BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............../ ............... BỘ NỘI VỤ ......../ ........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ NGỌC THỊNH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢƠNG THANH CƢỜNG
Phản biện 1: .................................................................. . ....................................................................................... Phản biện 2: .................................................................. . .......................................................................................
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo
vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Số:… - Đường…………… - Quận……………… -
TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2018
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, theo Cục an toàn thực phẩm, trong năm 2016,
cả nước ghi nhận 129 vụ ngộ độc thực phẩm với hơn người mắc,
trong đó có 12 trường hợp tử vong. Số liệu này so với năm 2015 cho
thấy, tuy số người mắc giảm nhưng tình hình vẫn diễn biến phức tạp,
khó kiểm soát. Số liệu thống kê trên cũng dừng lại ở ngộ độc cấp tính
nghĩa là sau khi ăn phải thực phẩm bẩn bị ngộ độc ngay. Tuy nhiên,
còn có những trường hợp độc tố ngấm dần dần vào cơ thể con người
không thể thải loại hoặc thải loại không hết. Những độc tố tích tụ
trong cơ thể mỗi ngày một ít, tăng dần theo thời gian và phát tác
thành các bệnh hiểm nghèo như: ung thư, thần kinh, suy gan, thận…
cũng chưa được thống kê. Các nhà nghiên cứu khoa học của WHO
cũng dự đoán rằng đến năm 2020 số ca mắc ung thư ở Việt Nam sẽ
xấp xỉ 200.000 và trở thành nước có tỷ lệ ung thư cao nhất thế giới.
Việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân luôn là mục
tiêu của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. An toàn thực phẩm là một
trong những vấn đề mà các cơ quan nhà nước luôn quan tâm đặc biệt
là coi đây là một vấn đề có ý nghĩa to lớn về kinh tế, an toàn xã hội,
bảo vệ môi trường, sức khỏe nhân dân và đặc biệt là tiến trình hội
nhập của Việt Nam.
Từ những nguyên nhân trình bày ở trên, có thể khẳng định
rằng, việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi” có ý
nói nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trước yêu cầu ở nước
ta hiện nay nói chung, ở huyện Nghĩa Hành nói riêng.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đưa ra các giải pháp để
bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Để đạt mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện
pháp luật về an toàn thực phẩm.
- Khảo sát, thống kê, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật
và tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm, những ưu điểm,
khuyết điểm và nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế của pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành giai đoạn 2013 - 2017.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện
pháp luật ATTP ở huyện Nghĩa Hành.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về
ATTP và tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm theo quy
định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010 và các văn bản hướng
dẫn, triển khai thực hiện của các ngành chức năng đối với công tác
bảo đảm an toàn thực phẩm.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật
và tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Về thời gian: 05 năm (từ năm 2013 đến hết tháng 6 năm
2018).
2
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của
luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt
Nam về an toàn thực phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp
định tính, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về
tổ chức thực hiện pháp luật ATTP.
- Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu được thực hiện nhằm góp
phần cung cấp thông tin cho các nhà khoa học, các cán bộ địa
phương về thực trạng thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm; những
giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật ATTP tại huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
3
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. An toàn thực phẩm và pháp luật an toàn thực phẩm
1.1.1. An toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử
dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại
cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng.
1.1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm
Pháp luật an toàn thực phẩm là hệ thống các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn
thực phẩm.
1.2. Khái niệm, chủ thể, nội dung tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm
Tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm là việc lên kế
hoạch, sắp xếp các hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ
thể cho các chủ thể là các cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
trong việc thực hiện các hoạt động đó, đồng thời, sử dụng toàn bộ
những yếu tố, phương tiện, công cụ và những điều kiện cần thiết
được xác lập, tổ chức và sử dụng trong quá trình đưa pháp luật an
toàn thực phẩm vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật an toàn thực
phẩm được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và hiệu quả
trong thực tế.
