VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ LINH
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN
NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HOÁ
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI, năm 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ........................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về gia đình và người chưa thành niên ................................................ 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của gia đình .................................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên .......................................................... 9
1.1.3. Mối liên hệ giữa gia đình và sự phát triển của người chưa thành niên ................................ 12
1.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên trên thế giới ....................................... 13
1.2.1. Các mô hình cơ bản của Tòa Gia đình và người chưa thành niên trên thế giới ....... 13
1.2.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên ở một số quốc gia trên thế giới .... 15
1.2.2.1. Mô hình Tòa Gia đình Liên Bang của Úc ................................................................... 15
1.2.2.2. Mô hình Tòa Gia đình ở Nhật Bản .............................................................................. 16
1.2.2.3. Mô hình Tòa án vị thành niên và gia đình ở Thái Lan ................................................ 18
1.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Việt Nam ...................................................................................................................................................... 21
1.3.1. Vị trí của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống Tòa án ................ 21
Điều kiện để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên .............................................. 21
1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên .......................................................................................................................................... 23
1.3.3. Các quy định về hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ................... 26
1.3.3.1. Giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi ................................. 26
1.3.3.2. Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên ....................................................................................................... 30
1.3.3.3. Giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự .................................................................................................................................................. 33
Kết luận chương 1 .......................................................................................................................... 34
Chương 2 ......................................................................................................................................... 36
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TAND NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA ................................................................................................................................................ 36
2.1. Thực trạng tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tỉnh Thanh Hóa ........ 36
2.1.1. Khái quát về tình hình chính trị - xã hội và sự cần thiết thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 36
2.1.2. Tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa ................ 37
2.1.2.1. Về nhân sự ................................................................................................................... 38
Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa qua các năm ............. 39
2.1.2.2. Về cơ sở vật chất ......................................................................................................... 40
2.2. Thực trạng hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa........................................................................................................................................... 42
2.2.1. Công tác xét xử các vụ án hình sự ............................................................................... 42
Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 ................ 43
Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 ............ 44
2.2.2. Việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên ........................................................................................ 47
2.2.3. Công tác thụ lý, giải quyết vụ, việc hôn nhân và gia đình ........................................... 48
Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 .................................................................................................................................................. 49
Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc thẩm từ năm 2018 đến năm 2020. ......................................................................................................................................... 49
2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa ......................................................................................................... 52
2.3.1. Những kết quả đạt được................................................................................................ 52
2.3.2. Hạn chế, vướng mắc ..................................................................................................... 54
2.3.3. Nguyên nhân ................................................................................................................. 55
Kết luận chương 2 .......................................................................................................................... 56
Chương 3 ......................................................................................................................................... 58
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN............................. 58
3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên ................................................................................................................................... 58
3.1.1. Phương hướng hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2021 - 2026 .............................................................................................................................. 58
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên .......................................................................................................................................... 60
3.1.3. Mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên .................................................................................................................................................. 61
3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên ............................................................................................................... 62
3.2.1. Hoàn thiện thể chế về Tòa gia đình và người chưa thành niên ................................. 62
3.2.2. Nâng cao năng lực giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên ........................................................................................................... 65
3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ........................................................................................................... 69
3.2.4. Nâng cao nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ ................................................. 70
3.2.5. Tăng cường tính đồng bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng và sự phối hợp trong giải quyết các vụ án ................................................................................................................. 72
Kết luận chương 3 .......................................................................................................................... 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 77
DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
TAND: Tòa án nhân dân
Tòa GĐ & NCTN: Tòa gia đình và người chưa thành niên
TTDS: Tố tụng dân sự
TTHS: Tố tụng hình sự
CBCC: Cán bộ công chức
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa gia đình và người chưa thành niên tại TAND
tỉnh Thanh Hóa qua các năm ........................................................................... 39
Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến
năm 2020 ......................................................................................................... 43
Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến
năm 2020 ......................................................................................................... 44
Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm từ
năm 2018 đến năm 2020 ................................................................................. 49
Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc
thẩm từ năm 2018 đến năm 2020…………………………………………....49
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, trẻ em là tương lai của đất nước. Bởi vậy
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước Việt
Nam quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp
quốc về quyền trẻ em năm 1990. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ
thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ trẻ em nói chung
và người chưa thành niên trong các vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, thực
tiễn giải quyết các vụ án trong thời gian qua cho thấy, tỷ lệ tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện vẫn có chiều hướng gia tăng; cơ cấu, tổ chức, tính
chất tội phạm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng; có không ít trường hợp đã
bị Toà án xét xử, áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhưng hiệu quả của việc
áp dụng hình phạt chưa cao, tỷ lệ người chưa thành niên tái phạm còn nhiều.
Bên cạnh đó, gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà con người tiếp xúc, là
yếu tố chủ đạo cho sự hình thành và phát triển nhân cách, có tác động thường
xuyên tích cực hoặc tiêu cực đến tâm lý của mỗi thành viên, trong đó có người
chưa thành niên. Như vậy, môi trường gia đình lành mạnh sẽ tạo ra cho người
chưa thành niên những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển nhân
cách. Ngược lại, sống trong môi trường gia đình có nhiều khiếm khuyết sẽ để
lại những dấu ấn tiêu cực ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách
của người chưa thành niên. Giải quyết tốt các vấn đề thuộc quan hệ gia đình sẽ
góp phần hạn chế, ngăn ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật; đồng
thời, sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của các thành viên trong gia đình là
yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, xử lý người chưa
thành niên vi phạm pháp luật [34].
Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên (GĐ & NCTN) là
bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng
1
và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói
riêng; góp phần thực hiện những mục tiêu đề ra trong các văn kiện, nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-
2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có
yêu cầu về đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao.
Bên cạnh đó, do đặc thù về tâm sinh lý của trẻ em, người chưa thành niên
đòi hỏi phải có những biện pháp xử lý và những thủ tục tố tụng riêng biệt. Mặc
dù Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) nước ta có một chương riêng quy định thủ
tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng nhìn chung
thủ tục đó thiếu toàn diện hoặc còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu
quả như mong muốn. Trên thực tế, từ tình hình người chưa thành niên vi phạm
pháp luật nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng vẫn chiếm tỷ
lệ cao, tái phạm và nghiêm trọng. Hơn nữa, Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam xuất
phát từ tình hình thực tế số các vụ việc về hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải
giải quyết ngày càng tăng và từ những đặc thù của các quan hệ hôn nhân và gia
đình. Theo quy định tại Điều 30, 38, 45 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
(TAND) thì trong cơ cấu tổ chức của TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND
cấp huyện có Tòa GĐ & NCTN. Việc tổ chức Tòa GĐ & NCTN ở TAND cấp
tỉnh, TAND cấp huyện căn cứ vào yêu cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi
Tòa án; căn cứ vào biên chế đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của
từng Tòa án và do Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định. Để việc tổ
chức các Toà chuyên trách nói chung, Tòa GĐ & NCTN nói riêng được thực
hiện thống nhất trong cả nước, ngày 21/1/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban
hành Thông tư số 01 quy định việc tổ chức các Toà chuyên trách tại TAND
2
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương; trong đó, quy định cụ thể về thẩm quyền và quy
trình tổ chức Tòa GĐ & NCTN. Chánh án TAND tối cao cũng có ý kiến chỉ
đạo Tòa án các cấp về công tác nhân sự, yêu cầu về cơ sở vật chất, chuyên môn,
về sự phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phúc lợi xã hội, cơ
quan y tế, giáo dục ở trung ương và địa phương trong việc giải quyết các vụ
việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.
Là địa phương còn khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng thời
gian qua, TAND tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều cải cách trong hoạt động tư pháp,
đặc biệt là tư pháp người chưa thành niên. Trên cơ sở chỉ đạo sát sao của cấp
ủy, sự ủng hộ, tạo điều kiện của chính quyền, nhân dân và sự tham gia hỗ trợ,
hợp tác tích cực và hiệu quả của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, hệ thống cơ
quan tư pháp tại Thanh Hóa đang từng bước được tổ chức, hoạt động hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Để phù hợp với yêu cầu phát triển chung,
thực hiện Luật Tổ chức TAND và các đạo luật về tố tụng tư pháp, ngày
28/8/2017, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số 1425/QĐ-
TCCB thành lập Tòa GĐ & NCTN tại tỉnh Thanh Hóa. Việc thành lập Tòa GĐ
& NCTN không chỉ là sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của TAND mà là thiết chế
tạo điều kiện để chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và
người chưa thành niên nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và rút ngắn thời
hạn giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại TAND. Với
những lý do vừa nêu, tác giả quyết định chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động
của Toà gia đình và người chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá” cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án về gia đình và
người chưa thành niên cũng như các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động
của TAND nói chung, Tòa chuyên trách và Tòa GĐ & NCTN nói riêng được
tác giả tìm hiểu, tổng hợp cụ thể:
Tác giả Hoàng Văn Quang (2018), Đảm bảo quyền của người chưa thành
niên trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình - qua thực tiễn
tại TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội [15].
Tác giả Trần Đức Anh (2016), Tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [1].
Tác giả Phan Đức Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND trong tiến trình cái cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền
tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy nhà
nước, các quan điểm về đổi mới, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới
tổ chức và hoạt động của TAND. Từ đó làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động của
TAND ở nước ta và nêu nguyên nhân, hạn chế trong tiến trình cải cách tư pháp.
Đề xuất những phương hướng cơ bản và kiến nghị về xác định lại thẩm quyền
xét xử và thiết kế mới mô hình tổ chức của các tòa án; nâng cao tính độc lập,
nghiêm minh của hoạt động xét xử; nâng cao năng lực, phẩm chất và địa vị pháp
lý của Thẩm pháp, Hội thẩm nhân dân, nhằm đổi mới và hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của TAND, xây dựng hệ thống Tòa án trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử nói chung [14].
Tác giả Lữ Thị Hằng (2019), Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành
niên ở Việt Nam và Hàn Quốc - nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí Nghiên
4
cứu Lập pháp. Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam được quy định lần đầu tiên tại
Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, được tổ chức theo mô hình Tòa chuyên trách,
là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức tại TAND cấp huyện và tương đương,
TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND cấp cao. Hiện tại,
mô hình Tòa GĐ & NCTN tại TAND cấp tỉnh, cấp huyện mới được tổ chức thí
điểm, do đó, để mô hình Tòa chuyên trách này được hoạt động hiệu quả, việc
học tập kinh nghiệm nước ngoài là cần thiết [8].
Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của
Toà gia đình và người chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm
2014 từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá”, tác giả có thuận lợi được tham khảo khá
nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ
yếu tập trung nghiên cứu về người chưa thành niên, gia đình trong hoạt động
TTHS, vấn đề về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói chung và Tòa
GĐ & NCTN nói riêng chưa nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả. Do đó,
việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN là rất cần thiết,
góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề này tại một địa phương cụ
thể là tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nêu khái quát vấn đề lý luận, đánh giá thực tiễn tổ chức và hoạt
động của Tòa GĐ & NCTN, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức
và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên
cứu là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động
của Tòa GĐ & NCTN;
5
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN tại tỉnh Thanh Hóa;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Tòa GĐ & NCTN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về
vị trí pháp lý, chức năng, nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ
chức, thẩm quyền của TAND ở nước ta và các vấn đề có liên quan đến gia đình
và người chưa thành niên được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức TAND năm 2014 để làm cơ sở lý luận cho việc thành lập Tòa GĐ &
NCTN. Đồng thời tác giả còn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
có liên quan đến công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa
thành niên, mà cụ thể là các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật
TTHS năm 2015 liên quan vấn đề gia đình và người chưa thành niên phạm tội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền,
cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp và
thủ tục tư pháp nói riêng.
Ngoài ra, luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng những kiến thức
đã học; sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở kết hợp
với phương pháp phân tích, tổng hợp những tài liệu có liên quan đến tình hình
6
giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên và các vụ việc
về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp phân
tích luật viết, so sánh đối chiếu những quy định của pháp luật với thực tiễn áp
dụng những quy định đó. Thông qua đó làm sáng tỏ những bất cập có liên quan
đến tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về
cải cách tư pháp mà trọng tâm là sắp xếp hiệu quả tổ chức TAND nói chung và
tòa chuyên trách nói riêng, hình thành hệ thống các vấn đề lý luận về hoạt động
của tòa chuyên trách, Tòa GĐ & NCTN.
Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế trong
thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó, đưa
ra những giải pháp có tính khả thi giúp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả
triển khai các nhiệm vụ của Tòa GĐ & NCTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Toà gia đình
và người chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà gia đình và người
chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 từ thực tiễn tỉnh
Thanh Hoá;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao
hiệu quả hoạt động của Toà gia đình và người chưa thành niên.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái quát chung về gia đình và người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của gia đình
Gia đình gắn liền với đời sống của mỗi con người. Trong đời sống xã hội
từ xưa đến nay, gia đình luôn giữ vị trí quan trọng. Hồ Chủ tịch đã nói: “Rất
quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”. Chính vì vậy, xây
dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” đang là vấn đề thu hút
sự quan tâm của nhiều người, trong đó có tất cả chúng ta [34].
Gia đình Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với một loạt thử thách
lớn khi chuyển từ mô hình gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Để tồn
tại và phát triển, mỗi gia đình phải tìm cách thích ứng với những điều kiện mới,
từng thành viên trong gia đình phải tự điều chỉnh các mối quan hệ trong gia
đình. Thực tế cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cùng với những
trào lưu tiến bộ về khoa học công nghệ có phần không tương xứng với sự phát
triển văn hóa, xã hội đã làm đổ vỡ, mờ nhạt một số hệ thống giá trị tinh thần,
đạo đức ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam; không ít những gia
đình Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, bế tắc, thậm chí tan vỡ đã kéo theo
sự suy thoái về các định hướng giá trị, ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển
của thế hệ trẻ, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình còn gặp không ít
những khó khăn, khúc mắc và những vấn đề nan giải [8].
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình của các nhà khoa học
nghiên cứu ở từng góc độ khác nhau, ở đây chúng ta có thể hiểu khái niệm gia
đình như sau: “Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn
nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và
8
ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được
nhà nước thừa nhận và bảo vệ”.
Từ khái niệm này, chúng ta tìm hiểu đặc trưng cơ bản của gia đình để
xem xét các mối quan hệ của gia đình ở góc độ là một nhóm xã hội, nhóm tâm
lý - tình cảm đặc thù, với các mối quan hệ bên trong, với sự tác động qua lại
trong nội bộ của các thành viên để thỏa mãn những nhu cầu của mỗi người, đặc
biệt là mối quan hệ giữa vợ và chồng.
Gia đình ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được
coi là một vấn đề xã hội lớn, được đánh giá là một trong nhiều yếu tố quan
trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Việc tổ chức gia đình tốt
và giáo dục trong gia đình chu đáo sẽ có tác động sâu xa đến việc hình thành
nhân cách con người, tạo tiền đề quan trọng để cung cấp nguồn nhân lực đáp
ứng với yêu cầu của đất nước trong quá trình phát triển. Vì vậy, giáo dục gia
đình thể hiện tính đa dạng và nhiều chiều, nó vừa có ảnh hưởng của cá nhân
đối với cá nhân (giữa cha mẹ với con cái; giữa ông bà với cháu) vừa có ảnh
hưởng của cả tập thể gia đình liên kết với nhau tác động đến từng cá nhân qua
lối sống, nếp sống ở mỗi gia đình. Tính đa dạng còn thể hiện qua phương pháp
giáo dục, không chỉ bằng lời nói mà bằng thái độ, tình cảm, nêu gương, không
chỉ là nói lý thuyết hay nói suông mà phải bằng thực tiễn từ những việc làm cụ
thể. Tính nhiều chiều trong giáo dục gia đình thể hiện qua việc tiếp xúc rộng
rãi với môi trường xã hội mà các thành viên trong gia đình là người trực tiếp
tham gia vào các mối quan hệ đó. Đây là những vấn đề quan trọng ở mỗi gia
đình khó có thể hình dung hết và thấy hết được trách nhiệm cũng như vai trò
đóng góp to lớn của “tế bào” nhỏ bé của mình cho tương lai của dân tộc.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định
nghĩa: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
9
thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân".
Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì "Trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em
thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối
với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua ngày 14/12/1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng
đề cập đến khái niệm "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" như là một
sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em. Do sự phát triển của từng quốc gia
khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác
nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn
còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa
thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy
định không thống nhất về vấn đề này [8].
Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong
quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng
như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái
niệm về người chưa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng
ngành luật, như sau: Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 quy
định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi" và Điều 161 Bộ
luật lao động Việt Nam năm 2012 cũng quy định: "Người lao động chưa thành
niên là người lao động dưới 18 tuổi” [18].
Như vậy, có thể hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Quan
niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày
20/2/1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
10
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể
lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
Chình vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý.
Thứ nhất, về trạng thái cảm xúc
Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh
lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự
phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời
trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trên thực tế, trạng thái thần kinh,
trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch
chuẩn. Có không ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ, nhưng
không kiềm chế được sự nóng giận quá khích mà người chưa thành niên đã
phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ hai, về nhận thức pháp luật
Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển như “vũ bão”
về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà kinh
nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp
luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện
hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá
nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải
thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.
Thứ ba, về nhu cầu độc lập
Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra
quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác.
Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập không chỉ có mặt tích
cực mà còn có mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá. Đặc
biệt, ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra
bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ,
11
phô trương. Tất cả những hành vi này của người chưa thành niên đều mang tính
chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội.
Thứ tư, về nhu cầu khám phá cái mới
Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở
lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể
trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em,
nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không
tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai.
1.1.3. Mối liên hệ giữa gia đình và sự phát triển của người chưa thành niên
Gia đình luôn có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân
cách của người chưa thành niên. Giáo dục gia đình không chỉ tác động mạnh
mẽ đến sự hình thành nhân cách của trẻ em ở giai đoạn ấu thơ mà nó còn quyết
định sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của chúng trong các giai đoạn của cuộc
đời, đặc biệt là giai đoạn chưa thành niên. Vì vậy, xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của con trẻ, đặc biệt
là trẻ vị thành niên.
Gia đình hạnh phúc, các em cảm nhận được tình yêu thương, sự che chở,
giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong gia đình, sự chăm sóc và giáo dục
của ông bà, cha mẹ, giúp các em có một môi trường phát triển lành mạnh, góp
phần kéo giảm và ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật ở người chưa thành
niên. Nhưng nếu gia đình không hạnh phúc, các em thường xuyên chứng kiến
những mâu thuẫn, cãi vã hoặc hành vi mang tính chất bạo lực thì những lời nói,
những hình ảnh đó sẽ dần ăn sâu vào tâm trí và từng ngày làm tổn thương về
tâm lý của các em và từ hành vi đó làm cho các em sẽ trở nên thô bạo trong suy
nghĩ và hành động và là nguyên nhân dẫn đến những hành động gây nguy hại
cho bản thân mình và cho xã hội [8].
12
1.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên trên thế giới
1.2.1. Các mô hình cơ bản của Tòa Gia đình và người chưa thành
niên trên thế giới
* Mô hình Tòa cho trẻ em có nguy cơ (hay mô hình an sinh phúc lợi)
Năm 1889, lần đầu tiên trên thế giới, mô hình Tòa án người chưa thành
niên được hình thành. Tòa án người chưa thành niên được trao quyền tài phán
với đối tượng là các nhóm trẻ em bị cáo buộc phạm tội; nhóm trẻ em là đối
tượng bị xâm hại và nhóm trẻ em không còn sự chăm sóc của cha mẹ do cha
mẹ đã mất, bị khuyết tật hoặc các vì lý do khác. Sau đó, mô hình này được phát
triển tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy thẩm quyền tài phán của hệ thống
Tòa án người chưa thành niên được xác lập theo hướng gắn với 3 nhóm đối
tượng nêu trên, nhưng các Tòa án này trên thực tế lại chủ yếu xử lý những vụ
việc người chưa thành niên bị cáo buộc có hành vi sai trái, bao gồm cả những
hành vi phạm tội và những hành vi không có tính chất tội phạm như trốn học,
bỏ nhà đi lang thang. Các cán bộ giám sát thử thách và cán bộ thi hành án được
trao quyền chủ động rộng rãi trong việc quyết định các biện pháp phục hồi cho
người chưa thành niên và các phiên tòa được xét xử kín để bảo đảm không làm
ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của các em khi trưởng thành v.v.. Tuy nhiên,
mô hình này cũng đã bộc lộ những nhược điểm nhất định, chẳng hạn như việc
các cán bộ giám sát thử thách và cán bộ thi hành án được trao quyền tự chủ
rộng rãi trong việc quyết định áp dụng các biện pháp phục hồi cho người chưa
thành niên có thể dẫn đến tình trạng lạm quyền; trong khi đó, các cán bộ này
lại không có đầy đủ các điều kiện cần thiết để bảo đảm cho việc thực hiện trách
nhiệm hỗ trợ phục hồi [8].
* Mô hình tư pháp người chưa thành niên (hay mô hình trừng phạt)
Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, do xu hướng ngày càng gia tăng
của các tội phạm có tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm do người chưa
13
thành niên thực hiện, một số quốc gia, điển hình là Canada, Anh và xứ Wales…
đã có cách tiếp cận mang tính cứng rắn hơn trong việc xử lý trách nhiệm của
người chưa thành niên có hành vi phạm tội. Hệ thống Tòa án cho người chưa
thành niên đã từng tồn tại ở các quốc gia này đã chuyển dần từ yêu cầu về trách
nhiệm phục hồi sang việc nhấn mạnh yếu tố trách nhiệm và trừng phạt trong
việc xử lý các hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện, theo hướng
gần tương đương đối với người đã thành niên phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn
cũng cho thấy đường lối “cứng rắn” này trong việc xử lý người chưa thành niên
phạm tội cũng không chứng tỏ được hiệu quả rõ rệt của nó trong việc làm giảm
bớt số lượng các vi phạm pháp luật và tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện hay hỗ trợ quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên.
* Mô hình Tòa gia đình
Đây là mô hình Tòa án người chưa thành niên xuất hiện trong thời gian
gần đây. Theo đó, mục đích của mô hình Tòa án này là đưa tất cả vấn đề gia
đình vào xử lý trong quá trình tố tụng và đội ngũ hỗ trợ dịch vụ xã hội. Cách
tiếp cận này cho phép thẩm phán đánh giá và nhận thức một cách đầy đủ hơn
về những vấn đề đang diễn ra trong gia đình của trẻ phạm tội, từ đó có đầy đủ
thông tin và áp dụng các biện pháp xử lý mang tính “trị liệu” hợp lý hướng vào
cả gia đình lẫn bản thân người chưa thành niên phạm tội. Có thể nhận xét rằng,
các mô hình Tòa án người chưa thành niên nêu trên được xác lập trên cơ sở
thực tiễn về điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị – pháp lý cụ thể của từng quốc
gia. Do đó không có một mô hình nào là hoàn hảo và áp dụng chung cho tất cả
các quốc gia. Ở những mức độ khác nhau, trong từng mô hình này đều có những
ưu điểm cũng như những nhược điểm nhất định, hoặc mô hình tổ chức và hoạt
động của nó vẫn đang trong quá trình kiểm nghiệm, còn phải tiếp tục phát triển
trong thực tiễn [8].
14
1.2.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên ở một số quốc
gia trên thế giới
1.2.2.1. Mô hình Tòa Gia đình Liên Bang của Úc
* Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền
Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của Tòa Gia đình Liên bang bao gồm:
01 Chánh án, 01 Phó chánh án và các thẩm phán. Thẩm phán của Tòa Gia đình
được bổ nhiệm bởi Toàn quyền Úc trên cơ sở đề nghị của Nghị viện với nhiệm
kỳ dài hạn đến 70 tuổi. Những người được lựa chọn bổ nhiệm làm thẩm phán
của Tòa Gia đình thường là những luật sư có uy tín và cũng có thể là những
chuyên gia trong lĩnh vực gia đình học.
Thẩm quyền: Tòa Gia đình Liên bang có thẩm quyền giải quyết đối với
các yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu hoặc hôn nhân là hợp pháp, ly hôn, cư
trú, liên lạc, giám hộ, cấp dưỡng và tài sản liên quan đến các quan hệ nói trên.
Tòa Gia đình Liên bang xét xử phúc thẩm các vụ án liên quan đến gia đình do
Tòa án sơ thẩm Liên bang xét xử sơ thẩm; phúc thẩm các phán quyết do một
thẩm phán xét xử của Tòa Gia đình Liên bang; phúc thẩm các phán quyết của
Tòa Gia đình bang Tây Úc [35].
* Ưu và nhược điểm của mô hình này
Ưu điểm: Tổ chức Tòa Gia đình Liên bang là một cấp tòa trung gian độc
lập, đồng thời vẫn chia sẻ thẩm quyền sơ thẩm các vụ việc liên quan đến gia
đình cho Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền chung, khẳng định sự độc lập trong
hoạt động của cơ quan này. Tòa Gia đình Liên bang có các văn phòng luật gia
đình có chức năng hỗ trợ, tư vấn những vấn đề liên quan đến gia đình. Đi cùng
với các văn phòng này là hoạt động của các chuyên gia về gia đình. Hoạt động
của các văn phòng này giúp cho các gia đình có thể giải quyết hòa bình được
các xung đột mà không phải đưa ra Tòa án.
15
Nhược điểm: Tòa Gia đình Liên bang là một cấp Tòa độc lập, đây là ưu
điểm và cũng chính là nhược điểm của mô hình này. Do được tổ chức độc lập
nên làm cho hệ thống Tòa án thêm cồng kềnh.
Mô hình Toà gia đình hợp nhất là một phương pháp tiếp cận tổng thể
nhằm xử lý các vấn đề của gia đình trên cơ sở đảm bảo cuộc sống và phúc lợi
cho tất cả các thành viên của gia đình đó. Mô hình này tập trung tăng cường
tính hiệu quả và giảm sức ép thông qua việc chỉ định một Thẩm phán được đào
tạo đặc biệt về pháp luật gia đình phối hợp, hỗ trợ một gia đình cụ thể xử lý tất
cả các vấn đề của mình theo phương thức hỗ trợ chứ không phải là phán xét.
Để đạt được mục tiêu bao quát này, cần phải xây dựng một hệ thống có đủ năng
lực. Việc xây dựng một hệ thống như vậy đòi hỏi phải có công tác tập huấn phù
hợp cho đội ngũ Thẩm phán và cán bộ Toà án, xây dựng các hệ thống tích hợp
thông tin và quản lý các dịch vụ xã hội hoàn thiện bao gồm dịch vụ tham vấn,
giải quyết tranh chấp, điều trị cai nghiện... Nếu không xây dựng được năng lực
như vậy, mô hình Toà gia đình hợp nhất có khả năng sẽ không đạt được tất cả
tiềm năng và mục đích mà nó đặt ra.
1.2.2.2. Mô hình Tòa Gia đình ở Nhật Bản
Nhật Bản đã có một hệ thống tư pháp riêng cho trẻ em vi phạm pháp luật
từ năm 1949. Luật Người chưa thành niên của Nhật Bản hoàn toàn dựa trên nền
tảng phúc lợi để điều chỉnh, đặc biệt là đối với trẻ em dưới 14 tuổi. Mô hình
này kết hợp với một truyền thống văn hoá gia đình và kiểm soát xã hội mạnh
mẽ đã giữ tỷ lệ tội phạm chưa thành niên của Nhật Bản trong thời gian dài ở
mức thấp. Tuy nhiên gần đây, cùng với xu hướng tăng của tội phạm và một số
vụ phạm tội do trẻ em thực hiện gây chấn động lớn, Nhật Bản đã tăng cường
quyền lực của nhà nước trong việc xử lý các bị can thanh thiếu niên. Luật mới
quy định về thủ tục điều tra của Cảnh sát đối với thanh thiếu niên dưới 14 tuổi
và lần đầu tiên cho phép Tòa Gia đình đưa trẻ em vào các trường giáo dưỡng/cơ
16
sở phục hồi thay vì đưa vào các trung tâm hướng dẫn trẻ em. Luật sửa đổi cũng
quy định thiết lập một hệ thống mới có chức năng chuyển các vụ án nghiêm
trọng từ Toà Gia đình sang Toà dành cho người trưởng thành [35].
Toà gia đình Nhật bản có quyền xét xử đối với trẻ em và thanh thiếu niên
dưới 20 tuổi vi phạm pháp luật. Đạo luật về người chưa thành niên đã cung cấp
một định nghĩa rất rộng về “người chưa thành niên vi phạm pháp luật”. Định
nghĩa này không chỉ bao gồm thanh thiếu niên đã có hành vi phạm tội mà còn
bao gồm cả những em “mà xu hướng phát triển của họ cho thấy họ có thể phạm
tội trong tương lai”, đó là những người chưa thành niên thường xuyên không
chấp hành sự chỉ dẫn chính đáng của người giám hộ mình, thường xuyên bỏ
nhà không có lý chính đáng, giao du với những người có khuynh hướng phạm
tội hoặc những người có tính cách vô đạo đức, hoặc thường xuyên có hành vi
đe dọa đến đạo đức cá nhân của mình. Toà gia đình cũng có quyền xét xử đối
với người trưởng thành có các hành vi làm tổn hại đến cuộc sống và phúc lợi
của trẻ em. Các vấn đề khác như cấp dưỡng và quyền nuôi dưỡng con thuộc
phạm vi xử lý của bộ phận quan hệ gia đình của Toà gia đình.
Ưu điểm: Mô hình Tòa Gia đình của Nhật Bản kết hợp với một truyền
thống văn hóa gia đình và kiểm soát xã hội mạnh mẽ đã giữ tỷ lệ tội phạm chưa
thành niên ở nước này trong thời gian dài ở mức thấp.
Nhật Bản dựa chủ yếu vào các biện pháp xử lý không chính thức trong
gia đình và cộng đồng để quản lý hành vi của trẻ em và thanh thiếu niên. Ngoài
ra, Cảnh sát Nhật còn hoạt động rất tích cực. Họ đi thăm những trường học,
tham gia vào những diễn đàn của cộng đồng để tập huấn cho các giáo viên, cha
mẹ và trẻ em về hệ thống tư pháp người chưa thành niên. Những hoạt động
nhằm định hướng, khuyên bảo người chưa thành niên như thế này đã đạt được
thành công lớn trong việc hạn chế người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Có sự điều tra rất chi tiết kéo dài từ 4 đến 8 tuần về hoàn cảnh của thanh thiếu
17
niên trước khi vụ án được đưa ra Tòa gia đình xét xử, nên việc đưa ra các biện
pháp xử lý đối với thanh thiếu niên không những tuân thủ quy định của pháp
luật mà còn tùy thuộc hoàn cảnh của các em.
Nhược điểm: Nhật Bản là một ví dụ điển hình về một hệ thống tư pháp
đã chuyển từ mô hình thuần tuý phục hồi sang một mô hình mang tính xử phạt
nhiều hơn trong những năm gần đây. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng, mô hình
mang tính xử phạt người chưa thành niên phạm tội không đem lại hiệu quả
trong việc giảm thiểu tỷ lệ tái phạm hay hỗ trợ quá trình phát triển tích cực của
người chưa thành niên.
Nhật Bản là một ví dụ điển hình về một hệ thống tư pháp đã chuyển từ
mô hình thuần tuý phục hồi sang một mô hình mang tính xử phạt nhiều hơn
trong những năm gần đây. Và sự chuyển đổi này đã bắt đầu nhận được một số
phản ứng. Năm 2004, Ủy ban về Quyền Trẻ em của Liên hợp quốc đã bày tỏ
quan ngại về xu hướng thay đổi này, đặc biệt là với quyết định của Nhật về việc
giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và kéo dài thời hạn cho phép giữ người
chưa thành niên trong cơ sở giam giữ. Uỷ ban này cũng kết luận rằng việc áp
dụng thủ tục TTHS là “không phù hợp đối với trẻ em”.
