VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ LINH

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI

CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN

NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HOÁ

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI, năm 2021

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 1

Chương 1 ........................................................................................................................................... 8

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ........................................................................... 8

1.1. Khái quát chung về gia đình và người chưa thành niên ................................................ 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của gia đình .................................................................................. 8

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên .......................................................... 9

1.1.3. Mối liên hệ giữa gia đình và sự phát triển của người chưa thành niên ................................ 12

1.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên trên thế giới ....................................... 13

1.2.1. Các mô hình cơ bản của Tòa Gia đình và người chưa thành niên trên thế giới ....... 13

1.2.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên ở một số quốc gia trên thế giới .... 15

1.2.2.1. Mô hình Tòa Gia đình Liên Bang của Úc ................................................................... 15

1.2.2.2. Mô hình Tòa Gia đình ở Nhật Bản .............................................................................. 16

1.2.2.3. Mô hình Tòa án vị thành niên và gia đình ở Thái Lan ................................................ 18

1.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Việt Nam ...................................................................................................................................................... 21

1.3.1. Vị trí của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống Tòa án ................ 21

Điều kiện để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên .............................................. 21

1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên .......................................................................................................................................... 23

1.3.3. Các quy định về hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ................... 26

1.3.3.1. Giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi ................................. 26

1.3.3.2. Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên ....................................................................................................... 30

1.3.3.3. Giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự .................................................................................................................................................. 33

Kết luận chương 1 .......................................................................................................................... 34

Chương 2 ......................................................................................................................................... 36

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TAND NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA ................................................................................................................................................ 36

2.1. Thực trạng tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tỉnh Thanh Hóa ........ 36

2.1.1. Khái quát về tình hình chính trị - xã hội và sự cần thiết thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 36

2.1.2. Tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa ................ 37

2.1.2.1. Về nhân sự ................................................................................................................... 38

Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa qua các năm ............. 39

2.1.2.2. Về cơ sở vật chất ......................................................................................................... 40

2.2. Thực trạng hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa........................................................................................................................................... 42

2.2.1. Công tác xét xử các vụ án hình sự ............................................................................... 42

Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 ................ 43

Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 ............ 44

2.2.2. Việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên ........................................................................................ 47

2.2.3. Công tác thụ lý, giải quyết vụ, việc hôn nhân và gia đình ........................................... 48

Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm từ năm 2018 đến năm 2020 .................................................................................................................................................. 49

Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc thẩm từ năm 2018 đến năm 2020. ......................................................................................................................................... 49

2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa ......................................................................................................... 52

2.3.1. Những kết quả đạt được................................................................................................ 52

2.3.2. Hạn chế, vướng mắc ..................................................................................................... 54

2.3.3. Nguyên nhân ................................................................................................................. 55

Kết luận chương 2 .......................................................................................................................... 56

Chương 3 ......................................................................................................................................... 58

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN............................. 58

3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên ................................................................................................................................... 58

3.1.1. Phương hướng hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2021 - 2026 .............................................................................................................................. 58

3.1.2. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên .......................................................................................................................................... 60

3.1.3. Mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên .................................................................................................................................................. 61

3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của tòa gia đình và người chưa thành niên ............................................................................................................... 62

3.2.1. Hoàn thiện thể chế về Tòa gia đình và người chưa thành niên ................................. 62

3.2.2. Nâng cao năng lực giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên ........................................................................................................... 65

3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành niên ........................................................................................................... 69

3.2.4. Nâng cao nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ ................................................. 70

3.2.5. Tăng cường tính đồng bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng và sự phối hợp trong giải quyết các vụ án ................................................................................................................. 72

Kết luận chương 3 .......................................................................................................................... 74

KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 77

DANH MỤC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT

TAND: Tòa án nhân dân

Tòa GĐ & NCTN: Tòa gia đình và người chưa thành niên

TTDS: Tố tụng dân sự

TTHS: Tố tụng hình sự

CBCC: Cán bộ công chức

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa gia đình và người chưa thành niên tại TAND

tỉnh Thanh Hóa qua các năm ........................................................................... 39

Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến

năm 2020 ......................................................................................................... 43

Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến

năm 2020 ......................................................................................................... 44

Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm từ

năm 2018 đến năm 2020 ................................................................................. 49

Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc

thẩm từ năm 2018 đến năm 2020…………………………………………....49

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, trẻ em là tương lai của đất nước. Bởi vậy

công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước Việt

Nam quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp

quốc về quyền trẻ em năm 1990. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ

thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ trẻ em nói chung

và người chưa thành niên trong các vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, thực

tiễn giải quyết các vụ án trong thời gian qua cho thấy, tỷ lệ tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện vẫn có chiều hướng gia tăng; cơ cấu, tổ chức, tính

chất tội phạm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng; có không ít trường hợp đã

bị Toà án xét xử, áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhưng hiệu quả của việc

áp dụng hình phạt chưa cao, tỷ lệ người chưa thành niên tái phạm còn nhiều.

Bên cạnh đó, gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà con người tiếp xúc, là

yếu tố chủ đạo cho sự hình thành và phát triển nhân cách, có tác động thường

xuyên tích cực hoặc tiêu cực đến tâm lý của mỗi thành viên, trong đó có người

chưa thành niên. Như vậy, môi trường gia đình lành mạnh sẽ tạo ra cho người

chưa thành niên những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển nhân

cách. Ngược lại, sống trong môi trường gia đình có nhiều khiếm khuyết sẽ để

lại những dấu ấn tiêu cực ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách

của người chưa thành niên. Giải quyết tốt các vấn đề thuộc quan hệ gia đình sẽ

góp phần hạn chế, ngăn ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật; đồng

thời, sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của các thành viên trong gia đình là

yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, xử lý người chưa

thành niên vi phạm pháp luật [34].

Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên (GĐ & NCTN) là

bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng

1

và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc,

giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói

riêng; góp phần thực hiện những mục tiêu đề ra trong các văn kiện, nghị quyết

của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-

2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có

yêu cầu về đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; hoạt

động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và

hiệu lực cao.

Bên cạnh đó, do đặc thù về tâm sinh lý của trẻ em, người chưa thành niên

đòi hỏi phải có những biện pháp xử lý và những thủ tục tố tụng riêng biệt. Mặc

dù Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) nước ta có một chương riêng quy định thủ

tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng nhìn chung

thủ tục đó thiếu toàn diện hoặc còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu

quả như mong muốn. Trên thực tế, từ tình hình người chưa thành niên vi phạm

pháp luật nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng vẫn chiếm tỷ

lệ cao, tái phạm và nghiêm trọng. Hơn nữa, Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam xuất

phát từ tình hình thực tế số các vụ việc về hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải

giải quyết ngày càng tăng và từ những đặc thù của các quan hệ hôn nhân và gia

đình. Theo quy định tại Điều 30, 38, 45 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

(TAND) thì trong cơ cấu tổ chức của TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND

cấp huyện có Tòa GĐ & NCTN. Việc tổ chức Tòa GĐ & NCTN ở TAND cấp

tỉnh, TAND cấp huyện căn cứ vào yêu cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi

Tòa án; căn cứ vào biên chế đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của

từng Tòa án và do Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định. Để việc tổ

chức các Toà chuyên trách nói chung, Tòa GĐ & NCTN nói riêng được thực

hiện thống nhất trong cả nước, ngày 21/1/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban

hành Thông tư số 01 quy định việc tổ chức các Toà chuyên trách tại TAND

2

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh và tương đương; trong đó, quy định cụ thể về thẩm quyền và quy

trình tổ chức Tòa GĐ & NCTN. Chánh án TAND tối cao cũng có ý kiến chỉ

đạo Tòa án các cấp về công tác nhân sự, yêu cầu về cơ sở vật chất, chuyên môn,

về sự phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phúc lợi xã hội, cơ

quan y tế, giáo dục ở trung ương và địa phương trong việc giải quyết các vụ

việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.

Là địa phương còn khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng thời

gian qua, TAND tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều cải cách trong hoạt động tư pháp,

đặc biệt là tư pháp người chưa thành niên. Trên cơ sở chỉ đạo sát sao của cấp

ủy, sự ủng hộ, tạo điều kiện của chính quyền, nhân dân và sự tham gia hỗ trợ,

hợp tác tích cực và hiệu quả của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, hệ thống cơ

quan tư pháp tại Thanh Hóa đang từng bước được tổ chức, hoạt động hiệu quả,

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Để phù hợp với yêu cầu phát triển chung,

thực hiện Luật Tổ chức TAND và các đạo luật về tố tụng tư pháp, ngày

28/8/2017, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số 1425/QĐ-

TCCB thành lập Tòa GĐ & NCTN tại tỉnh Thanh Hóa. Việc thành lập Tòa GĐ

& NCTN không chỉ là sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của TAND mà là thiết chế

tạo điều kiện để chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và

người chưa thành niên nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và rút ngắn thời

hạn giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại TAND. Với

những lý do vừa nêu, tác giả quyết định chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động

của Toà gia đình và người chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân

dân năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá” cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ

của mình.

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án về gia đình và

người chưa thành niên cũng như các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động

của TAND nói chung, Tòa chuyên trách và Tòa GĐ & NCTN nói riêng được

tác giả tìm hiểu, tổng hợp cụ thể:

Tác giả Hoàng Văn Quang (2018), Đảm bảo quyền của người chưa thành

niên trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình - qua thực tiễn

tại TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội [15].

Tác giả Trần Đức Anh (2016), Tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh

thần Hiến pháp năm 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [1].

Tác giả Phan Đức Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của

TAND trong tiến trình cái cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội. Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền

tư pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy nhà

nước, các quan điểm về đổi mới, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới

tổ chức và hoạt động của TAND. Từ đó làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động của

TAND ở nước ta và nêu nguyên nhân, hạn chế trong tiến trình cải cách tư pháp.

Đề xuất những phương hướng cơ bản và kiến nghị về xác định lại thẩm quyền

xét xử và thiết kế mới mô hình tổ chức của các tòa án; nâng cao tính độc lập,

nghiêm minh của hoạt động xét xử; nâng cao năng lực, phẩm chất và địa vị pháp

lý của Thẩm pháp, Hội thẩm nhân dân, nhằm đổi mới và hoàn thiện tổ chức và

hoạt động của TAND, xây dựng hệ thống Tòa án trong sạch, vững mạnh, dân

chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử nói chung [14].

Tác giả Lữ Thị Hằng (2019), Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành

niên ở Việt Nam và Hàn Quốc - nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí Nghiên

4

cứu Lập pháp. Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam được quy định lần đầu tiên tại

Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, được tổ chức theo mô hình Tòa chuyên trách,

là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức tại TAND cấp huyện và tương đương,

TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND cấp cao. Hiện tại,

mô hình Tòa GĐ & NCTN tại TAND cấp tỉnh, cấp huyện mới được tổ chức thí

điểm, do đó, để mô hình Tòa chuyên trách này được hoạt động hiệu quả, việc

học tập kinh nghiệm nước ngoài là cần thiết [8].

Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của

Toà gia đình và người chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm

2014 từ thực tiễn tỉnh Thanh Hoá”, tác giả có thuận lợi được tham khảo khá

nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ

yếu tập trung nghiên cứu về người chưa thành niên, gia đình trong hoạt động

TTHS, vấn đề về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói chung và Tòa

GĐ & NCTN nói riêng chưa nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả. Do đó,

việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN là rất cần thiết,

góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề này tại một địa phương cụ

thể là tỉnh Thanh Hóa.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nêu khái quát vấn đề lý luận, đánh giá thực tiễn tổ chức và hoạt

động của Tòa GĐ & NCTN, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức

và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên

cứu là:

- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động

của Tòa GĐ & NCTN;

5

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tổ

chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN tại tỉnh Thanh Hóa;

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

động của Tòa GĐ & NCTN.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề tổ chức và nâng

cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về

vị trí pháp lý, chức năng, nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ

chức, thẩm quyền của TAND ở nước ta và các vấn đề có liên quan đến gia đình

và người chưa thành niên được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ

chức TAND năm 2014 để làm cơ sở lý luận cho việc thành lập Tòa GĐ &

NCTN. Đồng thời tác giả còn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật

có liên quan đến công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa

thành niên, mà cụ thể là các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật

TTHS năm 2015 liên quan vấn đề gia đình và người chưa thành niên phạm tội.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan

điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền,

cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp và

thủ tục tư pháp nói riêng.

Ngoài ra, luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng những kiến thức

đã học; sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở kết hợp

với phương pháp phân tích, tổng hợp những tài liệu có liên quan đến tình hình

6

giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên và các vụ việc

về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp phân

tích luật viết, so sánh đối chiếu những quy định của pháp luật với thực tiễn áp

dụng những quy định đó. Thông qua đó làm sáng tỏ những bất cập có liên quan

đến tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về

cải cách tư pháp mà trọng tâm là sắp xếp hiệu quả tổ chức TAND nói chung và

tòa chuyên trách nói riêng, hình thành hệ thống các vấn đề lý luận về hoạt động

của tòa chuyên trách, Tòa GĐ & NCTN.

Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế trong

thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, qua đó, đưa

ra những giải pháp có tính khả thi giúp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả

triển khai các nhiệm vụ của Tòa GĐ & NCTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

7. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được

kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Toà gia đình

và người chưa thành niên

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà gia đình và người

chưa thành niên theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 từ thực tiễn tỉnh

Thanh Hoá;

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao

hiệu quả hoạt động của Toà gia đình và người chưa thành niên.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. Khái quát chung về gia đình và người chưa thành niên

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của gia đình

Gia đình gắn liền với đời sống của mỗi con người. Trong đời sống xã hội

từ xưa đến nay, gia đình luôn giữ vị trí quan trọng. Hồ Chủ tịch đã nói: “Rất

quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã

hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”. Chính vì vậy, xây

dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” đang là vấn đề thu hút

sự quan tâm của nhiều người, trong đó có tất cả chúng ta [34].

Gia đình Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với một loạt thử thách

lớn khi chuyển từ mô hình gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Để tồn

tại và phát triển, mỗi gia đình phải tìm cách thích ứng với những điều kiện mới,

từng thành viên trong gia đình phải tự điều chỉnh các mối quan hệ trong gia

đình. Thực tế cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cùng với những

trào lưu tiến bộ về khoa học công nghệ có phần không tương xứng với sự phát

triển văn hóa, xã hội đã làm đổ vỡ, mờ nhạt một số hệ thống giá trị tinh thần,

đạo đức ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam; không ít những gia

đình Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, bế tắc, thậm chí tan vỡ đã kéo theo

sự suy thoái về các định hướng giá trị, ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển

của thế hệ trẻ, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình còn gặp không ít

những khó khăn, khúc mắc và những vấn đề nan giải [8].

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình của các nhà khoa học

nghiên cứu ở từng góc độ khác nhau, ở đây chúng ta có thể hiểu khái niệm gia

đình như sau: “Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hôn

nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó và

8

ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được

nhà nước thừa nhận và bảo vệ”.

Từ khái niệm này, chúng ta tìm hiểu đặc trưng cơ bản của gia đình để

xem xét các mối quan hệ của gia đình ở góc độ là một nhóm xã hội, nhóm tâm

lý - tình cảm đặc thù, với các mối quan hệ bên trong, với sự tác động qua lại

trong nội bộ của các thành viên để thỏa mãn những nhu cầu của mỗi người, đặc

biệt là mối quan hệ giữa vợ và chồng.

Gia đình ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được

coi là một vấn đề xã hội lớn, được đánh giá là một trong nhiều yếu tố quan

trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Việc tổ chức gia đình tốt

và giáo dục trong gia đình chu đáo sẽ có tác động sâu xa đến việc hình thành

nhân cách con người, tạo tiền đề quan trọng để cung cấp nguồn nhân lực đáp

ứng với yêu cầu của đất nước trong quá trình phát triển. Vì vậy, giáo dục gia

đình thể hiện tính đa dạng và nhiều chiều, nó vừa có ảnh hưởng của cá nhân

đối với cá nhân (giữa cha mẹ với con cái; giữa ông bà với cháu) vừa có ảnh

hưởng của cả tập thể gia đình liên kết với nhau tác động đến từng cá nhân qua

lối sống, nếp sống ở mỗi gia đình. Tính đa dạng còn thể hiện qua phương pháp

giáo dục, không chỉ bằng lời nói mà bằng thái độ, tình cảm, nêu gương, không

chỉ là nói lý thuyết hay nói suông mà phải bằng thực tiễn từ những việc làm cụ

thể. Tính nhiều chiều trong giáo dục gia đình thể hiện qua việc tiếp xúc rộng

rãi với môi trường xã hội mà các thành viên trong gia đình là người trực tiếp

tham gia vào các mối quan hệ đó. Đây là những vấn đề quan trọng ở mỗi gia

đình khó có thể hình dung hết và thấy hết được trách nhiệm cũng như vai trò

đóng góp to lớn của “tế bào” nhỏ bé của mình cho tương lai của dân tộc.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên

Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định

nghĩa: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về

9

thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân".

Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì "Trẻ

em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em

đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em

thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối

với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc

thông qua ngày 14/12/1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng

đề cập đến khái niệm "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" như là một

sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em. Do sự phát triển của từng quốc gia

khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác

nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn

còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa

thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy

định không thống nhất về vấn đề này [8].

Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong

quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng

như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái

niệm về người chưa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng

ngành luật, như sau: Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 quy

định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi" và Điều 161 Bộ

luật lao động Việt Nam năm 2012 cũng quy định: "Người lao động chưa thành

niên là người lao động dưới 18 tuổi” [18].

Như vậy, có thể hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Quan

niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày

20/2/1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

10

Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể

lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.

Chình vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý.

Thứ nhất, về trạng thái cảm xúc

Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh

lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự

phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời

trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trên thực tế, trạng thái thần kinh,

trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch

chuẩn. Có không ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ, nhưng

không kiềm chế được sự nóng giận quá khích mà người chưa thành niên đã

phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ hai, về nhận thức pháp luật

Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển như “vũ bão”

về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà kinh

nghiệm trong cuộc sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp

luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện

hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá

nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải

thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.

Thứ ba, về nhu cầu độc lập

Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra

quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác.

Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập không chỉ có mặt tích

cực mà còn có mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá. Đặc

biệt, ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra

bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ,

11

phô trương. Tất cả những hành vi này của người chưa thành niên đều mang tính

chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội.

Thứ tư, về nhu cầu khám phá cái mới

Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở

lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể

trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em,

nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không

tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai.

1.1.3. Mối liên hệ giữa gia đình và sự phát triển của người chưa thành niên

Gia đình luôn có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân

cách của người chưa thành niên. Giáo dục gia đình không chỉ tác động mạnh

mẽ đến sự hình thành nhân cách của trẻ em ở giai đoạn ấu thơ mà nó còn quyết

định sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của chúng trong các giai đoạn của cuộc

đời, đặc biệt là giai đoạn chưa thành niên. Vì vậy, xây dựng gia đình no ấm,

tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan

trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của con trẻ, đặc biệt

là trẻ vị thành niên.

Gia đình hạnh phúc, các em cảm nhận được tình yêu thương, sự che chở,

giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong gia đình, sự chăm sóc và giáo dục

của ông bà, cha mẹ, giúp các em có một môi trường phát triển lành mạnh, góp

phần kéo giảm và ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật ở người chưa thành

niên. Nhưng nếu gia đình không hạnh phúc, các em thường xuyên chứng kiến

những mâu thuẫn, cãi vã hoặc hành vi mang tính chất bạo lực thì những lời nói,

những hình ảnh đó sẽ dần ăn sâu vào tâm trí và từng ngày làm tổn thương về

tâm lý của các em và từ hành vi đó làm cho các em sẽ trở nên thô bạo trong suy

nghĩ và hành động và là nguyên nhân dẫn đến những hành động gây nguy hại

cho bản thân mình và cho xã hội [8].

12

1.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên trên thế giới

1.2.1. Các mô hình cơ bản của Tòa Gia đình và người chưa thành

niên trên thế giới

* Mô hình Tòa cho trẻ em có nguy cơ (hay mô hình an sinh phúc lợi)

Năm 1889, lần đầu tiên trên thế giới, mô hình Tòa án người chưa thành

niên được hình thành. Tòa án người chưa thành niên được trao quyền tài phán

với đối tượng là các nhóm trẻ em bị cáo buộc phạm tội; nhóm trẻ em là đối

tượng bị xâm hại và nhóm trẻ em không còn sự chăm sóc của cha mẹ do cha

mẹ đã mất, bị khuyết tật hoặc các vì lý do khác. Sau đó, mô hình này được phát

triển tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy thẩm quyền tài phán của hệ thống

Tòa án người chưa thành niên được xác lập theo hướng gắn với 3 nhóm đối

tượng nêu trên, nhưng các Tòa án này trên thực tế lại chủ yếu xử lý những vụ

việc người chưa thành niên bị cáo buộc có hành vi sai trái, bao gồm cả những

hành vi phạm tội và những hành vi không có tính chất tội phạm như trốn học,

bỏ nhà đi lang thang. Các cán bộ giám sát thử thách và cán bộ thi hành án được

trao quyền chủ động rộng rãi trong việc quyết định các biện pháp phục hồi cho

người chưa thành niên và các phiên tòa được xét xử kín để bảo đảm không làm

ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của các em khi trưởng thành v.v.. Tuy nhiên,

mô hình này cũng đã bộc lộ những nhược điểm nhất định, chẳng hạn như việc

các cán bộ giám sát thử thách và cán bộ thi hành án được trao quyền tự chủ

rộng rãi trong việc quyết định áp dụng các biện pháp phục hồi cho người chưa

thành niên có thể dẫn đến tình trạng lạm quyền; trong khi đó, các cán bộ này

lại không có đầy đủ các điều kiện cần thiết để bảo đảm cho việc thực hiện trách

nhiệm hỗ trợ phục hồi [8].

* Mô hình tư pháp người chưa thành niên (hay mô hình trừng phạt)

Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, do xu hướng ngày càng gia tăng

của các tội phạm có tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm do người chưa

13

thành niên thực hiện, một số quốc gia, điển hình là Canada, Anh và xứ Wales…

đã có cách tiếp cận mang tính cứng rắn hơn trong việc xử lý trách nhiệm của

người chưa thành niên có hành vi phạm tội. Hệ thống Tòa án cho người chưa

thành niên đã từng tồn tại ở các quốc gia này đã chuyển dần từ yêu cầu về trách

nhiệm phục hồi sang việc nhấn mạnh yếu tố trách nhiệm và trừng phạt trong

việc xử lý các hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện, theo hướng

gần tương đương đối với người đã thành niên phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn

cũng cho thấy đường lối “cứng rắn” này trong việc xử lý người chưa thành niên

phạm tội cũng không chứng tỏ được hiệu quả rõ rệt của nó trong việc làm giảm

bớt số lượng các vi phạm pháp luật và tội phạm do người chưa thành niên thực

hiện hay hỗ trợ quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên.

* Mô hình Tòa gia đình

Đây là mô hình Tòa án người chưa thành niên xuất hiện trong thời gian

gần đây. Theo đó, mục đích của mô hình Tòa án này là đưa tất cả vấn đề gia

đình vào xử lý trong quá trình tố tụng và đội ngũ hỗ trợ dịch vụ xã hội. Cách

tiếp cận này cho phép thẩm phán đánh giá và nhận thức một cách đầy đủ hơn

về những vấn đề đang diễn ra trong gia đình của trẻ phạm tội, từ đó có đầy đủ

thông tin và áp dụng các biện pháp xử lý mang tính “trị liệu” hợp lý hướng vào

cả gia đình lẫn bản thân người chưa thành niên phạm tội. Có thể nhận xét rằng,

các mô hình Tòa án người chưa thành niên nêu trên được xác lập trên cơ sở

thực tiễn về điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị – pháp lý cụ thể của từng quốc

gia. Do đó không có một mô hình nào là hoàn hảo và áp dụng chung cho tất cả

các quốc gia. Ở những mức độ khác nhau, trong từng mô hình này đều có những

ưu điểm cũng như những nhược điểm nhất định, hoặc mô hình tổ chức và hoạt

động của nó vẫn đang trong quá trình kiểm nghiệm, còn phải tiếp tục phát triển

trong thực tiễn [8].

14

1.2.2. Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên ở một số quốc

gia trên thế giới

1.2.2.1. Mô hình Tòa Gia đình Liên Bang của Úc

* Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền

Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của Tòa Gia đình Liên bang bao gồm:

01 Chánh án, 01 Phó chánh án và các thẩm phán. Thẩm phán của Tòa Gia đình

được bổ nhiệm bởi Toàn quyền Úc trên cơ sở đề nghị của Nghị viện với nhiệm

kỳ dài hạn đến 70 tuổi. Những người được lựa chọn bổ nhiệm làm thẩm phán

của Tòa Gia đình thường là những luật sư có uy tín và cũng có thể là những

chuyên gia trong lĩnh vực gia đình học.

Thẩm quyền: Tòa Gia đình Liên bang có thẩm quyền giải quyết đối với

các yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu hoặc hôn nhân là hợp pháp, ly hôn, cư

trú, liên lạc, giám hộ, cấp dưỡng và tài sản liên quan đến các quan hệ nói trên.

Tòa Gia đình Liên bang xét xử phúc thẩm các vụ án liên quan đến gia đình do

Tòa án sơ thẩm Liên bang xét xử sơ thẩm; phúc thẩm các phán quyết do một

thẩm phán xét xử của Tòa Gia đình Liên bang; phúc thẩm các phán quyết của

Tòa Gia đình bang Tây Úc [35].

* Ưu và nhược điểm của mô hình này

Ưu điểm: Tổ chức Tòa Gia đình Liên bang là một cấp tòa trung gian độc

lập, đồng thời vẫn chia sẻ thẩm quyền sơ thẩm các vụ việc liên quan đến gia

đình cho Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền chung, khẳng định sự độc lập trong

hoạt động của cơ quan này. Tòa Gia đình Liên bang có các văn phòng luật gia

đình có chức năng hỗ trợ, tư vấn những vấn đề liên quan đến gia đình. Đi cùng

với các văn phòng này là hoạt động của các chuyên gia về gia đình. Hoạt động

của các văn phòng này giúp cho các gia đình có thể giải quyết hòa bình được

các xung đột mà không phải đưa ra Tòa án.

15

Nhược điểm: Tòa Gia đình Liên bang là một cấp Tòa độc lập, đây là ưu

điểm và cũng chính là nhược điểm của mô hình này. Do được tổ chức độc lập

nên làm cho hệ thống Tòa án thêm cồng kềnh.

Mô hình Toà gia đình hợp nhất là một phương pháp tiếp cận tổng thể

nhằm xử lý các vấn đề của gia đình trên cơ sở đảm bảo cuộc sống và phúc lợi

cho tất cả các thành viên của gia đình đó. Mô hình này tập trung tăng cường

tính hiệu quả và giảm sức ép thông qua việc chỉ định một Thẩm phán được đào

tạo đặc biệt về pháp luật gia đình phối hợp, hỗ trợ một gia đình cụ thể xử lý tất

cả các vấn đề của mình theo phương thức hỗ trợ chứ không phải là phán xét.

Để đạt được mục tiêu bao quát này, cần phải xây dựng một hệ thống có đủ năng

lực. Việc xây dựng một hệ thống như vậy đòi hỏi phải có công tác tập huấn phù

hợp cho đội ngũ Thẩm phán và cán bộ Toà án, xây dựng các hệ thống tích hợp

thông tin và quản lý các dịch vụ xã hội hoàn thiện bao gồm dịch vụ tham vấn,

giải quyết tranh chấp, điều trị cai nghiện... Nếu không xây dựng được năng lực

như vậy, mô hình Toà gia đình hợp nhất có khả năng sẽ không đạt được tất cả

tiềm năng và mục đích mà nó đặt ra.

1.2.2.2. Mô hình Tòa Gia đình ở Nhật Bản

Nhật Bản đã có một hệ thống tư pháp riêng cho trẻ em vi phạm pháp luật

từ năm 1949. Luật Người chưa thành niên của Nhật Bản hoàn toàn dựa trên nền

tảng phúc lợi để điều chỉnh, đặc biệt là đối với trẻ em dưới 14 tuổi. Mô hình

này kết hợp với một truyền thống văn hoá gia đình và kiểm soát xã hội mạnh

mẽ đã giữ tỷ lệ tội phạm chưa thành niên của Nhật Bản trong thời gian dài ở

mức thấp. Tuy nhiên gần đây, cùng với xu hướng tăng của tội phạm và một số

vụ phạm tội do trẻ em thực hiện gây chấn động lớn, Nhật Bản đã tăng cường

quyền lực của nhà nước trong việc xử lý các bị can thanh thiếu niên. Luật mới

quy định về thủ tục điều tra của Cảnh sát đối với thanh thiếu niên dưới 14 tuổi

và lần đầu tiên cho phép Tòa Gia đình đưa trẻ em vào các trường giáo dưỡng/cơ

16

sở phục hồi thay vì đưa vào các trung tâm hướng dẫn trẻ em. Luật sửa đổi cũng

quy định thiết lập một hệ thống mới có chức năng chuyển các vụ án nghiêm

trọng từ Toà Gia đình sang Toà dành cho người trưởng thành [35].

Toà gia đình Nhật bản có quyền xét xử đối với trẻ em và thanh thiếu niên

dưới 20 tuổi vi phạm pháp luật. Đạo luật về người chưa thành niên đã cung cấp

một định nghĩa rất rộng về “người chưa thành niên vi phạm pháp luật”. Định

nghĩa này không chỉ bao gồm thanh thiếu niên đã có hành vi phạm tội mà còn

bao gồm cả những em “mà xu hướng phát triển của họ cho thấy họ có thể phạm

tội trong tương lai”, đó là những người chưa thành niên thường xuyên không

chấp hành sự chỉ dẫn chính đáng của người giám hộ mình, thường xuyên bỏ

nhà không có lý chính đáng, giao du với những người có khuynh hướng phạm

tội hoặc những người có tính cách vô đạo đức, hoặc thường xuyên có hành vi

đe dọa đến đạo đức cá nhân của mình. Toà gia đình cũng có quyền xét xử đối

với người trưởng thành có các hành vi làm tổn hại đến cuộc sống và phúc lợi

của trẻ em. Các vấn đề khác như cấp dưỡng và quyền nuôi dưỡng con thuộc

phạm vi xử lý của bộ phận quan hệ gia đình của Toà gia đình.

Ưu điểm: Mô hình Tòa Gia đình của Nhật Bản kết hợp với một truyền

thống văn hóa gia đình và kiểm soát xã hội mạnh mẽ đã giữ tỷ lệ tội phạm chưa

thành niên ở nước này trong thời gian dài ở mức thấp.

Nhật Bản dựa chủ yếu vào các biện pháp xử lý không chính thức trong

gia đình và cộng đồng để quản lý hành vi của trẻ em và thanh thiếu niên. Ngoài

ra, Cảnh sát Nhật còn hoạt động rất tích cực. Họ đi thăm những trường học,

tham gia vào những diễn đàn của cộng đồng để tập huấn cho các giáo viên, cha

mẹ và trẻ em về hệ thống tư pháp người chưa thành niên. Những hoạt động

nhằm định hướng, khuyên bảo người chưa thành niên như thế này đã đạt được

thành công lớn trong việc hạn chế người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

Có sự điều tra rất chi tiết kéo dài từ 4 đến 8 tuần về hoàn cảnh của thanh thiếu

17

niên trước khi vụ án được đưa ra Tòa gia đình xét xử, nên việc đưa ra các biện

pháp xử lý đối với thanh thiếu niên không những tuân thủ quy định của pháp

luật mà còn tùy thuộc hoàn cảnh của các em.

Nhược điểm: Nhật Bản là một ví dụ điển hình về một hệ thống tư pháp

đã chuyển từ mô hình thuần tuý phục hồi sang một mô hình mang tính xử phạt

nhiều hơn trong những năm gần đây. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng, mô hình

mang tính xử phạt người chưa thành niên phạm tội không đem lại hiệu quả

trong việc giảm thiểu tỷ lệ tái phạm hay hỗ trợ quá trình phát triển tích cực của

người chưa thành niên.

Nhật Bản là một ví dụ điển hình về một hệ thống tư pháp đã chuyển từ

mô hình thuần tuý phục hồi sang một mô hình mang tính xử phạt nhiều hơn

trong những năm gần đây. Và sự chuyển đổi này đã bắt đầu nhận được một số

phản ứng. Năm 2004, Ủy ban về Quyền Trẻ em của Liên hợp quốc đã bày tỏ

quan ngại về xu hướng thay đổi này, đặc biệt là với quyết định của Nhật về việc

giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và kéo dài thời hạn cho phép giữ người

chưa thành niên trong cơ sở giam giữ. Uỷ ban này cũng kết luận rằng việc áp

dụng thủ tục TTHS là “không phù hợp đối với trẻ em”.

1.2.2.3. Mô hình Tòa án vị thành niên và gia đình ở Thái Lan

Thái Lan đã có hệ thống tư pháp riêng cho thanh thiếu niên từ năm 1951.

