VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, NĂM 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY

HÀ NỘI, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi

với sự hướng dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các kết quả trình bày trong

Luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công

trình khoa học nào trước đây.

Tôi cũng xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được

nêu rõ nguồn gốc.

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Vân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC ................................................. 8

1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác .................. 8

1.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với một số tội khác ......................... 22

1.3. Sơ lược lịch sử quy định về tội hành hạ người khác trong pháp luật

hình sự Việt Nam ........................................................................................ 29

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 36 14

2.1. Tổng quan tình hình khởi tố và xét xử về tội hành hạ người khác trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................ 36

2.2. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội

hành hạ người khác và nguyên nhân ........................................................... 38

Chương 3. YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM ÁP

DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH

HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 55

3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ

người khác ................................................................................................... 55

3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật

hình sự về tội hành hạ người khác .............................................................. 58

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Bộ luật hình sự BLHS

2. Hội đồng xét xử HĐXX

3. Tòa án nhân dân TAND

4. Viện kiểm sát nhân dân VKSND

5. Cơ quan điều tra CQĐT

6. Trách nhiệm hình sự TNHS

7. Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM

DANH SÁCH BẢNG BIỂU

Bảng 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội hành hạ người khác

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................. 37

Bảng 2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự về tội hành hạ người khác trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................... 37

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, đã được thay

đổi với “quyền con người” trở thành tiêu đề của tên Chương, thay vì chỉ gọi là

“quyền và nghĩa vụ của công dân” như tất cả các bản Hiến pháp trước đây,

các quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã được ghi nhận và đảm bảo

nhiều hơn từ Điều 14 đến Điều 43. Tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định: “Mọi người có

quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,

danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất

kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh

dự, nhân phẩm”. Như vậy, có thể thấy, bảo đảm quyền con người trước hết là

bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ,

vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây có rất nhiều vụ án xâm phạm đến

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác với tính chất ngày càng phức

tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt, hành vi mang tính chất tập thể,

nhất là phạm tội hành hạ đối với trẻ em ngày càng có xu hướng gia tăng dẫn

đến xã hội bức xúc, phụ huynh thì phẫn nộ vì đã “đặt niềm tin nhằm chỗ”.

Chẳng hạn, ngày 26/11/2017, báo Tuổi Trẻ đăng tải video: “Kinh hoàng bảo

mẫu đày đọa trẻ mầm non tại trường tư thục”, phản ánh tình trạng các bảo

mẫu tại cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh trên đường HT 05, phường Hiệp

Thành, Quận 12, TP. HCM, hành hạ nhiều trẻ nhỏ thì ngay sau đó vụ việc

phạm tội hình sự của các bảo mẫu này mới bị phát hiện, cơ quan chức năng

vào cuộc điều tra và truy cứu trách nhiệm hình sự. Và gần đây nhất là vụ án

bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến

1

hành hạ đánh đập dã man, cụ thể, tại cơ quan công an, Tiến khai nhận “trong

hai ngày 14 và 15/12/2018 đã dùng tay tát, dùng thanh tre đánh vào khắp cơ

thể bé Nhi”.

Từ các vụ án trên, có thể thấy đối với một số trường công lập hoặc các

cở sở giữ trẻ tự phát hiện nay chưa được trang bị camera hoặc từ phía người

bị hại bị lệ thuộc không dám tố giác tội phạm… là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tội phạm hành hạ người khác chưa được phát hiện và xử lý kịp

thời và còn đâu đó rất nhiều những nạn nhân bị hành hạ chưa được pháp luật

bảo vệ, đến khi phát hiện hành vi phạm tội thì đã qua một thời gian dài gây

ảnh hưởng đến sức khỏe, ảnh hưởng sự phát triển tâm sinh lý của người bị

hành hạ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tội hành hạ người khác chưa được

phát hiện và xử lý là từ những hạn chế của quy định pháp luật hoặc từ phía

các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật hình sự để xử lý

người phạm tội.

Tuy hiện nay Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

quy định “Tội hành hạ người khác” có những ưu điểm hơn so với Bộ luật hình

sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nhưng vẫn còn tồn tại một số

vướng mắc từ lý luận đến thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Đó là

lý do tác giả chọn đề tài “Tội hành hạ người khác từ thực tiễn Thành phố Hồ

Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thực tiễn cho thấy, tình hình tội phạm hành hạ người khác ngày càng

diễn ra phổ biến, bị hại đa số là trẻ em nhưng việc xây dựng và áp dụng pháp

luật hình sự còn nhiều bất cập, vướng mắc. Vì vậy tội phạm này thu hút sự

quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu thể hiện qua các

công trình mà tác giả đã tiếp cận được bao gồm:

- Về giáo trình:

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

- Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật

TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm,

Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; Võ Khánh Vinh (Chủ

biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

Những giáo trình nêu trên chủ yếu phân tích về mặt lý luận của tội hành

hạ người khác và nêu rõ dấu hiệu pháp lý của tội phạm trong BLHS nói chung

và tội hành hạ người khác nói riêng. Tuy nhiên, nội dung các giáo trình này

chưa làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật

hình sự về tội hành hạ người khác và không đề cập đến thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự về tội phạm này, vì vậy chưa nêu ra được hạn chế, bất cập

trong quy định và thực trạng áp dụng tội hành hạ người khác và phương

hướng hoàn thiện.

- Về sách chuyên khảo:

Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm -

Quyển 1, Nxb TP.HCM, TP.HCM; Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2013), Bình

luận khoa học BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần Các tội phạm,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình

luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 –

Phần các tội phạm – Quyển 1, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

Trong những sách bình luận này các tác giả chủ yếu phân tích các dấu

hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác chứ không đi sâu vào phân tích lịch

sử hình thành tội hành hạ người khác, không đề cập đến những vướng mắc

trong thực tiễn áp dụng pháp luật hay phương hướng hoàn thiện quy định về

tội phạm này.

- Về luận văn thạc sĩ luật học:

3

Đặng Thị Huệ (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Hồng Toàn (2015) Tội

hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học

Luật TP. HCM.

Trong luận văn thạc sĩ luật học này các tác giải phân tích được một số

vấn đề về mặt lý luận của tội hành hạ người khác, thực tiễn áp dụng pháp luật

và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật. Tuy nhiên, luận văn này chỉ tiếp

cận trên cơ sở luật củ là BLHS 1999.

- Về các bài viết khoa học:

Quang Thắng (2019), Điểm mới Điều 140 BLHS năm 2015 “Tội hành

hạ người khác” so với BLHS năm 1999, Cổng thông tin điện tử Công an tỉnh

Quãng Bình; Trần Văn Hùng (2018), Pháp luật xử lý hành vi bạo hành trẻ em,

Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân.

Các bài viết trên làm rõ một số quy định mới của Tội hành hạ người

khác trong BLHS 2015, tuy nhiên chưa chỉ ra một số khó khăn trong quá trỉnh

áp dụng pháp luật cũng như những giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo áp

dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những

vấn đề lý luận cũng như các quy định về tội hành hạ người khác trong pháp

luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) được ban hành thì chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về

tội hành hạ người khác từ thực tiễn TP. HCM. Vì vậy, thông qua quá trình

nghiên cứu Luận văn này, ngoài việc kế thừa một số nội dung đã được tiếp

cận từ các công trình nghiên cứu trước đây thì tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn

diện về tội hành hạ người khác được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích đánh giá những vấn đề lý luận, quy định của pháp

luật và thực tiễn áp dụng pháp luật đối về tội hành hạ người khác trên địa bàn

TP. HCM, tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng

đúng quy định pháp luật để góp phần nâng cao hiệu quả trong đấu tranh

phòng chống tội phạm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ

thể sau:

- Phân tích, khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về tội hành hạ người

khác;

- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự về tội hành

hạ người khác phân biệt giữa tội hành hạ người khác với một số tội khác;

- Nghiên cứu, khảo sát tình hình tội phạm, cũng như kết quả áp dụng

pháp luật về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM;

- Chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của hạn chế khi áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội phạm trên;

- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy

định pháp luật về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các vấn

đề lý luận, quy định pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

về tội hành hạ người khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung các quy định về

5

tội “Hành hạ người khác” tại Điều 140 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017). Đồng thời, đề tài cũng được nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn

điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm này để làm rõ những bất cập, vướng mắc

hiện nay của điều luật.

Về không gian: Đề tài này khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

về tội hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM.

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn

áp dụng pháp luật từ năm 2015, thời điểm BLHS được ban hành, đến khi

hoàn thiện luận văn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí

Minh. Các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống cũng được sử dụng

trong luận văn này bao gồm: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích –

tổng hợp, phương pháp thống kê, khái quát hóa, phương pháp quy nạp, diễn

giải… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Về mặt lý luận

Luận văn là công trình nghiên cứu, phân tích toàn diện những vấn đề lý

luận và quy định của pháp luật về tội hành hạ người khác trong BLHS năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp

người đọc hiểu được bản chất, nội dung quy định của pháp luật.

- Về mặt thực tiễn

Từ những giải pháp mà tác giải đề xuất trong luận văn hi vọng sẽ góp

phần hoàn thiện pháp luật cũng như đảm bảo áp dụng pháp luật đối với tội

hành hạ người khác. Qua đó, góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm, nhất là trên địa bàn TP. HCM.

6

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tội

hành hạ người khác

Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội

hành hạ người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3. Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng

quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác trên địa bàn Thành

7

phố Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC

1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác

1.1.1. Khái niệm tội hành hạ người khác

Để hiểu thế nào là tội hành hạ người khác thì trước tiên chúng ta phải

tìm hiểu khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Theo quy định tại

khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Tội phạm

là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do

người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,

quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy

định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy về mặt lý luận để một hành vi

được xem là tội phạm thì cần phải thỏa mãn đủ 4 dấu hiệu pháp lý là: hành vi

nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.

Tội hành hạ người khác là một trong những tội thuộc Chương XIV

Phần thứ hai BLHS, tức là thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Do đó, tội hành hạ người khác

ngoài những dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì còn có những dấu hiệu

pháp lý riêng như về khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Cụ

thể, Điều 140 BLHS quy định tội hành hạ người khác như sau: “Người nào

đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường

8

hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Có thể nhận thấy Điều

140 BLHS không quy định cụ thể khái niệm tội hành hạ người khác mà chỉ

tập trung mô tả mặt khách quan là hành vi hành hạ người lệ thuộc mình.

Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì “hành hạ”

nghĩa là làm cho đau đớn, khổ sở hoặc nhục nhã, ê chề [36, tr.780], còn theo

từ điển Tiếng Việt của Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks, thì hành hạ là

làm cho đau đớn, khổ sở [2, tr .263]. Như vậy, trong các từ điển Tiếng Việt

thì hành hạ được hiểu là làm cho người khác đau đớn, khổ sở.

Làm nhục là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự.

Theo từ điển Tiếng Việt thì “nhân phẩm” là phẩm chất và giá trị con người,

còn “danh dự” là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần,

đạo đức tốt đẹp [30].

Về mặt pháp lý hình sự thì một số tác giả cũng có quan điểm khác nhau

về khái niệm hành hạ người khác như sau:

Tác giả Trần Văn Luyện cho rằng: “hành hạ người khác là hành vi đối

xử tàn ác như: gây đau đớn về thể xác, đè nén, áp bức về tinh thần người bị lệ

thuộc” [10, tr.101]. Trong khi đó, theo Bình luận khoa học BLHS của tác giả

Đinh Văn Quế thì: “hành hạ người khác là hành vi của một người đối xử tàn

ác với người lệ thuộc mình một cách có hệ thống (lặp đi lặp lại nhiều lần) gây

đau đớn về thể xác và tinh thần cho người bị hành hạ” [14, tr.171].

Theo Bình luận khoa học BLHS của TS. Nguyễn Đức Mai chủ biên thì:

Làm nhục người khác là hành vi của một người dùng lời nói hay hành động

làm ảnh hưởng nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Việc xúc

phạm này thể hiện bằng lời nói như: chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông người… hay

có những hành động có tính chất bỉ ổi như: nhổ nước bọt vào mặt, ném

phân… [11, tr. 144-145].

9

Theo quan điểm cá nhân tác giả thì hành vi đối xử tàn ác là làm cho nạn

nhân đau đớn về thể xác và đè nén, áp bức về tinh thần như: đánh đập, giam

hãm không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn, uống, không cho mặc đủ ấm… Hành

vi làm nhục nạn nhân như: chửi rủa, xỉ vả nạn nhân trước đám đông, tung tin

đồn nhảm để người khác tưởng là nạn nhân thật sự xấu xa, tội lỗi…

Trên cơ sở kết hợp giữa dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm và dấu

hiệu pháp lý riêng của tội hành hạ người khác chúng ta có thể mô tả khái quát

khái niệm tội hành hạ người khác như sau: “Tội hành hạ người khác là hành

vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, xâm phạm đến sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý”.

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác

1.1.2.1. Dấu hiệu pháp lý chung

Do tội hành hạ người khác là một tội phạm được quy định tại trong

BLHS năm 2015 nên cũng phải thoả mãn đầy đủ bốn dấu hiệu của tội phạm

là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu

hình phạt.

- Tính nguy hiểm cho xã hội: đây là dấu hiệu đầu tiên để xác định được

hành vi đó có phải là tội phạm hay không, dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã

hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng và quyết định các dấu hiệu khác. Vì vậy,

một hành vi phạm tội thì trước hết hành vi đó phải có tính chất nguy hiểm cho

xã hội, tức là hành vi đó đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể

cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [13,tr. 59]. Trong tội hành hạ

người khác thì hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội là hành vi đối xử tàn ác

hoặc làm nhục người lệ thuộc mình gây tổn hại đến sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm của người bị hành hạ.

- Tính có lỗi: Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với

hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây

10

ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Nếu không có lỗi thì

không bị coi là tội phạm. Trong tội hành hạ người khác, lỗi phạm tội luôn là

lỗi cố ý thực hiện các hành vi hành hạ người lệ thuộc mình.

- Tính trái pháp luật: theo quy định tại Điều 2 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) quy định về trách nhiệm hình sự như sau:

“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới

phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại

Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy, tính trái pháp luật theo quy định của luật hình sự Việt Nam

hiện hành là hành vi làm trái với quy định của BLHS. Tội hành hạ người khác

là một tội được quy định tại Điều 140, Chương XIV của BLHS năm 2015. Do

đó, một người thực hiện hành vi hành hạ thõa mãn 4 yêu tố cấu thành tội

phạm tại Điều 140 thì hành vi đó là trái pháp luật.

- Tính phải chịu hình phạt:

Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ

có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm thì không có

hình phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính

nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã

hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình

phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có

thể bị đe dọa áp dụng hình phạt. Do đó, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội

tỷ lệ thuận với mức độ khung hình phạt và hình phạt được coi là cơ chế răn

đe, giáo dục đối với tội phạm. Như vậy, người phạm tội hành hạ người khác

phải chịu hình phạt theo khung hình phạt được quy định tại Điều 140 BLHS.

1.1.2.2. Dấu hiệu pháp lý riêng

11

Tội hành hạ người khác là một tội nằm trong BLHS, do đó, người phạm

tội ngoài việc thõa mãn các dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì còn phải

có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng, đó là 4 yếu tố cấu thành tội

phạm bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Bốn yếu

tố này có tầm ảnh hưởng khác nhau, nội dung biểu hiện của mỗi yếu tố cũng

khác nhau, do đó mỗi hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội khác nhau. Cho nên, cần nắm rõ được quy định cấu thành tội phạm sẽ

giúp cho ta phân biệt được tội hành hạ người khác với những tội phạm khác

trong BLHS.

- Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và

bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm được hiểu là đối tượng bị tội

phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam thì khách thể được phân thành

khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.

+ Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội

bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội

phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, bao

gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm

chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an

toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của

trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

+ Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất

được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội

phạm xâm hại. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Nó là cơ

sở để BLHS xây dựng các chương trong phần các tội phạm.

+ Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quan hệ xã hội

12

cụ thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc

đe doạ gây thiệt hại (xâm hại) đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây

phương hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm.

Thực tế chứng minh bất kỳ tội phạm nào cũng đều xâm phạm tới ba

loại khách thể này. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ xã hội nào bị xâm hại

đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ những quan hệ nào được Nhà nước bảo

vệ bằng các quy định pháp luật hình sự mới được xem là khách thể của tội

phạm.

