VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N G U Y Ễ N N G Ọ C T H Ù Y V Â N

NGUYỄN NGỌC THÙY VÂN

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,

Ì

TỈNH ĐỒNG NAI

Ì

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

N G À N H H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự

Hồ Chí Minh, năm 2020

K H Ó A 1 - 2 0 1 8

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC THÙY VÂN

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,

TỈNH ĐỒNGNAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

Người hướng dẫn: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hồ Chí Minh, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn Thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các

số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực.

Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong các công

trình khoa học khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ...................................................... 8

1.1. Những vấn đề lý luận về các tội cướp giật tài sản...8

1.2. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cướp

giật tài sản......21

CHƯƠNG 2: THỰC TIÊN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH

ĐỒNG NAI......26

2.1. Thực tiễn định tội danh cướp giật tài sản tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai...........26

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai......34

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 42

CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN .......... 49

3.1. Yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản 49

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

cướp giật tài sản................................................................................................... 55

KẾT LUẬN ................................................................................................ 67

1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 68

MỞ ĐẤU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Tình hình tội cướp giật tài sản đang diễn biến hết sức phức tạp, trở thành

vấn đề nhức nhối ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là các thành phố

lớn. Đối với thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, điều đó cũng không phải là

ngoại lệ. Biên Hòa là một thành phố đô thị loại I; là đầu mối giao thông quan

trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có sông Đồng Nai chảy qua, cách

trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách thành phố Vũng Tàu 90 km; là

trung tâm kinh tế của tỉnh Đồng Nai; gồm 6 khu công nghiệp và rất nhiều cụm

công nghiệp thu hút vốn đầu tư rất nhiều của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Bên cạnh những thành tựu mà công cuộc đổi mới và nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa mang lại, tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tệ nạn

xã hội, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng

vốn là hệ lụy của mặt trái nền kinh tế thị trường làm phát sinh các mâu thuẫn xã

hội chưa được giải quyết tốt cũng tăng nhanh chóng theo tiến độ phát triển kinh

tế của thành phố Biên Hòa và của các thành phố lớn trong khu vực Đông Nam

Bộ.

Hành vi cướp giật tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của

các nạn nhân mà còn gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân, ảnh hưởng

tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội và không ít những hệ lụy khác. Không những

vậy, ở các thành phố lớn như Biên Hòa còn xảy ra tình trạng cướp giật tài sản

của khách du lịch, của người nước ngoài gây ảnh hưởng xấu về hình ảnh con

người, đất nước Việt Nam, gây tâm lý bất an đối với người dân trong nước và

người nước ngoài đến Việt Nam. Chính bởi lẽ đó, đảng, chính quyền các cấp tại

thành phố Biên Hòa đã và đang tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm nói

chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.

Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm 2019, các cơ quan chức năng tại thành

phố Biên Hòa đã tích cực phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử 176 vụ với

2

237 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản. Các bản án tuyên phạt đối với các bị cáo

phạm tội cướp giật tài sản nhìn chung nhận được sự đồng tình của dư luận xã

hội bởi tính nghiêm minh, công khai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong quá trình

giải quyết vụ án cướp giật tài sản tại thành phố Biên Hòa, vẫn xảy ra tình trạng

thiếu thống nhất trong định tội danh, nhất là các trường hợp có tình tiết định

khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như: phạm tội có tổ chức, gây hậu quả

nghiêm trọng, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Trong quyết định hình phạt

vẫn còn những sai sót như bỏ quên một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách

nhiệm hình sự hoặc vận dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách

nhiệm hình sự, thậm chí là nhầm lẫn trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ,

tăng nặng trách nhiệm hình sự mà lẽ ra áp dụng đối với riêng người phạm tội

trong trường hợp phạm tội có tổ chức để áp dụng chung cho tất cả nhũng người

phạm tội dẫn đến kết quả là quyết định hình phạt không chính xác.

Tình trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có

sự nhận thức chưa thật đầy đủ và thống nhất những vấn đề lý luận về tội cướp

giật tài sản; sự chưa thật đầy đủ và chính xác trong điều chỉnh pháp luật hình sự

đối với tội này; sự nhận thức chưa thật thống nhất và chuẩn các quy định của

pháp luật hình sự nhìn từ phía cơ quan, người áp dụng pháp luật hình sự đối với

tội cướp giật tài sản...Điều đáng nói là cho đến nay, chưa có một công trình

nghiên cứu khoa học nào tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nghiên

cứu tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình

sự và tố tụng hình sự, đã ảnh hưởng ít nhiều đến tình trạng nói trên.

Xuất phát từ tình trạng nói trên và với tư cách là người con sinh ra và lớn lên

tại thành Phố Biên Hòa, học viên mong muốn thông qua việc nghiên cứu những

vấn đề lý luận, pháp luật hình sự Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự

Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản tại Biên Hòa, qua đó đề xuất các giải

pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên

3

địa bàn nơi mình sinh sống và công tác. Đó cũng chính là lý do mà học viên lý

giải cho tính cấp thiết của đề tài " Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai" mà mình lựa chon và thực hiện.

2.Tình hình nghiên cứu

Tội cướp giật tài sản thường được đề cập chung với các loại tội phạm như

trộm cắp tài sản, cướp tài sản....trong một số công trình nghiên cứu khoa học về

luật hình sự; trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc

sĩ; tiến sĩ của một số tác giả nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài các tội

phạm xâm phạm sở hữu như : bài “Thay đổi định tội danh:Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn”,trên tạp chí TAND số 11+12/2003 và bài “Thay đổi định tội

danh:Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”trên tạp chí TAND số 8/1001 của

PGS.TS Võ Khánh Vinh. Bài “Các tội phạm sở hữu trong bộ luật Hình sự năm

1999” của TS Trương Quang Vinh, trên tạp chí Luật Học (Trường Đại học Luật

Hà Nội) số 4/2000.Luận văn Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Ngọc Chí năm 2000

về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm sở hữu”.Tội cướp giật tài sản

cũng được nghiên cứu khá kĩ càng; cụ thể trong một số công trình,bài viết như :

“Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản qua một số

tình huống thực tiễn” của Trịnh Tiến Việt trên tạp chí khoa học pháp lý số

4/2000. “Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội cướp giật

tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” của luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Ngọc Lệ.

“Tội cướp giật tài sản- Những vấn đề Lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Việt Hà

năm 2009.Luận văn thạc sỹ năm 2004 của Lê Thị Thu Hà “Tội cướp giật tài sản

theo luật hình sự Việt Nam một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học”

Như vậy, ở các cách tiếp cận và các mức độ khác nhau, các công trình

khoa học đã công bố nêu trên về hoặc có liên quan đến tội cướp giật tài sản đã

đề cập nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực

tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản tại những địa

bàn khác nhau của nước ta. mặc dù vậy, cho đến nay, như đã nhấn mạnh chưa có

một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và

pháp luật hình sự Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối 4

với tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên,

các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố trên đây giúp

học viên rất nhiều về cách tiếp cận, về lý luận, về điều chỉnh pháp luật, nhất là

về mô tả và đánh giá áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản,

trong quá trình làm luận văn này.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc làm lý luận, pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp

luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản tại TP Biên Hòa từ năm 2015 đến

năm 2019, Luận văn đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình

sự đối với tội cướp giật tài sản trong thời gian tới.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ

sau đây:

- Phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật

tài sản.

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội

cướp giật tài sản tại Thành Phố Biên Hòa.

- Lập luận các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp

luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản.

4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam hiện hành về tội cướp giật tài sản và thực tiễn định tội danh và áp

5

dụng hình phạt đối với tội này tại thành phố Biên Hòa làm đối tượng nghiên cứu.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tội cướp giật tài sản dưới góc độ luật hình sự và tố

tụng hình sự. Các số liệu phục vụ nghiên cứu được học viên thu thập từ thực tiễn

xét xử tội cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản gồm nhiều

nội dung khác nhau, trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội

dung chính. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học vốn bị giới hạn bởi số

trang theo quy định, học viên chỉ tập trung phân tích đánh giá thực trạng định tội

danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019. Bởi vậy, các số liệu phục vụ nghiên cứu

được học viên thu thập từ thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản tại Tòa án nhân

dân nói trên.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các

văn kiện Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước về quan điểm áp dụng

pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản

nói riêng, về bảo vệ công lý, quyền con người, về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên

cứu của khoa học luật hình sự như thống kê hình sự, phân tích lý luận và thực

tiễn, so sánh, tổng hợp...

Trong quá trình hoàn thành luận văn các phương pháp được sử dụng đan

6

xen trong một tổng thể tạo ra cái nhìn đa chiều để tạo ra kết quả nghiên cứu, rút

ra những kết luận và những ý kiến, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự có

tính khả thi.

6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn,

thống nhất hơn trong giới luật học về những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài

sản, về nội dung điều chỉnh của các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp

giật tài sản, về cách nhìn nhận và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội này, về hướng hoàn thiện

chính sách và pháp luật về tội cướp giật tài sản.

6.2.Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao kỹ năng nắm bắt, phân

tích và giải quyết vụ án cụ thể của các chủ thể áp dụng pháp luật hình sự, nhất là

kỹ năng định tội danh và kỹ năng quyết định hình phạt đối với tội cụ thể. Kết

quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho

các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên ngành luật hình sự và tố

tụng hình sự.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu

thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật

tài sản.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật

tài sản tại Thành Phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt

7

Nam đối với tội cướp giật tài sản.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1.Những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản

1.1.1.Khái niệm tội cướp giật tài sản

Để xây dựng khái niệm tội cướp giật tài sản, trước hết cần tìm hiểu khái

niệm tội phạm nói chung. Mặc dù thể hiện nội hàm của khái niệm tội phạm có

khác nhau, song phần lớn các nhà luật học thừa nhận tội phạm có các dấu hiệu:

là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó có tính trái pháp luật hình sự, hành

vi đó có tính có lỗi và hành vi đó có tính phải chịu hình phạt. Nhà làm luật Việt

Nam tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành cũng ghi nhận khái niệm tội

phạm, theo đó,"Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong

Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện một cách cố ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn

hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy

định của bộ luật này phải bị xử lý hình sự". Tại khoản 2 Điều luật nói trên, nhà

làm luật nước ta quy định "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng

tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và

được xử lý bằng các biện pháp khác." [9,tr 13,14].

Với tính cách là một tội phạm cụ thể, tội cướp giật tài sản, trước hết có

những dấu hiệu của tội phạm nói chung, đó là tính nguy hiểm đáng kể cho xã

hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải chịu hình phạt. Tiếp đó,

với tính cách là một tội trong số các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm

đoạt, tội cướp giật tài sản có khách thể loại là các quan hệ sở hữu. Nói chính xác

hơn, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt xâm phạm quyền sở hữu của

chủ sở hữu đối với tài sản. Các tội phạm này được thực hiện một cách cố ý

hướng đến mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên, các tội xâm 8

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt phân biệt nhau bởi tính chất, đặc điểm của

hành vi chiếm đoạt. Đối với tội cướp giật tài sản, đó là hành vi công khai chiếm

đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản.

Chính các dấu hiệu công khai và nhanh chóng (chiếm đoạt và tẩu thoát) là đặc

trưng của hành vi cướp giật tài sản cho phép phân biệt hành vi cướp giật tài sản

với các dạng hành vi chiếm đoạt tài sản khác. Nói cách khác, khi xác định một

hành vi chiếm đoạt tài sản có là cướp giật tài sản hay không cần chú ý đến dấu

hiệu công khai và nhanh chóng, theo đó: luat su k

* Công khai, là hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay

khi hành vi này xảy ra, có nghĩa rằng người phạm tội có ý thức công khai và

không có ý thức che đậy hành vi phạm tội đó. luật sư hình sự, ật ữa

* Bất ngờ và nhanh chóng là lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở này có thể

sẵn có hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra), nhanh chóng tiếp cận, nhanh

chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh. Thủ đoạn bất ngờ, nhanh

chóng chiếm đoạt tài sản có thể diễn ra ở nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc

vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng như

những hoàn cảnh bên ngoài khác, hình thức này có thể là nhanh chóng giật lấy

giành lấy và tẩu thoát….Với thủ đoạn như vậy người phạm tội muốn chủ tài sản

không thể kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của mình và không có ý định

dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản.[23, tr2].Cướp giật tài

sản là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về

hành vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể. Trong đó, "cướp

giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở sẵn có hoặc do chính

người cướp giật tự tạo ra) nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn

tránh. Thủ đoạn, bất ngờ nhanh chóng lẩn tránh trong thực tế thường là nhanh

chóng tẩu thoát".[21, tr1]. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, thường chỉ

trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt, làm cho người bị

hại không kịp ứng phó. Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị

hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi

9

của người bị hại.

Từ những điều phân tích khái quát trên đây có thể hiểu "Tội cướp giật tài

sản là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình

sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình

sự cố ý thực hiện một công khai, bất ngờ, nhanh chóng nhằm chiếm đoạt tài sản

của người khác". Nói theo cách khác, tội cướp giật tài sản là hành vi công khai

chiếm đoạt tài sản của người khác một cách nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu

thoát để tránh sự phản kháng của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

1.1.2.Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

Việc quy định tội phạm và hình phạt không mang mục đích tự thân mà hướng

vào những mục đích cụ thể, trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt

đúng đối với tội phạm và người phạm tội cụ thể. Bởi vậy, để có thể giải quyết

đúng đắn vụ án hình sự, ngoài việc nắm vững những dấu hiệu chung của tội

phạm (nói chung) cần phải nắm vững các dấu hiệu pháp lý của tội cụ thể. Những

dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản với tính cách là tội cụ thể có trong 4

yếu tố cấu thành tội phạm này gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của

tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.

- Khách thể của tội cướp giật tài sản

Khách thể của tội phạm được hiểu “là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một nhóm

quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một tội

phạm trực tiếp xâm hại"[23,tr147]. Như vậy, khách thể của tội cướp giật tài sản

là quan hệ sở hữu về tài sản mà đối tượng tác động là những tài sản nhỏ, gọn, dễ

mang đi do tính chất của hành vi là nhanh chóng chiếm đoạt tài sản.

- Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản

Mặt khách quan của tội phạm được hiểu “là mặt bên ngoài của tội phạm, bao

gồm các biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan"[23,tr159].

Theo cách hiểu đó, mặt khách quan của tội cướp giật tài sản là mặt bên ngoài

10

của tội này được đặc trưng bởi hành vi công khai chiếm đoạt tài sản một cách

bất ngờ, nhanh chóng. Công khai có nghĩa là người phạm tội không có ý thức

che dấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt cho phép

chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt xảy ra. Hành vi chiếm đoạt thông

thường là giật lấy, đoạt lấy, giành lấy...tài sản. Bất ngờ, nhanh chóng có nghĩa là

người phạm tội đã có thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu hoặc người quản

lý tài sản hoặc tội phạm chủ động tạo ra sơ hở rồi bất ngờ, nhanh chóng tiếp cận,

nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Tội cướp giật tài sản là tội có

cấu thành hình thức, vì vậy, tội hoàn thành ngay khi người phạm tội thực hiện

hành vi cướp giật tài sản, không phụ thuộc vào việc tài sản đã bị hay chưa bị

chiếm đoạt.

- Chủ thể của tội cướp giật tài sản

Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, tùy từng trường hợp mà chủ thể của

tội phạm là thể nhân (cá nhân) hoặc pháp nhân thương mại có đủ các yếu tố

(điều kiện) của chủ thể. Đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm chỉ có

thể là cá nhân, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi

nhất định thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Đó là những người mà theo Điều

12 BLHS năm 2015 là người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu hành vi phạm tội thuộc

các khoản 2,3 và 4 của điều luật hoặc là người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu hành vi

phạm tội thuộc khoản 1 của điều luật.

- Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu “là mặt bên trong của tội phạm, là

thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và với

hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả

đó"[23,tr197]. Như vậy, mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là mặt bên ngoài

của tội này với biểu hiện của các dấu hiệu lỗi và mục đích phạm tội (là những

dấu hiệu bắt buộc, tức là những dấu hiệu định tội) và dấu hiệu động cơ phạm tội

(không phải là dấu hiệu bắt buộc). Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là

11

lỗi cố ý (trực tiếp). Mục đích của tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản, là

kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực

hiện hành vi phạm tội. Động cơ của tội cướp giật tài sản được hiểu là động lực

bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của

người khác một cách cố ý. Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu

bắt buộc trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản.

1.1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác

1.1.3.1. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản

Theo điều 168 của BLHS năm 2015 có sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tội

cướp giật tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc

có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống

cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tội cướp tài sản có các dấu hiệu pháp lý sau:

- Khách thể của tội cướp tài sản: tội cướp tài sản đồng thời xâm phạm quan hệ

xã hội là quan hệ sở hữu (đối với tài sản) và quan hệ nhân thân (quyền được bảo

vệ sức khỏe). Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản và con người

(chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản được ủy quyền quản lý). Chính trong

một tổng thể, hai quan hệ nói trên mới thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã

hội của tội cướp tài sản.

- Mặt khách quan của tội cướp tài sản

Từ quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 có thể thấy tội cướp tài

sản có ba dạng hành vi, đó là: Hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản;

Hành vi đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản; Hành vi

(khác) làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được

nhằm chiếm đoạt tài sản.

Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh (có hoặc không có

12

công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác để họ không thể hoặc

không dám chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ lực phải là hành vi

nhằm vào con người. Những hành vi không nhằm vào con người đều không phải

là hành vi dùng vũ lực theo quy định của điều luật. Người bị hành vi dùng vũ lực

tác động có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản

nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà chủ thể thực hiện hành vi dùng vũ lực cho

rằng người này đang hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình.

Hành vi dùng vũ lực có thể là đánh, chém, trói...

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là hành vi (lời nói

hoặc bằng cử chỉ hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại

việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe

dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thích với người bị

đe dọa. dấu hiệu "ngay tức khắc" ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành

vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp với hành vi đe dọa "sẽ" dùng vũ lực ở tội

cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mặt thời

gian (xảy ra ngay tức khắc) và vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt nhằm làm

cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có điều

kiện tránh khỏi. Sự đe dọa này có khả năng làm tê liệt ý chí của người bị đe dọa.

- Chủ thể của tội cướp tài sản

Chủ thể của tội cướp tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều

12 BLHS là người từ đủ 14 tuổi trở lên.

- Mặt chủ quan của tội cướp tài sản

Cả ba dạng hành vi khách quan nói trên của tội cướp tài sản được thực hiện

với lỗi cố ý (trực tiếp). Khi thực hiện hành vi, chủ thể biết rõ hành vi của mình

là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm, thấy trước hậu quả nguy

hiểm cho xã hội của hành vi của mình tất yếu sẽ xảy ra, vẫn thực hiện và mong

13

muốn cho hậu quả xảy ra.

Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội cướp tài

sản

Trong thực tế, có thể có trường hợp chủ thể đã chiếm đoạt được tài sản bằng

hành vi trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản...nhưng

ngay sau đó đã bị phát hiện và người phạm tội đã dùng vũ lực tấn công lại người

ngăn cản (bằng những thủ đoạn của tội cướp) nhằm giữ bằng được tài sản vừa

chiếm đoạt trước đó. Hành vi dùng vũ lực tấn công lại hoặc đe dọa dùng ngay

tức khắc vũ lực nhằm giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt được xét về bản

chất là hành vi cướp tài sản. Do vậy, cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận

trường hợp này là trường hợp chuyển hóa từ một số hành vi (hình thức) chiếm

đoạt tài sản thành hành vi (hình thức) cướp tài sản. Như vậy, những hành vi

dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi làm cho người bị tấn

công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản

vừa chiếm đoạt được cũng bị coi là cấu thành tội cướp tài sản.

Từ những điểm khái quát trên đây có thể thấy giữa tội cướp giật tài sản và

tội cướp tài sản có những điểm giống nhau và khác nhau. Cụ thể là:

* Những điểm giống nhau:

Cả hai tội đều là tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt; đều giống nhau về

khách thể, đối tượng tác động của tội phạm, chủ thể, lỗi và mục đích phạm tội.

* Những điểm khác nhau:

Hai tội khác nhau chủ yếu là hành vi khách quan, cụ thể là:

Cướp giật tài sản (Điều 171) Cướp tài sản:(Điều 168)

Hành vi khách quan: người phạm tội Hành vi khách quan: người phạm tội

không sử dụng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực

sử dụng vũ lực, hoặc bất cứ thủ đoạn ngay tức khắc hoặc có thủ đoạn khác

nào khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt là cho người bị tấn công lâm vào tình

14

sự kháng cự của nạn nhân để chiếm trạng không thể chống cự được, nhằm

đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng sự sơ hở chiếm đoạt tài sản của họ.

của nạn nhân, nhanh chóng chiếm đoạt

và nhanh chóng lẫn tránh.

"[4,tr 26]

1.1.3.2.Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Tại khoản 1 Điều 172 của BLHS năm 2015 có sửa đổi năm 2017 nhà làm luật

miêu tả quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

"1.Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000

đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,

169, 170,171, 173,174,175, và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà

còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng đến xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d)Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ".[2,tr130]

Theo khoản 1 của điều luật nói trên, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có các dấu

hiệu pháp lý sau:

- Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Tội này xâm phạm quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản. Nói cách

khác, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu tài sản được

pháp luật bảo vệ. Đối tượng tác động của tội này là tài sản dưới những hình thức

15

tồn tại của nó.

- Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội công

nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn

cản, công khai chiếm đoạt tài sản của họ. Theo đó, dấu hiệu hành vi khách quan

của tội phạm này là hành vi chiếm đoạt tài sản như ở tội cướp giật tài sản. Dấu

hiệu phân biệt hành vi chiếm đoạt ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội

cướp giật tài sản cũng như với một số tội phạm khác là các đặc điểm sau của

hành vi chiếm đoạt:

Hành vi chiếm đoạt tài sản có tính công khai như ở hành vi cướp giật hành

vi này xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản.

Do vậy, người phạm tội không cần và không có ý định sử dụng thủ đoạn nào

khác để đối phó với chủ tài sản. Người phạm tội không dùng vũ lực, không đe

dọa dùng vũ lực, không uy hiếp tinh thần cũng như không nhanh chóng chiếm

đoạt và nhanh chóng lẩn tránh.

- Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định là chủ thể bình

thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không

thuộc các tội mà tội các tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở

lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.

- Mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Lỗi trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý. Mục đích của người

phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu

thành tội phạm."[5,tr 288 đến 292]

Qua việc phân tích khái quát về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có thể thấy

giữa tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có những điểm

16

giống và khác nhau như sau:

*Những điểm giống nhau:

Cả hai tội đều là tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Nói cách khác

chúng giống nhau về mục đích phạm tội. Ngoài ra chúng còn giống nhau về

khách thể, đối tượng tác động và lỗi cố ý, chủ thể. Cả hai tội đều giống nhau có

hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai.

*Những điểm khác nhau:

Cướp giật tài sản (Điều 171) Công nhiên chiếm đoạt tài sản:(Điều

Hành vi khách quan: người phạm tội 172)

không sử dụng vũ lực, không đe dọa Hành vi khách quan: người phạm tội

sử dụng vũ lực, hoặc bất cứ thủ đoạn công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ lợi

nào khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt dụng tình trạng người quản lý tài sản

sự kháng cự của nạn nhân để chiếm không có khả năng ngăn cản, điều kiện

đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng sự sơ hở để chống trả, bảo vệ...để công khai

của nạn nhân, nhanh chóng chiếm đoạt chiếm đoạt tài sản của họ, người phạm

công khai, người phạm tội biết rõ chủ tội không cần nhanh chóng chiếm đoạt

tài sản hoàn toàn có khả năng ngăn cũng như không cần nhanh chóng lẩn

cản việc chiếm đoạt, có khả năng lấy trốn và cũng không sợ bị bắt giữ vì

lại tài sản nên ngay sau khi chiếm đoạt người chủ tài sản không có khả năng

được tài sản, người phạm tội nhanh ngăn cản việc chiếm đoạt.

chóng tẩu thoát.

"[4,tr 27]

1.1.3.3.Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác

quản lý trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000

đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp:

"a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

17

phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,

169,170,171,172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà

còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

đ) Tài sản là di vật, cổ vật."[2,tr 131,132]

Như vậy tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý sau:

- Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản xâm phạm quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản

của mình. Đối tượng tác động của tội này là tài sản dưới các hình thức tồn tại

của nó. Tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản là tài sản đang có người

quản lý. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp tài sản phải là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý. Hành vi lấy tài sản của mình

hoặc đang do mình quản lý cũng như hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có

người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Tài sản được coi là

đang có người quản lý là tài sản như sau:

+Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự

chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm. Thông

thường việc xác định tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản hoặc

của người có trách nhiệm hay không, không phức tạp, trừ một số trường hợp tài

sản là những vật nuôi có thể tự động di chuyển vị trí ngoài ý muốn của chủ nuôi

như trâu, bò, ngựa...

+Tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản: Đây là

trường hợp tài sản cụ thể, tuy đã thoát li khỏi sự chi phối về mặt thực tế của chủ

18

tài sản hoặc của người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc khu

vực bảo quản. Ví dụ: Tài sản đã bị lấy ra khỏi nhà kho cụ thể nhưng còn được

giấu bên trong hàng rào bảo vệ của kho khu vực.

- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản:

Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản. Tuy

nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là

hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý. Trong các tài liệu

giảng dạy, nghiên cứu, hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản cũng được

định nghĩa tương tự như vậy.

Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở các tội

đã được phân tích trên đây. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành

vi chiếm đoạt tài sản vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó.

Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan

của người thực hiện cũng là lén lút.

Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình

thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi

chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén

lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che dấu hành

vi đang thực hiện của mình. Việc che dấu này chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản.

Đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản có thể

vẫn là công khai. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người phạm tội

trong phần lớn các trường hợp cũng là lén lút, che dấu đối với người khác. Ý

thức lén lút, che dấu này có thể là:

+ Che dấu toàn bộ hành vi phạm tội như che dấu đối với chủ tài sản

+ Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi. Ví dụ: lợi dụng thủ kho đi vắng,

mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô một cách đàng hoàng như là có việc xuất hàng

bình thường. Trong trường hợp này người phạm tội không che dấu hành vi thực

19

tế mà chỉ che dấu tính chất phi pháp của hành vi. Những người không phải là

chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài

sản."[5,tr 293 đến 299]

Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, Bởi vậy, trong mặt khách quan của

tội này, ngoài hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan

hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã

hội là những dấu hiệu bắt buộc của tội phạm, tức là dấu hiệu định tội của tội này.

- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo

Điều 12 BLHSnăm 2015 là người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu hành vi phạm tội

thuộc các khoản 3 và 4 của điều luật hoặc là người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu hành

vi phạm tội thuộc các khoản 1 và 2 của điều luật.

- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Lỗi người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý. Mục đích chiếm đoạt tài sản

cũng là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội này

Từ những phân tích trên đây có thể rút ra những điểm giống nhau và khác

nhau của tội cướp giật tài sản và tội trộm cắp tài sản như sau:

* Những điểm giống nhau:

Những điểm giống nhau của tội cướp giật tài sản và tội trộm cắp tài sản thể

hiện ở khách thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội

phạm.

* Những điểm khác nhau:

hai tội nói trên khác nhau chủ yếu ở mặt khách quan của tội phạm, cụ thể là:

Tội trộm cắp tài sản:

Tội cướp giật tài sản: -Hành vi công khai chiếm đoạt tài sản. -Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản.

-Tội có cấu thành hình thức -Tội có cấu thành vật chất.

-Điều 171 BLHS năm 2015. -Điều 173 BLHS năm 2015.

20

-Khoản 2 Điều 171 là phạt tù giam giữ -Khoản 1 điều 173 là phạt tù không

từ 3 năm đến 10 năm. giam giữ từ 3 năm hoặc phạt tù từ 6

-Khoản 3 thì phạt tù từ 7 năm đến 15 tháng đến 3 năm.

năm. -Khoản 2 thì phạt tù từ 02 năm đến 07

-Người bị hại có cơ hội đối diện với năm.

người phạm tội. -Người bị hại không biết được thông

Ví dụ: Người bị hại đang đi trên tin về người phạm tội cũng như hành

đường, bị bọn cướp giật tài sản như túi vi phạm tội.

xách, dây chuyền... Ví dụ: Lợi dụng sự vắng mặt của

người bị hại.

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cướp giật tài

sản (Điều 171 Bộ luật hình sự)

Điều luật gồm 5 khoản, trong đó, khoản 1 quy định các dấu hiệu định tội và

khung hình phạt cơ bản của tội cướp giật tài sản; các khoản 2,3,4 quy định các

trường hợp phạm tội tăng nặng (các cấu thành tội phạm tăng nặng) và các khung

hình phạt đối với chung; khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung đối với

người phạm tội cướp giật tài sản.

1.2.1.Quy định tội cướp giật tài sản tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm

2015

Tại khoản 1 điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 nhà làm luật quy định

"Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05

năm". Tại khoản này của điều luật nói trên, nhà làm luật quy định cấu thành tội

phạm cơ bản của tội cướp giật tài sản. Đó là trường hợp cướp giật tài sản không

có tình tiết định khung tăng nặng

Tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, nhà làm luật quy định cấu

thành tội phạm tăng nặng thứ nhất có khung hình phạt tù từ 03 năm. Đó là

trường hợp cướp giật tài sản thuộc một trong những tình tiết định khung tăng

21

nặng như:

- Có tổ chức: Đây là trường hợp cướp giật tài sản được thực hiện dưới hình thức

đồng phạm mà trong đó có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.

- Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp

phạm tội cướp giật tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính.

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là

trường hợp tài sản đã bị chiếm đoạt trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới

mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai

được quy định tại khoản 3 của điều luật).

- Dùng thủ đoạn nguy hiểm: Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện

hành vi nhanh chóng chiếm đoạt bằng những hình thức dễ dàng gây nguy hiểm

đến tính mạng, sức khỏe của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản.

- Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người phạm tội đã có hành vi

chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Việc chống trả này không đòi hỏi phải

gây thương tích. Mục đích của việc chống trả là nhằm để tẩu thoát. Nếu nhằm để

giữ được tài sản vừa cướp giật thì thuộc trường hợp chuyển hóa từ cướp giật

sang cướp tài sản.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 11% đến 30%: Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài

sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người bị

tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên nhưng dưới mức 31% (vì đến

mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3

của điều luật).

- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu

hoặc người không có khả năng tự vệ: Đây là trường hợp nạn nhân của hành vi

cướp giật tài sản là đối tượng đặc biệt và tính chất đặc biệt này làm tăng tính

nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ở đây, điều luật chỉ quy định rõ lỗi cố ý

22

("biết") đối với đối tượng phụ nữ có thai.

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Đây là trường hợp

phạm tội cướp giật tài sản đã gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật

tự, an toàn xã hội.

- Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản thõa mãn các

điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS.

Tại khoản 3 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, nhà làm luật quy định cấu

thành tội phạm tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp

dụng đối với trường hợp phạm tội cướp giật tài sản có một trong các tình tiết

định khung tăng nặng sau:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là

trường hợp tài sản đã bị chiếm đoạt trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới

mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba

được quy định tại khoản 4 của điều luật).

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 31% đến 60%: Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài

sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người bị

tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên nhưng dưới mức 61% (vì đến

mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4

của điều luật).

- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trường hợp phạm tội cướp giật tài sản mà

chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện

hành vi phạm tội.

Tại Khoản 4 của điều luật nói trên, nhà làm luật quy định cấu thành tội phạm

tăng nặng thứ ba có mức tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp

dụng đối với trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình

23

phạt tăng nặng sau:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường hợp tài sản bị

cướp giật trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mổi người 31% trở

lên: Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ

thể từ 61% trở lên hoặc của nhiều người với tỷ lệ tổn thương cơ thể mổi người

từ 31% trở lên.

- Làm chết người: Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài sản đã gây

hậu quả nạn nhân bị chết và lỗi của họ đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Nếu

người phạm tội cố ý gây hậu quả chết người thì hành vi phạm tội không còn

thuộc trường hợp này mà cấu thành hai tội (tội giết người và tội cướp giật tài

sản).

- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Đây là trường hợp phạm

tội cướp giật tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng chiến tranh hoặc tình

trạng khẩn cấp khi thực hiện hành vi phạm tội.

Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng)

24

là: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng."[5,tr 284 đến 287]

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 của Luận văn, trên cơ sở các quan điểm khoa học đã

được nêu ra trong khoa học luật hình sự về tội phạm, về tội cướp giật tài sản;

khái niệm tội phạm được ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và

thực tiễn pháp lý hình sự Việt Nam, học viên đã phân tích và đưa ra khái niệm

và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản, phân biệt tội cướp giật tài sản

với một số tội xâm phạm quyền sở hữu khác.

Cũng trong chương 1 của Luận văn, học viên phân tích các quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cướp giật tài sản theo cấu thành tội

phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng và hình phạt đối với chúng. Trong

khi phân tích, học viên có so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm

1999 về tội danh nói trên.

Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội

cướp giật tài sản cơ sở cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối

25

với tội cướp giật tài sản mà học viên nghiên cứu tại chương tiếp theo.

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

2.1.Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản tại thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai

Thực tiễn xét xử hình sự tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy,

từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa đã xét xử

3578 vụ/4776 bị cáo. Riêng đối với tội cướp giật tài sản, Tòa án nhân dân thành

phố Biên Hòa đã đưa ra xét xử 176 vụ/237 bị cáo (năm 2015: 30 vụ/40 bị cáo;

năm 2016: 280 vụ/42 bị cáo;năm 2017: 42 vụ/46 bị cáo;năm 2018: 33 vụ/46 bị

cáo;năm 2019: 43 vụ/63 bị cáo). Cần lưu ý rằng, là một Tòa án nhân dân cấp

huyện, Tòa án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chỉ thụ lý và xét xử các

vụ án có khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù.

Bảng 2.1.1: Mối tương quan giữa tình hình tội cướp giật tài sản với tình

hình tội phạm nói chung trên địa bàn Thành phố Biên Hòa từ năm 2015 đến năm

2019

Năm

vụ vụ bị Tỷ lệ% (1)/(3) Tỷ lệ% (2)/(4) bị

Tổng số án cướp giật tài sản Tổng số án phạm tội nói chung Tổng số cáo phạm tội nói chung

30% 30% 50% 50% 60% 44%

40% 30% 60% 40% 50% 44%

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nguồn: Thống kê Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa từ năm 2015 đến 2019

26

(4) 1155 1083 775 850 913 4776 (3) 727 745 652 665 789 3578 (1) 30 28 42 33 43 176 Tổng số cáo phạm tội cướp giật tài sản (2) 40 42 46 46 63 237

Nhìn vào bảng số liệu nói trên về số vụ và số bị cáo phạm tội cướp giật tài

sản bị xét xử sơ thẩm có trong số liệu thống kê đã phản ánh cơ bản về lượng của

tình hình cướp giật tài sản. Đây là phần tội phạm rõ, có trong số liệu thống kê

chính của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa và cũng là phần quan trọng nhất

trong tổng thể thực trạng của tình hình tội cướp giật tài sản qua hàng năm từ

2015 đến năm 2019 trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Qua bảng

số liệu tại bảng nói trên có thể nhận thấy trong thời gian từ năm 2015 đến năm

2019 trên địa bàn toàn thành phố Biên Hòa, tình hình tội phạm nói chung có

chiều hướng gia tăng, xong giảm xuống , rồi lại tăng lên theo từng năm , vả đến

năm 2019 là tăng vọt lên 43 vụ/năm ; đạt tỷ lệ 50%, một tỷ lệ phạm tội tăng cao.

Riêng đối với tội cướp giật tài sản thì tăng nhanh vào năm 2016 đến năm 2019,

tăng 13 vụ so với năm 2015. Các hành vi cướp giật tài sản đều được định tội

danh đúng, không có kháng cáo hoặc kháng nghị về tội danh.Tuy nhiên, trong

định tội danh tội cướp giật tài sản, đôi khi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự, người tiến hành tố tụng hình sự vẫn còn những ý kiến khác nhau. Về

điều này, học viên sẽ trình bày ở các mục tiếp theo. Trước hết cần nhấn mạnh

rằng, định tội danh tội cướp tài sản được tiến hành theo cấu thành tội phạm cơ

bản, cấu thành tội phạm tăng nặng và trong trường hợp đặc biệt. Tùy tình hình

tội cướp giật tài sản xảy ra trên thực tế, học viên trình bày theo những trường

hợp nêu trên.

Định tội danh tội cướp giật tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản là định

tội danh theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, tức định tội danh

theo các dấu hiệu đặc trưng, cần và đủ cho phép phân biệt tội cướp giật tài sản

với các tội khác xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt như tội cướp tài sản, tội

công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản...Nói cách khác định tội danh

tội cướp giật tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản là định tội danh tội này theo

các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản để xác định những dấu hiệu đặc trưng,

cần và đủ có trong các yếu tố cấu thành tội phạm cho phép phân biệt tội cướp

27

giật tài sản với các tội khác.

Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản tại Tòa án Thành Phố Biên Hòa,

cho thấy có 220 bị cáo trong tổng số 346 bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị

định tội danh theo khoản 1 Điều 136 BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 171

BLHS năm 2015 (có hiệu lực pháp luật từ 01/01 /2018), tương đương 61%.

Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản tại

Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa cũng cho thấy các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng tuân thủ các yêu cầu đối với định tội danh theo bốn

yếu tố của cấu thành tội phạm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội

phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Nhờ đó, kết quả định

tội danh bảo đảm độ chính xác. Vụ án hình sự sau đây là một minh chứng. Nội

dung vụ án như sau:"Lê Hữu Hòa là đối tượng không có nghề nghiệp. Để có tiền

tiêu xài Hòa đã rủ các đối tượng Dương Bình Chiêu, Trần Chí Cường, Huỳnh

Văn Lập đi cướp giật tài sản bán lấy tiền tiêu xài và được các đối tượng đồng ý.

Khoảng 11 giờ 30phút ngày 16/01/2018, Lê Hữu Hòa điều khiển xe mô tô biển

số 37P2-4578 chở Dương Bình Chiêu, còn Trần Chí Cường điều khiển xe mô tô

kiểu dáng Dream (không rõ biển số) chở Huỳnh Văn Lập chạy xe lòng vòng để

tìm ai có tài sản thì cướp giật. Khi đi đến tổ 26, ấp 2, xã Tân Hạnh, thành phố

Biên Hòa thì thấy chị Trần Thị Ngọc Anh, sinh năm 1989 đang nằm trên võng ở

trước hiên nhà, trên tay chị Anh đang cầm điện thoại di động hiệu Samsung J5

thì Hòa nói với Cương và Lập dừng lại bên đường cách chị Anh khoảng 100mét

để Hòa và Chiêu quay lại giật điện thoại của chị Anh. Hòa đưa xe mô tô cho

Chiêu điều khiển chở Hòa quay lại dừng ngoài đường nổ máy chờ sẵn, còn Hòa

đi bộ vào chổ chị Anh đang nằm, giật lấy chiếc điện thoại trên tay của chị anh ,

bỏ chạy ra lên xe Chiêu đứng chờ sẵn và Chiêu điều khiển xe cùng đồng bọn tẩu

thoát. Sau khi cướp được điện thoại, cả nhóm đi về khu vực cầu Bửu Hòa để

Lập đi về, còn Hòa, Chiêu và Cường mang điện thoại đến tiệm điện thoại di

động "Đại Huy Hoàng" ở số 126, tổ 16, ấp An Hòa, xã Hóa An, thành phố Biên

Hòa do anh Phan Xuân Huy làm chủ, bán cho anh Lê Văn Tuấn là người đang

trông coi cửa hàng với giá 1.700.000đồng. Sau khi bán được điện thoại, Hòa

28

chia cho Chiêu, Cường và Hòa mổi người 500.000đ, còn lại 200.000đ thì đổ

xăng và tiêu xài chung. Toàn bộ sự việc đã được camera giám sát an ninh của

công an xã Tân Hạnh và tiệm điện thoại "Đại Huy Hoàng" ghi lại.

Ngày 16/01/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra đã bắt khẩn cấp Lê Hữu Hòa

và Dương Bình Chiêu. Ngày 17/01/2018 Trần Chí Cường ra đầu thú"[11.tr

2,3,4]. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 197/2018/HSST ngày 20/6/2018 của

TAND thành phố Biên Hòa đã áp dụng khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015;

điển h, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 58; Điều 91; Điều 101 BLHS 2015 xử

phạt: xử bị cáo Trần Chí Cường 10 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo

đi thi hành. (Riêng bị cáo Lê Hữu Hòa và Dương Bình Chiêu cùng bị xử phạt 01

năm 06 tháng tù). Các bị cáo đều bị xử phạt về tội "Cướp giật tài sản".

Phân tích nội dung vụ án và nội dung bản án hình sự trên đây cho phép kết

luận kết quả định tội danh tội cướp giật tài sản đối với các bị cáo trong vụ án là

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Định tội danh tội cướp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng là định tội

danh tội này theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 171 Bộ luật hình sự hiện

hành. Về nguyên tắc, khi các tình tiết của hành vi phạm tội đã xảy ra không

những thỏa mãn các dấu hiệu định tội (cấu thành tội phạm cơ bản) mà còn thỏa

mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm giảm nhẹ hoặc tăng nặng thì hành vi phạm

tội đó cần phải được định tội danh theo cấu thành tội phạm giảm nhẹ hoặc cấu

thành tội phạm tăng nặng.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, như đã trình bày ở

trên thì tổng số vụ án cướp giật tài sản được xét xử theo trình tự sơ thẩm là 176

vụ với 237 bị cáo. Trong số đó, số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo khoản 2

Điều 136 bộ luật hình sự năm 1999 chiếm tỷ lệ cao nhất. Các tình tiết định

khung nặng tại khoản 2 Điều luật nói trên chủ yếu là điểm g "chiếm đoạt tài sản

có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng là 10 vụ trên tổng 176 vụ án

cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ 0,5%". Những hành vi cướp giật tài sản theo khoản

29

2 Điều 136 BLHS năm 1999 hoặc khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 là những

hành vi ghi nhận tại điểm d "dùng thủ đoạn nguy hiểm" hoặc tại điểm đ "Hành

hung để tẩu thoát" hoặc tại điểm i "tái phạm nguy hiểm". Vụ án sau đây là một

thí dụ. Nội dung vụ án như sau:

Nguyễn Minh Hoàng là đối tượng nghiện ma túy và đã có tiền án về tội

"cướp giật tài sản". Để có tiền sử dụng ma túy, khoảng 10 giờ ngày 10/11/2016,

Hoàng điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 60F2-252.00 đi lòng

vòng trong các con hẻm ở khu vực phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa để tìm

ai sơ hở thì sẽ cướp giật tài sản. Khi đi đến 1 con hẻm không số ở khu phố 10,

phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa Hoàng phát hiện chị Phạm Thị Hoan, ngụ

tại 112A/99, khu phố 10, phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa đang điều khiển

xe mô tô kéo rơ móc đi ngược chiều với Hoàng, trong túi quần bên trái của chị

Hoan có để một chiếc ví bằng vải nhô ra ngoài, bên trong ví có 2.059.000 đồng

(Hai triệu không trăm năm mươi chín ngàn đồng), 01 giấy chứng nhận đăng ký

xe mô tô biển số 60FL-3906 và 1 giấy phép lái xe mang tên Phạm Thị Hoan, nên

Hoàng điều khiển xe mô tô quay lại chạy ép sát vào phía bên trái xe mô tô của

chị Hoan rồi dùng tay giật chiếc ví của chị Hoan và điều khiển xe tẩu thoát. Lúc

này, chị Hoan nhìn thấy biển số xe của Hoàng nên đã trình báo công an phường

Hố Nai lập hồ sơ chuyển đến cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên

Hòa điều tra, xác minh. Qua truy xét, ngày 19/01/2018, cơ quan cảnh sát điều tra

công an thành phố Biên Hòa đã bắt khẩn cấp Nguyễn Minh Hoàng để điều tra,

xử lý.Hành vi của bị cáo Nguyễn Minh Hoàng bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về

tội ""Cướp giật tài sản" theo qui định điểm c,d, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình

sự năm 1999 với mức án 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù.

Ngày 12/09/2018 Nguyễn Minh Hoàng đã có đơn kháng cáo đến Tòa án nhân

dân tỉnh Đồng Nai. Vậy nên ngày 29/10/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã

đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 208/2018/HSPT ngày

12/09/2018 đối với bị cáo Nguyễn Minh Hoàng

Tại bản án số 244/2018/HSPT ngày 29/10/2018 tuyên đối với bị cáo Nguyễn

Minh Hoàng, Tòa án tỉnh Đồng Nai nhận định bị cáo Nguyễn Minh Hoàng đã 30

dùng thủ đoạn rất nguy hiểm và đã bị cấp sơ thẩm xét xử về tội "cướp giật tài

sản" theo quy định tại các điểm c,d Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999.

