VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ TRỌNG HIỀN
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,
CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ TRỌNG HIỀN
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,
CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN ANH TUẤN
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đỗ Trọng Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1 ....................................................................................................... 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ
THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ...................................................... 10
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ............................................................................. 10
1.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN với
các tội khác trong Bộ luật hình sự ................................................................................... 19
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. .................................................................... 22
1.4. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. .................................................................................. 27
Chương 2 ....................................................................................................... 33
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ............................. 33
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ
THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
33
2.1. Tổng quan tình hình xét xử pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm gần đây ..................................................................................................................... 33
2.2. Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh ..................................................................... 36
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh ................................ 44
2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh ........ 49
CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 55
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ......... 55
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN ................................................................................... 55
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước: .............................................. 57
KẾT LUẬN ................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO ....................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 BLHS Bộ luật hình sự
2 CTTP Cấu thành tội phạm
3 QĐHP Quyết định hình phạt
4 TNHS Trách nhiệm hình sự
5 TAND Tòa án nhân dân
6 THTT Tiến hành tố tụng
7 XHCN Xã hội chủ nghĩa
8 GTGT Giá trị gia tăng
9 NSNN Ngân sách nhà nước
10 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
11 TTLT Thông tư liên tịch
12 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
13 XPTTQLKT Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
14 BLHS năm Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10, do Quốc hội ban hành
1999 ngày 21/12/1999
15 BLHS năm Luật số: 37/2009/QH12, do Quốc hội ban hành ngày 19
1999, SĐBS tháng 06 năm 2009
năm 2009
16 BLHS năm Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, do Quốc hội ban
2015 hành ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung một số điều
tại Luật số: 12/2017/QH14, do Quốc hội ban hành ngày
20/06/2017
17 BLHS Bộ luật hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm về nhóm tội xâm phạm
nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 ................................. 34
TTQLKT so với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
Bảng 2.2. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm trong nhóm tội về thuế, tài
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm
2019 ........................................................................................................................... 35
chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa và giáo dục quan trọng nhất Việt Nam, là đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế trọng
điểm phía Nam. Hàng năm, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khoảng 30% tổng thu
ngân sách cả nước, sản lượng công nghiệp chiếm 30% giá trị lượng toàn quốc và thu
hút lượng lớn vốn FDI. [44]
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, các
doanh nghiệp mới thành lập gia tăng đột biến, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể. Việc thành lập doanh nghiệp không còn quá khó
khăn đối với những tổ chức, cá nhân nữa. Vì thế nhiều tổ chức, cá nhân đã lợi dụng
sự thông thoáng của cơ chế chính sách, sự mở cửa của nền kinh tế để thành lập doanh
nghiệp với mục đích in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN nhằm trục lợi thuế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, những hành vi vi phạm về hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN được quy định tại các văn bản pháp luật về thuế, hóa đơn,
xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật hình sự. Trong đó, Bộ luật hình sự với vai trò
bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước với việc quy định rõ tội phạm và hình
phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi xâm hại trật tự quản lý kinh tế nói
chung và tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói
riêng.
Hiện nay Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
tình hình xử lý hình sự tội phạm liên quan đến liên quan đến việc in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN chưa có hiệu quả cao. Nhiều vụ án
khó phát hiện, nhiều vụ án được phát hiện thì chậm việc điều tra, truy tố, nhiều vụ án
bị đình chỉ điều tra, thậm chí có các vụ án đã được khởi tố nhưng còn chưa thống
nhất, gây tranh cãi về tội danh.
1
Trước tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN diễn ra ngày càng
nhiều, phức tạp, tinh vi tại Thành phố Hồ Chí Minh - là trung tâm kinh tế lớn của cả
nước, nên với mong muốn tìm ra những khó khăn, vướng mắc cũng như giải pháp
nhằm đấu tranh có hiệu quả, tăng cường năng lực áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết loại án về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
và trên cơ sở kiến thức đã được học tập, nghiên cứu, học viên chọn đề tài “Tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại Thành phố Hồ
Chí Minh” để làm để tài luận văn thạc sĩ.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, các đề tài liên quan đến tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng được nhiều tác giả nghiên cứu. Nhưng tội
phạm xâm phạm trong lĩnh vực in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp NSNN chưa thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học.
Để thực hiện đề tài được giao, học viên tham khảo khá nhiều công trình về hoặc liên
quan đến đề tài, trong số đó có thể kể đến:
- Nhóm thứ nhất: các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo,
giáo trình, bình luận khoa học. Những tài liệu này có tính phổ biến, cung cấp kiến
thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài học viên nghiên cứu. Các Giáo trình
Luật hình sự, sách về Định tội danh của các cơ sở đào tạo như: (1) Võ Khánh Vinh
(Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; (2) Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; (3) Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 – Nhà xuất bản lao động
(2019); (4) Đinh Văn Quế (chủ biên), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nhà xuất
bản Thông tin và Truyền thông (2019); (5) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – quyển
1 - Phần Các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội (2018); (6) Nguyễn Đức Mai
(chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật (2018); (7) Nguyễn Văn Thuyết, Bình luận
2
khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Sự Thật (2018); (8) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt
Nam, TP.HCM; (9) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-
Phần Các tội phạm, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội; (10) Hồ Sỹ Sơn, Áp dụng pháp luật hình sự: Một số vấn đề lý luận, Viện
Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam – Học Viện Khoa Học Xã Hội, Nhân Lực
Khoa Học Xã Hội số 02 (57) 2018; (11) Hồ Sỹ Sơn, Luật hình sự so sánh, NXB
Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội 2018; (12) Võ Khánh Vinh, Tập bài giảng Chính
sách hình sự: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội; (13) Võ
Khánh Vinh, Các xu hướng phát triển của Luật hình sự Việt Nam, Hội thảo các xu
hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội
(2018); (14) Hồ Sỹ Sơn, Xu hướng phát triển của các quy định về tội phạm, Hội thảo
các xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội,
Hà Nội (2018), (15) Đỗ Khắc Hưng, Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Hội thảo các xu hướng phát triển
của pháp luật hình sự Việt Nam – Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội (2018), (16) Đinh
Thế Hưng, Xu hướng phát triển của pháp luật hình sự về nhóm tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, Hội thảo các xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam –
Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội (2018), (17) Đinh Thị Mai, Tập bài giảng Chức
năng của tố tụng hình sự, Học viện khoa học xã hội, (18) Phạm Minh Tuyên (2018),
Tập bài giảng Hình phạt – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã
hội …
Những tài liệu, giáo trình nêu trên có nội dung chủ yếu chỉ dừng lại ở việc
phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước, lý luận chung về định tội danh. Đây là tài liệu quan
trọng cho luận văn tham khảo khi nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý, lý luận về định
tội danh đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
theo luật hình sự Việt Nam.
3
- Nhóm thứ hai: Các bài viết trên các tạp chí liên quan đến tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có thể kể đến: (1) Bài viết
“Thành lập 8 Công ty “ma” để mua bán hóa đơn hàng trăm tỷ đồng” của tác giả
Ngọc Diệp, Doanh nhân và pháp luật, Số 33 (308), trang 14-14; (2) Bài viết “Cần
hướng dẫn giải thích một số quy định của Bộ luật hình sự về các tội liên quan đến
hóa đơn giá trị gia tăng của tác giả Hoàng Thị Liên, Kiểm sát, 2013, số 4, trang 42-
44; (3) Bài viết “Người bán hóa đơn phạm tội gì” của tác giả Hà Đăng, Nguyễn Thùy
Linh, Tóa án nhân dân, 2005, số 11, trang 17-19; (4) Bài viết “Bán hóa đơn giá trị
gia tăng (VAT) để người mua hợp thức hóa đầu vào và kê khai khấu trừ thuế: người
bán hóa đơn phạm tội gì?" của tác giả Trần Thanh Phong, Tòa án nhân dân, 2005, ,
số 7, trang 27-31; (5) Bài viết “Hành vi mua và bán hóa đơn thuế giá trị gia tăng
phạm tội gì” của tác giả Phạm Dương Thu, Dương Tuyết Miên, Tòa án nhân dân,
2005, số 13, trang 23-28; (6) Bài viết “Tội phạm mua bán, sử dụng trái phép hóa
đơn” của tác giả Bùi Minh Thanh, Tạp chí Dân Chủ và Pháp luật, 2003, Số 8, trang
24-27 …
Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các dấu hiệu pháp lý
của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
- Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ liên quan đến tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có thể kể đến: (1) Luận văn thạc
sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phan Văn Hoàn, Học
viện Khoa học xã hội, 2013; (2) Luận văn thạc sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu
thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng” của tác giả Trần Thu Hạnh, Đại Học
Quốc Gia Hà Nội, 2019; (3) Luận văn thạc sĩ “Tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ” của tác
giả Chu Ngọc Quang, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2017; (4) Luận văn thạc sĩ “Hành
vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn và các biện pháp phòng, chống” của tác
giả Trần Hương Thủy, Trường Đại Học Cần Thơ, 2016 …
4
Các kết quả nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp pháp luật hình sự về tội
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN của các luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sỹ nêu trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Luật hình sự Việt Nam, chúng tôi có một số
nhận xét sau:
Các công trình trên đã nghiên cứu được một số vấn đề như dấu hiệu pháp lý
của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, lý luận
chung về định tội danh; đề cập và đánh giá một số bất cập trong quy định và vướng
mắc trong áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN cũng như đưa ra được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
tội này. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung đang nghiên cứu, đang tồn tại một số ý
kiến khác nhau về đối tượng tác động, các dấu hiệu định khung hình phạt, về loại
hình phạt, mức hình phạt của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp NSNN. Đồng thời, các công trình trên vẫn chưa nghiên cứu, chưa phân tích
cụ thể các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN (nhất là các quy định mới của BLHS năm 2015); chưa đi vào trình
bày lịch sử hình thành và phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN một cách hệ thống; chưa phân tích được một số bất cập về
đối tượng tác động, dấu hiệu định tội và một số vấn đề khác còn tồn tại trong tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN; chưa đánh giá được
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ thực tiễn cho nên những giải pháp, kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện tội này còn hạn chế.
Do đó, đề tài “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN tại Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả sử dụng làm Luận văn Thạc sĩ Luật
học đối chiếu với các công trình nghiên cứu đã công bố trong nước những năm gần
đây liên quan đến đề tài về tổng thể vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, có
giá trị lý luận và thực tiễn.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của luật hình sự và thực
tiễn áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp NSNN quy định trong BLHS năm 2015 tại Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 và đề xuất
những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN theo luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự nước ta và của một số
nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
- Khảo sát, làm rõ thực trạng áp dụng các quy định luật hình sự về tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh; đưa ra nhận xét, đánh giá về những vướng mắc, bất cập trong các quy
định và thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Bộ luật hình sự và các giải pháp
bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội này trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh và ở cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN và
6
thực tiễn áp dụng tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN trên địa bản Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định,
áp dụng về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ năm 2015 đến năm
2019.
- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án trên phạm
vi Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự hình thành
và phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình hình
xử lý hình sự đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ những vấn
đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
7
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm giống và
khác nhau giữa tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
với các tội phạm khác có liên quan và đối chiếu quy định về tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong luật hình sự Việt Nam với luật
hình sự của một số quốc gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận :
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, từ đó, đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn :
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị
cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, và góp phần giải quyết những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này mà
trước hết tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài liệu tham
khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên và cho những người
có quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu.
7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
8
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ
THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Trong quá trình xuất kinh doanh và phân phối phẩm hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân, hóa đơn xuất hiện phổ biến như một bằng chứng chứng minh có sự
giao dịch mua bán cũng như đảm bảo quyền lợi của bên mua, bên bán trong quan hệ
mua bán. Trong Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ đã định nghĩa:
“Hóa đơn là giấy ghi hàng đã bán cùng với giá tiền để làm bằng chứng hay nói cách
khác rõ hơn, hóa đơn là bảng liệt kê danh sách các hàng hóa cùng với các thông tin
liên quan về hàng hóa và việc chuyển giao hàng hóa mà bên chuyển giao giao cho
bên nhận được” [33, tr. 354]. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thì: “Hóa đơn là
giấy người bán đưa cho người mua hàng để là bằng chứng đã trả tiền” [39, tr. 472]
mà cụ thể hơn đó là “giấy ghi các chỉ số như: tên người mua hàng, loại hàng bán ra,
giá tiền để làm chứng từ” [2,tr. 818]. Với định nghĩa này, hóa đơn luôn tồn tại dưới
hình thức giấy và là phương tiện ghi nhận quan hệ mua bán hàng hóa giữa bên bán
hàng và bên mua hàng trong hoạt động giao dịch dân sự nói chung và hoạt động kinh
doanh nói riêng. Cũng theo định nghĩa này thì hóa đơn chỉ được sử dụng hạn hẹp
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, còn vai trò trong các hoạt động cung ứng dịch vụ
chưa được ghi nhận.
Mặc dù trên thực tế hiện nay chưa có một cách hiểu thống nhất tuyệt đối về
khái niệm của hóa đơn. Nhưng với sự phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường thì thuật ngữ hóa đơn ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn
trong hoạt động kinh tế và đặc biệt là trong hoạt động mua bán hàng hóa, hóa đơn có
một vai trò đặc biệt quan trọng, không những là bằng chứng cho các giao dịch mua
bán các loại hàng hóa, thể hiện giá trị bằng tiền của từng loại hàng hóa, mà hóa đơn
10
còn là công cụ hữu hiệu để cơ quan nhà nước quản lý nền kinh tế, quản lý thuế, thu
nộp thuế vào NSNN. Chính vì vậy, ngoài cách biểu hiện thông thường qua các khái
niệm hóa đơn nêu trên thì khái niệm hóa đơn được khai thác sâu hơn, cụ thể hóa trong
các văn bản pháp lý chuyên ngành và vai trò hóa đơn ngày càng được khẳng định và
mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ, đặc điểm, phân loại hóa đơn cũng có nhiều thay đổi
và trở nên đa dạng hơn, theo đó: “Hoá đơn là chứng từ được in sẵn thành mẫu, in từ
máy tính tiền, in thành vé có mệnh giá theo quy định của Nhà nước, xác nhận khối
lượng, giá trị của hàng hoá, dịch vụ mua, bán, trao đổi, quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên tham gia giao dịch mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ” [15, Điều 3, Khoản
1].