Đạo luật về Toà gia đình và người chưa thành niên hiện nay đang áp dụng đã

được ban hành từ năm 1991. Đạo luật này đã tạo ra một hệ thống Toà án chuyên

trách có quyền tài phán đối với hai nhóm vụ án chính là: 1) những vụ án có trẻ

em vi phạm pháp luật; và 2) những vụ án liên quan tới các vấn đề gia đình bao

gồm ly hôn, tiền cấp dưỡng nuôi con, quyền nuôi con và thăm nom con. Năm

2003, Thái Lan đã thông qua một Đạo luật Bảo vệ Trẻ em riêng tập trung vào

bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bạo lực, xâm hại, bóc lột [35].

* Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền

18

Cơ cấu tổ chức: Tòa án vị thành niên và gia đình có hai bộ phận: Bộ phận

xét xử và Bộ phận hành chính.

Bộ phận xét xử: gồm Thẩm phán và Hội thẩm.

Thẩm phán Tòa án vị thành niên và gia đình được cử trong số cán bộ tư

pháp theo quy định của “Quy định công vụ tư pháp”, phải là người có tính cách

và hành vi tốt để giáo dục và khuyên dạy vị thành niên.

Hội thẩm: là người được bầu theo thủ tục quy định tại Quy chế của Bộ

Tư pháp và sau đó do Tư lệnh hoàng gia bổ nhiệm. Hội thẩm tham gia trong

Hội đồng xét xử hình sự và dân sự có liên quan đến vị thành niên.

Bộ phận hành chính: gồm có Thư ký Tòa án và các cán bộ, nhân viên

văn phòng có trách nhiệm thực hiện các công việc hành chính của Tòa.

Thẩm quyền: Tòa vị thành niên và gia đình có thẩm quyền xét xử sơ thẩm

các vụ án hình sự đối với người ở độ tuổi từ đủ 7 tuổi cho đến dưới 18 tuổi tại

thời điểm phạm tội và giải quyết các vụ án có liên quan đến vị thành niên hoặc

gia đình theo quy định của Bộ luật dân sự và thương mại.

* Ưu và nhược điểm của mô hình này

Ưu điểm: Áp dụng thành công biện pháp xử lý chuyển hướng, đưa một

số lượng lớn thanh thiếu niên ra khỏi hệ thống tư pháp hình sự thông qua biện

pháp họp gia đình và cộng đồng. Khi áp dụng biện pháp họp gia đình và cộng

đồng chỉ có 3% số trẻ em tái phạm.

Xét xử kín các vụ án hình sự có liên quan đến người chưa thành niên, khi

xét xử bị cáo chưa thành niên không bị gông cùm, trừ trường hợp phạm tội có

mức hình phạt cao nhất trên 10 năm tù.

Một nhân tố quan trọng trong tiến bộ của Thái Lan đối với việc giải quyết

các vấn đề về trẻ em là sự cởi mở và sự sẵn sàng của một bộ phận các Thẩm

phán, cán bộ các Bộ, các nhà lập pháp và các tổ chức phi chính phủ trong việc

phối hợp để cải thiện các hệ thống cho trẻ em. Một ví dụ cho sự phối hợp này

19

chính là quy định pháp luật về lấy lời khai “thân thiện với trẻ em” của Thái

Lan. Bộ luật TTHS của Thái Lan quy định tất cả nạn nhân, nhân chứng trẻ em

và thanh thiếu niên vi phạm pháp luật phải được lấy lời khai riêng tại một địa

điểm phù hợp do một nhà tâm lý hoặc cán bộ phúc lợi xã hội tiến hành. Trong

quá trình lấy lời khai, trẻ em được phép ngồi trong một phòng cùng với nhà tâm

lý hoặc cán bộ phúc lợi xã hội và một người mà em đó tin cậy lựa chọn. Trẻ em

được quyền có cố vấn pháp lý có mặt cùng với mình. Nếu trẻ không có Luật

sư, Nhà nước phải chỉ định Luật sư cho các em. Công tố viên và Cảnh sát sẽ

theo dõi cuộc lấy lời khai từ một phòng liền kề qua hệ thống gương một chiều

và hệ thống loa. Công tố viên sẽ cố vấn cho cán bộ xã hội về các câu hỏi cần

đặt trong quá trình lấy lời khai thông qua hệ thống truyền âm thanh vào tai nghe

mà người cán bộ xã hội này đeo. Cuộc lấy lời khai được ghi lại vào đĩa CD để

Công tố viên có thể nghe lại sau này nếu cần. Những biện pháp thân thiện với

trẻ em này đã rất thành công trong việc làm giảm những chấn thương về tâm lý

của trẻ em được lấy lời khai; giảm những khiếu nại về việc Cảnh sát cư xử

không đúng mực trong quá trình lấy cung; và tạo thuận lợi cho quá trình xét xử

vụ án.

Khi giải quyết các vụ án về gia đình thì lợi ích tốt nhất của người chưa

thành niên được quan tâm đúng mức. Trước khi Tòa án tiến hành giải quyết các

vụ án gia đình thì phải tiến hành hòa giải. Cán bộ hòa giải do Tòa chỉ định nếu

hòa giải thành thì ký thỏa ước hòa giải dưới sự chứng kiến của Thẩm phán. Nếu

hòa giải không thành thì Tòa chỉ định một cán bộ xã hội hoặc nhà tâm lý điều tra

về tình trạng gia đình và báo cáo với Tòa về việc trẻ em - con em của gia đình

đó - cần làm gì để bảo đảm cuộc sống và phát triển của các em trong tương lai.

Nhược điểm: Mỗi Tòa vị thành niên và gia đình đều có Trung tâm giám

sát và Bảo vệ vị thành niên, vì vậy mô hình này cần nguồn nhân lực và chi phí

rất lớn. Thẩm phán và Giám đốc Trung tâm Bảo trợ người chưa thành niên

20

được giao quyền tự chủ rất lớn, điều này dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chủ

quan trong việc đưa ra các quyết định.

Để mô hình Tòa vị thành niên và gia đình hoạt động có hiệu quả trong

thực tế thì đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ khâu điều tra, truy tố, xét xử đến cả thi

hành án, đây là một công việc rất khó khăn bởi lẽ nó cần có nguồn nhân lực có

trình độ và tất cả các cán bộ trong các cơ quan này phải được chuyên môn hóa

- tức là phải trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về người chưa thành

niên. Vì vậy, đây cũng là vấn đề khó thực hiện, cần có thời gian để xây dựng

và hoàn thiện pháp luật, cũng như đào tạo Thẩm phán, cán bộ chuyên sâu để họ

nắm vững tâm - sinh lý và hoàn cảnh của người chưa thành niên này.

1.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa gia đình và người chưa

thành niên tại Việt Nam

1.3.1. Vị trí của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống

Tòa án

Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Việt Nam là

bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia về bảo

vệ các quyền dân sự, quyền của trẻ em. Tòa GĐ & NCTN không phải là “Tòa

án đặc biệt” cũng như không phải được thành lập thành một hệ thống Tòa án

độc lập, song song với hệ thống TAND sẽ được thành lập theo Nghị quyết số

49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị. Mục tiêu chủ yếu của

việc thành lập Tòa án này là để chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ

việc có liên quan đến gia đình và người chưa thành niên xuất phát từ bản chất

của các quan hệ xã hội và chủ thể của các quan hệ đặc biệt này. Vì vậy, xét về

bản chất, đây là loại Tòa chuyên trách nằm trong hệ thống TAND [8].

Điều kiện để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên

Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN phải gắn với việc tổ chức hệ thống

TAND theo tinh thần cải cách tư pháp; cụ thể như sau:

21

- Trường hợp thành lập TAND sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số đơn

vị hành chính cấp huyện, thì so với TAND cấp huyện hiện nay, tổ chức của Tòa

án này sẽ lớn mạnh hơn nhiều. Số vụ việc hàng năm Tòa án giải quyết sẽ tăng

lên nhất là ở các TAND sơ thẩm khu vực ở các đô thị. Số lượng Thẩm phán cũng

sẽ tăng tương ứng. Đây là điều kiện cơ bản để tiến hành việc cơ cấu tổ chức

TAND sơ thẩm khu vực theo loại quan hệ xã hội, loại vụ việc và chuyên môn

hóa đội ngũ Thẩm phán. Theo đó, TAND sơ thẩm khu vực ở những nơi có đủ

điều kiện (nếu được thành lập) sẽ thành lập các Tòa chuyên trách như: Tòa hình

sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa GĐ & NCTN. Như vậy, Tòa GĐ & NCTN

là một Tòa chuyên trách trong TAND sơ thẩm khu vực.

- Trường hợp chưa thành lập TAND sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số

đơn vị hành chính cấp huyện thì không thành lập Tòa chuyên trách về gia đình

và người chưa thành niên ở cấp huyện nhưng cần phải có các Thẩm phán

chuyên trách giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên.

- TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án theo quy định của

pháp luật tố tụng và có các tòa chuyên trách như: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa

lao động, Tòa hành chính và sẽ thành lập thêm Tòa GĐ & NCTN để xem xét,

giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm các vụ việc về gia đình và người

chưa thành niên theo thẩm quyền.

- TAND cấp cao khu vực (nếu được thành lập) hoặc các Tòa phúc thẩm

TAND tối cao hiện nay không có các tòa chuyên trách nên không đặt vấn đề

thành lập Tòa GĐ & NCTN tại các Tòa án này. Tuy nhiên, cần thiết có các

Thẩm phán chuyên trách sâu về lĩnh vực gia đình và người chưa thành niên để

phân công chủ trì giải quyết các vụ việc có liên quan đến gia đình và người

chưa thành niên.

- TAND tối cao được tổ chức như hiện nay (có các tòa chuyên trách như:

Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa lao động, Tòa kinh tế để thực hiện chức năng xét

22

xử giám đốc thẩm, tái thẩm), thì cần thành lập Tòa GĐ & NCTN để xét xử giám

đốc thẩm, tái thẩm những vụ án liên quan đến gia đình và người chưa thành niên

theo quy định của pháp luật tố tụng.

- Trường hợp có đổi mới tổ chức của TAND tối cao và không còn Tòa

chuyên trách trong tổ chức của TAND tối cao thì cần có các Thẩm phán chuyên

trách về lĩnh vực gia đình và người chưa thành niên để tham gia Hội đồng giám

đốc thẩm, tái thẩm các vụ án có liên quan đến gia đình và người chưa thành

niên. Hội đồng được thành lập theo pháp luật tố tụng khi xét xử giám đốc thẩm,

tái thẩm, chứ không phải là một tổ chức được thành lập để hoạt động thường

xuyên.

1.3.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức của Tòa gia đình

và người chưa thành niên

Trong thời gian qua, để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và thực

hiện chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48

của Bộ Chính trị, cùng với việc thông qua Luật Tổ chức TAND năm 2014,

Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng về tư pháp như Bộ luật Hình

sự, Bộ luật TTHS, Bộ luật dân sự, Bộ luật TTDS, Luật Tố tụng hành chính.v.v.

Theo các đạo luật này thì trong cơ cấu tổ chức của TAND cấp cao, cấp tỉnh và

cấp huyện có Tòa GĐ & NCTN. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự và Bộ luật TTHS

đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ về tư pháp người chưa thành niên nói chung,

chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng; trong đó,

cùng với việc tiếp tục bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm là yêu

cầu về bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên, với những quy định

hết sức cụ thể.

Để triển khai thực hiện điểm b khoản 1 Điều 38 và khoản 1 Điều 45 Luật

Tổ chức TAND năm 2014, ngày 12/4/2016, TAND tối cao ban hành Công văn

số 99/TANDTC-PC về triển khai thực hiện việc tổ chức Tòa GĐ & NCTN.

23

Theo đó, Tòa GĐ & NCTN được tổ chức ở TAND cấp huyện và tương đương,

TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND cấp cao. Đây là

một trong các Tòa chuyên trách thuộc TAND, được tổ chức theo quy định tại

Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của TAND tối cao quy định việc

tổ chức các Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Việc tổ chức

Tòa GĐ & NCTN ở TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện được căn cứ vào yêu

cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi Tòa án; căn cứ vào biên chế đội ngũ

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của từng Tòa án và do Chánh án TAND tối

cao xem xét, quyết định.

Tại Công văn này, Chánh án TAND tối cao chỉ đạo các Tòa án cần chủ

động xây dựng Quy chế phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức

phúc lợi xã hội, cơ quan y tế, giáo dục ở trung ương và địa phương để phối hợp

với Tòa án giải quyết tốt các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.

Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án TAND

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương khẩn trương chuẩn

bị các điều kiện cần thiết, đặc biệt là về công tác nhân sự và cơ sở vật chất để

tổ chức Tòa GĐ & NCTN, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả và đúng quy định của

pháp luật. Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình Tòa chuyên

trách nên nhân sự cũng bao gồm các Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Đội ngũ

lãnh đạo bao gồm Chánh Tòa và các Phó Chánh tòa.

* Trình tự, thủ tục thành lập Tòa GĐ & NCTN

Theo quy định tại Điều 4 Thông tư 01/2016/TT-CA về trình tự, thủ tục

tổ chức Tòa chuyên trách như sau:

- Chuẩn bị tổ chức Tòa GĐ & NCTN

Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào các

điều kiện tổ chức, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại TAND

24

tỉnh, huyện và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; rà soát

về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án hiện có; xây dựng hồ sơ

đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh, huyện và các tòa tương

đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

- Về hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN

+ Thứ nhất, đề án tổ chức tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương và TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

Trong đó nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa này, cơ sở của việc đề xuất, số lượng

Tòa cần tổ chức, tên các Tòa, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án

tổ chức nhân sự và đề xuất về biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa

án của từng Tòa. Đề án phải được Ban cán sự đảng TAND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương xem xét, biểu quyết thông qua;

+ Thứ hai, văn bản đề nghị tổ chức tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

+ Thứ ba, hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa GĐ & NCTN được gửi cho TAND

tối cao (thông qua Vụ Tổ chức - Cán bộ).

- Về thời hạn xem xét tổ chức Tòa GĐ & NCTN

Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Hồ sơ đề nghị tổ

chức Tòa chuyên trách, Vụ Tổ chức - Cán bộ TAND tối cao phải xem xét Hồ

sơ đề nghị tổ chức Tòa chuyên trách; Nếu hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện thì lập

Tờ trình Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định việc tổ chức Tòa GĐ &

NCTN. Trường hợp Chánh án TAND tối cao quyết định không tổ chức Tòa

này tại TAND cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương thì Vụ Tổ chức - Cán bộ

thông báo bằng văn bản cho TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã

trình Hồ sơ đề nghị tổ chức Tòa này biết.

Theo trình tự này, thực hiện Luật tổ chức TAND năm 2014, Tòa GĐ &

NCTN được thành lập tại hai địa phương đầu tiên là thành phố Hồ Chí Minh

25

vào tháng 3 năm 2016 và Đồng Tháp vào tháng 8 năm 2017. Tính đến nay, Tòa

GĐ & NCTN đã được thành lập tại 03 TAND cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và

thành phố Hồ Chí Minh và tại 38 TAND cấp tỉnh. Chưa có TAND cấp huyện

nào thành lập Tòa GĐ & NCTN.

1.3.3. Các quy định về hoạt động của Tòa gia đình và người chưa

thành niên

1.3.3.1. Giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi

Để quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng

là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN, TAND tối cao

đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018, có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/12/2018. Theo đó, Tòa GĐ & NCTN có thẩm quyền xét xử

các vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự có

người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc

cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành

mạnh như những người dưới 18 tuổi khác (Điều 3).

Người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý

là người luôn ở trong trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, suy nhược về tinh thần và

thể chất, rối loạn tâm thần và hành vi do tác động bởi hành vi phạm tội gây ra.

Người cần có sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi

trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác là người có hoàn

cảnh không bình thường (như: mồ côi, cha mẹ ly hôn, hay bị bạo hành, có cha

mẹ nghiện rượu, ma túy, vi phạm pháp luật...) dẫn đến bị thiếu thốn về vật chất,

tinh thần, không có nơi ở, bỏ học hoặc không được đi học như những người

dưới 18 tuổi khác.

Pháp luật cũng có quy định cụ thể về những vụ án hình sự thuộc thẩm

quyền của Tòa GĐ & NCTN xét xử tại Phòng xử án hình sự và những vụ việc

xét xử tại Phòng xét xử thân thiện.

26

Theo đó, những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN

xét xử tại Phòng xử án hình sự bao gồm:

- Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm

tội rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng;

- Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm

một trong các tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều 123, 134, 141,

142, 144, 151, 168, 169, 170, 171, 248, 249, 250, 251, 252 và 299 của Bộ luật

Hình sự;

- Vụ án hình sự vừa có bị cáo là người dưới 18 tuổi vừa có bị cáo là người

từ đủ 18 tuổi trở lên;

- Vụ án hình sự mà bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị

hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ

trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như

những người dưới 18 tuổi khác.