Do đó Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171;

điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Minh Hoàng 04 năm 06 tháng tù về tội "cướp

giật tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2018."[12,tr 3,4,5,6]

Định tội danh tội cướp giật tài sản trong trường hợp đặc biệt là định tội danh

trong trường hợp đồng phạm và định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội

với các hình thức biểu hiện của nó. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các số liệu thống

kê và các bản án đã tuyên đối với tội cướp giật tài sản của Tòa án nhân dân

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy trường hợp đặc biệt trong định tội

danh tội cướp giật tài sản thuộc về đồng phạm. Điều đáng nói là các trường hợp

đồng phạm đều rơi vào "phạm tội có tổ chức" được quy định tại điểm a Khoản 2

Điều 171 BLHS năm 2015. Vụ án sau đây là một minh chứng. Nội dung vụ án

như sau:

Dương Quốc Huynh là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn

định. Do không có tiền thuê nhà trọ, Huynh nảy sinh ý định đến nhà nghỉ Kim

Chi tại tổ 8, khu phố 4A, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa giả vờ hỏi

mượn điện thoại rồi cầm điện thoại bỏ chạy. Thực hiện ý định trên, khoảng 13

giờ 40 phút ngày 14/7/2018, Huynh chuẩn bị một bình xịt hơi cay, và bàn bạc

với chị Đồng Thị Mỹ Hạnh để lên kế hoạch tiến hành. Sau đó Huynh chở chị

Hạnh đến đầu đường hẻm để vào nhà nghỉ, bảo chị Hạnh đứng chờ, Huynh chạy

vào nhà nghỉ gặp chủ nhà nghỉ là chị Đào Kim Chi, do có quen biết từ trước,

Huynh nói là mượn điện thoại chị Chi gọi cho bạn, nên chị Chi đã đưa điện thoại

di động hiệu OPPO A83 màu đen cho Huynh, Huynh giả vờ gọi điện rồi lợi

dụng chị Chi đang ở bên trong nhà thì Huynh bỏ điện thoại vào túi quần rồi ra

chổ để xe mô tô định nổ máy bỏ chạy khi Hạnh đang chờ sẵn. Đúng lúc đó chị

Chi phát hiện và đuổi theo dùng tay kéo ngã xe của Huynh, Huynh đứng dậy bỏ

31

chạy nhưng còn chiếc xe đã bị ngã chưa lấy được nên Huynh quay lại lấy bình

xịt hơi cay trong túi quần ra xịt vào mặt chị Chi để lấy xe tẩu thoát, nhưng chị

Chi chỉ bị trúng vào má bên trái nên chị Chi tiếp tục giữ tay Huynh lại, cùng lúc

này Hạnh thấy Huynh và chị Chi đang giằng co, thế là Hạnh giật tay chị Chi ra,

tiếp sức cho Huynh bỏ chạy, chị Chi vẫn cố gắng giữ lấy tay Huynh và la lên

"cướp, cướp, cướp..." Thấy thế Huynh liền đánh vào mặt chị Chi. Nghe tiếng la,

mọi người xung quanh đã vây bắt được Hạnh, còn Huynh bỏ chạy thoát. Chiếm

đoạt được chiếc điện thoại, Huynh mang đến một tiệm cầm đồ không rõ địa chỉ

ở đường Đồng Khởi cầm được 1.500.000đồng, tiêu xài hết. Khoảng 10 ngày sau,

Huynh đến tiệm điện thoại trên chuộc lại chiếc điện thoại rồi nhờ người bạn tên

Gà (không rõ họ, tên, địa chỉ) mang đến trả cho chị Chi. Đến ngày 16/10/2018,

Huynh bị bắt giữ để điều tra xử lý.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh

tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Dương Quốc Huynh phạm tội

"cướp giật tài sản". Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 171. điểm h, điểm s khoản 1,

khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt

Dương Quốc Huynh mức án 03 (ba) năm tù; Hạnh 01 (một) năm tù.

Qua vụ án nêu trên có thể thấy khi thực hiện tội phạm, những người đồng

phạm có sự bàn bạc kỹ càng về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội. Thậm chí

họ đã tính đến từng chi tiết khi lên kế hoạch phạm tội và phân công nhiệm vụ rõ

ràng khi gặp phản ứng của nạn nhân. Đồng thời, những người cùng thực hiện tội

phạm nhằm vào đối tượng là chổ quen biết để ra tay cướp giật mong đạt được

mục đích cướp giật.[16, tr 2,3]

Thực tiễn định tội danh tội cướp giật tài sản tại Tòa án nhân thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy việc định tội danh tội này gặp nhiều khó khăn khi

mà hành vi phạm tội không thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể các dấu hiệu đã

được mô tả trong cấu thành tội phạm, chẳng hạn như hành vi của người phạm tội

vừa có yếu tố gian dối nhưng lại có thêm yếu tố nhanh chóng, lúc công khai, lúc

lén lút hoặc hành vi phạm tội vừa có tính công nhiên vừa có thêm yếu tố tài sản

chưa chiếm đoạt được, hành hung để tẩu thoát...Hậu quả là chủ thể định tội danh 32

thường bỏ sót hoặc sai lầm trong đánh giá chứng cứ dẫn đến định tội danh

không chính xác. Vụ án sau đây là một thí dụ. Nội dung vụ án như sau:

" Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 21/02/2018 Trần Thanh Hiếu và Nguyễn Văn

Thuận đi bộ trên đường Bùi Hữu Nghĩa hướng từ ngã ba Tân Vạn về chợ Đồn;

khi đến đoạn chùa Sắc Tứ thuộc Khu phố 1 thì thấy em Phạm Minh Hữu sinh

ngày 21/03/2002 đang đi bộ và cầm điện thoai Samsung SM-G530H10S; Hiếu

rủ Thuận cướp giật tài sản của em Hữu;Thuận đồng ý.

Hiếu xông đến gần em Hữu giật lấy điện thoại của em Hữu. Do bị tấn công

bất ngờ nên em Hữu phản ứng là giằng lại. Lúc này Thuận xông vào giằng lấy

điện thoại của em Hữu, hỗ trợ Hiếu cướp giật lấy điện thoại.

Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại, Thuận và Hiếu đem điện thoại về

nhà Hiếu nói với bà Nguyễn Mỹ Lệ (mẹ của Hiếu) là mới nhặt được chiếc điện

thoại.Thuận và Hiếu bán điện thoại cho bà Lệ với giá 250.000 đồng. Chúng chia

nhau tiêu sài.

Ngày 22/02/2018 em Hữu cùng mẹ là bà Huỳnh Thị Quanh đến công an

phường Tân Vạn trình báo sự việc. Công an phường Tân Vạn triệu tập Hiếu và

Thuận đến làm việc; lập hồ sơ chuyển đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an

Thành phố Biên Hòa điều tra xử lý.

Tại kết luận định giá tài sản số 372/TCKH-HĐĐ ngày 26/10/2018 Hội đồng

định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân Thành phố Biên Hòa

kết luận: “một điện thoại hiệu Sam sung SM-G530 có giá trị là 996.000 đồng”

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 449/2018/HSST ngày 23/11/2018 Tòa án

nhân dân Thành phố Biên Hòa quyết định:

Áp dụng Điểm a; Khoản 2 Điều 168; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điểu 51; Điều

58 Bộ luật hình sự năm 2015(đã được sửa đổi,bổ sung năm 2017) xử bị cáo

33

Nguyễn Văn Thuận 05 năm tù về tội “cướp tài sản” ; thời hạn tù tính từ ngày bị

bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/02/2018 đến ngày

10/09/2018.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật

địnn.[13,tr 2,3,4,5]

Ngày 26/11/2018 bị cáo Nguyễn Văn Thuận có làm đơn kháng cáo một phần

bản án sơ thẩm xin được xét xử lại vì bị cáo không đồng ý với tội danh “cướp

tài sản” .

Tại bản án phúc thẩm số 255/2018HSPT ngày 26/11/2018, trên cơ sở nội

dung vụ án, căn cứ theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại

phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận

định như sau: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cho rằng mình chỉ phạm tội

“Cướp giật tài sản”; không đồng ý với tội “Cướp tài sản” do Thuận và Hiếu tình

cờ thấy em Hữu có mang điện thoại bên mình nên cả hai mới nảy sinh cướp giật

điện thoại chứ không có kế hoạch cướp từ trước.Và bị cáo cũng không đe dọa

làm ảnh hưởng đến sức khỏa của bị hại. Xét thấy bị cáo Thuận đã thành khẩn

khai báo, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt nên áp dụng khoản 1 Điều 171 của Bộ

luật hình sự năm 2015 tuyên phạt Thuận 03(ba) năm tù về tội “Cướp giật tài

sản".[18,tr 2,3,4,5]

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành

phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai

Để có thể nhận diện thực trạng quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài

sản của Tòa án nhân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, học viên tiến hành thu

thập, thống kê và bảng biểu hóa số vụ án và số bị cáo bị quyết định hình phạt và

34

áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự khác như sau:

Bảng 2.2.1. Số vụ án và số bị cáo bị áp dụng bị áp dụng các biện pháp trách

nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

bị

Năm

Số vụ án

Số cáo

Số bị cáo bị phạt tù dưới 3 năm

Số bị cáo bị phạt tù từ 3-7 năm

Số bị cáo bị phạt tù trên07 năm

bị Số cáo được hưởng án treo

bị Số bị cáo phạt tù dưới 13 năm

42 40 46 46 63 237 42 42 46 46 63 239 16 9 13 22 10 28 9 33 36 19 126 111 46,53 52,74 1 1 0 0 0 2 0,84 36 17 38 42 55 188 78,66

bị Số cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung 0 0 0 0 0 0 0

0 1 1 1 2 5 2,09 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Tỷ lệ(%)

(Nguồn từ Tòa án nhân dân TP. Biên Hòa)

Như vậy, trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 Tòa án nhân dân

Thành phố Biên Hòa đã đưa ra xét xử sơ thẩm 3578 vụ án hình sự với 4772 bị

cáo. Riêng đối với tội cướp giật tài sản có 237 vụ với 239 bị cáo đã bị đưa ra xét

xử (năm 2015: 42vụ/40 bị cáo; năm 2016: 40vụ/42 bị cáo,năm 2017: 46vụ/46 bị

cáo, năm 2018: 46vụ/46 bị cáo,năm 2019: 63vụ/63 bị cáo).

Theo số liệu thống kê tại bảng 2.2.1. trên đây có thể thấy, hình phạt mà Tòa

án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai áp dụng đối với 239 bị cáo

phạm tội cướp giật tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 đều là hình phạt tù có thời

hạn theo cơ cấu có 111 bị cáo bị phạt tù dưới 3 năm chiếm 46,53%, 126 bị cáo

bị phạt tù từ 3 năm đến dưới 7 năm, chiếm 52,74% và 2 bị cáo bị phạt tù trên 7

năm trở lên chiếm 0,84%. Điểm nổi bật là không có bị cáo nào chịu mức án

chung thân. Có 5 bị cáo được cho hưởng án treo.

Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng được tiến hành theo khoản cơ bản (theo cấu

35

thành tội phạm cơ bản), khoản tăng nặng (cấu thành tội phạm tăng nặng, trong

trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, việc trình bày theo các trường hợp đó tùy thuộc

vào thực tiễn quyết định hình phạt trên thực tế.

Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy Tòa án chủ yếu quyết định hình phạt đạt lý,

thấu tình, bảo đảm tuân thủ các yêu cầu của các nguyên tắc quyết định hình phạt

và các căn cứ quyết định hình phạt, tạo được uy tín của ngành Tòa án, tạo niềm

tin của nhân dân vào công lý và nền tư pháp hình sự xã hội chủ nghĩa. Vụ án

dưới đây là một minh chứng. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 20 giờ ngày

05/05/2019, Vũ Đức Hưởng sinh năm 1995 trú tại khu phố Long Điềm, phường

Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda

Wave biển số 39F6-0284 chở Cho Đức Hiếu đến ngã tư Vũng Tàu uống nước.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Hiếu nảy sinh ý định đi tìm ai sở hở trong việc

quản lý tài sản thì cướp giật. Thực hiện ý định trên, Hiếu giả vờ mượn xe mô tô

của Hưởng để đi công việc thì Hưởng đồng ý. Hiếu điều khiển xe đến phường

An Bình, thành phố Biên Hòa, khi đi đến ngã tư bồn nước thì Hiếu phát hiện chị

Phạm Thị Ngọc Thu sinh ngày 15/12/2001 trú tại ấp An Bình Đông, xã Đông

Hòa Hiệp, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, ngồi phía sau xe mô tô do chị Bùi Thị

Ngọc Mỹ sinh năm 1974 trú tại Khu phố 2, phường Trảng Dài, thành phố Biên

Hòa điều khiển đang dừng chờ đèn đỏ, trên tay phải chị Thu có cầm 01 chiếc

điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, Hiếu liền điều khiển xe chạy ép sát về

phía bên phải xe chị Mỹ rồi dùng tay trái giật lấy chiếc điện thoại của chị Thu

rồi tăng ga tẩu thoát. sau đó, Hiếu điều khiển xe chạy về quán nước để đón

Hưởng đi dạo, khi đi đến đường Võ Thị Sáu, đoạn thuộc khu phố 1, phường

Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, thì phát hiện chị Nguyễn Thị Ngọc Hà sinh

năm 2000 điều khiển xe mô tô chở theo em Nguyễn Thị Ngọc Ngân sinh ngày

03/01/2006 cùng trú tại khi phố 2, ấp Bình Thạch, xã Bình Hòa, huyện Vĩnh

Cửu, tỉnh Đồng Nai ngồi sau, thấy trên tay em Ngân có cầm một chiếc điện

thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, Hiếu liền điều khiển xe chạy ép sát

36

về phía bên phải xe chị Hà rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại của Ngân rồi

tẩu thoát. Sự việc xảy ra, chị Hà liền đuổi theo và truy hô. Khi chạy đến cầu

Hiệp Hòa, thuộc phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa thì Hiếu và Hưởng bị

quần chúng nhân dân bắt giữ giao Công an phường Thống Nhất. Tại bản án hình

sự sơ thẩm số 399/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 của Tòa án nhân dân thành phố

Biên Hòa đã áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017), điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g,h khoản 1 Điều 52, Điều

38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt: bị cáo Cho Đức

Hiếu 05(năm) năm 06 (sáu) tháng tù vể tội "cướp giật tài sản", thời hạn tù tính

từ ngày 06/5/2019.

Ngày 31/08/2019, bị cáo Cho Đức Hiếu kháng cáo xin giãm nhẹ hình phạt.

Ngày 25/11/2019 Hội đồng xét xử tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét thấy hành

vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài

sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an

tại địa phương. Bị cáo dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe mô tô để làm

phương tiện cướp giật tài sản, hành vi này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng,

sức khỏe của người bị hại; bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là

vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Trong vụ

án này bị cáo đã phạm hai tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm d là

"dùng thủ đoạn nguy hiểm" và g là "phạm tội đối với người dưới 16 tuổi" khoản

2 Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, bị cáo

còn có nhân thân xấu. Và còn có một tiền án về tội "cướp giật tài sản" chưa

được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên phạm vào 02 tình tiết tăng nặng

"tái phạm" và "phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó Hội đồng xét xử

tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cho Đức

Hiếu, giử nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 399/2019/HS-ST ngày 28 tháng 08

năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa là 05(năm) năm 06 (sáu)

37

tháng tù vể tội "cướp giật tài sản", thời hạn tù tính từ ngày 06/5/2019.

Trong vụ án nói trên khi quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân Thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xem xét một cách toàn diện, khách quan

và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự,

các nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt để quyết định hình phạt đối

với các bị cáo.

Mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã cố gắng để

quyết định hình phạt đạt lý, thấu tình đối với người phạm tội, nhưng do nhiều

nguyên nhân khác nhau, Tòa án vẫn còn mắc phải những vi phạm, sai lầm trong

quyết định hình phạt. Những vụ án có vi phạm, sai lầm trong quyết định hình

phạt dưới đây là những minh chứng rõ ràng nhất.