4
1.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm
Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật là các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời
sống pháp luật; đồng thời, thể hiện sống động sự phân công quyền
lực nhà nước theo các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà
nước pháp quyền. Các yếu tố này cùng tồn tại, tác động lẫn nhau, bổ
sung cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Công tác tổ chức thực hiện
pháp luật trong cuộc sống chủ yếu thuộc về trách nhiệm và là chức
năng của cơ quan hành pháp.
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP tiếp cận dưới góc
độ thực tiễn triển khai thực hiện gồm các hình thức: ban hành văn
bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện, tổ chức bộ máy, con người
thực hiện, xây dựng các biện pháp triển khai thực hiện như: tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP, phối hợp tổ chức thực
hiện, công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện các biện pháp hành
chính, cưỡng chế…để đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về
ATTP trong đời sống xã hội.
1.2.3.1. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong an toàn thực phẩm
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về điều
kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm và trong sản xuất, kinh
doanh thực phẩm
1.2.3.3. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về kiểm
nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm
phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm
5
1.2.3.4. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quản lý
nhà nƣớc về an toàn thực phẩm
1.2.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm
1.2.4.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm
1.2.4.2. Xây dựng, ban hành văn bản hƣớng dẫn tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
1.2.4.3. Vận dụng pháp luật an toàn thực phẩm trong
thực tế
1.2.4.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an
toàn thực phẩm
1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm
1.3.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm
Tổ chức thực hiện pháp luật ATTP có phạm vi rộng, mang
tính đặc thù, đòi hỏi phải có một bộ máy chuyên sâu mang tính
chuyên nghiệp làm công tác này. Bộ máy và cơ cấu tổ chức được xây
dựng hợp lý, chặt chẽ sẽ là tiền đề cho sự thành công của việc triển
khai thực hiện nhiệm vụ.
1.3.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm
Đây là yếu tố hàng đầu tác động đến và quyết định hiệu quả
của công tác tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Muốn
công tác này thực hiện tốt trong thực tế thì phải có nguồn tài chính,
trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất,... đầy đủ hỗ trợ cho mọi
công đoạn quản lý.
6
1.3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Chủ thể của quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm là cơ quan
nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền, là người sản xuất kinh doanh
thực phẩm và người tiêu dùng. Một quan hệ pháp luật an toàn thực
phẩm sẽ ra sao là do ý thức và hành động của các chủ thể của quan hệ
pháp luật đó xác lập nên. Nếu các chủ thể có hiểu biết pháp luật sâu
rộng, ý thức chấp hành pháp luật tốt, thì quan hệ pháp luật đó sẽ ít
xảy ra xung đột tranh chấp và ngược lại. Đồng thời trong quá trình
sản xuất, kinh doanh buôn bán thực phẩm, người sản xuất và kinh
doanh có đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tuân thủ và chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật an toàn thực phẩm thì người tiêu dùng mới
có cơ hội sử dụng sản phẩm thực phẩm sạch và an toàn.
Tiểu kết chƣơng 1
Với những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về an toàn thực
phẩm và thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm được trình bày ở
chương 1, là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức
thực hiện pháp luật luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2.
7
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm
2.1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Xác định vai trò quan trọng của công tác đảm bảo ATTP,
hằng năm huyện Nghĩa Hành đều tổ chức triển khai phổ biến các văn
bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực an toàn thực phẩm tới các
ban, ngành, đoàn thể của huyện, xã, thị trấn, các tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn huyện, đồng thời tổ chức các
đợt tuyên truyền cao điểm truyền thông về an toàn thực phẩm vào các
dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì an toàn thực phẩm, Tết
trung thu và các lễ hội được tổ chức trên địa bàn.
2.1.2. Xây dựng, ban hành văn bản hƣớng dẫn tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm của chính quyền tỉnh
Quảng Ngãi và huyện Nghĩa Hành
Hàng năm, UBND tỉnh Quảng Ngãi, UBND huyện Nghĩa
Hành ban hành Kế hoạch đảm bảo ATTP trên địa bàn; Kế hoạch
thanh, kiểm tra kiểm tra các dịp cao điểm trong năm: Tết Nguyên
đán, Tháng hành động, Tết trung thu; Kiện toàn Ban chỉ đạo liên
ngành về ATTP.
