ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG

TIỂU THUYẾT TRĂM NĂM CÔ ĐƠN CỦA

G.MARQUEZ DƢỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Mã số: 60220245

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Duy Hiệp

Hà Nội – 2015

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU __________________________________________________ 3 1. Lý do chọn đề tài ________________________________________ 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ________________________________ 4 1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ________________________ 12 3. Phƣơng pháp nghiên cứu _________________________________ 12 4. Đóng góp của luận văn __________________________________ 14 5. Cấu trúc đề tài _________________________________________ 14 CHƢƠNG 1. MACÔNĐÔ VỚI NHỮNG GIẤC MƠ ÁM ẢNH ____ 15 1.1 Ucsula với nỗi sợ tội loạn luân ___________________________ 15 1.1.1 Loạn luân và những giải thích cổ điển __________________ 16 1.1.2 Ucsula người phụ nữ luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân _____ 17

1.2. Hôsê Accađiô Buyênđya con ngƣời hai cá tính và giấc mơ về những phát minh khoa học _________________________________ 20 1.2.1 Hôsê Accađiô Buyênđya con người hai cá tính cô đơn trong nỗi ám ảnh về tội lỗi trong quá khứ ____________________________ 20 1.2.2 Hôsê Accađiô Buyênđya trăn trở về những phát minh khoa học __23

1.3. Cuộc đời chinh chiến của Aurêlianô và những nỗi ám ảnh về những lời tiên tri _________________________________________ 26 1.3.1 Cuộc đời chinh chiến ________________________________ 26 1.3.2 Nỗi ám ảnh về những lời tiên tri ______________________ 29 Tiểu kết: ________________________________________________ 31 CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT CÔ ĐƠN BỊ ÁM ẢNH TÍNH DỤC _____ 32

2.1. Vấn đề tình yêu, tính dục trong sáng tác của Gabriel Garcia Marquez ________________________________________________ 34 2.2. Yếu tố tính dục trong tác phẩm Trăm năm cô đơn _________ 38 2.2.1 Macondo không gian mang tính dục ___________________ 38 2.2.2. Nhân vật mang tính dục, mối quan hệ chằng chéo giữa những người cận huyết _________________________________________ 44 2.2.3 Rêmêđiốt – người đẹp nhân vật miễn dịch với tính dục giữa thế giới đầy dục tình ___________________________________________ 51 Tiểu kết: ________________________________________________ 53 CHƢƠNG 3. VÔ THỨC TẬP THỂ TRONG ___________________ 55 TRĂM NĂM CÔ ĐƠN ______________________________________ 55 3.1 Vô thức một vấn đề khoa học ____________________________ 56 3.2. Vô thức trong vấn đề sáng tạo văn chƣơng ________________ 57 3.3 Vô thức của tập thể trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn ______ 61

1

3.3.1. Những ám ảnh về thực tại khách quan của Gabriel Garcia Marquez _______________________________________________ 61 3.3.2. Bi kịch trong dòng họ Buyênđya một nỗi ẩn ức vô thức ____ 63 3.3.3. Vô thức giữa cái bản ngã, bất lực dồn nén trong tình yêu __ 68

2

Tiểu kết: ________________________________________________ 72 KẾT LUẬN _______________________________________________ 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ___________________________________ 75

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lời giới thiệu đầu sách Trăm năm cô đơn, Nguyễn Trung Đức

từng viết: “Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất

của Gabriel Garcia Marquez, nhà văn người Côlômbia người được giải

Nobel về văn học năm 1982. Trăm năm cô đơn ra đời năm 1967 đã gây dư

luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ.

Theo số liệu của tác giả đến năm 1970, Trăm năm cô đơn được in bằng

tiếng Tây Ban Nha hơn nửa triệu bản, chưa kể hai lần in ở Cuba xã hội chủ

nghĩa (một lần hai vạn bản, lần sau tám vạn bản) và mười bảy hợp đồng xin

phép tác giả được dịch tác phẩm này ra các thứ tiếng khác. Sau gần hai

mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt khắp nơi trên hành tinh chúng ta để

đến với mọi người và mọi nhà. Rõ ràng Trăm năm cô đơn là một cuốn sách

ăn khách mặc dù tác giả của nó không viết với mục đích câu khách.” (8,5)

Trăm năm cô đơn để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc bởi những

trang viết đầy trăn trở của Marquez, độc giả như bị cuốn sâu vào thế giới cô

đơn của con người, với vòng luẩn quẩn và ám ảnh quanh dòng họ bảy đời

đang bị lưu đày vào cõi cô đơn, sống lay lắt vào nỗi nhớ và không thôi trốn

chạy lo sợ về tội loạn luân. Chính sự hấp dẫn của những trang viết đầy trăn

trở này tôi chọn đề tài “Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez

dƣới góc nhìn phân tâm học”.

Qua việc nghiên cứu này, tôi muốn tìm hiểu xem những ám ảnh của

các thế hệ Buyênđya, cũng là nỗi ám ảnh sâu xa của tác giả, những giá trị

3

văn hóa mà tác giả và cuốn sách để lại cho chúng ta.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đây là cuốn tiểu thuyết gây chấn động bao thế hệ người đọc, vì thế cho

đến nay tầm ảnh hưởng và sức cuốn hút của cuốn sách vẫn chưa dừng lại.

Có rất nhiều nhà nghiên cứu tham gia tìm hiểu nhiều góc cạnh của vấn đề

trong tác phẩm. Nhiều công trình khoa học đã để lại những dấu ấn sâu sắc

trong giới phê bình văn học. Do hạn chế về ngoại ngữ nên tôi không thể

tổng hợp hết tất cả những công trình nghiên cứu mà chỉ khảo sát những

trang viết tiêu biểu bằng tiếng Anh và tiếng Viết dưới sự hỗ trợ của đồng

nghiệp về viêc tìm tài liệu tiếng Anh.

Ở Việt Nam, việc tiếp cận tác phẩm qua nhiều bản dịch của nhiều dịch

giả, nhưng đáng chú ý nhất là bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Nxb Văn

học, HN, 2004. Tác giả đã đưa ra những nhận định khái quát về vấn đề cốt

truyện đề tài, kết cấu và thời gian nghệ thuật, nhân vật và thông điệp ... Từ

khi tác phẩm được dịch sang tiếng Việt đã có nhiều công trình nghiên cứu

để lại nhiều dấu ấn sâu sắc.

Đầu tiên phải kể đến đề tài cấp bộ do PGS.TS Bửu Nam chủ nhiệm

(2002-2005): Đặc điểm khuynh hướng và sự phát triển của văn học Mỹ

Latinh nửa đầu thể kỉ XX trong phần phụ lục 3: Các tác giả và tác phẩm

tiêu biểu cho tiểu thuyết và truyện ngắn Mỹ Latinh từ những năm 60 đến

nay dành dung lượng bàn đến Marquez trong đó đã bàn luận nhiều vấn đề

từ góc độ liên văn bản (tiểu thuyết huyền thoại đã tiết chế nhiều chất liệu

dân gian của Châu Mỹ Latinh, một cách tự do và sáng tạo, vay mượn các

motif trong Thánh kinh và các huyền thoại cổ đại, sử dụng các tình tiết

trong truyền thuyết lịch sử, các sự kiện có thật), từ cấp độ kí hiệu học (mô

hình hệ giới dưới hình thức làng Macondo); đề cập đến vấn đề thời gian

lịch sử và thời gian vòng tròn theo chu kỳ … Nhà nghiên cứu khẳng định:

cách kể chuyện của Marquez được xem như tiêu biểu cho chủ nghĩa huyền

4

ảo nhưng đây là một thứ chủ nghĩa hiện thực huyền ảo theo phương thức

hài, lướt qua một cách thản nhiên giữa hiện thực và cái kỳ diệu để làm kinh

ngạc các nhân vật ngờ nghệch trong khi đương đầu với một thế giới mà họ

không hiểu thấu. Nhưng sự hài hước này lại đi kèm với một cảm giác trắc

ẩn, xót xa mà tác giả có vẻ như chia sẻ với các số phận nhân vật. Tuy chỉ

dành một phần để bàn về tác phẩm Trăm năm cô đơn nhưng công trình

nghiên cứu này đã gợi mở nhiều điều cho những người nghiên cứu về

Marquez. Đặc biệt ở khía cạnh các yếu tố huyền ảo, tính hài hước, yếu tố

thời gian, cách xây dựng cốt truyện, tuyến nhân vật … Cách đặt ngược vấn

đề: phải chăng tiểu thuyết là một ẩn dụ của sự thất bại của quá trình hiện

đại hóa? khiến cho người đọc phải suy ngẫm.

Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Yếu tố huyền ảo trong tác phẩm

Kawabata và Marquez trong cuốn Văn học so sánh – nghiên cứu và triển

vọng, Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn), NXB

ĐHSP, 2005. Tác giả đã so sánh chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng

tác của hai nhà văn nói trên và qua đó đã khám phá đặc sắc về không gian

và thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn.

Đỗ Xuân Hà trong bài viết Tiểu thuyết hiện thực huyền ảo: Trăm năm

cô đơn của Gabriel Garcia Marquez trong cuốn Văn học thế giới thể kỉ

XX, NXB ĐHQGHN, 2006. Trong bài viết này, Đỗ Xuân Hà thông qua

những nét tiêu biểu nhất về con người cũng như những sáng tác của

G.Marquez trong Trăm năm cô đơn trên các mặt nội dung và nghệ thuật và

chỉ ra phương pháp sáng tác trong Trăm năm cô đơn là chủ nghĩa huyền ảo

kết hợp với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo và các yếu tố hoang đường.

Chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia

Marquez của Lê Huy Bắc, NXBGD Việt Nam, 2009. Đây là chuyên luận

công phu về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, gồm 2 phần chính: chủ nghĩa

hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez, ngoài ra còn có phần phụ

5

lục trích đăng những bài dịch có liên quan đến chủ đề. Trong phần một,

người viết đã đưa ra nhiều lý giải về khái niệm như cái kì ảo, cái huyền ảo,

văn học huyền ảo, văn học hiện thực huyền ảo, nhà văn hiện thực huyền ảo.

Trong đó đáng chú ý là sự phân kì văn học huyễn ảo. Lê Huy Bắc cho rằng

lịch sử văn học huyễn ảo có thể được chia làm ba giai đoạn tương ứng với

cách thức sáng tạo và tiếp nhận văn học: giai đoạn 1 (cái huyễn tưởng):

thời trung cổ, khi con người xem những yếu tố siêu nhiên, kì quái, hoang

đường … như những cái tất nhiên, lí trí chưa phải là cơ sở để con người tin

tưởng. Giai đoạn 2 (cái kì ảo): thời cận hiện đại. Cài kì ảo xuất hiện trong

văn học với mục đích gây nên sự hoang mang cho người đọc. Đây là điều

mà văn học thời kì trước không mấy bận tâm. Giai đoạn 3 (cái huyền ảo)

gắn với thời hiện đại, hậu hiện đại. Cái huyền ảo xuất hiện như một sự đối

thoại trở lại, bản chất là bộc lộ sự bất tin. Chương 2 ở phần 1, tác giả khái

quát hệ thống về văn học hiện thực huyền ảo, bao gồm: nguồn gốc và lịch

sử, nguyên nhân ra đời, xác định khái niệm, đặc điểm, tiếp nhận văn học

hiện thực huyền ảo ở Việt Nam. Lê Huy Bắc cũng bổ sung thêm một số

nguyên nhân như thói quen xem cái hoang đường như cái thường nhật của

người bản địa, tìm sự an ủi trong thế giới siêu nhiên trước cuộc sống quá

khắc nghiệt. Chương 3 phần 1, Lê Huy Bắc điểm qua những tên tuổi thuộc

khuynh hướng này như F.Kafka, J.Borges, T.Morrison … Nhà nghiên cứu

quan niệm Kafka là người khai sinh ra khuynh hướng hiện thực huyền ảo

thế kỉ XX. Trong những trang tiếp theo Lê Huy Bắc giới thiệu và nhận xét

tổng quan về các nhà văn hiện thực huyền ảo. Đó là những nghiên cứu có

tính gợi mở cho những người quan tâm tìm hiểu về những nhà văn này.

Phần 2 của chuyên luận gồm 6 chương, được sắp xếp theo thứ tự:

Chương 1: Lịch sử Comonbia và hiện thực của Marquez

Chương 2: Những người thầy

Chương 3: Khát vọng trở thành người giỏi nhất thế giới

6

Chương 4: Tự sự nhiều điểm nhìn trong Cụ già với đôi cánh khổng lồ

Chương 5: Những cô gái điếm buồn của Marquez

Chương 6: Trăm năm cô đơn

Đóng góp của phần 2 này chủ yếu tập trung ở chương 4,5,6 những

chương 1,2,3 mang tính tổng thuật nhiều hơn là nghiên cứu. Trong giới hạn

của bài viết này, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu chương 6. Trong chương này

tác giả chia làm 7 phần: 1. Câu chuyện một trăm năm, 2. Gia hệ Trăm năm

cô đơn, 3. Nhân vật, 4. Huyền thoại về cái cô đơn, 5. Macondo huyền thoại,

6. Trần thuật mê lộ - biên niên sử huyền thoại, 7. Ngọn sóng văn chương.

Trong 7 phần nêu trên thì phần 1,2,3 mang tính chất tóm tắt và giới thiệu,

có sự tương đồng với nhiều những tài liệu tham khảo trước đó. Sự dẫn nhập

này mang tính hướng dẫn ban đầu cho những ai mới tiếp xúc với văn bản,

khá bối rối với gia hệ phức hợp trong tác phẩm. 4 phần còn lại nhà nghiên

cứu đi sâu khảo sát về các huyền thoại, nghệ thuật trần thuật. Trong Huyền

thoại về cái cô đơn, Lê Huy Bắc có tiếng nói chung với những nhà nghiên

cứu trước đó, cho rằng nỗi cô đơn là chủ đề chính trong sáng tác của

Marquez, nó vừa là nỗi cô đơn bản thể vừa là sự cảnh báo để hướng đến sự

đoàn kết để mưu cầu hạnh phúc. Trong Trăm năm cô đơn người ta có thể

tìm thấy muôn vàn cấp độ, dạng hình cô đơn, từ Jose luôn cảm thấy ám ảnh

về tội lỗi trong quá khứ, những đam mê khoa học bất tận, Arcadio cô đơn

vì hôn nhân cận huyết, Aureliano Segundo cô đơn ngay trong sự giàu sang

bất tận của mình, Rebeca cô đơn vì thói quen lập dị không giống ai …

Macondo huyền thoại nhấn mạnh hình tượng làng Macondo. Tính huyền

thoại thể hiện ngay trong tên gọi của ngôi nhà, sự xuất hiện và biến mất. Nó

là sự ẩn dụ về bức tranh phát triển của xã hội, thế giới loài người. Trần

thuật mê lộ - biên niên sử huyền thoại là phần mà nhà nghiên cứu dụng

công nhiều hơn cả. Mê lộ là biểu trưng cho Trăm năm cô đơn, thể hiện rõ

qua thế giới nhân vật, kết cấu, tự sự đa chủ thể, huyền thoại … Mê lộ dẫn

7

dụ người đọc vào thế giới huyền thoại, bị đánh đáo các nhân vật, các giá

trị. Nó khiến cho yếu tố hiện thực và huyền ảo đan cài vào nhau một cách

chặt chẽ, tự nhiên.

Nói đến những công trình nghiên cứu về Trăm năm cô đơn, cũng phải

kể đến hệ thống các bài báo, bài nghiên cứu đăng trên tạp chí. Trước hết là

bài nghiên cứu: Nhân vật và thông điệp của Nguyễn Trung Đức in

trong phần mở đầu quyển sách Márquez Gabriel García (2004), Nguyễn

Trung Đức dịch, Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học. Nguyễn Trung Đức đã

chỉ ra những bức thông điệp gắn với tên của nhân vật trong sáng tác

của nhà văn đạt giải Nobel 1982. Ông xác định những vòng tròn đan lồng

trong truyện, vòng tròn cuộc đời của đại tá Aureliano, vòng tròn xoay

quanh hai con người sinh đôi, sự quẩn quanh của những số phận sự nhầm

lẫn trong cách nhìn nhận của Ursula và bao trùm lên tất cả là sự xoay vòng

của thế giới, cuộc sống. Nhà nghiên cứu khát quát bằng bức thông điệp của

chính tác giả Trăm năm cô đơn từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời

sáng tác là cuốn sách về sự cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi

người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng

chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để “sáng tạo ra một thiên huyền

thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai

bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu

có lối thoái và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ

bị kết án Trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai

để tái sinh trên mặt đất này”. Trong bài viết này, Nguyễn Trung Đức đã đi

sâu tìm hiểu những bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm,

đặc biệt là qua số phận của nhân vật. Đó là một phương thức thâm nhập sâu

để tìm hiểu tư tưởng của nhà văn. Nhưng chúng tôi cho rằng ngoài những

điều nêu trên còn có một bức thông điệp khác quan trọng là sự dự báo. Một

8

dòng họ có thể bị tuyệt diệt, vùng đất huyền thoại có thể bị nhấn chìm, loài

người cũng có thể biến mất như chưa từng tồn tại nếu con người vẫn cứ xây

cất cho mình những tòa tháp cô đơn.

Phan Tuấn Anh có bài đăng trên Tạp chí Sông Hương 259/9-10 số ra

ngày 01/10/2010, tựa đề Hình tượng Macônđô trong Trăm năm cô đơn.

Trong bài viết này tác giả đã kiến giải về hình tượng Macondo – hình

tượng xuyên suốt nhiều sáng tác quan trọng của Marquez , từ vấn đề nguồn

cội tên gọi, tần suất đến ý nghĩa biểu trưng. Người viết đưa ra nhận xét khá

táo bạo: “Có thể nhận định rằng, nếu “nỗi cô đơn” là chủ đề lớn nhất mà

Marquez dành cả cuộc đời để theo đuổi, thì hình tượng trung tâm nhất, có

tính xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn người Colombia lại không phải

là một nhân vật cụ thể, mà chính là hình tượng về vùng đất Macondo.”

Bằng sự đối chiếu với những cứ liệu lịch sử, văn hóa, Tuấn Anh đã chỉ ra

mối liên hệ mật thiết giữa sự phát triển của làng Macondo với tiến trình

phát triển của Châu Mỹ Latinh. Những cứ liệu này soi sáng và chứng minh

rõ hơn ý nghĩa biểu trưng của Macondo – xã hội Mỹ Latinh thu nhỏ.

Nghiên cứu về tác phẩm này còn có các đề tài nghiên cứu khoa học các

cấp, khóa luận, luận văn, tôi xin được điểm qua một số công trình: Khóa

luận tốt nghiệp Khảo sát tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn trong hai tiểu thuyết

Trăm năm cô đơn và Tình yêu thời thổ tả của Garcia Marquez của Nguyễn

Thị Tuyết Lan – ĐHSP Huế, 2005. Khóa luận tập trung vào hai vấn đề:

khảo sát tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn trong Trăm năm cô đơn và Tình yêu

thời thổ tả; những phương thức nghệ thuật thể hiện tình yêu, nhục thể, nỗi

cô đơn trong tác phẩm này. Tình yêu, nhục thể, nỗi cô đơn là 3 yếu tố quan

trọng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong sáng tác của nhà văn người

Comlombia này. Lí giải được mối quan hệ của 3 yếu tố này sẽ lí giải được

sự ý nghĩa của sự xuất hiện dày đặc những phen làm tình, nỗi cô đơn tràn

ngập trong sáng tác của ông. Công trình nghiên cứu trên hai tác phẩm đỉnh

9

cao của nhà văn biểu trưng cho nỗi cô đơn của Châu Mỹ Latinh, tìm hiểu

toàn diện các phương thức nghệ thuật thể hiện như người kể chuyện không

thời gian, giọng điệu, điểm nhìn nhân vật trong hai tác phẩm. Tuy nhiên,

công trình này chưa đạt đến độ chín, vì chưa lí giải được mối quan hệ giữa

nhục thể và tình yêu, tính dục, nỗi cô đơn … Việc trình bày và khảo sát

song hành hai tác phẩm này chưa sâu nên dẫn đến sự rời rạc.

Một công trình khác có thể nói đã chạm đến độ chín là Luận văn Thạc

sĩ Thời gian và không gian huyền thoại trong Trăm năm cô đơn của

Gabriel Garcia Marquez của Nguyễn Thị Hảo – ĐHKHXH và NV Hà Nội,

2010. Luận văn này đã chạm đến vấn đề đặc biệt lí thú trong sáng tác nổi

danh của Marquez Trăm năm cô đơn. Luận văn đã đưa ra một cái nhìn tổng

quan và khá hoàn thiện về đặc điểm của văn học Mĩ Latinh và chủ nghĩa

hiện thực huyền ảo. Thời gian được tái hiện qua những cấp độ: trật tự, thời

lưu, tần suất; cùng với điềm báo. Sự xoay vòng của thời gian mang tính ẩn

dụ. Không gian bàng bạc màu sắc kì ảo. Chốn – không thời gian huyền

thoại góp phần quan trọng chuyển tải thông điệp vì hòa bình, đoàn kết nhân

loại – mặt trái của cái cô đơn. Còn thêm Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật

truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez của Lê Thị Thanh Thủy – ĐHKHXH

và NV Hà Nội, 2011. Đỗ Duy Chiến của ĐHSP đã Bảo vệ luận văn (2011)

“Tính dục trong Trăm năm cô đơn của G.G.Marquez” đã đề cập đến các

vấn đề nhân vật đam mê tính dục; tính dục với đề tài loạn luân và vô thức

và nghệ thuật biểu hiện tính dục.