Trước hết, đó là việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

quyết định hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội do không cân nhắc một cách đầy đủ toàn diện các

căn cứ quyết định hình phạt như các quy định của Bộ luật hình sự, tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Vụ án sau đây cho thấy rõ

vi phạm, sai lầm đó của Tòa án. Nội dung vụ án như sau: Khoảng 16 giờ ngày

04-11-2014, Lê Quang Trọng điều khiển xe mô tô hiệu Kawasaki Max biển số

60x7-8925 chở Trần Minh Truân ngồi sau còn Lê Vũ Linh điều khiển xe biển số

62K8-6590 đi một mình lưu thông trên đường Quốc lộ 1 theo hướng từ chợ sặt

đến ngã tư Amata. Khi đi đến đoạn gần Cầu sập thuộc phường Hố Nai, thành

phố Biên Hòa, cả ba phát hiện bà Hoàng Thị Thanh, ngụ tại 30/4 xã Ninh Tiến,

huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình điều khiển xe mô tô đi phía trước cùng chiều, ở

ba ga giữa bà Thanh có để một giỏ xách bên trong có 300.000đ, một điện thoại

di động trị giá khoảng 200.000đ, 01 giấy chứng minh nhân dân và một giấy

phép lái xe nên Trọng liền điều khiển xe áp sát bên trái xe bà Thanh để Truân

ngồi phía sau giật lấy giỏ sách rồi tăng ga bỏ chạy. Số tài sản chiếm đoạt được

cả ba tên chia nhau tiêu xài hết, riêng số giấy tờ Cơ quan cảnh sát điều tra công

an Thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho bà Thanh, hiện bà Thanh không

38

yêu cầu bồi thường.

Sau đó một này, vào khoảng 21 giờ ngày 05-11-2014, Lê Quang Trọng

điều khiển xe mô tô biển số 62K8-6590 chở Lê Vũ Linh đi từ Giáo xứ Phúc

Lâm thuộc phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa ra đường Quốc lộ 1. Khi đi

được khoảng 100mét, Trọng phát hiện chị Lê Thị Xuân Trang, ngụ tại xã Xuân

Mỹ, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai điều khiển xe mô tô phía trước cùng chiều,

bên trái xe chị Trang có treo một túi nilong bên trong có một giỏ xách cùng số

tiền 9.000.000đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký

xe mô tô biển số 60R7-2673 nên Trọng liền điều khiển xe vượt lên áp sát bên

trái xe chị Trang để cho Linh ngồi phía sau giật lấy túi nilong rồi tăng ga bỏ

chạy. Số tiền này Trọng và Linh chia nhau tiêu xài hết. Chị Trang yêu cầu Trọng

và Linh bồi thường số tiền 9.000.000đồng.

Và vào ngay hôm sau, vào khoảng 10 giờ ngày 06-11-2014, Lê Quang Trọng

điều khiển xe mô tô Kawasaki Max, biển số 60X7-8925 chở Vũ Xuân Tiên đi

vào đường hẻm gần trường Nguyễn Khuyến, thuộc phường Trảng Dài, thành

phố Biên Hòa thì phát hiện chị Nguyễn Thị Thi, ngụ tại xã Hòa Mỹ, huyện

Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang điều khiển xe mô tô chở bà Trần Thị Nê, ngụ tại thị

trấn Long Khánh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh đi trước cùng chiều, trên tay

bà Nê có cầm một giỏ xách bên trong có số tiền 550.000đ, 01 điện thoại di động

nhãn hiệu Nokia 1200, 02 giấy chứng minh nhân dân của bà Nê và chị Thi nên

Trọng liền điều khiển xe vượt lên áp sát bên trái xe chị Thi để tiến giật lấy giỏ

xách rồi tăng ga bỏ chạy. Số tài sản chiếm đoạt được, Tiên lấy điện thoại sử

dụng, riêng số tiền 550.000đ, Trọng lấy 400.000đ và chia cho Tiên 100.000đ.

Tang vật là 02 chứng minh nhân dân của bà Nê và chị Thi, một điện thoại di

động nhãn hiệu Nokia đã được cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố

Biên Hòa thu hồi giao trả lại cho chị Thi, riêng số tiền 550.000đ chị Thi không

yêu cầu bồi thường."[17, tr 3,4,5]

Bị cáo Trọng đã có tiền án là từng chịu 5 năm tù về tội "cướp giật tài sản",

nay lại tiếp tục phạm tội "cướp giật tài sản" mang tính tái phạm nguy hiểm, thực

39

hiện tất cả là 31 vụ trong một thời gian ngắn, (vì không đủ điều kiện nên học

viên chỉ nêu ra 03 vụ tiêu biểu), mang tính có tổ chức, có tính chất chuyên

nghiệp, dùng thủ đoạn nguy hiểm và chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị trên hai

trăm triệu đồng. Nhưng Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

không xét tới hành vi là bị cáo Trọng rủ rê, lôi kéo bị cáo Truân phạm tội khi

còn ở tuổi vị thành niên, tổng số vụ phạm tội là 31 vụ, phạm tội trong thời gian

ngắn, đây được xem là khung tăng nặng. Nhưng Tòa chỉ xử bị cáo Trọng ở

khoản 2 điểm a,b,c,d, mà không xử ở khoản 3 điểm a. Rõ ràng, trong vụ án trên

đây, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai căn cứ không đúng

các căn cứ quyết định hình phạt đã được quy định là “tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” và “các quy định của Bộ luật hình sự”.

Khi quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản, Tòa án nhân dân

thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai đôi khi mắc vi phạm, sai lầm trong việc

quyết định hình phạt không đúng do định tội danh sai và áp dụng tình tiết tăng

nặng định khung không chính xác dẫn đến quyết định hình phạt không chính xác

hay là quá nghiêm khắc. Vụ án dưới đây là một minh chứng. Tại bản án hình sự

sơ thẩm số 449/2018 HSST ngày 23/11/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai vì cho rằng Nguyễn Văn Thuận phạm tội cướp tài sản có

chuẩn bị sẵn kế hoạch nên áp dụng điểm 1 Khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự

năm 2015 phạt Thuận 7 năm tù. Theo cáo trạng bị cáo Nguyễn văn Thuận không

có ý định đi cướp tài sản, cũng không có tổ chức chuyên nghiệp để phạm tội mà

chỉ vô tình nảy sinh ý định cướp giật điện thoại của nạn nhân khi gặp nạn nhân

trên đường mà thôi. Do vậy, tại phiên phúc thẩm ngày 26/11/2018Tòa án nhân

dân tỉnh Đồng Nai đã áp dụng Khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 xét

xử bị cao Thuận về tội cướp giật tài sản với mức phạt 03 năm tù có thời hạn. Rõ

ràng, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định hình phạt

về tội cướp tài sản đối với bị cáo Nguyễn Văn Thuận là không đúng pháp luật.

Một trong những vi phạm, sai lầm khác mà Tòa án nhân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai mắc phải là khi quyết định hình phạt, Tòa án đã nhầm lẫn khi áp

40

dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với riêng người

phạm tội trong trường hợp phạm tội có tổ chức để áp dụng chung cho tất cả

những người phạm tội và kết quả là quyết định hình phạt không chính xác. Vụ

án sau đây là một minh chứng. Nội dung vụ án: Khoảng 00giờ 45 phút ngày

15/04/2019, Trần Duy Anh điều khiển xe mô tô hiệu Air Blade, biển số: 60N7-

8305 do bác ruột Nguyễn Thy Phượng, sinh năm 1960, HKTT: 473A/8, khu phố

5B, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là chủ sở hữu, đi

ngược chiều trên đường quốc lộ 1A, hướng từ cầu Sập về khu công nghiệp

Amata, thành phố Biên Hòa. Khi đi đến trước nhà nghỉ "Hoàng Kim Châu"

thuộc khu phố 1, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa thì Duy gặp Lưu Đức

Thuận, (Thuận là người đồng tình luyến ái), sinh năm 1993, ngụ tại 13A, khu

Quân Sự, phường 13, Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh đang chờ khách mua

dâm. Duy đặt vấn đề mua bán dâm với Thuận nhưng Thuận không đồng ý do hai

người không thống nhất được giá tiền mua dâm. Duy quay đầu xe lại tiếp tục hỏi

Thuận mua bán dâm nhưng Thuận vẫn không đồng ý.Thấy Thuận đang cầm trên

tay một điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, số Imei 35439106611413802 thì

Duy nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Lợi dụng sơ hở, Duy dùng tay trái giật

lấy chiếc điện thoại Thuận đang cầm trên tay còn tay phải thì tăng tay ga bỏ

chạy. Thuận đã dùng tay nắm vào đuôi xe máy của Duy và tri hô. Duy điều

khiển xe kéo theo Thuận được 150m thì ném điện thoại vừa giật được vào lề

đường. Duy tiếp tục kéo Thuận thêm 50m nữa thì bị người dân đi đường bắt quả

tang giao công an phường Long Bình lập hồ sơ và chuyển Trần Anh Duy cùng

tang vật đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa thụ lý điều

tra. Trong quá trình điều tra, gia đình bị cáo có nộp cho cơ quan điều tra đơn xác

nhận tại địa phương thể hiện gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là

lao động chính trong gia đình. Tại bản án số 365/2019/HS-ST ngày 09/8/2019,

của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã áp dụng khoản 2 Điều 171; điểm

b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), xử

phạt bị cáo Trần Duy Anh 03 (ba) năm tù về tội "Cướp giật tài sản".

41

Ngày 13/8/2019, bị cáo có làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 01/11/2019 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đưa ra xét xử phúc thẩm

lại vụ án. Tại phiên tòa, luật sư có nhắc lại việc gia đình bị cáo có nộp cho cơ

quan điều tra đơn xác nhận tại địa phương thể hiện gia đình bị cáo có hoàn cảnh

khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Đồng thời, luật sư đề nghị,

ngoài việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng như: bị cáo

thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, chưa gây thiệt hại gì về tài sản của

người bị hại, việc bị cáo giật chiếc điện thoại sau đó ném đi với mục đích là chỉ

chọc bị hại chứ không có ý định chiếm đoạt.

Hội đồng xét xử đã căn nhắc quyết định: căn cứ điểm b, khoản 1, Điều

355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận

kháng cáo của bị cáo Trần Duy Anh, sửa một phần hình phạt tại bản án sơ thẩm

số: 365/2019/HS-ST ngày 09/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1

Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Xử phạt bị cáo

Trần Anh Duy 2 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

2.3 Đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

cướp giật tài sản của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Qua việc phân tích và chứng minh một cách riêng rẽ thực trạng định tội

danh và thực trạng quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019 đối với tội cướp giật tài sản, có

thể thấy rằng định tội danh và quyết định hình phạt có những ưu điểm và nguyên

nhân của những ưu điểm đó như sau:

Thứ nhất, việc định tội danh tội cướp giật tài sản của Tòa án nhân dân

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019,

cơ bản bảo đảm đòi hỏi của pháp chế, bình đẳng, phân hóa, nhất là công bằng

trong định tội danh, bởi vậy, các hành vi cướp giật tài sản được định tội đúng,

định tội chính xác và định tội đầy đủ, cũng bởi vậy, cơ bản đã không bỏ lọt tội

42

phạm, không làm oan người vô tội, tạo tiền đề quan trọng để quyết định hình

phạt đúng và áp dụng đúng các hình thức trách nhiệm hình sự khác đối với

người phạm tội cướp giật tài sản tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Thứ hai, việc quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản của Tòa án

nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến

năm 2019, cơ bản bảo đảm đòi hỏi của các nguyên tắc quyết định hình phạt như

nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc cá

thể hóa hình phạt, nguyên tắc nhân đạo; đồng thời bảo đảm các đòi hỏi của các

căn cứ quyết định hình phạt nói chung và đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

nói riêng. Bởi vậy, hình phạt được quyết định, cơ bản vừa "thấu tình" lại vừa

"đạt lý", bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo tiền đề quan trọng

để đạt được mục đích của hình phạt mà Tòa án đã quyết định.

Có được những ưu điểm này, trước hết là nhờ chất lượng của các quy định

pháp luật hình sự về tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng ngày

càng hoàn thiện, cụ thể là các dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhất là về hành vi

khách quan của tội cướp giật tài sản và của những tội khác có liên quan được

nhà làm luật nước ta xây dựng ngày càng rõ ràng hơn cho phép phân biệt rõ hơn

khi định tội danh; các điều kiện áp dụng các loại hình phạt, các dạng chế tài,

nhất là các khung hình phạt được xây dựng hợp lý hơn về khoảng cách giữa mức

thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt, các cách gối khung hình phạt,

các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự...được quy định hợp lý

hơn, cho phép Tòa án thực hiện được các nguyên tắc quyết định hình phạt. Đồng

thời, chất lượng giải thích áp dụng thống nhất pháp luật đối với các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, chẳng hạn về chuyển hóa các hành vi

chiếm đoạt khác sang hành vi cướp tài sản cũng được nâng lên, cho phép phân

biệt rõ hơn các trường hợp chuyển hóa hay không chuyển hóa khi định tội danh

tội cướp giật tài sản.Tiếp đến là khả năng, năng lực, trình độ chuyên môn, nghề

nghiệp (xét xử), ý thức pháp luật, bổn phận, trách nhiệm, kinh nghiệm công

tác...của đội ngũ Thẩm phán (và Hội thẩm nhân dân) tại Tòa án nhân dân thành

43

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày càng được bảo đảm và nâng cao nhờ sự nổ

lực của bản thân họ và sự tạo điều kiện cho các Thẩm phán được đi học tập, đào

tạo tại các cơ sở có đào tạo trình độ thạc sĩ luật học ở nước ta, trong đó có Học

viện Khoa học xã hội. Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến sự tập huấn chuyên

môn mà Tòa án nhân tối cao tổ chức cho các Thẩm phán ngày càng được chú

trọng. Công tác kiểm tra, thanh tra (nội bộ), giám sát hoạt động xét xử cũng

ngày càng được tăng cường và có chất lượng. Dư luận xã hội với tính cách là

hình thức giám sát xã hội ở địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng

góp phần không nhỏ tạo nên những ưu điểm của Tòa án nhân dân thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

cướp giật tài sản.

Tuy nhiên, khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài

sản, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vẫn còn mắc phải

những vi phạm, sai lầm đáng tiếc, ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án

hình sự. Những vi phạm, sai lầm đó thể hiện:

Đối với định tội danh, trước hết, đó là những vi phạm, sai lầm trong xác định

không chính xác hành vi khách quan đã ra trên thực tế dẫn đến định tội danh sai,

từ tội cướp giật tài sản thành tội cướp tài sản. Trở lại vụ án đã được trình bày tại

mục 2.1, theo đó căn cứ vào các ý kiến tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử

phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận định như sau: Tại phiên tòa

phúc thẩm, bị cáo cho rằng mình chỉ phạm tội “Cướp giật tài sản”; không đồng ý

với tội “Cướp tài sản” do Thuận và Hiếu tình cờ thấy em Hữu có mang điện

thoại bên mình nên cả hai mới nảy sinh cướp giật điện thoại chứ không có kế

hoạch cướp từ trước.Và bị cáo cũng không đe dọa làm ảnh hưởng đến sức khỏe

của bị hại. Xét thấy bị cáo Thuận đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu,

nhân thân tốt nên áp dụng khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015

tuyên phạt Thuận 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản".[13,tr2,3,4,5]. Rõ ràng,

Hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã mắc sai lầm trong

khi đánh giá tính chất của hành vi khách quan đã thực hiện, dẫn đến định tội

44

danh không chính xác vi phạm yêu cầu của công bằng trong định tội danh.

Một vi phạm, sai lầm khác cũng thường xảy ra trong định tội danh tội cướp

giật tài sản là áp dụng không đúng các tình tiết định khung tăng nặng (dấu hiệu

cấu thành tội phạm tăng nặng). Trở lại vụ án được phân tích tại mục 2.2, theo đó

bị cáo Trọng có tiền án là từng chịu 5 năm tù về tội "cướp giật tài sản", tiếp tục

thực hiện 31 vụ phạm tội "cướp giật tài sản" trong một thời gian ngắn với các

tình tiết có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, dùng thủ đoạn nguy hiểm và

chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị trên hai trăm triệu đồng, lôi kéo người chưa

thành niên phạm tội, nhưng Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

không xét tới hành vi là bị cáo Trọng rủ rê, lôi kéo bị cáo Truân phạm tội khi

còn ở tuổi vị thành niên là tình tiết định khung tăng nặng thứ ba của tội cướp

giật tài sản. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội cướp giật tài sản còn thể hiện ở những trường hợp xác định không

đúng những tình tiết định khung tăng nặng khác như "phạm tội có tổ chức, gây

hậu quả nghiêm trọng, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".

