kết cuộc thi tiểu thuyết 2002- 2004 của Hội Nhà văn
Việt Nam (2005), Báo văn nghệ số 37, 10/2005.
19. Báo cáo tổng kết văn học 5 năm 2000- 2004 của Ban chấp hành Hội
Nhà văn Việt Nam (2005), Diễn đàn văn nghệ Việt Nam tháng 4 năm 2005.
20. Lê Huy Bắc (2013), Chí Phèo dưới cái nhìn Phân tâm học,
http://nguvan.hnue.edu.vn, ngày 21/05/2013.
21. Nguyễn Thị Bình (2008), "Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại", Tạp chí văn học, số 5/2008.
22. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau năm 1975, Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ Văn, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975, một
cái nhìn khái quát”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 2, 2007.
24. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết nước ta từ
thời điểm đổi mới đến nay, Báo cáo đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
100
25. Nguyễn Trọng Bình (2010), Văn chương trẻ - rất cần một chiều sâu và
tầm nhìn văn hóa, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày 29/09/2010.
26. Nguyễn Lệ Chi (2011), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Tôi muốn xây
dựng hình ảnh nữ giang hồ thời đại mới, Nguồn: nguyenlechi.vn
27. Nguyễn Xuân Diện (2011), Viết về người lính, còn mấy mặn mà?,
Nguồn: suckhoedoisong, ngày 27/08/2011.
28. Đoàn Ánh Dương (2009), Phiên bản hay một hồ sơ thanh tẩy,
evan.vnexpress, ngày 30/11/2009.
29. Trần Đan (2010), Đi tìm tiểu thuyết Việt Nam, Nguồn:
thanhnien.com.vn.
30. Trần Minh Đức (2009), Bàn về khía cạnh trần thuật trong tiểu thuyết,
http://www.talawas.org/?p=14131, ngày 30/11/2009.
31. Cát Đường (2011), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: lập đường dây nóng
trên sách, http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-van-nguyen-dinh-tu-lap-
duong-day-nong-tren-sach-n20110209102314552.htm, ngày 09/02/2011.
32. Cúc Đương (2010), Tiểu thuyết Việt Nam… chưa hết,
http://thethaovanhoa.vn/bong-da/tieu-thuyet-viet-nam-chua-chet-
n20101222110821629.htm, ngày 22/12/2010.
33. Đặng Anh Đào (1999), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương tây
hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Lam Điền (2005), Cuộc sống đặt hàng gì ở nhà văn, Nguồn:
vietbao.vn.
35. Phong Điệp (2011), Nguyễn Đình Tú đang mạo hiểm với sách điện tử
Việt Nam?, Nguồn: phongdiep.net.
36. Phong Điệp (2010), Tiểu thuyết Việt Nam: đang chuyển động không
nhỏ, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn
101
37. Hương Giang (2010), Nhà văn Nguyễn Đình Tú 3 năm ra 3 tiểu
thuyết, Nguồn:http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-van-nguyen-dinh-tu-3-
nam-ra-3-tieu-thuyet-n20101026103104852.htm, ngày 26/10/2010.
38. Hương Giang (2010), Nháp - tiểu thuyết mới của Nguyễn Đình Tú,
Wesite:http://yume.vn/nhap-tieu-thuyet-moi-cua-nguyen-dinh-tu-
35ad49a7.html, ngày 04/04/2009.
39. Văn Giá (2017), Thứ nhận diện tiểu tiểu thuyết ngắn của Việt Nam
vần đây, Nguồn: evan.vnexpress.vn
40. Cao Thị Hà (2007), Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Hà Nội.
41. Lưu Hà (2005), Bốn tác phẩm đạt giải A cuộc thi tiểu thuyết lần II,
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/4-tac-pham-doat-giai-
a-cuoc-thi-tieu-thuyet-lan-ii-1885351.html , ngày 25/08/2005.
42. Lưu Hà (2005), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại chưa có thương hiệu,
Nguồn: evan.vnexpress.vn.
43. Ngân Hà (2010), Cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam lần
thứ 3: Không có đột phá, Nguồn: tonvinhvanhoadoc.vn, ngày 21/12/2010.
44. Võ Thị Xuân Hà (2008), Nháp - không chỉ là một thông điệp lạnh
lùng… Lao động - Thứ Sáu, 19.9.2008.
45. Võ Thị Xuân Hà (2008), Nguyễn Đình Tú: Nháp không chỉ là sex và
giết người, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-dinh-tu-
nhap-khong-chi-co-sex-va-giet-nguoi-2138569.html, ngày 17/09/2008.