1.2.2.3. Mô hình Tòa án vị thành niên và gia đình ở Thái Lan
Thái Lan đã có hệ thống tư pháp riêng cho thanh thiếu niên từ năm 1951.
Đạo luật về Toà gia đình và người chưa thành niên hiện nay đang áp dụng đã
được ban hành từ năm 1991. Đạo luật này đã tạo ra một hệ thống Toà án chuyên
trách có quyền tài phán đối với hai nhóm vụ án chính là: 1) những vụ án có trẻ
em vi phạm pháp luật; và 2) những vụ án liên quan tới các vấn đề gia đình bao
gồm ly hôn, tiền cấp dưỡng nuôi con, quyền nuôi con và thăm nom con. Năm
2003, Thái Lan đã thông qua một Đạo luật Bảo vệ Trẻ em riêng tập trung vào
bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bạo lực, xâm hại, bóc lột [35].
* Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền
18
Cơ cấu tổ chức: Tòa án vị thành niên và gia đình có hai bộ phận: Bộ phận
xét xử và Bộ phận hành chính.
Bộ phận xét xử: gồm Thẩm phán và Hội thẩm.
Thẩm phán Tòa án vị thành niên và gia đình được cử trong số cán bộ tư
pháp theo quy định của “Quy định công vụ tư pháp”, phải là người có tính cách
và hành vi tốt để giáo dục và khuyên dạy vị thành niên.
Hội thẩm: là người được bầu theo thủ tục quy định tại Quy chế của Bộ
Tư pháp và sau đó do Tư lệnh hoàng gia bổ nhiệm. Hội thẩm tham gia trong
Hội đồng xét xử hình sự và dân sự có liên quan đến vị thành niên.
Bộ phận hành chính: gồm có Thư ký Tòa án và các cán bộ, nhân viên
văn phòng có trách nhiệm thực hiện các công việc hành chính của Tòa.
Thẩm quyền: Tòa vị thành niên và gia đình có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự đối với người ở độ tuổi từ đủ 7 tuổi cho đến dưới 18 tuổi tại
thời điểm phạm tội và giải quyết các vụ án có liên quan đến vị thành niên hoặc
gia đình theo quy định của Bộ luật dân sự và thương mại.
* Ưu và nhược điểm của mô hình này
Ưu điểm: Áp dụng thành công biện pháp xử lý chuyển hướng, đưa một
số lượng lớn thanh thiếu niên ra khỏi hệ thống tư pháp hình sự thông qua biện
pháp họp gia đình và cộng đồng. Khi áp dụng biện pháp họp gia đình và cộng
đồng chỉ có 3% số trẻ em tái phạm.
Xét xử kín các vụ án hình sự có liên quan đến người chưa thành niên, khi
xét xử bị cáo chưa thành niên không bị gông cùm, trừ trường hợp phạm tội có
mức hình phạt cao nhất trên 10 năm tù.
Một nhân tố quan trọng trong tiến bộ của Thái Lan đối với việc giải quyết
các vấn đề về trẻ em là sự cởi mở và sự sẵn sàng của một bộ phận các Thẩm
phán, cán bộ các Bộ, các nhà lập pháp và các tổ chức phi chính phủ trong việc
phối hợp để cải thiện các hệ thống cho trẻ em. Một ví dụ cho sự phối hợp này
19
chính là quy định pháp luật về lấy lời khai “thân thiện với trẻ em” của Thái
Lan. Bộ luật TTHS của Thái Lan quy định tất cả nạn nhân, nhân chứng trẻ em
và thanh thiếu niên vi phạm pháp luật phải được lấy lời khai riêng tại một địa
điểm phù hợp do một nhà tâm lý hoặc cán bộ phúc lợi xã hội tiến hành. Trong
quá trình lấy lời khai, trẻ em được phép ngồi trong một phòng cùng với nhà tâm
lý hoặc cán bộ phúc lợi xã hội và một người mà em đó tin cậy lựa chọn. Trẻ em
được quyền có cố vấn pháp lý có mặt cùng với mình. Nếu trẻ không có Luật
sư, Nhà nước phải chỉ định Luật sư cho các em. Công tố viên và Cảnh sát sẽ
theo dõi cuộc lấy lời khai từ một phòng liền kề qua hệ thống gương một chiều
và hệ thống loa. Công tố viên sẽ cố vấn cho cán bộ xã hội về các câu hỏi cần
đặt trong quá trình lấy lời khai thông qua hệ thống truyền âm thanh vào tai nghe
mà người cán bộ xã hội này đeo. Cuộc lấy lời khai được ghi lại vào đĩa CD để
Công tố viên có thể nghe lại sau này nếu cần. Những biện pháp thân thiện với
trẻ em này đã rất thành công trong việc làm giảm những chấn thương về tâm lý
của trẻ em được lấy lời khai; giảm những khiếu nại về việc Cảnh sát cư xử
không đúng mực trong quá trình lấy cung; và tạo thuận lợi cho quá trình xét xử
vụ án.
Khi giải quyết các vụ án về gia đình thì lợi ích tốt nhất của người chưa
thành niên được quan tâm đúng mức. Trước khi Tòa án tiến hành giải quyết các
vụ án gia đình thì phải tiến hành hòa giải. Cán bộ hòa giải do Tòa chỉ định nếu
hòa giải thành thì ký thỏa ước hòa giải dưới sự chứng kiến của Thẩm phán. Nếu
hòa giải không thành thì Tòa chỉ định một cán bộ xã hội hoặc nhà tâm lý điều tra
về tình trạng gia đình và báo cáo với Tòa về việc trẻ em - con em của gia đình
đó - cần làm gì để bảo đảm cuộc sống và phát triển của các em trong tương lai.
Nhược điểm: Mỗi Tòa vị thành niên và gia đình đều có Trung tâm giám
sát và Bảo vệ vị thành niên, vì vậy mô hình này cần nguồn nhân lực và chi phí
rất lớn. Thẩm phán và Giám đốc Trung tâm Bảo trợ người chưa thành niên
20
được giao quyền tự chủ rất lớn, điều này dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chủ
quan trong việc đưa ra các quyết định.
Để mô hình Tòa vị thành niên và gia đình hoạt động có hiệu quả trong
thực tế thì đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ khâu điều tra, truy tố, xét xử đến cả thi
hành án, đây là một công việc rất khó khăn bởi lẽ nó cần có nguồn nhân lực có
trình độ và tất cả các cán bộ trong các cơ quan này phải được chuyên môn hóa
- tức là phải trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về người chưa thành
niên. Vì vậy, đây cũng là vấn đề khó thực hiện, cần có thời gian để xây dựng
và hoàn thiện pháp luật, cũng như đào tạo Thẩm phán, cán bộ chuyên sâu để họ
nắm vững tâm - sinh lý và hoàn cảnh của người chưa thành niên này.
1.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa gia đình và người chưa
thành niên tại Việt Nam
1.3.1. Vị trí của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống
Tòa án
Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Việt Nam là
bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia về bảo
vệ các quyền dân sự, quyền của trẻ em. Tòa GĐ & NCTN không phải là “Tòa
án đặc biệt” cũng như không phải được thành lập thành một hệ thống Tòa án
độc lập, song song với hệ thống TAND sẽ được thành lập theo Nghị quyết số
49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị. Mục tiêu chủ yếu của
việc thành lập Tòa án này là để chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ
việc có liên quan đến gia đình và người chưa thành niên xuất phát từ bản chất
của các quan hệ xã hội và chủ thể của các quan hệ đặc biệt này. Vì vậy, xét về
bản chất, đây là loại Tòa chuyên trách nằm trong hệ thống TAND [8].
Điều kiện để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên
Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN phải gắn với việc tổ chức hệ thống
TAND theo tinh thần cải cách tư pháp; cụ thể như sau:
21
- Trường hợp thành lập TAND sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số đơn
vị hành chính cấp huyện, thì so với TAND cấp huyện hiện nay, tổ chức của Tòa
án này sẽ lớn mạnh hơn nhiều. Số vụ việc hàng năm Tòa án giải quyết sẽ tăng
lên nhất là ở các TAND sơ thẩm khu vực ở các đô thị. Số lượng Thẩm phán cũng
sẽ tăng tương ứng. Đây là điều kiện cơ bản để tiến hành việc cơ cấu tổ chức
TAND sơ thẩm khu vực theo loại quan hệ xã hội, loại vụ việc và chuyên môn
hóa đội ngũ Thẩm phán. Theo đó, TAND sơ thẩm khu vực ở những nơi có đủ
điều kiện (nếu được thành lập) sẽ thành lập các Tòa chuyên trách như: Tòa hình
sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa GĐ & NCTN. Như vậy, Tòa GĐ & NCTN
là một Tòa chuyên trách trong TAND sơ thẩm khu vực.
- Trường hợp chưa thành lập TAND sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp huyện thì không thành lập Tòa chuyên trách về gia đình
và người chưa thành niên ở cấp huyện nhưng cần phải có các Thẩm phán
chuyên trách giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên.
- TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án theo quy định của
pháp luật tố tụng và có các tòa chuyên trách như: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa
lao động, Tòa hành chính và sẽ thành lập thêm Tòa GĐ & NCTN để xem xét,
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm các vụ việc về gia đình và người
chưa thành niên theo thẩm quyền.
- TAND cấp cao khu vực (nếu được thành lập) hoặc các Tòa phúc thẩm
TAND tối cao hiện nay không có các tòa chuyên trách nên không đặt vấn đề
thành lập Tòa GĐ & NCTN tại các Tòa án này. Tuy nhiên, cần thiết có các
Thẩm phán chuyên trách sâu về lĩnh vực gia đình và người chưa thành niên để
phân công chủ trì giải quyết các vụ việc có liên quan đến gia đình và người
chưa thành niên.
- TAND tối cao được tổ chức như hiện nay (có các tòa chuyên trách như:
Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa lao động, Tòa kinh tế để thực hiện chức năng xét
22
xử giám đốc thẩm, tái thẩm), thì cần thành lập Tòa GĐ & NCTN để xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm những vụ án liên quan đến gia đình và người chưa thành niên
theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Trường hợp có đổi mới tổ chức của TAND tối cao và không còn Tòa
chuyên trách trong tổ chức của TAND tối cao thì cần có các Thẩm phán chuyên
trách về lĩnh vực gia đình và người chưa thành niên để tham gia Hội đồng giám
đốc thẩm, tái thẩm các vụ án có liên quan đến gia đình và người chưa thành
niên. Hội đồng được thành lập theo pháp luật tố tụng khi xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm, chứ không phải là một tổ chức được thành lập để hoạt động thường
xuyên.
1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức của Tòa gia đình
và người chưa thành niên
Trong thời gian qua, để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và thực
hiện chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48
của Bộ Chính trị, cùng với việc thông qua Luật Tổ chức TAND năm 2014,
Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng về tư pháp như Bộ luật Hình
sự, Bộ luật TTHS, Bộ luật dân sự, Bộ luật TTDS, Luật Tố tụng hành chính.v.v.
Theo các đạo luật này thì trong cơ cấu tổ chức của TAND cấp cao, cấp tỉnh và
cấp huyện có Tòa GĐ & NCTN. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự và Bộ luật TTHS
đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ về tư pháp người chưa thành niên nói chung,
chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng; trong đó,
cùng với việc tiếp tục bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm là yêu
cầu về bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên, với những quy định
hết sức cụ thể.
Để triển khai thực hiện điểm b khoản 1 Điều 38 và khoản 1 Điều 45 Luật
Tổ chức TAND năm 2014, ngày 12/4/2016, TAND tối cao ban hành Công văn
số 99/TANDTC-PC về triển khai thực hiện việc tổ chức Tòa GĐ & NCTN.
23
Theo đó, Tòa GĐ & NCTN được tổ chức ở TAND cấp huyện và tương đương,
TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND cấp cao. Đây là
một trong các Tòa chuyên trách thuộc TAND, được tổ chức theo quy định tại
Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của TAND tối cao quy định việc
tổ chức các Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Việc tổ chức
Tòa GĐ & NCTN ở TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện được căn cứ vào yêu
cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi Tòa án; căn cứ vào biên chế đội ngũ
Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của từng Tòa án và do Chánh án TAND tối
cao xem xét, quyết định.
Tại Công văn này, Chánh án TAND tối cao chỉ đạo các Tòa án cần chủ
động xây dựng Quy chế phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
phúc lợi xã hội, cơ quan y tế, giáo dục ở trung ương và địa phương để phối hợp
với Tòa án giải quyết tốt các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.
Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương khẩn trương chuẩn
bị các điều kiện cần thiết, đặc biệt là về công tác nhân sự và cơ sở vật chất để
tổ chức Tòa GĐ & NCTN, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả và đúng quy định của
pháp luật. Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình Tòa chuyên
trách nên nhân sự cũng bao gồm các Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Đội ngũ
lãnh đạo bao gồm Chánh Tòa và các Phó Chánh tòa.
* Trình tự, thủ tục thành lập Tòa GĐ & NCTN
Theo quy định tại Điều 4 Thông tư 01/2016/TT-CA về trình tự, thủ tục
tổ chức Tòa chuyên trách như sau:
- Chuẩn bị tổ chức Tòa GĐ & NCTN
Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào các
điều kiện tổ chức, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại TAND
24
tỉnh, huyện và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; rà soát
về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án hiện có; xây dựng hồ sơ
đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh, huyện và các tòa tương
đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
- Về hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN
+ Thứ nhất, đề án tổ chức tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Trong đó nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa này, cơ sở của việc đề xuất, số lượng
Tòa cần tổ chức, tên các Tòa, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án
tổ chức nhân sự và đề xuất về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa
án của từng Tòa. Đề án phải được Ban cán sự đảng TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương xem xét, biểu quyết thông qua;
+ Thứ hai, văn bản đề nghị tổ chức tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
+ Thứ ba, hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN được gửi cho TAND
tối cao (thông qua Vụ Tổ chức - Cán bộ).
- Về thời hạn xem xét tổ chức Tòa GĐ & NCTN
Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Hồ sơ đề nghị tổ
chức Tòa chuyên trách, Vụ Tổ chức - Cán bộ TAND tối cao phải xem xét Hồ
sơ đề nghị tổ chức Tòa chuyên trách; Nếu hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện thì lập
Tờ trình Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định việc tổ chức Tòa GĐ &
NCTN. Trường hợp Chánh án TAND tối cao quyết định không tổ chức Tòa
này tại TAND cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương thì Vụ Tổ chức - Cán bộ
thông báo bằng văn bản cho TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã
trình Hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa này biết.
Theo trình tự này, thực hiện Luật tổ chức TAND năm 2014, Tòa GĐ &
NCTN được thành lập tại hai địa phương đầu tiên là thành phố Hồ Chí Minh
25
vào tháng 3 năm 2016 và Đồng Tháp vào tháng 8 năm 2017. Tính đến nay, Tòa
GĐ & NCTN đã được thành lập tại 03 TAND cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và
thành phố Hồ Chí Minh và tại 38 TAND cấp tỉnh. Chưa có TAND cấp huyện
nào thành lập Tòa GĐ & NCTN.
1.3.3. Các quy định về hoạt động của Tòa gia đình và người chưa
thành niên
1.3.3.1. Giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi
Để quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng
là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN, TAND tối cao
đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/12/2018. Theo đó, Tòa GĐ & NCTN có thẩm quyền xét xử
các vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự có
người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc
cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành
mạnh như những người dưới 18 tuổi khác (Điều 3).
Người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý
là người luôn ở trong trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, suy nhược về tinh thần và
thể chất, rối loạn tâm thần và hành vi do tác động bởi hành vi phạm tội gây ra.
Người cần có sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi
trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác là người có hoàn
cảnh không bình thường (như: mồ côi, cha mẹ ly hôn, hay bị bạo hành, có cha
mẹ nghiện rượu, ma túy, vi phạm pháp luật...) dẫn đến bị thiếu thốn về vật chất,
tinh thần, không có nơi ở, bỏ học hoặc không được đi học như những người
dưới 18 tuổi khác.
Pháp luật cũng có quy định cụ thể về những vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền của Tòa GĐ & NCTN xét xử tại Phòng xử án hình sự và những vụ việc
xét xử tại Phòng xét xử thân thiện.