Đối với tội hành hạ người khác, thì khách thể chung của tội hành hạ

người khác là quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp 2013

ghi nhận tại Điều 20. Cụ thể là: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về

thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không

bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác

xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm….”. Tội hành

hạ người được xếp trong Chương XIV BLHS nên khách thể loại mà tội hành

hạ người khác xâm phạm là sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Bên cạnh đó, khách thể trực tiếp mà tội hành hạ người khác xâm phạm là sức

khoẻ thể chất, sức khoẻ tinh thần và sức khỏe xã hội của con người như Tổ

chức y tế thế giới đã khái niệm “Sức khỏe là trạng thái thỏa mãn toàn diện về

thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không

có bệnh tật hay thương tật” [4, tr.4].

Có thể hiểu, sức khỏe con người là tình trạng sức lực của con người

đang sống trong điều kiện bình thường. Cho nên, hành vi của tội hành hạ

người khác dù ở mức độ nào cũng gây những tổn thương nhất định đối với 1

trong 3 loại sức khỏe hoặc đồng thời cả loại sức khỏe gồm: sức khỏe thể chất

như bị đánh đập, bỏ đói…, sức khỏe tinh thần như mắng chửi, gây áp lực, làm

nhục…và sức khỏe xã hội như người bị hành hạ thường bị hạn chế các mối

13

quan hệ xã hội hoặc ít tiếp xúc với người bên ngoài.

Như vậy, khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội

phạm cụ thể. Xác định chính xác khách thể trực tiếp của tội phạm giúp chúng

ta định tội danh đúng và là cơ sở xác định TNHS đúng.

- Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra

và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của

tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã

hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài

của việc thực hiện tội phạm như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ

phạm tội, hoàn cảnh phạm tội....

Đối với tội hành hạ người khác thì hành vi khác quan là hành vi đối xử

tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình.

+ Hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình (lệ thuộc vào

người có hành vi phạm tội) tức là đối xử có tính độc ác, tàn bạo, như: đánh

đập gây đau khổ về thể chất, nhưng chưa đến mức gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người bị lệ thuộc; thường xuyên ức hiếp (đối xử bất

công, bất bình đẳng); ngược đãi (đối xử tồi tệ) [22, khoản 4 Chương 2] gây

cho người bị hại sự đau đớn về thể xác và tinh thần. Tuy nhiên việc đối xử tàn

ác phải chưa đạt đến mức độ nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự về

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ.

+ Hành vi làm nhục người lệ thuộc mình là xúc phạm nghiêm trọng

nhân phẩm, danh dự của nạn nhân. Đó là cố ý hạ thấp nhân phẩm, danh dự

của người khác hoặc làm mất uy tín, nhân cách của người đó đối với người

thân trong gia đình, bạn bè, cơ quan hay nơi họ sinh sống, nơi công cộng.

Việc xúc phạm này thể hiện bằng lời nói như: chửi rủa, xỉ nhục ở nơi đông

người; viết, vẽ hay có những hành động có tính chất bỉ ổi như: nhổ nước bọt

14

vào mặt, ném phân, cà chua, trứng thối vào người, lột trần truồng nạn nhân….

Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước mặt

người đó hoặc vắng mặt nạn nhân nhưng người phạm tội có ý thức để nạn

nhân biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân phẩm,

danh dự người khác cũng phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu trách

nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào

thái độ, nhận thức của người phạm tội; cường độ và thời gian kéo dài của

hành vi; vị trí và môi trường chung quanh; vị thế, vai trò của người bị hại

trong gia đình, tổ chức cũng như trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng

nhục đó. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có lời

nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm người khác [11, tr.

144-145].

Một điểm khác cần chú ý là trong thực tế thì hành vi hành hạ thường

kéo dài, có thể được lặp lại nhiều lần trong ngày, kéo dài trong nhiều ngày,

nhiều tuần hoặc thậm chí kéo dài hàng tháng, hàng năm. Điều 140 BLHS

không quy định thời gian hành hạ 1 lần hoặc nhiều lần hoặc kéo dài trong bao

lâu và cũng chưa có văn bản cụ thể nào của các cơ quan tố tụng Trung ương

hướng dẫn về tội này nên trong thực tiễn một số tác giả nghiên cứu khoa học

luật hình sự thường cho rằng hành vi hành hạ phải diễn ra và lặp lại nhiều lần

trong một thời gian nhất định thì mới truy cứu TNHS về tội hành hạ người

khác [14, tr. 171].

Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức vì vậy thời điểm tội

phạm hoàn thành là khi người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm

nhục với người lệ thuộc mình mà không cần phải có hậu quả xảy ra. Tội hành

hạ người khác có cấu thành khá đơn giản, không có các biểu hiện của công

cụ, phương tiện cũng như phương pháp, thủ đoạn phạm tội... Vì vậy khi truy

cứu TNHS một người nào đó về tội hành hạ người khác thì các cơ quan tiến

15

hành tố tụng chỉ cần chứng minh người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác

hoặc làm nhục người lệ thuộc mình còn việc họ có sử dụng công cụ, phương

tiện hoặc thủ đoạn gì để thực hiện tội phạm chỉ là tình tiết để đánh giá tính

chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chứ không phải là tình tiết định tội hay

định khung hình phạt.

Việc nghiên cứu và làm rõ mặt khách quan của tội hành hạ người khác

sẽ giúp chúng ta đánh giá đầy đủ, chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm

của hành vi phạm tội, điều này có ý nhĩa quyết định trong việc định tội danh

và định khung hình phạt. Do đó, nhận thức đúng mặt khách quan của tội hành

hạ người khác sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn đấu tranh

phòng, chống tội phạm này đạt hiệu quả cao.

- Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình

sự và phải có mối quan hệ lệ thuộc với nạn nhân. Chủ thể của tội hành hạ

người khác phải đảm bảo đủ 3 yếu tố sau:

+ Chủ thể của tội hành hạ người khác phải là con người cụ thể, đang

sống và đang hiện hữu.

+ Có năng lực TNHS.

Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của

mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác

phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực TNHS là điều kiện cần thiết

để có thể xác định một người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội. Chỉ những người có năng lực TNHS mới có thể có lỗi và mới có thể là

chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định (tuổi chịu TNHS).

Luật hình sự Việt Nam không quy định năng lực TNHS một cách trực

tiếp mà quy định gián tiếp qua quy định tuổi chịu TNHS và quy định về tình

16

trạng không có năng lực TNHS. Sở dĩ có thể quy định theo cách này vì giữa

độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự có quan hệ với nhau, trong đó độ tuổi

là điều kiện để có thể có năng lực TNHS. Với việc quy định này, Luật hình sự

Việt Nam mặc nhiên thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu TNHS nói

chung là có năng lực TNHS. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan có trách

nhiệm không đòi hỏi phải đánh giá từng trường hợp là có năng lực TNHS hay

không mà chỉ phải xác định độ tuổi và cá biệt nếu có sự nghỉ ngờ, mới cần

phải kiểm tra có phải là trường hợp trong tình trạng không có năng lực TNHS

hay không.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi hành hạ người lệ

thuộc mà Điều 140 BLHS quy định áp dụng từng khung, từng mức hình phạt

khác nhau, trong đó mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội

hành hạ người khác là ba năm tù. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 9,

Điều 12 BLHS thì tội hành hạ người khác là tội phạm ít nghiêm trọng, vì vậy

chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS khi phạm tội hành hạ

người khác.

+ Chủ thể của tội hành hạ người khác là chủ thể đặc biệt vì phải có mối

quan hệ lệ thuộc với người bị hại. Có nghĩa người bị hại bị lệ thuộc về quan

hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo đối với người phạm tội.

Lệ thuộc về quan hệ xã hội: thông thường là các mối quan hệ lệ thuộc

như giữa thầy giáo với học sinh, giữa thầy thuốc với người bệnh, giữa cán bộ

quản giáo đối với phạm nhân, giữa chủ với người làm thuê,…

Lệ thuộc về quan hệ công tác: là mối quan hệ lệ thuộc giữa nhân viên

với thủ trưởng, giữa cấp trên với cấp dưới trong các cơ quan, tổ chức.

Lệ thuộc về tôn giáo: là mối quan hệ giữa những người có chức sắc

trong các tổ chức tôn giáo đối với các tín đồ của tôn giáo đó.

Tuy nhiên, các quan hệ lệ thuộc khác do hôn nhân, gia đình, huyết

17

thống, nuôi dưỡng hoặc quan hệ phụ thuộc giữa cấp trên với cấp dưới trong

lực lượng vũ trang không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này mà

thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 185 và Điều 397 BLHS.

- Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những

biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội

bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

Trong mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh

trong mọi cấu thành tội phạm thì dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội

được phản ánh là dấu hiệu định tội của một số tội, nhưng đa số chúng được

phản ánh là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS.

Đối với tội hành hạ người khác thì dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc.

Người phạm tội thực hiện hành vi hành hạ với lỗi cố ý. Theo Điều 10 BLHS

thì lỗi cố ý chia thành 2 loại gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp:

+ Lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành

vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và

mong muốn hậu quả xảy ra”.

Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý trực tiếp được thể hiện như sau: Về

lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận

thức rõ hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra. Về ý chí: Người phạm tội

mong muốn hậu quả xảy ra. Chẳng hạn như người phạm tội thường xuyên

đánh đập người lệ thuộc mình.

+ Lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp: “Người phạm tội nhận thức rõ hành

vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có

thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả

xảy ra”.

Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý gián tiếp được thể hiện như sau:

18

Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và

nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra. Về ý chí: Người phạm tội không mong

muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả

xảy ra như thế nào cũng chấp nhận. Chẳng hạn người phạm tội thường xuyên

nói xấu người lệ thuộc mình.

Còn động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc và không có ý

nghĩa định tội đối với tội hành hạ người khác vì trong thực tế thì người phạm

tội có thể bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau.

Như vậy, việc xác định dấu hiệu pháp lý của tội hành hạ người khác

đóng vai trò rất quan trọng vì nó sẽ là cơ sở để xác định được tội danh trên

thực tế.

1.1.2.3. Dấu hiệu định khung hình phạt

Điều 140 BLHS năm 2015 quy định 2 khung hình phạt. Khoản 1 là cấu

thành tội phạm cơ bản quy định các dấu hiệu định tội còn khoản 2 là cấu

thành tăng nặng. Khoản 2 là khoản quy định các tình tiết định khung tăng

nặng như: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,

người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; gây rối loạn

tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;

phạm tội đối với 02 người trở lên. Đây là trường hợp phạm tội mà người bị

hại là những người cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. BLHS năm 2015 coi

các trường hợp phạm tội này là nghiêm trọng hơn, nên quy định thành tình

tiết định khung tăng nặng. Cụ thể:

+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi:

Việc xác định tuổi của người bị hại căn cứ vào một trong các giấy tờ,

tài liệu: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn

cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu. Nếu các giấy tờ trên có mâu thuẫn thì

cơ quan tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, nhà trường, đoàn

19

thanh niên… để hỏi, lấy lời khai, hoặc tìm các tài liệu khác chứng minh về

tuổi của người đó. Trường hợp kết quả giám định tuổi (trong trường hợp

không xác định được năm sinh) chỉ xác định được khoảng độ tuổi của người

người bị hại thì sẽ lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đó [34].

+ Phụ nữ mà biết là có thai: Theo tiểu mục 2.3 mục 2 Nghị quyết

01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 quy định "Phụ nữ có thai" được xác định

bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị

cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các

nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai.

Trong trường hợp thực tế khó nhận biết được người phụ nữ đó đang có

thai hay không hoặc giữa lời khai của bị cáo và người bị hại về việc này có

mâu thuẫn với nhau thì để xác định người phụ nữ đó có thai hay không phải

căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.

Như vậy, trường hợp người phạm tội không biết nạn nhân đang có thai

thì không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.

+ Người già yếu là người từ 70 tuổi trở lên [33, điểm i khoản 1 Điều

52], sinh hoạt sức khỏe yếu, đi lại khó khăn, chậm chạp… Người ốm đau là

người đang bị bệnh tật, có thể điều trị ở bệnh viện, cơ sở y tế tư nhân hoặc tại

nhà riêng của họ.

+ Người không có khả năng tự vệ là người không thể chống cự được (ví

dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể

chống cự được) hoặc người bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả

năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc

gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị

bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận

thức, khả năng điều khiển hành vi) [7, khoản 7 Điều 3].

Trên đây là những đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ, người có

20

hành vi xâm phạm đến họ thì bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn.

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ

thể 31% trở lên: gây rối loạn tâm thần biểu hiện trạng thái thần kinh không

bình thường, lo âu, sợ sệt, trầm cảm, mất ăn, mất ngủ, hoảng loạn. Đó là biểu

hiện của rối loạn lo âu, rối loạn phân ly, rối loạn ám ảnh, rối loạn đa nhân

cách... Cần phân biệt làm rõ rối loạn tâm thần do bệnh lý từ trước hay do sự

tác động, sang chấn tâm lý và hậu quả của hành vi phạm tội. Đánh giá mức độ

gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân phải căn cứ vào kết luận giám

định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019

của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám

định pháp y, pháp y tâm thần [3].

+ Phạm tội đối với 02 người trở lên là cùng một thời điểm người phạm

tội thực hiện hành vi hành hạ đối với 02 người lệ thuộc mình trở lên.

1.1.2.4. Quy định về hình phạt

Điều 140 BLHS năm 2015 quy định 2 loại hình phạt: cải tạo không

giam giữ và phạt tù, cụ thể như sau:

- Đối với cấu thành cơ bản ở khoản 1 thì điều luật quy định mức hình

phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

- Đối với các trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ

mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng

tự vệ; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ

thể 31% trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên thuộc cấu thành tăng nặng

tại khoản 2 thì điều luật quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

Căn cứ vào mức hình phạt tù được quy định tại Điều 140 BLHS cho

thấy quan điểm của các nhà làm luật coi tội hành hạ người khác là một tội

phạm ít nghiêm trọng và có mức độ nguy hiểm không lớn cho xã hội, vì vậy

mức hình phạt quy định đối với tội phạm này cũng ít nghiêm khắc hơn so với

21

các tội phạm khác.

1.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với một số tội khác

1.2.1. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội bức tử

Điều 130 BLHS năm 2015 quy định về tội bức tử như sau:

“1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc

làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm

đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

05 năm đến 12 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai”.

Tội bức tử được hiểu là hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,

ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, làm cho người đó tự sát.

Giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có những điểm giống và khác

nhau như sau:

- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan thì hành vi khách quan của tội

hành hạ người khác và tội bức tử đều là hành vi đối xử độc ác, tàn bạo hoặc

làm nhục đối với người lệ thuộc làm cho họ đau đớn về mặt thể xác, đau khổ

về mặt tinh thần như đánh đập, không cho ăn uống hoặc bắt ăn, uống những

chất dơ bẩn….. Về mặt chủ thể: chủ thể của cả hai tội này đều là chủ thể đặc

biệt có quan hệ lệ thuộc với người bị hại, trong đó người bị hại là người bị lệ

thuộc với người thực hiện hành vi phạm tội.

- Điểm khác nhau:

Về khách thể: tội hành hạ người khác xâm phạm đến sức khỏe của

người bị lệ thuộc, còn tội bức tử xâm phạm tính mạng của người bị lệ thuộc.

Về mặt khách quan: cả hai tội này tuy có hành vi khách quan tương đối

giống nhau nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đối xử tàn ác,

22

hành vi làm nhục trong tội bức tử diễn ra thường xuyên và cao hơn so với

trong tội hành hạ người khác vì nó vượt quá sự chịu đựng của người bị lệ

thuộc và làm cho họ lâm vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng đến mức phải tự sát.

Trong tội bức tử hành vi khách quan được mô tả rõ ràng hơn như: thường

xuyên ức hiếp, ngược đãi.

Tội hành hạ người khách có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần có hành

vi khách quan là đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình thì đã cấu

thành tội phạm. Trong khi đó, muốn cấu thành tội bức tử thì ngoài có hành vi

khách quan của người phạm tội còn phải có hậu quả xảy ra là người lệ thuộc

có hành vi tự sát mà bất kể hậu quả sau khi tự sát người đó có chết hay không.

Như vậy, chủ thể của tội phạm có hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc

mình mà không làm người lệ thuộc tự sát thì chủ thể đó sẽ bị truy cứu TNHS

về tội hành hạ người khác, còn trong trường hợp hành vi hành hạ làm cho

người lệ thuộc tự sát thì chủ thể đó sẽ bị truy cứu TNHS về tội bức tử. Do đó,

giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có sự chuyển hoá về tội danh khi

người lệ thuộc có hành vi tự sát.