46. Nguyễn Mạnh Hà (2009), Tư duy tiểu thuyết - khái niệm của hệ hình,
http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=884&so=9, số
147/06/2009
102
47. Ngân Hà (2011), Văn học trẻ 2010 văn xuôi lấn át thơ,
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Van-hoc-tre-2010-Van-
xuoi-lan-at-tho-4661.html, ngày 01/04/2011
48. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (2006), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Võ Thị Hảo (2005), Tôi lạc quan hơn ở tiểu thuyết,
http://pda.vietbao.vn/Van-hoa/Vo-Thi-Hao-Toi-lac-quan-ve-tieu-thuyet-
Viet-Nam/20499009/103/, ngày 12/10/2005.
50. Đào Huy Hiệp (2010), Độ dài và cấu trức tiểu thuyết, Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/do-dai-va-cau-truc-tieu-
thuyet-2141548.html, ngày 19/08/2005.
51. Lê Quốc Hiếu (2011), Kín - Cảm thức về thân phận lạc loài hoang
hoải của Nguyễn Đình Tú, http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-
nam/tac-pham-va-du-luan/2595-kin-cam-thuc-ve-than-phan-lac-loai-hoang-
hoai-cua-nguyen-dinh-tu.html.
52. Hoàng Hoa (2010), Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Kín, Nguồn:
www.baomoi.com, ngày 29/10/2010.
53. Nguyễn Chí Hoan (2008), Dịch chuyển tiêu cực trong tiểu thuyết
Nháp, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/dich-chuyen-
tieu-cuc-trong-tieu-thuyet-nhap-1971991.html, ngày 29/09/2009.
54. Nguyễn Ngọc Hoàn (2009), Tại sao ông Bùi Công Thuấn lại khiếp sợ
Nháp đến thế?, Nguồn: phongdiep.net
55. Hội thảo “Văn học đương đại dưới cái nhìn Phân tâm học”, Yếu tố kì
ảo trong Nháp của Nguyễn Đình Tú,
https://www.facebook.com/476849869097120/photos/a.477722962343144.1
073741828.476849869097120/488962751219165/?type=1&theater
103
56. Nguyễn Trí Huân (2001), Báo cáo giải thưởng năm 2001 của hội đồng
chung khảo, Báo văn nghệ số 10 năm 2003.
57. Lê Huệ (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: "Hot" nhưng phải văn học,
Báo thanh niên Việt Nam.
58. Quang Hưng (2010), Đọc Kín của Nguyễn Đình Tú, Nguồn:
http://danviet.vn/tin-tuc/doc-34kin34-cua-nguyen-dinh-tu-5097.html, ngày
11/11/2010.
59. Hoài Hương (2011), Nháp hay là sự yếm thế tâm hồn con người, phụ
lục Nháp, Nxb Thanh niên.
60. Hoài Hương (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên
bản: Tội ác mang khuôn mặt đàn bà?,
http://hoaikhanh.vnweblogs.com/a201460/nha-van-nguyen-dinh-tu-va-tieu-
thuyet-phien-ban-toi-ac-mang-khuon-mat-dan-ba.html, ngày 04/12/2009
61. Phí Thủy Hương (2010), Kín - "Có bột chưa gột nên hồ" hay "cái
bánh văn chương của Nguyễn Đình Tú"? , http://tonvinhvanhoadoc.vn/tin-
tuc-su-kien/van-de-binh-luan/1843-kin-qco-bot-chua-got-nen-hoq-hay-qcai-
banh-van-chuong-cua-nguyen-dinh-tuq.html
62. Hoa Tử Huyền (2009), Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Phiên bản,
Nguồn: http://trannhuong.net/tin-tuc-2488/nha-van-nguyen-dinh-tu-va-tieu-
thuyet--phien-ban.vhtm, ngày 17/10/2009.
63. Thương Huyền (2010), Trao giải Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 Hội
nhà văn Việt Nam, Nguồn: baomoi.com, ngày 21/12/2010.
64. http://www.banvannghe.com/a447/van-hoc-trong-nuoc-tieu-thuyet-
nguyen-dinh-tu.
104
65. Inrasara (2011), Kín - Chấm dứt một hàn trình mở ra một hành trình
khác, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/kin-cham-
dut-mot-hanh-trinh-mo-ra-hanh-trinh-khac-1971052.html, ngày 24/10/2011
66. Ma Văn Kháng (2009), Phiên bản hay tính thiện và ác của con người,
Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phien-ban-hay-tinh-
thien-va-tinh-ac-cua-con-nguoi-1971960.html, ngày 19/10/2009.
67. Hoàng Đăng Khoa (2013), "Kín của Nguyễn Đình Tú và "câu hỏi lớn
về cái gọi là khiếp người", Nguồn: https://www.facebook.com/
476849869097120/photos/a.477722962343144.1073741828.4768498690971
20/498853296896777/?type=1&theater, ngày 23/12/2013.