Những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN xét xử tại

Phòng xét xử thân thiện bao gồm:

- Những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền

của Tòa GĐ & NCTN nếu không thuộc trường hợp quy định nêu trên thì xét

xử tại Phòng xét xử thân thiện.

- Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử thân thiện thì khi xét xử các

vụ án, phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho

người dưới 18 tuổi.

Khi giải quyết vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18

tuổi, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán là người có kinh nghiệm xét xử

các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi

dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là

người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học,

27

khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi; có 01 Hội thẩm là giáo viên, cán

bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu

biết tâm lý người dưới 18 tuổi.

* Quy định về phòng xử án thân thiện, phòng hòa giải và các phòng chức

năng:

Phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho

người dưới 18 tuổi theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC

ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND tối cao quy định về phòng xử án. Thẩm

phán mặc trang phục làm việc hành chính của TAND (không mặc áo choàng).

Việc tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa thực hiện theo quy định tại Thông

tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND tối cao ban

hành Quy chế tổ chức phiên tòa.

Đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại

tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những

vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để

giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xét xử kín

nhưng phải tuyên án công khai theo quy định tại Điều 327 của Bộ luật TTHS.

Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người

tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt

phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh.

Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người

đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn

phòng. Ngoài ra, phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của

Tòa GĐ & NCTN phải bảo đảm các quy định chung về phòng xử án (Điều 6

Thông tư 01/2017).

28

Phòng xử án được trang bị rèm che hoặc màn che có thể gấp gọn để chắn,

không cho nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên nhìn thấy bị can, bị cáo.

Các trang thiết bị để thu phát việc lấy lời khai của trẻ em, người chưa thành

niên trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa gồm: Màn hình ti vi, máy tính hoặc

thiết bị phát video được kết nối với màn hình ti vi; loa có điều khiển từ xa để

điều chỉnh âm lượng; thiết bị âm thanh, ghi hình, mạng Internet, mạng truyền

hình trực tuyến và các trang thiết bị khác phục vụ cho công tác xét xử; máy

điều hòa không khí.

Phòng hòa giải thiết kế với nền tường màu xanh, treo tranh, ảnh về thiên

nhiên, con người và được bố trí bàn hình tròn hoặc hình bầu dục.

Phòng chờ có thể sử dụng nhằm một số mục đích như tạo không gian

riêng tư, thân thiện để trẻ em và người chưa thành niên cùng cha mẹ, người

giám hộ, người lớn đi kèm ngồi chờ khi ở Tòa án, để trẻ em, người chưa thành

niên tạm nghỉ khi thấy căng thẳng, không khỏe hay cần nghỉ ngơi trong quá

trình xét xử, cung cấp lời khai trước tòa, để được cha mẹ, chuyên gia tâm lý

hoặc cán bộ xã hội an ủi, khích lệ. Trường hợp sử dụng thiết bị cầu truyền hình,

trẻ em, người chưa thành niên có thể ngồi tại phòng chờ để khai báo và việc lấy

lời khai được ghi hình và truyền trực tiếp đến phòng xử án.

Phòng chờ cho trẻ em được sơn màu trắng, thân thiện và trang trí không

gian ấm áp và yên tĩnh cho trẻ. Cần lưu ý phòng này dành cho trẻ em và người

chưa thành niên ở mọi độ tuổi, do đó, không nên trang trí theo hướng quá thân

thiện với trẻ nhỏ.

Phòng chờ nên có đồ chơi, trò chơi và sách cho trẻ em và người chưa

thành niên, bao gồm sách tô màu, bút màu, búp bê, tạp chí, máy tính bảng có

các trò chơi, video…

Phòng chờ có thể có một số trang thiết bị như ghế sofa, bàn tròn nhỏ theo

kích cỡ cho trẻ em và ghế; hình và áp phích nhiều màu được vẽ, dán trên tường;

29

rèm cửa sổ, thảm sàn nhà nhiều màu sắc; tủ, kệ hoặc hộp đồ chơi, trò chơi và

sách; máy tính bảng có các trò chơi và phim dành cho trẻ em, người chưa thành

niên ở nhiều độ tuổi khác nhau; tủ lạnh; bộ sơ cứu cơ bản và điều hòa.

1.3.3.2. Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại

Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên

Theo Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính tại TAND, các biện pháp xử lý hành chính tại TAND

bao gồm đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng:

Theo quy định tại Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, đưa

vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có

hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của Luật này nhằm mục đích

giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục

của nhà trường. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06

tháng đến 24 tháng.

Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm: người

từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm

trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định

tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực

hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến

30

mức truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục

tại xã, phường, thị trấn (Điều 92).

- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc:

Theo quy định tại Điều 93 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012,

Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với

người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 94 của Luật này để lao

động, học văn hoá, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục bắt

buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ 06 tháng

đến 24 tháng.

Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là người

thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài;

tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi

phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức

truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định

(Điều 94).

- Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng

đối với người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa

bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt

buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12

tháng đến 24 tháng.

Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người

nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng

không có nơi cư trú ổn định (Điều 96).

31

Theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13, thời hạn xem xét,

quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án

thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền; đối với vụ việc phức tạp, thời

hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.

Pháp lệnh chỉ rõ, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính thuộc

trường hợp quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 112 Luật Xử lý vi phạm hành chính

được Tòa án giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian

áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại trên cơ sở đề nghị của hiệu trưởng

trường giáo dưỡng, giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, giám đốc cơ sở cai nghiện

bắt buộc.

Đối với trường hợp giảm thời hạn chấp hành biện pháp xử lý hành chính

thì đối tượng được xét giảm đã chấp hành được một nửa thời hạn mà Tòa án

quyết định và mỗi năm chỉ được xét giảm 01 lần với thời hạn xét giảm không

quá một phần tư thời hạn mà Tòa án quyết định.

Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám

đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải gửi văn bản đề nghị cho Tòa án nơi có

trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc kèm

theo tài liệu chứng minh người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính

thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 112 của

Luật xử lý vi phạm hành chính. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày

nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần

thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại, Tòa án phải thụ lý và phân

công Thẩm phán xem xét, giải quyết, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát

cùng cấp. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm

phán phải xem xét và ra quyết định; trường hợp cần thiết, cơ quan đề nghị, Viện

kiểm sát cùng cấp có ý kiến bằng văn bản trước khi Tòa án ra quyết định.

32

Quyết định về việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành

phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại có hiệu lực thi hành

kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp

luật và phải được gửi cho người được quy định tại khoản 3 Điều 112 của Luật

xử lý vi phạm hành chính và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02 ngày

làm việc, kể từ ngày ra quyết định.

1.3.3.3. Giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình theo quy định của

Bộ luật tố tụng dân sự

Quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS năm 2015, sửa đổi, bổ sung những

tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so

với Điều 27 Bộ luật TTDS cũ. Trong đó, bổ sung quan hệ tranh chấp Chia tài

sản sau khi ly hôn, Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo, Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam nữ

chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết

hôn trái pháp luật; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có quy định của

pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia

đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết. Quy định tại Điều

29 Bộ luật TTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung những yêu cầu về hôn nhân và gia

đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 28 Bộ luật TTDS cũ.

Trong đó, bổ sung yêu cầu về Công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con

sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại Điều 84 của Luật

Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo

quy định từ Điều 92 đến Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án;

yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy

định tại Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu xác định cha

33

mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ theo quy định từ Điều 89 đến Điều 102 Luật

Hôn nhân và gia đình năm 2014; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có

quy định của pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các việc hôn nhân

và gia đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết.Về thẩm

quyền của TAND: So với Điều 33 Bộ luật TTDS cũ, Điều 35 Bộ luật TTDS

năm 2015 bổ sung thẩm quyền của TAND cấp huyện nơi cư trú của công dân

Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp

về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi

con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với

công dân của nước láng giềng cũng cư trú ở khu vực biên giới Việt Nam theo

quy định của Bộ luật TTDS và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, cần chú ý quy định mới bổ sung tại khoản 2 Điều 36 và khoản 2 Điều

38 Bộ luật TTDS 2015 về thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN tại TAND địa

phương.

Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa GĐ & NCTN được quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS năm 2015.

Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa

GĐ & NCTN được quy định Điều 29 Bộ luật TTDS năm 2015. Trình tự, thủ

tục giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình tại Tòa GĐ & NCTN được quy

định cụ thể tại Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Kết luận chương 1

Theo yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược

Cải cách tư pháp đến năm 2020, trong bộ máy Nhà nước ta, TAND có vị trí,

vai trò hết sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp,

có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

34

pháp của tổ chức, cá nhân. Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định Tòa án có vị

trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Tòa GĐ & NCTN được thành

lập như là một tất yếu khách quan và nhu cầu thực tiễn giải quyết các vụ án liên

quan đến người chưa thành niên và các vụ án về hôn nhân và gia đình. Chương

1 của luận văn tập trung làm rõ các nội dung lý luận liên quan đến tổ chức và

hoạt động của Tòa GĐ & NCTN, theo đó, nội dung chương đã phân tích các

khái niệm công cụ như gia đình, người chưa thành niên… các quan điểm về tổ

chức, hoạt động của Tòa GĐ & NCTN. Đồng thời, nội dung chương cũng đã

giới thiệu về một số mô hình của Tòa GĐ & NCTN trên thế giới để làm căn cứ

so sánh, đánh giá thực tiễn tại Việt Nam.

35

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH

VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỔ CHỨC TAND

NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

2.1. Thực trạng tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên

tỉnh Thanh Hóa

2.1.1. Khái quát về tình hình chính trị - xã hội và sự cần thiết thành

lập Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hóa là một trong những tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất

(11.120,6 km²) và dân cư đông nhất cả nước. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị

hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố, 2 thị xã và 23 huyện. Tỉnh Thanh

Hóa có địa lý trải dài: Phía bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình;

Phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; Phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn, nước

Lào với đường biên giới dài 192 km và phía đông giáp biển Đông với bờ biển

dài hơn 102 km. Miền đồi núi và trung du chiếm 2/3 diện tích tỉnh Thanh Hóa.

Vùng miền núi Thanh Hóa, dân cư phần lớn là dân tộc thiểu số (chiếm 58%),

trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhiều địa phương còn thấp và không

đồng đều. Do đó, tỉnh Thanh Hóa là một trong những địa bàn có tình hình trật

tự an toàn xã hội luôn diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm tuy được kìm

chế, nhưng tính chất ngày càng phức tạp, các tranh chấp dân sự, khiếu kiện

hành chính, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án đều tăng. Theo Báo

cáo công tác nhiệm kỳ 2016 -2021 ngày 21/01/2021 của TAND tỉnh Thanh

Hóa, TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã thụ lý 51.107 vụ việc các loại (gồm:

các vụ án hình sự; các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương

mại, tuyên bố phá sản, lao động; các vụ án hành chính và việc áp dụng các biện

pháp xử lý hành chính tại Tòa án).vụ việc); đã giải quyết 45.047 vụ việc các

loại, đạt tỷ lệ chung 88,1%. Trong đó:

36

+ Tổng số vụ án hình sự Tòa án hai cấp phải giải quyết là 12.062 vụ,

23.084 bị cáo (sơ thẩm 10.519 vụ 20.508 bị cáo; phúc thẩm 1.548 vụ 2.576 bị

cáo); đã giải quyết, xét xử 10.905 vụ, 20.503 bị cáo.

+ TAND hai cấp thụ lý 30.376 vụ việc về hôn nhân gia đình (sơ thẩm

30.061 vụ việc; phúc thẩm 315 vụ việc); đã giải quyết, xét xử 27.580 vụ việc

+ Việc Quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: TAND hai

cấp thụ lý 1.174 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính (cấp huyện

1.169 hồ sơ; cấp tỉnh phúc thẩm 05 hồ sơ); đã giải quyết 1.156 hồ sơ

Theo số liệu thống kê khác, từ ngày 1-1-2018 đến 31-10-2020, TAND

hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm do cá nhân phạm

tội là 5.310 vụ, với 10.383 bị cáo, trong đó bị cáo từ 14 đến 18 tuổi là 110

người, từ 18 đến 30 tuổi là 1.745 người. Tội phạm do thanh, thiếu niên thực

hiện tập trung chủ yếu ở các tội: Tội xâm phạm sở hữu (Trộm cắp tài sản, cướp

tài sản, cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm

hư hỏng tài sản); tàng trữ trái phép chất ma túy, mua bán, tổ chức sử dụng trái

phép chất ma túy; giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác; dâm ô với người dưới 16 tuổi, hiếp dâm đối với người

dưới 16 tuổi...

Từ số liệu trên cho thấy sự cần thiết phải thành lập Tòa gia đình và người

chưa thành niên tại Thanh Hóa để giải quyết các vụ, việc thuộc thẩm quyền.

2.1.2. Tổ chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại tỉnh

Thanh Hóa

Thực hiện các quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 và hướng dẫn

của TAND tối cao, tính đến 10/3/2020, Tòa GĐ & NCTN đã được thành lập tại

các TAND sau: 03 TAND cấp cao: TAND cấp cao Tại Hà Nội, TAND cấp cao

Đà Nẵng, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và 38 Tòa án cấp tỉnh

trong đó có tỉnh Thanh Hóa.

37

Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa được thành lập theo Quyết

định số 456/QĐ-TCCB ngày 29/10/2018 của Chánh án TAND tối cao. Đây là

một trong các Tòa GĐ & NCTN đầu tiên trên cả nước với thẩm quyền riêng

biệt xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự liên quan đến

người chưa thành niên. Có thể nói, việc ra đời của Tòa GĐ & NCTN trong tổ

chức bộ máy của TAND tỉnh Thanh Hóa là dấu ấn quan trọng trong tiến trình

cải cách tư pháp; là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương,

quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình;

bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi

phạm pháp luật nói riêng; là bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế

của Việt Nam về bảo vệ các quyền của trẻ em, người chưa thành niên đã được

ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, phù hợp với mô hình

tổ chức Tòa án của nhiều quốc gia trên thế giới; đồng thời, việc tổ chức Tòa

GĐ & NCTN cũng là phương thức để thực hiện nguyên tắc hiến định về việc

xét xử kín đối với người chưa thành niên được quy định tại khoản 3 Điều 103

của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.

2.1.2.1. Về nhân sự

Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, từ năm năm 2017

Tòa án nhân tỉnh đã tạm dừng việc tuyển dụng và tập trung kiện toàn, sắp xếp

lại vị trí việc làm và từng bước thực hiện tinh giản biên chế theo chỉ đạo của

TANDTC. Biên chế TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa được giao năm 2016 là

424, hiện nay có 346 biên chế, giảm 78 biên chế (Thẩm phán giảm 9 biên chế,

các chức danh khác giảm 69 biên chế). Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục có

những chuyển biến tiến bộ, đội ngũ lãnh đạo được củng cố, kiện toàn; công tác

quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thường xuyên được rà soát, bổ sung. Thực

hiện Quyết định số 1813/QĐ-TCCB ngày 15/10/2018 của TAND tối cao,

38

TAND tỉnh đã tiến hành giải thể Tòa Kinh tế và Tòa Lao động và thành lập Tòa

GĐ & NCTN.

Khi mới thành lập, Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa được

giao 15 biên chế (trong đó có 9 Thẩm phán và 6 Thư ký). Ban lãnh đạo TAND

tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện được 11 biên chế (trong đó có 8 Thẩm phán và 3

Thư ký) cho Tòa GĐ & NCTN. Tòa GĐ & NCTN có 01 Chánh tòa và 01 Phó

Chánh tòa. Việc lựa chọn nhân sự bao gồm Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký

của Tòa GĐ & NCTN phải đảm bảo là những cán bộ, công chức có đủ phẩm

chất, năng lực đảm đương nhiệm vụ mới, có kiến thức chuyên sâu để giải quyết

các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN như có kinh nghiệm giải

quyết các vụ, việc liên quan đến người chưa thành niên, có hiểu biết về tâm lý

trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên...

Qua các năm, nhân sự của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa

không ngừng được bổ sung về biên chế, chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký

Tòa án ngày càng được nâng lên, đáp ứng việc giải quyết số lượng vụ việc ngày

càng tăng của Tòa GĐ & NCTN. Tính đến ngày 31/12/2020, Tòa GĐ & NCTN

tỉnh Thanh Hóa được bố trí 11 biên chế, bao gồm 8 Thẩm phán và 3 Thư ký Tòa

án.