26
Theo đó, những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN
xét xử tại Phòng xử án hình sự bao gồm:
- Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng;
- Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm
một trong các tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều 123, 134, 141,
142, 144, 151, 168, 169, 170, 171, 248, 249, 250, 251, 252 và 299 của Bộ luật
Hình sự;
- Vụ án hình sự vừa có bị cáo là người dưới 18 tuổi vừa có bị cáo là người
từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Vụ án hình sự mà bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị
hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ
trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như
những người dưới 18 tuổi khác.
Những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN xét xử tại
Phòng xét xử thân thiện bao gồm:
- Những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền
của Tòa GĐ & NCTN nếu không thuộc trường hợp quy định nêu trên thì xét
xử tại Phòng xét xử thân thiện.
- Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử thân thiện thì khi xét xử các
vụ án, phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người dưới 18 tuổi.
Khi giải quyết vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18
tuổi, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán là người có kinh nghiệm xét xử
các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học,
27
khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi; có 01 Hội thẩm là giáo viên, cán
bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
* Quy định về phòng xử án thân thiện, phòng hòa giải và các phòng chức
năng:
Phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người dưới 18 tuổi theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND tối cao quy định về phòng xử án. Thẩm
phán mặc trang phục làm việc hành chính của TAND (không mặc áo choàng).
Việc tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa thực hiện theo quy định tại Thông
tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND tối cao ban
hành Quy chế tổ chức phiên tòa.
Đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại
tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những
vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để
giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xét xử kín
nhưng phải tuyên án công khai theo quy định tại Điều 327 của Bộ luật TTHS.
Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người
tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt
phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh.
Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người
đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn
phòng. Ngoài ra, phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa GĐ & NCTN phải bảo đảm các quy định chung về phòng xử án (Điều 6
Thông tư 01/2017).
28
Phòng xử án được trang bị rèm che hoặc màn che có thể gấp gọn để chắn,
không cho nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên nhìn thấy bị can, bị cáo.
Các trang thiết bị để thu phát việc lấy lời khai của trẻ em, người chưa thành
niên trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa gồm: Màn hình ti vi, máy tính hoặc
thiết bị phát video được kết nối với màn hình ti vi; loa có điều khiển từ xa để
điều chỉnh âm lượng; thiết bị âm thanh, ghi hình, mạng Internet, mạng truyền
hình trực tuyến và các trang thiết bị khác phục vụ cho công tác xét xử; máy
điều hòa không khí.
Phòng hòa giải thiết kế với nền tường màu xanh, treo tranh, ảnh về thiên
nhiên, con người và được bố trí bàn hình tròn hoặc hình bầu dục.
Phòng chờ có thể sử dụng nhằm một số mục đích như tạo không gian
riêng tư, thân thiện để trẻ em và người chưa thành niên cùng cha mẹ, người
giám hộ, người lớn đi kèm ngồi chờ khi ở Tòa án, để trẻ em, người chưa thành
niên tạm nghỉ khi thấy căng thẳng, không khỏe hay cần nghỉ ngơi trong quá
trình xét xử, cung cấp lời khai trước tòa, để được cha mẹ, chuyên gia tâm lý
hoặc cán bộ xã hội an ủi, khích lệ. Trường hợp sử dụng thiết bị cầu truyền hình,
trẻ em, người chưa thành niên có thể ngồi tại phòng chờ để khai báo và việc lấy
lời khai được ghi hình và truyền trực tiếp đến phòng xử án.
Phòng chờ cho trẻ em được sơn màu trắng, thân thiện và trang trí không
gian ấm áp và yên tĩnh cho trẻ. Cần lưu ý phòng này dành cho trẻ em và người
chưa thành niên ở mọi độ tuổi, do đó, không nên trang trí theo hướng quá thân
thiện với trẻ nhỏ.
Phòng chờ nên có đồ chơi, trò chơi và sách cho trẻ em và người chưa
thành niên, bao gồm sách tô màu, bút màu, búp bê, tạp chí, máy tính bảng có
các trò chơi, video…
Phòng chờ có thể có một số trang thiết bị như ghế sofa, bàn tròn nhỏ theo
kích cỡ cho trẻ em và ghế; hình và áp phích nhiều màu được vẽ, dán trên tường;
29
rèm cửa sổ, thảm sàn nhà nhiều màu sắc; tủ, kệ hoặc hộp đồ chơi, trò chơi và
sách; máy tính bảng có các trò chơi và phim dành cho trẻ em, người chưa thành
niên ở nhiều độ tuổi khác nhau; tủ lạnh; bộ sơ cứu cơ bản và điều hòa.
1.3.3.2. Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên
Theo Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại TAND, các biện pháp xử lý hành chính tại TAND
bao gồm đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng:
Theo quy định tại Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, đưa
vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của Luật này nhằm mục đích
giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục
của nhà trường. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06
tháng đến 24 tháng.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm: người
từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm
trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định
tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực
hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến
30
mức truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn (Điều 92).
- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc:
Theo quy định tại Điều 93 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012,
Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 94 của Luật này để lao
động, học văn hoá, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục bắt
buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ 06 tháng
đến 24 tháng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là người
thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài;
tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi
phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định
(Điều 94).
- Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng
đối với người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa
bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt
buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12
tháng đến 24 tháng.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người
nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú ổn định (Điều 96).
31
Theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13, thời hạn xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án
thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền; đối với vụ việc phức tạp, thời
hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Pháp lệnh chỉ rõ, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính thuộc
trường hợp quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 112 Luật Xử lý vi phạm hành chính
được Tòa án giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian
áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại trên cơ sở đề nghị của hiệu trưởng
trường giáo dưỡng, giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, giám đốc cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Đối với trường hợp giảm thời hạn chấp hành biện pháp xử lý hành chính
thì đối tượng được xét giảm đã chấp hành được một nửa thời hạn mà Tòa án
quyết định và mỗi năm chỉ được xét giảm 01 lần với thời hạn xét giảm không
quá một phần tư thời hạn mà Tòa án quyết định.
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám
đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải gửi văn bản đề nghị cho Tòa án nơi có
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc kèm
theo tài liệu chứng minh người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 112 của
Luật xử lý vi phạm hành chính. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần
thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại, Tòa án phải thụ lý và phân
công Thẩm phán xem xét, giải quyết, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát
cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm
phán phải xem xét và ra quyết định; trường hợp cần thiết, cơ quan đề nghị, Viện
kiểm sát cùng cấp có ý kiến bằng văn bản trước khi Tòa án ra quyết định.
32
Quyết định về việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành
phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại có hiệu lực thi hành
kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp
luật và phải được gửi cho người được quy định tại khoản 3 Điều 112 của Luật
xử lý vi phạm hành chính và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
1.3.3.3. Giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự
Quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS năm 2015, sửa đổi, bổ sung những
tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so
với Điều 27 Bộ luật TTDS cũ. Trong đó, bổ sung quan hệ tranh chấp Chia tài
sản sau khi ly hôn, Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo, Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết
hôn trái pháp luật; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có quy định của
pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia
đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết. Quy định tại Điều
29 Bộ luật TTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung những yêu cầu về hôn nhân và gia
đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 28 Bộ luật TTDS cũ.
Trong đó, bổ sung yêu cầu về Công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại Điều 84 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo
quy định từ Điều 92 đến Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án;
yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy
định tại Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu xác định cha
33
mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ theo quy định từ Điều 89 đến Điều 102 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có
quy định của pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các việc hôn nhân
và gia đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết.Về thẩm
quyền của TAND: So với Điều 33 Bộ luật TTDS cũ, Điều 35 Bộ luật TTDS
năm 2015 bổ sung thẩm quyền của TAND cấp huyện nơi cư trú của công dân
Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi
con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với
công dân của nước láng giềng cũng cư trú ở khu vực biên giới Việt Nam theo
quy định của Bộ luật TTDS và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, cần chú ý quy định mới bổ sung tại khoản 2 Điều 36 và khoản 2 Điều
38 Bộ luật TTDS 2015 về thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN tại TAND địa
phương.
Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa GĐ & NCTN được quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS năm 2015.
Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
GĐ & NCTN được quy định Điều 29 Bộ luật TTDS năm 2015. Trình tự, thủ
tục giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa GĐ & NCTN được quy
định cụ thể tại Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Kết luận chương 1
Theo yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020, trong bộ máy Nhà nước ta, TAND có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp,
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
34
pháp của tổ chức, cá nhân. Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định Tòa án có vị
trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Tòa GĐ & NCTN được thành
lập như là một tất yếu khách quan và nhu cầu thực tiễn giải quyết các vụ án liên
quan đến người chưa thành niên và các vụ án về hôn nhân và gia đình. Chương
1 của luận văn tập trung làm rõ các nội dung lý luận liên quan đến tổ chức và
hoạt động của Tòa GĐ & NCTN, theo đó, nội dung chương đã phân tích các
khái niệm công cụ như gia đình, người chưa thành niên… các quan điểm về tổ
chức, hoạt động của Tòa GĐ & NCTN. Đồng thời, nội dung chương cũng đã
giới thiệu về một số mô hình của Tòa GĐ & NCTN trên thế giới để làm căn cứ
so sánh, đánh giá thực tiễn tại Việt Nam.
35
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH
VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TAND
NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
2.1. Thực trạng tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên
tỉnh Thanh Hóa
2.1.1. Khái quát về tình hình chính trị - xã hội và sự cần thiết thành
lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa là một trong những tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất
(11.120,6 km²) và dân cư đông nhất cả nước. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị
hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố, 2 thị xã và 23 huyện. Tỉnh Thanh
Hóa có địa lý trải dài: Phía bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình;
Phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; Phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn, nước
Lào với đường biên giới dài 192 km và phía đông giáp biển Đông với bờ biển
dài hơn 102 km. Miền đồi núi và trung du chiếm 2/3 diện tích tỉnh Thanh Hóa.
Vùng miền núi Thanh Hóa, dân cư phần lớn là dân tộc thiểu số (chiếm 58%),
trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhiều địa phương còn thấp và không
đồng đều. Do đó, tỉnh Thanh Hóa là một trong những địa bàn có tình hình trật
tự an toàn xã hội luôn diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm tuy được kìm
chế, nhưng tính chất ngày càng phức tạp, các tranh chấp dân sự, khiếu kiện
hành chính, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án đều tăng. Theo Báo
cáo công tác nhiệm kỳ 2016 -2021 ngày 21/01/2021 của TAND tỉnh Thanh
Hóa, TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã thụ lý 51.107 vụ việc các loại (gồm:
các vụ án hình sự; các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại, tuyên bố phá sản, lao động; các vụ án hành chính và việc áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án).vụ việc); đã giải quyết 45.047 vụ việc các
loại, đạt tỷ lệ chung 88,1%. Trong đó:
36
+ Tổng số vụ án hình sự Tòa án hai cấp phải giải quyết là 12.062 vụ,
23.084 bị cáo (sơ thẩm 10.519 vụ 20.508 bị cáo; phúc thẩm 1.548 vụ 2.576 bị
cáo); đã giải quyết, xét xử 10.905 vụ, 20.503 bị cáo.
+ TAND hai cấp thụ lý 30.376 vụ việc về hôn nhân gia đình (sơ thẩm
30.061 vụ việc; phúc thẩm 315 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 27.580 vụ việc
+ Việc Quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: TAND hai
cấp thụ lý 1.174 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính (cấp huyện
1.169 hồ sơ; cấp tỉnh phúc thẩm 05 hồ sơ); đã giải quyết 1.156 hồ sơ
Theo số liệu thống kê khác, từ ngày 1-1-2018 đến 31-10-2020, TAND
hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm do cá nhân phạm
tội là 5.310 vụ, với 10.383 bị cáo, trong đó bị cáo từ 14 đến 18 tuổi là 110
người, từ 18 đến 30 tuổi là 1.745 người. Tội phạm do thanh, thiếu niên thực
hiện tập trung chủ yếu ở các tội: Tội xâm phạm sở hữu (Trộm cắp tài sản, cướp
tài sản, cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản); tàng trữ trái phép chất ma túy, mua bán, tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy; giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác; dâm ô với người dưới 16 tuổi, hiếp dâm đối với người
dưới 16 tuổi...
Từ số liệu trên cho thấy sự cần thiết phải thành lập Tòa gia đình và người
chưa thành niên tại Thanh Hóa để giải quyết các vụ, việc thuộc thẩm quyền.
2.1.2. Tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh
Thanh Hóa
Thực hiện các quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 và hướng dẫn
của TAND tối cao, tính đến 10/3/2020, Tòa GĐ & NCTN đã được thành lập tại
các TAND sau: 03 TAND cấp cao: TAND cấp cao Tại Hà Nội, TAND cấp cao
Đà Nẵng, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và 38 Tòa án cấp tỉnh
trong đó có tỉnh Thanh Hóa.
37
Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa được thành lập theo Quyết
định số 456/QĐ-TCCB ngày 29/10/2018 của Chánh án TAND tối cao. Đây là
một trong các Tòa GĐ & NCTN đầu tiên trên cả nước với thẩm quyền riêng
biệt xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự liên quan đến
người chưa thành niên. Có thể nói, việc ra đời của Tòa GĐ & NCTN trong tổ
chức bộ máy của TAND tỉnh Thanh Hóa là dấu ấn quan trọng trong tiến trình
cải cách tư pháp; là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương,
quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình;
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi
phạm pháp luật nói riêng; là bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế
của Việt Nam về bảo vệ các quyền của trẻ em, người chưa thành niên đã được
ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, phù hợp với mô hình
tổ chức Tòa án của nhiều quốc gia trên thế giới; đồng thời, việc tổ chức Tòa
GĐ & NCTN cũng là phương thức để thực hiện nguyên tắc hiến định về việc
xét xử kín đối với người chưa thành niên được quy định tại khoản 3 Điều 103
của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
2.1.2.1. Về nhân sự
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, từ năm năm 2017
Tòa án nhân tỉnh đã tạm dừng việc tuyển dụng và tập trung kiện toàn, sắp xếp
lại vị trí việc làm và từng bước thực hiện tinh giản biên chế theo chỉ đạo của
TANDTC. Biên chế TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa được giao năm 2016 là
424, hiện nay có 346 biên chế, giảm 78 biên chế (Thẩm phán giảm 9 biên chế,
các chức danh khác giảm 69 biên chế). Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục có
những chuyển biến tiến bộ, đội ngũ lãnh đạo được củng cố, kiện toàn; công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thường xuyên được rà soát, bổ sung. Thực
hiện Quyết định số 1813/QĐ-TCCB ngày 15/10/2018 của TAND tối cao,
38
TAND tỉnh đã tiến hành giải thể Tòa Kinh tế và Tòa Lao động và thành lập Tòa
GĐ & NCTN.
Khi mới thành lập, Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa được
giao 15 biên chế (trong đó có 9 Thẩm phán và 6 Thư ký). Ban lãnh đạo TAND
tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện được 11 biên chế (trong đó có 8 Thẩm phán và 3
Thư ký) cho Tòa GĐ & NCTN. Tòa GĐ & NCTN có 01 Chánh tòa và 01 Phó
Chánh tòa. Việc lựa chọn nhân sự bao gồm Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký
của Tòa GĐ & NCTN phải đảm bảo là những cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất, năng lực đảm đương nhiệm vụ mới, có kiến thức chuyên sâu để giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN như có kinh nghiệm giải
quyết các vụ, việc liên quan đến người chưa thành niên, có hiểu biết về tâm lý
trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên...
Qua các năm, nhân sự của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa
không ngừng được bổ sung về biên chế, chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký
Tòa án ngày càng được nâng lên, đáp ứng việc giải quyết số lượng vụ việc ngày
càng tăng của Tòa GĐ & NCTN. Tính đến ngày 31/12/2020, Tòa GĐ & NCTN
tỉnh Thanh Hóa được bố trí 11 biên chế, bao gồm 8 Thẩm phán và 3 Thư ký Tòa
án.
Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa
qua các năm
Năm Thẩm phán Thư ký Tổng số
2018 7 2 9
2019 7 10 31
2020 8 3 11
Tổng 22 15 37
Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa
39
Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm
phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa
tiếp tục được quan tâm, tăng cường; Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa đã cung
cấp kịp thời, đầy đủ các văn bản pháp luật, tài liệu hướng dẫn áp dụng pháp
luật để phục vụ cho yêu cầu công tác xét xử. TAND tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức
10 đợt tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Hội
thẩm nhân dân hai cấp; phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 01 lớp quản lý
nhà nước chương trình chuyên viên chính và 01 lớp trung cấp lý luận chính trị;
phối hợp với học viện Tòa án mở 01 lớp đào tạo Thẩm phán cho Thư ký TAND
hai cấp.
Công tác thanh tra, kiểm tra, tự kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công
vụ của cán bộ, công chức tiếp tục được tăng cường. TAND tỉnh đã tổ chức 19
đoàn đi kiểm tra nhiệm vụ, công vụ tại các đơn vị TAND cấp huyện. Thông
qua công tác kiểm tra, đã kịp thời phát hiện, rút kinh nghiệm đối với những hạn
chế, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của một số TAND cấp
huyện; nắm bắt những khó khăn vướng mắc trong hoạt động của các đơn vị để
tìm giải pháp tháo gỡ, khắc phục, các trường hợp vi phạm đều được xử lý kịp
thời.
2.1.2.2. Về cơ sở vật chất
Trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, trên cơ sở kinh phí được cấp,
cũng như sự hỗ trợ của địa phương, năm 2019 TAND tỉnh đã khánh thành trụ
sở mới khang trang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; 16 đơn vị TAND cấp huyện đã
được TAND Tối cao bố trí kinh phí đầu tư cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc.
Thực hiện Đề án trang bị, phương tiện làm việc của Toà án nhân dân các cấp
(giai đoạn 2014-2018 và giai đoạn 2019 - 2022) của TAND Tối cao, những
năm vừa qua các đơn vị trong TAND hai cấp đã được trang cấp ô tô, điều hòa
nhiệt độ, máy in, máy tính, máy photocopy, bàn ghế... để phục vụ công tác, về
40
cơ bản cơ sở vật chất, điều kiện làm việc đã được cải thiện, bước đầu đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ.
Về cơ sở vật chất, phải đảm bảo đầy đủ phương tiện đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra với đặc thù mô hình phiên tòa riêng biệt dành
cho người chưa thành niên, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa được thiết lập
theo mô hình mới, phòng xử án đang được tổ chức dần theo hướng thân thiện
(gồm 01 phòng xử án hôn nhân gia đình và 01 phòng xử án hình sự), một hệ
thống camera quan sát được trang bị ở các phòng xử, phòng trẻ em... nhằm
phục vụ cho việc xét xử và chăm sóc trẻ em, cụ thể:
Theo đó, Phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa GĐ & NCTN phải bảo đảm đúng quy định tại Thông tư số 01/ 2017/TT-
TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND Tối cao.
Phòng xử án được trang bị rèm che hoặc màn che có thể gấp gọn để chắn
không cho nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên nhìn thấy bị can, bị cáo;
các trang thiết bị để thu phát việc lấy lời khai của trẻ em, người chưa thành niên
trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa gồm: Màn hình tivi, máy tính hoặc thiết bị
phát video được kết nối với màn hình tivi, loa có thể điều khiển từ xa để điều
chỉnh âm lượng, thiết bị ghi âm, ghi hình, mạng Internet, mạng truyền hình trực
tuyến và các trang thiết bị khác phục vụ cho công tác xét xử; Điều hòa không
khí.
Phòng hòa giải thiết kế với nền tường màu xanh, bàn sử dụng là bàn tròn.
Phòng chờ được sử dụng nhằm một số mục đích như sau: Tạo không
gian riêng tư, thân thiện để trẻ em và người chưa thành niên cùng cha mẹ, người
giám hộ, người lớn đi kèm ngồi chờ khi ở Tòa án, để trẻ em, người chưa thành
niên tạm nghỉ khi thấy căng thẳng, không khỏe hay cần nghỉ ngơi trong quá
trình xét xử, cung cấp lời khai trước tòa để được cha mẹ, chuyên gia tâm lý
hoặc cán bộ xã hội an ủi, khích lệ. Trường hợp sử dụng thiết bị cầu truyền hình
41
trẻ em, người chưa thành niên có thể ngồi tại phòng chờ để khai báo và việc lấy
lời khai được ghi hình và truyền trực tiếp đến phòng xử án.
Phòng chờ cho trẻ em được sơn màu sáng thân thiện và trang trí không
gian ấm áp, yên tĩnh. Phòng chờ có một số trang bị như sau: Ghế sofa, bàn tròn
nhỏ theo kích cỡ của trẻ em; bộ sơ cứu cơ bản và điều hòa không khí.
2.2. Thực trạng hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành
niên tại tỉnh Thanh Hóa
Thực tiễn hoạt động của Tòa GĐ & NCTN được thể hiện qua kết quả
giải quyết các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN. Cụ thể:
2.2.1. Công tác xét xử các vụ án hình sự
Theo số liệu của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa, Tòa GĐ
& NCTN đã thụ lý 153 vụ án hình sự sơ thẩm đã giải quyết 151 vụ án, đạt tỷ lệ
98,70%; đã thụ lý 85 vụ án theo thủ tục phúc thẩm, đã giải quyết 84 vụ án, đạt
tỷ lệ 98,82%.
Riêng trong năm 2020, Tòa GĐ & NCTN đã thụ lý 74 vụ án/162 bị cáo,
đã giải quyết 74 vụ, đạt tỷ lệ 100%.
Tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện tập trung chủ yếu ở các tội:
Cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; tàng trữ trái phép chất ma túy, mua
bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; giết người, cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; dâm ô với người dưới 16 tuổi,
hiếp dâm đối với người dưới 16 tuổi.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm do thanh,
thiếu niên gây ra có diễn biến rất phức tạp, số trẻ em phạm tội đang “gia tăng
và trẻ hóa”. Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này không còn đơn giản do
bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh
vi để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng Nhân dân,
42
làm xôn xao dư luận xã hội. Việc gia tăng các vụ án có bị cáo là thanh, thiếu
niên phạm tội không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời phạm tội của
các bị cáo là người chưa thành niên cũng trẻ hóa.
Qua điều tra và xét xử các vụ án, cơ quan chức năng cho biết có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ hóa tội phạm. Đó là xuất phát từ hoàn cảnh
gia đình khó khăn, khi lên thành phố kiếm sống, bị các đối tượng xấu lôi kéo,
tụ họp thành những nhóm đi trộm, cướp để có tiền tiêu xài. Đó là từ việc gia
đình tan vỡ, các em bị khủng hoảng tâm lý, ít được quan tâm, dạy bảo nên rơi
vào con đường tội lỗi. Đó còn là mặt trái của kinh tế thị trường làm ảnh hưởng
đến văn hóa, giáo dục, làm tha hóa biến chất trong một bộ phận lớp trẻ hiện nay
chỉ thích ăn chơi, hưởng thụ, lệch chuẩn đạo đức, lối sống; do bị lôi cuốn vào
các trò chơi game thiếu lành mạnh, bạo lực, nhiều đối tượng đã trở thành kẻ
phạm tội để lấy tiền chơi game; do thiếu hiểu biết pháp luật, không có kỹ năng
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
Thụ lý
11
68
74
Giải quyết
11
66
74
sống sẽ dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật...
Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa
Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến
năm 2020
43
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Thụ lý
Năm 2018 5
Năm 2019 38
Năm 2020 42
Giải quyết
5
37
42
Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa
Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến
năm 2020
Trong công tác xét xử án hình sự, Tòa GĐ & NCTN luôn đảm bảo việc
xử lý người chưa thành niên phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người
chưa thành niên và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, ưu tiên cải tạo tại cộng đồng, trở thành công dân có
ích cho xã hội. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào độ
tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm; việc truy cứu trách nhiệm
hình sự người chưa thành niên chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ
vào các đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và yêu cầu phòng ngừa tội phạm; việc áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên chỉ khi thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc các biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng ... không đảm bảo hiệu quả giáo dục,
phòng ngừa và khi áp dụng hình phạt tù người chưa thành niên được hưởng
mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương ứng;
44
không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Về thực hiện các thủ tục tố tụng, luôn bảo đảm quyền có người bào chữa,
có người đại diện hợp pháp cho bị cáo là người chưa thành niên. Bảo đảm
nguyên tắc “bảo mật thông tin” liên quan đến người chưa thành niên trong quá
trình giải quyết vụ án, đặc biệt là các vụ án liên quan đến các tội phạm xâm hại
tình dục mà bị hại là người chưa thành niên.
Về hình thức: Phòng xử án hình sự của Tòa GĐ & NCTN không có vành
móng ngựa, bị cáo là người chưa thành niên được tiếp xúc với người đại diện
hợp pháp, người giám hộ, người thân, người bào chữa. Bảo đảm phiên tòa thân
thiện, gần gũi, để bị cáo có tâm lý ổn định, an tâm tham gia phiên tòa.
Trong các vụ án hình sự có bị hại là người chưa thành niên, đặc biệt là
các vụ án xâm phạm tình dục đối với trẻ em, Tòa GĐ & NCTN đã sắp xếp khu
vực riêng cho bị hại, tránh để bị hại tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm
lý của bị hại trong quá trình xét xử và về sau. Việc cách ly cũng nhằm bảo đảm
lời khai của bị hại khách quan. Tòa án đã xem xét toàn diện tác động của hành
vi phạm tội đến sự phát triển tâm lý, thể chất của người chưa thành niên để
quyết định mức hình phạt tương xứng cho bị cáo, đồng thời vẫn bảo đảm tính
nghiêm trị, tính răn đe của pháp luật hình sự, đặc biệt đối với những vụ án mà
bị cáo là người đã thành niên, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội. Điển hình
như một số vụ án sau đây:
Vụ án thứ nhất: Cháu Nguyễn L, sinh ngày 23/12/2016, dân tộc Mường,
trú tại thôn 5, xã S, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Do bố mẹ đi làm ăn xa
nên cháu sống cùng bà ngoại là bà Lê Thị T, sinh năm 1964 ở thôn L, xã T,
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bên cạnh nhà bà T là nhà Lê Lộc H, sinh
năm 1977. Khoảng 10 giờ, ngày 06/2/2020 cháu L đi sang sân nhà Lê Lộc H
chơi. Thấy cháu L, H nảy sinh ý định quan hệ tình dục nên cầm miếng dưa hấu
45
và nói “Có ăn dưa hấu thì vào đây ông cho” nhằm dụ dỗ cháu L vào trong nhà
và thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Bà ngoại L đã phát hiện ra vụ việc và
trình báo cơ quan công an. Tại bản án số hình sự sơ thẩm số 73/2020/HS-ST
ngày 15-6-2020 của TAND tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã nhận
định: Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, xảy ra tại địa bàn miền núi.
Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền bất khả xâm
phạm về tình dục, danh dự và nhân phẩm của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Lê
Lộc H đã lợi dụng việc cháu Nguyễn Trúc L còn nhỏ và do dục vọng thấp hèn
nên đã có hành vi hiếp dâm cháu Nguyễn L khi cháu L chỉ mới hơn 03 tuổi.
Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự địa
phương, gây ra bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân tại nơi xảy ra tội
phạm. Hành vi này cần được xử lý thật nghiêm khắc nhằm răn đe phòng chống
chung cho toàn xã hội. Do đó HĐXX đã tuyên bố: bị cáo Lê Lộc H phạm tội:
"Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" và xử phạt: Lê Lộc H 20 năm tù. Xét thấy đây
mà mức án phù hợp, thích đáng cho hành vi của Lê Lộc H.
Vụ án thứ hai: Lương Trung K, sinh ngày 16/9/2005, trú tại thôn C, xã
L, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. Xuất phát từ mối quan hệ anh em họ
hàng với cháu Phạm Thị Thùy G, sinh ngày 12/6/2011 và cùng hàng xóm với
cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 03/11/2010. Lợi dụng bố, mẹ G, T vắng nhà
nên K đã nảy sinh ý định quan hệ tình dục với G và T. Từ thời điểm khoảng
năm 2019, đến tháng 5/2020, K đã nhiều lần quan hệ tình dục với hai cháu G
và T. Ngày 18/12/2020, TAND tỉnh Thanh Hóa đã đưa vụ án ra xét xử. Trong
bản án đã tuyên, HĐXX nhận định Lương Trung K là người dưới 16 tuổi. Do
thiếu hiểu biết về giới tính và ham muốn quan hệ tình dục khác giới. Lợi dụng
sự ngây thơ, thiếu hiểu biết và không có kiến thức để bảo vệ mình của các cháu
Phạm Thị Thùy G và cháu Phạm Thanh T đã xâm hại tình dục hai cháu. Thời
điểm K thực hiện hành vi quan hệ tình dục đối với cháu G và cháu T các cháu
46
là người dưới 10 tuổi. Hành vi phạm tội của Lương Trung K có đủ các dấu hiệu
cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Bị cáo hiếp dâm đối với người
dưới 10 tuổi nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm
c khoản 3 Điều 142 BLHS. Bản án đã tuyên bố bị cáo Lương Trung K phạm
tội: "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi", xử phạt K 07 (bảy) năm tù.
Ở hai vụ án nêu trên, để bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên:
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa
án đã đưa người đại diện hợp pháp là bố hoặc mẹ của bị cáo, bị hại là người
chưa thành niên và mời trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại tham gia vào quá trình tố tụng,
khi thẩm vấn, lấy lời khai của bị cáo, bị hại đều có sự chứng kiến của những
thành phần này.
Khi quyết định hình phạt: các bị cáo đều có hành vi xâm phạm tình dục
đối với người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên ở vụ án thứ nhất người phạm tội là người
đã thành niên, có nhận thức và năng lực hành vi đầy đủ, thực hiện hành vi phạm
tội với trẻ ở độ tuổi quá nhỏ, gây bức xúc trong dư luận nên Hội đồng xét xử
đã ra một mức án nghiêm khắc với bị cáo. Còn ở vụ án thứ hai, tuy bị cáo đã
phạm tội nhiều lần với nhiều người, nhưng khi phạm tội bản thân bị cáo cũng
chưa đủ 16 tuổi, ở độ tuổi đó nhận thức của bị cáo chưa đầy đủ, chưa biết cách
kìm chế ham muốn, sự tò mò về giới tính của bản thân. Chính vì vậy khi quyết
định hình phạt cùng vừa phải đảm bảo tính răn đe nhưng cũng cần xét đến tạo
điều kiện cho bị cáo một con đường để có cơ hội để ăn năn, hối cải, cải tạo để
trở thành công dân tốt cho xã hội.
2.2.2. Việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên
Toà Gia đình và Người chưa thành niên đã thực hiện đúng các quy định
của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường
47
vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại TAND, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn
bản hướng dẫn thi hành trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
TAND. Trong giai đoạn 2018 - 2020, Tòa án hai cấp thụ lý 382 vụ (sơ thẩm
344 vụ, phúc thẩm 38 vụ).
Bên cạnh việc thực hiện tốt các quy định của TAND tối cao cũng như
văn bản của các cơ quan ban ngành có liên quan về công tác xem xét, giải quyết
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa, việc tăng cường công tác phối
hợp với các cơ quan có liên quan, tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp chính quyền
địa phương đã tạo điều kiện cho TAND hai cấp hoàn thành tốt công tác này.
Tuy nhiên, việc xử lý hành chính đưa người cai nghiện ma túy đi cai nghiện bắt
buộc tại Tòa án còn gặp rất nhiều khó khăn như Trung tâm cai nghiện bắt buộc
xa trung tâm, Thẩm phán giải quyết loại việc này không được tính chỉ tiêu công
tác. Mặc dù, đã có những kiến nghị từ phía Tòa án về việc đề nghị hỗ trợ cơ sở
vật chất, kinh phí phục vụ cho công tác này, nhưng vẫn chưa được chính quyền
địa phương hồi đáp.