Tuy nhiên, để phản ánh đúng hơn về bản chất của hóa đơn trong nền kinh tế
thị trường thì khái niệm về hóa đơn đã có sự thay đổi khi Nghị định số 51/2010/NĐ-
CP [16] và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP [17], theo đó “Hóa đơn là chứng từ do
người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp
luật.” [16, Điều 3, Khoản 1]. Nghị định số 51/2010/NĐ-CP [16] ra đời là sự thay thế
có nhiều điểm kế thừa của Nghị định số 89/2002/NĐ-CP [15] nhằm tạo cơ chế linh
hoạt hơn nữa cho các chủ thể trong quá trình in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn,
chứng từ.
Khái niệm về hóa đơn được tiếp tục ghi nhận lại từ Nghị định số 51/2010/NĐ-
CP [16] tại quy định của Thông tư 39/2014/TT-BTC, theo đó ““Hóa đơn là chứng từ
do người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp
luật.” [7, Điều 3, Khoản 1].
Hiện nay, khái niệm về hóa đơn theo quy định pháp luật về thuế có sửa đổi
như sau: “Hóa đơn là chứng từ kế toán do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp
dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo quy định của
luật kế toán” [12, Khoản 1, Điều 3].
Qua đó cho thấy rằng pháp luật Việt Nam đã nhận định hóa đơn theo thước đo
về giá trị pháp lý, xem hóa đơn là “bằng chứng” xác lập mối quan hệ mua bán, trao
đổi hàng hóa – dịch vụ, các thông tin về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia
11
giao dịch mua – bán, trao đổi phải được đảm bảo. Giá trị, khối lượng của hàng hóa,
dịch vụ mua – bán, trao đổi được ghi nhận trên hóa đơn có thể được hiểu chính là
thông tin hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, hóa đơn còn được xem là một chứng từ để
hạch toán kế toán nhằm xác định chi phí hợp lệ, hợp lý, hợp pháp khi thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước và các vấn đề pháp lý khác xoay quanh.
Qua các khái niệm trên, cho thấy hóa đơn là chứng từ nhưng chứng từ không
có nghĩa là hóa đơn trong tất cả các trường hợp.
Luật số 83/2015/QH13 [27], có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 ghi nhận thu
NSNN bao gồm “a) Toàn bộ các khoản thu từ thuế, lệ phí; b) Toàn bộ các khoản phí
thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện, trường hợp được
khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ; các khoản phí thu từ các hoạt động dịch
vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp ngân sách
nhà nước theo quy định của pháp luật; c) Các khoản viện trợ không hoàn lại của
Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam và
chính quyền địa phương; [27, Khoản 1 Điều 5].
Trong các khoản thu NSNN, thuế là một khoản thu có tính chất bắt buộc của
Nhà nước đối với các thể nhân, pháp nhân và có tỷ trọng đóng góp lớn nhất và quan
trọng nhất của NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Hóa đơn có chức
năng rất quan trọng không những đối với bên mua, bên bán mà còn với các cơ quan
quản lý thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác. Hóa đơn có liên quan đến
chứng từ thu nộp thuế nói riêng và chứng từ thu nộp NSNN nói chung. Chứng từ thu
nộp NSNN có thể hiểu là “ các chứng từ liên quan đến toàn bộ các khoản thu từ thuế,
lệ phí; toàn bộ các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực
hiện, trường hợp được khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ; các khoản phí thu
từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước
thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; các khoản viện trợ
không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho
Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương”. Hóa đơn là chứng từ, chứng từ thu
nộp NSNN nói chúng, chứng từ thu nộp thuế nói riêng cũng là chứng từ được in, phát
12
hành, quản lý, sử dụng theo quy định của Luật thuế, Luật quản lý thuế và các văn bản
quy phạm pháp luật khác dùng để quản lý thu thuế cho NSNN. Hóa đơn vừa là chứng
từ dùng làm cơ sở ban đầu cho việc kê khai, khấu trừ, hạch toán chi phí, xác định chi
phí thuế, hoàn thuế vừa là cơ sở cho viện thanh tra, kiểm tra của Cơ quan thuế đối
với tình hình hoạt động xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm xác định chính
xác nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, qua đó kịp thời phát hiện ra những trường hợp
gian lận thuế, trốn thuế, chiếm đoạt thuế của các đối tượng liên quan bằng cách lợi
dụng những chính sách này để thực hiện các hành vi in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
Hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước bao gồm: “Hóa đơn xuất khẩu
dùng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, xuất
khẩu vào khu phi thuế quan; hóa đơn giá trị gia tăng; hóa đơn bán hàng hóa, dịch
vụ nội địa dành cho các tổ chức, cá nhân khai thuế giá trị gia tăng; các hoá đơn khác
gồm: tem, vé, thẻ, phiếu thu tiền bảo hiểm, ...và phiếu thu tiền cước vận chuyển hàng
không; chứng từ thu cước phí vận tải quốc tế, chứng từ thu phí dịch vụ ngân hàng;
Lệnh thu nộp ngân sách nhà nước, giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, bảng kê
nộp thuế, biên lai thu ngân sách nhà nước và chứng từ phục hồi trong quản lý thu
ngân sách nhà nước” [13, Khoản 1, Điều 2] .
1.1.2. Khái niệm về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp NSNN
Qua những phân tích trên thì hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là các loại hóa
đơn, tài liệu, giấy tờ được khởi tao, in, phát hành và sử dụng theo các hình thức và
thủ tục của pháp luật về thuế, kế toán, tài chính, hải quan, thu nộp ngân sách Nhà
nước … liên quan đến hoạt động thu nộp NSNN. Trên cơ sở đó, chúng ta có định
nghĩa về tội này như sau:
Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước được hiểu là hành vi in, phát hành, mua bán hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước ở dạng phô từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã
ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến
13
dưới 100.000.000 đồng.
1.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN
Cũng như các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN có khách thể là các quan hệ xã
hội nhằm đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân trong từng
lĩnh vực nhất định. Cụ thể là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế
toán mà hóa đơn, chứng từ được sử dụng để thực hiện nghĩa cụ nộp NSNN.
Để nhận thức đầy đủ bản chất pháp lý của tội in, phát hành, mua bán trái phép
hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, chúng ta cần đi vào nghiên cứu các
dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước có dấu hiệu pháp lý như sau:
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phảm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội phạm
bao giờ cũng xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội được Nhà nước xác định
bảo vệ bằng luật hình sự [35; trang 137].
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình
sự [28, Khoản 1 điều 8].
Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với các loại hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước đang lưu thông trên thị trường.
Đối tượng của tội phạm bao gồm: a) Hóa đơn xuất khẩu dùng trong hoạt động
kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, xuất khẩu vào khu phi thuế
14
quan; hóa đơn giá trị gia tăng; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ nội địa dành cho các tổ
chức, cá nhân khai thuế giá trị gia tăng; các hóa đơn khác gồm: tem, vé, thẻ, phiếu
thu tiền bảo hiểm,... và phiếu thu tiền cước vận chuyển hàng không; chứng từ thu
cước phí vận tải quốc tế, chứng từ thu phí dịch vụ ngân hàng; b) Lệnh thu nộp ngân
sách nhà nước, giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước, bảng kê nộp thuế, biên lại thu
ngân sách nhà nước và chứng từ phục hồi trong quản lý thu ngân sách nhà nước. như
đã phân tích ở trên.
* Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành
vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và gắn
liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời
gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.[35; tr.145].
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, trong đó
hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và được phản ánh trong tất cả các cấu thành
tội phạm. Hành vi khách quan có thể được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động mà mặt thực tế của nó được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển và đó
phải là những hành vi trái pháp luật hình sự. Các hành vi khách quan được phản ánh
tại Điều 203 thể hiện dưới dạng hành động, bao gồm:
Hành vi in trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước: là hành
vi tự in hóa đơn hoặc tự khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ điều kiện hoặc không
đúng, không đây đủ các nội dung theo quy định của pháp luật; In hóa đơn giả hoặc
khởi tạo hóa đơn điện tử giả. Có thể liệt kê như các doanh nghiệp không đủ điều kiện
tự in hóa đơn nhưng không đặt in hóa đơn mà tự in hóa đơn để sử dụng; đặt in hóa
đơn không đúng với hợp đồng đã ký với bên đặt in về số lượng, ký hiệu, số thứ tự; in
hóa đơn không theo mẫu quy định; in hoặc tự khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ
điều kiện hoặc không đúng, không đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật;
in hóa đơn giả hoặc khởi tạo hóa đơn điện tử giả …
15
Hành vi phát hành trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:
là hành vi lập tờ thông báo phát hành không đầy đủ nội dung; không gửi hoặc không
niêm yết tờ thông báo phát hành hóa đơn theo đúng quy định. Hành vi này được thể
hiện thông qua việc thông báo phát hành hóa đơn mà tờ thông báo phát hành hóa đơn
thiếu một trong các nội dung mẫu thông báo phát hành hóa đơn, mẫu số hóa đơn, loại
hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, ngày bắt đầu sử dụng, ngày lập tờ thông báo phát hành,
chữ ký của người đại diện theo pháp luật...; hoặc phát hành hóa đơn không theo đúng
mẫu thông báo phát hành; không thực hứng hiện việc thông báo điều chỉnh hóa đơn
khi có thay đổi nội dung đã thông báo phát hành, hoặc không thông báo hóa đơn mới
khi thay đổi mẫu hóa đơn…
Hành vi mua bán trái phép hóa đơn chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
gồm các hành vi: a) Mua bán hóa đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi nội dung không
đầy đủ, không chính xác theo quy định. b) Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng
không có hàng hóa, dịch vụ kèm; c) Mua, bán hóa đơn giả, hóa đơn chưa có giá trị
sử dụng, hóa đơn đã hết giá trị sử dụng, hóa đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác
để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc cấp cho khách hàng khi bán hàng
hóa một dịch vụ; d) Mua, bán, sử dụng hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hóa,
dịch vụ giữa các liên của hóa đơn. Những hành vi khách quan trên thể hiện cụ thể
thông qua việc vi phạm các điều kiện về chủ thể được phép mua, bán hóa đơn, chứng
từ; bán hóa đơn đã mua mà chưa lập để tổ chức, cá nhân khác hạch toán, khai thuế
hoặc thanh toán vốn ngân sách; khai không đúng điều kiện để được mua hóa đơn do
cơ quan thuế phát hành; cơ quan thuế bán quá số lượng hóa đơn được phép bán lần
đầu cho các tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh (quá một quyền - năm mươi số cho mỗi
loại hóa đơn).
Hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước chỉ cấu thành tội phạm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng
phôi từ 50 số trở lên
Trường hợp thứ hai: Hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số trở lên số.
16
Trường hợp thứ ba: thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên.
Tính trái phép ở đây được được hiểu là sự thể hiện ở chỗ in, phát hành, mua
bán không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép của cơ quan có
thẩm quyền.
* Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu
hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi,
động cơ và mục đích phạm tội.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực thực hiện các hành vi đó.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện hành có thể là cá
nhân và pháp nhân thương mại. Chủ thể của tội phạm là cá nhân chỉ có thể là con
người và con người đó phải có năng lực trách nhiệm hình sự, người đó phải đạt tuổi
chịu trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể của tội
phạm là pháp nhân thương mại là một tổ chức được thành lập hợp pháp và mục
tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
Tại Điều 8, Điều 12, Điều 75 BLHS 2015 [30] thì chủ thể của “Tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN" đối với cá nhân phải là
người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS thực hiện một trong các hành vi phạm
tội kể trên và là cá nhân bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc người của tổ chức kinh
doanh bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; người của tổ chức nhận in hoặc đặt in hóa
đơn; cá nhân hoặc người của tổ chức mua hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này còn có pháp nhân thương mại đủ điều kiện
chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
17
1.1.4. Hình phạt của tội in, phát hành, bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước
Theo quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015 [30], thì:
- Cấu thành tội phạm cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS thì: chủ thể
thực hiện hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi
nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khoản 2 Điều 203 BLHS quy định phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất
chuyên nghiệp; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi
từ 100 số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên; đ) Thu lợi
bất chính 100.000.000 đồng trở lên; e) Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước
100.000.000 đồng trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm.
- Khoản 3 quy định hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Khoản 4 quy định pháp nhân thương mại phạm tội thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền
từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e
và g khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình
chỉ hoạt động vĩnh viễn;
d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định
từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
18
1.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN với các tội khác trong Bộ luật hình sự
1.2.1. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
(Điều 203) với tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước (Điều 204 BLHS)
Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là
những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định của Nhà nước trong
quản lý kinh tế nói chung và chuyên ngành về việc in, phát hành, mua bán hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN, xâm hại đến việc vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đến
NSNN được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015 [30].
Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể có trách nhiệm trong công tác
bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN qua việc không thực hiện, thực
hiện không đúng, không đầy đủ các quy định của pháp luật chuyên ngành, xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực tài chính - kế toán, gây thiệt hại cho NSNN được
quy định tại Điều 204 BLHS năm 2015 [30].
Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN và tội
vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN có điểm
tương đồng nhau là có khách thể của tội phạm là hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN,
tuy nhiên hai tội này này có sự khác nhau cơ bản ở những điểm sau:
Thứ nhất: Về mặt khách quan của tội phạm
Nếu như tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước có mặt khách quan như phân tích nêu trên thì tội bảo quản, quản lý
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước bao gồm: Lưu trữ, bảo quản hóa đơn
không đúng quy định; Không báo cáo hoặc báo cáo không chính xác tình hình sử
dụng hóa đơn, chứng từ, thanh toán, quyết toán tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ;
Làm hư hỏng, mất hóa đơn; Thực hiện hủy hóa đơn không đúng theo quy định của
pháp luật; Xử lý việc mât, cháy, hỏng hóa đơn không hoặc đúng theo quy định của
pháp luật...