2.1.3. Vận dụng pháp luật an toàn thực phẩm trong thực
tế trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Huyện Nghĩa Hành triển khai đầy đủ các hoạt động ATTP
theo phân cấp quản lý, bao gồm: Thẩm định, cấp Giấy chứng nhận cơ
sở đủ điều kiện ATTP, Giấy xác nhận kiến thức về ATTP; Tổ chức
8
đoàn kiểm tra liên ngành về ATTP; triển khai kiểm tra chuyên đề về
dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể...; thực hiện xử lý hành chính (phạt
tiền hoặc phạt cảnh cáo) đối với các cơ sở thực phẩm có vi phạm;
thực hiện các biện pháp phạt bổ sung và khắc phục hậu quả như: tiêu
hủy thực phẩm, đình chỉ lưu thông thực phẩm, khắc phục nhãn thực
phẩm không đúng quy định...
2.1.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng
Ngãi
Kết quả công tác thanh, kiểm tra hàng năm được thể hiện qua
biểu đồ sau:
Biểu đồ 1.2. Tình hình kiểm tra ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017
Qua thanh tra, kiểm tra, các đoàn liên ngành của huyện phần
lớn là nhắc nhở, hướng dẫn công tác bảo đảm VSATTP, các trường
hợp vi phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng thì tiến hành cảnh cáo
và phạt hành chính, có trường hợp đình chỉ hoạt động. Kết quả xử lý
vi phạm pháp luật về ATTP giai đoạn 2013-2017 trên địa bàn huyện
được thể hiện qua biểu đồ sau:
9
Biểu đồ 2.2. Tình hình xử lý vi phạm ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017
* Về xử lý hình sự: trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng như
huyện Nghĩa Hành chưa xử lý hình sự về ATTP giai đoạn 2013-
2017.
2.2. Thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện
pháp luật an toàn thực phẩm
2.2.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm trên huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
UBND huyện Nghĩa Hành chịu trách nhiệm trước UBND
tỉnh Quảng Ngãi về ATTP trên phạm vi địa bàn huyện. Tham mưu
giúp UBND huyện Nghĩa Hành có các cơ quan chuyên môn: Phòng
Y tế; Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Phòng Kinh tế
và Hạ tầng.
+ Đối với Phòng Y tế huyện: Thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về ATTP: được phân bổ 02 biên chế, gồm 01 phó trưởng
10
phòng, 01 kế toán. Phó trưởng phòng hiện công tác chuyên môn quản
lý nhà nước về ATTP.
Về trình độ chuyên môn: 01 điều dưỡng (đại học), 01 kế
toán.
Ngoài ra, còn có Trung tâm Y tế dự phòng huyện được thành
lập tháng 10/2007, đến cuối năm 2017 sáp nhập với Bệnh viện Đa
khoa huyện thành Trung tâm Y tế huyện Nghĩa Hành với tổng số cán
bộ, nhân viên 125 người, trong đó có khoa An toàn thực phẩm - Dinh
dưỡng có 3 viên chức, thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về ATTP.
+ Đối với phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện: Với tổng số 06
cán bộ, nhân viên (biên chế 06/06), gồm 01 Trưởng phòng và 01 Phó
trưởng phòng, phân công 01 phó trưởng phòng và 01 chuyên viên
phụ trách công tác bảo đảm ATTP.
+ Đối với phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện:
Với tổng số 06 cán bộ, nhân viên, trong đó có 05 biên chế và 01 hợp
đồng, gồm 01 trưởng phòng và 01 phó trưởng phòng, phân công 01
phó trưởng phòng và 01 chuyên viên phụ trách công tác bảo đảm
ATTP.