Những vi phạm, sai lầm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai mắc phải là bỏ quên một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm

hình sự; vận dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Thậm chí, trong một số trường hợp, Tòa án đã nhầm lẫn khi áp dụng các tình tiết

giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với riêng người phạm tội trong

trường hợp phạm tội có tổ chức để áp dụng chung cho tất cả những người phạm

tội và kết quả là quyết định hình phạt không chính xác. Vi phạm, sai lầm loại

này thể hiện rõ mức hình phạt mà Tòa án quyết định đối với bị cáo Trần Duy

Anh phạm tội cướp giật tài sản đã trình bày tại mục 2.3 của luận văn này.

Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đôi khi mắc

sai lầm trong áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt, nhất là trong cân nhắc

“tính chất,mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”, dẫn đến mức

hình phạt được quyết định thiếu sức thuyết phục, chưa thể hiện hết sự công bằng

45

trong xã hội, không bảo đảm yêu cầu của các nguyên tắc quyết định hình phạt,

ảnh hưởng đến vai trò của hình phạt trong cải tạo, giáo dục người phạm tội, làm

giảm lòng tin của nhân dân vào công lý, vào Tòa án, vào Nhà nước.

Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa

án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xuất phát từ nhiều nguyên nhân

khác nhau, trong số đó có thể kể đến:

Thứ nhất, mặc dù đã được hoàn thiện nhiều, nhưng các dấu hiệu cấu thành

tội cướp giật tài sản, nhất là dấu hiệu hành vi khách quan vốn đặc trưng bởi vừa

công khai, vừa bất ngờ, vừa nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát. Trong

khi đó, người cướp giật tài sản thường sử dụng một loạt các thủ đoạn, tinh vi,

xảo quyệt, thậm chí có sự chuẩn bị phạm tội rất chu đáo, kể cả cách tiếp cận

người chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản để dễ chiếm đoạt tài sản đó. Chính tính

chất đặc thù và có liên quan đến các hành vi chiếm đoạt tài sản khác của hành vi

cướp giật tài sản gây không ít khó khăn cho chủ thể định tội danh và tiếp đó là

quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản. Đặc biệt, các trường hợp

chuyển hóa hay không từ tội cướp giật tài sản thành tội cướp tài sản, không phải

lúc nào cũng dễ dàng xác định được.

Thứ hai, trình độ, khả năng, năng lực, kinh nghiệm, ý thức pháp luật, ý thức

về nghề nghiệp, nhất là tinh thần, trách nhiệm, bổn phận của người cầm cán cân

công lý của một số Thẩm phán của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai chưa thật cao, chưa làm việc hết mình vì công lý, vì quyền con người,

quyền công dân trong tố tụng hình sự. Thậm chí, một số Thẩm phán không vượt

qua sự cám dỗ của các lợi ích vật chất và tinh thần đã vi phạm pháp luật.

Thứ ba, tình trạng thiếu Thẩm phán tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai vẫn chưa được khắc phục, trong khi đó, Tòa án hàng năm phải

xét xử nhiều vụ án hơn so với các Tòa án cấp huyện khác. Như vậy, các Thẩm

phán đã, đang và sẽ "căng mình làm việc". Thực trạng đó rõ ràng ảnh hưởng tiêu

cực đến chất lượng áp dụng pháp luật hình sự nói chung và định tội danh cũng

46

như quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản nói riêng.

Thứ tư, tình trạng "hành chính hóa tư pháp" nhìn từ góc độ quản lý nhà nước

liên quan đến chế độ, chính sách và các khái cạnh khác của công tác cán bộ cũng

ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ làm

công tác xét xử tại nước ta nói chung và tại Tòa án nhân dân thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai nói riêng.

Những nguyên nhân trên đây và cả những nguyên nhân khác chưa được đề

cập đến trong một tổng thể cho phép lý giải vì sao bên cạnh những ưu điểm,

định tội danh và quyết định hình phạt tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai, vẫn còn những vi phạm, sai lầm cần phải khắc phục nhanh chóng.

Việc khắc phục những nguyên nhân nói trên phải bằng một loạt các giải pháp

47

mà học viên sẽ đề cập nghiên cứu trong chương tiếp theo của luận văn này.

Tiểu kết chương 2

Qua phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội

cướp giật tài sản tại Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai Tòa án thấy việc định

tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng còn nhiều bất cập, nguyên nhân do

các yếu tố chủ quan và khách quan như đã phân tích ở trên.Việc quyết định hình

phạt cũng còn nhiều lúng túng, vướng mắc khi áp dụng trong thực tế xét xử.Việc

quyết định hình phạt khi có yếu tố đồng phạm, có tổ chức chưa được căn cứ

chính xác, dẫn đến có sai sót trong quyết định hình phạt cho người phạm tội.

Từ thực trạng đó ,tác giả đã đánh giá khái quát về định tội danh và quyết

định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản tại Thành phố Biên Hòa trong thực

tiễn định tội danh và quyết định hình phạt cho người phạm tội tại Thành phố

Biên Hòa. Cũng như chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những vi phạm, sai lầm đó

trong định tội danh và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội cướp giật

48

tài sản tại Thành phố Biên Hòa.

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

3.1.Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản

3.1.1. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người

Công lý, quyền con người là những giá trị xã hội mà sự phát triển của xã

hội luôn hướng tới đạt được. Chính vì vậy, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 xác định là nhiệm vụ hàng

đầu của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.

Công lý là sự thật, là chân lý, là lẽ phải, là giá trị, là lợi ích chung. Việc áp

dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự nói chung, định tội danh và

quyết định hình phạt nói riêng phải xuất phát từ yêu cầu bảo vệ công lý.Tư duy

vì công lý phải ngự trị trong nhận thức của những người áp dụng pháp luật hình

sự. Nói cách khác, khi áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự nói

chung, định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng không được quên công lý.

Áp dụng đúng pháp luật hình sự trong đó nội dung định tội danh và quyết định

hình phạt là nhằm góp phần xây dựng nền tư pháp hình sự bảo vệ được những

giá trị vĩnh hằng đã được thừa nhận và tồn tại trong xã hội. Một trong những

biểu hiện của công lý là công bằng và chính nghĩa. Với tính cách là giá trị xã hội,

công lý hàm chứa trong nó tính nhanh chóng kịp thời, đúng lúc. Bởi vậy, "công

lý đến muộn không còn nguyên một giá trị". Cũng bởi vậy, áp dụng pháp luật

hình sự đúng là còn đúng về thời hạn theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy,

giả quyết vụ án hình sự nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt nói

riêng phải nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không

bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Quyền con người là quyền bẩm sinh, khi bị buộc tội, con người bị tước hoặc

hạn chế quyền pháp lý nào đó theo quy định của pháp luật. Một người bị mất đi

một phần quyền pháp lý là do phạm tội. Các quyền con người khác không bị 49

tước hoặc hạn chế thì vẫn còn đối với họ. Các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,

trong đó có Tòa án chỉ được tước hoặc hạn chế quyền của người bị buộc tội

trong giới hạn mà pháp luật quy định và phải theo trình tự thủ tục luật định. Đối

với định tội danh và quyết định hình phạt, điều đó cũng không phải là ngoại lệ.

Một điều đã được thừa nhận chung là, không thể có công lý, quyền con

người nếu định tội danh không đúng và quyết định hình phạt không đạt lý, thấu

tình. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, quyền tiến hành tố tụng hình

sự đã cố gắng định tội danh đúng, Tòa án đã cố gắng quyết định hình phạt đúng,

song vẫn còn oan sai xảy ra gây bức xúc trong xã hội. Chính vì vậy, trong điều

kiện đổi mới, xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh; xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công lý, quyền con người càng cần được tôn trọng,

bảo đảm và bảo vệ. Cũng chính vì vậy, để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, tránh oan sai, đạt được mục đích của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng

hình sự...cần áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và tội

phạm cướp giật tài sản nói riêng. Đặc biệt cần áp dụng đúng pháp luật hình sự

trong định tội danh và trong quyết định hình phạt đối với tội này.

Để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, áp dụng

pháp luật hình sự để định tội danh và quyết định hình phạt phải đúng. Việc áp

dụng đúng pháp luật hình sự cho phép tránh được oan sai, đảm bảo được tính có

căn cứ của hình phạt được tuyên, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện một

cách đặc trưng, rõ ràng các yếu tố cấu thành tội phạm. Hành vi của người phạm

tội có nhiều yếu tố khác nhau của các tội phạm khác nhau, như hành vi của

người phạm tội vừa có tính công nhiên, nhưng lại có thêm yếu tố nhanh chóng

tẩu thoát...Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này thì những người

tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận, kiến thức pháp luật bao quát, sâu rộng,

để có cơ sở đánh giá, phân tích và tổng hợp các yếu tố của vụ án, áp dụng các

văn bản pháp luật liên quan một cách đúng nhất, chuẩn xác nhất, đúng trình tự

50

thì mới định tội danh đúng để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Tội cướp

giật tài sản thường thông qua các hành vi khách quan như giật lấy, giằng lấy tài

sản trong sự quản lý của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát như hành vi giật

dây chuyền, túi xách, điện thoại...nếu chủ quản lý tài sản chống cự lại thì còn có

thêm sự giằng lấy, sự xâm phạm đến sức khỏe của chủ quản lý tài sản để tội

phạm tẩu thoát. Nếu vụ án có thêm chi tiết này khi định tội danh cần cân nhắc ở

khung tăng nặng.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong định tội danh tội cướp giật tài sản

cho thấy, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng không chính xác thường tập trung

vào một số tình tiết như: "phạm tội có tổ chức"; "gây hậu quả nghiêm trọng";

"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp"...Do đó khi định tội danh cần chú ý đến

áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng phải chính xác, phải có cơ sở đánh

giá thế nào là "hậu quả nghiêm trọng"; "hậu qủa rất nghiêm trọng" hay "hậu quả

đặc biệt nghiêm trọng" hoặc "phạm tội có tổ chức". Bởi các tình tiết tăng nặng

đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối với tội phạm nói

chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Ngoài ra, muốn áp dụng đúng pháp luật

hình sự trong định tội danh tội cướp giật tài sản để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người cần phải định tội danh thống nhất, bởi quy định các dấu hiệu trong

mặt khách quan của cấu thành tội phạm của cướp giật tài sản chưa cụ thể, rõ

ràng. Vì vậy, cần kiến nghị quy định điều luật rõ ràng, chi tiết hơn, cũng như cần

mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản một cách rõ ràng hơn. Đồng

thời các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải hiểu đúng và áp dụng một cách

chính xác, không được suy diễn mà áp dụng pháp luật hình sự trong định tội

danh cướp giật tài sản một cách vô căn cứ.

Nhìn từ góc độ bảo vệ công lý, quyền con người, việc áp dụng pháp luật

hình sự để quyết định hình phạt phải hướng tới và bảo đảm, bảo vệ được công

dân khỏi việc truy cứu trách nhiệm hình sự không có cơ sở pháp luật, đảm bảo

loại và mức hình phạt áp dụng đối với họ là hợp lý, hợp pháp, phù hợp với tính

chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và các điều kiện khác

51

mà pháp luật quy định. Nói cách khác bảo vệ quyền con người trong áp dụng

đúng pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt là bảo vệ quyền con người

của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) đồng thời áp dụng đúng

pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt còn phải hướng vào bảo vệ quyền

con người của người bị hại.Về điều này,không thể không đồng ý với quan điểm

cho rằng “ người bị hại là một trong những “gương mặt” cần được nói đến đầu

tiên khi bàn về vấn đề bảo vệ quyền con người,quyền công dân trong áp dụng

đúng pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt.Người bị buộc tội và người bị

hại là những “gương mặt tương phản” có quan điểm đối lập nhau, đều cố gắng

chứng minh mình là đúng và như vậy có thể thiệt hại cho nhau bởi những kết

luận thiếu căn cứ về đối tượng chứng minh nào đó trong vụ án hình sự. Do

vậy,bảo vệ quyền con người trong áp dụng đúng pháp luật hình sự trong quyết

định hình phạt là bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội (người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo và của người bị hại”.

3.1.2.Yêu cầu cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp nói chung và cải cách tư pháp hình sự nói riêng là chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách hình sự, trong đó có chính sách pháp

luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự, chính sách pháp luật thi hành

án hình sự. Một trong những lĩnh vực (hình thức hoạt động) của chính sách hình

sự với các chính sách cụ thể đó là lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự, áp dụng

pháp luật tố tụng hình sự, áp dụng pháp luật thi hành án hình sự nhằm tăng

cường tính hướng thiện trong xử lý tội phạm và người phạm tội, phân hóa sâu

sắc hơn trong áp dụng pháp luật, phòng ngừa có hiệu quả hơn tình hình tội phạm.

Mục tiêu của cải cách tư pháp hình sự là xây dựng nền tư pháp hình sự trong

sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người và

quyền công dân, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt

động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có chất lượng,

chuyên nghiệp, có hiệu lực và hiệu quả. Đóng góp to lớn vào thực hiện mục tiêu

đó là áp dụng đúng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự nói chung vụ

52

án cướp giật tài sản nói riêng.

Áp dụng đúng pháp luật hình sự xuất phát từ yêu cầu và là mục tiêu của cải

cách tư pháp hình sự, đó là xây dựng nền tư pháp trong sạch. Xây dựng nền tư

pháp hình sự trong sạch là xây dựng nền tư pháp hình sự không có tham nhũng,

không có vi phạm pháp luật, không có tội phạm. Mục tiêu này đặt ra cho người

áp dụng pháp luật hình sự yêu cầu công tâm trong giải quyết vụ án hình sự. Áp

dụng đúng pháp luật hình sự trong giải quyết vụ án hình sự vừa là tiền đề, vừa là

phương tiện vừa là biểu hiện của công tâm trong giải quyết vụ án hình sự.

Áp dụng đúng pháp luật hình sự gắn với cầu vừa là mục tiêu của cải cách tư

pháp là xây dựng nền tư pháp hiện đại. Xây dựng nền tư pháp hiện đại trong cả

tư duy cả trong tư tưởng, cả trong hành động, tác phong làm việc, cả trong trang

thiết bị, cơ sở vật chất-kỹ thuật. Nền tư pháp đó phải phụng sự nhân dân và

phụng sự Tổ quốc, lấy lợi ích của nhân dân làm trọng tâm đầu tiên, hoạt động tư

pháp (xét xử) lấy chất lượng hàng đầu, bản án, quyết định của Tòa án phải có

chất lượng, tránh oan sai, khi có oan sai thì phải sửa, minh oan. Rõ ràng, áp

dụng đúng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án

cướp giật tài sản nói riêng cũng là điều kiện, là tiền đề, là phương tiện để xây

dựng nền tư pháp hiện đại.

Tóm lại, áp dụng đúng pháp luật hình sự trong giải quyết vụ án hình sự nói

chung, trong định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội phạm nói

chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, chẳng những góp phần bảo vệ công lý,

quyền con người trong luật hình sự và tố tụng hình sự mà còn góp phần nâng

cao uy tín chẳng những của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp

luật thi hành án hình sự, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp hình sự, qua đó nâng cao uy tín của bộ máy Nhà nước, của Nhà nước và

của Đảng cộng sản Việt Nam. Bởi vậy để tiếp tục cải cách tư pháp nói chung và

tư pháp hình sự nói riêng có hiệu quả, điều quan trọng là phải áp dụng đúng

53

pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.