2.2.3. Công tác thụ lý, giải quyết vụ, việc hôn nhân và gia đình
Trong giai đoạn 2018 - 2020, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa đã thụ
lý theo thủ tục sơ thẩm tổng cộng 2.209 vụ việc, đã giải quyết 2.116 vụ việc,
đạt tỷ lệ 95,78%, số vụ việc còn lại chưa giải quyết là 93 vụ việc. Đối với án
phúc thẩm, đã thụ lý tổng cộng 213 vụ việc, đã giải quyết 203 vụ việc, đạt tỷ lệ
95,30%, số vụ việc còn lại là 10 vụ việc.
48
1200
1000
800
600
400
200
0
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
Thụ lý
215
1036
958
Giải quyết
202
987
927
Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa
Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm
120
100
80
60
40
20
0
Thụ lý
Năm 2018 18
Năm 2019 93
Năm 2020 102
Giải quyết
18
87
98
từ năm 2018 đến năm 2020
Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa
Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc
thẩm từ năm 2018 đến năm 2020.
49
Trong việc giải quyết các vụ, việc hôn nhân và gia đình, lãnh đạo TAND
hai cấp tỉnh Thanh Hóa luôn chỉ đạo về đường lối xét xử bảo vệ truyền thống
gia đình Việt Nam, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và toàn diện của xã hội.
Với đặc thù loại án Hôn nhân gia đình, Toà Gia đình và người chưa thành niên
luôn chú trọng công tác hoà giải trong quá trình giải quyết các vụ án, nhằm
phân tích để các đương sự hiểu và tự thoả thuận được các vấn đề tranh chấp.
Các bản án được tuyên đều thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các đương sự. Trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên đều được xem xét nguyện vọng
một cách khách quan tại phòng trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ ổn định tâm lý, tự
tin trình bày đúng ý chí, nguyện vọng của mình, không bị tác động của cha, mẹ.
Khi ra quyết định về quyền trực tiếp nuôi dưỡng con, luôn phải xem xét đầy đủ
bảo đảm lợi ích hợp pháp, quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên, đáp ứng
các nhu cầu cả về thể chất và tinh thần. Điển hình như một số vụ án ví dụ sau
đây:
Ví dụ 1: Vụ án tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”
giữa ông Trần Thế L. và bà Nguyễn Thị Phương N. Trong vụ án này, cháu Trần
Thế Đ. Là con ông L và bà N, ông L và N đều có nguyện vọng được trực tiếp
nuôi dưỡng cháu Đ. Nhận thấy Đ là trẻ có dấu hiệu tự kỷ nên trong quá trình
giải quyết vụ án, Tòa án đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức chuyên môn để
giúp cha mẹ hiểu rõ đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ tự kỷ, phân tích để
cha mẹ hiểu và lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp, bảo đảm sau khi cha
mẹ ly hôn, trẻ vẫn có được sự chăm sóc tốt nhất. Kết quả tại phiên tòa, hai bên
đã đạt được thỏa thuận thống nhất giao con cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.
Ví dụ 2: Ngày 30/12/2020 TAND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra xét xử phúc
thẩm vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” giữa nguyên đơn là chị
LTT, sinh năm 1992 và bị đơn là anh LAĐ, sinh năm: 1984.
50
Tại bản án sơ thẩm của TAND thành phố Thanh Hóa đã xử công nhận
sự thuận tình ly hôn giữa chị LTT và anh LAĐ. Về con chung: Chị T và anh Đ
có 02 con chung là cháu Lê Trúc A, sinh ngày 23/12/2003 và cháu Lê Minh P,
sinh ngày 20/9/2015. Ly hôn giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Trúc
A, giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Minh P, không bên nào cấp
dưỡng tiền nuôi con. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/9/2020 chị T kháng cáo
với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, giao cho chị được
nuôi cả hai con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Chị T có làm Đơn yêu cầu
Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ tại Công
an phường ĐV, thành phố Thanh Hoá và Bệnh viện tâm thần tỉnh Thanh Hoá
về việc anh Đ có hành vi uống rượu gây gổ, hành hung chị, và anh Đ có đi điều
trị tại bệnh viện tâm thần.
Toà án đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, theo đó tại Biên
bản xác minh ngày 18/12/2020 tại Công an phường ĐV, thành phốThanh Hoá
thể hiện anh Đ có hành vi hành hung, chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của chị tại khu chung cư chị T sống cùng con. Công an phường đã lập biên bản
làm việc với anh Đ, nhưng không xử lý hành chính vì chị T chỉ yêu cầu Công
an giáo dục, nhắc nhở anh Đ. Tại Biên bản xác minh ngày 21/12/2020 tại Bệnh
viện tâm thần tỉnh Thanh Hoá thể hiện: Anh Đ có đến bệnh viện tâm thần khám
và xét nghiệm 02 lần vào hồi ngày 08 và ngày 18/9/2020. Kết quả chẩn đoán
thể hiện anh Đ bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, bệnh kèm theo
là viêm bàng quang, động kinh.
Mặt khác, cháu Lê Trúc A có làm Đơn trình bày gửi Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hoá trình bày nguyện vọng muốn được ở với chị T, do anh Đ thường
xuyên rượu chè say xỉn bỏ mặc cháu cho ông bà nội nuôi.
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thư thập được, Tòa án tỉnh Thanh Hóa
đã nhận định như sau: Xét thấy bản thân anh Đ đang điều trị bệnh, lại thường
51
xuyên say rượu, có những hành động xúc phạm đến chị T, gây mất trật tự khu
vực dân cư, anh Đ cũng có xác nhận bị nhiễm chất độc màu da cam. Trong
công việc thì nhiều lần nghỉ việc không có lý do, cơ quan có thông báo về cho
gia đình. Vì vậy không đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Lê Trúc A. Để đảm
bảo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của cháu Lê Trúc A, cần sửa bản án sơ
thẩm, thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, giao 02 con là cháu Lê Trúc A
và cháu Lê Minh P, sinh ngày 20/9/2015 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và
người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trước yêu cầu vừa phải làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ
việc đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và các chỉ tiêu của TAND, vừa phải tiếp
tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tinh giản
biên chế. Để đảm bảo hoàn thành các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, Ban cán sự đảng,
lãnh đạo Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo TAND
hai cấp triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác. Đã đề ra nhiều
giải pháp để tổ chức thực hiện trong TAND hai cấp, các giải pháp đột phá tập
trung vào các nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng giải quyết các loại án,
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; tăng cường tính công khai, minh
bạch trong hoạt động của Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng bản án, quyết
định của Tòa án; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát Thẩm phán; kiểm tra
thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, nhằm tạo ra sự chuyển biến
căn bản trong thực hiện các nhiệm vụ công tác.
Qua gần 3 năm hoạt động, với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo
cùng sự nỗ lực của tập thể cán bộ, công chức, Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh
Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác chuyên môn, đáp
ứng được yêu cầu, mục đích ban đầu của việc thành lập Tòa này là đáp ứng tốt
52
hơn yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và người chưa thành niên; góp
phần bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; thúc đẩy và phát triển các biện
pháp bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên phù hợp với pháp luật quốc tế và
thông lệ quốc tế; trong đó tập trung hướng việc quan tâm đến trẻ em, người
chưa thành niên vi phạm pháp luật và trẻ em, người chưa thành niên là nạn nhân
của những hành vi phạm tội, những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Chuyên
môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về Gia đình và Người chưa thành niên
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và thời hạn giải quyết các vụ việc về Gia
đình và Người chưa thành niên tại TAND. Góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của TAND các cấp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đã được xác định
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Nhìn chung, chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự liên quan
đến người chưa thành niên của Tòa Gia đình và Người chưa thành niên tỉnh
Thanh Hóa tiếp tục được nâng lên. Không có trường hợp nào xét xử oan, không
bỏ lọt tội phạm. Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo bảo đảm
nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và nhân thân của
người phạm tội là người chưa thành niên trong từng vụ án, đáp ứng yêu cầu của
công tác phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. TAND hai cấp luôn
chú trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả, không
hạn chế thời gian tranh tụng, trên cơ sở kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử đưa
ra các phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội ủng hộ. Trong quá trình
xét xử Tòa Gia đình và Người chưa thành niên tỉnh Thanh Hóa luôn chú trọng
việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân nói chung
và người chưa thành niên, theo đó lịch xét xử một số vụ án điển hình sẽ được
gửi cho cơ quan báo chí và đài phát thanh để phối hợp đưa tin về kết quả xét
xử; tạo điều kiện tốt nhất để các Phóng viên tham dự phiên tòa điển hình, phiên
tòa xét xử các vụ án dư luận xã hội quan tâm, bảo đảm thông tin nhanh, kịp
53
thời, chính xác. Thông qua hoạt động xét xử mỗi Thẩm phán là một tuyên
truyền viên, góp phần đưa chính sách, pháp luật của Đảng, của Nhà nước vào
cuộc sống; trong tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân thường xuyên cập nhật
thông tin mới, để lồng gép việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ; các thủ tục khởi kiện đều phải được niêm yết công khai tại
trụ sở để tổ chức, công dân nắm rõ quy định của pháp luật.
Có thể nói rằng, kết quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh
Thanh Hóa là thực tiễn sinh động, chứng minh cho những những nỗ lực của hệ
thống TAND trong việc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.
2.3.2. Hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được nêu trên, hoạt động của Tòa
GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa trong thời gian vừa qua cũng còn một
số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc sau đây:
- Trong việc giải quyết các vụ án hình sự, chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa đã được nâng lên, tuy nhiên nhiều vụ việc vẫn còn mang nặng tính hình
thức, còn nhiều bản án chưa đánh giá hoặc đánh giá chưa hết ý kiến bào chữa
của Luật sư, ý kiến của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
- Vẫn còn vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN bị sửa, hủy do
lỗi chủ quan của Thẩm phán.
- Việc thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết các vấn đề về Gia đình và
Người chưa thành niên chưa được thực hiện vì chưa có quy chế phối hợp giữa
TAND tỉnh Thanh Hóa với các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội liên
quan như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tỉnh Thanh Hóa, Thành đoàn tỉnh
Thanh Hóa, Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Sở Y tế
tỉnh Thanh Hóa... nên việc đảm bảo thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng còn gặp
khó khăn khi giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự.
54
- Về cơ sở vật chất: Do điều kiện về trụ sở, Tòa GĐ & NCTN với kiến
trúc chưa phù hợp với mô hình công sở, đặc biệt là mô hình của Tòa GĐ &
NCTN. Quy mô Tòa GĐ & NCTN còn hạn chế, chỉ có 02 phòng xử án, 01
phòng hòa giải, dẫn đến tình trạng thiếu phòng xử án, hòa giải. Các phòng xử
án, hòa giải có diện tích nhỏ, trường hợp có nhiều đương sự thì không đủ sức
chứa, người dự khán thiếu chỗ ngồi trong phòng xử; phòng làm việc diện tích
nhỏ...
Còn thiếu phòng chức năng là Phòng cách ly bị hại là trẻ em, vì trong
một số vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án có liên quan đến xâm phạm tình dục
có người bị hại là trẻ em, cần cách ly trẻ em với bị cáo trong suốt quá trình tố
tụng nhằm bảo đảm cho tâm lý của trẻ không bị tác động.
2.3.3. Nguyên nhân
- Nguyên nhân chủ quan: Ban lãnh đạo Tòa án mặc dù đã chủ động thực
hiện tốt việc đề ra những biện pháp, giải pháp quyết liệt nhưng thực tế thi hành
hiệu quả chưa cao vì chưa có biện pháp khuyến khích có hiệu quả đối với cán
bộ, công chức có ý thức phấn đấu tốt, chưa có hình thức xử lý nghiêm với các
trường hợp không chấp hành; công tác kiểm tra, giám sát chưa thực hiện chặt
chẽ, thường xuyên; chưa chủ động, tích cực trong việc xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức; trong quá trình giải quyết, xét xử,
một số Thẩm phán còn chủ quan do đó tỷ lệ án hủy, sửa do lỗi chủ quan của
Thẩm phán vẫn còn; nhiều Thẩm phán chưa chủ động trong công tác phối hợp
với các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết án. Phương pháp,
lề lối làm việc và thủ tục hành chính tư pháp của một số đơn vị mặc dù đã có
những đổi mới, triển khai thi hành nhưng một số đơn vị chưa nghiêm túc triển
khai, áp dụng cho toàn thể cán bộ, công chức, cho tất cả các quy trình tố tụng.
Lực lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của Tòa GĐ & NCTN chưa được
tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực hôn nhân và gia đình, về tâm lý học đặc biệt
55
là tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên, từ đó ảnh
hưởng đất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ &
NCTN.
- Nguyên nhân khách quan: Khối lượng công việc tăng trong khi đội ngũ
nhân lực, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, tiền lương và mức thu nhập của cán bộ,
công chức ngành Tòa án còn thấp, ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa án nói
chung và Tòa GĐ & NCTN nói riêng. Đây là loại việc mới giao cho Tòa án
thực hiện, trong khi biên chế, cơ sở vật chất của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa
chưa được bổ sung (phải giảm 10%). Một số TAND thị xã, huyện ở xa Trung
tâm cai nghiện xem xét quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa gặp rất nhiều khó khăn. TAND tối cao chưa
có văn bản quy định đối với kinh phí hoạt động của Hội đồng tư vấn giải quyết
các vấn đề về Gia đình và Người chưa thành niên, cơ chế, chính sách hỗ trợ đối
với thành viên Hội đồng tư vấn. Kinh phí duy trì các phòng chức năng của Tòa
GĐ & NCTN chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể.
Kết luận chương 2
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói chung và Tòa
GĐ & NCTN đang dần được hoàn thiện theo chủ trương, đường lối của Đảng
về tinh thần cải cách tư pháp của Việt Nam theo từng giai đoạn. Nội dung
chương 2 đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt
động của Tòa GĐ & NCTN. Trên cơ sở đó, phân tích thực tiễn vấn đề này tại
tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ thống pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Tòa GĐ & NCTN chưa được hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn
còn thiếu nên việc triển khai vào thực tế còn nhiều khó khăn. Thực tiễn triển
khai tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2018 đến 2020 cho thấy hướng đi đúng
trong việc thành lập Tòa chuyên trách nay với việc giải quyết rất tốt các vụ án
56
hình sự liên quan đến người chưa thành niên, các vụ án về hôn nhân và gia
đình… đều được giải quyết nhanh chóng, không bị tồn đọng nhiều. Hơn nữa,
việc chuyên môn hóa trong lĩnh vực này khiến các Thẩm phán và Thư ký có
kiến thức chuyên sâu và nhiều kinh nghiệm hơn trong nắm bắt vụ án cũng như
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình.
57
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa
gia đình và người chưa thành niên
3.1.1. Phương hướng hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
trong giai đoạn 2021 - 2026
Nhiệm kỳ tới dự báo tình hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp; các
tranh chấp về dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình, hành chính
sẽ tiếp tục gia tăng với nhiều tranh chấp mới. Để hoàn thành được nhiệm vụ
được giao, hai cấp TAND tỉnh Thanh Hóa phấn đấu thực hiện tốt phương hướng
nhiệm vụ sau:
(1) Quán triệt và triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết và
các văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội; Nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương về
công tác tư pháp và cải cách tư pháp liên quan đến TAND.
(2) Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử
các loại vụ án. Kiên quyết không xử oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, hạn
chế đến mức thấp nhất những bản án, quyết định bị hủy, sửa hoặc án quá hạn
do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Chú trọng làm tốt công tác hòa giải trong giải
quyết các vụ án dân sự và đối thoại trong giải quyết các vụ án hành chính. Khắc
phục triệt để việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu căn cứ, cũng như việc án
tuyên không rõ ràng. Nâng cao chất lượng xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án. Tăng cường kiểm tra nghiệp vụ và công
tác thi hành án hình sự; tăng cường giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về tư
pháp. Chú trọng phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để tổ chức
58
phiên tòa rút kinh nghiệm và thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng cùng cấp; các trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
phải đúng quy định của pháp luật; đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ
án tham nhũng, vụ án dư luận xã hội quan tâm.