- Tuyến xã: Huyện Nghĩa Hành gồm 11 xã và 01 thị trấn.
UBND xã, thị trấn chịu trách nhiệm trước UBND huyện về ATTP
trên phạm vi địa bàn, giao cho Công chức Văn hóa - Xã hội quản lý
ATTP trên địa bàn theo Công văn số 1240/UBND của UBND huyện.
2.2.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Hằng năm, UBND huyện Nghĩa Hành bố trí kinh phí cho
hoạt động bảo đảm ATTP khoản 50 triệu đồng/năm. Ngoài ra, nguồn
kinh phí được cấp từ Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm lấy từ nguồn
Chương trình mục tiêu Quốc gia, trung bình khoản 80 triệu đồng/
11
năm chủ yếu cho hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, pano,
ap phích tuyên truyền về ATTP.
Nguồn thu từ: Cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện về
ATTP, xác nhận tập huấn kiến thức về ATTP và xử phạt vi phạm
hành chính được trích lại để hỗ trợ để lại phục vụ trực tiếp cho công
tác quản lý ATTP là: 30 triệu đồng/ năm.
2.2.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành,
tỉnh Quảng Ngãi
Chủ thể của quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm là cơ quan
nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền, là người sản xuất kinh doanh
thực phẩm và người tiêu dùng. Một quan hệ pháp luật an toàn thực
phẩm sẽ ra sao là do ý thức và hành động của các chủ thể của quan hệ
pháp luật đó xác lập nên.
2.3. Nhận xét về tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân
Thứ nhất, xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức
thực hiện pháp luật ATTP.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng như huyện Nghĩa Hành đã kịp thời
ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện
pháp luật về ATTP.
Thứ hai, hệ thống tổ chức quản lý ATTP
Hệ thống tổ chức quản lý ATTP bước đầu đã được hình
thành từ tỉnh đến huyện, xã, thị trấn (trong ngành y tế có Chi cục
ATVSTP, Phòng Y tế, Khoa ATTP – Trung tâm Y tế; trong ngành
nông nghiệp có Chi cục Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy
sản, PhòngNN&PTNT; trong ngành công thương có Phòng chuyên
12
ngành thuộc Sở, Chi cục Quản lý thị trường) tạo thành lực lượng
rộng khắp trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP. Hệ
thống kiểm nghiệm bước đầu đã phần nào đáp ứng được hoạt động
kiểm nghiệm phục vụ công tác quản lý.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra
Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP diễn ra thường xuyên
thông qua các đợt cao điểm về ATTP hàng năm với chế tài xử phạt
mạnh góp phần làm cho thị trường thực phẩm an toàn hơn.
Thứ tư, công tác truyền thông giúp nâng cao nhận thức, thực
hành về ATTP của các nhóm đối tượng.
Thứ năm, thị trường thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa
Hành cũng được quan tâm nhiều hơn
Nhiều vùng nguyên liệu an toàn như vùng rau sạch, chăn
nuôi an toàn... đã được xây dựng như mô hình rau sạch xã Hành
Dũng, nấm sạch xã Hành Thuận,...
Thứ sáu, công tác phối hợp liên ngành đã có nhiều cố gắng
Thứ bảy, cấp phép các thủ tục hành chính về ATTP đã được
thực hiện theo đúng quy trình giải quyết thủ tục hành chính gọn nhẹ,
nhanh chóng, nhờ đó người dân dễ dàng tiếp cận trong quá trình sản
xuất, kinh doanh thực phẩm.
* Nguyên nhân ưu điểm: Công tác đảm bảo ATTP đã nhận
được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện, sự phối hợp chặt chẽ của các
phòng, ban chuyên môn, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức đoàn thể của
huyện và cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn đặc biệt là vai trò tham
mưu của phòng Y tế, phòng KT&HT, phòng NN&PTNT.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế:
13
Thứ nhất, việc ban hành văn bản chỉ đạo điều hành còn chậm
vì tâm lý chờ văn bản triển khai thực hiện của Bộ, ngành Trung
ương, của tỉnh Quảng Ngãi. Đặc biệt lĩnh vực của ngành Công
Thương và NN&PTNT quản lý bị bỏ trống trong một thời gian dài,
gây nguy cơ mất an toàn cho người tiêu dùng.