Về chủ thể: Đối với tội hành hạ người khác là tội phạm ít nghiêm trọng,

vì vậy chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS. Căn cứ vào

mức hình phạt của tội bức tử là 12 năm tù tương ứng với tội phạm rất nghiêm

trọng nên căn cứ vào khoản 2 Điền 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến 16

phải chịu TNHS.

Nếu chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc với người

bị hại chỉ trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo thì chủ thể

trong tội bức tử ngoài những quan hệ lệ thuộc trên còn có quan hệ lệ thuộc về

hôn nhân, gia đình, huyết thống nuôi dưỡng.

Về mặt chủ quan: Chủ thể của tội hành hạ người khác luôn thực hiện

hành vi phạm tội với lỗi cố ý thì chủ thể của tội bức tử thực hiện hành vi

23

phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý.

Về hình phạt: Tội hành hạ người khác liệt kê nhiều tình tiết định khung

tăng nặng như: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,

người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; gây rối loạn

tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;

phạm tội đối với 02 người trở lên. Còn tội bức tử quy định ít hơn chỉ có phạm

tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai.

Tội hành hạ người khác quy định 2 loại hình phạt là cải tạo không giam

giữ và phạt tù, mức phạt tù cao nhất là 03 năm. Trong khi tội bức tử chỉ có

hình phạt tù và mức phạt tù cao nhất là 12 năm.

Qua những phân tích và so sánh nêu trên có thể thấy rằng quan điểm

của các nhà làm luật xác định tội bức tử có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao

hơn so với tội hành hạ người khác, vì vậy hình phạt được áp dụng đối với tội

bức tử cũng cao hơn, nghiêm khắc hơn so với tội hành hạ người khác.

1.2.2. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015. Tội cố ý gây thương tích, gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái phép đến thân

thể của người khác gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác dưới dạng

thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe trong các trường hợp luật định.

Giữa tội hành hạ người khác và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khoẻ của người khác có những điểm giống và khác nhau như sau:

- Điểm giống nhau: Mặt chủ quan của cả hai tội đều thực hiện với lỗi

cố ý. Về hình phạt, cả hai đều có 2 loại hình phạt là cải tạo không giam giữ và

phạt tù.

24

- Điểm khác nhau:

Về khách thể: Tội hành hạ người khác không chỉ xâm phạm đến sức

khỏe mà còn xâm phạm cả danh dự, nhân phẩm của người bị lệ thuộc. Trong

khi đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

chỉ xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại.

Về mặt khách quan: Tội hành hạ người khác là tội phạm có cấu thành

hình thức nên chỉ cần có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc

mà không cần hậu quả xảy ra. Trong khi đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác là tội phạm có cấu thành vật chất, vì vậy

hành vi khách quan phải xảy ra hậu quả và có mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Thời điểm hoàn thành của tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là thời điểm

người phạm tội thực hiện hành vi khách quan và gây ra hậu quả thương tích

hoặc tổn hại sức khỏe của người bị hại được luật quy định.

Về chủ thể: Chủ thể phạm tội hành hạ người khác phải đạt độ tuổi từ đủ

16 tuổi trở lên trong khi chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khoẻ của người khác thì trong một số trường hợp chỉ cần đạt độ tuổi

từ đủ 14 tuổi (đối với các trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5

Điều 134 BLHS) là đã phải chịu TNHS. Chủ thể của tội hành hạ người khác là

chủ thể đặc biệt do người bị hại có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội, còn

đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

thì chủ thể có thể là bất kỳ ai thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe người khác.

Về hình phạt: So với tội hành hạ người khác thì tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có đến 5 khung với rất

nhiều tình tiết định khung tăng nặng.

Tội hành hạ người khác với mức hình phạt tù cao nhất là 03 năm.

25

Trong khi tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người

khác có mức độ nguy hiểm cho xã hội đặt biệt nghiêm trọng nêm mức hình

phạt quy định cao nhất là tù chung thân.

1.2.3. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội làm nhục người khác

Tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 155 BLHS. Làm nhục

người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người

khác. Những hành vi này có thể bằng lời nói hoặc hành động với mục đích là

hạ thấp nhân cách, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.

Giữa tội hành hạ người khác và tội làm nhục người khác có những

điểm giống và khác nhau như sau:

- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan, thì hành vi khách quan của tội

hành hạ người khác với tội làm nhục người khác đều có hành vi làm nhục

người bị hại; cả hai tội đều có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần có hành vi

khách quan làm nhục người bị hại thì đã cấu thành tội phạm. Về mặt chủ

quan, người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Về chủ thể, căn cứ vào mức hình

phạt và Điều 12 BLHS thì chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và

từ đủ 16 tuổi trở lên.

- Điểm khác nhau:

Về khách thể: Tội hành hạ người khác xâm phạm đến sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm còn tội làm nhục người khác chỉ xâm phạm đến danh dự,

nhân phẩm của người khác.

Về mặt khách quan: tội hành hạ người khác ngoài hành vi khách quan

là làm nhục giống như tội làm nhục người khác thì còn có hành vi khách

quan là đối xử tàn ác. Do đó, hành vi khách quan của tội hành hạ người khác

rộng và đa dạng hơn.

Về chủ thể: nếu chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc

với người bị hại trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo thì

26

chủ thể trong tội làm nhục người khác là bất kỳ người nào, có nghĩa giữa

người phạm tội với người bị hại không có mối quan hệ lệ thuộc này.

Về hình phạt: Tội làm nhục người khác quy định 4 khung và liệt kê

nhiều tình tiết định khung tăng nặng. Đồng thời, tội làm nhục người khác

cũng quy định 4 loại hình phạt chính là phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không

giam giữ và phạt tù với mức phạt tù cao nhất là 5 năm và 1 loại hình phạt bổ

sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định. Như vậy, dựa vào mức độ nguy hiểm của tội phạm mà tội làm nhục

người khác được quy định rất đa dạng loại hình phạt hơn so với tội hành

hành hạ người khác.

1.2.4. Phân biệt tội hành hạ người khác với tội ngược đãi hoặc hành hạ

ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình

Điều 155 BLHS năm 2015 quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông

bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình như

sau:

“1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể

ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình

thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo

không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

02 năm đến 05 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người

mắc bệnh hiểm nghèo”.

Từ quy định trên cho ta thấy, Điều 185 quy định 2 loại tội:

27

+ Tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công

nuôi dưỡng mình;

+ Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công

nuôi dưỡng mình.

Giữa tội hành hạ người khác và tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha

mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình có những điểm

giống nhau và khác nhau như sau:

- Điểm giống nhau: Về mặt khách quan, cả ai tội đều có hành vi khách

quan là hành hạ người bị hại. Về mặt chủ quan, người phạm tội thực hiện với

lỗi cố ý. Về chủ thể, căn cứ vào mức hình phạt của 2 tội này và Điều 12

BLHS thì chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở

lên.

- Điểm khác nhau:

Về khách thể: Khách thể của tội hành hạ người khác là sức khỏe, nhân

phẩm của người bị lệ thuộc. Trong khi khách thể của tội ngược đãi hoặc hành

hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình là

chế độ hôn nhân tiến bộ được pháp luật quy định và nghĩa vụ giữa các thành

viên trong gia đình.

Về mặt khách quan: Tội hành hạ người khác mô tả hành vi khách quan

chỉ có hành hạ người khác, trong khi tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha

mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ngoài hành vi hành

hạ còn có hành vi ngược đãi.

Tội hành hạ người khác có cấu thành hình thức, do đó chỉ cần thực hiện

những hành vi khách quan hành hạ người khác thì đã cấu thành tội phạm. Còn

tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có

công nuôi dưỡng mình phải gây ra hậu quả: thường xuyên làm cho nạn nhân

bị đau đớn về thể xác, tinh thần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về

28

hành vi này mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm.

Về chủ thể: Chủ thể của tội hành hạ người khác có quan hệ lệ thuộc với

người bị hại trong phạm vi quan hệ xã hội, công tác hoặc về tôn giáo. Trong

khi đó chủ thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,

cháu, người có công nuôi dưỡng mình có quan hệ lệ thuộc về mặt hôn nhân,

gia đình, huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng như: vợ đối với chồng, chồng

đối với vợ; con, cháu đối với cha mẹ, ông bà; cha mẹ, ông bà đối với con,

cháu hoặc những người được nuôi dưỡng như con nuôi, con riêng của vợ,

chồng.

Về hình phạt: Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,

con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình quy định 3 loại hình phạt là phạt

cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt tù với mức phạt tù cao nhất là 5

năm. So với tội hành hạ người khác thì tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà,

cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình có thêm 1 loại

hình phạt và mức hình phạt nặng hơn.

1.3. Sơ lược lịch sử quy định về tội hành hạ người khác trong pháp

luật hình sự Việt Nam

1.3.1. Quy định của BLHS năm 1985 về tội hành hạ người khác

Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử, BLHS

năm 1985 đã được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/1986. Đây chính là BLHS hoàn chỉnh đầu tiên của nước

ta và là một bước tiến mang tính đột phá trong công tác xây dựng pháp luật

hình sự, thể hiện trình độ lập pháp đã đạt được bước phát triển mới. Sự ra đời

của BLHS năm 1985 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động đấu tranh

phòng, chống tội phạm và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc

trong thời kỳ mới. Sau khi BLHS năm 1985 ra đời, nhiều văn bản pháp luật

đã được các cơ quan tư pháp Trung ương ban hành để hướng dẫn thi hành

29

BLHS như: Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 02/11/1985 của TAND tối

cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn áp dụng một số

quy định của BLHS; Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng

Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các

tội phạm của BLHS; Nghị quyết số 03/TATC ngày 22/10/1987 của TAND tối

cao hướng dẫn về Điều 109 BLHS, Nghị quyết số 01/1989 HĐTP ngày

19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn bổ sung việc

áp dụng một số quy định của BLHS…

Trong BLHS năm 1985, lần đầu tiên tội hành hạ người khác được quy

định là một tội danh độc lập tại Điều 111, Chương XII với nội dung:

“Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo,

cải tạo không giam giữ đến một năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai

năm”.

Nhìn chung, nội dung của điều luật được quy định khá đơn giản, không

có tình tiết tăng nặng và mức hình phạt tối đa là hai năm tù, điều này cho thấy

nhà làm luật đã đánh giá tội phạm này là ít nghiêm trọng, có mức độ nguy

hiểm thấp cho xã hội, vì vậy chưa quy định các tình tiết định khung tăng nặng

TNHS để phân hóa mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc

quy định tội hành hạ người khác với tư cách là một tội phạm độc lập trong

BLHS năm 1985 đã thể hiện rõ quan điểm tiến bộ của Nhà nước ta trong việc

bảo vệ quyền con người, đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân theo

quy định của Hiến pháp và pháp luật.

BLHS năm 1985 ra đời đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu cấp

thiết của đời sống xã hội và phát huy được vai trò to lớn trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự,

an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành thì BLHS năm 1985 đã bộc

lộ những hạn chế, bất cập trong nhiều quy định và đòi hỏi phải có sự sửa đổi,

30

bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi

mới. Trong quá trình tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần

vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, mặc dù có sự thay đổi trong nhiều

quy định nhưng quy định về tội hành hạ người khác không có gì thay đổi và

vẫn được giữ nguyên tại Điều 111.

1.3.2. Quy định của BLHS năm 1999 về tội hành hạ người khác

Trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước thì BLHS năm 1985 tuy phát huy được hiệu quả nhưng cũng đã

bộc lộ một số mặt hạn chế, thiếu sót nên không còn phù hợp với điều kiện

kinh tế - xã hội của nước ta trong tình hình mới, vì vậy nhu cầu tất yếu là cần

phải có một BLHS khác mang tính toàn diện và đầy đủ hơn để thay thế BLHS

năm 1985. Bên cạnh đó, việc xây dựng một BLHS mới hoàn thiện và tiến bộ

hơn sẽ tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc nhận thức và áp dụng BLHS một

cách thống nhất trong phạm vi cả nước. Trước những yêu cầu cấp thiết trên,

BLHS năm 1999 đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ VI thông qua ngày

21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2000 để thay thế cho BLHS năm

1985. Trong BLHS năm 1999 thì tội hành hạ người khác được quy định tại

Điều 110 và đã có sửa đổi đáng kể so với quy định tại Điều 111 trong BLHS

năm 1985 với nội dung như sau:

“1. Người nào đổi xử tàn ác với người lệ thuộc mình, thì bị phạt cảnh

cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai

năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ

một năm đến ba năm:

a. Đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật;

b. Đối với nhiều người”.

Như vậy, ngoài cấu thành cơ bản được giữ nguyên thì Điều 110 BLHS

31

năm 1999 còn quy định thêm cấu thành tăng nặng được quy định tại khoản 2

với các tình tiết định khung mới được quy định như: “đối với người già, trẻ

em, phụ nữ có thai, người tàn tật” hoặc “đối với nhiều người”. Mặc dù vẫn

giữ nguyên 03 loại hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt tù

nhưng mức hình phạt tại Điều 110 BLHS năm 1999 so với Điều 111 BLHS

năm 1985 được thay đổi theo hướng nặng hơn, nghiêm khắc hơn đối với

người phạm tội và có sự phân hóa mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội từ

giản đơn đến tăng nặng dựa trên đối tượng bị hành hạ và số nạn nhân bị hành

hạ.

Năm 2009, BLHS năm 1999 tiếp tục được sửa đổi và bổ sung một số

quy định trong Phần Chung và Phần Các tội phạm nhưng quy định về tội

hành hạ người khác không có gì thay đổi so với BLHS năm 1999.

1.3.3. Quy định của BLHS năm 2015 về tội hành hạ người khác

Thực tiễn cho thấy, BLHS năm 1999 đã có những tác động tích cực đối

với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế

- xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân. Tuy nhiên, sau 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 tiếp tục

bộc lộ những bất cập, hạn chế chủ yếu như: BLHS chưa thể chế hoá được

những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể

hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết

số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết

số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW); sự phát triển của Hiến pháp

32

năm 2013 với việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người,

quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống

pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý

quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người,

quyền cơ bản của công dân; BLHS năm 1999 chưa cập nhật được đầy đủ, kịp

thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội…

Chính vì vậy, yêu cầu xây dựng, ban hành BLHS mới thay thế BLHS năm

1999 là yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết đặt ra. Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp

thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS (sửa đổi) và có hiệu lực từ

ngày 01/07/2016. Ngày 30/6/2016, tại Phủ Chủ tịch, Văn phòng Chủ tịch

nước họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của

Quốc hội (QH) khóa XIII về việc lùi thời hiệu thi hành của BLHS số

100/2015/QH13. Sau đó, ngày 20/6/1017 Quốc hội ban hành Luật số:

12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13.

Cùng ngày, Quốc Hội ban hành Nghị quyết số 41/2017/QH14 thì BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.

Trong đó, tội hành hạ người khác vẫn được quy định tại Chương riêng, đó là

Chương XIV, Điều 140 có nội dung như sau:

“1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu

không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị

phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02

năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

01 năm đến 03 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già

yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương

33

cơ thể 31% trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên”.

So với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tội hành hạ người

khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhìn chung vẫn giữ

nguyên kết cấu gồm 2 khoản, liệt kê các cấu thành tăng nặng được quy định

tại khoản 2. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng

có sự thay đổi là bổ sung hành vi làm nhục người lệ thuộc mình hoặc làm

nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều

185 của BLHS năm 2015 (tội ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ,

chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình). Bỏ hình phạt cảnh

cáo, tăng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm lên 03 năm. Bổ sung

tình tiết tăng nặng định khung “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên”. Giải thích rõ và sửa đổi cụm từ

“người tàn tật” bằng cụm từ “người già yếu, ốm đau hoặc người khác không

có khả năng tự vệ”.