Bảng 2.1. Biến động nhân sự Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa

qua các năm

Năm Thẩm phán Thư ký Tổng số

2018 7 2 9

2019 7 10 31

2020 8 3 11

Tổng 22 15 37

Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa

39

Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm

phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa

tiếp tục được quan tâm, tăng cường; Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa đã cung

cấp kịp thời, đầy đủ các văn bản pháp luật, tài liệu hướng dẫn áp dụng pháp

luật để phục vụ cho yêu cầu công tác xét xử. TAND tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức

10 đợt tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Hội

thẩm nhân dân hai cấp; phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 01 lớp quản lý

nhà nước chương trình chuyên viên chính và 01 lớp trung cấp lý luận chính trị;

phối hợp với học viện Tòa án mở 01 lớp đào tạo Thẩm phán cho Thư ký TAND

hai cấp.

Công tác thanh tra, kiểm tra, tự kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công

vụ của cán bộ, công chức tiếp tục được tăng cường. TAND tỉnh đã tổ chức 19

đoàn đi kiểm tra nhiệm vụ, công vụ tại các đơn vị TAND cấp huyện. Thông

qua công tác kiểm tra, đã kịp thời phát hiện, rút kinh nghiệm đối với những hạn

chế, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của một số TAND cấp

huyện; nắm bắt những khó khăn vướng mắc trong hoạt động của các đơn vị để

tìm giải pháp tháo gỡ, khắc phục, các trường hợp vi phạm đều được xử lý kịp

thời.

2.1.2.2. Về cơ sở vật chất

Trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, trên cơ sở kinh phí được cấp,

cũng như sự hỗ trợ của địa phương, năm 2019 TAND tỉnh đã khánh thành trụ

sở mới khang trang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; 16 đơn vị TAND cấp huyện đã

được TAND Tối cao bố trí kinh phí đầu tư cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc.

Thực hiện Đề án trang bị, phương tiện làm việc của Toà án nhân dân các cấp

(giai đoạn 2014-2018 và giai đoạn 2019 - 2022) của TAND Tối cao, những

năm vừa qua các đơn vị trong TAND hai cấp đã được trang cấp ô tô, điều hòa

nhiệt độ, máy in, máy tính, máy photocopy, bàn ghế... để phục vụ công tác, về

40

cơ bản cơ sở vật chất, điều kiện làm việc đã được cải thiện, bước đầu đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ.

Về cơ sở vật chất, phải đảm bảo đầy đủ phương tiện đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra với đặc thù mô hình phiên tòa riêng biệt dành

cho người chưa thành niên, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa được thiết lập

theo mô hình mới, phòng xử án đang được tổ chức dần theo hướng thân thiện

(gồm 01 phòng xử án hôn nhân gia đình và 01 phòng xử án hình sự), một hệ

thống camera quan sát được trang bị ở các phòng xử, phòng trẻ em... nhằm

phục vụ cho việc xét xử và chăm sóc trẻ em, cụ thể:

Theo đó, Phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của

Tòa GĐ & NCTN phải bảo đảm đúng quy định tại Thông tư số 01/ 2017/TT-

TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án TAND Tối cao.

Phòng xử án được trang bị rèm che hoặc màn che có thể gấp gọn để chắn

không cho nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên nhìn thấy bị can, bị cáo;

các trang thiết bị để thu phát việc lấy lời khai của trẻ em, người chưa thành niên

trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa gồm: Màn hình tivi, máy tính hoặc thiết bị

phát video được kết nối với màn hình tivi, loa có thể điều khiển từ xa để điều

chỉnh âm lượng, thiết bị ghi âm, ghi hình, mạng Internet, mạng truyền hình trực

tuyến và các trang thiết bị khác phục vụ cho công tác xét xử; Điều hòa không

khí.

Phòng hòa giải thiết kế với nền tường màu xanh, bàn sử dụng là bàn tròn.

Phòng chờ được sử dụng nhằm một số mục đích như sau: Tạo không

gian riêng tư, thân thiện để trẻ em và người chưa thành niên cùng cha mẹ, người

giám hộ, người lớn đi kèm ngồi chờ khi ở Tòa án, để trẻ em, người chưa thành

niên tạm nghỉ khi thấy căng thẳng, không khỏe hay cần nghỉ ngơi trong quá

trình xét xử, cung cấp lời khai trước tòa để được cha mẹ, chuyên gia tâm lý

hoặc cán bộ xã hội an ủi, khích lệ. Trường hợp sử dụng thiết bị cầu truyền hình

41

trẻ em, người chưa thành niên có thể ngồi tại phòng chờ để khai báo và việc lấy

lời khai được ghi hình và truyền trực tiếp đến phòng xử án.

Phòng chờ cho trẻ em được sơn màu sáng thân thiện và trang trí không

gian ấm áp, yên tĩnh. Phòng chờ có một số trang bị như sau: Ghế sofa, bàn tròn

nhỏ theo kích cỡ của trẻ em; bộ sơ cứu cơ bản và điều hòa không khí.

2.2. Thực trạng hoạt động của Tòa gia đình và người chưa thành

niên tại tỉnh Thanh Hóa

Thực tiễn hoạt động của Tòa GĐ & NCTN được thể hiện qua kết quả

giải quyết các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN. Cụ thể:

2.2.1. Công tác xét xử các vụ án hình sự

Theo số liệu của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa, Tòa GĐ

& NCTN đã thụ lý 153 vụ án hình sự sơ thẩm đã giải quyết 151 vụ án, đạt tỷ lệ

98,70%; đã thụ lý 85 vụ án theo thủ tục phúc thẩm, đã giải quyết 84 vụ án, đạt

tỷ lệ 98,82%.

Riêng trong năm 2020, Tòa GĐ & NCTN đã thụ lý 74 vụ án/162 bị cáo,

đã giải quyết 74 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

Tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện tập trung chủ yếu ở các tội:

Cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; tàng trữ trái phép chất ma túy, mua

bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; giết người, cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; dâm ô với người dưới 16 tuổi,

hiếp dâm đối với người dưới 16 tuổi.

Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm do thanh,

thiếu niên gây ra có diễn biến rất phức tạp, số trẻ em phạm tội đang “gia tăng

và trẻ hóa”. Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này không còn đơn giản do

bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh

vi để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng Nhân dân,

42

làm xôn xao dư luận xã hội. Việc gia tăng các vụ án có bị cáo là thanh, thiếu

niên phạm tội không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời phạm tội của

các bị cáo là người chưa thành niên cũng trẻ hóa.

Qua điều tra và xét xử các vụ án, cơ quan chức năng cho biết có rất nhiều

nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ hóa tội phạm. Đó là xuất phát từ hoàn cảnh

gia đình khó khăn, khi lên thành phố kiếm sống, bị các đối tượng xấu lôi kéo,

tụ họp thành những nhóm đi trộm, cướp để có tiền tiêu xài. Đó là từ việc gia

đình tan vỡ, các em bị khủng hoảng tâm lý, ít được quan tâm, dạy bảo nên rơi

vào con đường tội lỗi. Đó còn là mặt trái của kinh tế thị trường làm ảnh hưởng

đến văn hóa, giáo dục, làm tha hóa biến chất trong một bộ phận lớp trẻ hiện nay

chỉ thích ăn chơi, hưởng thụ, lệch chuẩn đạo đức, lối sống; do bị lôi cuốn vào

các trò chơi game thiếu lành mạnh, bạo lực, nhiều đối tượng đã trở thành kẻ

phạm tội để lấy tiền chơi game; do thiếu hiểu biết pháp luật, không có kỹ năng

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Thụ lý

11

68

74

Giải quyết

11

66

74

sống sẽ dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật...

Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa

Biểu đồ 2.1. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm từ năm 2018 đến

năm 2020

43

45

40

35

30

25

20

15

10

5

0

Thụ lý

Năm 2018 5

Năm 2019 38

Năm 2020 42

Giải quyết

5

37

42

Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa

Biểu đồ 2.2. Kết quả thụ lý, giải quyết án hình sự phúc thẩm từ năm 2018 đến

năm 2020

Trong công tác xét xử án hình sự, Tòa GĐ & NCTN luôn đảm bảo việc

xử lý người chưa thành niên phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người

chưa thành niên và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai

lầm, phát triển lành mạnh, ưu tiên cải tạo tại cộng đồng, trở thành công dân có

ích cho xã hội. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào độ

tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm; việc truy cứu trách nhiệm

hình sự người chưa thành niên chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ

vào các đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành

vi phạm tội và yêu cầu phòng ngừa tội phạm; việc áp dụng hình phạt đối với

người chưa thành niên chỉ khi thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc các biện

pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng ... không đảm bảo hiệu quả giáo dục,

phòng ngừa và khi áp dụng hình phạt tù người chưa thành niên được hưởng

mức án nhẹ hơn mức áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương ứng;

44

không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm

tội; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

Về thực hiện các thủ tục tố tụng, luôn bảo đảm quyền có người bào chữa,

có người đại diện hợp pháp cho bị cáo là người chưa thành niên. Bảo đảm

nguyên tắc “bảo mật thông tin” liên quan đến người chưa thành niên trong quá

trình giải quyết vụ án, đặc biệt là các vụ án liên quan đến các tội phạm xâm hại

tình dục mà bị hại là người chưa thành niên.

Về hình thức: Phòng xử án hình sự của Tòa GĐ & NCTN không có vành

móng ngựa, bị cáo là người chưa thành niên được tiếp xúc với người đại diện

hợp pháp, người giám hộ, người thân, người bào chữa. Bảo đảm phiên tòa thân

thiện, gần gũi, để bị cáo có tâm lý ổn định, an tâm tham gia phiên tòa.

Trong các vụ án hình sự có bị hại là người chưa thành niên, đặc biệt là

các vụ án xâm phạm tình dục đối với trẻ em, Tòa GĐ & NCTN đã sắp xếp khu

vực riêng cho bị hại, tránh để bị hại tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm

lý của bị hại trong quá trình xét xử và về sau. Việc cách ly cũng nhằm bảo đảm

lời khai của bị hại khách quan. Tòa án đã xem xét toàn diện tác động của hành

vi phạm tội đến sự phát triển tâm lý, thể chất của người chưa thành niên để

quyết định mức hình phạt tương xứng cho bị cáo, đồng thời vẫn bảo đảm tính

nghiêm trị, tính răn đe của pháp luật hình sự, đặc biệt đối với những vụ án mà

bị cáo là người đã thành niên, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội. Điển hình

như một số vụ án sau đây:

Vụ án thứ nhất: Cháu Nguyễn L, sinh ngày 23/12/2016, dân tộc Mường,

trú tại thôn 5, xã S, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Do bố mẹ đi làm ăn xa

nên cháu sống cùng bà ngoại là bà Lê Thị T, sinh năm 1964 ở thôn L, xã T,

huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bên cạnh nhà bà T là nhà Lê Lộc H, sinh

năm 1977. Khoảng 10 giờ, ngày 06/2/2020 cháu L đi sang sân nhà Lê Lộc H

chơi. Thấy cháu L, H nảy sinh ý định quan hệ tình dục nên cầm miếng dưa hấu

45

và nói “Có ăn dưa hấu thì vào đây ông cho” nhằm dụ dỗ cháu L vào trong nhà

và thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Bà ngoại L đã phát hiện ra vụ việc và

trình báo cơ quan công an. Tại bản án số hình sự sơ thẩm số 73/2020/HS-ST

ngày 15-6-2020 của TAND tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã nhận

định: Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, xảy ra tại địa bàn miền núi.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền bất khả xâm

phạm về tình dục, danh dự và nhân phẩm của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Lê

Lộc H đã lợi dụng việc cháu Nguyễn Trúc L còn nhỏ và do dục vọng thấp hèn

nên đã có hành vi hiếp dâm cháu Nguyễn L khi cháu L chỉ mới hơn 03 tuổi.

Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự địa

phương, gây ra bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân tại nơi xảy ra tội

phạm. Hành vi này cần được xử lý thật nghiêm khắc nhằm răn đe phòng chống

chung cho toàn xã hội. Do đó HĐXX đã tuyên bố: bị cáo Lê Lộc H phạm tội:

"Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" và xử phạt: Lê Lộc H 20 năm tù. Xét thấy đây

mà mức án phù hợp, thích đáng cho hành vi của Lê Lộc H.

Vụ án thứ hai: Lương Trung K, sinh ngày 16/9/2005, trú tại thôn C, xã

L, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. Xuất phát từ mối quan hệ anh em họ

hàng với cháu Phạm Thị Thùy G, sinh ngày 12/6/2011 và cùng hàng xóm với

cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 03/11/2010. Lợi dụng bố, mẹ G, T vắng nhà

nên K đã nảy sinh ý định quan hệ tình dục với G và T. Từ thời điểm khoảng

năm 2019, đến tháng 5/2020, K đã nhiều lần quan hệ tình dục với hai cháu G

và T. Ngày 18/12/2020, TAND tỉnh Thanh Hóa đã đưa vụ án ra xét xử. Trong

bản án đã tuyên, HĐXX nhận định Lương Trung K là người dưới 16 tuổi. Do

thiếu hiểu biết về giới tính và ham muốn quan hệ tình dục khác giới. Lợi dụng

sự ngây thơ, thiếu hiểu biết và không có kiến thức để bảo vệ mình của các cháu

Phạm Thị Thùy G và cháu Phạm Thanh T đã xâm hại tình dục hai cháu. Thời

điểm K thực hiện hành vi quan hệ tình dục đối với cháu G và cháu T các cháu

46

là người dưới 10 tuổi. Hành vi phạm tội của Lương Trung K có đủ các dấu hiệu

cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Bị cáo hiếp dâm đối với người

dưới 10 tuổi nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm

c khoản 3 Điều 142 BLHS. Bản án đã tuyên bố bị cáo Lương Trung K phạm

tội: "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi", xử phạt K 07 (bảy) năm tù.

Ở hai vụ án nêu trên, để bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa

án đã đưa người đại diện hợp pháp là bố hoặc mẹ của bị cáo, bị hại là người

chưa thành niên và mời trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo,

người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại tham gia vào quá trình tố tụng,

khi thẩm vấn, lấy lời khai của bị cáo, bị hại đều có sự chứng kiến của những

thành phần này.

Khi quyết định hình phạt: các bị cáo đều có hành vi xâm phạm tình dục

đối với người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên ở vụ án thứ nhất người phạm tội là người

đã thành niên, có nhận thức và năng lực hành vi đầy đủ, thực hiện hành vi phạm

tội với trẻ ở độ tuổi quá nhỏ, gây bức xúc trong dư luận nên Hội đồng xét xử

đã ra một mức án nghiêm khắc với bị cáo. Còn ở vụ án thứ hai, tuy bị cáo đã

phạm tội nhiều lần với nhiều người, nhưng khi phạm tội bản thân bị cáo cũng

chưa đủ 16 tuổi, ở độ tuổi đó nhận thức của bị cáo chưa đầy đủ, chưa biết cách

kìm chế ham muốn, sự tò mò về giới tính của bản thân. Chính vì vậy khi quyết

định hình phạt cùng vừa phải đảm bảo tính răn đe nhưng cũng cần xét đến tạo

điều kiện cho bị cáo một con đường để có cơ hội để ăn năn, hối cải, cải tạo để

trở thành công dân tốt cho xã hội.

2.2.2. Việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

tại Tòa án nhân dân đối với người chưa thành niên

Toà Gia đình và Người chưa thành niên đã thực hiện đúng các quy định

của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường

47

vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính tại TAND, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn

bản hướng dẫn thi hành trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại

TAND. Trong giai đoạn 2018 - 2020, Tòa án hai cấp thụ lý 382 vụ (sơ thẩm

344 vụ, phúc thẩm 38 vụ).

Bên cạnh việc thực hiện tốt các quy định của TAND tối cao cũng như

văn bản của các cơ quan ban ngành có liên quan về công tác xem xét, giải quyết

việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa, việc tăng cường công tác phối

hợp với các cơ quan có liên quan, tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp chính quyền

địa phương đã tạo điều kiện cho TAND hai cấp hoàn thành tốt công tác này.

Tuy nhiên, việc xử lý hành chính đưa người cai nghiện ma túy đi cai nghiện bắt

buộc tại Tòa án còn gặp rất nhiều khó khăn như Trung tâm cai nghiện bắt buộc

xa trung tâm, Thẩm phán giải quyết loại việc này không được tính chỉ tiêu công

tác. Mặc dù, đã có những kiến nghị từ phía Tòa án về việc đề nghị hỗ trợ cơ sở

vật chất, kinh phí phục vụ cho công tác này, nhưng vẫn chưa được chính quyền

địa phương hồi đáp.

2.2.3. Công tác thụ lý, giải quyết vụ, việc hôn nhân và gia đình

Trong giai đoạn 2018 - 2020, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa đã thụ

lý theo thủ tục sơ thẩm tổng cộng 2.209 vụ việc, đã giải quyết 2.116 vụ việc,

đạt tỷ lệ 95,78%, số vụ việc còn lại chưa giải quyết là 93 vụ việc. Đối với án

phúc thẩm, đã thụ lý tổng cộng 213 vụ việc, đã giải quyết 203 vụ việc, đạt tỷ lệ

95,30%, số vụ việc còn lại là 10 vụ việc.