Một số bài nghiên cứu bằng tiếng Anh, tôi khảo cứu được như:

Gabriel Garcia Marquez do Harold Bloom (giáo sư khoa Nhân học

trường ĐHH Yale) hiệu đính và giới thiệu, NXB Chealsea. Đây là một

cuốn sách tập hợp nhiều bài nghiên cứu công phu về Marquez. Trong đó có

một số bài viết về tác phẩm Trăm năm cô đơn như: Gabriel Garcia

10

Marquez từ Aracata đến Macondo, Những sản phẩm khoa học của Jose

Acardio Buendia – con người đi tìm bản thể của Floyd Merrell, Trăm năm

cô đơn – huyền thoại và lịch sử của Roberto Gonzalez Echevarria …

Một cuốn sách khác khảo sát trên diện rộng về tác phẩm này là Trăm

năm cô đơn: những phương thức thâm nhập của Regina Janes, NXB

Twayne, 1991. Regina Janes đã cung cấp một phân tích toàn diện hấp dẫn

về Trăm năm cô đơn, bàn đến nhiều phương thức đọc, giải thích tác phẩm

này theo các phương cách khác nhau. Janes tiếp cận tác phẩm này qua bình

diện văn học và lịch sử, bình luận theo nhiều hướng: chính trị, tiểu sử học,

liên văn bản, từ góc độ của huyền thoại và hiện thực huyền ảo. Trong quá

trình đó, Janes cung cấp một cuộc khao sát có sức thuyết phục về tiểu

thuyết, và kết luận, “Nếu Garcia Marquez có bước đi riêng tạo ra huyền

thoại hiện đại, thì dường như đó là mong muốn giữ gìn, bồi dưỡng, nuôi

dưỡng ý thức của chúng ta về cõi không thực. Không chỉ thể giới thực mà

chúng ta đang sa lầy mà cả những cuốn sách chúng ta đọc cũng đang phủ

nhận chính chúng ta, một cách tạm thời, cần có một thế giới tốt hơn để có

thể xác tín được.”

Một công trình khác đã định hình rõ nét hơn về lí thuyết ứng dụng

trong nghiên cứu Trăm năm cô đơn là cuốn sách mang nhan đề: Phê bình

hậu hiện đại về Trăm năm cô đơn của Marquez của tác giả Jofer Serapio,

đăng trên trang web: http://joferserapio.wordpress.com. Theo tác giả bài

viết, yếu tố thể hiện rõ nhất tính hậu hiện đại của tác phẩm này là hiện thực

huyền ảo. Và nhà văn đã có sự pha trộn nhiều thể loại, lãng mạn, lịch sử, kì

ảo.

Những công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài mà tôi khảo

sát được trên đây tuy chưa bao quát hết nhưng cũng chứng tỏ được chiều

dài và chiều rộng của những công trình nghiên cứu về tác phẩm nổi danh

này. Từ đó mà tôi có thể nhìn nhận một cách khái quát về những hướng

11

nghiên cứu tiếp theo. Trong luận văn này, tôi đi sâu nghiên cứu tác phẩm

Trăm năm cô đơn với đề tài “Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez

dưới góc nhìn phân tâm học”. Tôi khẳng định, tuy đã có rất nhiều công

trình nghiên cứu mở ra nhiều hướng tiếp cận và khai thác tác phẩm này

nhưng đây là đề tài hoàn toàn mới.

Mỗi công trình nghiên cứu cho chúng ta nhìn nhận những góc phát hiện

mới, góc tiếp cận mới về tiểu thuyết kinh điển mọi thời đại Trăm năm cô

đơn. Chúng ta hiểu vì sao, mà trải qua bao nhiêu năm từ khi mới ra đời cho

đến nay tác phẩm này vẫn là đề tài được nhiều người quan tâm, các thế hệ

học viên luôn lấy đó là mảnh đất trù phú để khai thác. Không nằm ngoài

những niềm đam mê đó, tôi vẫn muốn tìm đến Trăm năm cô đơn với hướng

tiếp cận mới, tuy nó có bề dày những công trình nghiên cứu đồ sộ.

1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn này tập trung nghiên cứu Trăm năm cô đơn của Gabriel

Garcia Marquez dựa trên lí thuyết phân tâm học. Tập trung phân tích vào

những giấc mơ, những nỗi ám ảnh về tính dục và sự vô thức của những con

người.

Đề tài này được nghiên cứu trên phạm vi bản dịch tác phẩm Tiếng Việt

của dịch giả Nguyễn Trung Đức, tái bản lần thứ năm, NXB Văn học, 2004.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đảm bảo nghiên cứu tác phẩm trên bình diện sâu rộng tôi kết hợp

sử dụng các phương pháp khác nhau như: phê bình phân tâm học, phê bình

huyền thoại, nghiên cứu liên ngành kết hợp với các thao tác: đối chiếu, so

sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó phương pháp chính là phân

tâm học

Thuật ngữ phân tâm học do Sigmund Freud đặt ra năm 1896. Thời

gian đầu, đó chỉ thuần túy là một khoa học và là một phương pháp trị bệnh,

12

sau ảnh hưởng lan rộng sang địa hạt văn học, trở thành một phương pháp

phê bình. Với tư cách là một phương pháp phê bình, phân tâm học xem tác

phẩm văn học như một thế giới huyễn tưởng phản ánh những ước muốn âm

thầm cũng như những dồn nén trong vô thức của tác giả. Xin lưu ý, với các

nhà phân tâm học, vô thức không phải là sự thiếu vắng ý thức mà là một

cõi riêng.

Sự khủng hoảng của tâm lý học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn

đến sự ra đời của Phân tâm học. Một trường phái tâm lý học khách quan đi

sâu nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ

đạo của đời sống tâm lý người, là đối tượng thực sự của tâm lý học.

Người sáng lập ra Phân tâm học là S.Freud (1856 - 1939) bác sĩ thần

kinh và tâm thần người Áo gốc Do Thái, sinh ở Tiệp Khắc, du học ở Áo,

Pháp, Đức … Ngay từ khi chữa chứng dồn nén và chứng thần kinh tương

khắc, Freud đã đi tới kết luận không chỉ riêng con bệnh mà cả những người

bình thường cũng mang trong mình những xung khắc tâm thần tương tự.

Căn cứ vào những quan sát, thí nghiệm và kinh nghiệm thực hành khi điều

trị cho nhiều người bệnh ở Vienna, Freud đã xây dựng cơ sở cho khoa phân

tâm học vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Trong cuốn Nghiên cứu về chứng

loạn thần kinh xuất bản vào năm 1895, ông đã bộc lộ niềm tin rằng “yếu tố

chính trong sự rối loạn về tính dục là sự suy yếu gây ra cảc bệnh tâm thần,

lẫn bệnh tâm thần suy nhược”. Đó là nền tảng của thuyết phân tâm. Vài

năm sau đó, Freud hoàn chỉnh được lý thuyết của ông về sức đối kháng,

hiện tượng chuyển biến tính dục tuổi thơ, mối tương quan giữa những ký

ức bất mạn và ảo tưởng, giữa cơ chế tự vệ và sự dồn nén.

Học thuyết phân tâm của Freud được xây dựng trên khái niệm vô thức.

Freud quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất

là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý

con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy

13

theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện

ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức. (26,185). Vai trò quan trọng

của cái vô thức trong đời sống tâm lý người được S.Freud làm rõ trong các

công trình nghiên cứu về giấc mơ về lý thuyết tính dục cũng như ở nhiều

vấn đề khác được đề cập liên quan trong các nghiên cứu cụ thể của ông.

Dựa vào những thuyết phần tâm học Freud đề ra về hiện tượng ảo giác

trong giấc mơ và những rối loạn tính dục, tôi chủ công khai thác những

khía cạnh của tác phẩm Trăm năm cô đơn trên hai phương diện này để từ

đó tìm ra cái cô đơn, vô thức ngàn đời của dòng họ bị lưu đày tram năm.

4. Đóng góp của luận văn

Về mặt lý thuyết: Luận văn đưa ra hướng tiếp cận mới, phương pháp

phân tâm học. Với bình diện đi sâu vào những ám ảnh trong mỗi nhân vật

và tập thể Macondo, cũng như những trăn trở trên những trang viết của

Gabriel Garcia Marquez. Trên cơ sở tổng quan có chọn lọc của những công

trình nghiên cứu đi trước để có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ về tác phẩm này.

Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần định hình rõ nét hơn trong việc

ứng dụng phân tâm học, để khám phá ra những ám ảnh, những con người

trăn trở, trằn trọc, luẩn quẩn trong cái cô đơn của ngàn đời, sự bế tắc,

những ham muốn, nhục dục … những giấc mơ vừa thực vừa ảo.

5. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:

Chƣơng 1. Macondo với những giấc mơ ám ảnh

Chƣơng 2. Nhân vật cô đơn bị ám ảnh tính dục

14

Chƣơng 3. Sự vô thức của tập thể

CHƢƠNG 1. MACÔNĐÔ VỚI NHỮNG GIẤC MƠ ÁM ẢNH

Năm 1900. Freud công bố công trình Lý giải các giấc mơ. Việc phân

tích cặn kẽ các giấc mơ của người nào đó đã trải qua là một thành công của

ông, con đường đi đến làm rõ cái vô thức. Các giấc mơ đã tạo nên sự hấp

dẫn đặc biệt đối với Freud, bởi theo ông, có thể từ việc phân tích các giấc

mơ, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn cấu trúc tâm thần người, rõ hơn về cái

vô thức trong con người. Từ các ca lâm sàng trong chữa trị bệnh tâm thần,

ông đã đi đến kết luận: Các giấc mơ đều không xa lạ với người nằm mơ,

đều luôn khó hiểu với người đó. Các giấc mơ đều có một ý nghĩa nhất định

nào đó. Không những giấc mơ có một ý nghĩa mà ý nghĩa của giấc mơ là

nguyên nhân gây nên giấc mơ. Trong các giấc mơ có các “ý tưởng tiềm ẩn”

cần được khám phá. Nội dung biểu hiện của giấc mơ có thể thực hiện trá

hình những ham muốn bị dồn nén vào vùng vô thức. Bên cạnh đời sống

thực tại, các nhân vật của Marquez còn sống trong đời sống của những giấc

mộng. Giấc mơ là thuộc tính của tư duy thần thoại. Các nhà khoa học tin

rằng giấc mơ ẩn chứa nhiều điều thần bí nhưng liên quan nhất định đến đời

sống thực của con người, có sự liên thông giữa thế giới mộng ảo và đời

sống tâm lí cũng như quá trình nhận thức của con người thường nhật. Và

Marquez đã để cho nhân vật của mình bơi trong cuộc chu du tâm tưởng để

đến với miền đất còn bí ẩn và không kém phần phức tạp.

1.1 Ucsula với nỗi sợ tội loạn luân

Nỗi ám ảnh về tội loạn luân luôn đeo bám những con người thuộc

dòng họ Buyênđia. Họ cô đơn giữa ngôi nhà của mình, cô đơn giữa những

người thân, cô đơn trên chính chiếc giường của mình và nỗi cô đơn đó ám

15

ảnh cả trong những giấc mơ của họ.

Người phụ nữ luôn có ý thức và canh cánh trong mình nỗi ám ảnh về

tội loạn luân. Chính Ucsula đã được mẹ kể về tấm gương về người sinh ra

một đứa trẻ có đuôi lợn. Cũng chính điều này đã đeo bám bà ngay trong

đêm tân hôn, và một năm sau ngày cưới. Sau này, sau mỗi lần sinh nở bà

luôn cẩn thận kiểm tra kĩ khắp người đứa trẻ. Nỗi ám ánh đó, khiến bà luôn

canh cánh, nhắc nhớ các con mình về nỗi kinh hoàng của tội loạn luân. Sự

minh mẫn của một bà lão ngoài trăm tuổi đã để bà chứng kiến những thế hệ

con cháu Buyênđia có một sự khác lạ, sự cô đơn, cá tính khác người còn

đáng sợ hơn cái đuôi lợn.

1.1.1 Loạn luân và những giải thích cổ điển

Từ giữa thể kỉ XIX loan luân được xem là một sự ghê tởm tự phát, nỗi

sợ hãi về những hậu quả xấu của quan hệ huyết thống. Các lý thuyết do các

nhà nhân học đưa ra từ cuối thể kỉ XIX để giải thích việc cấm loạn luân có

ba loại; tâm lý học, sinh học, xã hội – văn hóa.

Các lý thuyết thứ nhất giả định rằng việc cấm loạn luân là nhắc lại,

dưới hình thức một quy tắc, một sự ghê tởm tự phát ở con người đối với

một đối tác của mình. Nhà tộc học người Phần Lan Edward Westermark

năm 1891, nhà tính dục học Anh Havelock Ellis năm 1906 đã phát triển ý

tưởng cho rằng sự chung sống lâu dài giữa những thành viên cùng một gia

đình sẽ làm cho ham muốn mất đi.

Lý thuyết thứ hai coi những hậu quả sinh học là có thể có của sự tái

sinh sản giữa những người cùng dòng máu. Sự kết hợp giữa những người

thân thích ở con người, động vật và một số thực vật có thể có những hiệu

quả di truyền có hại theo hai kiểu: tăng dần số của những khuyết tật di

truyền và trong trường hợp lặn lại ở nhiều thế hệ, một hiện tượng “suy sụp

về dòng máu”, còn gọi là “thoái hóa”. Ở các nước phương Tây. Đó là lý do

16

thường được nêu ra. Trong các tín ngưỡng trên toàn thế giới, thường xảy ra

những sự sinh đẻ không bình thường được gán cho những tập quán loạn

luân đã biết rõ hay được giả định.

Cuối cùng, lý thuyết thứ ba dựa vào những lý do xã hội hay những

biểu tượng tập thể. Tiểu luận của Emile Durkheim công bố năm 1897 là

một ví dụ rõ ràng. Ông khẳng định tất cả các xã hội đều phải trải qua giai

đoạn thờ vật tổ. Thế nhưng, việc thờ vật tổ cũng chìm ngập trong nỗi khiếp

sợ máu vật tổ, mà vật tổ cũng lại thuộc nhóm họ hàng của người ta. Phạm

tội loạn luân là có nguy cơ tiếp xúc với máu vật tổ ấy. Do đó mà có sự cấm

kỵ thật sự về hành vi này. Ý tưởng của Durkheim là có hiệu quả: nó không

chỉ tính đến sự loạn luân sinh học mà đến cả những quy tắc riêng của mỗi

xã hội về cái bên trong và cái bên ngoài của nhóm cùng dòng máu. Nhưng

ý tưởng ấy không có chỗ dựa vững chắc: việc thờ vật tổ có lẽ không bao

giờ tồn tại dưới hình thức người ta gán cho nó, ít ra cũng không phải là một

giá trị phổ biến, và sự sợ máu không có lien quan tất yếu với những quan

hệ tính dục.

Theo từ điển Tiếng Việt: “loạn luân dùng để chỉ quan hệ nam nữ về

xác thịt với nhau giữa những người cùng máu mủ trái với phong tục tập

quán hoặc pháp luật.” (24,574) Dù trong bất cứ trường hợp nào, vô tình hay

cố ý thì hành động loạn luân vẫn không thể chấp nhận được và đáng lên án

một cách khắt khe. Trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, dòng họ Buênđia

trong vòng 100 năm trải qua bảy đời và hầu như đời nào cũng có dấu hiệu

loạn luân. Mà xét cho cùng nguyên nhân sâu xa của việc đó chính là việc

họ cố chạy trốn tội loạn luân nhưng lại không sao trốn thoát sự cám dỗ một

cách vô thức và sự ám ảnh bởi mặc cảm trong quá khứ.

1.1.2 Ucsula người phụ nữ luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân

Trong Trăm năm cô đơn, Ucsula là người phụ nữ cần mẫn, năng nổ,

17

thông minh và kiên định. Dưới sự chăm lo của bà, gia đình Buendia là tâm

điểm của làng Macondo – một gia đình giàu có luôn mở rộng cửa đón khác.

“Đức cần mẫn của Ucsula sánh ngang với đức cần mẫn của chồng mình. Bà

năng nổ, mảnh khảnh, kiên nghị. Người đàn bà run rẩy mà chẳng một ai

nghe thấy cất tiếng hát trong suốt cả cuộc đời mình, là người có mặt ở khắp

chốn kể từ lúc trời vừa bừng sáng cho đến khi tối mịt, lúc nào cũng bận bịu

với đàn gà nhíp nhíp. Nhờ có bà, nền đất nện không chút bụi, tường đất

không vẩy bẩn, bàn ghế giường tủ do chính bàn tay vợ chồng bà làm nên

lúc nào cũng sạch sẽ, và những rương hòm cũ đựng quần áo lúc nào cũng

dịu thơm mùi húng dổi.” (8,29) Bà nuôi nấng và dõi theo tất cả những

thành viên trong gia đình, đấu tranh để bảo vệ họ, để rồi lại bất lực khi

nhận thấy sự trái khoáy của những đứa con “Con cái thừa kế tính nết điên

khùng của cha mẹ chúng” và “…sự trái thói trái tính của các con trai mình

quả thật cũng đáng kinh sợ như cái đuôi con lợn” (8,61). Sống để canh

chừng con cháu, bà rút ra rằng thời gian cứ quay tròn, thế hệ trước cứ giống

thế hệ sau, mãi là tù nhân của sự cô đơn, mãi không thoát khỏi tội kiếp loạn

luân của dòng họ. Bà là minh chứng cho sự nỗ lực, kiên cường của người

phụ nữ của gia đình. Gia cảnh nhà Buendia tan vỡ một phần cũng chính vì

thiếu một bàn tay như Ucsula chăm sóc khi bà đã về già và mù lòa.

Hơn ai hết, Ucsula là người hiểu rõ về hậu quả của tội loạn luân, cũng

chính vì điều này đã đẩy bà vào cảnh ngộ trớ trêu, luôn sống vô thức với

những ám ảnh quá khứ. Bà cố sống để căn dặn con cháu về cái nguy cơ

đáng sợ về đứa con có cái đuôi lợn. Nhưng rồi không trốn thoát khỏi mặc

cảm và bị cuốn sâu vào vực thẳm của sự cô đơn. Trong thế giới cô đơn và

hoài nhớ ấy những người trong dòng họ Buênđia đã phạm phải tội loạn

luân. Như vậy, có thể thấy vì sợ loạn luân nên cố chạy trốn, chạy trốn rồi

lại mắc vào đúng tội lỗi đó. Hình ảnh : “Một đứa con suốt đời mặc quần

rộng thùng thình và chết vì bệnh chảy máu khi đã sống một cuộc đời bốn

18

mươi hai tuổi xuân luôn là trai tân, bởi y sinh ra và lớn lên với cái đuôi

xoắn hình mở nút chai ở cuối có một túm lông” (8,49). Đây chính là sản

phẩm của bà cô Ucsula lấy ông chú Hose Accadio Buendia. Đó là tấm

gương tày kiếp mà mãi đến già bà vẫn không quên cảnh báo với con cháu

hãy mở to mắt mà nhận họ hàng.

Dựa vào sơ đồ phả hệ của dòng họ Buenđia, chúng ta có thể nhận thấy

hầu như các thế hệ trong dòng họ không thoát khỏi tội loạn luân với những

người cận huyết. Trước khi Ucsula Igoaran lấy Hose Accadio Buendia thì

tổ tiên của họ cũng đã phạm phải điều cấm kỵ đó. Chính họ đã dẫm lên vết

xe đổ đó. Là người sống gần hết chiều dài của dòng họ, chứng kiến các thế

hệ con cháu ra đời, trưởng thành và hủy diệt, bà như sự tổng kết chiêm

nghiệm về những thói hư tật xấu của dòng họ. Bà sống để canh chừng, coi

sát nhưng cuối cùng vẫn không thể thoát khỏi vòng xoáy của định mệnh.

“Con cái nhà đến lạ, tất cả đều giống nhau như hệt. Lúc đầu được nuôi

dưỡng rất chu đáo, do đó tất cả đều ngoan ngoãn, nết na, hiền lành dường

như đến con ruồi cũng không đủ can đảm để giết. Ấy thế mà râu vừa lún

phún đã lại hư thân mất nết rồi.” (8,180). Trước quyết định đám cưới của

cặp đôi Rebecca và Hose Accadio bà đã phản đối kịch liệt, và xem như họ

đã chết. Nhà văn Marquez xây dựng tình huống, ngôi nhà hạnh phúc của

cặp đôi ngay cạnh nghĩa trang cũng để ám chỉ họ sống đó nhưng đã chết từ

lâu rồi. Người phụ nữ đã cố sống đến 6 đời và không ít lần bà than phiền về

cố máy thời gian quay vòng “Thời gian như thể quay tròn hay sao ấy.”

Cũng chính bà là người đã phải thừa nhận những cá tính khác biệt của con

cháu còn đáng sợ hơn những đứa con đuôi lợn, “Con cái nhà này đều thế

cả. Chúng điên rồ ngay từ bé.” (8,213). Bà canh chừng, giám sát, và không

khi nào nguôi nhắc con cháu hãy mở to mắt mà nhận họ hàng. Nhưng bà

vẫn không sao ngăn được những cuộc tình loạn luân giữa mẹ con của

Accadio và Pilar Tenera. Accadio thèm khát mẹ của mình như một con thú

19

dục tình “Pilar Tenera người từng làm cậu nổi máu dê ở trong phòng làm

ảnh, là sự thèm khát không thể cưỡng lại nổi đối với cậu ta, cũng từ thuở

ban đầu đối với Hose Accadio và sau đó Aureliano.” (8,138). Những đam

mê cuồng si của Aureliano Hose với thân hình ngà ngọc của cô mình là

Amaranta “Lần đầu nhìn thấy cô tắm, cậu bé chỉ chú ý đến cái rãnh sâu sâu

giữa hai núm vú trên ngực cô mình … sau đó … cậu không để ý đến cái

rãnh sâu mà lại run bắn người vì thích thú lạ lùng trước hai bầu vú hồng

hồng căng mọng” (8,169)… Và như thế suốt cuộc đời Ucsula chứng kiến

các thế hệ con cháu của dòng họ tìm đến dục vọng như một sự giải thoát

nhưng họ càng vùng vẫy trong bể dục thì lại càng đau khổ và tiến dần đến

sự hủy diệt hoàn toàn.

1.2. Hôsê Accađiô Buênđya con ngƣời hai cá tính và giấc mơ về những phát minh khoa học

1.2.1 Hôsê Accađiô Buênđya con người hai cá tính cô đơn trong nỗi ám ảnh về tội lỗi trong quá khứ

Cụ tổ của dòng họ Buendia, Hôsê Accađiô Buênđya cưới người em họ

Ucsula, bỏ làng đi sau khi giết một người bạn. Hôsê Accađiô Buênđya là

người sáng lập ra làng Macondo và là người lãnh đạo sáng suốt của làng

trong một thời gian dài. Ông là người có cả sức mạnh cơ bắp và trí tuệ. Hai

đặc điểm này di truyền cho con cháu theo hai nhánh: Những Arcadio khỏe

mạnh, sống sôi nổi, còn những Aureliano thông minh những cô đơn và lánh

đời. Sau khi bị mê hoặc bởi những phát minh của người Digan. Hôsê

Accađiô Buênđya say sưa lao vào những tìm kiếm khoa học, rồi phát điên

và cuối cùng chết dưới tán cây dẻ.

