ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ LĨNH
TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ LĨNH
TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH
Thái Nguyên – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lĩnh
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học
Khoa học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lĩnh
2
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 7
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 8
6. Cấu trúc của luận văn ......................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 9
NỘI DUNG .......................................................................................................... 10
Chương 1. TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
TRONG VĂN XUÔI TRẺ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ................................... 10
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài .................................................................................. 10
1.1.1. Giới thuyết về truyện trinh thám ................................................................ 10
1.1.2. Giới thuyết về truyện kinh dị ..................................................................... 13
1.1.3. Truyện trinh thám – kinh dị trong văn học Việt Nam hiện đại .................. 18
1.1.4. Sự kết hợp hài hòa truyện trinh thám và truyện kinh dị trong sáng tác
của Di Li ............................................................................................................... 21
1.2. Nhà văn Di Li và những sáng tác đặc sắc trong văn xuôi trẻ Việt Nam
đương đại .............................................................................................................. 23
1.2.1.Tiểu sử ......................................................................................................... 23
1.2.2 Quá trình sáng tác ........................................................................................ 24
1.2.3 Sáng tác của Di Li trong văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại ....................... 26
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 29
Chương 2. CỐT TRUYỆN, TÌNH HUỐNG TRUYỆN, NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM - KINH DỊ CỦA DI LI ............... 30
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ........................... 30
2.1.1. Khái niệm Cốt truyện ................................................................................. 30
2.1.2. Một số kiểu cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li .... 31
2.2. Tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li .............. 39
3
2.2.1. Khái niệm Tình huống truyện .................................................................... 39
2.2.2. Một số kiểu tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của
Di Li ..................................................................................................................... 41
2.3. Các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ........... 51
2.3.1. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học .............................................. 51
2.3.2. Một số kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li . 54
2.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của
Di Li ..................................................................................................................... 61
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 75
Chương 3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM- KINH DỊ CỦA DI LI ............... 76
3.1. Khái niệm không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết ................ 76
3.1.1. Khái niệm Không gian nghệ thuật ............................................................. 76
3.1.2. Khái niệm Thời gian nghệ thuật ................................................................. 77
3.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh
thám kinh dị của Di Li ......................................................................................... 78
3.2.1. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li ..... 78
3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám và kinh dị của Di Li .... 88
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 94
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 98
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam đang trên con đường đổi mới, tìm tòi với những nỗ
lực cách tân đáng chú ý. Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo, thể tài văn học trinh
thám – kinh dị là một lối đi rất độc đáo, mới mẻ, hứa hẹn nhiều vấn đề thú vị
cần được tìm hiểu, đánh giá. Việc nghiên cứu thể tài này sẽ giúp cho chúng ta
có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, khách quan và công bằng hơn về một dòng văn
học lâu nay vốn chưa thực sự được quan tâm đúng mức ở Việt Nam.
Di Li là một nhà văn trẻ đã gây tiếng vang trên văn đàn với tư cách là
một trong những tác giả tiên phong và thành công với dòng văn học trinh thám
– kinh dị. Sáng tác của chị đã được bạn đọc yêu mến và tìm đọc, được một số
nhà nghiên cứu - phê bình văn học tìm hiểu và đánh giá cao. Tiểu thuyết của Di
Li đã kết hợp được các đặc trưng nghệ thuật cơ bản của truyện trinh thám -
truyện kinh dị để tạo ra một thể tài văn học mới mẻ, hấp dẫn. Có thể nói, đây là
cây bút nữ đầu tiên sáng tác thành công thể tài văn học này ở Việt Nam.
Nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li, chúng tôi mong muốn
không chỉ góp phần nhận diện, khẳng định giá trị của tác phẩm, đóng góp của
nhà văn vào thành tựu chung của văn học nước nhà mà còn để nhận thức rõ
hơn các khuynh hướng sáng tác đa dạng phong phú của văn xuôi trẻ Việt Nam
đương đại. Mặc dù tác phẩm của Di Li chưa được giảng dạy trong nhà trường
nhưng là một giáo viên dạy Ngữ văn trường THPT, sau khi thực hiện đề tài
này, chúng tôi mong muốn có thêm tư liệu tham khảo để giảng dạy tốt hơn
phần văn học Việt Nam hiện đại trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Di Li là cây bút trẻ đầy bản lĩnh và cá tính khi dám mạnh dạn đi vào
một con đường sáng tác hấp dẫn những cũng rất chông gai, đó là văn học
trinh thám, kinh dị - hai thể tài đòi hỏi sức tưởng tượng phi thường. Hai cuốn
tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7” của Di Li với sự kết hợp giữa
5
chất trinh thám và kinh dị đã thực sự gây bất ngờ với độc giả cũng như giới
nghiên cứu phê bình. Đến nay, trước một kiểu loại sáng tác mới mẻ của một
tác giả còn trẻ tuổi, vẫn chưa có nhiều những bài viết nghiên cứu về tác phẩm
của Di Li. Đây là một khoảng trống mà chúng tôi mong muốn được lấp đầy.
Theo khảo sát của chúng tôi, mới chỉ có một số bài báo phân tích, đánh
giá về tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li. Nhìn chung các bài viết đều
khẳng định sự đổi mới của Di Li trong tiểu thuyết là sự kết hợp giữa trinh
thám và kinh dị. Tuy nhiên, vấn đề tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li
chưa ai đặt ra như một đối tượng nghiên cứu thực sự. Dẫu sao, những nhận
xét của các tác giả đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu để đi vào nghiên
cứu.
Nhà văn Trần Thanh Hà trong một bài báo nghiên cứu về truyện trinh
thám của Việt Nam đã nhận xét: “Truyện trinh thám, cũng như truyện kinh dị,
rùng rợn, đều đã có ở Việt Nam từ thế kỷ trước với những tác phẩm của Thế
Lữ, Hồ Dzếnh(bút danh Lưu Thị Hạnh). Nhưng gần đây, hai thể loại này
không phát triển. Di Li là nhà văn nữ đầu tiên tạo nên hình thức kết hợp giữa
trinh thám và kinh dị”.
Tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7 thu hút được khá nhiều sự quan tâm của
các nhà văn, nhà phê bình. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều trong bài viết giới
thiệu mở đầu tiểu thuyết này đã đánh giá: “Di Li có một phẩm chất vô cùng
quan trọng trong sáng tạo thể loại trinh thám, đó là sự kiên nhẫn hay khả năng
mai phục. Kiên nhẫn gieo những chi tiết quan trọng một cách tưởng vô tình và
rải rác trong từng trang sách nhưng với một ý đồ rõ ràng và thông minh.
Chính điều đó làm nên hiệu quả là diễn biến của vụ án hoàn toàn diễn ra như
nó ở ngoài đời chứ không phải sự sắp đặt của tác giả. Yếu tố này làm nên sự
hồi hộp cho tác phẩm”. Lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Việt Hà trong trang
bìa sách tiểu thuyết này thì nhận định: “Văn chương trinh thám của người
Việt vốn đã khẳng định được chân diện của mình. Với Câu lạc bộ số 7, sự xác
tín đó càng rõ nét. Một cuốn tiểu thuyết lãng mạn trẻ trung đẫm đầy ly kỳ,
6
được viết dưới một chủ đề khá lạ ở ta. Những tội ác mang màu sắc nghi lễ tôn
giáo, cho dù đấy chỉ là một tà giáo. Sau Trại Hoa Đỏ, Di Li đích thực là một
khuôn mặt hiếm hoi của thể loại tâm lý hình sự xã hội Việt Nam”. Cũng trong
lời giới thiệu ở trang bìa sách tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, đạo diễn Quốc
Trọng đã có nhận xét: “Câu chuyện khiến người đọc bị cuốn theo một cách
mê mụ bởi các chi tiết và tình huống. Chính sự đan cài khéo léo các tình tiết
tưởng chừng vô nghĩa đã khiến độc giả luôn bị nhầm lẫn trong việc đoán định
câu chuyện. Tội ác, một khi được nhào nặn với đức tin bệnh hoạn và mù
quáng, sẽ trở thành thảm họa của cộng đồng. Căng thẳng. Hồi hộp. Trộn lẫn
không khí đôi phần ma mị dường như vẫn là phong cách mang đậm chất Di Li
trong Câu lạc bộ số 7”.
Tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ được nhà văn Trần Thanh Hà tâm đắc giới
thiệu: “Trinh thám đòi hỏi bản lĩnh và sự tính toán chi li, người không bản lĩnh
chỉ lừa được độc giả trong vài quãng. Di Li lừa độc giả cho đến khi kết thúc.
Nói theo một hình tượng trong tác phẩm, Di Li là người giỏi chơi ma trận và đã
chơi thắng”.
Trong bài viết Một vài đặc điểm tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
(Tạp chí Văn nghệ quân đội, 01/2017), tác giả Trần Thị Vân đánh giá: “Điểm
làm nên sức hấp dẫn nhất của tiểu thuyết trinh thám là sự bất ngờ, kịch tính.
Tiểu thuyết của Di Li cũng không ngoại lệ. Với Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ
số 7, yếu tố bất ngờ và kịch tính thể hiện rõ nét trong cách sắp đặt các chi tiết
của tác giả và ở cái kết. Di Li thường đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất
ngờ khác, có những khi tưởng chừng như các sự kiện không hề có sự liên
quan với nhau, nhưng đến cuối cùng lại có mối liên hệ vô cùng mật thiết, làm
cơ sở để soi sáng cho vấn đề đã được nói đến”.
Như vậy, có thể thấy, dù đã có một số ít bài báo nghiên cứu, bài viết
đánh giá về tác phẩm của Di Li, nhưng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở mức độ
khái lược và tính chất giới thiệu.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
7
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các phương diện cốt truyện,
tình huống truyện, hình tượng nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật,
không gian và thời gian nghệ thuật trong hai tiểu thuyết trinh thám - kinh dị
“Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bố số 7” của Di Li. Tuy nhiên, phong cách là một
chỉnh thể, cho nên luận văn có lúc phải mở rộng sự quan tâm đối chiếu đến
một số phương diện khác trong sáng tác của các nhà văn đương thời.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến ba mục tiêu:
Thứ nhất, xác định cơ sở lý thuyết cho việc giải quyết đề tài, từ đó phân
tích làm rõ những đặc trưng nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh
thám - kinh dị của Di Li.
Thứ hai, nhận diện cá tính sáng tạo độc đáo của Di Li trong sự so sánh
mở rộng với các tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kinh dị ở Việt Nam. Từ đó,
khẳng định tài năng, đóng góp của Di Li trên văn đàn đương đại.
Thứ ba, thông qua phân tích, khẳng định giá trị của tác phẩm và cá tính
sáng tác của nhà văn Di Li, chúng tôi mong muốn góp phần nhận diện và
khẳng định giá trị các khuynh hướng sáng tác trong văn xuôi trẻ Việt Nam
hôm nay.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu văn bản tiểu thuyết trinh thám - kinh dị “Trại Hoa Đỏ” và
“Câu lạc bộ số 7” của Di Li.
- So sánh mở rộng tới một số tác phẩm thuộc thể tài truyện trinh thám,
truyện kinh dị ở Việt Nam như tác phẩm của Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Lan
Khai...
- Phân tích và đánh giá những giá trị của tác phẩm, cá tính sáng tạo của
nhà văn Di Li.
8
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, đối tượng của đề tài, luận văn, chúng
tôi sử dụng đồng bộ các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại: sử
dụng phương pháp này để phân tích tiểu thuyết của Di Li ở các yếu tố của thể
tài trinh thám – kinh dị.
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: sử dụng phương pháp này để
tiếp cận, cắt nghĩa, lí giải tiểu thuyết của Di Li một cách khoa học, hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, xã hội học): sử
dụng phương pháp này để nghiên cứu tiểu thuyết của Di Li đặt trong mối
quan hệ với các ngành khoa học liên quan, giải quyết các vấn đề tâm lí học,
pháp luật.v.v..
- Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số thao tác nghiên cứu văn học
quen thuộc như so sánh, thống kê, liệt kê: sử dụng các thao tác này nhằm đưa
ra những cứ liệu và định lượng để nhận định, đánh giá vấn đề, làm sáng tỏ các
luận điểm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai
tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li là “Trại Hoa Đỏ” (NXB Công an nhân
dân, năm 2009) và “Câu lạc bộ số 7” (NXB Lao động, năm 2016). Trong quá
trình thực hiện luận văn, chúng tôi còn so sánh đối chiếu với những tác phẩm
truyện trinh thám và truyện kinh dị khác khi cần thiết.
6. Cấu trúc của luận văn
Gồm 3 phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: chia làm 3 chương
+ Chương 1: Tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li trong văn xuôi
trẻ Việt Nam đương đại.
9
+ Chương 2: Cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật trong tiểu thuyết
trinh thám - kinh dị của Di Li
+ Chương 3: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
trinh thám kinh dị của Di Li.
- Phần kết luận
- Phần tài liệu tham khảo
7. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu toàn diện, hệ thống về
tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li.
- Ban đầu xác lập một số đặc trưng nổi bật của thể tài tiểu thuyết trinh
thám kinh dị.
- Khẳng định ưu điểm và hạn chế của tác phẩm cũng như đóng góp của
nhà văn vào thành tựu của văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại.
10
NỘI DUNG
Chương 1
TIỂU THUYẾT TRINH THÁM – KINH DỊ CỦA DI LI
TRONG VĂN XUÔI TRẺ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Giới thuyết về truyện trinh thám
Truyện trinh thám là tập hợp những tác phẩm văn học xoay quanh một
vụ án, một hành trình điều tra. Câu chuyện được tổ chức theo sự vận động
tuyến tính, trong đó thám tử, tội phạm và tất cả các nhân vật liên quan đến
hành trình kiếm tìm không nằm ngoài định hướng làm sáng tỏ điều bí ẩn. Thể
tài văn học này bùng nổ trong xã hội phương Tây, bắt nguồn từ Mỹ, nở rộ ở
Anh, Pháp và sau đó lan rộng ra nhiều nước trên thế giới như Nga, Nhật,
Trung Quốc. Văn học trinh thám bắt đầu từ phương Tây, có mầm mống từ
Kinh Thánh với truyền thuyết về Abel và Cain, về Daniel…, được tiếp tục
trong các truyện bí hiểm đậm chất duy lí thời kì Khai Sáng (tiêu biểu là tác
phẩm “Zadig” của Voltaire), và đến thế kỉ XIX, văn học trinh thám chính thức
khai sinh với các sáng tác của nhà văn Mĩ E.A. Poe. Nhiều tác phẩm đã trở
thành niềm đam mê của đông đảo bạn đọc, như Bí mật của Marie Roget, Mi
cũng là một con người của E.A.Poe, Dải băng lốm đốm, Thám tử Sherlock
Holmes của Conan Doyle, Mười người da đen nhỏ của Agatha Christie, Độc
giả thứ 7, Đề thi đẫm máu của Lôi Mễ, Người đàn bà ở đầu dây điện thoại
của Shizuko Natshuki.v.v.. Ở Việt Nam, đó là Bàn tay sáu ngón, Kỳ Phát giết
người, Chiếc gối đẫm máu của Phạm Cao Củng, Mảnh trăng thu của Bửu
Đình, Vàng máu của Thế Lữ, cùng những tác phẩm thuộc thể tài truyện phản
gián - tình báo như Ông cố vấn của Hữu Mai, X30 phá lưới của Đặng
Thanh.v.v..
Truyện trinh thám chủ yếu gắn với nhu cầu giải trí của độc giả. Nhiều
nhà văn trinh thám đã coi nhẹ yếu tố văn chương để tập trung vào những tình
11
tiết gay cấn, li kỳ như một phương thức câu khách. Đây cũng là lí do khiến
truyện trinh thám dù thu hút đông đảo số lượng độc giả nhưng vẫn bị xếp vào
khu vực cận văn học, văn học bình dân. Tuy nhiên, trong tiến trình vận động
phát triển, văn học trinh thám đã có nhiều thay đổi để tiếp tục con đường
chinh phục độc giả với những đòi hỏi thẩm mỹ khắt khe hơn.
Bàn về văn học trinh thám, TS Nguyễn Văn Tùng đã nhận định rằng:
Sự ra đời của văn học trinh thám đáp ứng nhu cầu của nhân loại nhằm nâng
cao thức thức tự vệ, khả năng phát hiện và chống lại cái ác; rèn cho con
người tư duy loogic, khả năng phán đoán chính xác và phản ứng nhanh [theo
Lí luận văn học và đổi mới đọc hiểu tác phẩm, NXB Giáo dục Việt Nam,
tr162].
Là thể tài văn học thứ yếu, tiểu thuyết trinh thám (policier) trong cách
giải thích thuần túy nhất, là không phải tiểu thuyết đen, tiểu thuyết phản gián
hoặc tiểu thuyết li kì, giật gân (thriller), mà là tiểu thuyết trinh thám về ẩn
ngữ, trong đó người đại diện có một không hai là Agatha Christie đã sản sinh
ra những tác phẩm làm say mê nhất và có nhiều đổi mới nhất trong văn học.
Việc xuất bản mới đây những tác phẩm cuối cùng của ba “nữ hoàng về tội ác”
P.D.James, E.Georgeet, R.Rendell đã mang lại cho văn học bằng chứng về
các bậc thầy của thể tài này. Nếu, kể từ Tiểu thuyết Mới, tính hiện đại dường
như đã tước đi từ tiểu thuyết khuynh hướng trần thuật của nó, thì tiểu thuyết
trinh thám, ngược lại, đã cáng đáng trọn vẹn cái chức năng đầu tiên và cơ bản
này của văn học, ở điểm là ngày nay dường như chỉ còn duy nhất các nhà văn
tiểu thuyết trinh thám là những người còn biết kể những gì một câu chuyện
muốn kể.
Trung tâm của một tiểu thuyết trinh thám không phải là tội ác mà là
cuộc điều tra: “Cái chết thật đáng tò mò, bạn có thấy thế không? Khi con
người chết vì bệnh tật, đó thật là tàn nhẫn, vô lí, nhưng đó lại là cái chết thực
sự. Khi họ chết vì các tội ác, vì bọn giết người, bọn ám sát, cái chết lại trở nên
12
trừu tượng. Giống như là giải pháp về cái bí ẩn đã xảy ra từ trước. Giống như
ta đang sống trong tiểu thuyết trinh thám vậy” (Chủ nhật rực rỡ, phim của
Franỗois Truffaut, 1983). Trong tiểu thuyết trinh thám, cái chết không xuất
hiện như là sự phi lí, quá đáng, không thể tưởng tượng được, mà nó, giống
như trong một phương trình, một ẩn số thích hợp để cấp cho nó một giá trị.
Cái chết đó xui nên cuộc điều tra về ý nghĩa mà không gây sợ hãi hoặc làm
xáo trộn.
Sự sâu sắc của tiểu thuyết trinh thám là không được có ở đó bất cứ một
cái nhìn, một ý thức hệ, một chủ nghĩa tượng trưng nào coi đó như là ý nghĩa
và sự phong phú của truyện kể; truyện kể trinh thám là chính nó ở sự sáng tỏ
thực sự của nó, trong chừng mực mà nó bị phụ thuộc vào một ẩn ngữ. Những
“tiểu thuyết đen”, như các tác phẩm của James Ellroy, Ed McBain, Lieberman,
đều được biểu lộ qua một trạng thái căng giữa những khả năng bất tận của tính
mơ mộng, có thể nhập vào những luận đề về con người, thế giới, xã hội, Chúa
trời, với sự lôgic thuần túy mang tính tự sự và tuyến tính của tiểu thuyết trinh
thám. Bởi vì tiểu thuyết trinh thám không phải là gì khác hơn là “truyện kể vị
truyện kể”, cũng giống như “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Trong truyện trinh
thám, không có gì là “cho không” cả: mọi thứ được viết ra đều có một lí do tồn
tại- giống như thế giới của tiểu thuyết trinh thám bị chi phối bởi một “nguyên
lí về lí do đầy đủ”: “Chẳng có gì xảy ra mà không có lí do đầy đủ, nghĩa là
không có gì xảy ra mà không thể được đối với người hiểu biết tương đối các
sự vật để mang lại một lí do đủ xác định tại sao nó lại như vậy, mà không phải
khác đi” (Leibniz, Những nguyên lí của Tự nhiên và của Ân sủng, 1714).
Là công trình của lí tính, tiểu thuyết trinh thám trình bày ngay tức thì
như một cuộc điều tra về sự thật. Nhưng cái sự thật đó không cư trú ở ngoài -
văn bản, phó mặc cho độc giả và cho những kiến giải của họ: trong một cuốn
tiểu thuyết trinh thám, tất cả đều được nói ra, nói đúng ra, là để tưởng tượng.
Không hề có một “khoảng trống”, một sự bí ẩn nào, trừ cái người biết ai đã
13
giết người. Nhưng ngay cả sự bí ẩn đó cũng không phải chỉ có một, bởi vì sự
giải quyết chỉ được thấy ở đâu đó trong những gì đã được miêu tả và đã
được biết đến. Khuynh hướng tự nhiên của độc giả là tin rằng sự thật cần
phải được sáng tạo, nó nằm ở những chỗ sâu xa của truyện kể và rằng sự lí
giải phải có những nỗ lực mới đưa được ra ánh sáng. Vậy mà, sự thật thì vẫn
luôn luôn ở đó, nó không bị lộ ra, nhưng là hồi ức độc giả sẽ nhớ lại, vào lúc
cuối truyện rằng văn bản đã giấu nó ngay từ đầu. Mối liên quan với sự thật
và nguyên lí của lí do đầy đủ đã tổ chức nên điều đó (toàn bộ những gì được
viết ra đều bị phụ thuộc vào cốt truyện, cốt truyện ở đây là lí do cuối cùng)
đã khiến tiểu thuyết trinh thám là một phản - tiểu thuyết.
1.1.2. Giới thuyết về truyện kinh dị
Khi công chúng bắt đầu chán chê các loại tiểu thuyết, nhất là tiểu
thuyết hiện thực vốn đã chiếm ưu thế từ năm 1860 thì họ bắt đầu tìm kiếm
những thể tài mới. Dĩ nhiên là vẫn còn nhiều người đọc các loại tiểu thuyết
ấy, nhưng riêng những độc giả tinh tế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn thì lại
muốn có một cái gì đó khác với việc miêu tả trung thực thế giới khách quan
hay những con người trong đời thực. Văn học loại này phụ thuộc quá nhiều
vào logic, lý trí và những chuẩn mực của xã hội nên nhiều khi đã tỏ ra đơn
điệu và cứng nhắc.
Tất cả những ai khao khát một sự thật sâu sắc và một điều gì đó như là
sự tiết lộ đều quay sang thể tài kinh dị với nhiều hy vọng. Họ linh cảm rằng
chỉ có thể tài này mới có thể đáp ứng được những nguyện vọng sâu kín nhất
của họ. Yếu tố kinh dị có thể được nuôi bằng sự hoang tưởng, đôi khi là sự
cuồng loạn, nhưng nó luôn được nuôi bằng niềm hy vọng của độc giả.
Hầu hết các giới đều phản đối các nhà văn viết tiểu thuyết kinh dị.
Những người có thần kinh mạnh mẽ thì không thích những chi tiết ma quái
vì họ luôn nhớ là ngày xưa ở trường, người ta đã dạy họ rõ ràng là một với
một là hai. Những người theo đạo Thiên Chúa giáo thì ngờ rằng các nhà văn
14
viết truyện kinh dị đã về phe với quỷ dữ. Những kẻ cầu tiến thì trách móc
các nhà văn, cho rằng họ không quan tâm đến những vấn đề chính trị và giới
trí thức nửa mùa thì chỉ coi truyện kinh dị là một thứ sách đọc thêm để rèn
luyện phong cách viết văn… Thế nhưng số còn lại, dù là số ít, vẫn ủng hộ
các nhà văn viết truyện kinh dị: đó là những kẻ hiếu kỳ, những người hay lo
sợ, những kẻ nhiệt thành hăng hái, những kẻ không mang đầu óc thủ cựu…
Nói tóm lại, đó là tất cả những ai muốn tìm kiếm một điều gì đó khác với
những cái đã thấy trong đời thường.
Thật tiếc khi người ta cho là yếu tố kinh dị gắn liền với sự điên rồ
cuồng loạn hay những trò phù thủy. Thực ra, kinh dị là một hiện thực được
nhìn dưới một con mắt khác. Yếu tố kinh dị cho phép các nhà văn đề cập các
vấn đề liên quan đến chúng ta, miêu tả bằng những từ ngữ cụ thể, những
hình ảnh sinh động rút từ những chuyện xảy ra trong đời sống thường ngày:
thời gian, định mệnh, thế giới bên kia, bộ mặt của Chúa Trời, sự cứu rỗi,
tình yêu… Các nhà nghiên cứu thần học và triết học cũng đã đề cập đến các
vấn đề này một cách sâu sát hơn nhưng tiếc thay, hiểu được họ chỉ có những
người có trình độ nhận thức cao hoặc có đầu óc cao siêu như họ. Các nhà
văn viết truyện kinh dị trái lại dùng những hình ảnh, những biểu tượng,
những phép liên tưởng… đôi khi cũng hơi mạo hiểm, để làm cho mọi người
hiểu được điều họ muốn nói. Họ thường khắc họa bằng những hình ảnh
thông thường bên ngoài: một bông hồng với sự liên tưởng đến mùa xuân,
đến một thiếu nữ, đến máu hay lòng ham muốn. Điều quan trọng là phải
nhìn bông hoa ấy theo một cách riêng biệt nào đó. Các nhà văn không hề
thay đổi đối tượng phản ánh. Họ chỉ nhân lên ý nghĩa và quyền lực của các
đối tượng ấy. Họ không hề bóp méo thế giới khách quan mà chỉ đưa ra một
cách nhìn mới về cái thế giới ấy.
Chỉ có yếu tố hoang đường, kỳ bí và yếu tố thần tiên là liên kết với
yếu tố kinh dị. Tất cả những cái còn lại đều là đối kháng hoặc xa lạ với nó.
15
Nếu văn học về khoa học viễn tưởng có một nền tảng khoa học với các giả
thuyết về sự tồn tại của sinh vật ở các hành tinh khác, sự tồn tại của các quy
luật sinh học khác… thì văn học kinh dị chỉ quan tâm đến một điều: thể xác
và linh hồn của con người ở ngay trên hành tinh này mà thôi. Ngược với các
nhà văn khác, tư tưởng của các nhà văn viết truyện kinh dị thường là phi lý:
tư tưởng ấy không hề lưu tâm đến cái gì khác ngoài những nguyên tắc và
nhưng phương thức thuộc về lĩnh vực thơ ca. Một nhà văn viết thể tài này
thường chỉ chú ý đến những điều kỳ diệu của cái thế giới bên trong của con
người. Họ xem nhẹ cái mà người ta gọi là thực tại. Một nửa cuộc đời mình,
con người dùng để ngủ và họ chỉ thức trong một nửa còn lại. Thế nhưng
Pascal đã từng tự hỏi: “Không biết là một nửa cuộc đời mà chúng ta ngỡ
rằng mình thức kia có phải cũng là một loại giấc ngủ hơi khác biệt với giấc
ngủ thực hay không, cái giấc ngủ mà trong đó chúng ta thức mà vẫn nghĩ
rằng mình đang ngủ”. Các nhà văn viết truyện kinh dị cũng thế. Lẫn lộn giữa
mộng và thực, thích mộng hơn thực, họ mạnh dạn và hăm hở lao vào khám
phá cái thế giới xa lạ, kỳ bí và rùng rợn, sản phẩm của chính cái trí tưởng
tượng vô cùng phong phú của mình.
Sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng những người đọc tiểu thuyết kinh dị luôn
bằng lòng với những gì mà các nhà văn viết theo thể tài ấy đem đến cho họ.