68. Đình Khôi (2008), Nháp, từ một cuộc sống phàm phũ đến dự cảm văn
chương, http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/
69. Mai Đình Khôi, Nháp hay văn chương dành cho giới trẻ?, Nguồn:
tuanvietnam.vietnamnet.vn.
70. Trần Hoàng Thiên Kim (2010), Các nhà văn trẻ: thổi lường khí mới
"vào đề tài an ninh, Nguồn: http://cand.com.vn/van-hoa/Cac-nha-van-tre-
thoi-luong-khi-moi-vao-de-tai-An-ninh-170926/, ngày 12/12/2010.
71. Nhân Kiệt (2008), Tiểu thuyết của các nhà văn cấp úy, Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/tieu-thuyet-cua-cac-nha-
van-cap-uy-2137673.html, ngày 16/06/2009.
72. Trần Hoàng Thiên Kim (2003), Nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú và "Hồ
sơ một tử tù", Nguồn: http://pda.vietbao.vn/Van-hoa/Nha-van-tre-Nguyen-
Dinh-Tu-va-Ho-so-mot-tu-tu/410008195/181/, ngày 29/11/2003.
73. Phong Lan (2010), Nguyễn Đình Tú hé lộ chuyện Kín, Nguồn:
http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/tac-gia-tre/1835-nguyen-dinh-tu-he-
lo-chuyen-kin.html
105
74. Chu Lai (2008), Một bút pháp táo tợn và dịu dàng, Phụ lục Nháp, nxb
Thanh niên, 2011.
75. Ngô Tự Lập (2011), Thế hệ Nháp, Phụ lục Nháp, nxb Thanh niên.
76. Nguyễn Hữu Liêm, Freud và huyền thoại vô thức,
http://taophunghoiquan.blogspot.com/2012/09/freud-va-huyen-thoai-vo-
thuc.html, ngày 09/09/2012.
77. Diệu Linh (2010), Nguyễn Đình Tú: Bạn sẽ không chết chìm trong
"Kín", Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-
dinh-tu-ban-doc-se-khong-chet-chim-trong-kin-2136263.html, ngày
25/10/2010.
78. Phạm Thùy Linh (2010), "Phiên bản - Góc tiếp cận nhân văn", Báo
Hải Phòng cuối tuần.
79. Trần Tố Loan (2008), Một cái cách nhìn khác về Nháp, Nguồn:
evan.vnexpress.vn.
80. Trần Tố Loan (2010), Điển hình nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn
Đình Tú, Nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-tre/360-do-x/1585-
diem-nhin-nghe-thuat-trong-tieu-thuyet-nguyen-dinh-tu.html
81. Phương Lựu, “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật”,
Tạp chí văn học, số 2, 2001.
82. Phương Lựu (2004), Lí luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
83. Hoang Mai (2009), "Phiên bản" mới của nhà văn Nguyễn Đình Tú,
Nguồn: hanoimoi.com.vn
84. Ân Nam (2007), Nguyễn Đình Tú: Viết để sống chứ không viết để
chết, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-dinh-
tu-viet-de-song-chu-khong-viet-de-chet-2140376.html, ngày 07/02/2007.
106
85. Lương Nguyên (2008), Nháp và nỗi cô đơn khi…sex,
http://vietbao.vn/ Van-hoa/Nhap-va-noi-co-don-khi-sex/75193234/181/,
ngày 18/09/2008.
86. Lãm Nguyễn (2010), Kín - Cuộc tìm lối của người trẻ, Nguồn:
dulich.tuoitre.vn
87. Hoang Thị Nhạn (2009), Những tìm tòi về thể nghiệm tiểu thuyết của
những cây bút trẻ Việt Nam đương đại, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn,
Hà Nội.
88. Nguyễn Thị Hải Phương (2010), Kiểu cốt truyện phân mảnh trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Nguồn: Hội thảo khoa học trẻ I- Khoa Ngữ
văn ĐHSP Hà Nội.
89. Tú Phương (2008), Nguyễn Đình Tú và ám ảnh "Nháp", Nguồn:
cand.com
90. Vân Quế (2010), Nguyễn Đình Tú sẽ ngừng viết khi không còn ai chê,
Nguồn :http://anninhthudo.vn/giai-tri/se-ngung-viet-khi-khong-con-ai-
che/386532.antd, ngày 02/12/2010.
91. Nguyễn Hữu Quý (2010), Kín có bột chưa gột nên hồ, Nguồn:
http://vannghequandoi.com.vn/Diem-sach/Kin-Co-bot-nhung-chua-got-nen-
ho-4645.html, ngày 01/04/2011.
