VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, NĂM 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY
HÀ NỘI, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
với sự hướng dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các kết quả trình bày trong
Luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình khoa học nào trước đây.
Tôi cũng xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được
nêu rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC ................................................. 8
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác .................. 8
1.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với một số tội khác ......................... 22
1.3. Sơ lược lịch sử quy định về tội hành hạ người khác trong pháp luật
hình sự Việt Nam ........................................................................................ 29
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 36 14
2.1. Tổng quan tình hình khởi tố và xét xử về tội hành hạ người khác trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................ 36
2.2. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
hành hạ người khác và nguyên nhân ........................................................... 38
Chương 3. YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH
HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 55
3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ
người khác ................................................................................................... 55
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về tội hành hạ người khác .............................................................. 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Bộ luật hình sự BLHS
2. Hội đồng xét xử HĐXX
3. Tòa án nhân dân TAND
4. Viện kiểm sát nhân dân VKSND
5. Cơ quan điều tra CQĐT
6. Trách nhiệm hình sự TNHS
7. Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội hành hạ người khác
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................. 37
Bảng 2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự về tội hành hạ người khác trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................... 37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, đã được thay
đổi với “quyền con người” trở thành tiêu đề của tên Chương, thay vì chỉ gọi là
“quyền và nghĩa vụ của công dân” như tất cả các bản Hiến pháp trước đây,
các quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã được ghi nhận và đảm bảo
nhiều hơn từ Điều 14 đến Điều 43. Tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm”. Như vậy, có thể thấy, bảo đảm quyền con người trước hết là
bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ,
vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây có rất nhiều vụ án xâm phạm đến
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác với tính chất ngày càng phức
tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt, hành vi mang tính chất tập thể,
nhất là phạm tội hành hạ đối với trẻ em ngày càng có xu hướng gia tăng dẫn
đến xã hội bức xúc, phụ huynh thì phẫn nộ vì đã “đặt niềm tin nhằm chỗ”.
Chẳng hạn, ngày 26/11/2017, báo Tuổi Trẻ đăng tải video: “Kinh hoàng bảo
mẫu đày đọa trẻ mầm non tại trường tư thục”, phản ánh tình trạng các bảo
mẫu tại cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh trên đường HT 05, phường Hiệp
Thành, Quận 12, TP. HCM, hành hạ nhiều trẻ nhỏ thì ngay sau đó vụ việc
phạm tội hình sự của các bảo mẫu này mới bị phát hiện, cơ quan chức năng
vào cuộc điều tra và truy cứu trách nhiệm hình sự. Và gần đây nhất là vụ án
bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến
1
hành hạ đánh đập dã man, cụ thể, tại cơ quan công an, Tiến khai nhận “trong
hai ngày 14 và 15/12/2018 đã dùng tay tát, dùng thanh tre đánh vào khắp cơ
thể bé Nhi”.
Từ các vụ án trên, có thể thấy đối với một số trường công lập hoặc các
cở sở giữ trẻ tự phát hiện nay chưa được trang bị camera hoặc từ phía người
bị hại bị lệ thuộc không dám tố giác tội phạm… là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tội phạm hành hạ người khác chưa được phát hiện và xử lý kịp
thời và còn đâu đó rất nhiều những nạn nhân bị hành hạ chưa được pháp luật
bảo vệ, đến khi phát hiện hành vi phạm tội thì đã qua một thời gian dài gây
ảnh hưởng đến sức khỏe, ảnh hưởng sự phát triển tâm sinh lý của người bị
hành hạ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tội hành hạ người khác chưa được
phát hiện và xử lý là từ những hạn chế của quy định pháp luật hoặc từ phía
các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật hình sự để xử lý
người phạm tội.
Tuy hiện nay Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định “Tội hành hạ người khác” có những ưu điểm hơn so với Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nhưng vẫn còn tồn tại một số
vướng mắc từ lý luận đến thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Đó là
lý do tác giả chọn đề tài “Tội hành hạ người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực tiễn cho thấy, tình hình tội phạm hành hạ người khác ngày càng
diễn ra phổ biến, bị hại đa số là trẻ em nhưng việc xây dựng và áp dụng pháp
luật hình sự còn nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy tội phạm này thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu thể hiện qua các
công trình mà tác giả đã tiếp cận được bao gồm:
- Về giáo trình:
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật
TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm,
Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; Võ Khánh Vinh (Chủ
biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
Những giáo trình nêu trên chủ yếu phân tích về mặt lý luận của tội hành
hạ người khác và nêu rõ dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong BLHS nói chung
và tội hành hạ người khác nói riêng. Tuy nhiên, nội dung các giáo trình này
chưa làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật
hình sự về tội hành hạ người khác và không đề cập đến thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự về tội phạm này, vì vậy chưa nêu ra được hạn chế, bất cập
trong quy định và thực trạng áp dụng tội hành hạ người khác và phương
hướng hoàn thiện.
- Về sách chuyên khảo:
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm -
Quyển 1, Nxb TP.HCM, TP.HCM; Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2013), Bình
luận khoa học BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần Các tội phạm,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 –
Phần các tội phạm – Quyển 1, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
Trong những sách bình luận này các tác giả chủ yếu phân tích các dấu
hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác chứ không đi sâu vào phân tích lịch
sử hình thành tội hành hạ người khác, không đề cập đến những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật hay phương hướng hoàn thiện quy định về
tội phạm này.
- Về luận văn thạc sĩ luật học:
3
Đặng Thị Huệ (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Hồng Toàn (2015) Tội
hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học
Luật TP. HCM.
Trong luận văn thạc sĩ luật học này các tác giải phân tích được một số
vấn đề về mặt lý luận của tội hành hạ người khác, thực tiễn áp dụng pháp luật
và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật. Tuy nhiên, luận văn này chỉ tiếp
cận trên cơ sở luật củ là BLHS 1999.
- Về các bài viết khoa học:
Quang Thắng (2019), Điểm mới Điều 140 BLHS năm 2015 “Tội hành
hạ người khác” so với BLHS năm 1999, Cổng thông tin điện tử Công an tỉnh
Quãng Bình; Trần Văn Hùng (2018), Pháp luật xử lý hành vi bạo hành trẻ em,
Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân.
Các bài viết trên làm rõ một số quy định mới của Tội hành hạ người
khác trong BLHS 2015, tuy nhiên chưa chỉ ra một số khó khăn trong quá trỉnh
áp dụng pháp luật cũng như những giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo áp
dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cũng như các quy định về tội hành hạ người khác trong pháp
luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) được ban hành thì chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về
tội hành hạ người khác từ thực tiễn TP. HCM. Vì vậy, thông qua quá trình
nghiên cứu Luận văn này, ngoài việc kế thừa một số nội dung đã được tiếp
cận từ các công trình nghiên cứu trước đây thì tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn
diện về tội hành hạ người khác được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích đánh giá những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật đối về tội hành hạ người khác trên địa bàn
TP. HCM, tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng
đúng quy định pháp luật để góp phần nâng cao hiệu quả trong đấu tranh
phòng chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Phân tích, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về tội hành hạ người
khác;
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự về tội hành
hạ người khác phân biệt giữa tội hành hạ người khác với một số tội khác;
- Nghiên cứu, khảo sát tình hình tội phạm, cũng như kết quả áp dụng
pháp luật về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM;
- Chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của hạn chế khi áp dụng pháp luật
hình sự đối với tội phạm trên;
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy
định pháp luật về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các vấn
đề lý luận, quy định pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
về tội hành hạ người khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung các quy định về
5
tội “Hành hạ người khác” tại Điều 140 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017). Đồng thời, đề tài cũng được nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này để làm rõ những bất cập, vướng mắc
hiện nay của điều luật.
Về không gian: Đề tài này khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật từ năm 2015, thời điểm BLHS được ban hành, đến khi
hoàn thiện luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống cũng được sử dụng
trong luận văn này bao gồm: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp thống kê, khái quát hóa, phương pháp quy nạp, diễn
giải… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu, phân tích toàn diện những vấn đề lý
luận và quy định của pháp luật về tội hành hạ người khác trong BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp
người đọc hiểu được bản chất, nội dung quy định của pháp luật.
- Về mặt thực tiễn
Từ những giải pháp mà tác giải đề xuất trong luận văn hi vọng sẽ góp
phần hoàn thiện pháp luật cũng như đảm bảo áp dụng pháp luật đối với tội
hành hạ người khác. Qua đó, góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, nhất là trên địa bàn TP. HCM.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội
hành hạ người khác
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
hành hạ người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác trên địa bàn Thành
7
phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác
1.1.1. Khái niệm tội hành hạ người khác
Để hiểu thế nào là tội hành hạ người khác thì trước tiên chúng ta phải
tìm hiểu khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy về mặt lý luận để một hành vi
được xem là tội phạm thì cần phải thỏa mãn đủ 4 dấu hiệu pháp lý là: hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Tội hành hạ người khác là một trong những tội thuộc Chương XIV
Phần thứ hai BLHS, tức là thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Do đó, tội hành hạ người khác
ngoài những dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì còn có những dấu hiệu
pháp lý riêng như về khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Cụ
thể, Điều 140 BLHS quy định tội hành hạ người khác như sau: “Người nào
đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường
8
hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Có thể nhận thấy Điều
140 BLHS không quy định cụ thể khái niệm tội hành hạ người khác mà chỉ
tập trung mô tả mặt khách quan là hành vi hành hạ người lệ thuộc mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì “hành hạ”
nghĩa là làm cho đau đớn, khổ sở hoặc nhục nhã, ê chề [36, tr.780], còn theo
từ điển Tiếng Việt của Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks, thì hành hạ là
làm cho đau đớn, khổ sở [2, tr .263]. Như vậy, trong các từ điển Tiếng Việt
thì hành hạ được hiểu là làm cho người khác đau đớn, khổ sở.
Làm nhục là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “nhân phẩm” là phẩm chất và giá trị con người,
còn “danh dự” là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần,
đạo đức tốt đẹp [30].
Về mặt pháp lý hình sự thì một số tác giả cũng có quan điểm khác nhau
về khái niệm hành hạ người khác như sau:
Tác giả Trần Văn Luyện cho rằng: “hành hạ người khác là hành vi đối
xử tàn ác như: gây đau đớn về thể xác, đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ
thuộc” [10, tr.101]. Trong khi đó, theo Bình luận khoa học BLHS của tác giả
Đinh Văn Quế thì: “hành hạ người khác là hành vi của một người đối xử tàn
ác với người lệ thuộc mình một cách có hệ thống (lặp đi lặp lại nhiều lần) gây
đau đớn về thể xác và tinh thần cho người bị hành hạ” [14, tr.171].
Theo Bình luận khoa học BLHS của TS. Nguyễn Đức Mai chủ biên thì:
Làm nhục người khác là hành vi của một người dùng lời nói hay hành động
làm ảnh hưởng nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Việc xúc
phạm này thể hiện bằng lời nói như: chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông người… hay
có những hành động có tính chất bỉ ổi như: nhổ nước bọt vào mặt, ném
phân… [11, tr. 144-145].
9
Theo quan điểm cá nhân tác giả thì hành vi đối xử tàn ác là làm cho nạn
nhân đau đớn về thể xác và đè nén, áp bức về tinh thần như: đánh đập, giam
hãm không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn, uống, không cho mặc đủ ấm… Hành
vi làm nhục nạn nhân như: chửi rủa, xỉ vả nạn nhân trước đám đông, tung tin
đồn nhảm để người khác tưởng là nạn nhân thật sự xấu xa, tội lỗi…
Trên cơ sở kết hợp giữa dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm và dấu
hiệu pháp lý riêng của tội hành hạ người khác chúng ta có thể mô tả khái quát
khái niệm tội hành hạ người khác như sau: “Tội hành hạ người khác là hành
vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, xâm phạm đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý”.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác
1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý chung
Do tội hành hạ người khác là một tội phạm được quy định tại trong
BLHS năm 2015 nên cũng phải thoả mãn đầy đủ bốn dấu hiệu của tội phạm
là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu
hình phạt.
- Tính nguy hiểm cho xã hội: đây là dấu hiệu đầu tiên để xác định được
hành vi đó có phải là tội phạm hay không, dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã
hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng và quyết định các dấu hiệu khác. Vì vậy,
một hành vi phạm tội thì trước hết hành vi đó phải có tính chất nguy hiểm cho
xã hội, tức là hành vi đó đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể
cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [13,tr. 59]. Trong tội hành hạ
người khác thì hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội là hành vi đối xử tàn ác
hoặc làm nhục người lệ thuộc mình gây tổn hại đến sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của người bị hành hạ.
- Tính có lỗi: Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây
10
ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Nếu không có lỗi thì
không bị coi là tội phạm. Trong tội hành hạ người khác, lỗi phạm tội luôn là
lỗi cố ý thực hiện các hành vi hành hạ người lệ thuộc mình.
- Tính trái pháp luật: theo quy định tại Điều 2 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) quy định về trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại
Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, tính trái pháp luật theo quy định của luật hình sự Việt Nam
hiện hành là hành vi làm trái với quy định của BLHS. Tội hành hạ người khác
là một tội được quy định tại Điều 140, Chương XIV của BLHS năm 2015. Do
đó, một người thực hiện hành vi hành hạ thõa mãn 4 yêu tố cấu thành tội
phạm tại Điều 140 thì hành vi đó là trái pháp luật.
- Tính phải chịu hình phạt:
Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ
có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm thì không có
hình phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính
nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã
hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình
phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có
thể bị đe dọa áp dụng hình phạt. Do đó, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội
tỷ lệ thuận với mức độ khung hình phạt và hình phạt được coi là cơ chế răn
đe, giáo dục đối với tội phạm. Như vậy, người phạm tội hành hạ người khác
phải chịu hình phạt theo khung hình phạt được quy định tại Điều 140 BLHS.
1.1.2.2. Dấu hiệu pháp lý riêng
11
Tội hành hạ người khác là một tội nằm trong BLHS, do đó, người phạm
tội ngoài việc thõa mãn các dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì còn phải
có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng, đó là 4 yếu tố cấu thành tội
phạm bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Bốn yếu
tố này có tầm ảnh hưởng khác nhau, nội dung biểu hiện của mỗi yếu tố cũng
khác nhau, do đó mỗi hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội khác nhau. Cho nên, cần nắm rõ được quy định cấu thành tội phạm sẽ
giúp cho ta phân biệt được tội hành hạ người khác với những tội phạm khác
trong BLHS.
- Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm được hiểu là đối tượng bị tội
phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam thì khách thể được phân thành
khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
+ Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội
bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội
phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, bao
gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội
phạm xâm hại. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Nó là cơ
sở để BLHS xây dựng các chương trong phần các tội phạm.
+ Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quan hệ xã hội
12
cụ thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại (xâm hại) đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây
phương hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm.
Thực tế chứng minh bất kỳ tội phạm nào cũng đều xâm phạm tới ba
loại khách thể này. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ xã hội nào bị xâm hại
đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ những quan hệ nào được Nhà nước bảo
vệ bằng các quy định pháp luật hình sự mới được xem là khách thể của tội
phạm.
Đối với tội hành hạ người khác, thì khách thể chung của tội hành hạ
người khác là quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp 2013
ghi nhận tại Điều 20. Cụ thể là: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm….”. Tội hành
hạ người được xếp trong Chương XIV BLHS nên khách thể loại mà tội hành
hạ người khác xâm phạm là sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Bên cạnh đó, khách thể trực tiếp mà tội hành hạ người khác xâm phạm là sức
khoẻ thể chất, sức khoẻ tinh thần và sức khỏe xã hội của con người như Tổ
chức y tế thế giới đã khái niệm “Sức khỏe là trạng thái thỏa mãn toàn diện về
thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không
có bệnh tật hay thương tật” [4, tr.4].