Dù nhàm chán cái đơn điệu của các loại tiểu thuyết khác, và say mê tìm
kiếm một cái gì đó mới hơn, thế nhưng người đọc cũng không muốn những
chi tiết thường gặp trong các cuốn tiểu thuyết kinh dị làm xơ cứng tâm hồn
mình. Lúc đầu, công chúng dễ dàng bị lôi cuốn bởi các yếu tố rùng rợn, ma
quái… Thế nhưng dần dà, họ trở nên quen thuộc với những thứ đó. Loại tiểu
thuyết đen (roman noir) khi mới xuất hiện đã tạo ra những cơn sốt trong giới
độc giả. Thế nhưng dần dần, nó trở nên quen thuộc đến độ người ta có thể rút
ra một “công thức chung” như “cách thức làm bánh” cho kết cấu của một
cuốn tiểu thuyết loại này: Một lâu đài cổ xưa mà một nửa đã đổ nát; Một bà
già chết treo với nhiều nhát dao đâm ở cổ; Một hành lang dài có nhiều cánh
16
cửa trổ ra mà đa số là những cánh cửa bí mật; Ba xác chết đẫm máu; Trộm,
cướp thao túng; Một liều lượng vừa đủ những lời thì thầm, những tiếng rên la
tắt nghẹn và những tiếng động kinh hoàng… Tất cả những “vật liệu” trên
được trộn kỹ vào nhau, thêm “mắm, muối, gia vị” rồi chia làm ba phần hay ba
quyển. Thế là có một cuốn tiểu thuyết đen dành cho tất cả những ai muốn giải
trí trước khi đi ngủ.
Đồng thời, tiểu thuyết kinh dị càng khó gây được sự chú ý của độc giả
hơn. Những hồn ma vật vờ, những con quỷ hung tợn, những ngôi nhà mồ âm
u, những khu nghĩa trang hoang vắng lạnh lẽo… mà người ta đã gặp đầy dẫy
trong các quyển tiểu thuyết càng lúc càng khó tạo “ép-phê” hơn. Một lớp độc
giả mới được hình thành, tinh thế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn. Họ chờ đợi
những tác phẩm mới không những chỉ đơn giản kéo căng các dây thần kinh
của họ mà còn phải làm cho họ chao đảo thật sự và trở nên sâu sắc bằng cách
đi tìm ở đó những sợi dây bí ẩn làm rung lên những nỗi kinh hoàng mà trước
đó họ chưa bao giờ biết tới.
Các nhà văn viết truyện kinh dị có cái chung là đều xây dựng tác phẩm
của mình dựa trên yếu tố rùng rợn. Tuy vậy, ở mỗi người, kết cấu truyện, cách
xây dựng nhân vật, cách mô tả các sự kiện, cách sử dụng các chi tiết gây rùng
rợn, phong cách viết… lại mang những sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Các tác
giả tên tuổi trong làng văn học kinh dị rất đông đảo: Hoffmann, Edgar Poe,
Hitchcock, Mérimée, Maupassant, Villiers de L’Isle - Adam, Alexandre
Dumas, Walpole, Maturin, Samuel, Beckett… nhưng nổi bật nhất là
Hoffmann, Edgar Poe, Hitchcock và Prosper Mérimée.
Hoffmann (nhà văn Đức, thế kỷ 18) đến với văn học kinh dị ngoài ý
muốn, mặc dù ở lĩnh vực này, ông đã đạt được nhiều thành công rực rỡ.
Hoffmann không thuộc những người ngay từ lúc mới trưởng thành đã thẳng
thừng tuyên bố: “Hoặc văn chương hoặc không gì cả”. Trong các truyện kinh
dị của mình, Hoffmann rất ít sử dụng những chi tiết kỳ diệu, sự xuất hiện của
17
các oan hồn, ma cà rồng hay người sói… Yếu tố kinh dị trong truyện của ông
nằm ở nội tâm: ông miêu tả những hoang tưởng tồn tại một cách oan nghiệt
trong ý thức của con người rồi được bộc lộ trong những giấc mơ, những cơn
mê sảng, những ảo giác hay những cơn sợ hãi cuống cuồng. Hoffmann không
nhằm vào yếu tố siêu nhiên như các nhà đạo đức và các nhà văn có tầm cỡ
trước ông đã làm. Trái lại, ông tiếp tục phân tích con người, nhưng trong một
lĩnh vực hoàn toàn khác. Cuốn “Rượu thuốc của con quỷ” là quyển sách có
giá trị nhất của Hoffmann vì nó mang cả hai chủ đề được coi là chính yếu của
ông: sự điên loạn và thế lực của cái ác. Truyện viết về một thầy dòng tên là
Médord. Bị giằng xé giữa trời cao và hỏa ngục, Médord đã uống một thứ rượu
thuốc của quỷ và trở thành một kẻ bị quỷ ám phạm vô số tội sát nhân trong vô
thức của mình. Các truyện nổi tiếng khác của ông là: “Công chúa Brambila”,
“Cái bình vàng”, “Thầy Bọ chét”, “Thái ấp”, “Hồn ma cưới vợ”… Ông không
chỉ thành công rất lớn ở Đức mà còn ở các nước khác như Anh, Pháp, Mỹ…
Nhiều nhà văn trong và ngoài nước thuộc các thể hệ sau ông đã chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ những truyện kinh dị của Hoffmann.
Nếu ở thế kỷ 18, Hoffmann đã giữ một địa vị gần như là độc tôn trong
lĩnh vực văn học kinh dị thì sang thế kỷ 19, nhà văn người Mỹ Edgar Poe
(1809 – 1849) chính là kẻ “kế vị”. Tuy là kẻ “hậu bối”, song Edgar Poe đã
gần như vượt hẳn Hoffmann vì ông đã đáp ứng đúng lúc cái thị hiếu của công
chúng ở những năm 1860 về truyện kinh dị: khoa học hơn, nhưng rùng rợn
hơn. Ở các truyện kinh dị của Poe, tất cả đều có vẻ đúng liều lượng, được tính
toán chi li, được sắp xếp kỹ càng để đạt tới một cứu cánh. Cốt truyện của Poe
mới đọc sơ qua thì có vẻ điên rồ, hoang đường và phi lý. Thế nhưng dưới
những con mắt tinh đời, truyện của ông thực sự là những tác phẩm mang giá
trị nhân bản và giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. So với Hoffmann thì có lẽ ở
thời đại thực nghiệm, Poe được ưa chuộng hơn và trên thực tế, “Những truyện
kinh dị” của ông đã làm hồi hộp không biết bao nhiêu là độc giả trên toàn thế
giới. “Con mèo đen”, “Bọ rầy vàng”, “Vụ án mạng ở đường Morgue”, “Mặt
18
nạ tử thần đỏ”… là những truyện được biết đến nhiều nhất trong số các truyện
kinh dị của Edgar Poe.
Hitchcock được nhắc đến rất nhiều trong làng văn học bởi các truyện
kinh dị được ông tuyển rải rác từ các tác giả khác và giới thiệu lại. Các tuyển
tập này thường mang những tựa đề rất “giật gân”: “Những truyện ghê rợn”,
“Những truyện gây sợ hãi”, “Những truyện không nên đọc ban đêm”…
Ngoài “Carmen”,… nhà văn Pháp Prosper Mérimée (1803 – 1870) còn
được biết đến qua những truyện kinh dị: “Tượng thần Vệ nữ ở Ille”, “Lokis”,
“Những linh hồn trong lò luyện tội”, “Rắn thần Djoumane”. Trong số các tác
phẩm trên, Mérimée coi “Tượng thần Vệ nữ ở Ille” là kiệt tác của mình và
ông quả đã không lầm vì truyện ấy đã được công chúng hoan nghênh nồng
nhiệt.
Nói về văn học kinh dị, mỗi người, mỗi giới đều có những ý kiến khác
nhau: người khen kẻ chê; người tán thành, kẻ phản đối. Dù sao đi nữa, qua
những bước thăng trầm của mình, văn học kinh dị đã luôn từng bước tiến tới
sự hoàn thiện. Cuộc đời vô cùng phong phú, đa dạng, con người theo bước
tiến của xã hội ngày càng có nhiều suy nghĩ mới lạ thì thiết tưởng văn học
cũng phải đa dạng, phong phú theo thì mới phản ánh đúng cuộc sống, tâm tư
tình cảm của con người và đáp ứng được những nguyện vọng, nhu cầu ngày
càng lúc càng nhiều của họ. Có người cho rằng văn học kinh dị các tác dụng
xấu, nhất là đối với giới trẻ. Trong một chừng mực nào đó thì điều này cũng
đúng. Đúng là không nên đọc văn học kinh dị một cách bừa bãi nhưng trên
tinh thần đổi mới tư duy hiện nay, thiết nghĩ cũng không nên nhận xét nó một
cách thô thiển hàm hồ và coi đó là một thể tài văn học đáng bị chối bỏ và đào
thải.
1.1.3. Truyện trinh thám – kinh dị trong văn học Việt Nam hiện đại
Ở Việt Nam, truyện trinh thám và truyện kinh dị đã có từ thế kỉ trước
với những tác phẩm của tác giả Phạm Cao Củng, Thế Lữ, Hồ Dzếnh (bút
danh Lưu Thị Hạnh), Bùi Huy Phồn, Lê Văn Trương... Nhưng trong thời kì
19
văn học hậu hiện đại, hai thể tài này hầu như không phát triển. Nhà văn Di Li
là người đầu tiên tạo nên hình thức kết hợp giữa trinh thám và kinh dị. Điều
đó đã tạo nên những tác phẩm có sức hấp dẫn lớn với độc giả trong và ngoài
nước. Cốt truyện hấp dẫn li kì gợi sự tò mò cho độc giả đi tìm kiếm, giải “mật
mã” và tìm kết quả cho vụ án. Tiêu biểu là tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” và “Câu
lạc bộ số 7” đã gây được tiếng vang. Truyện trinh thám và truyện kinh dị là
hai thể tài riêng biệt trong loại hình tác phẩm tự sự ở mỗi thể tài ấy đều đã có
những tác giả tác phẩm xuất sắc trong kho tàng văn học thế giới nói chung và
văn học Việt Nam nói riêng. Truyện kinh dị (hay còn gọi là giả tưởng kinh dị)
ở phương Tây còn gọi là “tiểu thuyết đen" đã có những tác phẩm xuất sắc
Edgar Poe, ở phương Đông đã có Bồ Tùng Linh với Liêu trai chí dị, ở Việt
Nam ngay trong kho tàng văn học dân gian đã có những tác phẩm mang sắc
màu kinh dị như trong Việt điện u linh, truyện cổ tích Hà ô lôi (cổ tích
Nguyễn Đổng Chi), truyện người lấy ma, truyện tinh con chuột hóa thành
người chồng gặp gỡ người vợ khi người chồng đi xa.
Những truyện ma quỷ trong văn học dân gian Việt Nam đã mang sắc
màu kinh dị. Trong văn học viết có Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, tác
phẩm của Thế Lữ như "Vàng và máu", đặc biệt trong “Truyện đường rừng”
của Lan Khai có “Ai hát giữa rừng khuya''…
Truyện trinh thám cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tác giả tiêu
biểu của truyện trinh thám Việt Nam được bạn đọc biết đến nhiều là Phạm
Cao Củng với Vết tay trên trần (1936), Cái kho nhà họ Đặng, Ba viên ngọc
bích (1938), Người một mắt (1940), Kỳ Phát giết người, Nhà sư thọt (1941),
Đám cưới Kỳ Phát (1942), Đôi hoa tai của bà chúa (1942)... Các nhà văn
khác như Thế Lữ, Lê Văn Trương, Bùi Huy Phồn... đã viết một số tác phẩm
có tiếng vang trong văn đàn trước năm 1945.
Nhưng có sự kết hợp hài hòa đặc trưng và những phẩm chất nghệ thuật
của cả hai thể tài này để tạo ra một thể tài văn học mới là truyện trình thám và
20
kinh dị là không nhiều. Di Li là một trong số tác giả đã thành công khi kết
hợp những phẩm chất nghệ thuật và sắc thái thẩm mỹ khác nhau để tạo ra
những sáng tạo nghệ thuật độc đáo vừa lôi cuốn trí tuệ của người đọc đi tìm
lời giải cho những vụ án tồn tại đến những câu đố hóc hiểm vừa pha trộn sắc
thái kì ảo ma quái tạo cảm giác hãi hùng cho độc giả. Như vậy, truyện trinh
thám và những “câu đố” trí tuệ, truyện kinh dị là những “cú huých” mạnh mẽ
đến kinh hoàng cho cảm xúc của tâm hồn. Khi cả hai phẩm chất nghệ thuật
ấy được kết hợp lại thì hiệu quả nghệ thuật được nhân đôi…
Trong văn học đương đại Việt Nam, truyện trinh thám và truyện kinh
dị có những tác phẩm: Sát thủ online và Có tiếng người trong gió của Nguyễn
Xuân Thủy, Phiên bản, Cô mặc sầu và Hồ sơ một tử tù của Nguyễn Đình Tú,
Trại Hoa Đỏ, Tầng thứ nhất, Điệu van địa ngục và Câu lạc bộ số 7 của Di
Li... Di Li là nhà văn đầu tiên có sự kết hợp hai thể tài trinh thám và kinh dị
trong sáng tác của mình.
Tại Trung tâm văn hóa Pháp - L’Espace đã diễn ra buổi tọa đàm “Văn
học trinh thám Việt Nam và tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Di Li”. Nhà
văn nữ ra mắt công chúng tiểu thuyết trinh thám Câu lạc bộ số 7 - tác phẩm
mới nhất của cô. Buổi tọa đàm có sự tham gia của nhiều gương mặt tên tuổi
trong giới văn nghệ như: nhà văn Nguyễn Quang Thiều, nhà phê bình PGS -
TS Văn Giá, nhà văn Võ Thị Xuân Hà, đạo diễn Quốc Trọng, nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên…
Theo nhà văn Nguyễn Quang Thiều: “Chúng ta đã đọc văn học trinh
thám từ rất lâu. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi trả lời câu hỏi như thế
nào là trinh thám? Theo tôi khi mà xã hội của chúng ta có nhiều mặt trái,
khiến con người ta không phân biệt được đâu là tốt, đâu là xấu thì đó là điều
kiện để văn học trinh thám phát triển. Trinh thám không chỉ là câu chuyện
về một vụ án, nó còn là câu chuyện nhiều lớp lang, đòi hỏi con người ta phải
tư duy logic một cách cao độ".
21
Dưới con mắt của một nhà phê bình, PGS.TS Văn Giá cho rằng: “Văn
học trinh thám có lịch sử từ thế kỷ 19 ở phương Tây và bắt đầu từ những
năm 1930 ở Việt Nam. Đó là một thể tài nhằm để chỉ một nội dung mà người
ta cố tình giấu đi, cố tình bưng bít. Công việc của các nhà trinh thám là phải
lật tẩy chúng. Để xây dựng tiểu thuyết trinh thám người ta có thể đi theo lối
kể truyện hình sự, hoặc kinh dị. Từ những năm 1930, Thế Lữ đã viết truyện
trinh thám. Nhưng bao giờ ông cũng dùng khoa học để giải thích những câu
chuyện của mình. Ngày nay, có nhiều vấn đề mà ngay cả khoa học cũng
không giải thích được, đó là một điều kiện để trinh thám phát triển".
Sau một số ý kiến trao đổi, tranh luận, nhà văn Di Li đã có những chia
sẻ về cuốn tiểu thuyết Câu Lạc bộ số 7. Sau tiểu thuyết Trại Hoa
Đỏ đến Câu lạc bộ số 7, người đọc tiếp tục theo chân cảnh sát điều tra Phan
Đăng Bách đi phá một vụ án giết người liên hoàn vô cùng nghiêm trọng.
Bảy cô gái xinh đẹp liên tục chết vì những lý do bất ngờ. Những cái chết
được ngụy trang khéo léo dưới hình thức những vụ tai nạn. Nhưng đằng sau
đó là cả một âm mưu man rợ của nhóm người thuộc thể vô tính. Chúng bị
ám ảnh bởi một mẫu người hoàn hảo và giết bảy cô gái trẻ để đánh cắp các
bộ phận trên người họ nhằm tạo ra những mẫu người hoàn hảo ấy.
Chia sẻ về quá trình sáng tác, Di Li cho rằng đây là tác phẩm quan
trong nhất của cô. Câu lạc bộ số 7 được Di Li sáng tác từ năm 2009 cho đến
2015, là cuốn tiểu thuyết tiêu tốn khá nhiều thời gian và bút lực của nhà văn.
Theo chị, trong nền văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói
chung, ăn khách nhất là tiểu thuyết lãng mạn chứ không phải là tiểu thuyết
trinh thám. Di Li đầu tư viết tiểu thuyết trinh thám bởi nó là thế mạnh của cô
và nữ nhà văn đã say mê thể tài tiểu thuyết này từ khi còn nhỏ.
1.1.4. Sự kết hợp hài hòa truyện trinh thám và truyện kinh dị trong sáng tác
của Di Li
22
Nhà văn trẻ Di Li đã rất sáng tạo khi kết hợp truyện trinh thám và kinh
dị trong tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7”. Trong đó, yếu tố li kì
hấp đã dẫn dắt người đọc lạc vào mê cung của trí tuệ. Với tiểu thuyết “Trại
Hoa Đỏ”, Di Li được coi là người đầu tiên của Việt Nam khai mở một thể tài
văn học mới, kết hợp giữa trinh thám và kinh dị. Không những được độc giả
yêu mến, trở thành bestseller và tái bản, “Trại Hoa Đỏ” còn được đánh giá
cao tại các nước trong khu vực. Báo chí Hàn Quốc, Nhật Bản ca ngợi Di Li
như là nữ nhà văn đang được yêu mến hàng đầu tại Việt Nam.
Truyện trinh thám và truyện kinh dị là hai thể tài độc lập. Sự kết hợp
giữa chúng ở Việt Nam thực ra đã xuất hiện từ trước năm 1945 với một số
truyện ngắn của Thế Lữ, tiêu biểu là truyện ngắn "Vàng và máu". Nhưng có
lẽ, Thế Lữ cũng chưa hề có ý thức rõ ràng về sự kết hợp hai thể tài văn học
này vào trong sáng tác của mình. Bởi sau khi trình làng một số truyện ngắn có
sự kết hợp yếu tố trinh thám và yếu tố kinh dị thì Thế Lữ không sáng tác tiếp
và không để lại một tác phẩm lớn nào. Chỉ đến tác phẩm của Di Li, chúng ta
mới được chứng kiến thích thú với sự giao thoa của hai thể tài kể trên trong
những tác phẩm dày dặn, gây tiếng vang lớn trên văn đàn, được công chúng
văn học tìm đọc. Ở Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7, cốt truyện trinh thám vẫn
đóng vai trò chủ đạo, tâm điểm là những vụ án, từ đó xuất hiện bộ ba nhân vật
quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám Thế giới cũng như ở Việt Nam: thủ
phạm - nạn nhân - thám tử. Tình huống căng thẳng giàu kịch tính, quá trình
phá án là quá trình giải "câu đố" trí tuệ đầy khó khăn. Thủ pháp nghệ thuật
quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cũng được sử dụng dày đặc như: những
tình huống đánh lạc hướng để người đọc nhầm lẫn cho việc xác định thủ
phạm, gây tò mò háo hức; thủ phạm với mặt nạ đẹp đẽ hoặc quái dị để có thể
làm người đọc vừa sợ hãi vừa hiếu kì... Nhưng những cốt truyện, nhân vật,
tình huống truyện đậm sắc thái trinh thám ấy được đặt trong không gian và
thời gian nghệ thuật rùng rợn, bí hiểm thậm chí ma quái. Với những hoàn
cảnh nghệ thuật đậm sắc thái kinh dị ấy, người đọc không chỉ thích thú hứng
23
khởi khi đi tìm lời giải đố cho "câu đố trí tuệ" của vụ án mà còn được trải qua
nhiều cung bậc cảm xúc thẩm mĩ khác nhau gắn với cái bi - cái hài, cái cao cả
- cái thô kệch. Và đặc biệt có những khoảnh khắc phải rùng mình bởi sợ hãi
đến kinh hoàng. Ở đây, Di Li đã sử dụng "con thuyền" kinh dị để chở cốt
truyện trinh thám không chỉ đến với trí tuệ, sự nhận thức bừng sáng của độc
giả sau khi khám phá vụ án thành công mà còn đáp ứng một nhu cầu thẩm mĩ
rất phổ quát của con người Á Đông: tò mò, hiếu kì với những chuyện lạ, hiện
tượng lạ vốn không bình thường, không phổ biến trong đời sống quanh ta. Ví
dụ như tâm lí thích nghe truyện ma, đọc truyện ma của người Việt Nam. Dù
tin hay không tin, mọi người vẫn thích thú. Đặc biệt trong thế giới quanh ta
vẫn còn có những hiện tượng kì bí dị thường, khoa học chưa thể cắt nghĩa
rành rọt. Và đây, chính là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng cho thể tài truyện
kinh dị phát triển.
Như vậy, Di Li là một trong số rất ít những nhà văn trẻ hiện nay đã thành
công khi kết tinh được đặc trưng nội dung và nghệ thuật, cũng như thế mạnh
của hai thể tài truyện trinh thám và truyện kinh dị vào trong tác phẩm đặc
sắc của mình
1.2. Nhà văn Di Li và những sáng tác đặc sắc trong văn xuôi trẻ Việt
Nam đương đại
1.2.1.Tiểu sử
Di Li là một nhà văn nữ và là một dịch giả Việt Nam. Cô được đánh
giá là cây bút nữ đang nổi với dòng văn học trinh thám - kinh dị, được xem
là hiện tượng của văn học Việt Nam khi rất thành công với thể tài tiểu thuyết
trinh thám kinh dị. Trại Hoa Đỏ là tiểu thuyết đầu tay của cô. Sau khi cuốn
tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ được phát hành năm 2009, báo Yomiuri của Nhật
Bản cũng đưa tin về sự kiện này. Cuốn sách mới đây của chị phát hành vào
8.3.2013 “Adam và Eva” - chỉ viết về hai giới và những chuyện về tình yêu,
hôn nhân - đã lọt vào nhiều danh sách tác phẩm bán chạy.
24
Di Li tên thật là Nguyễn Diệu Linh, sinh ngày 3 tháng 6 năm 1978
tại Hà Nội. Cô từng theo học tại trường Phổ thông trung học Việt Đức, tốt
nghiệp Cử nhân tiếng Đức và tiếng Anh tại Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Thạc
sĩ Quản lý giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện cô là giảng viên
tiếng Anh trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội. Di Li là hội viên
Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hội viên Hội Nhà
văn và Dịch giả châu Á Thái Bình Dương. Mặc dù vậy, không chỉ viết văn,
viết báo và dịch thuật, cô còn là một chuyên viên tư vấn trong lĩnh vực
quảng cáo & PR, là giảng viên bộ môn Quan hệ công chúng. Tất cả kiến
thức và kinh nghiệm của cô hầu hết đều là tự học.
Ngay từ khi trên ghế nhà trường, Di Li đã là một cô học trò “nhất quỷ
nhì ma”, thậm chí còn là “trùm sò” của những cô cậu “nhất quỷ nhì ma” ấy.
Trong “Nhật ký mùa hạ” - kể về tuổi thơ, tuổi học trò, tuổi sinh viên của mình
- Di Li đã kể lại những trò chơi rất nghịch ngợm. Thế nhưng, cũng chẳng đứa
trẻ hàng xóm nào đọc nhiều sách như Di Li. Từ 8 tuổi, Di Li đã đọc Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Tự Lực Văn Đoàn... và tiếp tục đọc hầu hết tủ sách của
người cha vốn ham đọc. Di Li còn đi thuê truyện ở ngoài và đọc cả những tiểu
thuyết “diễm tình ba xu” ở cửa hàng cho thuê.
Thời sinh viên, cô học song song hai bằng đại học cùng lúc, lại học
thêm ngoại ngữ thứ ba. Vậy mà Di Li vẫn có thời gian làm thêm, làm đủ việc
để tự lập cuộc sống. Khi thì thấy Di Li làm điện hoa, lúc lại làm tour guide, tổ
chức sự kiện, song song đó là viết báo, dịch bài. Tốt nghiệp đại học, Di Li
được nhận vào làm giảng viên Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà
Nội và đến nay đã hơn 10 năm cô đứng trên bục giảng. Di Li còn là giảng
viên thỉnh giảng cho một số trường như Đại học Hòa Bình (dạy môn “Kỹ
năng viết trong quan hệ công chúng), Đại học Văn hóa (dạy môn “Tiếng Anh
trong văn học”)...
1.2.2 Quá trình sáng tác
25
So với những người viết cùng lứa như Trang Hạ, Phong Điệp, Hoàng
Anh Tú thì Di Li bước vào nghiệp văn khá muộn. Phải tới sau khi tốt nghiệp
đại học, cô mới sáng tác. Năm 2000, truyện ngắn “Hoa mộc trắng” - tác phẩm
đầu tay của Di Li - ra đời, tiếp sau đó là những sáng tác chậm, đăng rải rác
trên các báo. Những truyện ngắn đầu tiên ấy được tập hợp trong cuốn “Tầng
thứ nhất” - xuất bản năm 2007. Liền sau đó là tập “Điệu Valse địa ngục” - tập
hợp 10 truyện ngắn sáng tác cùng năm.
Với tiểu thuyết “Trại Hoa Đỏ”, Di Li được coi là người đầu tiên của
Việt Nam khai mở một thể tài văn học mới, kết hợp giữa trinh thám và kinh
dị. Không những được độc giả yêu mến, trở thành bestseller và tái bản, “Trại
Hoa Đỏ” còn được đánh giá cao tại các nước trong khu vực. Báo chí Hàn
Quốc, Nhật Bản ca ngợi Di Li như là nữ nhà văn đang được yêu mến hàng
đầu tại Việt Nam.
Cùng năm 2009, Di Li cho ra mắt tiếp tập truyện ngắn “7 ngày trên sa
mạc” và cuối năm, tập bút ký du lịch “Đảo thiên đường” ra đời, một lần nữa
lại gây được tiếng vang.
Từ năm 2010 đến 2012, Di Li tiếp tục “tấn công” văn đàn bằng 8 cuốn
sách “Đôi khi tình yêu vẫn hay đi lạc đường”, “Cocktail thị thành”, “Tháp
Babel trên đỉnh thác Ánh trăng”, “Chiếc gương đồng”, “Nhật ký mùa hạ”,
“Chuyện làng văn”, “San hô đỏ”, “The Black Diamond” (tập truyện ngắn do
chính tác giả và một số dịch giả khác dịch sang tiếng Anh). Điều lạ là mỗi
cuốn một thể tài: Hài hước, kinh dị, trinh thám, tình cảm lãng mạn, thiếu nhi
và phiếm đàm.
Chỉ trong vòng 6 năm, Di Li đã xuất bản tới 23 đầu sách (gồm cả sách
chuyên ngành, sách dịch). Hiếm ai có sức sáng tác tác phẩm dày như Di Li.
Cuốn “Adam và Eva” mới ra mắt chỉ viết về hai giới và những chuyện về tình
yêu, hôn nhân đã lọt vào danh sách bán chạy của Vinabook và nhà thơ Lê
Minh Quốc cho rằng: “Di Li đã tỏ ra hiểu sành sỏi và cảm nhận lịch lãm về
26
phẩm chất, tính cách, tính nết, tâm tính của giới. Di Li liếc mắt sang giới mày
râu, đôi lúc, tôi có cảm giác như cô đi guốc trong bụng họ”.