92. Nguyễn Hữu Quý (2007), 5 nhà văn cấp úy ở nhà số 4, Nguồn:
http://nguyenhuuquy.vnweblogs.com/a36308/5-nha-van-cap-uy-o-nha-so-
4.html, ngày 12/11/2007.
93. Nguyễn Hữu Quý (2009), Thế giới tội phạm trong "phiên bản" của
Nguyễn Đình Tú, Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.php?
story_fbid=503522409763199&id=476849869097120&substory_index=0,
ngày 01/01/2009.
107
94. Tiểu Quyên (2010), Kín - Những vòng tròn mồ côi, Nguồn:
http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/kin-nhung-vong-tron-mo-coi-
20101109013044119.htm, ngày 09/11/2010.
95. Trần Sáng (2008), Một vài suy nghĩ khi đọc Nháp, Nguồn:
lethieunhon.com
96. M.Stein (2001), Bản đồ tâm hồn con người của Jung, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
97. S.Freud (2001), Vật tổ và cấm kị, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
98. S.Freud (2002), Nhập môn phân tâm học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
99. S.Freud (2004), Nhập môn phân tâm học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
100. S.Freud (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nxb
Thế giới,, Hà Nội.
101. S.Freud (2010), Tâm lý học đám đông và sự phân tích cái tôi, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
102. Nga Sơn (2008), "Nhà văn Nguyễn Đình Tú: Nháp không phải là một
cuốn tiểu thuyết suy đồi", Tạp chí TTGD tháng 12/2008.
103. Nga Sơn (2009), Nhà văn Nguyễn Đình Tú: "Phiên bản" hay một cuộc
vượt thoát để tìm về bản ngã, Nguồn: http://www.baomoi.com/nha-van-
nguyen-dinh-tu-phien-ban-hay-mot-cuoc-vuot-thoat-de-tim-ve-ban-
nga/c/3458216.epi, ngày 08/11/2009.
104. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
105. Đoàn Minh Tâm (2008), Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp- một chặng
đường tiểu thuyết Nguyễn Minh Tú, Nguồn:
http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=1085&so=4
108
106. Đoàn Minh Tâm (2008), Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của Nháp,
Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nhung-yeu-to-tao-
nen-su-hap-dan-cua-tieu-thuyet-nhap-2138355.html, ngày 13/11/2008.
107. Đoàn Minh Tâm (2007), Tiểu thuyết của các cất bút trẻ - đọc và cảm
nhận, Nguồn: http://vietvan.vn/vi/bvct/id231/Tieu-thuyet-cua-cac-cay-but-
tre,-doc-va-cam-nhan/
108. Lê Nhật Tăng (2009), Phản biện sex trong "Nháp" của Nguyễn Đình
Tú, Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phan-bien-sex-
trong-nhap-cua-nguyen-dinh-tu-1972574.html, ngày 27/09/2008.
109. Nguyễn Thị Minh Thái (2010), Kín - một dòng tiểu thuyết miên man,
Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/kin-mot-dong-tieu-
thuyet-mien-man-1971348.html, ngày 23/11/2010.
110. Bùi Công Thuấn (2010), Nháp, sự tha hoá và vỏ bọc tri thức, Nguồn:
http://4phuong.net/ebook/48812762/nhap-su-tha-hoa-va-vo-boc-tri-
thuc.html
111. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn
hóa thông tin,Hà Nội.
112. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp ham muốn, Nxb Tri thức, Hà Nội.
113. Trần Văn Toàn (2007), Vấn đề tình dục trong VHVN qua truyện ngắn
Chí Phèo của nhà văm Nam Cao, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-
cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/5940-van-de-tinh-
duc-trong-van-hoc-viet-nam-tu-va-qua-truyen-ngan-chi-pheo-cua-nam-
cao.html , ngày 15/10/2016.
114. Trần Văn Toàn (2003), Về diễn ngôn tình dục trong văn xuôi Nghệ
thuật Việt Nam, http://toantransphn.blogspot.com/2015/02/dien-ngon-ve-
tinh-duc-trong-van-xuoi-hu_80.html
115. Nguyễn Đình Tú (2008), Nháp, Nxb Thanh Niên,Hà Nội.
109
116. Nguyễn Đình Tú (2010), Kín, Nxb Văn học, Hà Nội.
117. Nguyễn Đình Tú (2011), Phiên bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
118. Nguyễn Đình Tú (2013), Hoang tâm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
119. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
120. Vnexpress (2008), Nguyễn Đình Tú và những ám ảnh mang tên Nháp,
Nguồn:http://www.itaexpress.com.vn/tin_ita/th_thao_gi_i_tri/van_hoa_d_c/
nguy_n_dinh_tu_va_nh_ng_am_nh_mang_ten_nhap, ngày 02/10/2008.