Thứ hai, công tác quản lý ATTP trên địa bàn huyện hầu hết
được giao cho ngành Y tế đảm trách trong điều kiện nguồn kinh phí
từ Trung ương cấp xuống bị cắt giảm theo từng năm; nhưng theo Đề
án vị trí việc làm được UBND tỉnh thông qua thì phòng Y tế huyện
Nghĩa Hành không có biên chế cho lĩnh vực ATTP nên một Phó
Trưởng phòng Y tế phụ trách lĩnh vực ATTP và nhiều lĩnh vực khác.
Phòng KT&HT, NN&PTNT giao cho 01 chuyên viên phụ trách
ATTP trong khi không có chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP. Lực
lượng cán bộ quản lý nhà nước về ATTP còn thiếu về số lượng và
hạn chế về chuyên môn, đặc biệt các cán bộ tuyến xã, thị trấn không
có chuyên môn sâu về ATTP dẫn đến việc hiểu và áp dụng văn bản
không đúng.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về
ATTP trên địa bàn huyện còn hạn chế dẫn đến nhiều vụ việc các cơ
quan xử lý khác nhau và không có sự phối hợp trao đổi thông tin ảnh
hưởng đến cơ sở thực phẩm.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra
- Công tác thanh tra, kiểm tra tuy được tổ chức đều khắp trên
địa bàn huyện nhưng tần xuất kiểm tra tại các cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm còn thấp. Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra thực
hiện pháp luật về ATTP chỉ có thể thực hiện theo từng thời điểm nhất
định nên dẫn đến tình trạng nhiều chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh tìm
mọi cách đối phó với lực lượng chức năng. Mặc dù tổ chức thanh,
14
kiểm tra nhiều nhưng tỷ lệ xử lý thấp, việc xử lý vi phạm còn nương
nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
- Việc tổ chức thanh tra liên ngành về lĩnh vực ATTP giữa
tuyến tỉnh và tuyến huyện chưa đồng bộ, còn chồng chéo nên xảy ra
trường hợp có đơn vị không được kiểm tra, có đơn vị trong một thời
gian ngắn bị nhiều đoàn liên ngành của tỉnh, của huyện kiểm tra, gây
khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị.
- Việc kiểm tra chuyên ngành chỉ có ngành y tế là đủ khả
năng thành lập Đoàn kiểm tra vì lực lượng đông đảo, có chuyên môn
về ATTP cũng như kinh nghiệm làm công tác quản lý ATTP. Phòng
KT&HT, NN&PTNT chỉ phối hợp liên ngành, chưa có Đoàn kiểm tra
chuyên ngành riêng nên 02 lĩnh vực trên gần như bỏ trống.
- Lực lượng thanh tra, kiểm tra ATTP còn mỏng, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế nên việc hiểu và áp dụng pháp
luật về ATTP hạn chế; chưa có phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc
gia, cơ sở vật chất, trang thiết bị tác nghiệp còn thiếu nên chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý ATTP.
Thứ tư, công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục về ATTP
chưa thường xuyên, kết quả còn hạn chế.
Thứ năm, tỷ lệ cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm trên
địa bàn được kiểm soát còn ở mức rất thấp. Việc quản lý ATTP ở cấp
xã, thị trấn lại gặp nhiều khó khăn, hầu hết cán bộ xã, thị trấn không
có trình độ chuyên môn, thiếu dụng cụ phân tích, kiểm nghiệm.
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
của UBND cấp huyện, xã tuy đã có chuyển biến song việc triển khai
còn thụ động, mới tập trung giải quyết được một số vấn đề bức xúc,
chưa chủ động quản lý được nguy cơ ô nhiễm theo chuỗi cung cấp
15
thực phẩm theo một chiến lược dài hạn. Phương thức quản lý thực
phẩm còn nhiều bất cập.