Những hành động của Hose Accadio Buendia là điển hình, điềm báo

cho những đặc tính nổi trội để di truyền cho những thế hệ sau. Việc Hose

Accadio Buendia lấy em họ Ucsula là hành động mang tính loạn luân, hành

20

động vượt ra ngoài chuẩn mực đạo đức muôn đời. Và sau những thế hệ con

cháu cũng đam mê tính dục và đặc biệt ham muốn với những người cận

huyết. Hành động giết chết Prudencio Aghila là hành động bạo lực, hiếu

chiến khiến ông phải day dứt cả đời. Ông buộc phải bỏ làng đi để tìm thấy

sự thanh thản và trở thành một tù trưởng giỏi. Chính đặc tính này đã di

truyền cho nhiều thế hệ sau này đặc biệt là đại tá Aureliano Buendia. Một

hành động nữa của Hose Accadio Buendia cũng được xem là điềm báo cho

đặc tính di truyền của dòng họ Buendia đó là hành động bỏ làng ra đi. Đây

là hành động tự tách mình khỏi cộng động, đẩy mình vào cõi cô đơn tiền

định. Đặc tính này hầu hết các con cháu Buendia đều mắc phải.

Hose Accadio Buendia là người tháo vát, với trí tuệ thông suốt ông đã

bố trí ngôi làng hợp lý và gọn gàng. “…đã bố trí các nhà theo hình thức sao

cho từ mọi nhà đều có thể đi ra sông và không một nhà nào phải gánh nước

vất vả hơn nhà nào, đánh những con đường chạy thật khéo để mọi nhà đều

phải chịu nắng như nhau vào mùa nóng. Chỉ trong ít năm, Macondo là một

làng ngăn nắp gọn gàng và chuyên cần … đó là một làng hạnh phúc, là nơi

chưa một ai ngoài ba mươi tuổi, và chưa hề có người chết”. (8,29) Sức

khỏe và sự thông minh, linh hoạt của Hose Accađiô Buyênđya đã đưa ngôi

làng vùng đầm lầy ngày một hưng thịnh. Cả ngôi làng ngày càng rộn rã

tiếng chim. Nhưng rồi, những tập tục tốt đẹp, sự tháo vát ở Hôsê Accađiô

Buênđya trong thời gian ngắn đã bị cuốn tuột đi bởi những đam mê về đá

nam châm, những tính toán thiên văn, mơ mộng biến chì thành vàng, ước

muốn được biết các kỳ quan của thế giới. Giờ đây Hôsê Accađiô Buênđya

trở thành một người lười nhác, ăn mặc thì lôi thôi, râu ria thì xồm xoàm. Ở

nhân vật này chúng ta dễ dàng nhận ra hai cá tính: một con người khỏe

mạnh, vâm váp, nông nổi, táo bạo, cá tính này được di truyền cho những

thế hệ Accadio và một con người âu sầu nhưng rất thông minh được di

21

truyền cho những Aureliano. Một trong những điều thú vị ở tiểu thuyết này

chính là sự quay vòng, lặp lại của thế hệ sau với thế hệ trước, dường như

đó là bản sao y nguyên về cá tính và số phận.

Vì một sai lầm thời trai trẻ, Hôsê Accađiô Buyênđya đã phải bỏ làng đi

tha hương cầu thực, tìm kiếm một vùng đất mới. Nhưng cũng từ đây, anh

sống cuộc đời cô đơn với nỗi ám ảnh tội lỗi. Hình ảnh của Prudenxio

Aghila xuất hiện thường xuyên trong tâm tưởng của ông. Một lần trong cơn

sốt vì mất ngủ, sau khi làng Macondo có người chết đầu tiên, ông đã gặp

linh hồn của Prudenxio Aghila “Khi nhận ra Prudenxio Aghila, ông ngạc

nhiên thấy rằng người chết cũng già theo năm tháng. Hose Accadio

Buendia cảm thấy rùng mình vì nỗi nhớ nhung … Sau nhiều năm ở cõi chết

nỗi nhớ nhung người sống mới da diết làm sao, sự gắn kề một cái chết khá

vốn đã tồn tại ngay trong cõi chết mà chính Prudenxio Aghila vừa rồi mong

cho kẻ thù tệ mạt nhất của mình mới đáng sợ làm sao. Prudenxio Aghila đã

tốn nhiều thời gian đi tìm ông. Prudenxio Aghila hỏi thăm ông qua những

linh hồn chết ở thung lũng Uga, qua những linh hồn chết từ vùng đầm lầy

tới …” (8,102) Và suốt thời gian đó ông luôn nhớ tới Prudenxio Aghila “Cả

đêm ông nằm trên giường, mắt mở thao láo, mà gọi Prudenxio Aghila, gọi

Menkyadet, gọi tất cả những người đã chết để họ tới cùng chia sẻ với ông

nỗi chán chường.” (8,103) Trong suốt phần đời còn lại bên gốc cây dẻ,

sống với kí ức, nói chuyện với kí ức. Mặc dù người chăm sóc ông, trò

chuyện với ông là Ucsula nhưng thực ra “người duy nhất mà cụ tiếp xúc từ

đã lâu là Prudenxio Aghila. Với dáng vẻ tiều tụy vì tuổi già trong cõi âm

phủ, Prudenxio Aghila cứ mỗi ngày hai lần đến nhà nói chuyện với cụ. Hai

người nói chuyện về gà chọi. Hai người hứa hẹn với nhau sẽ xây dựng một

chuồng nuôi những chú gà chọi tuyệt vời, không chỉ để vui vẻ trước một

trận thắng mà còn để giải khuây trong những ngày chủ nhật man mác buồn

22

ở cõi âm phủ.” (8,167).

Như vậy, Hose Accadio Buendia thủy tổ của dòng họ Buendia ở

Macondo đã tự lưu đày vào cõi cô đơn, sống suốt cuộc đời nhức nhối với

tội lỗi trong quá khứ, và đến chết cũng chết trong nỗi cô đơn. Sự cô đơn đã

tồn tại như bản năng của con người “tập trung những ý, hướng, những động

cơ, những ham muốn vĩnh viễn và bất biến mà ý nghĩa của chúng được

quyết định bởi bản năng, còn ý thức của chúng thì không biết được”

(13,1353). Nỗi cô đơn đó xuất phát điểm từ cội nguồn, bản thể riêng của

con người, nó cố hữu, ăn sâu vào tâm tưởng và dần dần đẩy con người vào

cõi tuyệt vọng.

1.2.2 Hôsê Accađiô Buênđya trăn trở về những phát minh khoa học

Đọc Trăm năm cô đơn, chúng ta không chỉ chứng kiến một cuộc chạy

trốn tội loạn luân, chứng tích của cuộc nội chiến giữa Đảng Tự Do và Bảo

thủ, còn chứng kiến những bước chuyển mình của xã hội Mỹ La tinh thu

nhỏ, một Macondo sôi động. Khi người Digan mang đến những phát minh

khoa học, Macondo phút chốc trở thành một thị trấn sầm uất với nghề thủ

công, buôn bán…

Lần theo tiếng chim hót những người Digan đã tìm đến ngôi làng vùng

đồng lầy Maconđo và mang theo những phát minh khoa học của thời đại,

nhưng đối với Macônđô đó hoàn toàn lạ lẫm. Sức cuồn hút của những phát

minh vĩ đại đó đã làm dẫy lên trong Hôsê Accađiô Buênđya những ám ảnh

về thuật giả kim. Tự lưu đày trong căn phòng bày la liệt những dụng cụ thí

nghiệm. Nỗi ám ảnh đó còn biến Hôsê Accađiô Buênđya thành một con

người khác, bỏ bê gia đình, bó buộc mình trong sự trầm mặc và vô hồn.

Hôsê Accađiô Buênđya say sưa và bồng bột lao vào những tìm kiếm khoa

học. Ông tự giam mình trong phòng thí nghiệm, và công việc tìm kiếm

những phát kiến đã ngày càng đưa ông tới bờ vực của sự thất bại. Ông trở

23

thành một kẻ điên dại và bị trói vào gốc cây dẻ.

Phát minh Hôsê Accađiô Buênđya với những phát minh

Tình huống xuất hiện các phát minh Cứ vào tháng ba Đá nam Hôsê Accađiô Buênđya, người có trí

hàng năm, một gia châm tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể

đình di gan rách của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa

rưới dựng một túp những phép mầu và trò chuyện huyền ảo,

lều bạt ngay cạnh nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ

làng … Đầu tiên, ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất.

họ mang tới đá

nam châm.

Những người Kính viễn Hôsê Accađiô Buênđya lại nẩy ra ý định

digan trở lại làng vọng và sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí

vào tháng ba, lần kính lúp … Ông ở lỳ trong phòng nhiều giờ liền,

này họ mang theo tính toán về những khả năng chiến lược

một kính viễn của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi

vọng và một kính ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc,

lúp. có tính sư phạm và đầy thuyết phục …

Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông

đành than phiền về sự thất bại của công

24

việc vừa ở bước khởi đầu.

Sau khi trả lại Kính thiên Ông ở ngoài sân suốt đêm để theo dõi

Hôsê Accađiô văn và la đường đi của các vì sao và suýt nữa mắc

Buênđya những bàn bệnh đau đầu vì ý muốn xây dựng một

đồng tiền đôblông phương pháp chính xác để tìm phương

để lấy lại chiếc Nam. Đây là thời kỳ ông mắc bệnh nói

kính lúp, những một mình.Vài ngày liền, ông cứ như

người Anhđiêng người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm nhắc

còn để lại một số đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt

tấm bản đồ của những phỏng đoán đầy kinh ngạc mà ông

người Bồ Đào Nha không cần tin vào sự hiểu biết của chính

và một vài dụng cụ mình.

đi biển

Menkyadet tặng Chế tạo đá Bị thách thức bởi thuật làm đá giả kim,

cho Hôsê Accađiô giả kim Hôsê Accađiô Buênđya đã bàn với Ucsula

Buênđya một đào số tiền vàng để nhân số tiền vàng này

phòng thí nghiệm lên gấp bội. Sau nhiều lần thất bại với

giả kim chất đặc quánh dính ở đáy chảo không lấy

ra được, thì những việc cần cù đầy hứng

thú, cha con Hôsê Accađiô Buênđya đã

dành được kết quả. Hôsê Accađiô

Buênđya cho họ xem cái nồi nấu kim loại

với số vàng đã được lấy lại, làm như thể

ông vừa chế được.

Qua những lần tự giam mình trong những đam mê khoa học, chúng ta

dễ dàng nhận thấy thực chất nhân vật đang tự đẩy mình vào nỗi cô đơn.

Ông thường giam mình trong phòng thí nghiệm, bỏ tất cả mọi thói quen

sinh hoạt. Trong những lần đam mê phát kiến khoa học chỉ duy nhất một

25

lần Hose Accadio Buendia thành công, đó là tách thành công hợp chất vàng

những cũng mất một thời gian rất lâu sau đó. Những ảo tưởng về khoa học

và những lần cố thủ của Hose Accadio Buendia chính là một dạng thức

trong ẩn ức vô thức. Hình dáng vật vờ, vô hồn dưới gốc cây dẻ là điều thực

sự gây nên nhiều ám ảnh về nhân vật cũng như tư tưởng tác phẩm muốn

hướng tới.

1.3. Cuộc đời chinh chiến của Aurêlianô và những nỗi ám ảnh về những lời tiên tri

Không có được sức vóc và tính cách tự do như anh trai mình,

Aurêlianô sống cuốn mình, và bị hấp dẫn bởi những thuật giả kinh, bởi căn

phòng bừa bộn của bố mình. Và điều đeo bám anh đó là những lời tiên tri.

Cuộc đời Aurêlianô là một vòng tròn khép kín. Nỗi ám ảnh đeo bám anh

dần biến anh từ một thanh niên thông minh và dũng cảm trở thành một vị

tổng tư lệnh tự tách biệt mình với thế giới, với đồng đội.

1.3.1 Cuộc đời chinh chiến

Như đã nói ở trên, hành động giết Prudencio Aghila của Hose Accadio

Buendia thể hiện tính hiếu chiến hiếu thắng, để rồi suốt đời mang theo mặc

cảm tội lỗi và phải bỏ làng đi nơi khác trở thành tù trưởng giỏi. Đặc tính ấy

đã được di truyền cho Aureliano Buendia một con người trốn chạy nỗi cô

đơn vào những trận chiến. Vị đại tá đã phát động ba mươi hai cuộc nổi dậy.

Nhưng rồi khi đứng trên đỉnh cao của danh vọng lại cảm thấy cô đơn và

cuối cùng tự đày mình trong căn phòng biệt lập.

Aureliano Buendia đến với chiến tranh khi anh có thiện cảm với phái

Tự do và bất bình vì sự bịp bợm của phái Bảo hoàng. Cũng sau cái chết của

Remediot, chàng dường như rơi vào tuyệt vọng. Nhưng sâu xa hơn vẫn là

lẫn trốn nỗi cô đơn. Sau này, Accadio Buendia cũng tìm đến chiến tranh

như một sự trốn tránh những nhục cảm đối với cô của mình là Amaranta.

Nhân vật đại tá Aureliano Buendia được nhà văn xây dựng dựa trên hình

26

mẫu ông ngoại của tác giả là đại tá Nicolas Ricardo Marquez Mejja. Tác

giả đã dùng gần hai phần ba chiều dài tác phẩm để nói về nhân vật

Aureliano. Một con người cô đơn, âu sầu ngay từ trong bụng mẹ, có tài tiên

tri và có trí tuệ hơn người, kiên định, đam mê quyền lực … Không giống

với anh trai của mình có một đời sống tình dục mạnh mẽ, mặc dù anh đã

từng chung đụng với rất nhiều phụ nữ, có mười bảy người con là kết quả

của tình một đêm. Nhưng đam mê suốt cuộc đời của anh là quyền lực

“Ngài đại tá Aureliano Buendia đã phát động ba mươi hai cuộc vũ trang nổi

dậy và thất bại hoàn toàn…. Ngài đã thoát nạn trước mười bốn vụ mưu sát,

bảy mươi ba vụ phục kích và một đội hành hình. … Ngài từ chối Huân

chương Công Huân do Tổng thống nước Cộng hòa tặng. Ngài trở thành

Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng, có quyền uy từ nước này

sang nước khác và là người buộc chính phủ phải gườm…” (8,129). Đến với

chiến tranh vì sự bất mãn với phái Bảo hoàng như vậy chứng tỏ, mục đích

anh đến với chiến tranh là khát vọng tự do, đây là mục đích vô cùng cao

đẹp. Anh đã lãnh đạo hai mốt chàng trai trang bị thô sơ tiến hành bạo động

trước vũ khí của phe Bảo hoàng. Đội quân của anh lập được nhiều chiến

công và càng chiến đấu anh càng thể hiện tài năng quân sự thiên bẩm của

mình. Nhưng khi đứng trên đỉnh cao danh vọng anh lại dần đánh mất chính

mình. Những khát vọng quyền lực đã tách anh khỏi cộng đồng và người

thân. Hình ảnh Aureliano Buendia trở về với đoàn tùy tùng bao quanh, anh

trở về ngôi nhà thuở thiếu thời của mình nhưng hết sức đề phòng, anh đề

phòng với những người thân và thậm chí cả mẹ của mình “… Ucsula có

cảm giác u buồn rằng con trai cụ là kẻ khác hẳn. Cụ có cảm giác ấy ngay từ

lúc chàng bước vào nhà được cả đội cảnh vệ ồn ĩ bảo vệ. Đội cảnh vệ này

đã lục lọi khắp các phòng cho đến khi thấy rằng không có gì nguy hiểm.

Đại tá Aureliano Buendia không những chỉ thừa nhận hành động càn quấy

thô bạo ấy mà còn ra lệnh một cách dứt khoát và không cho phép bất kỳ ai,

27

kể cả Ucsula được đến gần mình chưa tới ba mét trong lúc đội cảnh vệ

chưa bố trí xong lính gác quanh nhà.” (8,184). Để thị uy quyền năng của

mình, anh thiết lập lại tất cả mọi luật lệ, tiến hành cải cách, lập ra tòa án

quân sự và tiến hành trừ khử những người đe dọa đến vị trí của anh. Tính

độc tài của Aureliano Buendia thể hiện sâu sắc ở hành động giết tướng

Moncada để củng cố uy thế và quyền lực của mình. Họ đều là những người

thân tín và rất được Ucsula yêu quý, trước những lời can ngăn của mẹ anh

cũng không một chút lung lay, trắc ẩn. Moncada đã nhận xét “là một người

căm thù đám tướng lĩnh nhà nghề, từng đấu tranh không mệt mỏi với

chúng, từng trăn trở suy nghĩ về chúng thế mà nay anh chẳng khác gì

chúng. Trong cuộc đời không có mẫu người nào đại diện cho sự thấp hèn

của con người hơn anh … Anh không chỉ là một tên độc tài khát máu điển

hình nhất của lịch sử nước ta, mà rồi anh còn sẽ bắt cả cụ Ucsula để lương

tâm mình được yên ổn.” (8,188). Đại tá Aureliano mới thực sự thức tỉnh và

nhận ra sự vô nghĩa của chiến tranh khi Ucsula ra sức bảo vệ che chở cho

đại tá Herenendo Marquez thoát chết dưới tính độc tài của Aureliano

Buendia “Trong cái đêm dài đằng đẵng ấy, khi đại tá Herenendo Marquez

nhớ lại những buổi chiều êm đẹp trong phòng máy may của Amranta thì

đại tá Aureliano Buendia bức bối dằn vặt, cố cấu xé cho vỡ nát cái đêm dài

dằng dặc, cái vỏ dai bọc quanh nỗi cô đơn của chàng. Quãng đời hạnh phúc

duy nhất của chàng, kể từ buổi chiều xa xưa ấy khi cha chàng miệt mài đúc

những con cá vàng. Chàng đã phải khơi dậy ba mươi hai cuộc nội chiến, đã

nhiều lần thoát chết, và đã phải tìm kiếm vinh quang như con lợn dũi đống

rác tìm kiếm thức ăn, để gần bốn mươi năm sau mới phát hiện ra ý nghĩa

của câu phương ngôn “ngu si hưởng thái bình”, một đức tính vốn có của sự

nhẹ dạ cả tin…. Anh hãy đi giày vào và hãy giúp tôi kết thúc cuộc chiến

bẩn thỉu này.” (8,198,199) Chính từ thời điểm này, ngài đại tá mới bắt đầu

nhận ra sự vô nghĩa của chiến tranh, cuối cùng anh cũng thức tỉnh và tìm về

28

với bản thể “Chưa bao giờ chàng là một chiến binh dũng mãnh như lúc ấy.

Sự nhận thức sáng rõ rằng cuối cùng mình chiến đấu vì chính sự giải phóng

mình chứ không phải vì những tư tưởng …” (8,199) đã đưa anh đến với

trận đánh cuối cùng. Về nhà lần này, anh không ồn ĩ với đoàn quân tùy

tùng mà trong tư thế bị áp giải, bị phỉ nhổ, bị buộc tội … Nhưng cuối cùng

anh cũng trả lại cho cuộc đời những gì mình được hưởng kể cả phần mình

được hưởng trong tuổi già. Chàng về trong tư thế của kẻ thất bại nhưng tâm

hồn thật sự được thanh thản. Chàng đã thoát khỏi cạm bẫy của quyền lực và

trở lại với công việc thường ngày, trở về với xưởng kim hoàn, với những

con cá vàng thức chất lại là một sự trốn chạy khác. Aureliano Buendia tìm

đến chiến tranh trong nỗi cô đơn bản thể và trở về sau chiến tranh vẫn là

dáng vẻ cô đơn. Ngài tự giam mình trong xưởng kim hoàn cho tới lúc chết.

Hành động tự đóng cánh cửa cuộc đời mình là biểu hiện của sự bất lực và

cô đơn đã được định sẵn ở con người này.

1.3.2 Nỗi ám ảnh về những lời tiên tri

Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Aureliano được tiên đoán là đứa trẻ cô

đơn, bất lực trong tình yêu “Aureloano, người đầu tiên sinh ra ở Macondo.

Cậu bé lặng lẽ và cô đơn. Cậu đã khóc trong bụng mẹ và lọt lòng với đôi

mắt mở thao láo… Sau đó, mặc kệ những ai đến gần để xem mình, cậu bé

cứ chăm chăm nhìn lên mái nhà ọp ẹp xuýt sập xuống dưới sức ép khủng

khiếp của cơn mưa. Một ngày nọ, cậu bé Aureliano, mới lên ba tuổi, bước

vào nhà bếp giữa lúc Ucsula nhắc nồi canh ra khỏi bếp và đặt nó lên bàn,

chính trong ngày này bà mới biết sức nặng của cái nhìn ấy. Cậu bé thập thò

ở ngoài cửa nói: “Nó sẽ đổ đấy”… Cái nồi đã được đặt chắc chắn trên bàn,

nhưng bỗng nhiên, đúng như lời cậu báo trước, nó bắt đầu rung lên bần bật

rồi lăn lên mép bàn như có sức đẩy từ bên trong, rồi nó vỡ toang từng mảnh

trên sàn nhà.” (8,35) Cũng chính lúc này, Ucsula bắt đầu để ý đến khả năng

đặc biệt của con trai. Theo quan niệm của Freud, tâm linh con người là một

29

thành phần của tự nhiên. Các quy tắc mà nó tuân theo rất khó lý giải. Và

khả năng tiên tri cũng chính là một phần của đời sống tâm linh, là một dạng

thức của rối loạn tâm trí. Tất cả những quá trình tâm linh như giấc mơ, rối

loạn và các triệu chứng trông có vẻ kỳ lạ và vô nghĩa nhưng nó đều có

nguyên nhân cả. Đối với Aureliano, khả năng đặc biệt của anh phát sinh và

hình thành ngay từ trong bụng mẹ. Một lần khác khi Ucsula đang than vãn

về những sự trái thói trái tính trái nết của con trai, thì Aureliano mơ màng

nhìn và nói “Có người sẽ đến nhà mình đấy! …. Con không biết ai? Nhưng

người đến đây hiện đang trên đường đi.” (8,61) Qủa thật mấy ngày sau

Rebecca đến nhà với bức thư và tro cốt của bố mẹ cô. Dường như những

điều tiên tri của anh là một biểu hiện của một con người dị biệt. Sau này,

khi đang tham chiến, anh đã gửi về gia đình với một lời tiên đoán “Hãy

trông nom cha cẩn thận vì cha sẽ mất.” (8,165) và điều này làm cho Ucsula

thảng thốt. Cuộc đời của Aureliano là sự trải dài của những dự cảm, dự

báo. Chàng đã dự cảm được cái kết cụ bi thảm của các con mình. Và trong

chuỗi dài những ngày tháng cô đơn thầm lặng, trong sự giằng xé điên

cuồng, “đại tá Aureliano Buendia ra sức tìm kiếm một cách vô ích những

điềm báo từng đưa tuổi trẻ của ngài theo những con đường nguy hiểm tới

sa mạc bi thảm của vinh quang.” (8,272) Như vậy có thể thấy từ trong tiềm

thức của ngài đại tá Aureliano là nỗi cô đơn tiền định, những lời tiên tri của

ngài cũng chính là sự thức tỉnh của cõi cô đơn cá biệt trong con người ngài.