48

1200

1000

800

600

400

200

0

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Thụ lý

215

1036

958

Giải quyết

202

987

927

Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa

Biểu đồ 2.3. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình sơ thẩm

120

100

80

60

40

20

0

Thụ lý

Năm 2018 18

Năm 2019 93

Năm 2020 102

Giải quyết

18

87

98

từ năm 2018 đến năm 2020

Nguồn: TAND tỉnh Thanh Hóa

Biểu đồ 2.4. Kết quả thụ lý, giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình phúc

thẩm từ năm 2018 đến năm 2020.

49

Trong việc giải quyết các vụ, việc hôn nhân và gia đình, lãnh đạo TAND

hai cấp tỉnh Thanh Hóa luôn chỉ đạo về đường lối xét xử bảo vệ truyền thống

gia đình Việt Nam, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và toàn diện của xã hội.

Với đặc thù loại án Hôn nhân gia đình, Toà Gia đình và người chưa thành niên

luôn chú trọng công tác hoà giải trong quá trình giải quyết các vụ án, nhằm

phân tích để các đương sự hiểu và tự thoả thuận được các vấn đề tranh chấp.

Các bản án được tuyên đều thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho các đương sự. Trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên đều được xem xét nguyện vọng

một cách khách quan tại phòng trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ ổn định tâm lý, tự

tin trình bày đúng ý chí, nguyện vọng của mình, không bị tác động của cha, mẹ.

Khi ra quyết định về quyền trực tiếp nuôi dưỡng con, luôn phải xem xét đầy đủ

bảo đảm lợi ích hợp pháp, quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên, đáp ứng

các nhu cầu cả về thể chất và tinh thần. Điển hình như một số vụ án ví dụ sau

đây:

Ví dụ 1: Vụ án tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”

giữa ông Trần Thế L. và bà Nguyễn Thị Phương N. Trong vụ án này, cháu Trần

Thế Đ. Là con ông L và bà N, ông L và N đều có nguyện vọng được trực tiếp

nuôi dưỡng cháu Đ. Nhận thấy Đ là trẻ có dấu hiệu tự kỷ nên trong quá trình

giải quyết vụ án, Tòa án đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức chuyên môn để

giúp cha mẹ hiểu rõ đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ tự kỷ, phân tích để

cha mẹ hiểu và lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp, bảo đảm sau khi cha

mẹ ly hôn, trẻ vẫn có được sự chăm sóc tốt nhất. Kết quả tại phiên tòa, hai bên

đã đạt được thỏa thuận thống nhất giao con cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.

Ví dụ 2: Ngày 30/12/2020 TAND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra xét xử phúc

thẩm vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” giữa nguyên đơn là chị

LTT, sinh năm 1992 và bị đơn là anh LAĐ, sinh năm: 1984.

50

Tại bản án sơ thẩm của TAND thành phố Thanh Hóa đã xử công nhận

sự thuận tình ly hôn giữa chị LTT và anh LAĐ. Về con chung: Chị T và anh Đ

có 02 con chung là cháu Lê Trúc A, sinh ngày 23/12/2003 và cháu Lê Minh P,

sinh ngày 20/9/2015. Ly hôn giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Trúc

A, giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Minh P, không bên nào cấp

dưỡng tiền nuôi con. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/9/2020 chị T kháng cáo

với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, giao cho chị được

nuôi cả hai con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Chị T có làm Đơn yêu cầu

Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ tại Công

an phường ĐV, thành phố Thanh Hoá và Bệnh viện tâm thần tỉnh Thanh Hoá

về việc anh Đ có hành vi uống rượu gây gổ, hành hung chị, và anh Đ có đi điều

trị tại bệnh viện tâm thần.

Toà án đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, theo đó tại Biên

bản xác minh ngày 18/12/2020 tại Công an phường ĐV, thành phốThanh Hoá

thể hiện anh Đ có hành vi hành hung, chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm

của chị tại khu chung cư chị T sống cùng con. Công an phường đã lập biên bản

làm việc với anh Đ, nhưng không xử lý hành chính vì chị T chỉ yêu cầu Công

an giáo dục, nhắc nhở anh Đ. Tại Biên bản xác minh ngày 21/12/2020 tại Bệnh

viện tâm thần tỉnh Thanh Hoá thể hiện: Anh Đ có đến bệnh viện tâm thần khám

và xét nghiệm 02 lần vào hồi ngày 08 và ngày 18/9/2020. Kết quả chẩn đoán

thể hiện anh Đ bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, bệnh kèm theo

là viêm bàng quang, động kinh.

Mặt khác, cháu Lê Trúc A có làm Đơn trình bày gửi Toà án nhân dân

tỉnh Thanh Hoá trình bày nguyện vọng muốn được ở với chị T, do anh Đ thường

xuyên rượu chè say xỉn bỏ mặc cháu cho ông bà nội nuôi.

Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thư thập được, Tòa án tỉnh Thanh Hóa

đã nhận định như sau: Xét thấy bản thân anh Đ đang điều trị bệnh, lại thường

51

xuyên say rượu, có những hành động xúc phạm đến chị T, gây mất trật tự khu

vực dân cư, anh Đ cũng có xác nhận bị nhiễm chất độc màu da cam. Trong

công việc thì nhiều lần nghỉ việc không có lý do, cơ quan có thông báo về cho

gia đình. Vì vậy không đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Lê Trúc A. Để đảm

bảo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của cháu Lê Trúc A, cần sửa bản án sơ

thẩm, thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, giao 02 con là cháu Lê Trúc A

và cháu Lê Minh P, sinh ngày 20/9/2015 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và

người chưa thành niên tại tỉnh Thanh Hóa

2.3.1. Những kết quả đạt được

Trước yêu cầu vừa phải làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ

việc đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và các chỉ tiêu của TAND, vừa phải tiếp

tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tinh giản

biên chế. Để đảm bảo hoàn thành các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, Ban cán sự đảng,

lãnh đạo Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo TAND

hai cấp triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác. Đã đề ra nhiều

giải pháp để tổ chức thực hiện trong TAND hai cấp, các giải pháp đột phá tập

trung vào các nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng giải quyết các loại án,

nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; tăng cường tính công khai, minh

bạch trong hoạt động của Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng bản án, quyết

định của Tòa án; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát Thẩm phán; kiểm tra

thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, nhằm tạo ra sự chuyển biến

căn bản trong thực hiện các nhiệm vụ công tác.

Qua gần 3 năm hoạt động, với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo

cùng sự nỗ lực của tập thể cán bộ, công chức, Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh

Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác chuyên môn, đáp

ứng được yêu cầu, mục đích ban đầu của việc thành lập Tòa này là đáp ứng tốt

52

hơn yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và người chưa thành niên; góp

phần bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; thúc đẩy và phát triển các biện

pháp bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên phù hợp với pháp luật quốc tế và

thông lệ quốc tế; trong đó tập trung hướng việc quan tâm đến trẻ em, người

chưa thành niên vi phạm pháp luật và trẻ em, người chưa thành niên là nạn nhân

của những hành vi phạm tội, những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Chuyên

môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về Gia đình và Người chưa thành niên

nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và thời hạn giải quyết các vụ việc về Gia

đình và Người chưa thành niên tại TAND. Góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt

động của TAND các cấp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đã được xác định

trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.

Nhìn chung, chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự liên quan

đến người chưa thành niên của Tòa Gia đình và Người chưa thành niên tỉnh

Thanh Hóa tiếp tục được nâng lên. Không có trường hợp nào xét xử oan, không

bỏ lọt tội phạm. Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo bảo đảm

nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và nhân thân của

người phạm tội là người chưa thành niên trong từng vụ án, đáp ứng yêu cầu của

công tác phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. TAND hai cấp luôn

chú trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả, không

hạn chế thời gian tranh tụng, trên cơ sở kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử đưa

ra các phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội ủng hộ. Trong quá trình

xét xử Tòa Gia đình và Người chưa thành niên tỉnh Thanh Hóa luôn chú trọng

việc tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân nói chung

và người chưa thành niên, theo đó lịch xét xử một số vụ án điển hình sẽ được

gửi cho cơ quan báo chí và đài phát thanh để phối hợp đưa tin về kết quả xét

xử; tạo điều kiện tốt nhất để các Phóng viên tham dự phiên tòa điển hình, phiên

tòa xét xử các vụ án dư luận xã hội quan tâm, bảo đảm thông tin nhanh, kịp

53

thời, chính xác. Thông qua hoạt động xét xử mỗi Thẩm phán là một tuyên

truyền viên, góp phần đưa chính sách, pháp luật của Đảng, của Nhà nước vào

cuộc sống; trong tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân thường xuyên cập nhật

thông tin mới, để lồng gép việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ; các thủ tục khởi kiện đều phải được niêm yết công khai tại

trụ sở để tổ chức, công dân nắm rõ quy định của pháp luật.

Có thể nói rằng, kết quả hoạt động của Tòa GĐ & NCTN tại TAND tỉnh

Thanh Hóa là thực tiễn sinh động, chứng minh cho những những nỗ lực của hệ

thống TAND trong việc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.

2.3.2. Hạn chế, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được nêu trên, hoạt động của Tòa

GĐ & NCTN tại TAND tỉnh Thanh Hóa trong thời gian vừa qua cũng còn một

số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc sau đây:

- Trong việc giải quyết các vụ án hình sự, chất lượng tranh tụng tại phiên

tòa đã được nâng lên, tuy nhiên nhiều vụ việc vẫn còn mang nặng tính hình

thức, còn nhiều bản án chưa đánh giá hoặc đánh giá chưa hết ý kiến bào chữa

của Luật sư, ý kiến của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

- Vẫn còn vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN bị sửa, hủy do

lỗi chủ quan của Thẩm phán.

- Việc thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết các vấn đề về Gia đình và

Người chưa thành niên chưa được thực hiện vì chưa có quy chế phối hợp giữa

TAND tỉnh Thanh Hóa với các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội liên

quan như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tỉnh Thanh Hóa, Thành đoàn tỉnh

Thanh Hóa, Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Sở Y tế

tỉnh Thanh Hóa... nên việc đảm bảo thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng còn gặp

khó khăn khi giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự.

54

- Về cơ sở vật chất: Do điều kiện về trụ sở, Tòa GĐ & NCTN với kiến

trúc chưa phù hợp với mô hình công sở, đặc biệt là mô hình của Tòa GĐ &

NCTN. Quy mô Tòa GĐ & NCTN còn hạn chế, chỉ có 02 phòng xử án, 01

phòng hòa giải, dẫn đến tình trạng thiếu phòng xử án, hòa giải. Các phòng xử

án, hòa giải có diện tích nhỏ, trường hợp có nhiều đương sự thì không đủ sức

chứa, người dự khán thiếu chỗ ngồi trong phòng xử; phòng làm việc diện tích

nhỏ...

Còn thiếu phòng chức năng là Phòng cách ly bị hại là trẻ em, vì trong

một số vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ án có liên quan đến xâm phạm tình dục

có người bị hại là trẻ em, cần cách ly trẻ em với bị cáo trong suốt quá trình tố

tụng nhằm bảo đảm cho tâm lý của trẻ không bị tác động.

2.3.3. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan: Ban lãnh đạo Tòa án mặc dù đã chủ động thực

hiện tốt việc đề ra những biện pháp, giải pháp quyết liệt nhưng thực tế thi hành

hiệu quả chưa cao vì chưa có biện pháp khuyến khích có hiệu quả đối với cán

bộ, công chức có ý thức phấn đấu tốt, chưa có hình thức xử lý nghiêm với các

trường hợp không chấp hành; công tác kiểm tra, giám sát chưa thực hiện chặt

chẽ, thường xuyên; chưa chủ động, tích cực trong việc xây dựng kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức; trong quá trình giải quyết, xét xử,

một số Thẩm phán còn chủ quan do đó tỷ lệ án hủy, sửa do lỗi chủ quan của

Thẩm phán vẫn còn; nhiều Thẩm phán chưa chủ động trong công tác phối hợp

với các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết án. Phương pháp,

lề lối làm việc và thủ tục hành chính tư pháp của một số đơn vị mặc dù đã có

những đổi mới, triển khai thi hành nhưng một số đơn vị chưa nghiêm túc triển

khai, áp dụng cho toàn thể cán bộ, công chức, cho tất cả các quy trình tố tụng.

Lực lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của Tòa GĐ & NCTN chưa được

tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực hôn nhân và gia đình, về tâm lý học đặc biệt

55

là tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên, từ đó ảnh

hưởng đất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ &

NCTN.

- Nguyên nhân khách quan: Khối lượng công việc tăng trong khi đội ngũ

nhân lực, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, tiền lương và mức thu nhập của cán bộ,

công chức ngành Tòa án còn thấp, ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa án nói

chung và Tòa GĐ & NCTN nói riêng. Đây là loại việc mới giao cho Tòa án

thực hiện, trong khi biên chế, cơ sở vật chất của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa

chưa được bổ sung (phải giảm 10%). Một số TAND thị xã, huyện ở xa Trung

tâm cai nghiện xem xét quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính

của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa gặp rất nhiều khó khăn. TAND tối cao chưa

có văn bản quy định đối với kinh phí hoạt động của Hội đồng tư vấn giải quyết

các vấn đề về Gia đình và Người chưa thành niên, cơ chế, chính sách hỗ trợ đối

với thành viên Hội đồng tư vấn. Kinh phí duy trì các phòng chức năng của Tòa

GĐ & NCTN chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể.

Kết luận chương 2

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói chung và Tòa

GĐ & NCTN đang dần được hoàn thiện theo chủ trương, đường lối của Đảng

về tinh thần cải cách tư pháp của Việt Nam theo từng giai đoạn. Nội dung

chương 2 đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt

động của Tòa GĐ & NCTN. Trên cơ sở đó, phân tích thực tiễn vấn đề này tại

tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ thống pháp luật về tổ chức và

hoạt động của Tòa GĐ & NCTN chưa được hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn

còn thiếu nên việc triển khai vào thực tế còn nhiều khó khăn. Thực tiễn triển

khai tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2018 đến 2020 cho thấy hướng đi đúng

trong việc thành lập Tòa chuyên trách nay với việc giải quyết rất tốt các vụ án

56

hình sự liên quan đến người chưa thành niên, các vụ án về hôn nhân và gia

đình… đều được giải quyết nhanh chóng, không bị tồn đọng nhiều. Hơn nữa,

việc chuyên môn hóa trong lĩnh vực này khiến các Thẩm phán và Thư ký có

kiến thức chuyên sâu và nhiều kinh nghiệm hơn trong nắm bắt vụ án cũng như

thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình.

57

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG

CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI

CHƯA THÀNH NIÊN

3.1. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa

gia đình và người chưa thành niên

3.1.1. Phương hướng hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa

trong giai đoạn 2021 - 2026

Nhiệm kỳ tới dự báo tình hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp; các

tranh chấp về dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình, hành chính

sẽ tiếp tục gia tăng với nhiều tranh chấp mới. Để hoàn thành được nhiệm vụ

được giao, hai cấp TAND tỉnh Thanh Hóa phấn đấu thực hiện tốt phương hướng

nhiệm vụ sau:

(1) Quán triệt và triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết và

các văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị

quyết của Đảng, Quốc hội; Nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương về

công tác tư pháp và cải cách tư pháp liên quan đến TAND.

(2) Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử

các loại vụ án. Kiên quyết không xử oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, hạn

chế đến mức thấp nhất những bản án, quyết định bị hủy, sửa hoặc án quá hạn

do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Chú trọng làm tốt công tác hòa giải trong giải

quyết các vụ án dân sự và đối thoại trong giải quyết các vụ án hành chính. Khắc

phục triệt để việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu căn cứ, cũng như việc án

tuyên không rõ ràng. Nâng cao chất lượng xem xét, quyết định áp dụng các

biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án. Tăng cường kiểm tra nghiệp vụ và công

tác thi hành án hình sự; tăng cường giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về tư

pháp. Chú trọng phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để tổ chức

58

phiên tòa rút kinh nghiệm và thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ quan

tiến hành tố tụng cùng cấp; các trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung

phải đúng quy định của pháp luật; đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ

án tham nhũng, vụ án dư luận xã hội quan tâm.

