VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG HIỆP

TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG HIỆP

TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số

: 838.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn

toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Lê Quang Hiệp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ,

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................................................... 7

1.1. Khái quát lý luận về tình hình tội phạm ............................................................... 7

1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng ........................... 17

CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI

PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, TP. ĐÀ NẴNG ............................... 36

2.1. Khái quát lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ............ 36

2.2. Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn

quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 43

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA

BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................... 61

3.1. Khái quát lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm ......................................... 61

3.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP.

Đà Nẵng..................................................................................................................... 64

3.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ..................................................................................... 67

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

An ninh trật tự ANTT

Bộ luật Hình sự BLHS

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

CSĐT Cảnh sát điều tra

CSĐTTP Cảnh sát điều tra tội phạm

Cảnh sát hình sự CSHS

Tình hình tội phạm THTP

TTATXH Trật tự an toàn xã hội

Trật tự xã hội TTXH

Uỷ ban nhân dân UBND

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đà Nẵng nằm trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có diện tích 1.256,53

km² gồm 06 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà,

Cẩm Lệ) và 02 huyện Hòa Vang, huyện đảo Hoàng Sa, là trung tâm kinh tế, chính

trị, du lịch, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của cả nước. Đà Nẵng nằm ở

vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của cả nước; là đầu

mối giao thông rất quan trọng, được đánh giá là thành phố đáng sống nhất Việt

Nam. Vì vây, Đà Nẵng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong

việc phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Xuất phát từ đặc thù

về vị trí địa lý và tiềm năng sẵn có, đã đưa thành phố này trở thành một trong số các

thành phố phát triển mạnh về loại hình du lịch và các dịch vụ đi kèm, hàng năm thu

hút đông đảo khách thăm quan du lịch từ trong và ngoài ngưới, từ đó thúc đẩy sự

phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế thì điều đáng lo

ngại là vấn đề tội phạm và trật tự xã hội trên địa bàn, cùng với tình hình phức tạp

của tội phạm trong cả nước, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố đang là vấn

đề đáng lo ngại, tội phạm có chiều hướng gia tăng về số lượng, xuất hiện nhiều tội

phạm mới và có diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm liên quan người nước

ngoài. Quận Cẩm Lệ được thành lập ngày 05/8/2005 từ phường Khuê Trung của

quận Hải Châu và 03 xã (xã Hoà Thọ, Hoà Phát, Hoà Xuân) của huyện Hoà Vang,

hiện nay quận Cẩm Lệ có 06 phường, bao gồm: phường Khuê Trung, Hoà Thọ

Đông, Hoà Thọ Tây, Hoà Phát, Hoà An và Hoà Xuân. Với diện tích 33,76 km²,

chiếm 2,63% diện tích toàn thành phố, dân số hiện nay là 159.295 người, chiếm

9,6% số dân toàn thành phố, mật độ dân số đạt 4.224 người/km², là quận nội thành

duy nhất của thành phố Đà Nẵng không tiếp giáp với biển. Qua hơn 14 năm đi vào

hoạt động, tình hình kinh tế - xã hội của Quận đã đạt được những kết quả đáng

khích lệ, mức sống trung bình của người dân tăng lên đáng kể, quốc phòng - an ninh

được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì điều đáng lo ngại là

vấn đề tình hình tội phạm và trật tự xã hội trên địa bàn. Cùng với tình hình phức tạp

1

về tội phạm của cả nước, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ cũng đang

có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp đặc biệt là tội phạm về ma túy, lừa đảo

chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện.

Đứng trước thực tế về tình hình tội phạm trên địa bàn, Chính quyền quận

Cẩm Lệ đã chú trọng thực hiện đầy đủ chủ trương chung của Đảng và Nhà nước

cũng như tăng cường các hoạt động nhằm khuyến khích người dân tăng cường đấu

tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn Quận. Tuy vậy, thực tế tình hình tội phạm

trên địa bàn vẫn diễn biến phức tạp, số bị cáo bị xét xử mới tăng, tính chất nguy

hiểm của tội phạm ngày càng nghiêm trọng hơn. Trước tình hình tội phạm ngày

càng gia tăng về số vụ, số người phạm tội và tính chất nghiêm trọng, cho thấy cần

tìm ra nguyên nhân của tình hình tội phạm, từ đó có chính sách và giải pháp phù

hợp trong việc đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm đang là vấn đề cần được

quan tâm nghiên cứu.

Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ, thành phố Đà Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” để

làm luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến hết sức phức

tạp, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tất cả các ngành, các

cấp và của toàn xã hội. Do đó, nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân, giải

pháp phòng ngừa đã luôn được chú trọng, trong mỗi công trình nghiên cứu đều có

những đóng góp nhất định cho công tác đấu tranh phòng chống tình hình tội phạm

nói chung hoặc chỉ rõ phương pháp đấu tranh phòng chống đối với một số tội, nhóm

tội đặc thù. Trong đó, không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của bộ sách

“Khoa học hình sự Việt Nam” do Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm - Giám đốc

học viện Cảnh sát nhân dân đã chủ trì nghiên cứu biên soạn, phát hành. Trong quá

trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng một số giáo trình, tài liệu có liên quan thể

hiện ở các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như: Giáo trình tội phạm học của

Trường Đại học Công an nhân dân, Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm

2

sát ... đây là những tài liệu nghiên cứu về tội phạm và hình phạt, tình hình tội phạm

và giải pháp phòng ngừa. Bên cạnh đó có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về

tình hình tội phạm như:

Trần Nhất Chi (2013), Các tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành

niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam:Tình hình, nguyên nhân và giải pháp

phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Chu Thị Mai Phương (2014), Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Hòa

Vang, thành phố Đà Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận

văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Nguyễn Quốc Hùng (2014), Tội phạm trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh

Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ

Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Phan Văn Dũng (2015), Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội;

Vũ Thị Thu Hà (2015), Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hai Bà Trưng,

thành phố Hà Nội: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc

sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Lê Văn Thành (2015), Tội phạm trên địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng

Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận văn thạc sỹ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội

Các công trình nói trên đã phần nào làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn

của tình hình tội phạm cũng như nguyên nhân, điều kiện và những giải pháp để

phòng ngừa tình hình tội phạm trên những địa bàn cụ thể. Chính vì vậy, đây là

nguồn tư liệu có giá trị để Luận văn kế thừa và phát triển trong quá trình nghiên cứu

về tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm; thực tiễn tình

3

hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến năm 2019; lý luận và

thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cũng như lý luận và thực

trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận trong thời gian nói trên, luận

văn đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

quận Cẩm Lệ trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:

- Phân tích khái quát những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm;

- Phân tích thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố

Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019;

- Phân tích những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm;

- Nhận diện, đánh giá thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019;

- Phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm;

- Phân tích thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lê, thành phố Đà Nẵng;

- Lập luận và đề xuất giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm

trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy các quan điểm khoa học đã được nêu ra trong tội phạm học

Việt Nam về tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm;

thực tiễn tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và

thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng

để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi chuyên ngành: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và

phòng ngừa tội phạm;

4

- Phạm vi không gian và thời gian: Đề tài luận văn được nghiên cứu gắn với

địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Luận văn sử dụng các báo cáo, số liệu

thống kê, đặc biệt là thống kê của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân quận

Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phương pháp luận duy vật biện

chứng và lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối,

chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về

đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

như: phương pháp hệ thống, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp, diễn

dịch và nghiên cứu hồ sơ từng vụ án cụ thể.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc những vấn đề lý luận

về tình hình tội phạm, về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và về

phòng ngừa tình hình tội phạm, qua đó góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

của việc xây dựng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm có hiệu quả trên địa

bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm, nghiên cứu, giảng dạy, học tập tội phạm học tại các cơ sở đào

tạo Luật ở nước ta.

7. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba

chương. Cụ thể là:

5

Chương 1: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng.

Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn

quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

6

CHƯƠNG 1

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.1. Khái quát lý luận về tình hình tội phạm

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình hình tội phạm

Theo Đại từ Điển Tiếng Việt thì: “tình hình” được hiểu là “ trạng thái, xu

thế phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi trong

đó” [51]. Dưới góc độ luật hình sự, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc

pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ

kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công

dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo

quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [21].

Tình hình tội phạm là khái niệm (phạm trù) quan trọng của tội phạm học, bởi

nghiên cứu các vấn đề về nguyên nhân và điều kiện cũng như các giải pháp phòng

ngừa tình hình tội phạm phải bắt đầu từ việc nghiên cứu làm sáng tỏ thế nào là tình

hình tội phạm. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tình hình tội phạm.

Chẳng hạn có quan điểm cho rằng: Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận

động của các tội phạm (nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị

không gian và đơn vị thời gian xác định

Theo một quan điểm khác thì: Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ

cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai

đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia,

khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định [52].

Cũng có quan điểm cho rằng: Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu

cực, thường xuyên thay đổi, giai cấp, pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn

7

bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các loại hoặc của một loại tội phạm đã

xảy ra trong khoảng thời gian và trong một phạm vi nhất định [38].

Như vậy, đúng là hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tình hình tội

phạm. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, chúng tôi chia sẻ với quan điểm cho

rằng “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự, được thay đổi

về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các

tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian

nhất định” [48, tr.54].

Từ khái niệm nêu trên có thể thấy tình hình tội phạm có đặc điểm:

Thứ nhất, Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội: Đây là thuộc tính quan

trọng và căn bản nhất của tình hình tội phạm, xuất phát từ việc tình hình tội phạm

được hình thành từ những hành vi xã hội được luật hình sự xem là tội phạm và do

những cá nhân sống trong xã hội thực hiện dưới tác động qua lại của nhiều mối

quan hệ xã hội. Mặt khác, tình hình tội phạm có tác động tiêu cực đến đời sống xã

hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, phá vỡ những trật tự và giá trị vốn có của xã

hội và khi tình hình xã hội thay đổi thì tình hình tội phạm cũng sẽ thay đổi theo.

Thứ hai, Tình hình tội phạm là hiện tượng pháp lý hình sự: Tội phạm là khái

niệm được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, nhiều hành vi phạm tội sẽ tạo nên tình

hình tội phạm trong xã hội nhất định, đó là những hành vi bị luật hình sự cấm đoán

thực hiện nên chế tài cho những hành vi đó được luật quy định chi tiết và đảm bảo

thực thi bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà Nước, đó gọi là hình phạt. Thuộc tính

này thể hiện rõ nhất thông qua sự thay đổi của pháp luật hình sự trong cách ghi nhận

hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm, theo đó việc thu hẹp hay mở rộng phạm

vi trừng trị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các thông số cơ bản của tình hình tội phạm

trên thực tế.

Thứ ba, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính giai cấp: Bộ luật Hình sự

là sản phẩm của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp, tính giai cấp của tình

hình tội phạm được thể hiện ở các nội dung: Tình hình tội phạm không phải là hiện

tượng có trong mọi xã hội loài người mà nó chỉ ra đời cùng với sự xuất hiện tư hữu,

8

có sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, sự ra đời của nhà nước và khi

có những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, do đó tình hình tội phạm

mất đi khi những mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội được giải quyết. Theo

đó, giai cấp thống trị quy định hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm và từ đó

xây dựng hệ thống các biện pháp trừng trị hành vi phạm tội, khi tương quan về lực

lượng giữa các giai cấp trong xã hội thay đổi thì tình hình tội phạm cũng có sự thay

đổi.

Thứ tư, tình hình tội phạm mang tính lịch sử: Tình hình tội phạm không phải

là hiện tượng bất biến trong xã hội mà nó hình thành, thay đổi và mất đi trong

những điều kiện lịch sử nhất định. Tình hình tội phạm thay đổi tùy thuộc vào sự

phát triển của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau trong lịch sử và ngay trong

cùng một hình thái kinh tế xã hội nếu có sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã

hội, cơ cấu giai cấp thì tình hình tội phạm cũng có sự thay đổi. Ngoài ra, số lượng

các hành vi bị coi là tội phạm trong những giai đọan lịch sử khác nhau là khác nhau.

Thứ năm, tình hình tội phạm là hiện tượng tiêu cực và nguy hiểm cho xã hội:

So với các hiện tượng tiêu cực khác trong xã hội thì tình hình tội phạm vừa mang

tính tiêu cực vừa thể hiện sự nguy hiểm cao nhất cho xã hội vì tội phạm gây ra

những thiệt hại về mọi mặt cho đời sống xã hội, như: Thiệt hại về tài sản; thiệt hại

về thể chất (tính mạng, sức khỏe); thiệt hại về tinh thần.

Thứ sáu, tình hình tội phạm được hình thành từ một thể thống nhất của các

tội phạm cụ thể: Thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lượng và chất, giữa tình

hình tội phạm và các tội phạm cụ thể cũng như tác động qua lại của chúng. Tình

hình tội phạm được nhận thức ở mức độ chung khái quát và biện chứng từ những

hành vi phạm tội cụ thể. Sự biến đổi của một tội phạm cụ thể sẽ kéo theo sự thay

đổi của nhóm tội và tình hình tội phạm nói chung trong xã hội, như khi tội phạm ma

túy tăng thì sẽ kéo theo sự gia tăng của nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu, xâm

phạm tính mạng sức khỏe.

Thứ bảy, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính không gian và thời gian

xác định vì tình hình tội phạm xuất hiện gắn bó chặt chẽ với các phạm vi không

9

gian nhất định như: Toàn quốc, phạm vi vùng, phạm vi địa phương hoặc phạm vi

nghành, lĩnh vực. Phạm vi thời gian có thể là 10 năm hay 5 năm.

Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý xảy ra trên thực tế, cho

dù hành vi phạm tội có bị phát hiện và xử lý bằng chế tài hình sự hay không thì sau

khi xảy ra, hành vi đã gây ảnh hưỡng xấu đến đời sống của xã hội. Tuy nhiên, do

tính chất phức tạp của tội phạm nên không phải tất cả các tội phạm đều đã bị phát

hiện và xử lý mà trong số đó có nhiều hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng không bị

phát hiện và trừng trị. Hay nói cách khác dưới góc độ nhận thức thì tình hình tội

phạm được tạo nên từ phần hiện và phần ẩn của tình hình tội phạm, trong đó, phần

hiện của tình hình tội phạm được hiểu là toàn bộ những hành vi phạm tội đã xảy ra

và chủ thể của những hành vi đó đã bị xử lý hình sự. Còn phần ẩn của tình hình tội

phạm là bộ phận của tình hình tội phạm bao gồm những tội phạm đã xảy ra do

nhiều nguyên nhân khác nhau mà không bị phát hiện hoặc không bị xử lý về hình sự

hoặc bị xử lý về hình sự mà không có trong thống kê hình sự.

1.1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm

1.1.2.1. Các chỉ số (thông số) về lượng của tình hình tội phạm

a. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm

Mức độ của tình hình tội phạm là số lượng các tội phạm đã được thực hiện

và những người thực hiện các tội phạm đó trong một phạm vi địa lý và khoảng thời

gian nhất định. Thông thường mức độ của tình hình tội phạm thường được khảo sát

trên các phương diện như mức độ tổng quan, mức độ nhóm và mức độ hành vi.

Mức độ tổng quan: Được xác định bằng tổng số vụ án và tổng số bị cáo đã

được đưa ra xét xử trong một đơn vị hành chính nhất định và trong một khoảng thời

gian nhất định. Mức độ tổng quan thể hiện qua chỉ số tội phạm và cơ số hành vi

phạm tội. Trong đó, chỉ số tội phạm được tính bằng tổng số vụ phạm tội trên 10.000

dân trong một năm. Cơ số hành vi phạm tội được tính bằng số hành vi phạm tội (số

bị cáo) trên 10.000 dân trong một năm. Căn cứ vào các chỉ số, bằng thực tiễn nghiên

cứu người ta phân chia thành các mức độ nào là bình thường, mức độ nào là nguy

hiểm, đáng báo động. Thông qua đối chiếu với chỉ số của tình hình tội phạm có thể

10

đánh giá tính chất của tình hình tội phạm tại một đơn vị hành chính, từ đó xác định

khu vực nào có tình hình tội phạm nghiêm trọng hơn.

Mức độ nhóm: Là tổng số vụ phạm tội của một nhóm tội phạm nào đó trong

tổng số vụ án đã xảy ra. Mức độ tội phạm cụ thể là tổng số vụ phạm tội của một tội

phạm cụ thể nào đó trong tổng số vụ án đã xảy ra.

Mức độ hành vi: Mức độ hành vi phạm tội ở một tội danh là số lần tội danh

đó được Tòa án áp dụng để tuyên các bị cáo phạm tội trên một phạm vi trong

khoảng thời gian nhất định.

b. Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm

Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng tăng,

giảm, ổn định tương đối của tình hình tội phạm nói chung (hoặc một nhóm tội phạm

hoặc một tội phạm) trên một địa bàn cụ thể, trong một khoảng thời gian nhất định.

Thông thường để khảo sát được diễn biến của tình hình tội phạm trên một địa bàn

trong một chu kỳ nhất định, người ta chọn năm thứ nhất của chu kỳ là năm gốc, số

liệu về tổng số vụ và số người phạm tội trong năm đó được tính là 100%. Sau đó ta

lấy số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội của các năm tiếp theo đối

chiếu với số liệu của năm gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của các năm tiếp theo

(tính theo tỷ lệ %). Qua đó, không những giúp đánh giá được xu hướng tăng, giảm

hay ổn định tương đối của một chu kỳ mà còn giúp cho việc dự đoán có cơ sở về xu

hướng vận động của tình hình tội phạm trong những năm tiếp theo, từ đó giúp xây

dựng và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sát với thực tế.

Diễn biến của tình hình tội phạm trên thực tế thường bị tác động bởi các yếu

tố sau:

Một là, các yếu tố xã hội: Sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề

việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, nhập cư, gia tăng dân số, khoảng cách giàu nghèo, hay

sự suy thoái về mặt đạo đức trong xã hội. Khi điều kiện xã hội thay đổi sẽ tác động

đến diễn biến của nhóm tội và tội phạm cụ thể.

Hai là, các yếu tố pháp lý: Khi các yếu tố pháp lý, đặc biệt là pháp luật hình

sự thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi của diễn biến của tình hình tội phạm, như: Sự

11

nghiêm khắc của chế tài hình sự, hay việc quy định hành vi nào là tội phạm, không

phải là tội phạm.

1.1.2.2. Các chỉ số (thông số) về chất của tình hình tội phạm

a) Cơ cấu của tình hình tội phạm

Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội

phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trên một địa bàn trong một

khoảng thời gian nhất định.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân chia cơ cấu của tình

hình tội phạm phụ thuộc vào sự khác nhau về mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, về

cơ bản có thể phân chia như sau:

Cơ cấu theo nhóm tội: Cơ cấu này được tính theo tỷ trọng giữa các tội đã

xảy ra trong cùng một nhóm được quy định trong Bộ luật Hình sự với tổng số các

tội phạm đã xảy ra. Nghĩa là nếu coi tổng số các tội phạm đã xảy ra trong một thời

gian nhất định trên một địa bàn là 100%, ta phải xác định các nhóm tội phạm đã xảy

ra chiếm bao nhiêu % trong tổng số đó.

Cơ cấu theo tội danh cụ thể: Loại cơ cấu này được tính bằng tỷ trọng giữa

tội danh cụ thể đã xảy ra với tổng số tội phạm đã xảy ra của một nhóm tội trên một

địa bàn trong một thời gian nhất định. Thông qua việc xác định theo cơ cấu từng tội

danh cụ thể để biết được tỷ trọng từng tội trong nhóm tội và làm rõ tội nào là nổi

cộm nhất để tập trung tìm ra nguyên nhân, điều kiện và định hướng phòng ngừa.

Cơ cấu theo hình thức phạm tội: Theo đó cơ cấu nhóm này được xác định

dưới hình thức là đơn lẻ hay đồng phạm trong đó có tội phạm có tổ chức. Loại cơ

cấu này xác định tỷ lệ phần trăm của từng hình thức phạm tội đó chiếm bao nhiêu

trong tổng số tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn trong khoảng thời gian nhất định.

Cơ cấu theo địa bàn phạm tội: Loại cơ cấu này xác định tỷ lệ tội phạm đã

xảy ra theo địa bàn hành chính tỉnh so với toàn quốc, hay huyện, xã đã xảy ra so với

tổng số tội phạm trên địa bàn tỉnh. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội có ý nghĩa trong

việc xác định nguyên nhân điều kiện gắn với địa bàn cụ thể, từ đó đưa ra các giải

pháp phù hợp với từng địa bàn.

12

Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội: Mỗi cá nhân người

phạm tội có đặc điểm nhân thân khác nhau tác động đến việc thực hiện hành vi

phạm tội. Theo đó, cơ cấu theo đặc điểm nhân thân bao gồm tập hợp của nhiều cơ

cấu bởi vì mỗi đặc điểm nhân thân lại được đặc trưng bởi một cơ cấu như: Cơ cấu

tội phạm theo độ tuổi, theo giới tính, tôn giáo,... Tùy thuộc vào mục đích nghiên

cứu để lựa chọn loại cơ cấu cụ thể nghiên cứu.

Cơ cấu theo loại hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự: Theo quy

định của Bộ luật Hình sự thì hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ

sung. Trong đó, hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,

trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế;

tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền; trục xuất. Cơ cấu này xác

định tỷ lệ áp dụng của từng loại hình phạt trong tổng số tội phạm đã xảy ra.

Ngoài ra, bên cạnh những cơ cấu đã trình bày trên, tình hình tội phạm còn có

thể được nghiên cứu theo các dạng cơ cấu khác, như: Cơ cấu theo hình thức lỗi; cơ

cấu theo đặc điểm công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội; cơ cấu theo

đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội, cơ cấu theo động cơ phạm

tội.

Từ việc nghiên cứu về cơ cấu của tình hình tội phạm theo những tiêu chí

khác nhau, người nghiên cứu có thể rút ra những đặc điểm đặc trưng có tính nổi bật

của tình hình tội phạm và những đặc điểm này được gọi là tính chất của tình hình

tội phạm. Việc đánh giá tính chất của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng

trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. Biện pháp phòng

ngừa trước hết phải xuất phát từ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm

sau đó phải căn cứ vào tính chất của tình hình tội phạm. Chỉ như vậy thì các giải

pháp phòng ngừa mới có phát huy tính khả thi và hiệu quả trên thực tế. Nghiên cứu

cơ cấu của tình hình tội phạm thực chất là tìm hiểu nội dung bên trong của tình hình

tội phạm, tìm ra những điểm riêng biệt của nó.