Có thể hiểu, sức khỏe con người là tình trạng sức lực của con người
đang sống trong điều kiện bình thường. Cho nên, hành vi của tội hành hạ
người khác dù ở mức độ nào cũng gây những tổn thương nhất định đối với 1
trong 3 loại sức khỏe hoặc đồng thời cả loại sức khỏe gồm: sức khỏe thể chất
như bị đánh đập, bỏ đói…, sức khỏe tinh thần như mắng chửi, gây áp lực, làm
nhục…và sức khỏe xã hội như người bị hành hạ thường bị hạn chế các mối
13
quan hệ xã hội hoặc ít tiếp xúc với người bên ngoài.
Như vậy, khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội
phạm cụ thể. Xác định chính xác khách thể trực tiếp của tội phạm giúp chúng
ta định tội danh đúng và là cơ sở xác định TNHS đúng.
- Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra
và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của
tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài
của việc thực hiện tội phạm như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ
phạm tội, hoàn cảnh phạm tội....
Đối với tội hành hạ người khác thì hành vi khác quan là hành vi đối xử
tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình.
+ Hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình (lệ thuộc vào
người có hành vi phạm tội) tức là đối xử có tính độc ác, tàn bạo, như: đánh
đập gây đau khổ về thể chất, nhưng chưa đến mức gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người bị lệ thuộc; thường xuyên ức hiếp (đối xử bất
công, bất bình đẳng); ngược đãi (đối xử tồi tệ) [22, khoản 4 Chương 2] gây
cho người bị hại sự đau đớn về thể xác và tinh thần. Tuy nhiên việc đối xử tàn
ác phải chưa đạt đến mức độ nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ.
+ Hành vi làm nhục người lệ thuộc mình là xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự của nạn nhân. Đó là cố ý hạ thấp nhân phẩm, danh dự
của người khác hoặc làm mất uy tín, nhân cách của người đó đối với người
thân trong gia đình, bạn bè, cơ quan hay nơi họ sinh sống, nơi công cộng.
Việc xúc phạm này thể hiện bằng lời nói như: chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông
người; viết, vẽ hay có những hành động có tính chất bỉ ổi như: nhổ nước bọt
14
vào mặt, ném phân, cà chua, trứng thối vào người, lột trần truồng nạn nhân….
Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước mặt
người đó hoặc vắng mặt nạn nhân nhưng người phạm tội có ý thức để nạn
nhân biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân phẩm,
danh dự người khác cũng phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu trách
nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào
thái độ, nhận thức của người phạm tội; cường độ và thời gian kéo dài của
hành vi; vị trí và môi trường chung quanh; vị thế, vai trò của người bị hại
trong gia đình, tổ chức cũng như trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng
nhục đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có lời
nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm người khác [11, tr.
144-145].
Một điểm khác cần chú ý là trong thực tế thì hành vi hành hạ thường
kéo dài, có thể được lặp lại nhiều lần trong ngày, kéo dài trong nhiều ngày,
nhiều tuần hoặc thậm chí kéo dài hàng tháng, hàng năm. Điều 140 BLHS
không quy định thời gian hành hạ 1 lần hoặc nhiều lần hoặc kéo dài trong bao
lâu và cũng chưa có văn bản cụ thể nào của các cơ quan tố tụng Trung ương
hướng dẫn về tội này nên trong thực tiễn một số tác giả nghiên cứu khoa học
luật hình sự thường cho rằng hành vi hành hạ phải diễn ra và lặp lại nhiều lần
trong một thời gian nhất định thì mới truy cứu TNHS về tội hành hạ người
khác [14, tr. 171].
Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức vì vậy thời điểm tội
phạm hoàn thành là khi người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm
nhục với người lệ thuộc mình mà không cần phải có hậu quả xảy ra. Tội hành
hạ người khác có cấu thành khá đơn giản, không có các biểu hiện của công
cụ, phương tiện cũng như phương pháp, thủ đoạn phạm tội... Vì vậy khi truy
cứu TNHS một người nào đó về tội hành hạ người khác thì các cơ quan tiến
15
hành tố tụng chỉ cần chứng minh người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác
hoặc làm nhục người lệ thuộc mình còn việc họ có sử dụng công cụ, phương
tiện hoặc thủ đoạn gì để thực hiện tội phạm chỉ là tình tiết để đánh giá tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chứ không phải là tình tiết định tội hay
định khung hình phạt.
Việc nghiên cứu và làm rõ mặt khách quan của tội hành hạ người khác
sẽ giúp chúng ta đánh giá đầy đủ, chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội, điều này có ý nhĩa quyết định trong việc định tội danh
và định khung hình phạt. Do đó, nhận thức đúng mặt khách quan của tội hành
hạ người khác sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm này đạt hiệu quả cao.
- Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình
sự và phải có mối quan hệ lệ thuộc với nạn nhân. Chủ thể của tội hành hạ
người khác phải đảm bảo đủ 3 yếu tố sau:
+ Chủ thể của tội hành hạ người khác phải là con người cụ thể, đang
sống và đang hiện hữu.
+ Có năng lực TNHS.
Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực TNHS là điều kiện cần thiết
để có thể xác định một người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Chỉ những người có năng lực TNHS mới có thể có lỗi và mới có thể là
chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định (tuổi chịu TNHS).
Luật hình sự Việt Nam không quy định năng lực TNHS một cách trực
tiếp mà quy định gián tiếp qua quy định tuổi chịu TNHS và quy định về tình
16
trạng không có năng lực TNHS. Sở dĩ có thể quy định theo cách này vì giữa
độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự có quan hệ với nhau, trong đó độ tuổi
là điều kiện để có thể có năng lực TNHS. Với việc quy định này, Luật hình sự
Việt Nam mặc nhiên thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu TNHS nói
chung là có năng lực TNHS. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan có trách
nhiệm không đòi hỏi phải đánh giá từng trường hợp là có năng lực TNHS hay
không mà chỉ phải xác định độ tuổi và cá biệt nếu có sự nghỉ ngờ, mới cần
phải kiểm tra có phải là trường hợp trong tình trạng không có năng lực TNHS
hay không.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi hành hạ người lệ
thuộc mà Điều 140 BLHS quy định áp dụng từng khung, từng mức hình phạt
khác nhau, trong đó mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội
hành hạ người khác là ba năm tù. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 9,
Điều 12 BLHS thì tội hành hạ người khác là tội phạm ít nghiêm trọng, vì vậy
chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS khi phạm tội hành hạ
người khác.
+ Chủ thể của tội hành hạ người khác là chủ thể đặc biệt vì phải có mối
quan hệ lệ thuộc với người bị hại. Có nghĩa người bị hại bị lệ thuộc về quan
hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo đối với người phạm tội.
Lệ thuộc về quan hệ xã hội: thông thường là các mối quan hệ lệ thuộc
như giữa thầy giáo với học sinh, giữa thầy thuốc với người bệnh, giữa cán bộ
quản giáo đối với phạm nhân, giữa chủ với người làm thuê,…
Lệ thuộc về quan hệ công tác: là mối quan hệ lệ thuộc giữa nhân viên
với thủ trưởng, giữa cấp trên với cấp dưới trong các cơ quan, tổ chức.
Lệ thuộc về tôn giáo: là mối quan hệ giữa những người có chức sắc
trong các tổ chức tôn giáo đối với các tín đồ của tôn giáo đó.
Tuy nhiên, các quan hệ lệ thuộc khác do hôn nhân, gia đình, huyết
17
thống, nuôi dưỡng hoặc quan hệ phụ thuộc giữa cấp trên với cấp dưới trong
lực lượng vũ trang không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này mà
thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 185 và Điều 397 BLHS.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những
biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội
bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh
trong mọi cấu thành tội phạm thì dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội
được phản ánh là dấu hiệu định tội của một số tội, nhưng đa số chúng được
phản ánh là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS.
Đối với tội hành hạ người khác thì dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc.
Người phạm tội thực hiện hành vi hành hạ với lỗi cố ý. Theo Điều 10 BLHS
thì lỗi cố ý chia thành 2 loại gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp:
+ Lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xảy ra”.
Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý trực tiếp được thể hiện như sau: Về
lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận
thức rõ hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra. Về ý chí: Người phạm tội
mong muốn hậu quả xảy ra. Chẳng hạn như người phạm tội thường xuyên
đánh đập người lệ thuộc mình.
+ Lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có
thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả
xảy ra”.
Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý gián tiếp được thể hiện như sau:
18
Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và
nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra. Về ý chí: Người phạm tội không mong
muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả
xảy ra như thế nào cũng chấp nhận. Chẳng hạn người phạm tội thường xuyên
nói xấu người lệ thuộc mình.
Còn động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc và không có ý
nghĩa định tội đối với tội hành hạ người khác vì trong thực tế thì người phạm
tội có thể bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau.
Như vậy, việc xác định dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác
đóng vai trò rất quan trọng vì nó sẽ là cơ sở để xác định được tội danh trên
thực tế.
1.1.2.3. Dấu hiệu định khung hình phạt
Điều 140 BLHS năm 2015 quy định 2 khung hình phạt. Khoản 1 là cấu
thành tội phạm cơ bản quy định các dấu hiệu định tội còn khoản 2 là cấu
thành tăng nặng. Khoản 2 là khoản quy định các tình tiết định khung tăng
nặng như: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,
người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; gây rối loạn
tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;
phạm tội đối với 02 người trở lên. Đây là trường hợp phạm tội mà người bị
hại là những người cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. BLHS năm 2015 coi
các trường hợp phạm tội này là nghiêm trọng hơn, nên quy định thành tình
tiết định khung tăng nặng. Cụ thể:
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi:
Việc xác định tuổi của người bị hại căn cứ vào một trong các giấy tờ,
tài liệu: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn
cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu. Nếu các giấy tờ trên có mâu thuẫn thì
cơ quan tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, nhà trường, đoàn
19
thanh niên… để hỏi, lấy lời khai, hoặc tìm các tài liệu khác chứng minh về
tuổi của người đó. Trường hợp kết quả giám định tuổi (trong trường hợp
không xác định được năm sinh) chỉ xác định được khoảng độ tuổi của người
người bị hại thì sẽ lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đó [34].
+ Phụ nữ mà biết là có thai: Theo tiểu mục 2.3 mục 2 Nghị quyết
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 quy định "Phụ nữ có thai" được xác định
bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị
cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các
nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai.
Trong trường hợp thực tế khó nhận biết được người phụ nữ đó đang có
thai hay không hoặc giữa lời khai của bị cáo và người bị hại về việc này có
mâu thuẫn với nhau thì để xác định người phụ nữ đó có thai hay không phải
căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.
Như vậy, trường hợp người phạm tội không biết nạn nhân đang có thai
thì không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.
+ Người già yếu là người từ 70 tuổi trở lên [33, điểm i khoản 1 Điều
52], sinh hoạt sức khỏe yếu, đi lại khó khăn, chậm chạp… Người ốm đau là
người đang bị bệnh tật, có thể điều trị ở bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân hoặc tại
nhà riêng của họ.
+ Người không có khả năng tự vệ là người không thể chống cự được (ví
dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể
chống cự được) hoặc người bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả
năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc
gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị
bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận
thức, khả năng điều khiển hành vi) [7, khoản 7 Điều 3].
Trên đây là những đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ, người có
20
hành vi xâm phạm đến họ thì bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể 31% trở lên: gây rối loạn tâm thần biểu hiện trạng thái thần kinh không
bình thường, lo âu, sợ sệt, trầm cảm, mất ăn, mất ngủ, hoảng loạn. Đó là biểu
hiện của rối loạn lo âu, rối loạn phân ly, rối loạn ám ảnh, rối loạn đa nhân
cách... Cần phân biệt làm rõ rối loạn tâm thần do bệnh lý từ trước hay do sự
tác động, sang chấn tâm lý và hậu quả của hành vi phạm tội. Đánh giá mức độ
gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân phải căn cứ vào kết luận giám
định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019
của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám
định pháp y, pháp y tâm thần [3].
+ Phạm tội đối với 02 người trở lên là cùng một thời điểm người phạm
tội thực hiện hành vi hành hạ đối với 02 người lệ thuộc mình trở lên.
1.1.2.4. Quy định về hình phạt
Điều 140 BLHS năm 2015 quy định 2 loại hình phạt: cải tạo không
giam giữ và phạt tù, cụ thể như sau:
- Đối với cấu thành cơ bản ở khoản 1 thì điều luật quy định mức hình
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Đối với các trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ
mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng
tự vệ; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể 31% trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên thuộc cấu thành tăng nặng
tại khoản 2 thì điều luật quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Căn cứ vào mức hình phạt tù được quy định tại Điều 140 BLHS cho
thấy quan điểm của các nhà làm luật coi tội hành hạ người khác là một tội
phạm ít nghiêm trọng và có mức độ nguy hiểm không lớn cho xã hội, vì vậy
mức hình phạt quy định đối với tội phạm này cũng ít nghiêm khắc hơn so với
21
các tội phạm khác.
1.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với một số tội khác
1.2.1. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội bức tử
Điều 130 BLHS năm 2015 quy định về tội bức tử như sau:
“1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc
làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 12 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai”.
Tội bức tử được hiểu là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, làm cho người đó tự sát.
Giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có những điểm giống và khác
nhau như sau:
- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan thì hành vi khách quan của tội
hành hạ người khác và tội bức tử đều là hành vi đối xử độc ác, tàn bạo hoặc
làm nhục đối với người lệ thuộc làm cho họ đau đớn về mặt thể xác, đau khổ
về mặt tinh thần như đánh đập, không cho ăn uống hoặc bắt ăn, uống những
chất dơ bẩn….. Về mặt chủ thể: chủ thể của cả hai tội này đều là chủ thể đặc
biệt có quan hệ lệ thuộc với người bị hại, trong đó người bị hại là người bị lệ
thuộc với người thực hiện hành vi phạm tội.
- Điểm khác nhau:
Về khách thể: tội hành hạ người khác xâm phạm đến sức khỏe của
người bị lệ thuộc, còn tội bức tử xâm phạm tính mạng của người bị lệ thuộc.
Về mặt khách quan: cả hai tội này tuy có hành vi khách quan tương đối
giống nhau nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đối xử tàn ác,
22
hành vi làm nhục trong tội bức tử diễn ra thường xuyên và cao hơn so với
trong tội hành hạ người khác vì nó vượt quá sự chịu đựng của người bị lệ
thuộc và làm cho họ lâm vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng đến mức phải tự sát.
Trong tội bức tử hành vi khách quan được mô tả rõ ràng hơn như: thường
xuyên ức hiếp, ngược đãi.
Tội hành hạ người khách có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần có hành
vi khách quan là đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình thì đã cấu
thành tội phạm. Trong khi đó, muốn cấu thành tội bức tử thì ngoài có hành vi
khách quan của người phạm tội còn phải có hậu quả xảy ra là người lệ thuộc
có hành vi tự sát mà bất kể hậu quả sau khi tự sát người đó có chết hay không.
Như vậy, chủ thể của tội phạm có hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc
mình mà không làm người lệ thuộc tự sát thì chủ thể đó sẽ bị truy cứu TNHS
về tội hành hạ người khác, còn trong trường hợp hành vi hành hạ làm cho
người lệ thuộc tự sát thì chủ thể đó sẽ bị truy cứu TNHS về tội bức tử. Do đó,
giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có sự chuyển hoá về tội danh khi
người lệ thuộc có hành vi tự sát.
Về chủ thể: Đối với tội hành hạ người khác là tội phạm ít nghiêm trọng,
vì vậy chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS. Căn cứ vào
mức hình phạt của tội bức tử là 12 năm tù tương ứng với tội phạm rất nghiêm
trọng nên căn cứ vào khoản 2 Điền 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến 16
phải chịu TNHS.