Như vậy tội hành hạ người khác trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) được quy định với hình phạt nghiêm khắc hơn, cụ thể rõ ràng

hơn nhằm đảm bảo việc xử lý người phạm tội đúng với tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội. BLHS đánh dấu một bước tiến quan trọng,

tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều

này thể hiện quan điểm bảo vệ hơn nữa quyền con người của Nhà nước ta

trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là chủ trương quan tâm

bảo vệ đối với những đối tượng dễ bị tội phạm xâm hại như: người dưới 16

tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu…

Như vậy, việc tìm hiểu các quy định về tội hành hạ người khác từ sau

năm 1985 đến nay đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn toàn diện về sự

hình thành và phát triển trong các quy định của pháp luật hình sự đối với tội

34

phạm này. Quy định về tội hành hạ người khác ngày càng phát triển theo

hướng đầy đủ, toàn diện hơn cũng như nội dung điều luật cũng được quy định

hợp lý hơn, phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong bối

cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người

trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu các khái niệm,

dấu hiệu pháp lý và lịch sử hình thành quy định về tội hành hạ người khác

trong pháp luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một khái

niệm chung về tội hành hạ người khác và chỉ ra được quá trình phát triển theo

hướng ngày càng hoàn thiện của tội hành hạ người khác kể từ khi được chính

thức quy định trong BLHS năm 1985 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu,

tác giả đã tiến hành so sánh, đối chiếu quy định về tội hành hạ người khác với

một số tội phạm khác có dấu hiệu tương tự trong BLHS để làm rõ những vấn

đề chung về tội phạm này; bên cạnh đó giúp ta phân biệt tội hành hạ người

khác với các tội phạm khác, giúp người áp dụng pháp luật áp dụng đúng tội

danh. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học, góp phần bổ sung vào lý

luận về tội hành hạ người khác, giúp cho việc nhận thức và áp dụng quy định

của BLHS đối với tội phạm này được chính xác và toàn diện hơn. Đồng thời

từ những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở để tác giả nghiên cứu

chuyên sâu hơn về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hành hạ người khác

nhằm chỉ ra những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng quy định của

35

pháp về tội phạm này trong Chương 2 của Luận văn.

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VỀ TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Tổng quan tình hình khởi tố và xét xử về tội hành hạ người

khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm tại TP. HCM ngày càng

gia tăng và diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, đặc

biệt là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con

người. Mặc dù tội phạm hành hạ người khác không xảy ra thường xuyên như

những loại tội khác và chiếm cơ cấu rất nhỏ trong các loại tội phạm nhưng

đây là loại tội phạm thu hút sự chú ý rất lớn từ dư luận và bị xã hội lên án gay

gắt. Có thể nhận thấy rất rõ điều này khi một số vụ án hành hạ người khác xảy

ra được xét xử lưu động thì rất đông người dân chen lấn, chật kín hội trường

để theo dõi, báo chí đưa tin, điển hình như: Vụ án hai bảo mẫu Lê Thị Đông

Phương, Nguyễn Lê Thiên Lý hành hạ các bé tại cơ sở mầm non tư thục

Phương Anh, quận Thủ Đức năm 2014; Vụ ba bảo mẫu Phạm Thị Mỹ Linh,

Nguyễn Thị Đào, Phạm Như Huỳnh hành hạ 24 trẻ em ở cơ sở mầm non tư

thục Mầm Xanh, Quận 12 năm 2018; Vụ án bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến

Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh đập dã man…

Qua đó, việc áp dụng quy định các quy định của pháp luật hình sự về tội hành

hạ người khác để điều tra, truy tố, xét xử cũng thu hút sự quan tâm của người

dân cũng như các cán bộ làm công tác chuyên môn. Để nhận thức rõ được

tầm quan trọng của việc áp dụng pháp luật về tội hành hạ người khác trong

thực tiễn trên địa bàn TP.HCM chúng ta cần nghiên cứu tình hình khởi tố, xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội tội phạm này trong thời gian gần đây và đối

36

chiếu với tình hình khởi tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung trên

địa bàn TP.HCM. Tình hình khởi tố và xét xử tội hành hạ người khác của TP.

HCM những năm gần đây được thể hiện thông qua các bảng số liệu sau:

Bảng 2.1. Tình hình khởi tố vụ án hình sự về tội hành hạ người

khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng số vụ án hình sự Số vụ án hành hạ người Năm Tỷ lệ đã khởi tố khác đã khởi tố

2015 9350 0,00% 0

2016 8646 0,00% 0

2017 8097 0,00% 0

2018 8939 0,03356% 3

2019 9706 0,01030% 1

(Nguồn: số liệu thống kê của VKSND TP.HCM từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về tội hành hạ

người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng số vụ án Tòa Số vụ hành hạ Kháng cáo Năm án đã xét xử sơ người khác đã xét Tỷ lệ Kháng nghị thẩm xử sơ thẩm

2015 5965 0,00% 0 0

2016 5965 0,00% 0 0

2017 5111 0,00% 0 0

2018 4511 0,06650% 0 3

2019 4747 0,02106% 0 1

(Nguồn: số liệu thống kê của TAND TP.HCM từ năm 2015 đến năm 2019)

Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy trong thực tiễn số lượng

các vụ án hành hạ người khác không có sự biến động lớn giữa các năm, chiếm

tỷ lệ nhỏ trong tổng số các vụ án hình sự xảy ra hàng năm. Từ năm 2015 đến

37

năm 2019 các cơ quan tố tụng ở TP. HCM chỉ khởi tố và xét xử sơ thẩm 04

vụ án về tội hành hạ người khác với tỷ lệ số vụ án xảy ra trung bình khoảng

01 vụ/năm. Thông qua thực tiễn xét xử tội hành hạ người khác chúng ta thấy

xuất hiện một số những hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật

hình sự về tội danh này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến

hiệu quả phát hiện và xử lý đối với tội phạm này chưa cao.

2.2. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự

về tội hành hạ người khác và nguyên nhân

2.2.1. Những hạn chế trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự về

tội hành hạ người khác

Trong những năm qua, công tác điều tra, truy tố, xét xử về tội hành hạ

người khác đã đạt được kết quả đáng kể. Các vụ án được thụ lý và giải quyết

nhanh chóng, không có hiện tượng tồn đọng, đình chỉ hay trả hồ sơ để điều tra

bổ sung. Tuy nhiên, thực tế khi áp dụng quy định pháp luật hình sự đối với tội

phạm này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót và chưa đáp ứng một cách

triệt để trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể:

Thứ nhất, còn tình trạng bỏ lọt tội phạm do dấu hiệu định tội quy định

chưa rõ ràng, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng

quy định về tội hành hạ người khác để điều tra, truy tố, xét xử nên thực tế dẫn

đến nhiều trường hợp hành vi hành hạ chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.

Thực trạng này được phản ánh qua vụ án sau:

Vụ án số 1: Xét xử 3 bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh (43 tuổi), Nguyễn Thị

Đào (23 tuổi), Phạm Như Huỳnh (19 tuổi) là bảo mẫu tại cơ sở mầm non tư

thục Mầm Xanh, trong đó bà Linh là chủ cơ sở. Nạn nhân trong vụ án là 24

trẻ em được phụ huynh gửi tại trường. (Phụ lục 1) [24]

Trước đó, ngày 26/11/2017, báo Tuổi Trẻ đăng tải video: “Kinh hoàng

bảo mẫu đày đọa trẻ mầm non tại trường tư thục” (hình ảnh trong phóng sự

38

điều tra của Truyền hình Tuổi Trẻ), phản ánh tình trạng các bảo mẫu tại cơ sở

mầm non tư thục Mầm Xanh trên đường HT 05, phường Hiệp Thành, quận

12, TP.HCM, hành hạ nhiều trẻ nhỏ.

Trước khi bị phát giác đánh đập trẻ, cơ sở tư thục này nhận giữ 30-40

trẻ, từ 12 tháng đến 4 tuổi. Đa số các bé là con của công nhân trên địa bàn.

Theo phản ánh, mỗi sáng nhận các cháu vào lớp, bà Linh và hai bảo mẫu tên

Huỳnh và Đào đều tươi cười niềm nở. Tuy nhiên, khi cha mẹ các bé đi làm,

con họ bị đánh đập. Nhiều trẻ bị hành hạ ngay trong lúc ăn, tắm rửa, vệ sinh,

học tập… khiến các em đến trường trong sợ hãi. Nhiều bé bị bảo mẫu Linh tát

vào mặt liên tiếp, bị đánh bằng vá múc canh, bình nhớt, lưỡi dao. Hai bảo

mẫu Huỳnh và Đào dùng nhiều vật dụng như cây, vá múc canh, thìa, ống

nhôm, lược, chổi, cây lau nhà đánh trẻ. Bảo mẫu còn dùng chân đạp vào

người trẻ.

Dựa vào những hành vi nêu trên, ngày 25/07/2018 Tòa án nhân dân

Quận 12 xét xử sơ thẩm tuyên bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Đào,

Phạm Như Huỳnh phạm tội “Hành hạ người khác”.

Xử phạt: bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh 03 (ba) năm tù; bị cáo Nguyễn Thị

Đào 02 (hai) năm tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 04

(bốn) năm; bị cáo Phạm Như Huỳnh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng

cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm.

Từ vụ án trên cho ta thấy, khi các bị cáo thực hiện hành vi hành hạ trẻ

nhỏ thì không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, như lời khai của bị

cáo Nguyễn Thị Đào và Phạm Như Huỳnh khai: các bị cáo chỉ làm theo

hướng dẫn của bị cáo Phạm Thị Mỹ Linh “cháu nào hư thì phải phạt để các

cháu nghe lời”. Rõ ràng các bị cáo không nhận thức được như thế nào là hành

vi hành hạ người khác. Điều này xuất phát một phần từ việc BLHS mới chỉ

mô tả dấu hiệu định tội của tội hành vi hành hạ một cách chung chung, chưa

39

rõ ràng, trong đó: hành vi hành hạ chỉ là hành vi đối xử tán ác hoặc làm nhục.

Như thế nào là đối xử tàn ác hoặc làm nhục thì hiện nay vẫn chưa có văn bản

nào hướng dẫn. Chính vì vậy, người phạm tội cứ thực hiện hành vi hành hạ

người khác nhưng không biết đó hành vi hành hạ được quy định trong BLHS,

người xung quanh thì xem đó là cách trông giữ trẻ nên không tố giác tội

phạm, cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra thờ ơ do không nhận biết

các dấu hiệu trẻ bị hành hạ, cụ thể: ngày 23/11/2017 Uỷ ban nhân nhân

Phường Hiệp Thành, Quận 12 kiểm tra chỉ lập biên bản xử phạt hành chính cơ

sở mầm non tư thục Mầm Xanh [28]. Do đó, việc dấu hiệu định tội chưa rõ

ràng gây khó khăn cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xử lý tội phạm.

Thứ hai, xác định tội danh sai, chưa thống nhất do các cơ quan tiến

hành tố tụng còn nhầm lẫn giữa các dấu hiệu định tội của một số tội phạm

tương tự nhau.

Vụ án số 2: Cô giáo Trần Thị Xuân Nữ là giáo viên Trường mầm non

Hoa Lan nhốt trẻ Lê Quang Vinh trong thang máy [31].

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17/09/2010, Trần Thị Xuân Nữ là giáo

viên Trường mầm non Hoa Lan, Nữ phụ trách cho 23 bé nam ăn trưa. Cháu

Lê Quang Vinh (sinh ngày 19/12/2006) không ăn, Nữ nhắc nhở nhiều lần,

cháu Vinh không nghe. Nữ bế cháu Vinh mở cửa đưa cháu Vinh vào thang

máy ở tầng một, bấm nút vận hành di chuyển xuống tầng trệt (chức năng của

thang máy chỉ để vận chuyển thức ăn mà không phải để chở người). Nữ đi

nhanh xuống tầng trệt, mở cửa thang máy thấy cháu Vinh nằm trên sàn thang

máy, máu chảy ra nhiều. Sẵn có một phụ huynh đến đón con em về, Nữ nhờ

chở Nữ và cháu Vinh đến bệnh viện cấp cứu.

Quá trình điều tra vụ án, quan điểm xử lý hành vi phạm tội của Trần

Thị Xuân Nữ thiếu nhất quán. Ban đầu Trần Thị Xuân Nữ bị khởi tố điều tra

về tội “Hành hạ người khác” theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 435

40

ngày 03/11/2010 của Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Phú. Sau đó lại thay

đổi tội danh từ tội “Hành hạ người khác” thành tội “Cố ý gây thương tích”

theo Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự số 05, quyết định

khởi tố bị can số 52 ngày 20/01/2011.

Có thể nói, cơ quan CSĐT Công an quận Tân Phú còn lúng túng, bị

động trong việc xử lý vụ án. Việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị

can từ hành vi “hành hạ người khác” sang hành vi “cố ý gây thương tích” đều

do VKSND quận Tân Phú yêu cầu, cơ quan CSĐT chỉ chấp hành.

Ngày 15/07/2011, TAND quận Tân Phú, TP.HCM đã đưa ra xét xử vụ

án cô giáo Trần Thị Xuân Nữ (30 tuổi, nguyên giáo viên Trường Mầm non

Hoa Lan, quận Tân Phú) về hành vi “cố ý gây thương tích”.

Theo tác giả, giữa cô giáo Nữ với trẻ Vinh mặt dù có quan hệ lệ thuộc

nhưng hành vi của bị cáo Nữ không chỉ dừng lại ở việc hành hạ mà còn gây

thương tích cho trẻ Vinh, cụ thể: theo kết quả giám định cho thấy bé Vinh bị

chấn thương tại vùng đầu, lóc da thái dương, rách da chỏm đầu, gãy xương

đòn, mặt mũi và toàn bộ phần thân trước bị chà xát, chảy máu nhiều nơi… Do

đó, Tòa án quận Tân Phú xét xử với tội danh “Cố ý gây thương tích” là hoàn

toàn đúng người đúng tội.

Vụ án số 3: Vụ án Nguyễn Thị Nga (sinh năm 1971 tại Bắc Ninh) hành

hạ người làm thuê [25].

Nguyễn Thị Nga thường xuyên đánh đập các em Nguyễn Văn Ước

(sinh năm 1987), Lê Đăng Phúc, Chung Văn Đông và Đinh Thị Kim Thoa

(đều sinh năm 1989) là những người làm thuê cho vợ chồng Nga tại căn nhà

thuê ở Phường 13, quận Tân Bình. Sau khi phát hiện sự việc và tiến hành điều

tra, xác minh thì căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày

04/03/2005 Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Bình đã ra Quyết định khởi tố

vụ án và khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Nga về tội cố ý gây thương tích.

41

Tuy nhiên đến ngày 09/05/2005, Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Bình lại

ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với

Nguyễn Thị Nga từ tội “Cố ý gây thương tích” sang tội “Hành hạ người

khác”.

Qua hai vụ án trên cho thấy Cơ quan CSĐT có sự nhầm lẫn giữa dấu

hiệu định tội của tội hành hạ người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại sức khỏe của người khác. Điều này phản ảnh hoạt động chứng minh

tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, cũng như một số quy

định của BLHS chưa rõ ràng dễ gây sự nhầm lẫn. Do đó, các cán bộ làm công

tác chuyên môn cần phải nắm chắt và phân biệt các dấu hiệu định tội của từng

loại tội cụ thể thì mới đảm bảo vụ án được điều tra, truy tố, xét xử đúng

người, đúng tội.

Thứ ba, cơ quan tiến hành tố tụng khi quyết định mức hình phạt còn

quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm

tội nên thể hiện tính răng đe và phòng ngừa tội phạm.

Vụ án số 4: Vụ án bé gái 5 tuổi Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là

anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh đập dã man (Phụ lục 2) [26]

Chị Nguyễn Ngọc Giàu và Tiến chung sống với nhau như vợ chồng.

Trước đó, chị này đã gửi con gái riêng là cháu Nguyễn Thị Yến Nhi (sinh

năm 2014) nhờ cha ruột chăm sóc.

Ngày 02/12/2018, chị Giàu và Tiến đón cháu Nhi đi chơi tại nơi Tiến

làm việc ở phường Hiệp Thành, Quận 12. Sau đó, chị Giàu để con gái ở chơi

nhà chị ruột của mình là Nguyễn Thị Ánh Hồng. Lúc này, chị Hồng phát hiện

trên cơ thể cháu Nhi có nhiều vết bầm tím nên hỏi thì bé nói do Tiến đánh.

Chị Hồng thông báo cho cha ruột, đồng thời đưa bé Nhi đến Công an

phường Hiệp Thành trình báo sự việc.

Kết quả giám định pháp y và giám định tâm thần cho thấy cháu Nhi bị

42

đa chấn thương tỉ lệ 11%. Chưa có căn cứ pháp lý xác định tỉ lệ % ảnh hưởng

tâm lý sang chấn gây ra.

Tại CQĐT, Tiến khai hằng ngày chị Giàu làm việc nơi khác, Tiến làm

phụ hồ và trông cháu Nhi. Trong hai ngày 14 và 15/12/2018, Tiến dùng tay tát

vào mặt và dùng thanh tre đánh vào mu bàn tay, đầu gối, mông cháu Nhi.