Thứ bảy, tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp
giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và tỷ lệ hàng hóa được
cấp chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm ở mức rất thấp.
Thứ tám, hiện nay huyện chưa có phòng thí nghiệm để tiến
hành các xét nghiệm xác định độ an toàn của thực phẩm mà chỉ sử
dụng các test nhanh.
Thứ chín, một số cấp uỷ, chính quyền xã, thị trấn cán bộ,
đảng viên chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác
đảm bảo ATTP.
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
- Nguyên nhân chủ quan
+ Văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực ATTP còn chồng
chéo, chưa cụ thể cho từng đối tượng quản lý, chưa quy định biện
pháp khắc phục cụ thể khi bị xử phạt hành chính.
+ Sự phối hợp giữa các phòng NN&PTNT, KT&HT, Y tế
trong quản lý nhà nước về ATTP trên địa bàn huyện chưa đồng bộ,
chưa thật sự chặt chẽ.
+ Năng lực quản lý, điều hành của UBND các xã, thị trấn
trên địa bàn huyện còn hạn chế, chưa kịp thời triển khai thực hiện các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các ngành chức năng về quản lý
ATTP.
+ Nhận thức trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính
quyền địa phương về tầm quan trọng của công tác quản lý ATTP
chưa đầy đủ nên sự chỉ đạo thiếu quyết liệt, triển khai thực hiện pháp
luật về ATTP chưa đồng bộ.
16
+ Phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ kiểm tra nhà
nước về chất lượng ATTP còn thiếu và lạc hậu, không có phòng kiểm
nghiệm đáp ứng nhu cầu kiểm nghiệm phát sinh; trình độ cán bộ
chuyên môn trên địa bàn huyện chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay.
+ Rau, quả, thịt, thủy sản là thực phẩm tươi sống nên phần
lớn chưa có nhãn, mác, dấu hiệu nhận diện và thông tin về nguồn gốc
xuất xứ. Do vậy khi phát hiện mẫu vi phạm đã gặp rất nhiều khó
khăn trong truy xuất, xác định nguyên nhân và xử lý vi phạm.
+ Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý chất lượng ATTP và
trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn
huyện đối với cộng đồng còn chưa cao.
- Nguyên nhân khách quan
+ Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa
bàn huyện đều nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, do đó
việc đầu tư cơ sở vật chất nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều
kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế trong
thực tế là không khả thi. Việc kiểm soát đến từng hộ gia đình, cơ sở
nhỏ lẻ là hầu như không khả thi, mô hình tập trung dễ kiểm soát hơn.
+ Trong nhân dân còn tồn tại nhiều tập quán sử dụng thực
phẩm không bảo đảm như: Ăn tiết canh, ăn gỏi cá, thói quen chế
biến, sử dụng thực phẩm tại hộ gia đình không đảm bảo...
+ Do ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư trang thiết bị, máy
móc phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng các sản phẩm
còn hạn chế.
Tiểu kết chƣơng 2
17
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng
Ngãi
3.1.1. Bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các cá nhân,
tổ chức về an toàn thực phẩm
Quan điểm của huyện Nghĩa Hành về bảo đảm quyền, lợi ích
chính đáng của các cá nhân, tổ chức về an toàn thực phẩm:
- Khuyến khích cơ quan quản lý nhà nước về ATTP trực tiếp
xuống cơ sở tham vấn xây dựng cơ sở khi mới thành lập để đảm bảo
mô hình cơ sở chuẩn các điều kiện về cơ sở vật chất, địa điểm môi
trường, điều kiện trang thiết bị dụng cụ,.... theo chuẩn quy định để
cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện về ATTP trước khi đi vào
hoạt động.