Có thể nói, Di Li là một nhà văn trẻ nhưng đầy bản lĩnh, cá tính và đã
sớm thu hái được nhiều kết quả đáng nể. Phải chăng, đó là thành quả lao động
nghệ thuật sáng tạo và kiên trì của tác giả. Nhà văn Di Li đã trao đổi với
chúng tôi suy nghĩ về nghề văn: “Quan niệm của tôi là làm bất cứ nghề gì
cũng phải có sự chuyên nghiệp. Định nghĩa về sự chuyên nghiệp rất đơn giản,
ấy là khi ta thấy người làm nghề làm công việc của mình một cách dễ dàng,
điêu luyện, thiện nghệ, không phạm sai lầm. Từ việc đan rổ rá, làm xiếc cho
đến ca sĩ trên sân khấu hay viết văn, đều phải khiến cho người ngoài nhìn vào
thấy anh là kẻ điêu luyện. Để có được sự dễ dàng khi viết, nghĩa là nhà văn
viết một cách không nhọc mệt mà vẫn cho ra đời những tác phẩm xuất sắc, thì
đồng nghĩa với việc anh phải lăn lộn với vốn sống thực tế và đọc nhiều đến
nỗi cái vốn nhà văn có là 100 thì chỉ nên viết ra 1. Như vậy, giống như người
làm xiếc trên dây, khán giả thấy nghệ sĩ đi thăng bằng trên không thiện nghệ
như một trò chơi, thì cần phải hiểu rằng để đạt được 5 phút vinh quang đó,
người nghệ sĩ đã đổ mồ hôi và nước mắt trên sàn tập đến cả 10 năm trời.
Cuối cùng thì một nhà văn chuyên nghiệp có thể không phải lúc nào cũng có
tác phẩm đỉnh cao, nhưng dứt khoát không thể viết bất cứ thứ gì ở mức trung
bình khá”.
1.2.3 Sáng tác của Di Li trong văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại
Trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam đương đại, chúng ta thấy xuất hiện
hàng loạt những cây bút trẻ xuất sắc, có nhiều cách tân nghệ thuật và những
đóng góp đáng ghi nhận vào thành tựu chung của nền văn học nước nhà.
Những cây bút trẻ đã gây được nhiều tiếng vang trên văn đàn có thể kể đến
như: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Đình Tú, Uông Triều, Nguyễn Bình Phương,
Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Phạm Duy Nghĩa, Tống Ngọc Hân.v.v.. Và trong
27
đội ngũ ấy, Di Li là một nhà văn trẻ có dấu ấn đặc biệt với phong cách và con
đường sáng tạo riêng rất ấn tượng.
Với tinh thần dấn thân, dám tìm tòi, đổi mới, dám thử thách chính
mình, văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng,
đa dạng về bút pháp nghệ thuật, có những đóng góp to lớn vào thành tựu
chung của nền học đương đại nước nhà. Có thể nói, văn xuôi trẻ đương đại
đang có một cuộc bùng nổ với nhiều khuynh hướng sáng tác, nhiều cá tính
sáng tạo độc đáo và sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương
có hành trình bền bỉ đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm phong phú và phức
tạp của con người, đó cũng là một hành trình đi xa nhất vào cõi vô thức của
con người. Nguyễn Ngọc Tư da diết, nồng hậu, ám ảnh với không gian văn
hóa và cuộc sống miền sông nước Nam Bộ. Đỗ Bích Thúy có một “vùng
đất” riêng trong trang văn của mình với không gian văn hóa miền núi cao
phía Bắc và những nỗi niềm đau đáu, những vẻ đẹp mời gọi. Nguyễn Đình
Tú đầy bạo liệt, thô nhám trước các vấn đề thời sự nóng hổi. Phong Điệp
phác dựng bức tranh đô thị, con người đô thị, xung đột nổi bật trong đời
sống đô thị Việt Nam đương đại. Uông Triều quay về khai thác và luận giải
các vấn đề lịch sử dân tộc, đất nước.v.v..
Mỗi người một dáng vẻ, một giọng điệu, những gương mặt trẻ bước
đầu đã tạo được ấn tượng bởi những lạ lẫm trong khám phá hiện thực, bởi
những táo bạo trong cách phơi trải tâm hồn, với cách viết đầy ngẫu hứng
luôn có sự kết hợp giữa tài năng thiên bẩm và vốn tri thức văn hóa mới mẻ.
Họ được sống trong một môi trường văn hóa có nhiều ưu thế hơn so với các
thế hệ đàn anh, với sự giao lưu văn hóa toàn cầu và sự bùng nổ của công
nghệ thông tin. Điều đáng ghi nhận ở thế hệ này là ý thức vươn tới những
thể nghiệm mới mẻ, lạ hóa cách viết truyền thống. Nhu cầu “viết khác đi”
dường như là nhu cầu chung của thế hệ này, cho dù những thể nghiệm đó có
thể là thành công hay thất bại. Tác phẩm của lớp nhà văn này, dù đề cập đến
vấn đề gì (cuộc sống chật chội trong những căn phòng ở đô thị hay bản năng
gốc của con người) thì cuối cùng cũng là để cho người đọc thấy rằng họ
28
mang trách nhiệm nói hộ những vấn đề, những câu chuyện của thế hệ mình.
Họ viết về thế hệ của mình với biết bao hoang mang, hoài nghi giằng xé rồi
vẫn khát khao hướng thiện vươn lên, chia sẻ trải nghiệm về sự đổ vỡ của
một xã hội tiêu dùng và sự lên ngôi của văn hóa đại chúng. Họ làm nên một
diện mạo văn xuôi dầy trẻ trung, mới mẻ và đa sắc đa thanh.
Giữa bề bộn những gương mặt tác phẩm đa bút pháp, đa phong cách
như thế, Di Li đã khai phá một con đường riêng đầy mới mẻ và độc đáo cho
mình – đó là tiểu thuyết trinh thám kinh dị.
Di Li là một trong những cây bút trinh thám hiếm hoi của văn đàn Việt
Nam. Khác với nhiều cây bút cùng trang lứa, Di Li bước vào nghiệp sáng tác
khá muộn. Thế nhưng chị được xem cây bút sung sức của văn học trẻ đương
đại Việt Nam. Giống như tính cách thích tự do, khám phá của mình, người
đẹp làng văn cũng không đóng đinh ở bất kỳ thể tài nào. Chị "chu du" từ
truyện ngắn, tiểu thuyết sang bút ký, dịch thuật, ký sự chân dung, tản văn...;
từ hài hước, tình cảm lãng mạn đến kinh dị, trinh thám, thiếu nhi và cả phiếm
đàm. Trong đó có nhiều cuốn tạo được tiếng vang như Đảo thiên đường, Điệu
Valse địa ngục, đặc biệt là Trại Hoa Đỏ - cuốn tiểu thuyết đánh dấu tên tuổi
của một nữ nhà văn Việt Nam liều lĩnh thử sức ở thể tài trinh thám, kinh dị và
đã thành công. Trại Hoa Đỏ không chỉ đem về cho Di Li giải Ba cuộc thi viết
tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài "Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống
2007 - 2010", mà cuốn sách còn trở thành best-seller, được xuất bản tại nhiều
nước trong khu vực và được báo chí Hàn Quốc, Nhật Bản giới thiệu, đánh giá
cao.
Có thể nói, ngay từ khi mới xuất hiện với những tác phẩm đầu tiên, Di
Li đã để lại một dấu ấn đặc sắc với bạn đọc. Đến nay, với một thể tài độc đáo
và hấp dẫn, với một phong cách đã dần được định hình, Di Li đã và đang
khẳng định được vị trí cũng như những đóng góp của mình vào văn xuôi
đương đại nước nhà. Với những thành tựu ban đầu, con đường văn học trinh
thám kinh dị của Di Li sẽ còn đầy rộng mở, hứa hẹn.
29
Tiểu kết chương 1
Trong đời sống văn xuôi trẻ đương đại, giữa rất nhiều các nhà văn tài
năng, giữa nhiều phong cách và con đường sáng tạo, Di Li đã khẳng định
được dấu ấn và vị trí của mình khi tìm ra một con đường sáng tạo riêng, đó là
tiểu thuyết trinh thám kinh dị.
Truyện trinh thám thực chất là "câu đố" lớn về trí tuệ gắn với vụ án, và
truyện kinh dị thực chất là mượn cái kì ảo hoang đường để vừa tượng trưng
cho cuộc giao tranh vĩnh hằng giữa cái thiện và cái ác trong xã hội loài người,
vừa lấy hiện tượng ma quái huyền ảo ấy làm phương tiện để chuyển tải những
thông điệp nhân văn đến bạn đọc. Trong sáng tác của mình, Di Li đã thành
công khi kết hợp được những đặc trưng và thế mạnh của hai thể tài văn học
ấy, làm nên đặc sắc riêng cho tác phẩm.
Văn học trinh thám kinh dị là một lĩnh vực còn mới mẻ, hấp dẫn và hứa
hẹn nhiều triển vọng cho đời sống sáng tác ở Việt Nam. Cho đến nay, chưa có
nhiều nhà văn Việt Nam đi theo và thành công trên con đường này. Với các
tác phẩm tiểu thuyết trinh thám kinh dị như Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7,
Di Li có lẽ là một trong ít những nhà văn đầu tiên đã có sự kết hợp đặc trưng
của thể tài trinh thám và kinh dị vào trong thể tài văn học tổng hợp của riêng
mình. Đây là một sự mở đường, tiên phong và bước đầu đã có những thành
công nhất định.
30
Chương 2
CỐT TRUYỆN, TÌNH HUỐNG TRUYỆN, NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM - KINH DỊ CỦA DI LI
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
2.1.1. Khái niệm Cốt truyện
Cốt truyện chỉ sự phát triển của hành động, của tiến trình các sự việc
các biến cố trong tác phẩm. Thông thường, nó diễn ra theo một trình tự: Thắt
nút, phát triển hành động (sự biến, cao trào), mở nút. Tuy nhiên, đây là kết
cấu của cốt truyện truyền thống, cũng có những tiểu thuyết không theo trình
tự nhưng vẫn đều bao gồm những phần này.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2000), cốt truyện được định nghĩa là: “Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự
sự và trữ tình” [19, tr99]. Theo đó, có thể tìm thấy ở một cốt truyện hai
phương diện gắn bó hữu cơ: một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ
tính cách nhờ cốt truyện nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính
cách; mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung
đột xã hội. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính
cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện
phản ánh xung đột xã hội, có sức mạnh và lôi cuốn người đọc. Cốt truyện là
một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các tác phẩm hết
sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học
của mỗi thời kì lịch sử, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Cốt truyện kinh dị (hay ở Việt Nam còn gọi là truyện ma) thường đơn
giản, ít có diễn biến li kì phức tạp. Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ,
ở Chuyện người con gái Nam Xương, chất huyền ảo kinh dị nằm ở phần kết
của tác phẩm, khi nhân vật nữ chính Vũ Thị Thiết tự tử và sau đó có cuộc
gặp gỡ với người chồng trên sông vào rằm tháng 7.
31
Cốt truyện trinh thám thì có mức độ phức tạp cao hơn nhiều, bởi xuất
phát từ hiện thực với đầy ắp những chi tiết mà thủ phạm tạo ra để che giấu
tội ác của mình, và thám tử không dễ dàng khi xác định chính xác để bắt
được thủ phạm vụ án. Có thể ví cốt truyện trinh thám như một sợi chỉ mỏng
manh, bị đứt quãng nhiều đoạn, mà nhân vật thám tử phải nối những đoạn
đứt quãng ấy tạo nên sự liền mạch, lần theo dấu vết tưởng chừng mơ hồ nhất
để xác định bắt được thủ phạm gây ra vụ án.
Như vậy, cốt truyện trinh thám và kinh dị đều có những đặc thù riêng
bên cạnh những đặc trưng chung của cốt truyện trong tác phẩm văn học.
2.1.2. Một số kiểu cốt truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di
Li
2.1.2.1. Cốt truyện “vụ án” truyền thống
Đặc điểm nổi bật của thể loại trinh thám là kể về việc điều tra một vụ
án, cho nên dù có kể theo cách nào thì cuối cùng câu chuyện cũng phải chỉ
ra thủ phạm gây án, nguyên nhân gây án một cách rõ ràng dựa trên những
chứng cứ duy lí xác thực. Về điều này, tiến sĩ Triết học người Pháp
Laurence Devillairs đã chỉ ra rằng: “Trung tâm của một tiểu thuyết trinh
thám không phải là tội ác mà là cuộc điều tra. Trong tiểu thuyết trinh thám,
cái chết không xuất hiện như là sự phi lý, quá đáng, không thể tưởng tượng
được, mà nó giống như trong một phương trình, một ẩn số thích hợp để cấp
cho nó một giá trị” (theo Trần Thanh Hà, Văn học trinh thám, Báo Thể thao
& Văn hóa, 2009). Như vậy, có thể thấy rằng, một tác phẩm trinh thám có
cốt truyện kinh điển nhất vẫn là cốt truyện kiểu vụ án.
Dường như nắm rõ quy luật và đặc trưng này của thể loại mình đang
theo đuổi, Di Li đã triển khai tác phẩm theo mô thức truyền thống – đó là cốt
truyện vụ án.
Ở Trại Hoa Đỏ, đó là chuỗi án mạng xảy ra ở một nông trang kì bí. Diên
Vĩ được chồng tặng một trang trại nằm giữa vùng núi hẻo lánh. Ngay khi
bước chân đến đây, cô đã có dự cảm chẳng lành. Một bộ tộc kỳ dị, những con
32
người kỳ dị, những vụ sát hại bí ẩn và truyền thuyết về việc phải chiếm đoạt
và sát hại một trinh nữ để có được kho báu của dòng họ Quách khiến chuỗi
ngày ở Trại Hoa Đỏ trở thành một chuyến đi kinh hoàng… Đại úy Phan Đăng
Bách, một khách mời của trang trại, tình cờ trở thành thám tử điều tra những
cái chết bí ẩn ở Trại Hoa Đỏ. Cùng thời điểm ấy, người bạn thân nhất của anh
bị sát hại khi đang điều tra một tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Chôn chặt
nỗi đau, anh âm thầm tìm kiếm kẻ giết bạn. Nhiều giả thiết và nghi ngờ đổ
dồn về lão thầy mo bí ẩn, hung tợn. Kết thúc tác phẩm, tất cả ngỡ ngàng trong
bất ngờ đến kinh ngạc, thủ phạm không ai khác lại chính là Trần Hoàng Lưu -
người chồng của Diên Vĩ.
Ở Câu lạc bộ số 7, đó là câu chuyện về mảng đề tài rất ít được đề cập
đến trong văn học - đề tài giới tính thứ tư. Đó là chuỗi bảy vụ án mạng tưởng
chừng chỉ là những tai nạn thông thường nếu như nạn nhân là các thiếu nữ
xinh đẹp không có cùng một điểm chung là trước khi chết đều bước chân lên
chiếc taxi mang thương hiệu Hoa Sen. Cả phòng cảnh sát hình sự, trong đó có
Phan Đăng Bách và Mai Thanh (những nhân vật chính đã được xây dựng từ
“Trại Hoa Đỏ”) đau đầu vì không tìm thấy bất cứ dấu vết sinh học, tang
chứng nào để lại hiện trường, cũng như không thể tìm ra động cơ của những
vụ giết người. Cảnh sát điều tra dần tiếp cận với một hội kín gồm những
thành viên tự xưng theo tên của người nổi tiếng như Đức Phật, Chúa
Jesus, Isaac Newton, Chopin, Immanuel Kant... Thực chất đây là một giáo
phái của những người không bị hấp dẫn về mặt tình dục. Họ không cần đàn
ông cũng chẳng cần đàn bà mà hạnh phúc với sự đơn độc của mình. Mọi
chuyện sẽ chẳng dẫn tới tội ác nếu giáo chủ của phái không phải là người
có tư tưởng sai lầm. Hắn cho rằng ái tình không tồn tại trên thế giới, tình dục
là một thứ bẩn thỉu cần phải thanh lọc. Vì thế, giáo phái dựng lên một thánh
nhân trinh nữ từ những bộ phận khác nhau của các cô gái. Nguyên nhân sâu
xa cái chết của bảy thiếu nữ dần được hé lộ. Những bí mật, hận thù hay các
mối quan hệ phức tạp chồng chéo cũng được lý giải. Trên hành trình đi tìm
sự thật, vì công việc, thiếu tá Phan Đăng Bách cũng liên quan trực tiếp tới
33
các vụ việc. Người yêu của anh - Mỹ Lâm - là một nạn nhân của giáo phái,
bị lấy đi trái tim đang rung động yêu thương. Anh quyết tâm tìm ra nguyên
nhân, tóm toàn bộ giáo phái và chứng minh tình yêu là quà tặng tuyệt vời mà
tạo hóa ban tặng con người.
Như vậy, trong cả hai tiểu thuyết của mình, hai cốt truyện mà Di Li xây
dựng đều trải qua các tiến trình của một vụ án với sáu bước: Hiện trường xảy
ra tội ác (có thể miêu tả trước hoặc sau sự xuất hiện của nạn nhân); Xác chết;
Thám tử - người điều tra; Thủ phạm giả định; Quá trình truy tìm thủ phạm;
Thủ phạm lộ bộ mặt thật trong một kết thúc bất ngờ.
Thành công của tác giả trong việc kiến tạo và triển khai cốt truyện của
cả hai tiểu thuyết này là sự công phu, chặt chẽ, logic, kín kẽ, đặc biệt là sự bất
ngờ. Điều đó khiến cho độc giả buộc phải nhập theo câu chuyện để đi đến
cùng một cách vừa tò mò, vừa hồi hộp và thích thú.
2.1.2.2. Cốt truyện cấu trúc “sóng đôi”
Cốt truyện trong hai tiểu thuyết của Di Li vừa tuân thủ theo sáu bước
truyền thống nhưng đồng thời còn được lồng ghép vào trong những môi
trường, không gian huyền ảo, ma quái và đan xen những tình tiết hoặc bất ngờ
gây choáng váng, hoặc trộn hòa cái ảo với cái thực mang màu sắc kinh dị,
hoặc đan cài cái thật với cái giả gây tò mò cho người đọc, cho nên đã tạo ra sự
hấp dẫn riêng. Tác giả đã tạo ra một cấu trúc cốt truyện “sóng đôi” với sự
song hành cả yếu tố li kì của truyện trinh thám với yếu tố hoang đường của
truyện kinh dị.
Để làm rõ điều này, chúng tôi thống kê tổng hợp và xây dựng thành hai
bảng phân tích biểu hiện cấu trúc “sóng đôi” trong hai tiểu thuyết.
34
Cốt truyện cấu trúc “sóng đôi” trong Trại Hoa Đỏ
Yếu tố li kì Yếu tố hoang đường
Bước
của truyện trinh thám của truyện kinh dị
- Nước tràn ra sàn nhà - Gió lùa hun hút trong phòng của
Huy với màu sắc và mùi Huy dù các cửa đã đóng chặt
không bình thường Hiện - Ngôi nhà kín đáo như hang động,
trường - Lưu tái mặt, đôi mắt tối om, ẩm mốc và có mùi chết
xảy ra thất thần, tay lạnh ngắt chóc
tội ác - Người phụ nữ thắt cổ, - Người phụ nữ thắt cổ ngay cửa
nhưng có vẻ như không hang, chỗ bức tượng hình người
phải tự tử cụt đầu
- Huy: chết trong bồn - Huy: mắt toàn tròng trắng, cổ có
tắm trong khi cửa vẫn vết cứa sâu
đóng, nhạc vẫn mở - Người đàn bà thắt cổ tự tử: đôi
- Người đàn bà thắt cổ mắt chòng chọc nhìn đám đông
tự tử trong phòng: hai xung quanh, vẻ khó chịu và căm
Xác chết tay buông thõng, mắt ghét
mở - Người phụ nữ thắt cổ tự tử trong
- Người phụ nữ thắt cổ hang: đôi bàn chân thòi ra tím tái
tự tử trong hang: xác bị dưới bộ váy dân tộc, mái tóc xổ
buộc bởi chính chiếc tung phất phơ
khăn vấn đầu của chị ta
Thám tử - Bách: đóng chặt các cửa Bách: rú lên khi giật cửa bước vào;
người mà vẫn thấy bị gió thốc chiếc xe chặn đường biến mất một
điều tra vào đỉnh đầu; tránh xe cách quái đản như bị phù phép
35
và suýt chút nữa bị rơi
xuống vực
Lão thầy mo: đứng tách Lão thầy mo: đôi môi dếch lên nụ Thủ phạm ra khỏ đám đông, ánh cười rợn tóc gáy giả định mắt quái đản, kỳ quặc
Lão thầy mo lúc đầu Lão thầy mo da mặt xám như chì
mặt biến sắc nhưng đi chuyển sang tím tái, đột nhiên lăn
Quá trình vào câu chuyện tra hỏi quay ra đất cấm khẩu
truy tìm thì lại tỉnh táo; Lão sợ
thủ phạm hãi trợn ngược mắt khi
gặp thằng bé mình bắt
có đem bán
Mùi lạ thoảng qua, cánh Diên Vĩ gọi tìm con nhưng thấy
tay bị thương chảy máu giọng mình vọng lại âm âm từ vách Thủ phạm đen của thủ phạm; Diên đá, rền rĩ và ai oán như giọng lộ bộ mặt Vĩ vừa thoát chết, chạy người khác thật trong đến chồng (Lưu) như một kết gặp cứu tinh, bất thần thúc bất nhìn thấy cánh tay chảy ngờ máu đen và mùi lạ vừa
gặp
Cốt truyện cấu trúc “sóng đôi” trong Câu lạc bộ số 7
Yếu tố li kì Yếu tố hoang đường
Bước
của truyện trinh thám của truyện kinh dị
- Một vụ tai nạn giao thông bí ẩn - Chiếc xe đậu trên con Hiện
đường không sự sống, một trường - Một vụ ngã núi khó hiểu
36
xảy ra - Một vụ chết đuối không chút bên là dòng sông đục ngầu
dấu tích cuộn chảy, một bên là cánh tội ác
đồng nhấp nhô bia mộ đen sì - Một vụ sát hại ngay hành lang
ngôi nhà nạn nhân
- Một vụ giết người trên tầng áp
mái
- Trần Mỹ Anh đi taxi Hoa Sen, - Khuôn mặt Trần Mỹ Anh
sau đó thi thể được phát hiện nằm tím tái với đôi mắt mở to
ngay trên đường đi còn giữ nguyên vẻ kinh
hoàng - Lê Hoàng Mai cũng đi taxi Hoa
Sen, thi thể tìm thấy ở một khúc - Khuôn mặt Lê Hoàng Mai
sông Hồng phù nề không còn nhận dạng
được - Hoàng Cẩm Tú lại đi taxi Hoa
Sen, thi thể tìm thấy dưới một - Khuôn mặt Hoàng Cẩm Tú Xác chết
thung lũng dập nát đầy máu
- Mai Thủy Lê bị đâm chết bên - Xác Linh Đan úp xấp mặt,
hành lang tai bị cắt
- Mỹ Lâm bị giết chêt tầng áp
mái của chung cư
- Linh Đan bị giết ngay trong
phòng
Bách: Bị một vật đè nặng lên Bách: Cái vật mắc vào chân
Thám tử - chân, mắc vào cổ chân, như thể anh từ từ trồi lên, đó là xác
người một báo hiệu không lành; Bách con mèo đen đã cứng đờ với
điều tra đến mộ của người bạn để “cầu đôi mắt tròn xoe như nhìn
khấn” hỏi về thủ phạm; Bách anh; đôi mắt người bạn trên
37
thường dùng linh tính nhờ linh bia mộ bỗng mỉm cười
hồn người bạn mách bảo nhếch lên giễu cợt như
muốn nói Vũ Phương Đăng
không phải thủ phạm
Vũ Phương Đăng: chơi với nhiều Vũ Phương Đăng: gào rú
cô gái trẻ đẹp vì được hâm mộ, lên, mắt long sòng sọc, thần
khi bị hỏi thì lo ngại, không trả sắc tái nhợt; nhiều lần anh
lời, luống cuống, bật khóc, bỏ thấy hình ảnh các nạn nhân Thủ phạm chạy và biến mất hiện về, khi thì trần truồng giả định phù nề giữa nhà, khi thì mái
tóc bê bết đu đưa dưới cửa
sổ, khi thì dập dềnh trong
bồn tắm tóc phủ kín mặt
Giám định không phát hiện một Bách choáng váng sau khi
minh chứng nào; Hãng taxi cung phanh gấp bởi bị một taxi Quá trình cấp dữ liệu các cuộc đón trả vọt lên, trong thoáng chốc truy tìm khách nhưng không hề phát hiện anh thấy vụt hiện nhân ảnh thủ phạm có sự liên quan nào với án mạng tài xế với cảm giác kinh
hoàng lạnh gáy
Thủ phạm Bách đóng giả Veleriya 382 để Căn phòng sào huyệt của
lộ bộ mặt lọt vào thánh địa kì quái ở căn giáo phái bệnh hoạn nhung
thật trong hầm dưới cánh đồng hoang nhúc trăm bóng đen đội mũ
trùm đầu như lũ âm binh của một kết
thần chết thúc bất
ngờ
Qua phân tích hệ thống tình tiết trong cốt truyện của tác phẩm, có thể
thấy tác giả đã khéo léo đan xen cái li kì của truyện trinh thám với cái hoang
38
đường của truyện kinh dị, khiến cho người đọc vừa có tâm lí tò mò muốn lí
giải và khám phá, vừa có cảm giác kinh sợ ghê rợn và hồi hộp.
Nhà văn tỏ ra rất tinh tế và kĩ lưỡng trong việc lựa chọn và miêu tả các
chi tiết cụ thể. Ở đó, có sự pha trộn kết hợp giữa các yếu tố như màu sắc, âm
thanh, ánh sáng, hình ảnh, chuyển động, mùi vị… một cách rất hiệu quả. Màu
sắc trong tác phẩm của Di Li thường gắn với máu me, có tính chất tạo ấn
tượng về cái chết, như: màu đen kì bí của bóng đêm, màu đỏ quái lạ của trang
trại hoa, màu đỏ bầm máu của trời chiều, màu vàng ệch quái đản của mặt
người, màu xanh lè như dạ quang của ánh mắt, màu đỏ sẫm như máu của
hoàng hôn.v.v.. Đồng thời, tác giả thường miêu tả những hình ảnh ghê sợ, có
sự trộn hòa thực - ảo đầy bí ẩn, như: bức tượng cụt đầu, thái dương tuôn đầy
máu, bóng đen vụt qua trước mặt, giấc mơ về người chết, ánh mắt người chết
nhếch lên chế giễu, mái tóc và gương mặt người chết,.v.v.. Những âm thanh
tác giả sử dụng thường là những thứ tiếng gây cảm giác kinh hãi, ám ảnh,
như: tiếng sáo ma quái, tiếng rú, tiếng gào, tiếng sấm sét, tiếng hú hét, tiếng
thở dài, tiếng thì thào.v.v.. Ánh sáng trong tác phẩm Di Li thường mờ ảo đầy
huyền hoặc, như: lờn lợt, u ám, loang lổ, mờ sương.v.v.. Những chuyển động
bất chợt khó lường và bí ẩn trong lúc nửa đêm, gần sáng, trong sương mù tạo
cảm giác vừa tò mò vừa sợ hãi cho người đọc. Mùi vị bao trùm là thứ cảm
giác về sự ẩm mốc, tanh tưởi, mùi xác thối. Tất cả những yếu tố đó đan xen,
tạo nên một thế giới riêng, một môi trường hoàn chỉnh vừa mang tính hiện
thực vừa mang tính kì ảo. Nếu như cốt truyện trinh thám đem đến những câu
chuyện chặt chẽ, logic, li kì, thì những yếu tố hoang đường của truyện kinh dị
giúp cho câu chuyện được đặt vào một thế giới đầy bí ẩn, hấp dẫn với người
đọc. Đây là thành công của sự sáng tạo đầy bản lĩnh của Di Li trên con đường
tiểu thuyết của mình.
Trong hai tác phẩm “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7”, cốt truyện có
những tương đồng nhưng vẫn có những khu biệt nhất định. Cả hai cốt truyện
đều tuân thủ sáu bước của kiểu cốt truyện “vụ án” truyền thống - đã trở thành
mẫu mực trong câu chuyện trinh thám nổi tiếng thế giới như Shelock Home.