Ngoài ra, vết thương tại bộ phận sinh dục và một số vết thương trên hai bàn

chân cháu bé không phải do Tiến gây ra.

Cơ quan chức năng không đủ cơ sở xác định tỉ lệ thương tật 11% của

cháu Nhi do Tiến gây ra nhưng đủ cơ sở xác định bị cáo phạm tội hành hạ

người khác.

Tại phiên tòa ngày 12/09/2019, bị cáo nói hành hạ cháu Nhi vì cháu

Nhi nghịch ngợm, sáng dậy thường không chịu ăn, khi ăn thì hay làm đổ thức

ăn xuống giường và đi vệ sinh bừa bãi, do nói cháu không được nên ngày 14

và 15/12/2018 bị cáo có dùng tay tát vào má, rồi bắt cháu Nhi nằm xuống

giường, dùng thanh tre đánh vào tay, chân và vào mông của cháu Nhi. Ngoài

ra, bị cáo không dùng hung khí gì khác để đánh cháu. Bị cáo lý giải ba vết tổn

thương da, dạng hình tròn, đường kính khoảng 0,1 cm tại khu vực mu bàn

chân cháu Nhi là do bị cáo hút thuốc, tàn thuốc lá rơi xuống đệm. Cháu Nhi

ngủ, lăn qua nên bị bỏng.

Tòa cho rằng dù cháu Nhi nằm ở tư thế nào thì mu bàn chân luôn

vuông góc với bề mặt đệm, nên lý giải của Tiến không được chấp nhận. Lúc

này, bị cáo mới thú nhận hành vi dùng đầu tàn thuốc lá gí vào mu bàn chân bé

Nhi.

Kết thúc phiên tòa, Tòa án nhân dân Quận 12 tuyên bị cáo Nguyễn

Trung Tiến phạm tội “Hành hạ người khác” với mức hình phạt là 02 (hai)

năm tù.

Qua vụ án trên cho chúng ta thấy nạn nhân của tội hành hạ người khác

43

và cụ thể trong vụ án này là bé Nguyễn Thị Yến Nhi thì ngoài những thương

tích để lại trên cơ thể bé còn bị ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về

thể chất và tâm sinh lý, nhưng mức hình phạt chỉ có 2 năm tù. Tuy nhiên nếu

có xử phạt với mức cao nhất thì BLHS quy định đối với tội hành hạ người

khác cũng chỉ có 3 năm tù. Theo tác giả thì mức hình phạt này chưa đủ để răn

đe tội phạm, khi xử phạt còn luồng ý kiến bán tán, còn gây bức xúc trong

nhân dân nên chưa đảm bảo tính răng đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm

chung cho xã hội.

Thứ tư, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS giữa các

cơ quan áp dụng pháp luật còn sai sót, chưa có sự thống nhất dẫn đến việc

quyết định mức hình phạt cũng có sự khác nhau.

Trong một số vụ án, các bị cáo bị xét xử với khung hình phạt và tình

tiết định khung tăng nặng như nhau nhưng HĐXX lại áp dụng các tình tiết

giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS không thống nhất. Điều này chủ yếu

xảy ra khi áp dụng tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng” đối với các bị cáo.

Điển hình như trong vụ án của bị cáo Nguyễn Trung Tiến hành hạ cháu

Nguyễn Thị Yến Nhi như đã nêu trên, TAND Quận 12 nhận định “bị cáo mới

phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” do đó áp dụng điểm i

khoản 1 Điều 51 của BLHS khi quyết định hình phạt. Hoặc như trong vụ án

sau đây:

Vụ án số 5: Bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc hành hạ trẻ Phan Thị Ngọc

Diễm ở cơ sở mầm non Ánh Sao Vàng, huyện Bình Chánh (Phụ lục 3) [27]

Sáng ngày 15/11/2018, TAND huyện Bình Chánh đưa ra xét xử sơ

thẩm vụ án hành hạ người khác do bị cáo Trần Thị Hồng Phúc (25 tuổi, ngụ

quận 8, TP.HCM) là bảo mẫu lớp mầm non Ánh Sao Vàng (huyện Bình

Chánh, TP.HCM) thực hiện.

44

Theo cáo trạng, Trần Thị Hồng Phúc vào làm bảo mẫu tại lớp mầm non

Ánh Sao Vàng (xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, TP.HCM) từ tháng

01/2018.

Sáng 25/07/2018, Phúc cho các bé trong lớp uống sữa, riêng bé Phan

Thị Ngọc Diễm (sinh năm 2013) bị bệnh nên không uống sữa mà nôn ói trên

sàn nhà. Phúc lấy dép nhựa đang mang dưới chân đánh liên tiếp nhiều cái vào

chân bé Diễm. Thấy bé Diễm khóc, Phúc gọi các bé trong lớp lấy kéo dùng để

cắt giấy trang trí định hù doạ thì bé Diễm vùng vẫy. Phúc dùng tay và chân

giữ bé Diễm nằm cố định rồi cầm kéo chĩa vào miệng bé Diễm để đe doạ thì

bé Diễm nằm im. Phúc bỏ kéo xuống và tiếp tục dùng tay đánh nhiều cái vào

mặt bé Diễm rồi cho bé Diễm đi ngủ. Một cô bảo mẫu khác thấy và lấy kem

thoa lên vùng bị sưng tấy trên mặt bé Diễm.

Kết quả giám định pháp y tháng 07/2018, bé Diễm bị chấn thương phần

mềm gây sưng bầm vùng má, thái dương phải, hiện còn hình ảnh bầm tụ máu

vùng má phải, không rối loạn chức năng trên lâm sàng.

Tại tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, vì chuyện gia đình

và sự tức giận nên bị cáo không kiểm soát được hành vi của mình khi trẻ quấy

khóc. Bị cáo từng học chứng chỉ bảo mẫu cấp tốc trong vòng 01 tháng. Bị cáo

có con nhỏ, bị thiểu năng. Mẹ bị cáo bị bệnh, đi lại khó khăn, hiện phải chăm

sóc trong thời gian bị cáo bị tạm giam. Gia đình bị cáo đã bồi thường 65 triệu

cho gia đình bị hại và gia đình bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

HĐXX nhận định, cáo trạng truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng

người, đúng tội. Bị cáo không làm tròn trách nhiệm của một bảo mẫu mà đối

xử bạo hành, dùng kéo đe doạ.

HĐXX tuyên bị cáo Trần Thị Hồng Phúc phạm tội “Hành hạ người

khác” và xử phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Tuy nhiên, trong phần nhận định của Tòa án, HĐXX cũng nhận định bị

45

cáo “phạm tội lần đầu, bản thân chưa có tiền án, tiền sự” tương tự như vụ án

của bị báo Nguyễn Trung Tiến. Mặc dù vậy nhưng khi quyết định áp dụng các

tình tiết giảm nhẹ TNHS lại không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS là

thiếu sót. Điều này thể hiện năng lực trình độ chuyên môn của các cán bộ làm

công tác áp dụng pháp luật còn chưa đồng đều.

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong áp dụng quy định của

pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác

Qua thực tiễn so sánh, phân tích các vụ án nêu trên cho ta thấy việc áp

dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác hiện nay

còn gặp nhiều hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tựu trung

chúng ta có thể chia thành 2 nguyên nhân chính sau:

2.2.2.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật

Thứ nhất, quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng, cụ thể là mặt khách

quan của tội hành hạ người khác chưa có hướng dẫn nên gây khó khăn cho

công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Theo phân tích tại mục 1.1.2.2 Chương 1 thì tội hành hạ người khác có

hành vi khách quan là hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc

mình. Như vậy, tội hành hạ người khác là tội có yếu tố định tính chứ không

có yếu tố định lượng, không quy định hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, từ khi

BLHS 2015 ra đời cũng không có một văn bản pháp lý nào hướng dẫn và giải

thích các hành vi khách quan như thế nào là đối xử tàn ác hoặc làm nhục

trong tội hành hạ người khác. Do đó, trong một số vụ án khi điều tra, truy tố,

xét xử chỉ dựa vào lời khai của người bị hại kết hợp với bị cáo thành khẩn

khai báo hoặc có các thiết bị ghi âm ghi hình lại hành vi hành hạ thì sẽ dễ

dàng cho cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh hành vi phạm tội. Nhưng đối

với trường hợp bị cáo không thừa nhận thì việc thu thập chứng cứ để chứng

minh có hay không có hành vi hành hạ là rất khó khăn, không hề đơn giản cho

46

cơ quan tiến hành tố tụng, do đó, thực tế sẽ có rất nhiều trường hợp bỏ lọt tội

phạm.

Mặt khác, theo các nhà nghiên cứu, bình luận khoa học thì việc hành hạ

có thời gian dài lăp đi lăp lại mới CTTP. Tuy nhiên, khi đối chiếu với quy

định tại Điều 140 BLHS thì không quy định việc tội phạm thực hiện hành vi

hành hạ một lần hay nhiều lần hay trong khoản thời gian bao lâu.

Do đó, trong thực tiễn để xác định mức độ đối xử tàn ác hoặc làm nhục

người khác được thực hiện trong thời gian bao lâu, với mức độ như thế nào để

được coi là phạm tội thì đều phụ thuộc vào sự đánh giá mang tính chủ quan,

kinh nghiệm, kiến thức của người áp dụng pháp luật, của các cơ quan tiến

hành tố tụng trên cơ sở hậu quả những hành vi tàn ác, hành vi làm nhục của

người phạm tội, vào việc xâm phạm đến tập quán, phong tục và sự lên án của

dư luận thông qua các tổ chức xã hội, của các phương tiện thông tin đại

chúng. Hiện nay việc nhận thức về vấn đề này mỗi nơi một khác, trình độ

chuyên môn của cán bộ điều tra, truy tố, xét xử còn chưa đồng đều nên dẫn

đến việc áp dụng pháp luật còn tuỳ tiện, không thống nhất, có khi nhầm lẫn

giữ ranh giới vi phạm hành chính và tội phạm hoặc định tội danh sai. Có thể

thấy, việc định tội danh sai đồng nghĩa với việc chưa đánh giá đúng tính chất

và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ hai, các tình tiết định khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp

thực tiễn, chưa có các văn bản hướng dẫn cho phù hợp với những tình tiết

định khung đã được sửa đổi, do đó phần nào gây khó khăn cho cán bộ điều tra

truy tố, xét xử trong việc áp dụng pháp luật.

Thực tiễn các vụ án nêu trên thì vụ án nào người phạm tội hành hạ

người khác cũng đều sử dụng công cụ phương tiện để hành hạ nạn nhân. Tuy

nhiên, các tình tiết định khung tăng nặng được quy định khoản 2 Điều 140

BLHS chủ yếu chỉ tập trung vào người bị hại là các đối tượng đặt biệt và số

47

lượng nạn nhân bị xâm hại chứ chưa chú trọng những tình tiết tăng nặng liên

quan đến việc người phạm tội sử sụng công cụ, phương tiện phạm tội, như vụ

án: bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc “Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày,

Phúc cho cho các bé uống sữa, riêng bá Diễm bị bệnh nên không uống và ói

trên sàn nhà: Phú tức giận liền dùng tay phải lấy chiếc dép nhựa đang mang

dưới chân, đánh liên tiếp nhiều cái vào chân bé Diễm và dùng tay đánh vào

mặt bé Diễm. Thấy bé khóc, Phúc kêu các bé trong lớp lấy cây kéo (dùng để

cắt giấy trang trí lớp học) định hù dọa bé Diễm thì bé Diễm vùng vẫy, Phúc

dùng tay và chân giữa bé Diễm nằm cố định rồi cầm kéo chĩa vào miệng bé

Diễm đe dọa thì bé Diễm nằm im, Phúc bỏ kéo xuống và tiếp tục dùng tay

đánh nhiều cái vào mặt Diễm rồi cho Diễm đi ngủ” [27]; vụ bị cáo Nguyễn

Trung Tiến “Vào ngày 14 và 15/12/2008 bị cáo có dùng tay tát vào má, rồi

bắt cháu Nhi nằm xuống giường , dùng thanh tre đánh vào tay, chân và vào

mộng của cháu Nhi” [26]. Như vậy, rõ ràng một trong những cách mà người

phạm tội hỗ trợ việc thực hiện hành vi hành hạ nạn nhân là sử dụng công cụ,

phương tiện. Tóm lại, việc Điều luật chưa quy định công cụ phương tiện

phạm tội vào tình tiết định khung tăng nặng là chưa phù hợp với thực tế khách

quan.

Mặt khác, Điều 140 BLHS chỉ quy định phạm tội đối với người dưới 16

tuổi. Theo tác giả người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng là người chưa

phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có khả năng nhận thức và

kiểm soát hành vi còn bị hạn chế so với người trên 18 tuổi khi tham gia vào

các quan hệ xã hội, họ dễ bị tác động từ các điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài,

điều này thể hiện qua tình trạng trẻ em bị xâm hại, bạo hành, bóc lột lao động

đang xảy ra thường xuyên và có dấu hiệu gia tăng nhanh chóng. Tại điểm a

khoản 2 Điều 140 BLHS chỉ quy định tình tiết tăng nặng phạm tội với người

dưới 16 tuổi nhưng chưa quy định trường hợp phạm tội đối với người từ đủ

48

16 tuổi đến dưới 18 tuổi là còn thiếu sót nên còn hạn chế trong đấu tranh

phòng chống tội hành hạ người khác cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị tội phạm này xâm hại.

Về tình tiết phạm tội đối với “phụ nữ mà biết có thai, ốm đau, người

khác không có khả năng tự vệ” thì hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn

cụ thể, chẳng hạn, đối với tình tiết “phụ nữ mà biết có thai” thì hiện nay

chúng ta chỉ áp dụng theo tinh thần của Mục 2.3 mục 2 Nghị quyết

01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn “Phụ nữ có thai” tương ứng

với quy định tại Điều 110 của BLHS năm 1999, nhưng Điều 140 BLHS năm

2015 quy định “Phụ nữ mà biết có thai”. Như vậy, rõ ràng 2 tình tiết này có

sự khác nhau hoàn toàn về nội dung và ý nghĩa, vì đối với luật cũ thì chỉ cần

nạn nhân là phụ nữ có thai thì người phạm tội sẽ bị áp dụng tình tiết định

khung tăng nặng này bất kể người phạm tội có biết hay không, còn đối với

luật mới khi nào người phạm tội “biết” phụ nữ có thai mà vẫn thực hiện hành

vi hành hạ thì mới áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Do đó, nếu các

cán bộ điều tra, truy tố, xét xử có năng lực trình độ chuyên môn yếu kém thì

dễ nhầm lẫn trong việc áp dụng hay không áp dụng các tình tiết định khung

tăng nặng này để xử lý tội phạm.

Thứ ba, Điều 140 BLHS quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp,

chỉ tương đương với tội phạm ít nghiêm trọng như vậy là chưa tương xứng

với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi hành hạ người khác. Do đó,

chưa thể hiện được tính nghiêm khắc của hình phạt.

Qua thực tiễn công tác xét xử cho thấy đa số người bị hại là trẻ em. Trẻ

em là mầm non, là tương lai của đất nước và là đối tượng được đặc biệt quan

tâm, chăm sóc và giáo dục và bảo vệ của cả xã hội, điều này đã được cụ thể

hóa Luật trẻ em năm 2016 “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được

bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển” [18, Điều 12]. Do đó,

49

hành vi hành hạ đối với trẻ em là không thể chấp nhận vì hành vi hành hạ đó

không chỉ để lại những hậu quả nặng nề về sức khỏe thể chất, mà còn ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của trẻ kéo theo nhiều hệ lụy tâm

lý. Tất cả những hành động như đánh đập, vùi dập, khủng bố, làm nhục… đều

khiến đứa trẻ thiếu tự tin, rụt rè, luôn trong trạng thái thảng thốt. Khi bị bạo

hành thường xuyên sẽ khiến trẻ có những rối loạn hành vi và ứng xử, như vụ

án của cô giáo Trần Thị Xuân Nữ nhốt trẻ Lê Quang Vinh trong thang máy:

“Cha mẹ của cháu Lê Quang Vinh cho biết sau tai nạn đó cháu rất sợ bóng

tối, sợ hãi khi nghe chữ “cô” và kiên quyết không đi học. Gần cả năm qua

cháu vẫn được chăm sóc tại nhà và có biểu hiện hiếu động, sử dụng bạo lực

khi chơi với trẻ khác” [12].