3.1.3 Yêu cầu phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp

giật tài sản nói riêng

Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc mà các cơ quan của nhà nước, các

tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp khác nhau hướng vào hạn chế,

khắc phục những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm,

qua đó nhằm kiềm chế, ngăn chặn, hạn chế và từng bước tiến tới loại trừ tình

hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa tình hình tội phạm cướp giật

tài sản vì vậy là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân công dân

bằng các biện pháp khác nhau, khắc phục hạn chế dần loại trừ nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản, qua đó kiềm chế dần kéo giãn, loại

trừ dần tình hình tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản

nói riêng được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau: Thứ nhất, phòng ngừa tình

hình tội phạm (theo nghĩa hẹp của thuật ngữ phòng ngừa) và thứ hai, là chống

tội phạm vốn được hiểu bằng các biện pháp mà pháp luật cho phép, các cơ quan

có thẩm quyền tiến hành phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án

hình sự nhằm cải tạo giáo dục người phạm tội, phòng ngừa họ tái phạm (phòng

ngừa riêng) và phòng ngừa người khác phạm tội (phòng ngừa chung). Để có thể

tác động phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, việc giải quyết vụ án hình sự,

trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt phải bảo đảm nhanh chóng,

kịp thời, công khai, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để có

thể đạt được những yêu cầu đó chỉ có thể là áp dụng đúng pháp luật hình sự.

Áp dụng đúng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự là quá trình diễn

ra theo các giai đoạn khác nhau được tiến hành bởi những cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự, người tiến hành tố tụng hình sự nhất định. Kết quả hoạt động tố

tụng hình sự của giai đoạn trước là tiền đề, điều kiện bảo đảm chất lượng của

giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo và giai đoạn tố tụng hình sự sau là kết quả,

chất lượng hoạt động cao hơn so với giai đoạn trước. Bởi vậy, để đáp ứng yêu

cầu của phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài 54

sản nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng

hình sự phải tăng cường phối hợp hoạt động trong phát hiện, điều tra, truy tố, xét

xử tội cướp giật tài sản, cải tạo người phạm tội cướp giật tài sản thành công dân

lương thiện.

Như vậy, để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản có hiệu quả bên cạnh

những giải pháp phòng ngừa xã hội, cần tăng cường chất lượng xử lý tội phạm

và người phạm tội cướp giật tài sản. Đề xử lý tội cướp giật tài sản đạt được mục

đích phòng ngừa tội phạm, bên cạnh ban hành có chất lượng quy phạm pháp luật

hình sự về tội cướp giật tài sản, cần tăng cường chất lượng áp dụng quy định

pháp luật hình sự về tội này . Một trong những tiền đề của áp dụng pháp luật

hình sự đạt được mục đích là bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự, nhất là

trong định tội danh và quyết định hình phạt đúng với người phạm tội nói trên.

Nói cách khác, áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản xuất phát

từ yêu cầu của phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội này.

3.2 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản

3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự

Trước hết, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các dấu

hiệu của cấu thành tội phạm (các dấu hiệu định tội) của tội cướp giật tài sản.

Thực tiễn chứng minh rằng, trong thời gian gần đây tội cướp giật tài sản ngày

càng gia tăng; người phạm tội cướp giật tài sản ngày càng liều lĩnh và manh

động hơn. Do vậy, để có thể xử lý triệt để tội phạm cướp giật tài sản, bên cạnh

việc tăng cường nhận thức thống nhất những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài

sản, cần quy định bằng cách mô tả rõ hơn hành vi khách quan của tội cướp giật

tài sản. Vấn đề là ở chỗ, do tội cướp giật tài sản mang tính chất chiếm đoạt tài

sản một cách công khai, bất ngờ, rồi nhanh chóng tẩu thoát, nên quy định theo

cách mô tả hành vi càng chi tiết càng tốt để tránh nhiều cách hiểu khác nhau khi

định tội danh tội này. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do quy định theo cách

không mô tả hành vi cướp giật tài sản mà việc áp dụng Điều 136 Bộ luật hình sự 55

năm 1999 trước đây và Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc, thậm chí là vi phạm, sai lầm trong định tội danh tội cướp giật tài sản

do nhầm lẫn với hành vi của các tội khác như tội cướp tài sản chẳng hạn. Với lý

do đó, thiết nghĩ sẽ là hợp lý hơn, nếu nhà làm luật quy định hành vi cướp giật

tài sản trong Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 bằng cách mô tả hành vi càng

chi tiết, cụ thể càng tốt. Đồng thời, nhà làm luật cũng cần mô tả rõ ràng, cụ thể

hơn hành vi trong các tội trộm cắp tài sản (Điều 173), công nhiên chiếm đoạt tài

sản (Điều 172) vì hai tội này hay bị nhầm lẫn với tội cướp giật tài sản. Đồng thời,

nhà làm luật cần bổ sung thêm quy định về trường hợp chuyển hóa tội phạm

ngay trong luật, tức trong Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015. Vấn đề là ở chỗ,

khi tài sản đã bị cướp giật (chiếm đoạt), có trường hợp bị hại phản kháng lại,

song cũng có trường hợp bị hại không phản kháng lại. Trong những trường hợp

có phản kháng lại, có cả trường hợp vừa có sự phản kháng của bị hại, vừa có sự

phản kháng của người thân hoặc những người khác, vì vậy, hành vi dùng vũ lực

hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực của người đã cướp giật tài sản cũng

hướng vào những mục đích khác nhau: hành hung nhằm giữ lấy tài sản đã cướp

giật được hoặc là để tẩu thoát.Vậy, để bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong áp

dụng chuyển hóa từ tội cướp giật tài sản sang tội cướp tài sản, nhà làm luật cần

quy định rõ ngay trong Bộ luật trường hợp hợp đã chiếm đoạt tài sản do cướp

giật mà dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay vũ lực để giữ tài sản đó thì chuyển

hóa thành tội cướp tài sản.

Thứ hai, nhà làm luật cần hoàn thiện các quy định về hình phạt và quyết

định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản. Cụ thể là, cần hoàn thiện quy định

tại điểm a, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 ghi “có tổ chức”, vì cụm

từ đó chưa cho phép đánh giá hết và chính xác mức độ nguy hiểm của từng

nhóm tội phạm khi phạm tội. Nhà làm luật cũng cần hoàn thiện quy định tại

điểm đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 “Hành hung để tẩu thoát”

tức chỉ cần có hành vi chống đối lại nạn nhân hay người truy bắt là đã bị truy tố

56

ở khoản 2. Thiết nghĩ cần bổ sung mức độ gây thiệt hại nhất định về sức khỏe, vì

quy định như hiện hành không thể hiện rõ ràng mức độ thiệt hại gây ra hoặc có

thể gây ra cho sức khỏe của người phản kháng. Cuối cùng, nhà làm luật cần

hoàn thiện quy định tại Khoản 4 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 “phạt tù từ

12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân” theo hướng phân hóa những tình tiết

định khung tăng nặng nào phải chịu hình phạt tù từ 12 năm đến 18 năm; những

tình tiết định khung tăng nặng nào phải chịu hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm

hoặc tù chúng thân. Như vậy, sẽ là hợp lý hơn nếu Điều 171 Bộ luật hình sự

năm 2015 được bổ sung thêm một khoản tăng nặng- khoản 5.

3.2.2 Tăng cường tổng kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật, xây dựng án lệ hình sự về tội cướp giật tài sản

Các hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật có ý nghĩa rất quan

trọng, hoạt động này cho thấy tình hình tội phạm trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa về số lượng các vụ án tăng cao qua từng năm, nhân thân người phạm tội,độ

tuổi,trình độ và hoàn cảnh của người phạm tội là thấp.Qua tổng kết này có ý

nghĩa rất lớn trong công tác phòng ngừa tội phạm vì đó là nguyên nhân ,động cơ

mà người phạm tội, có phương án đấu tranh thích hợp về mọi mặt xã hội ,kinh

tế,chính trị.

Đồng thời hoạt động tổng kết xét xử tổng hợp những vướng mắc,khó khăn

và tồn tại trong việc áp dụng pháp luật khi xét xử các vụ án hình sự nói chung và

vụ án cướp giật tài sản nói riêng.Trên các tổng kết đó, các cơ quan tiến hành tố

tụng đã đề ra các giải pháp, kiến nghị sửa đổi,bổ sung pháp luật cho phù hợp với

thực tiễn cuộc sống hoặc kiến nghị Tòa án tối cao ban hành những hướng dẫn áp

dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội

cướp giật tài sản.

-Xây dựng án lệ hình sự về tội cướp giật tài sản.

Ngày càng có nhiều nhà khoa học pháp lý hình sự (hệ thống) pháp luật Rôman-

Đức, họ pháp luật Xcanđinavơ...là những họ pháp luật không thừa nhận án lệ là

nguồn của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng, coi án lệ là 57

nguồn của luật hình sự. Theo một số nhà khoa học luật hình sự, án lệ là nguồn

thứ hai, nguồn phái sinh của Bộ luật hình sự, trực thuộc Bộ luật hình sự, cụ thể

hóa từ ngữ của Bộ luật hình sự và xét đến cùng là điều kiện cần thiết để thực

hiện đầy đủ ý chí của nhà làm luật.

Về mặt lý luận thì Bộ luật dân sự và Bộ luật hình sự bao hàm hết những

tình huống, hoàn cảnh mà các Tòa án phải đối mặt và giải quyết. Việc phân tích

việc xét xử ở nước ngoài cho thấy án lệ có vai trò quan trọng trong việc điều

chỉnh các quan hệ xã hội.

Ngay tại vương quốc Anh và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ-những quốc gia

đại diện cho hệ thống pháp luật coi án lệ là nguồn chủ đạo của pháp luật, trong

đó có pháp luật hình sự, trong khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp

luật hình sự cũng có sự đánh giá khác nhau về án lệ là nguồn "đầu tiên" hay là

nguồn "phái sinh" từ pháp luật quy chế hoặc từ nguồn khác của pháp luật, mặc

dù án lệ trực thuộc pháp luật quy chế ở nghĩa án lệ có thể hủy bỏ bởi pháp luật

quy chế.

Tuy nhiên chúng ta không được quên rằng, chức năng duy nhất của Tòa

án trong giải thích pháp luật là áp dụng các cách diễn đạt được thể hiện trong

pháp luật đối với tình huống này. Nếu như phán quyết đã được đưa ra nhân việc

giải thích được áp dụng, thì theo học thuyết về án lệ, lời văn của điều luật chỉ

được áp dụng cho tình huống này chứ không phải cho tình huống khác. Nếu các

phán quyết trước đây không bao quát bất kỳ một tình huống mới nào đó, thì cái

mà các Tòa án cần dựa vào không phải là các cách diễn đạt của các Thẩm phán

trước đây, mà là điều luật cụ thể.

Như vậy án lệ là phán quyết của Tòa án mà trong đó có nêu quy tắc bổ

sung cho những thiếu sót của pháp luật hiện hành hoặc cho khái niệm hay sự

giải thích về mặt thuật ngữ có ý nghĩa về mặt pháp luật vốn không được thể hiện

trong lời văn của điều luật được áp dụng. Án lệ được sử dụng khá rộng rãi để

58

giải thích và áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn, chẳng hạn như để xác

định các dấu hiệu của những tội phạm vốn chỉ được nêu tên tội danh mà không

mô tả một cách cụ thể"[8; tr 55,56,57,58,59]

Ngoài những ưu điểm nói trên, án lệ cũng có những nhược điểm sau đây:

"Với tính cách là nguồn của pháp luật, án lệ có khả năng khắc phục nhanh

chóng "những lổ hỏng" của pháp luật quy chế, làm chính xác hơn các khái niệm

pháp lý trên cơ sở cân nhắc yêu cầu của thực tiễn áp dụng pháp luật. Nhược

điểm lớn nhất của án lệ như các nhà khoa học Hoa Kỳ khẳng định là ở chổ khi

áp dụng trước hết Tòa án cân nhắc hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước chứ

không căn cứ hoàn toàn vào quy định của pháp luật quy chế. Chẳng hạn, khi xét

xử vụ án Phurman (năm 1972) Tòa án tối cao Hoa Kỳ phán quyết rằng, việc áp

dụng hình phạt tử hình là dã man và tử hình là loại hình phạt không bình thường ,

tái vớ Tu chính lần thứ 8 và Tu chính lần thứ 14 của Hiến pháp Hợp chủng quốc

Hoa Kỳ. Thế nhưng vào năm 1976, khi xét xử vụ án Gregg, Tòa án tối cao Hoa

Kỳ lại phán quyết rằng, hình phạt tử hình, tự bản thân nó, không phải là sự vi

phạm Hiến pháp. Như vậy án lệ vẫn tồn tại với tư cách là nguồn của luật hình sự

Hoa Kỳ.

Nhìn chung trong án lệ thì trình độ kỹ thuật lập pháp chưa cao, sự hạn chế

của pháp luật quy chế và sự tụt hậu của pháp luật quy chế so với thực tiễn pháp

lý là những yếu tố quyết định sự tồn tại của một số lớn các án lệ ở Anh và Hoa

Kỳ.

Cũng như ở một số nước, ở Việt Nam, vấn đề có coi thực tiễn xét xử là

nguồn của luật hình sự hay không đã và đang được tranh luận sôi nổi trong giới

luật học. Trên thực tế ở Việt Nam, trong một thời gian dài, kết quả hướng áp

dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao nước ta vẫn được các

Tòa án tuân thủ. Việc đối chiếu phân tích các hướng dẫn áp dụng thống nhất

pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao nước ta với một số phán quyết của Tòa

phúc thẩm Cộng hòa Pháp và của Tòa án tối cao Cộng hòa liên bang Đức cho

59

phép kết luận rằng, chúng đều là những án lệ được rút ra từ việc giải thích pháp

luật. Xét về thực chất, những án lệ này không khác gì với án lệ của nước Anh và

Mỹ, vì rằng chúng đều làm chính xác hơn nội dung hoặc khắc phục những hạn

chế của những thuật ngữ hoặc khái niệm, phạm trù pháp lý đã được ghi nhận

trong pháp luật.

Hiện nay, bởi những giá trị mà án lệ có thể mang lại cho thực tiễn xét xử,

cho đến nay, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố 10 án lệ, trong đó có 1 án lệ về hình sự. Do

vậy, sẽ là không sai lầm khi khẳng định rằng , thực tiễn xét xử ở nước ta là

nguồn phái sinh của pháp luật nói chung và pháp luật hinh sự nói riêng"[8,tr

60,61]

Án lệ bộ luật hình sự về tội cướp giật tài sản sẽ hình thành theo quy trình:

*Bước 1: Đề xuất bản án cướp giật tài sản,quyết định để phát triển thành án lệ.

Tòa án có trách nhiệm tổ chức rà soát phát hiện bản án quyết định có hiệu lực

pháp luật của Tòa án mình chứa đựng lập luận khi các cá nhân,cơ quan,tổ chức

gửi bản án đề xuấtTòa án phát triển.

*Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản án,quyết định đối với tội cướp giật tài sản đề

xuất lựa chọn,phát triển thành án lệ.

Bản án,quyết định tội cướp giật tài sản được đề xuất lựa chọn,phát triển thành án

lệ,nội dung đề xuất là án lệ,dự thảo án lệ được đăng tải trên cổng thông tin điện

tử của Tòa án nhân dân tối cao xem xét,quyết định việc lấy ý kiến của hội đồng

tư vấn án lệ.