39
Nhưng sắc thái kinh dị trong cốt truyện hai tiểu thuyết có điểm khác biệt.
Trong “Trại Hoa Đỏ”, sắc thái kinh dị mang tính tự nhiên khi được gắn với
môi trường thiên nhiên của một trang trại vùng núi hẻo lánh, xa xôi, hoang sơ,
như: con đường hoang vắng, những ngọn đồi câm lặng, trang Trại Hoa Đỏ
quái đản, vực thẳm đầy sương mù, ma trận cảu những bức tường cây cối.v.v..
Trong khi đó, sắc thái kinh dị trong “Câu lạc bộ số 7” lại mang tính “nhân
tạo” khi gắn với lễ hội Hallowen, những không gian sinh hoạt của đời sống
hiện đại, như: quán bar, nhà hàng, toà nhà chung cư, sàn nhảy, căn hộ sang
trọng cao cấp, đường phố, không gian mạng xã hội.v.v.. Tuy mang hai màu
sắc có khác nhau, nhưng cái li kì và kinh dị do tác giả xây dựng ở hai tác
phẩm đều mang lại hiệu quả nghệ thuật độc đáo như nhau khi gắn với cái
rùng rợn, làm người đọc kinh hoàng và vẫn muốn tò mò theo dõi.
2.2. Tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
2.2.1. Khái niệm Tình huống truyện
Tình huống truyện là hoàn cảnh bất bình thường mà con người buộc phải
bộc lộ bản lĩnh, tính cách của mình. Trong tác phẩm tự sự tình huống có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện số phận và tính cách nhân
vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là chìa khóa khi khám phá tác phẩm.
Về tình huống truyện, Cawelti xác định, tác phẩm bắt đầu với một tội ác
bí ẩn mà hầu hết các tình tiết của câu chuyện đã thuộc về quá khứ. Todorov
cũng từng chỉ ra đặc trưng này khi bàn về truyện trinh thám cổ điển. Michel
Butor thì có những nhận định khái quát về đặc trưng thể loại trinh thám khi
cho rằng mọi cuốn tiểu thuyết trinh thám đều xây dựng trên hai vụ giết người,
vụ thứ nhất do kẻ sát nhân tiến hành chỉ là cơ hội cho vụ thứ hai trong đó y là
nạn nhân của sát thủ trong sạch và không thể bị trừng phạt, nạn nhân của
người thám tử. Ý tưởng của Butor gần với quan niệm của Todorov rằng nền
tảng của tiểu thuyết ẩn ngữ tiểu thuyết trinh thám cổ điển là tính nhị nguyên
trong truyện: truyện về tội ác và truyện về cuộc điều tra. Có thể nói, Todorov
đã bày ra hậu trường bếp núc quá trình nhà văn sáng tạo một tác phẩm văn
học trinh thám. Hạt nhân cốt truyện vẫn xoay quanh một tội ác. Diễn biến cốt
40
truyện đảo người trật tự thời gian tuyến tính: lật giở lại một câu chuyện đã kết
thức để lần ra quá trình đi đến cái kết thúc đó. Đặc trưng này dẫn tới yêu cầu
đối với nhà thám thử: thay vì hành động, anh ta phải ngồi lại để học hỏi, quan
sát, phân tích và kết luận.
Tình huống truyện trong truyện trinh thám và trong truyện kinh dị vừa
giống nhau vừa khác nhau. Tình huống truyện trong hai thể loại này giống
nhau ở chỗ đều căng thẳng giàu kịch tính để có thể làm người đọc tò mò hứng
thú rồi sợ hãi đến kinh hoàng. Nhưng giữa chúng vẫn có những điểm khác
nhau.
Tình huống truyện trong trinh thám dù giàu kịch tính và căng thẳng đến
đâu vẫn phải đảm bảo các chức năng sau: Xóa dấu vết và đánh lạc hướng
thám tử của thủ phạm; Xâu chuỗi dấu vết một cách thông minh, vượt qua
những cái bẫy chết người của thủ phạm nhằm đi tới sự thật và chân lí của
thám tử; Bi thảm rùng rợn (như thủ phạm bắt cóc hoặc giết hại nạn nhân tại
hiện trường vụ án); Đối đầu dữ dội khốc liệt, thậm chí đổ máu giữa thủ phạm
và thám tử. Ngoài bốn kiểu loại tình huống trên, truyện trinh thám còn có kiểu
loại tình huống thứ năm là tình huống trung gian để ngắt mạch sự căng thẳng
của cốt truyện, vừa "hãm chậm" diễn tiến của cốt truyện để tạo sự tò mò hứng
thú cho người đọc.
Trong khi đó, tình huống truyện trong truyện kinh dị lại có những đặc
thù riêng của nó với một số đặc điểm riêng như: Diễn ra ở một không gian, thời
gian đặc biệt hoặc gắn với sự rùng rợn ma quái hay gợi liên tưởng tưởng tượng
về những gì bí hiểm, kinh hoàng (không gian hầm mộ, nghĩa địa, phòng kín
vắng người, đêm tối ở một nơi hẻo lánh không người qua lại…); Có sự song
hành hòa quyện giữa cái ảo và cái thực, dễ gợi ra ảo giác khủng khiếp (lễ hội
hóa trang, nhà thương điên, nhà xác, hang tối có xác chết đang phân hủy...); Có
sự gặp gỡ giữa con người với lực lượng siêu nhiên (giữa nạn nhân với thầy bói,
sự gặp gỡ rồi yêu thương hoặc bỏ chạy với hồn ma bóng quỷ, xác chết bỗng
nhiên sống dậy...).
41
Như vậy, có sự tương đồng và khác biệt khá rõ ràng ở phương diện tình
huống giữa truyện trinh thám và truyện kinh dị. Mỗi thể tài này đều có những
thế mạnh và đặc trưng riêng, và khi nhà văn tạo ra sự giao thoa giữa hai thể
loại truyện này thì hiệu quả nghệ thuật của chúng lại càng được tăng lên gấp
nhiều lần. Nhà văn Di Li đã làm được điều ấy bằng sự kết hợp hài hòa độc
đáo trong những tác phẩm tâm huyết của mình.
2.2.2. Một số kiểu tình huống truyện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị
của Di Li
2.2.2.1. Tình huống truyện chứa điểm nhấn “mai phục”
Nếu cốt truyện là một hệ thống sự kiện được xâu chuỗi bởi dòng thời
gian tuyến tính (thủ pháp đảo lộn cốt truyện phá vỡ dòng thời gian tuyến tính
lại thuộc một phương diện nghệ thuật khác) thì những tình huống truyện giàu
kịch tính là những điểm nhấn, những dấu mốc quan trọng chỉ ra những ngã rẽ
bất ngờ, “mai phục” những dấu hiệu quan trọng, để từ đó dẫn dắt người đọc
tìm ra sự thật về sau trong cốt truyện ấy.
Di Li rất thành công trong việc xây dựng nên những tình huống truyện
chứa điểm nhấn “mai phục”. Nhà văn bằng sự tinh tế và tỉnh táo của mình đã
kín đáo đan gài những chi tiết có vẻ rất nhỏ, thoáng qua, nhưng bao giờ cũng
kì lạ và khó hiểu. Ngay thời điểm đó, người đọc không thể hiểu và không thể
lí giải chi tiết đó mang ý nghĩa gì, nhưng nó chính là một sự dự báo, một sự
tiên tri về sự thật vụ án mà về sau chính nhờ nó mà người ta tìm ra lời giải
đáp về sự thật để phá án. Những tình huống như vậy thực chất là một sự
chuẩn bị rất khéo léo, công phu, tất cả đều trong sự tính toán của nhà văn.
Ví dụ, trong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, tình huống khi nhân vật Diên Vĩ
đang bị truy sát trong ma trận, cô đặc biệt chú ý đến mùi lạ thoảng qua và
những giọt máu đen rỏ ra từ cánh tay bị thương của kẻ sát nhân giấu mặt. Chi
tiết ấy chính là chìa khóa và là minh chứng giúp cô nhận ra thủ phạm đích
thực một cách đầy bất ngờ - đó chính là chồng mình.
42
Hoặc trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, tình huống nhân vật cảnh sát điều
tra Phan Đăng Bách đang nghi ngờ thủ phạm sát hại các cô gái là Vũ Phương
Đăng, khi anh bày tỏ suy nghĩ đó trước linh hồn người bạn cũ thì di ảnh trên
ngôi mộ bỗng nhiên nhếch cười. Về sau, khi điều tra ra nhóm giáo phái là thủ
phạm, Bách mới hiểu rằng linh hồn bạn mình đã mách bảo rằng nghi ngờ ngày
trước là sai lầm.
Những kiểu tình huống như vậy được nhà văn Di Li đan cài khá nhiều
trong hai tác phẩm của mình. Chúng tôi thống kê và khảo lược được những
tình huống đó như bảng dưới đây.
Những tình huống chứa điểm nhấn “mai phục” trong hai tiểu thuyết:
Trại Hoa Đỏ Câu lạc bộ số 7
Tình huống 1 Tr10 Chiếc xe bất thần chao đi. Tr21 Mỹ Anh bị giết trong xe ô
tô.
2 Tr46 Vĩ nằm mơ nhìn thấy người Tr23 Cô gái lao xe vào xe của
đàn bà thều thào, thái dương tuôn Bách. Bách thoát chết.
chảy máu.
3 Tr82 Vĩ đi theo giai điệu của tiếng Tr38 Bách đọc cuốn nhật kí, biết
sáo như bị thôi miên. mối quan hệ Mỹ Anh - Vũ
Phương Đăng.
4 Tr87 Vĩ gặp người phụ nữ và Tr45 Bách gặp Vũ Phương Đăng
được biết thông tin về ngôi nhà khai thác thông tin vụ án thì Đăng
dòng họ Quách. đã khóc.
5 Tr91 Người phụ nữ khuyên Vĩ đi Tr49 Bách đưa cho dăng xem ba
về, Vĩ đuổi theo hỏi về lời nguyền tấm chân dung tử thi, Đăng gạt
nhưng người phụ nữ bí ẩn đã biến phắt chiếc máy tính xuống đất rồi
mất. gào rú.
43
6 Tr99 Bách gặp người đàn bà đội Tr53 Đăng thấy màn hình máy
nón kỳ dị trước cổng nhà khiến tính hiện dòng chữ: "Tôi biết tất
anh khó chịu. cả những việc anh đã làm"
Tr107 Bách gặp Lưu lần đầu. Tr67 Taxi phanh gấp, Bách lạnh 7
gáy.
Tr118 Bách đến nhà Huy lúc 12h, Tr72 Bách gặp gã đàn ông đánh 8
gặp cảnh bạn bị giết chết trong người phụ nữ trong ngôi nhà đang
nhà tắm. xây dựng.
9 Tr133 Vĩ đã gặp cảnh lão thầy Tr73 Bách va vào cô gái chạy
mo đào vàng đựng trong hộp sắt. ngược chiều (định mệnh - về sau
yêu nhau)
10 Tr138 Vĩ nhìn thấy người đàn bà Tr82 Đăng nhìn thấy bóng ma
ở ngôi nhà đá ong thứ chín tự tử hiện ra, Đăng hét lên như sắp
và bất thình lình cô bị gã điên thò khóc. Hình ảnh Lê Hoàng Mai ám
hai tay ra cổ. ảnh.
11 Tr148 Vĩ đi theo tiếng sáo, gặp Tr89-90 Đăng nhìn thấy người
lão thầy mo, bị lão đẩy cô vào bên trong áo mưa đỏ trên biển nhưng
trong. Lúc này Vĩ nghĩ mình đang đó là xác chết rũ rượi chứ không
chết dần. phải Linh Đan.
12 Tr150 Trong sự nguy kịch, Vĩ Tr110 Bách và Mai Thanh đặt câu
được gã điên cứu sống, thoát khỏi hỏi: Đăng yêu bốn cô gái cùng
lão thầy mo. lúc?
13 Tr176 Khi Bách đến Trại Hoa Đỏ Tr111 Bách và Mai Thanh đến mộ
dự lễ khánh thành, Bách gặp cảnh Huy. Đôi mắt khảm trên tấm bia
gã điên bị chết. đá trắng mỉm cười, khóe môi
nhếch lên giễu cợt. Bách nhận
thấy: cậu ấy bảo Vũ Phương Đăng
44
không phải là kẻ giết người.
14 Tr185 Con trai của Di cũng như Tr123 Mai Thủy Lê bị giết trong
nhiều trẻ con trong bản bị ma rừng đêm.
bắt mất
15 Tr195 Bách nhận được điện thoại Tr152 Bách đón người em họ tên
của Vĩ về vụ người phụ nữ bị chết Kevin Quang tại sân bay.
ngay ở hang đá nơi có bức tượng
cụt đầu.
16 Tr266 Vĩ nói chuyện với đàn bà Tr166 Tú đen cho Bách xem đoạn
trong ngôi nhà cổ. chát giữa Mỹ Anh (Party Queen)
với Durga.
17 Tr272 Mai Thanh gặp kẻ giấu mặt Tr183 Bách gặp Đăng tại quán cà
với con dao, nhưng thoát chết. phê để giúp Đăng đang bị ma ám.
18 Tr281 Bách vô tình nhìn thấy ảnh Tr200 Bách gặp vị đại sư núi Vĩnh
đứa bé trên trang báo, với dòng An.
chữt “Cầm thú trong lốt cha mẹ”
19 Tr287 Bách đã tìm gặp được đứa Tr233 Bách thấy Thiên Kim kể:
bé trong ảnh và nhắc tên Di bằng lúc quỷ đang siết cổ cô, có một
tiếng địa phương mà dân bản ở con quỷ khác xuất hiện đằng sau
Trại Hoa Đỏ vẫn thường gọi, bất hắn và giơ con dao như thể chờ cô
chợt nó khóc thét lên và nức nở lịm đi là đâm dao vào ngực, con
không dứt rồi gọi: Mế, mế. dao đó vẫn còn lấm đầy máu.
20 Tr295 Vĩ gặp lão thầy mo ở phía Tr235 Bách gặp nhân chứng -
vách núi và cuộc vật lộn căng Thiên Kim.
thẳng diễn ra.
21 Tr299 Bách chứng kiến cảnh gã Tr263 Bách và mọi người đã tìm
45
đàn ông địa phương mặt đầy máu thấy mộ của Mai Thủy Lê ở nghĩa
rên rỉ dưới đất, phía trên là Vĩ với địa trinh nữ trong đêm.
tảng tảng đá giơ cao như một nữ
thần báo thù.
22 Tr301 Thằng bé con của Di dược Tr267 Bách lấy một thanh inox
đưa về Trại Hoa Đỏ trong sự đón chuyên dành cho bác sĩ tai mũi
chào của những người dân bản, họng và thận trọng lách vào miệng
được đưa vào gặp lão thầy mo. tử thi.
Người nó co dúm, nước mắt lưng
tròng. Lão thầy mo mắt lão trợn
ngược và rối rít xin tha tội.
23 Tr337 Vĩ đã gặp cảnh nói chuyện Tr283 Bách nói chuyện với Mỹ
kín của Ráy và Sương. Vĩ nghe Lâm, có người mặc bộ đồ thể thao
lén câu chuyện của hai người và có thân hình nhỏ thó nhìn chằm
biết được Sương chính là kẻ giết chằm vào mặt Bách bằng ánh mắt
chết những người dân bản. lóe lên những tia sáng quái đản.
24 Tr341 Vĩ vào đến ma trận và bất Tr284 Bách lắc đầu xua đi khuôn
ngờ cô đã gặp Sương. Cuộc nói dạng của người lạ mặt nhưng bất
chuyện căng thẳng giữa hai người, giác anh gặp ánh mắt hoảng hốt
Sương đã xiết chặt lấy cổ cô. của Mỹ Lâm, hai gò má cô cũng
tái đi.
25 Tr366 Vĩ gặp Ráy đang hấp hối Tr296 Bách vào phòng của Đăng
trong ngôi nhà cổ kì quái, dòng nói chuyện, xem album ảnh.
máu trên ngực tuôn ra như vòi
nước bị hỏng nút vặn.
26 Tr373 Phan Đăng Bách xuất hiện Tr312 Bách gặp Mỹ Lâm nói về
và giúp Thanh Mai bắt được gã chuyện trước khi Hoa Liên chết
46
mắt rắn và cô gái đi cùng xe. thì Bách đã gặp cô ta và gã thợ
xây.
27 Tr409 Bách gặp bác sĩ Khang tìm Tr333 Bách, Tú đen kinh ngạc
hiểu thông tin về Vĩ - Mai Thị nhìn Mai Thanh thuyết trình luận
điểm. Cẩm.
28 Tr417 Lưu thấy Diên Vĩ vợ anh Tr360 Bách tình cờ gặp Mỹ Lâm
giơ con dao hướng thẳng xuống và cậu em họ ở một quán cà phê
bé Bảo gần nhà
29 Tr431 Bách gặp Trần Hoàng Lưu Tr363 Bách vào phòng mình bất
tại công ty của Lưu để tìm hiểu chợt gặp Kevin Quang đang loay
thông tin về Mai Diên Vĩ, Trại hoay bên bàn làm việc của anh.
Hoa Đỏ.
30 Tr441 Bách nhận cuộc gọi cầu Tr389 Đăng nói chuyện với Bách
cứu của bé Bảo từ Trại Hoa Đỏ. về bí mật mẹ Đăng để ở ngân
Bảo đang lạc vào trong hang nơi hàng HKB để Bách giúp tìm mẹ
bức tượng hình cụt đầu. hắn đang mất tích.
31 Tr453 Diên Vĩ mang theo dao, Tr410 Bách và Tú đen đuổi theo
một mình lái xe từ thành phố về taxi và đột nhập vào phòng thấy
Trại Hoa Đỏ, trấn an bé Bảo. Con Thiên Kim nằm sóng soài bất
chó chạy theo cô đến bức tượng động.
hình cụt đầu người.
32 Tr457 Trung tá Phả thông tin: đã Tr448 Bách ra khỏi nhà lúc đêm
tìm ra tên đứa trẻ mất tích đầu tiên để đến nhà Mỹ Lâm vì sốt ruột,
ở bản, tên đứa trẻ là A San. nhưng Tú đen và Văn Khang chặn
lại
33 Tr458 Bách gọi điện cho bé Bảo, Tr453 Bách đau buồn không ăn
biết được chuyện bé Bảo kể lại
47
cho mẹ. không ngủ suốt hai ngày đêm
34 Tr466 Bách gọi điện báo cho Vĩ Tr470 Bách gặp Kim (em họ hờ)
biết cô đang gặp nguy hiểm, hãy tại trại giam để nắm bắt thông tin.
quay lại.
35 Tr468 Một họng súng đã chĩa Tr487 Bách đóng vai Veleriya
thẳng vào mặt cô. Lạnh lùng và đe 382 lọt vào thánh địa kì quái và
dọa. Bách đã nhìn thấy Lê Hà, Johnny
Huỳnh.
36 Tr472 Vĩ nâng con dao lên, hướng Tr499 Bách chạm tay vào chiếc
xuống lồng ngực. Có tiếng gọi của túi sợi gai, họng súng của tên Lê
bé Bảo và điện thoại của Bách. Hà gí vào cổ họng anh đau điếng.
37 Tr476 Vĩ kinh ngạc vì thấy Lưu. Tr505 Lê Hà - Trần Trí Hữu cho
Hai người đối thoại căng thẳng. rằng Mỹ Lâm là thành viên của
giáo phái, nhưng đã phản bội.
38 Tr481 Diễn Vĩ – Lưu – A Bằng và Tr521 Bách vào phòng bệnh, gọi
cuộc đối đầu, xô xát. tên cúng cơm khiến Durga kinh
ngạc.
39 Tr483 Vĩ xô vào giằng lại khẩu Tr531 Bách nhớ lại cảnh vật lộn
súng. Lưu lùi lại để tránh và bị với tên Chopin và lấy được túi gai
trượt chân xuống miệng vực. đựng trái tim của Mỹ Lâm.
40 Tr498 Bách và Vĩ đã quyết định
đốt tấm bản đồ kho báu với lời
nguyền do chính con người sau
này gây ra.
Có thể thấy rằng, những kiểu tình huống chứa đựng điểm nhấn “mai
phục” như trên được nhà văn xây dựng rất thành công. Nó là nút thắt gây tò
48
mò, đồng thời cũng là căn cứ, dấu hiệu gợi mở để dẫn dắt câu chuyện đến tận
cùng sự thật. Với cách làm này, Di Li đã tạo nên một cách đặt ra câu đố và
giải đáp câu đố đầy tài tình, trí tuệ - một yêu cầu rất cần có của thể tài trinh
thám kinh dị.
Tình huống truyện ẩn giấu những dấu hiệu mang tính chỉ đường cho cả
thám tử và người đọc lần theo những manh mối mơ hồ để càng ngày càng tiến
gần hơn với sự thật (xác định đâu là thủ phạm). Qua việc xây dựng hệ thống
tình huống truyện kể trên, chúng tôi nhận thấy rõ tài năng xây dựng tình
huống truyện của nhà văn. Những tình huống truyện giàu kịch tính thu hút sự
chú ý của bạn đọc, tác giả đã tạo những điểm nhấn, những dấu mốc quan
trọng chỉ ra những ngã rẽ bất ngờ, “mai phục” những dấu hiệu quan trọng đó
dẫn dắt người đọc tìm ra sự thật về sau trong cốt truyện ấy. Sự tổ chức sắp
xếp các tình huống truyện theo mạch vận động lôgic của cốt truyện, khéo léo
dẫn dắt người đọc đi tìm lời giải đố trong sự tò mò, hồi hộp.
2.2.2.2. Tình huống truyện li kì, kịch tính và đậm sắc thái kinh dị
Với tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li, người đọc bị hấp dẫn, lôi
cuốn một cách đặc biệt, phải đuổi theo từng con chữ để lật giở đến tận trang
sách cuối cùng, thậm chí nhập cuộc thực sự vào trong câu chuyện để hồi hộp,
lo sợ, tò mò, bất ngờ khi tìm ra kết cục cuối cùng. Một trong những yếu tố hết
sức quan trọng tạo nên thành công đặc biệt này là nhờ các tình huống truyện li
kì, kịch tính và đậm sắc thái kinh dị.
Trong hai tiểu thuyết của mình, nhà văn Di Li đã rất dày công trong
việc chuẩn bị tư liệu, tính toán để sắp xếp xây dựng thành những tình huống
đầy sức lôi cuốn. Nhiều tình huống trong hai tác phẩm này tràn đầy những chi
tiết mang chất hình sự huyền bí, gây ra không khí và diễn biến vô cùng căng
thẳng, bao bọc bởi những yếu tố đầy tính hoang đường, kinh dị.
Trong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, tình huống về những cái chết của
những người phụ nữ trong dòng họ đầy bí ẩn với những lời nguyền được diễn
ra rất bất ngờ, khó đoán, trong những không gian và hoàn cảnh hết sức khủng
49
khiếp, ghê rợn. Cuộc vật lộn đấu tranh giành giật sự sống của Diên Vĩ với tên
sát nhân diễn ra trong sự giằng co nghẹt thở, chỉ một tích tắc hay sai sót nhỏ
là phải trả giá bằng mạng sống.v.v.. Điều đó làm cho câu chuyện càng trở nên
thôi thúc người đọc theo dõi, tìm hiểu.
Trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, việc các cô gái bị sát hại đều liên
quan đến những chiếc taxi Hoa Sen thật kì lạ và đáng ngờ nhưng cũng rất khó
giải thích, bởi tất cả đều có vẻ như khá đơn giản, ngẫu nhiên, vô tình. Cái chết
của họ đều để lại những hình ảnh hết sức thương tâm, rùng rợn, quái đản trên
thi thể. Cuộc đấu trí giữa cảnh sát điều tra Bách với đối tượng khả nghi Vũ
Phương Đăng hết sức gian nan, căng thẳng, nhiều lúc tưởng đã hé mở, nhiều
lúc lại đi vào bế tắc. Quan niệm quái dị của nhóm giáo phái khó hiểu bao
nhiêu, thì hình ảnh họ sát hại các cô gái để lấy các bộ phận và ghép thành
hình tượng trinh nữ lại càng kinh khủng đến bàng hoàng bấy nhiêu.v.v.. Tất
cả khiến cho câu chuyện vừa kinh hoàng nhưng cũng vừa bí ẩn, thú vị, vừa
như một vụ án phức tạp ngoài đời thực nhưng đồng thời cũng như một sự ảo
tưởng đầy kinh hãi khiếp sợ.
Khảo sát hai tác phẩm, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều tình huống
truyện được xây dựng theo kiểu li kì, kịch tính và đậm sắc thái kinh dị này.
Những tình huống li kì, kịch tính và đậm sắc thái kinh dị
trong hai tiểu thuyết:
Tình
huống Trại Hoa Đỏ Câu lạc bộ số 7
truyện
1 Tr46 Vĩ mơ thấy người đàn bà Tr21 Cô gái Mỹ Anh bị giết
thều thào, thái dương chảy trong xe ô tô
máu.
50
2 Tr118 Bách đến nhà Huy lúc Tr82 Đăng thấy bóng ma hiện ra,
12h, gặp cảnh Huy bị giết. hình ảnh Lê Hoàng Mai ám ảnh.
3 Tr138 Vĩ nhìn thấy người đàn Tr89-90 Đăng nhìn thấy người
bà ở ngôi nhà đá ong thứ chín trong áo mưa đỏ trên biển nhưng
tự tử, cô bị gã điên thò hai tay đó là xác chết rũ rượi chứ không
ra xiết lấy cổ cô. phải Linh Đan.
4 Tr176 Bách đến dự khánh Tr123 Mai Thủy Lê bị giết trong
thành, gặp cảnh gã điên bị đêm.
chết.
5 Tr299 Bách chứng kiến cảnh Tr267 Bách lấy một thanh inox
gã đàn ông địa phương mặt chuyên dành cho bác sĩ tai mũi
đầy máu dưới đất, phía trên là họng và thận trọng lách vào
Vĩ với tảng tảng đá giơ cao. miệng tử thi.
6 Tr366 Vĩ gặp Ráy đang hấp Tr499 Bách chạm tay vào chiếc
hối trong ngôi nhà cổ kì quái, túi sợi gai, họng súng của tên Lê
dòng máu trên ngực tuôn ra Hà gí vào cổ họng anh đau
như vòi nước bị hỏng nút vặn. điếng.
Tr417 Lưu vợ anh giơ con T267 Bách cùng đồng sự bí mật 7
hướng thẳng xuống bé Bảo khai quật mộ
đang ngủ say.
8 Tr472 Diên Vĩ nâng con dao Tr487 Bách lọt vào “căn cứ” của
lên hướng xuống lồng ngực Có nhóm giáo phái, chứng kiến
tiếng gọi của bé Bảo, cuộc những tội ác khủng khiếp
điện thoại của Bách.
9 Tr481 Lưu điên cuồng, xô ngã Tr531 Cuộc chiến đấu cuối cùng
bố, định giết vợ, nhưng bị bé để tiêu diệt kẻ ác. Bách thoát
chết kì lạ nhờ trái tim của Mỹ
51
Bảo dùng súng khống chế Lâm đặt trên ngực che chở cho
anh.
Với kiểu xây dựng tình huống này, nhà văn Di Li đã tạo nên những ma
lực hấp dẫn người đọc một cách đầy xuất sắc. Người đọc như vừa muốn xâm
nhập để khám phá lí giải câu chuyện, nhưng cũng vừa có sự lo lắng, sợ hãi
bởi chất ma mị kì quái mà tác giả tạo ra. Nó làm nên một đặc trưng rất đặc sắc
cho tác phẩm trinh thám kinh dị của Di Li.