Đối với người già, người khuyết tật khi trở thành nạn nhân của vụ án bị

hành hạ sẽ mang tâm trạng xấu hổ, mặt cảm với xã hội đến cuối đời. Trong

những năm qua tại TP. HCM mặt dù số lượng xét xử tội hành hạ người khác

có số lượng rất nhỏ với tỷ lệ trung bình 1 năm khoản 0,02% nhưng mỗi khi có

01 vụ hành hạ xảy ra đều có sự quan tâm đông đảo mọi người, mọi tầng lớp

trong xã hội, luôn được báo chí đưa tin, vậy rõ ràng hành vi hành hạ người

khác theo tác giả là nghiêm trọng, nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 140

BLHS 2015 thì mức hình phạt cao nhất cũng chỉ có 3 năm tù tương ứng với

loại tội phạm ít nghiêm trọng. Thực tiễn cho ta thấy, dù Tòa tuyên án với mức

hình phạt cao nhất là từ 3 năm tù thì vẫn còn nhiều luồng ý kiến bất bình, bức

xúc vì nó chưa thật sự tương xứng với mức độ hành vi phạm tội và hậu quả

tâm sinh lý mà người bị hại phải gánh chịu cho hiện tại và tương lai.

2.2.2.2. Nguyên nhân từ các chủ thể áp dụng pháp luật

Thứ nhất, trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ làm công

tác điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém.

Qua nghiên cứu và so sánh tại mục 1.2 Chương 1 thì tội hành hạ người

50

khác có các yếu tố CTTP tương tự một số loại tội phạm khác. Tuy nhiên hiện

nay chưa có nhiều văn bản hướng dẫn phân biệt giữa các loại tội này, trong

khi một số các cán bộ làm công tác chuyên môn chưa thật sự năng nổ, chưa tự

trao dồi kiến thức pháp luật, không tự cập nhật các quy định mới của pháp

luật nên còn tình trạng chưa nắm chắt CTTP, các dấu hiệu định tội đặc trưng

của từng tội phạm, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, các quy

định tố tụng hình sự nên đề ra yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử không đảm bảo

chất lượng; không đúng hướng, toàn diện, triệt để; không sát với các tình tiết

của vụ án hoặc không khả thi, bất hợp lý hoặc định tội danh sai dẫn đến quyết

định hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội.

Điều này ảnh hưởng đến mục đích của hình phạt.

Mặt khác một số các cán bộ làm công tác chuyên môn có ý thức trách

nhiệm đối với công việc chưa cao, chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, chưa nhận thức

đúng đắn về trách nhiệm, quyền hạn của mình và tầm quan trọng của mình

trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trên thực tế tội phạm xảy ra

nhiều, công khai trong cuộc sống hằng ngày nhưng việc quản lý của các cơ

quan chức năng còn lõng lẻo, xử lý về mặt hình sự còn hạn chế. Trong đó,

một trong những tệ nạn dư luận quan tâm hiện nay là nạn chăn dắt, hành hạ

trẻ em, người già để đi ăn xin. Nổi cộm là những thành phố lớn trong đó có

TP. HCM. Nhiều người đã chứng kiến cảnh các em bị đánh đập mỗi khi đi

xin ăn hay bán vé số không đủ chi tiêu do chủ lao động đặt ra. Tuy nhiên hành

vi này chỉ bị xử lý hành chính. Vì các cơ quan chức năng, trong đó ý thức của

cán bộ làm công tác chuyên môn còn vô tâm, không có trách nhiệm với công

việc hoặc chưa nhận định đúng tính chất của hành vi phạm tội, nhiều hành vi

phạm tội chưa được xử lý. Từ đó gây mất lòng tin của người dân, làm tình

hình tội phạm ngày càng gia tăng. Đây cũng chính là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.

51

Do đó, việc nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán

bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử có ý nghĩa vô cùng to lớn trong hoạt

động đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác nói riêng và tội phạm nói

chung.

Thứ hai, nguyên nhân từ ý thức chấp hành pháp luật kém của người

dân.

Pháp luật được ban hành nhằm quản lý xã hội và điều chỉnh các mối

quan hệ xã hội phát triển theo hướng phục vụ đông đảo tầng lớp nhân dân.

Mục đích của pháp luật có đạt được hay không phải thông qua hành vi xử sự

của mỗi người dân, của cơ quan, tổ chức, trong đó ý thức tự giác chấp hành

pháp luật của người dân có ý nghĩa quan trọng nhất để đảm bảo pháp luật phát

huy hiệu lực. Tuy nhiên, việc hiểu biết pháp luật của một số bộ phận dân cư

còn thấp dẫn đến trường hợp người phạm tội thực hiện có hành vi hành hạ

người khác nhưng không hề biết mình đã vi phạm pháp luật, như lời khai của

bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc khai rằng việc thực hiện hành vi hành hạ chỉ để

dọa nhằm mục đích cho các cháu ăn chứ không biết hành vi đó là vi phạm

pháp luật. Cho thấy sự hiểu biết các quy định của pháp luật hình sự về tội

hành hạ người khác của một số bộ phận quần chúng nhân dân còn chưa cao.

Bên cạnh đó, một số người dân hiểu quy định của pháp luật nhưng lại

chưa có ý thức tôn trọng pháp luật, chưa mạnh dạng tố giác tội phạm nên có

nhiều vụ án hành hạ người khác có thời gian kéo dài dã lâu mới bị phát hiện

cũng do người dân có thái độ thờ ơ vì sợ liên lụy, sợ trả thù. Với họ việc thực

thi pháp luật là hoạt động của cơ quan công quyền chứ không phải là của

người dân.

Đối với người bị hại, đại đa số nạn nhân của tội hành hạ người khác là

trẻ em, trẻ em thì chưa nhận thức được tính chất của hành vi hành hạ nên khó

có thể tự tố giác tội phạm, cha mẹ thì chưa thật sự quan tâm con cái, đa số các

52

vụ án trên đều do người ngoài tố cáo. Hoặc nhiều trường hợp lệ thuộc vào

kinh tế giữa chủ với người giúp việc nhà, bị đe dọa… nên không dám tự tố

giác tội phạm để bảo vệ quyền lợi cho mình. Ngoài ra cũng có một số trường

hợp người bị hại không hiểu biết về pháp luật nên không ý thức được mình

đang là nạn nhân của hành vi hành hạ nên không có bất ký sự phản kháng

nào. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tội phạm

hành hạ người khác bị “ẩn” chưa được phát hiện.

Tiểu kết Chương 2

Trong Chương 2 của Luận văn, tác giả chỉ ra tình hình của tội phạm

hành hạ người khác trên địa bàn TP. HCM thông qua các số liệu về khởi tố vụ

án của Viện Kiểm sát cũng như số liệu xét xử của Tòa án từ năm từ 2014 đến

2019. Trên cơ sở đó, tác giả kết hợp với các vụ án diễn ra trong thực tiễn, như

vụ án ba bảo mẫu Phạm Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Đào, Phạm Như Huỳnh

hành hạ 24 trẻ em ở cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh, Quận 12 năm 2018;

vụ án bảo mẫu Trần Thị Hồng Phúc hành hạ trẻ Phan Thị Ngọc Diễm ở cơ sở

mầm non Ánh Sao Vàng, huyện Bình Chánh năm 2018; vụ án bé gái 5 tuổi

Nguyễn Thị Yến Nhi bị dượng “hờ” là anh Nguyễn Trung Tiến hành hạ đánh

đập dã man… để giúp cho người đọc hình dung một cách sinh động nhất

những hạn chế khi áp dụng Điều 140 BLHS trong công tác điều tra, truy tố,

xét xử mà các cán bộ làm công tác chuyên môn hiện nay gặp phải. Qua đó,

tác giả đã liệt kê, phân tích, đánh giá được một số nguyên nhân dẫn đến

những hạn chế trên như: quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng; các tình tiết

định khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp thực tiễn, chưa có các văn bản

hướng dẫn; quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp; có một số nguyên

nhân từ: trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ làm công tác

điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém; ý thức chấp hành pháp luật kém của

người dân. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học nhằm giúp cho người

53

đọc, các nhà nghiên cứu, các nhà làm luật hiểu rõ hơn nữa những quy định

chưa hoàn chỉnh, những lỗ hỏng của Điều luật. Đồng thời, từ kết quả nghiên

cứu Chương 1 và Chương 2 là cơ sở để tác giả nghiên cứu chuyên sâu chỉ ra

những một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp

luật về tội hành hạ người khác nhằm làm cho Điều luật không chỉ là công cụ

đảm bảo mang tính răng đe phòng ngừa tội phạm mà còn phải đảm bảo tính

54

khả thi trong thực tiễn.

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HÀNH HẠ

NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành

hạ người khác

BLHS hiện hành cũng như một số văn bản pháp luật khác của Nhà

nước ta khi ban hành vẫn tồn tại những hạn chế, thiếu sót nhất định mà chỉ

đến khi được đưa vào áp dụng trong thực tiễn thì chúng ta mới có thể nhận

thấy được. Bên cạnh đó khi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều

thay đổi theo thời gian thì một số quy định của BLHS cũng không còn phù

hợp nữa dẫn đến tất yếu phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới.

Việc hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác trong BLHS xuất phát từ

các yêu cầu sau:

Thứ nhất, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội

hành hạ người khác để phù hợp với chính sách bảo vệ hơn nữa quyền con

người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người là trung tâm trong sự

nghiệp phát triển đất nước vì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công

bằng, văn minh. Đảng và Nhà nước ta bảo đảm các quyền con người trên thực

tế bằng cách xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo

đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người. Điều 38 khoản 2 Hiến pháp năm

2013 quy định: “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của

người khác và cộng đồng”; đối với quyền bất khả xâm phạm về thân thể,

danh dự, nhân phẩm con người được quy định tại khoản 1 Điều 20 của Hiến

pháp năm 2013 với nội dung: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về

55

thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không

bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác

xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.

Những quy định trên của Hiến pháp chính là kim chỉ nam để hoàn thiện

chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng của Đảng và

Nhà nước. Để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân

phẩm của công dân thì trong BLHS đã dành chương XIV trong Phần Các tội

phạm để quy định 34 tội danh liên quan đến các hành vi xâm phạm đến tính

mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong đó có tội hành hạ

người khác. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tội phạm nói chung và tội hành hạ

người khác nói riêng ngày càng có những diễn biến phức tạp, xâm phạm

nghiêm trọng trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của công dân.

Những hậu quả do loại tội phạm này gây ra đã làm giảm sút niềm tin của

người dân đối với các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà

nước trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người trong xã hội, gây trở

ngại cho mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,

việc hoàn thiện các quy định của luật hình sự về tội hành hạ người khác chính

là để đáp ứng nhu cầu bảo đảm quyền con người, bảo vệ sức khỏe của công

dân và phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.

Thứ hai, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội

hành hạ người khác để đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

Kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua đã và đang có những

bước phát triển tích cực và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy

nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta

nhiều khó khăn, thử thách cần khắc phục trong nhiều lĩnh vực, trong đó có

lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong những năm gần đây, tình

hình tội phạm đang có những diễn biến phức tạp trong xã hội, đặc biệt là các

56

tội phạm xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân mà tiêu biểu

là tội hành hạ người khác đang xảy ra thường xuyên và trở thành vấn đề gây

bức xúc cho toàn xã hội. Trong khi đó, quy định của BLHS hiện nay về tội

hành hạ người khác đã bộc lộ rõ nhiều điểm bất cập, thiếu sót, không phù hợp

với tình hình xã hội; những hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả của

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hành hạ người khác. Vì vậy, cần

tiếp tục hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác để góp phần tạo ra một

nền tảng pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ tốt hơn sức khỏe của công dân, góp

phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật

về tội hành hạ người khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng

pháp luật thống nhất khi xử lý tội phạm này trong thực tiễn.

Thứ ba, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội

hành hạ người khác để đảm bảo phân biệt giữa tội hành hạ người khác với các

tội phạm khác trong luật hình sự và với hành vi vi phạm pháp luật hành chính.

Hiện nay việc quy định hành vi hành hạ người khác và đường lối xử lý

đối với hành vi này trong thực tế còn nhiều điểm bất cập khiến cho việc áp

dụng pháp luật không thống nhất trong thực tiễn vì tất cả phụ thuộc vào quan

điểm đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng nên mỗi nơi có cách hiểu

khác nhau và áp dụng pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, các hành vi khách

quan của tội hành hạ người khác như: xâm phạm sức khỏe, thân thể… không

những được quy định trong luật hình sự mà còn được quy định trong pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính, do đó việc hoàn thiện các quy định của luật

hình sự về tội hành hạ người khác là rất cần thiết nhằm quy định cụ thể, hoàn

chỉnh về tội danh và hình phạt đối với loại tội phạm này, qua đó nâng cao

hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời

việc hoàn thiện quy định về các dấu hiệu định tội hành hạ người khác sẽ giúp

phân biệt tội hành hạ người khác và các tội có dấu hiệu tương tự, đồng thời

57

phân định rõ ranh giới giữa hành vi vi phạm hành chính và tội phạm hành hạ

người khác trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi có hành vi phạm tội xảy ra.

Thứ tư, yêu cầu hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về tội

hành hạ người khác để phù hợp với ý thức pháp luật của người dân.

Ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân được hình thành dựa trên nhận

thức và trình độ hiểu biết pháp luật của mỗi người dân, vì vậy những quy định

của pháp luật nếu đảm bảo tính hoàn chỉnh, khả thi sẽ dễ đi vào cuộc sống,

được xã hội chấp nhận và sẽ được người dân nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy

nhiên, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của mỗi người dân lại không

giống nhau, vì vậy những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình

sự nói riêng muốn đi vào đời sống xã hội thì phải đảm bảo tính rõ ràng, cụ

thể, dễ hiểu và phù hợp với trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân để

người dân dễ tiếp cận và thực hiện. BLHS được ban hành là để cho mọi tầng

lớp người dân trong xã hội tự tìm hiểu và nâng cao hiểu biết về pháp luật, từ

đó có ý thức phòng chống tội phạm và tránh những hành vi vi phạm pháp

luật, vì vậy việc hoàn thiện quy định về tội hành hạ người khác thì cũng phải

phù hợp ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Do đó, để quy định của BLHS

về tội hành hạ người khác phát huy hiệu quả cao trong thực tiễn xử lý loại tội

phạm này thì phải sửa đổi, hoàn thiện theo hướng rõ ràng, dễ hiểu đồng thời

theo đúng tinh thần cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành.

3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của

pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác

GS. TSKH. Đào Trí Úc từng viết: “Pháp luật dù có hoàn thiện đến

mấy cũng không thể phản ánh và quy định hết tất cả những hoàn cảnh cụ thể

của cuộc sống…” [32, tr. 209]. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện BLHS hiện

hành nói chung, các quy định về tội phạm như dấu hiệu định tội, các tình tiết

định khung tăng nặng, hình phạt và các tình tăng nặng, giàm nhẹ TNHS nói

58

riêng càng có ý nghĩa chính trị - xã hội pháp lý, cũng như ý nghĩa lý luận và

thực tiễn cấp bách trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Hiện nay việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự với tội hành

hạ người khác còn gặp nhiều hạn chế và thiếu sót. Hạn chế này bắt nguồn từ

nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính và trực tiếp nhất chính là

những hạn chế trong các quy định của BLHS. Ngoài ra còn nhiều nguyên

nhân khác như sự yếu kém của một số cán bộ làm công tác chuyên môn, ý

thức pháp luật của người dân. Do đó, để việc áp dụng các quy định của pháp

luật hình sự với tội hành hạ người khác được thống nhất và hiệu quả trong

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này thị cần có những biện pháp

thiết thực. Dựa trên cơ sở lý luận của Chương 1 và thực tiễn áp dụng pháp

luật về tội hành hạ người khác của Chương 2, tác giả đưa ra một số giải pháp

để góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót và nâng cao hiệu quả áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội hành hạ người khác.

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hành

hạ người khác

Thứ nhất, hoàn thiện dấu hiệu định tội, cụ thể: quy định rõ ràng hành vi

khách quan của tội hành hạ người khác làm cơ sở cho việc định tội danh

chính xác và xác định trách nhiệm hình sự đúng giúp phân biệt tội hành hạ

người khác với những tội phạm khác có cấu thành tương tự.

Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn thế nào là hành vi đối xử tán

ác hoặc làm nhục người lệ thuộc. Tuy nhiên theo các thuật ngữ pháp lý và

sách pháp lý ta hiểu hành vi đối xử tàn ác như đánh đập, ức hiếp, ngược đãi…

còn hành vi làm nhục là chửi rủa, xỉ nhục nơi công cộng… Các hành vi này

rất đa dạng, tội phạm thì luôn có xu hướng ngày càng tăng, hoạt động có tổ

chức với phương thức, thủ đoạn tinh vi nên không thể liệt kê hết. Mặt khác,

tội bức tử quy định tại Điều 130 BLHS mô tả hành vi khách quan là đối xử

59

tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục; tội ngược đãi hoặc

hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng

mình quy định tại Điều 185 mô tả hành vi khách quan là đối xử tồi tệ hoặc có

hành vi bạo lực xâm phạm thân thể. Các hành vi khách quan này tương đối

giống với hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục trong tội hành hạ người khác.

Do đó, việc không định nghĩa rõ ràng thế nào là hành vi đối xử tàn ác hoặc

làm nhục trong tội hành hạ người khác sẽ gây khó khăn cho cơ quan tiến hành

tố tụng trong khi giải quyết vụ án như định tội danh sai. Ngoài ra, hành vi

hành hạ này xảy ra bao nhiêu lần và trong bao nhiêu lâu thì không thể định

lượng chính xác được, còn nhiều quan điểm giữa những các nhà nghiên cứu

luật với cơ quan áp dụng pháp luật. Do đó, cần thiết phải có văn bản hướng

dẫn định nghĩa rõ thế nào là hành vi hành hạ người khác nhằm tạo thuận lợi

cho cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm một cách dễ dàng, tránh

oan sai.

Về thực tiễn giữa tội hành hạ người khác và tội bức tử có sự chuyển

hóa về tội danh khi xảy ra hậu quả là người bị hành hạ tự sát, do đó hành vi

khách quan của tội bức tử cũng chính là hành vi khách quan của tội hành hạ

người khác. Tuy nhiên, về lý luận, hành vi khách quan của tội bức tử quy định

gồm hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục

người lệ thuộc, còn hành vi khách quan của tội hành hạ người khác chỉ có

hành vi đối xử tàn ác và làm nhục người lệ thuộc. Thiết nghĩ, quy định hành

vi khách quan của tội hành hạ người khác tại Điều 140 BLHS là chưa đầy đủ,

cần thêm hành vi “thường xuyên ức hiếp, ngược đãi người lệ thuộc” để hoàn

thiện vào mặt khách quan của Điều luật nhằm đảm bảo khả năng chứng minh

và xử lý tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai, Điều 140 BLHS quy định: “Người nào đối xử tàn ác hoặc làm

nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều

60

185 của Bộ luật này”. Việc liệt kê loại trừ Điều 185 BLHS là không cần thiết.

Chủ thể của tội hành hạ người khác chỉ có thể là người có quan hệ lệ

thuộc với nạn nhân, trong đó nạn nhân là người bị lệ thuộc. Trong thực tế có

nhiều loại quan hệ lệ thuộc, trong đó có những quan hệ lệ thuộc do tính đặc

biệt nên được điều chỉnh bởi những điều luật riêng mà không thuộc phạm vi

điều chỉnh của điều luật này như quan hệ lệ thuộc do quan hệ gia đình (Điều

185 BLHS) hoặc do quan hệ chỉ huy phục tùng trong các lực lượng vũ trang

(Điều 397 BLHS). Theo đó chỉ những quan hệ lệ thuộc chưa được quy định

riêng như vậy mới thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này (Điều 140

BLHS) như quan hệ lệ thuộc phát sinh trong công tác, do quan hệ tín ngưỡng

v.v… Do vậy, việc điều luật quy định loại trừ chỉ có Điều 185 là không cần

thiết nên theo tác giả cần bỏ cụm từ “nếu không thuộc các trường hợp quy

định tại Điều 185 của Bộ luật này”.

Thứ ba, hoàn thiện dấu hiệu định khung hình phạt về tội hành hạ người

khác.

- Bổ sung thêm các tình tiết định khung tăng nặng.

Thực tiễn xét xử cho ta thấy đa số các vụ án hành hạ người khác đều sử

dụng một số loại công cụ, phương tiện hỗ trợ hành vi hành hạ, như: gậy, dép,

kéo… như các vụ án được trích lược tóm tắt tại Chương 2. Trong đó, có

những công cụ phương tiện phạm tội chưa được xem là hung khí nguy hiểm

nhưng cũng có những công cụ phương tiện được liệt vào danh sách hung khí

nguy hiểm. Mặt dù khi thực hiện hành vi hành hạ thì người phạm tội sử dụng

những công cụ này chỉ để dọa hoặc chỉ gây một số thương tích cho nạn nhân

nhưng chưa đến mức nghiêm trọng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công bằng,

tính răng đe và phòng ngừa tội phạm, theo tác giả cũng cần quy định thêm

tình tiết định khung tăng nặng là “Sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ hành

vi hành hạ” thì mới phù hợp với thực tiễn khách quan.

61

- Sửa đổi quy định về tình tiết phạm tội đối với người dưới 16 tuổi quy

định tại điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS.

Điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS chỉ quy định tình tiết tăng nặng phạm

tội với trẻ em nhưng chưa quy định trường hợp phạm tội đối với người từ đủ

16 tuổi đến dưới 18 tuổi là còn thiếu sót, chưa thể hiện được chính sách bảo

vệ người bị hại là người chưa thành niên, vì vậy còn hạn chế trong phòng

ngừa tội phạm cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người từ đủ 16

tuổi đến dưới 18 tuổi.

Từ những hạn chế nêu trên, chúng tôi nhận thấy trong thực tiễn thì

hành vi hành hạ không chỉ xảy ra đối với trẻ em mà còn xảy ra đối với từ đủ

16 tuổi đến dưới 18 tuổi, vì vậy việc quy định thêm đối tượng người từ đủ 16

tuổi đến dưới 18 tuổi vào điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS là dựa trên thực

tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi hành hạ người khác. Việc quy

định thêm trường hợp người bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là

hoàn toàn phù hợp với chính sách bảo vệ người chưa thành niên và bảo vệ

hơn nữa quyền con người của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển

mới của đất nước; đồng thời góp phần thể chế hóa chính sách của Đảng và

Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội phạm này. Do đó, đó tại

điểm a khoản 2 Điều 140 BLHS chúng tôi kiến nghị thay cụm từ “Đối với

người dưới 16 tuổi” bằng cụm từ “Đối với người dưới 18 tuổi”.

- Hướng dẫn cụ thể, rõ ràng các tình tiết định khung tăng nặng ở khoản

2 Điều 140 BLHS như: phụ nữ mà biết có thai, ốm đau, người khác không có

khả năng tự vệ nhằm giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật

một cách chính xác.

Tóm lại, Bộ Luật hình sự quy định càng cụ thể, chi tiết càng tạo thuận

lợi cho quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó

việc sửa đổi quy định của BLHS và ban hành văn bản hướng dẫn là biện pháp

62

có ý nghĩa thiết thực hàng đầu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội hành

hạ người khác hiện nay.

Thứ tư, tăng mức hình phạt chính và thêm hình phạt bổ sung.

Việc đề cao quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 và đề cao tinh

thần nhân đạo nên Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi theo hướng không làm

tăng nặng thêm trách nhiệm của người phạm tội, trong đó, tội hành hạ người

khác vẫn được giữ nguyên mức hình phạt cao nhất là 03 năm tù giam. Tuy

nhiên, trên thực tế mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo còn gây bức xúc

trong dư luận và nhiều ý kiến cho rằng nó chưa tương xứng với hành vi phạm

tội. Qua thực tiễn xét xử các vụ án hành hạ người khác thì hậu quả mà hành vi

hành hạ để lại cho nạn nhân chủ yếu là những tổn thất về tinh thần rất lớn,

nhất là nạn nhân là các trẻ em. Khi hành vi hành hạ kéo dài các em thường có

biểu hiện rối loạn tâm thần, ảnh hưởng của rối loại này kéo theo nhiều biến

chứng về thần kinh, mắc một số bệnh như tự kỉ, sợ tiếp túc với người ngoài,

rồi các em sẽ có cái nhìn lệch lạc về xã hội… Như trường hợp các trẻ bị hành

hạ tại cơ sở mầm non tư thục Mầm Xanh ngoài những thương tích phần mền

thì nhiều trẻ còn bị chậm phát triển tâm thần vận động. Hay vụ án cháu

Nguyễn Thị Yến Nhi bị cha dượng Nguyễn Trung Tiến hành hạ: “Phần bộ

phận sinh dục của cháu N. bị bầm tím, sưng to suốt một ngày một đêm khiến

bé không thể đi tiểu được. Thấy con nhỏ ngồi khóc vì đau đớn mà tôi không

biết làm sao, phải đưa cháu đến gặp bác sĩ. Bé phải uống thuốc giảm đau.

Khi công an, bác sĩ hỏi, bé đều khẳng định bị Tiến dùng roi đánh vào bộ phận

sinh dục” - chị Hồng vừa khóc vừa kể lại [8], tuy tỷ lệ chấn thương phần mền

hiện còn khoảng 11% nhưng cháu phải gánh chịu những tổn thương về tinh

thần là thường xuyên hoãng loạn quấy khóc. Những thiệt hại về sức khỏe có

thể xác định được nhưng những hệ lụy mà thiệt hại về tinh thần kéo theo sau

đó thì không ai có thể lường trước được. Những thiệt hại về tinh thần này hết

63

sức nghiêm trọng vì nó ảnh hưởng đế sự phát triển bình thường của con

người. Theo tác giả, cần thiết tăng mức hình phạt cao nhất là 5 năm tù (tội

phạm nghiêm trọng).

Qua thực tiễn xét xử cho thấy, ngày càng nhiều hành vi hành hạ diễn ra

trong môi trường giáo dục, trong nôm, nuôi giữ trẻ. Do đó, để đảm bảo mầm

non xanh của đất nước được phát triển toàn diện thì theo tác giả bên cạnh việc

tăng mức hình phạt chính thì cần quy định hình phạt bổ sung cho tội phạm

này làm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định, như: các bảo mẫu bị cấm hành nghề nuôi dạy trẻ sau khi chấp hành

xong hình phạt chính.

Như vậy, Tội hành hạ người khác nên được sửa đổi như sau:

Bộ luật hình sự hiện hành Kiến nghị sửa đổi, bổ sung

Điều 140. Tội hành hạ người khác Điều 140. Tội hành hạ người khác

1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm 1. Người nào có một trang các hành

nhục người lệ thuộc mình nếu không vi sau đây nhằm hành hạ người lệ

thuộc các trường hợp quy định tại thuộc mình thì bị phạt cải tạo không

Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ

cải tạo không giam giữ đến 03 năm 03 tháng đến 02 năm:

hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. a) Đối xử tán ác;

b) Thường xuyên ức hiếp;

c) Ngược đãi;

d) Làm nhục.

2. Phạm tội thuộc một trong các 2. Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

01 năm đến 03 năm: 01 năm đến 05 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ a) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ

mà biết là có thai, người già yếu, ốm mà biết là có thai, người già yếu, ốm

64

đau hoặc người khác không có khả đau hoặc người khác không có khả

năng tự vệ; năng tự vệ;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi

của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ

thể 31% trở lên; thể 31% trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên. c) Đối với 02 người trở lên.

d) Sử dụng công cụ, phương tiện hỗ

trợ hành vi hành hạ.

3. Người phạm tội có thể bị cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 5 năm.

3.2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về tội hành hạ người khác

Thứ nhất, nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm của cán bộ làm

công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Trong những năm qua đội ngũ cán bộ điều tra, truy tố, xét xử đã được

đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp. Đa số cán

bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên,

vẫn tồn tại một lượng lớn độ ngũ cán bộ còn yếu về trình độ và thiếu về tinh

thần trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án nên ảnh hưởng lớn đến hiệu

quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trước tình hình trên, việc xây

dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất đạo đức

tốt và có tinh trần trách nhiệm vừa là yêu cầu vừa là giải pháp quan trọng

trong việc giải quyết và đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác.

Đối với cơ quan điều tra, công tác điều tra các vụ án hành hạ người

khác có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là giai đoạn đầu của hoạt động tố tụng, để

xác định hành vi tội phạm có xảy ra hay không, tính chất, mức độ của hành vi

65

phạm tội , các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS nếu có.... làm cơ sở cho

việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, cần nâng cao trình độ, cũng

như trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra. Cần lập các đội

điều tra chuyên trách loại án này. Trong quá trình điều tra, cần tiến hành chặt

chẽ, đúng quy trình để đảm báo các vụ án hành hạ người khác đều được truy

tố trước pháp luật, không có vụ án nào bị trả lại hồ sơ để điều tra lại hoặc điều

tra bổ sung. CQĐT cần tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm công tác điều tra, xét

xử các tội xâm phạm sức khỏe nói chung, và tội hành hạ người khác nói riêng.

Để chính cán bộ điều tra thấy được trách nhiệm của mình khi tiếp nhận và

điều tra vụ án. Mặt khác, lực lượng cán bộ điều tra cần có sự phối hợp chặt

chẽ với Công an phường, xã là lực lượng thường xuyên có mặt tại địa bàn dân

cư, để phát hiện sớm những hành vi hành hạ tại địa phương, tạo điều kiện cho

phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi này, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm

và tránh oan sai. Cần xây dựng tối cơ chế trao đổi thông tin về kết quả điều

tra, xử lý tội phạm hành hạ người khác giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

và Tòa án các cấp. Cần phối hợp liên ngành với các ngành có liên quan trong

việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền con người; nâng cao

ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật đối với tội hành hạ người khác trong

các tầng lớp nhân dân.

Đối với cán bộ làm công tác kiểm sát, với chức năng kiểm sát hoạt

động tư pháp, thực hành quyền công tố trong đấu tranh phòng chống tội

phạm, VKSND có vai trò quan trọng trong nâng cao hiệu quả phòng ngừa và

đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác. Để phát huy vai trò này, cán

bộ viện kiểm sát cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình qua một số công

việc như công tác quản lý, xử lý thông tin về các tội xâm phạm sức khỏe nói

chung, tội hành hạ người khác nói riêng, đưa công tác này vào kế hoạch phối

hợp liên ngành giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Các cơ quan

66

này cần thông tin kịp thời về các hành vi hành hạ người khác cho Viện kiểm

sát. Viện kiểm sát cần chú trọng công tác kiểm sát hoạt động điều tra, ngay từ

thời điểm bắt đầu vụ án, nhất là những vụ án gây dư luận xã hội lớn. Cùng với

việc đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án nhất là các vụ án trọng điểm để răn đe

những người đã, đang có có ý định thực hiện hành vi hành hạ người khác.

Chú trọng công tác kiểm sát việc xét xử vụ án tội hành hạ người khác. Bố trí

những cán bộ có năng lực, kiến thức về chuyên môn, kiến thức về quyền con

người, có uy tín để trực tiếp tham gia các vụ án hành hạ người khác. Mỗi cán

bộ làm công tác này phải nhận thức sâu sắc và thực hiện đúng, đầy đủ chức

năng, nhiệm vụ của mình trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hành hạ

người khác. Nếu không nhận thức đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình thì sẽ không làm hết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, dẫn đến

làm sai luật, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Thường xuyên tổ chức các

lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm trong việc giải quyết án xâm

phạm sức khỏe giữa Viện kiểm sát; tổ chức nghiên cứu khoa học, hội thảo,

đào tạo ngoại ngữ, tin học, để các Kiểm sát viên nắm bắt thêm những kinh

nghiệm trong việc giải quyết án hành hạ nhằm vận dụng linh hoạt trong việc

xử lý, phát huy được tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ do pháp luật quy định bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát

hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Đối với cán bộ ngành Tòa án: Việc áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự

trong công tác xét xử các vụ án phạm tội hành hạ người khác có ý nghĩa rất

quan trọng. Có xét xử đúng mới phát huy được tính giáo dục, phòng ngừa

được tội phạm, đưa ra được nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có kiến

nghị đúng. Do đó, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ Tòa án

có ý nghĩa quyết định trong việc giải quyết vụ án hành hạ người khác. Cán bộ

Tòa án phải nắm vững đường lối, chủ trương của nhà nước trong việc xử lý

67

tội phạm. Nắm vững thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm

phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác

xét xử nhất là việc định tội danh và những căn cứ cụ thể để quyết định hình

phạt, các nguyên tắc vận dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhé. TNHS... Đây là

những vấn đề cơ bản vần quán triệt sâu sắc cho việc xét xử các vụ án tội hành

hạ người khác được chính xác và đúng pháp luật. Cán bộ tòa án cần nắm rõ

quy định của CTTP hành hạ người khác, cần phân biệt được CTTP của tội

này với các tội có cấu thành tương tự. Để khi xét xử định tội danh và quyết

định hình phạt cho chính xác. Đồng thời tránh được tình trạng áp dụng quy

định BLHS với tội phạm không thống nhất giữa các địa phương hiện nay.

