VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TRỌNG HIỀN

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,

CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TRỌNG HIỀN

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,

CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự

Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHAN ANH TUẤN

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số

liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những

kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình

nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Trọng Hiền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1 ....................................................................................................... 10

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ

THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ...................................................... 10

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ............................................................................. 10

1.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN với

các tội khác trong Bộ luật hình sự ................................................................................... 19

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. .................................................................... 22

1.4. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. .................................................................................. 27

Chương 2 ....................................................................................................... 33

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ............................. 33

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ

THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

33

2.1. Tổng quan tình hình xét xử pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những

năm gần đây ..................................................................................................................... 33

2.2. Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh ..................................................................... 36

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh ................................ 44

2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh ........ 49

CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 55

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP

LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP

HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ......... 55

3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN ................................................................................... 55

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước: .............................................. 57

KẾT LUẬN ................................................................................................... 69

DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO ....................................................... 1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 CTTP Cấu thành tội phạm

3 QĐHP Quyết định hình phạt

4 TNHS Trách nhiệm hình sự

5 TAND Tòa án nhân dân

6 THTT Tiến hành tố tụng

7 XHCN Xã hội chủ nghĩa

8 GTGT Giá trị gia tăng

9 NSNN Ngân sách nhà nước

10 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

11 TTLT Thông tư liên tịch

12 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao

13 XPTTQLKT Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

14 BLHS năm Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10, do Quốc hội ban hành

1999 ngày 21/12/1999

15 BLHS năm Luật số: 37/2009/QH12, do Quốc hội ban hành ngày 19

1999, SĐBS tháng 06 năm 2009

năm 2009

16 BLHS năm Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, do Quốc hội ban

2015 hành ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung một số điều

tại Luật số: 12/2017/QH14, do Quốc hội ban hành ngày

20/06/2017

17 BLHS Bộ luật hình sự

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm về nhóm tội xâm phạm

nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 ................................. 34

TTQLKT so với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

Bảng 2.2. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm trong nhóm tội về thuế, tài

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm

2019 ........................................................................................................................... 35

chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn

hóa và giáo dục quan trọng nhất Việt Nam, là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng

điểm phía Nam. Hàng năm, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khoảng 30% tổng thu

ngân sách cả nước, sản lượng công nghiệp chiếm 30% giá trị lượng toàn quốc và thu

hút lượng lớn vốn FDI. [44]

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, các

doanh nghiệp mới thành lập gia tăng đột biến, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể. Việc thành lập doanh nghiệp không còn quá khó

khăn đối với những tổ chức, cá nhân nữa. Vì thế nhiều tổ chức, cá nhân đã lợi dụng

sự thông thoáng của cơ chế chính sách, sự mở cửa của nền kinh tế để thành lập doanh

nghiệp với mục đích in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN nhằm trục lợi thuế.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, những hành vi vi phạm về hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN được quy định tại các văn bản pháp luật về thuế, hóa đơn,

xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật hình sự. Trong đó, Bộ luật hình sự với vai trò

bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước với việc quy định rõ tội phạm và hình

phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi xâm hại trật tự quản lý kinh tế nói

chung và tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói

riêng.

Hiện nay Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, trong thời gian qua,

tình hình xử lý hình sự tội phạm liên quan đến liên quan đến việc in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN chưa có hiệu quả cao. Nhiều vụ án

khó phát hiện, nhiều vụ án được phát hiện thì chậm việc điều tra, truy tố, nhiều vụ án

bị đình chỉ điều tra, thậm chí có các vụ án đã được khởi tố nhưng còn chưa thống

nhất, gây tranh cãi về tội danh.

1

Trước tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN diễn ra ngày càng

nhiều, phức tạp, tinh vi tại Thành phố Hồ Chí Minh - là trung tâm kinh tế lớn của cả

nước, nên với mong muốn tìm ra những khó khăn, vướng mắc cũng như giải pháp

nhằm đấu tranh có hiệu quả, tăng cường năng lực áp dụng pháp luật trong việc giải

quyết loại án về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

và trên cơ sở kiến thức đã được học tập, nghiên cứu, học viên chọn đề tài “Tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại Thành phố Hồ

Chí Minh” để làm để tài luận văn thạc sĩ.

2.Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua, các đề tài liên quan đến tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng được nhiều tác giả nghiên cứu. Nhưng tội

phạm xâm phạm trong lĩnh vực in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp NSNN chưa thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học.

Để thực hiện đề tài được giao, học viên tham khảo khá nhiều công trình về hoặc liên

quan đến đề tài, trong số đó có thể kể đến:

- Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo,

giáo trình, bình luận khoa học. Những tài liệu này có tính phổ biến, cung cấp kiến

thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài học viên nghiên cứu. Các Giáo trình

Luật hình sự, sách về Định tội danh của các cơ sở đào tạo như: (1) Võ Khánh Vinh

(Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội; (2) Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; (3) Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học

Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 – Nhà xuất bản lao động

(2019); (4) Đinh Văn Quế (chủ biên), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nhà xuất

bản Thông tin và Truyền thông (2019); (5) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – quyển

1 - Phần Các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội (2018); (6) Nguyễn Đức Mai

(chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật (2018); (7) Nguyễn Văn Thuyết, Bình luận

2

khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia Sự Thật (2018); (8) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt

Nam, TP.HCM; (9) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-

Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội; (10) Hồ Sỹ Sơn, Áp dụng pháp luật hình sự: Một số vấn đề lý luận, Viện

Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam – Học Viện Khoa Học Xã Hội, Nhân Lực

Khoa Học Xã Hội số 02 (57) 2018; (11) Hồ Sỹ Sơn, Luật hình sự so sánh, NXB

Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội 2018; (12) Võ Khánh Vinh, Tập bài giảng Chính

sách hình sự: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội; (13) Võ

Khánh Vinh, Các xu hướng phát triển của Luật hình sự Việt Nam, Hội thảo các xu

hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội

(2018); (14) Hồ Sỹ Sơn, Xu hướng phát triển của các quy định về tội phạm, Hội thảo

các xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội,

Hà Nội (2018), (15) Đỗ Khắc Hưng, Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt

Nam về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Hội thảo các xu hướng phát triển

của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội (2018), (16) Đinh

Thế Hưng, Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự về nhóm tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế, Hội thảo các xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam –

Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội (2018), (17) Đinh Thị Mai, Tập bài giảng Chức

năng của tố tụng hình sự, Học viện khoa học xã hội, (18) Phạm Minh Tuyên (2018),

Tập bài giảng Hình phạt – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã

hội …

Những tài liệu, giáo trình nêu trên có nội dung chủ yếu chỉ dừng lại ở việc

phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước, lý luận chung về định tội danh. Đây là tài liệu quan

trọng cho luận văn tham khảo khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, lý luận về định

tội danh đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

theo luật hình sự Việt Nam.

3

- Nhóm thứ hai: Các bài viết trên các tạp chí liên quan đến tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có thể kể đến: (1) Bài viết

“Thành lập 8 Công ty “ma” để mua bán hóa đơn hàng trăm tỷ đồng” của tác giả

Ngọc Diệp, Doanh nhân và pháp luật, Số 33 (308), trang 14-14; (2) Bài viết “Cần

hướng dẫn giải thích một số quy định của Bộ luật hình sự về các tội liên quan đến

hóa đơn giá trị gia tăng của tác giả Hoàng Thị Liên, Kiểm sát, 2013, số 4, trang 42-

44; (3) Bài viết “Người bán hóa đơn phạm tội gì” của tác giả Hà Đăng, Nguyễn Thùy

Linh, Tóa án nhân dân, 2005, số 11, trang 17-19; (4) Bài viết “Bán hóa đơn giá trị

gia tăng (VAT) để người mua hợp thức hóa đầu vào và kê khai khấu trừ thuế: người

bán hóa đơn phạm tội gì?" của tác giả Trần Thanh Phong, Tòa án nhân dân, 2005, ,

số 7, trang 27-31; (5) Bài viết “Hành vi mua và bán hóa đơn thuế giá trị gia tăng

phạm tội gì” của tác giả Phạm Dương Thu, Dương Tuyết Miên, Tòa án nhân dân,

2005, số 13, trang 23-28; (6) Bài viết “Tội phạm mua bán, sử dụng trái phép hóa

đơn” của tác giả Bùi Minh Thanh, Tạp chí Dân Chủ và Pháp luật, 2003, Số 8, trang

24-27 …

Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các dấu hiệu pháp lý

của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

- Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ liên quan đến tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có thể kể đến: (1) Luận văn thạc

sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phan Văn Hoàn, Học

viện Khoa học xã hội, 2013; (2) Luận văn thạc sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu

thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng” của tác giả Trần Thu Hạnh, Đại Học

Quốc Gia Hà Nội, 2019; (3) Luận văn thạc sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ” của tác

giả Chu Ngọc Quang, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2017; (4) Luận văn thạc sĩ “Hành

vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn và các biện pháp phòng, chống” của tác

giả Trần Hương Thủy, Trường Đại Học Cần Thơ, 2016 …

4

Các kết quả nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp pháp luật hình sự về tội

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN của các luận văn

thạc sĩ, luận án tiến sỹ nêu trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.

Như vậy, qua các công trình nghiên cứu về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Luật hình sự Việt Nam, chúng tôi có một số

nhận xét sau:

Các công trình trên đã nghiên cứu được một số vấn đề như dấu hiệu pháp lý

của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, lý luận

chung về định tội danh; đề cập và đánh giá một số bất cập trong quy định và vướng

mắc trong áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN cũng như đưa ra được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện

tội này. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung đang nghiên cứu, đang tồn tại một số ý

kiến khác nhau về đối tượng tác động, các dấu hiệu định khung hình phạt, về loại

hình phạt, mức hình phạt của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp NSNN. Đồng thời, các công trình trên vẫn chưa nghiên cứu, chưa phân tích

cụ thể các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN (nhất là các quy định mới của BLHS năm 2015); chưa đi vào trình

bày lịch sử hình thành và phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN một cách hệ thống; chưa phân tích được một số bất cập về

đối tượng tác động, dấu hiệu định tội và một số vấn đề khác còn tồn tại trong tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN; chưa đánh giá được

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ thực tiễn cho nên những giải pháp, kiến nghị cụ

thể nhằm hoàn thiện tội này còn hạn chế.

Do đó, đề tài “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN tại Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả sử dụng làm Luận văn Thạc sĩ Luật

học đối chiếu với các công trình nghiên cứu đã công bố trong nước những năm gần

đây liên quan đến đề tài về tổng thể vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, có

giá trị lý luận và thực tiễn.

5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của luật hình sự và thực

tiễn áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp NSNN quy định trong BLHS năm 2015 tại Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn

đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 và đề xuất

những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ

chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo luật hình sự Việt Nam.

- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự nước ta và của một số

nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

- Khảo sát, làm rõ thực trạng áp dụng các quy định luật hình sự về tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh; đưa ra nhận xét, đánh giá về những vướng mắc, bất cập trong các quy

định và thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh.

- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Bộ luật hình sự và các giải pháp

bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội này trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh và ở cả nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình sự Việt

Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN và

6

thực tiễn áp dụng tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN trên địa bản Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định,

áp dụng về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự.

- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ năm 2015 đến năm

2019.

- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án trên phạm

vi Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

– Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội

phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể như:

- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình thành

và phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.

- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình hình

xử lý hình sự đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những vấn

đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

7

- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm giống và

khác nhau giữa tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

với các tội phạm khác có liên quan và đối chiếu quy định về tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong luật hình sự Việt Nam với luật

hình sự của một số quốc gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận :

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, từ đó, đưa ra

những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn :

Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị

cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, và góp phần giải quyết những

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này mà

trước hết tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài liệu tham

khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên và cho những người

có quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu.

7. Cơ cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự

về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

8

9

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ

THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

1.1.1. Khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

Trong quá trình xuất kinh doanh và phân phối phẩm hàng hóa, dịch vụ của

tổ chức, cá nhân, hóa đơn xuất hiện phổ biến như một bằng chứng chứng minh có sự

giao dịch mua bán cũng như đảm bảo quyền lợi của bên mua, bên bán trong quan hệ

mua bán. Trong Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ đã định nghĩa:

“Hóa đơn là giấy ghi hàng đã bán cùng với giá tiền để làm bằng chứng hay nói cách

khác rõ hơn, hóa đơn là bảng liệt kê danh sách các hàng hóa cùng với các thông tin

liên quan về hàng hóa và việc chuyển giao hàng hóa mà bên chuyển giao giao cho

bên nhận được” [33, tr. 354]. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thì: “Hóa đơn là

giấy người bán đưa cho người mua hàng để là bằng chứng đã trả tiền” [39, tr. 472]

mà cụ thể hơn đó là “giấy ghi các chỉ số như: tên người mua hàng, loại hàng bán ra,

giá tiền để làm chứng từ” [2,tr. 818]. Với định nghĩa này, hóa đơn luôn tồn tại dưới

hình thức giấy và là phương tiện ghi nhận quan hệ mua bán hàng hóa giữa bên bán

hàng và bên mua hàng trong hoạt động giao dịch dân sự nói chung và hoạt động kinh

doanh nói riêng. Cũng theo định nghĩa này thì hóa đơn chỉ được sử dụng hạn hẹp

trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, còn vai trò trong các hoạt động cung ứng dịch vụ

chưa được ghi nhận.

Mặc dù trên thực tế hiện nay chưa có một cách hiểu thống nhất tuyệt đối về

khái niệm của hóa đơn. Nhưng với sự phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của

nền kinh tế thị trường thì thuật ngữ hóa đơn ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn

trong hoạt động kinh tế và đặc biệt là trong hoạt động mua bán hàng hóa, hóa đơn có

một vai trò đặc biệt quan trọng, không những là bằng chứng cho các giao dịch mua

bán các loại hàng hóa, thể hiện giá trị bằng tiền của từng loại hàng hóa, mà hóa đơn

10

còn là công cụ hữu hiệu để cơ quan nhà nước quản lý nền kinh tế, quản lý thuế, thu

nộp thuế vào NSNN. Chính vì vậy, ngoài cách biểu hiện thông thường qua các khái

niệm hóa đơn nêu trên thì khái niệm hóa đơn được khai thác sâu hơn, cụ thể hóa trong

các văn bản pháp lý chuyên ngành và vai trò hóa đơn ngày càng được khẳng định và

mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ, đặc điểm, phân loại hóa đơn cũng có nhiều thay đổi

và trở nên đa dạng hơn, theo đó: “Hoá đơn là chứng từ được in sẵn thành mẫu, in từ

máy tính tiền, in thành vé có mệnh giá theo quy định của Nhà nước, xác nhận khối

lượng, giá trị của hàng hoá, dịch vụ mua, bán, trao đổi, quyền lợi và nghĩa vụ của

các bên tham gia giao dịch mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ” [15, Điều 3, Khoản

1].