- Cho phép tạm ứng và thanh toán từ kinh phí xử phạt vi
phạm hành chính để xử lý vi phạm (tiêu hủy thực phẩm không an
toàn, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chế phẩm xử lý, cải tạo môi
trường giả, kém chất lượng, không an toàn...).
- Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn đối với hỗ trợ đầu tư cơ sở giết
mổ để phù hợp hơn với nhu cầu tiêu dùng của huyện.
3.1.2. Bảo đảm bình đẳng, công khai, minh bạch, trách
nhiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Hàng năm, UBND huyện ban hành các văn bản như Kế
hoạch: Đảm bảo ATTP; Kiểm tra ATTP; Thẩm định cấp Giấy chứng
nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP; Tập huấn và xác nhận kiến thức về
18
ATTP; Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra,... đều công khai trên
wedsite của UBND huyện.
Các văn bản chuyên ngành về ATTP cũng như thủ tục hành
chính cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP đều được công
khai niêm yết trước cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp giấy.
Trong công tác thanh, kiểm tra ATTP tiến hành như trình tự
thủ tục theo quy định, đối với các cơ sở vi phạm thì tiến hành nhắc
nhở, xử phạt vi phạm hành chính tùy vào mức độ vi phạm, luôn luôn
minh bạch trong thanh, kiểm tra ATTP. Các cơ sở thực phẩm tiến bộ
thì được biểu dương thông qua các bài, điểm tin ATTP.
3.1.3. Thu hút sự tham gia của ngƣời dân vào tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Người dân chính là tai mắt của cơ quan nhà nước, là người
giám sát tốt nhất để phát hiện việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm
bẩn.
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng
Ngãi
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật
ATTP
- Hoàn thiện Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về an
toàn thực phẩm
- Hoàn thiện pháp luật hình sự hiện hành
Thứ ba, hoàn thiện các nội dung khác của pháp luật về ATTP
19
- Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia theo
hướng phải phù hợp với trình độ phát triển, trình độ dân trí, phù hợp
với hiện trạng nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý Nhà
nước về ATTP và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội một cách bền
vững.
- Ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích tổ chức, cá
nhân, cộng đồng tham gia quản lý ATTP.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách huy động các nguồn vốn
cho hoạt động ATTP, bao gồm nguồn vốn: ngân sách Nhà nước, xã
hội, ODA và các nguồn khác như kinh phí từ cấp phép sản xuất, kinh
doanh thực phẩm.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật an
toàn thực phẩm
Thứ nhất, đổi mới nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về
ATTP
Thứ hai, đổi mới về hình thức tổ chức
Thứ ba, nâng cao nhận thức thông qua tập huấn kiến thức về
ATTP cho chủ và nhân viên các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm; qua các buổi triển khai văn bản pháp luật, đưa thông tin đến
với nhân dân, người tiêu dùng.
Thứ tư, thông qua các hoạt động của các Hội đoàn thể, tố
chức của đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội người cao
tuổi,… để phổ biến các chính sách pháp luật mới, tác dụng của việc
chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật an toàn thực phẩm
đối với sức khỏe của toàn dân nói chung và sức khỏe, sự an toàn của
người tiêu dùng nói riêng.
Thứ năm, thông qua cơ chế xử lý và khuyến khích khen
thưởng
20
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ,
công chức trong quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm
Với thực trạng của huyện Nghĩa Hành hiện nay thì nhân lực
đúng chuyên môn ATTP mới có 01 viên chức tốt nghiệp Cao đẳng
Công nghệ thực phẩm – Thuộc Trung tâm Y tế huyện. Còn lại các cơ
quan chủ chốt trong quản lý ATTP không có chuyên môn ATTP,
tuyển dụng theo cơ chế cũ nên tốt nghiệp chuyên ngành không phù
hợp. Cần tuyển dụng mới chuyên trách ATTP phải tốt nghiệp đúng
chuyên ngành thì mới đủ năng lực, trình độ chuyên môn để điều hành
và quản lý tốt lĩnh vực ATTP. Cần tăng cường biên chế cho đội ngũ
chuyên trách ATTP của tuyến xã, thị trấn.