19
Các hành vi này là các hành vi khách quan được thế hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động. Hành vi này bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại cho ngân
sách nhà nước hoặc cho người khác từ 100.000.000 đồng trở lên.
Thứ hai: về chủ thể của tội phạm
Nếu như chủ thể của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp NSNN là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định bao
gồm: cá nhân mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc người của tổ chức kinh doanh
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; người của tổ chức nhận in hoặc đặt hóa đơn; cá nhân
hoặc người của tổ chức mua hàng hóa, dịch vụ; pháp nhân thương mại (theo phân
tích tại tiểu mục 1.1.3) thì chủ thể của tội bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước ngoài những yêu cầu nêu trên thì còn đòi hỏi phải là những
chủ thể đặc biệt, tức là những người có trách nhiệm trong công tác bảo quản, quản lý
hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN bao gồm những người có trách nhiệm trong cơ quan
thuế, trong các tổ chức; hộ gia đình, cá nhân kinh doanh có sử dụng hóa đơn, chứng
từ trong hoạt động kinh doanh.
Thứ ba: Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội trong tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN là cố ý thì đối với người phạm tội vi phạm quy định bảo
quản, quản lý hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN cũng được thực hiện với lỗi vô ý
(người phạm tội thấy trước được hành vi vi phạm của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được; hoặc người phạm tội không thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể gây ra
hậu quả nguy hại cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu
quả đó), do đã làm không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ quy trình bảo quản, giữ
gìn các loại hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN dẫn đến gây thiệt hại cho tài của Nhà
nước và công dân. Trong trường hợp phạm tội với lỗi cố ý, động cơ của người phạm
tội là vụ lợi
20
1.2.2. Phân biệt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
(Điều 203) với tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá
giả khác (Điều 208 BLHS)
Tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác
được hiểu là hành vi làm ra, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ
có giá giả khác.
Điểm khác nhau giữa các tội này thể hiện ở các điểm sau:
- Thứ nhất, về đối tượng tác động
Đối tượng của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN (Điều 203) bao gồm: hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Còn đối tượng tác động của tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc
các giấy tờ có giá giả khá là công cụ chuyển nhượng giả, các giấy tờ có giá giả khác.
Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định . Công cụ
chuyển nhượng có thể là: hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc ... Các giấy tờ có
giá khác như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, kỳ phiếu, tín phiếu, các
loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần, chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai ...)
- Thứ hai, về hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan củ tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước được hiểu là hành vi in, phát hành, mua bán hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trái với quy định của pháp luật.
Còn hành vi khách quan của tội làm, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả
hoặc các giấy tờ có giá giả khác là hành vi: Làm công cụ chuyển nhượng giả hoặc
các giấy tờ có giá giả khác là hành vi tạo ra các đối tượng đã nêu bằng cách in, vẽ,
sao chụp ...; Lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác
là hành vi đổi chác, mua bán, tặng cho, cho vay ... các đối tượng trên.
21
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
1.3.1. Bộ luật hình sự năm 1985
BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của Việt Nam ra đời trên cơ sở của nền
kinh tế bao cấp và tình hình phạm tội thời kỳ đó, có nhiều hành vi phạm tội chưa xuất
hiện, trong đó có các hành vi phạm tội liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các quy định liên quan đến điều hành,
vận hành kinh tế cũng có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế, hành vi
lừa đảo, chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN qua việc sử dụng hóa đơn GTGT đã xuất
hiện. Chính vì vậy, văn bản pháp luật hình sự đầu tiên quy định riêng về các tội có
liên quan đến hóa đơn, chứng từ có thể xác định là Thông tư liên tịch số
21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP [1]. Khi sửa đổi, bổ sung BLHS
1999 bởi Luật số Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 [26] thì các
hành vi có tính chất tội phạm liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN đã được
quy định trực tiếp trong BLHS. Thông tư quy định cụ thể như sau:
a) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua và sử dụng trái
phép hoá đơn giá trị gia tăng [1, Điều 1]:
Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ năm trăm
nghìn đồng trở lên; dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài , nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu TNHS về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài theo Điều 139 của Bộ Luật hình sự.
Người nào mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá đơn đó để
lập chứng từ khống về việc mua nguyên liệu, nhiên vật liệu, vật tư, hàng hoá,... chiếm
đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác mà tiền chiếm đoạt từ năm trăm nghìn
đồng trở lên; Tiền chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm
đoạt tài , nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu TNHS về tội
22
lừa đảo chiếm đoạt tài theo Điều 139 của Bộ Luật hình sự.
Trường hợp là người có chức vụ tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử do hợp
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức mà
mình có trách nhiệm quản lý mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên liệu, nhiên vật liệu, vật tư, hàng
hoá,... chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác mà tiền bị chiếm đoạt
từ năm trăm nghìn đồng trở lên; tiền bị chiểm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm
hoặc đã bị kết án về một trong số các tội quy định tại Mục A Chương XXI của Bộ
luật hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. mà còn vi phạm thì bị
truy cứu TNHS về tội "tội tham ô tài " theo Điều 278 của Bộ luật hình sự.
Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá, Nếu chứng
minh được là hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới mà Hàng hoá có giá
trị từ một trăm triệu đồng trở lên; Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng, nhưng
đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 153 – Tội buôn lậu hoặc tại
một trong các điều 154 – Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới,
155 – Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, 156 – Tội xuất, buôn bán
hàng giả, 157 – Tội xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa
bệnh, thuốc phòng bệnh, 158 – Tội xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi, 159 -
Tội kinh doanh trái phép, 160 - Tội đầu cơ và 161 - Tội trốn thuế của Bộ luật hình sự
hoặc đã bị kết án về một trong các hành vi này, nhưng chưa được xoá án tích mà còn
vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193 - Tội xuất trái phép
chất ma túy , 194 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy, 195 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào
việc xuất trái phép chất ma túy, 196 - Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
23
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy , 230 -
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự , 236 - Tội xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ , 238 - Tội xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc của Bộ luật hình sự
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội buôn lậu" theo Điều 153 của Bộ Luật hình
sự.
Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá, nếu không
chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới (tức là chỉ trong
nội địa), mà thuộc một trong các trường hợp trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở
lên; tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành
vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội quy định tại
điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236
và 238 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về "tội trốn thuế" theo Điều 161 của Bộ luật hình sự.
Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà không thuộc một trong
các trường hợp nêu trên nếu chứng minh được khi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà
hoá đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người
mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có
giá giả" theo Điều 181 của Bộ luật hình sự. Nếu không chứng minh được hoá đơn giá
trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn
nguyên như khi phát hành) thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội mua
bán tài liệu của cơ quan nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng
hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên (thông thường mỗi số có 3 liên) hoặc
dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
24
b) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi bán trái phép hoá đơn
giá trị gia tăng [1, Điều 2]:
Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị gia tăng cho người khác, mà biết rõ
mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nếu người mua bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo hướng dẫn tại mục 1 của Thông tư liên tịch này thì người bán bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng đối với người mua với vai trò đồng phạm.
Người nào có hành vi bán hoá đơn giá trị gia tăng cho người khác, mà không
biết mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nhưng không xác định được người
mua, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Trường hợp chứng minh đương khi bán hoá đơn giá trị gia tăng mà hoá đơn
giá trị gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người bán bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả"
theo Điều 181 của Bộ luật hình sự;
b. Trường hợp không chứng minh được hoá đơn giá trị gia tăng đã được ghi
đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn nguyên như khi phát hành)
thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội mua bán tài liệu của cơ quan
nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng hoá đơn giá trị gia tăng
từ năm mươi số trở lên (thông thường mỗi số có 3 liên) hoặc dưới năm mươi số,
nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu
huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm.
Trong giai đoạn này, Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-
VKSNDTC-BTP [1] đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm liên quan đến hóa đơn, chứng từ, đặc biệt là hóa đơn GTGT. Các hành vi khách
quan và các thủ đoạn phạm tội khác nhau có thể diễn ra trên thực tế đã được quy định
chi tiết, cụ thể, quy định mức định lượng thiệt hại, tội danh mà tội phạm gây ra phù
hợp với điều kiện nền kinh tế giai đoạn này. Các hành vi phạm tội được thực hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau như: Thành lập doanh nghiệp để móc nối với nhau
hoặc móc nối với các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện các thủ đoạn mua bán hóa
25
đơn GTGT, giá hàng hóa trên hóa đơn GTGT ghi không đúng giá thực tế để lập hồ
sơ khống xin hoàn thuế GTGT. Hành vi này là hành vi vừa trốn thuế, đối với số thuế
phải nộp vừa chiếm đoạt được tiền thuế phải hoàn của Nhà nước. Tạo giao dịch mua
bán hàng hóa giả mạo, doanh nghiệp thành lập nhưng thực tế không xuất hoạt động
kinh doanh mà chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện quy định về phát hành hóa đơn, để
bán hóa đơn cho các đối tượng mua hóa đơn khống hợp thức hóa chi phí, khấu trừ
thuế GTGT, hoàn thuế GTGT … Tuy nhiên, Thông tư còn mang tính “chấp vá”,
“chữa cháy” do những hành vi phạm tội “mới” phát sinh do nền kinh tế thị trường,
cũng như những sai sót, yếu kém trong quản lý kinh tế của Nhà nước đã tạo cơ hội
cho tội phạm sử dụng những kẽ hở pháp luật nên việc vận dụng những tội danh đã
được quy định trong BLHS còn mang tính chất khiên cưỡng, chưa phản ánh đúng bản
chất của từng hành vi.
Nhận thấy được những bất cập trên, BLHS năm 1999 [23] đã được sửa đổi, bổ
sung, cụ thể hóa hành vi liên quan đến in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN thành một điều luật.
1.3.2. Bộ luật hình sự năm 1999
Trước yêu cầu thực tiễn, cần khắc phục những bất cập của Thông tư liên tịch
số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP [1] trong việc phòng, chống và
xử lý các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế nói chung cũng như các tội phạm liên
quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói riêng, BLHS năm 1999 [23] đã được
bổ sung thêm hai tội danh mới có liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại
Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 [26] kỳ họp thứ 5, quy định tại
hai điều luật: Điều 164a (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp NSNN) và Điều 164b (Tội vi phạm các quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN). Theo đó: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là những hành vi của người nào in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với số lượng lớn
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu
26
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Như vậy, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã cụ thể hóa các tội danh liên
quan đến hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước, không còn quy định cụ thể động cơ, mục đích phạm tội để xác định
tội danh như Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP
[1], đồng thời mở rộng phạm vi đối tượng tác động của tội phạm liên quan đến hành
vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước,
không chỉ giới hạn đối với hóa đơn GTGT mà ngay cả đối với các hóa đơn, chứng từ
thu nộp NSNN cũng là đối tượng tác động.
BLHS năm 2015 [28] đã kế thừa BLHS năm 1999 [23] [26] về việc quy định
liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước tại Điều 203. Theo đó: “Người nào in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100
số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất
chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm.”
Thông qua sự phát triển của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chúng ta có thể nhận thấy: tội phạm này ngày
càng được quy định một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh sự tiến bộ của trình
độ lập pháp về tội này trong pháp luật hình sự Việt Na,.
1.4. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN.
1.4.1. Tội tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
trong luật hình sự Trung Quốc [43]
Trong Bộ luật hình sự Trung Quốc, tội liên quan đến in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN được quy định như sau:
Điều 205. Phát hành sai hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc hóa đơn
khác để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc giảm thuế sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình
27
sự dưới ba năm, với mức phạt trên 20.000 nhân dân tệ và dưới 200.000 nhân dân
tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số tiền thuế báo cáo sai, hoặc có tính chất
nghiêm trọng, với mức phạt tù trên ba năm và dưới 10 năm, với mức phạt hơn 50.000
nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên quan đến
số tiền thuế được báo cáo sai, hoặc có tính chất nghiêm trọng hơn, với mức phạt tù
hơn 10 năm hoặc tù chung thân, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới
500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .
Các hành vi được đề cập trong đoạn trước để lừa đảo thuế nhà nước, nếu số
tiền liên quan là cực kỳ lớn và có tính chất đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại đặc
biệt cho nhà nước, sẽ bị phạt tù chung thân hoặc tử hình và bị tịch thu tài .
Các đơn vị phạm tội theo điều khoản này sẽ bị phạt tiền, với nhân viên trực
tiếp phụ trách hoặc nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị phạt tù giam dưới
ba năm; đối với các trường hợp liên quan đến số tiền thuế tương đối lớn, hoặc có
tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới mười năm; đối với
các trường hợp liên quan đến số tiền thuế lớn, hoặc có tính chất đặc biệt nghiêm
trọng, với án tù hơn 10 năm hoặc tù chung thân.
Phát hành sai hóa đơn thuế giá trị gia tăng hoặc hóa đơn khác để lừa đảo
hoàn thuế xuất khẩu hoặc giảm thuế đề cập đến bất kỳ phát hành sai nào dành cho
người khác hoặc cho chính mình hoặc để người khác phát hành sai cho anh ta hoặc
khiến người khác phát hành sai.
Điều 206. Giả mạo hoặc bán giả mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt
tù hoặc giam giữ hình sự hoặc hạn chế dưới ba năm, với mức phạt hơn 20.000 nhân
dân tệ nhưng dưới 200.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số
lượng tương đối lớn, hoặc có tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm và
dưới 10 năm, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân
tệ; đối với các trường hợp liên quan đến số lượng lớn hoặc có tính chất đặc biệt
nghiêm trọng, với án tù hơn mười năm hoặc tù chung thân, với mức phạt hơn 50.000
nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .
Cam kết giả mạo và bán hóa đơn giả có giá trị gia tăng với số lượng cực lớn
28
hoặc có tính chất đặc biệt nghiêm trọng làm phá vỡ trật tự kinh tế nghiêm trọng sẽ
bị phạt tù chung thân hoặc tử hình, bị tịch thu tài .
Các đơn vị phạm tội theo điều khoản này sẽ bị phạt tiền, với nhân viên trực
tiếp phụ trách hoặc nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị phạt tù hoặc giam
giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới ba năm; đối với các vụ án liên quan đến số lượng
tương đối lớn hoặc có tính chất nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng
dưới 10 năm; đối với các vụ án liên quan đến số lượng lớn hoặc có tính chất đặc biệt
nghiêm trọng, với án tù trên 10 năm hoặc tù chung thân.