Nếu chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc với người
bị hại chỉ trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo thì chủ thể
trong tội bức tử ngoài những quan hệ lệ thuộc trên còn có quan hệ lệ thuộc về
hôn nhân, gia đình, huyết thống nuôi dưỡng.
Về mặt chủ quan: Chủ thể của tội hành hạ người khác luôn thực hiện
hành vi phạm tội với lỗi cố ý thì chủ thể của tội bức tử thực hiện hành vi
23
phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý.
Về hình phạt: Tội hành hạ người khác liệt kê nhiều tình tiết định khung
tăng nặng như: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,
người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; gây rối loạn
tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;
phạm tội đối với 02 người trở lên. Còn tội bức tử quy định ít hơn chỉ có phạm
tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai.
Tội hành hạ người khác quy định 2 loại hình phạt là cải tạo không giam
giữ và phạt tù, mức phạt tù cao nhất là 03 năm. Trong khi tội bức tử chỉ có
hình phạt tù và mức phạt tù cao nhất là 12 năm.
Qua những phân tích và so sánh nêu trên có thể thấy rằng quan điểm
của các nhà làm luật xác định tội bức tử có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao
hơn so với tội hành hạ người khác, vì vậy hình phạt được áp dụng đối với tội
bức tử cũng cao hơn, nghiêm khắc hơn so với tội hành hạ người khác.
1.2.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015. Tội cố ý gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái phép đến thân
thể của người khác gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác dưới dạng
thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe trong các trường hợp luật định.
Giữa tội hành hạ người khác và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác có những điểm giống và khác nhau như sau:
- Điểm giống nhau: Mặt chủ quan của cả hai tội đều thực hiện với lỗi
cố ý. Về hình phạt, cả hai đều có 2 loại hình phạt là cải tạo không giam giữ và
phạt tù.
24
- Điểm khác nhau:
Về khách thể: Tội hành hạ người khác không chỉ xâm phạm đến sức
khỏe mà còn xâm phạm cả danh dự, nhân phẩm của người bị lệ thuộc. Trong
khi đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
chỉ xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại.
Về mặt khách quan: Tội hành hạ người khác là tội phạm có cấu thành
hình thức nên chỉ cần có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc
mà không cần hậu quả xảy ra. Trong khi đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác là tội phạm có cấu thành vật chất, vì vậy
hành vi khách quan phải xảy ra hậu quả và có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Thời điểm hoàn thành của tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là thời điểm
người phạm tội thực hiện hành vi khách quan và gây ra hậu quả thương tích
hoặc tổn hại sức khỏe của người bị hại được luật quy định.
Về chủ thể: Chủ thể phạm tội hành hạ người khác phải đạt độ tuổi từ đủ
16 tuổi trở lên trong khi chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác thì trong một số trường hợp chỉ cần đạt độ tuổi
từ đủ 14 tuổi (đối với các trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5
Điều 134 BLHS) là đã phải chịu TNHS. Chủ thể của tội hành hạ người khác là
chủ thể đặc biệt do người bị hại có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội, còn
đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
thì chủ thể có thể là bất kỳ ai thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác.
Về hình phạt: So với tội hành hạ người khác thì tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có đến 5 khung với rất
nhiều tình tiết định khung tăng nặng.
Tội hành hạ người khác với mức hình phạt tù cao nhất là 03 năm.
25
Trong khi tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác có mức độ nguy hiểm cho xã hội đặt biệt nghiêm trọng nêm mức hình
phạt quy định cao nhất là tù chung thân.
1.2.3. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội làm nhục người khác
Tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 155 BLHS. Làm nhục
người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác. Những hành vi này có thể bằng lời nói hoặc hành động với mục đích là
hạ thấp nhân cách, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
Giữa tội hành hạ người khác và tội làm nhục người khác có những
điểm giống và khác nhau như sau:
- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan, thì hành vi khách quan của tội
hành hạ người khác với tội làm nhục người khác đều có hành vi làm nhục
người bị hại; cả hai tội đều có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần có hành vi
khách quan làm nhục người bị hại thì đã cấu thành tội phạm. Về mặt chủ
quan, người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Về chủ thể, căn cứ vào mức hình
phạt và Điều 12 BLHS thì chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và
từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Điểm khác nhau:
Về khách thể: Tội hành hạ người khác xâm phạm đến sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm còn tội làm nhục người khác chỉ xâm phạm đến danh dự,
nhân phẩm của người khác.
Về mặt khách quan: tội hành hạ người khác ngoài hành vi khách quan
là làm nhục giống như tội làm nhục người khác thì còn có hành vi khách
quan là đối xử tàn ác. Do đó, hành vi khách quan của tội hành hạ người khác
rộng và đa dạng hơn.
Về chủ thể: nếu chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc
với người bị hại trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo thì
26
chủ thể trong tội làm nhục người khác là bất kỳ người nào, có nghĩa giữa
người phạm tội với người bị hại không có mối quan hệ lệ thuộc này.
Về hình phạt: Tội làm nhục người khác quy định 4 khung và liệt kê
nhiều tình tiết định khung tăng nặng. Đồng thời, tội làm nhục người khác
cũng quy định 4 loại hình phạt chính là phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ và phạt tù với mức phạt tù cao nhất là 5 năm và 1 loại hình phạt bổ
sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định. Như vậy, dựa vào mức độ nguy hiểm của tội phạm mà tội làm nhục
người khác được quy định rất đa dạng loại hình phạt hơn so với tội hành
hành hạ người khác.
1.2.4. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội ngược đãi hoặc hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình
Điều 155 BLHS năm 2015 quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình như
sau:
“1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình
thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 05 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người
mắc bệnh hiểm nghèo”.
Từ quy định trên cho ta thấy, Điều 185 quy định 2 loại tội:
27
+ Tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình;
+ Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình.
Giữa tội hành hạ người khác và tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình có những điểm
giống nhau và khác nhau như sau:
- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan, cả ai tội đều có hành vi khách
quan là hành hạ người bị hại. Về mặt chủ quan, người phạm tội thực hiện với
lỗi cố ý. Về chủ thể, căn cứ vào mức hình phạt của 2 tội này và Điều 12
BLHS thì chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở
lên.
- Điểm khác nhau:
Về khách thể: Khách thể của tội hành hạ người khác là sức khỏe, nhân
phẩm của người bị lệ thuộc. Trong khi khách thể của tội ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình là
chế độ hôn nhân tiến bộ được pháp luật quy định và nghĩa vụ giữa các thành
viên trong gia đình.
Về mặt khách quan: Tội hành hạ người khác mô tả hành vi khách quan
chỉ có hành hạ người khác, trong khi tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ngoài hành vi hành
hạ còn có hành vi ngược đãi.
Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần thực hiện
những hành vi khách quan hành hạ người khác thì đã cấu thành tội phạm. Còn
tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có
công nuôi dưỡng mình phải gây ra hậu quả: thường xuyên làm cho nạn nhân
bị đau đớn về thể xác, tinh thần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
28
hành vi này mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm.
Về chủ thể: Chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc với
người bị hại trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo. Trong
khi đó chủ thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu, người có công nuôi dưỡng mình có quan hệ lệ thuộc về mặt hôn nhân,
gia đình, huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng như: vợ đối với chồng, chồng
đối với vợ; con, cháu đối với cha mẹ, ông bà; cha mẹ, ông bà đối với con,
cháu hoặc những người được nuôi dưỡng như con nuôi, con riêng của vợ,
chồng.
Về hình phạt: Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình quy định 3 loại hình phạt là phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt tù với mức phạt tù cao nhất là 5
năm. So với tội hành hạ người khác thì tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà,
cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình có thêm 1 loại
hình phạt và mức hình phạt nặng hơn.
1.3. Sơ lược lịch sử quy định về tội hành hạ người khác trong pháp
luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Quy định của BLHS năm 1985 về tội hành hạ người khác
Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử, BLHS
năm 1985 đã được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/1986. Đây chính là BLHS hoàn chỉnh đầu tiên của nước
ta và là một bước tiến mang tính đột phá trong công tác xây dựng pháp luật
hình sự, thể hiện trình độ lập pháp đã đạt được bước phát triển mới. Sự ra đời
của BLHS năm 1985 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
trong thời kỳ mới. Sau khi BLHS năm 1985 ra đời, nhiều văn bản pháp luật
đã được các cơ quan tư pháp Trung ương ban hành để hướng dẫn thi hành
29
BLHS như: Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 02/11/1985 của TAND tối
cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn áp dụng một số
quy định của BLHS; Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các
tội phạm của BLHS; Nghị quyết số 03/TATC ngày 22/10/1987 của TAND tối
cao hướng dẫn về Điều 109 BLHS, Nghị quyết số 01/1989 HĐTP ngày
19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn bổ sung việc
áp dụng một số quy định của BLHS…
Trong BLHS năm 1985, lần đầu tiên tội hành hạ người khác được quy
định là một tội danh độc lập tại Điều 111, Chương XII với nội dung:
“Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ đến một năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai
năm”.
Nhìn chung, nội dung của điều luật được quy định khá đơn giản, không
có tình tiết tăng nặng và mức hình phạt tối đa là hai năm tù, điều này cho thấy
nhà làm luật đã đánh giá tội phạm này là ít nghiêm trọng, có mức độ nguy
hiểm thấp cho xã hội, vì vậy chưa quy định các tình tiết định khung tăng nặng
TNHS để phân hóa mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc
quy định tội hành hạ người khác với tư cách là một tội phạm độc lập trong
BLHS năm 1985 đã thể hiện rõ quan điểm tiến bộ của Nhà nước ta trong việc
bảo vệ quyền con người, đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
BLHS năm 1985 ra đời đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu cấp
thiết của đời sống xã hội và phát huy được vai trò to lớn trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự,
an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành thì BLHS năm 1985 đã bộc
lộ những hạn chế, bất cập trong nhiều quy định và đòi hỏi phải có sự sửa đổi,
30
bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi
mới. Trong quá trình tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần
vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, mặc dù có sự thay đổi trong nhiều
quy định nhưng quy định về tội hành hạ người khác không có gì thay đổi và
vẫn được giữ nguyên tại Điều 111.
1.3.2. Quy định của BLHS năm 1999 về tội hành hạ người khác
Trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước thì BLHS năm 1985 tuy phát huy được hiệu quả nhưng cũng đã
bộc lộ một số mặt hạn chế, thiếu sót nên không còn phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của nước ta trong tình hình mới, vì vậy nhu cầu tất yếu là cần
phải có một BLHS khác mang tính toàn diện và đầy đủ hơn để thay thế BLHS
năm 1985. Bên cạnh đó, việc xây dựng một BLHS mới hoàn thiện và tiến bộ
hơn sẽ tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc nhận thức và áp dụng BLHS một
cách thống nhất trong phạm vi cả nước. Trước những yêu cầu cấp thiết trên,
BLHS năm 1999 đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ VI thông qua ngày
21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2000 để thay thế cho BLHS năm
1985. Trong BLHS năm 1999 thì tội hành hạ người khác được quy định tại
Điều 110 và đã có sửa đổi đáng kể so với quy định tại Điều 111 trong BLHS
năm 1985 với nội dung như sau:
“1. Người nào đổi xử tàn ác với người lệ thuộc mình, thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai
năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
một năm đến ba năm:
a. Đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật;
b. Đối với nhiều người”.
Như vậy, ngoài cấu thành cơ bản được giữ nguyên thì Điều 110 BLHS
31
năm 1999 còn quy định thêm cấu thành tăng nặng được quy định tại khoản 2
với các tình tiết định khung mới được quy định như: “đối với người già, trẻ
em, phụ nữ có thai, người tàn tật” hoặc “đối với nhiều người”. Mặc dù vẫn
giữ nguyên 03 loại hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt tù
nhưng mức hình phạt tại Điều 110 BLHS năm 1999 so với Điều 111 BLHS
năm 1985 được thay đổi theo hướng nặng hơn, nghiêm khắc hơn đối với
người phạm tội và có sự phân hóa mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội từ
giản đơn đến tăng nặng dựa trên đối tượng bị hành hạ và số nạn nhân bị hành
hạ.
Năm 2009, BLHS năm 1999 tiếp tục được sửa đổi và bổ sung một số
quy định trong Phần Chung và Phần Các tội phạm nhưng quy định về tội
hành hạ người khác không có gì thay đổi so với BLHS năm 1999.
1.3.3. Quy định của BLHS năm 2015 về tội hành hạ người khác
Thực tiễn cho thấy, BLHS năm 1999 đã có những tác động tích cực đối
với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Tuy nhiên, sau 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 tiếp tục
bộc lộ những bất cập, hạn chế chủ yếu như: BLHS chưa thể chế hoá được
những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể
hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết
số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW); sự phát triển của Hiến pháp
32
năm 2013 với việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người,
quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống
pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý
quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
quyền cơ bản của công dân; BLHS năm 1999 chưa cập nhật được đầy đủ, kịp
thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội…
Chính vì vậy, yêu cầu xây dựng, ban hành BLHS mới thay thế BLHS năm
1999 là yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết đặt ra. Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp
thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS (sửa đổi) và có hiệu lực từ
ngày 01/07/2016. Ngày 30/6/2016, tại Phủ Chủ tịch, Văn phòng Chủ tịch
nước họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của
Quốc hội (QH) khóa XIII về việc lùi thời hiệu thi hành của BLHS số
100/2015/QH13. Sau đó, ngày 20/6/1017 Quốc hội ban hành Luật số:
12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13.
Cùng ngày, Quốc Hội ban hành Nghị quyết số 41/2017/QH14 thì BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Trong đó, tội hành hạ người khác vẫn được quy định tại Chương riêng, đó là
Chương XIV, Điều 140 có nội dung như sau:
“1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu
không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
01 năm đến 03 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương
33
cơ thể 31% trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên”.
So với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tội hành hạ người
khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhìn chung vẫn giữ
nguyên kết cấu gồm 2 khoản, liệt kê các cấu thành tăng nặng được quy định
tại khoản 2. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng
có sự thay đổi là bổ sung hành vi làm nhục người lệ thuộc mình hoặc làm
nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều
185 của BLHS năm 2015 (tội ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình). Bỏ hình phạt cảnh
cáo, tăng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm lên 03 năm. Bổ sung
tình tiết tăng nặng định khung “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên”. Giải thích rõ và sửa đổi cụm từ
“người tàn tật” bằng cụm từ “người già yếu, ốm đau hoặc người khác không
có khả năng tự vệ”.