Không những thế, những kiểu tình huống kể trên đóng vai trò quan trọng
trong việc khắc họa chân dung nhân vật (nạn nhân, thủ phạm, thám tử, các
nhân vật trung gian). Thông qua các tình huống vừa mang yếu tố kinh dị vừa
mang yếu tố trinh thám ấy, nhân vật chính diện sẽ bộc lộ hết tài năng, tâm
huyết, lương tâm của mình, nhân vật phản diện (thủ phạm) sẽ bộc lộ bản chất
của nó. Đây cũng là một thành công mang tính đóng góp nữa của nhà văn Di
Li cho thể tài trinh thám kinh dị.
2.3. Các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
2.3.1. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật, như cách nói của Trần Đình Sử, “là con người được thể hiện
bằng phương tiện văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật vì đó là hình
thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Bản chất
văn học là một quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện được đời sống qua
những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của cuộc
đời”[38, tr278]. Với vai trò như những “tấm gương của cuộc đời”, nhân vật
trở thánh yếu tố không thể thiếu của sáng tạo văn học.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội), nhân
vật được phân loại như sau:
Nhân vật chính: nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm
trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
52
Nhân vật phụ: nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính, trong
diễn biến cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài, thể hiện tư tưởng và chủ
đề của tác phẩm.
Nhân vật chính diện: còn gọi là nhân vật tích cực, là nhân vật thể hiện
những giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của
con người được nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một
quan điểm tư tưởng, một lí tưởng xã hội - thẩm mĩ nhất định.
Nhân vật phản diện: còn gọi là nhân vật tiêu cực, là nhân vật mang
những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lí và tư tưởng của con người, được nhà
văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định.
Nhân vật chức năng: còn gọi là nhân vật "mặt nạ", là nhân vật có đặc
điểm, phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống
nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng
trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò
mà nó đóng trong tác phẩm văn học.
Nhân vật loại hình: nhân vật thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính
cách nào đó của con người hoặc các phẩm chất, tính cách, đạo đức của một
loại người nhất định của một thời đại.
Nhân vật tính cách: một kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác
phẩm như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật.
Nhân vật tư tưởng: loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một y
thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội.
Nhân vật trữ tình: là con người "đồng dạng" của tác giả - nhà thơ hiện ra
từ văn bản của kết cấu trữ tình như một con người có đường nét hay một vai
sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi
có cả nét vẽ chân dung.
53
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học. Nhân vật văn học là một đơn vị ước lệ, không thể đồng nhất nó với con
người có thật trong đời sống.
Nhân vật của truyện trinh thám và truyện kinh dị lại có những đặc trưng
riêng. Truyện trinh thám liên quan đến vụ án, phá án với bốn kiểu nhân vật là:
thủ phạm, nạn nhân, thám tử và các nhân vật trung gian.
Nhân vật của truyện kinh dị thường được chia thành ba loại: con người
hoặc là nạn nhân hoặc là đồng phạm với lực lượng siêu nhiên; hóa thân của
lực lượng siêu nhiên như ma quỷ linh hồn ác hại người, loại tinh cây, tinh
hoa, như loài vật sống ngàn năm biến hóa thành người; nhân vật trung gian
chứng kiến kể lại.
Bởi vậy, với kiểu loại truyện trinh thám kinh dị của Di Li, cũng không
thể phân tích nhân vật như trong tác phẩm văn học thông thường mà phải xét
đến những đặc thù và cách phân loại riêng của chúng.
Có thể nói, trong truyện trinh thám cổ điển, nhân vật thám tử với phẩm
chất trí tuê siêu việt luôn có khả năng phân tích, lý giải các tình huống rắc rối
để vượt qua nó. Dù vậy, nhà văn thường xuyên gài vào những tình tiết làm trì
hoãn tiến trình phơi bày bộ mặt thật của kẻ phạm tội. Để bắt đầu cuộc điều tra
và để lựa chọn giải pháp, nhà thám tử trước hết phải đối mặt với một tội ác.
Nó như là biểu tượng của sự tan vỡ trật tự thông thường trong xã hội. Theo
Van Dine, quy ước đối với tội ác là cần có sự xuất hiện một thi thể trong một
tiểu thuyết trinh thám, và thi thể đó là xác chết đã lâu (không còn manh mối)
thì càng tốt. Cawelti cho rằng, tội phạm phải trở thành một nhân vật chính với
khả năng phân nhánh phức tạp còn nạn nhân không có khả năng phức tạp hóa
tình huống. Cũng như thám tử, tội phạm là nhân vật không thể thiếu để cấu
thành một câu truyện trinh thám. Đó có thể là một kẻ giết người, là một thế
lực quân sự, chính trị phi nghĩa cần phải loại trừ… Tài năng của tội phạm
54
xứng đáng là một đối trọng với thám tử. Từ đó, sự chú ý sẽ được dồn vào hình
tượng người thám tử cũng như hành trình điều tra của anh ta.
Tuy nhiên, ngay từ những tác phẩm trinh thám đầu tiền, thám tử trong sự
đối mặt với “mê cung thử thách trí tuệ” không phải bao giờ cũng “bất khả
chiến bại”. Nguyễn Thị Ngọc Huệ đã phát hiện ra rằng, ngay trong những tác
phẩm của một số tác giả được coi là mẫu mực của văn chương trinh thám
cũng đã xuất hiện những dấu hiệu đánh dấu sự khủng hoảng của duy lí. Nó
như một lời cảnh báo: trí tuệ con người không phải là tuyệt đối và không phải
sự thật nào cũng có thể được phơi bày.
2.3.2. Một số kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di
Li
2.3.2.1. Nhân vật thám tử - con người vừa tài giỏi cao siêu vừa gần gũi với
đời thường
“Nhân vật văn học (character) là con người cụ thể được miêu tả trong tác
phẩm văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi vì đó chính là hình thức
cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Bản chất của
văn học là một quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện được đời sống qua
những chủ thể nhất định”[46, tr278]. Nếu như trong các tác phẩm trữ tình
nhân vật đó là các chủ thể trữ tình hay nhân vật trữ tình thì trong các tác phẩm
tự sự nhân vật chính là những con người được miêu tả một cách cụ thể sinh
động. Nó mang chức năng khái quát những quy luật của cuộc sống và con
người, thể hiện những hiểu biết những ước ao và kì vọng của con người. Nhà
văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan
niệm về các cá nhân đó.
Hệ thống nhân vật chính là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố
cụ thể cảm tính tạo nên hình tượng nghệ thuật mà trung tâm là mối quan hệ
của các nhân vật. Vì vậy tìm hiểu các cặp nhân vật mà nhà văn xây dựng
chính là tìm hiểu quan hệ giữa các nhân vật, xác định vai trò của chúng trong
55
tác phẩm. “Trinh thám” theo nghĩa Hán Việt là “rình xét” (trinh) và “thăm
dò” (thám), nghĩa là phải bao gồm hai yếu tố: người dò xét và người (cái) bị
dò xét. Đó chính là một cuộc đuổi bắt giữa một bên là một người muốn khám
phá một bí mật với bên kia là cái bí mật chưa được lí giải hoặc người chạy
trốn. Thám tử trong tiếng Anh (detective) xuất phát từ từ gốc “detect” nghĩa là
“dò ra, tìm ra, phát hiện ra”. Bản thân từ này có nghĩa là tìm ra “ai” hoặc “cái
gì”…
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ
vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên
quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề
tài cơ bản của mình. Trong số nhân vật chính của tác phẩm lại có thể làm nổi
lên nhân vật trung tâm xuyên suốt từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi
quy tụ các mối mâu thuẫn, nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Như
vậy vấn đề đặt ra là phải xác định đâu là nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Không khó để nhận ra rằng nhân vật tội phạm là kẻ xuất hiện trước vì chỉ có
tội ác thì mới có người điều tra tội ác, có tội ác mới có sự trừng phạt. Tuy
nhiên không thể nói tội phạm là nhân vật trung tâm của tác phẩm mặc dù đó
là điểm khởi đầu của câu chuyện (xuất hiện tội ác) và cũng là điểm kết thúc
câu chuyện (khi tội phạm bị bắt). Bởi lẽ nhân vật trung tâm là nhân vật thâu
tóm mọi sự kiện tình tiết của tác phẩm về mặt ý nghĩa. Người thực hiện việc
đó chính là thám tử, anh ta xuất hiện trong mọi sự kiện của tác phẩm. Vì
truyện trinh thám thực chất là truyện điều tra, vấn đề trung tâm là quá trình
điều tra để phát hiện ra cái bí ẩn cần giải đáp. Mặt khác thám tử còn là nhân
vật mang tính quan niệm của nhà văn. Qua thám tử nhà văn muốn ngợi ca trí
tuệ, óc phán đoán của con người. Sâu xa hơn thám tử chính là hiện thân của lí
tưởng cái Thiện. Vì vậy nhân vật thám tử là nhân vật trung tâm của câu
chuyện, nó lí giải cho việc lựa chọn nhân vật này làm đầu mối trung tâm cho
các cặp đôi của chúng tôi.
56
Không phải ngẫu nhiên mà truyện trinh thám trở thành một thứ sách
“best seller” trong rất nhiều năm qua. Một phần vì truyện trinh thám đã đánh
vào được tâm lí tò mò, ưa khám phá của con người. Nhưng mặt khác truyện
trinh thám thường có một kết cục có hậu làm thỏa mãn được tâm lí hướng
thiện của người ta. Điều này xuất phát từ cỗ mẫu văn hóa nhân loại. Trong
lịch sử sinh tồn của nhân loại thì sự thất bại của con người trước thế giới tự
nhiên đã dẫn đến khát vọng của con người là chinh phục tự nhiên, chiến thắng
tự nhiên. Từ khi xã hội có giai cấp thì những mâu thuẫn giai cấp đã khiến cho
tầng lớp người bị trị luôn bị bóc lột, bị đàn áp. Vì vậy khát vọng của họ là cái
ác bị trừng trị, cái Thiện sẽ chiến thắng. Bởi thế mà trong các truyện cổ tích
xa xưa nhất, người cổ đại đã xây dựng một kết cấu có phần giống với kết cấu
truyện trinh thám. Đó là người tốt trải qua những thử thách cam go, cuối cùng
sẽ chiến thắng và giành được phần thưởng xứng đáng. Truyện trinh thám đã
làm thỏa mãn được tâm lí này của người đọc bằng cách xây dựng một hành
động tội ác mà kẻ gây ra nó luôn muốn chạy trốn hoặc tìm cách để che giấu,
phủ nhận điều đó. Quá trình sau đó là thám tử đi tìm kẻ gây ra tội ác, cuối
cùng kẻ ác cũng bị phát hiện và bị trừng trị. Như vậy truyện trinh thám đã làm
thỏa mãn khát vọng muôn thuở của con người. Và nhà văn khi xây dựng câu
chuyện ấy cũng là một cách để thể hiện quan niệm cuộc sống của mình, thể
hiện khát vọng của bản thân. Phương tiện mà nhà văn sử dụng ở đây là cuộc
chiến giữa một bên là thám tử (đại diện cho cái Thiện, cái Chính) với bên kia
là tên tội phạm (đại diện cho cái Ác, cái Tà).
Nhân vật thám tử tài năng trong hai tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ và Câu lạc
bộ số 7 là cảnh sát hình sự Phan Đăng Bách. Thám tử trong hành trình truy
tìm tội phạm đã bộc lộ những phẩm chất anh hùng, dũng cảm... vừa tài tử cao
siêu vừa gần gũi đời thường.
Anh là người luôn luôn tinh nhạy để phát hiện những dấu vết chứng cứ
dù rất nhỏ, suy luận vấn đề, tìm ra mấu chốt và đích thân phá án, dù cả hai vụ
án trong hai tác phẩm đều vô cùng phức tạp, khó lường.
57
Bất chấp những nguy hiểm trong khu nhà ma quái ở trang Trại Hoa Đỏ
với những vụ giết người bí ẩn, Phan Đăng Bách nhiều lần tìm vào hang động,
hiện trường: “Anh làm theo Diên Vĩ, cúi mình luồn xuống chân bức tượng, và
thoắt cái hai người đã sang tới mặt bên kia… Xác người phụ nữ bị buộc bởi
chính chiếc khăn vấn đầu của chị ta, đầu kia treo trên một mỏm đá nhọn xù
xì”[1, tr203]. Phải rất bản lĩnh thì Bách mới tìm đến tận cùng sự thật của câu
chyện được.
Trong quá trình điều tra, không ít lần anh gặp nguy hiểm đến tính
mạng: “Bách không kịp nói nốt câu, một bóng đen đã lao thẳng vào xe của
anh. Bách chỉ kịp vừa phanh vừa đánh tay lái sang bên phải là vực sâu hun
hút. Khi anh kịp định thần lại những gì đã xảy ra, mồ hôi trên trán, trên ngực
trên tay Bách túa ra như tắm. Anh thận trọng mở cửa xe, đúng như dự đoán,
một nửa bánh trước bên phải đã ngấp nghé ngoài vực thẳm”[1, tr202]. Phải rất
bình tĩnh và vô cùng tài trí, nhanh nhạy thì anh mới tránh được những hiểm
nguy như thế.
Đương đầu với những kẻ sát nhân, anh luôn bình tĩnh và chính xác để
giành được chiến thắng: “Bách vội lồm cồm bò đến chiếc túi như bị thôi miên,
nhưng tức thì anh thấy ánh sáng của con dao mổ lóe lên như miếng gương bắt
được ánh mặt trời. Bách vội nghiêng người tránh và lộn nửa vòng đá tung con
dao trên tay hắn”[2, tr530]. Đó đúng là phẩm chất của một người anh hùng
thực thụ.
Tuy là một người tài ba, cao cường, bản lĩnh, nhưng Bách cũng là một
người mang nặng những xúc cảm đời thường. Bách cũng yêu say đắm như
bao chàng trai trẻ khác, và cũng yếu đuối - đau đớn khôn nguôi khi mất người
con gái mình yêu: “Anh đã không ăn không ngủ suốt hai ngày đêm và hầu
như mất hết tri giác. Toàn bộ thời gian anh ngồi ở mép giường, lưng còng
xuống như đã già đi vài chục tuổi chỉ sau hai vòng quay của Trái đất, đôi mắt
dán vào bức tường trước mặt, bất động”[2, tr453]. Đúng là sự chân thật một
cách giản dị mà sâu sắc trong tình cảm của một con người rất đời thường.
58
Có thể thấy, tác giả đã xây dựng một hình tượng nhân vật thám tử đẹp
đẽ đến lí tưởng, vừa tài giỏi cao siêu vừa gần gũi với đời thường. Đây cũng là
cách để tác giả gửi gắm ước mơ về một hình mẫu con người vô cùng cần thiết
trong cuộc sống nhiều bất trắc, nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay.
2.3.2.2. Nhân vật nạn nhân - con người vừa bình dị đời thường vừa ma quái
Nạn nhân (victim) là người bị hại, bị mất mát. Thông thường, trong các
truyện trinh thám các nhà văn thường lựa chọn nạn nhân là những người đặc
biệt. Nhân vật nạn nhân trong các truyện trinh thám phải là những người thu
hút được sự chú ý của người đọc, nhưng người đọc lại không được phép có
cảm tình với nhân vật, người đọc phải được giữ ở trạng thái hoàn toàn dửng
dưng và tỉnh táo khi tiếp nhận câu chuyện. Có thế thì lí trí của người đọc mới
được sáng rõ. Cho nên có thể nói truyện trinh thám là loại truyện của trí tuệ
chứ không phải là truyện của cảm xúc lãng mạn. De Quincey lí giải thêm về
điều này rằng, trong truyện trinh thám, nạn nhân phải là một người giữ tầm
quan trọng nhất có thể, nhưng rõ ràng không phải để nhận được sự cảm thông
của độc giả.
Dường như hiểu rất rõ nhưng nguyên tắc này, nhà văn Di Li đã xây
dựng cho mình hình mẫu nhân vật là nạn nhân rất thành công. Đó thường là
những con người rất bình dị đời thường nhưng cũng có gì đó ma quái.
Trong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, các nạn nhân đều là những con người
bình thường nhưng luôn có cái gì đó đặc biệt, khác lạ khiến người đọc phải
chú ý. Huy là chàng trai trẻ, làm cảnh sát hình sự nhưng ở trong ngôi nhà
hoang vắng, đồ vật trong nhà thường mang vẻ kì quái rờn rợn, nghe nhạc
Trịnh, đặc biệt dễ ngủ quên. Khi Huy chết trong bồn tắm, các cửa vẫn mở,
tiếng nhạc não nề vẫn đang vang lên. Những người phụ nữ dòng họ Quách
cũng bình thường như bao con người khác, nhưng luôn ám ánh khiếp sợ trước
lời nguyền truyền kiếp, bị sát hại một cách kì bí. Trong khi đó, Diên Vĩ - nhân
vật nữ chính trong câu chuyện ban đầu cũng vui mừng hào hứng như bao phụ
59
nữ bình thường khi được chồng tặng quà (trang Trại Hoa Đỏ). Nhưng ở chị có
một khả năng linh cảm, tiên tri rất nhạy bén, luôn dự cảm được điều gì đó
phía trước. Ở nhân vật này thường xuyên có sự linh tính: “Không có sự hiện
diện của con người, nhưng Vĩ vẫn cảm thấy những ánh mắt mờ ám đang theo
dõi cô. – Bảo ơi, con ơi. Tiếng gọi của cô dội vào những âm u và luồn trở lại
thành một tràng ngân dài rền rĩ. Cô bắt đầu dùng năm đầu ngón tay để bám
vào những rễ cây, nhưng chúng cứ chuồi ra vì lớp bùn trơn nhẫy đã quánh lại
trên thân lá”[1, tr30]. Diên Vĩ thường xuyên có những biểu hiện đặc biệt như
thế, điều này khiến cho nhân vật trở nên bí ẩn, khó lí giải.
Trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, các nạn nhân bị sát hại thực ra đều là
những người bình thường. Điểm chung là họ đều là những cô gái trẻ trung,
xinh đẹp. Trần Mỹ Anh, Lê Hoàng Mai, Hoàng Cẩm Tú, Linh Đan, Mỹ Lâm,
Mai Thủy Lê trước khi bị giết hại một cách rùng rợn đều đi taxi Hoa Sen.
Nhân vật Đăng lại có mối liên hệ thân thiết với các nạn nhân, bị tình nghi, cho
nên thường xuyên bị ám ảnh tâm lí và có những biểu hiện kì quái: “Đây là lần
thứ ba Đăng nhìn thấy Lê Hoàng Mai xuất hiện trong phòng. Lần trước, cô ta
trần truồng nằm trên giường trong tư thế khêu gợi, và khi chủ nhân của căn
phòng đang kinh hoảng tột độ, lớp da trên người cô ta phồng dần lên như quả
bóng rồi nứt toác tựa hồ mặt đất đến kì khô hạn. Lần khác, Đăng nhìn thấy cô
ta đang ngâm mình trong bồn tắm đầy nước. Mớ tóc dập dềnh phủ kín khuôn
mặt. Cô ta đưa ngón tay cụt lên vén tóc, ánh mắt chậm chạp hướng về cậu
buồn thảm. Đăng vội nhao đến chiếc máy vi tính, cậu vào facebook. Cậu cần
một người để nói chuyện, nếu không cậu có thể sẽ tự hành hạ thể xác mình vì
cơn trầm uất và sợ hãi tột cùng này”[2, tr53]. Những yếu tố này khiến người
đọc cảm nhận được điều gì đó khá kì bí, ma quái, khó giải thích trong tâm lí
của nhân vật này.
Có thể thấy, hầu hết các nhân vật nạn nhân trong tác phẩm của Di Li đều
toát lên những vẻ khác thường đầy bí ẩn, mặc dù thực chất họ đều là những con
60
người đời thường. Đây là một cách gây chú ý, tạo sức hút của nhà văn với bạn
đọc.
2.3.2.3. Nhân vật thủ phạm - con người “mặt nạ” với dã tâm ác quỷ
Những tên tội phạm trong truyện trinh thám thông thường là những kẻ
có dã tâm điên cuồng, đồng thời cũng là những kẻ có đầu óc siêu việt. Nhờ
vậy mới có thể thử thách được tài năng và trí tuệ của những thám tử và những
thám tử mới có điều kiện chứng minh khả năng vượt trội của mình. Poe đã
cho rằng những tên tội phạm này là những con quỷ của điều rùng rợn, thiên
tài không có đạo đức. Bên cạnh đó, trong truyện trinh thám cũng có kiểu nhân
vật tội phạm mang vẻ bề ngoài hung dữ, đáng sợ, trùng khít với tâm địa ma
quỷ bên trong. Có điều giống nhau, những nhân vật thủ phạm này bao giờ
cũng rất kín đáo, khéo léo che đậy ngụy trang, giấu diếm tội ác của mình.
Cảm xúc của người đọc đối với loại nhân vật này cũng không nằm ở
dạng căm thù hay giận dữ trước những tội ác của nó. Người đọc theo dõi tội
ác với một cảm giác “lạnh”, thuần túy lí trí. Sự xuất hiện của dạng nhân vật
này trong tác phẩm không liên tục, nó được nhà văn giấu kĩ từ đầu tác phẩm
cho đến cuối, khi tội ác đã được tìm ra. Đôi khi nó có mặt ngay từ đầu tác
phẩm, đi cùng tiến trình câu chuyện nhưng người đọc không biết anh ta chính
là thủ phạm, có thể có nghi ngờ nhưng không biết chính xác. Trong một số
truyện, đến cuối cùng khi bí ẩn được giải mã thì lúc đó người đọc mới vỡ lẽ
ra. Đó chính là điều ngạc nhiên lớn nhất, tạo nên sức hấp dẫn của câu chuyện.
Trong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, Trần Hoàng Lưu là một sát thủ với nhiều
điều rất đặc biệt. Anh ta tên thật là A San, một cậu bé trong bản, bị bắt cóc
đem bán, rồi làm con nuôi nhà họ Trần. Là một thương gia giàu có, anh ta
mang vẻ bề ngoài lịch lãm, hiền lành, tình cảm, biết yêu chiều vợ con, luôn
chăm chút cho gia đình. Thực tế, bên trong anh ẩn giấu một con ác thú. Đó là
một con người mang lòng tham vô tận, dù giàu có nhưng vẫn truy tìm kho báu
trong lời nguyền một cách điên cuồng. Hắn che giấu và ngụy trang mọi kế
61
hoạch của mình một cách hoản hảo, ra tay sát hại một cách lạnh lùng. Khi bị
đẩy đến đường cùng, mọi chuyện bị lộ, hắn sẵn sàng làm mọi cách miễn để
đạt mục đích, kể cả phải giết vợ con. Đó thật sự là một kẻ sát nhân máu lạnh,
tàn bạo.
Trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, những tên thủ phạm ác quỷ gây ra
những cái chết kinh hoàng đều là những người mang vẻ ngoài rất bình
thường, thậm chí đẹp đẽ. Chopin là bác sĩ nhưng thực chất là một tên đồ tể tàn
bạo, luôn thỏa mãn mình bằng tội ác cắt xẻ thịt người. Nguyễn Trí Hữu,
Johnny Huỳnh, Lê Hà và các thành viên giáo phái của mình mang danh theo
đạo Thiên chúa, nhân danh Chúa Jesus thiện lành, chọn danh xưng theo
những con người tài năng và nhiều cống hiến như Kant, Newton…, nhưng
thực chất là những kẻ cuồng tín, mất hết tính người, tội ác ghê rợn và chồng
chất.
Xây dựng kiểu nhân vật thủ phạm như vậy, nhà văn đã tạo ra một hiện
thực nghiệt ngã, đáng sợ, đầy bất ngờ, khiến cho câu chuyện càng thêm kịch
tính.
2.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị
của Di Li
2.3.3.1. Miêu tả nhân vật qua hành động và ngôn ngữ
Nhà văn Di Li dường như đã có một quá trình nghiên cứu rất kĩ lưỡng
về kiểu con người đặt trong tương quan các vụ án. Nhờ vậy, tác giả đã miêu tả
và khắc họa rất thành công hành động và ngôn ngữ cho nhân vật của mình.
Với nhân vật thám tử - người điều tra, hành động của nhân vật rất quyết
đoán, dứt khoát, mau lẹ, chính xác, hiệu quả, ngôn ngữ thì ngắn gọn, rõ
ràng, khôn khéo, ít màu sắc tình thái nên không bộc lộ cảm xúc. Trinh sát
điều tra Phan Đăng Bách thường có những phản ứng tức thì, kịp thời, tránh
được những tai nạn nguy hiểm, có mặt đúng lúc đúng chỗ và giải quyết tình
62
thế rất chủ động, hiệu quả. Đây là hình ảnh Bách chiến đấu khi giáp mặt với
sát thủ: “Bách thấy mình biến thành mãnh thú, một loài thú điên có khả năng
cắn ngập cổ kẻ thù. Anh thu hết sức mạnh đấm vào quần mắt sâu hoắm của
gã đồ tể… Bách lùi lại một bước lấy thế rồi đẩy mạnh hắn về phía trước, chỉ
cần hai bước ngắn thôi, anh biết đấy là hướng gì. Bách chỉ kịp nhìn lờ mờ
bóng áo choàng của hắn chùm lên làn nước và cánh tay bọc găng giơ lên
chới với. Một tiếng ục lớn cuốn phăng tất cả những gì còn sót lại. Chopin,
chúc mừng mày đã quay trở lại với địa ngục”[2, tr531]. Lời đối thoại của
anh với đồng nghiệp thì thiện chí, với các nhân vật đầu mối trung gian thì
gần gũi tin tưởng, với nghi phạm thì khôn khéo, trí tuệ, với thủ phạm thì sắc
sảo, đanh thép. Đây là đoạn đối thoại giữa Bách và Diên Vĩ với những phân
tích rất chuẩn xác, tỉnh táo: “Đó là một phần nội dung mà cô đã nghe được
khi đứng sau căn nhà của Ráy. Lúc đó, có thể chỉ để hù doạ Ráy mà hắn ta
khẳng định rằng chính mình đã giết tất cả những người ở Trại Hoa Đỏ. –
Được rồi, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là tại sao Trần Đàm Anh lại đến
đây và cô ấy đã ngăn cản Lưu chuyện gì để đến nỗi phải chết thảm? – Đó là
cả một câu chuyện dài _ Bách thở hắt ra vì phải tập trung cao độ vào các dữ
kiện… Trong một lần nào đó, anh ta đã tình cờ nghe được truyền thuyết về
lời nguyền của dòng họ Quách. Cô có biết lời nguyền đó là gì không? – Tôi
biết. Đó là đời nào trong nhà ấy cũng phải có một người phụ nữ chưa chồng
treo cổ tự vẫn. – Cô tin vào điều đó hay sao? Điều đó là có thật, tuy nhiên lời
nguyền thì hoàn toàn khác”[1, tr492]. Đây là những yếu tố quan trọng góp
phần làm nên hình ảnh một nhân vật cảnh sát điều tra hoàn hảo trong tác
phẩm này.
Với nhân vật là thủ phạm, hành động của nhân vật thường bí ẩn, nguy
hiểm, bạo liệt, ngôn ngữ thì căng thẳng, trần trụi, thô lỗ, ghê rợn. Trần
Hoàng Lưu trong Trại Hoa Đỏ, các thành viên giáo phái giết người trong
Câu lạc bộ số 7 đều có những việc làm mờ ám, cử chỉ khó hiểu, đặc biệt là
hành vi giết người rất tàn bạo. Chúng cũng khá giống nhau ở cách nói năng,
63
đối thoại rất căng thẳng, ghê rợn. Đây là những cử chỉ, hành động và đối
thoại mà các sát thủ nhóm giáo phái trao đổi với nhau: “Durga dừng lại giây
lát, để thỏa mãn ngắm nhìn sự hoang mang, sợ hãi từ những thành viên
cuồng tín của giáo phái. Bất chợt hắn hét lên, tiếng thét bị nhại lại từ những
vách phòng như lũ lượt những kẻ tâm thần điên dại bị nhốt kín đang lồng ra
khỏi dây trói. – Trong phòng này có một kẻ phản bội. Sau khoảnh khắc tĩnh
yên kinh ngạc, những ồn ào nổi lên, tiếng rì rầm bàn tán, tiếng hò hét căm
phẫn, và cả tiếng chửi thề trần tục như một gã thua bạc đang cay cú trên hè
phố. – Hắn là ai? – Hãy chỉ mặt hắn cho chúng ta biết. – Kẻ phản bội phải bị
trừng phạt”[2, tr494-495].