Điều 207. Cam kết bán bất hợp pháp hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt
tù hoặc giam giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới ba năm, với mức phạt hơn 20.000 nhân
dân tệ nhưng dưới 200.000 nhân dân tệ.; đối với các vụ án liên quan đến số lượng
tương đối lớn, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới 10 năm, với mức phạt hơn
50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp liên
quan đến số lượng lớn với hình phạt tù trên 10 năm hoặc tù chung thân, với mức phạt
hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài sản .
Điều 208. Mua bất hợp pháp hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc giả
mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình sự dưới 5 năm,
với mức phạt hoặc phạt riêng hơn 20.000 nhân dân tệ và dưới 200.000 nhân dân tệ.
Phát hành sai hoặc bán lại hóa đơn thuế giá trị gia tăng bất hợp pháp hoặc
giả mạo hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền sẽ bị kết án và trừng phạt tương ứng
theo Điều 205, 206 và 207 của luật này.
Điều 209. Giả mạo hoặc xuất mà không có thẩm quyền hoặc bán hoặc xuất
mà không có thẩm quyền, các hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất
khẩu hoặc bù đắp thuế sẽ bị phạt tù hoặc giam giữ hình sự và hạn chế dưới ba năm,
với mức phạt trên 20.000 nhân dân tệ nhưng ít hơn hơn 200.000 nhân dân tệ; đối với
các vụ án liên quan đến số lượng lớn, với mức phạt tù hơn ba năm nhưng dưới bảy
năm, với mức phạt hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ; đối với
các trường hợp liên quan đến số lượng cực lớn, bị phạt tù hơn bảy năm, với mức phạt
hơn 50.000 nhân dân tệ nhưng dưới 500.000 nhân dân tệ, hoặc bị tịch thu tài .
29
Giả mạo hoặc xuất mà không có thẩm quyền hoặc bán các hóa đơn khác được
xuất mà không có thẩm quyền, không được đề cập trong đoạn trước, sẽ bị phạt tù
hoặc giam giữ hình sự, hoặc hạn chế dưới hai năm, với mức phạt trên 10.000 nhân
dân tệ nhưng ít hơn hơn 50.000 nhân dân tệ; đối với các trường hợp có tính chất
nghiêm trọng, với mức phạt tù hơn hai năm và dưới bảy năm, với mức phạt hơn
50.000 nhân dân tệ và dưới 500.000 nhân dân tệ.
Bán bất hợp pháp các hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất
khẩu hoặc bù đắp thuế sẽ bị trừng phạt theo đoạn đầu tiên.
Bán bất hợp pháp các hóa đơn khác không được đề cập trong đoạn thứ ba sẽ
bị trừng phạt theo đoạn thứ hai.
Điều 210. In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc quyền hoặc hóa đơn khác có thể sử
dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc bù đắp thuế, sẽ bị kết án và trừng phạt
theo Điều 264 của luật này.
Có được bằng cách gian lận có nghĩa là hóa đơn thuế giá trị gia tăng độc
quyền hoặc hóa đơn khác có thể sử dụng để lừa đảo hoàn thuế xuất khẩu hoặc bù
đắp thuế sẽ bị kết án và trừng phạt theo Điều 266 của luật này.
Pháp luật hình sự Trung Quốc và Việt Nam đều quy định rõ về hành vi mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN là hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Tuy nhiên pháp luật hình sự Trung Quốc thì chi tiết hơn và tách ra thành nhiều điều
hơn pháp luật hình sự Việt Nam để làm căn cứ xử phạt. Pháp luật hình sự Trung Quốc
quy định gồm 6 điều gồm: phát hành sai hóa đơn; giả mạo hóa đơn; cam kết bán hóa
đơn bất hợp pháp; mua bất hợp pháp hóa đơn, giả mạo và xuất hàng không đúng thẩm
quyền hoặc bán hoặc xuất mà không có thẩm quyền, in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định tại 1 điều
nhưng rõ ràng, cụ thể và dễ vận dụng vào thực tiễn khi xử phạt hình sự đối với tội
này hơn.
30
1.4.2. Tội tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
trong luật hình sự Thái Lan [42]
Mục 266 Bất cứ ai giả mạo bất kỳ tài liệu nào sau đây:
1. Một tài liệu về quyền, đó là một tài liệu chính thức;
2. Một ý chí;
3. Giấy chứng nhận cổ phần hoặc giấy ghi nợ, hoặc lệnh bảo hành hoặc chứng
nhận nợ;
Pháp luật hình sự Thái Lan chỉ nêu hóa đơn như một tài liệu và không quy
định rõ về các hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN là như thế nào. Điều luật Pháp luật hình sự Thái Lan quy định về vấn đề này
còn quá chung chung, cơ bản. Điều 203 Bộ luật hình sự 2015 Việt Nam hoàn chỉnh
hơn, ưu viêt hơn, quy định rõ ràng dễ hiểu, dễ đi sâu vào thực tiễn áp dụng.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
pháp luật hình sự Việt Nam về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN như: các khái niệm, dấu hiệu pháp lý, lịch sử hình thành phát triển
quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, và pháp luật hình sự một số
nước về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Qua
nghiên cứu các nội dung này, tác giả đã đạt được một số kết quả như:
1. Xây dựng được khái niệm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN.
2. Phân tích được các dấu hiệu chung và dấu hiệu pháp lý của tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Từ đó, phân biệt được tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN với một số tội phạm
khác có dấu hiệu tương tự trong BLHS như: tội vi phạm quy định về bảo quản, quản
lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
3. Nghiên cứu được lược sử hình thành và phát triển của tội in, phát hành, mua
31
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN từ năm 1945 đến nay. Cụ thể là nghiên
cứu quy định của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN trong luật hình sự Việt Nam theo trình tự về mặt thời gian trong các Bộ luật
hình sự: (1) Bộ luật hình sự năm 1985; (2) BLHS năm 1999; (3) BLHS năm 2015
qua đó chỉ rõ sự kế thừa và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn quy định về tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong pháp luật hình
sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay.
4. Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định về tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong BLHS Việt Nam với
quy định tương ứng về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN trong BLHS một số nước như: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thái Lan. Các
kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần bổ sung lý luận
về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN, giúp cho
việc nhận thức và áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm này được chính xác
và toàn diện hơn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của Chương 1 là cơ sở để tác
giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong Chương 3
của Luận văn.
32
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ
THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổng quan tình hình xét xử pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong những năm gần đây
Nhìn chung, trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa
bàn tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đã đảm
bảo thực hiện tốt các chủ trương, định hướng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
về chính sách hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với nhóm các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Hình phạt mà Tòa án tuyên phạt đối với các bị cáo
thuộc các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thể hiện được chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta là nghiêm trị những kẻ chủ mưu, cầm đầu, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ quyền hạn, gây thiệt hại đặc biệt lớn, gây hoang mang
trong dư luận . Đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng đối với những người
tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra nên đã đề cao được tính giáo dục và phòng ngừa chung, đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm hiện nay.
Trong những năm vừa qua hoạt động định tội danh nói riêng và hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm thuộc
nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đảm bảo đúng người, đúng tội ,
đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc định tội danh sai, bỏ lọt tội phạm.
Việc hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính trong việc xử lý các hành
vi vi phạm trong trật tự quản lý kinh tế đã được khắc phục, hạn chế đến mức thấp
nhất. Đó chính là những kết quả mà những cơ quan có thẩm quyền có chức năng đã
đạt được trong hoạt động áp dụng luật hình sự đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế trong đó có nhóm tội liên quan đến hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
Trong những năm vừa qua, cùng với kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm
33
nói chung, công tác điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong đó có tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả nhất định. Việc phát
hiện, khởi tố điều tra các hành vi liên quan đến việc in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn chứng từ thu nộp NSNN đã có những bước chuyển biến tích cực. Bên cạnh
lực lượng cảnh sát kinh tế thì lực lượng quản lý thị trường cũng như lực lượng phòng
chống buôn lậu của hải quan cũng đã phát hiện khởi tố một số vụ án liên quan đến
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN mà phổ biến là tội phạm liên quan đến hành vi mua
bán trái phép hóa đơn GTGT tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân các quận, huyện
(19 quận, huyện) và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử một số vụ
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN. Các số liệu thống
kê của Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm
2019 cho chúng ta nhận biết bức tranh tổng thể về tình hình tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN trong những năm gần đây:
Bảng 2.1. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm về nhóm tội xâm
phạm TTQLKT so với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019
Vụ án về tội in,
phát hành, mua Số vụ án hình sự trong bán trái phép nhóm tội xâm phạm So sánh (%) hóa đơn, chứng TTQLKT STT từ thu nộp
NSNN
Giải Thụ Giải Thụ lý Giải quyết Thụ lý quyết lý quyết
2015 2 2 0 0 0 0
34
2016 4 1 1 0.25 0.33 3
2017 5 1 1 0.2 0.33 3
2018 7 3 3 0.4 0.5 6
2019 5 1 1 0.2 0.33 3
Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.2. Tổng quan số lượng vụ án đã được xét xử sơ thẩm trong nhóm tội
về thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm với tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh từ
năm 2015 đến năm 2019
Vụ án về tội in,
Số vụ án hình sự trong phát hành, mua
nhóm tội về thuế, tài chính, bán trái phép So sánh (%) ngân hàng, chứng khoán, hóa đơn, chứng STT bảo hiểm từ thu nộp
NSNN
Giải Thụ Giải Thụ lý Giải quyết Thụ lý quyết lý quyết
2015 2 0 0 0 0 2
2016 1 1 1 1 1 1
35
2017 2 2 1 1 0.5 0.5
2018 5 4 3 3 0.6 0.75
2019 3 2 1 1 0.33 0.5
Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Qua nghiên cứu so sánh số liệu trên, ta thấy số vụ án liên quan đến tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN tại Thành phố Hồ Chí
Minh không nhiều, và số vụ được thụ lý có xu hướng tăng dần, chiếm tỷ trọng tương
đối cao trong nhóm tội liên quan đến xâm phạm quản lý kinh tế. Điều đó cho ta thấy,
xu hướng gia tăng tội phạm trong lĩnh vực này ngày càng tinh vi, gây hậu quả nghiêm
trọng thiệt hại cho NSNN.
2.2. Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Khái quát lý luận định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
* Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Để có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN chúng ta cần phải kế thừa các kết quả nghiên cứu
của khoa học luật hình sự về khái niệm định tội danh.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận
về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể
đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy
phạm pháp luật hình sự” [38, tr.9-10]
Điều 203 BLHS năm 2015 quy định về tội phạm có tên tội danh là: “Tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”, do đó
36
dựa trên khái niệm định tội danh mà GS.TS Võ Khánh Vinh đã xây dựng, chúng ta
có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như sau:
Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính
xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu
hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015.
- Đặc điểm định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước
Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước là một trường hợp định tội danh cụ thể, do đó nó có các đặc điểm
của định tội danh: [37, tr.10]
Thứ nhất, định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước là một quá trình lô gích nhất định, là hoạt động xác nhận
và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm tội cụ thể với các dấu hiệu của cấu
thành tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước được quy định tại Điều 203 BLHS.
Thứ hai, định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước là việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với hành
vi cố ý chiếm đoạt tiền NSNN, gây nguy hiểm cho xã hội.
2.2.2. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố
Hồ Chí Minh
Cấu thành cơ bản của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015.
Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua cho
thấy đa số các tòa án đều định tội danh đúng theo các dấu hiệu của các yếu tố cấu
37
thành tội phạm và điều này được thể hiện thông qua các vụ án về tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. Chẳng hạn:
Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 28/11/2019
Bi cáo Đỗ Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố
về các hành vi phạm tội như sau:
Ngày 22/01/2002 Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp phép
cho Công ty B.G hoạt động, do Tống Văn D làm Giám đốc để ký các giấy tờ Đỗ Văn
T yêu cầu. Công ty không kinh doanh, chỉ xuất hoá đơn giá trị gia tăng để thu phần
trăm tiền thuế.
Thực hiện thỏa thuận với Trung tâm xuất khẩu Tổng công ty T.S.V.N gọi tắt
là Trung tâm xuất khẩu mua hoá đơn giá trị gia tăng để hợp thức hoá đầu vào lập hồ
sơ xin hoàn thuế. Tiền hoàn thuế giá trị gia tăng sẽ được trả cho các công ty bán hóa
đơn giá trị gia tăng là 80%, 20% còn lại sẽ nộp cho Trung tâm xuất khẩu 10% để hạch
toán hiệu quả kinh doanh, còn lại 10% chi cho các cá nhân tham gia. Từ tháng 5/2002
đến tháng 9/2002, Công ty B.G đã ký với Trung tâm xuất khẩu 07 hợp đồng mua bán
và 03 phụ kiện hợp đồng với trị giá thanh toán 11.009.463.088 đồng. Công ty B.G đã
xuất cho Trung tâm xuất khẩu 12 hóa đơn giá trị gia tăng, ghi khống hàng may mặc
là 10.008.602.813 đồng, tiền thuế giá trị gia tăng 1.000.860.275 đồng. Bị cáo Đỗ Văn
T đã trực tiếp ký vào 11 phiếu chi và thực nhận số tiền tại 04 phiếu chi là 427.903.285
đồng và bị cáo trực tiếp đưa Nguyễn Thị H đến Trung tâm xuất khẩu để ký vào 03
phiếu chi và nhận số tiền 303.883.684 đồng sau đó Hiên đưa lại cho Đỗ Văn T. Tổng
số tiền Đỗ Văn T đã nhận từ Trung tâm xuất khẩu và Nguyễn Thị H là 731.786.969
đồng. Hành vi của bị cáo Đỗ Văn T cùng Trần Mạnh H1, Tống Văn D và Phan Xuân
L nhằm trục lợi số tiền thuế giá trị gia tăng là 1.000.860.275 đồng. Trong đó, bị cáo
Đỗ Văn T đã nhận số tiền từ Trung tâm xuất khẩu và nhận từ Nguyễn Thị H tổng
cộng là 427.903.285 đồng + 303.883.684 đồng = 731.786.969 đồng, đây là hành vi
thu lợi bất chính.