(3) Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính tư pháp tại Tòa án đảm bảo
hiệu lực, hiệu quả để giải quyết nhanh chóng các công việc, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân khi có công việc tại Tòa án; góp phần xây dựng hình ảnh Tòa
án thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, là chỗ dựa của nhân dân
và là nơi bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thực hiện
công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án; công khai bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật trên Cổng thông tin điện tử Tòa án.
(4) Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ,
công chức thuộc quyền quản lý, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa
án trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng xử của CBCC
TAND”.
(5) Nâng cao chất lượng công tác tổ chức cán bộ; rà soát, sắp xếp, tinh
gọn đầu mối ở từng đơn vị Tòa án. Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch
cán bộ, tạo nguồn Thẩm phán và điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ,
Thẩm phán. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ; công
tác kiểm tra nghiệp vụ xét xử. Xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có sai phạm
gắn với xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
(6) Tăng cường chất lượng nội dung tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán,
Thư ký Toà án, Thẩm tra viên và HTND; chú trọng và làm tốt công tác cử công
chức đi đào tạo nghiệp vụ xét xử, đào tạo các chức danh, bồi dưỡng lý luận
chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho Thẩm phán, cán bộ, công chức.
(7) Đẩy mạnh các phong trào thi đua; tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
59
phong cách Hồ Chí Minh”. Tiếp tục thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê
bình theo tinh thần Nghị quyết TW4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình
và người chưa thành niên
Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành
niên trên cơ sở:
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành
niên phải phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và
xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng;
Thứ hai, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành
niên phải xuất phát từ vị trí, chức năng và yêu cầu nhiệm vụ của ngành TAND
trong tình hình mới, đó là: TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả
và hiệu lực cao;
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên
phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới tổ chức, và hoạt động của TAND đã
được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của
Bộ Chính trị, trong đó có định hướng về việc thành lập TAND sơ thẩm khu
vực, TAND cấp cao, định hướng về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
tối cao;
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên
phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; có lộ trình và bước đi thích
hợp;
60
Thứ năm, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành
niên phải kế thừa những yếu tố truyền thống hợp lý; tham khảo có chọn lọc
những kinh nghiệm của nước ngoài; bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực quốc
tế về bảo vệ quyền con người, quyền trẻ em và người chưa thành niên.
3.1.3. Mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và
người chưa thành niên
Tòa GĐ & NCTN được thành lập với mục tiêu đảm bảo quyền trẻ em
theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, đảm bảo rằng trong quá
trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người chưa thành niên không
bị xâm phạm, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Tòa GĐ & NCTN là cơ quan tư pháp riêng biệt để thực hiện
trình tự, thủ tục áp dụng riêng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật,
xử lý người chưa thành niên phạm tội phù hợp với độ tuổi của các em. Việc
xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên không
những là một hướng đấu tranh phòng, chống tội phạm có liên quan đến người
chưa thành niên mà còn là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao địa vị pháp
lý của người chưa thành niên là bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng; phù hợp với
các chuẩn mực quốc tế về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên được
thể hiện trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản có
liên quan mà Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện.
Tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên phải
đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và
người chưa thành niên; bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; thúc đẩy và
phát triển các biện pháp bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên phù hợp với pháp
luật quốc tế và thông lệ quốc tế; trong đó tập trung hướng việc quan tâm đến
61
trẻ em, người chưa thành niên vi phạm pháp luật và trẻ em, người chưa thành
niên là nạn nhân của những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình.
Thứ hai, chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và
người chưa thành niên nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và thời hạn giải
quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại TAND.
Thứ ba, góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND các cấp,
đáp ứng yêu cầu cải cải tư pháp đã được xác định trong các văn kiện, nghị quyết
của Đảng.
Thứ tư, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ
các quyền dân sự, chính trị, các quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong các
văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như phù hợp với thông lệ của
nhiều nước trên thế giới.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của tòa gia đình và người chưa thành niên
3.2.1. Hoàn thiện thể chế về Tòa gia đình và người chưa thành niên
Trên cơ sở đánh giá kết quả tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN
tại TAND tỉnh Thanh Hóa, cần thiết phải hoàn thiện các quy định về tổ chức và
hoạt động của Tòa chuyên trách này trong thời gian tới, cụ thể như sau:
- Tăng thẩm quyền cho Tòa GĐ & NCTN đối với các vụ việc dân sự, lao
động nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi: Theo quy định tại
các điều 27, 28 của Bộ luật TTDS, các vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc
thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay có nhiều
loại tranh chấp về dân sự, lao động mà người dưới 18 tuổi là đương sự (nguyên
đơn hoặc bị đơn) nhưng được giải quyết theo thủ tục ở Tòa thông thường là
chưa phù hợp, chưa đảm bảo với người dưới 18 tuổi. Do đó, cần bổ sung thêm
trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN đối với các tranh chấp về
62
dân sự, lao động mà người dưới 18 tuổi là nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ
việc đó.
- Nghiên cứu, xây dựng bổ sung các tiêu chí, điều kiện tổ chức Tòa
chuyên trách cụ thể hơn để tạo điều kiện thực hiện thống nhất và thuận lợi hơn,
nhất là các quy định còn có cách hiểu không thống nhất, dẫn đến mỗi Tòa án
lại có sự đánh giá, thực hiện theo cách của mình. Ví dụ như:
+ Tiêu chí về số lượng vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách
phải từ 50 vụ/năm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư số 01/2016
quy định “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của
Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở
lên”. Trên thực tế có năm không đủ tiêu chí 50 vụ/năm, nhưng có năm lại thừa
tiêu chí này. Do đó thông tư cần quy định cụ thể căn cứ từ mốc nào để áp dụng
là một, hai hay ba năm trở về trước tính từ thời để đề xuất tổ chức hay có thể
được áp dụng dự đoán xảy ra trong tương lai ...
+ Tiêu chí “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp
ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách” định tại điểm b khoản 1 Điều 2
Thông tư số 01/2016. Cần phải quy định cụ thể cần phải có số lượng tối thiểu
là bao nhiêu biên chế mới được tổ chức. (Ví dụ tối thiểu là một Thẩm phán,
một Thẩm tra viên, một Thư ký)
+ Sau khi Tòa chuyên trách đó được tổ chức, hoạt động, cần quy định rõ
trường hợp nào “không đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách” phải
giải thể theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 01/2016 (như không đáp ứng được
tiêu chí số lượng 50 vụ/năm liên tục trong vòng bao nhiêu năm hoặc biên chế
biến động tăng, giảm)
- Có hướng dẫn cụ thể và đề án mẫu đề nghị tổ chức Tòa chuyên trách
để áp dụng chung cho tất cả các địa phương. Có văn bản quy định cụ thể, chi
tiết đối với cơ cấu, tổ chức của Tòa chuyên trách khi có Quyết định thành lập.
63
- Có hướng dẫn về việc xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan ban
ngành liên quan trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ việc liên quan đến
người chưa thành niên; thành lập Hội đồng tư vấn cũng như phương thức tư
vấn, kinh phí phục vụ cho hoạt động của Hội đồng này. Trước mắt, để bảo đảm
hoạt động của Hội đồng tư vấn, đề xuất chi kinh phí như chế độ của Hội thẩm
nhân dân.
- Nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết mối quan hệ
phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức
khác (các cơ quan, tổ chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em)
trong việc giải quyết các vụ án có người tham gia tố tụng là người chưa thành
niên như việc cử cán bộ làm công tác xã hội tham gia vào việc giải quyết vụ án.
- Nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn về sự tham gia của cán bộ
làm công tác xã hội là các chuyên gia về y tế, tâm lý, xã hội trong việc xét xử
các vụ án có bị cáo, người bị hại là người chưa thành niên và việc áp dụng các
biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp người chưa thành niên
được miễn trách nhiệm hình sự.
- Có hướng dẫn về việc tham vấn chuyên gia tâm lý, xã hội, trong đó có
các nội dung như: Thời hạn cử, cơ quan yêu cầu, cơ quan có trách nhiệm cử
chuyên gia tham vấn về tâm lý, xã hội; thời hạn chuyên gia tham vấn tâm lý,
xã hội phải xây dựng Báo cáo thẩm tra xã hội. Báo cáo thẩm tra xã hội phải có
những nội dung chi tiết về lai lịch, hoàn cảnh sống của người chưa thành niên,
điều kiện phạm tội của người chưa thành niên, bao gồm các vấn đề trong gia
đình, thời thơ ấu của người chưa thành niên có thể góp phần ảnh hưởng đến
cách xử sự của các em; mối quan hệ của người chưa thành niên với các thành
viên trong gia đình; mối quan hệ với đối tượng xâm hại; việc học tập ở nhà
trường; các trải nghiệm khác trong học tập và lao động; các hành vi vi phạm
trước đây của người chưa thành niên; mức độ tham gia vào hành vi vi phạm
64
(cầm đầu hay a dua, người chủ mưu thực hiện hay giữ vai trò đồng phạm); thiệt
hại gây ra cho các nạn nhân và liệu các em có cố ý gây ra thiệt hại đó hay
không; mức độ trưởng thành và khả năng hiểu được những hậu quả của hành
vi của mình; các em có ăn năn hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của mình
hay không.
- Thực hiện rà soát, đánh giá tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại 38 TAND cấp
tỉnh để chỉ đạo tổ chức Tòa chuyên trách này tại tất cả các TAND cấp tỉnh còn
lại. Sau khi kiện toàn tổ chức, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm thì tiếp tục
triển khai đến các TAND cấp huyện khi có đủ điều kiện theo quy định.
3.2.2. Nâng cao năng lực giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa gia đình và người chưa thành niên
Để giải quyết hiệu quả các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và
người chưa thành niên trong giai đoạn tới cần:
Thứ nhất, những người tiến hành tố tụng đặc biệt là đội ngũ thẩm phán
của Tòa GĐ & NCTN cần phải có kiến thức chuyên môn và được đào tạo đặc
biệt để chuẩn bị cho mình những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong tiếp xúc
với người chưa thành niên sao cho phù hợp với tâm lý của các em. Cần lưu ý
xác định chính xác độ tuổi, tìm hiểu mức độ phát triển về thể chất và tinh thần,
mức độ nhận thức, điều kiện sinh sống và giáo dục, nguyên nhân và điều kiện
phạm tội của bị cáo là người chưa thành niên, từ đó có các phương thức tiếp
xúc phù hợp, các biện pháp xử lý và áp dụng những hình phạt thỏa đáng đối
với những đối tượng này.
Thứ hai, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên
tham gia tố tụng cần lưu ý những quy định riêng đối với người chưa thành niên
là người bị tạm giữ, tạm giam, đảm bảo không có vi phạm trong thủ tục tố tụng,
thời gian tạm giữ, tạm giam, xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ cũng cần
65
thực hiện trong thời gian sớm nhất. Đối với bị hại là người chưa thành niên,
cần có một số kỹ thuật thu thập chứng cứ đặc biệt như chụp ảnh, ghi âm, tránh
việc lấy lời khai của người chưa thành niên nhiều lần, lặp đi, lặp lại làm ảnh
hưởng đến tâm lý của các em.
Thứ ba, tại phiên tòa, đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải
ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và
có thể giải thích câu hỏi cho rõ hơn; không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp
cho người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách
quan. Kết hợp xét hỏi đại diện gia đình, nhà trường nhằm xác định nguyên
nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh phạm tội… của bị cáo
chưa thành niên, từ đó Hội đồng xét xử có thể xác định biện pháp xử lý hình sự
cho phù hợp.
Về hình thức tổ chức phiên tòa xét xử bảo đảm ít tác động đến tâm lý và
sự phát triển của người chưa thành niên và tôn trọng bí mật đời tư của họ:
Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình
xét xử tại Tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất
trật tự tại phiên toà. Phương thức xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên phù
hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của bị cáo. Những lời giải thích về quyền
và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa đơn giản,
rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có
thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
Đối với phiên tòa có người bị hại là người chưa thành niên, nếu xét thấy
không cần thiết có thể không cần triệu tập đến phiên tòa. Nếu cần thiết phải
triệu tập bị hại đến phiên tòa cần có các biện pháp bảo vệ họ, đặc biệt là đối với
bị hại trong các vụ án xâm hại tình dục. Trong trường hợp không bố trí được
phòng trẻ em thì cần có màn che, chắn, …
66
Hội đồng xét xử có thể sử dụng tên riêng trong quá trình xét xử thay vì
sử dụng từ “bị cáo”, “bị hại”, “cán bộ Tòa án”, …
Thứ tư, cần chú ý cân nhắc để có thể áp dụng việc miễn hình phạt, áp
dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với những trường hợp có thể áp
dụng. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án áp dụng một
trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào
trường giáo dưỡng. Ngược lại, đối với hành vi phạm tội đối với người bị hại là
người chưa thành niên, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, đảm bảo tính răn
đe, giáo dục chung cho cộng đồng.
Thứ năm, về xây dựng mô hình phòng xử thân thiện, đối với các phiên
tòa xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự, người chưa đủ 16 tuổi không được
vào phòng xử án trừ trường hợp được Tòa án triệu tập; quy định này thể hiện
cần hạn chế việc người dưới 16 tuổi tham gia phiên tòa để không ảnh hưởng
đến tâm lý của các em; việc tham gia tố tụng có thể thông qua người đại diện
hoặc trước phiên tòa, Thẩm phán tiến hành ghi nhận ý kiến của các em. Riêng
đối với vụ án hình sự, bị cáo hoặc người bị hại là người chưa thành niên buộc
phải tham gia phiên tòa. Do đó, mô hình phòng xử thân thiện phát huy hiệu quả
chủ yếu là trong các vụ án hình sự.
Người chưa thành niên về thể chất và tinh thần phát triển chưa hoàn thiện,
vì vậy, trong nhận thức và hành động của mình, người chưa thành niên còn hạn
chế về kiến thức, không làm chủ được hành vi của mình, thường bị kích động,
rủ rê, lôi kéo và bị người khác lợi dụng. Về mặt chủ quan, còn có thể thấy do
người chưa thành niên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức nên nhận thức
không đầy đủ, thậm chí không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật.
người chưa thành niên là đối tượng có nguy cơ bị xâm hại cao, dễ bị tổn hại do
độ tuổi và hoàn cảnh, dễ phạm tội do nhận thức chưa đầy đủ. Do đó, trong việc
xử lý hành vi vi phạm pháp luật do người chưa thành niên thực hiện cần vừa
67
đảm bảo việc trừng phạt nhưng ưu tiên giáo dục, răn đe nhằm cải tạo các em
thành người lương thiện, có nhận thức đúng đắn và có ích cho xã hội.
Bên cạnh đó:
- Tổ chức các khóa đào tạo bổ sung kiến thức chuyên sâu về hôn nhân
và gia đình, về tâm lý trẻ em và khoa học giáo dục đối với người chưa thành
niên, tập huấn kỹ năng, kinh nghiệm công tác cho cán bộ, công chức của Tòa
GĐ & NCTN.
- TAND tối cao phối hợp với các cơ quan, tổ chức để tổ chức cho đại
diện cán bộ, công chức Tòa GĐ & NCTN tham quan mô hình Tòa này trên thế
giới (Canada, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc...), nhằm học tập kinh nghiệm,
kỹ năng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự liên
quan đến người chưa thành niên.
- Bổ sung nội dung đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử các vụ án có
sự tham gia của người chưa thành niên vào chương trình đào tạo Cử nhân luật,
đạo tào nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ Thư ký tại Học viện Tòa án nhằm xây dựng
đội ngũ kế cận có năng lực chuyên sâu và kỹ năng đặc biệt để giải quyết tốt các
vụ việc này.
- Học viện Tòa án cần biên soạn, chỉnh lý lại hệ thống giáo trình theo Bộ
luật Hình sự mới; xây dựng các chuyên đề, bài giảng và tổ chức các lớp tập huấn
chuyên sâu về kỹ năng xét xử các vụ án xâm hại tình dục trẻ em để nâng cao kiến
thức, nhận thức và kỹ năng xét xử cho các Thẩm phán và cán bộ Tòa án.