Đáng chú ý, khi khắc họa hành động và ngôn ngữ các nhân vật, tác giả
thường có sự đan xen giữa chất trinh thám và chất kinh dị. Tư duy sắc sảo
logic và tính toán kĩ lưỡng, hành động quyết đoán chính xác của thám tử, sự
lạnh lùng, độc ác, khôn ngoan của thủ phạm…, đó là biểu hiện của yếu tố
trinh thám khi các nhân vật của nó đóng vai trò cực giỏi với chức năng thủ
phạm và thám tử của mình trong cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa
thiện và ác nhưng khi các nhân vật này gắn với những biểu hiện ma quái, kì
ảo, hoang đường thì nó lại là nhân vật của truyện kinh dị. Các thủ phạm như
Lưu và các thành viên giáo phái thường nhìn thấy, nghe thấy và gặp những
hiện tượng ma quái do ám ảnh tội lỗi. Trong khi đó trinh sát điều tra Bách
nhìn thấy, nghe thấy và gặp những dấu hiệu có tính dự báo trước. Bách nhờ
bị đâm xe mà thoát chết khỏi vụ việc sau đó, cú va chạm tình cờ giúp anh
gặp người yêu trong buổi sáng chạy bộ. Anh còn có những giấc mơ hoặc gặp
những hiện tượng siêu nhiên không thể cắt nghĩa bằng lí trí . Anh đến mộ
bạn thân là một cảnh sát hình sự bị giết hại, Bách hỏi về thủ phạm giết
ngườicó phải là Vũ Phương Đăng không? Đôi mắt khảm trên tấm bia đá
trắng bỗng mỉm cười, khóe môi nhếch lên giễu cợt. Bách nhận thấy dường
như cậu ấy bảo Vũ Phương Đăng không phải là kẻ giết người. Trong khi đó,
các nhân vật là nạn nhân thì thường có những linh cảm báo trước về cái chết
64
đang chờ đợi hoặc gặp những hiện tượng kì ảo trong không gian, hoàn cảnh
rất ghê rợn…
Yếu tố trinh thám (có thể lí giải rành mạch) được kết hợp hài hòa khéo
léo với chất kinh dị (không thể luận giải bằng lí trí) một cách linh hoạt,
nhuần nhuyễn, mức độ đậm nhạt khác nhau, tạo ra một sự ấn tượng, hấp dẫn
lẫn bí ẩn cho nhân vật trong hai tác phẩm của Di Li.
2.3.3.2. Miêu tả nhân vật qua khai thác đời sống nội tâm
Các nhân vật trong hai tác phẩm của Di Li thường mang một đời sống
nội tâm rất sâu sắc và phức tạp. Nhà văn đã khai thác phương diện này một
cách khá tinh tế và hiệu quả qua các suy tư, ám ảnh, dự cảm đầy bí ẩn,
những diễn biến tâm lí rất khó nắm bắt.
Nhân vật Diên Vĩ trong Trại Hoa Đỏ thường có những linh tính như
một sự mách bảo trước một sự kiện, khiến cô hay có cảm giác bồn chồn lo
lắng không yên. Khi bàng hoàng nhận ra chồng mình chính là thủ phạm, cô
gần như trở thành một con người khác, hoảng loạn và sụp đổ: “Phút chốc, Vĩ
thấy cơ thể mình như không trọng lượng. Cô đang trong một cơn ác mộng
thôi mà. Trong cơn mộng điều gì cũng có thể xảy ra. Chẳng đã có lúc cô mơ
thấy mình đánh đập bé Bảo tàn nhẫn đó sao, để rồi khi thức dậy cô thấy lòng
mình đau đớn và ngay lập tức ôm chặt nó vào lòng. Cô chậm chạp nhích vài
bước về phía Lưu. Hai tay anh vẫn dang ra chờ đón… Vĩ tiến dần từng bước,
hệt như lùi lại. Cô quẹt nước mắt. Đôi mắt cô đã nhìn thấy rõ ràng hơn.
Cánh tay đang chảy máu của Lưu đang dang ra, nhưng trên bàn tay anh ta
vẫn còn cầm con dao làm bếp của cô. Vĩ kinh sợ lùi trở lại vách đá như thể
đó là một nơi ẩn nấp rất đỗi an toàn. Cô thấy lời lẽ của Lưu còn ghê sợ hơn
cả khi anh ta đang hùng hổ đuổi theo cô trong bóng tối”[1, tr49].
Cảnh sát điều tra Bách dù là một người làm công tác hình sự nhưng
cũng rất hay có những linh cảm để trợ giúp quá trình điều tra, hoặc cũng đầy
65
xúc cảm mãnh liệt khi mất người yêu, khi tận mắt chứng kiến cảnh giết
người của bọn tội đồ. “Anh khuỵu xuống, nằm úp mặt bên bờ nước và bật
khóc, lần đầu tiên anh khóc thành tiếng, kể từ lúc anh biết rằng, sẽ vĩnh viễn,
không bao giờ anh còn được nhìn thấy nụ cười của cô nữa, sẽ không được
chạm vào da thịt, không được hít hà mùi hương quen thuộc trên mái tóc dày
ấm áp, và không được ôm chặt cô vào lòng để cảm nhận cô đã trở thành một
phần cơ thể. Chính khoảnh khắc này, anh mới cảm thấy mình mất cô thực
sự, nỗi mất mát không gì có thể bù đắp và nguôi ngoai”[2, tr529]. Đó là
những diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, gây nên nỗi xúc động sâu sắc cho
bạn đọc.
Nhân vật Đăng trong Câu lạc bộ số 7 có những ảo giác do ám ảnh tội
lỗi, lúc nào cũng nhìn thấy xác trương phềnh, cô gái mặc áo màu đỏ ra biển,
máy tính tự động. Khi Bách nhắc đến cái chết của hai người bạn gái, Đăng
bị sốc tâm lí: “Tức thì những giọt nước mắt to tướng thi nhau lăn xuống gò
má trắng trẻo vì thiếu nắng của gã thanh niên. Mới đầu cậu ta còn ôm khư
khư ly cà phê, mặc cho nước mắt nước mũi tèm nhem trút xuống. Sau cậu ta
lấy mu bàn tay quệt lia lịa, vừa quệt vừa sụt sịt như một đứa trẻ”[2, tr46].
Rồi anh ta bị ám ảnh về những cô bạn gái chết thảm hiện về: “Con ma đã
bay lên cửa sổ rồi. Y kinh hoàng chạy xuống dưới nhà, mở toang cửa và òa
vào bóng đêm, mắt ngước lên cửa sổ. Chẳng có gì cả, chỉ mỗi rèm trắn đang
khẽ lay động… Và liền sau đó, một hình nhân áo trắng thườn thượt đứng
chắn ngang đường dưới vằng vặc ánh trăng, soi rõ mồn một những vết máu
tươi lấm lem, mớ tóc ướt rối bù che khuất khuôn mặt nham hiểm. Ả vươn
dài tay về phía y một cách đe dạo: Anh Đăng trả nốt cho em món nợ này”[2,
tr196-197]. Điều này khiến người đọc dễ liên tưởng đến tác phẩm kinh điển
của William Shakespeare - vở kịch Macbeth. Nhân vật Macbeth sau khi giết
vua lúc nào cũng thấy hai bàn tay mình đỏ lòm như máu và liên tục cọ rửa
hai bàn tay ấy bởi hắn đã ám ảnh tội lỗi của mình.
66
Có thể nói, phải có một sự tinh tế và sâu sắc cũng như những hiểu biết
về tâm lí học thì tác giả mới có thể cảm nhận và khắc họa đời sống nội tâm
nhân vật của mình thành công như vậy. Phương diện này giúp cho các nhân
vật trong hai tác phẩm của Di Li có được độ chân thực cũng như chiều sâu.
2.3.3..3 Miêu tả nhân vật qua những chi tiết nghệ thuật đắt giá và ám ảnh
Di Li là nhà văn rất đầu tư vào việc sáng tạo, xây dựng các chi tiết nghệ
thuật đắt giá, gây ra những ám ảnh. Nó tạo ra những điểm nhấn hết sức giá
trị cho tác phẩm, đặc biệt là với một thể tài như trinh thám kinh dị.
Trong hai tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7, Di Li thường
xây dựng hai kiểu chi tiết nghệ thuật. Thứ nhất, nhà văn dựng nên những
tình tiết, sự vật, sự việc vừa nổi bật vừa đa nghĩa mơ hồ, vừa đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong hành trình vụ án hoặc như một dấu hiệu điển hình nói
lên bản chất thật của nhân vật - đó là những chi tiết nghệ thuật đắt giá. Thứ
hai, nhà văn dựng nên những chi tiết lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo ấn tượng
kinh hoàng - đó là chi tiết nghệ thuật ám ảnh.
Phân tích trong hai tác phẩm, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều chi tiết
nghệ thuật đắt giá và ám ảnh như thống kê khảo sát dưới đây.
Chi tiết nghệ thuật đắt giá, chi tiết nghệ thuật ám ảnh
trong “Trại Hoa Đỏ” và “Câu lạc bộ số 7”:
Chi
Trại Hoa Đỏ Câu lạc bộ số 7
tiết
67
1 Tr14 Lưu chở Vĩ đến Trại Hoa Đỏ, Tr42 Bách xem tập hồ sơ
trời tối quá nên Vĩ không để ý đến trong đó có ảnh chụp Lê
khung cảnh bên đường.Vĩ giật mình Hoàng Mai trong bữa tiệc sinh
thấy phiến đá rất to nhô trên miệng nhật vào đêm cô gái tự sát.
hang núi hệt như như một hình người
cụt đầu.
2 Tr16 Vĩ nhìn thấy hai con chó đen Tr49 Bách mở máy tính cho
tuyền dường như bị chẹt dưới bánh xe Đăng xem ba tấm chân dung
khi Lưu nhấn bàn đạp nhưng không tử thi sau khi được phát hiện.
kịp. Vĩ hét lên thất thanh. Đăng mở to mắt nhìn vào màn
hình như bị hóa đá.
3 Tr35 Ráy kể chuyện với Vĩ về ngôi Tr82 Ở khu nghỉ resort, Đăng
nhà của dòng họ bị nguyền rủa. Đời luôn bị ám ảnh bởi hồn ma
nào trong ngôi nhà ấy cũng có một đeo bám. Vừa liên tưởng đến
người là phụ nữ chưa chồng thắt cổ tự đấy y đã thấy tức thở. Nước
tử. Nhưng duy nhất có một người tự xối xuống đỉnh đầu khiến y
tử không bằng cách đó. Ráy đã kể chỉ thấy một hố đen sâu thẳm.
choVĩ câu chuyện kinh dị về người Cái ý niệm "trôi dạt" càng trở
đàn bà đó. lên mạnh mẽ, làm bọt xà
phòng trên người bỗng sền sệt
như phù sa, như máu đang
đông đặc lại.
4 Tr69 Vĩ lạc vào ma trận, nghe thấy Tr94 Bách thấy ám ảnh hình
tiếng sáo lúc xa, lúc gần đầy ma mị. ảnh đẫm máu trong bồn tắm
của Huy
5 Vĩ nhìn thấy hai vợ chồng già nua với Tr118 Cô bé hàng xóm nhà Lê
đôi lông bạc mày trắng và nước da kể chuyện chủ nhà cũ của cô
68
đen đúa.Cô đã gặp họ ở đâu rồi, Vĩ bị bạn trai giết hại thảm hại.
định nói chuyện với họ nhưng chợt Cô nghe ù tài, cáo từ quay vào
nhớ ra điều đó là vô ích. Ở đây, cô nhà lên mạng tìm đọc chi tiết
không thể giao tiếp với bất kỳ người vụ án kinh hoàng nhất năm
dân bản nào ngoài Ráy. 2008.
6 Tr89 Vĩ đã gặp người đàn bà thổi sáo Tr125 Những vết đỏ sẫm
trong căn nhà cổ. Vĩ đã được chị đó loang lổ ở sàn gỗ hành lang
kể cho nghe câu chuyện về dòng họ làm Kim hoa mắt.
Quách.
7 Tr118 Bách nhìn thấy cảnh tượng Tr138 Trên con tàu du lịch
kinh hoàng, cảnh sát hình sự Đỗ Serenade có một người đột tử
Quang Huy- người bạn thân thiết nhất do dùng Methamphetamine
đời anh chết thảm trong bồn tắm với liều cao.
vết cứa sâu trên cổ.
8 Tr128 Vĩ lại nghe thấy tiếng sáo réo Tr166 Tú den cho Bách xem
rắt. Vẫn là giai điệu ấy lặp đi lặp lại hộp thư thoại trước khi Mỹ
nhưng Vĩ cảm thấy trong đó một sự Anh bị sát hại một ngày. Đoạn
khắc khoải như sự tuyệt vọng lại vừa chat đã cho thấy Mỹ Anh đã bị
như một sự giục giã. Đúng lúc đó, hấp dẫn bởi nghĩ mình sẽ đoạt
Lưu xuất hiện ở cuối hành lang và Vĩ giải Nữ hoàng dạ tiệc do tên
ngạc nhiên. Durga mời chào.
9 Tr132 Sân trại tối om. Bất ngờ, Vĩ Tr168 Nhờ nhóm công nghệ
thấy có người đang nhìn mình chăm cao Tú đen phát hiện ra nhóm
chú. Lão thầy mo không chen vào của Durga có 454 người hoạt
đám người kia mà đứng tách ra một động theo một kiểu hội kín.
góc. Đôi mắt lão ánh lên một tia quái
đản khiến Vĩ rợn tóc gáy.
69
10 Tr135 Tiếng sáo văng vẳng bên tai Vĩ Tr185 Đăng nói chuyện với
trong đêm khuya. Tiếng sáo ám ảnh Bách trong nỗi sợ hãi rằng
Vĩ. Nếu cô không cố gắng ngủ tiếp, Đăng bị ma ám kể từ khi lê
cô sẽ hóa điên vì điệu nhạc quái dị Hoàng Mai bị chết đuối. Hình
này. ảnh ám ảnh Đăng. Đăng đã
nói với Bách: mặt nó phình to
ra nứt nẻ, tóc tai ướt nhẹp rũ
rượi, quần áo rách nát. Nó đưa
bàn tay cụt ngón trỏ vào mặt
tôi và đổ cho tôi tội giết
người.
11 Tr142 Bà lão hôm trước cho bé Bảo Tr201 Đăng tiết lộ với Bách
nghịch đất đang ngồi cạnh cô và dùng rằng ông Vinh đã cung tiến
chiếc khăn ướt để lau mặt cho Vĩ. Khi nhiều tiền vào chùa trên núi
thấy Vĩ mở mắt ra, bà lão có vẻ lúng Vĩnh Am.
túng và hơi sợ hãi.
12 Tr147 Tiếng sáo lần này gấp gáp hơn, Tr202 Bách tiếp chuyện với
và vất ngờ chuyển giai điệu. Lần đầu đại sư trên chùa và được biết
tiên, người thổi sáo chuyển sang một nhiều thông tin về gia đình Vũ
bản nhạc khác. Nó không êm dịu, Phương Đăng.
mượt mà như cũ mà ai oán như những
tiếng rên xiết thoát thai từ vực sâu tăm
tối, Tiếng sáo như nam châm khiến Vĩ
tiếp tục bước tới.
13 Tr149 Trong ma trận , Vĩ đã đối diện Tr210 Bách kiểm tra danh
với lão thầy mo. Lão thộp lấy vai Vĩ sách điện thoại của Đăng.
và đẩy cô vào bên trong khiến cô mất
đà ngã nhoài xuống đất. Lão thầy mo
70
trở lên nhanh nhẹn khác thường. Lão
cúi xuống và đưa bàn tay bẩn thỉu lên
má cô. Vĩ kinh hoàng. Cô ôm chặt tay
lên bụng, miệng hét to.
14 Tr150 Gã điên đã giải thoát cho Vĩ. Tr239 Kim gặp ma.
Anh ta đã khiến lão thầy mo sợ hãi.
Vĩ nhận thấy ánh mắt của gã điên thật
kỳ lạ, hoàn toàn tỉnh táo, nhưng đọng
một vẻ gì khó hiểu, như tất cả những
người dân đang sinh sống trong Trại
Hoa Đỏ.
15 Tr172 Bách dự lễ khánh thành Trại Tr272 Bách trình bày vói
Hoa Đỏ, Bách cũng bị thôi miên vì Đoàn Kỳ Hoa về hình ảnh
tiết mục múa lửa. Mãi đến khi có một khai quật.
nắm tay nhỏ bé cứ kéo mạnh vạt aó
anh, Bách mới sực tỉnh. Bé Bảo xin
ghi lại số điện thoại của Bách.
16 Tr182 Ráy đun nước lá cho Vĩ uống Tr285 Mỹ Lâm nói với Bách
để phục hồi sức khỏe. Ráy đã nói với về bọn giết người.
Vĩ về bóng đen đang bao phủ xung
quanh Vĩ, ngày càng dày đặc, và một
bóng đen đang đứng đừng sau lưng
cô. Nó đứng rất gần và ra tay bất cứ
lúc nào.
17 Tr183 Những hình ảnh mà Ráy đưa ra Tr287 Bách nhìn thấy cô gái...
khiến Vĩ liên tưởng đến trò chơi Rồng
rắn lên mây mà lần này cô đóng vai
71
là kẻ đi đầu. tha theo đằng sau một lũ
rồng rắn nữa, cả cái đuôi có bộ mặt
hắc ám đang nấp sau lưng.Vĩ nghe
thấy âm thanh văng vẳng từ rất xa rồi
vang khắp căn nhà
18 Tr185 Di đã nói chuyện với Vĩ về đứa Tr290 Bách đang nói chuyện
con trai bị ma rừng bắt. với Mỹ Lâm thì chuông điện
thoại reo...
19 Tr191 Vĩ thận trọng bước xuống từng Tr299 Bách xem album của
con dốc để đến nơi Di hẹn cô để nói nhà Đăng, có một tấm ảnh rơi
điều gì đó. Khi bước tượng hình ra gây sự chú ý của Bách.
người cụt đầu hiện ra trước mặt, Vĩ
rảo bước nhanh hơn. Vĩ bước đến sát
chân tượng nhưng không nhìn thấy Di
như đã hẹn. Cuối cung cô đã chứng
kiến cảnh tượng kinh hoàng, khiến cô
khiếp sợ.
20 Tr192 Tiếng sáo đột ngột im bặt. Điều Tr305 Tú thông báo với Bách
đó khiến Vĩ nhớ đến người người đàn về vụ án ở khu nhà hoang.
bà kiên nhẫn ngồi thổi sáo thổi đi thổi
lại một bản nhạc kỳ dị. Không có
tiếng sáo, không gian yên tĩnh một
cách đáng ngờ.
21 Tr195 Bách nhận cuộc điện thoại của Tr315 Thanh Mai xác minh
Diên Vĩ từ Trại Hoa Đỏ về người phụ cho Bách cuộc điện thoại từ
nữ tự tử ở chỗ cửa hang bức tượng khu nhà An Phát
cụt đầu. Diên Vĩ cho rằng đó là vụ
72
giết người chứ không phải tự tử, Vĩ
cần có Bách giúp đỡ.
22 Tr201 Trên đường đến Trại Hoa Đỏ, Tr348 Vũ Phương Vinh như
Bách gặp một bóng đen lao thẳng vào con quỷ.
xe.Bách chỉ kịp vừa phanh vừa đánh
lái sang bên phải là vực sâu hun hút.
23 Tr208 Khi Bách đến Trại Hoa Đỏ Tr366 Bách nhận thư trên
điều tra vụ án, Vĩ đã nói với Bách về email của Thiên Kim chứ
chuyện bất cứ khi nào Vĩ nghe thấy không phải của Mỹ Lâm.
tiếng sáo, thì y như rằng chẳng bao
lâu sau lại xuất hiện một xác chết.
24 Tr231 Bách đọc lại các ghi chép tổng Tr345 Quang chỉ cho phép
quát toàn bộ lời khai về vụ việc. Bách duy nhất một bà góa chồng
chưa thể tìm ra manh mối kẻ giết câm điếc mỗi tuần đến dọn
người. dẹp một lần và chuẩn bị thực
phẩm trong tủ lạnh, ngoài ra
không có bất kì ai được nhìn
thấy tư gia này
25 Tr243 Cuộc nói chuyện của Mai Tr397 Bách nại ra lí do cso
Thanh với Bách nhắc đến chi tiết thông tin chứa chấp buôn bán
Bách luôn day dứt bất lực trước bi ma túy để thu máy tính của vũ
kịch xảy ra ngay cạnh mình. Bách trường Underground. Chỉ
luôn ám ảnh đôi mắt không thể nhắm mười phút sau gã chủ vũ
được của Huy sau khi chết. Anh luôn trường này đã có mặt.
cho rằng mình có lỗi với cậu ấy.
26 Tr251 Khi Bách và Mai Thanh đang Tr401 Thấy có tin nhắn, Bách
73
nói về công việc, điện thoại của Bách gọi lại vào số máy lạ nhưng
báo hiệu có tin nhắn. Anh mở ra xem, đầu dây bên kia ngắt luôn.
và dù cố giữ bình tĩnh, sắc mặt cũng
đã thay đổi. Mai Thanh không nén
được tò mò, cô ngó vào màn hình và
đọc được dòng chữ: Ta đã nhìn thấy
bóng đen bao phủ. Kẻ đó đang đứng
ngay sau lưng ngươi. Hãy cẩn trọng.
27 Tr259 Câu chuyện về giác mạc thay Tr457 Đau đớn thẫn thờ vì
cho bé Bảo. Quãng nửa đêm hôm đó, mất người yêu, từ trạng thái
Vĩ đã nhận được cuộc điện thoại của như một pho tượng phẳng lặng
bác sĩ báo tin là có giác mạc cho và trơ lì, Bách chuyển sang
thằng bé. trạng thái nói chuyện một
mình
28 Tr262 Vĩ đi theo dấu vết của lão thầy Tr472 Kim buột miệng định
mo, cô xuống bãi đất trống thì xung nói với Bách về Mỹ Lâm, rồi
quanh chỉ còn rừng cây, núi và vực lại giấu kín
thẳm.Vĩ định quay đầu một mạch về
trang trại thì chợt nghe thấy tiếng sáo
lảnh lót. Nó vẫn lặp đi lặp lại một bản
nhạc đơn điệu và buồn tẻ. Vĩ đã đi
theo tiếng sáo đến ngôi nhà cổ của
dòng họ Quách.
29 Tr270 Bé Bảo cùng Vĩ vào trong ngôi Tr499 Bách gầm lên một tiếng
nhà cổ.Bé Bảo đã khiếp sợ khi nhìn dữ tợn, cùng lúc chuông báo
thấy người đàn bà thổi sáo có hàng động vang lên dội vào vách
trăm lỗ thủng trên người và máu tuôn núi chát chúa
74
ra.
30 Tr301 Khi Lãm cùng Bách đưa ra Tr505 Bách lao vào cuộc
chứng cớ buộc tội lão thầy mo, lớp da chiến đấu với kẻ ác, giữa tiếng
mặt xám chì của hắn tím lại rồi đột súng anh hình dung ra ảo ảnh
nhiên lão quay ra cấm khẩu. về Mỹ Lâm
31 Tr306 Biết thông tin chính xâc lão Tr527 Bách quẳng chiếc mũ
thầy mo là kẻ bắt cóc con trai của Di, xuống lạch nước, phát hiện ra
Ráy đã có phản ứng bất thường. Ráy nó chảy xuống hố sâu khổng
đứng bật lên chạy vụt ra khỏi cửa. Chị lồ, có thể thông với một lòng
ta âm ư những âm thanh quái đản hồ bên dưới
trong cổ họng như lão bò sát khổng lồ
đang rú rít trong hang đá.
Chỉ từ một chi tiết nghệ thuật, tác giả có thể chuẩn bị cho người đọc
những hiểu biết cần thiết để tiếp tục dõi theo vụ án, hoặc cũng có thể từ đó mà
có đầu mối, căn cứ, gợi ý để tìm hiểu, khám phá sự thật.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Giọt nước có thể soi chiếu cho thấy cả
đại dương. Di Li đã rất thành công trong việc xây dựng và sử dụng chi tiết nghệ
thuật của mình để tạo nên sự ấn tượng và chất trí tuệ cho tác phẩm của mình.
75
Tiểu kết chương 2
Qua khảo sát tác phẩm, có thể thấy Di Li đã xây dựng và triển khai tác
phẩm của mình rất độc đáo, ấn tượng. Đó là kiểu cốt truyện vụ án truyền thống
và cốt truyện “sóng đôi” đan cài họa trộn nhuần nhuyễn giữa tính chất li kì của
trinh thám và màu sắc kì ảo của kinh dị; là kiểu tình huống truyện chứa điểm
nhấn “mai phục”, tình huống li kì, kịch tính và đậm sắc thái kinh dị; là kiểu
nhân vật thám tử vừa tài giỏi cao siêu vừa gần gũi đời thường, nhân vật nạn
nhân vừa bình dị vừa ma quái, nhân vật thủ phạm mang mặt nạ và ẩn giấu dã
tâm ác quỷ.v.v..
Với cách xây dựng và triển khai cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật
vừa mang tính chất li kì của truyện trinh thám lại vừa mang màu sắc hoang
đường của truyện kinh dị, nhà văn Di Li đã tạo nên cho tác phẩm của mình một
chỉnh thể vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa nhất quán vừa linh hoạt, biến ảo. Nó
đem lại một sức hấp dẫn mạnh mẽ, những ấn tượng sâu sắc khó phai cho bạn
đọc với những trang viết rất giàu chất trí tuệ mà đồng thời vẫn có giá trị giải
trí cao.
76
Chương 3
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM - KINH DỊ CỦA DI LI
3.1. Khái niệm không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
3.1.1. Khái niệm Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là một khái niệm cơ bản của thi pháp học.
Không gian nghệ thuật là “hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ
một điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ
thuật cụ thể cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó, cái này bên cạnh cái
kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao - thấp , xa - gần, rộng – dài, tạo thành
viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian,
nên mang tính chủ quan…. Do vậy không gian nghệ thuật có tính độc lập
tương đối, không quy đinh được vào không gian địa lí... Không gian nghệ
thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn
ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ
của tác giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để
khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hiện tượng
nghệ thuật”[44, tr134].
Như vậy không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ
nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống,
do đó không thể quy nó về sự phản ánh giản đơn không gian địa lí hay không
gian thuần vật chất. Nói khác đi không gian nghệ thuật trong tác phẩm “là sự
mô hình hóa các mối liên hệ về thời gian xã hội đạo đức của bức tranh về thế
giới thể hiện quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của nhà văn”[45,
tr117].
77
Theo IU. Lotman thì không gian trong một tác phẩm có ba cách tổ
chức cơ bản: Không gian điểm (địa điểm) - được xác định bằng các giới hạn
và tính chất chức năng của nó; Không gian tuyến - là không gian theo chiều
dài suốt hành trình cuộc đời của con người; Không gian mặt phẳng (hay còn
gọi là không gian khối) - thường thấy trong các loại hình sân khấu.
Không gian nghệ thuật trong thể tài trinh thám kinh dị gắn bó chặt chẽ
với kết cấu cốt truyện, phụ thuộc đề tài câu chuyện nhà văn đề cập và xây
dựng, có thể không gần gũi với không gian đời thực mà thường khác lạ, bí
ẩn, pha trộn giữa thực và ảo.