Tuy nhiên, để phản ánh đúng hơn về bản chất của hóa đơn trong nền kinh tế

thị trường thì khái niệm về hóa đơn đã có sự thay đổi khi Nghị định số 51/2010/NĐ-

CP [16] và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP [17], theo đó “Hóa đơn là chứng từ do

người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp

luật.” [16, Điều 3, Khoản 1]. Nghị định số 51/2010/NĐ-CP [16] ra đời là sự thay thế

có nhiều điểm kế thừa của Nghị định số 89/2002/NĐ-CP [15] nhằm tạo cơ chế linh

hoạt hơn nữa cho các chủ thể trong quá trình in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn,

chứng từ.

Khái niệm về hóa đơn được tiếp tục ghi nhận lại từ Nghị định số 51/2010/NĐ-

CP [16] tại quy định của Thông tư 39/2014/TT-BTC, theo đó ““Hóa đơn là chứng từ

do người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp

luật.” [7, Điều 3, Khoản 1].

Hiện nay, khái niệm về hóa đơn theo quy định pháp luật về thuế có sửa đổi

như sau: “Hóa đơn là chứng từ kế toán do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp

dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo quy định của

luật kế toán” [12, Khoản 1, Điều 3].

Qua đó cho thấy rằng pháp luật Việt Nam đã nhận định hóa đơn theo thước đo

về giá trị pháp lý, xem hóa đơn là “bằng chứng” xác lập mối quan hệ mua bán, trao

đổi hàng hóa – dịch vụ, các thông tin về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia

11

giao dịch mua – bán, trao đổi phải được đảm bảo. Giá trị, khối lượng của hàng hóa,

dịch vụ mua – bán, trao đổi được ghi nhận trên hóa đơn có thể được hiểu chính là

thông tin hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, hóa đơn còn được xem là một chứng từ để

hạch toán kế toán nhằm xác định chi phí hợp lệ, hợp lý, hợp pháp khi thực hiện nghĩa

vụ thuế đối với nhà nước và các vấn đề pháp lý khác xoay quanh.

Qua các khái niệm trên, cho thấy hóa đơn là chứng từ nhưng chứng từ không

có nghĩa là hóa đơn trong tất cả các trường hợp.

Luật số 83/2015/QH13 [27], có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 ghi nhận thu

NSNN bao gồm “a) Toàn bộ các khoản thu từ thuế, lệ phí; b) Toàn bộ các khoản phí

thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện, trường hợp được

khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ; các khoản phí thu từ các hoạt động dịch

vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp ngân sách

nhà nước theo quy định của pháp luật; c) Các khoản viện trợ không hoàn lại của

Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam và

chính quyền địa phương; [27, Khoản 1 Điều 5].

Trong các khoản thu NSNN, thuế là một khoản thu có tính chất bắt buộc của

Nhà nước đối với các thể nhân, pháp nhân và có tỷ trọng đóng góp lớn nhất và quan

trọng nhất của NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Hóa đơn có chức

năng rất quan trọng không những đối với bên mua, bên bán mà còn với các cơ quan

quản lý thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác. Hóa đơn có liên quan đến

chứng từ thu nộp thuế nói riêng và chứng từ thu nộp NSNN nói chung. Chứng từ thu

nộp NSNN có thể hiểu là “ các chứng từ liên quan đến toàn bộ các khoản thu từ thuế,

lệ phí; toàn bộ các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực

hiện, trường hợp được khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ; các khoản phí thu

từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước

thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; các khoản viện trợ

không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho

Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương”. Hóa đơn là chứng từ, chứng từ thu

nộp NSNN nói chúng, chứng từ thu nộp thuế nói riêng cũng là chứng từ được in, phát

12

hành, quản lý, sử dụng theo quy định của Luật thuế, Luật quản lý thuế và các văn bản

quy phạm pháp luật khác dùng để quản lý thu thuế cho NSNN. Hóa đơn vừa là chứng

từ dùng làm cơ sở ban đầu cho việc kê khai, khấu trừ, hạch toán chi phí, xác định chi

phí thuế, hoàn thuế vừa là cơ sở cho viện thanh tra, kiểm tra của Cơ quan thuế đối

với tình hình hoạt động xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm xác định chính

xác nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, qua đó kịp thời phát hiện ra những trường hợp

gian lận thuế, trốn thuế, chiếm đoạt thuế của các đối tượng liên quan bằng cách lợi

dụng những chính sách này để thực hiện các hành vi in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

Hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước bao gồm: “Hóa đơn xuất khẩu

dùng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, xuất

khẩu vào khu phi thuế quan; hóa đơn giá trị gia tăng; hóa đơn bán hàng hóa, dịch

vụ nội địa dành cho các tổ chức, cá nhân khai thuế giá trị gia tăng; các hoá đơn khác

gồm: tem, vé, thẻ, phiếu thu tiền bảo hiểm, ...và phiếu thu tiền cước vận chuyển hàng

không; chứng từ thu cước phí vận tải quốc tế, chứng từ thu phí dịch vụ ngân hàng;

Lệnh thu nộp ngân sách nhà nước, giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, bảng kê

nộp thuế, biên lai thu ngân sách nhà nước và chứng từ phục hồi trong quản lý thu

ngân sách nhà nước” [13, Khoản 1, Điều 2] .

1.1.2. Khái niệm về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp NSNN

Qua những phân tích trên thì hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là các loại hóa

đơn, tài liệu, giấy tờ được khởi tao, in, phát hành và sử dụng theo các hình thức và

thủ tục của pháp luật về thuế, kế toán, tài chính, hải quan, thu nộp ngân sách Nhà

nước … liên quan đến hoạt động thu nộp NSNN. Trên cơ sở đó, chúng ta có định

nghĩa về tội này như sau:

Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước được hiểu là hành vi in, phát hành, mua bán hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước ở dạng phô từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã

ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến

13

dưới 100.000.000 đồng.

1.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN

Cũng như các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN có khách thể là các quan hệ xã

hội nhằm đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân trong từng

lĩnh vực nhất định. Cụ thể là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế

toán mà hóa đơn, chứng từ được sử dụng để thực hiện nghĩa cụ nộp NSNN.

Để nhận thức đầy đủ bản chất pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép

hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, chúng ta cần đi vào nghiên cứu các

dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước có dấu hiệu pháp lý như sau:

* Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phảm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội phạm

bao giờ cũng xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội được Nhà nước xác định

bảo vệ bằng luật hình sự [35; trang 137].

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình

sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền

con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của

trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình

sự [28, Khoản 1 điều 8].

Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với các loại hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước đang lưu thông trên thị trường.

Đối tượng của tội phạm bao gồm: a) Hóa đơn xuất khẩu dùng trong hoạt động

kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, xuất khẩu vào khu phi thuế

14

quan; hóa đơn giá trị gia tăng; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ nội địa dành cho các tổ

chức, cá nhân khai thuế giá trị gia tăng; các hóa đơn khác gồm: tem, vé, thẻ, phiếu

thu tiền bảo hiểm,... và phiếu thu tiền cước vận chuyển hàng không; chứng từ thu

cước phí vận tải quốc tế, chứng từ thu phí dịch vụ ngân hàng; b) Lệnh thu nộp ngân

sách nhà nước, giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, bảng kê nộp thuế, biên lại thu

ngân sách nhà nước và chứng từ phục hồi trong quản lý thu ngân sách nhà nước. như

đã phân tích ở trên.

* Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành

vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả

giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và gắn

liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời

gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.[35; tr.145].

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những

biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, trong đó

hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và được phản ánh trong tất cả các cấu thành

tội phạm. Hành vi khách quan có thể được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không

hành động mà mặt thực tế của nó được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển và đó

phải là những hành vi trái pháp luật hình sự. Các hành vi khách quan được phản ánh

tại Điều 203 thể hiện dưới dạng hành động, bao gồm:

Hành vi in trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước: là hành

vi tự in hóa đơn hoặc tự khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ điều kiện hoặc không

đúng, không đây đủ các nội dung theo quy định của pháp luật; In hóa đơn giả hoặc

khởi tạo hóa đơn điện tử giả. Có thể liệt kê như các doanh nghiệp không đủ điều kiện

tự in hóa đơn nhưng không đặt in hóa đơn mà tự in hóa đơn để sử dụng; đặt in hóa

đơn không đúng với hợp đồng đã ký với bên đặt in về số lượng, ký hiệu, số thứ tự; in

hóa đơn không theo mẫu quy định; in hoặc tự khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ

điều kiện hoặc không đúng, không đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật;

in hóa đơn giả hoặc khởi tạo hóa đơn điện tử giả …

15

Hành vi phát hành trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:

là hành vi lập tờ thông báo phát hành không đầy đủ nội dung; không gửi hoặc không

niêm yết tờ thông báo phát hành hóa đơn theo đúng quy định. Hành vi này được thể

hiện thông qua việc thông báo phát hành hóa đơn mà tờ thông báo phát hành hóa đơn

thiếu một trong các nội dung mẫu thông báo phát hành hóa đơn, mẫu số hóa đơn, loại

hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, ngày bắt đầu sử dụng, ngày lập tờ thông báo phát hành,

chữ ký của người đại diện theo pháp luật...; hoặc phát hành hóa đơn không theo đúng

mẫu thông báo phát hành; không thực hứng hiện việc thông báo điều chỉnh hóa đơn

khi có thay đổi nội dung đã thông báo phát hành, hoặc không thông báo hóa đơn mới

khi thay đổi mẫu hóa đơn…

Hành vi mua bán trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

gồm các hành vi: a) Mua bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi nội dung không

đầy đủ, không chính xác theo quy định. b) Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng

không có hàng hóa, dịch vụ kèm; c) Mua, bán hóa đơn giả, hóa đơn chưa có giá trị

sử dụng, hóa đơn đã hết giá trị sử dụng, hóa đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác

để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc cấp cho khách hàng khi bán hàng

hóa một dịch vụ; d) Mua, bán, sử dụng hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hóa,

dịch vụ giữa các liên của hóa đơn. Những hành vi khách quan trên thể hiện cụ thể

thông qua việc vi phạm các điều kiện về chủ thể được phép mua, bán hóa đơn, chứng

từ; bán hóa đơn đã mua mà chưa lập để tổ chức, cá nhân khác hạch toán, khai thuế

hoặc thanh toán vốn ngân sách; khai không đúng điều kiện để được mua hóa đơn do

cơ quan thuế phát hành; cơ quan thuế bán quá số lượng hóa đơn được phép bán lần

đầu cho các tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh (quá một quyền - năm mươi số cho mỗi

loại hóa đơn).

Hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước chỉ cấu thành tội phạm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất: Hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng

phôi từ 50 số trở lên

Trường hợp thứ hai: Hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số trở lên số.

16

Trường hợp thứ ba: thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên.

Tính trái phép ở đây được được hiểu là sự thể hiện ở chỗ in, phát hành, mua

bán không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép của cơ quan có

thẩm quyền.

* Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu

hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi,

động cơ và mục đích phạm tội.

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ

hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực thực hiện các hành vi đó.

* Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện hành có thể là cá

nhân và pháp nhân thương mại. Chủ thể của tội phạm là cá nhân chỉ có thể là con

người và con người đó phải có năng lực trách nhiệm hình sự, người đó phải đạt tuổi

chịu trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể của tội

phạm là pháp nhân thương mại là một tổ chức được thành lập hợp pháp và mục

tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.

Tại Điều 8, Điều 12, Điều 75 BLHS 2015 [30] thì chủ thể của “Tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN" đối với cá nhân phải là

người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS thực hiện một trong các hành vi phạm

tội kể trên và là cá nhân bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc người của tổ chức kinh

doanh bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; người của tổ chức nhận in hoặc đặt in hóa

đơn; cá nhân hoặc người của tổ chức mua hàng hóa, dịch vụ.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này còn có pháp nhân thương mại đủ điều kiện

chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.

17

1.1.4. Hình phạt của tội in, phát hành, bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước

Theo quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015 [30], thì:

- Cấu thành tội phạm cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS thì: chủ thể

thực hiện hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi

nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới

100.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt

cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Khoản 2 Điều 203 BLHS quy định phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến

500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất

chuyên nghiệp; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi

từ 100 số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên; đ) Thu lợi

bất chính 100.000.000 đồng trở lên; e) Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước

100.000.000 đồng trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm.

- Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị phạt tiền

từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

- Khoản 4 quy định pháp nhân thương mại phạm tội thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền

từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e

và g khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình

chỉ hoạt động vĩnh viễn;

d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến

200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định

từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

18

1.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN với các tội khác trong Bộ luật hình sự

1.2.1. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

(Điều 203) với tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước (Điều 204 BLHS)

Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là

những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định của Nhà nước trong

quản lý kinh tế nói chung và chuyên ngành về việc in, phát hành, mua bán hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN, xâm hại đến việc vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đến

NSNN được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015 [30].

Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

là những hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể có trách nhiệm trong công tác

bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN qua việc không thực hiện, thực

hiện không đúng, không đầy đủ các quy định của pháp luật chuyên ngành, xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực tài chính - kế toán, gây thiệt hại cho NSNN được

quy định tại Điều 204 BLHS năm 2015 [30].

Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN và tội

vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có điểm

tương đồng nhau là có khách thể của tội phạm là hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN,

tuy nhiên hai tội này này có sự khác nhau cơ bản ở những điểm sau:

Thứ nhất: Về mặt khách quan của tội phạm

Nếu như tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước có mặt khách quan như phân tích nêu trên thì tội bảo quản, quản lý

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước bao gồm: Lưu trữ, bảo quản hóa đơn

không đúng quy định; Không báo cáo hoặc báo cáo không chính xác tình hình sử

dụng hóa đơn, chứng từ, thanh toán, quyết toán tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ;

Làm hư hỏng, mất hóa đơn; Thực hiện hủy hóa đơn không đúng theo quy định của

pháp luật; Xử lý việc mât, cháy, hỏng hóa đơn không hoặc đúng theo quy định của

pháp luật...

19

Các hành vi này là các hành vi khách quan được thế hiện dưới dạng hành động

hoặc không hành động. Hành vi này bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại cho ngân

sách nhà nước hoặc cho người khác từ 100.000.000 đồng trở lên.

Thứ hai: về chủ thể của tội phạm

Nếu như chủ thể của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp NSNN là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định bao

gồm: cá nhân mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc người của tổ chức kinh doanh

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; người của tổ chức nhận in hoặc đặt hóa đơn; cá nhân

hoặc người của tổ chức mua hàng hóa, dịch vụ; pháp nhân thương mại (theo phân

tích tại tiểu mục 1.1.3) thì chủ thể của tội bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước ngoài những yêu cầu nêu trên thì còn đòi hỏi phải là những

chủ thể đặc biệt, tức là những người có trách nhiệm trong công tác bảo quản, quản lý

hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN bao gồm những người có trách nhiệm trong cơ quan

thuế, trong các tổ chức; hộ gia đình, cá nhân kinh doanh có sử dụng hóa đơn, chứng

từ trong hoạt động kinh doanh.

Thứ ba: Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội trong tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN là cố ý thì đối với người phạm tội vi phạm quy định bảo

quản, quản lý hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN cũng được thực hiện với lỗi vô ý

(người phạm tội thấy trước được hành vi vi phạm của mình có thể gây ra hậu quả

nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa

được; hoặc người phạm tội không thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể gây ra

hậu quả nguy hại cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu

quả đó), do đã làm không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ quy trình bảo quản, giữ

gìn các loại hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN dẫn đến gây thiệt hại cho tài của Nhà

nước và công dân. Trong trường hợp phạm tội với lỗi cố ý, động cơ của người phạm

tội là vụ lợi

20

1.2.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

(Điều 203) với tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá

giả khác (Điều 208 BLHS)

Tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác

được hiểu là hành vi làm ra, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ

có giá giả khác.

Điểm khác nhau giữa các tội này thể hiện ở các điểm sau:

- Thứ nhất, về đối tượng tác động

Đối tượng của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN (Điều 203) bao gồm: hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

Còn đối tượng tác động của tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc

các giấy tờ có giá giả khá là công cụ chuyển nhượng giả, các giấy tờ có giá giả khác.

Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh

toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định . Công cụ

chuyển nhượng có thể là: hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc ... Các giấy tờ có

giá khác như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, kỳ phiếu, tín phiếu, các

loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần, chứng

quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai ...)

- Thứ hai, về hành vi khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan củ tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước được hiểu là hành vi in, phát hành, mua bán hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trái với quy định của pháp luật.

Còn hành vi khách quan của tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả

hoặc các giấy tờ có giá giả khác là hành vi: Làm công cụ chuyển nhượng giả hoặc

các giấy tờ có giá giả khác là hành vi tạo ra các đối tượng đã nêu bằng cách in, vẽ,

sao chụp ...; Lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác

là hành vi đổi chác, mua bán, tặng cho, cho vay ... các đối tượng trên.

21

1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

1.3.1. Bộ luật hình sự năm 1985

BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của Việt Nam ra đời trên cơ sở của nền

kinh tế bao cấp và tình hình phạm tội thời kỳ đó, có nhiều hành vi phạm tội chưa xuất

hiện, trong đó có các hành vi phạm tội liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các quy định liên quan đến điều hành,

vận hành kinh tế cũng có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế, hành vi

lừa đảo, chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN qua việc sử dụng hóa đơn GTGT đã xuất

hiện. Chính vì vậy, văn bản pháp luật hình sự đầu tiên quy định riêng về các tội có

liên quan đến hóa đơn, chứng từ có thể xác định là Thông tư liên tịch số

21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP [1]. Khi sửa đổi, bổ sung BLHS

1999 bởi Luật số Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 [26] thì các

hành vi có tính chất tội phạm liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN đã được

quy định trực tiếp trong BLHS. Thông tư quy định cụ thể như sau:

a) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua và sử dụng trái

phép hoá đơn giá trị gia tăng [1, Điều 1]:

Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá

đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ năm trăm

nghìn đồng trở lên; dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc

đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm

đoạt tài , nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu TNHS về tội

lừa đảo chiếm đoạt tài theo Điều 139 của Bộ Luật hình sự.

Người nào mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá đơn đó để

lập chứng từ khống về việc mua nguyên liệu, nhiên vật liệu, vật tư, hàng hoá,... chiếm

đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác mà tiền chiếm đoạt từ năm trăm nghìn

đồng trở lên; Tiền chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm

trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm

đoạt tài , nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu TNHS về tội

22

lừa đảo chiếm đoạt tài theo Điều 139 của Bộ Luật hình sự.

Trường hợp là người có chức vụ tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử do hợp

đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được

giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện

công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức mà

mình có trách nhiệm quản lý mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá

đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên liệu, nhiên vật liệu, vật tư, hàng

hoá,... chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác mà tiền bị chiếm đoạt

từ năm trăm nghìn đồng trở lên; tiền bị chiểm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng

gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm

hoặc đã bị kết án về một trong số các tội quy định tại Mục A Chương XXI của Bộ

luật hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. mà còn vi phạm thì bị

truy cứu TNHS về tội "tội tham ô tài " theo Điều 278 của Bộ luật hình sự.

Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá

đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá, Nếu chứng

minh được là hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới mà Hàng hoá có giá

trị từ một trăm triệu đồng trở lên; Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng, nhưng

đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 153 – Tội buôn lậu hoặc tại

một trong các điều 154 – Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới,

155 – Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, 156 – Tội xuất, buôn bán

hàng giả, 157 – Tội xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa

bệnh, thuốc phòng bệnh, 158 – Tội xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn

nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, 159 -

Tội kinh doanh trái phép, 160 - Tội đầu cơ và 161 - Tội trốn thuế của Bộ luật hình sự

hoặc đã bị kết án về một trong các hành vi này, nhưng chưa được xoá án tích mà còn

vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193 - Tội xuất trái phép

chất ma túy , 194 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất

ma túy, 195 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào

việc xuất trái phép chất ma túy, 196 - Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các

23

phương tiện, dụng cụ dùng vào việc xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy , 230 -

Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí

quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự , 236 - Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử

dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ , 238 - Tội xuất, tàng trữ,

vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc của Bộ luật hình sự

thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội buôn lậu" theo Điều 153 của Bộ Luật hình

sự.

Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá

đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá, nếu không

chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới (tức là chỉ trong

nội địa), mà thuộc một trong các trường hợp trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở

lên; tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành

vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội quy định tại

điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236

và 238 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về "tội trốn thuế" theo Điều 161 của Bộ luật hình sự.

Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà không thuộc một trong

các trường hợp nêu trên nếu chứng minh được khi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà

hoá đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người

mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có

giá giả" theo Điều 181 của Bộ luật hình sự. Nếu không chứng minh được hoá đơn giá

trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn

nguyên như khi phát hành) thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội mua

bán tài liệu của cơ quan nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng

hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên (thông thường mỗi số có 3 liên) hoặc

dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm

đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng

chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

24

b) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi bán trái phép hoá đơn

giá trị gia tăng [1, Điều 2]:

Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị gia tăng cho người khác, mà biết rõ

mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nếu người mua bị truy cứu trách nhiệm

hình sự theo hướng dẫn tại mục 1 của Thông tư liên tịch này thì người bán bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng đối với người mua với vai trò đồng phạm.

Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị gia tăng cho người khác, mà không

biết mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nhưng không xác định được người

mua, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

a. Trường hợp chứng minh đương khi bán hoá đơn giá trị gia tăng mà hoá đơn

giá trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người bán bị truy

cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả"

theo Điều 181 của Bộ luật hình sự;

b. Trường hợp không chứng minh được hoá đơn giá trị gia tăng đã được ghi

đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn nguyên như khi phát hành)

thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội mua bán tài liệu của cơ quan

nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng hoá đơn giá trị gia tăng

từ năm mươi số trở lên (thông thường mỗi số có 3 liên) hoặc dưới năm mươi số,

nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu

huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án

tích mà còn vi phạm.

Trong giai đoạn này, Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-

VKSNDTC-BTP [1] đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội

phạm liên quan đến hóa đơn, chứng từ, đặc biệt là hóa đơn GTGT. Các hành vi khách

quan và các thủ đoạn phạm tội khác nhau có thể diễn ra trên thực tế đã được quy định

chi tiết, cụ thể, quy định mức định lượng thiệt hại, tội danh mà tội phạm gây ra phù

hợp với điều kiện nền kinh tế giai đoạn này. Các hành vi phạm tội được thực hiện

bằng nhiều hình thức khác nhau như: Thành lập doanh nghiệp để móc nối với nhau

hoặc móc nối với các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện các thủ đoạn mua bán hóa

25

đơn GTGT, giá hàng hóa trên hóa đơn GTGT ghi không đúng giá thực tế để lập hồ

sơ khống xin hoàn thuế GTGT. Hành vi này là hành vi vừa trốn thuế, đối với số thuế

phải nộp vừa chiếm đoạt được tiền thuế phải hoàn của Nhà nước. Tạo giao dịch mua

bán hàng hóa giả mạo, doanh nghiệp thành lập nhưng thực tế không xuất hoạt động

kinh doanh mà chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện quy định về phát hành hóa đơn, để

bán hóa đơn cho các đối tượng mua hóa đơn khống hợp thức hóa chi phí, khấu trừ

thuế GTGT, hoàn thuế GTGT … Tuy nhiên, Thông tư còn mang tính “chấp vá”,

“chữa cháy” do những hành vi phạm tội “mới” phát sinh do nền kinh tế thị trường,

cũng như những sai sót, yếu kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước đã tạo cơ hội

cho tội phạm sử dụng những kẽ hở pháp luật nên việc vận dụng những tội danh đã

được quy định trong BLHS còn mang tính chất khiên cưỡng, chưa phản ánh đúng bản

chất của từng hành vi.

Nhận thấy được những bất cập trên, BLHS năm 1999 [23] đã được sửa đổi, bổ

sung, cụ thể hóa hành vi liên quan đến in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN thành một điều luật.

1.3.2. Bộ luật hình sự năm 1999

Trước yêu cầu thực tiễn, cần khắc phục những bất cập của Thông tư liên tịch

số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP [1] trong việc phòng, chống và

xử lý các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế nói chung cũng như các tội phạm liên

quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói riêng, BLHS năm 1999 [23] đã được

bổ sung thêm hai tội danh mới có liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại

Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 [26] kỳ họp thứ 5, quy định tại

hai điều luật: Điều 164a (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp NSNN) và Điều 164b (Tội vi phạm các quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN). Theo đó: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là những hành vi của người nào in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với số lượng lớn

hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu

26

đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Như vậy, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã cụ thể hóa các tội danh liên

quan đến hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước, không còn quy định cụ thể động cơ, mục đích phạm tội để xác định

tội danh như Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP

[1], đồng thời mở rộng phạm vi đối tượng tác động của tội phạm liên quan đến hành

vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước,

không chỉ giới hạn đối với hóa đơn GTGT mà ngay cả đối với các hóa đơn, chứng từ

thu nộp NSNN cũng là đối tượng tác động.

BLHS năm 2015 [28] đã kế thừa BLHS năm 1999 [23] [26] về việc quy định

liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước tại Điều 203. Theo đó: “Người nào in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100

số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất

chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000

đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù

từ 06 tháng đến 03 năm.”

Thông qua sự phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chúng ta có thể nhận thấy: tội phạm này ngày

càng được quy định một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh sự tiến bộ của trình

độ lập pháp về tội này trong pháp luật hình sự Việt Na,.

1.4. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.

1.4.1. Tội tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

trong luật hình sự Trung Quốc [43]

Trong Bộ luật hình sự Trung Quốc, tội liên quan đến in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN được quy định như sau:

Điều 205. Phát hành sai hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc hóa đơn

khác để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc giảm thuế sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình

27

sự dưới ba năm, với mức phạt trên 20.000 nhân dân tệ và dưới 200.000 nhân dân

tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số tiền thuế báo cáo sai, hoặc có tính chất

nghiêm trọng, với mức phạt tù trên ba năm và dưới 10 năm, với mức phạt hơn 50.000

nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên quan đến

số tiền thuế được báo cáo sai, hoặc có tính chất nghiêm trọng hơn, với mức phạt tù

hơn 10 năm hoặc tù chung thân, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới

500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .

Các hành vi được đề cập trong đoạn trước để lừa đảo thuế nhà nước, nếu số

tiền liên quan là cực kỳ lớn và có tính chất đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại đặc

biệt cho nhà nước, sẽ bị phạt tù chung thân hoặc tử hình và bị tịch thu tài .

Các đơn vị phạm tội theo điều khoản này sẽ bị phạt tiền, với nhân viên trực

tiếp phụ trách hoặc nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị phạt tù giam dưới

ba năm; đối với các trường hợp liên quan đến số tiền thuế tương đối lớn, hoặc có

tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới mười năm; đối với

các trường hợp liên quan đến số tiền thuế lớn, hoặc có tính chất đặc biệt nghiêm

trọng, với án tù hơn 10 năm hoặc tù chung thân.

Phát hành sai hóa đơn thuế giá trị gia tăng hoặc hóa đơn khác để lừa đảo

hoàn thuế xuất khẩu hoặc giảm thuế đề cập đến bất kỳ phát hành sai nào dành cho

người khác hoặc cho chính mình hoặc để người khác phát hành sai cho anh ta hoặc

khiến người khác phát hành sai.