- Thường xuyên tổ chức hội thảo, tọa đàm nhằm chia sẻ kinh nghiệm về
tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN trên toàn quốc, nhất là các địa
phương đi đầu trong việc tổ chức Tòa này như các TAND cấp cao, TAND tỉnh
Thanh Hóa.
68
3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của
Tòa gia đình và người chưa thành niên
Xây dựng phòng chức năng Giám sát tâm lý, hình thức phòng xét xử các
vụ án được đổi mới theo hướng thân thiện với người chưa thành niên về cách
sắp xếp chỗ ngồi của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng; Không sử dụng vành móng ngựa. Bố trí đầy đủ phòng xét xử, phòng hòa
giải, phòng chức năng theo đúng mô hình xét xử thân thiện. Trong phòng chức
năng có các hình và áp phích nhiều màu được vẽ, dán trên tường thu hút trẻ em
ở các độ tuổi khác nhau; Rèm cửa sổ , thảm sàn nhà nhiều màu sắc; Tủ kệ hoặc
hộp đựng đồ chơi trò chơi và sách; Máy tính bảng có các trò chơi và phim dành
cho trẻ em người chưa thành niên ở nhiều độ tuổi khác nhau; Tủ lạnh, … Trong
những năm qua, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc
của các Tòa án hai cấp mặc dù đã được quan tâm và có những chuyển biến tích
cực, nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Một số
Tòa án cấp huyện trụ sở làm việc xuống cấp, diện tích xây dựng nhỏ hẹp. Hạ
tầng công nghệ thông tin của nhiều Tòa án còn lạc hậu. Trong khi đó, kinh phí
được đầu tư hàng năm của TAND tối cao còn hạn chế. Bên cạnh đó, điều kiện
phương tiện làm việc của các Tòa án nhìn chung còn thiếu. Đề nghị Hội đồng
nhân dân hàng năm hỗ trợ kinh phí trang bị phương tiện làm việc và ứng dụng
công nghệ thông tin cho các Tòa án.
- Phải bảo đảm bố trí đầy đủ các phòng chức năng và phòng xử như
hướng dẫn của TAND tối cao. Ngoài ra, TAND tối cao cần có hướng dẫn về
mô hình phiên tòa hình sự đối với những vụ án có người đã thành niên phạm
tội cùng với các bị cáo chưa thành niên, mô hình phiên tòa xử các vụ án hôn
nhân và gia đình.
- Xây dựng quy chế về kinh phí hoạt động của Tòa GĐ & NCTN như:
Kinh phí duy trì các phòng chức năng, kinh phí dành cho thành viên Hội đồng
69
tư vấn, chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực hôn nhân Gia đình và Người chưa
thành niên; nhân viên làm công tác xã hội, y tế trong tố tụng tư pháp đối với
người chưa thành niên;
- Tranh thủ sự ủng hộ về tài chính từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ, các dự án hỗ trợ kỹ thuật và các nguồn hợp pháp khác với mục đích
là đem lại những lợi ích tốt nhất cho Gia đình và Người chưa thành niên để
triển khai xây dựng cơ sở vật chất cho Tòa GĐ & NCTN. Tòa GĐ & NCTN
phải đảm bảo các cơ sở vật chất sau:
+ Bố trí hoàn thiện về Phòng xét xử thân thiện: bố trí vị trí chỗ ngồi và
trang trí thêm một số dụng cụ để tạo được không khí thân thiện, gần gũi đối với
người chưa thành niên tham dự phiên toà; Phòng tư vấn – hòa giải; Phòng trẻ
em; Phòng trợ giúp y tế.
+ Các trang thiết bị cần thiết cho các phòng chức năng: bàn ghế, tủ, ti vi,
máy điều hòa, đồ chơi trẻ em… đảm bảo phát huy tối đa chức năng sử dụng
các phòng có hiệu quả cao.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa hoạt
động của Tòa GĐ & NCTN trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
3.2.4. Nâng cao nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ
- Trước hết cần nâng cao nhận thức để tạo sự thống nhất trong toàn hệ
thống TAND về ý nghĩa, vai trò của việc tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ &
NCTN.
Cần xây dựng cuốn sổ tay hoặc cẩm nang về kỹ năng giải quyết các vụ
việc có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ &
NCTN nhằm mục đích phục vụ cho đội ngũ những người tiến hành tố tụng
(nhất là với thẩm phán) để giải quyết một cách phù hợp, hiệu quả những tình
huống trong quá trình giải quyết các vụ việc có người chưa thành niên.
70
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bản thân các Thẩm
phán phải biết tự trang bị cho mình những kiến thức chuyên sâu về tâm lý người
chưa thành niên theo từng độ tuổi và có kỹ năng làm việc đối với đối tượng
này;
Trong việc xét xử án hình sự cần áp dụng đúng quy định pháp luật về các
biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, các hình phạt thích
hợp, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhưng vẫn nêu
cao được sự khoan hồng, tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Từ đó để người
phạm tội nhận thức được sai lầm, sửa chữa khuyết điểm, trở thành người có ích
cho gia đình và xã hội.
Trong lĩnh vực giải quyết, xét xử án hôn nhân và gia đình, phải quán triệt
được quan điểm về việc bảo vệ truyền thống gia đình Việt Nam phát triển một
cách toàn diện, tăng cường công tác hòa giải, đối thoại.
Những người tiến hành tố tụng của Tòa GĐ & NCTN phải có cách làm
việc khoa học, hợp lý, nghiêm túc trong công tác để từng bước góp phần xây
dựng Tòa GĐ & NCTN thực hiện đúng mô hình của TAND tối cao trong quy
trình cải cách tư pháp, đồng thời bắt kịp xu hướng chung của thế giới.Đồng
thời, qua hoạt động của Tòa GĐ & NCTN, những người tham gia cần đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi.
Thành phần Hội đồng xét xử được tuyển chọn đảm bảo về năng lực
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, được bồi dưỡng, tập huấn các kiến thức về
tâm sinh lý của người chưa thành niên, kiến thức xã hội… bảo đảm thực hiện
tốt nhiệm vụ; Thành phần Hội đồng xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn
thanh niên. Các Thẩm phán của Tòa GĐ & NCTN phải nghiên cứu, khai thác
hiệu quả cuốn “Cẩm nang hướng dẫn kỹ năng giải quyết các vụ việc có người
71
dưới 18 tuổi tham gia tố tụng” đã được cấp phát để trau dồi, tự nâng cao trình
độ, chuyên môn, kinh nghiệm giải quyết các loại việc này.
Với các chức danh hiện có trong hệ thống TAND, bên cạnh vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của Thẩm phán được quy định trong Bộ luật TTDS, có thể giao
Thẩm tra viên, Thư ký viên Tòa án thực hiện một số công việc và mời thêm các
chuyên gia tâm lý, y tế để tư vấn cho đương sự, đặc biệt là các trường hợp bị bạo
hành, giúp họ sớm vượt qua các sang trấn về tâm lý; ý thức được trách nhiệm
trong việc chăm sóc, giáo dục con là người chưa thành niên.
- Nghiên cứu, xem xét việc tổ chức mạng lưới trợ giúp pháp lý đối với
người dưới 18 tuổi ở cấp huyện, cấp xã; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật dành cho công dân nói chung và người chưa thành niên nói riêng.
3.2.5. Tăng cường tính đồng bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng và
sự phối hợp trong giải quyết các vụ án
Hoạt động của Tòa án có liên quan chặt chẽ đến công tác điều tra, truy
tố của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Thực tiễn giải quyết các vụ việc
tại Tòa GĐ & NCTN trong thời gian qua cho thấy, trong một số trường hợp,
các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa làm hết trách nhiệm, thiếu sự phối hợp
chặt chẽ trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự; cơ quan chức năng lấy lý do
người bị hại khai báo không nhất quán, chứng cứ dấu vết mờ nên không khởi
tố vụ án, khởi tố bị can vì sợ oan, sai. Chính vì vậy, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát cũng cần có bộ phận chuyên trách hoặc những điều tra viên, kiểm sát
viên chuyên trách để tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố đối với người
chưa thành niên phạm tội và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết các vụ việc của Tòa GĐ & NCTN.
Phối hợp giữa TAND với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan
quản lý nhà nước về trẻ em trong việc tổ chức xét xử cần phải được tăng cường:
72
Theo quy định tại Điều 423 Bộ luật TTHS năm 2015, Điều 63 Bộ luật TTDS
năm 2015, thành phần Hội đồng xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18
tuổi hoặc vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội
thẩm là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước
về trẻ em. Việc họ tham gia Hội đồng xét xử giúp cho Tòa án đưa ra quyết định
đúng đắn đối với người chưa thành niên, có tác dụng nâng cao việc giáo dục,
bảo vệ đối với người chưa thành niên, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội
liên quan để nhanh chóng thành lập Hội đồng tư vấn các vấn đề liên quan đến
Gia đình và Người chưa thành niên, đồng thời ban hành đầy đủ quy chế hoạt
động của Hội đồng tư vấn này;
Các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế phối hợp giữa
Tòa án với các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc cử các chuyên gia tâm lý - xã
hội trợ giúp về mặt tâm lý, xã hội đối với người dưới 18 tuổi là nạn nhân trong
các vụ án xâm hại tình dục, bạo hành trẻ em khi tham gia tố tụng, để bảo vệ tốt
nhất quyền lợi của trẻ em.
Đẩy mạnh mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan
điều tra và các cơ quan, tổ chức khác (các cơ quan, tổ chức làm công tác bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em) trong việc giải quyết các vụ án có người tham
gia tố tụng là người chưa thành niên như việc cử cán bộ làm công tác xã hội
tham gia vào việc giải quyết vụ án.
Tăng cường phối hợp giữa TAND với cơ quan Công an, Phòng Tư pháp
cấp huyện, UBND cấp xã trong việc xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.
73
Kết luận chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm, định hướng và mục tiêu liên quan
đến hoạt động của TAND tỉnh Thành Hóa, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa,
chương 3 của luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc triển
khai pháp luật về tổ chức và hoạt động của người chưa thành niên trên địa bàn
tỉnh Thành Hóa. Các giải pháp tập trung vào nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Tòa chuyên trách này, nâng cao năng lực của bộ máy
và đội ngũ thẩm phán, thư ký tòa án trong giải quyết các vụ án theo nhiệm vụ
được giao; Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị… Các giải pháp
trên được thực hiện đồng thời sẽ giúp Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa có thể
triển khai hiệu quả các nhiệm vụ của mình.
74
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về thực trạng giải quyết các vụ việc về người chưa thành
niên và gia đình và phân tích những bất cập ảnh hưởng đến chất lượng công tác
giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình và người chưa thành niên tại
Tòa án, cho thấy việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành là thực sự
cần thiết ở Việt Nam hiện nay. Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN nhằm đáp ứng
tốt hơn về yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và người chưa thành niên;
bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta; góp phần chuyên môn hóa công tác giải quyết
các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên; góp phần hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của TAND và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt
Nam là thành viên và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên để đảm bảo Tòa
GĐ & NCTN hoạt động h iệu quả và đáp ứng được mục tiêu đề ra thì vấn đề
xác định mô hình và thẩm quyền của Tòa này là vấn đề rất quan trọng, thêm
vào đó cần phải đề ra các giải pháp hoàn thiện về cơ sở pháp lý, nguồn nhân
lực, cơ sở vật chất và giải pháp đồng bộ các cơ quan tiế n hành tố tụng. Dựa
trên các tài liệu có liên quan và tham khảo các mô hình Tòa GĐ & NCTN của
một số nước trên thế giới, tác giả đưa ra một số đề xuất để thành lập Tòa GĐ
& NCTN như sau:
Về mô hình: Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN nên thành lập theo mô
hình Tòa chuyên trách là phù hợp với điều kiện kinh tế và truyền thống pháp lý
ở nước ta hiện nay và phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án theo tinh thần cải
cách tư pháp.
75
Về thẩm quyền: Tòa GĐ & NCTN có thẩm quyền giải quyết các vụ án
hình sự có liên quan đến người chưa thành niên và giải quyết các vụ việc về
hôn nhân và gia đình có liên quan đến quyền và lợi ích của người chưa thành
niên. Ngoài ra, Tòa GĐ & NCTN còn xem xét quyết định biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với trẻ em, người chưa thành niên vi phạm
pháp luật theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Về nguồn nhân lực: Để có đầy đủ đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là Thẩm
phán, Điều tra viên và Kiểm sát viên chúng ta sẽ lựa chọn trong số cán bộ hiện
có để bồi dưỡng, tập huấn mà không cần hệ thống tổ chức cán bộ riêng biệt.
Về cơ sở vật chất: Với điều kiện kinh tế - xã hội như nước ta hiện nay,
thì việc trang bị mới toàn bộ cơ sở vật chất là hết sức khó khăn, vì vậy chúng
ta sẽ tận dụng cơ sở vật chất hiện có. Bố trí lại nội thất của phòng xét xử tạo
môi trường thân thiện với người chưa thành niên, trang bị thêm một số thiết bị
phục vụ việc lấy lời khai của trẻ em và người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, hoạt động xét xử của Tòa án có liên quan chặt chẽ đến các
hoạt động điều tra, truy tố của các cơ quan tố tụng cùng cấp, nên bên cạnh việc
Tòa án thành lập tòa chuyên trách thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cũng
cần có bộ phận chuyên trách hoặc Điều tra viên và Kiểm sát viên chuyên trách
để điều tra, truy tố đối với người chưa thành niên phạm tội và kiểm sát hoạt động
của Tòa GĐ & NCTN. Ngoài ra, để Tòa này được thành lập thì cần có cơ sở p
háp lý vững chắc để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt mục tiêu đã được đề ra.
Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
trong đó, có Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
Toà án nhân dân, Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS, và Bộ luật TTDS, pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đức Anh (2016), Tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh thần
Hiến pháp năm 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Huỳnh Thị Trúc Giang và Nguyễn Thị Mỹ Linh (2012), Tập bài giảng
Luật hôn nhân &gia đình , Khoa Luật- Đại học Cần Thơ.
8. Lữ Thị Hằng (2019), Mô hình Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam và Hàn
Quốc - nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
9. Bùi Thị Thu Hương (2020), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành
chính Quốc gia.
10. Nguyễn Thị Lộc (2013), Sự cần thiết phải bổ sung thủ tục tố tụng đối với
người bị hại là người chưa thành niên trong Bộ luật TTHS sửa đổi, Tạp
chí TAND, số 6.
77
11. Ngô Thị Mai (2019), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
cao ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành
chính Quốc gia.
12. Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của người bị kết án theo thủ
tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
13. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2018), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp – Từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành chính Quốc gia.
14. Phan Đức Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
trong tiến trình cái cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
15. Hoàng Văn Quang (2018), Đảm bảo quyền của người chưa thành niên
trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình - qua thực tiễn
tại TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(sửa đổi năm 2013), Hà Nội;
17. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội;
18. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội;
19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội;
20. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của
Quốc hội “về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội
phạm”, Hà Nội.
21. Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện
trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội
78
22. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong thể
chế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sỹ,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Nghiên cứu so sánh hệ thống Tòa án
một số nước kinh nghiệm và bài học trong hoàn thiện hệ thống Tòa án
Việt Nam, Hà Nội.
24. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải
cách hệ thống Tòa án Việt nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
25. Hoàng Đình Thanh (2013), Giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và
gia đình của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế, Luận
văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Đào Thị Minh Thủy - Nguyễn Thị Thùy Giang (2013), Tòa vị thành niên
và gia đình các trung tâm giám sát và bảo vệ vị thành niên ở Thái Lan,
Tạp chí TAND, số 3.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
28. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
30. Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lược cải cách
tư pháp ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
32. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư
pháp và Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
79
33. Trần Quốc Việt (2013), Đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân
cấp tỉnh qua khảo sát thực tế tại Hà Tĩnh, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Hoàng Vững (2014), Thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên:
Cơ hội để Vị thành niên "làm lại", Báo điện tử Gia đình Việt Nam.
35. Trịnh Hoàng Yến (2020), Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành
niên ở một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí TAND, số 23.