13

b) Chỉ số (Thông số) về tính chất của tình hình tội phạm

Thông qua việc đánh giá các chỉ số về lượng như trình bày ở trên thấy được

tính nguy hiểm, tính nghiêm trọng cũng như xu hướng của tình hình tội phạm…Mặt

khác ẩn sâu trong những số liệu cụ thể về tình hình tội phạm là chỉ số về chất của

tình hình tội phạm. Trong số những chỉ số về chất của tình hình tội phạm ngoài chỉ

số về cơ cấu của tình tình hình tội phạm như đã khái quát trên đây, còn có chỉ số về

tính chất của tình hình tội phạm, thể hiện thông qua các số liệu như sau:

Một là, thể hiện ở số liệu các tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội, các đặc

điểm của nhân thân người phạm tội trong cơ cấu của tình hình tội phạm.

Hai là, Các chỉ số về sự thiệt hại của tình hình tội phạm: Trên thực tế trong

nhiều trường hợp cần phải xem xét chỉ số về sự thiệt hại để đánh giá được tính nguy

hiểm của tình hình tội phạm. Cụ thể bao gồm: Chỉ số thiệt hại về vật chất như: tài

sản bị hư hỏng, mất mát; Chỉ số nạn nhân do tội phạm gây ra như: số người bị chết,

bị thương; Chỉ số về chi phí cho việc khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra; chỉ số

cho các chi phí của cơ quan bảo vệ pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm; Chỉ

số về các chi phí khác mà nhà nước phải chi vì hậu quả của tội phạm như: chi phí

nuôi trẻ mồ côi, chi phí xử lý ô nhiễm môi trường; Chỉ số không tính được bằng tiền

như uy tín của Đảng và Nhà nước.

Như vậy, chỉ số về chất của tình hình tội phạm phản ánh mức độ nguy hiểm

khác nhau, mức độ nghiêm trọng khác nhau ở từng khu vực trong những khoảng

thời gian khác nhau thông qua tương quan và tỷ lệ giữa các thành phần tạo nên cấu

thành của tình hình tội phạm như tỷ lệ giữa tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng,

tỷ lệ giữa tội phạm do người trẻ thực hiện và người trưởng thành thực hiện, giữa tội

cố ý và tội vô ý.

1.1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm

Tình hình tội phạm được tạo nên bởi tội phạm rõ (hiện) và tội phạm ẩn. Bởi

vậy việc nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và nguyên nhân của tội phạm ẩn có ý

nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp đấu tranh phòng ngừa. Tội

phạm ẩn là các tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng trong thống kê tội phạm lại

14

không có thông tin ghi nhận, nguyên nhân có thể do những tội phạm này không bị

phát hiện và xử lý về hình sự, hoặc tuy đã được phát hiện nhưng không được xử lý

về hình sự, hoặc có thể các tội phạm đã được xử lý về hình sự nhưng chưa có bản án

kết tội có hiệu lực pháp luật, hoặc có thể vì không được đưa vào thống kê tội phạm.

Qua đó có thể thấy được tội phạm ẩn có thể bắt nguồn từ cả nguyên nhân khách

quan và nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà thực thi pháp luật. Tình hình tội

phạm ẩn có thể xuất phát từ các nguyên nhân cụ thể như sau: Xuất phát từ phía nạn

nhân của tội phạm: Theo đó trong nhiều trường hợp nạn nhân không tố cáo hành vi

phạm tội, việc không tố cáo có thể do lo sợ bị trả thù hay do không tin tưởng vào cơ

quan bảo vệ pháp luật; Nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội: Trong

trường hợp này tội phạm bị ẩn do người phạm tội thực hiện hành vi tinh vi, xảo

quyệt nhằm che dấu hành vi phạm tội, từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng không

thể phát hiện ra tội phạm; Nguyên nhân xuất phát từ phía các cơ quan chức năng:

Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng do có quen biết

nên cố tình bao che tội phạm hay nhiều trường hợp vì thiếu trách nhiệm nên không

phát hiện ra hành vi phạm tội từ đó dẫn đến việc tội phạm không bị xử lý và thống

kê theo quy định.

Hiện nay, khi nói về tội phạm ẩn có thể chia làm 03 loại gồm: Tội phạm ẩn

tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và tội phạm ẩn do thống kê.

Tội phạm ẩn tự nhiên: Được hiểu là tất cả những tội phạm đã xảy ra trên

thực tế nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và

Tòa án) không phát hiện ra do không có thông tin về tội phạm. Loại tội phạm ẩn này

chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tội phạm ẩn, xuất phát từ sự tinh vi xảo quyệt của đối

tượng khi thực hiện hành vi phạm tội cũng như việc họ sử dụng công nghệ, phương

tiện kỹ thuật mà với năng lực hiện tại của các cơ quan tiến hành tố tụng không thể

phát hiện và xử lý. Bên cạnh đó cũng có thể xuất phát từ việc người bị hại hay

những người làm chứng mặc dù biết được hành vi phạm tội nhưng đã không tố giác

đến các cơ quan có thẩm quyền để thụ lý và giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tội phạm ẩn nhân tạo: Nếu như tội phạm ẩn tự nhiên là do các cơ quan có

15

thẩm quyền trong hoạt động tư pháp không phát hiện dẫn đến hành vi phạm tội

không bị trừng trị theo quy định của pháp luật thì tội phạm ẩn nhân tạo xuất phát từ

lỗi của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử. Hay nói cách khác, những tội phạm đó xã xảy ra trên thực tế, các cơ quan có

thẩm quyền đã biết được thông tin, tuy nhiên vì nhiều lý do mà hành vi phạm tội đó

không bị xử lý và trừng trị theo quy định của pháp luật, những lý do này có thể xảy

ra trong giai đoạn tiếp nhận nguồn tin, tiến hành xác minh nguồn tin, điều tra vụ án

hay giai đoạn truy tố và thậm chí là xét xử vụ án.

Tội phạm ẩn thống kê: là trường hợp có hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế,

người thực hiện hành vi đã bị xử lý bằng chế tài hình sự nhưng lại không được đưa

vào thống kê. Để xảy ra tình trạng như vậy có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân

khác nhau, trong đó việc không thống nhất về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết

thúc của năm số liệu cũng là một vấn đề.

Phương pháp xác định tội phạm ẩn: Để xác định tội phạm ẩn, hiện nay có

một số các phương pháp sau:

Một là, Phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật: Phương pháp này

đòi hỏi cần phải bảo đảm an toàn, đồng thời phải cam kết bảo vệ bí mật danh tính

của người tham gia tự tường thuật về tội phạm mà họ đã thực hiện, nhằm để họ

không phải lo lắng về những điều mà mình đã khai ra với cơ quan điều tra cũng như

sợ hãi về việc họ sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự do đã thực hiện tội phạm. Đối

tượng các nhà điều tra hướng tới thường là những người trẻ tuổi, bởi họ là nhóm có

nguy cơ phạm tội cao.

Hai là, Phương pháp điều tra về nạn nhân của tội phạm: Nạn nhân là các đối

tượng đặc biệt, họ bị tổn thất về sức khỏe, tinh thần và vật chất do hành vi phạm tội

gây ra. Khác với phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật, điều tra về nạn

nhân của tội phạm cũng có cách thức điều tra khác biệt. Qua đó bức tranh về tình

hình tội phạm sẽ đầy đủ hơn và giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm đạt được

kết quả tốt hơn.

Ngoài ra hai phương pháp trên, trong một số trường hợp có thể sử dụng

16

phương pháp khác như thăm dò xã hội.

Qua đó có thể nhận định là tội phạm ẩn có thể tồn tại ở mọi nhóm tội khác

nhau và xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, cho dù xuất phát từ

nguyên nhân nào đi nữa thì việc tồn tại tội phạm ẩn đã dẫn đến việc đánh giá tình

hình tội phạm khó khăn hơn, từ đó các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tình hình tội

phạm sẽ khó để phát huy hết giá trị trên thực tế.

1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng

1.2.1. Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP.

Đà Nẵng

1.2.1.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ, TP. Đà Nẵng

Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành

phố Đà Nẵng được nghiên cứu trong luận văn là số lượng các tội phạm đã được

thực hiện và những bị cáo đã bị xét xử về tội phạm đó trong phạm vi quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Nẵng trong khoản thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

Tất cả số liệu về thực trạng tình hình tội phạm trên điạ bàn quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Năng đã được tác giả thu thập từ các báo cáo tổng kết tại Cơ quan

cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Tòa

án nhân dân quận Cẩm Lệ, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019.

a. Mức độ tổng quan tuyệt đối

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng được mô tả

tại Bảng 1.1 (Phần phụ lục) cho thấy mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội

phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong 05 năm qua (từ năm

2015 đến năm 2019) là 256 vụ án/295 bị cáo bị xét xử, ngoài ra có thể thấy số vụ

phạm tội và số bị cáo trên địa bàn Quận có xu hướng tăng từ 44 vụ/52 bị cáo vào

năm 2015 lên 65 vụ/74 bị cáo vào năm 2019.

b. Mức độ tổng quan so sánh

Khi đánh giá về mức độ tổng quan của tình hình tội phạm trên địa bàn quận

17

Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng so với toàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian 05 năm

từ năm 2015 đến năm 2019, tác giả đã khái quát chung lại trên cơ sở tổng số vụ/số

bị cáo phải xét xử sơ thẩm ở quận Cẩm Lệ so với tổng số vụ/số bị cáo phải xét xử

sơ thẩm trên toàn thành phố Đà Nẵng (nội dung này được mô tả tại Bảng 1.2 phần

phụ lục) .

Xem xét về tỷ lệ số vụ án đã xét xử trên địa bàn quận Cẩm Lệ trên tổng số vụ

án đã xét xử trên toàn thành phố Đà Nẵng được mô tả tại Bảng 1.2 (Phần phụ lục)

có thể thấy tỷ lệ qua các năm từ năm 2015 đến năm 2019 xu hướng tăng về số vụ

phạm tội được nhìn thấy ở cả trên địa bàn quận Cẩm Lệ và toàn thành phố, tuy

nhiên khi so với sự gia tăng của toàn thành phố Đà Nẵng có thể thấy là tỷ lệ số vụ

phạm tội của quận Cẩm Lệ tăng từ đầu thời kỳ đến cuối thời kỳ đánh giá. Cụ thể số

vụ án được đưa ra xét xử ở quận Cẩm Lệ so với thành phố Đà Nẵng qua các năm

như sau:

- Năm 2015 số vụ là 44/615 chiếm tỷ lệ 7,15%; -

- Năm 2016 số vụ là 45/632 chiếm tỷ lệ 7,12%; -

- Năm 2017 số vụ là 44/644 chiếm tỷ lệ 6,83%; -

- Năm 2018 số vụ là 58/665 chiếm tỷ lệ 8,72%; -

- Năm 2019 số vụ là 65/712 chiếm tỷ lệ 9,13%. -

Xem xét về tỷ lệ số bị cáo bị xét xử ở TAND quận Cẩm Lệ so với toàn thành

phố được mô tả tại Bảng 1.2 (Phần phụ lục) cho thấy so với tỷ lệ của năm 2015

(4.99%) thì có sự giao động theo hướng tăng trong các năm từ 2016, 2019 (tỷ lệ lần

lượt là 5.48% và 5.64%) và giảm vào các năm 2017, 2018 (tỷ lệ lần lượt là 4.55%

và 4.98%), điều này chứng tỏ mức độ phức tạp của tình hình tội phạm ngày càng

gia tăng, mỗi vụ án không đơn thuần chỉ có một bị cáo mà có thể có nhiều bị cáo

phạm tội có tổ chức phát sinh trên địa bàn Quận. Nhìn chung, số lượng bị cáo trên

địa bàn quận Cẩm Lệ và toàn thành phố đều tăng trong suốt thời kỳ khảo sát, chỉ

duy nhất giảm vào năm 2017 với chỉ 51 bị cáo ở quận Cẩm Lệ. Số liệu này cho thấy

công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ chưa mang lại hiệu quả

cao, mức độ tăng về số vụ và số lượng bị cáo so vơi toàn thành phố còn nhiều.

18

Đánh giá xu hướng của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Tp. Đà

Nẵng: Với những nhận định trên cơ sở số liệu thống kê xét xử hình sự của TAND

quận Cẩm Lệ và TAND Tp. Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019

như đã phân tích trên, cho phép đánh giá xu hướng của tình hình tội phạm như sau:

Trước hết tình hình tội phạm luôn biến động, có thể có phát sinh tăng hoặc giảm

nhưng mức độ biến động tăng không lớn, cụ thể biến động ít nhất là năm 2015,

2016 và 2017, theo đó trong 03 năm này, số vụ chỉ chênh lệnh nhau 01 vụ, tuy

nhiên sau đó chứng kiến sự biến động tăng cao nhất vào năm 2018 tăng 14 vụ so

với năm 2017 (từ 44 vụ lên 58 vụ, tăng 31,82%), tiếp tục tăng vào năm 2019 (từ 58

vụ lên 65 vụ, tăng 12,07%). Trong những năm tới chính quyền địa phương đang

tăng cường kiểm soát tình hình tội phạm, nên số vụ án và tỷ lệ vụ án so với toàn

thành phố Đà Nẵng được kỳ vọng sẽ giảm. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc ở những

yếu tố kinh tế xã hội và hiệu quả thực tế của công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn Quận cũng như địa bàn toàn thành phố trong thời gian tới.

Để nghiên cứu mức độ của tình hình tội phạm trên một địa bàn trong khoảng

thời gian nhất định, cần nghiên cứu cả cơ số tội phạm, bởi cơ số tội phạm là chỉ số

khái quát nhất về mức độ của tình hình tội phạm đối với một đơn vị hành chính,

trong một đơn vị thời gian nhất định là 1 năm và được tính bằng số tội phạm hoặc

số người phạm tội trên 100.000 dân hoặc trên 10.000 dân (Bảng 1.3 phần phụ lục).

Theo số liệu của cục thống kê thành phố Đà Nẵng, dân số quận Cẩm Lệ lần

lượt trong các năm từ 2015 đến 2019 là: 108.704 người, 111.468 người, 114.270

người, 133.813 người, 159.295 người. Trên cơ sở dân số của quận Cẩm Lệ và thành

phố Đà Nẵng kết hợp với số liệu vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm ở quận Cẩm Lệ

trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 ta sẽ xây dựng được cơ số phạm tội trên

địa bàn quận Cẩm Lệ theo Bảng 1.3 (Phần phụ lục).

Từ số liệu thống kê trên cho thấy, trên địa bàn quận Cẩm Lệ có cơ số tội

phạm thấp, tức là mức độ tội phạm phổ biến trong dân cư thấp, cứ trong 10.000 dân

thì năm 2015 có 4,05vụ/4,78 bị cáo; năm 2016 có 4,04 vụ/5,02 bị cáo; năm 2017 có

3,85 vụ/4,46 bị cáo; năm 2018 có 4,33 vụ/4,63 bị cáo; năm 2019 có 4,08 vụ/4,65 bị

19

cáo. Biến động về cơ số tội phạm trên địa bàn tương đối đều trong thời gian từ năm

2015 đến 2019 về cả số vụ và số bị cáo, trong đó về số vụ thì có sự tăng nhẹ ở cuối

kỳ so với đầu kỳ, tuy nhiên điều đặc biệt là ghi nhận một sự giảm mạnh vào năm

2017 với tỷ lệ thấp nhất về số vụ/10.000 dân (chỉ 3,85 vụ/10.000 dân), về số lượng

bị cáo thì ghi nhận sự giảm nhẹ ở cuối kỳ so với đầu kỳ, tuy nhiên có sự tăng lớn về

số lượng bị cáo vào năm 2016 với tỷ lệ 5,02 bị cáo/10.000 dân. Số liệu này cho thấy

tính trên 10.000 dân thì số vụ phạm tội tuy không giảm mạnh nhưng mức tăng

tương đối thấp, còn số bị cáo thì có xu hướng giảm, cho thấy chính quyền đã đảm

bảo kiểm soát và khống chế tốt tình hình tội phạm tuy nhiên cơ số bị cáo đã xét xử

không giảm tương ứng, điều này phản ánh mức độ nguy hiểm, tính chất phức tạp

của mỗi tội phạm ngày càng tăng.

Tỷ lệ giữa số bị cáo và số vụ: Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm trên

địa bàn quận Cẩm Lệ còn được làm rõ hơn qua việc tính toán tỷ lệ giữa số bị cáo

với số vụ. Trên địa bàn quận Cẩm Lệ bình quân tỷ lệ chênh lệch giữa số bị cáo với

số vụ án trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 là: 1,16, tức là cứ trung bình 01

vụ án có 1,16 bị cáo. Tỷ lệ này có sự biến động qua các năm từ năm 2015 đến năm

2019, cụ thể: từ tỷ lệ 1,18 vào năm 2015, tăng lên 1,24 vào năm 2016, rồi lại giảm

xuống 1,16 vào năm 2017 và đạt mức thấp nhất là 1,07 vào 2018, sau đó lại tăng lên

1,14 vào năm 2019. Tính toán trên toàn thành phố thì tỷ lệ chênh lệch giữa số bị cáo

với số vụ án cũng có những biến động tăng giảm qua mỗi năm, cụ thể: từ 1,69 vào

năm 2015, giảm xuống và đạt mức thấp nhất là 1,62 vào năm 2016, sau lại tăng lên

là 1,74 vào 2017 và 1,87 vào 2018, tỷ lệ này giảm xuống còn 1,84 ở năm 2019

(bảng 1.4 phần phụ lục).

Với tỷ lệ số bị cáo đã xét xử ở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ nói riêng và

thành phố Đà Nẵng nói chung có sự biến động nhẹ từ năm 2015 đến năm 2019,

trong đó khi xét trên điạ bàn quận Cẩm Lệ thì tỷ lệ cuối kỳ thấp hơn so với đầu kỳ,

điều này cho thấy số vụ phạm tội đơn nhất xảy ra trên địa bàn có xu hướng ngày

càng tăng lên, còn tội phạm có tổ chức có xu hướng giảm xuống. Còn khi xét trên

phạm vi toàn thành phố thì qua số liệu thấy có sự tăng vào cuối kỳ, điều này cho

20

thấy mức độ nguy hiểm, phức tạp của tội phạm trên địa bàn toàn thành phố; số vụ

phạm tội đơn nhất ngày càng ít đi, thay vào đó số vụ phạm tội có đồng phạm, có tổ

chức ngày càng nhiều hơn.

b. Mức độ nhóm: Như đã trình bày ở trên, thực trạng của tình hình tội phạm

tính theo nhóm là tổng số vụ phạm tội của một nhóm tội phạm nào đó trong tổng số

vụ án đã xảy ra. Chính vì vậy, khi nghiên cứu cơ cấu và động thái của tình hình tội

phạm cần xem xét chia tội phạm theo từng nhóm tương ứng với các nhóm khách thể

khác nhau được luật hình sự bảo vệ.

Số liệu được thống kê tại Bảng 1.5 (Phần phụ lục) cho thấy diễn biến về cơ

cấu, động thái của tình hình tội phạm có sự biến động không giống nhau đối với

mỗi nhóm tội trong mỗi năm và cả trong thời gian 05 năm qua.

Từ số liệu thống kê nhận thấy: Thực tế địa bàn quận Cẩm Lệ trong 05 năm

qua chỉ có 07 nhóm tội danh có đời sống thực tế, trong mỗi nhóm có phát sinh số tội

phạm khác nhau, cụ thể như sau:

- Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con

người gồm có 03 tội danh;

- Nhóm tội tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ

của công dân gồm 01 tội danh;

- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu có 04 tội danh;

- Nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có 01 tội danh;

- Nhóm tội phạm môi trường có 01 tội danh;

- Nhóm tội phạm về ma túy có 02 tội danh;

- Nhóm các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng có 03 tội danh;

Ngoài ra, có 05 nhóm không có tội danh đời sống thực tế là:

- Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính;

- Nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

- Nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình;

- Nhóm các tội phạm về chức vụ;

- Nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

21

Căn cứ số liệu về số bị cáo mà Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ đã xét xử hình

sự sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ lệ được phân bổ theo các nhóm tội là:

Nhóm nhiều nhất là Chương 20 (Các tội phạm về ma túy) có 94 bị cáo, chiếm

31,86%, kế tiếp thứ tự là các nhóm: Chương 16 (Các tội xâm phạm sở hữu) có 67 bị

cáo, chiếm 22,71%; Chương 14 (Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh sự,

nhân phẩm) có 65 bị cáo, chiếm 22,03%; Chương 21 (Các tội xâm phạm an toàn

công cộng, trật tự công cộng) có 63 bị cáo chiếm 21,36%; Chương 18 (Tội xâm

phạm trật tự quản lý kinh tế): có 04 bị cáo chiếm 1,36%; Chương 19 (Các tội xâm

phạm môi trường) có 02 bị cáo chiếm 0,68%; Chương 15 (Các tội xâm phạm quyền

tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân) có 01 bị cáo chiếm 0,34%.

c. Mức độ hành vi: Đây là một trong những định lượng nhằm xác định thực

trạng của tình hình tội phạm trên một phạm vi trong một đơn vị thời gian nhất định

và là mức độ chi tiết nhất trong ba mức độ để đánh giá thực trạng tình hình tội

phạm. Trong phạm vi luận văn, mức độ hành vi phạm tội ở một tội danh là số lần

tội danh đó được Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ áp dụng tuyên các bị cáo phạm tội

trên địa bàn Quận trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Hay có thể nói cơ số

hành vi phạm tội là tổng số tội danh có đời sống thực tế, đó là số tội danh Tòa án đã

dùng để tuyên phạt trong một đơn vị thời gian và phạm vi không gian nhất định, đây

là dạng chỉ số làm cơ sở để đánh giá về mức độ phù hợp của Luật hình sự với thực

tế đời sống xã hội (Bảng 1.5 phần phụ lục).

Theo kết quả thống kê tại Bảng 1.5 (Phần phụ lục) thấy là: Từ năm 2015 đến

năm 2019, trên địa bàn quận Cẩm Lệ đã phát sinh 15 loại tội phạm, nghĩa là có 15

loại tội danh có đời sống thực tế.

Số liệu tại Bảng 1.5 và 1.6 (Phần phụ lục) cho thấy sự phân bổ về số lượt vi

phạm ở các tội theo thứ tự như sau:

Cao nhất thuộc về các tội phạm về ma túy (tàng trữ, vận chuyển, mua bán

trái phép chất ma túy) với 87 vụ/94 bị cáo chiếm 33,98% số vụ/31,86% số bị cáo;

Thứ hai thuộc về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ (Điều 260) với 39vụ /45 bị cáo chiếm 15,23% số vụ/15,26% số bị cáo;

22

Thứ ba là tội cố ý gây thương tích (Điều 134) với 34vụ/41 bị cáo chiếm

13,28% số vụ/13,90% số bị cáo;

Tiếp theo là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) với 32 vụ/37 bị cáo

chiếm 12,50% số vụ/12,54% số bị cáo;

Cuối cùng là tội trộm cắp tài sản (Điều 173) với 18 vụ/22 bị cáo chiếm

7,04% số vụ/7,46% số bị cáo.