Tại bản Cáo trạng số 73/CT-VKSTC-V5 ngày 12/9/2019 của Viện kiểm sát
38
nhân dân Tối cao đã truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “In, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo điểm đ, e khoản 2, Điều 203,
điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử
phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 năm đến 03 năm tù về tội “In, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo
phải nộp số tiền 731.786.969 đồng để sung quỹ nhà nước.
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 500/2019/TLST-HS ngày
13/9/2019 tuyên bố: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính
từ ngày 03/7/2019. Buộc bị cáo Đỗ Văn T nộp số tiền 731.786.969 (bảy trăm ba mươi
mốt triệu bảy trăm tám mươi sáu ngàn chín trăm sáu mươi chín) đồng để sung quỹ
Nhà nước. Bị cáo Đỗ Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự
sơ thẩm.
Trong vụ án này, tòa án đã định tội danh là tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo khách thể của tội phạm. Cụ thể,
trong vụ án này hành vi thu lợi bất chính của T bằng cách trục lợi số tiền thuế GTGT.
Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 30/07/2018
Bi cáo Nguyễn Thị Thảo và các đồng phạm khác bị Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về các hành vi phạm tội như sau:
Công ty CP Logistic Q (sau đây viết tắt là Công ty Q), địa chỉ: 141 đường D3,
Phường 25, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Thị Thảo BC1 - Tổng giám
đốc, đại diện pháp luật theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0312555529
ngày 20/11/2013 và đăng ký thay đổi lần thứ 14 ngày 22/7/2015; Công ty CP Logistic
Xăng Dầu Q (sau đây viết tắt là Công ty Xăng dầu Q), địa chỉ: Tầng 12 Tòa nhà Hải
Âu, số 39B Trường Sơn, Phường 4, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn
Thị Thảo BC1 - Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện pháp luật theo giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp số 0312407295 ngày 08/8/2013 và đăng ký thay đổi lần thứ 4
39
ngày 14/7/2015.
Tháng 6/2015, qua giới thiệu của Lê Thanh BC2, Nguyễn Thị Thảo BC1 đã
gặp gỡ, bàn bạc và thỏa thuận với La Quốc D về việc mua, bán hóa đơn GTGT khống
mặt hàng xăng, dầu xuất cho Công ty Q, Công ty Xăng Dầu Q để kiếm lời. Do không
mua bán hàng hóa, chỉ mua bán hóa đơn GTGT khống, nên Nguyễn Thị Thảo BC1
và La Quốc D thống nhất La Quốc D chịu trách nhiệm về nguồn tiền để hợp thức hóa
thủ tục thanh toán mua bán hàng hóa qua ngân hàng; Nguyễn Thị Thảo BC1 cung
cấp Bảng kê chi tiết (thể hiện số lượng dầu D.O, đơn giá, tổng số tiền hàng) cho La
Quốc D để làm cơ sở xuất hóa đơn GTGT khống; cung cấp Ủy nhiệm chi của Công
ty Q và Công ty Xăng dầu Q chưa ghi nội dung. La Quốc D cho nhân viên nộp tiền
vào tài khoản của Công ty Q và Công ty CP Xăng dầu Q (tại Ngân hàng G), sau đó
sử dụng Ủy nhiệm chi ghi thông tin, chuyển tiền từ tài khoản 02 công ty của BC1 vào
tài khoản của 09 công ty bán hóa đơn khống (cũng tại Ngân hàng G). Số tiền chuyển
khoản phù hợp với số tiền ghi trên hóa đơn, hợp đồng mua bán xăng dầu, đơn đặt
hàng, biên bản giao nhận hàng hóa khống giữa 02 công ty của BC1 và 09 công ty
xuất hóa đơn khống (đã được BC1 chỉ đạo nhân viên soạn thảo ký trước, chuyển cho
La Quốc D để ký, đóng dấu).
Từ tháng 6/2015 đến tháng 9/2015, Nguyễn Thị Thảo BC1 đã mua của La
Quốc D, Lê Thanh BC2 tổng cộng 392 hóa đơn GTGT khống của 09 doanh nghiệp.
La Quốc D cho các đối tượng sử dụng CMND giả mang tên Nguyễn Quốc Đ, Phạm
Văn T, Ngô Tuấn U1 và Nguyễn Văn U nộp 338.920.909.680 đồng (Ba trăm ba mươi
tám tỷ, chín trăm hai mươi triệu, chín trăm lẻ chín nghìn, sáu trăm tám mươi đồng)
vào tài khoản của Công ty Q và Công ty Xăng Dầu Q mở tại Ngân hàng G, sau đó
chuyển khoản bằng ủy nhiệm chi cho 09 công ty xuất hóa đơn GTGT khống để tạo
chứng từ giả thanh toán mua dầu, thanh toán tiền vận chuyển, hợp thức cho việc mua
bán trái phép 392 hóa đơn GTGT khống. Nguyễn Thị Thảo BC1 sử dụng pháp nhân
của 09 doanh nghiệp (thành lập mới hoặc nhận chuyển nhượng) để xuất 1.679 hóa
đơn GTGT khống cho Công ty Q và Công ty Xăng dầu Q.
Công ty G1, địa chỉ quận C2, TP. Hồ Chí Minh; do bà Lê Thị O4 làm Giám
40
đốc, đại diện pháp luật; nhưng thực chất mọi hoạt động đều do Trần Ngọc BC6 (chồng
bà O4) điều hành, chỉ đạo. Nguyễn Thị Thảo BC1 và Trần Ngọc BC6 có quan hệ
quen biết từ năm 2014 qua việc mua bán dầu. Đến tháng 8/2015, do không đạt được
thỏa thuận về giá mua bán, nên Trần Ngọc BC6 không tiếp tục mua bán dầu với
Nguyễn Thị Thảo BC1 mà chỉ mua hóa đơn GTGT khống để bổ sung “đầu vào” cho
Công ty G1. Từ ngày 01/8 đến ngày 30/11/2015, Trần Ngọc BC6 đã mua của Nguyễn
Thị Thảo BC1 78 hóa đơn GTGT khống của Công ty Xăng dầu Q (xuất cho Công ty
G1) với 13.313.000 lít dầu ghi trên hoá đơn, tổng số tiền ghi trên hóa đơn là
168.747.450.000 đồng. Trần Ngọc BC6 trả tiền mua bán hóa đơn GTGT cho BC1 04
lần, tổng số tiền là 1.837.435.000 đồng. Tổng số tiền BC6 hưởng lợi bất chính là
133.313.000 đồng. Do không lập sổ sách ghi chép, nên đến nay Trần Ngọc BC6
không xác định được số lượng hóa đơn và từng hóa đơn cụ thể đã bán cho các doanh
nghiệp.
Công ty Đ (địa chỉ: Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) do Nguyễn Đức Thanh BC7
làm Giám đốc, đại diện pháp luật. Từ ngày 11/5 đến 30/11/2015, Nguyễn Đức Thanh
BC7 thông qua Đinh Thị Hải V mua của Nguyễn Thị Thảo BC1 22 hóa đơn GTGT
khống dịch vụ vận chuyển nước ngọt, trị giá khống là 7.387.178.700 đồng do Công
ty Q và Công ty Xăng dầu Q xuất cho Công ty Đ.
Quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an đã thu giữ tài liệu,
hóa đơn chứng từ thể hiện: Từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015, Công ty Q và Công
ty Xăng dầu Q của Nguyễn Thị Thảo BC1 đã xuất tổng cộng 3.996 hóa đơn GTGT
mặt hàng dầu D.O và dầu F.O, trị giá tiền trên hóa đơn là 5.082.767.729.748 đồng
cho 101 doanh nghiệp.
Ngày 30 tháng 07 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 263/2018/HS tuyên bố: bị cáo
Nguyễn Thị Thảo BC1, Lê Thanh BC2, Nguyễn Phạm Xuân BC3, Lê Thị BC4,
Nguyễn Trâm Quyên BC5, Trần Ngọc BC6 và Nguyễn Đức Thanh BC7 phạm tội
“Mua bán trái phép hóa đơn thu nộp ngân sách nhà nước”.
Xử phạt: Nguyễn Thị Thảo BC1 03 (ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt với 01
41
(một) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 392/2016/HSST ngày 22/11/2016 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung
của hai bản án là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giam
trước từ ngày 16/12/2015 đến 11/5/2017. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án
Xử phạt: Lê Thanh BC2 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt với 01 (một)
năm tù của Bản án số 392/2016/HSST ngày 22/11/2016 của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03
(ba) năm tù, được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 18/12/2015 đến ngày
03/12/2016. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần hình phạt đối với các bị cáo khác, tuyên
xử lý vật chứng, buộc các bị cáo phải nộp án phí, tuyên quyền kháng cáo cho các bị
cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong vụ án này, tòa án đã định tội danh là tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo khách thể của tội phạm. Cụ thể,
trong vụ án này hành vi thu lợi bất chính của Thảo và các bị cáo bằng cách trục lợi
số tiền thuế GTGT.
* Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đặc biệt
Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước trong các trường hợp đặc biệt như trên đã nêu gồm các trường
hợp định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước trong trường hợp phạm tội chưa đạt, trong trường hợp đồng phạm và
trong trường hợp có nhiều tội phạm.
Thực tiễn định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đặc biệt cho thấy các tòa án đa số điều
thực hiện đúng các quy định của BLHS về phạm tội chưa đạt, đồng phạm, nhiều tội
phạm. Có thể nêu một ví dụ về định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trường hợp đặc biệt như sau:
42
* Định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đồng phạm và nhiều (đa) tội phạm
Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 30/07/2018 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1
Tại bản án này, Tòa án dựa trên các quy định của pháp luật hình sự đã định tội
danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước trong trường hợp đặc biệt đối với các bị cáo, cụ thể là:
- Thứ nhất, Tòa án đã định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong trường hợp đồng phạm đối với các
bị cáo với nhận định trong bản án “Đây là vụ án do các bị cáo cùng thực hiện tội
phạm, bị cáo Thảo và bị cáo Thanh và các bị cáo khác có bàn bạc nhau từ trước về
việc thành lập nhiều Công ty để thực hiện mua bán trái phép hóa đơn GTGT, chiếm
đoạt tiền thuế của Nhà nước”.
Và bản án đã quyết định “Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Thảo, Lê Thanh,
Nguyễn Phạm Xuân, Lê Thi … phạm tội “In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.”
2.2.3. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố
Hồ Chí Minh
Định khung hình phạt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp NSNN là xác định khung hình phạt phải áp dụng cho hành vi phạm tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN đã được định tội
danh.
Qua một số bản án thực tiễn cho thấy thực tiễn định khung hình phạt tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
Phố Hồ Chí Minh đã phản ánh mức độ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội phù hợp với một khung hình phạt nhất định và là có cơ sở pháp lí để định khung
hình phạt đối với hành vi đó.
43
Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2:
Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai)
năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2019.
Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị
cáo T
Vụ án thứ hai: Bản án số: 263/2018/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 30/07/2018 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1
Áp dụng điểm a, d, đ khoản 2 Điều 164a của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa
đổi bổ sung năm 2009; Điều 7, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 17 của Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Nguyễn Thị Thảo BC1 03 (ba) năm tù.
Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị
cáo Thảo
Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 164a của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi
bổ sung năm 2009; Điều 7, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 17 của Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Lê Thanh BC2 02 (hai) năm tù.
Như vậy Tòa án đã quyết định áp dụng khung hình phạt thứ 2 để xử phạt bị
cáo Thanh
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh
Trong khoa học luật hình sự hiện nay, khái niệm quyết định hình phạt có thể
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: [40, tr. 256]
Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng là quyết định hình phạt chính,
quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện pháp chấp hành hình phạt (như quyết
44
định cho hưởng án treo) và quyết định các biện pháp tư pháp. Quyết định hình phạt
cũng có có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện pháp xử lý đối
với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội (bao gồm cả quyết định miễn
hình phạt hoặc quyết định hình phạt theo các nghĩa trên). Tuy nhiên, khái niệm quyết
định hình phạt theo nghĩa hẹp thường được đa số các tác giả ghi nhận trong các sách,
báo pháp lý. [31, tr. 255] [32, tr. 317] [36, tr. 161]
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt đối
với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước như sau:
Quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội in, phát
* Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm
gần đây
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Về cơ bản, các Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh đều áp dụng đúng
các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong các trường hợp như:
theo cấu thành cơ bản cuả tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước, theo các cấu thành tăng nặng của tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước và trong trường hợp đặc biệt.
Các trường hợp quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tương ứng với các trường hợp định tội
danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước, chẳng hạn: gắn liền với định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo cấu thành tội phạm cơ bản là quyết
định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước theo cấu thành tội phạm cơ bản.
45
* Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Vụ án thứ nhất: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1:
Qua phân tích bản án nêu trên, chúng ta nhận thấy, Hội đồng xét xử đã áp dụng
nhiều quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như:
- Về căn cứ nhân thân người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận định:
“Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng trong quá trình điều tra vụ án bị cáo
đã bỏ trốn và phải truy nã trong một thời gian dài mới bắt được bị cáo để xử lý theo
quy định pháp luật, nên cần phải xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ
hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian
nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa
chung cho xã hội.”
- Về căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng
xét xử nhận định: “Bị cáo không có”
Trong vụ án này, quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
(theo khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015 –thời điểm thực hiện hành vi phạm tội của
các bị cáo) được thể hiện trong Phần quyết định của bản án:
“1. Tuyên bố hành vi của Đỗ Văn T đã phạm vào tội “In, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.
- Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày
03/7/2019.
* Thực tiễn quyết định hình phạt theo các cấu thành tội phạm tăng nặng của
46
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
tại Thành Phố Hồ Chí Minh
Như đã nêu ở phần nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo cấu thành tội
phạm tăng nặng tại Thành Phố Hồ Chí Minh, tại Bản án số: 504/2019/HS-ST của
TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 về vụ Đỗ Văn T phạm tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tương ứng
với định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với hành vi của bị cáo T thì tòa
án cũng quyết định hình phạt đối với bị cáo T theo cấu thành tội phạm tăng nặng của
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Cụ thể, Tòa án nhân dân thị xã Phước Long tỉnh Bình Phước đã quyết định:
“1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “In, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều
203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017. Xử phạt bị cáo Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính
từ ngày 03/7/2019.”
* Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt đối với tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại
Thành Phố Hồ Chí Minh
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước chưa xảy ra.
- Quyết định phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt đối với tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chưa xảy ra
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đối với tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tại bản án số:
504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 có nội dung
47
tại tiểu mục 2.2.2.1
- Quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội phạm đối với tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tại Bản án
số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/11/2019 “Liên
quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Văn T có: Phan Xuân L, Nguyễn Thị H, Tống Văn
D đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về các tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài ”; “Làm, tàng trữ, vận chuyên, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả
khác”; “Mua bán trái phép hóa đơn” và bị tuyên phạt mức án từ 01 năm đến 15 năm
tù”
* Hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
Phố Hồ Chí Minh
Bên cạnh những bản án áp dụng đúng các quy định về quyết định hình phạt,
trên thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một số bản án còn có thiếu sót trong
việc quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Chẳng hạn: Bản án số: 504/2019/HS-ST của TAND Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 28/11/2019 có nội dung tại tiểu mục 2.2.2.1 về vụ án “Đỗ Văn T phạm tội In,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”.
Trong vụ án này, tòa án quyết định:
“Áp dụng các điểm đ khoản 2 Điều 203; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “In, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”. Thời hạn tù tính từ ngày
03/7/2019”.
Xem xét về quyết định hình phạt về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước đối với bị cáo, chúng ta nhận thấy, tòa án
đã áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, Điều
51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong vụ án này tòa án áp dụng thiếu
48
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tổ chức” được quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015, bởi lẽ bị cáo T đã thực hiện hành vi hành vi in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước hai lần,
mỗi lần đều là hành vi độc lập tách rời nhau và đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ
Chí Minh
Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm vừa qua cho chúng ta rút ra một số kết luận sau:
* Về ưu điểm:
- Thực tiễn định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt qua các bản
án điển hình mà Chương 2 đã nêu cho thấy đa số các bản án đều áp dụng đúng quy
định của BLHS về định tội, định khung và quyết định hình phạt. Các sai sót, hạn chế
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các bản án.
- Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước là tội phạm ngày trở nên có tính phổ biến nên những người tiến hành tố
tụng do áp dụng thường xuyên nên đều nắm vững các các dấu hiệu pháp lý của tội
này nên đa số áp dụng đúng quy định.
- Các cơ quan tố tụng, những người tiến hành tố tụng thường xuyên được tập
huấn các quy định của BLHS nên việc áp dụng các quy định về tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ít xảy ra sai sót.
* Hạn chế:
- Thực tế áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời đây
cho thấy không có nhiều vụ án, mặc dù trên thực tế các hành vi có dấu hiệu tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN diễn ra khá nhiều,
công khai.
- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định mới của BLHS
49
năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong quá trình áp
dụng.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước cho thấy có các vướng mắc:
- Vướng mắc về pháp luật:
Vướng mắc thứ 1: Vướng mắc về định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong luật hình sự. Nguyên nhân
của vướng mắc này xuất phát từ thực tiễn việc hiểu và áp dụng nội hàm của tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là chưa
thống nhất. Điều này cũng có thể do nhà làm luật cho rằng tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là tội không phức tạp lắm
nên quy định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước dưới dạng quy định giản đơn. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự cho thấy cần phải hiểu thống nhất về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước thì mới có thể áp dụng thống nhất,
mới đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật hình sự.
Vướng mắc thứ 2: Việc bắt buộc các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử
hiện nay đã và đang trở thành nhiệm vụ chính của Bộ tài chính và cơ quan thuế nhằm
đảm bảo đến ngày 01/11/2020 là tất cả các Doanh nghiệp đều chuyển từ hóa đơn giấy
sang sử dụng hóa đơn điện tử. Với quy định này đã làm cho quy định về xử lý hình
sự đối với tội vi phạm quy định in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017)
trở nên không còn phù hợp với thực tiễn.
Vướng mắc thứ 3: Việc định lượng về số lượng hóa đơn, số lượng phôi và định
lượng về số tiền để thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm là chưa hợp lý, chưa thật
sự khoa học. Hóa đơn dạng phôi, chưa ghi nội, chưa ghi giá trị thì khó chứng minh
thiệt hại thực tế xảy ra. Hoặc như số lượng hóa đơn mua bán đã ghi nội dung từ 10
số đến dưới 30 số đã cấu thành tội phạm nhưng giá trị thiệt hại chỉ 4 triệu đồng so với
mua bán 01 hóa đơn nhưng giá trị thiệt hại đến vài 20 triệu đồng nhưng không đến
50
mức xử lý hình sự là không thỏa đáng và trùng lập với quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn.
Vướng mắc thứ 4: Tại khoản 1 nêu hậu quả thu lợi bất chính nhưng khoản 2
có thêm hậu quả gây thiệt hại cho NSNN. Vấn đề này sẽ gây khó khăn khi cơ quan
tiến hành tố tụng xác định chính xác số tiền thu lợi bất chính và số tiền gây thiệt hại
NSNN để áp dụng điểm đ hay e khoản 2 Điều 203 BLHS năm 2015 để điều tra, truy
tố, xét xử.
Vướng mắc thứ 5: Các quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chưa chắt
chẽ, thiếu sự đồng bộ, thiếu kiểm tra, giám sát như quy định về việc xuất hóa đơn bắt
buộc đối với cá nhân mua lẻ, quy định về công tác, kiểm tra công bố doanh nghiệp
bỏ trốn, quy định về thành lập pháp nhân, quy định về việc phối hợp, liên thông, cung
cấp hồ sơ liên quan giữa các cơ quan quản lý doanh nghiệp như Sở kế hoạch đầu tư,
Cơ quan thuế, Hải quan.
Vướng mắc thứ 6: Nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN hiện
nay chưa được khẳng định rõ ràng, thống nhất. Chứng từ thu nộp NSNN có phải là
được hiểu là hóa đơn hay không? gây khó khăn cho việc phân tích, chứng mình lý
luận thực tiễn hành vi của người phạm tội.
Vướng mắc thứ 7: các khung hình phạt tại Điều 203 hiện nay chỉ dừng lại ở
mức phân loại tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Tại điểm đ khoản
2 Điều 203 “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên” nhưng không quy định
mức tối đa. Thực tế có những vụ án liên quan đến tội này đã thu lợi bất chính đến
hàng tỉ đồng, nếu như số tiền thu lợi bất chính quá lớn so với mức phạt thì người
phạm tội không bị thiệt hại lớn về mặt kinh tế và người phạm tội sau khi chấp hành
xong bản án vẫn có điều kiện để tái phạm. Quy định này là chưa đủ đảm bảo tính răn
đe, ngăn ngừa người phạm tội.
Vướng mắc thứ 8: Khung hình phạt tù giữa cấu thành tội phạm cơ bản và cấu
thành tội phạm tăng nặng chưa phù hợp, thể hiện sự chưa công bằng và bất hợp lý
đối với người phạm tội, gây khó khăn cho việc lựa chon khung hình phạt tù phù hợp,
51
tương xứng cho cơ quan tiến hành tố tụng.
Vướng mắc thứ 9: Trước đây, việc thành lập doanh nghiệp với mục đích thực
hiện hành vi mua bán trái phép hóa đơn chưa nhiều, chỉ mang tính chất “cung” “cầu”
để hợp thức hóa chi phí, thuế GTGT khấu trừ của một số doanh nghiệp. Tuy nhiên,
trong thời gian gần đây, việc thành lập doanh nghiệp chỉ nhằm mục đích thực hiện
hành vi mua bán trái phép hóa đơn ngày trở nên nhiều hơn, có cả “đường dây” chuyên
tổ chức thành lập doanh nghiệp “ảo”, thuê người đứng tên đại diện pháp luật, tìm
kiếm địa bàn, đầu mối, thậm chỉ công khai nhắn tin qua điện thoại, đăng thông tin
qua các trang mạng facebook, zalo … để tiêu thụ hóa đơn, cung cấp hóa đơn cho các
doanh nghiệp nhằm hợp thức hóa hàng hóa đầu vào mua trôi nổi trên thị trường, hàng
hóa nhập lậu, sau đó chia lợi nhuận từ việc thu lợi bất chính. Mức độ, tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra lớn hơn nhiều lần so với cá nhận phạm
tội. Xét về quy mô, phạm vi ảnh hưởng, tầm ảnh hưởng của pháp nhân thương mại
về tội này thì chế tài xử phạt áp dụng so với cá nhân vi phạm chưa tương xứng, nhẹ
hơn nhiều lần.
Vướng mắc thứ 10: Như vướng mắc thứ 7 đối với cá nhân phạm tội thì các
tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với
tình tiết thu lời bất chính đối với pháp nhân thương mại hiện nay là chưa đủ đảm bảo
tính răn đe, ngăn ngừa người phạm tội.
Vướng mắc thứ 11: Tại Điểm c Khoản 4 Điều 203 203 BLHS năm 2015 được
diễn giải chi tiết, đầy đủ như sau “Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp:
1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại
trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại
hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi
trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả
năng khắc phục hậu quả gây ra, 2. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực
hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động, thì đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn”. Ở đây, nhà làm luật đã đưa ra định nghĩa về đình chỉnh hoạt động vĩnh viễn
đối với pháp nhân thương mại và nêu các đặc điểm dấu hiệu nhận biết như “có khả
52
năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc
phục hậu quả gây ra”. Việc phạm tội của pháp nhân thương mại liên quan đến “in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN” thì không nằm trong
các dấu hiệu trên.
- Vướng mắc khác:
Nguyên nhân chủ yếu của của các vướng mắc, sai sót trên thực tiễn chủ yếu là
do người tiến hành tố tụng chưa nắm vững các quy định mới của BLHS năm 2015,
bởi lẽ để áp dụng đúng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước không chỉ nắm vững các quy định tại Điều 203
BLHS mà còn phải nắm vững các quy định khác ở Phần thứ nhất (Những quy định
chung) và các danh có quy định loại trừ Điều 203, hoặc giống nhau về hành vi như
điều 200, 202 BLHS.
- Các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung
và tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
theo quy định của BLHS năm 2015 chưa có, dẫn đến cách hiểu về các dấu hiệu của
các tội phạm không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng.
- Một số người tiến hành tố tụng cứ theo kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng
mà chưa chịu nghiên cứu kỹ các quy định mới của BLHS năm 2015.
Tiểu kết Chương 2
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một số nội
dung sau:
1. Đã phân tích khái quát tình hình xét xử tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh trong
những năm gần đây từ đó chỉ ra: (1) Hoàn thiện các quy định và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, là khâu trọng điểm trong việc
đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội in, phát hành, mua bán trái phép
53
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước nói riêng, qua đó giảm tỷ lệ tội phạm
nói chung tại Thành Phố Hồ Chí Minh; (2) Các biện pháp phòng chống tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
Phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua chưa hiệu quả, đòi hỏi phải có sự thay
đổi về quy định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của BLHS về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước.
2. Luận văn đã nghiên cứu vấn đề định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh với
các nội dung: (1) Khái quát lý luận định tội danh tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (2) Thực tiễn định tội danh tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
Phố Hồ Chí Minh.
3. Chương 2 của Luận văn cũng nghiên cứu: (1) Định tội danh theo cấu thành
tội phạm tăng nặng của tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây; (2)
Quyết định hình phạt đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ
thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh;
4. Chương 2 của Luận văn cũng đã đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp
hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước tại Thành Phố Hồ Chí Minh, làm nền tảng cho các giải pháp áp dụng đúng
pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước ở Chương 3.
54
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI IN, PHÁT HÀNH, MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN,
CHỨNG TỪ THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
Áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là đòi hỏi có tính nguyên
tắc xuất phát từ:
Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng đúng nguồn luật đối với
hành vi phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 01/01/2018
là Bộ luật thay thế hoàn toàn BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Việc áp
dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa đảm bảo yêu cầu của nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng đúng các quy định của BLHS về tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước còn có
ý nghĩa trong thực tiễn định tội, định khung và quyết định hình phạt đúng đối với tội
phạm này.
Thứ hai, yêu cầu bảo đảm sự thay đổi kịp thời quy định trong luật hình sự do
với luật chuyên ngành.
Chẳng hạn, theo quy định mới nhất tại Nghị định số 119/2018/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 12/09/2018 về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ,
có hiệu lực từ 01/11/2018 và bắt buộc các Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chuyển đổi
từ hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử chậm nhất là đến ngày 01/01/2020. Như vậy thì
quy định về định lượng ở dạng phôi trong Điều 203 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) sẽ không còn phù hợp nữa. Do đó việc áp dụng các quy định tội in, phát
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước phải đảm bảo
thống nhất với các quy định mang tính viện dẫn đến luật chuyên ngành
55
Thứ ba, yêu cầu bảo đảm việc quy định pháp luật chuyên ngành về doanh
nghiệp, thuế, hóa đơn được tối ưu hóa, chặt chẻ hóa, không rủi ro, sai sót nhằm ngăn
ngừa, phòng chóng các hành vi lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật chuyên ngành để phạm
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Lợi dụng thủ tục, quy định thông thoáng của Luật doanh nghiệp, luật thuế
GTGT, khấu trừ thuế, hoàn thuế, hải quan … đã thúc đẩy các đối tượng thành lập
doanh nghiệp chỉ để mua bán hóa đơn GTGT trái phép thu lợi bất chính và tạo nên
thị trường mua bán hóa đơn bất hợp pháp sôi động, tinh vi. Một cá nhân có thể đứng
tên đại diện pháp luật thành lập nhiều doanh nghiệp, nhưng thiếu cơ chế quản lý,
kiểm tra, giám sát nên nhiều vụ án chỉ với một cá nhân nhưng đứng tên Giám đốc
nhiều doanh nghiệp để mua bán hóa đơn GTGT, chiếm đoạt tiền hoàn thuế.