Như vậy tội hành hạ người khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) được quy định với hình phạt nghiêm khắc hơn, cụ thể rõ ràng
hơn nhằm đảm bảo việc xử lý người phạm tội đúng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội. BLHS đánh dấu một bước tiến quan trọng,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều
này thể hiện quan điểm bảo vệ hơn nữa quyền con người của Nhà nước ta
trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là chủ trương quan tâm
bảo vệ đối với những đối tượng dễ bị tội phạm xâm hại như: người dưới 16
tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu…
Như vậy, việc tìm hiểu các quy định về tội hành hạ người khác từ sau
năm 1985 đến nay đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn toàn diện về sự
hình thành và phát triển trong các quy định của pháp luật hình sự đối với tội
34
phạm này. Quy định về tội hành hạ người khác ngày càng phát triển theo
hướng đầy đủ, toàn diện hơn cũng như nội dung điều luật cũng được quy định
hợp lý hơn, phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong bối
cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu các khái niệm,
dấu hiệu pháp lý và lịch sử hình thành quy định về tội hành hạ người khác
trong pháp luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một khái
niệm chung về tội hành hạ người khác và chỉ ra được quá trình phát triển theo
hướng ngày càng hoàn thiện của tội hành hạ người khác kể từ khi được chính
thức quy định trong BLHS năm 1985 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu,
tác giả đã tiến hành so sánh, đối chiếu quy định về tội hành hạ người khác với
một số tội phạm khác có dấu hiệu tương tự trong BLHS để làm rõ những vấn
đề chung về tội phạm này; bên cạnh đó giúp ta phân biệt tội hành hạ người
khác với các tội phạm khác, giúp người áp dụng pháp luật áp dụng đúng tội
danh. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học, góp phần bổ sung vào lý
luận về tội hành hạ người khác, giúp cho việc nhận thức và áp dụng quy định
của BLHS đối với tội phạm này được chính xác và toàn diện hơn. Đồng thời
từ những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở để tác giả nghiên cứu
chuyên sâu hơn về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hành hạ người khác
nhằm chỉ ra những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng quy định của
35
pháp về tội phạm này trong Chương 2 của Luận văn.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổng quan tình hình khởi tố và xét xử về tội hành hạ người
khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm tại TP. HCM ngày càng
gia tăng và diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, đặc
biệt là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người. Mặc dù tội phạm hành hạ người khác không xảy ra thường xuyên như
những loại tội khác và chiếm cơ cấu rất nhỏ trong các loại tội phạm nhưng
đây là loại tội phạm thu hút sự chú ý rất lớn từ dư luận và bị xã hội lên án gay
gắt. Có thể nhận thấy rất rõ điều này khi một số vụ án hành hạ người khác xảy
ra được xét xử lưu động thì rất đông người dân chen lấn, chật kín hội trường
để theo dõi, báo chí đưa tin, điển hình như: Vụ án hai bảo mẫu Lê Thị Đông
Phương, Nguyễn Lê Thiên Lý hành hạ các bé tại cơ sở mầm non tư thục
Phương Anh, quận Thủ Đức năm 2014; Vụ ba bảo mẫu Phạm Thị Mỹ Linh,
Nguyễn Thị Đào, Phạm Như Huỳnh hành hạ 24 trẻ em ở cơ sở mầm non tư
thục Mầm Xanh, Quận 12 năm 2018; Vụ án bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến
Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh đập dã man…
Qua đó, việc áp dụng quy định các quy định của pháp luật hình sự về tội hành
hạ người khác để điều tra, truy tố, xét xử cũng thu hút sự quan tâm của người
dân cũng như các cán bộ làm công tác chuyên môn. Để nhận thức rõ được
tầm quan trọng của việc áp dụng pháp luật về tội hành hạ người khác trong
thực tiễn trên địa bàn TP.HCM chúng ta cần nghiên cứu tình hình khởi tố, xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội tội phạm này trong thời gian gần đây và đối
36
chiếu với tình hình khởi tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung trên
địa bàn TP.HCM. Tình hình khởi tố và xét xử tội hành hạ người khác của TP.
HCM những năm gần đây được thể hiện thông qua các bảng số liệu sau:
Bảng 2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự về tội hành hạ người
khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng số vụ án hình sự Số vụ án hành hạ người Năm Tỷ lệ đã khởi tố khác đã khởi tố
2015 9350 0,00% 0
2016 8646 0,00% 0
2017 8097 0,00% 0
2018 8939 0,03356% 3
2019 9706 0,01030% 1
(Nguồn: số liệu thống kê của VKSND TP.HCM từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội hành hạ
người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng số vụ án Tòa Số vụ hành hạ Kháng cáo Năm án đã xét xử sơ người khác đã xét Tỷ lệ Kháng nghị thẩm xử sơ thẩm
2015 5965 0,00% 0 0
2016 5965 0,00% 0 0
2017 5111 0,00% 0 0
2018 4511 0,06650% 0 3
2019 4747 0,02106% 0 1
(Nguồn: số liệu thống kê của TAND TP.HCM từ năm 2015 đến năm 2019)
Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy trong thực tiễn số lượng
các vụ án hành hạ người khác không có sự biến động lớn giữa các năm, chiếm
tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án hình sự xảy ra hàng năm. Từ năm 2015 đến
37
năm 2019 các cơ quan tố tụng ở TP. HCM chỉ khởi tố và xét xử sơ thẩm 04
vụ án về tội hành hạ người khác với tỷ lệ số vụ án xảy ra trung bình khoảng
01 vụ/năm. Thông qua thực tiễn xét xử tội hành hạ người khác chúng ta thấy
xuất hiện một số những hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội danh này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
hiệu quả phát hiện và xử lý đối với tội phạm này chưa cao.
2.2. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự
về tội hành hạ người khác và nguyên nhân
2.2.1. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
tội hành hạ người khác
Trong những năm qua, công tác điều tra, truy tố, xét xử về tội hành hạ
người khác đã đạt được kết quả đáng kể. Các vụ án được thụ lý và giải quyết
nhanh chóng, không có hiện tượng tồn đọng, đình chỉ hay trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. Tuy nhiên, thực tế khi áp dụng quy định pháp luật hình sự đối với tội
phạm này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót và chưa đáp ứng một cách
triệt để trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể:
Thứ nhất, còn tình trạng bỏ lọt tội phạm do dấu hiệu định tội quy định
chưa rõ ràng, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng
quy định về tội hành hạ người khác để điều tra, truy tố, xét xử nên thực tế dẫn
đến nhiều trường hợp hành vi hành hạ chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Thực trạng này được phản ánh qua vụ án sau:
Vụ án số 1: Xét xử 3 bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh (43 tuổi), Nguyễn Thị
Đào (23 tuổi), Phạm Như Huỳnh (19 tuổi) là bảo mẫu tại cơ sở mầm non tư
thục Mầm Xanh, trong đó bà Linh là chủ cơ sở. Nạn nhân trong vụ án là 24
trẻ em được phụ huynh gửi tại trường. (Phụ lục 1) [24]
Trước đó, ngày 26/11/2017, báo Tuổi Trẻ đăng tải video: “Kinh hoàng
bảo mẫu đày đọa trẻ mầm non tại trường tư thục” (hình ảnh trong phóng sự
38
điều tra của Truyền hình Tuổi Trẻ), phản ánh tình trạng các bảo mẫu tại cơ sở
mầm non tư thục Mầm Xanh trên đường HT 05, phường Hiệp Thành, quận
12, TP.HCM, hành hạ nhiều trẻ nhỏ.
Trước khi bị phát giác đánh đập trẻ, cơ sở tư thục này nhận giữ 30-40
trẻ, từ 12 tháng đến 4 tuổi. Đa số các bé là con của công nhân trên địa bàn.
Theo phản ánh, mỗi sáng nhận các cháu vào lớp, bà Linh và hai bảo mẫu tên
Huỳnh và Đào đều tươi cười niềm nở. Tuy nhiên, khi cha mẹ các bé đi làm,
con họ bị đánh đập. Nhiều trẻ bị hành hạ ngay trong lúc ăn, tắm rửa, vệ sinh,
học tập… khiến các em đến trường trong sợ hãi. Nhiều bé bị bảo mẫu Linh tát
vào mặt liên tiếp, bị đánh bằng vá múc canh, bình nhớt, lưỡi dao. Hai bảo
mẫu Huỳnh và Đào dùng nhiều vật dụng như cây, vá múc canh, thìa, ống
nhôm, lược, chổi, cây lau nhà đánh trẻ. Bảo mẫu còn dùng chân đạp vào
người trẻ.
Dựa vào những hành vi nêu trên, ngày 25/07/2018 Tòa án nhân dân
Quận 12 xét xử sơ thẩm tuyên bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Đào,
Phạm Như Huỳnh phạm tội “Hành hạ người khác”.
Xử phạt: bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh 03 (ba) năm tù; bị cáo Nguyễn Thị
Đào 02 (hai) năm tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 04
(bốn) năm; bị cáo Phạm Như Huỳnh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng
cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm.
Từ vụ án trên cho ta thấy, khi các bị cáo thực hiện hành vi hành hạ trẻ
nhỏ thì không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, như lời khai của bị
cáo Nguyễn Thị Đào và Phạm Như Huỳnh khai: các bị cáo chỉ làm theo
hướng dẫn của bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh “cháu nào hư thì phải phạt để các
cháu nghe lời”. Rõ ràng các bị cáo không nhận thức được như thế nào là hành
vi hành hạ người khác. Điều này xuất phát một phần từ việc BLHS mới chỉ
mô tả dấu hiệu định tội của tội hành vi hành hạ một cách chung chung, chưa
39
rõ ràng, trong đó: hành vi hành hạ chỉ là hành vi đối xử tán ác hoặc làm nhục.
Như thế nào là đối xử tàn ác hoặc làm nhục thì hiện nay vẫn chưa có văn bản
nào hướng dẫn. Chính vì vậy, người phạm tội cứ thực hiện hành vi hành hạ
người khác nhưng không biết đó hành vi hành hạ được quy định trong BLHS,
người xung quanh thì xem đó là cách trông giữ trẻ nên không tố giác tội
phạm, cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra thờ ơ do không nhận biết
các dấu hiệu trẻ bị hành hạ, cụ thể: ngày 23/11/2017 Uỷ ban nhân nhân
Phường Hiệp Thành, Quận 12 kiểm tra chỉ lập biên bản xử phạt hành chính cơ
sở mầm non tư thục Mầm Xanh [28]. Do đó, việc dấu hiệu định tội chưa rõ
ràng gây khó khăn cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xử lý tội phạm.
Thứ hai, xác định tội danh sai, chưa thống nhất do các cơ quan tiến
hành tố tụng còn nhầm lẫn giữa các dấu hiệu định tội của một số tội phạm
tương tự nhau.
Vụ án số 2: Cô giáo Trần Thị Xuân Nữ là giáo viên Trường mầm non
Hoa Lan nhốt trẻ Lê Quang Vinh trong thang máy [31].
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17/09/2010, Trần Thị Xuân Nữ là giáo
viên Trường mầm non Hoa Lan, Nữ phụ trách cho 23 bé nam ăn trưa. Cháu
Lê Quang Vinh (sinh ngày 19/12/2006) không ăn, Nữ nhắc nhở nhiều lần,
cháu Vinh không nghe. Nữ bế cháu Vinh mở cửa đưa cháu Vinh vào thang
máy ở tầng một, bấm nút vận hành di chuyển xuống tầng trệt (chức năng của
thang máy chỉ để vận chuyển thức ăn mà không phải để chở người). Nữ đi
nhanh xuống tầng trệt, mở cửa thang máy thấy cháu Vinh nằm trên sàn thang
máy, máu chảy ra nhiều. Sẵn có một phụ huynh đến đón con em về, Nữ nhờ
chở Nữ và cháu Vinh đến bệnh viện cấp cứu.
Quá trình điều tra vụ án, quan điểm xử lý hành vi phạm tội của Trần
Thị Xuân Nữ thiếu nhất quán. Ban đầu Trần Thị Xuân Nữ bị khởi tố điều tra
về tội “Hành hạ người khác” theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 435
40
ngày 03/11/2010 của Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Phú. Sau đó lại thay
đổi tội danh từ tội “Hành hạ người khác” thành tội “Cố ý gây thương tích”
theo Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự số 05, quyết định
khởi tố bị can số 52 ngày 20/01/2011.
Có thể nói, cơ quan CSĐT Công an quận Tân Phú còn lúng túng, bị
động trong việc xử lý vụ án. Việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can từ hành vi “hành hạ người khác” sang hành vi “cố ý gây thương tích” đều
do VKSND quận Tân Phú yêu cầu, cơ quan CSĐT chỉ chấp hành.
Ngày 15/07/2011, TAND quận Tân Phú, TP.HCM đã đưa ra xét xử vụ
án cô giáo Trần Thị Xuân Nữ (30 tuổi, nguyên giáo viên Trường Mầm non
Hoa Lan, quận Tân Phú) về hành vi “cố ý gây thương tích”.
Theo tác giả, giữa cô giáo Nữ với trẻ Vinh mặt dù có quan hệ lệ thuộc
nhưng hành vi của bị cáo Nữ không chỉ dừng lại ở việc hành hạ mà còn gây
thương tích cho trẻ Vinh, cụ thể: theo kết quả giám định cho thấy bé Vinh bị
chấn thương tại vùng đầu, lóc da thái dương, rách da chỏm đầu, gãy xương
đòn, mặt mũi và toàn bộ phần thân trước bị chà xát, chảy máu nhiều nơi… Do
đó, Tòa án quận Tân Phú xét xử với tội danh “Cố ý gây thương tích” là hoàn
toàn đúng người đúng tội.
Vụ án số 3: Vụ án Nguyễn Thị Nga (sinh năm 1971 tại Bắc Ninh) hành
hạ người làm thuê [25].
Nguyễn Thị Nga thường xuyên đánh đập các em Nguyễn Văn Ước
(sinh năm 1987), Lê Đăng Phúc, Chung Văn Đông và Đinh Thị Kim Thoa
(đều sinh năm 1989) là những người làm thuê cho vợ chồng Nga tại căn nhà
thuê ở Phường 13, quận Tân Bình. Sau khi phát hiện sự việc và tiến hành điều
tra, xác minh thì căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày
04/03/2005 Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Bình đã ra Quyết định khởi tố
vụ án và khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Nga về tội cố ý gây thương tích.
41
Tuy nhiên đến ngày 09/05/2005, Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Bình lại
ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với
Nguyễn Thị Nga từ tội “Cố ý gây thương tích” sang tội “Hành hạ người
khác”.
Qua hai vụ án trên cho thấy Cơ quan CSĐT có sự nhầm lẫn giữa dấu
hiệu định tội của tội hành hạ người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác. Điều này phản ảnh hoạt động chứng minh
tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, cũng như một số quy
định của BLHS chưa rõ ràng dễ gây sự nhầm lẫn. Do đó, các cán bộ làm công
tác chuyên môn cần phải nắm chắt và phân biệt các dấu hiệu định tội của từng
loại tội cụ thể thì mới đảm bảo vụ án được điều tra, truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội.
Thứ ba, cơ quan tiến hành tố tụng khi quyết định mức hình phạt còn
quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội nên thể hiện tính răng đe và phòng ngừa tội phạm.
Vụ án số 4: Vụ án bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là
anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh đập dã man (Phụ lục 2) [26]
Chị Nguyễn Ngọc Giàu và Tiến chung sống với nhau như vợ chồng.
Trước đó, chị này đã gửi con gái riêng là cháu Nguyễn Thị Yến Nhi (sinh
năm 2014) nhờ cha ruột chăm sóc.
Ngày 02/12/2018, chị Giàu và Tiến đón cháu Nhi đi chơi tại nơi Tiến
làm việc ở phường Hiệp Thành, Quận 12. Sau đó, chị Giàu để con gái ở chơi
nhà chị ruột của mình là Nguyễn Thị Ánh Hồng. Lúc này, chị Hồng phát hiện
trên cơ thể cháu Nhi có nhiều vết bầm tím nên hỏi thì bé nói do Tiến đánh.
Chị Hồng thông báo cho cha ruột, đồng thời đưa bé Nhi đến Công an
phường Hiệp Thành trình báo sự việc.
Kết quả giám định pháp y và giám định tâm thần cho thấy cháu Nhi bị
42
đa chấn thương tỉ lệ 11%. Chưa có căn cứ pháp lý xác định tỉ lệ % ảnh hưởng
tâm lý sang chấn gây ra.
Tại CQĐT, Tiến khai hằng ngày chị Giàu làm việc nơi khác, Tiến làm
phụ hồ và trông cháu Nhi. Trong hai ngày 14 và 15/12/2018, Tiến dùng tay tát
vào mặt và dùng thanh tre đánh vào mu bàn tay, đầu gối, mông cháu Nhi.