(3) Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính tư pháp tại Tòa án đảm bảo

hiệu lực, hiệu quả để giải quyết nhanh chóng các công việc, tạo điều kiện thuận

lợi cho người dân khi có công việc tại Tòa án; góp phần xây dựng hình ảnh Tòa

án thân thiện, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, là chỗ dựa của nhân dân

và là nơi bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thực hiện

công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án; công khai bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật trên Cổng thông tin điện tử Tòa án.

(4) Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ,

công chức thuộc quyền quản lý, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa

án trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng xử của CBCC

TAND”.

(5) Nâng cao chất lượng công tác tổ chức cán bộ; rà soát, sắp xếp, tinh

gọn đầu mối ở từng đơn vị Tòa án. Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch

cán bộ, tạo nguồn Thẩm phán và điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ,

Thẩm phán. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ; công

tác kiểm tra nghiệp vụ xét xử. Xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có sai phạm

gắn với xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.

(6) Tăng cường chất lượng nội dung tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán,

Thư ký Toà án, Thẩm tra viên và HTND; chú trọng và làm tốt công tác cử công

chức đi đào tạo nghiệp vụ xét xử, đào tạo các chức danh, bồi dưỡng lý luận

chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho Thẩm phán, cán bộ, công chức.

(7) Đẩy mạnh các phong trào thi đua; tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 05-

CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

59

phong cách Hồ Chí Minh”. Tiếp tục thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê

bình theo tinh thần Nghị quyết TW4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

3.1.2. Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình

và người chưa thành niên

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành

niên trên cơ sở:

Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành

niên phải phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước

về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và

xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng;

Thứ hai, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành

niên phải xuất phát từ vị trí, chức năng và yêu cầu nhiệm vụ của ngành TAND

trong tình hình mới, đó là: TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp;

hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả

và hiệu lực cao;

Thứ ba, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên

phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới tổ chức, và hoạt động của TAND đã

được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của

Bộ Chính trị, trong đó có định hướng về việc thành lập TAND sơ thẩm khu

vực, TAND cấp cao, định hướng về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND

tối cao;

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên

phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với cải cách hành chính, cải cách tư pháp,

phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; có lộ trình và bước đi thích

hợp;

60

Thứ năm, tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành

niên phải kế thừa những yếu tố truyền thống hợp lý; tham khảo có chọn lọc

những kinh nghiệm của nước ngoài; bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực quốc

tế về bảo vệ quyền con người, quyền trẻ em và người chưa thành niên.

3.1.3. Mục tiêu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa gia đình và

người chưa thành niên

Tòa GĐ & NCTN được thành lập với mục tiêu đảm bảo quyền trẻ em

theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, đảm bảo rằng trong quá

trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người chưa thành niên không

bị xâm phạm, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội. Tòa GĐ & NCTN là cơ quan tư pháp riêng biệt để thực hiện

trình tự, thủ tục áp dụng riêng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật,

xử lý người chưa thành niên phạm tội phù hợp với độ tuổi của các em. Việc

xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên không

những là một hướng đấu tranh phòng, chống tội phạm có liên quan đến người

chưa thành niên mà còn là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao địa vị pháp

lý của người chưa thành niên là bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng; phù hợp với

các chuẩn mực quốc tế về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên được

thể hiện trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản có

liên quan mà Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện.

Tổ chức và hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên phải

đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây:

Thứ nhất, đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và

người chưa thành niên; bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; thúc đẩy và

phát triển các biện pháp bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên phù hợp với pháp

luật quốc tế và thông lệ quốc tế; trong đó tập trung hướng việc quan tâm đến

61

trẻ em, người chưa thành niên vi phạm pháp luật và trẻ em, người chưa thành

niên là nạn nhân của những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình.

Thứ hai, chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và

người chưa thành niên nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và thời hạn giải

quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại TAND.

Thứ ba, góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND các cấp,

đáp ứng yêu cầu cải cải tư pháp đã được xác định trong các văn kiện, nghị quyết

của Đảng.

Thứ tư, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ

các quyền dân sự, chính trị, các quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong các

văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như phù hợp với thông lệ của

nhiều nước trên thế giới.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động

của tòa gia đình và người chưa thành niên

3.2.1. Hoàn thiện thể chế về Tòa gia đình và người chưa thành niên

Trên cơ sở đánh giá kết quả tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN

tại TAND tỉnh Thanh Hóa, cần thiết phải hoàn thiện các quy định về tổ chức và

hoạt động của Tòa chuyên trách này trong thời gian tới, cụ thể như sau:

- Tăng thẩm quyền cho Tòa GĐ & NCTN đối với các vụ việc dân sự, lao

động nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi: Theo quy định tại

các điều 27, 28 của Bộ luật TTDS, các vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc

thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay có nhiều

loại tranh chấp về dân sự, lao động mà người dưới 18 tuổi là đương sự (nguyên

đơn hoặc bị đơn) nhưng được giải quyết theo thủ tục ở Tòa thông thường là

chưa phù hợp, chưa đảm bảo với người dưới 18 tuổi. Do đó, cần bổ sung thêm

trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN đối với các tranh chấp về

62

dân sự, lao động mà người dưới 18 tuổi là nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ

việc đó.

- Nghiên cứu, xây dựng bổ sung các tiêu chí, điều kiện tổ chức Tòa

chuyên trách cụ thể hơn để tạo điều kiện thực hiện thống nhất và thuận lợi hơn,

nhất là các quy định còn có cách hiểu không thống nhất, dẫn đến mỗi Tòa án

lại có sự đánh giá, thực hiện theo cách của mình. Ví dụ như:

+ Tiêu chí về số lượng vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa chuyên trách

phải từ 50 vụ/năm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư số 01/2016

quy định “Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của

Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở

lên”. Trên thực tế có năm không đủ tiêu chí 50 vụ/năm, nhưng có năm lại thừa

tiêu chí này. Do đó thông tư cần quy định cụ thể căn cứ từ mốc nào để áp dụng

là một, hai hay ba năm trở về trước tính từ thời để đề xuất tổ chức hay có thể

được áp dụng dự đoán xảy ra trong tương lai ...

+ Tiêu chí “Có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp

ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách” định tại điểm b khoản 1 Điều 2

Thông tư số 01/2016. Cần phải quy định cụ thể cần phải có số lượng tối thiểu

là bao nhiêu biên chế mới được tổ chức. (Ví dụ tối thiểu là một Thẩm phán,

một Thẩm tra viên, một Thư ký)

+ Sau khi Tòa chuyên trách đó được tổ chức, hoạt động, cần quy định rõ

trường hợp nào “không đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách” phải

giải thể theo quy định tại Điều 6 Thông tư số 01/2016 (như không đáp ứng được

tiêu chí số lượng 50 vụ/năm liên tục trong vòng bao nhiêu năm hoặc biên chế

biến động tăng, giảm)

- Có hướng dẫn cụ thể và đề án mẫu đề nghị tổ chức Tòa chuyên trách

để áp dụng chung cho tất cả các địa phương. Có văn bản quy định cụ thể, chi

tiết đối với cơ cấu, tổ chức của Tòa chuyên trách khi có Quyết định thành lập.

63

- Có hướng dẫn về việc xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan ban

ngành liên quan trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ việc liên quan đến

người chưa thành niên; thành lập Hội đồng tư vấn cũng như phương thức tư

vấn, kinh phí phục vụ cho hoạt động của Hội đồng này. Trước mắt, để bảo đảm

hoạt động của Hội đồng tư vấn, đề xuất chi kinh phí như chế độ của Hội thẩm

nhân dân.

- Nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết mối quan hệ

phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức

khác (các cơ quan, tổ chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em)

trong việc giải quyết các vụ án có người tham gia tố tụng là người chưa thành

niên như việc cử cán bộ làm công tác xã hội tham gia vào việc giải quyết vụ án.

- Nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn về sự tham gia của cán bộ

làm công tác xã hội là các chuyên gia về y tế, tâm lý, xã hội trong việc xét xử

các vụ án có bị cáo, người bị hại là người chưa thành niên và việc áp dụng các

biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp người chưa thành niên

được miễn trách nhiệm hình sự.

- Có hướng dẫn về việc tham vấn chuyên gia tâm lý, xã hội, trong đó có

các nội dung như: Thời hạn cử, cơ quan yêu cầu, cơ quan có trách nhiệm cử

chuyên gia tham vấn về tâm lý, xã hội; thời hạn chuyên gia tham vấn tâm lý,

xã hội phải xây dựng Báo cáo thẩm tra xã hội. Báo cáo thẩm tra xã hội phải có

những nội dung chi tiết về lai lịch, hoàn cảnh sống của người chưa thành niên,

điều kiện phạm tội của người chưa thành niên, bao gồm các vấn đề trong gia

đình, thời thơ ấu của người chưa thành niên có thể góp phần ảnh hưởng đến

cách xử sự của các em; mối quan hệ của người chưa thành niên với các thành

viên trong gia đình; mối quan hệ với đối tượng xâm hại; việc học tập ở nhà

trường; các trải nghiệm khác trong học tập và lao động; các hành vi vi phạm

trước đây của người chưa thành niên; mức độ tham gia vào hành vi vi phạm

64

(cầm đầu hay a dua, người chủ mưu thực hiện hay giữ vai trò đồng phạm); thiệt

hại gây ra cho các nạn nhân và liệu các em có cố ý gây ra thiệt hại đó hay

không; mức độ trưởng thành và khả năng hiểu được những hậu quả của hành

vi của mình; các em có ăn năn hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của mình

hay không.

- Thực hiện rà soát, đánh giá tổ chức Tòa GĐ & NCTN tại 38 TAND cấp

tỉnh để chỉ đạo tổ chức Tòa chuyên trách này tại tất cả các TAND cấp tỉnh còn

lại. Sau khi kiện toàn tổ chức, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm thì tiếp tục

triển khai đến các TAND cấp huyện khi có đủ điều kiện theo quy định.

3.2.2. Nâng cao năng lực giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của

Tòa gia đình và người chưa thành niên

Để giải quyết hiệu quả các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và

người chưa thành niên trong giai đoạn tới cần:

Thứ nhất, những người tiến hành tố tụng đặc biệt là đội ngũ thẩm phán

của Tòa GĐ & NCTN cần phải có kiến thức chuyên môn và được đào tạo đặc

biệt để chuẩn bị cho mình những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong tiếp xúc

với người chưa thành niên sao cho phù hợp với tâm lý của các em. Cần lưu ý

xác định chính xác độ tuổi, tìm hiểu mức độ phát triển về thể chất và tinh thần,

mức độ nhận thức, điều kiện sinh sống và giáo dục, nguyên nhân và điều kiện

phạm tội của bị cáo là người chưa thành niên, từ đó có các phương thức tiếp

xúc phù hợp, các biện pháp xử lý và áp dụng những hình phạt thỏa đáng đối

với những đối tượng này.

Thứ hai, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên

tham gia tố tụng cần lưu ý những quy định riêng đối với người chưa thành niên

là người bị tạm giữ, tạm giam, đảm bảo không có vi phạm trong thủ tục tố tụng,

thời gian tạm giữ, tạm giam, xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của người chưa thành niên tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ cũng cần

65

thực hiện trong thời gian sớm nhất. Đối với bị hại là người chưa thành niên,

cần có một số kỹ thuật thu thập chứng cứ đặc biệt như chụp ảnh, ghi âm, tránh

việc lấy lời khai của người chưa thành niên nhiều lần, lặp đi, lặp lại làm ảnh

hưởng đến tâm lý của các em.

Thứ ba, tại phiên tòa, đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải

ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và

có thể giải thích câu hỏi cho rõ hơn; không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp

cho người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách

quan. Kết hợp xét hỏi đại diện gia đình, nhà trường nhằm xác định nguyên

nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh phạm tội… của bị cáo

chưa thành niên, từ đó Hội đồng xét xử có thể xác định biện pháp xử lý hình sự

cho phù hợp.

Về hình thức tổ chức phiên tòa xét xử bảo đảm ít tác động đến tâm lý và

sự phát triển của người chưa thành niên và tôn trọng bí mật đời tư của họ:

Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình

xét xử tại Tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm

trọng do cố ý hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất

trật tự tại phiên toà. Phương thức xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên phù

hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của bị cáo. Những lời giải thích về quyền

và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa đơn giản,

rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có

thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.

Đối với phiên tòa có người bị hại là người chưa thành niên, nếu xét thấy

không cần thiết có thể không cần triệu tập đến phiên tòa. Nếu cần thiết phải

triệu tập bị hại đến phiên tòa cần có các biện pháp bảo vệ họ, đặc biệt là đối với

bị hại trong các vụ án xâm hại tình dục. Trong trường hợp không bố trí được

phòng trẻ em thì cần có màn che, chắn, …

66

Hội đồng xét xử có thể sử dụng tên riêng trong quá trình xét xử thay vì

sử dụng từ “bị cáo”, “bị hại”, “cán bộ Tòa án”, …

Thứ tư, cần chú ý cân nhắc để có thể áp dụng việc miễn hình phạt, áp

dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với những trường hợp có thể áp

dụng. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án áp dụng một

trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào

trường giáo dưỡng. Ngược lại, đối với hành vi phạm tội đối với người bị hại là

người chưa thành niên, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, đảm bảo tính răn

đe, giáo dục chung cho cộng đồng.

Thứ năm, về xây dựng mô hình phòng xử thân thiện, đối với các phiên

tòa xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự, người chưa đủ 16 tuổi không được

vào phòng xử án trừ trường hợp được Tòa án triệu tập; quy định này thể hiện

cần hạn chế việc người dưới 16 tuổi tham gia phiên tòa để không ảnh hưởng

đến tâm lý của các em; việc tham gia tố tụng có thể thông qua người đại diện

hoặc trước phiên tòa, Thẩm phán tiến hành ghi nhận ý kiến của các em. Riêng

đối với vụ án hình sự, bị cáo hoặc người bị hại là người chưa thành niên buộc

phải tham gia phiên tòa. Do đó, mô hình phòng xử thân thiện phát huy hiệu quả

chủ yếu là trong các vụ án hình sự.

Người chưa thành niên về thể chất và tinh thần phát triển chưa hoàn thiện,

vì vậy, trong nhận thức và hành động của mình, người chưa thành niên còn hạn

chế về kiến thức, không làm chủ được hành vi của mình, thường bị kích động,

rủ rê, lôi kéo và bị người khác lợi dụng. Về mặt chủ quan, còn có thể thấy do

người chưa thành niên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức nên nhận thức

không đầy đủ, thậm chí không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

người chưa thành niên là đối tượng có nguy cơ bị xâm hại cao, dễ bị tổn hại do

độ tuổi và hoàn cảnh, dễ phạm tội do nhận thức chưa đầy đủ. Do đó, trong việc

xử lý hành vi vi phạm pháp luật do người chưa thành niên thực hiện cần vừa

67

đảm bảo việc trừng phạt nhưng ưu tiên giáo dục, răn đe nhằm cải tạo các em

thành người lương thiện, có nhận thức đúng đắn và có ích cho xã hội.

Bên cạnh đó:

- Tổ chức các khóa đào tạo bổ sung kiến thức chuyên sâu về hôn nhân

và gia đình, về tâm lý trẻ em và khoa học giáo dục đối với người chưa thành

niên, tập huấn kỹ năng, kinh nghiệm công tác cho cán bộ, công chức của Tòa

GĐ & NCTN.

- TAND tối cao phối hợp với các cơ quan, tổ chức để tổ chức cho đại

diện cán bộ, công chức Tòa GĐ & NCTN tham quan mô hình Tòa này trên thế

giới (Canada, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc...), nhằm học tập kinh nghiệm,

kỹ năng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, các vụ án hình sự liên

quan đến người chưa thành niên.

- Bổ sung nội dung đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử các vụ án có

sự tham gia của người chưa thành niên vào chương trình đào tạo Cử nhân luật,

đạo tào nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ Thư ký tại Học viện Tòa án nhằm xây dựng

đội ngũ kế cận có năng lực chuyên sâu và kỹ năng đặc biệt để giải quyết tốt các

vụ việc này.

- Học viện Tòa án cần biên soạn, chỉnh lý lại hệ thống giáo trình theo Bộ

luật Hình sự mới; xây dựng các chuyên đề, bài giảng và tổ chức các lớp tập huấn

chuyên sâu về kỹ năng xét xử các vụ án xâm hại tình dục trẻ em để nâng cao kiến

thức, nhận thức và kỹ năng xét xử cho các Thẩm phán và cán bộ Tòa án.

- Thường xuyên tổ chức hội thảo, tọa đàm nhằm chia sẻ kinh nghiệm về

tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ & NCTN trên toàn quốc, nhất là các địa

phương đi đầu trong việc tổ chức Tòa này như các TAND cấp cao, TAND tỉnh

Thanh Hóa.