1.2.1.2. Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ, TP. Đà Nẵng

Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ nói

trong luận văn này là sự tăng lên hay giảm đi của các chỉ số của tình hình tội phạm

như: số lượng tội phạm, số người phạm tội, cơ cấu, tính chất, hậu quả thiệt hại...

được tác giả đánh giá trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

Qua số liệu về tỷ lệ tăng giảm số vụ án và số bị cáo trong các năm từ 2015

đến năm 2019 so với năm 2015 tại Bảng 1.7 (Phần phụ lục), thấy rằng động thái của

tình hình tội phạm trong các năm này có sự tăng lên và giảm đi không tịnh tiến, cụ

thể: Năm 2016, diễn biến tăng 01 vụ (tăng 102,27%), tăng 04 bị cáo (tăng 107,69%)

so với năm 2015; Năm 2017, tỷ lệ quay lại con số của năm 2015, không tăng và

không giảm về số vụ, nhưng lại giảm 01 bị cáo (còn 98,08%) so với năm 2015;

Năm 2018 động thái (diễn biến) tình hình tội phạm tăng cả về số vụ và số bị cáo,

theo đó, tăng 14 vụ (tăng 131,82%), tăng 10 bị cáo (tăng 119,23%) so với năm

2015. Đặc biệt năm 2019 diến biến (động thái) tình hình tội phạm lại tăng mạnh về

số vụ án và số bị cáo, cụ thể: tăng 21 vụ (tăng 147,73%) và tăng 22 bị cáo (tăng

142,31%) so với năm 2015.

Như vậy, về cơ bản thì số vụ án và số bị cáo của tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ có xu hướng tăng lên và diễn biến phức tạp. Điều này xuất phát từ

nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân lớn nhất là sự phát triển của

điều kiện kinh tế xã hội, cụ thể thì cùng với sự phát triển chung của thành phố Đà

Nẵng, quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hình

thành nhiều khu dân cư mới, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, từ đó thu hút

23

nhiều lao động từ các tỉnh lân cận đến sinh sống và làm việc, đặc biệt đây là nơi tọa

lạc của bến xe trung tâm Đà Nẵng, từ đó dẫn đến tình hình tội phạm đặc biệt là tội

phạm về ma túy có chiều hướng ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất của

hành vi, vì các đối tượng mua bán ma túy thường chọn các địa điểm gần bến xe để

giao dịch và tàng trữ nhằm thuận tiện cho việc vận chuyển cũng như lẩn trốn. Ngoài

ra, việc xử lý những đối tượng nghiện ma túy theo quy định của pháp luật hiện hành

gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục rườm rà, nên đối tượng nghiện ma túy trong cả

nước nói chung và trên địa bàn quận Cẩm Lệ nói riêng không những không giảm

mà còn có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp. Thêm vào đó, trong khoản thời

gian từ năm 2015 đến nay, điều kiện kinh tế - xã hội phát triển của địa phương có

nhiều phát triển, cơ sở hạ tầng được xây dựng, đường giao thông thuận lợi cũng như

việc gia tăng số lượng người trẻ thiếu ý thức trong việc tham gia giao thông đã làm

gia tăng các tội phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, bên cạnh đó

là sự phát triển mạnh của các dịch vụ đi kèm với du lịch, giao dịch về bất động sản

đã làm gia tăng các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

1.2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà

Nẵng

Thông số về thực trạng và động thái của tình hình tội phạm phản ánh mặt

lượng, tức bề ngoài của tình hình tội phạm, còn cơ cấu của tình hình tội phạm cho

biết về kết cấu bên trong của các con số tạo nên tình hình tội phạm. Chính vì vậy cơ

cấu của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong một khoảng thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác

nhau trong số lượng chung trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong khoảng thời gian nói

trên.

a. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong mối quan hệ

với tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm

2015 đến năm 2019

Từ các số liệu được mô tả tại bảng 1.2 (Phần phụ lục) thấy rằng so với toàn

thành phố Đà Nẵng thì cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ có tỷ lệ

24

số vụ án xét xử sơ thẩm ở cả 05 năm đều thấp hơn 10% tổng số vụ án xét xử trên

toàn thành phố Đà Nẵng. Qua đó có thể đưa ra nhận định là so sánh với toàn thành

phố thì số vụ phạm tội trên địa bàn quận Cẩm Lệ chiếm tỷ lệ thấp. Để đạt được kết

quả như trên không thể không kể đến những đóng góp tích cực của toàn dân và

chính quyền trên địa bàn, đặc biệt là những đóng góp trong việc tăng cường công

tác phòng ngừa, kiểm soát tình hình tội phạm của các cơ quan chức năng trên địa

bàn, công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, từ đó

góp phần vào việc hạn chế sự phát sinh của tội phạm.

b. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

2015 đến năm 2019 xét theo các loại tội phạm được quy định trong các chương

Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự

Phân tích cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng xét theo các chương được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật Hình

sự, (Bảng 1.5 và Bảng 1.6 phần phụ lục) có thể thấy tất cả tội phạm hiện (rõ) xảy ra

trên địa bàn quận Cẩm Lệ được phân bổ vào 07 chương, trong đó chủ yếu là nhóm

tội phạm ma túy. Nhóm tội phạm này liên tục chiếm tỷ lệ cao trong suốt 05 năm

thống kê với 87 vụ/94 bị cáo, sau đó là nhóm tội phạm xâm phạm an toàn, trật tự

công cộng với 57 vụ/63 bị cáo, thứ ba là nhóm tội phạm xâm phạm quyền sở hữu

với 55 vụ/67 bị cáo, tiếp theo là nhóm tội phạm xâm phạm tính mang, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm cũng xảy ra ở mức cao với 51 vụ/65 bị cáo; Có một số nhóm

tội chỉ phát sinh 01 tội danh trong suốt kỳ thống kê là nhóm tội xâm phạm quyền tự

do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, trước năm 2017 hầu như

không xuất hiện, mãi đến năm 2017 chỉ xét xử sơ thẩm 01 vụ/01 bị cáo. Đồng thời

qua số liệu tại Bảng 1.5 (Phần phụ lục) có thể thấy tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ trong thời gian 05 năm trở lại đây đã xâm hại đến nhiều khách thể được luật hình

sự bảo vệ, từ đó thấy rằng tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ ngày càng

phức tạp. Ngoài ra, từ số liệu tại Bảng 1.5 và 1.6 (Phần phụ lục) cho thấy tất cả 07

nhóm tội đều có xu hướng tăng về cả số vụ án và số bị cáo từ năm 2015 đến năm

2019.

25

c. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 xét trên cơ sở tổng số dân trong sự so sánh với các địa bàn

giáp ranh cùng cấp

Khi so sánh cơ cấu về mức độ tình hình tội phạm xét theo dân số trong các

năm từ năm 2015 đến năm 2019 với các địa bàn giáp ranh với quận Cẩm Lệ thuộc

thành phố Đà Nẵng có thể thấy số dân/01 bị cáo càng nhỏ thì mức độ tội phạm càng

cao, theo Bảng 1.8 (Phần phụ lục) thể hiện, địa bàn quận Cẩm Lệ đứng ở vị trí số 06

trong số 07 quận lân cận trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (không tính huyện đảo

Hoàng Sa vì khu vực này hầu như không có dân cư), qua số liệu thống kê có thể

thấy cơ cấu về mức độ tình hình tội phạm theo dân số của quận Sơn Trà là cao nhất,

cứ 244 người dân có 01 bị cáo, quận Cẩm Lệ có mức độ tương đối thấp, cứ 425

người dân có 01 bị cáo, chỉ số này chỉ cao hơn quận Liên Chiểu với 459 người dân

thì có 01 bị cáo. Từ đó có thể thấy được tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn quận Cẩm Lệ về cơ bản là tương đối tốt khi so với 6 quận, huyện giáp ranh

trong cùng thành phố Đà Nẵng.

d. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 trên cơ sở diện tích trong sự so sánh với các địa bàn giáp

ranh cùng cấp

Khi so sánh cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trên đơn vị

diện tích so với các địa bàn cùng cấp thì theo như kết quả thống kê tại Bảng 1.9

(Phần phụ lục) có thể thấy địa bàn quận Cẩm Lệ có tỷ lệ đứng ở vị trí thứ 4, vị trí

trung bình so với 07 khu vực lân cận (trong đó không tính huyện đảo Trường Sa vì

hầu như không có dân cư), với 8,74 bị cáo/01km2, tỷ lệ cao nhất thuộc về quận

Thanh Khê với 54,62 bị cáo/01km2, thấp nhất là huyện Hòa Vang với tỷ lệ 0,43 bị

cáo/01 km2. Như vậy, khi tính về số lượng bị cáo trên đơn vị diện tích thì thấy là

tình hình về tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ cũng đang ở mức cao, từ đó đặt ra

yêu cầu cần phải có biện pháp để giảm thiểu số lượng tội phạm trên địa bàn.

26

e. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 được tính trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư, diện tích trong

sự so sánh với các địa bàn giáp ranh cùng cấp

Cơ cấu tình hình tội phạm tính trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư, diện tích cho

thấy cấp độ nguy hiểm được hình thành trên cơ sở tổng hệ số tiêu cực trên diện tích

và trên dân số (Bảng 1.10 phần phụ lục), nếu hệ số tiêu cực càng nhỏ thì mức độ

nguy hiểm càng lớn và ngược lại. Theo thống kê cho thấy địa bàn quận Cẩm Lệ có

cấp độ tình hình tội phạm nguy hiểm là số 4, đây chưa phải là con số nguy hiểm

nhất so với toàn thành phố Đà Nẵng. Thứ tự cao nhất thuộc về quận Hải Châu và

quận Sơn Trà, tiếp theo thuộc về quận Thanh Khê, thấp nhất thuộc về quận Liên

Chiểu, sau đó đến huyện Hòa Vang.

Tuy địa bàn quận Cẩm Lệ có tuyến đường quốc lộ 1A chạy qua, ngoài ra còn

là địa điểm đặt bến xe trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nhưng khi xét về cơ cấu

tình hình tội phạm tính trên đơn vị diện tích và dân cư thì ở mức trung bình so với 6

quận huyện còn lại (trong đó không bao gồm huyện đảo Trường Sa). Qua đó chứng

tỏ rằng chính quyền quận Cẩm Lệ và người dân trên địa bàn đã chung tay trong

công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, từ đó tình hình an ninh trật tự trên địa bàn

đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, bên cạnh đó từ hệ số tiêu cực cũng phản

ánh tình hình tội phạm của địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn còn ở mức cao nên chính

quyền địa phương và người dân cần có nhiều biện pháp thiết thực hơn nữa trong

việc đẩy lùi các hoạt động tội phạm trên địa bàn.

f. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo địa điểm gây án

Quận Cẩm Lệ gồm có 06 phường, với những đặc điểm địa hình là có đường

quốc lộ 1A chạy qua, nhiều khu dân cư mới được hình thành, nhất là khu vực Hòa

Xuân, bên cạnh đó quận Cẩm Lệ tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam và Quốc lộ 1A đi

qua và trải dài theo địa bàn nên tình hình an ninh trật tự trong khu vực cũng có

nhiều vấn đề đáng lo ngại, nhất là khi tình hình kinh tế của Quận nói riêng và toàn

thành phố Đà Nẵng nói chung đang có xu hướng phát triển, kéo theo nhiều hệ lụy

27

về nhập cư và tranh chấp liên quan đến tài sản. Từ số liệu của Bảng 1.11 (Phần phụ

lục), có thể thấy là số vụ án được xét xử ở các phường có sự phân bổ khác nhau,

trong đó, cao nhất thuộc về phường Hòa An với 76 vụ, tiếp theo là phường Hòa

Xuân với 68 vụ, rồi đến phường Hòa Phát với 58 vụ, thứ tư thuộc về phường Khuê

Trung với 50 vụ, thứ năm thuộc về phường Hòa Thọ Tây với 26 vụ và thấp nhất

thuộc về phường Hòa Thọ Đông với chỉ 17 vụ. Sở dĩ có sự chênh lệch giữa các

phường khác nhau trong quận Cẩm Lệ, đặc biệt là phường Hòa An và phường Hòa

Xuân có tỷ lệ cao nhất là vì 02 phường này là phường mới và có vị trí thuận lợi về

giao thông nên là nơi tập trung nhiều người dân từ các địa phương khác đến, từ đó

dẫn đến mất an ninh trật tự trên địa bàn phường. Còn phường Hòa Xuân, từ năm

2015 đến nay thì đây là khu vực phát triển mạnh về lĩnh vực bất động sản, từ đó các

tranh chấp về tài sản diễn ra ngày càng nhiều, bên cạnh đó sự hình thành của nhiều

khu dân cư dẫn đến thu hút nhiều người dân đến sinh sống và làm việc, từ đó dẫn

đến mất an ninh trật tự và gia tăng số lượng các vụ phạm tội.

g. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo hình phạt đã áp dụng

Số liệu thống kê tại Bảng 1.12 (Phần phụ lục) cho thấy, giai đoạn từ năm

2015 đến năm 2019, TAND quận Cẩm Lệ đã tiến hành xét xử sơ thẩm và đã áp

dụng mức hình phạt dưới 7 năm tù giam là chủ yếu, trong tổng số 295 bị cáo bị xét

xử, có 169 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù giam chiếm 57,29%, số bị cáo bị áp dụng

mức phạt trên 7 năm tù chỉ có 08 bị cáo, còn lại là áp dụng hình phạt dưới 7 năm

tù, áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo là 77 bị cáo, chiếm 26,10%, và 41

trường hợp bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; Ngoài ra trong tổng số 295

bị cáo có 06 bị cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung, chiếm 2,034%, với hình phạt chủ

yếu là cấm hành nghề trong thời gian nhất định hoặc phạt tiền.

h. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội

Đặc điểm nhân thân người phạm tội là một trong những nội dung được

nghiên cứu trong luật hình sự, có giá trị trong việc xây dựng các biện pháp đấu

28

tranh và phòng ngừa tình hình tội phạm. Vì đặc điểm nhân thân người phạm tội là

những đặc điểm được hình thành trong suốt quá trình sống, phản ánh bản chất xã

hội của đối tượng khi họ tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Những đặc điểm

nhân thân của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu bao gồm: Đặc điểm

sinh học như độ tuổi, giới tính; Đặc điểm xã hội như trình độ học vấn, nơi cư trú,

nghề nghiệp; Đặc điểm tâm lý phản ánh nhận thức xã hội tiêu cực của người phạm

tội; Đặc điểm nhân thân mang tính pháp lý hình sự.

Xuất phát từ giá trị của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội đối với

công tác phòng ngừa và dự báo tình hình tội phạm nên trong quá trình nghiên cứu

về tình hình tội phạm việc thống kê tình hình tội phạm căn cứ trên đặc điểm về nhân

thân người phạm tội được áp dụng một cách phổ biến trên cả phạm vi toàn quốc,

phạm vi tỉnh và quận huyện, trong đó có quận Cẩm Lệ.

Thống kê về cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời

gian từ năm 2015 đến năm 2019 căn cứ vào các đặc điểm nhân thân người phạm tội

sau:

* Cơ cấu tình hình tội phạm xác định theo giới tính và độ tuổi của người

phạm tội:

Từ số liệu tại Bảng 1.13 và 1.14 (Phần phụ lục) cho thấy: Tỷ lệ người phạm

tội là nam giới và cao hơn nữ giới, điều này không chỉ xảy ra trên địa bàn quận Cẩm

Lệ mà cả thành phố và độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi và thấp nhất là nhóm từ 45 tuổi trở

lên. Cụ thể, trung bình số nam giới phạm tội là 192 người (chiếm 65,08%) và chủ

yếu tội phạm là người từ 18 đến 30 tuổi với 176 người, chiếm 59,66%, xếp sau đó là

nhóm từ 14 đến 18 tuổi với 56 bị cáo. Trong khi đó, tỷ lệ này ở nữ giới chỉ chiếm

hơn ½ ở nam giới và tỷ lệ phạm tội thấp ở các nhóm tuổi còn lại, trong số đó, thấp

nhât thuộc về nhóm tuổi từ 45 trở lên với chỉ 6,78%.

* Cơ cấu tình hình tội phạm xét theo trình độ học vấn, nghề nghiệp và tiền

án tiền sự của người phạm tội:

Từ Bảng 1.15, 1.16 và 1.17 (Phần phụ lục) cho thấy: Số lượng lớn tội phạm

cao nhất rơi vào nhóm những người không có văn hóa, họ thường là những người

29

không có nghề nghiệp hoặc lao động phổ thông như: làm thuê, phụ hồ, công nhân

thời vụ, bốc vác… có xu hướng chiếm tỷ lệ cao hơn trong cơ cấu tình hình tội

phạm, ngoài ra nhóm học sinh lớp 11, 12 cũng chiếm tỷ lệ lớn do thiếu quan tâm từ

gia đình, sa đà vào nghiện ngập, chơi game, nhóm này chủ yếu phạm các tội về ma

túy, cố ý gây thương tích, trộm cắp. Cụ thể: Số lượng những người không có văn

hóa phạm tội chiếm tỷ lệ cao với 72 người, tiếp theo là trình độ lớp 11 và 12 với số

lượng lần lượt là 61 và 51, thấp nhất là nhóm trình độ lớp 2, 3 và 4 với số lượng chỉ 1

hoặc 2. Bên cạnh đó có thể thấy rõ là nhóm người không có nghề nghiệp và lao động

phổ thông có tỷ lệ phạm tội cao với với số lượng lần lượt là 77 và 91, tiếp theo là học

sinh, sinh viên với số lượng là 65. Ngoài ra, trên địa bàn quận Cẩm Lệ, số người có

tiền án, tiền sự phạm tội chiếm tỷ lệ tương đối cao, với 27,12%, chủ yếu phạm các tội

xâm phạm sở hữu, tàng trữ, ma túy, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản.

1.2.1.4. Tính chất của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà

Nẵng

Tính chất của tình hình tình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ là đặc điểm

mang tính định tính, phản ánh mức độ nguy hiểm, nghiêm trọng khác nhau của tình

hình tội phạm ở từng thời gian và không gian khác nhau thông qua mối tương quan

và tỷ lệ giữa các yếu tố hợp thành tình hình tội phạm. Cụ thể, tính chất của tình hình

tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ là kết quả của sự đánh giá mức độ, động thái và

cơ cấu của tình hình tội phạm trên phạm vi địa bàn.

Khi căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để đánh giá về tính chất của tình hình

tội phạm, có thể rút ra một số đặc điểm về tính chất của tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ như sau:

- Tính chất của tình hình tội phạm xét theo địa điểm và thời gian gây án.

Với ý nghĩa là một trong những căn cứ để xây dựng biện pháp phòng ngừa

tình hình tội phạm, yếu tố thời gian và địa điểm gây án luôn nhận được nhiều sự

quan tâm nghiên cứu của các cơ quan ban hành pháp luật và chính quyền địa

phương, từ đó xây dựng biện pháp phòng ngừa thiết thực và hiệu quả.

Theo kết quả thống kê tại Bảng 1.6 (Phần phụ lục), thấy rằng địa bàn quận

30

Cẩm Lệ phổ biến với các nhóm tội về ma túy, nhóm tội vi phạm quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ, nhóm tội xâm phạm an toàn trật tự công

cộng, nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu và nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm. Đa số các tội được thực hiện vào ban đêm, kẻ phạm tội

lợi dụng sự thuận tiện về giao thông, bến xe trung tâm, lợi dụng sơ hở của người

dân để thực hiện hành vi phạm tội nhằm tránh sự phát hiện của lực lượng chức năng

và người dân. Bên cạnh đó, các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện

giao thông đường bộ co xu hướng thường xảy ra sau 19 giờ tối và vào thứ bảy, chủ

nhật hoặc các kỳ nghỉ lễ, lý do là vào thứ bảy, chủ nhật là ngày nghỉ hàng tuần của

học sinh, sinh viên, người lao động và các bộ công chức trên địa bàn nên người dân

thường tụ tập tiệc tùng, sau khi sử dụng rượu bia từ các bữa ăn nhậu, những người

này tham gia giao thông, không kiểm soát được tốc độ nên gây tai nạn. Đặc biệt các

vụ vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ rất nghiêm

trọng và đặc biệt nghiêm trọng thường xảy ra vào ban đêm do các bị cáo là lái xe

tải, xe khách đường dài gây ra trên các tuyến quốc lộ đi qua địa bàn Quận.

- Tính chất của tình hình tội phạm xét theo đặc điểm pháp lý hình sự của

nhân thân người phạm tội.

Từ số liệu thống kê tại Bảng số 1.17 (Phần phụ lục) cho thấy tính chất của

tình hình tội phạm xét theo tiền án tiền sự của người phạm tội, số bị cáo có tiền án,

tiền sự chiếm tỷ lệ tương đối trong cơ cấu tình hình tội phạm. Đây không chỉ là

những đặc điểm về nhân thân tội phạm có ở quận Cẩm Lệ mà cũng là đặc điểm

chung về tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà nẵng.

Như vậy, địa bàn quận Cẩm Lệ khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019

tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội là các tội phạm về ma túy và tội vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, các tội này đã để lại hệ lụy

lớn cho Quận nói riêng và toàn xã hội nói chung, gây thiệt hại về tính mạng, sức

khỏe và tài sản của người dân, gây mất an ninh trật tự khu vực.

31

1.2.2. Phần ẩn của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà

Nẵng

Phần ẩn của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ là các tội phạm đã

thực tế xảy ra trên địa bàn nhưng thống kê tội phạm không ghi nhận thông tin,

nguyên nhân có thể do những hành vi phạm tội đã không bị phát hiện và xử lý hình

sự, hoặc tuy hành vi phạm tội đã bị phát hiện nhưng không được xử lý về hình sự,

hay có thể các tội phạm đã được xử lý hình sự nhưng không được đưa vào thống kê

tội phạm. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, an ninh chính trị - trật tự trên địa

bàn quận cũng như kết quả phát hiện và xử lý hành vi phạm tội của các cơ quan tư

pháp trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong những năm qua, thấy rằng số vụ và số bị cáo

bị xét xử mới chỉ phản ánh phần nào tình trạng thực tế của tội phạm trên địa bàn,

nhiều trong số các vụ vẫn chưa bị phát hiện và xử lý.