*Bước 3:Thành lập hội đồng tư vấn án lệ cho tội cướp giật tài sản.

Hội đồng tư vấn án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thành lập ít nhất

gồm 9 thành viên gồm: Chủ tịch hội đồng là Chủ tịch hội đồng khoa học Tòa án

nhân dân tối cao,các thành viên khác là đại diện Bộ Tư Pháp,Viện kiểm sát nhân

dân Tối cao, Liên đoàn luật sư Việt Nam,đại diện cơ quan,tổ chức có liên

quan,các chuyên gia về pháp luật và một đại diện lãnh đạo vụ pháp chế và quản 60

lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao là án lệ tội cướp giật tài sản thuộc về hình

sự thì thành phần của hội đồng tư vấn án lệ phải có đại diện cơ quan điều tra của

Bộ công án,Bộ quốc phòng hoặc Viện kiểm sát nhân dân Tối cao.

*Bước 4:Lấy ý kiến hội đồng tư vấn án lệ tội cướp giật tài sản.

Việc lấy ý kiến của hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện thông qua phiên họp

thảo luận trực tiếp hoặc bằng văn bản.Chủ tịch hội đồng tư vấn án lệ quyết định

phương thức lấy ý kiến của các thành viên hội đồng và báo cáo Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao kết quả tư vấn.

*Bước 5:Thông qua án lệ tội cướp giật tài sản.

Sau khi các bản án tội cướp giật tài sản được đề xuất lựa chọn, phát triển thành

án lệ được lấy ý kiến theo hướng dẫn tại Điều 4 và Điều 5 Nghị quyết số

04/2009/NQ-HĐTP,Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức họp toàn thể hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để thảo luận,biểu quyết thông qua án

lệ.

*Bước 6:Công bố án lệ về tội cướp giật tài sản.

Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

về việc thông qua án lên,Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố án lệ của tội

cướp giật tài sản.

Nội dung của án lệ về tội cướp giật tài sản bao gồm: số,tên án lệ, số tên bản

án,quyết định của Tòa án có nội dung được phát triển thành án lệ,tình huống

pháp lý giải pháp pháp lý của án lệ,quy định về pháp luật có liên quan đến án

lệ..."[15,tr 1,2,3]

3.2.3 Nâng cao khả năng, năng lực,trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người áp dụng và người tham gia áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản

61

a/Đối với điều tra viên.

Đề cao năng lực và trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh

chống tội phạm và cải cách tư pháp trong thời gian tới,công tác đào tạo,bồi

dưỡng cán bộ điều tra cần chú ý những vấn đề sau:

Một là, nghiên cứu xây dựng chương trình tập huấn chuyên môn trong giải

quyết các vụ án cướp giật tài sản cho cán bộ ngành tư pháp.nội dung học tập cần

thiết thực đi sâu lĩnh vực áp dụng pháp luật trong thực tiễn,đấu tranh chống tội

phạm và hướng giải quyết các vướng mắc cụ thể trong điều tra ở áp dụng biện

pháp ngăn chặn để tháo gỡ.

Hai là, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiến thức trong xử lý các vụ cướp giật tài sản

cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ tư pháp như giám thị,phó giám thị,quản

giáo ở nhà giam….nhằm thực hiện tốt chức năng tố tụng hình sự của họ.Bồi

dưỡng kiến thức pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến khởi tố,điều tra và áp

dụng biện pháp tạm giữ,tạm giam là điều cần thiết.

Ba là, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho lực lượng hỗ trợ như công an

xã,công an phường….tiếp tục nghiên cứu ,tổ chức các lớp tập huấn nghiêp vụ và

kiến thức cho lực lượng cán bộ địa bàn như :Trường,phó công an cấp

xã,phường.Thường xuyên tập huấn như xử lý vi phạm hành chính hành vi cướp

giật tài sản để công an cấp phường phân biệt rõ vi phạm pháp luật nói chung và

vi phạm hình sự trên cơ sở đó người tiến hành tố tụng sẽ áp dụng đúng khi xử lý

các trường hợp phạm tội của bọn tội phạm.

Bốn là, bồi dưỡng đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của điều tra viên trong đó

cần quan tâm giáo dục những nội dung như :niềm tin về vụ việc đang tiến hành

điều tra,phải nhạy bén với sự linh cảm để cảm nhận,nhận thức tình cảm của

người mình đang điều tra có phạm tội hay không?Dựa vào nguyên tắc “Trọng

62

chứng cứ,không dễ tin lời khai,tôn trọng sự thật khách quan”.

b/Đối với kiểm sát viên:

Một là: kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố,cần có ý thức

nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc,xác định được chức năng,nhiệm

vụ của bản thân ngay từ giai đoạn khởi tố,điều tra vụ án.Trong đó cần nắm vững

các chứng cứ để áp dụng pháp luật đúng người,đúng tội.

Hai là: cần có các kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho các kiểm sát viên.

Ba là: nâng cao năng lực chuyên môn trong công tác điều hành đối với hoạt

động thực hành quyền công tố.Triển khai và tổ chức thực hiện quy định của

Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về tăng cường nhiệm vụ công tố trong hoạt

động điều tra.

c/Đối với thẩm phán:

Nhằm nâng cao chất lượng xét xử,nâng cao trách nhiệm đạo đức và năng

lực của thẩm phán,Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành chỉ thị số 01/2017/CT-

CA ngày 16/01/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc triển khai tổ

chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các Tòa án nhân

dân”,Nghị quyết 03/HĐTP ngày 16/03/2017 về việc công bố bản án quyết định

của Tòa án trên công thông tin điện tử Tòa án”.

Việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm là biện pháp giúp thẩm phán

nhìn ra những sai sót khiếm khuyết trong thực thi nhiệm vụ, phòng ngừa những

vi phạm, kịp thời khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế sau mỗi phiên tòa….

Kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ trong các Tòa án nhân dân được thực hiện

bằng việc kết hợp giữa tự kiểm tra với kiểm tra của Tòa án nhân dân cấp trên với

Tòa án nhân dân cấp dưới,kết hợp kiểm tra định kỳ với kiểm tra đột xuất.

Tòa án các cấp phải lập kế hoạch kiểm tra theo thẩm quyền khi kết thúc đợt

63

kiểm tra phải tổ chức họp rút kinh nghiệm.

Học viện Tòa án cần đổi mới các nội dung,phương thức đào tạo,bồi dưỡng

thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên môn, công việc và từng ngành của thẩm

phán.Đồng thời bảo đảm nội dung kiến thức truyền đạt vừa rộng,vừa chuyên

sâu,kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để nâng cao nghiệp vụ chuyên

môn của thẩm phán.

3.2.4 Các giải pháp khác.

a/Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân

về tội cướp giật tài sản.

Từ năm 2015 đến năm 2019 Thành phố Biên Hòa đã tạo ra sự chuyển biến

rõ rệt trong thực hiện pháp luật phòng ngừa hành vi phạm tội của tội phạm hình

sự nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Cụ thể,các Sở ban ngành đã tổ

chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật rộng rãi trong nhân dân ,thu hút hàng ngàn

người dân trên địa bàn Thành phố Biên Hòa tham gia.Tổ chức các buổi tuyên

truyền pháp luật đến từng địa bàn trên Thành Phố như :cắt cử người giải đáp

thắc mắc về các hành vi vi phạm pháp luật ở từng thôn,xóm,ấp,công ty,cơ quan

đơn vị vào các ngày cuối tuần. Hội Luật gia thứ 7 hàng tuần sẽ tổ chức gặp gỡ

giải đáp miễn phí cho người dân Thành phố Biên Hòa tại cơ sở Hội luật gia về

các tội vi phạm của Bộ luật hình sự

Thành phố Biên Hòa cũng biên soạn tài liệu, sổ tay,tờ rơi… với nội dung như

pháp luật phòng chống tội phạm ma túy,tội cướp giật tài sản….cho quần chúng

nhân dân trên địa bàn đọc.

Đài truyền hình Đồng Nai cũng cho ra đời mục “Luật sư trả lời” để giải đáp

các thắc mắc về pháp luật của nhân dân trên kênh Đồng Nai 1 vào thứ 4 hàng

tuần.

b/Tăng cường cơ sở vật chất,trang thiết bị làm việc cho người áp dụng pháp luật

64

hình sự .

Phát huy vai trò của cơ quan công an,an ninh trật tự trong tham mưu ,điều

phối,quản lý việc tổ chức các hoạt động phổ biến,giáo dục pháp luật về tội phạm

cướp giật tài sản.Tăng cường thêm cơ sở vật chất cho các cán bộ khi làm nhiệm

vụ này về vật chất và cả tinh thần, cải tạo điều kiện làm việc tốt hơn nơi cán bộ

làm việc.

Cải tạo vật chất,thiết bị, cơ sở làm việc cho người áp dụng pháp luật từ nơi

làm việc như: máy móc, công nghệ, cơ sở vật chất cần làm mới để người sử

dụng cảm thấy thoáng mát thì hiệu quả công việc càng cao.

Nâng cao trình độ,kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin,kỹ thuật số cho đội

ngũ làm công tác áp dụng pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ.

Trang bị thêm các công cụ hỗ trợ trong công tác quản lý,giám sát tội phạm

cho các trại giam.Cơ sở vật chất cần có các phương án bảo vệ tốt hơn,để phòng

ngừa tội phạm bạo động như trong thời gian qua.

Bổ sung thêm nguồn lực thẩm phán tại các tòa án, để công việc giải quyết

vụ án không còn là áp lực đối với mổi thẩm phán, bồ sung thêm lương thưởng

cho đội ngũ thẩm phán, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho các thẩm phán,

để họ yên tâm công tác. Từ đó mang lại hiệu quả công việc nói riêng và mang lại

65

hiệu quả xét xử công bằng cho pháp luật Việt Nam nói chung.

Tiểu kết chương 3

Trong tình hình tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa diễn ra phức tạp về số lượng chất lượng cho thấy vấn đề yêu cầu và các giải

pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản đặt ra

là cần thiết.Trên cơ sở đó định hướng cho việc bảo vệ quyền con người cho mỗi

công dân được thực thi tốt hơn ý thức phòng ngừa tội phạm nói chung và tội

cướp giật tài sản nói riêng được nâng cao hơn trong quần chúng ,thúc đẩy quá

trình hội nhâp quốc tế tốt hơn.Qua đó tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản theo sự

hiểu biết hạn hẹp của bản thân nhằm góp một phần nhỏ kiến thức vào hoàn thiện

pháp luật hình sự nói chung và tội phạm cướp giật tài sản nói riêng trên địa bàn

66

Thành phố Biên Hòa.

KẾT LUẬN:

Từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng

Nai đã xảy ra các vụ cướp giật tài sản có chiều hướng tăng mạnh,đó là bài toán

nan giải cho các cơ quan chức năng,là nỗi ám ảnh của người dân sinh sống tại

Thành phố Biên Hòa .Để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm

cướp giật tài sản,Bộ luật hình sự năm 2015 đã thay đổi sửa đổi,bổ sung thêm

những tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội này.

Từ thực tế xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân Thành

phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai rất đa dạng,đồng thời thẩm quyền xét xử tội phạm

có giới hạn ở các tội phạm ít nghiêm trọng,nghiêm trọng và rất nghiêm trọng

nên hình phạt đa phần là từ 15 năm trở xuống,có áp dụng án treo.Phương thức

hoạt động của loại tội phạm này là chủ yếu dùng xe gắn máy áp sát nạn nhân và

thực hiện hành vi cướp giật một cách bất ngờ.Đặc điểm của loại tội phạm này

thường có tổ chức từ 2 tội phạm trở lên có nghĩa là có đồng phạm,có tổ

chức.Trong đó có vài vụ án là tội phạm có người dưới 18 tuổi phạm tội.

Với thực tiễn nghiên cứu lý luận xét xử tội phạm cướp giật tài sản ở

Thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai, học viên đưa ra đặc trưng về các tội

phạm,thủ đoạn và phương tiện phạm tội và người bị hại,tài sản chiếm đoạt trong

các vụ án.Từ đó học viên đưa ra các yêu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm áp

dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố

Biên Hòa ,tỉnh Đồng Nai gồm: bảo vệ quyền con người, quyền công dân, cải

cách tư pháp, yêu cầu phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản, yêu cầu hội

nhập quốc tế qua đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự tăng cường tổng kết

thực tiễn áp dụng pháp luật.Hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật ,xây dựng

án lệ hình sự đối với tội cướp giật tài sản nâng cao năng lực chuyên môn của

người áp dụng pháp luật,đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nhân dân cũng

như đầu tư thêm về cơ sở vật chất,trang thiết bị làm việc cho các cơ quan thực

67

thi nhiệm vụ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, (2011), Nhà xuất

bản chính trị Quốc Gia.

2. Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (2011), Nhà xuất

bản chính trị Quốc Gia Sự Thật.

3. TS. Lê Tiến Châu (Chủ biên), (2017), Giới thiệu những nội dung mới của Bộ

luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm năm 2017 (được so sánh với

Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nhà xuất bản Tư

pháp, Hà Nội.

4.Võ Thúy Hằng (2015) luận văn Thạc Sỹ Luật học về "Tội cướp giật tài sản

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Tân Bình-Thành phố Hồ Chí

Minh”.

5.GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2018) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm),Nhà xuất bản Tư pháp,

Hà Nội.

6. GS.TS. Trần Minh Hưởng (Chủ biên), (2018), So sánh Bộ luật hình sự năm

1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) với Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi,

bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

7. Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình

sự về Án treo do Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành.

8.PGS.TS Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Nhà xuất bản chính trị quốc

gia Sự Thật.

9.PGS.TS Hồ Sỹ Sơn (2019), tập bài giảng "Hình phạt: Những vấn đề lý luận và

68

thực tiễn", Hà Nội.

10. Thông tư liên tịch của Bộ công an, Bộ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001) số 2/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-

BCA-BTP ngày 25/12/2001.

11.Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án số

197/2018/HSST ngày 20/06/2018 Thành phố Biên Hòa.

12.Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án số 244/2018/HSST ngày

29/10/2018 Tỉnh Đồng Nai.

13.Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án số 449/2018/HSST ngày

23/11/2018 Tỉnh Đồng Nai.

14.Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (2019), Bản án số 413/2019/HS-PT ngày

25/11/2019 Tỉnh Đồng Nai.

15.Tòa án nhân dân tối cao, trang tin điện tử về Án lệ, Quy trình lựa chọn, công

bố và áp dụng.

16.Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2019), Bản án số

105/2019/HSST ngày 07/03/2019 Thành phố Biên Hòa.

17.Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (2015), Bản án số

154/2015/HSST ngày 25/03/2015 Thành phố Biên Hòa.

18.Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (2018), Bản án số 255/2018/HS-PT ngày

26/11/2018 Tỉnh Đồng Nai.

19.Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai (2019), Bản án số 336/2019/HS-PT ngày

01/11/2019 Tỉnh Đồng Nai.

20. TS. Nguyễn Trí Tuệ, TS. Đỗ Đức Hồng Hà (Đồng chủ biên), (2020), Chỉ

dẫn tra cứu, áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),

Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

69

21.Trang web Công ty Luật TNHH Minh Khuê.

22. Trang web Hãng Luật Phú và Luật sư PhuLawyers.

23. GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam: Phần chung, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lý luận chung về định tội danh,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. GS.TS Võ Khánh Vinh (2015), Giáo trình Quyền con người, Nhà xuất bản

70

Khoa học xã hội, Hà Nội.