Điều đang nói, đến cuối đời chàng mới kịp lục tìm lại trong mớ hỗn độn

những lời tiên tri của mình về định mệnh cuộc đời. Ngài sống trong sự vô

thức, tham chiến trong vô thức, và tự giam mình trong căn phòng thí

nghiệm cũng trong vô thức. Cuối cùng sự vô thức về quyền lực và sự hư

ảnh về bản thân diễn ra trong tâm hồn ngài chính là sự thắng thế của cái cô

30

đơn tiền định.

Tiểu kết:

Trong chương này, tôi đã đi làm rõ những ẩn ức trong từng giấc mơ

của ba nhân vật. Một Ucsula luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân trong dòng

họ. Một Hose Accadio Buendia hoài niệm về những gì xảy ra trong quá

khứ, giấc mơ về những phát kiến vĩ đại của nhân loại nhưng rồi tất cả bị

hủy hoại và chôn vùi dưới hình dáng của con người bị ăn mòn và điên loạn

ngồi dưới gốc cây dẻ. Một Aureliano Buendia thông minh, được định mệnh

an bài với khả năng đặc biệt ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Anh khao khát

tự do, công bằng và đam mê chiến trận nhưng tất cả những lần phát binh

của anh đều thất bại. Cuối cùng anh trở về với hình ảnh quen thuộc của cha

mình, tự lưu đày trong phòng thí nghiệm với những con cá vàng, sống

trong vô thức và chết trong cô đơn.

Nhân vật trong Trăm năm cô đơn luôn bị trói buộc vào những giấc mơ

ám ảnh, họ cố sống, cố chấp nhận, dè chừng nó. Nhưng nỗi ám ảnh đó càng

đeo bám, ăn mòn hủy hoại tâm trí họ. Và họ càng ngày càng bị đẩy xa khỏi

cộng đồng, sống theo một lối mòn cũ, tự nhốt mình trong bóng tối cô đơn

31

của chính bản thân mình.

CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT CÔ ĐƠN BỊ ÁM ẢNH TÍNH DỤC “Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục” là một trong những tác phẩm chủ

yếu của Freud trên con đường xây dựng phân tâm học được công bố vào

năm 1905. Công trình này làm rõ cơ sở lý thuyết về các chứng nhiễu tâm,

giải thích nhu cầu dồn nén và những nguồn năng lực xúc cảm nằm bên

dưới những vận động và những ứng xử có ý thức và vô thức của con người.

Freud đã gọi năng lực đó là Libido ... Trong công trình này, Freud đã chỉ

rõ: Đời sống tính dục của con người không phải được bắt nguồn vào tuổi

dậy thì mà trái lại được biểu hiện rất sớm từ khi con người mới sinh ra.

Khái niệm tính dục khác hẳn với khái niệm sinh dục chứa đựng một nghĩa

rộng hơn nhiều và bao gồm nhiều hoạt động không có liên quan với cơ

quan sinh dục. Đời sống tính dục bao hàm chức năng cho phép thu được

các khoái cảm từ những vùng khác nhau của thân thể. Các vùng cơ thể gây

khoải cảm cho con người, Freud gọi là các vùng kín dâm, đầu tiên là

miệng, sau đó là hậu môn, tiếp theo là toàn bộ những bí mật của cơ thể do

bị trẻ tự khám phá ở thân thể của nó. Từ những phân tích sâu sắc về tính

dục, Freud đã đi đến xem xét những sự loạn dâm, thói phô bày, ác dâm,

khổ dâm … đều là những hiện tượng có thật trong đời sống tính dục của

con người. Đặc biệt Freud đã phân tích khá sâu những biến đổi tính dục ở

tuổi dậy thì, chấm dứt thời kỳ tiềm ẩn của đời sống tính dục. Các công trình

này đã khẳng định khái niệm cơ bản do Freud đề xướng là “Libiolip” giúp

chứng minh cho sức mạnh của cái vô thức. Theo Freud, đam mê tính dục

giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong đời sống tâm lý, là cội nguồn của mọi

cội nguồn tinh thần con người, đâu đâu cũng thấy đam mê tính dục hoàn

thành. Đó là nguyên nhân của bênh tâm thần cũng như của mọi sáng tạo, kể

cả văn học nghệ thuật. Đam mê đó trong học thuyết Freud là trung tâm của

32

các bản năng và được gọi là “mặc cảm Ơ-đíp” (13,75)

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: tính dục là đòi hỏi sinh lí về quan hệ

tính giao. Sigmund Freud quan niệm: Tất cả các hiện tượng tâm thần của

con người xét về bản chất là hiện tượng vô thức. Và đam mê tính dục có

một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời sống tâm lí con người. Đam

mê tính dục đã tạo ra nguồn năng lượng cực kì mạnh mẽ, cội nguồn của

mọi cội nguồn tinh thần, nguyên nhân mọi bệnh tâm thần cũng như khả

năng lao động sáng tạo ở con người. Đồng thời ông cũng lưu ý khái niệm

tính dục khác với sinh dục nó chứa đựng một nghĩa rộng hơn nhiều và bao

hàm nhiều hoạt động không có liên quan đến cơ quan sinh dục.

Ngay từ những năm 1970, Ủy ban Giáo dục và Thông tin về tình dục ở

Mỹ đã đưa ra định nghĩa hiện đại về tính dục như sau: Tính dục là tổng thể

con người bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn

ông hoặc đàn bà và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con

người, không phải chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của

nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần

và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự phát triển

nhân cách và mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại

xã hội.

Phật pháp cho rằng dục tính là nhân tính. Phật pháp quan niệm tính

dục nằm trong phạm trù của chữ “dục”. Mà dục ở đây là dục vọng, là sự

ham muốn của con người. Khi dục vọng của con người quá lớn sẽ gây hại

đến bản thân và xã hội.

Từ quan niệm của Freud đến giáo lý nhà phật đều cho thấy tính dục là

những ham muốn không chỉ ở ham muốn tình dục. Trong tiểu thuyết Trăm

năm cô đơn, tính dục không chỉ giới hạn trong tình dục mà nó mở rộng ra

các đam mê quyền lực, đam mê hưởng thụ vật chất của các nhân vật trong

33

tác phẩm.

2.1. Vấn đề tình yêu, tính dục trong sáng tác của Gabriel Garcia Marquez

G. Marquez một nhà văn gạo cội, được người đọc biết đến với những

tác phẩm đình đám như: Trăm năm cô đơn, Tình yêu thời thổ tả, Ngài đại

tá chờ thư, Tướng quân giữa mê hồn trận, Những cô điếm buồn của tôi …

Đã để lại nhiều băn khoăn, trăn trở trong lòng bao thế hệ về tình yêu và sự

cô đơn. Với tư duy nghệ thuật độc đáo, Marquez đã thể hiện trong tác phẩm

của mình một tình yêu vừa ngây thơ vừa sâu sắc, mãnh liệt đối với con

người, với cuộc đời. Có lần G.G. Marquez đã nói: Trên thực tế, mỗi nhà

văn chỉ viết một cuốn sách. Cuốn sách mà tôi đang viết là cuốn sách về “cái

cô đơn”. Sự cô độc thường xuất hiện trong các tác phẩm của Marquez. Ông

khai thác sự cô độc trong tình yêu, trong mỗi cá nhân và trong cả đời sống

nhân loại.

Trong tác phẩm Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Marquez

xây dựng nên cuộc đời của một nhà báo già. Sinh ra trong một gia đình

trung lưu nhưng ông sớm mồ côi cha mẹ. Trong căn nhà cũ kỹ, ông đã sống

một cuộc đời hoàn toàn cô đơn, không có vợ con, không bạn bè. Ông đã

từng dạy ngữ pháp tiếng Latinh và Tây Ban Nha. Sau đó, ông biên tập tin

tức và viết bình luận âm nhạc cho một tờ báo địa phương đến năm 90 tuổi.

Và chính trong buổi sáng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 ấy, ông bỗng ao ước

có một đêm tình ái nồng say với một thiếu nữ còn trinh nguyên. Cái ý

muốn đó thôi thúc ông đến độ ông tìm cách liên hệ với một người đàn bà

mối lái mà ông quen từ ngày còn trẻ, nhờ bà ta giúp đỡ bất chấp nỗi xấu hổ.

Ông đã đến nơi hẹn với một cô bé đang say ngủ. Khi ông ra về, ông đặt lên

trán cô nụ hôn vĩnh biệt và lời cầu Chúa giữ hộ trinh tiết cho cô. Nhưng

chính sự cô đơn của tuổi già đã khiến ông nhiều lần nữa đến gặp cô bé. Mỗi

lần, ông lại thêm yêu thương cô. Ông đem những bức tranh, những bó hoa,

34

những cuốn sách … bày trong căn phòng để sớm mai, khi thức dậy, cô bé

cảm thấy ấm cúng. Ông nhận thấy sự hiện diện vô hình của cô trong căn

nhà vắng lặng của ông. Cuộc sống nhàm tẻ, khổ cực của ông như có một ý

nghĩa, đó là niềm yêu thương, lo lắng cho tương lai của cô bé. Lần đầu tiền,

ông nhận ra “niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người

phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng

ngùng”.

Đối với G.G.Marquez viết về “cái cô đơn” của một con người, một

dòng họ, một đất nước chính là để “sáng tạo ra một huyền thoại khác hẳn,

một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định

đoạt số phận mình, ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và

hạnh phúc là cái có khả năng thực sự; và nơi những dòng họ bị kết án trăm

năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ nhất để tái sinh

trên mặt đất này.” (Diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Marquez –

theo Nguyễn Trung Đức).

Ở một tác phẩm khác, cũng cày xới trên mảnh đất truyền thống là tình

yêu nhưng tác phẩm đã đạt tới đỉnh cao mới bởi tính độc đáo và lạ lùng của

nó. Đó là Tình yêu thời thổ tả một câu chuyện cảm động của hai nhân vật

chính Phecmina Đaxa và Phlôrêntinô Arixa. Họ giống như rất nhiều cặp

tình nhân không lấy được nhau vẫn yêu nhau. Nhưng họ khác biệt ở cái

cách thức yêu. Họ yêu nhau bằng sự chờ đợi, không nổi loạn, không cướp

đoạt, không vụng trộm. Chờ hết quá nửa đời người, cho đến khi ông chồng

của Phecmina Đaxa chết vì già yếu. Nhưng ngày gặp lại, cả hai đều đã

thuộc vào “thất thập cổ lai hy”. Trong con mắt của những người xung

quanh, họ không còn sức để yêu nữa. Nhưng họ lại rủ nhau lên một chiếc

tàu thủy, giương lên một lá cờ màu vàng để thông báo trên tàu có người bị

thổ tả. Trên “vương quốc của thổ tả” họ tha hồ yêu nhau, yêu như chưa bao

giờ được yêu, yêu bù đắp cho cả cuộc đời chờ đợi của họ. Yêu như những

35

nam thanh nữ tú mới lớn … Để được bên nhau, con tàu của họ cứ chạy đi,

chạy lại trên sông, không cập mạn bất cứ một bến nào. Bằng cách đó, nỗi

cô đơn ngự trị trong trái tim hai người trong vòng “năm mươi ba năm bảy

tháng một ngày và đêm” đã được dỡ bỏ là lấp đầy bởi tình yêu đích thực.

Phải chăng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đã giúp Marquez chuyển tải được

tất cả những điều được coi là lạ lùng và độc đáo đó. Tình dục được phô

diễn ở mọi cấp độ khiến tác phẩm khi ra đời đã gây ấn tượng mạnh mẽ và

ăn khách chưa từng thấy.

Tình yêu thời thổ tả là sự suy nghĩ về tình yêu của con người ở mọi lứa

tuổi. Con người không chỉ yêu nhau ở độ xuân sắc, mà còn yêu nhau khi

đầu bạc răng long. Có lẽ cũng chính ở độ tuổi này, họ yêu nhau lại càng

chân thành hơn, da diết hơn, si mê hơn. Tình yêu chính là chiếc chìa khóa

để mở cánh cửa tâm hồn, giải thoát sự cô đơn. Đây cũng chính là thông

điệp, lời cảnh tỉnh của Marquez đối với những ai đùa bỡn với tình yêu để

thỏa mãn nhục dục. Những người đó sẽ bị sự cô đơn đeo bám sau khi đã

thõa mãn nhục dục. Lời cảnh tỉnh này, sẽ còn quay lại trong nhiều tác phẩm

của Marquez, mà điển hình là sự cô đơn của những con người trong dòng

họ Buenđia luôn bị nỗi ám ảnh về tình dục dày vò, rơi vào cái hố sâu cô

đơn của chính cuộc đời mình.

Trong tự truyện Sống để kể lại, và cuốn tiểu thuyết mang màu sắc tự

thuật Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, mang màu sắc, hơi hướng

mối tình của ông bà ngoại tác giả. Chính ông ngoại Nicolas Ricardo

Marquez Meija đã góp phần tạo nên cảm hứng giúp tác giả xây dựng nên

hình tượng nhân vật F.Ariza u sầu, si tình nhưng phóng túng và tham dục.

Trong Tình yêu thời thổ tả, đại tá Nicolas Ricardo Marquez Meija mặc dù

phản đối cuộc hôn nhân của con gái yêu Luisa Santiaga với một chàng trai

phóng túng, nhưng ngay chính bản thân ông là một người tham dục hào hoa

hơn cả con rể tương lai của mình. Thuộc tính hào hoa tham dục của cả ông

36

ngoại và cha mình đã được Marquez kết hợp nhằm sáng tạo nên một

F.Ariza với lịch sử huy hoàng hơn 620 mối tình chính thức và vô số những

cuộc tình chớp nhoáng. Trong mối quan hệ tình ái của G.G. Marquez và

những người tình, có thể nhận thấy một số đặc điểm gần như tương đồng

với các mối quan hệ tình ái của F.Ariza. Vụng trộm với các bà quả phụ, các

quý bà ngoại tình: Thông qua các văn bản có tính chất tự thuật lại tiểu sử

của mình, chúng ta có thể thấy đặc điểm đầu tiên cần xét đến trong mối

quan hệ tình ái giữa Marquez với những người tình, đó là rất hiếm có

những cô gái còn trẻ và chưa có chồng. Đa số nhân vật người tình của ông

là những bà góa, những mệnh phụ xa chồng, chán chồng hoặc chê chồng.

Chính những sự quyến rũ kì lạ và một niềm đam mê khó tả đó đã tạo cảm

hứng cho Marquez. Có thể nói một loạt những mối tình vụng trộm, bí mật,

chớp nhoáng và đầy màu sắc tính dục đã góp phần làm nên sắc màu tình

yêu đa dạng trong tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả. Nó chỉ ra mặt bản năng

phồn thực tất yếu của tình yêu, nhưng đồng thời cũng làm rõ những năm

tháng trống rỗng và cô đơn của nhân vật F.Ariza trong sự chờ đợi và vết

thương lòng mà tình yêu bất diệt với F.Daza gây ra.

Tính dục trong sáng Tình yêu thời thổ tả còn thể hiện qua những mối

quan hệ đa bạn tình và thường xuyên quan hệ với gái điếm. Trong sáng tác

của G.G.Marquez gái điếm là một đối tượng thẩm mỹ. Những cô gái điếm

biểu trưng cho niềm đam mê khoái lạc mãnh liệt từ phía nam giới, thể hiện

quyền uy của giới nữ trong năng lực tình dục, đồng thời biểu hiện cho một

nền văn hóa với nhiều sa đọa và cũng đầy cởi mở trong tình ái. Tuy nhiên

các nhân vật của Marquez tuy sôi nổi và ham muốn dục vọng nhưng đều là

những con người u sầu trong tình ái, chính nỗi ám thị đó lại là sức hút

37

mãnh liệt trong nội tâm u uất của các nhân vật.

2.2. Yếu tố tính dục trong tác phẩm Trăm năm cô đơn

Trăm năm cô đơn được Marquez chính thức viết năm 1967 thì hoàn

thành và xuất bản. Nhưng như lời của ông, Trăm năm cô đơn được hoài

thai từ hai mươi năm trước. Từ năm 1970 tác phẩm này được in ra hàng

triệu bản, sau đó tải bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác

nhau, trở thành cuốn sách ăn khách. Cùng với giải Nobel văn học 1982

quyển sách cùng với tác giả của nó trở thành một hiện tượng trong văn học.

Trăm năm cô đơn được đánh giá là sản phẩm tuyệt với của hư cấu nghệ

thuật. Điểm nổi bật của Trăm năm cô đơn còn ở nỗi ám ảnh về tội loạn luân

đã đẩy những con người nơi đây chìm sâu vào nỗi cô đơn. Họ cô đơn trong

chính ngôi nhà của mình. Cô đơn giữa những người thân thuộc. Cô đơn

trên chiếc giường của mình, trong giấc mơ của mình … và cuối cùng sau

một trăm năm tồn tại, ngôi làng Macondo bị xóa sổ. Nghiên cứu tiểu thuyết

Trăm năm cô đơn dưới góc nhìn phân tâm học, trước hết tôi tìm hiểu nó

dưới góc nhìn vô thức của tính dục. Mà như đã nói ở trên, tính dục trong

tác phẩm này không chỉ dừng lại ở tình dục, nó còn là đam mê quyền lực,

đam mê hưởng lạc và mặt vật chất … của mỗi thành viên trong làng

Macondo hay cũng chính là mỗi thành viên trong dòng họ Buenđia.

Marquez viết về vấn đề tính dục trong tác phẩm của mình ở nhiều

phương diện phản ánh: từ không gian mang tính dục cho đến nhân vật

mang tính dục, những mối quan hệ tình dục chằng chéo của những con

người cùng huyết thống.

2.2.1 Macondo không gian mang tính dục

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê cắt nghĩa: Không gian là

khoảng không bao trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống

con người (24,633). Không gian nghệ thuật theo cách hiểu của Lê Bá Hán

38

trong cuốn sách Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: Không gian nghệ

thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh

thể của nó. (11,162). Trần Đình Sử lí giải thêm: Không gian nghệ thuật là

hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật. (11,88), ông còn khẳng định một

cách chắc chắn rằng: “Không có hình tượng nghệ thuật nào không có

không gian, không có một nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó”.

Và “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu

hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống” (11,88-

89). Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai

của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện

chiếm lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”, là hình thức

tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật không những cho

thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà

còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả

hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá

tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.

Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.

Maconđo thấp thoáng dáng dấp ngôi làng Aracataca bên vịnh Caribe,

nơi nhà văn Marquez gắn tuổi thơ với những thị trấn xộc xệch, nhà thổ

nhếch nhác, con đường lấm bùn, những chuyến tàu cũ kỹ rệu rã nối thông

với thế giới bên ngoài, băng qua những đầm lầy những đồn điền chuối ngút

mắt. Ở đó, có những người già mòn mỏi bước ra các cuộc chiến với lẫm liệt

huyền thoại trong các câu chuyện kể, đời sống dần mòn tiều tụy bởi sự lãng

quên và tàn lụi.

Nhưng Macondo trong Trăm năm cô đơn cũng là số phận những quốc

gia, vùng lãnh thổ đóng chặt với thế giới bên ngoài theo một lời nguyền

đầy phi lý nào đó. “Người ta không chết khi phải chết, mà sẽ chết khi nào

có thể chết”, đại tá Aureliano Buendia (một hình mẫu của ông ngoại

39

G.G.Marquez) kẻ đã tham gia hai mươi hai cuộc nội chiến và đã thất bại

hoàn toàn đã luận về cái chết như thể trong Trăm năm cô đơn. Và thực tế,

không chỉ trong Trăm năm cô đơn, cái cô đơn, cái chết vốn mang chủ đề

lớn trong hầu hết các tác phẩm của Marquez như Ngài đại tá chờ thư, Hồi

ức về những cô gái điếm của tôi … Và cũng chính có lần Marquez đã nói:

Cả cuộc đời tôi chỉ viết một cuốn sách duy nhất, đó chính là cuốn sách viết

về cái cô đơn. Cái cô đơn khi nhìn dòng dõi lụi tàn trước mắt, cái cô đơn

vùi sâu trong thổn thức hoan lạc tình ái của những kẻ loạn luân, cái cô đơn

của cái đẹp phải rời bỏ cõi người bị xô lệch bởi dục vọng, và còn có cái cô

đơn của một đời sống bất an dẫn sâu trong hành trình ngược chiều tiến hóa.

Macondo trong quá trình phát triển của nó, dần chuyển mình từ một làng

quê đơn sơ, thanh bình thành một ngôi làng của thời hiện đại với sự xuất

hiện của những phát minh khoa học. Nhưng cũng chính những phát minh

của đời sống hiện đại đã biến Macondo thành một mảnh đất ô nhiễm, bạo

lực và tệ nạn xã hội. Macondo trù mật trước đây được thế chỗ bởi một

Macondo khô cằn, nghèo nàn, và thiên tai hoành hành, dân chúng xơ xác

bỏ làng đi nơi khác dẫn đến sự hoang tàn. Sự hoang tàn của làng Macondo

nó gắn liền với sự suy vong của dòng họ Buendia.

Suốt trong chiều dài của tác phẩm, trong không gian Macondo,

Marquez đã nhiều lần miêu tả các cuộc mây mưa của các nhân vật. Đó là:

ngôi nhà của dòng họ Buendia, ngôi nhà gần như nhà chứa của Pilar

Ternera, quán của những người Digan nơi Arcadio ân ái với cô gái người

Digan, căn phòng của Erindia, tiệm ăn kiêm nhà chứa của bác Catarino,

nhà của Petra Cotes nơi hai anh em Aureliano Segundo và Arcadio

Segundo cùng chia sẽ các đêm hoan lạc với ả, vũ hội Carnavan nơi tôn vinh

các người đẹp, khu phố cấm nơi tụ tập của các cô gái làng chơi, xóm lầu

xanh điêu tàn nơi các cô gái điếm đói khổ hành nghề, nhà của Nigromanta,

40

nhà chứa ma quái ở Macondo …

Không gian mang tính dục đầu tiên trong truyện chính là không gian

ngôi nhà của Ucsula và Hose Accađiô Buênđya. Sau cái chết của Prudencio

Aguilar trong cuộc chọi gà, Hose Accađiô Buyênđya về nhà và tuyên bố

với vợ: nếu mình đẻ ra kì đà thì chúng mình sẽ nuôi kì đà … Nhưng trong

làng này sẽ không có thêm những người chết vì tội lỗi của mình. Và đêm

đó bọn họ thức suốt đêm vần nhau trên giường cho đến lúc rạng đông,

không để ý tới gió lùa vào phòng mang theo tiếng than khóc của gia quyến

Prudencio Aguilar (8,46). Cũng sau cái đêm đó họ sống trong sự dằn vặt và

lo sợ, dằn vặt vì bị bóng ma của Prudencio Aguilar ám ánh khắp nhà, lo sợ

vì tội loạn luận và nỗi lo sinh ra đứa con đuôi lợn.