Một trong những việc làm cần chú trọng để nâng cao hiệu quả xét xử của tội

hành hạ người khác là cần nâng cao kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ Tòa

thông qua việc tổ chức các buổi rút kinh nghiệm giữa các cơ quan tại địa

phương có vướng mắc rút kinh nghiệm về công tác xét xử, trao đổi nghiệp vụ

với các Tòa án địa phương trong giải quyết các vụ án có vướng mắc về áp

dụng pháp luật, vừa nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng và thống nhất pháp

luật. Thông qua qua trao đổi nghiệp vụ sẽ giúp cho Thẩm phán nâng cao trình

độ năng lực chuyên môn mà còn tích lũy kinh nghiệm về công tác xét xử. Mặt

khác, cần tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngành tòa

án trong sạch, vững mạnh, có ý thức kỷ luật, có phẩm chất bản lĩnh chính trị,

bản lĩnh nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xét xử các vụ án nói

chung, vụ án hành hạ người khác nói riêng, kịp thời phát hiện những sai sót

của Tòa án cấp dưới, qua đó khắc phục ngay những sai sót nói trên. Đồng thời

tăng cường kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ nhất là các Thẩm phán.

Thường xuyên tiến hành việc kiểm điểm, khiển trách nhiệm đối với Thẩm

phán về các sai sót trong hoạt động xét xử, góp phần chống quan liêu, tham

68

những trong cơ quan nhà nước. Thực hiện việc đổi mới thủ tục hành chính tư

pháp tại Tòa án theo hướng công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, một mặt

nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có công việc cần giải

quyết tại Tòa án, nhưng cũng đồng thời nhằm công khai hóa hoạt động của

Tòa án. Quan trọng hơn giữa các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan

điều tra cần xây dựng được cơ chế phối hợp để đảm bảo phối hợp chặt chẽ và

thường xuyên với nhau. Phải có sự nhất quán về quan điểm xử lý, bảo đảm

nghiêm minh pháp luật và công bằng xã hội. Phải thường xuyên tổng kết, đúc

kết kinh nghiệm và dự báo tình hình tội hành hạ người khác trong thời gian

tới. Có như vậy, việc giải quyết án hành hạ mới đạt được hiệu quả cao.

Thứ hai, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân để

đấu tranh đối với tội hành hạ người khác.

Một trong những nguyên nhân của nạn hành hạ người khác hiện nay là

người dân có nhận thức kém về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật còn

thấp. Do đó tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân để nâng

cao trình độ văn hoá, nhận thức trong người dân và ý thức pháp luật là biện

pháp có ý nghĩa quan trọng và thiết thực nhằm làm hạn chế và giảm bớt hành

vi phạm tội. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con

người và tội hành hạ người khác phải tập trung và đi sâu đi sát vào mỗi người

dân. Các cơ quan hữu quan đã có một số cuộc tuyên truyền nhưng còn nghèo

nàn, chưa cụ thể, chưa phản ánh đầy đủ quy định pháp luật về tội hành hạ

người khác, các quyền con người theo quy định công ước quốc tế và pháp luật

Việt Nam. Đặc biệt các thông tin về tình hình tội hành hạ người khác, hậu quả

và chế tài xử lý còn chưa được phổ biến đầy đủ. Để đạt được hiệu quả của

tuyên truyền cần phải phân loại được đối tượng tuyên truyền và nhắm trúng

đối tượng. Với mỗi loại đối tượng cần có cách thức tuyên truyền cho phù hợp,

không cào bằng, tuyên truyền chung chung, cho có. Chủ trương tuyên truyền,

69

phổ biến giáo dục pháp luật về tội hành hạ người khác phải xuất phát từ tình

hình tội phạm và đặc điểm riêng của tội hành hạ người khác để xác định được

đối tượng nào cần tuyên truyền sâu vào nội dung nào cho phù hợp. Mặt khác,

vai trò của phương tiện thông tin đại chúng cũng góp phần quan trọng trong

công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật. Tuy nhiên, việc sử dụng

phương tiện thông tin đại chúng để tuyền truyền chưa cao, chưa bám sát tình

hình đấu tranh phòng chống tội hành hạ người khác, các chuyên đề riêng biệt

về tội phạm này còn chưa có. Do đó, với sự phát triển và bùng bổ của phương

tiện thông tin đại chúng như hiện nay, cần tận dụng triệt để các phương tiện

này để tuyên truyền tới người dân chính sách pháp luật của nhà nước. Cần có

những chương trình thời sự chuyên biệt về tội phạm nói chung trong đó có

cần chia ra tội phạm theo chuyên đề. Để qua đó người dân nắm được tình

hình tội phạm diễn ra hằng ngày. Nắm được quy định của pháp luật đối với

tội hành hạ người khác. Qua đó góp phần giáo dục, ngăn ngừa hành vi phạm

tội ngay trong chính người dân.

Trách nhiệm từ mỗi gia đình: để nạn hành hạ người khác không còn tồn

tại phổ biến trong xã hội, ngay từ mỗi gia đình mỗi bậc cha mẹ cần hiểu biết

quy định pháp luật về bảo đảm quyền còn người và điều chỉnh nhận thức của

chính bản thân mình. Vì hiện nay, các vụ án hành hạ trong gia đình tương đối

lớn. Ý thức và điều chỉnh hành vi ngay trong mỗi gia đình cũng góp phần

quan trọng trong điều chỉnh hành vi của cộng đồng, và toàn xã hội. Do đó

việc tuyên truyền phải từ bắt đầu từ chính mỗi cá nhân và mỗi gia đình.

Bên cạnh đó, cũng cần vận động người dân tự tố giác tội phạm. Chính

quyền các cấp nhất là chính quyền quản lý ở địa phương phải tuyên truyền,

vận động để người dân hiểu và thấy được trách nhiệm của mình trong công

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi dân là người tiếp xúc và trực tiếp

bắt gặp hành vi phạm tội nhiều nhất, tuy nhiên nhiều trường hợp vì sợ phiền

70

đến mình, tâm lý ngại tiếp xúc với cơ quan nhà nước mà người dân thường

thờ ơ, không tố giác hành vi tội phạm mà mình gặp phải. Đưa người dân trở

thành mắt xích quan trọng trong công cuộc đấu tranh, và thấy đó là nhiệm vụ

của chính bản thân mình. Có như vậy, việc phát hiện và xử lý hành vi phạm

tội mới nhanh chóng và đầy đủ.

Bên cạnh những biện pháp tuyên truyền như trên, để công cuộc đấu

tranh và xử lý tội hành hạ người khác một trong những giải pháp quan trọng

đó là cần nâng cao công tác quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước ở địa

phương. Theo đó cán bộ cần gần dân và quan tâm đến đời sống kinh tế, xã hội

ở địa phương hơn. Tránh tình trạng, hành vi hành hạ xảy ra mà các cơ quan ở

địa phương không biết, đổ lỗi cho nhau. Tăng cường kiểm tra, giám sát với

các cơ sở kinh doanh, nhất là các cơ sở có sử dụng lao động, các cơ sở nuôi

dạy trẻ, không để tình trạng tồn tại các cơ sở sử dụng lao động trẻ em không

đúng quy định, các cơ sở trông nom trẻ tự phát không có giấy phép hoạt động

tràn lan như hiện nay. Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là

nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các cơ quan ban hành, và của mỗi

người dân. Do đó, mỗi chúng ta cần tham gia tích cực vào hoạt động tuyên

truyền phổ biến pháp luật của các cấp các ngành, để hoạt động này thực sự có

hiệu quả. Tuyên truyền có hiệu quả, ý thức pháp luật của người dân có nâng

cao mới đẩy lùi được tội phạm nói chung và vấn nạn hành hạ người khác hiện

nay. Từ đó góp phần hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội

hành hạ người khác hiện nay.

Tiểu kết Chương 3

Pháp luật hình sự là công cụ sắc bén và lâu đời nhất trong lịch sử nước

ta, góp phần rất lớn trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Bộ luật

hình sự 1985 ra đời, kế tiếp là BLHS 1999 và nay là BLHS 2015 đã dần dần

hoàn chỉnh hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay áp dụng quy

71

định của Bộ luật vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được một cách triệt để

trong quá trình giải quyết các vụ án. Những hạn chế này về cơ bản bắt nguồn

từ hai nguyên nhân chính là từ quy định của pháp luật chưa rõ ràng, đầy đủ và

từ người áp dụng pháp luật. Trên cơ sở phân tích đánh giá những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế tại Chương 2, trong Chương 3 này tác giải nêu ra

một số giải pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp luật

về tội hành hạ người khác, như: hoàn thiện các dấu hiệu định tội; bỏ liệt kê

loại trừ Điều 185 BLHS; hoàn thiện dấu hiệu định khung hình phạt; tăng mức

hình phạt chính và thêm hình phạt bổ sung; nâng cao trình độ, năng lực và

trách nhiệm của cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao ý thức

tự giác chấp hành pháp luật của người dân. Kết quả nghiên cứu này có ý

nghĩa khoa học, góp phần hoàn thiện quy định của BLHS về tội hành hạ

người khác đồng thời đảm bảo tội hành hạ người khác được thực thi một cách

có hiệu quả, chính xác và toàn diện, giúp nâng cao hơn nữa hiệu quả đấu

72

tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS năm 2015.

Sư ra đời của Điều 140 này là có sự kế thừa từ những quy định củ trong

BLHS 1985 và BLHS 1999, tuy Điều 140 đã có những sửa đổi cho phù hợp

với tình hình tội phạm mới hiện nay nhưng qua thực tiễn xét xử loại tội phạm

này vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, bất cập, điều này dẫn đến hiệu quả

áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác trong thực

tiễn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong đấu tranh phòng, chống loại

tội phạm này.

Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã chỉ ra được các dấu hiệu pháp

lý của tội hành hạ người khác, làm rõ lược sử hình thành quy định về tội hành

hạ người khác trong BLHS, so sánh những điểm khác biệt giữa tội hành hạ

người khác với một số tội có dấu hiệu tương tự trong chương các tội xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; chương các

tội xâm phạm chê độ hôn nhân và gia đình. Với những dẫn chứng từ các bản

án thực tế, Luận văn đã chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp

dụng pháp luật hình sự về tội hành hạ người khác. Những khó khăn, vướng

mắc này chủ yếu do quy định BLHS về tội hành hạ người khác chưa đầy đủ,

chặt chẽ như: quy định dấu hiệu định tội chưa rõ ràng; các tình tiết định

khung tăng nặng còn quá ít, chưa phù hợp thực tiễn, chưa có các văn bản

hướng dẫn; quy định mức hình phạt tối đa còn quá thấp. Ngoài ra còn có một

số nguyên nhân khác như: trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán

bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử còn yếu kém; ý thức chấp hành pháp

luật kém của người dân. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn

thiện và đảm bảo áp dụng quy định của pháp luật về tội hành hạ người khác

để nâng cao hiệu quả giải quyết tội phạm này trong thực tế.

73

Kết quả nhiên cứu của Luận văn có những điểm mới như: kiến nghị

hoàn thiện dấu hiệu định tội là mô tả thêm hành vi hành hạ gồm: thường

xuyên ức hiếp, ngược đãi; bỏ liệt kê loại trừ Điều 185 BLHS; hoàn thiện dấu

hiệu định khung hình phạt theo hướng: bổ sung thêm các tình tiết định khung

tăng nặng như “sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ hành vi hành hạ”, thay

cụm từ “đối với người dưới 16 tuổi” bằng cụm từ “đối với người dưới 18

tuổi”; tăng mức hình phạt chính cao nhất là 5 năm tù và thêm hình phạt bổ

sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định. Tác giả mong rằng những kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp

một phần vào hệ thống tri thức của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hành hạ

người khác.

Trong phạm vi Luận văn, tác giả không thể đề cập và giải quyết hết

mọi vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến tội hành hạ người khác vì

đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Do kinh nghiệm nghiên cứu của tác giả

còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tác giả rất

mong nhận được sự quan tâm và những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo,

các nhà chuyên môn và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này để Luận văn

74

được hoàn thiện hơn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/06/2005, Hà Nội.

2. Ban biên soạn Từ điển Vietnambooks (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

3. Bộ Y tế (2019), Thông tư số 22/2019/TT-BYT quy định tỷ lệ phần trăm tổn

thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm

thần, ban hành ngày 28/08/2019, Hà Nội.

4. Lê Đăng Doanh (2000), “Một số điểm mới trong chương các tội xâm

phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ

luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 4.

5. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình

sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 - Phần các tội phạm -

Quyển 1, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

6. Đặng Thị Huệ (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết

06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều

141,142,143,144,145, 146, 147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án

xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 01/10/2019, Hà Nội.

8. Cù Hiền (2019), “Xót lòng bé gái năm tuổi bị dượng hờ hành hạ”, Pháp

luật Thành phố Hồ Chí Minh,

nam-tuoi-bi-duong-ho-hanh-ha-860761.html>, (28/09/2019).

9. Trần Văn Hùng (2018), “Pháp luật xử lý hành vi bạo hành trẻ em”, Tạp chí Tòa án nhân dân, , (26/02/2018).

10. Trần Văn Luyện (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999 - Phần Các tội

phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

11. Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học BLHS 1999 sửa

đổi, bổ sung năm 2009 - Phần Các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

12. Chi Mai (2011), “Cô giáo nhốt trẻ trong thang máy lãnh 4 năm tù”, Tuổi

trẻ,

446728.htm>, (15/07/2011).

13. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 phần chung,

Nxb TP.HCM, TP.HCM.

14. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS - Phần các tội phạm-

Quyển 1, Nxb TP.HCM, TP.HCM.

15. Quốc hội (2013), Hiến pháp, ngày ban hành 28/11/2013, Hà Nội.

16. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự số 17-LCT/HĐNN7, ban hành ngày

27/06/1985, Hà Nội.

17. Quốc hội (1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

18. Quốc hội (2004), Luật trẻ em số 102/2016/QH13, ban hành ngày

05/04/2016, Hà Nội.

19. Võ Hồng Toàn (2015) Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP. HCM.

20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam -

Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

- Phần Các tội phạm, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM.

22. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ

hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật

hình sự, ban hành ngày 29/11/1986, Hà Nội.

23. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày

12/05/2006, Hà Nội.

24. Tòa án nhân dân Quận 12 (2018), Bản án số 107/2018/HSST, ban hành

ngày 25/07/2018, TP. HCM.

25. Tòa án nhân dân quận Tân Bình (2005), Bản án số 132/2005/HSST, ban

hành ngày 26/08/2005, TP. HCM.

26. Tòa án nhân dân Quận 12, Bản án số 148/2019/HSST, ban hành ngày

28/08/2019, TP. HCM.

27. Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Bản án số 142/2018/HSST, ban hành

ngày 15/11/2018, TP. HCM.

28. Đặng Trinh (2017) “Vụ bạo hành trẻ ở Lớp Mẫu giáo Mầm Xanh: Do "đối

phó tinh vi" nên không biết?”, Người lao động,

doc/vu-bao-hanh-tre-o-lop-mau-giao-mam-xanh-do-doi-pho-tinh-vi-nen-

khong-biet-20171129213534188.htm>, (30/11/2017)

29. Quang Thắng (2019), “Điểm mới Điều 140 BLHS năm 2015 “Tội hành hạ

người khác” so với BLHS năm 1999”, Công thông tin điện tử Công an

tỉnh Quãng Bình,

blhs-nam-2015-toi-hanh-ha-nguoi-khac-so-voi-blhs-nam-1999/>,

13/07/2019)

30. Từ điển mở Wiktionary, “nhân phẩm” “danh dự”,

, (15/06/2020)

31. Trần Công Ly Tao (2011), “Bào chữa cho bị cáo Trần Thị Xuân Nữ can

tội “Cố ý gây thương tích” trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú”, Đoàn

luật sư Thành phố Hồ Chí Minh,

,

(15/07/2011).

32. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề

chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

33. Văn phòng Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự số 01/VBHN-VPQH, ban

hành ngày 10/07/2017, Hà Nội.

34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ công an -

Bộ tư pháp - Bộ lao động - Thương binh và xã hội (2018), Thông tư liên

tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối

hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố

tụng đối với người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 21/12/2018, Hà Nội.

35. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam -

Phần Các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Nguyễn Như Ý (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.