3.1.2. Khái niệm Thời gian nghệ thuật
Ở mỗi thể loại văn học có cách tổ chức thời gian riêng và đối với mỗi
nhà văn cũng có quan niệm riêng về thời gian. “Thời gian nghệ thuật là hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng
như không gian nghệ thuật sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao
giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được
trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần
thuật. Sự phối hợp giữa hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật,
một hiện tượng nghệ thuật chỉ có trong thế giới nghệ thuật…”[44, tr264]. Thời
gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Có thời
gian nghệ thuật gắn với chuỗi biến cố, có thời gian nghệ thuật xây dựng trên
dòng tâm trạng và ý thức, có thời gian nghệ thuật trôi trong các diễn biến sinh
hoạt, có thời gian nghệ thuật gắn với những biến cố lịch sử… Thời gian trần
thuật cũng chính là hình thức mang tính quan niệm. Như vậy thời gian trần
thuật mang tính phức tạp hơn vì nó không chỉ là thời gian mang tính quan niệm
mà thời gian còn gắn bó chặt chẽ với kết cấu tác phẩm và cách tổ chức của nhà
văn.
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được xét ở nhiều phương
diện. Thời gian có tính liên tục, có độ dài, có hướng, có nhịp độ và có chiều
78
quá khứ, hiện tại tương lai. Thời gian nghệ thuật khác thời gian khách quan ở
chỗ, nó được sáng tạo ra nên mang tính chủ quan, nên gắn liền với tâm lí con
người và mục đích nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo của
người nghệ sĩ và là đặc trưng của văn học. Vì vậy nhà nghiên cứu Likhachep
đã nói: “Thời gian là đối tượng, là chủ đề, là công cụ miêu tả, là sự tự ý thức
và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa
dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học”[45, tr85].
Thời gian nghệ thuật trong truyện trinh thám vừa mang những đặc
trưng chung của văn học vừa thể hiện được những nét độc đáo riêng của thể
tài. E.A.Poe là nhà văn đầu tiên đưa ra những mô hình về thời gian nghệ thuật
của thể tài vừa có khả năng tạo ra những dấu ấn riêng mà những nhà văn trinh
thám sau này không bắt chước được.
3.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
trinh thám kinh dị của Di Li
3.2.1. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Di Li
Những khái niệm không gian nghệ thuật cùng nội hàm của nó đã được
trình bày ở trên là để áp dụng cho tác phẩm văn học nói chung, theo quan
điểm của thi pháp học. Trong tiểu thuyết thể tài trinh thám kinh dị của Di Li
với những đặc trưng của nó (như đã trình bày ở chương 1 và chương 2),
không gian nghệ thuật vừa là phương tiện nghệ thuật đặc biệt để góp phần
làm nỏi bật hai yếu tố trinh thám và kinh dị trong tác phẩm, vừa là những hình
tượng nghệ thuật tương đói độc lập, xuất hiện cùng với các nhân vật trong tác
phẩm, gây tò mò hứng thú hoặ gây sợ hãi đến kinh hoàng cho người đọc.
Với tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, đó là khi nhà văn đưa người đọc đến với
lâu đài dòng họ Quách được gọi tên là "Trại Hoa Đỏ", một không gian bí
hiểm thường được miêu tả trong bối cảnh đêm tối mờ mịt. Nó là một không
gian có những hình ảnh, âm thanh, chuyển động ma quái, ghê rợn hoặc ẩn
chứa tai họa, đe dọa con người: đó là bầu trời trăng ma quái; đó là những con
79
đường hoang vắng, những vực thẳm mờ mịt sương phủ; đó là hình ảnh đôi
chó rừng xuất hiện giữa đường rồi biến mất như một ảo giác, những ngôi nhà
đá ong xám xịt, những bụi cây bí hiểm trong màn đêm; đó là những tiếng hú
kinh hoàng của gã điên, tiếng bé Bảo bỗng bị bóp méo, vọng âm một cách kì
lạ trong hang đá... Không gian có tên là Trại Hoa Đỏ ấy vừa là hoàn cảnh xảy
ra vụ án, vừa là một hình tượng nghệ thuật ám ảnh làm người đọc không thể
không tò mò khám phá vừa sợ hãi, có lúc muốn hét lên kinh hoàng cùng nhân
vật.
Trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, không gian nghệ thuật là hiện trường
xảy ra các vụ án. Đó là những con phố, tòa chung cư, là quán bar sàn nhảy, là
câu lạc bộ Undergound, là thị trấn Tháp lớp lớp quan tài sơn đỏ chót xếp bên
đường dài hàng cây số, những phướn tang đen làm mẫu phần phật trong gió;
đặc biệt là không gian Hồ Tháp - nơi các thủ phạm của các vụ án tụ họp, nơi
sẽ diễn ra cuộc quyết đấu cuối cùng giữa Phan Đăng Bách cùng các chiến sĩ
công an với một hội kín bệnh hoạn, biến thái. Những không gian nghệ thuật
trong "Câu lạc bộ số 7" mặc dù khác biệt thậm chí đối lập với không gian
trong "Trại Hoa Đỏ" (tự nhiên – nhân tạo; làng quê – thành phố), nhưng nó
đều giống nhau khi cũng được xây dựng bằng hàng loạt những hình ảnh, màu
sắc, âm thanh, chuyển động hoặc ma quái, rùng rợn hoặc ẩn dấu, thấp thoáng
sự đe dọa khủng khiếp của cái xấu, cái ác tới cái cao đẹp, cái thiện.
Như vậy, không gian nghệ thuật trong hai tiểu thuyết của Di Li gắn bó
chặt chẽ và phục vụ cho việc làm sáng tỏ chủ đề của tác phẩm. Nó được xây
dựng bằng cái đan xen, đồng hóa cái ảo và cái thực, cái bình thường và cái
thô kệch. Có thê ví von rằng, để miêu tả hồn ma thì không gì bằng đặt chúng
vào trong không gian nghĩa địa, nhà cổ có người từng tự tử, hầm mộ... Không
gian ở đây cũng mang nghĩa là những hoàn cảnh nghệ thuật đặc biệt, chuẩn bị
cho sự xuất hiện hoặc nơi diễn ra sự kinh dị, bí hiểm, vừa như đe dọa con
người, vừa khêu gợi con người muốn tò mò khám phá.
80
Nếu nhìn một các khái quát, xét theo tiêu chí chức năng nghệ thuật của
không gian trong tác phẩm, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám
- kinh dị của Di Li bao gồm một số kiểu không gian cơ bản: Không gian xảy
ra vụ án; Không gian cư trú của thủ phạm; Không gian cư trú của thám tử;
Không gian cư trú của nạn nhân trước khi xảy ra vụ án; Không gian trung
gian hay còn gọi là không gian "chiếu nghỉ của cầu thang" (đó là không gian
vui chơi, giải trí, làm việc, sinh hoạt đời thường của các nhân vật, có chức
năng làm chậm nhịp độ căng thẳng của cốt truyện, tạo cảm giác thư thái cho
người đọc trước khi bước vào cao trào giàu kịch tính khác, có thể coi đó là
khoảng nghỉ giải lao giữa hai hiệp đấu Quyền Anh, hoặc khoảng trời bỗng
thoắt im lặng trước khi xảy ra giông bão); Không gian đối đầu giữa thám tử
với thủ phạm gây ra vụ án...
Nhưng chúng tôi muốn xây dựng những mô hình không gian nghẹ thuật
có tính đặc thù trong hai tiểu thuyết "Trại Hoa Đỏ" và "Câu lạc bộ số 7" của
Di Li với những mô hình không gian có sự gắn kết cả hai yếu tố trinh thám và
kinh dị. Đó là những mô hình không gian tiêu biểu sau đây:
3.2.1.1. Không gian “ngôi nhà quỷ ám”
Trong tiểu thuyết "Trại Hoa Đỏ", đây là không gian trung tâm của tác
phẩm, nơi giấu kín một xung đột dữ dội, xuất hiện trong quá khứ với những
câu chuyện rùng rợn của dòng họ Quách, kéo dài sang hiện tại. Đó là nơi mọi
nhân vật tập trung, tranh đấu, va chạm và máu đã chảy, xác chết xuất hiện, đặt
ra bao nhiêu câu hỏi nhức nhối phải trả lời. Khu trang trại có tên "Trại Hoa
Đỏ" thuộc kiểu không gian khối hay còn gọi là "không gian mặt phẳng" với
ba chiều không gian rộng lớn, âm u, có những kiến trúc nhà cổ, tượng đá cụt
đầu, hang đá, rừng núi rậm rạp gợi cảm giác không gian huyền bí, rùng rợn,
thê lương - một sắc thái kinh dị truyền thống. Với bóng đêm và làn sương bao
phủ, tội ác như được cất giấu ở nơi đây. Màu hoa đỏ đã gợi liên tưởng đến
màu máu. Những ngôi nhà đá ong xám xịt, tòa lâu đài, hang đá của dòng họ
81
Quách, cùng lời nguyền khủng khiếp rằng đời nào cũng phải có một người
phụ nữ chưa chồng thắt cổ tự tử, tiếng rú man rợ của nhân vật "thằng điên"
trong đêm tối, những "bóng ma" đầy máu đi lại trong đêm... Tất cả tạo ra một
hoàn cảnh kinh dị điển hình. Không gian “khối” rộng lớn ấy lại được chia nhỏ
thành không gian “điểm” nhỏ bé. Đó là những ngôi nhà kì bí như chủ nhân
của nó, những căn nhà ẩn chứa bao bí mật, hang đá có giấu kín từ xa xưa một
tội ác khủng khiếp. Con đường kết nối không gian "điểm" ấy rắc rối, bí hiểm
như mê cung khiến nhân vật Diên Vĩ và bé Bảo lạc rất nhiều lần, và ngay cả
những con người còn sống như nhân vật Ráy, gã điên cũng thoát ẩn, thoắt
hiện như những bóng ma. Nhà văn đã miêu tả không gian "Trại Hoa Đỏ" như
một "ngôi nhà quỷ ám" với những màu sắc, âm thanh, mùi vị, hình ảnh,
chuyển động đều gắn với cái khủng khiếp, rình rập và đe dọa con người.
Những ngôi nhà bên ngoài được miêu tả như một pháo đài. Và đây là hình
ảnh pho tượng đá cụt đầu xuất hiện như một dự báo kinh hoàng cho những gì
sắp xảy ra, vừa như gợi nhắc về những tội ác và cái chết đã xảy ra ở vùng đất
này: phiến đá rất to nhô trên miệng hang núi được hình dung gióng hệt như
hình một người cụt đầu, hai tay đỡ lấy phần cổ một cách tuyệt vọng. Nhưng
trong không gian đậm sắc thái kinh dị ấy, hàng loạt cái chết diễn ra một cách
bí hiểm và khủng khiếp: cái chết của gã điên, Di, A Cách và nhiều người nữa.
Sắc thái trinh thám xuất hiện theo bước chân của nhân vật Phan Đăng Bách
cùng hành trình điều tra, phá án của người chiến sĩ công an này. Điều lí thú là
có những bí mật được khám phá bằng trí tuệ và nghiệp vụ công an, nhưng có
sự tham gia của trực giác, của linh cảm. Trong không gian "Trại Hoa Đỏ" có
xây dựng mê cung - tượng trưng cho những bí mật khủng khiếp được cất giấu
nơi đây. Nhân vật Bách bằng tâm huyết và tài trí của mình, với sự giúp đỡ của
Diên Vĩ - người có trực giác và khả năng đặc biệt, đã khám phá thành công vụ
án đậm sắc thái ma quái này. Như vậy, không gian "ngôi nhà quỷ ám" có tên
Trại Hoa Đỏ này, nơi có sự gắn kết hai sắc thái trinh thám và kinh dị đã được
82
xây dựng công phu để hoàn thành xuất sắc vai trò nghệ thuật của nó. Qua đó,
chứng tỏ tài năng nghệ thuật và cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Cũng tương tự như thế, trong tiểu thuyết "Câu lạc bộ số 7", chúng ta
gặp gỡ với mô hình không gian ''Ngôi nhà quỷ ám'', với vai trò nghệ thuật
tương tự với không gian Trại Hoa Đỏ. Đó là không gian câu lạc bộ
Undegrount trong lễ hội hóa trang Halloween. Ngôi nhà của câu lạc bộ này
trong lễ hội hóa trang đã được trang trí thật ma quái. Có lúc, nhân vật cô gái
trẻ Mỹ Anh được miêu tả là cầm tờ giấy.... đang đu đưa trên trần. Trong ngôi
nhà này, các hành lang cũng được bố trí ngoắt nghéo như mê cung. Trong
ngôi nhà ấy, mọi người đều hóa trang với những trang phục kì dị, những chiếc
mặt nạ ma quỷ. Và cũng chính trong ngôi nhà ấy, nạn nhân đầu tiên của vụ án
đã nhìn thấy một người hóa trang đặc biệt ghê sợ, đi ủng đen, theo dõi và đi
theo cô vào nhà vệ sinh nữ. Và cũng chính con người đó đã sát hại cô giá
trong không gian thứ hai là chiếc taxi của hãng Hoa Sen - không gian di động
này sẽ còn xuất hiện trong các vụ án tiếp theo. Như vậy, không gian câu lạc
bộ Undegrount đã được "kinh dị hóa" nhờ trang trí trong lễ hội hóa trang
Halloween, và trở thành không gian đậm sắc màu trinh thám khi khởi đầu cho
vụ án đầu tiên, mọi manh mối cũng bắt đầu từ đây. Nếu không gian Trại Hoa
Đỏ nằm trong rừng núi nên dễ dàng hơn trong việc tạo ra sắc thái âm u, huyền
bí, phảng phất bóng dáng các truyện “Đường rừng” của Lan Khai, thì ở đây -
giữa thành phố sôi động, sắc thái kinh dị vẫn đậm nét nhờ tác giả khéo léo đặt
ngôi nhà của câu lạc bộ Underground vào không khí của lễ hội Halloween, dù
nó thuộc kiểu không gian "điểm".
Cả hai không gian kể trên trong hai tiểu thuyết của Di Li đã kết hợp
thành mô hình không gian "Ngôi nhà quỷ ám" - từ đây sẽ tỏa đi mọi không
gian khác, dẫn dắt liên kết các nhân vật với nhau, tạo thành các xung đột nghệ
thuật căng thẳng, giàu kịch tính, đòi hỏi phải được giải quyết bằng mọi cách.
3.2.1.2. Không gian “hầm mộ” và những biến thể của nó
83
Di Li đã rất chú trọng xây dựng không gian những căn hầm mộ kì bí,
ghê sợ để làm tăng chất trinh thám cũng như màu sắc kinh dị cho tác phẩm
của mình. Đồng thời, kiểu không gian này cũng bám sát vào nội dung để góp
phần triển khai câu chuyện, vụ án.
Trong tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ, tác giả đưa ta đến một căn hầm mộ đầy
kinh hãi: “Đây rõ ràng là một mê cung, song là một mê cung trong lòng đất,
không giống cái ma trận xanh tươi kiêu hãnh dưới ánh mặt trời trong trang
trại. Những vết bùn đất mờ dần. Một thứ mùi kì dị như cô quyện từ hư vô
càng ngày càng rõ”[1, tr361]. “Hầm mộ được xây cất bí mật để tránh sự trả
thù của những kẻ có nợ máu. Chẳng đã có những cuộc thanh trừng rùng rợn
mà kẻ thua cuộc đã bị đào hết mồ mả, xương tàn của tổ tiên họ bị quẳng ra
cho voi rừng dày xéo, cho thú dữ rỉa gặm, hoặc bị chính kẻ chiến thắng chặt
vụn cho hả giận. Những mảnh vụ bị quăng quật trăm phương tứ hướng để linh
hồn người quá cố cũng không thể tụ lại mà siêu thoát”[1, tr364]. Quả là căn
hầm mộ đủ sức khiến người đọc khiếp sợ nhưng ngược lại cũng vô cùng tò
mò, hồi hộp. Bên cạnh đó, tác giả còn xây dựng thêm một không gian - khu
hang động có vách đá nhìn giống như bức tượng cụt đầu rùng rợn kì bí. Tại
không gian đó, nhiều phụ nữ của dòng họ Quách với lời nguyền bí ẩn truyền
kiếp đã bị giết hại một cách thê thảm. Nó tạo cho người đọc cảm giác đúng
như đang vào trong một khu hầm mộ thực sự. “Nơi này sâu thẳm và tăm tối
như lối vào địa ngục. Nó còn kinh khủng gấp nhiều lần hầm mộ của dòng họ
Quách. Lối đi ngày càng hẹp dần và bị bao bọc bởi những vách núi đá hàng
triệu năm tuổi. Nhũ đá đen sì rủ xuống tạo thành những hình thù quái dị”[1,
tr461].
Trong tiểu thuyết Câu lạc bộ số 7, tác giả xây dựng và miêu tả câu
chuyện trong một khu tháp có hầm mộ, nơi nhóm giáo phái kì quái hoành
hành tội ác giết người. “Tháp thờ bị bỏ hoang, phần nữa cũng vì quá cách xa
khu dân cư. Dơi, nhện và chuột ung dung ở trong bảo tháp, ăn những món đồ
84
thảng hoặc có người làng sùng tín mang vào vái lễ”[2, tr478]. “Bách lọt vào
căn phòng nhung nhúc gần trăm bóng đen đội mũ trùm đầu tròn ủng như lũ
âm binh của thần chết… Những tiếng rì rầm và loạt xoạt lại nổi lên rồi bị dội
vang trong căn hầm u tối. Những người truyền tin bỏ mặt nạ và đồng loạt ngồi
phệt trên nền đất như cách những tín đồ Hồi giáo chờ đợi ở sân giáo
đường”[2, tr489]. Không gian những ngôi hầm mộ như vậy được đặc tả trong
hai tác phẩm, khiến câu chuyện càng trở nên ngột ngạt, kinh dị. Phải chăng,
không gian hầm mộ này cũng là tượng trưng cho những bí mật khủng khiếp,
kích thích sự tò mò, khám phá của người đọc.
3.2.1.3. Không gian “hiện trường vụ án”
Trong thể tài truyện trinh thám truyền thống, không gian “hiện trường
vụ án” là nơi xảy ra án mạng, hoặc một sự kiện kinh hoàng nào đó, thủ phạm
ít nhiều để lại những dấu vết dù ít ỏi hay mờ nhạt. Thám tử sẽ thể hiện tài
năng của mình để tìm ra thủ phạm, sau những cuộc đấu trí hoặc đấu võ thuật
với thủ phạm hoặc lũ tay chân của nó. Những tác phẩm trinh thám của nhà
văn Arthur Conan Doyle về nhân vật thám tử tìa ba Sherlock Holmes là ví dụ
điển hình cho đặc điểm đó. Tiểu thuyết "Trại Hoa Đỏ" và tiểu thuyết "Câu lạc
bộ số 7" của Di Li thực chất là tiểu thuyết trinh thám, và sự mới mẻ, hấp dẫn
của tác phẩm là do tác giả khéo léo đặt cốt truyện trinh thám ấy vào trong
những hoàn cảnh nghệ thuật đậm sắc thái kinh dị. Đó là những hoàn cảnh
nghệ thuật bao gồm không gian, thời gian, chi tiết nghệ thuật, tình huống nghệ
thuật đậm sắc thái kinh dị.
Với đặc điểm ấy, không gian “hiện trường vụ án” trong tiểu thuyết của
Di Li cũng song hành, giao thoa hai sắc thái trinh thám và kinh dị. Trong tiểu
thuyết "Trại Hoa Đỏ", hiện trường vụ án chính là không gian của trang trại
này; phía sau Trại Hoa Đỏ có một khu rừng, cạnh đó là vực thảm, hang đá sâu
thẳm, mọi tiếng gọi, tiếng thét của con người khi rơi vào hang đá đều biến âm
thật ghê rợn, và liền kề là một bức tượng đá có dáng hình khủng khiếp. Chính
85
trong không gian hoang sơ kì bí có sắc thái hắc ám đầy đe dạo này, những cái
chết của thằng điên, Di... đã diễn ra một cách bất thường và khủng khiếp.
“Phía mé bên bức tượng hình người cụt đầu cso những mỏm đá nhô ra đủ cho
hai người ngồi, và chúng tự xếp thành hình bậc thang như để dành sẵn cho
những người có ý định treo cổ tự tự… Bách hít một hơi dài rồi túm lấy đôi
chân còn đang lủng lẳng phía trên. Cái xác vẫn còn chút hơi ấm nhưng đã có
phần cứng lại”[2, tr204]. Đáng chú ý, những cái chết ấy được tô đậm thêm sắc
thái kinh dị bởi hàng loạt chi tiết nghệ thuật mang yếu tố tâm linh thật khó cắt
nghĩa rành mạch bằng khoa học. Sau mỗi lần xuất hiện một khúc sáo huyền bí
sẽ có một người chết ở nơi đây; những lần ''nhập đồng'' của nhân vật Ráy đều
có những lời nói mê sảng tiên đoán về sự xuất hiện của cái chết, sự theo đuổi,
rình rập của một bóng ma vô hình nào đó với nhân vật Vĩ; những khả năng
đặc biệt nhìn thấy điều đã xảy ra và sắp xáy ra của hai mẹ con Diên Vĩ và bé
Bảo. Chính không gian “hiện trường vụ án” thật cổ quái ghê rợn này cùng các
chi tiết nghệ thuật kì bí kể trên đã tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, nơi mà sắc
thái trinh thám và sắc thái kinh dị trộn hòa, làm tâng thêm sự khủng khiếp cho
câu chuyện. Đồng thời, nó cũng kích thích sự tò mò khám phá của độc giả.
Trong tiểu thuyết "Câu lạc bộ số 7", không gian “hiện trường vụ án”
phức tạp hơn. Đây là một chuỗi không gian kế tiếp nhau, gắn vơi cái chết của
bảy nạn nhân đều là những cô gái trẻ. Đó là chiếc taxi của hãng Hoa Sen, nơi
diễn ra cái chết của Mỹ Anh. Và sau đó, cũng chính chiếc taxi của hãng này,
cô gái tên Lê Hoàng Mai được tìm thấy ở sông Hồng, trên một đỉnh núi, vũ
nữ Cẩm Tú được cho là bị trượt chân ngã xuống, căn nhà đã từng xảy ra án
mạng trước đây nay lại là nơi diễn ra cái chết của Mai Thủy Lê, phòng trọ -
nơi diễn ra cái chết của Linh Đan. Đó là những không gian mà nạn nhân bị sát
hại một cách kì lạ, nhìn thoáng qua có vẻ như là những cái chết vô tình, ngẫu
nhiên.
86
Có thể thấy, cách miêu tả không gian một cách tỉ mỉ, sắc nét và có phần
kì bí như thế đã giúp người đọc có cảm giác mình đang chứng kiến tận mắt
hiện trường vụ án. Đây cũng là một đòi hỏi cần thiết đối với thể tài trinh thám
kinh dị.
3.2.1.4. Không gian “thiên nhiên đe dọa con người”
Bên cạnh những kiểu không gian mang tính nhân tạo, tác giả cũng chú
trọng xây dựng trong tác phẩm của mình một không gian mang tính tự nhiên.
Ở đó, thiên nhiên trở thành một nhân tố hết sức đáng chú ý trong câu chuyện
khi nó thường rất đáng sợ. Đó là kiểu không gian thiên nhiên đe dọa con
người.
Người đọc dễ dàng bắt gặp những cảnh tượng mà ở đó thiên nhiên như
một thế lực ma quái, như một lực lượng đầy sức đe dọa. Nó là những ngọn
gió gào rú lạnh người, những vực thẳm thâm u, những con đường hoang liêu,
ánh trăng xanh xao ma mị, mặt trời đỏ như màu máu.v.v.. Tất cả khiến chúng
ta cảm giác được sự hiểm nguy, sự bất trắc, nỗi bất an trước khi một biến cố
diễn ra.
Chỉ tả một con đường mà tác giả đã làm toát lên cái không khí chết
chóc nơi trang Trại Hoa Đỏ: “Con đường độc đạo nhuốm màu vàng của đất
khô, bị cô đặc rồi cuốn lên thành những cơn lốc bụi mù mịt. Chính ngọ, mặt
trời chiếu thẳng đứng xuống đám lá đang oằn lên xơ xác. Những dãy đồi trọc
câm lặng bên vệ đường giương mắt nhìn chiếc xe duy nhất đang lùi lũi vật lộn
với cơn lốc”[1, tr9]. Có gì đó rất dữ dằn đang chờ đợi con người sau con
đường này.
Dù chỉ là thân cây trong rừng, ánh trăng trên trời, nhưng nó không hề
thân thiện mà ngược lại có vẻ muốn đối nghịch với con người: “Vĩ bước tới
bước lui, xung quanh cô chỉ toàn là những thân cây xù xì gớm ghiếc… Trăng
hạ tuần vẫn hắt những tia lờ mờ mà khi xuyên qua tán lá rừng rậm rạp, chúng
87
biến thành từng vệt vằn vện quái đản”[1, tr45]. Nó đủ khiến cho con người
nhận thấy sự cô đơn bé nhỏ và sợ hãi trước xung quanh.
Có lúc, ngay cả một cơn gió cũng tạo ra rất nhiều áp lực cho con người:
“Tiếng gió thổi ào ạt luồn qua lưng chừng núi, qua những cánh rừng và hang đá
hoang sơ tạo thành những tiếng rít ghê rợn”[1, tr49]. Giữa bối cảnh như thế,
con người rõ ràng sẽ phải run sợ, lo lắng trước những điều vô hình nhưng đầy
ma quái.
Với những ám ảnh nặng nề về các cô bạn gái bị sát hại, trong Đăng
luôn hiện hữu ý niệm về cái chết và những bóng ma. Điều đó khiến ngay cả
một bờ biển đẹp đẽ thơ mộng cũng trở nên đáng sợ: “Sóng hôm nay đánh
mạnh. Y có thể cảm nhận được tiếng sóng ồ ạt đang xô dạt những vật trôi nổi
lềnh bềnh trên mặt nước. Vừa liên tưởng đến đấy y đã thấy tức thở. Nước xối
xả xuống đỉnh đầu khiến y chỉ thấy một hố đen sâu thẳm. Cái ý niệm trôi dạt
càng trở nên mạnh mẽ, làm bọt xà phòng trên người bỗng sền sệt như phù sa,
như máu đang đông đặc lại. Nước chảy, mưa rơi, sóng vỗ xoắn vào nhau
thành những âm thanh lào xào không thể tách bạch, lẫn trong đó có cả tiếng
người nói nho nhỏ, khe khẽ, văng vẳng gần xa, như xúi bẩy, như trách móc,
như rên xiết”[2,tr82-83].
Dù là những người hết sức can đảm, nhưng Bách và Tú cũng phải hoảng
hốt và kinh hãi trước cánh rừng ghê rợn: “Đôi lúc hắn có hò hét thông báo một
điều gì đó nhưng âm thanh hòa lẫn vào tiếng gió thành những tiếng u u quái lạ.
Cũng chỉ có tiếng gió hú mới trả lời hắn… Họ chỉ còn thấy lối mòn chạy lùi
vùn vụt như một đường hầm đen ngòm với ô sáng vàng lấp lánh nhỏ dần về
phía cuối đường. Gió rừng và khí núi làm những người hành khách rét cóng”[2,
tr248-249].
Có thể thấy, nhà văn đã tận dụng một cách tối đa hiệu quả từ những
trang viết về thiên nhiên. Dù chiếm một dung lượng ít, nhưng những miêu tả
88
về thứ thiên nhiên đầy sức đe dọa con người của tác giả đã giúp câu chuyện
trở nên sinh động và mang nhiều sắc thái hơn.