Thứ tư, yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật vào thực tiễn tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tránh
hình sự hóa.
Vệc xử lý hành vi vi phạm về in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN trong bối cảnh hiện nay khi mà hầu hết các doanh nghiệp đều thực
hiện kê khai thuế, báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ qua mạng bằng phần
mềm kê khai thuế theo yêu cầu của Tổng cục Thuế. Do vậy, việc xử lý hình sự với
hành vi “vi phạm về in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
NSNN” cần phải xem xét hành vi được xử phạt theo quy định xử phạt hành chính hay
hình sự, giữa quy định về xử lý hình sự và xử lý hành chính có sự trùng lập hay không
nhằm không “hình sự hóa” vấn đề, trong khi đã có các quy định về xử phạt hành
chính của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp vi phạm.
Tương tự, việc cho phép doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn điện tử khiến
cho việc xác định dấu hiệu hành vi vi phạm trên không còn phù hợp với sự phát triển
của công nghệ thông tin về cải cách thủ tục hành chính cho người nộp thuế, cũng như
khó xác định lỗi vi phạm thuộc về lỗi kỹ thuật, máy tính, truyền dữ liệu hay là lỗi cá
nhân người khởi tạo, lập, gửi, nhận, lưu trữ và quản lý.
56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:
3.2.1. Các giải pháp pháp luật
Từ những vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Thành
Phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra tại Chương 2 của Luận văn, chúng tôi đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo hướng:
- Thứ nhất, hoàn thiện Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành vi
phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà
nước khi đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.
Như đã nêu ở Chương 2 của Luận văn về vướng mắc về định tội danh tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong
luật hình sự nên việc sửa đổi, bổ sung hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước khi đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu là đảm bảo phân biệt giữa tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với các
tội khác trong BLHS và với hành vi vi phạm pháp luật hành chính nhằm để răn đe,
nhắc nhở người đã vi phạm hành chính. Bởi vậy, khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015
cần được thiết kế:
“1. Người nào in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã
ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành
vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
57
nhà nước khi sử dụng hóa đơn điện tử.
Một là, nên sửa đổi tên gọi của Điều 203: Tội in, khởi tạo, phát hành, mua bán
trái phép hóa đơn, hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Hai là, sửa đổi, bổ sung số lượng hóa đơn khởi tạo điện tử ngoài việc định
lượng bằng số lượng phôi, hóa đơn, chứng từ để tiến hành xử phạt. Bởi vì “Hóa đơn
điện tử là hóa đơn được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng
hóa, cung cấp dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ký số,
ký điện tử theo quy định tại Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/09/2018 bằng
phương tiện điện tử, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền
có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế”. Hóa đơn điện tử không thể hiện
dưới dạng phôi như hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN bằng giấy. Do đó, khoản 1
Điều 203 BLHS năm 2015 cần sửa đổi bổ sung “1. Người nào in, khởi tạo, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
ở dạng phôi hoặc dữ liệu điện tử từ ….”
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Một là, quy định về việc xuất hóa đơn bắt buộc đối với cá nhân mua lẻ. Bởi vì
trên thực tế như siêu thị, Công ty xăng dầu thì cá nhân mua hàng hóa không yêu cầu
xuất hóa đơn, theo quy định Công ty phải tập hợp xuất hóa đơn cuối ngày. Tuy nhiên,
nhiều siêu thị, công ty không thực hiện mà dùng số hàng hóa, xăng dầu này để xuất
hóa đơn khống cho Công ty khác hưởng thêm khoản tiền chênh lệch “hoa hồng” bán
hóa đơn. Công ty khác sử dụng hóa đơn để kê khai thuế GTGT, hạch toán chi phí,
khấu trừ thuế, hoàn thuế. Do đó, pháp luật về thuế nên quy định tất cả các trường hợp
mua bán giữa cá nhân với pháp nhân đều phải xuất hóa đơn ngay, không phân biệt cá
nhân có yêu cầu hay không yêu cầu hóa đơn.
Hai là, sửa đổi bổ sung quy định về công tác, kiểm tra công bố doanh nghiệp
bỏ trốn. Hiện nay, việc công bố danh sách doanh nghiệp bỏ trốn vẫn chưa kịp thời,
dẫn đến nhiều Doanh nghiệp thực tế có mua hàng hóa nhưng vô tình hóa đơn xuất là
của một doanh nghiệp đã bỏ trốn, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và vô tình doanh
58
nghiệp sử dụng hóa đơn này cũng bị vướng vào vụ việc khi cơ quan tiến hành tố tụng
phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử doanh nghiệp bỏ trốn.
Ba là, sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp về thành lập pháp nhân theo hướng
chặt chẻ hơn, có sự kiểm tra, giám sát sau khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Các vụ
án liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
hầu như đều liên quan đến việc một người có thể là đại diện pháp luật thành lập nhiều
doanh nghiệp, hoặc thuê những cá nhân thiếu hiểu biết về pháp luật đứng tên và các
doanh nghiệp này liên tục thay đổi trụ sở, thay đổi người đại diện pháp luật đã gây
khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra. Thậm chí không ít những trường hợp sử
dụng tên người đã chết để thành lập doanh nghiệp. Vì thế Luật doanh nghiệp cần quy
định chặt chẽ về thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hướng quy định tại Điều 74 Bộ
luật dân sự năm 2015 để được công nhận là pháp nhân “Có tài sản độc lập với cá
nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”. Hiện nay, Luật
doanh nghiệp không quy định đưa ra bằng chứng xác thực góp vốn điều lệ trừ trường
hợp các ngành nghề kinh doanh yêu cầu vốn pháp định. Doanh nghiệp sau khi đã
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, con dấu là đương nhiên hoạt động
không cần phải chứng minh có vốn thực hoạt động hay không. Bên cạnh đó, cần quy
định hạn chế số lượng doanh nghiệp do một cá nhân đứng đại diện pháp luật.
Bốn là, cần quy định về việc phối hợp, liên thông, cung cấp hồ sơ liên quan
giữa các cơ quan quản lý doanh nghiệp như Sở kế hoạch đầu tư, Cơ quan thuế, Hải
quan để kịp thời kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực
hóa đơn, chứng từ, thuế, kế toán …
Thứ tư, ban hành hướng dẫn cách hiểu thống nhất về nội hàm khái niệm hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
Như luận văn này đã phân tích về khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN
tại tiểu mục 1.1.1. thì nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN hiện nay
cần phải khẳng định rõ ràng, thống nhất. Chứng từ thu nộp NSNN có phải là được
hiểu là hóa đơn hay không?. Bên cạnh đó, chứng từ là một khái niệm rất rộng mà
chưa có văn bản pháp luật nào khái niệm cụ thể và được hiểu một cách chung chung
59
là “bằng chứng” chứng minh. Trong khi đó, tên điều luật 203 BLHS năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 đã ghi nhận “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp NSNN”, nghĩa là cả hóa đơn và chứng từ thu nộp NSNN đều là đối
tượng của tội phạm liên quan điều luật 203 này.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa
thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội theo cấu thành tội
phạm tăng nặng đối với tình tiết thu lời bất chính lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng,
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 203 hiện nay chỉ dừng lại ở mức phân loại tội phạm ít nghiêm trọng và
tội phạm nghiêm trọng. Tại Điểm đ Khoản 2 Điều 203 “Thu lợi bất chính từ
100.000.000 đồng trở lên” nhưng không quy định mức tối đa. Thực tế có những vụ
án liên quan đến tội này đã thu lợi bất chính đến hàng tỉ đồng, ví dụ như: Ngày
11/3/2019, Công an TP Thanh Hoá vừa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và
bắt tạm giam đối tượng Hoàng Quang Hùng (trú tại số nhà 694, ngõ 688 Quang
Trung, phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa) về hành vi “Mua bán trái phép hoá đơn thu
nộp ngân sách Nhà nước”. Từ khi thành lập công ty "ma" đến khi bị bắt, Hùng đã
xuất bán tổng 193 hóa đơn GTGT cho 33 công ty và 7 cá nhân trong và ngoài tỉnh,
với tổng giá trị hàng hóa ghi trong hóa đơn gần 26,5 tỷ đồng, thu lời bất chính số tiền
hơn 2 tỷ đồng, đồng thời gây thất thoát tiền thuế cho Nhà nước gần 3 tỷ đồng [40].
Từ ngày 11-13/11/2019, TAND TP Hà Nội đã đưa ra xét xử vụ án mua bán hóa đơn
trị giá gần 2.000 tỷ đồng với 18 bị cáo gồm 2 nhóm do Nguyễn Thị Sáng và Nguyễn
Duy Phượng chủ mưu. Bị cáo đã thu lời trên 9,2 tỷ đồng [41]. Nếu diễn giải chi tiết
này “Phạm tội thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Thu
lợi bất chính tối thiểu 100.000.000 đồng thì phạt tiền tối thiểu 200.000.000 đồng hoặc
phạt tù tối thiểu 01 năm. Thu lợi bất chính trên 100.000.000 đồng, không giới hạn tối
đa thì tiền tối đa 500.000.000 đồng hoặc phạt tù tối đa 05 năm. Vấn đề này cho thấy
sự chưa hợp lý giữa số tiền hoặc số năm tù mà người phạm tội bị phạt so với khoản
lợi bất chính mà người phạm tội đã thu được. Một người phạm tội này thu lợi bất
60
chính ở mức tối thiểu 100.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Một người khác phạm tội này
thu lợi bất chính 1 tỷ đồng, 2 tỷ đồng, 10 tỷ đồng và thậm chí nhiều hơn nữa thì mức
tối đa phạt tiền đến mức 500.000.000 đồng hoặc phạt tù đến 05 năm. Như vậy, nếu
như số tiền thu lợi bất chính quá lớn so với mức phạt thì người phạm tội không bị
thiệt hại lớn về mặt kinh tế và người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án vẫn có
điều kiện để tái phạm. Quy định này theo quan điểm tác giả là chưa đủ đảm bảo tính
răn đe, ngăn ngừa người phạm tội. Do đó, Điểm đ Khoản 2 Điều 203 BLHS năm
2015 cần sửa đổi bổ sung “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng”; Bổ sung khoản 3 “Phạm tội thuộc trường hợp thu lợi bất chính với số tiền
500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 4.000.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 07 năm”. Khoản 3 Điều 203 BLHS năm 2015 trở
thành “Khoản 4”.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng tăng cụ thể
hóa thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm căn cứ định tội theo cấu thành tội
phạm tăng nặng đối với tình tiết thu lời bất chính đối với pháp nhân thương mại.
Như đã phân tích ở giải pháp thứ năm, sửa đổi, bổ sung sửa đổi, bổ sung Điều
203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa thêm một số tình tiết định tính, định
lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết thu lời bất chính
lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì để tương
xứng và tương ứng với giải pháp này, đối với pháp nhân thương mại cần bổ sung
điểm “Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này, thì bị phạt tiền từ
3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn
từ 06 tháng đến 03 năm”.
Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng chặt chẽ về
nội dung đối với pháp nhân thương mại.
Như phân tích tại vướng mắc thứ 11 thì để Điểm c Khoản 4 Điều 203 trở nên
chặt chẽ, chính xác, không dư thừa thì nên sửa đổi, bổ sung như sau “Phạm tội thuộc
trường hợp được thành lập chỉ để thực hiện tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
61
đơn, chứng từ thu nộp NSNN thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động”.
Tóm lại, trên cơ sở các phân tích nêu trên, Luận văn kiến nghị sửa đổi, bổ sung
quy định về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước tại Điều 203 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
Bộ luật hình sự năm 2015 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán Điều 203. Tội in, khởi tạo1, phát
trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp hành, mua bán trái phép hóa đơn,
ngân sách nhà nước hóa đơn điện tử, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước
1. Người nào in, phát hành, mua bán trái 1. Người nào in, khởi tạo, phát hành,
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân mua bán trái phép hóa đơn, hóa đơn điện
sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến tử, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến
ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số dưới 100.000.000 đồng, hoặc dưới
hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi
đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạm hành chính về hành vi này hoặc đã
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến bị kết án về tội này thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng, phạt cải tạo không 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng,
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
tháng đến 03 năm. hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường 2. Phạm tội thuộc một trong các trường
1 Khái niệm về hóa đơn điện tử: Khởi tạo hóa đơn điện tử là hoạt động tạo định dạng cho hóa đơn, thiết lập đầy đủ các thông tin của người bán, loại hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, định dạng truyền – nhận và lưu trữ hóa đơn trước khi bán hàng hoá, dịch vụ trên phương tiện điện tử của tổ chức kinh doanh hoặc của các tổ chức cung cấp dịch vụ về hoá đơn điện tử và được lưu trữ trên phương tiện điện tử của các bên theo quy định của pháp luật.
hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
62
200.000.000 đồng đến 500.000.000 200.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 05
năm: năm:
a) Có tổ chức; a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi từ 100 d) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng
số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi đến 500.000.000 đồng;
nội dung từ 30 số trở lên; đ) Tái phạm nguy hiểm.
đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng
trở lên;
e) Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước
100.000.000 đồng trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc trường hợp thu lợi bất
chính với số tiền 500.000.000 đồng trở
lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng
đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ
05 năm đến 07 năm
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ 01 năm đến 05 năm. từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy
định tại Điều này, thì bị phạt như sau: định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi
63
100.000.000 đồng đến 500.000.000 phạm hành chính về hành vi này hoặc đã
đồng; bị kết án về tội này chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1.000.000.000
đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường b) Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và hợp quy định tại các điểm a, b, d, và đ,
g khoản 2 Điều này157, thì bị phạt tiền khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ
từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000
đồng; đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định c) Phạm tội thuộc trường hợp được
tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình thành lập chỉ để thực hiện tội in, phát
chỉ hoạt động vĩnh viễn; hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN thì bị đình chỉ vĩnh viễn
toàn bộ hoạt động;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định
tại khoản 3 điều này, thì bị phạt tiền từ
3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000
đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời
hạn từ 06 tháng đến 03 năm
d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm
hoạt động trong một số lĩnh vực nhất hoạt động trong một số lĩnh vực nhất
định từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm định từ 01 năm đến 03 năm hoặc cấm
3.2.2. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát
huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
64
hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
- Tăng cường tập huấn pháp luật hình sự
Chuyên môn những người tiến hành tố tụng là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng
đến quyết định kết quả của các bản án có đúng người, đúng tội không? Pháp luật hình
sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn
cụ thể. Vì thế, việc thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, các khóa đào
tạo nhằm nâng trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng là hoạt động
quan trọng nhất, cần thiết nhất trong để trau dồi và nâng cao năng lực của những
người tiến hành tố tụng. Các vụ án có đạt hiệu quả trong việc xử lý tội phạm, ngăn
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm hay không, oan sai hay không đều phụ thuộc
vào tầm quan trọng về trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng. Pháp luật có
chất lượng, đầy đủ đến đâu trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng
yếu kém cũng sẽ không thể giải quyết đúng được các vụ án hình sự.