Ngoài ra, vết thương tại bộ phận sinh dục và một số vết thương trên hai bàn
chân cháu bé không phải do Tiến gây ra.
Cơ quan chức năng không đủ cơ sở xác định tỉ lệ thương tật 11% của
cháu Nhi do Tiến gây ra nhưng đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội hành hạ
người khác.
Tại phiên tòa ngày 12/09/2019, bị cáo nói hành hạ cháu Nhi vì cháu
Nhi nghịch ngợm, sáng dậy thường không chịu ăn, khi ăn thì hay làm đổ thức
ăn xuống giường và đi vệ sinh bừa bãi, do nói cháu không được nên ngày 14
và 15/12/2018 bị cáo có dùng tay tát vào má, rồi bắt cháu Nhi nằm xuống
giường, dùng thanh tre đánh vào tay, chân và vào mông của cháu Nhi. Ngoài
ra, bị cáo không dùng hung khí gì khác để đánh cháu. Bị cáo lý giải ba vết tổn
thương da, dạng hình tròn, đường kính khoảng 0,1 cm tại khu vực mu bàn
chân cháu Nhi là do bị cáo hút thuốc, tàn thuốc lá rơi xuống đệm. Cháu Nhi
ngủ, lăn qua nên bị bỏng.
Tòa cho rằng dù cháu Nhi nằm ở tư thế nào thì mu bàn chân luôn
vuông góc với bề mặt đệm, nên lý giải của Tiến không được chấp nhận. Lúc
này, bị cáo mới thú nhận hành vi dùng đầu tàn thuốc lá gí vào mu bàn chân bé
Nhi.
Kết thúc phiên tòa, Tòa án nhân dân Quận 12 tuyên bị cáo Nguyễn
Trung Tiến phạm tội “Hành hạ người khác” với mức hình phạt là 02 (hai)
năm tù.
Qua vụ án trên cho chúng ta thấy nạn nhân của tội hành hạ người khác
43
và cụ thể trong vụ án này là bé Nguyễn Thị Yến Nhi thì ngoài những thương
tích để lại trên cơ thể bé còn bị ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về
thể chất và tâm sinh lý, nhưng mức hình phạt chỉ có 2 năm tù. Tuy nhiên nếu
có xử phạt với mức cao nhất thì BLHS quy định đối với tội hành hạ người
khác cũng chỉ có 3 năm tù. Theo tác giả thì mức hình phạt này chưa đủ để răn
đe tội phạm, khi xử phạt còn luồng ý kiến bán tán, còn gây bức xúc trong
nhân dân nên chưa đảm bảo tính răng đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm
chung cho xã hội.
Thứ tư, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS giữa các
cơ quan áp dụng pháp luật còn sai sót, chưa có sự thống nhất dẫn đến việc
quyết định mức hình phạt cũng có sự khác nhau.
Trong một số vụ án, các bị cáo bị xét xử với khung hình phạt và tình
tiết định khung tăng nặng như nhau nhưng HĐXX lại áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS không thống nhất. Điều này chủ yếu
xảy ra khi áp dụng tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng” đối với các bị cáo.
Điển hình như trong vụ án của bị cáo Nguyễn Trung Tiến hành hạ cháu
Nguyễn Thị Yến Nhi như đã nêu trên, TAND Quận 12 nhận định “bị cáo mới
phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” do đó áp dụng điểm i
khoản 1 Điều 51 của BLHS khi quyết định hình phạt. Hoặc như trong vụ án
sau đây:
Vụ án số 5: Bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc hành hạ trẻ Phan Thị Ngọc
Diễm ở cơ sở mầm non Ánh Sao Vàng, huyện Bình Chánh (Phụ lục 3) [27]
Sáng ngày 15/11/2018, TAND huyện Bình Chánh đưa ra xét xử sơ
thẩm vụ án hành hạ người khác do bị cáo Trần Thị Hồng Phúc (25 tuổi, ngụ
quận 8, TP.HCM) là bảo mẫu lớp mầm non Ánh Sao Vàng (huyện Bình
Chánh, TP.HCM) thực hiện.
44
Theo cáo trạng, Trần Thị Hồng Phúc vào làm bảo mẫu tại lớp mầm non
Ánh Sao Vàng (xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, TP.HCM) từ tháng
01/2018.
Sáng 25/07/2018, Phúc cho các bé trong lớp uống sữa, riêng bé Phan
Thị Ngọc Diễm (sinh năm 2013) bị bệnh nên không uống sữa mà nôn ói trên
sàn nhà. Phúc lấy dép nhựa đang mang dưới chân đánh liên tiếp nhiều cái vào
chân bé Diễm. Thấy bé Diễm khóc, Phúc gọi các bé trong lớp lấy kéo dùng để
cắt giấy trang trí định hù doạ thì bé Diễm vùng vẫy. Phúc dùng tay và chân
giữ bé Diễm nằm cố định rồi cầm kéo chĩa vào miệng bé Diễm để đe doạ thì
bé Diễm nằm im. Phúc bỏ kéo xuống và tiếp tục dùng tay đánh nhiều cái vào
mặt bé Diễm rồi cho bé Diễm đi ngủ. Một cô bảo mẫu khác thấy và lấy kem
thoa lên vùng bị sưng tấy trên mặt bé Diễm.
Kết quả giám định pháp y tháng 07/2018, bé Diễm bị chấn thương phần
mềm gây sưng bầm vùng má, thái dương phải, hiện còn hình ảnh bầm tụ máu
vùng má phải, không rối loạn chức năng trên lâm sàng.
Tại tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, vì chuyện gia đình
và sự tức giận nên bị cáo không kiểm soát được hành vi của mình khi trẻ quấy
khóc. Bị cáo từng học chứng chỉ bảo mẫu cấp tốc trong vòng 01 tháng. Bị cáo
có con nhỏ, bị thiểu năng. Mẹ bị cáo bị bệnh, đi lại khó khăn, hiện phải chăm
sóc trong thời gian bị cáo bị tạm giam. Gia đình bị cáo đã bồi thường 65 triệu
cho gia đình bị hại và gia đình bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
HĐXX nhận định, cáo trạng truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng
người, đúng tội. Bị cáo không làm tròn trách nhiệm của một bảo mẫu mà đối
xử bạo hành, dùng kéo đe doạ.
HĐXX tuyên bị cáo Trần Thị Hồng Phúc phạm tội “Hành hạ người
khác” và xử phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Tuy nhiên, trong phần nhận định của Tòa án, HĐXX cũng nhận định bị
45
cáo “phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự” tương tự như vụ án
của bị báo Nguyễn Trung Tiến. Mặc dù vậy nhưng khi quyết định áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ TNHS lại không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS là
thiếu sót. Điều này thể hiện năng lực trình độ chuyên môn của các cán bộ làm
công tác áp dụng pháp luật còn chưa đồng đều.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác
Qua thực tiễn so sánh, phân tích các vụ án nêu trên cho ta thấy việc áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác hiện nay
còn gặp nhiều hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tựu trung
chúng ta có thể chia thành 2 nguyên nhân chính sau:
2.2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật
Thứ nhất, quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng, cụ thể là mặt khách
quan của tội hành hạ người khác chưa có hướng dẫn nên gây khó khăn cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Theo phân tích tại mục 1.1.2.2 Chương 1 thì tội hành hạ người khác có
hành vi khách quan là hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc
mình. Như vậy, tội hành hạ người khác là tội có yếu tố định tính chứ không
có yếu tố định lượng, không quy định hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, từ khi
BLHS 2015 ra đời cũng không có một văn bản pháp lý nào hướng dẫn và giải
thích các hành vi khách quan như thế nào là đối xử tàn ác hoặc làm nhục
trong tội hành hạ người khác. Do đó, trong một số vụ án khi điều tra, truy tố,
xét xử chỉ dựa vào lời khai của người bị hại kết hợp với bị cáo thành khẩn
khai báo hoặc có các thiết bị ghi âm ghi hình lại hành vi hành hạ thì sẽ dễ
dàng cho cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh hành vi phạm tội. Nhưng đối
với trường hợp bị cáo không thừa nhận thì việc thu thập chứng cứ để chứng
minh có hay không có hành vi hành hạ là rất khó khăn, không hề đơn giản cho
46
cơ quan tiến hành tố tụng, do đó, thực tế sẽ có rất nhiều trường hợp bỏ lọt tội
phạm.
Mặt khác, theo các nhà nghiên cứu, bình luận khoa học thì việc hành hạ
có thời gian dài lăp đi lăp lại mới CTTP. Tuy nhiên, khi đối chiếu với quy
định tại Điều 140 BLHS thì không quy định việc tội phạm thực hiện hành vi
hành hạ một lần hay nhiều lần hay trong khoản thời gian bao lâu.
Do đó, trong thực tiễn để xác định mức độ đối xử tàn ác hoặc làm nhục
người khác được thực hiện trong thời gian bao lâu, với mức độ như thế nào để
được coi là phạm tội thì đều phụ thuộc vào sự đánh giá mang tính chủ quan,
kinh nghiệm, kiến thức của người áp dụng pháp luật, của các cơ quan tiến
hành tố tụng trên cơ sở hậu quả những hành vi tàn ác, hành vi làm nhục của
người phạm tội, vào việc xâm phạm đến tập quán, phong tục và sự lên án của
dư luận thông qua các tổ chức xã hội, của các phương tiện thông tin đại
chúng. Hiện nay việc nhận thức về vấn đề này mỗi nơi một khác, trình độ
chuyên môn của cán bộ điều tra, truy tố, xét xử còn chưa đồng đều nên dẫn
đến việc áp dụng pháp luật còn tuỳ tiện, không thống nhất, có khi nhầm lẫn
giữ ranh giới vi phạm hành chính và tội phạm hoặc định tội danh sai. Có thể
thấy, việc định tội danh sai đồng nghĩa với việc chưa đánh giá đúng tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ hai, các tình tiết định khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp
thực tiễn, chưa có các văn bản hướng dẫn cho phù hợp với những tình tiết
định khung đã được sửa đổi, do đó phần nào gây khó khăn cho cán bộ điều tra
truy tố, xét xử trong việc áp dụng pháp luật.
Thực tiễn các vụ án nêu trên thì vụ án nào người phạm tội hành hạ
người khác cũng đều sử dụng công cụ phương tiện để hành hạ nạn nhân. Tuy
nhiên, các tình tiết định khung tăng nặng được quy định khoản 2 Điều 140
BLHS chủ yếu chỉ tập trung vào người bị hại là các đối tượng đặt biệt và số
47
lượng nạn nhân bị xâm hại chứ chưa chú trọng những tình tiết tăng nặng liên
quan đến việc người phạm tội sử sụng công cụ, phương tiện phạm tội, như vụ
án: bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc “Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày,
Phúc cho cho các bé uống sữa, riêng bá Diễm bị bệnh nên không uống và ói
trên sàn nhà: Phú tức giận liền dùng tay phải lấy chiếc dép nhựa đang mang
dưới chân, đánh liên tiếp nhiều cái vào chân bé Diễm và dùng tay đánh vào
mặt bé Diễm. Thấy bé khóc, Phúc kêu các bé trong lớp lấy cây kéo (dùng để
cắt giấy trang trí lớp học) định hù dọa bé Diễm thì bé Diễm vùng vẫy, Phúc
dùng tay và chân giữa bé Diễm nằm cố định rồi cầm kéo chĩa vào miệng bé
Diễm đe dọa thì bé Diễm nằm im, Phúc bỏ kéo xuống và tiếp tục dùng tay
đánh nhiều cái vào mặt Diễm rồi cho Diễm đi ngủ” [27]; vụ bị cáo Nguyễn
Trung Tiến “Vào ngày 14 và 15/12/2008 bị cáo có dùng tay tát vào má, rồi
bắt cháu Nhi nằm xuống giường , dùng thanh tre đánh vào tay, chân và vào
mộng của cháu Nhi” [26]. Như vậy, rõ ràng một trong những cách mà người
phạm tội hỗ trợ việc thực hiện hành vi hành hạ nạn nhân là sử dụng công cụ,
phương tiện. Tóm lại, việc Điều luật chưa quy định công cụ phương tiện
phạm tội vào tình tiết định khung tăng nặng là chưa phù hợp với thực tế khách
quan.
Mặt khác, Điều 140 BLHS chỉ quy định phạm tội đối với người dưới 16
tuổi. Theo tác giả người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng là người chưa
phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có khả năng nhận thức và
kiểm soát hành vi còn bị hạn chế so với người trên 18 tuổi khi tham gia vào
các quan hệ xã hội, họ dễ bị tác động từ các điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài,
điều này thể hiện qua tình trạng trẻ em bị xâm hại, bạo hành, bóc lột lao động
đang xảy ra thường xuyên và có dấu hiệu gia tăng nhanh chóng. Tại điểm a
khoản 2 Điều 140 BLHS chỉ quy định tình tiết tăng nặng phạm tội với người
dưới 16 tuổi nhưng chưa quy định trường hợp phạm tội đối với người từ đủ
48
16 tuổi đến dưới 18 tuổi là còn thiếu sót nên còn hạn chế trong đấu tranh
phòng chống tội hành hạ người khác cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị tội phạm này xâm hại.
Về tình tiết phạm tội đối với “phụ nữ mà biết có thai, ốm đau, người
khác không có khả năng tự vệ” thì hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn
cụ thể, chẳng hạn, đối với tình tiết “phụ nữ mà biết có thai” thì hiện nay
chúng ta chỉ áp dụng theo tinh thần của Mục 2.3 mục 2 Nghị quyết
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn “Phụ nữ có thai” tương ứng
với quy định tại Điều 110 của BLHS năm 1999, nhưng Điều 140 BLHS năm
2015 quy định “Phụ nữ mà biết có thai”. Như vậy, rõ ràng 2 tình tiết này có
sự khác nhau hoàn toàn về nội dung và ý nghĩa, vì đối với luật cũ thì chỉ cần
nạn nhân là phụ nữ có thai thì người phạm tội sẽ bị áp dụng tình tiết định
khung tăng nặng này bất kể người phạm tội có biết hay không, còn đối với
luật mới khi nào người phạm tội “biết” phụ nữ có thai mà vẫn thực hiện hành
vi hành hạ thì mới áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Do đó, nếu các
cán bộ điều tra, truy tố, xét xử có năng lực trình độ chuyên môn yếu kém thì
dễ nhầm lẫn trong việc áp dụng hay không áp dụng các tình tiết định khung
tăng nặng này để xử lý tội phạm.
Thứ ba, Điều 140 BLHS quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp,
chỉ tương đương với tội phạm ít nghiêm trọng như vậy là chưa tương xứng
với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi hành hạ người khác. Do đó,
chưa thể hiện được tính nghiêm khắc của hình phạt.
Qua thực tiễn công tác xét xử cho thấy đa số người bị hại là trẻ em. Trẻ
em là mầm non, là tương lai của đất nước và là đối tượng được đặc biệt quan
tâm, chăm sóc và giáo dục và bảo vệ của cả xã hội, điều này đã được cụ thể
hóa Luật trẻ em năm 2016 “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được
bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển” [18, Điều 12]. Do đó,
49
hành vi hành hạ đối với trẻ em là không thể chấp nhận vì hành vi hành hạ đó
không chỉ để lại những hậu quả nặng nề về sức khỏe thể chất, mà còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của trẻ kéo theo nhiều hệ lụy tâm
lý. Tất cả những hành động như đánh đập, vùi dập, khủng bố, làm nhục… đều
khiến đứa trẻ thiếu tự tin, rụt rè, luôn trong trạng thái thảng thốt. Khi bị bạo
hành thường xuyên sẽ khiến trẻ có những rối loạn hành vi và ứng xử, như vụ
án của cô giáo Trần Thị Xuân Nữ nhốt trẻ Lê Quang Vinh trong thang máy:
“Cha mẹ của cháu Lê Quang Vinh cho biết sau tai nạn đó cháu rất sợ bóng
tối, sợ hãi khi nghe chữ “cô” và kiên quyết không đi học. Gần cả năm qua
cháu vẫn được chăm sóc tại nhà và có biểu hiện hiếu động, sử dụng bạo lực
khi chơi với trẻ khác” [12].