3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám và kinh dị của Di
Li
3.2.2.1. Thời gian của vở bi hài kịch khổng lồ của cuộc sống
Thời gian là một phương diện đặc biệt quan trọng bởi nó gắn liền với
mọi sự tồn tại, diễn biến trong đời sống. Thấu hiểu điều đó, Di Li đã sử dụng
thời gian nghệ thuật trong tác phẩm của mình để diễn tả mọi cung bậc của vở
bi hài kịch khổng lồ mang tên Cuộc sống.
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm của Di Li thường có sự đổi chiều
đột ngột, khi thời gian của sự vui tươi, trong sáng lại cận kề với thời gian diễn
ra cái chết và những điều tồi tệ, khủng khiếp. Có thể so sánh rằng trong hai
tác phẩm này, vở bi kịch liên tiếp xuất hiện sau vở hài kịch, như thể có một
bàn tay số phận chuyển cảnh liên tục để vừa sau tiếng cười rộn rã thoắt ập đến
nước mắt, cái chết và sự kinh khủng. Nó làm cho câu chuyện nhiều khi thay
đổi chóng mặt, khiến người đọc không khỏi bất ngờ, hụt hẫng.
Diên Vĩ đang có một ngày thật hạnh phúc, hào hứng khi được chồng
tặng cho món quà bất ngờ là một trang Trại Hoa Đỏ, nhưng ngay lập tức bị
rơi vào những ngày khiếp đảm, hoảng sợ khi liên tục chứng kiến những câu
chuyện ghê rợn khó hiểu trong làng, những cái chết kinh hoàng đang rình rập
và sẵn sàng ập đến bất kì lúc nào. “- Càng hay, cuộc sống càng hoang dã,
thanh thản. Em chán không khí đô thị lắm rồi. – Chừng như không muốn để
chồng thất vọng về món quà mà anh đã có nhã ý tặng cho vợ, Vĩ nâng cao
giọng cho thêm phần háo hức. Lối mòn ngày càng tối sẫm lại và Lưu bắt đầu
ngừng nói chuyện để tập trung vào việc lái xe. Đột nhiên Vĩ nhìn thấy có một
vật gì thâm thẫm, nhỏ bé, chuyển động chậm chạp phía sát lề đường, mà cũng
89
có thể là nó không chuyển động”[1, tr15]. Câu chuyện thay đổi nhanh chóng
gần như trong ngay cùng một thời điểm.
Bách đến nhà Huy - người bạn và cũng là đồng nghiệp hình sự của
mình - trong một tâm trạng rất thoải mái, hứng khởi, thậm chí khi vào nhà dù
chưa nhìn thấy bạn anh đã chủ động đùa vui. Nhưng ngay lập tức mọi chuyện
diễn ra theo chiều hướng xấu: “- Huy à, có gì mời mình ăn không? – Bách mở
toang cửa phòng Huy và ấn mạnh cánh vào cục nam châm bên dưới – Cậu
đâu rồi. Thôi đừng đùa nữa. Có gì dọn ra cho tớ chén để tớ còn đi ngủ…
Tiếng gọi của Bách tắc lại. Trong ngôi nhà hoang vắng này, anh thấy sợ chính
giọng nói của mình. Anh bước ra cửa, có thể cậu ta ở dưới nhà và đang ngồi
vắt vẻo trên salon hút thuốc lá, thậm chí còn tủm tỉm cười khi nghe tiếng
Bách gọi. Bất thần, Bách thấy đôi chân mình sũng ướt. Nước ở đâu ứa ra ngày
càng nhiều. Nó tràn ra khắp mặt sàn. Lúc mới vào phòng, Bách không hề nhìn
thấy có nước. Vũng nước này, màu của nó, mùi của nó, có điều gì đó không
bình thường. Bách gí mắt xuống sàn. Nó đang tràn ra từ buồng tắm. Bách lắng
tai nghe, quả nhiên có tiếng nước xối nhè nhẹ. Một chút ánh sáng hắt ra từ
khe cửa đóng chặt. Bách giật mạnh quả đấm. Tiếng rú của Bách vang khắp
ngôi biệt thự Pháp cổ. Đỗ Quang Huy, người bạn thân thiết nhất đời cảu anh,
đang ngâm mình trong bồn tắm. Đôi mắt to nâu giờ chỉ còn toàn tròng trắng.
Bồn nước đã biến thành màu đỏ sậm, và người nằm trong đó, trần truồng với
một vết cứa sâu trên cổ” [1,tr118]. Chỉ trong một thời gian, cùng một thời
điểm, tác giả dẫn dắt câu chuyện đi qua hai thái cực, từ chỗ nhẹ nhõm vui vẻ
đến chỗ kinh ngạc hoảng hốt đến khó tin.
Kiểu xây dựng thời gian nghệ thuật này mang một ý nghĩa biểu tượng
đặc biệt: sự bất an của tác giả, của người đọc và của cả xã hội hiện nay. Bởi vì
cuộc sống có quá nhiều may rủi, vì mạng sống của con người có thể bị cướp
đi một cách bất ngờ không thể lường trước được. Đó là dự cảm sâu xa của tác
giả, người đọc về xã hội có nhiều nghịch lí, rủi ro, không thể biết trước.
90
3.2.2.2. Thời gian đảo lộn chồng chéo gấp khúc
Đây là thủ pháp nghệ thuật phá vỡ dòng thời gian tuyến tính quen thuộc
đến nhàm chán trong trinh thám truyền thống. Tác giả đã đảo lộn quá khứ -
hiện tại cả tương lai trong giấc mơ dự báo. Nó phù hợp với cuộc sống hiện đại
hôm nay bởi trong số phận mỗi chúng ta đâu phải việc gì cũng diễn ra tuần tự
trước sau xảy ra như dự đoán của chúng ta. Đặc biệt cách xử lí thời gian nghệ
thuật này tạo ra sự hấp dẫn cho truyện và làm tăng sự thích thú, tò mò cho
người đọc.
Trong hai tác phẩm của mình, tác giả đã đảo lộn, chồng chéo, gấp khúc
thời gian, khiến câu chuyện không diễn ra liền mạch đầy đủ, mà trở nên rất
phức tạp và kịch tính, khó đoán, đáng chờ đợi, cần khám phá. Đang diễn biến
vụ án, tác giả chuyển về câu chuyện quá khứ. Đang điều tra phá án, tác giả
chuyển sang câu chuyện giấc mơ, câu chuyện dòng họ và lời nguyền truyền
kiếp. Có khi câu chuyện đang diễn ra đầy kịch tính, tác giả lại chuyển về thời
kí ức qua những trang ghi chép nhật kí. Trong khi đó, thời gian gắn với những
hoạt động phá án của thám tử như một con người đang đi trong mê cung vượt
qua trăm ngàn thử thách để đến đích cũng khiến câu chuyện trở nên kéo dài,
có độ co giãn, tạo cảm giác căng thẳng và sốt ruột cho người đọc.v.v..
Khi Bách đến nhà bạn thân là Huy, sự kiện đang diễn ra ở thời gian
hiện tại: “Anh mở toang cửa. Phòng khách nhà Huy tối om… Xong xuôi,
Bách đóng cửa, chốt lại cẩn thận rồi lần mò trong bóng tối. Anh không muốn
bật đèn. Nếu Huy còn đang ngủ thì anh không nỡ đánh thức bạn dậy”
[1,tr114]. Nhưng ngay lập tức, câu chuyện được đảo chiều về quá khứ: “Cả
lớp đại học ngày xưa đều biết tật ngủ của Huy. Nếu cậu ta đã nhắm tịt mắt
vào rồi thì có bắn đại bác cũng không dậy. Có lần thằng Kha lớp trưởng còn
đầu trò khiêng nguyên chiếc võng của Huy sang phòng kí túc xá nữ. Anh
chàng Huy tội nghiệp sau giấc nồng buổi trưa mắt nhắm mắt mở với quần xà
lỏn ngơ ngác nhìn đám con gái rúc rích xung quanh” [1,tr115].
91
Mở đầu Trại Hoa Đỏ, người đọc được chứng kiến hình ảnh nông trại
này ngay trong thì hiện tại. Sau đó, qua hành loạt vụ án mạng, câu chuyện
dẫn dắt người đọc đến dần với quá khứ của những con người bí ẩn dòng họ
Quách. Sau đó, thời gian được trở lại hiện tại với sự thật bất ngờ về hung thủ
- đó là Trần Hoàng Lưu, người đã tặng trang trại này cho người vợ Diên Vĩ.
Sau khi hung thủ bất ngờ bị lộ mặt, câu chuyện lại đưa ta trở về quá khứ khi
bách giải thích cho Diên Vĩ toàn bộ truyền thuyết về lời nguyền kinh hoàng
của dòng họ Quách xưa nay. Thời gian của tác phẩm được đan cài, đảo chiều
liên tục, buộc người đọc phải theo sát từng trang viết.
Trong Câu lạc bộ số 7, các mảnh ghép thời gian được xoay chiều liên
tục. Vụ án mạng diễn ra, Bách đến thẩm vấn Đăng, anh này hồi tưởng lại
những gì trong quá khứ. Lại một vụ án xảy ra, bách phải tìm gặp nhân
chứng, đọc các tài liệu chứng cứ mà các nạn nhân để lại, kể về quá khứ, tuổi
thơ xa xăm. Án chồng án, chính người yêu của Bách cũng bị giết. Khi đối
đầu với kẻ ác, anh lại được nghe kể về Mỹ Lâm, thời gian lại được đưa về
quá khứ. Rất nhanh sau đó, câu chuyện trở về thực tại, Bách giáp mặt chiến
đấu với bọn hung thủ. Cùng lúc đó, anh lại đau đớn, trào dâng xúc động, nhớ
lại hình bóng, kỉ niệm về người con gái yêu thương của mình. Câu chuyện
liên tục được đan trộn, gấp khúc đảo chiều về thời gian, khiến cho diễn biến
càng trở nên phức tạp và li kì hơn.
Cứ như vậy, không có một sự tuyến tính nào, cho nên bạn đọc không
thể dõi theo câu chuyện một cách lần lượt, đơn giản, dễ dãi, mà phải phân
chia tách ghép dữ liệu một cách hệ thống thì mới có thể khám phá sự thật.
Có thể coi, việc đảo lộn chồng chéo và gấp khúc thời gian đã giúp tác giả
tạo dựng được một thế giới đa chiều, đa tuyến, đa lớp, khiến cho những câu
chuyện trinh thám kinh dị vốn đã bí ẩn lại càng vẫy gọi, thử thách hơn với người
đọc.
3.2.2.3. Thời gian “đứng im” với những khoảng khắc đáng sợ rùng rợn
92
Trong hai tác phẩm của Di Li, ta gặp những khoảnh khắc gần như
không có sự vận động thời gian. Ở đó, thời gian như ngừng trôi, tạo cảm giác
nghẹt thở khi thủ phạm sắp ra tay, cái chết sắp ập đến với nạn nhân.
Khoảnh khắc Trần Mỹ Anh đối diện với cái chết thật nặng nề và căng
thẳng: “Lúc này, Mỹ Anh mới để ý đến khuôn mặt người lái. Cô không bao
giờ để ý đến nhân dạng những người lái taxi cũng như bắt chuyện với họ. Tuy
nhiên, người này không có khuôn mặt rõ ràng vì anh ta đeo cặp kính đen lấp
nửa phần mặt, nửa phần mặt dưới khuất sau cổ áo blouse to sù sụ. Đeo kính
đen lúc lái xe nửa đêm thế này ư? Chiếc xe vẫn chạy với tốc độ bất bình
thường. Khắp người cô ớn lạnh… Chiếc xe đột ngột phanh kít lại. Cả người
cô chúi về phái trước. Người tài xế kì dị ngồi bất động trên ghế lại. Chiếc xe
đậu trên con đường không một sự sống. Bên phải cô là dòng sông đục ngầu
đang cuộn chảy, bên trái là cánh đồng nhấp nhô những bia mộ đen sì”[2, tr20-
21]. Người đọc phải ngột thở dõi theo từng cử chỉ, từng động tác, trong những
giây phút như đông đặc lại. Và sau thời khắc dài đằng đẵng ấy, điều kinh
hoàng đã đến khi cô gái bị sát hại. Cũng tương tự như thế, thời gian “đứng
im” cũng được đặc tả trước thời điểm xảy ra những án mạng mà các nạn nhân
như được cảnh báo ngay trước đó.
Những giây phút mà Mỹ Lâm chuẩn bị phải vĩnh viễn rời xa cuộc sống
này như đông cứng lại không suy chuyển: “Trong tiếng lộp bộp ầm ĩ trên nóc
tôn, có những rào rạo của chuyển động. Cô bắt đầu bị mất định hướng trong
cơn hoảng loạn. Mọi giác quan đều trở nên lẫn lộn và trơ ì. Chúng ở đâu, bên
phải hay bên trái, hay chỉ cách cô và con Mun có vài bước chân? Có tiếng cười
khan và những âm thanh rì rầm trong bóng tối. Tiếng cười đã kéo lê đến gần,
rất gần và ánh đèn pin được bật sáng. Đôi khi ánh sáng lại không phải là điều
tuyệt mỹ, vào thời điểm này nó trở thành công cụ của tử thần… Đúng lúc đó
điện thoại của cô lóe lên, soi tỏ đôi mắt lóng lánh của thỏ Mun. Vẫn là số máy
ấy. Và người gọi, đã hiện ra trong bóng tối. Nhạc chuông và màn hình đã tố
93
cáo nhanh nhất vị trí của cô. Cô ngước lên, mắt nhòa đi trong những hư ảnh
cuối cùng”[2, tr446-447].
Thời điểm mà tên bác sĩ đồ tể Chopin cắt xẻ các bộ phận cơ thể người,
thời gian dồn tụ lại trong sự kinh hoàng, nỗi đau đớn trước sự tra tấn xác thịt:
“Hai áo choàng đen bước tới lột mớ quần áo khỏi người Sun Ra trong tiếng
gào thét van nài thảm thiết của hắn. Thân hình trần trụi quỳ mọp trước chậu
lửa. Nước mắt hắn giàn giụa như một con vật cùng đường. Đầu tiên là
Chopin, tên bác sĩ đồ tể bước lên phía trước. Tim Bách đập dồn như trống.
Anh sắp được chứng kiến điều gì đây? Chopin nhận hộp kim loại từ tay gã
thần ngục. Hắn mở nó ra và nguyên bên trong là bộ đồ sáng loáng với panh,
kéo và các loại dao mổ. Chopin giơ cao một con dao nhỏ xíu có độ mảnh và
sắc chuyên dụng dành hco các bác sĩ phẫu thuật. Trong lúc kẻ tội đồ còn đang
mở to mắt kinh hoàng như con gà bị thôi miên trước đôi mắt tàn sát của rắn
mang bành thì con dao mổ đã chọc thẳng vào con ngươi hắn. Một tiếng rú tắc
nghẹn…”[2, tr497].
Đây là cách xử lí thời gian tự sự bằng thủ pháp “hãm chậm” để tạo ra
thời gian tâm lí. Nó là một kiểu thời gian nghệ thuật thường gặp trong các vở
bi kịch cổ đại và các phim hiện đại hôm nay cũng như văn xuôi hiện đại của
thế giới và Việt Nam. Thông thường đó là những giây phút sắp nổ ra một vụ
án khủng khiếp khiến người đọc nghẹt thở, chờ đợi một khoảnh khắc kinh
hoàng sắp bùng nổ trong những tình huống bi thảm, chết người.
Xây dựng kiểu thời gian này, tác giả đã góp phần đẩy không khí câu
chuyện lên mức kịch tính tột độ, khiến cho hiệu quả thẩm mĩ trong việc kể
chuyện được nâng lên đáng kể. Tính chất hồi hộp cho người đọc cũng là một
đặc trưng rất riêng của thể tài trinh thám kinh dị, và Di Li đã làm rất tốt để tạo
ra hiệu ứng đó trong tác phẩm của mình.
94
Tiểu kết chương 3
Bằng một hệ thống kiểu loại không gian nghệ thuật ấn tượng (Không
gian “ngôi nhà quỷ ám”; Không gian “hầm mộ”; Không gian “hiện trường vụ
án”; Không gian “thiên nhiên đe dọa con người”) và kiểu loại thời gian nghệ
thuật phức tạp (Thời gian của vở bi hài kịch khổng lồ của cuộc sống; Thời
gian đảo lộn chồng chéo gấp khúc; Thời gian “đứng im” với những khoảng
khắc đáng sợ rùng rợn), tác giả đã tạo dựng cho tác phẩm của mình một thế
giới nghệ thuật vừa chân thực vừa biến ảo, nhất quán và phù hợp với nội dung
của thể tài.
Có thể thấy, cả không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đều được
tác giả công phu tính toán để xây dựng, khắc họa, bám sát vào câu chuyện,
làm chất xúc tác cho câu chuyện hấp dẫn hơn, sinh động hơn, giúp bạn đọc có
cảm giác thật sự nhập thân vào câu chuyện hơn nữa. Đây là những yếu tố hết
sức quan trọng và có hiệu quả rõ rệt để nhà văn triển khai nội dung tác phẩm,
gửi gắm những thông điệp của mình một cách đầy ấn tượng.
95
KẾT LUẬN
1. Trong bộ phận văn xuôi trẻ Việt Nam đương đại, với rất nhiều cây
bút tài năng, nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, Di Li vẫn tạo cho mình
một chỗ đứng riêng thật sáng giá. Nhà văn nữ trẻ này đã "khuấy động" văn
đàn không chỉ bằng việc công bố đến 23 tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau
trong một khoảng thời gian không dài, mà còn bằng tài năng, tâm huyết và cá
tính sáng tạo độc đáo của mình. Chị đã sáng tạo ra một thể loại văn học mới:
Tiểu thuyết Trinh thám - Kinh dị. Sự kết hợp khéo léo yếu tố trinh thám và
yếu tố kinh dị trong tiểu thuyết của chị đã tạo ra sự giao thoa thể loại độc đáo,
tạo sự hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc, và sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê
bình văn học. Bởi vậy, việc nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của
Di Li có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
2. Trong luận văn của mình, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số vấn
đề lớn sau đây: Ở chương 1, sau khi giới thiệu sáng tác của Di Li trong văn
xuôi trẻ Việt Nam đương đại, chứng tôi giới thiệu về truyện trinh thám, truyện
kinh dị và truyện trinh thám - kinh dị trong văn học Việt Nam hiện đại. Đây là
cơ sở lí thuyết của đề tài, định hướng cho chúng tôi tiếp tục triển khai các nội
dung nghiên cứu ở 2 chương sau.
Trong chương 2, cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật trong tiểu
thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li là những vấn đề lớn được tập trung
nghiên cứu, đánh giá. Đây là những phương diện quan trọng, ghi đậm cá tính
sáng tạo độc đáo của nhà văn trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết trinh thám
- kinh dị do Di Li sáng tác. Ở phương diện cốt truyện, chúng tôi thấy Di Li đã
xây dựng hai kiểu cốt truyện với nhiều sáng tạo nghệ thuật: đó là kiểu cốt
truyện "vụ án" truyền thống, với "Trại Hoa Đỏ" là cốt truyện "Truy tìm kho
báu", với "Câu lạc bộ số 7" là cốt truyện "Giáo phái, buôn ma túy và giết
người". Nhưng ngay với kiểu cốt truyền thống này, nhà văn đã sử dụng hàng
loạt các thủ pháp nghệ thuật như "hãm chậm", "tạo sự tò mò", "tạo điểm nhấn,
96
gợi hướng truy tìm" v.v.. Rất nhiều các tình huống truyện giàu kịch tính được
xây dựng, triển khai để tăng sự gay cấn, thu hút sự say mê, thích khám phá
của người đọc. Kiểu cốt truyện thứ hai là một sáng tạo mới mẻ của nhà văn:
Cốt truyện cấu trúc "sóng đôi" có sự giao thoa, kết hợp yếu tố li kỳ của truyện
trinh thám và yếu tố hoang đường kì ảo của truyện kinh dị. Với phương diện
tình huống truyện trong sáng tác của Di Li nhà văn đã sáng tạo và xây dựng
hàng loạt tình huống chứa điểm nhấn "Mai phục" để dự báo, gợi dẫn về sự
thật của vụ án, đó là những tình huống vừa hiện thực, vừa ma quái, hợp lí và
phi lí, thực và ảo để lôi cuốn bạn đọc. Đó còn là những tình huống li kì, kịch
tính và đậm sắc thái kinh dị trong hai tiểu thuyết, tạo ra ấn tượng khủng
khiếp, ghê sợ. Nhân vật là phương diện quan trọng nhất của mọi tác phẩm văn
học. Ở hai tiểu thuyết này, chúng tôi thấy nhà văn đã xây dựng thành công ba
kiểu loại nhân vật: - kiểu nhân vật thám tử - con người vừa tài giỏi, cao siêu
vừa gần gũi đời thường; kiểu nhân vật nạn nhân - con người vừa bình dị đời
thường vừa có nét ma quái hoặc có năng lực khác thường; kiểu nhân vật thủ
phạm - những con người "đeo mặt nạ" (hoặc đẹp đẽ bề ngoài nhưng có tâm
địa quỷ dữ, hoặc ngoại hình quỷ trùng khớp với tâm đại quỷ). Đây là ba kiểu
nhân vật đặc trưng của truyện trinh thám nhưng trong tiểu thuyết của Di Li,
nó được xây dựng thật biến hóa, lôi cuốn bởi thấm đẫm sắc thái kinh dị, bởi
nhà văn đã miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ, qua các
hành động và diễn biến nội tâm phù hợp với tính cách, nhân cách của từng
kiểu nhân vật.
Trong chương 3, chúng tôi tập trung nghiên cứu không gian và thời
gian nghệ thuật trong tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của nhà văn. Với
phương diện không gian nghệ thuật, chúng tôi khảo sát tác phẩm và phát hiện
có bốn mô hình không gian, vừa là phương tiện nghệ thuật để làm sáng tỏ chủ
đề, làm bối cảnh tự nhiên và xã hội để nhân vật xuất hiện, xung đột và hành
động, để cốt truyện vận động và phát triển,vừa là các hình tượng nghệ thuật
tồn tại tương đối độc lập, tham gia trực tiếp vào câu truyện: - đó là không gian
97
"ngôi nhà quỷ ám"; "hầm mộ"; "hiện trường vụ án"; "thiên nhiên đe dọa con
người". Đó còn là các kiểu loại thời gian nghệ thuật như thời gian của "tấn bi
hài kịch khổng lồ của cuộc sống"; thời gian đảo lộn, chồng chéo, gấp khúc;
thời gian "đứng im" với những khoảnh khắc đáng sợ, rùng rợn. Tất cả đã tạo
ra những hoàn cảnh nghệ thuật đặc biệt,vừa góp phần "đánh thức trí tuệ" vừa
"đập mạnh" vào trái tim người đọc.
3. Với sự kết hợp yếu tố trinh thám và yếu tố kinh dị, Di Li đã tạo ra
một thể tài văn học mới - đó là sự sáng tạo có tính khai mở một dòng chảy
riêng trong "biển cả" sáng tạo văn học đa dạng đến phức tạp hôm nay. Những
thành công ban đầu trong hai tiểu thuyết của nhà văn vừa khẳng định cá tính
sáng tạo độc đáo, đóng góp của nhà văn vào thành tựu của văn xuôi trẻ Việt
Nam đương đại, vừa giúp chúng ta nhận diện sâu sắc hơn, đánh giá chính sác
về các khuynh hướng sáng tác và xu thế vận động của văn xuôi Việt Nam
hôm nay. Thành công của những cây bút trẻ như Di Li là tín hiệu đáng mừng
cho sự khởi sắc của văn học Việt Nam hiện đại, cùng những hứa hẹn ở tương
lai của những tài năng trẻ như Di Li.
4. Nếu được tiếp tục nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, chúng tôi cho rằng
sẽ có thể phát triển đề tài ở những hướng sau đây: Sáng tác của Di Li trong
văn xuôi Việt Nam đương đại; Tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li
trong "dòng chảy" tác phẩm trinh thám và kinh dị của văn học Việt Nam hiện
đại; Cấu trúc thể loại trong tiểu thuyết trinh thám - kinh dị của Di Li; Sáng tác
của Di Li từ góc nhìn văn hóa.v.v..
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiểu thuyết trinh thám Trại Hoa Đỏ của Di Li- NXB Lao động 1.
Tiểu thuyết trinh thám Câu lạc bộ số 7 của Di Li- NXB Lao động 2.
Truyện trinh thám Phạm Cao Củng - NXB Công an Nhân dân 3.
4. Richard Appoghanesi – Chris Gatta (2006), Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Bùi Nam Sơn hiệu đính), NXB Trẻ, TpHCM.
Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),
5. Bộ VHTTTT – Trường Viết văn Nguyễn Du.
Roland Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri
6. thức.
7. Lê Huy Bắc (2008), Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí văn học, số 7/2008.
Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, NXB
8. Đại học Sư phạm.
9. Lê Huy Bắc (2003), Văn học Mỹ, NXB Đại học Sư phạm.
10. Nguyễn Duy Bình (2003), Những vấn đề văn học và ngôn ngữ, NXB Khoa học xã hội.
11. Wayne Booth (2008), Khoảng cách và điểm nhìn (Đào Duy Hiệp dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4/2008.
J. L. Borges, Về truyện trinh thám, (Ngô Tự Lập dịch),
12. http://www.evan.com.vn
13. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội.
14. Đặng Anh Đào (2008), Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7/2008.
15. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Đại học Quốc gia.
16. Trần Thiện Đạo (2008), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Nxb Tri thức.
99
17. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
18. Alain Gheerbrant, Jain Chevalier (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (Lưu Huy Khánh, Nguyễn Xuân Giao, Phạm Vĩnh Cư dịch), NXB Đà Nẵng.
19. Lê Bá Hán – Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử đồng chủ biên (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQGHN.
20. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, NXB Giáo dục.
21. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục.
22. Kate Humberger (2008), Hư cấu tự sự (hoặc truyện kể ngôi thứ ba) (Phùng Kiên dịch), TCVHNN, số 6/2008.
23. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học – Nhập môn lý thuyết trần thuật (Nguyễn Thị Như Trang dịch, Phạm Gia Lâm hiệu đính).
trinh và dị
24. Nguyễn Vi Khanh, Cái chết trong văn chương: từ siêu hình, lãng mạn đến kinh thám, http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoctacpham.asp?
25. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), NXB Đà Nẵng.
I.U. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB Đại học Quốc
26. gia.
27. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, NXB Văn học.
28. Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch), NXB Tri thức.
29. E.M.Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Vũ Đức Phúc (1981), Truyện trinh thám, Tạp chí văn học, số 1/1981.
31. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.
100
32. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại – Postmodernism, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
33. T. Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), NXB Đại học Sư phạm.
34. Hoàng Trinh (1971), Phương Tây, văn học và con người, NXB Khoa học xã hội.
Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật,
35. Nxb Tri thức.
36. Nhiều tác giả (2002), Kinh thánh trọn bộ Tân ước và Cựu ước, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
37. Nhiều tác giả (2007), Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, NXB Giáo dục.
38. Nhiều tác giả (2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
39. Nhiều tác giả (2008), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử I, II, NXB Đại học Sư phạm.
40. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết, NXB Hội Nhà văn.
41. Nguyễn Văn Tùng, Lí luận văn học và đổi mới đọc - hiểu tác phẩm, NXBGD Việt Nam.
42. Trần Thanh Hà, Văn học trinh thám, Báo Tthể thao- Văn hóa, 2009.
43. T. Todorov (2004), " Loại hình tiểu thuyết trinh thám", Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sư phạm, 7-22.
44. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Phương Lựu... Từ điển thuật ngữ văn học, NXBĐHQG, H, 1997.
45. Trần Đình Sử, Tuyển tập, NXBGD, Hà Nội, 2005
46. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Ngọc Trà, Thành Thế Thái Bình- Lý luận văn học, NXBGD, Hà Nội, 1999.