Điều 206. Giả mạo hoặc bán giả mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt

tù hoặc giam giữ hình sự hoặc hạn chế dưới ba năm, với mức phạt hơn 20.000 nhân

dân tệ nhưng dưới 200.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số

lượng tương đối lớn, hoặc có tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm và

dưới 10 năm, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân

tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số lượng lớn hoặc có tính chất đặc biệt

nghiêm trọng, với án tù hơn mười năm hoặc tù chung thân, với mức phạt hơn 50.000

nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .

Cam kết giả mạo và bán hóa đơn giả có giá trị gia tăng với số lượng cực lớn

28

hoặc có tính chất đặc biệt nghiêm trọng làm phá vỡ trật tự kinh tế nghiêm trọng sẽ

bị phạt tù chung thân hoặc tử hình, bị tịch thu tài .

Các đơn vị phạm tội theo điều khoản này sẽ bị phạt tiền, với nhân viên trực

tiếp phụ trách hoặc nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị phạt tù hoặc giam

giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới ba năm; đối với các vụ án liên quan đến số lượng

tương đối lớn hoặc có tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng

dưới 10 năm; đối với các vụ án liên quan đến số lượng lớn hoặc có tính chất đặc biệt

nghiêm trọng, với án tù trên 10 năm hoặc tù chung thân.

Điều 207. Cam kết bán bất hợp pháp hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt

tù hoặc giam giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới ba năm, với mức phạt hơn 20.000 nhân

dân tệ nhưng dưới 200.000 nhân dân tệ.; đối với các vụ án liên quan đến số lượng

tương đối lớn, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới 10 năm, với mức phạt hơn

50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên

quan đến số lượng lớn với hình phạt tù trên 10 năm hoặc tù chung thân, với mức phạt

hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài sản .

Điều 208. Mua bất hợp pháp hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc giả

mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình sự dưới 5 năm,

với mức phạt hoặc phạt riêng hơn 20.000 nhân dân tệ và dưới 200.000 nhân dân tệ.

Phát hành sai hoặc bán lại hóa đơn thuế giá trị gia tăng bất hợp pháp hoặc

giả mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền sẽ bị kết án và trừng phạt tương ứng

theo Điều 205, 206 và 207 của luật này.

Điều 209. Giả mạo hoặc xuất mà không có thẩm quyền hoặc bán hoặc xuất

mà không có thẩm quyền, các hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất

khẩu hoặc bù đắp thuế sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình sự và hạn chế dưới ba năm,

với mức phạt trên 20.000 nhân dân tệ nhưng ít hơn hơn 200.000 nhân dân tệ; đối với

các vụ án liên quan đến số lượng lớn, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới bảy

năm, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với

các trường hợp liên quan đến số lượng cực lớn, bị phạt tù hơn bảy năm, với mức phạt

hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .

29

Giả mạo hoặc xuất mà không có thẩm quyền hoặc bán các hóa đơn khác được

xuất mà không có thẩm quyền, không được đề cập trong đoạn trước, sẽ bị phạt tù

hoặc giam giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới hai năm, với mức phạt trên 10.000 nhân

dân tệ nhưng ít hơn hơn 50.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp có tính chất

nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn hai năm và dưới bảy năm, với mức phạt hơn

50.000 nhân dân tệ và dưới 500.000 nhân dân tệ.

Bán bất hợp pháp các hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất

khẩu hoặc bù đắp thuế sẽ bị trừng phạt theo đoạn đầu tiên.

Bán bất hợp pháp các hóa đơn khác không được đề cập trong đoạn thứ ba sẽ

bị trừng phạt theo đoạn thứ hai.

Điều 210. In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc hóa đơn khác có thể sử

dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc bù đắp thuế, sẽ bị kết án và trừng phạt

theo Điều 264 của luật này.

Có được bằng cách gian lận có nghĩa là hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc

quyền hoặc hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc bù

đắp thuế sẽ bị kết án và trừng phạt theo Điều 266 của luật này.

Pháp luật hình sự Trung Quốc và Việt Nam đều quy định rõ về hành vi mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

Tuy nhiên pháp luật hình sự Trung Quốc thì chi tiết hơn và tách ra thành nhiều điều

hơn pháp luật hình sự Việt Nam để làm căn cứ xử phạt. Pháp luật hình sự Trung Quốc

quy định gồm 6 điều gồm: phát hành sai hóa đơn; giả mạo hóa đơn; cam kết bán hóa

đơn bất hợp pháp; mua bất hợp pháp hóa đơn, giả mạo và xuất hàng không đúng thẩm

quyền hoặc bán hoặc xuất mà không có thẩm quyền, in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định tại 1 điều

nhưng rõ ràng, cụ thể và dễ vận dụng vào thực tiễn khi xử phạt hình sự đối với tội

này hơn.

30

1.4.2. Tội tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

trong luật hình sự Thái Lan [42]

Mục 266 Bất cứ ai giả mạo bất kỳ tài liệu nào sau đây:

1. Một tài liệu về quyền, đó là một tài liệu chính thức;

2. Một ý chí;

3. Giấy chứng nhận cổ phần hoặc giấy ghi nợ, hoặc lệnh bảo hành hoặc chứng

nhận nợ;

Pháp luật hình sự Thái Lan chỉ nêu hóa đơn như một tài liệu và không quy

định rõ về các hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN là như thế nào. Điều luật Pháp luật hình sự Thái Lan quy định về vấn đề này

còn quá chung chung, cơ bản. Điều 203 Bộ luật hình sự 2015 Việt Nam hoàn chỉnh

hơn, ưu viêt hơn, quy định rõ ràng dễ hiểu, dễ đi sâu vào thực tiễn áp dụng.

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và

pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN như: các khái niệm, dấu hiệu pháp lý, lịch sử hình thành phát triển

quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, và pháp luật hình sự một số

nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Qua

nghiên cứu các nội dung này, tác giả đã đạt được một số kết quả như:

1. Xây dựng được khái niệm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN.

2. Phân tích được các dấu hiệu chung và dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Từ đó, phân biệt được tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN với một số tội phạm

khác có dấu hiệu tương tự trong BLHS như: tội vi phạm quy định về bảo quản, quản

lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

3. Nghiên cứu được lược sử hình thành và phát triển của tội in, phát hành, mua

31

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ năm 1945 đến nay. Cụ thể là nghiên

cứu quy định của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN trong luật hình sự Việt Nam theo trình tự về mặt thời gian trong các Bộ luật

hình sự: (1) Bộ luật hình sự năm 1985; (2) BLHS năm 1999; (3) BLHS năm 2015

qua đó chỉ rõ sự kế thừa và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn quy định về tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong pháp luật hình

sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay.

4. Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định về tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong BLHS Việt Nam với

quy định tương ứng về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN trong BLHS một số nước như: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thái Lan. Các

kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần bổ sung lý luận

về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, giúp cho

việc nhận thức và áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm này được chính xác

và toàn diện hơn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở để tác

giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Chương 3

của Luận văn.

32

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ

TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ

THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Tổng quan tình hình xét xử pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí

Minh trong những năm gần đây

Nhìn chung, trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa

bàn tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đã đảm

bảo thực hiện tốt các chủ trương, định hướng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước

về chính sách hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với nhóm các tội xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Hình phạt mà Tòa án tuyên phạt đối với các bị cáo

thuộc các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thể hiện được chính sách hình sự của

Đảng và Nhà nước ta là nghiêm trị những kẻ chủ mưu, cầm đầu, tái phạm, tái phạm

nguy hiểm, lợi dụng chức vụ quyền hạn, gây thiệt hại đặc biệt lớn, gây hoang mang

trong dư luận . Đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng đối với những người

tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt

hại gây ra nên đã đề cao được tính giáo dục và phòng ngừa chung, đáp ứng được yêu

cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm hiện nay.

Trong những năm vừa qua hoạt động định tội danh nói riêng và hoạt động áp

dụng pháp luật hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm thuộc

nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đảm bảo đúng người, đúng tội ,

đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc định tội danh sai, bỏ lọt tội phạm.

Việc hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính trong việc xử lý các hành

vi vi phạm trong trật tự quản lý kinh tế đã được khắc phục, hạn chế đến mức thấp

nhất. Đó chính là những kết quả mà những cơ quan có thẩm quyền có chức năng đã

đạt được trong hoạt động áp dụng luật hình sự đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế trong đó có nhóm tội liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

Trong những năm vừa qua, cùng với kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm

33

nói chung, công tác điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế trong đó có tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả nhất định. Việc phát

hiện, khởi tố điều tra các hành vi liên quan đến việc in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN đã có những bước chuyển biến tích cực. Bên cạnh

lực lượng cảnh sát kinh tế thì lực lượng quản lý thị trường cũng như lực lượng phòng

chống buôn lậu của hải quan cũng đã phát hiện khởi tố một số vụ án liên quan đến

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN mà phổ biến là tội phạm liên quan đến hành vi mua

bán trái phép hóa đơn GTGT tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân các quận, huyện

(19 quận, huyện) và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử một số vụ

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Các số liệu thống

kê của Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm

2019 cho chúng ta nhận biết bức tranh tổng thể về tình hình tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong những năm gần đây:

Bảng 2.1. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm về nhóm tội xâm

phạm TTQLKT so với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019

Vụ án về tội in,

phát hành, mua Số vụ án hình sự trong bán trái phép nhóm tội xâm phạm So sánh (%) hóa đơn, chứng TTQLKT STT từ thu nộp

NSNN

Giải Thụ Giải Thụ lý Giải quyết Thụ lý quyết lý quyết

2015 2 2 0 0 0 0

34

2016 4 1 1 0.25 0.33 3

2017 5 1 1 0.2 0.33 3

2018 7 3 3 0.4 0.5 6

2019 5 1 1 0.2 0.33 3

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Bảng 2.2. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm trong nhóm tội

về thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm với tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2015 đến năm 2019

Vụ án về tội in,

Số vụ án hình sự trong phát hành, mua

nhóm tội về thuế, tài chính, bán trái phép So sánh (%) ngân hàng, chứng khoán, hóa đơn, chứng STT bảo hiểm từ thu nộp

NSNN

Giải Thụ Giải Thụ lý Giải quyết Thụ lý quyết lý quyết

2015 2 0 0 0 0 2

2016 1 1 1 1 1 1

35

2017 2 2 1 1 0.5 0.5

2018 5 4 3 3 0.6 0.75

2019 3 2 1 1 0.33 0.5

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Qua nghiên cứu so sánh số liệu trên, ta thấy số vụ án liên quan đến tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại Thành phố Hồ Chí

Minh không nhiều, và số vụ được thụ lý có xu hướng tăng dần, chiếm tỷ trọng tương

đối cao trong nhóm tội liên quan đến xâm phạm quản lý kinh tế. Điều đó cho ta thấy,

xu hướng gia tăng tội phạm trong lĩnh vực này ngày càng tinh vi, gây hậu quả nghiêm

trọng thiệt hại cho NSNN.

2.2. Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Khái quát lý luận định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

* Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

Để có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN chúng ta cần phải kế thừa các kết quả nghiên cứu

của khoa học luật hình sự về khái niệm định tội danh.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận

về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể

đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy

phạm pháp luật hình sự” [38, tr.9-10]

Điều 203 BLHS năm 2015 quy định về tội phạm có tên tội danh là: “Tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”, do đó

36

dựa trên khái niệm định tội danh mà GS.TS Võ Khánh Vinh đã xây dựng, chúng ta

có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như sau:

Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính

xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu

hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015.

- Đặc điểm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước

Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước là một trường hợp định tội danh cụ thể, do đó nó có các đặc điểm

của định tội danh: [37, tr.10]

Thứ nhất, định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước là một quá trình lô gích nhất định, là hoạt động xác nhận

và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm tội cụ thể với các dấu hiệu của cấu

thành tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước được quy định tại Điều 203 BLHS.

Thứ hai, định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước là việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với hành

vi cố ý chiếm đoạt tiền NSNN, gây nguy hiểm cho xã hội.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố

Hồ Chí Minh

Cấu thành cơ bản của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015.

Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua cho

thấy đa số các tòa án đều định tội danh đúng theo các dấu hiệu của các yếu tố cấu

37

thành tội phạm và điều này được thể hiện thông qua các vụ án về tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. Chẳng hạn:

Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 28/11/2019

Bi cáo Đỗ Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố

về các hành vi phạm tội như sau:

Ngày 22/01/2002 Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp phép

cho Công ty B.G hoạt động, do Tống Văn D làm Giám đốc để ký các giấy tờ Đỗ Văn

T yêu cầu. Công ty không kinh doanh, chỉ xuất hoá đơn giá trị gia tăng để thu phần

trăm tiền thuế.

Thực hiện thỏa thuận với Trung tâm xuất khẩu Tổng công ty T.S.V.N gọi tắt

là Trung tâm xuất khẩu mua hoá đơn giá trị gia tăng để hợp thức hoá đầu vào lập hồ

sơ xin hoàn thuế. Tiền hoàn thuế giá trị gia tăng sẽ được trả cho các công ty bán hóa

đơn giá trị gia tăng là 80%, 20% còn lại sẽ nộp cho Trung tâm xuất khẩu 10% để hạch

toán hiệu quả kinh doanh, còn lại 10% chi cho các cá nhân tham gia. Từ tháng 5/2002

đến tháng 9/2002, Công ty B.G đã ký với Trung tâm xuất khẩu 07 hợp đồng mua bán

và 03 phụ kiện hợp đồng với trị giá thanh toán 11.009.463.088 đồng. Công ty B.G đã

xuất cho Trung tâm xuất khẩu 12 hóa đơn giá trị gia tăng, ghi khống hàng may mặc

là 10.008.602.813 đồng, tiền thuế giá trị gia tăng 1.000.860.275 đồng. Bị cáo Đỗ Văn

T đã trực tiếp ký vào 11 phiếu chi và thực nhận số tiền tại 04 phiếu chi là 427.903.285

đồng và bị cáo trực tiếp đưa Nguyễn Thị H đến Trung tâm xuất khẩu để ký vào 03

phiếu chi và nhận số tiền 303.883.684 đồng sau đó Hiên đưa lại cho Đỗ Văn T. Tổng

số tiền Đỗ Văn T đã nhận từ Trung tâm xuất khẩu và Nguyễn Thị H là 731.786.969

đồng. Hành vi của bị cáo Đỗ Văn T cùng Trần Mạnh H1, Tống Văn D và Phan Xuân

L nhằm trục lợi số tiền thuế giá trị gia tăng là 1.000.860.275 đồng. Trong đó, bị cáo

Đỗ Văn T đã nhận số tiền từ Trung tâm xuất khẩu và nhận từ Nguyễn Thị H tổng

cộng là 427.903.285 đồng + 303.883.684 đồng = 731.786.969 đồng, đây là hành vi

thu lợi bất chính.