* Độ ẩn của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019: Độ ẩn của tình hình tội phạm là

mức độ kín đáo, lộ liễu hay còn gọi là mức độ ẩn khuất khác nhau của từng loại tội

phạm. Thực tế hiện nay, có không ít loại tội phạm mặc dù đã xảy ra nhưng bị che

dấu nên rất lâu sau các cơ quan chức năng mới phát hiện và xử lý, đó gọi là mức độ

ẩn của tội phạm. Khi xét về độ ẩn của tội phạm, tội phạm học Việt Nam chia độ ẩn

thành 04 mức độ khác nhau căn cứ vào mức độ tinh vi, kín đáo hay lộ liễu của hành

vi phạm tội.

Xuất phát từ những đặc trưng về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội mà tình

hình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến năm 2019 có độ ẩn

thường là mức 2 và 3. Vì thực tế những tội phạm này có lộ liễu nhưng hạn chế hoặc

khó bị phát hiện, số lượng thông tin về tội phạm không nhiều, thường chỉ có người

phạm tội và nạn nhân biết. Việc cơ quan chức năng trên địa bàn khó hoặc không thể

phát hiện được xuất phát từ một số các nguyên nhân sau: Xuất phát từ việc bị hại,

người làm chứng đã không trình báo các cơ quan chức năng trên địa phương vì họ

sợ phiền hà hoặc không tin tưởng cơ quan chức năng; một số loại tội trộm cắp tài

sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị hại không bị thiệt hại nhiều; đối với các tội

32

phạm về ma túy, người dân sợ bị các đối tượng đe dọa, trả thù hoặc nạn nhân, hoặc

với các loại tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, nạn nhân

hoặc người thân thích của nạn nhân xấu hổ, sợ dư luận biết hoặc sợ ảnh hưởng đến

cuộc sống của mình nên nạn nhân hoặc người thân của nạn nhân thường giữ im lặng

hoặc cam chịu thay vì tố giác tội phạm.

Qua số liệu thống kê về tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ có thể thấy các

tội phạm được phát hiện và xử lý chủ yếu là các nhóm tội về ma túy, vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, xâm phạm quyền sở hữu, cố ý

gây thương tích mà chưa thấy các tội phạm liên quan đến chức vụ, kinh tế hay các

tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Thực tế hiện nay khi mà Chính phủ đang đẩy

mạnh phong trào phòng chống tham nhũng cũng như nâng cao hiệu qỉa hoạt động

của các cơ quan tư pháp thì cùng với đó số lượng các tội phạm về tham nhũng, chức

vụ, tội phạm về kinh tế và xâm phạm hoạt động tư pháp đang ngày càng bị phát

hiện, bị đưa ra truy tố và xét xử nghiêm minh. Nếu số liệu thống kê đúng với thực tế

tình hình tội phạm thì đó là một tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên vấn đề đặt ra là liệu

thực tế có hay không các tội phạm tham nhũng chức vụ, cố ý làm trái hay xâm

phạm hoạt động tư pháp xảy ra trên địa bàn mà không bị phát hiện và xử lý hình sự.

Chính vì vậy, kết quả thống kê án kinh tế chức vụ, tham nhũng và xâm phạm hoạt

động tư pháp đã xét xử sơ thẩm trên địa bàn không có, đây là một kết quả đáng phải

suy nghĩ, vì điều đó cho thấy rõ thực tế tham nhũng, cố ý làm trái, hành vi nhận hối

lộ của những người có chức vụ và các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp rất tinh

vi với thủ đoạn nguy hiểm và hậu quả lớn hơn rất nhiều. Trong giai đoạn hiện nay,

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đang tiến hành xét xử Phan Văn Anh Vũ cùng

với 02 cựu chủ tịch thành phố Đà Nẵng là ông Trần Văn Minh và Văn Hữu Chiến

đều bị truy tố về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất

thoát lảng phí, tội vi phạm quy định về quản lý đất đai xảy ra trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng. Trên đây là vụ án nghiêm trọng diễn ra trên phạm vi toàn thành phố Đà

Nẵng, còn theo kết quả thống kê thì ở quận Cẩm Lệ chưa có vụ nào bị phát hiện và

xử lý. Như vậy, liệu trên thực tế có xảy ra tình trạng cán bộ công chức tại địa

33

phương có vi phạm các tội về tham nhũng, chức vụ, quản lý kinh tế hay xâm phạm

hoạt động tư pháp nhưng chưa bị phát hiện và xử lý hay không.

Thêm vào đó, địa bàn quận Cẩm Lệ là nơi tọa lạc của bến xe trung tâm thành

phố Đà Nẵng, với tình hình giao thương buôn bán, tình trạng buôn bán hàng giả,

hàng nhái hàng kém chất lượng cũng là một trong những vấn đề đáng lo ngại trong

giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, thực tế thì thống kê không có số liệu về các loại tội

này, từ đó tồn tại nguy cơ là có tội phạm ẩn trong các lĩnh vực này nhưng chưa bị

phát hiện và xử lý.

*Nguyên nhân ẩn (lý do ẩn) của tình hình tội phạm: Việc tồn tại tội phạm ẩn

trên địa bàn quận Cẩm Lệ có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau phụ

thuộc vào từng nhóm tội, tuy nhiên về cơ bản thì có những nguyên nhân chính như

sau:

Một là, phương thức, thủ đoạn của các đối tượng trên địa bàn quận Cẩm Lệ

được che đậy tinh vi: Theo đó, cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội,

các công cụ phương tiện được các đối tượng sử dụng để thực hiện tội phạm ngày

một nhiều, với những phương thức thủ đoạn hết sức tinh vi, đặc biệt là đối với

nhóm tội về tham nhũng chức vụ thì việc phát hiện và xử lý hình sự là vấn đề vô

cùng khó khăn và gian nan.

Hai là, xuất phát từ tâm lý của người dân trên địa bàn Quận là ngại tố cáo vì

theo nhận thức của họ, việc phát hiện và đấu tranh với tội phạm thuộc trách nhiệm

của các cơ quan có thẩm quyền, hay do người dân có tâm lý sợ bị trả thù, bị trù dập,

bị phá hoại không cho làm ăn, sinh sống nên nạn nhân, nhân chứng thường có tâm

lý không hợp tác trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Ba là, sự hạn chế về trình độ, năng lực của bộ phận cán bộ công chức làm

công tác phát hiện, xử lý cũng như phòng chống tội phạm trên địa bàn Quận, nên đã

không phát hiện, điều tra ra người thực hiện hành vi phạm tội hoặc điều tra ra

nhưng không xử lý, xử lý không đúng quy định hay thậm chí là có tiêu cực trong xử

lý tội phạm, đặc biệt là các tội tham nhũng chức vụ, các tội phạm về kinh tế và tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.

34

Tiểu kết Chương 1

Như vậy, Chương 1 đã trình bày khái quát lý luận về tình hình tội phạm nói

chung, bên canh đó tác giả phân tích, đánh giá tình hình tội phạm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian 05 năm, từ 2015 đến năm

2019, qua số liệu thống kê có thể rút ra một số nhận xét về tình hình tội phạm trên

địa bàn quận Cẩm Lệ như sau:

So với tình hình tội phạm trên toàn thành phố Đà Nẵng thì tình hình tội phạm

ở địa bàn quận Cẩm Lệ cả về số vụ và số bị cáo đều chiếm tỷ lệ chưa đến 10%, đây

là con số khá thấp so với toàn thành phố.

Diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ tăng cả về số vụ

án và số bị cáo, tuy nhiên mức tăng không nhiều.

Xét về sự phân bổ của tội phạm có thể thấy phần lớn tội phạm tập trung vào

nhóm tội phạm về ma túy và nhóm tội phạm về an toàn trật tự công cộng.

Tính chất của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ khá nghiêm trọng

và phức tạp, chủ yếu rơi vào nhóm không có trình độ văn hóa, lao động phổ thông

hặc không có nghề nghiệp.

Ngoài ra tình tình tội phạm ẩn trên địa bàn cũng là vấn đề đáng lo ngại đặc

biệt là các tội phạm về tham nhũng chức vụ xâm phạm hoạt động tư pháp, buôn bán

hàng giả, hàng kém chất lượng.

Qua phân tích về tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy một cách tổng thể về thực trạng, xu

hướng cũng như tính chất của tình hình tội phạm trên địa bàn. Đây là cơ sở để các

nhà hoạch định chính sách xây dựng các biện pháp phòng ngừa cũng như đấu tranh

phòng chống tội phạm trên địa bàn Quận nói riêng và toàn thành phố Đà Nẵng nói

chung.

35

CHƯƠNG 2

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI

PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, TP. ĐÀ NẴNG

2.1. Khái quát lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm

2.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình tình tội phạm

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội

tiêu cực có khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm trong thực tế. Xét về mặt thời

gian thì những hiện tượng này có trước khi tội phạm cụ thể xảy ra.

Trong mối quan hệ nhân – quả giữa nguyên nhân và điều kiện với tình hình

tội phạm thì nguyên nhân và điều kiện là nhân, đó là những hiện tượng xã hội tiêu

cực trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm, còn tình hình tội phạm là kết quả

phát sinh từ nguyên nhân và điều kiện. Nguyên nhân của tình hình tội phạm là

những hiện tượng xã hội tiêu cực làm phát sinh tình hình tội phạm, còn điều kiện

của tình hình tội phạm cũng là hiện tượng xã hội tiêu cực không có khả năng trực

tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm nhưng lại tạo ra những khả năng và hoàn cảnh

thuận lợi để nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội phạm. Điều kiện thường biểu

hiện sự sơ hở và thiếu sót trong các họat động quản lý nhà nước, quản lý xã hội,

những hiện tượng xã hội tiêu cực này tồn tại kém bền vững, không ổn định, dễ bị

phá vỡ và thay đổi khi điều kiện xã hội thay đổi. Bản thân tình hình tội phạm trong

xã hội cũng có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện của chính nó làm phát sinh

tình hình tội phạm.

Như vậy, nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm là tổng thể những

hiện tượng xã hội tiêu cực, quyết định tình hình tội phạm là hậu quả của chúng, là

tổng thể những hiện tượng xã hội tiêu cực trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn

hóa tư tưởng, tâm lý của một xã hội nhất định mà khi giữa chúng có sự tương tác

qua lại và tương tác với các cá nhân trong xã hội sẽ làm phát sinh tình hình tội phạm

tại một địa bàn trong một khoảng thời gian nhất định.

Nói đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cần phân biệt với

36

khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể - là khái niệm được dùng

để trả lời câu hỏi khi nào thì hành vi phạm tội cụ thể xảy ra. Sự khác nhau giữa

chúng thể hiện ở việc nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là khái niệm

thể hiện “cái quyết định” của tình hình tội phạm với tính cách là hiện tượng xã hội

tiêu cực, còn khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể là khái niệm

thể hiện nguyên nhân và điều kiện tội phạm của tội phạm với tính cách là hành vi cụ

thể nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm.

Xuất phát từ khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

có thể thấy nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có những đặc điểm

như sau:

Thứ nhất, Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm luôn là những

hiện tượng xã hội có nguồn gốc và mang bản chất xã hội: Theo đó, nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội được hình thành, thay

đổi cùng với quá trình hình thành và phát triển xã hội.

Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thể hiện những

mâu thuẫn và xung đột trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, những

mâu thuẫn, xung đột này hình thành từ yếu tố tâm sinh lý tiêu cực của cá nhân dưới

sự tác động của điều kiện hoàn cảnh xã hội nhất định.

Thứ ba, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện

tượng xã hội tiêu cực. Theo đó thì nguyên nhân và điều kiện là những yếu tố cản

trở, đối lập với xu thế phát triển chung của đời sống xã hội như sự chống đối về

chính trị, những chính sách phát triển kinh tế xã hội không phù hợp, trình độ dân trí

thấp kém, sự vi phạm pháp luật, đạo đức.

Thứ tư, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mang tính phổ biến

và thay đổi theo không gian và thời gian. Xuất phát từ việc nguyên nhân điều kiện

của tội phạm là một hiện tượng nảy sinh từ xã hội, mang tính xã hội nên nó tồn tại

một cách phổ biến trong xã hội và thay đổi khi điều kiện xã hội thay đổi.

Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện là cơ sở để xây dựng các biện

pháp phòng ngừa tình hình tội phạm có khoa học và đạt được hiệu quả, là cơ sở cho

37

việc họach định các chính sách phát triển kinh tế xã hội một cách phù hợp nhằm

giảm thiểu nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội phạm.

2.1.2. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm

Tình hình tội phạm là một thể thống nhất được tạo nên từ các tội phạm cụ

thể, được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm làm phát sinh ra tình hình tội phạm như là kết quả tất yếu của chúng thông

qua cơ chế tác động làm phát sinh hay thúc đẩy tội phạm xảy ra. Như vậy, cơ chế

tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tổng thể các tương

tác ở nhiều mức độ khác nhau như: Mức độ cá nhân, mức độ xã hội, mức độ nhóm

và mức độ tội phạm cụ thể gắn với những mâu thuẫn xã hội cũng ở những mức độ

khác nhau đó, làm phát sinh tình hình tội phạm. Do vậy, để nghiên cứu cơ chế tác

động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, trước hết cần nghiên

cứu cơ chế thông qua hành vi của tội phạm cụ thể, vốn được hiểu là sự tương tác

giữa các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài và các yếu tố tâm sinh lý bên trong cá

nhân con người, làm xuất hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự

quy định là tội phạm cụ thể. Do đó, cơ chế hành vi phạm tội còn gọi là cơ chế tâm

lý xã hội của hành vi phạm tội.

Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội thể hiện mối liên hệ và sự tác

động lẫn nhau giữa các đặc điểm cá nhân của người phạm tội và những tình huống

khách quan bên ngoài, hình thành tính động cơ của hành vi phạm tội, kế họach

phạm tội và thực hiện tội phạm trong thực tế. Theo đó, cơ chế tâm lý xã hội của

hành vi phạm tội được chia làm ba giai đoạn gồm: Hình thành tính động cơ của

hành vi phạm tội; Kế họach hóa hoạt động phạm tội và thực hiện tội phạm.

Giai đoạn 1: Hình thành tính động cơ của hành vi phạm tội. Động cơ của

hành vi phạm tội được hình thành từ hệ thống các nhu cầu, ý định, dự định, kế

họach và lợi ích trong đời sống cá nhân. Các yếu tố này trong sự tác động qua lại

với những tình huống khách quan bên ngòai sẽ làm phát sinh động cơ của hành vi

phạm tội. Giai đoạn này chỉ diễn ra trong ý thức chủ quan của người phạm tội mà

38

chưa có bất kỳ sự biểu hiện nào ra bên ngòai thế giới khách quan.

Giai đoạn 2: Kế họach hóa hành vi phạm tội. Trong giai đoạn này người

phạm tội xác định mục đích của hành vi cũng như xác định cách thức, phương tiện,

thủ đọan, địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm, đồng thời ra các quyết định cụ thể

cho bản thân, vậy nên khâu này còn được gọi là giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Ở

khâu này đã có sự bộc lộ ra bên ngoài thế giới khách quan thông qua những hành vi

nhất định của người phạm tội như chuẩn bị công cụ, phương tiện.

Giai đoạn 3: Thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi đã hình thành động cơ và

vạch ra kế họach tội phạm, người phạm tội sẽ thực hiện hành vi trong thực tế. Trong

giai đoạn này, hành vi phạm tội biểu hiện ra bên ngoài một cách đầy đủ và toàn diện

nhất. Vì vậy, luật hình sự căn cứ vào hành vi của người phạm tội biểu hiện trrong

giai đoạn này để xác định người thực hiện hành vi có phạm các tội theo quy định

không.

Ba khâu này của cơ chế luôn diễn ra trong một trình tự chặt chẽ, khâu trước

là tiền đề là cơ sở của khâu sau, hoàn toàn không có sự đảo lộn thay đổi về trật tự

giữa các khâu.

Thực tế không phải tất cả các tội phạm đều trãi qua ba giai đoạn như trên mà

chỉ có tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý mới bộc lộ đầy đủ cả ba khâu của cơ

chế, còn tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì chỉ có khâu thứ ba.

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau thì cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm

tội cũng được chia thành các nhóm khác nhau, như:

Căn cứ vào mức độ hoàn thành của cơ chế, cơ chế hành vi được chia thành

hai nhóm gồm: Cơ chế xã hội của hành vi phạm tội được biểu hiện đầy đủ, loại này

được thực hiện với lỗi cố ý và Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được biểu

hiện không đầy đủ, cơ chế này do người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi vô ý.

Căn cứ vào nguồn gốc hình thành, cơ chế được chia thành 04 nhóm: Cơ chế

tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành do sự biến dạng của hệ thống

nhu cầu và lợi ích cá nhân; Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình

thành từ những mâu thuẫn giữa nhu cầu và lợi ích với khả năng của bản thân cá

39

nhân; Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội có liên quan đến sự biến dạng của

các quan điểm, quan niệm về đạo đức, về pháp luật cũng như định hướng giá trị của

cá nhân; Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ những

khiếm khuyết và sai sót trong việc đề ra và thực hiện một số quyết định của bản

thân cá nhân.

Kết quả nghiên cứu cơ chế hành vi phạm tội cụ thể như đã nêu trên là cơ sở,

tiền đề để nghiên cứu cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm với tính cách là hiện tượng xã hội tiêu cực. Trong cơ chế tác động đó, cơ

chế bên trong gắn với hệ thống nhu cầu, lợi ích cá nhân, định hướng giá trị và việc

lựa chọn phương thức thỏa mãn nhu cầu của cá nhân. Trong cơ chế tác động đó có

cơ chế xã hội gắn với điều kiện hoàn cảnh xã hội, mâu thuẫn xã hội. Trong cơ chế

tác động đó có cả cơ chế nhóm gắn với những mâu thuẫn xã hội tác động đến việc

hình thành nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội phạm. Như vậy, cơ chế tác động

của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tổng thể các tương tác giữa

những hiện tượng xã hội tiêu cực ở các cấp độ khác nhau trong một tổng thể làm

phát sinh tình hình tội phạm.

2.1.3. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

Xuất phát từ vai trò của nguyên nhân và điều kiện trong việc làm phát sinh

tình hình tội phạm mà việc phân loại sẽ giúp các cơ quan chức năng xây dựng các

chính sách phòng ngừa phù hợp nhằm khác phục, hạn chế dần loại bỏ các nguyên

nhân cũng như điều kiện làm phát sinh tội phạm, từ đó làm giảm số lượng các tội

phạm xảy ra trên thực tế. Trong khoa học pháp lý hình sự, nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm được phân chia thành những loại khác nhau dựa trên các tiêu

chí phân loại khác nhau.

*Khi căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động thì nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm được chia thành:

Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm chung: Đây là những nhóm

nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm có phạm vi tác động rộng, bao trùm

lên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, tác động đến tất cả các nhóm tội

40

phạm, có khả năng làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác nhau, như những nguyên

nhân về chính sách kinh tế - xã hội; chính sách ngoại giao; chính sách pháp luật.

Nguyên nhân và điều kiện của quá trình hình thành nhóm (loại) tội phạm:

Những nguyên nhân và điều kiện này có phạm vi tác động hẹp, chỉ tác động đến

từng nhóm quan hệ xã hội nhất định, có khả năng làm phát sinh một loại tội phạm

như: sự lơ là mất cảnh giác dẫn đến các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, buông

lõng quản lý dẫn đến nhóm tội phạm về tham nhũng, chức vụ.

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cụ thể: So với hai nhóm

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên thì nhóm này có phạm vi tác

động hẹp nhất, tác động đến từng cá nhân người phạm tội, nhóm nguyên nhân và

điều kiện này là những tình huống và sự kiện mang tính đơn nhất và chỉ làm phát

sinh một hành vi phạm tội, như: bị kích động dẫn đến tội cố ý gây thương tích, mâu

thuẫn cá nhân dẫn đến tội giết người.

*Căn cứ vào nội dung của sự tác động thì có thể phân nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm thành 04 nhóm như sau:

Nhóm nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội: Đây là những hiện tượng

mang tính kinh tế xã hội như những bất hợp lý, những sai sót yếu kém trong việc đề

ra và thực hiện các chính sách kinh tế.

Nhóm nguyên nhân và điều kiện về chính trị - tư tưởng: Phản ánh những mâu

thuẫn về lợi ích chính trị của các tầng lớp giai cấp khác, thể hiện sự xung đột của

các hệ tư tưởng trong xã hội, như: chính sách phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Phạm vi

và mức độ tác động của nhóm nguyên nhân và điều kiện phạm tội này thường chủ

yếu là làm phát sinh tình hình tội phạm trong lĩnh vực an ninh chính trị như: hoạt

động lật đổ chính quyền, tuyên truyền chống phá chế độ.

Nhóm nguyên nhân và điều kiện về tâm lý đạo đức và văn hóa xã hội: Thể

hiện sự xung đột và mâu thuẫn của các lọai trào lưu, giá trị văn hóa, phong tục tập

quán, thói quen sở thích và thị hiếu của các nhóm dân cư không phù hợp với chuẩn

mực xã hội. Phạm vi và mức độ tác động của nhóm này thường làm phát sinh các

tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình, các tội xâm phạm các quyền tự do dân chủ

41

của công dân, xâm phạm sức khỏe, trật tự quản lý hành chính.

Nhóm nguyên nhân và điều kiện về tổ chức - quản lý xã hội: Phát sinh từ

những sai sót yếu kém trong các họat động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Phạm

vi và mức độ ảnh hưởng của nhóm nguyên nhân và điều kiện này thường làm phát

sinh các tội về chức vụ, tội phạm sở hữu.

Nhóm nguyên nhân và điều kiện về phát hiện và xử lý tội phạm: Nhóm này

xuất phát từ những hạn chế trong công tác phát hiện, đấu tranh và xử lý các tội

phạm trên thực tế. Phạm vi của nhóm nguyên nhân và điều kiện tội phạm này làm

phát sinh tất cả các loại tội phạm được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự.

*Khi căn cứ vào nguồn gốc hình thành của nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm có thể chia thành 02 nhóm như sau:

Nhóm nguyên nhân và điều kiện chủ quan: Nhóm nguyên và nhân điều kiện

này xuất phát từ phía các chủ thể có thẩm quyền trong công tác phòng chống tội

phạm, từ nội tại của các quốc gia nơi có tình hình tội phạm tồn tại.