Việc quy định xây dựng và triển khai các dự án, chương trình tập huấn, đào
tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bắt buộ cần phải được thực hiện thường xuyên ở
tất cả các ngành trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là các ngành Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân.
- Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.
Để các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp làm tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử
đối với những vụ án có bị cáo phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước cần tổng kết, tổ chức hội nghị chuyên đề hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội
in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, chú
ý những căn cứ cụ thể để quyết định hình phạt, nguyên tắc áp dụng các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, bảo đảm việc xét xử các vụ án có người phạm tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước được nghiêm chỉnh,
đúng pháp luật. Từ các bản án cụ thể liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng
cần tổ chức các buổi tọa đạm, hội thảo, phân tích, đánh giá và rút kinh nghiệm nhằm
65
tạo một thư viện mang tính thống nhất khi xử lý các hành vi liên quan đến tội này.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, khả năng, năng lực
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Cơ quan thuế thường xuyên tổ chức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
của cán bộ thuế, người nộp thuế. Thực tiễn hiện nay cho thấy, người nộp thuế ngày
càng tinh vi hơn trong các vấn đề liên quan đến tội trốn thuế nói chung và mua bán
trái phép hóa đơn nói riêng. Người nộp thuế luôn chứa đựng, tiềm tàng các hành vi
lách luật, vi phạm pháp luật để chiếm đoạt tiền thuế.
Các cơ quan tiến hành tố tụng thường xuyên tuyên truyền pháp luật hình sự
về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung và tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN nói riêng. Thông tin, tuyên truyền
rộng rãi các kênh truyền thông về các vụ án về tội in, phát hành, mua bán trái phép
hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN để răn đe các đối tượng chuẩn bị phạm tội và giáo
dục các đối tượng khác.
Các cơ quan điều tra thường xuyên theo dõi, cảnh báo những hành vi công
khai mua bán trái phép hóa đơn qua điện thoại, facebook, zalo … nhằm ngăn ngừa
họ đi sâu vào con đường vi phạm pháp luật.
Giáo dục hình thành ý thức người nộp thuế về nghĩa vụ và trách nhiệm đóng
góp cho NSNN.
Tiểu kết Chương 3
Tại Chương 3 của Luận văn, tác giả đã đi vào nghiên cứu, phân tích các nội
dung cơ bản như:
1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng dung pháp luật hình sự về tội in, phát hành,
mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm: yêu cầu bảo
đảm thực hiện việc áp dụng đúng nguồn luật đối với hành vi phạm tội liên quan đến
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước;
yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng thống nhất chính xác về hành vi với hành vi
phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
66
nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm thực hiện việc áp dụng chính xác về hiệu
lực của BLHS về thời gian với hành vi phạm tội liên quan đến tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm thực
hiện việc áp dụng chính xác về tội danh đối với hành vi phạm tội liên quan đến tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; yêu cầu
bảo đảm cách hiểu thống nhất về nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm sự thay đổi kịp thời quy định trong luật hình sự do
với luật chuyên ngành; yêu cầu bảo đảm việc vận dụng quy định về pháp nhân thương
mại phạm tội đối với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước; yêu cầu bảo đảm việc quy định pháp luật chuyên ngành về doanh
nghiệp, thuế, hóa đơn được tối ưu hóa, chặt chẻ hóa, không rủi ro, sai sót nhằm ngăn
ngừa, phòng chóng các hành vi lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật chuyên ngành để phạm
tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước;
yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật vào thực tiễn tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước thông qua việc xác định
định lượng về số lượng và số tiền; yêu cầu bảo đảm việc áp dụng quy định pháp luật
vào thực tiễn tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước tránh hình sự hóa.
2. Chương 3 của Luận văn cũng đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm các giải pháp pháp luật như: (1) Hoàn thiện Điều
203 BLHS năm 2015 theo hướng thêm hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước khi đã xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này; (2) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng
thêm hành vi phạm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước khi sử dụng hóa đơn điện tử; (3) Sửa đổi, bổ sung Điều 203
BLHS năm 2015 theo hướng định lượng về số lượng và định lượng về số tiền là điều
kiện cần và đủ, không tách ra theo hướng chọn lựa “hoặc thu lợi bất chính”; (4) Sửa
đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng thống nhất hậu quả xảy ra đối
67
với “Thu lợi bất chính” và “Gây thiệt hại cho NSNN”; (5) Giải pháp sửa đổi, bổ sung
quy định pháp luật chuyên ngành liên quan tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (6) Ban hành hướng dẫn cách hiểu thống
nhất về nội hàm khái niệm hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước; (7) Sửa
đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ thể hóa thêm một số tình tiết
định tính, định lượng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết
thu lời bất chính lớn gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng; (8) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng cụ điều chỉnh
khung hình phạt tù phù hợp hơn giữa cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội
phạm tăng nặng; (9) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng tăng
chế tài xử phạt đối với pháp nhân thương mại; (10) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS
năm 2015 theo hướng tăng cụ thể hóa thêm một số tình tiết định tính, định lượng làm
căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt đối với tình tiết thu lời bất chính đối với
pháp nhân thương mại; (11) Sửa đổi, bổ sung Điều 203 BLHS năm 2015 theo hướng
chặt chẽ về nội dung đối với pháp nhân thương mại.
3. Bên cạnh đó Chương 3 của Luận văn cũng đưa ra các giải pháp khác nhằm
bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như: (1) Giải pháp tập huấn pháp luật hình
sự; (2) Tổng kết thực tiển áp dụng pháp luật; (3) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục…
68
KẾT LUẬN
1. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước đã trải qua một thời gian 10 năm và ngày càng phát triển đến ngày nay. Sự
phân biệt giữa tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ngày càng thể hiện
rõ nét trong các quy định của luật hình sự và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm. Trải qua từng thời kỳ pháp luật có quy định riêng, nhưng cho đến nay có quy
phạm pháp luật chung về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước trong BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (có hiệu
lực từ ngày 01/01/2018) đó là một sự thể hiện thái độ của Nhà nước trong đấu tranh
phòng chống tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước.
2. Trong các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta không có quy phạm
định nghĩa về khái niệm tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước, các quy định chỉ nêu tội danh với những khung hình phạt
khác nhau. Để áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, cần phân hóa TNHS trong luật,
tạo điều kiện đánh giá chính xác tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
3. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước là hành vi nguy hiểm cho xã hội, chiếm đoạt tiền NSNN, do người có năng
lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại thực hiện
dưới hình thực lỗi cố ý, xâm phạm đến NSNN được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật.
4. Luận văn đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đúng pháp luật
hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước gồm: các giải pháp pháp luật và các giải pháp khác. Tác giả hy vọng, các
kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam
về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm này.
69
Do kiến thức tác giả có thể chưa được đầy đủ, do vậy Luận văn khó tránh khỏi
khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn mong nhận được đóng góp, chỉ dẫn cụ thể
của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học, đồng nghiệp và những ai quan tâm đến đề
tài để giúp cho Luận văn được hoàn thiện hơn.
70
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO
1. Bộ công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ
tư pháp (2004) Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-
BTP hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mua bán, sử dụng
trái phép hóa đơn giá trị gia tăng, ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2004, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo – Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1998),
Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn Hóa Thông tin, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2019,
NXB Thống kê, ban hành ngày 19/03/2019, Hà Nội.
4. Bộ tài chính (2002) Thông tư số 120/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị
định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2002 về việc in, phát hành, sử
dụng, quản lý hóa đơn, ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2002, Hà Nội.
5. Bộ tài chính (2011) Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng dẫn về khởi tạo, phát
hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày
14 tháng 03 năm 2011, Hà Nội.
6. Bộ tài chính (2014) Thông tư số 119/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số
điều của thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, thông tư
số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013, thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày
31/12/2013, thông tư số 08/2013/TT-BTC ngày 10/01/2013, thông tư
số 85/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011, thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014
và thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của bộ tài chính để cải cách, đơn
giản các thủ tục hành chính về thuế, ban hành ngày 25 tháng 08 năm 2014, Hà
Nội.
7. Bộ tài chính (2014) Thông tư số 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị
định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-
CP ngày 17 tháng 01 năm 2014, ban hành ngày 31 tháng 03 năm 2014, Hà Nội.
8. Bộ tài chính (2015) Thông tư số 26/2015/TT-BTC sửa đổi bổ sung một số điều
của Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31 tháng 03 năm 2014 về hóa đơn bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 27 tháng 02 năm 2015, Hà Nội.
9. Bộ tài chính (2015) Văn bản hợp nhất số 17/VBHN/BTC hướng dẫn thi hành
Nghị đinh số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010 và Nghị định số
04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, ban hành ngày 17 tháng 06 năm 2015, Hà Nội.
10. Bộ tài chính (2017) Dự thảo tờ trình Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị
định thay thế Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010, Nghị định
số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 quy định về hóa đơn bán hàng,
cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 25 tháng 04 năm 2017, Hà Nội.
11. Bộ tài chính (2017) Thông tư số 37/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư
số 39/2014/TT-BTC ngày 31 tháng 03 năm 2014, Thông tư số 26/2015/TT-BTC
ngày 27/02/2015, ban hành ngày 27 tháng 04 năm 2017, Hà Nội.
12. Bộ tài chính (2019) Thông tư số 68/2019/TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 09 năm 2018 về hóa đơn
điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ban hành ngày 30 tháng 09 năm 2019,
Hà Nội.
13. Bộ tư pháp – Bộ công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân
tối cao – Bộ tài chính (2013) Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP-BCA-
TANDTC-VKSNDTC-BTC hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về
các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán, ban hành
ngày 26 tháng 6 năm 2013, Hà Nội.
14. Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006) Từ điển luật học, NXB Bách khoa,
Tư pháp, Hà Nội.
15. Chính phủ (2002), Nghị định số 89/2002/NĐ-CP quy định về in, phát hành, sử
dụng và quản lý hóa đơn, ban hành ngày 07 tháng 11 năm 2002, Hà Nội.
16. Chính phủ (2010) Nghị đinh số 51/2010/NĐ-CP quy định về hóa đơn bán
hàng, cung ứng dịch vụ, ban hành ngày 14 tháng 05 năm 2010, Hà Nội.
17. Chính phủ (2014) Nghị định số 04/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2010, ban hành ngày 17
tháng 01 năm 2014, Hà Nội.
18. Chính phủ (2018) Nghị định số 119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử
khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ban hành ngày 12/09/2018, Hà Nội.
19. Chủ tịch nước (1996) Luật ngân sách nhà nước số 47-L/CTN, ban hành ngày
20 tháng 03 năm 1996, Hà Nội.
20. Hội đồng thẩm phán (2006) Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, ban hành ngày 12 tháng 05 năm 2006,
Hà Nội.
21. Quốc-Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự số 17-LCT/HDDNN7, ban hành ngày
27 tháng 06 năm 1985, Hà Nội.
22. Quốc hội (1998) Luật số 68/1998/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ngân sách nhà nước của Quốc hội, ban hành ngày 20 tháng 05 năm 1998, Hà Nội.
23. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10, ban hành ngày 21 tháng
12 năm 1999, Hà Nội.
24. Quốc hội (2002) Luật số 01/2002/QH11 về Ngân sách Nhà nước, ban hành
ngày 16 tháng 12 năm 2002, Hà Nội.
25. Quốc hội (2003) Luật số 19/2003/QH11 Bộ luật Tố tụng Hình sự, ban hành
ngày 26 tháng 11 năm 2003, Hà Nội.
26. Quốc hội (2009) Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự số
15/1999/QH10 ngày 21/12/1999, ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2009, Hà Nội.
27. Quốc hội (2015) Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13, ban hành ngày
25 tháng 06 năm 2015, Hà Nội.
28. Quốc hội (2015) Luật số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự, ban hành ngày 27
tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015) Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật Tố tụng Hình sự, ban hành
ngày 27 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
30. Quốc hội (2017) Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều của bộ
luật hình sự số 100/2015/QH13, ban hành ngày 20 tháng 06 năm 2017, Hà Nội.
31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2005) Giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần chung, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Viện khoa học kiểm sát (2006) Sổ tay kiểm
sát viên hình sự tập 1, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
35. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần chung), NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
36. Lê Văn Đệ (2004) Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
38. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB
khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Như Ý (chủ biên) (1996) Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
40. Song Mã (2019) “Giám đốc bán hóa đơn khống, thu lời bất chính trên 2 tỷ
đồng”,<(https://vov.vn/tin-nong/giam-doc-ban-hoa-don-khong-thu-loi-bat-
chinh-tren-2-ty-dong-884822.vov>, (11/03/2019)
41. Hà Linh (2019) “Mua bán hóa đơn 2.000 tỷ đồng của 72 "công ty ma", 18
người hầu tòa” 2000-ty-dong-cua-72-cong-ty-ma-18-nguoi-hau-toa-307210.html>, (13/12/2019) 42. Bộ luật hình sự Thái Lan (1956), texts/thailand-penal-code.html#249>, 43. Luật hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1997), m>, 44. Lưu Quốc Thắng (2019) “Thành phố Hồ Chí Minh – đầu tàu kinh tế của cả nước” kinh-te-cua-ca-nuoc.html >, (30/04/2019)