Tại bản Cáo trạng số 73/CT-VKSTC-V5 ngày 12/9/2019 của Viện kiểm sát

38

nhân dân Tối cao đã truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “In, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo điểm đ, e khoản 2, Điều 203,

điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử

phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 năm đến 03 năm tù về tội “In, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo

phải nộp số tiền 731.786.969 đồng để sung quỹ nhà nước.

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 500/2019/TLST-HS ngày

13/9/2019 tuyên bố: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính

từ ngày 03/7/2019. Buộc bị cáo Đỗ Văn T nộp số tiền 731.786.969 (bảy trăm ba mươi

mốt triệu bảy trăm tám mươi sáu ngàn chín trăm sáu mươi chín) đồng để sung quỹ

Nhà nước. Bị cáo Đỗ Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự

sơ thẩm.

Trong vụ án này, tòa án đã định tội danh là tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo khách thể của tội phạm. Cụ thể,

trong vụ án này hành vi thu lợi bất chính của T bằng cách trục lợi số tiền thuế GTGT.

Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 30/07/2018

Bi cáo Nguyễn Thị Thảo và các đồng phạm khác bị Viện kiểm sát nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về các hành vi phạm tội như sau:

Công ty CP Logistic Q (sau đây viết tắt là Công ty Q), địa chỉ: 141 đường D3,

Phường 25, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Thị Thảo BC1 - Tổng giám

đốc, đại diện pháp luật theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0312555529

ngày 20/11/2013 và đăng ký thay đổi lần thứ 14 ngày 22/7/2015; Công ty CP Logistic

Xăng Dầu Q (sau đây viết tắt là Công ty Xăng dầu Q), địa chỉ: Tầng 12 Tòa nhà Hải

Âu, số 39B Trường Sơn, Phường 4, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn

Thị Thảo BC1 - Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện pháp luật theo giấy chứng nhận

đăng ký doanh nghiệp số 0312407295 ngày 08/8/2013 và đăng ký thay đổi lần thứ 4

39

ngày 14/7/2015.

Tháng 6/2015, qua giới thiệu của Lê Thanh BC2, Nguyễn Thị Thảo BC1 đã

gặp gỡ, bàn bạc và thỏa thuận với La Quốc D về việc mua, bán hóa đơn GTGT khống

mặt hàng xăng, dầu xuất cho Công ty Q, Công ty Xăng Dầu Q để kiếm lời. Do không

mua bán hàng hóa, chỉ mua bán hóa đơn GTGT khống, nên Nguyễn Thị Thảo BC1

và La Quốc D thống nhất La Quốc D chịu trách nhiệm về nguồn tiền để hợp thức hóa

thủ tục thanh toán mua bán hàng hóa qua ngân hàng; Nguyễn Thị Thảo BC1 cung

cấp Bảng kê chi tiết (thể hiện số lượng dầu D.O, đơn giá, tổng số tiền hàng) cho La

Quốc D để làm cơ sở xuất hóa đơn GTGT khống; cung cấp Ủy nhiệm chi của Công

ty Q và Công ty Xăng dầu Q chưa ghi nội dung. La Quốc D cho nhân viên nộp tiền

vào tài khoản của Công ty Q và Công ty CP Xăng dầu Q (tại Ngân hàng G), sau đó

sử dụng Ủy nhiệm chi ghi thông tin, chuyển tiền từ tài khoản 02 công ty của BC1 vào

tài khoản của 09 công ty bán hóa đơn khống (cũng tại Ngân hàng G). Số tiền chuyển

khoản phù hợp với số tiền ghi trên hóa đơn, hợp đồng mua bán xăng dầu, đơn đặt

hàng, biên bản giao nhận hàng hóa khống giữa 02 công ty của BC1 và 09 công ty

xuất hóa đơn khống (đã được BC1 chỉ đạo nhân viên soạn thảo ký trước, chuyển cho

La Quốc D để ký, đóng dấu).

Từ tháng 6/2015 đến tháng 9/2015, Nguyễn Thị Thảo BC1 đã mua của La

Quốc D, Lê Thanh BC2 tổng cộng 392 hóa đơn GTGT khống của 09 doanh nghiệp.

La Quốc D cho các đối tượng sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Quốc Đ, Phạm

Văn T, Ngô Tuấn U1 và Nguyễn Văn U nộp 338.920.909.680 đồng (Ba trăm ba mươi

tám tỷ, chín trăm hai mươi triệu, chín trăm lẻ chín nghìn, sáu trăm tám mươi đồng)

vào tài khoản của Công ty Q và Công ty Xăng Dầu Q mở tại Ngân hàng G, sau đó

chuyển khoản bằng ủy nhiệm chi cho 09 công ty xuất hóa đơn GTGT khống để tạo

chứng từ giả thanh toán mua dầu, thanh toán tiền vận chuyển, hợp thức cho việc mua

bán trái phép 392 hóa đơn GTGT khống. Nguyễn Thị Thảo BC1 sử dụng pháp nhân

của 09 doanh nghiệp (thành lập mới hoặc nhận chuyển nhượng) để xuất 1.679 hóa

đơn GTGT khống cho Công ty Q và Công ty Xăng dầu Q.

Công ty G1, địa chỉ quận C2, TP. Hồ Chí Minh; do bà Lê Thị O4 làm Giám

40

đốc, đại diện pháp luật; nhưng thực chất mọi hoạt động đều do Trần Ngọc BC6 (chồng

bà O4) điều hành, chỉ đạo. Nguyễn Thị Thảo BC1 và Trần Ngọc BC6 có quan hệ

quen biết từ năm 2014 qua việc mua bán dầu. Đến tháng 8/2015, do không đạt được

thỏa thuận về giá mua bán, nên Trần Ngọc BC6 không tiếp tục mua bán dầu với

Nguyễn Thị Thảo BC1 mà chỉ mua hóa đơn GTGT khống để bổ sung “đầu vào” cho

Công ty G1. Từ ngày 01/8 đến ngày 30/11/2015, Trần Ngọc BC6 đã mua của Nguyễn

Thị Thảo BC1 78 hóa đơn GTGT khống của Công ty Xăng dầu Q (xuất cho Công ty

G1) với 13.313.000 lít dầu ghi trên hoá đơn, tổng số tiền ghi trên hóa đơn là

168.747.450.000 đồng. Trần Ngọc BC6 trả tiền mua bán hóa đơn GTGT cho BC1 04

lần, tổng số tiền là 1.837.435.000 đồng. Tổng số tiền BC6 hưởng lợi bất chính là

133.313.000 đồng. Do không lập sổ sách ghi chép, nên đến nay Trần Ngọc BC6

không xác định được số lượng hóa đơn và từng hóa đơn cụ thể đã bán cho các doanh

nghiệp.

Công ty Đ (địa chỉ: Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) do Nguyễn Đức Thanh BC7

làm Giám đốc, đại diện pháp luật. Từ ngày 11/5 đến 30/11/2015, Nguyễn Đức Thanh

BC7 thông qua Đinh Thị Hải V mua của Nguyễn Thị Thảo BC1 22 hóa đơn GTGT

khống dịch vụ vận chuyển nước ngọt, trị giá khống là 7.387.178.700 đồng do Công

ty Q và Công ty Xăng dầu Q xuất cho Công ty Đ.

Quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an đã thu giữ tài liệu,

hóa đơn chứng từ thể hiện: Từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015, Công ty Q và Công

ty Xăng dầu Q của Nguyễn Thị Thảo BC1 đã xuất tổng cộng 3.996 hóa đơn GTGT

mặt hàng dầu D.O và dầu F.O, trị giá tiền trên hóa đơn là 5.082.767.729.748 đồng

cho 101 doanh nghiệp.

Ngày 30 tháng 07 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 263/2018/HS tuyên bố: bị cáo

Nguyễn Thị Thảo BC1, Lê Thanh BC2, Nguyễn Phạm Xuân BC3, Lê Thị BC4,

Nguyễn Trâm Quyên BC5, Trần Ngọc BC6 và Nguyễn Đức Thanh BC7 phạm tội

“Mua bán trái phép hóa đơn thu nộp ngân sách nhà nước”.

Xử phạt: Nguyễn Thị Thảo BC1 03 (ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt với 01

41

(một) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 392/2016/HSST ngày 22/11/2016 của Tòa

án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung

của hai bản án là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giam

trước từ ngày 16/12/2015 đến 11/5/2017. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án

Xử phạt: Lê Thanh BC2 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt với 01 (một)

năm tù của Bản án số 392/2016/HSST ngày 22/11/2016 của Tòa án nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03

(ba) năm tù, được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 18/12/2015 đến ngày

03/12/2016. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần hình phạt đối với các bị cáo khác, tuyên

xử lý vật chứng, buộc các bị cáo phải nộp án phí, tuyên quyền kháng cáo cho các bị

cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trong vụ án này, tòa án đã định tội danh là tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo khách thể của tội phạm. Cụ thể,

trong vụ án này hành vi thu lợi bất chính của Thảo và các bị cáo bằng cách trục lợi

số tiền thuế GTGT.

* Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đặc biệt

Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước trong các trường hợp đặc biệt như trên đã nêu gồm các trường

hợp định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước trong trường hợp phạm tội chưa đạt, trong trường hợp đồng phạm và

trong trường hợp có nhiều tội phạm.

Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đặc biệt cho thấy các tòa án đa số điều

thực hiện đúng các quy định của BLHS về phạm tội chưa đạt, đồng phạm, nhiều tội

phạm. Có thể nêu một ví dụ về định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trường hợp đặc biệt như sau:

42

* Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đồng phạm và nhiều (đa) tội phạm

Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 30/07/2018 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1

Tại bản án này, Tòa án dựa trên các quy định của pháp luật hình sự đã định tội

danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước trong trường hợp đặc biệt đối với các bị cáo, cụ thể là:

- Thứ nhất, Tòa án đã định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đồng phạm đối với các

bị cáo với nhận định trong bản án “Đây là vụ án do các bị cáo cùng thực hiện tội

phạm, bị cáo Thảo và bị cáo Thanh và các bị cáo khác có bàn bạc nhau từ trước về

việc thành lập nhiều Công ty để thực hiện mua bán trái phép hóa đơn GTGT, chiếm

đoạt tiền thuế của Nhà nước”.

Và bản án đã quyết định “Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Thảo, Lê Thanh,

Nguyễn Phạm Xuân, Lê Thi … phạm tội “In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.”

2.2.3. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố

Hồ Chí Minh

Định khung hình phạt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp NSNN là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi phạm tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN đã được định tội

danh.

Qua một số bản án thực tiễn cho thấy thực tiễn định khung hình phạt tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

Phố Hồ Chí Minh đã phản ánh mức độ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội phù hợp với một khung hình phạt nhất định và là có cơ sở pháp lí để định khung

hình phạt đối với hành vi đó.

43

Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2:

Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật

Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai)

năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2019.

Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị

cáo T

Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 30/07/2018 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1

Áp dụng điểm a, d, đ khoản 2 Điều 164a của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa

đổi bổ sung năm 2009; Điều 7, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 17 của Bộ

luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Nguyễn Thị Thảo BC1 03 (ba) năm tù.

Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị

cáo Thảo

Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 164a của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi

bổ sung năm 2009; Điều 7, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 17 của Bộ luật

hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Lê Thanh BC2 02 (hai) năm tù.

Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị

cáo Thanh

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Trong khoa học luật hình sự hiện nay, khái niệm quyết định hình phạt có thể

được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: [40, tr. 256]

Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và hình

phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng là quyết định hình phạt chính,

quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện pháp chấp hành hình phạt (như quyết

44

định cho hưởng án treo) và quyết định các biện pháp tư pháp. Quyết định hình phạt

cũng có có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện pháp xử lý đối

với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội (bao gồm cả quyết định miễn

hình phạt hoặc quyết định hình phạt theo các nghĩa trên). Tuy nhiên, khái niệm quyết

định hình phạt theo nghĩa hẹp thường được đa số các tác giả ghi nhận trong các sách,

báo pháp lý. [31, tr. 255] [32, tr. 317] [36, tr. 161]

Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt đối

với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước như sau:

Quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức

hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội in, phát

* Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm

gần đây

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Về cơ bản, các Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh đều áp dụng đúng

các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong các trường hợp như:

theo cấu thành cơ bản cuả tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước, theo các cấu thành tăng nặng của tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước và trong trường hợp đặc biệt.

Các trường hợp quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tương ứng với các trường hợp định tội

danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước, chẳng hạn: gắn liền với định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo cấu thành tội phạm cơ bản là quyết

định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước theo cấu thành tội phạm cơ bản.

45

* Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

phố Hồ Chí Minh.

Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1:

Qua phân tích bản án nêu trên, chúng ta nhận thấy, Hội đồng xét xử đã áp dụng

nhiều quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như:

- Về căn cứ nhân thân người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận định:

“Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng trong quá trình điều tra vụ án bị cáo

đã bỏ trốn và phải truy nã trong một thời gian dài mới bắt được bị cáo để xử lý theo

quy định pháp luật, nên cần phải xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ

hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian

nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa

chung cho xã hội.”

- Về căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng

xét xử nhận định: “Bị cáo không có”

Trong vụ án này, quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

(theo khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015 –thời điểm thực hiện hành vi phạm tội của

các bị cáo) được thể hiện trong Phần quyết định của bản án:

“1. Tuyên bố hành vi của Đỗ Văn T đã phạm vào tội “In, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.

- Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật

Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày

03/7/2019.