Nhóm nguyên nhân và điều kiện khách quan: Là những nhân tố tác động từ

những xu thế quá trình mang tính khu vực và quốc tế, những nguyên nhân này tồn

tại một cách khách quan, cho dù các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu

tranh và phòng chống tội phạm có muốn hay không muốn.

Mỗi một cách phân loại nêu trên không chỉ có ý nghĩa đối với nhận thức mà

còn có ý nghĩa đối với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng

ngừa tình hình tội phạm. Tuy nhiên, bởi tình hình tội phạm mang tính “địa bàn” –

một phạm vi lãnh thổ hành chính nhất định nên nguyên nhân và điều kiện làm phát

sinh ra nó cũng mang tính “địa bàn” mà ở đó diễn ra và tồn tại các lĩnh vực khác

nhau của đời sống xã hội tại địa bàn đó. Bởi nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm trên địa bàn là những hiện tượng xã hội tiêu cực vừa mang tính chất chung

của toàn xã hội vừa mang tính chất đặc thù của địa bàn cụ thể đó nên cách phân loại

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm theo nội dung (lĩnh vực) tác động

là cách phân loại tối ưu hơn cả.

42

2.2. Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên

địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện về địa lý - tự nhiên - môi trường

Đó là những đặc điểm đặc thù của địa lý - tự nhiên - môi trường của quận

Cẩm Lệ tác động tiêu cực đến tình hình tội phạm trên địa bàn Quận. Trước hết cần

nhấn mạnh rằng sự thuận lợi về vị trí địa lý đã tạo điều kiện cho quận Cẩm Lệ phát

triển mạnh về kinh tế, văn hóa và xã hội, đặc biệt do có quốc lộ 1A chạy qua và là

nơi tọa lạc của bến xe trung tâm thành phố Đà Nẵng nên quận Cẩm Lệ đã phát triển

trở thành đầu mối quan trọng trong việc giao thương buôn bán với các tỉnh lân cận.

Tuy nhiên, đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn

có xu hướng ngày càng tăng, điều này thấy rõ thông qua phân tích về thực trạng của

tình hình tội phạm trên địa bàn quận tại Chương 1, cụ thể, xét về động thái của tình

hình tội phạm trện địa bàn quận Cẩm Lệ thì năm 2019, có sự tăng mạnh về cả số vụ

án và số bị cáo lần lượt là 21 vụ (tỷ lệ tăng 147,73%) và 22 bị cáo (tỷ lệ tăng

142,31%) so với năm 2015.

Cũng cần nhấn mạnh rằng vì là địa điểm tọa lạc của Bến xe trung tâm nên

địa bàn quận Cẩm Lệ rất thuận tiện cho việc giao thương buôn bán, ngoài ra, đây

cũng là khu vực tập trung nhiều tụ điểm ăn chơi như: nhà hàng, quán Karaoke, quán

bar nên nhiều đối tượng đã lựa chọn làm nơi thực hiện hành vi mua bán và trung

chuyển ma túy đi các quận trong thành phố. Vì vậy, điều kiện về vị trí địa lý – tự

nhiên – môi trường được xác định là nguyên nhân chính làm gia tăng số lượng tội

phạm về ma túy với diễn biến ngày càng phức tạp, điều này thể hiện rõ từ kết quả

phân tích về cơ cấu tình hình tội phạm xét theo các loại tội phạm tại Chương 1, theo

đó, từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ lệ số vụ án và bị cáo phạm tội về ma túy tăng từ

16 vụ/ 19 bị cáo vào năm 2015 lên 20 vụ/ 21 bị cáo vào năm 2019 và là nhóm tội

phạm luôn ở mức cao nhất so với các nhóm tội còn lại, với 87 vụ/94 bị cáo, trong

đó điển hình là các vụ án: Vụ án Nguyễn Bảo Quỳnh Duyên (SN 1996, hộ khẩu tại

tổ 64, Hòa An, Cẩm Lệ, Đà Nẵng) bị Công an thành phố Đà Nẵng bắt quả tang về

hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào lúc 22h30 ngày 20/6/2019 trên địa bàn

43

phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, tại hiện trường, Công an thu giữ 800 gam ma túy

đá, 118 viên thuốc lắc [16].

Bên cạnh đó, do có tuyến đường Quốc lệ 1A chạy trên địa bàn Quận và đông

dân cư về đây sinh sống và làm việc nên lưu lượng người tham gia giao thông trên

các tuyến đường luôn trong tình trạng đông đúc, gây mất trật tự khi tham gia giao

thông, từ đó làm gia tăng các tội phạm về vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ, điều này được minh chứng bằng kết quả phân tích về cơ

cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận xét theo các loại tội phạm tại Chương 1, cụ

thể, số vụ án xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong khu vực tăng từ

08 vụ/10 bị cáo vào năm 2015 lên 10 vụ/11 bị cáo vào năm 2019 và nhóm tội phạm

này cũng ở mức tương đối cao với 63 bị cáo, chiếm tỷ lệ 21,36%, điển hình là vụ án

Nguyễn Phi Tùng bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ khởi tố về tội

“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” vào ngày

08/3/2017 do đã có hành vi điều khiển xe đầu kéo gây tai nạn làm 02 người chết

[43]. Thêm vào đó, việc thu hút đông đảo người dân từ các địa phương khác đến

sinh sống và làm việc, đặc biệt đa số là thanh thiếu niên cũng gây nên tình trạng mất

an ninh trật tự và tội phạm liên quan đến tính mạng sức khỏe, nên số bị cáo của

nhóm tội này xếp vị trí thứ ba trên 07 nhóm tội có đười sống thực tế với 65 bị cáo.

Ngoài ra, với vị trí địa lý tiếp giáp với 5/7 quận huyện còn lại của thành phố

và nằm ở vị trí cửa ngõ Tây Nam của thành phố Đà Nẵng nên dẫn đến nhiều tội

phạm từ các địa bàn quận, huyện lân cận chuyển đến sinh sống. Đây là nguyên nhân

chính dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn quận đang có diễn biến ngày càng

phức tạp và là điểm trung chuyển hàng hóa phạm tội đi các địa bàn khác trong khu

vực cũng như đi các tỉnh lân cận, đặc biệt là trung chuyển về ma túy. Điều này có

thể thấy rõ thông qua phân tích về cơ cấu của tình hình tội phạm xét theo các loại

tội phạm tại Chương 1, theo đó, tính phức tạp thể hiện thông qua việc có 07 nhóm

tội có đời sống thực tế, tương ứng với đó là hành vi phạm tội trên địa bàn quận đã

xâm phạm đến 07 nhóm khách thể được luật hình sự bảo vệ, ngoài ra, tính chất

phức tạp của tình hình tội phạm còn được thể hiện rõ thông qua đánh giá thực trạng

44

về mức độ tăng giảm của tình hình tội phạm, cụ thể thì rõ ràng là sự tăng giảm giữa

cơ số vụ án/10.000 dân và cơ số bị cáo /10.000 dân không có sự tương ứng, như:

năm 2016, cơ số vụ giảm xuống 4,04 nhưng cơ số bị cáo tăng lên 5,02 còn đến năm

2019 thì cơ số vụ án tăng lên 4.08 nhưng cơ số bị cáo giảm xuống 4.64. Thêm vào

đó, tỷ lệ số bị cáo/số vụ án ở các năm là không đồng đều, trong đó thấp nhất là 1.07

vào năm, cao nhất là 1.24 vào năm 2016. Trong đó, điển hình phải kể đến phường

Hòa An là phường tiếp giáp với quận Thanh Khê, huyện Hòa Vang và tỉnh Thừa

Thiên Huế nên tình hình tội phạm ở khu vực này được đánh giá là phức tạp nhất, cụ

thể theo phân tích về cơ cấu tình hình tội phạm xét theo địa điểm gây án tại Chương

1, thấy rằng số vụ phạm tội ở phường Hòa An luôn cao hơn các phường còn lại với

tổng số 76 vụ án đã xét xử và được đánh giá với mức độ nguy hiểm cao nhất. Điển

hình là vụ án Võ Như Đông (1990, trú thôn Giáng Nam 2, xã Hòa Phước, H. Hòa

Vang, Đà Nẵng) bị Cơ quan Cảnh Sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ bắt quả tang

về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra vào ngày 27/12/2016, tại hiện

trường, Công an thu được 01 gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng theo thừa

nhận của con nghiện là ma túy đá mua của Đông với giá 500.000 đồng, tiến hành

khám xét khẩn cấp nơi Đông thuê trọ tại nhà số 21 đường Bình Hòa 12, Đội Cảnh

sát ma túy Công an quận Cẩm Lệ thu được số ma túy có tổng trọng lượng gần 200

gam [46]. Đối tượng Đông có địa chỉ cư trú tại huyện Hòa Vang, tuy nhiên do thấy

quận Cẩm Lệ thuận tiện cho việc mua bán ma túy và trung chuyển đi các địa bàn

lân cận, cũng như dễ lẩn trốn nên Đông đã lựa chọn quận Cẩm Lệ làm địa điểm cất

dấu và thực hiện hành vi mua bán ma túy.

2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội

Đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại trong lĩnh vực kinh tế - xã hội

tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Trước hết nhấn mạnh rằng sự phát triển mạnh

về kinh tế, đặc biệt là giao thương hàng hóa và giao dịch bất động sản đang diễn ra

trên địa bàn. Nhiều đối tượng đã lợi dụng việc giao thương buôn bán và lòng tin của

người dân để thực hiện hành vi phạm tội, nên đây được xem là nguyên nhân chính

làm gia tăng các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, điều này thấy rõ khi đánh giá cơ

45

cấu tội phạm trên địa bàn quận xét theo các nhóm tội phạm được thực hiện tại

Chương 1, nhóm các tội xâm phạm quyền sở hữu đã tăng từ 09 vụ/ 11 bị cáo vào

năm 2015 lên 14 vụ/17 bị cáo vào năm 2019 và nhóm này đứng ở vị trí thứ hai

trong tổng số 07 nhóm tội có đời sống thực tế trên địa bàn quận với 57 bị cáo, trong

đó đa phần là tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản với 32 vụ/37 bị cáo (từ 5vu/7 bị

cáo năm 2015 tăng lên 8 vụ/9 bị cáo năm 2019). Điển hình như vụ án Hồ Thị Nga

(1974), Trần Đình Chiến (1976, trú P. Hòa Thọ Đông, Q. Cẩm Lệ) và Đặng Thị

Tình (1983, trú xã Hòa Phong, H. Hòa Vang, Đà Nẵng) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản”. Theo cáo trạng, từ năm 2009 đến tháng 10-2016, Hồ Thị Nga thực hiện

tổng cộng 32 vụ lừa đảo, chiếm đoạt hơn 17 tỷ đồng. Còn Trần Đình Chiến, nguyên

là công chứng viên- Trưởng Văn phòng Công chứng An Phát (tại xã Hòa Phong, H.

Hòa Vang) nhưng vẫn câu kết với Hồ Thị Nga thực hiện 2 vụ lừa đảo chiếm đoạt

của bà Võ Thị Nga số tiền 770 triệu đồng [17]. Hay như vụ án Trương Chung (sinh

năm 1997, trú tại thôn Cẩm Nam, Hòa Châu, Hòa Vang, Đà Nẵng) bị Tòa án nhân

dân quận Cẩm Lệ tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo

thông tin điều tra vụ án thì khi đăng nhập vào facebook thì thấy thông tin anh Trần

Văn Cường (sinh năm 1992, trú Thăng Bình, Quảng Nam) cần cầm cố chiếc xe mô

tô hiệu Exciter. Sau đó Chung liên hệ anh Cường hẹn gặp để xem xe. Đến ngày

23/6/2019, khi thấy anh Cường điều khiển xe mô tô hiệu Exciter đến địa điểm hẹn,

Chung đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt xe của anh Cường [19].

Ngoài ra, việc có nhiều khu công nghiệp được xây dựng mới, nhiều khu dân

cư đang dần hình thành và phát triển, đã thu hút người dân từ nhiều tỉnh thành trong

cả nước đến sinh sống và làm việc, nhất là thanh thiếu niên với đa phần là nam giới.

Đây là nguyên nhân gây nên tình trạng mất an ninh trật tự và gia tăng các tội phạm

do thanh thiếu niên thực hiện trên địa bàn. Cụ thể, khi đánh giá cơ cấu tình hình tội

phạm xét theo giới tính và độ tuổi tại Chương 1 có thể thấy, số bị cáo là người từ 18

đến 30 tuổi là 176, chiếm 59,66% tổng số bị cáo, và tội phạm do nam giới thực hiện

gấp đôi nữa giới, trong đó đa phần là phạm tội cố ý gây thương tích và tội phạm về

ma túy, điển hình là các vụ án như: Vào hồi 18 giờ ngày 23/7/2019, tại phòng số 7,

46

nhà trọ số 28-30 Hà Duy Phiến (thuộc tổ 55, P.Hòa Xuân, Q.Cẩm Lệ), Đội Cảnh sát

ma túy Công an quận Cẩm Lệ phát hiện bắt quả tang Lê Vũ Linh (1983, trú Q. Hải

Châu), Kim Thị Hạnh (1995, trú H. Châu Thành, Trà Vinh) có hành vi mua bán trái

phép chất ma túy. Tại hiện trường, Công an quận Cẩm Lệ lập biên bản thu giữ 4 gói

ma túy, hơn 4,2 triệu đồng, 1 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 4 ĐTDĐ, 3 xe mô-tô và

nhiều đồ vật tài sản liên quan. Đến 20 giờ ngày 24/7/2019, cũng tại tổ 55 (P. Hòa

Xuân), Đội Đội Cảnh sát ma túy Công an quận Cẩm Lệ phát hiện, bắt quả tang Võ

Quốc Hòa (1991) và Phạm Quang (1995, cùng trú Q. Sơn Trà) có hành vi mua bán

trái phép chất ma túy, thu giữ ma túy đá giấu trong điện thoại đồ chơi trẻ em và số

tiền 3 triệu đồng [30].

Quận Cẩm Lệ nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung là một trong những

địa điểm du lịch nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới, điều đó kéo theo sự phát

triển của các lĩnh vực thương mại và dịch vụ, thu hút nhiều người nước ngoài đến

thăm quan du lịch và sinh sống trên địa bàn. Đây là nguyên nhân làm gia tăng số

lượng các tội phạm liên quan đến người nước ngoài phạm tội trên địa bàn cũng có

xu hướng tăng lên cả về số vụ án và số bị cáo. Điển hình là vụ án Cơ quan cảnh sát

điều tra Công an thành phố Đà Nẵng bắt đối tượng Ban Wei Bing (SN 1981) và Ban

Shan Ke (SN 1975) về tội “Trộm cắp tài sản” vì đã có hành vi đục két sắt tại trụ sở

các công ty ở huyện Hòa Vang và quận Cẩm Lệ trộm hơn 1,5 tỷ đồng [14].

2.2.3. Nguyên nhân và điều kiện về tâm lý - văn hóa xã hội

Toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh và mạnh, đi song hành với đó là sự du nhập

của nhiều nền văn hóa từ các nước trên thế giới vào Việt Nam, trong số đó không ít

các luồng văn hóa không phù hợp với thuần phong mỹ tục của nước ta cũng theo đó

mà du nhập vào. Gây ra sự biến đổi các giá trị xã hội, suy thoái về đạo đức, lối sống

của một bộ phận dân cư, làm phát sinh không ít những hành vi sai lệch chuẩn mực

xã hội, biểu hiện rõ nét trong nhận thức, hành vi của giới trẻ. Đây là một trong

những nguyên nhân góp phần làm gia tăng số lượng vụ phạm tội do thanh thiếu niên

thực hiện với tính chất ngày càng phức tạp, điều này thấy rõ thông qua cơ cấu tình

hình tội phạm đã được phân tích tại Chương 1, theo đó, đa phần tội phạm xảy ra

47

trên địa bàn được thực hiện bởi nhóm thanh niên từ 14 đến 30 và hầu hết trong số

đó là người không có trình độ học vấn hoặc học sinh lớp 11, 12, nên mức án mà

TAND quận Cẩm Lệ đã tuyên đối với nhóm người trên đa phần là dưới 7 năm tù

giam hoặc cải tạo không giam giữ với số lượng lần lượt là 169 và 77 trường hợp

nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành công dân tốt và có ích thay vì cách ly họ lâu dài

khỏi xã hội.

Một điều thấy rõ về điều kiện tâm lý – văn hóa xã hội là sự du nhập luồng

văn hóa phương tây đang dần trở nên phổ biến trên địa bàn Quận, trong đó có luồng

tư tưởng về lối sống phóng thoáng, thực dụng, lười biếng trong lao động, gia tăng

nhu cầu hưởng thụ trong đời sống của bộ phận lớn giới trẻ trên địa bàn Quận, dẫn

đến sa đà vào các hình thức vui chơi, giải trí thiếu lành mạnh, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ

vào các tệ nạn xã hội, từ đó làm gia tăng tình trạng phạm tội ở thanh thiếu niên. Xu

hướng này thấy rõ thông qua kết quả phân tích về cơ cấu của tình hình tội phạm xét

theo độ tuổi tại Chương 1, số bị cáo thuộc nhóm từ 14 đến 18 tuổi và từ 18 đến 30

tuổi chiếm tỷ lệ cao với số lượng lần lượt là 56 và 176 bị cáo. Điển hình như vụ án

Võ Thị Nhỏ (1996), Đặng Hữu Phụng (1991), Nguyễn Phụng (1997), Nguyễn Thế

Công (1997), Lê Nguyễn Minh Phương (1999) và Nguyễn Thanh Tuyến (1999) bị

Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về

hành vi “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2, Điều 104 Bộ luật Hình sự vào ngày

30/11/2015. Theo thông tin điều tra: sự việc xảy ra vào tối 22/5, sau khi đi nhậu, Võ

Thị Nhỏ đến quán cà-phê Study gặp Nguyễn Thị Thu Diễm (1989, trú tổ 29B, P.

Hòa An) là nhân viên phục vụ. Giữa 2 người có lời qua tiếng lại dẫn đến mâu thuẫn.

Đến 21 giờ ngày 23-5, Nhỏ uống cà-phê cùng với bạn tại quán Ti Gôn (số 77-Yên

Thế, TP Đà Nẵng) thì gặp người yêu của Diễm tên là Chín đi cùng với Nguyễn Đức

Linh. Tại đây, Chín đến hỏi Nhỏ lý do vì sao trêu chọc Diễm thì Nhỏ giải thích là

do say rượu và xin hòa giải. Lúc này Linh đến dùng mũ bảo hiểm đuổi đánh Nhỏ bỏ

chạy khỏi quán. Sau khi chạy thoát, Nhỏ tập hợp 5 người bạn là Nguyễn Thế Công,

Lê Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thanh Tuyến, Đặng Hữu Phụng, Nguyễn Phụng

đi tìm Linh đánh trả thù. Theo kết quả giám định của Trung tâm Pháp y Tp. Đà

48

Nẵng, thương tích của Nguyễn Đức Linh được xác định là 28% [28].

Nhân cách của mỗi cá nhân, đặc biệt là giới trẻ được hình thành trong quá

trình xã hội hóa, dưới sự tác động của các yếu tố môi trường, trong đó yếu tố giáo

dục đóng vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn quận Cẩm Lệ số

lượng người không có trình độ học vấn tương đối nhiều, nguyên nhân do điều kiện

hoàn cảnh gia đình khó khăn nên từ nhỏ họ không được học hành, hay thậm chí do

nhận thức của người dân về việc học tập còn chưa đúng, ngoài ra do sự di cư từ

nhiều vùng lân cân đến địa bàn Quận sinh sống và làm việc. Nhóm những người

không có trình độ học vấn thường là thiếu hiểu biết về quy định pháp luật và chính

sách của địa phương nên dễ bị dụ dỗ tham gia vào các nhóm tội phạm hoặc trực tiếp

thực hiện các hành vi phạm tội. Điều này thấy rõ khi khi đánh giá cơ cấu tình hình

tội phạm trên địa bàn Quận xét theo trình độ học vấn, nghề nghiệp và tiền án tiền sự

tại Chương 1, theo đó, số lượng bị cáo là người không có trình độ học vấn chiếm tỷ

lệ cao nhất so với các nhóm còn lại với số liệu là 72 bị cáo. Ngoài ra, nhóm những

người không có trình độ học vấn thường là không có nghề nghiệp hoặc lao động

phổ thông, nên dễ nảy sinh việc thực hiện hành vi phạm tội như trộm cắp, cướp tài

sản, buôn bán ma túy để có tiền sử dụng cho cá nhân, nên nhóm những người không

có nghề nghiệp và lao động phổ thông với số lượng lần lượt là 77 và 91 bị cáo, tổng

số bị cáo của hai nhóm này chiếm 56,95% tổng số bị cáo toàn Quận. Thêm vào đó,

nhóm này thường có nhiều tiền án, tiền sự về nhiều tội phạm trước đó (chiếm

27,12% số lượng bị cáo toàn quận), điển hình như vụ án Ngô Thanh Hoàng (SN

1989, ngụ tổ 2, P.Hòa Xuân, Q.Cẩm Lệ), Lê Hoàng Nam (SN 1981, ngụ Q.Cẩm Lệ)

cung đồng bọn bị Cơ quan CSĐT Công an quận Cẩm Lệ khởi tố về tội “đánh

bạc”, “tổ chức đánh bạc” và “bắt giữ người trái pháp luật”,. Theo kết quả điều tra

vụ án thì đây là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, có nhiều tiền án

tiền sự trước đó như tiền án về “trộm cắp tài sản”, “hủy hoại hoặc cố ý làm hư

hỏng tài sản” [2].