Không gian chứng kiến những cuộc chung đụng xác thịt gắn liền với

nhân vật Hose Arcadio chính là ngôi nhà của Pilar Ternera. Hose Arcadio

là con người có tính dục khá mạnh, được thừa hưởng thân hình vâm váp

khỏe mạnh, có lối sống theo bản năng. Và trong suốt cuộc đời của mình,

anh không hề yêu bất cứ một người phụ nữ nào, Hose Arcadio chỉ đến với

phụ nữ để giải quyết nhục dục của mình. Pilar Ternera là người đàn bà đầu

tiên đi qua cuộc đời cậu. Hose Arcadio lục tìm thứ khói phả ra từ nách thị

hàng đêm, và thứ khói ấy cứ bám lấy da thịt anh, mỗi lần được thị lôi vào

buồng ngủ lại khiến Hose Arcadio thích thú đến mê dại, lại vừa cảm thấy

sợ hãi. Tối hôm đó, Hose Arcadio đã liều lĩnh tìm đến nhà thị, tại đó lần

đầu tiên trong đời cậu đã quan hệ với một người đàn bà trong cái không

gian chật hẹp, ẩm mốc của phòng ngủ thị, ở đó có bà mẹ, cô em, người

chồng và ba đứa con của thị đang say ngủ. “Trong trạng thái mệt mỏi đến

kinh khủng anh đã để nó lôi tuột anh đến một chỗ không tiện nghi lắm, là

nơi nó lột truồng anh ra, nó mân mê anh như mân mê củ khoai, nó vần anh

sang trái lại xoay anh sang phải, là nơi anh không ngửi thấy mùi đàn bà nữa

mà chỉ thấy mùi nước đái quỷ …” (8,52). Sau này cũng chính cái không

41

gian đó, Pilar Ternera lại chung đụng với Aureliano. Nếu như Hose

Arcadio bị ám ảnh bới cái mùi khói phả ra từ nách Pilar Ternera, thì

Aureliano lại hồi tưởng đến căn phòng của thị “Vào một buổi sáng sớm xa

với trong một căn buồng hoàn toàn khác lạ … Pilar Ternera mặc đồ lót,

chân không đi tất, đầu óc bú xù.” Đó chính là nơi Aureliano để lại phía sau

mình bến bờ của nỗi đau” (8,97). Dường như căn phòng của Pilar Ternera

cũng là nơi thường xuyên diễn ra những cuộc mây mưa vì “không bao giờ

thị từ chối làm ơn cho người khác cũng như không bao giờ từ chối biết bao

người đàn ông từng tìm đến thị ngay cả khi thị đã xế bóng về già. Thị chiều

họ không vì tiền cũng không vì tình mà chỉ hi hữu đôi lần vì thích thú khoái

lạc, thế thôi.” (8,193). Và chính căn phòng này, đã diễn ra hành động loạn

luân ghê tởm nhất giữa mẹ ruột và con trai.

Nói đến không gian tính dục trong Trăm năm cô đơn, không thể không

nhắc đến không gian gắn liền với những người Digan. Họ là những người

đầu tiên mang đến Macondo những sản phẩm của thế giới văn minh, bên

cạnh đó họ cũng mang đến những trò tiêu khiến, ăn chơi trụy lạc. Chính vì

vậy, khi đến Macondo họ đã tạo ra một không gian đầy dục tính. Không

gian diễn ra cuộc mây mưa cũng chẳng có gì lãng mạn, đó là những cái lều

tạm, quán công của đoàn người Digan, “nơi những người Digan qua lại

luôn, lúc thì mang những dụng cụ xiếc, lúc thì hóa trang, có lúc họ tụ tập

bên cạnh giường chơi một ván xúc xắc” (8,58). Ngay cạnh chỗ Arcadio và

cô gái Digan làm tình có một cặp khác thản nhiên diễn những trò ân ái.

“Con vật trứ tuyệt của anh đang nghỉ ngơi đã bị đánh thức bởi nỗi đam mê

của người khác” (8,59).

Rồi thêm cái quán của mụ tú người Anhđiêng, mụ chăn dắt một cô gái

điếm chính là cháu gái của mình. Mỗi ngày cô phải phục vụ đến bảy mươi

người đàn ông trong căn phòng chật chội. Marquez đã miêu tả căn phòng

thật ghê tởm với không gian ngột ngạt, đông đặc để làm nổi bật công việc

42

nhơ nhớp mà ngày nào cô gái cũng phải chịu đựng. “Không khí trong

phòng, vì đã có quá nhiều người qua lại và bị ngào trong mùi mồ hôi và hơi

thở, bắt đầu đông đặc lại nhuyễn thành bùn. Cô bé lột chiếc ga trải giường

ướt sũng và nhờ Aureliano cầm hộ một đầu. Nó nặng chình chịch. Hai

người vặn hai đầu vắt tấm khăn trải giường cho đến khi kiệt nước” (8,80).

Hình ảnh về căn phòng, tấm ga và thân thể cô gái được tác giả miêu tả thật

ghê rợn, tạo nên một không gian dục tình đầy ám ảnh.

Cùng với sự phát triển của làng Macondo, kéo theo nó là những tệ nạn

xã hội, nhà chứa và các cô gái mại dâm mọc lên như nấm. Tiệm ăn của

Catarino cũng mở rộng hình thức kinh doanh để phục vụ nhu cầu của xã

hội “Tiệm ăn được mở rộng với một dãy phòng gỗ, phòng của những người

đàn bà son phấn độc thân” (8,96), và đây chính là nhà chứa đầu tiên ở

Macondo.

Ngôi nhà của Petra Cotes mang một không gian tính dục đặc sắc. Là

nơi hai anh em sinh đôi Aureliano Segundo và Arcadio Segundo cùng nhau

chia sẻ những đêm hoan lạc cùng với Petra Cotes. Một điều kì lạ là khi

Arcadio Segundo nhường Petra Cotes cho em mình thì cũng chính là lúc

gia sản của Aureliano tăng lên chóng mặt. Họ chỉ cần làm tình với nhau

thôi cũng khiến đàn gia súc sinh sôi nảy nở cực nhanh. Tỷ lệ đàn gia súc

của Aureliano tỷ lệ thuận với những cuộc mây mưa ân ái của hai người.

“Aureliano Segundo mở cửa và nhìn thấy ở sân lúc nhúc những thỏ là thỏ,

lông xanh mượt trong ánh bình minh … Vài tháng sau bò cái đẻ ba. Mọi

chuyện đều bắt đầu từ đấy … hầu như anh không đủ thời gian để mở rộng

hơn nữa các chuồng thả gia súc và bãi thả gia súc” (8,237) Aureliano

Segundo gào toáng lên trong sự phấn khích “Hỡi những con bò cái, hãy

giạng háng ra kẻo cuộc đời quá ư ngắn ngủi” (8,237).

Macondo yên bình trù phú, đã thu hút dân tứ xứ đến lập đồn điền trồng

chuối và một xã hội hỗn độn, đã phá vỡ cái thanh bình thuở nào của vùng

43

đất nơi đây. Những cuộc mâu thẫu giai cấp, những vụ đàn áp, thanh trừng

đẫm máu khiến cho Macondo ngày một hoang tàn. Những trận thiên tai liên

tiếp xãy ra và Macondo đi đến cuộc hành trình của sự hủy diệt. Song hành

với sự hưng vong của Macondo là sự suy tàn của dòng họ Buendia.

2.2.2. Nhân vật mang tính dục, mối quan hệ chằng chéo giữa những người cận huyết

Trong Trăm năm cô đơn nhà văn G.Marquez đã kể lại câu chuyện về

một dòng họ mắc tội loạn luân, hầu hết các thành viên trong dòng họ này

đều mắc phải.

Câu chuyện loạn luân trong dòng họ khởi đầu từ việc Hose Arcadio

Buendia lấy em họ là Ursula là hành động mang tính loạn luân. Hành động

đó đã vượt qua chuẩn mực của đạo đức xã hội. Vì thế, các thế hệ sau

thường đam mê tính dục và đặc biệt là sự ham muốn có tính chất loạn luân

đối với những người cận huyết. Hành động bỏ làng đi của Hose Arcadio

Buendia là hành động tự tách mình ra khỏi cộng đồng, tự lưu đày vào cõi

cô đơn. Trong cái lúc cô đơn nhất ấy, các thành viên trong dòng họ lại tìm

đến tình dục, tình dục trở thành cứu cánh cho nỗi cô đơn của dòng họ. Tiêu

biểu cho những nhân vật mang tính dục mạnh mẽ đó là Hose Arcadio,

Aureliano Segundo, Hose Arcadio (người cuối cùng của dòng họ). Và

những mối quan hệ chằng chéo trong nhục dục của dòng họ này. Cuộc

chung đụng giữa hai anh em cùng một người đàn bà, chung đụng giữa cô

(di) với cháu, cuộc chung đụng giữa mẹ và con (Phần này sẽ nói rõ hơn ở

phần sau). Marquez luôn để các nhân vật của mình cuốn vào những vòng

xoáy định mệnh, đó là những vòng xoáy của sự cô đơn và đam mê tội lỗi

Trong luận văn Thạc sĩ Tính dục trong Trăm năm cô đơn của Gabriel

Garcia Marquez của Đỗ Duy Chiến đã khảo sát toàn diện những vấn đề

tính dục trong Trăm năm cô đơn. Nhất là những mối quan hệ cận huyết,

44

những cuộc loạn luân chằng chéo trong dòng họ sống một trăm năm. Đó là

sự chung đụng của hai anh em với một người phụ nữ, loạn luân giữa mẹ và

con, giữa cô (dì) và cháu, giữa anh và em.

Theo khảo sát của luận văn này, mối quan hệ loạn luân giữa hai anh

em cùng chung đụng với một người phụ nữ. Luận văn đã khảo sát trong

cuốn tiểu thuyết này có hai trường hợp cặp anh em cùng quan hệ tình dục

với một người phụ nữ trong hai thế hệ. Đó là cặp anh em Arcadio và

Aureliano quan hệ với Pilar Ternera, cặp thứ hai là Arcadio Segundo và

Aureliano Segundo với Petra Cotes. Hai người phụ nữ này là những người

ngoài dòng họ, có dục tình hừng hực, sống buông thả và gần như gái điếm.

Hai hình ảnh này gần như đồng nhất với nhau, để xây dựng cái vòng tròn

luẩn quẩn của hai cặp nhân vật của hai thế hệ.

Cặp nhân vật Arcadio và Aureliano cùng quan hệ với Pilar Ternera . Thị

được miêu tả là người đàn bà dâm dục, thị chưa bao giờ từ chối một người

đàn ông nào tìm đến thị, ngay khi thị đã già. Hai anh em đời thứ hai của

dòng họ Buendia cùng chung đụng với thị và cùng có con. Marquez để cho

nhân vật của mình bị lôi cuốn, bị ám ảnh bởi cái mùi khói phả từ nách thị.

Cả Arcadio và Aureliano đều bất chấp tuổi tác, rào cản, ranh giới mà quan

hệ với thị, trôi tuột trong cái miên man của nhục dục, bể sâu của tội lỗi.

Hose Araccadio là con trai đầu lòng của Hose Araccadio Buenđia và

Iguaran Ucsula. Sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ anh bỏ làng đi tìm vùng

đất mới. Dường như anh là con người sinh ra đã định đoạt số phận một

người sống bản năng, tự do, và bản ngã. Sở hữu tinh thần vâm váp, lực

lưỡng. Anh đi khắp nơi, trưng diện cơ thể cường tráng và “con vật trứ

danh” của mình. Việc làm có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của anh, là cứu

thoát em trai mình thoát khỏi cuộc hành hình. Jose Araccadio thích sống

theo cá tính của mình, nhưng lại rất nhút nhát “không dám sờ vào tảng

nước đá” (8,66), thậm chí còn vụng về, không quan tâm bất cứ thứ gì, thờ ơ

45

với cuộc sống xung quanh, và tất nhiên cũng không thể hiểu được những

khả năng kì vĩ của phát minh khoa học mà cụ Menkyadet đưa đến, những

kỳ công của bố mình. Anh lạc lối trong nỗi cô đơn tiền định đeo bám, chỉ

có một sự cuốn hút đó là dục vọng. Những người đàn bà đi qua đời anh

chính là minh chứng cho bản năng đó của Hose Araccadio. Đầu tiên là nỗi

ám ánh của mùi khói phả ra từ nách của Pilar Tenera. Thứ mùi khen khét

đó lẫn quất và ám ảnh anh để hàng đêm anh lại lẫn trốn tìm đến căn nhà

của thị, cũng chính lần đầu tiên anh biết mùi đàn bà. “… trong trạng thái

mệt mỏi đến kinh khủng anh đã để nó lôi tuột anh đến một chỗ không tiện

nghi lắm, là nơi nó lột truồng anh ra, nó mân mê anh như mân mê củ khoai,

nó vần anh sang bền trái lại xoay anh sang bên phải, là nơi anh không ngửi

thấy mùi đàn bà nữa mà chỉ thấy mùi nước đái quỷ …” Hose Araccadio bị

cuốn vào trò chơi dục vọng và anh lao vào đó như một con thiêu thân, như

một kẻ mộng du. Anh tự tìm đến với thị với ham muốn bản năng, và thị đã

đồng lõa làm cho nhân vật này càng sa lầy vào mối quan hệ bất chính. “Ban

ngày, thiếp đi vì buồn ngủ, anh thầm ngậm nhấm khoải cảm đêm trước”

(8,53). Arcadio không để tâm bất cứ một việc gì, cũng chẳng bận tâm đến

lời nói của bất cứ ai, mà cứ đê mê trong những đêm dục tình cùng với thị.

Rồi Arcadio đem chuyện này kể tỉ mỉ cho cậu em của mình, Aurelianio đã

hưởng ứng một cách nhiệt tình và đồng cảm. Với sự tò mò của tuổi mới

lớn, dục vọng của anh không dừng lại ở một người đàn bà, anh tìm đến cô

bé người Digan, với một cách vồ vập theo bản năng “Từ phía sau anh ôm

chặt lấy thắt lưng cô ta. Cô ta cố vùng ra nhưng Hose Araccadio càng ôm

chặt hơn. Vậy là cô ta rung động, đứng im …” (8,58) “Hose Araccadio và

cô gái không xem tiết mục chặt đầu người đàn bà. Họ đi về phía quán của

cô, là nơi với nỗi thèm khát tuyệt vọng họ thỏa sức hôn nhau trong lúc cởi

quần áo …” Thực chất hai con người này họ đến với nhau với mục đích

giải quyết nhu cầu tâm sinh lý, theo tiếng gọi của dục vọng, đơn thuần chỉ

46

là tím kiếm lạc thú và khoái cảm. Họ không ngần ngại mây mưa ngay chốn

công cộng, đông người qua lại. Anh làm tình với sức mạnh của một con

thú, hoàn toàn bị chi phối bởi dục vọng. Hậu quả nặng nề cho cuộc tình

vụng trộm là Pilar Ternera đã có mang. Điều này khiến cho Arcadio vô

cùng hoảng sợ, cố trốn chạy trách nhiệm, giam mình trong phòng thí

nghiệm và cuối cùng là bỏ đi cùng những người Digan. Việc Hose

Araccadio bỏ làng đi theo đoàn người Digan là minh chứng cho kiểu người

sống bản năng, nhiều dục vọng như anh. Và cái cách anh trở về trong sự

ngỡ ngàng của tất cả mọi người càng chứng minh cho điều đó. Trong bộ

dạng nghèo khó và lạ lẫm “Tấm lưng vuông vức của anh ta dường như

không lọt qua được cửa. Trên cổ anh ta đeo một sợi dây chuyền có treo

hình thánh bà đồng trinh Remedios. Ngực và hai cánh tay anh ta xăm kín

ảnh các nghĩa trang. Trên cổ tay anh ta đeo bức tượng đồng chúa Giêsu bị

đóng đinh câu rút. Anh ta có nước da đen sạm bởi phong sương dãi nắng,

mái tóc ngắn và bờm xờm như bờm lừa, hàm răng bạnh ra cứng kều, đôi

mắt âu sầu … Sự có mặt của anh ta đem đến cho mọi người cảm giác rùng

mình trước trận động đất” (8,123) Cái cách anh trở về với bộ dạng kinh dị

đó, cùng với những hình xăm nghĩa trang trên khắp cơ thể là một điềm báo

về một cảm giác bất an, một tai họa sắp ập đến ngôi làng này.

Cũng giống như trước khi anh bỏ làng đi theo đoàn người Digan, lần

trở về này, bản tính hoang dã của anh lại càng bộc lộ mạnh mẽ hơn. Vừa về

ngay sau đó, anh lao vào những cuộc ăn chơi trác tán, sử dụng ngay cái cơ

thể vâm váp, cơ bắp cuồn cuộn của mình làm trò tiêu khiến, trụy lạc. Đấy

là cách sống dựa trên chính cơ thể của mình. Anh tìm đến tiệm ăn của bác

Catarino để thỏa mãn lối sống buông thả, phóng túng của mình. Cũng tại

đây, sức hút từ cơ thể của anh đã gây nên sự tò mò và cảm dỗ đối với

những người xung quanh, đặc biệt là những người đàn bà “… Trong không

khí vui vẻ Hose Araccadio đứng trên quầy hàng trưng cho mọi người xem

47

cơ thể cường tráng của mình không chỗ nào không xăm … Hướng về

những người đàn bà đêm ấy ngủ với anh trong tiệm bác Catarino” (8,125).

Rõ ràng, Hose Araccadio chẳng khác nào một gã trai điếm rẻ tiền, sống nhờ

vào “con vật trữ tuyệt” ấy, nhưng đây cũng là cách để nhà văn dẫn dắt nhân

vật của mình vào cõi cô đơn ngàn đời, vùi sâu trong dục vọng của một con

thú cũng là cách mà những con người trong dòng họ Buenđia lẫn trốn khỏi

tội lỗi, nỗi cô đơn. Như vậy, chúng ta có thể thấy tiếng gọi của đáy sâu dục

vọng đã kéo Hose Araccadio ra khỏi ngôi làng Maconđo trù phú, kéo anh

xa ngôi nhà và những người thân của mình, lang bạt khắp nơi, trở về nghèo

túng và lạ lẫm. Càng ngày anh càng lẫn sâu vào nỗi cô đơn bản ngã, bản

thân anh không biết mình cần gì, khao khát cái gì, không có lý tưởng,

không có đam mê mà chỉ biết tồn tại, hành động theo dục vọng, theo cá

tính và bản năng.

Sau khi anh trai bỏ nhà ra đi, Aureliano đã được anh nuôi mầm, chia sẻ

những đêm hoan lạc với người đàn bà nạ dòng. Không giống như anh trai

mình, anh tìm đến thị một cách vô thức, với sự thôi thúc của dục tình mới

lớn, và sự tò mò. Anh tìm đến thị với một ẩn ức tình dục “Anh quên mất

không biết làm thế nào mà mình đến đây nhưng vẫn nhận rõ mình đến với

mục đích gì rồi, bởi vì từ thuở còn thơ anh đã mang theo mình cái mục đích

ấy và dấu kĩ nó trong cõi sâu kín nhất của trái tim mình” (8,97). Anh tìm

đến Pilar Ternera và nói thẳng tuột cái ý nghĩa của mình “Tôi đến ngủ với

chị đây” không một chút dè dặt, và tất nhiên cũng chẳng một chút yêu

thương chẳng qua chỉ là sự thỏa mãn dục vọng của tuổi mới lớn. Là nhân

vật có nhiều con nhất trong tác phẩm (mười bảy người con với mười bảy

người đàn bà khác nhau) nhưng lại không phải là nhân vật có đời sống tính

dục mạnh mẽ. Cũng giống như những người trong dòng họ, anh tìm đến

tình dục để giải quyết nỗi sầu, khóa lấp nỗi cô đơn.

Đối với cặp anh em sinh đôi Arcadio Segundo và Aureliano Segundo

48

cũng mắc vào cái lưới tình luẩn quẩn của Petra Cotes. Trường hợp hai anh

em này cũng giống hệt tính cách hai ông của mình. Họ bắt đầu tò mò đến

tình dục, đến giới tính. Một lần nữa Marquez đã để cho nhân vật của mình

rơi vào mê cung tình ái của cùng một người đàn bà. Cũng giống như Pilar

Ternera, Petra Cotes không có ngoại hình xinh đẹp, gương mặt như mặt

báo, đã có chồng, cũng chẳng có gì duyên dáng và hấp dẫn. Bù lại thị có

trái tim hào hiệp và nghệ thuật mồi chài ái tình rất tuyệt vời. Hai người đàn

bà này giống hệt nhau cũng giống như hai cặp anh em của hai thế hệ trong

dòng họ Buendia. Trước những ham muốn dục tình không cưỡng lại được

của Aureliano Segundo, chẳng lâu sau đó anh đã quan hệ với người đàn bà

của anh trai mình trong một lần nhầm lẫn chẳng khác nào trò đùa của số

phận. Petra Cotes nhầm lẫn hai anh em, và Aureliano Segundo cũng chẳng

cần đính chính lại. “Trong khoảng vài tháng, cậu cùng với anh mình chia sẻ

các đêm hoan lạc với người đàn bà ấy” (8,233). Trong mỗi quan hệ chằng

chéo này chỉ có Aureliano Segundo biết được Petra Cotes nhầm lẫn, và

cũng có lần cậu cố tình để anh trai mình lỡ hẹn. Và chuyện vỡ lỡ khi cả hai

cũng mắc bệnh lậu khi cùng quan hệ với một người đàn bà.

Trong Trăm năm cô đơn còn lên án mối tình loạn luân giữa mẹ và con.