* Thực tiễn quyết định hình phạt theo các cấu thành tội phạm tăng nặng của

46

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Như đã nêu ở phần nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo cấu thành tội

phạm tăng nặng tại Thành Phố Hồ Chí Minh, tại Bản án số: 504/2019/HS-ST của

TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 về vụ Đỗ Văn T phạm tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tương ứng

với định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với hành vi của bị cáo T thì tòa

án cũng quyết định hình phạt đối với bị cáo T theo cấu thành tội phạm tăng nặng của

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Cụ thể, Tòa án nhân dân thị xã Phước Long tỉnh Bình Phước đã quyết định:

“1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “In, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều

203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017. Xử phạt bị cáo Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính

từ ngày 03/7/2019.”

* Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt đối với tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại

Thành Phố Hồ Chí Minh

- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước chưa xảy ra.

- Quyết định phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt đối với tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chưa xảy ra

- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đối với tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tại bản án số:

504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 có nội dung

47

tại tiểu mục 2.2.2.1

- Quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội phạm đối với tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tại Bản án

số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 “Liên

quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Văn T có: Phan Xuân L, Nguyễn Thị H, Tống Văn

D đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài ”; “Làm, tàng trữ, vận chuyên, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả

khác”; “Mua bán trái phép hóa đơn” và bị tuyên phạt mức án từ 01 năm đến 15 năm

tù”

* Hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

Phố Hồ Chí Minh

Bên cạnh những bản án áp dụng đúng các quy định về quyết định hình phạt,

trên thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một số bản án còn có thiếu sót trong

việc quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Chẳng hạn: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh

ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1 về vụ án “Đỗ Văn T phạm tội In,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.

Trong vụ án này, tòa án quyết định:

“Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật

Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày

03/7/2019”.

Xem xét về quyết định hình phạt về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước đối với bị cáo, chúng ta nhận thấy, tòa án

đã áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, Điều

51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong vụ án này tòa án áp dụng thiếu

48

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tổ chức” được quy định tại điểm

g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015, bởi lẽ bị cáo T đã thực hiện hành vi hành vi in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước hai lần,

mỗi lần đều là hành vi độc lập tách rời nhau và đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ

Chí Minh

Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh

trong những năm vừa qua cho chúng ta rút ra một số kết luận sau:

* Về ưu điểm:

- Thực tiễn định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt qua các bản

án điển hình mà Chương 2 đã nêu cho thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng quy

định của BLHS về định tội, định khung và quyết định hình phạt. Các sai sót, hạn chế

chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các bản án.

- Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước là tội phạm ngày trở nên có tính phổ biến nên những người tiến hành tố

tụng do áp dụng thường xuyên nên đều nắm vững các các dấu hiệu pháp lý của tội

này nên đa số áp dụng đúng quy định.

- Các cơ quan tố tụng, những người tiến hành tố tụng thường xuyên được tập

huấn các quy định của BLHS nên việc áp dụng các quy định về tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ít xảy ra sai sót.

* Hạn chế:

- Thực tế áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời đây

cho thấy không có nhiều vụ án, mặc dù trên thực tế các hành vi có dấu hiệu tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN diễn ra khá nhiều,

công khai.

- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định mới của BLHS

49

năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong quá trình áp

dụng.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước cho thấy có các vướng mắc:

- Vướng mắc về pháp luật:

Vướng mắc thứ 1: Vướng mắc về định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong luật hình sự. Nguyên nhân

của vướng mắc này xuất phát từ thực tiễn việc hiểu và áp dụng nội hàm của tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là chưa

thống nhất. Điều này cũng có thể do nhà làm luật cho rằng tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là tội không phức tạp lắm

nên quy định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước dưới dạng quy định giản đơn. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp

luật hình sự cho thấy cần phải hiểu thống nhất về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước thì mới có thể áp dụng thống nhất,

mới đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật hình sự.

Vướng mắc thứ 2: Việc bắt buộc các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử

hiện nay đã và đang trở thành nhiệm vụ chính của Bộ tài chính và cơ quan thuế nhằm

đảm bảo đến ngày 01/11/2020 là tất cả các Doanh nghiệp đều chuyển từ hóa đơn giấy

sang sử dụng hóa đơn điện tử. Với quy định này đã làm cho quy định về xử lý hình

sự đối với tội vi phạm quy định in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017)

trở nên không còn phù hợp với thực tiễn.

Vướng mắc thứ 3: Việc định lượng về số lượng hóa đơn, số lượng phôi và định

lượng về số tiền để thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm là chưa hợp lý, chưa thật

sự khoa học. Hóa đơn dạng phôi, chưa ghi nội, chưa ghi giá trị thì khó chứng minh

thiệt hại thực tế xảy ra. Hoặc như số lượng hóa đơn mua bán đã ghi nội dung từ 10

số đến dưới 30 số đã cấu thành tội phạm nhưng giá trị thiệt hại chỉ 4 triệu đồng so với

mua bán 01 hóa đơn nhưng giá trị thiệt hại đến vài 20 triệu đồng nhưng không đến

50

mức xử lý hình sự là không thỏa đáng và trùng lập với quy định về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn.

Vướng mắc thứ 4: Tại khoản 1 nêu hậu quả thu lợi bất chính nhưng khoản 2

có thêm hậu quả gây thiệt hại cho NSNN. Vấn đề này sẽ gây khó khăn khi cơ quan

tiến hành tố tụng xác định chính xác số tiền thu lợi bất chính và số tiền gây thiệt hại

NSNN để áp dụng điểm đ hay e khoản 2 Điều 203 BLHS năm 2015 để điều tra, truy

tố, xét xử.

Vướng mắc thứ 5: Các quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chưa chắt

chẽ, thiếu sự đồng bộ, thiếu kiểm tra, giám sát như quy định về việc xuất hóa đơn bắt

buộc đối với cá nhân mua lẻ, quy định về công tác, kiểm tra công bố doanh nghiệp

bỏ trốn, quy định về thành lập pháp nhân, quy định về việc phối hợp, liên thông, cung

cấp hồ sơ liên quan giữa các cơ quan quản lý doanh nghiệp như Sở kế hoạch đầu tư,

Cơ quan thuế, Hải quan.

Vướng mắc thứ 6: Nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN hiện

nay chưa được khẳng định rõ ràng, thống nhất. Chứng từ thu nộp NSNN có phải là

được hiểu là hóa đơn hay không? gây khó khăn cho việc phân tích, chứng mình lý

luận thực tiễn hành vi của người phạm tội.

Vướng mắc thứ 7: các khung hình phạt tại Điều 203 hiện nay chỉ dừng lại ở

mức phân loại tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Tại điểm đ khoản

2 Điều 203 “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên” nhưng không quy định

mức tối đa. Thực tế có những vụ án liên quan đến tội này đã thu lợi bất chính đến

hàng tỉ đồng, nếu như số tiền thu lợi bất chính quá lớn so với mức phạt thì người

phạm tội không bị thiệt hại lớn về mặt kinh tế và người phạm tội sau khi chấp hành

xong bản án vẫn có điều kiện để tái phạm. Quy định này là chưa đủ đảm bảo tính răn

đe, ngăn ngừa người phạm tội.

Vướng mắc thứ 8: Khung hình phạt tù giữa cấu thành tội phạm cơ bản và cấu

thành tội phạm tăng nặng chưa phù hợp, thể hiện sự chưa công bằng và bất hợp lý

đối với người phạm tội, gây khó khăn cho việc lựa chon khung hình phạt tù phù hợp,

51

tương xứng cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Vướng mắc thứ 9: Trước đây, việc thành lập doanh nghiệp với mục đích thực

hiện hành vi mua bán trái phép hóa đơn chưa nhiều, chỉ mang tính chất “cung” “cầu”

để hợp thức hóa chi phí, thuế GTGT khấu trừ của một số doanh nghiệp. Tuy nhiên,

trong thời gian gần đây, việc thành lập doanh nghiệp chỉ nhằm mục đích thực hiện

hành vi mua bán trái phép hóa đơn ngày trở nên nhiều hơn, có cả “đường dây” chuyên

tổ chức thành lập doanh nghiệp “ảo”, thuê người đứng tên đại diện pháp luật, tìm

kiếm địa bàn, đầu mối, thậm chỉ công khai nhắn tin qua điện thoại, đăng thông tin

qua các trang mạng facebook, zalo … để tiêu thụ hóa đơn, cung cấp hóa đơn cho các

doanh nghiệp nhằm hợp thức hóa hàng hóa đầu vào mua trôi nổi trên thị trường, hàng

hóa nhập lậu, sau đó chia lợi nhuận từ việc thu lợi bất chính. Mức độ, tính chất nguy

hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra lớn hơn nhiều lần so với cá nhận phạm

tội. Xét về quy mô, phạm vi ảnh hưởng, tầm ảnh hưởng của pháp nhân thương mại

về tội này thì chế tài xử phạt áp dụng so với cá nhân vi phạm chưa tương xứng, nhẹ

hơn nhiều lần.

Vướng mắc thứ 10: Như vướng mắc thứ 7 đối với cá nhân phạm tội thì các

tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với

tình tiết thu lời bất chính đối với pháp nhân thương mại hiện nay là chưa đủ đảm bảo

tính răn đe, ngăn ngừa người phạm tội.

Vướng mắc thứ 11: Tại Điểm c Khoản 4 Điều 203 203 BLHS năm 2015 được

diễn giải chi tiết, đầy đủ như sau “Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp:

1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại

trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại

hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi

trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả

năng khắc phục hậu quả gây ra, 2. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực

hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động, thì đình chỉ hoạt động vĩnh

viễn”. Ở đây, nhà làm luật đã đưa ra định nghĩa về đình chỉnh hoạt động vĩnh viễn

đối với pháp nhân thương mại và nêu các đặc điểm dấu hiệu nhận biết như “có khả

52

năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc

gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc

phục hậu quả gây ra”. Việc phạm tội của pháp nhân thương mại liên quan đến “in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN” thì không nằm trong

các dấu hiệu trên.

- Vướng mắc khác:

Nguyên nhân chủ yếu của của các vướng mắc, sai sót trên thực tiễn chủ yếu là

do người tiến hành tố tụng chưa nắm vững các quy định mới của BLHS năm 2015,

bởi lẽ để áp dụng đúng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước không chỉ nắm vững các quy định tại Điều 203

BLHS mà còn phải nắm vững các quy định khác ở Phần thứ nhất (Những quy định

chung) và các danh có quy định loại trừ Điều 203, hoặc giống nhau về hành vi như

điều 200, 202 BLHS.

- Các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung

và tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

theo quy định của BLHS năm 2015 chưa có, dẫn đến cách hiểu về các dấu hiệu của

các tội phạm không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng.

- Một số người tiến hành tố tụng cứ theo kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng

mà chưa chịu nghiên cứu kỹ các quy định mới của BLHS năm 2015.

Tiểu kết Chương 2

Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một số nội

dung sau:

1. Đã phân tích khái quát tình hình xét xử tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh trong

những năm gần đây từ đó chỉ ra: (1) Hoàn thiện các quy định và nâng cao hiệu quả

áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, là khâu trọng điểm trong việc

đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội in, phát hành, mua bán trái phép

53

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước nói riêng, qua đó giảm tỷ lệ tội phạm

nói chung tại Thành Phố Hồ Chí Minh; (2) Các biện pháp phòng chống tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

Phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua chưa hiệu quả, đòi hỏi phải có sự thay

đổi về quy định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định

của BLHS về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước.

2. Luận văn đã nghiên cứu vấn đề định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh với

các nội dung: (1) Khái quát lý luận định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (2) Thực tiễn định tội danh tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

Phố Hồ Chí Minh.

3. Chương 2 của Luận văn cũng nghiên cứu: (1) Định tội danh theo cấu thành

tội phạm tăng nặng của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây; (2)

Quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ

thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh;

4. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp

hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh, làm nền tảng cho các giải pháp áp dụng đúng

pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước ở Chương 3.

54

CHƯƠNG 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VỀ TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,

CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

Áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là đòi hỏi có tính nguyên

tắc xuất phát từ:

Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng đúng nguồn luật đối với

hành vi phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước.

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018

là Bộ luật thay thế hoàn toàn BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Việc áp

dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa đảm bảo yêu cầu của nguyên

tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng đúng các quy định của BLHS về tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước còn có

ý nghĩa trong thực tiễn định tội, định khung và quyết định hình phạt đúng đối với tội

phạm này.

Thứ hai, yêu cầu bảo đảm sự thay đổi kịp thời quy định trong luật hình sự do

với luật chuyên ngành.

Chẳng hạn, theo quy định mới nhất tại Nghị định số 119/2018/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 12/09/2018 về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ,

có hiệu lực từ 01/11/2018 và bắt buộc các Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chuyển đổi

từ hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử chậm nhất là đến ngày 01/01/2020. Như vậy thì

quy định về định lượng ở dạng phôi trong Điều 203 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) sẽ không còn phù hợp nữa. Do đó việc áp dụng các quy định tội in, phát

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước phải đảm bảo

thống nhất với các quy định mang tính viện dẫn đến luật chuyên ngành

55

Thứ ba, yêu cầu bảo đảm việc quy định pháp luật chuyên ngành về doanh

nghiệp, thuế, hóa đơn được tối ưu hóa, chặt chẻ hóa, không rủi ro, sai sót nhằm ngăn

ngừa, phòng chóng các hành vi lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật chuyên ngành để phạm

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Lợi dụng thủ tục, quy định thông thoáng của Luật doanh nghiệp, luật thuế

GTGT, khấu trừ thuế, hoàn thuế, hải quan … đã thúc đẩy các đối tượng thành lập

doanh nghiệp chỉ để mua bán hóa đơn GTGT trái phép thu lợi bất chính và tạo nên

thị trường mua bán hóa đơn bất hợp pháp sôi động, tinh vi. Một cá nhân có thể đứng

tên đại diện pháp luật thành lập nhiều doanh nghiệp, nhưng thiếu cơ chế quản lý,

kiểm tra, giám sát nên nhiều vụ án chỉ với một cá nhân nhưng đứng tên Giám đốc

nhiều doanh nghiệp để mua bán hóa đơn GTGT, chiếm đoạt tiền hoàn thuế.