Đối với người già, người khuyết tật khi trở thành nạn nhân của vụ án bị
hành hạ sẽ mang tâm trạng xấu hổ, mặt cảm với xã hội đến cuối đời. Trong
những năm qua tại TP. HCM mặt dù số lượng xét xử tội hành hạ người khác
có số lượng rất nhỏ với tỷ lệ trung bình 1 năm khoản 0,02% nhưng mỗi khi có
01 vụ hành hạ xảy ra đều có sự quan tâm đông đảo mọi người, mọi tầng lớp
trong xã hội, luôn được báo chí đưa tin, vậy rõ ràng hành vi hành hạ người
khác theo tác giả là nghiêm trọng, nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 140
BLHS 2015 thì mức hình phạt cao nhất cũng chỉ có 3 năm tù tương ứng với
loại tội phạm ít nghiêm trọng. Thực tiễn cho ta thấy, dù Tòa tuyên án với mức
hình phạt cao nhất là từ 3 năm tù thì vẫn còn nhiều luồng ý kiến bất bình, bức
xúc vì nó chưa thật sự tương xứng với mức độ hành vi phạm tội và hậu quả
tâm sinh lý mà người bị hại phải gánh chịu cho hiện tại và tương lai.
2.2.2.2. Nguyên nhân từ các chủ thể áp dụng pháp luật
Thứ nhất, trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ làm công
tác điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém.
Qua nghiên cứu và so sánh tại mục 1.2 Chương 1 thì tội hành hạ người
50
khác có các yếu tố CTTP tương tự một số loại tội phạm khác. Tuy nhiên hiện
nay chưa có nhiều văn bản hướng dẫn phân biệt giữa các loại tội này, trong
khi một số các cán bộ làm công tác chuyên môn chưa thật sự năng nổ, chưa tự
trao dồi kiến thức pháp luật, không tự cập nhật các quy định mới của pháp
luật nên còn tình trạng chưa nắm chắt CTTP, các dấu hiệu định tội đặc trưng
của từng tội phạm, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, các quy
định tố tụng hình sự nên đề ra yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử không đảm bảo
chất lượng; không đúng hướng, toàn diện, triệt để; không sát với các tình tiết
của vụ án hoặc không khả thi, bất hợp lý hoặc định tội danh sai dẫn đến quyết
định hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội.
Điều này ảnh hưởng đến mục đích của hình phạt.
Mặt khác một số các cán bộ làm công tác chuyên môn có ý thức trách
nhiệm đối với công việc chưa cao, chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, chưa nhận thức
đúng đắn về trách nhiệm, quyền hạn của mình và tầm quan trọng của mình
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trên thực tế tội phạm xảy ra
nhiều, công khai trong cuộc sống hằng ngày nhưng việc quản lý của các cơ
quan chức năng còn lõng lẻo, xử lý về mặt hình sự còn hạn chế. Trong đó,
một trong những tệ nạn dư luận quan tâm hiện nay là nạn chăn dắt, hành hạ
trẻ em, người già để đi ăn xin. Nổi cộm là những thành phố lớn trong đó có
TP. HCM. Nhiều người đã chứng kiến cảnh các em bị đánh đập mỗi khi đi
xin ăn hay bán vé số không đủ chi tiêu do chủ lao động đặt ra. Tuy nhiên hành
vi này chỉ bị xử lý hành chính. Vì các cơ quan chức năng, trong đó ý thức của
cán bộ làm công tác chuyên môn còn vô tâm, không có trách nhiệm với công
việc hoặc chưa nhận định đúng tính chất của hành vi phạm tội, nhiều hành vi
phạm tội chưa được xử lý. Từ đó gây mất lòng tin của người dân, làm tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng. Đây cũng chính là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.
51
Do đó, việc nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử có ý nghĩa vô cùng to lớn trong hoạt
động đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác nói riêng và tội phạm nói
chung.
Thứ hai, nguyên nhân từ ý thức chấp hành pháp luật kém của người
dân.
Pháp luật được ban hành nhằm quản lý xã hội và điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội phát triển theo hướng phục vụ đông đảo tầng lớp nhân dân.
Mục đích của pháp luật có đạt được hay không phải thông qua hành vi xử sự
của mỗi người dân, của cơ quan, tổ chức, trong đó ý thức tự giác chấp hành
pháp luật của người dân có ý nghĩa quan trọng nhất để đảm bảo pháp luật phát
huy hiệu lực. Tuy nhiên, việc hiểu biết pháp luật của một số bộ phận dân cư
còn thấp dẫn đến trường hợp người phạm tội thực hiện có hành vi hành hạ
người khác nhưng không hề biết mình đã vi phạm pháp luật, như lời khai của
bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc khai rằng việc thực hiện hành vi hành hạ chỉ để
dọa nhằm mục đích cho các cháu ăn chứ không biết hành vi đó là vi phạm
pháp luật. Cho thấy sự hiểu biết các quy định của pháp luật hình sự về tội
hành hạ người khác của một số bộ phận quần chúng nhân dân còn chưa cao.
Bên cạnh đó, một số người dân hiểu quy định của pháp luật nhưng lại
chưa có ý thức tôn trọng pháp luật, chưa mạnh dạng tố giác tội phạm nên có
nhiều vụ án hành hạ người khác có thời gian kéo dài dã lâu mới bị phát hiện
cũng do người dân có thái độ thờ ơ vì sợ liên lụy, sợ trả thù. Với họ việc thực
thi pháp luật là hoạt động của cơ quan công quyền chứ không phải là của
người dân.
Đối với người bị hại, đại đa số nạn nhân của tội hành hạ người khác là
trẻ em, trẻ em thì chưa nhận thức được tính chất của hành vi hành hạ nên khó
có thể tự tố giác tội phạm, cha mẹ thì chưa thật sự quan tâm con cái, đa số các
52
vụ án trên đều do người ngoài tố cáo. Hoặc nhiều trường hợp lệ thuộc vào
kinh tế giữa chủ với người giúp việc nhà, bị đe dọa… nên không dám tự tố
giác tội phạm để bảo vệ quyền lợi cho mình. Ngoài ra cũng có một số trường
hợp người bị hại không hiểu biết về pháp luật nên không ý thức được mình
đang là nạn nhân của hành vi hành hạ nên không có bất ký sự phản kháng
nào. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tội phạm
hành hạ người khác bị “ẩn” chưa được phát hiện.
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả chỉ ra tình hình của tội phạm
hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM thông qua các số liệu về khởi tố vụ
án của Viện Kiểm sát cũng như số liệu xét xử của Tòa án từ năm từ 2014 đến
2019. Trên cơ sở đó, tác giả kết hợp với các vụ án diễn ra trong thực tiễn, như
vụ án ba bảo mẫu Phạm Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Đào, Phạm Như Huỳnh
hành hạ 24 trẻ em ở cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh, Quận 12 năm 2018;
vụ án bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc hành hạ trẻ Phan Thị Ngọc Diễm ở cơ sở
mầm non Ánh Sao Vàng, huyện Bình Chánh năm 2018; vụ án bé gái 5 tuổi
Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh
đập dã man… để giúp cho người đọc hình dung một cách sinh động nhất
những hạn chế khi áp dụng Điều 140 BLHS trong công tác điều tra, truy tố,
xét xử mà các cán bộ làm công tác chuyên môn hiện nay gặp phải. Qua đó,
tác giả đã liệt kê, phân tích, đánh giá được một số nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế trên như: quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng; các tình tiết
định khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp thực tiễn, chưa có các văn bản
hướng dẫn; quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp; có một số nguyên
nhân từ: trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ làm công tác
điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém; ý thức chấp hành pháp luật kém của
người dân. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học nhằm giúp cho người
53
đọc, các nhà nghiên cứu, các nhà làm luật hiểu rõ hơn nữa những quy định
chưa hoàn chỉnh, những lỗ hỏng của Điều luật. Đồng thời, từ kết quả nghiên
cứu Chương 1 và Chương 2 là cơ sở để tác giả nghiên cứu chuyên sâu chỉ ra
những một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp
luật về tội hành hạ người khác nhằm làm cho Điều luật không chỉ là công cụ
đảm bảo mang tính răng đe phòng ngừa tội phạm mà còn phải đảm bảo tính
54
khả thi trong thực tiễn.
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH HẠ
NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành
hạ người khác
BLHS hiện hành cũng như một số văn bản pháp luật khác của Nhà
nước ta khi ban hành vẫn tồn tại những hạn chế, thiếu sót nhất định mà chỉ
đến khi được đưa vào áp dụng trong thực tiễn thì chúng ta mới có thể nhận
thấy được. Bên cạnh đó khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều
thay đổi theo thời gian thì một số quy định của BLHS cũng không còn phù
hợp nữa dẫn đến tất yếu phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới.
Việc hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác trong BLHS xuất phát từ
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác để phù hợp với chính sách bảo vệ hơn nữa quyền con
người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là trung tâm trong sự
nghiệp phát triển đất nước vì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Đảng và Nhà nước ta bảo đảm các quyền con người trên thực
tế bằng cách xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo
đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người. Điều 38 khoản 2 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của
người khác và cộng đồng”; đối với quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
danh dự, nhân phẩm con người được quy định tại khoản 1 Điều 20 của Hiến
pháp năm 2013 với nội dung: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
55
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Những quy định trên của Hiến pháp chính là kim chỉ nam để hoàn thiện
chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng của Đảng và
Nhà nước. Để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân
phẩm của công dân thì trong BLHS đã dành chương XIV trong Phần Các tội
phạm để quy định 34 tội danh liên quan đến các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong đó có tội hành hạ
người khác. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tội phạm nói chung và tội hành hạ
người khác nói riêng ngày càng có những diễn biến phức tạp, xâm phạm
nghiêm trọng trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của công dân.
Những hậu quả do loại tội phạm này gây ra đã làm giảm sút niềm tin của
người dân đối với các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người trong xã hội, gây trở
ngại cho mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
việc hoàn thiện các quy định của luật hình sự về tội hành hạ người khác chính
là để đáp ứng nhu cầu bảo đảm quyền con người, bảo vệ sức khỏe của công
dân và phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Thứ hai, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác để đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua đã và đang có những
bước phát triển tích cực và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy
nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta
nhiều khó khăn, thử thách cần khắc phục trong nhiều lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong những năm gần đây, tình
hình tội phạm đang có những diễn biến phức tạp trong xã hội, đặc biệt là các
56
tội phạm xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân mà tiêu biểu
là tội hành hạ người khác đang xảy ra thường xuyên và trở thành vấn đề gây
bức xúc cho toàn xã hội. Trong khi đó, quy định của BLHS hiện nay về tội
hành hạ người khác đã bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập, thiếu sót, không phù hợp
với tình hình xã hội; những hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hành hạ người khác. Vì vậy, cần
tiếp tục hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác để góp phần tạo ra một
nền tảng pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ tốt hơn sức khỏe của công dân, góp
phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật
về tội hành hạ người khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
pháp luật thống nhất khi xử lý tội phạm này trong thực tiễn.
Thứ ba, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác để đảm bảo phân biệt giữa tội hành hạ người khác với các
tội phạm khác trong luật hình sự và với hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
Hiện nay việc quy định hành vi hành hạ người khác và đường lối xử lý
đối với hành vi này trong thực tế còn nhiều điểm bất cập khiến cho việc áp
dụng pháp luật không thống nhất trong thực tiễn vì tất cả phụ thuộc vào quan
điểm đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng nên mỗi nơi có cách hiểu
khác nhau và áp dụng pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, các hành vi khách
quan của tội hành hạ người khác như: xâm phạm sức khỏe, thân thể… không
những được quy định trong luật hình sự mà còn được quy định trong pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, do đó việc hoàn thiện các quy định của luật
hình sự về tội hành hạ người khác là rất cần thiết nhằm quy định cụ thể, hoàn
chỉnh về tội danh và hình phạt đối với loại tội phạm này, qua đó nâng cao
hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời
việc hoàn thiện quy định về các dấu hiệu định tội hành hạ người khác sẽ giúp
phân biệt tội hành hạ người khác và các tội có dấu hiệu tương tự, đồng thời
57
phân định rõ ranh giới giữa hành vi vi phạm hành chính và tội phạm hành hạ
người khác trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi có hành vi phạm tội xảy ra.
Thứ tư, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội
hành hạ người khác để phù hợp với ý thức pháp luật của người dân.
Ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân được hình thành dựa trên nhận
thức và trình độ hiểu biết pháp luật của mỗi người dân, vì vậy những quy định
của pháp luật nếu đảm bảo tính hoàn chỉnh, khả thi sẽ dễ đi vào cuộc sống,
được xã hội chấp nhận và sẽ được người dân nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy
nhiên, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của mỗi người dân lại không
giống nhau, vì vậy những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình
sự nói riêng muốn đi vào đời sống xã hội thì phải đảm bảo tính rõ ràng, cụ
thể, dễ hiểu và phù hợp với trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân để
người dân dễ tiếp cận và thực hiện. BLHS được ban hành là để cho mọi tầng
lớp người dân trong xã hội tự tìm hiểu và nâng cao hiểu biết về pháp luật, từ
đó có ý thức phòng chống tội phạm và tránh những hành vi vi phạm pháp
luật, vì vậy việc hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác thì cũng phải
phù hợp ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Do đó, để quy định của BLHS
về tội hành hạ người khác phát huy hiệu quả cao trong thực tiễn xử lý loại tội
phạm này thì phải sửa đổi, hoàn thiện theo hướng rõ ràng, dễ hiểu đồng thời
theo đúng tinh thần cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác
GS. TSKH. Đào Trí Úc từng viết: “Pháp luật dù có hoàn thiện đến
mấy cũng không thể phản ánh và quy định hết tất cả những hoàn cảnh cụ thể
của cuộc sống…” [32, tr. 209]. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện BLHS hiện
hành nói chung, các quy định về tội phạm như dấu hiệu định tội, các tình tiết
định khung tăng nặng, hình phạt và các tình tăng nặng, giàm nhẹ TNHS nói
58
riêng càng có ý nghĩa chính trị - xã hội pháp lý, cũng như ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp bách trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Hiện nay việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự với tội hành
hạ người khác còn gặp nhiều hạn chế và thiếu sót. Hạn chế này bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính và trực tiếp nhất chính là
những hạn chế trong các quy định của BLHS. Ngoài ra còn nhiều nguyên
nhân khác như sự yếu kém của một số cán bộ làm công tác chuyên môn, ý
thức pháp luật của người dân. Do đó, để việc áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự với tội hành hạ người khác được thống nhất và hiệu quả trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này thị cần có những biện pháp
thiết thực. Dựa trên cơ sở lý luận của Chương 1 và thực tiễn áp dụng pháp
luật về tội hành hạ người khác của Chương 2, tác giả đưa ra một số giải pháp
để góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội hành hạ người khác.
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành
hạ người khác
Thứ nhất, hoàn thiện dấu hiệu định tội, cụ thể: quy định rõ ràng hành vi
khách quan của tội hành hạ người khác làm cơ sở cho việc định tội danh
chính xác và xác định trách nhiệm hình sự đúng giúp phân biệt tội hành hạ
người khác với những tội phạm khác có cấu thành tương tự.
Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn thế nào là hành vi đối xử tán
ác hoặc làm nhục người lệ thuộc. Tuy nhiên theo các thuật ngữ pháp lý và
sách pháp lý ta hiểu hành vi đối xử tàn ác như đánh đập, ức hiếp, ngược đãi…
còn hành vi làm nhục là chửi rủa, xỉ nhục nơi công cộng… Các hành vi này
rất đa dạng, tội phạm thì luôn có xu hướng ngày càng tăng, hoạt động có tổ
chức với phương thức, thủ đoạn tinh vi nên không thể liệt kê hết. Mặt khác,
tội bức tử quy định tại Điều 130 BLHS mô tả hành vi khách quan là đối xử
59
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục; tội ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình quy định tại Điều 185 mô tả hành vi khách quan là đối xử tồi tệ hoặc có
hành vi bạo lực xâm phạm thân thể. Các hành vi khách quan này tương đối
giống với hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục trong tội hành hạ người khác.
Do đó, việc không định nghĩa rõ ràng thế nào là hành vi đối xử tàn ác hoặc
làm nhục trong tội hành hạ người khác sẽ gây khó khăn cho cơ quan tiến hành
tố tụng trong khi giải quyết vụ án như định tội danh sai. Ngoài ra, hành vi
hành hạ này xảy ra bao nhiêu lần và trong bao nhiêu lâu thì không thể định
lượng chính xác được, còn nhiều quan điểm giữa những các nhà nghiên cứu
luật với cơ quan áp dụng pháp luật. Do đó, cần thiết phải có văn bản hướng
dẫn định nghĩa rõ thế nào là hành vi hành hạ người khác nhằm tạo thuận lợi
cho cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm một cách dễ dàng, tránh
oan sai.
Về thực tiễn giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có sự chuyển
hóa về tội danh khi xảy ra hậu quả là người bị hành hạ tự sát, do đó hành vi
khách quan của tội bức tử cũng chính là hành vi khách quan của tội hành hạ
người khác. Tuy nhiên, về lý luận, hành vi khách quan của tội bức tử quy định
gồm hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục
người lệ thuộc, còn hành vi khách quan của tội hành hạ người khác chỉ có
hành vi đối xử tàn ác và làm nhục người lệ thuộc. Thiết nghĩ, quy định hành
vi khách quan của tội hành hạ người khác tại Điều 140 BLHS là chưa đầy đủ,
cần thêm hành vi “thường xuyên ức hiếp, ngược đãi người lệ thuộc” để hoàn
thiện vào mặt khách quan của Điều luật nhằm đảm bảo khả năng chứng minh
và xử lý tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, Điều 140 BLHS quy định: “Người nào đối xử tàn ác hoặc làm
nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều
60
185 của Bộ luật này”. Việc liệt kê loại trừ Điều 185 BLHS là không cần thiết.
Chủ thể của tội hành hạ người khác chỉ có thể là người có quan hệ lệ
thuộc với nạn nhân, trong đó nạn nhân là người bị lệ thuộc. Trong thực tế có
nhiều loại quan hệ lệ thuộc, trong đó có những quan hệ lệ thuộc do tính đặc
biệt nên được điều chỉnh bởi những điều luật riêng mà không thuộc phạm vi
điều chỉnh của điều luật này như quan hệ lệ thuộc do quan hệ gia đình (Điều
185 BLHS) hoặc do quan hệ chỉ huy phục tùng trong các lực lượng vũ trang
(Điều 397 BLHS). Theo đó chỉ những quan hệ lệ thuộc chưa được quy định
riêng như vậy mới thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này (Điều 140
BLHS) như quan hệ lệ thuộc phát sinh trong công tác, do quan hệ tín ngưỡng
v.v… Do vậy, việc điều luật quy định loại trừ chỉ có Điều 185 là không cần
thiết nên theo tác giả cần bỏ cụm từ “nếu không thuộc các trường hợp quy
định tại Điều 185 của Bộ luật này”.
Thứ ba, hoàn thiện dấu hiệu định khung hình phạt về tội hành hạ người
khác.
- Bổ sung thêm các tình tiết định khung tăng nặng.
Thực tiễn xét xử cho ta thấy đa số các vụ án hành hạ người khác đều sử
dụng một số loại công cụ, phương tiện hỗ trợ hành vi hành hạ, như: gậy, dép,
kéo… như các vụ án được trích lược tóm tắt tại Chương 2. Trong đó, có
những công cụ phương tiện phạm tội chưa được xem là hung khí nguy hiểm
nhưng cũng có những công cụ phương tiện được liệt vào danh sách hung khí
nguy hiểm. Mặt dù khi thực hiện hành vi hành hạ thì người phạm tội sử dụng
những công cụ này chỉ để dọa hoặc chỉ gây một số thương tích cho nạn nhân
nhưng chưa đến mức nghiêm trọng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công bằng,
tính răng đe và phòng ngừa tội phạm, theo tác giả cũng cần quy định thêm
tình tiết định khung tăng nặng là “Sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ hành
vi hành hạ” thì mới phù hợp với thực tiễn khách quan.
61
- Sửa đổi quy định về tình tiết phạm tội đối với người dưới 16 tuổi quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS.
Điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS chỉ quy định tình tiết tăng nặng phạm
tội với trẻ em nhưng chưa quy định trường hợp phạm tội đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi là còn thiếu sót, chưa thể hiện được chính sách bảo
vệ người bị hại là người chưa thành niên, vì vậy còn hạn chế trong phòng
ngừa tội phạm cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi.
Từ những hạn chế nêu trên, chúng tôi nhận thấy trong thực tiễn thì
hành vi hành hạ không chỉ xảy ra đối với trẻ em mà còn xảy ra đối với từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi, vì vậy việc quy định thêm đối tượng người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi vào điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS là dựa trên thực
tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi hành hạ người khác. Việc quy
định thêm trường hợp người bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là
hoàn toàn phù hợp với chính sách bảo vệ người chưa thành niên và bảo vệ
hơn nữa quyền con người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển
mới của đất nước; đồng thời góp phần thể chế hóa chính sách của Đảng và
Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội phạm này. Do đó, đó tại
điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS chúng tôi kiến nghị thay cụm từ “Đối với
người dưới 16 tuổi” bằng cụm từ “Đối với người dưới 18 tuổi”.
- Hướng dẫn cụ thể, rõ ràng các tình tiết định khung tăng nặng ở khoản
2 Điều 140 BLHS như: phụ nữ mà biết có thai, ốm đau, người khác không có
khả năng tự vệ nhằm giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật
một cách chính xác.
Tóm lại, Bộ Luật hình sự quy định càng cụ thể, chi tiết càng tạo thuận
lợi cho quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó
việc sửa đổi quy định của BLHS và ban hành văn bản hướng dẫn là biện pháp
62
có ý nghĩa thiết thực hàng đầu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội hành
hạ người khác hiện nay.
Thứ tư, tăng mức hình phạt chính và thêm hình phạt bổ sung.
Việc đề cao quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 và đề cao tinh
thần nhân đạo nên Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi theo hướng không làm
tăng nặng thêm trách nhiệm của người phạm tội, trong đó, tội hành hạ người
khác vẫn được giữ nguyên mức hình phạt cao nhất là 03 năm tù giam. Tuy
nhiên, trên thực tế mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo còn gây bức xúc
trong dư luận và nhiều ý kiến cho rằng nó chưa tương xứng với hành vi phạm
tội. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hành hạ người khác thì hậu quả mà hành vi
hành hạ để lại cho nạn nhân chủ yếu là những tổn thất về tinh thần rất lớn,
nhất là nạn nhân là các trẻ em. Khi hành vi hành hạ kéo dài các em thường có
biểu hiện rối loạn tâm thần, ảnh hưởng của rối loại này kéo theo nhiều biến
chứng về thần kinh, mắc một số bệnh như tự kỉ, sợ tiếp túc với người ngoài,
rồi các em sẽ có cái nhìn lệch lạc về xã hội… Như trường hợp các trẻ bị hành
hạ tại cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh ngoài những thương tích phần mền
thì nhiều trẻ còn bị chậm phát triển tâm thần vận động. Hay vụ án cháu
Nguyễn Thị Yến Nhi bị cha dượng Nguyễn Trung Tiến hành hạ: “Phần bộ
phận sinh dục của cháu N. bị bầm tím, sưng to suốt một ngày một đêm khiến
bé không thể đi tiểu được. Thấy con nhỏ ngồi khóc vì đau đớn mà tôi không
biết làm sao, phải đưa cháu đến gặp bác sĩ. Bé phải uống thuốc giảm đau.
Khi công an, bác sĩ hỏi, bé đều khẳng định bị Tiến dùng roi đánh vào bộ phận
sinh dục” - chị Hồng vừa khóc vừa kể lại [8], tuy tỷ lệ chấn thương phần mền
hiện còn khoảng 11% nhưng cháu phải gánh chịu những tổn thương về tinh
thần là thường xuyên hoãng loạn quấy khóc. Những thiệt hại về sức khỏe có
thể xác định được nhưng những hệ lụy mà thiệt hại về tinh thần kéo theo sau
đó thì không ai có thể lường trước được. Những thiệt hại về tinh thần này hết
63
sức nghiêm trọng vì nó ảnh hưởng đế sự phát triển bình thường của con
người. Theo tác giả, cần thiết tăng mức hình phạt cao nhất là 5 năm tù (tội
phạm nghiêm trọng).
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, ngày càng nhiều hành vi hành hạ diễn ra
trong môi trường giáo dục, trong nôm, nuôi giữ trẻ. Do đó, để đảm bảo mầm
non xanh của đất nước được phát triển toàn diện thì theo tác giả bên cạnh việc
tăng mức hình phạt chính thì cần quy định hình phạt bổ sung cho tội phạm
này làm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định, như: các bảo mẫu bị cấm hành nghề nuôi dạy trẻ sau khi chấp hành
xong hình phạt chính.
Như vậy, Tội hành hạ người khác nên được sửa đổi như sau:
Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 140. Tội hành hạ người khác Điều 140. Tội hành hạ người khác
1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm 1. Người nào có một trang các hành
nhục người lệ thuộc mình nếu không vi sau đây nhằm hành hạ người lệ
thuộc các trường hợp quy định tại thuộc mình thì bị phạt cải tạo không
Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
cải tạo không giam giữ đến 03 năm 03 tháng đến 02 năm:
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. a) Đối xử tán ác;
b) Thường xuyên ức hiếp;
c) Ngược đãi;
d) Làm nhục.
2. Phạm tội thuộc một trong các 2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
01 năm đến 03 năm: 01 năm đến 05 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ a) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ
mà biết là có thai, người già yếu, ốm mà biết là có thai, người già yếu, ốm
64
đau hoặc người khác không có khả đau hoặc người khác không có khả
năng tự vệ; năng tự vệ;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi
của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể 31% trở lên; thể 31% trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên. c) Đối với 02 người trở lên.
d) Sử dụng công cụ, phương tiện hỗ
trợ hành vi hành hạ.
3. Người phạm tội có thể bị cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 5 năm.
3.2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự
về tội hành hạ người khác
Thứ nhất, nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm của cán bộ làm
công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Trong những năm qua đội ngũ cán bộ điều tra, truy tố, xét xử đã được
đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp. Đa số cán
bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên,
vẫn tồn tại một lượng lớn độ ngũ cán bộ còn yếu về trình độ và thiếu về tinh
thần trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án nên ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trước tình hình trên, việc xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất đạo đức
tốt và có tinh trần trách nhiệm vừa là yêu cầu vừa là giải pháp quan trọng
trong việc giải quyết và đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác.
Đối với cơ quan điều tra, công tác điều tra các vụ án hành hạ người
khác có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là giai đoạn đầu của hoạt động tố tụng, để
xác định hành vi tội phạm có xảy ra hay không, tính chất, mức độ của hành vi
65
phạm tội , các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS nếu có.... làm cơ sở cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, cần nâng cao trình độ, cũng
như trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra. Cần lập các đội
điều tra chuyên trách loại án này. Trong quá trình điều tra, cần tiến hành chặt
chẽ, đúng quy trình để đảm báo các vụ án hành hạ người khác đều được truy
tố trước pháp luật, không có vụ án nào bị trả lại hồ sơ để điều tra lại hoặc điều
tra bổ sung. CQĐT cần tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm công tác điều tra, xét
xử các tội xâm phạm sức khỏe nói chung, và tội hành hạ người khác nói riêng.
Để chính cán bộ điều tra thấy được trách nhiệm của mình khi tiếp nhận và
điều tra vụ án. Mặt khác, lực lượng cán bộ điều tra cần có sự phối hợp chặt
chẽ với Công an phường, xã là lực lượng thường xuyên có mặt tại địa bàn dân
cư, để phát hiện sớm những hành vi hành hạ tại địa phương, tạo điều kiện cho
phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi này, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm
và tránh oan sai. Cần xây dựng tối cơ chế trao đổi thông tin về kết quả điều
tra, xử lý tội phạm hành hạ người khác giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án các cấp. Cần phối hợp liên ngành với các ngành có liên quan trong
việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền con người; nâng cao
ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật đối với tội hành hạ người khác trong
các tầng lớp nhân dân.
Đối với cán bộ làm công tác kiểm sát, với chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp, thực hành quyền công tố trong đấu tranh phòng chống tội
phạm, VKSND có vai trò quan trọng trong nâng cao hiệu quả phòng ngừa và
đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác. Để phát huy vai trò này, cán
bộ viện kiểm sát cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình qua một số công
việc như công tác quản lý, xử lý thông tin về các tội xâm phạm sức khỏe nói
chung, tội hành hạ người khác nói riêng, đưa công tác này vào kế hoạch phối
hợp liên ngành giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Các cơ quan
66
này cần thông tin kịp thời về các hành vi hành hạ người khác cho Viện kiểm
sát. Viện kiểm sát cần chú trọng công tác kiểm sát hoạt động điều tra, ngay từ
thời điểm bắt đầu vụ án, nhất là những vụ án gây dư luận xã hội lớn. Cùng với
việc đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án nhất là các vụ án trọng điểm để răn đe
những người đã, đang có có ý định thực hiện hành vi hành hạ người khác.
Chú trọng công tác kiểm sát việc xét xử vụ án tội hành hạ người khác. Bố trí
những cán bộ có năng lực, kiến thức về chuyên môn, kiến thức về quyền con
người, có uy tín để trực tiếp tham gia các vụ án hành hạ người khác. Mỗi cán
bộ làm công tác này phải nhận thức sâu sắc và thực hiện đúng, đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ của mình trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hành hạ
người khác. Nếu không nhận thức đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thì sẽ không làm hết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, dẫn đến
làm sai luật, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Thường xuyên tổ chức các
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm trong việc giải quyết án xâm
phạm sức khỏe giữa Viện kiểm sát; tổ chức nghiên cứu khoa học, hội thảo,
đào tạo ngoại ngữ, tin học, để các Kiểm sát viên nắm bắt thêm những kinh
nghiệm trong việc giải quyết án hành hạ nhằm vận dụng linh hoạt trong việc
xử lý, phát huy được tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ do pháp luật quy định bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Đối với cán bộ ngành Tòa án: Việc áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự
trong công tác xét xử các vụ án phạm tội hành hạ người khác có ý nghĩa rất
quan trọng. Có xét xử đúng mới phát huy được tính giáo dục, phòng ngừa
được tội phạm, đưa ra được nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có kiến
nghị đúng. Do đó, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ Tòa án
có ý nghĩa quyết định trong việc giải quyết vụ án hành hạ người khác. Cán bộ
Tòa án phải nắm vững đường lối, chủ trương của nhà nước trong việc xử lý
67
tội phạm. Nắm vững thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác
xét xử nhất là việc định tội danh và những căn cứ cụ thể để quyết định hình
phạt, các nguyên tắc vận dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhé. TNHS... Đây là
những vấn đề cơ bản vần quán triệt sâu sắc cho việc xét xử các vụ án tội hành
hạ người khác được chính xác và đúng pháp luật. Cán bộ tòa án cần nắm rõ
quy định của CTTP hành hạ người khác, cần phân biệt được CTTP của tội
này với các tội có cấu thành tương tự. Để khi xét xử định tội danh và quyết
định hình phạt cho chính xác. Đồng thời tránh được tình trạng áp dụng quy
định BLHS với tội phạm không thống nhất giữa các địa phương hiện nay.