Thêm vào đó, hiện nay trên địa bàn quận Cẩm Lệ có nhiều gia đình vì chạy

theo lối sống của cơ chế thị trường đã khiến thời gian dành cho thành viên gia đình

49

ít đi, cha mẹ bất hòa, không quan tâm đến con cái, việc giáo dục trong gia đình

không được chú trọng, mặt khác việc quá nuông chiều con cái, để con cái tiếp xúc

quá sớm với đồng tiền đã hình thành những nhân cách xấu, không những thế nhiều

gia đình vì nhiều lý do khác nhau mà dẫn đến ly hôn cũng ảnh hưởng không nhỏ

đến tâm lý của con cái, nảy sinh suy nghĩ tiêu cực, bất cần từ đó có những hành vi

côn đồ, vi phạm pháp luật. Về phía nhà trường thì mặc dù đã đưa ra nhiều biện pháp

tuyên truyền, vận động học sinh học tập và rèn luyện, tuy nhiên thực tế phương

pháp giảng dạy vẫn còn thiên về việc giảng dạy những kiến thức phổ thông, chưa

quan tâm giáo dục nhân cách, đạo đức làm người và kỹ năng sống cho các em học

sinh. Việc giảng dạy về nhân cách còn sơ sài, chưa có hình thức lôi cuốn và chỉ

được coi là một môn học phụ dẫn đến việc giáo dục chưa đạt được mục đích. Bên

cạnh đó, công tác tuyên truyền trên địa bàn quận Cẩm Lệ của các tổ chức xã hội

như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ chưa thực sự hiệu quả, các phong trào phát động

còn nặng về hình thức mà chưa có sự sâu sắc về nội dung tuyên truyền. Điều này dễ

thấy đối với những thanh thiếu niên đang học lớp 11 và 12, trong thời điểm những

thanh niên này đang đứng trước sự lựa chọn sự nghiệp tương lai cho bản thân họ,

việc định hướng từ gia đình, nhà trường và tuyên truyền từ các tổ chức đoàn thanh

niên có vai trò quan trọng giúp họ lựa chọn con đường sự nghiệp, tuy nhiên vì thiếu

quan tâm từ gia đình, thiếu định hướng từ nhà trường gây ra tâm lý chán học, bỏ

học, kéo theo đó là tụ tập ăn chơi, tham gia vào các tệ nạn xã hội và nghiêm trọng

hơn là thực hiện nhiều hành vi phạm tội, như trộm cắp, cướp giật, cố ý gây thương

tích. Chính vì vậy căn cứ vào kết quả phân tích tại Chương 1, khi xét cơ cấu tình

hình tội phạm theo trình độ học vấn thì nhóm thanh thiếu niên lớp 11, 12 chỉ xếp

sau nhóm những người không có trình độ học vấn với số bị cáo lần lượt là 61 và 51,

cao hơn hẵn các nhóm trình độ văn hóa còn lại. Điển hình như trường hợp TAND

TP Đà Nẵng đã tuyên phạt Trần Quang Hùng (17 tuổi, trú quận Cẩm Lệ) tám năm

tù giam về tội hiếp dâm trẻ em. Theo kết quả điều tra, tháng 8/2016, Hùng chủ động

làm quen LNT qua Facebook rồi thường xuyên nhắn tin tán tỉnh. Khi thấy cá đã cắn

câu, Hùng rủ T. đi chơi rồi ngỏ ý quan hệ tình dục... Sau lần đó, T. đã chủ động

50

chấm dứt liên lạc với Hùng. Hùng tiếp tục lên mạng tìm tài khoản Facebook của các

bé gái để kết bạn. Nạn nhân lần này là KTN. Vẫn với chiêu bài cũ, bị cáo dụ dỗ rồi

giở trò đồi bại với N. Hùng còn đe dọa để đòi quan hệ với N nhiều lần sau đó. Lúc

bị xâm hại, cả hai nạn nhân đều chưa đủ 13 tuổi [1].

Ngoài ra với tâm lý làm giàu bằng mọi cách của bộ phận người dân trên địa

bàn Quận cũng đang là vấn đề đáng quan ngại, đặc biệt là thanh thiếu niên, bất chấp

quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục, thậm chí là chà đạp nhân phẩm, danh

sự của người khác để làm lợi cho bản thân. Từ đó, góp phần vào việc gia tăng các

tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, thực tế này thể hiện thông qua phân tích về thực

trạng tình hình tội phạm tại Chương 1, theo đó, nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu

chiếm tỷ lệ tương đối cao với 55 vụ/67 bị cáo. Điển hình như vụ án Phạm Mạnh

Thắng (1979) và Phạm Minh Phúc (1980, cùng trú xã Đông Kinh, H. Đông Hưng,

Thái Bình) bị cơ quan CSĐT CAQ Cẩm Lệ về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vì

đã làm giả vé số trúng thưởng để lừa bà Nguyễn Thị Niên (1959, trú xã Tịnh Hiệp,

H. Tịnh Sơn, Quảng Ngãi) vào trưa 25-8, tại khu vực ngã ba Cao Xuân Huy - Hà

Huy Giáp (thuộc P. Khuê Trung, Q. Cẩm Lệ) và nhiều người khác trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng [27].

Như vậy, trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của điều kiện kinh

tế - xã hội, xu hướng thay đổi về định hướng giá trị sống của mỗi cá nhân trong xã

hội đang trở nên phổ biến. Sự giảm sút về giá trị truyền thống như tình thương

người, lòng hiếu thảo, tình nghĩa vợ chồng, anh em, cha mẹ với con cái dần bị xem

nhẹ hay thậm chí là bị coi thường. Xu hướng trên hiện nay đang là vấn đề chung

trên toàn quốc, không ít những biểu hiện, tập quán, thói quen xấu, lạc hậu có hại

cho cá nhân và xã hội đang dần bộc lộ và lan rộng hơn trong cộng đồng dân cư đang

sinh sống trên địa bàn như: cờ bạc, rượu chè, tệ nạn ma túy, từ đó đặt ra thách thức

lớn cho chính quyền Quận trong việc đẩy lùi và dần bài trừ các tư tưởng văn hóa lạc

hậu, đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng.

2.2.4. Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức - quản lý xã hội

Đó là những hạn chế, yếu kém, vi phạm trong công tác tổ chức - quản lý xã

51

hội trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Trước hết cần nhấn mạnh rằng trong xây dựng và tổ

chức thực hiện các biện pháp tổ chức - quản lý xã hội Đà Nẵng nói chung, quận

Cẩm Lệ nói riêng đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ góp phần đảm bảo tình

hình an ninh trật tự trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công

tác tổ chức quản lý xã hội của chính quyền quận Cẩm Lệ vần còn tồn tại những mặt

yếu kém nhất định, chính những yếu kém đó là nguyên nhân và điều kiện thuận lợi

cho sự phát sinh và phát triển của nhiều loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về

kinh tế và tội phạm liên quan đến người nước ngoài đang sinh sống và làm việc trên

địa bàn. Theo đó, có thể kể đến một số những yếu kém trong công tác tổ chức quản

lý xã hội trên địa bàn như sau:

Thứ nhất: Trước tiên, phải nói đến việc tuần tra, kiểm soát của lực lượng an

ninh, trật tự công cộng trên địa bàn thành phố hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Đặc

thù về vị trí địa lý là nơi tọa lạc của bến xe trung tâm và giáp ranh với các địa bàn

trọng điểm về tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như huyện Hòa Vang, quận

Ngũ Hành Sơn, quận Thanh Khê, quận Liên Chiểu, quận Hải Châu, trong khi, lực

lượng tuần tra thường xuyên của Công an quận, Công an phường còn chưa đáp ứng

với yêu cầu thực tế và trang thiết bị, công cụ phương tiện trang bị cho lực lượng

tuần tra chưa đầy đủ. Những hạn chế trên là nguyên nhân, điều kiện làm cho tình

hình tội phạm trên địa bàn không những không giảm mà còn có xu hướng tăng, đặc

biệt là các tội phạm về ma túy liên quận và liên tỉnh, điều này thể hiện rõ thông qua

phân tích về động thái của tình hình tội phạm và cơ cấu tình hình tội phạm xét theo

loại tội phạm tại Chương 1, theo đó, khi so sánh với năm 2015 thì thấy rõ sự gia

tăng mạnh cả về số vụ và số bị cáo vào năm 2019 với tỷ lệ tăng lần lượt là 147,73%

vụ và 142,31% bị cáo, đặc biệt là tội phạm về ma túy, từ 16 vụ/19 bị cáo vào năm

2015 đã tăng lên 20 vụ/21 bị cáo vào năm 2019. Điển hình như vụ án Nguyễn Xuân

Sang cùng đồng bọn bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng khởi

tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Theo thông tin điều tra, từ giữa năm

2018, Công an TP Đà Nẵng phát hiện đối tượng Nguyễn Xuân Sang có biểu hiện

nghi vấn hoạt động ma túy nên đưa vào “tầm ngắm”. Đến tháng 5/2019, Công an

52

xác định Sang có móc nối với các đối tượng ngoại tỉnh hình thành đường dây ma

túy từ TP Hồ Chí Minh và Nghệ An về Đà Nẵng tiêu thụ với phương thức hoạt

động rất tinh vi, xảo quyệt. Vào lúc 19h ngày 20/6/2019, tại phường Thanh Bình

(quận Hải Châu), cơ quan công an bắt quả tang Nguyễn Mỹ Ngọc (SN 1978, hộ

khẩu Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội; chỗ ở K24/1B đường Thanh Sơn, phường

Thanh Bình) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vào lúc 22h30 cùng ngày, tại

phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, công an bắt quả tang Nguyễn Bảo Quỳnh Duyên

(SN 1996, hộ khẩu tại tổ 64, Hòa An, Cẩm Lệ, Đà Nẵng) về hành vi mua bán trái

phép chất ma túy. Mở rộng chuyên án, Công an TP Đà Nẵng bắt khẩn cấp Nguyễn

Xuân Sang (SN 1987, trú tổ 38A, phường Hòa Thuận Đông, Hải Châu, Đà Nẵng)

về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, là đối tượng cầm đầu đường dây [16].

Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng do nhiều đối tượng đến từ nhiều địa phương

khác nhau thực hiện hành vi phạm tội trên nhiều quận của Tp. Đà Nẵng, trong đó

có địa bàn quận Cẩm Lệ.

Thứ hai: Công tác quản lý trên mặt trận văn hóa tư tưởng còn buông lỏng,

các trào lưu văn hóa nước ngoài du nhập và phát triển nhanh chóng, băng đĩa, trò

chơi bạo lực, các tiệm game online còn mở tràn lan, các sách báo mang tính bạo lực

đang được bày bán công khai mà không được kiểm soát, đây là những nguồn có tác

động xấu đến việc hình thành nhân cách của thanh thiếu niên, thanh thiếu niên dần

có xu hướng giải quyết vấn đề bằng bạo lực tahy vì hòa giải, thương lượng, từ đó

làm gia tăng các trường hợp thanh thiếu niên thực hiện các hành vi phạm tội liên

quan đến bạo lực trên địa bàn Quận. Thực trạng này thể hiện rõ thông qua kết quả

phân tích về cơ cấu tình hình tội phạm xét theo độ tuổi và trình độ học vấn cũng

như cơ cấu tình hình tội phạm xét theo các loại tội phạm tại Chương 1, theo đó, tỷ lệ

bị cáo là thanh thiếu niên từ 14 đến 18 tuổi xếp thứ hai với 56 bị cáo, đa phần họ là

học sinh lớp 11 và 12, khi đánh giá cơ cấu tình hình tội phạm xét theo trình độ học

vấn thì hai nhóm này chiếm tỷ lệ cao hơn hẵn các nhóm còn lại và chỉ xếp sau nhóm

từ 18 đến 30 tuổi, ngoài ra, tội cố ý gây thương tích cũng có xu hướng tăng từ 3

vụ/3 bị cáo vào năm 2015 lên 11 vụ/13 bị cáo vào năm 2019, đa phần được gây ra

53

bởi thanh thiếu niên. Bên cạnh dó thì chất lượng giáo dục, tuyên truyền trong Nhà

trường mới chỉ tập trung vào kiến thức văn hóa, chưa có các chương trình tập trung

cho nhận thức, hiểu biết xã hội, kỹ năng sống, dẫn đến bộ phận giới trẻ nhận thức

sai về các chuẩn mực xã hội và có hành vi phạm tội đang có xu hướng tăng. Điển

hình như vụ án Huỳnh Thanh Nhật (1992) cùng đồng bọn bị Cơ quan cảnh sát điều

tra Công an quận Cẩm Lệ khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”, theo thông tin điều

tra; Vào lúc 23 giờ ngày 26/11/2015, Huỳnh Thanh Nhật đi nhậu về đến xưởng mộc

của anh Nguyễn Ân (tại tổ 16A, P. Hòa An) thì nghe tiếng đập cửa và la lớn bên

xưởng cơ khí gần kề nên qua xem.Tại xưởng cơ khí có Lê Viết Nhuận (1992). Nhật

hỏi Nhuận có chuyện gì la lớn thì được Nhuận trả lời là “xưởng của tao, muốn làm

gì thì làm”. Vì chuyện này mà giữa Nhuận và Nhật nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến xô

xát. Tuy nhiên thay vì nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn thì Nhuận lại dùng tuýp

sắt đánh Nhật thương tích ở đầu, sau đó được mọi người can ngăn. Không chịu

thua, Nhật về xưởng mộc lấy con dao bấm sang xưởng cơ khí đâm Nhuận 4 nhát

gây thương tích [29].

Thứ ba: Công tác quản lý về nhân khẩu, địa chỉ cư trú đặc biệt là công tác

nắm tình hình cũng như quản lý lưu trú, tạm trú của người nước ngoài trên địa bàn

quận còn nhiều tồn tại yếu kém nên quản lý lao động không phép còn nhiều bất cập,

có nhiều trường hợp nhập cảnh sai với mục đích của thị thực (visa). Chẳng hạn, họ

sang du lịch nhưng thuê căn hộ cao cấp rồi ở đó và thông qua điện thoại đón các

đoàn du lịch hoặc làm những công việc khác hay thậm chí là cư trú trên địa bàn

quận Cẩm Lệ để thực hiện hành vi phạm tội. Điển hình như vụ án: Ban Wei Bing

(SN 1981) và Ban Shan Ke (SN 1975) bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Đà

Nẵng bắt về hành vi trộm cắp tài sản do trước đó đã đục két sắt tại trụ sở các công

ty ở huyện Hòa Vang và quận Cẩm Lệ trộm hơn 1,5 tỷ đồng [14]. Ngoài ra, theo

quy định thì trường hợp trao đổi ngoại tệ nếu bị phát hiện sẽ xử lý, tuy nhiên, đến

nay các ngành chức năng chưa phát hiện trường hợp nào, chủ yếu là những vi phạm

về không niêm yết giá, không có nhãn hàng hóa, kinh doanh hàng hóa không rõ

nguồn gốc xuất xứ.

54

Thứ tư: Công tác quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực du lịch còn nhiều hạn chế, nhiều đơn vị thành lập hoạt động một thời

gian, sau đó đóng cửa doanh nghiệp và mở doanh nghiệp mới để né tránh công tác

thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng. Hình thức xử phạt tước giấy phép kinh

doanh lữ hành quốc tế hiện nay không còn là hình thức xử phạt có tính răn đe mạnh,

nhất là đối với doanh nghiệp chưa có thương hiệu. Ngoài ra, một bộ phận doanh

nghiệp lữ hành, hướng dẫn viên Việt Nam, lái xe… có hành vi tiếp tay cho người

nước ngoài hoạt động hướng dẫn du lịch, khi bị phát hiện thì bao che cho đối tượng

vi phạm cũng gây khó khăn cho công tác thanh tra, xử lý vi phạm của cơ quan chức

năng. Bên cạnh đó công tác quản lý đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực bất động sản và các văn phòng công chứng trên địa bàn cũng chưa chặt chẽ, dẫn

đến tình trạng nhiều cá nhân, doanh nghiệp lợi dụng sơ hở để thực hiện hành vi

phạm tội. Từ những hạn chế trên là nguyên nhân và điều kiện làm cho số lượng các

vụ án xâm phạm quyền sở hữu không những không giảm mà còn có xu hướng gia

tăng. Thực tế này thể hiện thông qua kết quả phân tích về cơ cấu tình hình tội phạm

trên địa bàn quận xét theo các loại tội phạm tại Chương 1, cụ thể, nhóm các tội xâm

phạm quyền sở hữu đứng ở vi trí thứ hai sau nhóm các tội phạm về ma túy và số vụ

phạm tội và số bị cáo thuộc nhóm này có xu hướng tăng từ với 9 vụ/11 bị cáo vào

năm 2015 lên 14 vụ/17 bị cáo vào năm 2019. Điển hình là vụ án Công ty CP Đầu tư

và phát triển Quảng Đà do bà Nguyễn Thị Bích Thuận làm Tổng giám đốc, đã “vẽ”

ra dự án Khu dân cư Nam Cẩm Lệ và 121 lô đất đường Đô Đốc Lân (P.Hòa Xuân,

Q. Cẩm Lệ) sau đó điều hành nhân viên kinh doanh nhận tiền đặt chỗ trái phép cho

hàng trăm người, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng [15].

Thứ năm: Năng lực của đội ngũ cán bộ trên địa bàn quận Cẩm Lệ chưa đáp

ứng với yêu cầu phát triển của điều kiện kinh tế xã hội, từ đó dẫn đến chất lượng

của công tác quản lý còn nhiều hạn chế, chất lượng ban hành văn bản quy phạm

pháp luật còn thấp, chưa mang tính khả thi, không đáp ứng được yêu cầu quản lý xã

hội, đây cũng là nguyên nhân và điều kiện để các đối tượng lợi dụng thực hiện các

hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu có xu hướng

55

gia tăng, điều này thể hiện rõ thông qua kết quả phân tích tại Chương 1, tội xâm

phạm quyền sở hữu từ với 9 vụ/11 bị cáo vào năm 2015 tăng lên 14 vụ/17 bị cáo

vào năm 2019. Điển hình như: Vụ án Trần Quốc Thịnh lợi dụng sơ hở của phòng

công chứng để bán sổ đỏ giả cho người khác chiếm đoạt số tiền 330 triệu đồng.

Theo thông tin điều tra: khi lên mạng, Thịnh thấy có người phường Hòa Thọ Đông

(quận Cẩm Lệ) bán lô đất với đầy đủ thông tin. Thịnh tải hình ảnh này về và chuyển

cho nhóm đối tượng (chưa rõ lai lịch) để làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất của lô đất này mang tên Trần Quốc Thịnh với giá 10 triệu đồng. Khi có “sổ đỏ”

giả, tháng 11/2016, Thịnh nói với vợ chồng anh Trương H. và chị Nguyễn Thị Y.N.

(cùng trú quận Thanh Khê) là lô đất trên thuộc sở hữu của mình và cần tiền gấp nên

bán. Bên mua tưởng thật, hai bên cùng tới phòng công chứng trên đường Nguyễn

Văn Linh (Đà Nẵng) tiến hành lập hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử

dụng đất với giá trị 330 triệu đồng. Đến tháng 2/2017, vợ chồng anh H. gửi hồ sơ

đến Văn phòng đăng ký đất đai quận Cẩm Lệ để đăng ký chuyển quyền sở hữu thì

phát hiện sổ đỏ mang tên Trần Quốc Thịnh là giả nên đã chuyển hồ sơ cho Công an

quận Cẩm Lệ điều tra [20]; Vụ án Trần Phước Lộc (39 tuổi, ngụ H.Hòa Vang),

Huỳnh Thị Đào (59 tuổi) và Hồ Văn Kim (64 tuổi, cùng ngụ Q.Cẩm Lệ, cùng

TP.Đà Nẵng) đã lợi dụng sai sót của các cơ quan giải quyết việc đền bù ở địa bàn

Quận để thực hiện hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo thông tin điều tra thì

nguyên nhân là Các đơn vị Trung tâm đo đạc bản đồ, Công ty quản lý khai thác đất,

Ban Giải tỏa đền bù các dự án đầu tư xây dựng số 2 không cập nhật chủ đất mới,

vẫn nhầm là của bị cáo Đào, dẫn đến đền bù “nhầm” cho Đào. Các đơn vị cũng

kiểm định đo đạc tùy tiện, hồ sơ không có chủ sở hữu ký xác nhận. Khi nhận thông

báo đến bù, bà Đào biết “nhầm” nhưng vẫn cùng Kim (người sống như vợ chồng)

và Lộc (“cò” đất) làm giả nhiều giấy tờ, thủ tục để nhận đất và bán lấy 520 triệu

đồng vào năm 2011 [40].

2.2.5. Nguyên nhân và điều kiện về phát hiện và xử lý tội phạm

Đó là những hạn chế, vi phạm trong phát hiện và xử lý tội phạm trên địa bàn

quận Cẩm Lệ trong thời gian qua. Thực tế công tác phát hiện và xử lý tội phạm trên

56

địa bàn quận Cẩm Lệ nói riêng và toàn Tp. Đà Nẵng nói chung đã đạt được những

kết quả tích cực, góp phần vào việc đảm bảo an ninh trật tự cho khu vực, tuy nhiên

vẫn chưa đáp ứng được với yêu của thực tế khi nhiều hành vi phạm tội xảy ra nhưng

không bị phát hiện và xử lý hay phát hiện không kịp thời dẫn đến sự lan rộng của

hành vi phạm tội. Trong số đó có thể kể đến một số hạn chế về công tác phát hiện

và xử lý tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ như sau:

Thứ nhất: Công tác thu thập và xử lý các thông tin vi phạm, tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ còn nhiều hạn chế, như việc tiếp nhận xử lý thông tin vi phạm, tội

phạm chưa kịp thời, cũng như chưa kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngoài ra công tác

xác minh ban đầu tại Công an phường rồi chuyển cho Cơ quan điều tra của Công an

quận còn kéo dài, gây khó khăn cho công tác điều tra. Tuy ngày 09/11/2015 Chủ

tịch UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số 8394-QĐ/UBND về

“Tăng cường phối hợp các lực lượng tuần tra, phòng chống tội phạm, bảo đảm an

ninh trật tự” và trên địa bàn Quận đã có các Quy chế phối hợp giữa các đơn vị

nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đồng thời, tăng cường trách nhiệm phối hợp của

các cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhưng trên

thực tế thì hiệu quả của công tác thu thập và xử lý thông tin vi phạm, tội phạm trên

địa bàn quận Cẩm Lệ chủ yếu được thực hiện bởi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an

Quận và Viện kiểm sát nhân dân Quận, số lượng các thông tin vi phạm tội phạm do

các đơn vị khác cung cấp không nhiều. Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo, hướng dẫn,

kiểm tra, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong hoạt động

tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm chưa kịp thời, đầy đủ, thường

xuyên và liên tục. Lực lượng cán bộ, chiến sỹ, điều tra viên trực tiếp làm công tác

này, đặc biệt là lực lượng cấp xã, phường còn thiếu nhiều; biên chế thiếu ổn định,

thường xuyên có sự điều chuyển; cơ sở vật chất ở một số đơn vị còn thiếu, trang bị

công cụ hỗ trợ lực lượng phòng chống tội phạm chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngoài

ra, công tác thống kê, tổng hợp kết quả xử lý tin báo tố giác tội phạm còn bất cập,

dẫn đến hiệu quả của công tác giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm chưa đáp ứng

57

với yêu cầu thực tế. Đây là một trong những nguyên nhân và điều kiện làm gia tăng

số lượng các vụ phạm tội trên địa bàn, điều này thấy rõ thông qua kết quả phân tích

về động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận tại Chương 1, cụ

thể, so với năm 2015 thì tỷ lệ tăng số vụ án và số bị cáo ở năm 2019 lần lượt là

147,73% và 142,31%.