Thứ tư, yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật vào thực tiễn tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tránh

hình sự hóa.

Vệc xử lý hành vi vi phạm về in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN trong bối cảnh hiện nay khi mà hầu hết các doanh nghiệp đều thực

hiện kê khai thuế, báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ qua mạng bằng phần

mềm kê khai thuế theo yêu cầu của Tổng cục Thuế. Do vậy, việc xử lý hình sự với

hành vi “vi phạm về in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

NSNN” cần phải xem xét hành vi được xử phạt theo quy định xử phạt hành chính hay

hình sự, giữa quy định về xử lý hình sự và xử lý hành chính có sự trùng lập hay không

nhằm không “hình sự hóa” vấn đề, trong khi đã có các quy định về xử phạt hành

chính của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp vi phạm.

Tương tự, việc cho phép doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn điện tử khiến

cho việc xác định dấu hiệu hành vi vi phạm trên không còn phù hợp với sự phát triển

của công nghệ thông tin về cải cách thủ tục hành chính cho người nộp thuế, cũng như

khó xác định lỗi vi phạm thuộc về lỗi kỹ thuật, máy tính, truyền dữ liệu hay là lỗi cá

nhân người khởi tạo, lập, gửi, nhận, lưu trữ và quản lý.

56

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:

3.2.1. Các giải pháp pháp luật

Từ những vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành

Phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra tại Chương 2 của Luận văn, chúng tôi đề xuất các giải

pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo hướng:

- Thứ nhất, hoàn thiện Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành vi

phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà

nước khi đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.

Như đã nêu ở Chương 2 của Luận văn về vướng mắc về định tội danh tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong

luật hình sự nên việc sửa đổi, bổ sung hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước khi đã bị xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi này hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu là đảm bảo phân biệt giữa tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với các

tội khác trong BLHS và với hành vi vi phạm pháp luật hành chính nhằm để răn đe,

nhắc nhở người đã vi phạm hành chính. Bởi vậy, khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015

cần được thiết kế:

“1. Người nào in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã

ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến

dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm

hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn

vi phạm thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành

vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

57

nhà nước khi sử dụng hóa đơn điện tử.

Một là, nên sửa đổi tên gọi của Điều 203: Tội in, khởi tạo, phát hành, mua bán

trái phép hóa đơn, hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Hai là, sửa đổi, bổ sung số lượng hóa đơn khởi tạo điện tử ngoài việc định

lượng bằng số lượng phôi, hóa đơn, chứng từ để tiến hành xử phạt. Bởi vì “Hóa đơn

điện tử là hóa đơn được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng

hóa, cung cấp dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ký số,

ký điện tử theo quy định tại Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/09/2018 bằng

phương tiện điện tử, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền

có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế”. Hóa đơn điện tử không thể hiện

dưới dạng phôi như hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN bằng giấy. Do đó, khoản 1

Điều 203 BLHS năm 2015 cần sửa đổi bổ sung “1. Người nào in, khởi tạo, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

ở dạng phôi hoặc dữ liệu điện tử từ ….”

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Một là, quy định về việc xuất hóa đơn bắt buộc đối với cá nhân mua lẻ. Bởi vì

trên thực tế như siêu thị, Công ty xăng dầu thì cá nhân mua hàng hóa không yêu cầu

xuất hóa đơn, theo quy định Công ty phải tập hợp xuất hóa đơn cuối ngày. Tuy nhiên,

nhiều siêu thị, công ty không thực hiện mà dùng số hàng hóa, xăng dầu này để xuất

hóa đơn khống cho Công ty khác hưởng thêm khoản tiền chênh lệch “hoa hồng” bán

hóa đơn. Công ty khác sử dụng hóa đơn để kê khai thuế GTGT, hạch toán chi phí,

khấu trừ thuế, hoàn thuế. Do đó, pháp luật về thuế nên quy định tất cả các trường hợp

mua bán giữa cá nhân với pháp nhân đều phải xuất hóa đơn ngay, không phân biệt cá

nhân có yêu cầu hay không yêu cầu hóa đơn.

Hai là, sửa đổi bổ sung quy định về công tác, kiểm tra công bố doanh nghiệp

bỏ trốn. Hiện nay, việc công bố danh sách doanh nghiệp bỏ trốn vẫn chưa kịp thời,

dẫn đến nhiều Doanh nghiệp thực tế có mua hàng hóa nhưng vô tình hóa đơn xuất là

của một doanh nghiệp đã bỏ trốn, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và vô tình doanh

58

nghiệp sử dụng hóa đơn này cũng bị vướng vào vụ việc khi cơ quan tiến hành tố tụng

phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử doanh nghiệp bỏ trốn.

Ba là, sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp về thành lập pháp nhân theo hướng

chặt chẻ hơn, có sự kiểm tra, giám sát sau khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Các vụ

án liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

hầu như đều liên quan đến việc một người có thể là đại diện pháp luật thành lập nhiều

doanh nghiệp, hoặc thuê những cá nhân thiếu hiểu biết về pháp luật đứng tên và các

doanh nghiệp này liên tục thay đổi trụ sở, thay đổi người đại diện pháp luật đã gây

khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra. Thậm chí không ít những trường hợp sử

dụng tên người đã chết để thành lập doanh nghiệp. Vì thế Luật doanh nghiệp cần quy

định chặt chẽ về thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hướng quy định tại Điều 74 Bộ

luật dân sự năm 2015 để được công nhận là pháp nhân “Có tài sản độc lập với cá

nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”. Hiện nay, Luật

doanh nghiệp không quy định đưa ra bằng chứng xác thực góp vốn điều lệ trừ trường

hợp các ngành nghề kinh doanh yêu cầu vốn pháp định. Doanh nghiệp sau khi đã

được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, con dấu là đương nhiên hoạt động

không cần phải chứng minh có vốn thực hoạt động hay không. Bên cạnh đó, cần quy

định hạn chế số lượng doanh nghiệp do một cá nhân đứng đại diện pháp luật.

Bốn là, cần quy định về việc phối hợp, liên thông, cung cấp hồ sơ liên quan

giữa các cơ quan quản lý doanh nghiệp như Sở kế hoạch đầu tư, Cơ quan thuế, Hải

quan để kịp thời kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực

hóa đơn, chứng từ, thuế, kế toán …

Thứ tư, ban hành hướng dẫn cách hiểu thống nhất về nội hàm khái niệm hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

Như luận văn này đã phân tích về khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN

tại tiểu mục 1.1.1. thì nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN hiện nay

cần phải khẳng định rõ ràng, thống nhất. Chứng từ thu nộp NSNN có phải là được

hiểu là hóa đơn hay không?. Bên cạnh đó, chứng từ là một khái niệm rất rộng mà

chưa có văn bản pháp luật nào khái niệm cụ thể và được hiểu một cách chung chung

59

là “bằng chứng” chứng minh. Trong khi đó, tên điều luật 203 BLHS năm 2015, sửa

đổi, bổ sung năm 2017 đã ghi nhận “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp NSNN”, nghĩa là cả hóa đơn và chứng từ thu nộp NSNN đều là đối

tượng của tội phạm liên quan điều luật 203 này.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa

thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội theo cấu thành tội

phạm tăng nặng đối với tình tiết thu lời bất chính lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng,

gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Điều 203 hiện nay chỉ dừng lại ở mức phân loại tội phạm ít nghiêm trọng và

tội phạm nghiêm trọng. Tại Điểm đ Khoản 2 Điều 203 “Thu lợi bất chính từ

100.000.000 đồng trở lên” nhưng không quy định mức tối đa. Thực tế có những vụ

án liên quan đến tội này đã thu lợi bất chính đến hàng tỉ đồng, ví dụ như: Ngày

11/3/2019, Công an TP Thanh Hoá vừa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và

bắt tạm giam đối tượng Hoàng Quang Hùng (trú tại số nhà 694, ngõ 688 Quang

Trung, phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa) về hành vi “Mua bán trái phép hoá đơn thu

nộp ngân sách Nhà nước”. Từ khi thành lập công ty "ma" đến khi bị bắt, Hùng đã

xuất bán tổng 193 hóa đơn GTGT cho 33 công ty và 7 cá nhân trong và ngoài tỉnh,

với tổng giá trị hàng hóa ghi trong hóa đơn gần 26,5 tỷ đồng, thu lời bất chính số tiền

hơn 2 tỷ đồng, đồng thời gây thất thoát tiền thuế cho Nhà nước gần 3 tỷ đồng [40].

Từ ngày 11-13/11/2019, TAND TP Hà Nội đã đưa ra xét xử vụ án mua bán hóa đơn

trị giá gần 2.000 tỷ đồng với 18 bị cáo gồm 2 nhóm do Nguyễn Thị Sáng và Nguyễn

Duy Phượng chủ mưu. Bị cáo đã thu lời trên 9,2 tỷ đồng [41]. Nếu diễn giải chi tiết

này “Phạm tội thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ

200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Thu

lợi bất chính tối thiểu 100.000.000 đồng thì phạt tiền tối thiểu 200.000.000 đồng hoặc

phạt tù tối thiểu 01 năm. Thu lợi bất chính trên 100.000.000 đồng, không giới hạn tối

đa thì tiền tối đa 500.000.000 đồng hoặc phạt tù tối đa 05 năm. Vấn đề này cho thấy

sự chưa hợp lý giữa số tiền hoặc số năm tù mà người phạm tội bị phạt so với khoản

lợi bất chính mà người phạm tội đã thu được. Một người phạm tội này thu lợi bất

60

chính ở mức tối thiểu 100.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến

500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Một người khác phạm tội này

thu lợi bất chính 1 tỷ đồng, 2 tỷ đồng, 10 tỷ đồng và thậm chí nhiều hơn nữa thì mức

tối đa phạt tiền đến mức 500.000.000 đồng hoặc phạt tù đến 05 năm. Như vậy, nếu

như số tiền thu lợi bất chính quá lớn so với mức phạt thì người phạm tội không bị

thiệt hại lớn về mặt kinh tế và người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án vẫn có

điều kiện để tái phạm. Quy định này theo quan điểm tác giả là chưa đủ đảm bảo tính

răn đe, ngăn ngừa người phạm tội. Do đó, Điểm đ Khoản 2 Điều 203 BLHS năm

2015 cần sửa đổi bổ sung “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng đến 500.000.000

đồng”; Bổ sung khoản 3 “Phạm tội thuộc trường hợp thu lợi bất chính với số tiền

500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 4.000.000.000

đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 07 năm”. Khoản 3 Điều 203 BLHS năm 2015 trở

thành “Khoản 4”.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng tăng cụ thể

hóa thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội theo cấu thành tội

phạm tăng nặng đối với tình tiết thu lời bất chính đối với pháp nhân thương mại.

Như đã phân tích ở giải pháp thứ năm, sửa đổi, bổ sung sửa đổi, bổ sung Điều

203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa thêm một số tình tiết định tính, định

lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết thu lời bất chính

lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì để tương

xứng và tương ứng với giải pháp này, đối với pháp nhân thương mại cần bổ sung

điểm “Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này, thì bị phạt tiền từ

3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn

từ 06 tháng đến 03 năm”.

Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng chặt chẽ về

nội dung đối với pháp nhân thương mại.

Như phân tích tại vướng mắc thứ 11 thì để Điểm c Khoản 4 Điều 203 trở nên

chặt chẽ, chính xác, không dư thừa thì nên sửa đổi, bổ sung như sau “Phạm tội thuộc

trường hợp được thành lập chỉ để thực hiện tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

61

đơn, chứng từ thu nộp NSNN thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động”.

Tóm lại, trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luận văn kiến nghị sửa đổi, bổ sung

quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước tại Điều 203 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:

Bộ luật hình sự năm 2015 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán Điều 203. Tội in, khởi tạo1, phát

trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp hành, mua bán trái phép hóa đơn,

ngân sách nhà nước hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước

1. Người nào in, phát hành, mua bán trái 1. Người nào in, khởi tạo, phát hành,

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân mua bán trái phép hóa đơn, hóa đơn điện

sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến

ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số dưới 100.000.000 đồng, hoặc dưới

hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi

đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạm hành chính về hành vi này hoặc đã

phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến bị kết án về tội này thì bị phạt tiền từ

200.000.000 đồng, phạt cải tạo không 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng,

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

tháng đến 03 năm. hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường 2. Phạm tội thuộc một trong các trường

1 Khái niệm về hóa đơn điện tử: Khởi tạo hóa đơn điện tử là hoạt động tạo định dạng cho hóa đơn, thiết lập đầy đủ các thông tin của người bán, loại hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, định dạng truyền – nhận và lưu trữ hóa đơn trước khi bán hàng hoá, dịch vụ trên phương tiện điện tử của tổ chức kinh doanh hoặc của các tổ chức cung cấp dịch vụ về hoá đơn điện tử và được lưu trữ trên phương tiện điện tử của các bên theo quy định của pháp luật.

hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ

62

200.000.000 đồng đến 500.000.000 200.000.000 đồng đến 500.000.000

đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 05

năm: năm:

a) Có tổ chức; a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi từ 100 d) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng

số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi đến 500.000.000 đồng;

nội dung từ 30 số trở lên; đ) Tái phạm nguy hiểm.

đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng

trở lên;

e) Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước

100.000.000 đồng trở lên;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc trường hợp thu lợi bất

chính với số tiền 500.000.000 đồng trở

lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng

đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ

05 năm đến 07 năm

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền

từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000

đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định hành nghề hoặc làm công việc nhất định

từ 01 năm đến 05 năm. từ 01 năm đến 05 năm.