Một trong những việc làm cần chú trọng để nâng cao hiệu quả xét xử của tội
hành hạ người khác là cần nâng cao kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ Tòa
thông qua việc tổ chức các buổi rút kinh nghiệm giữa các cơ quan tại địa
phương có vướng mắc rút kinh nghiệm về công tác xét xử, trao đổi nghiệp vụ
với các Tòa án địa phương trong giải quyết các vụ án có vướng mắc về áp
dụng pháp luật, vừa nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng và thống nhất pháp
luật. Thông qua qua trao đổi nghiệp vụ sẽ giúp cho Thẩm phán nâng cao trình
độ năng lực chuyên môn mà còn tích lũy kinh nghiệm về công tác xét xử. Mặt
khác, cần tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngành tòa
án trong sạch, vững mạnh, có ý thức kỷ luật, có phẩm chất bản lĩnh chính trị,
bản lĩnh nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xét xử các vụ án nói
chung, vụ án hành hạ người khác nói riêng, kịp thời phát hiện những sai sót
của Tòa án cấp dưới, qua đó khắc phục ngay những sai sót nói trên. Đồng thời
tăng cường kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ nhất là các Thẩm phán.
Thường xuyên tiến hành việc kiểm điểm, khiển trách nhiệm đối với Thẩm
phán về các sai sót trong hoạt động xét xử, góp phần chống quan liêu, tham
68
những trong cơ quan nhà nước. Thực hiện việc đổi mới thủ tục hành chính tư
pháp tại Tòa án theo hướng công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, một mặt
nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có công việc cần giải
quyết tại Tòa án, nhưng cũng đồng thời nhằm công khai hóa hoạt động của
Tòa án. Quan trọng hơn giữa các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan
điều tra cần xây dựng được cơ chế phối hợp để đảm bảo phối hợp chặt chẽ và
thường xuyên với nhau. Phải có sự nhất quán về quan điểm xử lý, bảo đảm
nghiêm minh pháp luật và công bằng xã hội. Phải thường xuyên tổng kết, đúc
kết kinh nghiệm và dự báo tình hình tội hành hạ người khác trong thời gian
tới. Có như vậy, việc giải quyết án hành hạ mới đạt được hiệu quả cao.
Thứ hai, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân để
đấu tranh đối với tội hành hạ người khác.
Một trong những nguyên nhân của nạn hành hạ người khác hiện nay là
người dân có nhận thức kém về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật còn
thấp. Do đó tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân để nâng
cao trình độ văn hoá, nhận thức trong người dân và ý thức pháp luật là biện
pháp có ý nghĩa quan trọng và thiết thực nhằm làm hạn chế và giảm bớt hành
vi phạm tội. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con
người và tội hành hạ người khác phải tập trung và đi sâu đi sát vào mỗi người
dân. Các cơ quan hữu quan đã có một số cuộc tuyên truyền nhưng còn nghèo
nàn, chưa cụ thể, chưa phản ánh đầy đủ quy định pháp luật về tội hành hạ
người khác, các quyền con người theo quy định công ước quốc tế và pháp luật
Việt Nam. Đặc biệt các thông tin về tình hình tội hành hạ người khác, hậu quả
và chế tài xử lý còn chưa được phổ biến đầy đủ. Để đạt được hiệu quả của
tuyên truyền cần phải phân loại được đối tượng tuyên truyền và nhắm trúng
đối tượng. Với mỗi loại đối tượng cần có cách thức tuyên truyền cho phù hợp,
không cào bằng, tuyên truyền chung chung, cho có. Chủ trương tuyên truyền,
69
phổ biến giáo dục pháp luật về tội hành hạ người khác phải xuất phát từ tình
hình tội phạm và đặc điểm riêng của tội hành hạ người khác để xác định được
đối tượng nào cần tuyên truyền sâu vào nội dung nào cho phù hợp. Mặt khác,
vai trò của phương tiện thông tin đại chúng cũng góp phần quan trọng trong
công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật. Tuy nhiên, việc sử dụng
phương tiện thông tin đại chúng để tuyền truyền chưa cao, chưa bám sát tình
hình đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác, các chuyên đề riêng biệt
về tội phạm này còn chưa có. Do đó, với sự phát triển và bùng bổ của phương
tiện thông tin đại chúng như hiện nay, cần tận dụng triệt để các phương tiện
này để tuyên truyền tới người dân chính sách pháp luật của nhà nước. Cần có
những chương trình thời sự chuyên biệt về tội phạm nói chung trong đó có
cần chia ra tội phạm theo chuyên đề. Để qua đó người dân nắm được tình
hình tội phạm diễn ra hằng ngày. Nắm được quy định của pháp luật đối với
tội hành hạ người khác. Qua đó góp phần giáo dục, ngăn ngừa hành vi phạm
tội ngay trong chính người dân.
Trách nhiệm từ mỗi gia đình: để nạn hành hạ người khác không còn tồn
tại phổ biến trong xã hội, ngay từ mỗi gia đình mỗi bậc cha mẹ cần hiểu biết
quy định pháp luật về bảo đảm quyền còn người và điều chỉnh nhận thức của
chính bản thân mình. Vì hiện nay, các vụ án hành hạ trong gia đình tương đối
lớn. Ý thức và điều chỉnh hành vi ngay trong mỗi gia đình cũng góp phần
quan trọng trong điều chỉnh hành vi của cộng đồng, và toàn xã hội. Do đó
việc tuyên truyền phải từ bắt đầu từ chính mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Bên cạnh đó, cũng cần vận động người dân tự tố giác tội phạm. Chính
quyền các cấp nhất là chính quyền quản lý ở địa phương phải tuyên truyền,
vận động để người dân hiểu và thấy được trách nhiệm của mình trong công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi dân là người tiếp xúc và trực tiếp
bắt gặp hành vi phạm tội nhiều nhất, tuy nhiên nhiều trường hợp vì sợ phiền
70
đến mình, tâm lý ngại tiếp xúc với cơ quan nhà nước mà người dân thường
thờ ơ, không tố giác hành vi tội phạm mà mình gặp phải. Đưa người dân trở
thành mắt xích quan trọng trong công cuộc đấu tranh, và thấy đó là nhiệm vụ
của chính bản thân mình. Có như vậy, việc phát hiện và xử lý hành vi phạm
tội mới nhanh chóng và đầy đủ.
Bên cạnh những biện pháp tuyên truyền như trên, để công cuộc đấu
tranh và xử lý tội hành hạ người khác một trong những giải pháp quan trọng
đó là cần nâng cao công tác quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước ở địa
phương. Theo đó cán bộ cần gần dân và quan tâm đến đời sống kinh tế, xã hội
ở địa phương hơn. Tránh tình trạng, hành vi hành hạ xảy ra mà các cơ quan ở
địa phương không biết, đổ lỗi cho nhau. Tăng cường kiểm tra, giám sát với
các cơ sở kinh doanh, nhất là các cơ sở có sử dụng lao động, các cơ sở nuôi
dạy trẻ, không để tình trạng tồn tại các cơ sở sử dụng lao động trẻ em không
đúng quy định, các cơ sở trông nom trẻ tự phát không có giấy phép hoạt động
tràn lan như hiện nay. Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các cơ quan ban hành, và của mỗi
người dân. Do đó, mỗi chúng ta cần tham gia tích cực vào hoạt động tuyên
truyền phổ biến pháp luật của các cấp các ngành, để hoạt động này thực sự có
hiệu quả. Tuyên truyền có hiệu quả, ý thức pháp luật của người dân có nâng
cao mới đẩy lùi được tội phạm nói chung và vấn nạn hành hạ người khác hiện
nay. Từ đó góp phần hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội
hành hạ người khác hiện nay.
Tiểu kết Chương 3
Pháp luật hình sự là công cụ sắc bén và lâu đời nhất trong lịch sử nước
ta, góp phần rất lớn trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Bộ luật
hình sự 1985 ra đời, kế tiếp là BLHS 1999 và nay là BLHS 2015 đã dần dần
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay áp dụng quy
71
định của Bộ luật vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được một cách triệt để
trong quá trình giải quyết các vụ án. Những hạn chế này về cơ bản bắt nguồn
từ hai nguyên nhân chính là từ quy định của pháp luật chưa rõ ràng, đầy đủ và
từ người áp dụng pháp luật. Trên cơ sở phân tích đánh giá những hạn chế và
nguyên nhân của hạn chế tại Chương 2, trong Chương 3 này tác giải nêu ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp luật
về tội hành hạ người khác, như: hoàn thiện các dấu hiệu định tội; bỏ liệt kê
loại trừ Điều 185 BLHS; hoàn thiện dấu hiệu định khung hình phạt; tăng mức
hình phạt chính và thêm hình phạt bổ sung; nâng cao trình độ, năng lực và
trách nhiệm của cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao ý thức
tự giác chấp hành pháp luật của người dân. Kết quả nghiên cứu này có ý
nghĩa khoa học, góp phần hoàn thiện quy định của BLHS về tội hành hạ
người khác đồng thời đảm bảo tội hành hạ người khác được thực thi một cách
có hiệu quả, chính xác và toàn diện, giúp nâng cao hơn nữa hiệu quả đấu
72
tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015.
Sư ra đời của Điều 140 này là có sự kế thừa từ những quy định củ trong
BLHS 1985 và BLHS 1999, tuy Điều 140 đã có những sửa đổi cho phù hợp
với tình hình tội phạm mới hiện nay nhưng qua thực tiễn xét xử loại tội phạm
này vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, bất cập, điều này dẫn đến hiệu quả
áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác trong thực
tiễn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong đấu tranh phòng, chống loại
tội phạm này.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã chỉ ra được các dấu hiệu pháp
lý của tội hành hạ người khác, làm rõ lược sử hình thành quy định về tội hành
hạ người khác trong BLHS, so sánh những điểm khác biệt giữa tội hành hạ
người khác với một số tội có dấu hiệu tương tự trong chương các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; chương các
tội xâm phạm chê độ hôn nhân và gia đình. Với những dẫn chứng từ các bản
án thực tế, Luận văn đã chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác. Những khó khăn, vướng
mắc này chủ yếu do quy định BLHS về tội hành hạ người khác chưa đầy đủ,
chặt chẽ như: quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng; các tình tiết định
khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp thực tiễn, chưa có các văn bản
hướng dẫn; quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp. Ngoài ra còn có một
số nguyên nhân khác như: trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán
bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém; ý thức chấp hành pháp
luật kém của người dân. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp luật về tội hành hạ người khác
để nâng cao hiệu quả giải quyết tội phạm này trong thực tế.
73
Kết quả nhiên cứu của Luận văn có những điểm mới như: kiến nghị
hoàn thiện dấu hiệu định tội là mô tả thêm hành vi hành hạ gồm: thường
xuyên ức hiếp, ngược đãi; bỏ liệt kê loại trừ Điều 185 BLHS; hoàn thiện dấu
hiệu định khung hình phạt theo hướng: bổ sung thêm các tình tiết định khung
tăng nặng như “sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ hành vi hành hạ”, thay
cụm từ “đối với người dưới 16 tuổi” bằng cụm từ “đối với người dưới 18
tuổi”; tăng mức hình phạt chính cao nhất là 5 năm tù và thêm hình phạt bổ
sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định. Tác giả mong rằng những kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp
một phần vào hệ thống tri thức của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hành hạ
người khác.
Trong phạm vi Luận văn, tác giả không thể đề cập và giải quyết hết
mọi vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến tội hành hạ người khác vì
đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Do kinh nghiệm nghiên cứu của tác giả
còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất
mong nhận được sự quan tâm và những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo,
các nhà chuyên môn và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này để Luận văn
74
được hoàn thiện hơn./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/06/2005, Hà Nội.
2. Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (2019), Thông tư số 22/2019/TT-BYT quy định tỷ lệ phần trăm tổn
thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần, ban hành ngày 28/08/2019, Hà Nội.
4. Lê Đăng Doanh (2000), “Một số điểm mới trong chương các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ
luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 4.
5. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình
sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 - Phần các tội phạm -
Quyển 1, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
6. Đặng Thị Huệ (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết
06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều
141,142,143,144,145, 146, 147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án
xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 01/10/2019, Hà Nội.
8. Cù Hiền (2019), “Xót lòng bé gái năm tuổi bị dượng hờ hành hạ”, Pháp
luật Thành phố Hồ Chí Minh, nam-tuoi-bi-duong-ho-hanh-ha-860761.html>, (28/09/2019). 9. Trần Văn Hùng (2018), “Pháp luật xử lý hành vi bạo hành trẻ em”, Tạp
chí Tòa án nhân dân, 10. Trần Văn Luyện (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999 - Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 11. Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần Các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Chi Mai (2011), “Cô giáo nhốt trẻ trong thang máy lãnh 4 năm tù”, Tuổi trẻ, 446728.htm>, (15/07/2011). 13. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 phần chung, Nxb TP.HCM, TP.HCM. 14. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm- Quyển 1, Nxb TP.HCM, TP.HCM. 15. Quốc hội (2013), Hiến pháp, ngày ban hành 28/11/2013, Hà Nội. 16. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự số 17-LCT/HĐNN7, ban hành ngày 27/06/1985, Hà Nội. 17. Quốc hội (1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 18. Quốc hội (2004), Luật trẻ em số 102/2016/QH13, ban hành ngày 05/04/2016, Hà Nội. 19. Võ Hồng Toàn (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP. HCM. 20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 21. Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM. 22. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 29/11/1986, Hà Nội. 23. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 12/05/2006, Hà Nội. 24. Tòa án nhân dân Quận 12 (2018), Bản án số 107/2018/HSST, ban hành ngày 25/07/2018, TP. HCM. 25. Tòa án nhân dân quận Tân Bình (2005), Bản án số 132/2005/HSST, ban hành ngày 26/08/2005, TP. HCM. 26. Tòa án nhân dân Quận 12, Bản án số 148/2019/HSST, ban hành ngày 28/08/2019, TP. HCM. 27. Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Bản án số 142/2018/HSST, ban hành ngày 15/11/2018, TP. HCM. 28. Đặng Trinh (2017) “Vụ bạo hành trẻ ở Lớp Mẫu giáo Mầm Xanh: Do "đối phó tinh vi" nên không biết?”, Người lao động, doc/vu-bao-hanh-tre-o-lop-mau-giao-mam-xanh-do-doi-pho-tinh-vi-nen- khong-biet-20171129213534188.htm>, (30/11/2017) 29. Quang Thắng (2019), “Điểm mới Điều 140 BLHS năm 2015 “Tội hành hạ người khác” so với BLHS năm 1999”, Công thông tin điện tử Công an tỉnh Quãng Bình, blhs-nam-2015-toi-hanh-ha-nguoi-khac-so-voi-blhs-nam-1999/>, 13/07/2019) 30. Từ điển mở Wiktionary, “nhân phẩm” “danh dự”, 31. Trần Công Ly Tao (2011), “Bào chữa cho bị cáo Trần Thị Xuân Nữ can tội “Cố ý gây thương tích” trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú”, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (15/07/2011). 32. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 33. Văn phòng Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự số 01/VBHN-VPQH, ban hành ngày 10/07/2017, Hà Nội. 34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp - Bộ lao động - Thương binh và xã hội (2018), Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 21/12/2018, Hà Nội. 35. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Nguyễn Như Ý (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.