Đây được xem là tội loạn luân đáng lên án nhất, đã xãy ra ở thế hệ thứ ba

của dòng họ này. Cả Arcadio và Aureliano Jose đều có ý định thông tư với

mẹ của mình. Mặc dù tính chất và hành động của hai nhân vật này không

giống nhau. Arcadio là sản phẩm của Hose Arcadio và Pilar Ternera

“Arcadio vốn là một đứa trẻ đơn độc và hoảng sợ trong suốt thời kì dịch

mất ngủ hoành hành, trong hoàn cảnh Ucsula làm giàu, Hose Arcadio điên

rồ, Aureliano lầm lì ít nói, Amaranta và Rebeca thù nhau”. Hoàn cảnh sống

đã ảnh hướng rất lớn đến tâm lí của Hose Arcadio. Anh thực hiện hành vi

loạn luân với mẹ mình trong vô thức, mù quáng, thực chất anh không hề

biết gốc gác của mình và sự ham muốn với Pilar Ternera là sự thèm khát

49

không gì cưỡng lại được. Sự khao khát của Arcadio là những khao khát

trong ẩn ức, như một bệnh dịch di truyền của dòng họ Buendia. Nhưng sự

loạn luân của Arcadio chưa vượt qua giới hạn của nó. Pilar Ternera đã tìm

một cô gái trinh thế chỗ cho thị. Đến Aureliano Hose không vượt qua được

cảm dỗ của Pilar Ternera. Cậu là kết quả của mối quan hệ bất chính giữa

Pilar Ternera và Aureliano. Aureliano Hose được cô ruột của mình nuôi từ

nhỏ và được xem như con, nhưng lớn lên, cậu lại có tình cảm của chính cô

của mình một cách bệnh hoạn. Bị cô từ chối, cậu trốn chạy vào trong chiến

trận và lại trở về với một tay ăn chơi trác tán. Cậu cũng là một hiện tượng

loạn luân đáng lên án nhất trong dòng họ Buendia, khi vừa yêu cô ruột một

cách bênh hoạn và tư thông với mẹ đẻ của mình mặc cho biết rõ gốc gác

của bản thân.

Một dạng thức loạn luân nữa trong Trăm năm cô đơn là mối tư thông

giữa anh và em, giữa cô (dì) và cháu. Trong tác phẩm này, Jose Araccadio

một con người hành động theo bản năng. Sau khi trốn chạy khỏi nỗi sợ về

trách nhiệm, hoảng loạn và cô đơn, anh trở về với nỗi kinh ngạc của mọi

người. Từ thân hình vâm váp của anh phả ra một sự cảm dỗ không thể

cưỡng lại được. Anh lao vào những cuộc ăn chơi trác tán. Hành động của

anh có thể xem đó là sự cắn dứt lương tâm trong nỗi cô đơn trống trãi bị

dồn ép. Dù đã được cảnh cáo Bebeca là em gái anh, nếu lấy nhau sẽ trái với

lẽ của tạo hóa. Tuy rằng Rebeca đến gia đình Buenđia với một bức thư con

của người họ hàng xa bên Ucsula. Nhưng hành động của hai người hoàn

toàn đáng lên án, và bị pháp luật ngăn cấm. Jose Araccadio đã biện hộ cho

hành động tội đồ mù quáng của mình: “Ôi dào tôi ngồi lên cái lẽ tạo hóa

ấy”(8,187). Hose Araccadio vẫn cởi hết váy và dằn ngửa Rebeca. Việc làm

đó khiến Ucsula coi họ như những kẻ đã chết và cấm cửa hai người này.

Họ chuyển ra ở trong một ngôi nhà gần nghĩa trang. Những hành động của

50

quá trớn của hai người đã làm cho hàng xóm phải giật mình hàng đêm, và

họ cầu mong những cuộc cuồng dâm thác loạn đó không làm kinh động

những kẻ đã chết đang yên nghỉ trong cõi thành tĩnh.

Trong cái không gian mà quái của dòng họ Buenđia lại thêm một lần

nữa chứng kiến những cuộc tình vụng trộm, vượt ranh giới và loạn luân.

Đó là mối quan hệ bất chính giữa cháu và cô ruột. Cùng với sự đồng lõa

của Amaranta, Aureliano Hose đã không ngần ngại trải qua những đêm

hoan lạc với chính cô ruột của mình, người mà trong lúc cả hai cùng lạc

vào khoái cảm của chốn cô đơn đã nói với anh rằng: “Ta là cô mày, ta gần

như mẹ mày, không vì tuổi tác, mà vì ta nuôi dạy mày đủ điều chỉ còn thiếu

cho mày bú thôi” (8,276). Cuộc tình tội lỗi này khiến cho hai người day

dứt, dằn vặt, lạc lõng trong nỗi cô đơn ngàn đời. Amaranta không giám

chấp nhận bất cứ một tình yêu nào khác, Aureliano Hose thì trốn chạy

trong các cuộc chiến tranh đẫm máu. Nhưng càng trốn chạy thì hình

ảnh của Amaranta càng hằn sâu hơn trong tâm trí của anh. Làm sao mà có

thể thoát khỏi sự cám dỗ dục tình khi mà những con người ấy sống trong

môi trường đầy tính dục. Và đáng sợ hơn khi họ lấy dục tính làm lẽ sống, lẽ

tồn tại, là cái cớ đế lẫn trốn nỗi cô đơn truyền kiếp.

Trong lý thuyết phân tâm học, từ những phân tích sâu sắc về tính dục,

Freud đã đi đến xem xét những sự loạn dâm, thói phô bày, ác dâm, khổ

dâm … đều là những hiện tượng có thật trong đời sống tính dục của con

người. Những nhân vật trong Trăm năm cô đơn luôn cảm thấy bị lạc lõng

và cô đơn trong chính con người mình, và luôn bị những ẩn ức về tính dục

chi phối. Có thể xem đây là cách mà họ lẫn trốn nỗi cô đơn ngàn đời.

2.2.3 Rêmêđiốt – người đẹp nhân vật miễn dịch với tính dục giữa thế giới đầy dục tình

Giữa không gian và xã hội ngập ngụa dục tình, những trái thói loạn

luân của dòng họ bảy đời, vẫn còn một nhân vật được miễn dịch với ham

51

muốn tình dục cận huyết. Mỗi nhân vật trong Trăm năm cô đơn đều có cá

tính riêng, những cá tính đó làm nên cái dị biệt so với những nhân vật khác.

Ở đó, các nhân vật lún sâu vào vô thức của nỗi cô đơn. Nhưng có một điều

kỳ lạ, một nhân vật được miễn dịch bởi căn bệnh di truyền của dòng họ

chính là Rêmêđiốt - người đẹp. Nàng là người duy nhất thoát khỏi nạn dịch

trồng chuối, luôn luôn sung sướng trong cái thế giới hiện thực giản đơn của

mình. “Nàng cứ giữ mãi cái tuổi niên thiếu tuyệt đẹp, ngày càng dửng dưng

trước mọi sự chải chuốt, càng không lưu tâm gì đến những cái ma mãnh

giảo hoạt, luôn luôn sung sướng trong cái hiện thực giản đơn của chính

nàng.” (8,261) Ở nàng có hơi thở độc hại làm chết bốn chàng trai thất tình

bởi sắc đẹp tuyệt trần, một trong số đó đã rơi từ trên nóc nhà tắm xuống mà

chết khi nghe từ chối: “Chẳng bao giờ em lại đi lấy một người con trai

xoàng đến mức bỏ phí cả hàng tiếng đồng hồ, thậm chí bỏ cả bữa cơm

chiêu đãi, để chỉ làm cái việc là xem một cô gái tắm.” Nguyên nhân gây ra

cái chết cho bốn người đàn ông, làm cho những kẻ khác phải nhộn nhạo,

đau khổ nhưng Rêmêđiốt – người đẹp không hiểu nổi tại sao họ lại như thế.

Nàng càng tỏ ra đơn giản thì nàng càng quyến rũ “Điều đáng ngạc nhiên ở

cái bản năng đơn giản của nàng là càng vứt bỏ qua những quy phạm để

tuân theo cái bột phát tự nhiên” Rêmêđiốt – người đẹp là hiện thân cho cái

đẹp. Sắc đẹp của nàng, làn hơi tự nhiên của nàng cùng với tâm hồn trong

sáng tự nhiên thuần khiết ấy lại là thảm họa đối với đàn ông. Trong khi các

thành viên thuộc dòng họ Buendia đều vướng vào tội loạn luân, và những

đặc tính tính dục mạnh mẽ, thì Remediot – người đẹp lại là người dửng

dưng với những thói tật của dòng họ. Cô được nhà văn Marquez nhận định

“Dường như có một sự thông minh sắc bén nào đó đã cho phép cô gái nhìn

ra bản chất của các sự vật ẩn sau bất kỳ hiện tượng nào” (8,375) Trước vẻ

đẹp “có tính hủy diệt” của cô chắt gái, Ucsula đã yêu cầu cô mỗi lần ra

ngoài phải đeo mạng che mặt. Nhưng tất cả đều không ngăn được sức cuốn

52

hút của nàng. Trong cái thế giới Macondo, nàng hoàn toàn lạc lõng giữa

cuộc đời, như con người bị bỏ quên giữa sa mạc. Chính vì thế mà nàng thơ

ơ với tất cả mọi thứ trên đời, tỏ ra khó hiểu trước những bận tâm của chị

em gái, thấy khó hiểu trước những kẻ si tình ngày đêm đeo đuổi, cầu hôn

mình… “Remediot – người đẹp một mình bới trong sa mạc cô đơn, chẳng

có cây thánh giá trên vai, chìm đắm trong những giấc mơ tươi đẹp, trong

những buổi tắm triền miên, trong những bữa ăn không giờ giấc, trong chuỗi

im lặng sâu thẳm không hồi tưởng” (8,267). Một con người sinh nhầm xã

hội, sinh nhầm thời thế, và vì thế sự tồn tại của họ là không thể kéo dài.

Hình ảnh nàng ra đi cũng mang một ý nghĩa hết sức ly kì “Amaranta cảm

thấy lạnh xương sống và cố bám lấy chiếc chăn cho khỏi ngã, đúng vào lúc

Remediot – người đẹp bay lên… Giữa luồng sáng phập phồng của những

chiếc chăn cùng bay lên theo nàng trong cái bầu không khí kết thúc lúc bốn

giờ chiều, và tất cả cùng theo nàng vĩnh viễn biến mất ở trên tầng cao

không khí nơi những con chim bay cao nhất cũng chẳng vỗ cánh tới bao

giờ. ”(8,268). Và tất cả đều tin rằng nàng đã hóa thân thành con ong chúa,

đó là số mệnh tiền định của nàng. Những con người trong xã hội của nàng

coi sắc đẹp của nàng là cái khao khát, theo đuổi và để hưởng thụ. Nhưng họ

lại không hiểu rằng chỉ có tình yêu đích thực, sự chân thành mới đưa con

người hòa nhập với cộng đồng, và cũng chỉ có thứ tình yêu đó mới đưa con

người thoắt khỏi vực sâu của nỗi cô đơn và tuyệt vọng.

Xây dựng nhân vật Remediot – người đẹp, có thể xem là niềm tin của

Marquez về một lý tưởng hãy sống thật với bản thân mình, dũng cảm bước

qua những lề thói cũ để hòa nhập với cộng đồng và xã hội, để thoat khỏi

nỗi cô đơn truyền kiếp.

Tiểu kết:

Bên trong niềm đam mê sáng chế, khát vọng với cuộc chiến tranh là

53

những tay chơi đú đởn, phè phỡn bởi những con người có các mối quan hệ

xác thịt cùng huyết thống hoặc những con người của cùng dòng họ. Hai anh

em Hose Accadio và Aureliano cùng ăn nằm với Pila Tecnera. Sau này,

con trai của Hose Accadio với Pila Tecnera cũng khao khát thỏa mãn tình

dục với chính mẹ của mình. Còn con trai của Aureliano với Pila Tecnera lại

đòi lấy cô ruột của mình. Những lằng nhằng, rắc rối trong các mối quan hệ

huyết thống bắt đầu từ đấy. Mỗi con người mang dòng Buendia trong thế

giới Macondo luôn đòi hỏi được thỏa mãn. Khi có được tình cảm họ rất

mực mãnh liệt và khát khao ân ái dù đó là những người cùng huyết thống.

Chẳng hạn, Aureliano Hose ngay từ nhỏ cậu luôn rời bỏ chiếc võng của

chính mình để làm một kẻ mộng du trườn mình và thức dậy trên cơ thể của

người cô ruột. Tình yêu trong giới loạn luân khiến cậu bất chấp, dù biết

rằng đây là cô ruột của mình nhưng cậu vẫn thèm khát. Cậu đã cưỡng bức

cô ruột, nhưng thực chất cô lại là kẻ đồng lõa. Những kiểu ăn mặc khêu

gợi, hương thơm tinh tế với bộ quần áo trắng lộ ra tấm thân nõn nà với

những đường cong rõ nét. Cô bước qua buồng của Aureliano khiến cậu

không thể kìm lòng ham muốn. Một lần, hai lần rồi trở nên liên tục, mãnh

liệt hơn trong những lần ân ái loạn luân. Như vậy, có thể thấy những hành

động lôi kéo, đồng lõa đã quá phổ biến trong dòng họ Buendia, và ngôi

làng Macônđô chính là nơi “lưu đày” dòng họ bảy đời này. Những con

người lần lượt ra đời và lần lượt sống với cuộc đời và số phận bi đát. Họ

lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, họ tìm đến nhau để thỏa mãn khát

vọng dục vọng để rồi lại thấp thỏm với tội loạn luân bởi các cuộc tình cận

huyết. Mỗi thành viên là một cái vòng tròn xoay quanh cái vòng tròn lớn.

Bản án nặng nhất cho họ là sự diệt vong. Suốt đời họ trốn chạy, sống mãi

trong nỗi cô đơn, khao khát tình dục, chính cuộc sống bó hẹp, khép kín

buộc họ tìm đến nhau để thỏa mãn sự cuồng nhiệt của bản thân. Đó cũng

54

chính là bi kịch lớn nhất của dòng họ Buyênđya.

CHƢƠNG 3. VÔ THỨC TẬP THỂ TRONG

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN

Vô thức là những quá trình xảy ra trong tâm trí của con người, xảy ra

một cách tự động, không thể dùng ý chí để điều khiến. Nó bao gồm các quá

trình tư duy, trí nhớ, và các động cơ tiềm ẩn. Vô thức được ví như một phần

chìm của tảng băng tâm linh, góp phần quyết định trong việc hình thành các

khuynh hướng của mỗi cá nhân. Trong vùng vô thức liên tục diễn ra cuộc

đầu tranh giữa bản năng và bản ngã, giữa phần “con” và “người” và bản

năng sẽ bị dồn nén lại trong hàng rào kiếm duyệt (censure) không chơ vượt

qua lên tầng ý thức được. Nên những xung lực này chỉ biểu hiện phần nào

trong các giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh. Vô thức nằm

ở đáy sâu tăm tối của tâm linh nên không thể thực nghiệm và không thể khảo

sát được bằng các trắc nghiệm.

Vô thức tập thể là thuật ngữ do nhà tâm lí học phân tích người Thụy Sĩ

Carl Jung (1875-1961) đặt ra vào đầu thể kỉ XX để chỉ một cấu trúc tâm lí

chung cho mọi con người thuộc mọi thời đại. Trước khi Jung nêu ra khái

niệm này, Sigmund Freud (1856-1939), người sáng lập phân tâm học lần

đầu tiên đưa ra thuật ngữ vô thức. Thuật ngữ vô thức do Freud đề xuất và

phát triển về sau này để trở thành hạt nhân của học thuyết phân tâm học của

ông hoàn toàn chỉ mang tính cá nhân, theo đó, vô thức là những kí ức bị

dồn nén khỏi ý thức nhưng có thể khôi phục lại được nhờ các kĩ thuật phân

tâm học.

Vô thức tập thể theo quan niệm của Jung là phần sâu nhất của tâm thần

quyết định số phận cá nhân cũng như xã hội. Nó là nơi lưu trữ kinh nghiệm

của chúng ta với tư cách là một loài, đó là những tri thức mà khi sinh ra

chúng ta đã có sẵn, mang tính tiên nghiệm và không phụ thuộc vào môi

55

trường hay hoàn cảnh như cách nhìn nhận của tác giả khác chẳng hạn như

Freud khi xem xét mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ trong giai đoạn trẻ

con. Như vậy có thể thấy khác với Freud, và cả các nhà tâm lí học hay triết

học khác, khái niệm của Jung nói chung và khái niệm cơ bản nhất của ông

là vô thức tập thể nói riêng mang tính quyết định luận nhiều hơn so với các

học thuyết tâm lí khác. Có thể thấy điều này khi ông chống lại quan điểm

khẳng định sự phát triển tâm lí cá nhân chỉ bắt đầu từ khi cá nhân ra đời.

3.1 Vô thức một vấn đề khoa học

Đối với vô thức một vấn đề khoa học, các nhà triết học và tâm lý học

đều gặp nhau ở quan điểm về đối tượng nghiên cứu khi cho rằng vô thức là

thiên về động cơ tiềm ẩn, mà chính nhà văn có khi cùng cảm thấy được một

phần nào, và thường ngộ nhận thành một động cơ khác thuộc về ý thức như

không ít nhà thơ cho rằng mình làm thơ theo trực giác. Chính vì vậy, từ thế

kỉ XIV trở về trước, dưới cách nhìn triết học bất khả tri luận, các nhà triết

học đều cho rằng vô thức là một sự “linh cảm thần thành”, là một “trực giác

siêu nhiên” mà Chúa ban cho các nhà thơ. Nhưng điều đáng nói là trực giác

dù sao cũng là một dạng thái của ý thức, còn vô thức là một hình thái của

tiền ý thức hay một tiềm thức.

Đến năm 1905, qua các tác phẩm của mình, Freud đã nêu lên những

luận điểm đắt giá về vô thức – xứng đáng được xem là một đóng góp xuất

sắc cho phân tâm học. Hiểu khái lược nhất, vô thức là những sự kiện tâm

linh cá nhân, chìm khuất trong góc tối của thế giới nội cảm và không bao

giờ có ở dạng tồn tại biểu hiện, không thể dùng ý chí để điều khiển được.

Nó là động cơ tiềm ẩn, có khi trở nên mãnh liệt, thôi thúc hành động đến

mức không kiểm soát được, không hợp với lý trí. Vô thức quyết định đến

sự hình thành các khuynh hướng ở con người. Trong vùng vô thức luôn

diễn ra cuộc xung đột giữa bản năng và bản ngã, giữa phần con và phần

56

người và bản năng bị dồn nén lại trong hàng rào kiểm duyệt không cho

vượt lên tầng ý thức được. Những xung lực này thể hiện phần lớn trong

chứng bệnh thần kinh và một phần trong những giấc mơ.

3.2. Vô thức trong vấn đề sáng tạo văn chƣơng

Tuy không có nhiều công trình nghiên cứu về vô thức trong sáng tạo

văn học, nhưng những ý kiến rải rác trong các tác phẩm của mình, Freud đã

đưa ra nhiều ý kiến chấn động: “Nghệ thuật là lĩnh vực duy nhất trong đó

sức mạnh toàn năng của các ý tưởng được duy trì cho đến tận thời đại

chúng ta. Chỉ trong nghệ thuật mới có câu chuyện rằng một người bị các

ham muốn khuẩy đảo đã thực hiện một cái gì đó như một một thỏa mãn; và

nhờ có ảo ảnh nghệ thuật, trò chơi này làm nảy sinh những xúc cảm như do

một cái gì có thực. Thật có lý khi ta có sự thần diệu của nghệ thuật, và nghệ

sĩ được ví như người có ma thuật” (18)

Vô thức trong sáng tác văn học cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ nổi

tiếng định nghĩa. Bergson – nhà văn Pháp đoạt giải Nobel năm 1927, cũng

có một định nghĩa với tầm ảnh hưởng sâu rộng: Hồi nãy tôi đang thức, các

hoài niệm có thể đưa ra những liên lạc họ hành với thực tại khách quan, với

những tri giác hiện có của tôi. Giờ đây, trong giấc mơ, những hình thể lờ

mờ hơn đang diễn xuất trước mắt tôi, những âm thanh mập mờ hơn đang

nhẹ vang bên tai tôi, nhưng cũng có những cảm giác khác tôi tiếp nhận từ

bên trong cơ thể …

Freud đã đưa ra quan điểm sáng tạo văn học đó là trạng thái thăng hoa

những sự dồn nén tính dục do không được thỏa mãn trong thực tế nên đã hóa

thành những hình tượng biểu trưng để tự thỏa mãn. Nhà thơ Tagore cũng đã

thừa nhận trong tiểu thuyết Nàng Héloise mới, tuy tả mối tình say đắm giữa

Julie và Saint-Preux nhưng nhà văn cũng vô tình xen vào đó những xung đột

tính dục của bản thân, tự sinh lý đến tâm lý để dẫn dắt câu chuyện. Nhưng có

57

vẻ Freud đã quá đề cao vai trò của tính dục và sự dồn nén tính dục.

Vô thức trong sáng tạo văn học còn phải kể đến những điều ám ảnh từ

thực tại khách quan mà nhà văn đã từng trải qua và có tác động cực kỳ to

lớn đến nhận thức của nhà văn. Chính những ảnh hưởng to lớn của thực tại

khách quan chèn ép đến nhận thức khiến nhà văn ám ảnh. Những ám ảnh

đó thật sự không thể tiêu biến mà chỉ có thể bị lãng quên tạm thời, đến một

lúc nào đó nó trỗi dậy trong tiềm thức và biểu hiện bằng những hình tượng

biểu trưng. Những cái ám ảnh có thể là ấn tượng thời ấu thơ, cũng có thể

xuất phát từ những ẩn ức do bi kịch cá nhân nhà văn đem lại. Đồng thời với

những ám ảnh tuổi thơ và bi kịch cá nhân của nhà văn, thì vô thức còn có

thể là do linh cảm trực quan của nhà văn quá nhạy bén.