Thứ hai: Công tác nắm, quản lý và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ

còn nhiều hạn chế, còn để xảy ra tình trạng Kiểm sát viên không phát hiện sự việc

nhiều thông tin có dấu hiệu tội phạm nhưng Công an bỏ lọt hoặc nhiều thông tin

tiếp nhận nhưng quá thời hạn giải quyết, hay thậm chí truy tố bị can không đúng với

tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, công tác phát hiện vi phạm và

kiến nghị yêu cầu khắc phục chưa kịp thời. Do công tác phối hợp giữa Viện kiểm

sát với cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa tốt và lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân

quận Cẩm Lệ thiếu quan tâm chỉ đạo đối với công tác tiếp nhận và giải quyết tin

báo, tố giác về tội phạm.

Thứ ba: Trong quá trình xét sử, Hội đồng xét xử mới chỉ dừng lại ở nhiệm vụ

chuyên môn là xét xử và ban hành phán quyết mà chưa có sự quan tâm nhiều đến

việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Hiệu quả tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, đây là

nguyên nhân và điều kiện làm gia tăng các tội phạm do thanh thiếu niên và người

không có trình độ học vấn thực hiện trên địa bàn, thực trạng này thể hiện rõ thông

qua kết quả phân tích về cơ cấu tình hình tội phạm xét theo độ tuổi, trình độ học

vấn, nghề nghiệp và tiến án tiền sự của người phạm tội tại Chương 1, theo đó, tỷ lệ

phạm tội ở người có độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm 59,66% tổng số vụ phạm tội, tội

phạm là người không có trình độ học vấn, nhóm học sinh lớp 11, 12 chiếm tỷ lệ

tương đối lớn so với các nhóm còn lại, số lượng lớn tội phạm là người không có

nghề nghiệp ổn đinh và người có tiền án tiền sự tái phạm tội cũng chiếm tỷ lệ tương

đối cao với 27,12%.

Thêm vào đó, công tác đánh giá chứng cứ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

58

còn nhiều quan điểm chưa thống nhất, công tác giám định tư pháp như: giám định

tài chính, kế toán,…còn nhiều bất cập, vướng mắc, thời gian giám định dài, kinh phí

chi trả giám định lớn, có một số kết luận giám định không chính xác, phải quyết

định trưng cầu giám định nhiều lần. Ngoài ra hành vi của bị hại trong nhiều trường

hợp cũng là nguyên nhân, điều kiện để các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội,

điển hình như vụ án Huỳnh Thanh Nhật (1992) cùng đồng bọn bị Cơ quan cảnh sát

điều tra Công an quận Cẩm Lệ khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”, nguyên nhân

do trước đó Nhuận đã có thái độ thách thức Nhật khi được Nhật hỏi lý do la lớn

trong xưởng, dẫn xô xát và Nhuận đã dùng tuýp sắt đánh Nhật thương tích ở đầu

nên Nhật về lấy dao bấm sang xưởng cơ khí đâm Nhuận 4 nhát gây thương tích

[28].

Chính vì những nguyên nhân như trên, dẫn đến tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ có xu hướng tăng về cả số vụ và bị cáo, đặc biệt là các loại tội

phạm như: Mua bán trái phép chất ma túy, Cướp, cướp giật, trộm cắp tài sản, tội

phạm liên quan tới tín dụng đen, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cờ bạc, cố

ý gây thương tích,... có chiều hướng diễn biến phức tạp.

Tiểu kết Chương 2

Từ thực trạng về tình hình tội phạm tại Chương 1, tác giả đã phân tích khái

quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và thực trạng nguyên

nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Từ đó lý giải thực

trạng của tình hình tội phạm cũng như đưa ra đánh giá về tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lê trong thời gian tới. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra nhận

xét như sau: Về cơ bản thì cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội, quận

Cẩm Lệ đang phải đối mặt với vấn đề an ninh trật tự, đặc biệt là tình hình tội phạm

trên địa bàn đang có chiều hướng diễn biến phức tạp. Tình trạng trên xuất phát từ

nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau như:

Nguyên nhân và điều kiện về địa lý – tự nhiên – môi trường: Là những hiện

tượng xã hội tiêu cực được hình thành do tích chất đặc thù về địa lý – tự nhiên –

59

môi trường tồn tại trên địa bàn quận Cẩm Lệ.

Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội; là những hiện tượng xã hội

tiêu cực tồn tại trong lĩnh vực kinh tế - xã hội tại quận Cẩm Lệ.

Nguyên nhân điều kiện về tâm lý – văn hóa xã hội: Là sự du nhập của nhiều

luồng văn hóa không phù hợp với thuần phong mỹ tục vào nước ta.

Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức – quản lý xã hội: Là sự hạn chế trong

công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực trên địa bàn Quận.

Những nguyên nhân, điều kiện nói trên không chỉ tồn tại một cách độc lập

mà chúng tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau và tác động đến tâm

lý tiêu cực của mối cá nhân đang sinh sống trên địa bàn, từ đó làm phát sinh tình

hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng.

60

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Khái quát lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm

Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm: Phòng ngừa tình hình tội phạm là

việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện

pháp hướng vào hạn chế, khắc phục và dần loại trừ những nguyên nhân, điều kiện

của tình tình tội phạm; xử lý, ngăn chặn tái phạm tội và phòng ngừa chung nhằm

hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống

xã hội.

Ý nghĩa của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm: Phòng ngừa tình hình

tội phạm mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. Phòng ngừa tình hình tội phạm tốt

giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính

mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân. Ngoài ra, phòng ngừa tốt

tình hình tội phạm giúp tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các cán bộ,

công chức của cơ quan Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra tuy tố

xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong việc giải quyết các vấn

đề có liên quan đến tội phạm.

Phòng ngừa tình hình tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản bao

gồm: Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện

tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và tội

phạm cụ thể. Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội

phạm xảy ra, phát hiện, xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội. Đây là một

hướng quan trọng không thể xem nhẹ, hướng này vừa có ý nghĩa phòng ngừa riêng,

vừa có ý nghĩa phòng ngừa chung tình hình tội phạm. Hướng này đòi hỏi các cơ

quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, cải

tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.

Như vậy, theo như khái niệm về phòng ngừa tình hình tội phạm ở nghĩa rộng

thì trên phạm vi địa bàn một quận còn ở đây là quận Cẩm Lệ, chủ thể phòng ngừa

61

gồm các cấp ủy đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan

kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức tự

quản công dân.

Cơ quan, tổ chức Đảng trên địa bàn quận Cẩm Lệ: Các cơ quan, tổ chức Đảng

có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Công tác phòng

ngừa tình hình tội phạm tại các cơ quan này được thực hiện thông qua việc người

đứng đầu cấp ủy luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục

chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh giác cách

mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ngoài ra, các cơ quan còn thường

xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nghị quyết của Đảng các cấp; Đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng

viên và các tầng lớp nhân dân về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh. Từ đó, nâng

cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự bảo vệ tài sản, kịp thời phát hiện và thông báo cho

cơ quan chức năng các hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra trên địa bàn.

Hội đồng nhân dân các cấp: Nhóm chủ thể này sẽ phòng ngừa tội phạm thông

qua việc chủ động, kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành cũng như các kế

hoạch mang tính định hướng cho công tác phòng chống tội phạm, từng bước hoàn

thiện chính sách của địa phương, làm cơ sở cho Ủy ban nhân dân, các phòng ban,

các cơ quan kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng

và mỗi công dân trên địa bàn quận làm tốt công tác phòng chống tội phạm. Bên

cạnh đó, thực hiện việc giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật, chính sách, kế

hoạch trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói riêng của các cơ quan

chức năng, các tổ chức xã hội.

Uỷ ban nhân dân các cấp: Uỷ ban nhân dân các cấp có vai trò quan trọng

trong phòng chống tội phạm bằng việc ban hành các quy định cụ thể hóa kế hoạch

của Hội đồng nhân dân, tổ chức, quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều

kiện cần thiết cho hoạt động phòng chống tội phạm.

Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong phạm vi

tổ chức hoạt động chuyên môn: Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát

62

sinh tình hình tội phạm thuộc lĩnh vực mình quản lý. Đề ra những quy định thích

hợp, tham mưu cho Ủy ban nhân dân ban hành các chủ trương, chính sách đúng đắn

góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm. Xây

dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tình hình tội phạm trong

phạm vi cơ quan có hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, làm tốt

công tác phòng chống trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Ủy

ban nhân dân quận Cẩm Lệ.

Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản: Nhóm chủ thể này có

nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn

thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm. Tuyên truyền cho hội viên

thấy được tính chất, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, từ đó, nâng cao ý thức cảnh

giác của người dân. Trực tiếp huy động các hội viên tham gia chương trình phòng

chống tình hình tội phạm nói chung của Chính phủ, Ủy ban nhân dân trong phạm vi

địa phương, nội bộ hiệp hội của mình.

Các cơ quan bảo vệ pháp luật (Công an, Toà án, Viện kiểm sát): Nhóm chủ

thể này chịu trách nhiệm cho việc nghiên cứu, phân tích tình trạng phạm tội, xác

định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các

biện pháp thích hợp nhằm phòng ngừa tình hình tội phạm. Sử dụng các biện pháp

luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức năng, trực tiếp tiến

hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.

Công dân: Mỗi công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an

ninh trật tự. Thông qua việc thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được

quy định trong Hiến pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm. Ngoài ra, công dân cần tích cực, chủ động phát hiện các hoạt động của tội

phạm, tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng có liên

quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư.

Để công tác phòng ngừa tội phạm đạt kết quả cao thì yêu cầu trong quá trình

thực hiện phải đáp ứng các điều kiện sau:

Các biện pháp phòng ngừa đòi hỏi phải được tổ chức theo khu vực dịa lý, theo

63

cấp, địa phương và toàn quận dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng ủy, Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân và các tổ chức xã hội.

Hoạt động phòng ngừa phải thu hút sự tham gia đông đảo của các cấp chính

quyền, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên địa bàn

quận.

Hoạt động phòng ngừa phải trên cơ sở các đặc điểm kinh tế xã hội, tâm lý và

các đặc điểm truyền thống của địa bàn quận Cẩm Lệ.

Phòng ngừa tội phạm phạm cần mang tính kế hoạch, thường xuyên. Mặt

khác cũng cần đặt vấn đề trách nhiệm hành chính cũng như trách nhiệm hình sự đối

với cá nhân trực tiếp điều hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm phạm từ cơ sở

đến trung ương.

3.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ, TP. Đà Nẵng

Thực trạng thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội: Xác định công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân

nên trong thời gian vừa qua trên địa bàn quận Cẩm Lệ đã triển khai đồng bộ nhiều

biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm khác nhau với sự tham gia của cả chính

quyền và người dân như: Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch khuyến khích

người dân tham gia phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm và tăng thu nhập;

Kiện toàn hệ thống văn bản chỉ đạo điều hành trên địa bàn Quận, tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân tham gia phát triển kinh tế cũng như các kế hoạch đảm bảo

an ninh trật tự trên địa bàn; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật, nhằm nâng cao ý thức của người dân trong việc tôn trọng pháp luật, đảm

bảo an ninh trật tự và tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng của người khác; Vận động

nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm; Tăng cường phát hiện, tố giác tội phạm

ở cộng đồng dân cư; Thực hiện việc cảm hoá, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại

gia đình và cộng đồng dân cư. Về cơ bản những giải pháp trên bước đầu đã mang

lại hiệu quả tích cực, theo đó, chính sách của địa phương đã góp phần làm thay đổi

cơ bản diện mạo cuộc sống, giúp tăng thu nhập cho người dân, thêm vào đó, ý thức

64

của cộng đồng dân cư về pháp luật và quy định của địa phương cũng được cải thiện

đáng kể, hình thành mô hình các nhóm, khu vực phòng chống tội phạm hiệu quả.

Tuy nhiên, thực tế các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm về mặt xã hội trên

địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn chưa phát huy tối đa hiệu quả, chưa bắt kịp với sự phát

triển của xã hội, nhiều chính sách, quy định đã trở nên lỗi thời, dẫn đến việc nhiều

đối tượng lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, công tác tuyên truyền

phổ biến pháp luật chưa thường xuyên, chưa đúng trọng tâm, dẫn đến vẫn còn bộ

phận lớn người dân không hiểu biết về pháp luật và chính sách của địa phương, số

lượng người tái phạm trên địa bàn vẫn còn nhiều, đặc biệt là tình trạng thanh thiếu

niên bỏ học từ khi còn rất trẻ, sa đà vào ăn chơi, nghiện ma túy và thực hiện hành vi

phạm tội đang có xu hướng tăng.

Thực trạng thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ: Trong thời gian

qua Trưởng Công an quận Cẩm Lệ luôn quan tâm chỉ đạo các đội, địa phương đẩy

mạnh thực hiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản

nhằm chủ động thực hiện tốt công tác nắm tình hình, góp phần quan trọng trong

công tác phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, Công an quận đã tiến hành công tác

sưu tra, xác minh hiềm nghi, xây dựng và sử dụng mạng lưới bí mật phục vụ phòng

ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật do thanh thiếu niên gây ra. Ngoài ra, lực lượng

Công an đã tiến hành rà soát, nắm vững các đối tượng thanh thiếu niên có điều kiện,

khả năng, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hoạt động phạm tội và vi phạm pháp

luật. Từ đó, tiến hành thu thập, tích luỹ tài liệu về các biểu hiện hoạt động của từng

đối tượng để theo dõi, quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính về

trật tự xã hội để phòng ngừa tội phạm. Chính nhờ làm tốt công tác quản lý địa bàn,

quản lý nhân khẩu, trong 5 năm qua cảnh sát khu vực đã bắt nhiều đối tượng truy

nã; phát hiện, xử phạt vi phạm hành chính nhiều trường hợp. Thu thập nhiều thông

tin có giá trị, giúp cơ quan Công an làm rõ hàng ngàn hành vi vi phạm pháp luật,

hàng trăm vụ trộm cắp, cướp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, sử dụng, buôn bán các

chất ma tuý, bắt và xử lý hàng chục vụ mua bán dâm, cờ bạc, số đề, đòi nợ thuê,

ngăn chặn hàng trăm vụ tổ chức đánh nhau, gây rối trật tự, thu giữ nhiều hung khí

65

gây án, hoặc chuẩn bị gây án.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì thực tế công tác quản lý Nhà nước

về an ninh trật tự trên địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn còn nhiều sơ hở, thiếu sót, nhất là

quản lý cư trú, quản lý các cơ sở kinh doanh ngành nghề có điều kiện, tạo điều kiện

cho đối tượng lợi dụng ẩn nấu, thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; việc phát hiện,

trao đổi thông tin liên quan đến an ninh trật tự giữa các lực lượng chưa thường

xuyên, liên tục và chưa kịp thời, đã làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công

tác phòng ngừa, đấu tranh tội phạm và vi phạm pháp luật trong thời gian qua.

Thực trạng phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm: Có sự phối hợp

chặc chẽ giữa các tổ chức, đơn vị trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

như: Công an quận, Quận Đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ quận, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Phòng Giáo

dục - Đào tạo, Lực lượng quân sự, Hội Cựu chiến binh, khối các cơ quan doanh

nghiệp, trường học,... Ngoài ra, các lực lượng Công an đã thường xuyên làm tốt

công tác phối hợp, gặp gỡ, tiếp xúc, vận động từng hộ gia đình trong các khu dân

cư, tổ dân phố chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước, chủ trương, chính

sách của địa phương, ký cam kết bản thân và người thân không vi phạm pháp luật,

xây dựng khu dân cư, tổ dân phố không có tội phạm và tệ nạn xã hội. Tuy nhiên,

đứng trước thực tế công cuộc đấu tranh và phòng ngừa tình hình tội phạm, công tác

phối hợp trên địa bàn bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều cơ quan, tổ chức trên đia bàn chưa

thực sự phối hợp chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin về tình hình tội phạm, chưa

có sự thống nhất trong cách đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm giữa các cơ

quan, tổ chức, dẫn đến nhiều hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan, tổ chức nhưng

cơ quan chức năng không được cung cấp thông tin, từ đó gây khó khăn cho công tác

xác minh, điều tra và xử lý tội phạm.

Như vậy, có thể thấy trong những năm qua công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn quận Cẩm Lệ đã đạt được nhiều kết quả

quan trọng, tình hình tội phạm được kiềm chế và làm giảm, nhiều tội phạm nghiêm

trọng giảm như: Giết người do nguyên nhân xã hội, hiếp dâm, cướp tài sản; đã phát

66

hiện, điều tra, khám phá được nhiều chuyên án, vụ án lớn. Bên cạnh đó, không để

xảy ra tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen, tội phạm sử

dụng vũ khí nóng; không có các vụ việc gây rối phức tạp, tạo điểm nóng ảnh hưởng

xấu đến an ninh trật tự; hoạt động tội phạm được kiểm soát, từng bước đẩy lùi tạo

môi trường thuận lợi thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của thành phố.

Tuy nhiên, công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ cũng

đang còn nhiều hạn chế như: Nhiều Đảng viên chưa thật sự gương mẫu trong lối

sống, thập chí là phạm tội, việc quản lý nhà nước về an ninh trật tự trên địa bàn bộc

lộ nhiều bất cập, công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trên địa bàn còn

nhiều hạn chế dẫn đến nhiều hành vi phạm tội xảy ra tại các đơn vị nhưng không bị

phát hiện. Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu quận Cẩm Lệ cần thực hiện nhiều giải pháp

cụ thể và thiết thực hơn nữa trong thời gian tới nhằm hạn chế, khắc phục và dần

hướng tới loại trừ tình hình tội phạm trên địa bàn quận.

3.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

3.3.1. Tăng cường chất lượng dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Dự báo tình hình tội phạm là hoạt động dựa trên những cơ sở lý luận và thực

tiễn để đưa ra những phán đoán về sự thay đổi trong tương lai của tình hình tội

phạm, về các nhân tố tác động đến tình hình tội phạm, về những biến đổi trong tâm

lý của nhân thân người phạm tội cũng như khả năng phòng chống tình hình tội

phạm của xã hội. Do vậy, công tác dự báo tình hình tội phạm và đấu tranh phòng

chống tội phạm phải xuất phát từ các điều kiện kinh tế chính trị xã hội ở hiện tại và

xu hướng phát triển trong tương lai. Dự báo tình hình tội phạm là hoạt động có tính

chất động theo thời gian, không gian và không bao giờ nằm ở trạng thái cố định.

Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác dự báo tình hình tội phạm trong

việc đấu tranh và phòng ngừa tình hình tội phạm, việc nâng cao chất lượng của công

tác dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ có ý nghĩa trong việc hoạch

địch chính sách và xây dựng các kế hoạch cụ thể trong việc phòng ngừa tình hình

67

tội phạm. Chính vì vậy chính quyền quận Cẩm Lệ cần căn cứ trên những nguyên

nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm trên địa bàn để đưa ra dự báo

tình hình tội phạm ngắn hạn (02 năm), trung hạn (03 đến 05 năm) và dài hạn (10, 15

năm), từ đó đề ra các giải pháp cụ thể và thiết thực cho công tác đấu tranh và phòng

ngừa tình hình tội phạm.

Để tăng cường chất lượng của công tác dự báo tình hình tội phạm trong thời

gian tới, yêu cầu trong quá trình dự báo phải dựa trên sự biến đổi của các nhân tố

trên địa bàn quận Cẩm Lệ nói riêng và của thành phố Đà Nẵng nói chung như sau:

Yếu tố xã hội: Tình hình phát triển kinh tế xã hội của quận Cẩm Lệ trong thời

gian tới, sự thay đổi về yếu tố văn hóa, trình độ dân trí của người dân trên địa bàn

quận.

Yếu tố con người: Xác định rõ các những nhân tố biến đổi trong tâm lý của

người dân địa phương như quan niệm, tập tục, lối sống khi mà tình hình hội nhập

kinh tế đang ngày càng nhanh và mạnh, sự du nhập các lối sống, phong tục tập quán

từ những nơi khác đến địa bàn quận cũng có xu hướng tăng từ đó gây ra sự biến đổi

trong chính lối sống của bộ phận người dân.

3.3.2. Tăng cường các giải pháp phòng ngừa xã hội

*Tăng cường các giải pháp về kinh tế - xã hội: Giải pháp này đặt ra yêu cầu

chính quyền quận Cẩm Lệ phải có chính sách cụ thể và thiết thực để giải quyết các

vấn đề về an sinh xã hội, tạo công ăn, việc làm, đảm bảo thu nhập cho đời sống

người lao động. Để làm được điều này, yêu cầu các phòng ban cần phải làm tốt

công tác tham mưu cho cấp quận Ủy, chính quyền quận tăng cường kiểm tra, chỉ

đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội và

đảm bảo an ninh trật tự. Theo đó, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm bằng các biện pháp kinh tế xã hội, chính quyền quận Cẩm Lệ cần

thực hiện một số các giải pháp cụ thể sau:

Một là: Chính quyền quận Cẩm Lệ cần nghiên cứu thực hiện hệ thống các

biện pháp phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc điểm tình hình tại địa phương.

Ngoài ra, để tạo nền tảng cho việc phát triển kinh tế ở địa phương, quận Cẩm Lệ

68

cần đẩy nhanh tiến độ đầu tư cơ sở hạ tầng như hệ thống đường xá, khu công

nghiệp.

Hai là: Cần có các chính sách hổ trợ trực tiếp cho người dân gia tăng sản

xuất và phát triển kinh tế cũng như xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư đến

xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn, góp phần giải

quyết vấn đề về việc làm, từ đó tăng thu nhập cho người dân.

Ba là: Công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hinhg tội phạm và vi phạm pháp

luật, quản lý giáo dục đối tượng phải gắn với thực hiện chính sách phát triển kinh tế,

văn hóa xã hội của địa phương.