3.2.4. Thanh tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh, công khai mọi hành vi vi phạm pháp luật về an
toàn thực phẩm
Việc thanh tra, kiểm tra cần thực hiện đột xuất, thường
xuyên, không nằm trong kế hoạch được xây dựng trước nhằm phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về đảm bảo an
toàn thực phẩm, công khai trên phương tiện thông tin đại chúng,
tránh nể nang, tạo sức mạnh răn đe trong dư luận.
Triển khai đồng bộ thanh tra chuyên ngành ATTP từ tỉnh đến
tuyến huyện, xã, thị trấn.
3.3.5. Nâng cao vai trò của ngƣời dân trong tổ chức thực
hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Huyện Nghĩa Hành cần có cơ chế phù hợp (như đường dây
nóng) để tiếp nhận phản ánh của nhân dân, báo chí về vi phạm ATTP
và xử lý nghiêm, kịp thời; có hình thức tôn vinh, khen thưởng đối với
cá nhân phát hiện và cung cấp thông tin về sản xuất, kinh doanh thực
phẩm không an toàn.
21
3.3.6. Đảm bảo nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực
hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Nguồn lực vật chất là điều kiện vật chất không thể thiếu cho
hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Sớm có
phương án đảm bảo kinh phí cho công tác quản lý ATTP từ tuyến
tỉnh đến tuyến huyện, xã. Đầu tư hạ tầng, trang thiết bị cho các Labo
tuyến tỉnh và xây dựng Labo tuyến huyện đóng vai trò là Labo kiểm
chứng về ATTP.
Tiểu kết chƣơng 3
22
KẾT LUẬN
Qua những phân tích và nghiên cứu trên có thể thấy vấn đề an
toàn thực phẩm là vấn đề của mọi thời đại và trong thời điểm hiện nay
nó đang là một vấn nạn nóng hơn bao giờ hết.
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP
thì trước hết và trên hết phải hoàn thiện pháp luật về ATTP, hạn chế
những tồn tại, yếu kém, những bất cập, hạn chế trong thực hiện pháp
luật về ATTP. Mặt khác phải tăng cường huy động đầy đủ, tối đa các
nguồn lực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẽ là giải pháp cốt lõi để
bảo đảm ATTP có hiệu quả và bền vững. Các bộ, ngành, địa phương,
đoàn thể xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm trực tiếp trong việc chủ động, triển khai đồng bộ, quyết liệt các
giải pháp để huy động đầy đủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để
kiểm soát ATTP.
Huyện Nghĩa Hành là đồng bằng nhưng đời sống kinh tế còn
khó khăn, do đó công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về ATTP
chưa sâu rộng, chưa làm thay đổi được các hành vi theo pháp luật về
ATTP; đội ngũ cán bộ, công chức của huyện còn hạn chế cả về số
lượng và chất lượng, phần lớn chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản
lý ATTP do đó việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP còn hạn chế;
tình hình an ninh chính trị trên địa bàn còn diễn biến phức tạp, tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định... do đó ít nhiều ảnh hưởng đến
thực hiện pháp luật về ATTP.
Từ việc phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật về an
toàn thực phẩm, những nội dung chủ yếu của pháp luật về ATTP;
phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm trên địa bàn; luận văn đã đánh giá những hạn chế, yếu
kém của pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP, phân tích,
23
làm rõ nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để từ đó xây dựng các
quan điểm bảo đảm ATTP trong giai đoạn hiện nay của nước ta đồng
thời đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP cũng như
những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
pháp luật về ATTP từ thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
trong thời gian tới..
Do điều kiện công tác bận rộn và khả năng nghiên cứu của
tác giả còn hạn chế, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót nhất định. Tác giả luận văn rất mong được sự thông cảm và
đóng góp ý kiến chân thành của các nhà khoa học và các thầy, cô
giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./.
24