Nói đến văn chương không thể không nói đến cảm hứng, cảm hứng và

mối quan hệ với vô thức trong sáng tạo văn học cũng vấn đề của phân tâm

học. Trong sáng tạo văn học, vô thức chỉ là một mặt sâu xa, là phần khuất

chìm của quá trình đó. Còn về quá trình sáng tạo, do thực tại khách quan

tác động trực tiếp vào thế giới nội cảm của nhà văn, khiến nhà văn dâng

tràn chất men say sáng tạo. Chính chất men say sáng tạo này đã nhấn chìm

nhà văn vào trạng thái thăng hoa của Freud khẳng định. Cho nên giữa cảm

hứng và vô thức tồn tại mối quan hệ họ hàng mà Bergson thừa nhận. Hiểu

một cách khái quát nhất, cảm hứng là một trạng thái hưng phấn, do những

ấn tượng từ thực tại khách quan tác động tạo nên chất men sáng tạo diễm

ảo sai khiến nhiều nhà văn phóng ra năng lượng từ thế giới nội cảm của

mình bằng óc liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo có tầm hiệu quả trong thời

gian ngắn nhất – gọi là đốt cháy giai đoạn. Như vậy, cảm hứng thường gắn

liền với tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. Nhưng dù là tưởng

tượng gì đi nữa, thì đã là cảm hứng đều thuộc về chủ thể nên cảm hứng

mang đậm dấu ấn của thế giới nội cảm nhà văn, cộng hưởng với kinh

nghiệm, tài năng của nhà văn cũng góp phần tạo nên vật liệu sáng tạo. Và

58

vật liệu này đã được đồng hóa qua nội cảm nhà văn nên tác phẩm mang

đúng cốt cách của nhà văn. Tức là nó thể hiện đầy đủ đời sống vô thức của

nhà văn …

Cũng có thể nói rằng, vô thức trong sáng tạo văn học là sự nắm bắt

cảm hứng, dồn nén cảm hứng và đốt cháy cảm hứng. Sở dĩ nói vậy là do

nhà văn đã thẩm thấu, tính toán các ý tưởng nội dung – nghệ thuật đến mức

chín muồi vào tâm thức nên trong quá trình sáng tạo nhà văn cứ tưởng

mình viết theo quán tính – hay còn gọi là bản năng. Đây chính là sự chuẩn

bị không tự giác hay đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát lí trí của tác giả. Chính

vì vậy mà khi nói đến vô thức mà không đề cập đến cảm hứng là một thiếu

sót lớn và không thể thấy được hết dạng thái của vô thức.

Biểu hiện của vô thức có thể thấy rõ nhất là trong giai đoạn nhà văn

viết tác phẩm. Do sự đốt cháy cảm hứng thành trạng thái thăng hoa, nhà

văn nhập thân thành những nhân vật của mình, và nô lệ cho những con chữ

như có sức mạnh ngàn cân ấy. Nhưng chính vô thức lại có những tác động

đặc biệt đến tác phẩm về ý tưởng nghệ thuật mà chính tác giả phải có thời

gian nhận thức mới biết được. Vô thức đã làm cho tác phẩm có những cú

“lệch pha” ngoạn mục so với ý tưởng ban đầu của nhà văn. Và hầu hết

những cú “lệch pha” ấy đều có giá trị nghệ thuật rất cao, góp phần nâng cao

tư tưởng của tác phẩm.

Vô thức thật sự mà nói là cuộc sống trước khi con người biết nhận

thức cuộc đời của chính mình, là một quan niệm về thế giới trước khi con

người biết quan niệm về thế giới. Lúc đó con người mới chính là mình thật

sự. Chính vì vậy, những tác phẩm viết trong vô thức thể hiện đúng nhất,

đầy đủ nhất, và hoàn chỉnh nhất thế giới quan của mỗi nhà văn khi xét “thế

giới như là ý chí và quan niệm”. Vô thức là nguồn gốc sáng tạo văn học bởi

lẽ nó không chỉ chi phối đến nghệ thuật của tác phẩm, thể hiện đầy đủ và

hoàn chỉnh thế giới quan của nhà văn mà vô thức gần như là một nhân tố

59

quyết định đến tài năng của nhà văn. Và sự chi phối của vô thức đến sự

nghiệp sáng tạo của nhà văn đến khi nào nhà văn ngừng đập nhịp thở của

trái tim mình. Có thể thấy rằng những dấu ấn của nhà văn thể hiện rõ nét

trong tác phẩm không hẳn vì tác phẩm thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh thế

giới quan của nhà văn mà vì tác phẩm là sự hiện thực hóa đời sống ẩn ức –

vô thức của chính nhà văn. Mà mỗi người đều là một cuộc đời, là một “tiểu

vũ trụ” khép kín riêng biệt không ai có thể thấu được. Chính vì vậy, vô

thức quy định đến cảm hứng chủ đạo hay cảm thức văn học của nhà văn.

Do sáng tạo văn học là sự thỏa mãn những ẩn ức nên vô thức quy định luôn

hướng xử lý nghệ thuật của nhà văn. Và sự quy chiếu này của vô thức đến

sáng tạo văn học của nhà văn như một sự cưỡng ép vô hình đến nỗi chính

nhà văn không bao giờ ý thức được. Bằng chứng rõ nhất là có bao giờ nhà

văn tự mình xác định chính phong cách của chính mình mà không thông

qua nhận thức của một chủ thể khác. Mà có chăng thì đó là một sự huyễn

hoặc, một câu trả lời hàm hồ.

Vô thức như Freud đã nói thật sự là cội nguồn sáng tạo của văn học.

Tuy vô thức chỉ như một giây phút thôi miên, một cái vẫy chào từ hư vô xa

thẳm, nhưng từ trong những giây phút huyền bí ấy các tác phẩm xuất thần

mới xuất hiện “như một câu chuyện bất đắc dĩ” có giá trị nghệ thuật xứng

gọi là những trang viết để đời của nhà văn. Như vậy, có thể nói các nguyên

lý vô thức là tiền đề cơ sở lí luận để các trào lưu chủ nghĩa khuynh hướng

văn học xuất hiện. Những nhà văn theo trào lưu này sáng tác theo nguyên

tắc: hướng thế giới về thế giới vô thức của con người để khám phá một lĩnh

vực vô hạn của sáng tạo nghệ thuật; đề cao cái ngẫu hứng, cái xuất hiện

lướt qua trong đầu không kiểm soát của lí trí; vứt bỏ sự logic, đạo đức, tôn

60

giáo mà tin vào trực giác.

3.3 Vô thức của tập thể trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn

3.3.1. Những ám ảnh về thực tại khách quan của Gabriel Garcia Marquez

Gabriel Garcia Marquez sinh ra tại thị trấn Aracataca, cạnh bờ biển

Caribe. Có lẽ vì sinh ra cạnh một vùng biển chứa đựng nhiều huyền thoại

nên Gabriel Garcia Marquez luôn thấy lòng mình “dậy sóng” nên ông

muốn đi chinh phục. Ông quằn quại cả tuổi trẻ khi không định hình được cá

tính, ý muốn của mình. Và ông chỉ bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình khi

gần bước sang tuổi 30, một khởi đầu muộn nhưng lại ấp ủ cả một đống tro

tàn và chỉ chờ phút giây bùng phát. Đến khi những tiểu thuyết bụi đường và

nhuốm sự cô đơn lần lượt ra đời thì tên tuổi của Gabriel Garcia Marquez

mới trở thành một hiện tượng văn học của Colombia và thế giới.

Gabriel Garcia Marquez là con cả sinh ra trong một gia đình trung lưu

của mười một người con. Cha ông là một nhân viên điện tín đào hoa có

nhiều con ngoài giá thú. Vì vậy, thực chất nhà văn Gabriel Garcia Marquez

không biết mình có bao nhiêu anh chị em chính thức. Và chính điều này đã

ám ảnh ông trong suốt tác phẩm Trăm năm cô đơn. Trong sốt cuộc đời

cầm bút của mình, ông luôn bị ám ảnh bởi những thực tại khách quan, về

tuổi thơ, về gia đình, về mảnh đất mà mình đang sống, và cả những gì mình

chiêm nghiệm. Trong những tác phẩm của ông luôn có dáng dấp của những

con người, mảnh đời thực. Chẳng hạn như, trong suốt hơn năm năm cầm

bút, Gabriel Garcia Marquez vẫn không tìm ra cho mình một lối đi. Đến

năm 1965, ông bắt đầu tác phẩm lớn nhất của đời mình Trăm năm cô đơn

trong vòng 18 tháng. Trong tiểu thuyết này, nhân vật đại tá Aureliano

Buendia lấy hình mẫu từ người ông nội của nhà văn Nicolas Marquez

Meja. Nhà văn luôn bị ám ảnh bởi những câu chuyện của ông nội. Hầu như

những sự kiện xảy đến trong cuộc đời ông nội, luôn ám ảnh nhà văn. Có

61

lần ông viết “Cuộc sống không phải cái mà người ta sống, nó là cái mà

người ta nhớ và cái cách mà người ta nhớ để kể lại nó” Gabriel Garcia

Marquez đã viết trong lời đề từ cho cuốn hồi ký của ông. Đó là cái cách mà

ông nhớ lại, tái hiện lại và kể lại bằng nhiều cách một sự cố bi thảm trong

đời người ông của nhà văn. Nó xảy ra năm 1908, đó là cuộc đọ súng, “cuộc

đấy vì danh dự” trong đó vị đại tá không còn lựa chọn nào khác ngoài việc

đối đầu với người bạn cũ, một viên cựu trung úy. Anh ta là “một gã khổng

lồ trẻ hơn ông đến mười sau tuổi” đã có vợ và hai con, tên anh ta là

Medardo Pacheco. Theo kể lại, cuộc cãi cọ bắt đầu bằng một lời “nhận xét

nhục mạ” đối với mẹ của Medardo Pacheco và nó được qui cho ông của G.

Marquez. Việc “giải thích công khai” về sự lăng nhục này không làm nguôi

được cơn giận dữ điên cuồng của Medrado, và ông đại tá, “người xúc phạm

danh dự” của anh đã thách Medrado một trận đấu kiếm chí mạng. Không

có “ngày được ấn định” và anh phải mất đến sáu tháng để giải quyết vấn đề

đảm bảo tương lai cho gia đình, trước khi ra đi để đón nhận số phận của

mình. “Cả hai người đều mang vũ khí” G.Marquez nhận xét, Medrado bị tử

thương ngã gục xuống “bụi cây thấp nức nở không nói lên lời”. Với sự kiện

này, trong cuốn tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, nhà văn đã tái hiện lại qua sự

kiện Aureliano Buenđia và Prudencio Aguilar thi đấu chọi gà với nhau,

Prudencio Aguilar thua cuộc, nói lỡm Aureliano Buenđia và bị tử nạn bằng

một nhát giáo đâm chí mạng chắc chắn của Aureliano Buenđia. Giống như

Đại tá Marquez trong đời thực, Aureliano đầu tiên lên tàu trong cuộc di cư

cùng với gia đình, để tìm một thành phố mới: thành phố Aracataca thật,

Macondo huyền thoại. Nhưng những chân trời mới không xua tan được nỗi

xấu hổ. Cả hai nhân vật, thực và tưởng tượng, sống trong nỗi dày vò của

một “niềm ân hận khủng khiếp”. Và cả hai đều từ chối ăn năn hối cải, lặp

lại “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả chuyện đó lần nữa”.

Ý thức chính trị của G.Marquez được hình thành từ sớm, khi ông bước

62

vào lứa tuổi hai mươi, cùng với sự thôi thúc sáng tác. Nó liên quan đến

miêu tả văn chương và có tính tự truyện về Công ty Liên hiệp Hoa quả.

Trong Trăm năm cô đơn cũng như trong Sống để kể chuyện Aracataca

không phải chỉ là một thành phố công ty (với những đồn điền, đường sắt,

trạm điện tín, cảng, bệnh viện, và các đội tàu) mà còn là quang cảnh của

“tai ương trời giáng” của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ, một sức mạnh lịch sử

quyết định, mà “cảm hứng cứu thế” của nó khuấy lên những hy vọng của

hàng ngàn người (trong đó có ông bà của G. Marquez). Sau lưng nó, “cơn

dịch” này chỉ để lại những “rác rưởi”, những “phế thải của phế thải mà nó

đã mang đến cho chúng tôi”.

Đọc Trăm năm cô đơn, chúng ta thấy cả một xã hội đầy biến động,

một nền văn hóa châu Mỹ La tinh sâu sắc, và cả những nỗi ẩn ức của tác

giả về thực tại khách quan.

3.3.2. Bi kịch trong dòng họ Buênđya một nỗi ẩn ức vô thức

Cô đơn là thuộc tính gắn với con người từ thuở hồng hoang. Con

người sống bầy đàn, kết duyên cũng là hình thức tồn tại chống lại nỗi cô

đơn. Đã có lần Marquez tuyên bố rằng: Tôi dành cả cuộc đời chỉ để viết

một cuốn sách – cuốn sách về nỗi cô đơn. Và dường như trong truyện của

ông mỗi con người là một biểu tượng tột cùng nhất rơi vào “vòng kim cô”

của nỗi cô đơn. Thế giới cô đơn trong văn Marquez là thế giới của chiều

sâu triết học về bản thể con người và xã hội. Cô đơn bản thể vừa là động

lực để họ tồn tại vừa hủy diệt con người họ.

Như đã nói ở trên, trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, mỗi nhận vật

trong dòng họ Buenđia cô đơn trong nỗi ẩn ức vô thức. họ được hoài thai từ

nỗi cô đơn tiềm ẩn. Họ cô đơn chính trên không gian họ sống, cô đơn trong

chính ngôi nhà của mình, cô đơn giữa những người thân, và cô đơn chính

trong mỗi cá nhân. Họ cô đơn nhưng lại không nhận thức được mình cô

63

đơn và cứ thế để cho nỗi cô đơn gặm nhấm từng ngày từng giờ.

Dấu hiệu của căn bệnh thế kỷ về sự cô đơn trong dòng họ Buenđia có

lẽ bắt đầu từ người cụ tổ của Ursula Igoaran. Khi tên cướp biển Francis

Drac tấn công Riôcha ở thể kỉ XVI, bà tổ của Ursula Igoaran đã quá kinh

ngạc trước tiếng chuông nhà thờ inh ỏi đổ hồi và tiếng đại bác chát chúa đổ

rền, đến mức quẫn chí ngồi vào bếp than … Cụ từ bỏ tất cả mọi sinh hoạt

xã hội, xa lánh tất cả mọi người chỉ vì nghĩ mình phả ra mùi két lẹt. Sự ám

ảnh của cụ, chồng cụ đã đưa cụ đến một vùng đất hẻo lánh để sinh sống,

trong một căn nhà chật hẹp. Và như thế, ngày qua ngày, nỗi cô đơn bắt đầu

gặm nhấm linh hồn cụ, càng xa lánh với mọi người, cụ càng lấn sâu vào

trong vô thức của nỗi cô đơn.

Đến đời người sáng lập ra làng Macondo là Hose Accadio Buenđia

cũng chạy trốn khỏi tội lỗi của mình trong vô thức. Việc Hose Accadio

Buenđia đam mê khoa học, khóa mình trong phòng thí nghiệm với những

phát minh của mình cũng là một dạng vô thức. “Không một dấu hiệu báo

trước nào, bỗng nhiên ông ngừng mọi hoạt động sôi nổi để chìm đắm trong

suy tưởng. Vài ngày liền, ông cứ như người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm

nhắc đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt những phỏng đoán đầy kinh

ngạc mà ông không cần tin vào sự hiểu biết của chính mình.” (8,24) Từ

một con người tháo vát, một tù trưởng tinh anh thì giờ đây những tập tục

tốt đẹp đã bị cuốn tuột bởi những đam mê đá nam châm, những tính toán

thiên văn, ước mơ biến chì thành vàng và thèm khát biết được những kì

quan thế giới. “Hose Accadio Buenđia vốn là người hoạt bát và sạch sẽ đã

trở thành người lười nhác, ăn mặc thì lôi thôi lếch thếch, râu ria thì xồm

xoàm đến mức Ucsula phải dùng con dao thái thịt cạo cho nó gọn lại.”

(10,30) Sau một thời gian Hose Accadio Buenđia thoát khỏi sự dằn vặt của

những ham muốn huyễn hoặc thời gian này ông quay sang chăm sóc dạy dỗ

bọn trẻ và dẫn chúng đi xem nước đá. Nhưng rồi sự xuất hiện của bệnh

64

dịch mất ngủ và một lần nữa ông bị ám ảnh bởi tội lỗi năm xưa. Sau nhiều

lần gặp linh hồn Prudenxio Aghila người lâu nay thường tìm ông qua

những linh hồn đã chết với nỗi nhớ nhung da diết. Hose Accadio Buenđia

nhận thấy thời gian quay tròn và phát điên, cuối cùng ông bị trói vào gốc

cây dẻ. “… Cụ bằng lòng với tất cả, không phân biệt được nữa. Nếu cụ trở

lại nằm dưới gốc cây dẻ không phải vì sở nguyện mà vì thói quen của cơ

thể. Ucsula chăm nom cụ, cho cụ ăn và kể cho cụ nghe những tin tức về

Aureliano. Nhưng thực ra người duy nhất mà cụ tiếp xúc từ đã lâu là

Prudenxio Aghila. Với dánh vẻ tiều tụy vì tuổi già trong cõi âm phủ,

Prudenxio Aghila cứ mỗi ngày hai lần đến nhà nói chuyện với cụ. Hai

người nói chuyện với nhau về gà chọi…. Prudenxio Aghila là người tắm

rửa cho cụ, cho cụ ăn và kể cho cụ nghe những thắng lợi hiểu hách của một

người hoàn toàn xa lạ được gọi là Aureliano và người này là đại tá trong

chiến đấu.” (8,167) Như vậy, có thể thấy không còn con người tinh anh và

đầy nhiệt huyết, giờ đây chỉ còn hình ảnh của một người sống vùi lấp trong

quá khứ, không ý thức được mọi việc, cô quạnh trong cái vô thức tiềm ẩn.

“Khi ở một mình, Hose Accadio Buendia khuây khỏa đôi phần trong căn

buồng vô cùng tận. Cụ mơ thấy mình đứng dậy khỏi giường, mở cửa chính

mà đi sang phòng bên …Cụ thích đi từ phòng này sang phòng khác, như đi

trong một hành lang hai bên tường đều gắn gương, cho tới khi Prudenxio

Aghila vỗ vai cụ. Thế là cụ trở về lần lượt đi qua các phòng của đời thực.

Nhưng rồi có một đêm nọ, sau hai tuần Ucsula đưa cụ vào nhà, Prudenxio

Aghila vỗ vai cụ ngay ở phòng trung gian giữa cõi thực và cõi mộng và cụ

mãi mãi dừng lại ở đây, mà cử tưởng rằng đó là phòng của đời thực.”

(8,167,168) Tất cả những hành động của nhân vật, đều không có sự kiểm

soát của lý trí, kĩ ức ngày xưa cứ dội về một cách vô thức và càng đẩy nhân

vật vào sự tuyệt vọng và cô đơn bản thể.

Nhân vật thứ hai tôi mốn bàn luận ở đây chính là Aureliano Buendia

65

đời thứ hai, là người rất thông minh nhưng âu sầu. Để chạy trốn tạm thời

khi nỗi cô đơn bủa vây cuộc đời anh, anh tìm đến chiến tranh và trở thành

Đại tá Aureliano. Cũng giống như cha mình cái cô đơn đã tồn tại ngay

chính bản thể của anh. Một người đã phát động ba mươi hai cuộc vũ trang

nổi dậy và rồi thất bại hoàn toàn. Chung đụng với mười bảy cô gái và có

mười bảy người con trai nhưng những người con đó lần lượt bị giết hại

trong một đêm. Có rất nhiều mối tình đi qua đời Aureliano nhưng không có

mối tình nào để lại dấu ấn sâu sắc. Chính hoàn cảnh này càng làm cho anh

chìm sâu trong nỗi cô đơn. Ngay khi đứng trên đỉnh cao của danh vọng thì

anh cũng chỉ có một mình. Aureliano càng đi tìm chiến thắng trên chiến

trường thì lại càng rơi vào vực thẳm của nỗi tuyệt vọng. “Trong gần hai

mươi năm chiến tranh, đại tá Aureliano Buendia đã nhiều lần có mặt ở nhà,

những trạng thái vội vã mỗi lần chàng trở về, cái bộ máy quân sự ồn ĩ theo

chàng đi khắp các miền đất nước cũng như vầng hào quang huyền thoại ôm

tỏa hình ảnh chàng và ngay đối với hình ảnh của chàng trong ánh hòa

quang huyền thoại ấy không ai cảm thấy gần gũi kể cả chính Ucsula, tất cả

những cái đó đã biến chàng thành một kẻ lạ lẫm.” (8,200) Chi tiết chiếc

vòng tròn có đường kính 3m ông vẽ ngay giữa nhà mình để cấm bất cứ ai

lại gần ông, ngay cả mẹ mình đủ thấy nhân vật này đã trở thành kẻ xa lạ

giữa cộng đồng. Như vậy, sự vô thức về quyền lực và sự hư ảo về bản thân

diễn ra trong thế giới tâm hồn của ông chính là sự thắng thế, là biểu hiện

tuyệt đối của cái cô đơn của bản thể. Cuối đời khi đã đẩy mình vào căn

phòng khép kín bởi nỗi cô đơn, từ chối tất cả những quà tặng, danh hiệu

của chính phủ, ngài đại tá bây giờ chỉ quanh quẩn miệt mài với công việc

gọt rũa những con cá vàng để rồi lại phá đi làm lại. “Sau khi ngài đã bước

vào xưởng kim hoàn, châm đèn sáng để đếm những con cá vàng trong hộp

sắt tây. Mười con cả thảy, kể từ đó quyết định sẽ không bán chúng nữa,

Ngài chỉ làm hai con mỗi ngày, và khi nào đủ số hai mươi lăm con Ngài lại

66

đem nung chảy ra để làm lại từ đầu” (8,257) “Ngài mất phương hướng,

chơi vơi trong ngôi nhà xa lạ mà ở đây không còn ai và chẳng có cái gì còn

gợi cho ngài chút tình cảm thân thương nào.” (8,272)

Thêm nhân vật nữa của dòng họ cô đơn trong nỗi ẩn ức Aureliano

Babilonia đánh dấu sự trưởng thành của thế hệ thứ 6 của dòng họ, là kết

quả của mối tình vụng trộm giữa Mêmê và Manxiro Babilonia. Nhân vật

này tồn tại trong nỗi cô đơn khắc khoải và tình yêu tội lỗi với dì ruột của

mình. Anh thường xuyên trò chuyện với Menkyadet, được cụ dạy cho đọc

tiếng Phạn, kiểu chữ ghi trên tấm da thuộc. Và suốt ngày anh chỉ biết vùi

đầu vào đọc những thứ đó. “Aureliano tiếp tục giam mình trong phòng và

vùi đầu vào những tấm da thuộc, dần dần chú đọc được những điều ghi trên

đó nhưng vẫn chưa thể giải thích được nội dung của chúng.” (8,408) Phần

lớn cuộc đời của anh bốn bức tường cơ đơn và căn phòng của Menkyadet.