68

3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động của

Tòa gia đình và người chưa thành niên

Xây dựng phòng chức năng Giám sát tâm lý, hình thức phòng xét xử các

vụ án được đổi mới theo hướng thân thiện với người chưa thành niên về cách

sắp xếp chỗ ngồi của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố

tụng; Không sử dụng vành móng ngựa. Bố trí đầy đủ phòng xét xử, phòng hòa

giải, phòng chức năng theo đúng mô hình xét xử thân thiện. Trong phòng chức

năng có các hình và áp phích nhiều màu được vẽ, dán trên tường thu hút trẻ em

ở các độ tuổi khác nhau; Rèm cửa sổ , thảm sàn nhà nhiều màu sắc; Tủ kệ hoặc

hộp đựng đồ chơi trò chơi và sách; Máy tính bảng có các trò chơi và phim dành

cho trẻ em người chưa thành niên ở nhiều độ tuổi khác nhau; Tủ lạnh, … Trong

những năm qua, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc

của các Tòa án hai cấp mặc dù đã được quan tâm và có những chuyển biến tích

cực, nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Một số

Tòa án cấp huyện trụ sở làm việc xuống cấp, diện tích xây dựng nhỏ hẹp. Hạ

tầng công nghệ thông tin của nhiều Tòa án còn lạc hậu. Trong khi đó, kinh phí

được đầu tư hàng năm của TAND tối cao còn hạn chế. Bên cạnh đó, điều kiện

phương tiện làm việc của các Tòa án nhìn chung còn thiếu. Đề nghị Hội đồng

nhân dân hàng năm hỗ trợ kinh phí trang bị phương tiện làm việc và ứng dụng

công nghệ thông tin cho các Tòa án.

- Phải bảo đảm bố trí đầy đủ các phòng chức năng và phòng xử như

hướng dẫn của TAND tối cao. Ngoài ra, TAND tối cao cần có hướng dẫn về

mô hình phiên tòa hình sự đối với những vụ án có người đã thành niên phạm

tội cùng với các bị cáo chưa thành niên, mô hình phiên tòa xử các vụ án hôn

nhân và gia đình.

- Xây dựng quy chế về kinh phí hoạt động của Tòa GĐ & NCTN như:

Kinh phí duy trì các phòng chức năng, kinh phí dành cho thành viên Hội đồng

69

tư vấn, chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực hôn nhân Gia đình và Người chưa

thành niên; nhân viên làm công tác xã hội, y tế trong tố tụng tư pháp đối với

người chưa thành niên;

- Tranh thủ sự ủng hộ về tài chính từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi

chính phủ, các dự án hỗ trợ kỹ thuật và các nguồn hợp pháp khác với mục đích

là đem lại những lợi ích tốt nhất cho Gia đình và Người chưa thành niên để

triển khai xây dựng cơ sở vật chất cho Tòa GĐ & NCTN. Tòa GĐ & NCTN

phải đảm bảo các cơ sở vật chất sau:

+ Bố trí hoàn thiện về Phòng xét xử thân thiện: bố trí vị trí chỗ ngồi và

trang trí thêm một số dụng cụ để tạo được không khí thân thiện, gần gũi đối với

người chưa thành niên tham dự phiên toà; Phòng tư vấn – hòa giải; Phòng trẻ

em; Phòng trợ giúp y tế.

+ Các trang thiết bị cần thiết cho các phòng chức năng: bàn ghế, tủ, ti vi,

máy điều hòa, đồ chơi trẻ em… đảm bảo phát huy tối đa chức năng sử dụng

các phòng có hiệu quả cao.

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa hoạt

động của Tòa GĐ & NCTN trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.

3.2.4. Nâng cao nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ

- Trước hết cần nâng cao nhận thức để tạo sự thống nhất trong toàn hệ

thống TAND về ý nghĩa, vai trò của việc tổ chức và hoạt động của Tòa GĐ &

NCTN.

Cần xây dựng cuốn sổ tay hoặc cẩm nang về kỹ năng giải quyết các vụ

việc có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ &

NCTN nhằm mục đích phục vụ cho đội ngũ những người tiến hành tố tụng

(nhất là với thẩm phán) để giải quyết một cách phù hợp, hiệu quả những tình

huống trong quá trình giải quyết các vụ việc có người chưa thành niên.

70

Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bản thân các Thẩm

phán phải biết tự trang bị cho mình những kiến thức chuyên sâu về tâm lý người

chưa thành niên theo từng độ tuổi và có kỹ năng làm việc đối với đối tượng

này;

Trong việc xét xử án hình sự cần áp dụng đúng quy định pháp luật về các

biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, các hình phạt thích

hợp, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhưng vẫn nêu

cao được sự khoan hồng, tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Từ đó để người

phạm tội nhận thức được sai lầm, sửa chữa khuyết điểm, trở thành người có ích

cho gia đình và xã hội.

Trong lĩnh vực giải quyết, xét xử án hôn nhân và gia đình, phải quán triệt

được quan điểm về việc bảo vệ truyền thống gia đình Việt Nam phát triển một

cách toàn diện, tăng cường công tác hòa giải, đối thoại.

Những người tiến hành tố tụng của Tòa GĐ & NCTN phải có cách làm

việc khoa học, hợp lý, nghiêm túc trong công tác để từng bước góp phần xây

dựng Tòa GĐ & NCTN thực hiện đúng mô hình của TAND tối cao trong quy

trình cải cách tư pháp, đồng thời bắt kịp xu hướng chung của thế giới.Đồng

thời, qua hoạt động của Tòa GĐ & NCTN, những người tham gia cần đưa ra

những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các chính sách của Đảng và pháp luật

của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi.

Thành phần Hội đồng xét xử được tuyển chọn đảm bảo về năng lực

chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, được bồi dưỡng, tập huấn các kiến thức về

tâm sinh lý của người chưa thành niên, kiến thức xã hội… bảo đảm thực hiện

tốt nhiệm vụ; Thành phần Hội đồng xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành

niên phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

thanh niên. Các Thẩm phán của Tòa GĐ & NCTN phải nghiên cứu, khai thác

hiệu quả cuốn “Cẩm nang hướng dẫn kỹ năng giải quyết các vụ việc có người

71

dưới 18 tuổi tham gia tố tụng” đã được cấp phát để trau dồi, tự nâng cao trình

độ, chuyên môn, kinh nghiệm giải quyết các loại việc này.

Với các chức danh hiện có trong hệ thống TAND, bên cạnh vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của Thẩm phán được quy định trong Bộ luật TTDS, có thể giao

Thẩm tra viên, Thư ký viên Tòa án thực hiện một số công việc và mời thêm các

chuyên gia tâm lý, y tế để tư vấn cho đương sự, đặc biệt là các trường hợp bị bạo

hành, giúp họ sớm vượt qua các sang trấn về tâm lý; ý thức được trách nhiệm

trong việc chăm sóc, giáo dục con là người chưa thành niên.

- Nghiên cứu, xem xét việc tổ chức mạng lưới trợ giúp pháp lý đối với

người dưới 18 tuổi ở cấp huyện, cấp xã; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật dành cho công dân nói chung và người chưa thành niên nói riêng.

3.2.5. Tăng cường tính đồng bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng và

sự phối hợp trong giải quyết các vụ án

Hoạt động của Tòa án có liên quan chặt chẽ đến công tác điều tra, truy

tố của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Thực tiễn giải quyết các vụ việc

tại Tòa GĐ & NCTN trong thời gian qua cho thấy, trong một số trường hợp,

các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa làm hết trách nhiệm, thiếu sự phối hợp

chặt chẽ trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự; cơ quan chức năng lấy lý do

người bị hại khai báo không nhất quán, chứng cứ dấu vết mờ nên không khởi

tố vụ án, khởi tố bị can vì sợ oan, sai. Chính vì vậy, Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát cũng cần có bộ phận chuyên trách hoặc những điều tra viên, kiểm sát

viên chuyên trách để tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố đối với người

chưa thành niên phạm tội và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải

quyết các vụ việc của Tòa GĐ & NCTN.

Phối hợp giữa TAND với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội

Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan

quản lý nhà nước về trẻ em trong việc tổ chức xét xử cần phải được tăng cường:

72

Theo quy định tại Điều 423 Bộ luật TTHS năm 2015, Điều 63 Bộ luật TTDS

năm 2015, thành phần Hội đồng xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18

tuổi hoặc vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội

thẩm là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ

nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước

về trẻ em. Việc họ tham gia Hội đồng xét xử giúp cho Tòa án đưa ra quyết định

đúng đắn đối với người chưa thành niên, có tác dụng nâng cao việc giáo dục,

bảo vệ đối với người chưa thành niên, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ.

Tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội

liên quan để nhanh chóng thành lập Hội đồng tư vấn các vấn đề liên quan đến

Gia đình và Người chưa thành niên, đồng thời ban hành đầy đủ quy chế hoạt

động của Hội đồng tư vấn này;

Các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế phối hợp giữa

Tòa án với các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc cử các chuyên gia tâm lý - xã

hội trợ giúp về mặt tâm lý, xã hội đối với người dưới 18 tuổi là nạn nhân trong

các vụ án xâm hại tình dục, bạo hành trẻ em khi tham gia tố tụng, để bảo vệ tốt

nhất quyền lợi của trẻ em.

Đẩy mạnh mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan

điều tra và các cơ quan, tổ chức khác (các cơ quan, tổ chức làm công tác bảo

vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em) trong việc giải quyết các vụ án có người tham

gia tố tụng là người chưa thành niên như việc cử cán bộ làm công tác xã hội

tham gia vào việc giải quyết vụ án.

Tăng cường phối hợp giữa TAND với cơ quan Công an, Phòng Tư pháp

cấp huyện, UBND cấp xã trong việc xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành

chính tại Tòa án thuộc thẩm quyền của Tòa GĐ & NCTN.

73

Kết luận chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm, định hướng và mục tiêu liên quan

đến hoạt động của TAND tỉnh Thành Hóa, Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa,

chương 3 của luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc triển

khai pháp luật về tổ chức và hoạt động của người chưa thành niên trên địa bàn

tỉnh Thành Hóa. Các giải pháp tập trung vào nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật về

tổ chức và hoạt động của Tòa chuyên trách này, nâng cao năng lực của bộ máy

và đội ngũ thẩm phán, thư ký tòa án trong giải quyết các vụ án theo nhiệm vụ

được giao; Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị… Các giải pháp

trên được thực hiện đồng thời sẽ giúp Tòa GĐ & NCTN tỉnh Thanh Hóa có thể

triển khai hiệu quả các nhiệm vụ của mình.

74

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu về thực trạng giải quyết các vụ việc về người chưa thành

niên và gia đình và phân tích những bất cập ảnh hưởng đến chất lượng công tác

giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình và người chưa thành niên tại

Tòa án, cho thấy việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành là thực sự

cần thiết ở Việt Nam hiện nay. Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN nhằm đáp ứng

tốt hơn về yêu cầu bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và người chưa thành niên;

bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam; cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước ta; góp phần chuyên môn hóa công tác giải quyết

các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên; góp phần hoàn thiện tổ chức

và hoạt động của TAND và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt

Nam là thành viên và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên để đảm bảo Tòa

GĐ & NCTN hoạt động h iệu quả và đáp ứng được mục tiêu đề ra thì vấn đề

xác định mô hình và thẩm quyền của Tòa này là vấn đề rất quan trọng, thêm

vào đó cần phải đề ra các giải pháp hoàn thiện về cơ sở pháp lý, nguồn nhân

lực, cơ sở vật chất và giải pháp đồng bộ các cơ quan tiế n hành tố tụng. Dựa

trên các tài liệu có liên quan và tham khảo các mô hình Tòa GĐ & NCTN của

một số nước trên thế giới, tác giả đưa ra một số đề xuất để thành lập Tòa GĐ

& NCTN như sau:

Về mô hình: Việc thành lập Tòa GĐ & NCTN nên thành lập theo mô

hình Tòa chuyên trách là phù hợp với điều kiện kinh tế và truyền thống pháp lý

ở nước ta hiện nay và phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án theo tinh thần cải

cách tư pháp.

75

Về thẩm quyền: Tòa GĐ & NCTN có thẩm quyền giải quyết các vụ án

hình sự có liên quan đến người chưa thành niên và giải quyết các vụ việc về

hôn nhân và gia đình có liên quan đến quyền và lợi ích của người chưa thành

niên. Ngoài ra, Tòa GĐ & NCTN còn xem xét quyết định biện pháp xử lý hành

chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với trẻ em, người chưa thành niên vi phạm

pháp luật theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.

Về nguồn nhân lực: Để có đầy đủ đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là Thẩm

phán, Điều tra viên và Kiểm sát viên chúng ta sẽ lựa chọn trong số cán bộ hiện

có để bồi dưỡng, tập huấn mà không cần hệ thống tổ chức cán bộ riêng biệt.

Về cơ sở vật chất: Với điều kiện kinh tế - xã hội như nước ta hiện nay,

thì việc trang bị mới toàn bộ cơ sở vật chất là hết sức khó khăn, vì vậy chúng

ta sẽ tận dụng cơ sở vật chất hiện có. Bố trí lại nội thất của phòng xét xử tạo

môi trường thân thiện với người chưa thành niên, trang bị thêm một số thiết bị

phục vụ việc lấy lời khai của trẻ em và người chưa thành niên.

Bên cạnh đó, hoạt động xét xử của Tòa án có liên quan chặt chẽ đến các

hoạt động điều tra, truy tố của các cơ quan tố tụng cùng cấp, nên bên cạnh việc

Tòa án thành lập tòa chuyên trách thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cũng

cần có bộ phận chuyên trách hoặc Điều tra viên và Kiểm sát viên chuyên trách

để điều tra, truy tố đối với người chưa thành niên phạm tội và kiểm sát hoạt động

của Tòa GĐ & NCTN. Ngoài ra, để Tòa này được thành lập thì cần có cơ sở p

háp lý vững chắc để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt mục tiêu đã được đề ra.

Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;

trong đó, có Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm

Toà án nhân dân, Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS, và Bộ luật TTDS, pháp luật về

xử lý vi phạm hành chính.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đức Anh (2016), Tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh thần

Hiến pháp năm 2013 qua thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

4. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ

Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm

sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

5. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Huỳnh Thị Trúc Giang và Nguyễn Thị Mỹ Linh (2012), Tập bài giảng

Luật hôn nhân &gia đình , Khoa Luật- Đại học Cần Thơ.

8. Lữ Thị Hằng (2019), Mô hình Tòa GĐ & NCTN ở Việt Nam và Hàn

Quốc - nhìn từ góc độ luật so sánh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

9. Bùi Thị Thu Hương (2020), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành

chính Quốc gia.

10. Nguyễn Thị Lộc (2013), Sự cần thiết phải bổ sung thủ tục tố tụng đối với

người bị hại là người chưa thành niên trong Bộ luật TTHS sửa đổi, Tạp

chí TAND, số 6.

77

11. Ngô Thị Mai (2019), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

cao ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành

chính Quốc gia.

12. Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của người bị kết án theo thủ

tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà

Nội, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

13. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2018), Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện theo yêu cầu cải cách tư pháp – Từ thực tiễn tỉnh Quảng

Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Hành chính Quốc gia.

14. Phan Đức Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND

trong tiến trình cái cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

15. Hoàng Văn Quang (2018), Đảm bảo quyền của người chưa thành niên

trong hoạt động xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình - qua thực tiễn

tại TAND quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(sửa đổi năm 2013), Hà Nội;

17. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND, Hà Nội;

18. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội;

19. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội;

20. Quốc hội (2013), Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của

Quốc hội “về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội

phạm”, Hà Nội.

21. Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện

trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội

78

22. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong thể

chế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sỹ,

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Nghiên cứu so sánh hệ thống Tòa án

một số nước kinh nghiệm và bài học trong hoàn thiện hệ thống Tòa án

Việt Nam, Hà Nội.

24. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải

cách hệ thống Tòa án Việt nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp

quyền, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

25. Hoàng Đình Thanh (2013), Giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và

gia đình của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế, Luận

văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Đào Thị Minh Thủy - Nguyễn Thị Thùy Giang (2013), Tòa vị thành niên

và gia đình các trung tâm giám sát và bảo vệ vị thành niên ở Thái Lan,

Tạp chí TAND, số 3.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

28. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

30. Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lược cải cách

tư pháp ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

31. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

32. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư

pháp và Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

79

33. Trần Quốc Việt (2013), Đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân

cấp tỉnh qua khảo sát thực tế tại Hà Tĩnh, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Hoàng Vững (2014), Thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên:

Cơ hội để Vị thành niên "làm lại", Báo điện tử Gia đình Việt Nam.

35. Trịnh Hoàng Yến (2020), Mô hình Tòa gia đình và người chưa thành

niên ở một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí TAND, số 23.

80