4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy

định tại Điều này, thì bị phạt như sau: định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định

tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi

63

100.000.000 đồng đến 500.000.000 phạm hành chính về hành vi này hoặc đã

đồng; bị kết án về tội này chưa được xóa án

tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ

300.000.000 đồng đến 1.000.000.000

đồng;

b) Phạm tội thuộc một trong các trường b) Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và hợp quy định tại các điểm a, b, d, và đ,

g khoản 2 Điều này157, thì bị phạt tiền khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ

từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000

đồng; đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định c) Phạm tội thuộc trường hợp được

tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình thành lập chỉ để thực hiện tội in, phát

chỉ hoạt động vĩnh viễn; hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN thì bị đình chỉ vĩnh viễn

toàn bộ hoạt động;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định

tại khoản 3 điều này, thì bị phạt tiền từ

3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000

đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời

hạn từ 06 tháng đến 03 năm

d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị

phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến

200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm

hoạt động trong một số lĩnh vực nhất hoạt động trong một số lĩnh vực nhất

định từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm định từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm

3.2.2. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát

huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

64

hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

- Tăng cường tập huấn pháp luật hình sự

Chuyên môn những người tiến hành tố tụng là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng

đến quyết định kết quả của các bản án có đúng người, đúng tội không? Pháp luật hình

sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn

cụ thể. Vì thế, việc thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, các khóa đào

tạo nhằm nâng trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng là hoạt động

quan trọng nhất, cần thiết nhất trong để trau dồi và nâng cao năng lực của những

người tiến hành tố tụng. Các vụ án có đạt hiệu quả trong việc xử lý tội phạm, ngăn

ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm hay không, oan sai hay không đều phụ thuộc

vào tầm quan trọng về trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng. Pháp luật có

chất lượng, đầy đủ đến đâu trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng

yếu kém cũng sẽ không thể giải quyết đúng được các vụ án hình sự.

Việc quy định xây dựng và triển khai các dự án, chương trình tập huấn, đào

tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bắt buộ cần phải được thực hiện thường xuyên ở

tất cả các ngành trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là các ngành Tòa án nhân dân, Viện

kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân.

- Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.

Để các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp làm tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử

đối với những vụ án có bị cáo phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,

chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước cần tổng kết, tổ chức hội nghị chuyên đề hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội

in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, chú

ý những căn cứ cụ thể để quyết định hình phạt, nguyên tắc áp dụng các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ, bảo đảm việc xét xử các vụ án có người phạm tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước được nghiêm chỉnh,

đúng pháp luật. Từ các bản án cụ thể liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng

cần tổ chức các buổi tọa đạm, hội thảo, phân tích, đánh giá và rút kinh nghiệm nhằm

65

tạo một thư viện mang tính thống nhất khi xử lý các hành vi liên quan đến tội này.

- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, khả năng, năng lực

xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Cơ quan thuế thường xuyên tổ chức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật

của cán bộ thuế, người nộp thuế. Thực tiễn hiện nay cho thấy, người nộp thuế ngày

càng tinh vi hơn trong các vấn đề liên quan đến tội trốn thuế nói chung và mua bán

trái phép hóa đơn nói riêng. Người nộp thuế luôn chứa đựng, tiềm tàng các hành vi

lách luật, vi phạm pháp luật để chiếm đoạt tiền thuế.

Các cơ quan tiến hành tố tụng thường xuyên tuyên truyền pháp luật hình sự

về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung và tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói riêng. Thông tin, tuyên truyền

rộng rãi các kênh truyền thông về các vụ án về tội in, phát hành, mua bán trái phép

hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN để răn đe các đối tượng chuẩn bị phạm tội và giáo

dục các đối tượng khác.

Các cơ quan điều tra thường xuyên theo dõi, cảnh báo những hành vi công

khai mua bán trái phép hóa đơn qua điện thoại, facebook, zalo … nhằm ngăn ngừa

họ đi sâu vào con đường vi phạm pháp luật.

Giáo dục hình thành ý thức người nộp thuế về nghĩa vụ và trách nhiệm đóng

góp cho NSNN.

Tiểu kết Chương 3

Tại Chương 3 của Luận văn, tác giả đã đi vào nghiên cứu, phân tích các nội

dung cơ bản như:

1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng dung pháp luật hình sự về tội in, phát hành,

mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm: yêu cầu bảo

đảm thực hiện việc áp dụng đúng nguồn luật đối với hành vi phạm tội liên quan đến

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước;

yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng thống nhất chính xác về hành vi với hành vi

phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

66

nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng chính xác về hiệu

lực của BLHS về thời gian với hành vi phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm thực

hiện việc áp dụng chính xác về tội danh đối với hành vi phạm tội liên quan đến tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu

bảo đảm cách hiểu thống nhất về nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm sự thay đổi kịp thời quy định trong luật hình sự do

với luật chuyên ngành; yêu cầu bảo đảm việc vận dụng quy định về pháp nhân thương

mại phạm tội đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm việc quy định pháp luật chuyên ngành về doanh

nghiệp, thuế, hóa đơn được tối ưu hóa, chặt chẻ hóa, không rủi ro, sai sót nhằm ngăn

ngừa, phòng chóng các hành vi lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật chuyên ngành để phạm

tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước;

yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật vào thực tiễn tội in, phát hành, mua

bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước thông qua việc xác định

định lượng về số lượng và số tiền; yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật

vào thực tiễn tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước tránh hình sự hóa.

2. Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng

đúng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm các giải pháp pháp luật như: (1) Hoàn thiện Điều

203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước khi đã xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi này; (2) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng

thêm hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước khi sử dụng hóa đơn điện tử; (3) Sửa đổi, bổ sung Điều 203

BLHS năm 2015 theo hướng định lượng về số lượng và định lượng về số tiền là điều

kiện cần và đủ, không tách ra theo hướng chọn lựa “hoặc thu lợi bất chính”; (4) Sửa

đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thống nhất hậu quả xảy ra đối

67

với “Thu lợi bất chính” và “Gây thiệt hại cho NSNN”; (5) Giải pháp sửa đổi, bổ sung

quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (6) Ban hành hướng dẫn cách hiểu thống

nhất về nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (7) Sửa

đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa thêm một số tình tiết

định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết

thu lời bất chính lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng; (8) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ điều chỉnh

khung hình phạt tù phù hợp hơn giữa cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội

phạm tăng nặng; (9) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng tăng

chế tài xử phạt đối với pháp nhân thương mại; (10) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS

năm 2015 theo hướng tăng cụ thể hóa thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm

căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết thu lời bất chính đối với

pháp nhân thương mại; (11) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng

chặt chẽ về nội dung đối với pháp nhân thương mại.

3. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp khác nhằm

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa

đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như: (1) Giải pháp tập huấn pháp luật hình

sự; (2) Tổng kết thực tiển áp dụng pháp luật; (3) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục…

68

KẾT LUẬN

1. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước đã trải qua một thời gian 10 năm và ngày càng phát triển đến ngày nay. Sự

phân biệt giữa tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ngày càng thể hiện

rõ nét trong các quy định của luật hình sự và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội

phạm. Trải qua từng thời kỳ pháp luật có quy định riêng, nhưng cho đến nay có quy

phạm pháp luật chung về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có hiệu

lực từ ngày 01/01/2018) đó là một sự thể hiện thái độ của Nhà nước trong đấu tranh

phòng chống tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân

sách nhà nước.

2. Trong các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta không có quy phạm

định nghĩa về khái niệm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu

nộp ngân sách nhà nước, các quy định chỉ nêu tội danh với những khung hình phạt

khác nhau. Để áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội in, phát hành, mua bán trái

phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, cần phân hóa TNHS trong luật,

tạo điều kiện đánh giá chính xác tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội in,

phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.

3. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước là hành vi nguy hiểm cho xã hội, chiếm đoạt tiền NSNN, do người có năng

lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại thực hiện

dưới hình thực lỗi cố ý, xâm phạm đến NSNN được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật.

4. Luận văn đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đúng pháp luật

hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách

nhà nước gồm: các giải pháp pháp luật và các giải pháp khác. Tác giả hy vọng, các

kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam

về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước

qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm này.

69

Do kiến thức tác giả có thể chưa được đầy đủ, do vậy Luận văn khó tránh khỏi

khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong nhận được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể

của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học, đồng nghiệp và những ai quan tâm đến đề

tài để giúp cho Luận văn được hoàn thiện hơn.

70

DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO

1. Bộ công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ

tư pháp (2004) Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-

BTP hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mua bán, sử dụng

trái phép hóa đơn giá trị gia tăng, ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2004, Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1998),

Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn Hóa Thông tin, Hà Nội.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2019,

NXB Thống kê, ban hành ngày 19/03/2019, Hà Nội.

4. Bộ tài chính (2002) Thông tư số 120/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị

định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2002 về việc in, phát hành, sử

dụng, quản lý hóa đơn, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2002, Hà Nội.

5. Bộ tài chính (2011) Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng dẫn về khởi tạo, phát

hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày

14 tháng 03 năm 2011, Hà Nội.

6. Bộ tài chính (2014) Thông tư số 119/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số

điều của thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, thông tư

số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013, thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày

31/12/2013, thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10/01/2013, thông tư

số 85/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011, thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014

và thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của bộ tài chính để cải cách, đơn

giản các thủ tục hành chính về thuế, ban hành ngày 25 tháng 08 năm 2014, Hà

Nội.

7. Bộ tài chính (2014) Thông tư số 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị

định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-

CP ngày 17 tháng 01 năm 2014, ban hành ngày 31 tháng 03 năm 2014, Hà Nội.

8. Bộ tài chính (2015) Thông tư số 26/2015/TT-BTC sửa đổi bổ sung một số điều

của Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31 tháng 03 năm 2014 về hóa đơn bán

hàng hóa, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 27 tháng 02 năm 2015, Hà Nội.

9. Bộ tài chính (2015) Văn bản hợp nhất số 17/VBHN/BTC hướng dẫn thi hành

Nghị đinh số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010 và Nghị định số

04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ, ban hành ngày 17 tháng 06 năm 2015, Hà Nội.

10. Bộ tài chính (2017) Dự thảo tờ trình Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị

định thay thế Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010, Nghị định

số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 quy định về hóa đơn bán hàng,

cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 25 tháng 04 năm 2017, Hà Nội.

11. Bộ tài chính (2017) Thông tư số 37/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư

số 39/2014/TT-BTC ngày 31 tháng 03 năm 2014, Thông tư số 26/2015/TT-BTC

ngày 27/02/2015, ban hành ngày 27 tháng 04 năm 2017, Hà Nội.

12. Bộ tài chính (2019) Thông tư số 68/2019/TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số

điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 09 năm 2018 về hóa đơn

điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ban hành ngày 30 tháng 09 năm 2019,

Hà Nội.

13. Bộ tư pháp – Bộ công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân

tối cao – Bộ tài chính (2013) Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP-BCA-

TANDTC-VKSNDTC-BTC hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về

các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán, ban hành

ngày 26 tháng 6 năm 2013, Hà Nội.

14. Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006) Từ điển luật học, NXB Bách khoa,

Tư pháp, Hà Nội.

15. Chính phủ (2002), Nghị định số 89/2002/NĐ-CP quy định về in, phát hành, sử

dụng và quản lý hóa đơn, ban hành ngày 07 tháng 11 năm 2002, Hà Nội.

16. Chính phủ (2010) Nghị đinh số 51/2010/NĐ-CP quy định về hóa đơn bán

hàng, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 14 tháng 05 năm 2010, Hà Nội.

17. Chính phủ (2014) Nghị định số 04/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010, ban hành ngày 17

tháng 01 năm 2014, Hà Nội.

18. Chính phủ (2018) Nghị định số 119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử

khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ban hành ngày 12/09/2018, Hà Nội.

19. Chủ tịch nước (1996) Luật ngân sách nhà nước số 47-L/CTN, ban hành ngày

20 tháng 03 năm 1996, Hà Nội.

20. Hội đồng thẩm phán (2006) Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp

dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 12 tháng 05 năm 2006,

Hà Nội.

21. Quốc-Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự số 17-LCT/HDDNN7, ban hành ngày

27 tháng 06 năm 1985, Hà Nội.

22. Quốc hội (1998) Luật số 68/1998/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Ngân sách nhà nước của Quốc hội, ban hành ngày 20 tháng 05 năm 1998, Hà Nội.

23. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10, ban hành ngày 21 tháng

12 năm 1999, Hà Nội.

24. Quốc hội (2002) Luật số 01/2002/QH11 về Ngân sách Nhà nước, ban hành

ngày 16 tháng 12 năm 2002, Hà Nội.

25. Quốc hội (2003) Luật số 19/2003/QH11 Bộ luật Tố tụng Hình sự, ban hành

ngày 26 tháng 11 năm 2003, Hà Nội.

26. Quốc hội (2009) Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự số

15/1999/QH10 ngày 21/12/1999, ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2009, Hà Nội.

27. Quốc hội (2015) Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13, ban hành ngày

25 tháng 06 năm 2015, Hà Nội.

28. Quốc hội (2015) Luật số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự, ban hành ngày 27

tháng 11 năm 2015, Hà Nội.

29. Quốc hội (2015) Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật Tố tụng Hình sự, ban hành

ngày 27 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.

30. Quốc hội (2017) Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều của bộ

luật hình sự số 100/2015/QH13, ban hành ngày 20 tháng 06 năm 2017, Hà Nội.

31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

32. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2005) Giáo trình luật hình sự Việt Nam –

Phần chung, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

33. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Viện khoa học kiểm sát (2006) Sổ tay kiểm

sát viên hình sự tập 1, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

35. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần chung), NXB

Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

36. Lê Văn Đệ (2004) Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự

Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

37. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

38. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB

khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Như Ý (chủ biên) (1996) Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

40. Song Mã (2019) “Giám đốc bán hóa đơn khống, thu lời bất chính trên 2 tỷ

đồng”,<(https://vov.vn/tin-nong/giam-doc-ban-hoa-don-khong-thu-loi-bat-

chinh-tren-2-ty-dong-884822.vov>, (11/03/2019)

41. Hà Linh (2019) “Mua bán hóa đơn 2.000 tỷ đồng của 72 "công ty ma", 18

người hầu tòa”

2000-ty-dong-cua-72-cong-ty-ma-18-nguoi-hau-toa-307210.html>,

(13/12/2019)

42. Bộ luật hình sự Thái Lan (1956),

texts/thailand-penal-code.html#249>,

43. Luật hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1997),

m>,

44. Lưu Quốc Thắng (2019) “Thành phố Hồ Chí Minh – đầu tàu kinh tế của cả

nước”

kinh-te-cua-ca-nuoc.html >, (30/04/2019)