Sống trong cảnh bị ngăn cấm, kì thị, hắt hủi, thiếu sự chăm sóc và yêu

thương. Là điều kiện để cái cô đơn cố hữu của dòng họ Buendia phát triển

mạnh. Nếu như đại tá Aureliano Buendia tự giam mình trong xưởng kim

hoàn thì Aureliano Babilonia lại tự giam mình trong phòng của Menkyadet.

Việc anh đưa 14 con cá vàng làm hành trang lên đường cho Santa Sophia

de la Piedat trong khi ngay bản thân chưa biết mình sống như thế nào ở

những ngày sắp tới, là dấu hiệu cho một sự hủy diệt đã đến gần. Sự trở về

của Amaranta Ucsula mở ra một bi kịch cho đời anh cũng như dòng họ.

Ngay từ lần tiếp xúc với dì ruột anh đã có cảm giác đê mê trong xương cốt.

Đó cũng chính là cảm xúc mà trước đây cụ tổ của anh mụ đi trước Pila

Tecnera. Và rồi những khát khao dục vọng với những người cận huyết đã

không ngăn được Aureliano Babilonia và Amaranta Ucsula. Trong cái cảm

giác đau khổ, bất lực chạy trốn nỗi nhớ nhung, lại bị bao vây bởi nỗi cô

đơn của tình yêu. Họ đã ngủ với nhau và mong muốn sẽ hoài thai đứa trẻ có

thể cải tạo nòi giống và thiên hướng cô đơn của dòng họ. Nhưng tất cả đã

67

không như mong muốn Amaranta Ucsula chết vì bị băng huyết. Aureliano

Babilonia lang thang không phương hướng trong nỗi cô đơn rồi chứng kiến

con của mình bị kiến tha. Cũng chính giây phút ấy anh đã giải mã được bí

ẩn trên tấm da thuộc.

3.3.3. Vô thức giữa cái bản ngã, bất lực dồn nén trong tình yêu

Như đã khai thác ở những phần trên, những nhân vật trong tác phẩm

dù ít dù nhiều ở bản thân mỗi người luôn tồn tại một sự cô đơn bản thể, sự

dồn nén bất lực trong tình yêu.

Aureliano Buendia được Ucsula đánh giá là kẻ bất lực trong tình yêu.

Và quả thật, suốt cuộc đời anh là những dự cảm, khắc khoải trong tình cảm.

Tuy nhân vật này có nhiều con nhất, có quan hệ với nhiều người phụ nữ

nhất nhưng chưa bao giờ anh thỏa mãn trong tình yêu, bởi lẽ trong anh

không tồn tại những thứ đó. Anh là người rất mẫn cảm, dễ rung động. Ngay

từ lần đầu gặp cô bé da đen, đang phải làm nô lệ tình dục hàng đêm cho 70

gã đàn ông trong anh đã dẫy lên nỗi thương cảm lạ lùng. Trong cái đêm ở

quán mụ tú bà, cô gái người da đen đã cố gắng khơi gợi nhưng anh chẳng

thể làm được gì càng cảm thấy đơn độc, đơn độc đến khủng khiếp. Anh

bước ra khỏi phòng chưa kịp hành xử, và cảm thấy đau đớn đến muốn

khóc. “Đêm ấy, cậu không ngủ chỉ nghĩ đến cô gái trong tình cảm vừa yêu

vừa thương hại. Cậu cảm thấy vừa yêu thương lại vừa muốn che chở cô

gái. Đó là thứ tình cảm da diết không thể dừng được.” (8,75) Và như được

định mệnh định sẵn, người đầu tiên anh quan hệ cũng chính là người đàn bà

đã từng quan hệ với anh trai. Anh tìm đến với Pila Ternera trong cơn say và

cảm giác cô đơn cùng cực. Có thể nói, với người đàn bà này anh không có

cảm xúc yêu thương mà chỉ là sự thôi thúc của định mệnh. Tiếng khóc từ

trong bụng mẹ là điềm báo cho số phận của con người bất lực trong tình

yêu. Chỉ đến khi gặp Remediot trong anh có luồng không khí mới.

68

“Aureliano bủn rủn rùng mình với ngón chơi thong thả, không gây tiếng

động, anh để lại phía sau mình những bến bờ của nỗi đau và anh gặp

Remediot đã biến thành một hồ nước rộng mênh mông không thấy đường

chân trời, sực nức mùi con vật non và mùi quần áo vừa mới là. Khi thấy

mình bâng khuâng trôi nổi trên hồ nước ấy anh khóc lóc.” (8,91) Nhưng

Remediot trở thành nạn nhân của những vụ đánh ghen giữa Amaranta và

Rebecca. Cũng từ đây anh ko còn yêu bất cứ một ai nữa, mặc cho sau này

trong cuộc đời binh nghiệp của anh, anh đã chung đụng với 17 cô gái khác

nhau, và đều là tình một đêm của ngài đại tá. Việc đại tá Aureliano chạy trốn

vào cuộc chiến đó cũng chính là việc anh chạy trốn nỗi cô đơn và tình yêu.

Bàn đến những bất lực trong tình yêu phải kể đến Rebecca, người phụ

nữ không có huyết thống dòng họ Buendia nhưng lại sống và lớn lên trong

gia đình, và cũng chịu chung số phận như những người trong dòng họ

Buendia bị nỗi cô đơn bủa vây, bất lực và cô độc trong chính tình yêu của

mình. Ngay từ khi xuất hiện ở ngồi nhà Buendia, cô đã có biểu hiện của

một con người cô đơn với tật ăn đất. “Cô bé ngôi trên ghế xích đu, mút tay

chùn chụt ở trong xó nhà vắng vẻ nhất. Chỉ có tiếng nhạc phát ra từ đồng

hồ là cái duy nhất khiến cô bé chú ý. Cứ nửa giờ một, với đôi mắt thảng

thốt, cô đón nghe như thể đang chờ đợi âm nhạc ấy ở một nơi tránh gió nào

đó… Rebecca không thích ăn cơm mà trái lại chỉ thích ăn đất ẩm ngoài sân

và đất vách do cô ta dùng ngón tay cậy ra từ các bức tường… Cô cứ lén lấy

những mảng đất vách giấu đi để ăn khi không có ai nhìn thấy.” (8,63). Sự

xuất hiện của Rebecca trong ngôi nhà Buendia dường như là sự tự nạp

mình vào thế giới cô đơn giữa những con người cô đơn. Đến với tình yêu,

cô cũng không thể thoát ra được nỗi cô đơn truyền kiếp. Dường như, đôi

mặt với tình yêu cô còn thể hiện sự bất lực của mình. Trước tiên, tình yêu

với Pietro Crespi cô có rất nhiều cảm xúc, và mỗi lần như vậy tật ăn đất trở

về như nỗi cô đơn trong tiềm thức trỗi dậy “Cô lại ăn đất như trước đây.

69

…Cô ăn chúng mà tự cảm thấy vừa sung sướng mãn nguyện vừa giận hờn

ai oán” (8,86,87). Cô mong chờ tin tức từ người đưa thư của Pietro Crespi

và rồi lại ăn đất “Đang lúc nửa đêm, cô thức dậy ăn những vốc đất ở ngoài

vườn hoa. Trong nỗi khao khát muốn tự tử, cô khóc lóc thảm thiết vừa đau

khổ vừa giận hờn, mà nhai những con giun mềm mại, mà nghiến sụn những

con ốc sên.” (8,89) Nhưng rồi hạnh phúc cũng chẳng thể đến được với cô,

bởi sự ghen tuông của Amaranta cản đường, đám cưới của cô liên tiếp bị

hủy bỏ. Cô chỉ biết trốn chạy, khóc lóc và lại ăn đất. Sự trở về của Hose

Accadio đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời Rebecca, giờ đây Pietro

Crespi chẳng qua chỉ là một gã béo phúng phính đứng bên cạnh người đàn

ông cực kỳ lực lưỡng. Đứng trước Hose Accadio, cô không thể kiềm chế

được. “Cô ăn lại đất và vôi tường nhà với sự thèm khát trước đây và lại

thèm thuồng mút ngón tay đến mức ngón tay phải lên chai.” Tình yêu trước

đó của Rebecca và Pietro Crespi tưởng như không có gì ngăn cản nổi, khi

nó vượt qua muôn vàn trở ngại trước sự ghen tuông khủng khiếp của

Amaranta, sự hà khắc của Ucsula. Nhưng tất cả đều sụp đổ khi cô sà vào

lòng anh trai nuôi. Chìm đắm trong tình yêu đầy dục vọng, bản thân

Rebecca không thể khóa lấp được nỗi cô đơn trong Hose Accadio cũng như

bản thân mình. Và rồi phát súng bí ẩn đến Hose Accadio như một kết thúc,

lúc chiếc quan tài của chồng được khiêng đi, cô đã tự chôn mình trong căn

nhà mục ruỗng bởi thời gian, xa lánh với thế giới bên ngoài để được sống

mãi với nỗi cô đơn trong cuộc đời mình. Không giống với người anh họ

của mình, Aureliano Buendia là nhân vật cô đơn từ trong bản thể, nỗi cô

đơn của Rebecca được sinh ra từ ma lực của nỗi cô đơn bản thể.

Cũng được di truyền từ những thế hệ trước, thế hệ kế tiếp của dòng họ

Buendia dần chìm trong nỗi ẩn ức vô thức đáng sợ. Trong tiểu thuyết này,

chúng ta bắt gặp một nhân vật nữ cứng rắn, nhưng thực chất đó là sản phẩm

của một nỗi cô đơn truyền kiếp. Cô là con gái của Hose Accadio Buendia

70

và Ucsula Igoara. Amranta cũng với Rebec cùng lớn lên với nhau nhưng

giữa hai có có mối hiềm khích gay gắt khi cả hai cùng yêu một chàng trai

Pietro Crespi. Sự ghe tuông và lòng thù hận đã đẩy cô đến ý định đầu độc

Rebecca. Nhưng cuối cùng Remediot lại là nạn nhân của lòng hận thù. Sau

cái chết của Remediot, Amaranta đã tự mình dằn vặt lương tâm. Như một

trò đùa số phận, khi Rebecca và Hose Accadio lấy nhau thì Pietro Crespi

cũng dần chuyển sự để ý của anh sang Amaranta. Nhưng bản tính mạnh

mẽ, và âm thầm, cũng như qua những sóng gió cô không còn cái ham hố,

cũng đắm say trong tình yêu nữa. Trong khi mọi người trong nhà nghĩ tới

cô đang đi tới một hôn nhân dễ dàng thì Amaranta lại khước từ tình yêu mà

cô đã từng tranh đấu một cách phủ phàng. Cô khéo léo che dấu tình cảm

của mình trong cái dáng vẻ lãnh đạm, cứng rắn. “Khác hẳn Rebecca, cô

không hề để lộ sự thèm khát của lòng mình. … Amarata không run rẩy khi

tay cô chạm phải bàn tay anh. Giống như một con vật lẩn tránh, cô lại tiếp

tục công việc.” (8,135) Khi không có tình yêu trong tay, họ đấu tranh để

dành lấy nó, nhưng khi tình yêu đã hiện hữu họ lại lẫn tránh và không dám

đối mặt. Đó là một dạng thức bất lực, cô đơn trong tình yêu trong cái bản

thể của mình. Đáp lại những lần theo đuổi của Pietro Crespi, Amaranta

thẳng thừng từ chối: “Nếu anh quả tình yêu tôi tha thiết thì xin đừng bước

tới nhà này nữa”, tất cả những bức thư tình nhàm chán, những cánh hoa

những con bướm ướp khô đều được cô để nguyên và gửi trả lại. Và cuối

cùng là cái chết của một chàng trai si tình. Ucsula vô cùng tức giận và từ bỏ

cô. Ở Amarata có một vẻ lạnh lùng và cứng rắn đến ghê sợ. Trong khi mọi

người xót thường cho Pietro Crespi thì “Amaranta không bước ra khỏi

phòng mình”. Đến đây chúng ta bắt gặp lại một hành động đã từng xảy ra ở

dòng họ Buendia là khi cụ tổ Ucsula ngồi vào bếp lửa thì giờ đây trước nỗi

bất lực trong tình yêu và cái cô đơn tiềm ẩn Amaranta lại hành động một

cách vô thức và thiếu kiểm soát. “Ngay cái buổi chiều Amaranta vào bếp

71

thọc tay vào bếp than đỏ rực để nguyên cho tới khi cô không còn biết đau

đớn mà chỉ cảm thấy mùi khét lẹt của chính da thịt mình đang xèo xèo cháy

… Trong vài ngày liền, với bàn tay bỏng ngâm trong một bát lòng trắng

trứng gà, cô đi đi lại lại trong nhà và khi chữa khỏi những vết cháy bỏng thì

dường như lòng trắng trứng gà cũng chữa lành những vết cháy bỏng trong

tim cô. Dấu vết bên ngoài duy nhất còn lại của tấn bi kịch là tấm băng đen

băng trên bàn tay bị bỏng và cô đã phải mang nó cho đến khi chết.”

(8,136,137). Cả cuộc đời của Amaranta không giám chấp nhận tình yêu của

bất cứ ai cả Pitero Crespi và Herinedo Market. Amramta đã đồng lõa cho

những hành động loạn luân của đứa cháu ruột. Cuộc tình tội lỗi này đã đẩy

hai người rơi vào trạng thái đau khổ, day dứt. Amranta luôn bấu víu.

Tiểu kết:

Vô thức, thực sự mà nói là một cuộc sống trước khi con người biết

nhận thức cuộc đời của chính mình, là một quan niệm về thế giới trước khi

con người biết quan niệm về thế giới. Lúc đó con người mới chính là mình

thật sự. Macônđô một vùng đất từ thời hồng hoang, mới lập, ngày một phát

triển thành một vùng đất trù phú và cuối cùng lại mất hẳn khỏi thế giới.

Vùng đất ấy chứa đựng bao ẩn ức của mỗi con người đang lẫn trốn chính

mình. Nơi mà những phát minh khoa học đã được thế giới, nhân loại thừa

nhận, ứng dụng vào thực tế, thì nó lại trở nên hoàn toàn xa lạ, bí ẩn, huyền

hoặc đối với con người nơi đây. Hơn hết những con người trong dòng họ

Buênđya luôn cảm thấy xa lạ và cô đơn trong chính ngôi nhà của mình,

trong chính bản thân mình, trong tình yêu và khát vọng của mình. Và họ

72

khóa mình trong nỗi ẩn ức, vô thức của vòng tròn nghiệt ngã cuộc đời mình.

KẾT LUẬN

Trong Trăm năm cô đơn, người ta có thể kiếm tìm được muôn vàn cấp

độ, dạng hình cô đơn, từ những ám ảnh về tội lỗi trong quá khứ của Hôsê

Buyênđya, những đam mê khoa học bất tận, những nỗi cô đơn trong hôn

nhân cận huyết, Rêbêca cô đơn trong thói lập dị không giống ai của mình ...

Họ kiếm tìm nhau trong tuyệt vọng, thỏa mãn nhau trong những lần chung

đụng xác thịt để rồi lại lẫn trốn trong nỗi cô đơn ngàn đời về tội lỗi, xa lánh

cộng đồng với những vô thức bản ngã của bản thân.

“Bản án loạn luân” giáng xuống hầu hết các thế hệ trong dòng họ

Buendia. Sự chung đụng xác thịt với cùng một người đàn bà ở hai thế hệ,

mối quan hệ bất chính giữa anh em, cô (dì) cháu, mẹ con … đã làm nên

một Macondo đầy dục tình. Đây cũng chính là một trong những điểm nhấn

và thành công của tác phẩm. Marquez đã để cho các nhân vật của mình

vùng vẫy trong thế giới đầy tính dục và những khao khát tính dục với

những người cận huyết. Và điều đáng nói hơn tất cả các nhân vật đều hành

động trong vô thức. Thiên hướng cô đơn là nguyên nhân chính để các nhân

vật tìm đến sự chung đụng xác thịt cận huyết. Càng cố thoát khỏi vòng kim

cô định mệnh thì họ lại càng bị xoáy sâu vào vòng tròn bế tắc đó.

Một trong những thành công nữa của tác phẩm chính là hình thái của

cái cô đơn, cô đơn tồn tại trong tác phẩm ở mỗi nhân vật đều có chiều sâu

tâm tưởng. Một Ucsula luôn bị ám ảnh bởi tội loạn luân với hình ảnh đứa

con với cái đuôi lợn theo suốt cuộc đời bà. Bà sống gần hết chiều dài của

dòng họ để rồi nhận thấy thời gian đang quay vòng, và các thế hệ con cháu

của mình có những cá tính kì dị còn đáng sợ hơn cái đuôi lợn. Một Hose

Accadio Buendia ám ảnh bởi những tội lỗi trong quá khứ, điên cuồng tìm

73

kiếm những phát minh khoa học của nhân loại, để rồi chết dưới gốc cây dẻ.

Một Aureliano Buendia đam mê quyền lực, và khi đứng trên đỉnh cao của

quyền lực lại bất lực và cô đơn, để rồi nhận thấy sự vô nghĩa của chiến

tranh, trở về ẩn mình trong xưởng kim hoàn cuối cùng cũng chết trong cô

đơn … G. Marquez đã miêu tả, mổ xẻ, huyền ảo hóa "cái cô đơn" trong

dòng họ bảy đời Buendia để gửi gắm một thông điệp cuộc sống một điều

giản dị, nhưng sâu đậm tính nhân văn: Mọi người hãy sống đúng bản chất

người - tổng hòa các mối quan hệ xã hội của mình, hãy vượt qua mọi định

kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá

nhân tự hòa đồng với gia đình, xã hội.

Đọc văn của Marquez chính là một sự phiêu lưu đầy kỳ thú. Một thế

giới nghệ thuật đầy ma lực, một xã hội đầy xáo trộn của Macondo, cùng thế

giới nhân vật đầy ám ảnh… Sự diệt vong của Macondo cùng dòng họ

Buendia đã để lại nhiều trăn trở cho người đọc về những tư tưởng mà tác

giả đã đặt ra trong tác phẩm. Con người không thể tồn tại chỉ ở trạng thái

sinh học, không thể sống chỉ với bản năng với sự suy thoái về tinh thần,

đạo đức, lối sống, không thể tách khỏi cộng đồng để sống dị biệt. Con

người cần chấp nhận bỏ đi những hủ tục, lề thói cũ và những ham muốn cá

nhân dị biệt để có một sự tái sinh hoàn toàn mới mẻ và tích cực. Trăm năm

74

cô đơn xứng tầm một tác phẩm làm nên nghiệp văn của một nhà văn vĩ đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Đình Ca (1967), “Sơ lược về sự hình thành và phát triển của

nền văn học châu Mỹ La tinh”, Tạp chí văn học (số 4)

2. Lê Nguyên Cẩn (2000), “Cô đơn nghĩa là sự tiêu diệt”, Tạp chí Châu

Mỹ ngày nay (số 1)

3. Lê Nguyên Cẩn (1999) Cài kì ảo trong tác phẩm của Balzac, Nxb

Giáo dục

4. Đỗ Đức Dục (1988, tr 59 - 65), “Từ Đông ki sốt đến Trăm năm cô

đơn”, Tạp chí Văn học (số tháng 2) tr 59 - 65

5. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây

hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

6. Nguyễn Trung Đức (1995) “Hiệu quả nghệ thuật của không - thời

gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.G.Márquez”, Tạp chí Văn

học (số 1)

7. Nguyễn Trung Đức (2002), Từ chân trời một phía đến chân trời

nhiều phía, Nxb Đà Nẵng

8. Márquez Gabriel García (2004), Nguyễn Trung Đức dịch ,Trăm năm

cô đơn, Nxb Văn học

9. Márquez Gabriel García, Nguyễn Trung Đức dịch (2007), Truyện

ngắn tuyển chọn, Nxb Văn học

10. Márquez Gabriel García, Nguyễn Trung Đức (2004), Tình yêu thời

thổ tả, Nxb Văn học

11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục

12. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb

Giáo dục

75

13. Phan Minh Hạc (1980), Nhập môn tâm lý học, Nxb Giáo dục

14. Nguyễn Thị Hảo (2010), Thời gian và không gian huyền thoại trong

Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez, luận văn thạc sĩ,

ĐHKHXH và NV Hà Nội

15. Vũ Trung Kiên (2005), Nghệ thuật tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của

Gabrriel García Márquez, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội

16. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu Lý luận văn học Phương Tây hiện đại,

Nxb Văn học, Hà Nội

17. Nguyễn Đức Nam (số 1 năm 1975, tr 110 – 120), Một khuynh hướng

trong tiểu thuyết hiện tiến bộ ngày nay ở Châu Mỹ Latinh: Chủ nghĩa hiện

thực huyền ảo, Tạp chí văn học

18. Nguyễn Hữu Tấn (SH289/03/13 2013), Vô thức trong văn học, Tạp

chí Sông Hương

19. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và Văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội

20. Đỗ Lai Thúy (2001), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội

21. Đỗ Lai Thúy (2003), Phân tâm học và tình yêu, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội

22. Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2005), Huyền thoại trong Liêu trai chí dị của

Bồ Tùng Linh, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội

23. Cung Kim Tiến (2003), Từ điển triết học, Nxb Văn hóa thông tin

24. Hoàng Phê (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb từ điển Bách khoa

25. Trần Thị Thu Phương (2004), Các kiểu không gian đặc trưng trong

Trăm năm cô đơn của G.G.Marquez, Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Hà Nội

26. Nguyễn Ngọc Phú, Lịch sử tâm lý học, Nxb ĐH QGHN

27. Anderson, Jon Lee (30/04/2009), The power of Gabriel García

Márquez, http:// www.themodernworld.com/gabo/gabo - power.html

76

28. Freud Singmund (2007), Phân tâm học nhập môn, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội

29. Jostein Gaarder, Nguyễn Xuân Hiến dịch (2002), Những luận thuyết

nổi tiếng thế giới - NXB Grasset - Paris, Nxb ĐHQG Hà Nội

30. Janes Regina (1991), Trăm năm cô đơn: những phương thức thâm

nhập, NXB Twayne

31. Jofer Serapio Phê bình hậu hiện đại về Trăm năm cô đơn của

Marquez, đăng trên trang web: http://joferserapio.wordpress.com

32. Simpson.J&Round.S (2000), Dictionary of English Folklore, Oxford

33. Todorov Tzevan, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch (2008), Dẫn

77

luận về văn chương kỳ ảo, Nxb Đại học Sư phạm