Ngoài ra một vấn đề quan trọng đặt ra đối với chính quyền quận Cẩm Lệ là

phải tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tạo chuyển biến trong phòng,

chống tội phạm và tệ nạn xã hội, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường sống, góp

phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

*Tăng cường giải pháp về tâm lý – văn hóa xã hội: Các yếu tố tiêu cực về

tâm lý – văn hóa xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các vụ phạm

tội trên địa bàn quận Cẩm Lệ, đặc biệt là tăng số lượng người phạm tội là thanh

thiếu niên vơi hành vi bạo lực, côn đồ và manh động, nên giải pháp về tâm lý – văn

hóa xã hội có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Để công

tác phòng ngừa tình hình tội phạm mang lại hiệu quả cao trong thời gian tới, quận

Cẩm lệ cần thực hiện một số các giải pháp về tâm lý – văn hóa xã hội cụ thể như

sau:

Một là: Cần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục kể cả ở gia đình, nhà

trường và giáo dục cộng đồng. Đối với gia đình thì cha mẹ cần dành thời gian để

quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái, chia sẽ tâm sự để nắm bắt tâm tư, nguyện

vọng của trẻ. Đối với nhà trường cần đưa chương trình giáo dục về nhân cách, kỹ

năng sống vào giảng dạy, từ đó nâng cao hiểu biết của trẻ về cách phòng tránh các

tệ nạn xã hội. Đối với thanh thiếu niên lớp 10, 11, 12 ngoài chương trình giáo dục

về kỹ năng sống thì cần có chương trình hướng nghiệp để họ định hình tương lai

cho bản thân. Ngoài ra, cần có các chương trình giáo dục cộng đồng để giúp những

69

người không có trình độ văn hóa trên địa bàn được tham gia học tập, nâng cao hiểu

biết về pháp luật và chính sách địa phương, ngoài ra thông qua đó để quản lý và

hướng dẫn, định hướng họ tránh xa các tệ nạn xã hội và cảnh giác với các đối tượng

tội phạm.

Hai là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bằng

những chương trình cụ thể phù hợp với từng đối tượng trên địa bàn quận, nhằm

nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong nhân dân bằng

nhiều hình thức đa dạng, phong phú với nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên trong các trường học, phòng giáo dục cần

nghiên cứu, nâng cao chất lượng dạy và học, chú trọng giáo dục lối sống, đạo đức,

văn hóa ứng xử, tăng cường phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho trẻ,

học sinh, sinh viên ở từng độ tuổi khác nhau, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật, bài trừ các luồng tư tưởng văn hóa không phù hợp. Còn đối với các nhóm đối

tượng có nguy cơ vi phạm pháp luật thì lực lượng Công an cần phải phối hợp chặt

chẽ với Đoàn thanh niên, Mặt trận, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, thông qua công

tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, quản lý đối tượng bằng việc thường xuyên rà

soát, theo dõi, quản lý để có biện pháp giáo dục phù hợp và hiệu quả. Đồng thời cần

triệu tập, mở các lớp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với nhóm thanh

thiếu niên nói trên nhằm hạn chế các vi phạm an ninh trật tự cũng như giảm thiểu số

lượng các đối tượng phạm tội.

Ba là: Bên cạnh giáo dục và tuyên truyền phổ biến pháp luật, Chính quyền

quận Cẩm Lệ cần tổ chức nhiều chương trình cộng đồng như chương trình về môi

trường, chương trình về văn hóa văn nghệ, lịch sử...đồng thời có chính sách khuyến

khích tất cả các tầng lớp dân cư tham gia, từ đoàn viên thanh niên, công nhân, người

không có việc làm, cán bộ công chức trên địa bàn Quận... Từ đó tạo sân chơi lành

mạnh giúp nâng cao sự hiểu biết của cộng đồng dân cư về văn hóa, lịch sử, từ đó

giúp bài trừ các luồng văn hóa không phù hợp với cộng đồng, góp phần vào việc

đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

70

*Tăng cường giải pháp về tổ chức - quản lý xã hội: Để công tác quản lý xã

hội đạt được hiệu quả tích cực, đòi hỏi chính quyền quận Cẩm Lệ phải thực hiện các

biện pháp cụ thể như:

Một là: Tổ chức quản lý xã hội chặt chẽ thống nhât trên địa bàn quận, xác

định rõ trách nhiệm của các phòng ban trong việc tổ chức quản lý xã hội đặc biệt là

công tác quản lý đối địa bàn phường Hòa An và các phường lân cận nhằm kịp thời

phát hiện các sai phạm trên địa bàn từ đó có biện pháp xử lý phù hợp.

Hai là: Tăng cường và nâng cao chất lượng tuần tra trên địa bàn Quận, đặc

biệt là cần lập chốt an ninh tại khu vực thường xảy ra tình trạng mất an ninh trật tự

như phường Hòa An, phường Hòa Xuân để tiện nắm bắt tình hình và quản lý khu

vực vì đây là những khu vực có số vụ phạm tội và số người phạm tội cao trên địa

bàn quận Cẩm Lệ.

Ba là: Nâng cao hiệu quả trong việc quản lý, giám sát các đối tượng đang bị

áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án

treo: Ủy ban nhân dân phường có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ

chức hữu quan, cộng đồng dân cư và gia đình người đang bị áp dụng biện pháp giáo

dục tại phường, người bị phạt tù được hưởng án treo, tổ chức phổ biến, giáo dục

pháp luật cho các đối tượng này. Tập trung phổ biến các quy định pháp luật về

quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi

phạm hành chính.

Bốn là: Đối với người đang chấp hành án phạt tù, người đang bị áp dụng

biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt

buộc: Giám thị trại giam, trại tạm giam, hiệu trưởng trường giáo dưỡng, cơ sở giáo

dục, giám đốc cơ sở giáo dục cai nghiện bắt buộc, cán bộ công nhân viên phải

thường xuyên rà soát, phân loại đối tượng theo từng nhóm để có biện pháp quản lý,

tuyên truyền, giáo dục phù hợp.

Năm là: Tăng cường quản lý về nhân khẩu trên địa bàn Quận, theo đó cần

năm bắt số lượng người có hộ khẩu thường trú đang sinh sống tại trên địa bàn Quận,

số lượng người dân từ địa phương khác đến sinh sống, làm việc thông qua đăng ký

71

tạm trú, đặc biệt là quản lý chặt chẽ việc cư trú của người nước ngoài trên địa bàn,

từ đó giúp phân loại đối tượng và kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp khi có tội

phạm xảy ra.

Sáu là: Tăng cường công tác quản lý việc thành lập các doanh nghiệp trên

địa bàn Quận, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và du lịch, để

kịp thời xử lý khi có hành vi vi phạm.

Bảy là: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý trên mặt trận văn hóa tư tưởng

bằng việc kiểm soát chặt chẽ việc kinh doanh băng đĩa, trò chơi bạo lực, các tiệm

game online và sách báo mang tính bạo lực trên địa bàn Quận.

Để thực hiện tốt các biện pháp trên thì yêu cầu quan trọng nhất là cần nâng

cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức trên địa bàn Quận, từ đó nâng cao chất

lượng công tác, đặc biệt là công tác quản lý dân cư, doanh nghiệp trên địa bàn, góp

phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm.

3.3.3. Tăng cường các giải pháp phòng ngừa chuyên môn

Bên cạnh các giải pháp về kinh tế, văn hóa – tâm lý xã hội, tổ chức quản lý

xã hội thì giải pháp về chuyên môn cũng đóng vai trò quan trọng việc phòng ngừa

tình hình tội phạm. Khi xét về phòng ngừa chuyên môn, quận Cẩm Lệ cần thực hiện

một số các giải pháp cụ thể như sau:

Một là: Trên phạm vi thành phố và cả nước thì yêu cầu đặt ra là cần xây

dựng, hoàn thiện pháp luật khắc phục các quy định hạn chế, thiếu sót nhằm hoàn

thiện các qui định của pháp luật có liên quan phù hợp với tình hình thực tiễn. Còn

phạm vi địa bàn quận Cẩm Lệ thì cần rà soát, sửa đổi, khác phục các quy định lỗi

thời và ban hành các quy định mới phù hợp với tình hình địa phương nhằm phát

hiện, xử lý các hành vi vi phạm, đặc biệt là hành vi phạm tội.

Hai là: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính về an ninh, trật tự

nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm, thông qua đó hạn

chế những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, đặc biệt là thanh thiếu

niên. Ngoài ra cần tăng cường giáo dục, răn đe những thanh thiếu niên có hành vi vi

phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, làm tốt công tác

72

lập hồ sơ đưa đối tượng vào Cơ sở giáo dục, Trường giáo dưỡng.

Ba là: Nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm.

Tố giác, tin báo về tội phạm đa dạng về nội dung và nguồn gốc, đòi hỏi phải có tính

cấp bách, khẩn trương trong việc giải quyết khi tiếp nhận về nguồn tin. Chính vì

vậy, một trong những yêu cầu đòi hỏi về nghiệp vụ đó là luôn phải duy trì cán bộ,

Điều tra viên trực nghiệp vụ hàng ngày để sẵn sàng, chủ động tiếp nhận mọi tố giác,

tin báo về tội phạm và báo cáo lãnh đạo để xử lý kịp thời, nhanh chóng.

Bốn là: Chủ động xây dựng kế hoạch đấu tranh trấn áp tội phạm và các vi

phạm pháp theo từng chuyên đề: Tội phạm hoạt động băng nhóm (Cướp, cướp giật,

trộm cắp, càn quấy, gây rối…), tội phạm cho vay lãi nặng, đòi nợ thuê, tội phạm sử

dụng vũ khí, vât liệu nổ gây án, tội phạm, tội phạm ma túy, tội phạm buôn lậu, gian

lận thương mại, hàng cấm và hàng giả; các hành vi khai thác cát, sỏi trái phép; truy

bắt, vận động đối tượng truy nã ra đầu thú gắn với rà soát, thanh loại đối tượng truy

nã.

Năm là: Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, mở các đợt cao điểm tấn

công trấn áp các loại tội phạm và vi phạm pháp luật ở các tuyến, địa bàn trọng điểm

phức tạp về an ninh trật tự như phường Hòa An, Hòa Xuân.

Sáu là: Khi tiến hành công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, điều

này phải được thể hiện ngay từ khi tiếp nhận những thông tin ban đầu về tội phạm,

khi tiến hành tiếp nhận phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật như: ghi

chép đầy đủ thông tin được tố giác, báo tin đến và hỏi thêm những vẫn đề cần làm

sáng tỏ, đảm bảo thời hạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, đảm bảo an toàn

khi tiến hành xác minh tin đó. Thường xuyên tập huấn về công tác tiếp nhận và giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, Điều tra

viên các kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu về kỹ năng, kỹ xảo trong công tác tiếp

nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

Bảy là: Quán triệt giáo dục chính trị, tư tưởng đến toàn bộ cán bộ, Điều tra

viên làm công tác tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Công an

73

quận Cẩm Lệ, nhận thức đúng đắn, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Để đảm bảo được nhận thức đó thì

lãnh đạo Công an quận Cẩm Lệ phải tổ chức các đợt tập huấn bồi dưỡng các kiến

thức về pháp luật tố tụng hình sự, quán triệt các quy định của Ngành về công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tám là: Về công tác điều tra thì cần tập trung lực lượng, phương tiện và áp

dụng các biện pháp nghiệp vụ nhanh chóng điều tra làm rõ những vụ án xảy ra trên

địa bàn, đặc biệt là những vụ án do thanh thiếu niên gây ra và xử lý nghiêm minh

trước pháp luật.

Chín là: Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trên địa bàn quận:

Các ngành khối Nội chính tiếp tục phối hợp, chỉ đạo chặt chẽ công tác điều

tra, truy tố, xét xử… bảo đảm nghiêm minh, kịp thời đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật, không để xảy ra oan, sai, sót lọt tội phạm.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa ba ngành tư pháp (Công an - Viện kiểm

sát - Tòa án) và các cơ quan chức năng khác trao đổi thông tin, phối hợp phòng

ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.

Mười là: Nâng cao hiệu quả việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác

phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong thời gian tới cần phải chú trọng

việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật trong phòng chống tội phạm và vi phạm pháp

luật, từng bước trang bị hiện đại, mở rộng hợp tác tranh thủ kinh nghiệm và sự giúp

đỡ về kỹ thuật của các đơn vị, doanh nghiệp chuyên môn để cung cấp dịch vụ hỗ trợ

và cảnh báo an ninh cho đơn vị, tổ chức và cá nhân trên địa bàn nhằm phục vụ

nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.

Tiểu kết Chương 3

Như vậy, từ thực tế về tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành

phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến 2019 tại Chương 1, tác giả đã phân tích những

nguyên nhân và điều kiện tội phạm cụ thể trên địa bàn Quận tại Chương 2. Trên cơ

sở những nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội phạm tại Chương 2, tác

74

giả đã phân tích khái quát lý luận về phòng ngừa tội phạm, ngoài ra, tác giả đã phân

tích thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm lệ, từ đó, tác

giả đã đề xuất những giải giáp cụ thể, thiết thực căn cứ trên đặc thù về vị trí địa lý,

văn hóa xã hội cũng như tình hình phát triển kinh tế của quận Cẩm Lệ nói riêng và

trên toàn thành phố Đà Nẵng nói chung. Theo đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp

cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

quận Cẩm Lệ nói riêng, Tp Đà nẵng nói chung trong thời gian tới như sau:

Tăng cường chất lượng dự báo tình hình tội phạm;

Tăng cường các giải pháp phòng ngừa xã hội, như: Tăng cường các giải pháp

về kinh tế - xã hội, tăng cường giải pháp về tâm lý – văn hóa xã hội, Tăng cường

giải pháp về tổ chức - quản lý xã hội;

Tăng cường các giải pháp phòng ngừa chuyên môn, như: Xây dựng xây

dựng, hoàn thiện pháp luật; Nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính về an

ninh, trật tự; Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, mở các đợt cao điểm tấn công

trấn áp các loại tội phạm; Quán triệt giáo dục chính trị, tư tưởng đến toàn bộ cán bộ,

Điều tra viên làm công tác tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Nâng

cao hiệu quả việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác phòng chống tội phạm

và vi phạm pháp luật.

Về cơ bản để công tác phòng ngừa tội phạm mang lại hiệu quả thiết thực

trong thời gian tới dòi hỏi phải có sự đóng góp của cả người dân và chính quyền

quận Cẩm Lệ, trong đó vai trò của các cấp chính quyền trên địa bàn Quận là xây

dựng chính sách nhằm phát triển kinh tế xã hội, giải quyết các vấn đề việc làm cũng

như tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật đến từng người dân, căn cứ trên

điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, về phía mình, người dân cần năng cao

hiểu biết pháp luật, bài trừ các hành vi vi phạm pháp luật, gây mất trật tự xã hội,

tích cực tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của chính quyền địa

phương.

75

KẾT LUẬN

Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ đặt ra là tìm kiếm các giải pháp tăng

cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng trong thời gian tới, Luận văn đã phân tích tình hình tội phạm, nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến năm

2019. Đặc biệt luận văn xem xét tình hình tội phạm ở cả khía cạnh lý luận và thực

tiễn, thông qua xem xét lý luận và thực tiễn của tình hình tội phạm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ, luận văn rút ra kết luận sau: Diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn

quận từ năm 2015 đến năm 2019 tăng cả về số vụ và số bị cáo, trong đó, nhóm các

tội phạm về ma túy là đặc trưng của tình hình tội phạm trên địa bàn quận, bên cạnh

đó, tình hình tội phạm trên địa bàn Quận có tính chất khá nghiêm trọng và phức tạp.

Ngoài ra, vấn đề đáng lo ngại là tình hình tội phạm ẩn trên địa bàn Quận, đặc biệt là

các tội phạm về tham nhũng chức vụ, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, buôn

bán hàng giả, hàng kém chất lượng. Việc xem xét tình hình tội phạm làm tiền đề

cho xem xét nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nhằm tìm ra các giải

pháp phòng ngừa tình hình tội phạm phù hợp trong thời gian tới. Để làm được điều

đó, luận văn đã xem xét khái quát những vấn đề lý luận và thực trạng nguyên nhân,

điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn Quận trong thời gian nói trên. Xét về

mặt thực tiễn, địa bàn quận Cẩm Lệ tồn tại những nguyên nhân và điều kiện làm

phát sinh tình hình tội phạm như sau: Những yếu tố tiêu cực được hình thành do

tích chất đặc thù về địa lý – tự nhiên – môi trường; Những yếu tố tiêu cực tồn tại

trong lĩnh vực kinh tế - xã hội; Sự du nhập của nhiều luồng văn hóa không phù hợp

với thuần phong mỹ tục vào nước ta; Hay sự hạn chế trong công tác quản lý nhà

nước đối với các lĩnh vực trên địa bàn Quận. Những nguyên nhân trên tác động qua

lại với nhau và tác động lên người dân đang sinh sống, làm việc trên địa bàn quận

Cẩm lệ, từ đó làm phát sinh ra tình hình tội phạm. Từ việc xem xét tình hình tội

phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, luận văn đã xem xét các

giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm, trước khi xem xét các giải

pháp tăng cường phòng ngừa thì luận văn đã khái quát lý luận vể phòng ngừa tình

76

hình tội phạm, ngoài ra luận văn còn xem xét thực trạng phòng ngừa, trên cơ sở đó,

luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm trên địa bàn, các giải pháp cụ thể như: Tăng cường chất lượng dự báo

tình hình tội phạm; Tăng cường các giải pháp phòng ngừa xã hội, như: Tăng cường

các giải pháp về kinh tế - xã hội, tăng cường giải pháp về tâm lý – văn hóa xã hội,

Tăng cường giải pháp về tổ chức - quản lý xã hội; Tăng cường các giải pháp phòng

ngừa chuyên môn, như: Xây dựng xây dựng, hoàn thiện pháp luật; Nâng cao hiệu

quả công tác quản lý hành chính về an ninh, trật tự; Tăng cường công tác tuần tra,

kiểm soát, mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm; Quán triệt giáo

dục chính trị, tư tưởng đến toàn bộ cán bộ, Điều tra viên làm công tác tiếp nhận và

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; Nâng cao hiệu quả việc ứng dụng khoa học

kỹ thuật vào công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật.

Với những giải pháp cụ thể và thiết thực được luận văn đề xuất căn cứ trên

đánh giá lý luận và thực tiễn tình hình tội phạm, lý luận và thực tiễn nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm và thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên

địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến

năm 2019, luận văn kỳ vọng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ nói riêng, thành phố Đà

Nẵng nói chung cũng như là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học

tập tội phạm học tại các cơ sở đào tạo Luật.

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tâm An, “Đà Nẵng đau đầu với người chưa thành niên phạm tội”

747519.html>, (27/12/2017).

2. Báo người lao động, “Bí mật của những kẻ lạ chuyên kéo đến đám tang ở Đà

Nẵng

nang-20200209115707822.htm>, (09/02/2020).

3. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 21/2008/CT - BCT ngày 26 tháng 03 năm 2008 về tiếp

tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma túy

trong tình hình mới.

4. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 48/2010/CT - BCT ngày 22 tháng 10 năm 2010 về Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình

hình mới.

5. Bộ Chính trị, Nghị quyết 08/2002/NQ - TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

6. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49/2005/NQ - TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

7. Bộ Công an (2011), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.

8. Bộ Công an (2012), Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Luật phòng, chống mua

bán người, Nxb lao động.

9. Bộ Công an, (2009), Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Luật Giao thông đường

bộ, Nxb thời đại.

10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 09/2008 -

CP ngày 31 tháng 07 năm 1998 về tăng cường công tác phòng chống tội phạm

trong tình hình mới.

11. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số 32/ 2007/

NQ - CP ngày 29 tháng 06 năm 2007 về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm

chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.

12. Công an Đà Nẵng phá 2 chuyên án ma túy liên tỉnh trong 6 ngày”

trong-6-ngay-347682.html>, (12/7/2019).

13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Hồ Giáp “Chân tướng 2 người nước ngoài phá hàng loạt két sắt, trộm tiền tỷ ở

Đà Nẵng”

nguoi-nuoc-ngoai-pha-hang-loat-ket-sat-trom-tien-ty-o-da-nang-578756.html>,

(18/10/2019).

15. Công Hạnh, “Vụ án Công ty Quảng Đà lừa bán “đất ma”: “Đệ tử ruột” của siêu

lừa Nguyễn Thị Bích Thuận sa lưới”

an-cong-ty-quang-da-lua-ban-dat-ma-de-tu-ruot-cua-sieu-lua-nguyen-thi-bich-

thuan-sa-luoi.aspx>, (04/5/2019).

16. Quang Hải, “Công an Đà Nẵng phá 2 chuyên án ma túy liên tỉnh trong 6 ngày”

6-ngay/c/31435659.epi, (12/7/2019).

17. T. Hoa “Xét xử siêu lừa Nga “cồn dầu” cùng đồng bọn: “Cò đất” câu kết công

chứng viên lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

bon-co-dat-cau-ket-cong-chung-vien-lua-dao-chiem-doat-tai-san.aspx>,

(25/4/2019).

18. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp,

2015;

19. Thanh Hòa - VKSND quận Cẩm Lệ “Cẩm Lệ - Xét xử lưu động vụ án hình sự

tại Nhà văn hóa cộng động khu dân cư thuộc phường Hòa Xuân”

tiet?id=44233&_c=67,76,77>, (27/11/2019).

20. Xuân Hoài, “Bắt đối tượng làm giả sổ đỏ để bán đất khống”

khong_33591.html>, (12/02/2017).

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật hình sự năm

2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2018.

22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản chính

trị quốc gia, (2016).

23. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số

37/2012/QH - 13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 về công tác phòng chống vi phạm

pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân

dân và công tác thi hành án năm 2013.

24. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết số

63/2013/QH -13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 về tăng cường các biện pháp đấu

tranh phòng chống tội phạm;

25. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm,

Nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

26. Nguyên Thảo “Bắt đối tượng mua bán trái phép ma túy đá có số lượng lớn”, <

http://cadn.com.vn/news/61_159880_ba-t-do-i-tuo-ng-mua-ba-n-tra-i-phe-p-

ma-tu-y-da-c.aspx>, (29/12/2016).

27. Nguyên Thảo “Cặp đôi chuyên làm giả vé số trúng thưởng”

thuong.aspx>, (29/10/2012).

28. Nguyên Thảo “Khởi tố nhóm cố ý gây thương tích và bắt giữ người trái phép”

va-ba-t-giu-n.aspx>, (01/12/2015).

29. Nguyên Thảo “Khởi tố nhóm cố ý gây thương tích”

ch.aspx>, (27/5/2016).

30. Nguyên Thảo, “Quyết liệt trấn áp tội phạm ma túy ven đô Đà thành”,

do-da-thanh.aspx>, (23/8/2019).

31. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc độ

tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2007.

32. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

33. Phạm Văn Tỉnh (2007), Vấn đề về định nghĩa khái niệm Tội phạm học và nhu

cầu nâng cao trình độ lý luận tội phạm học ở nước ta, tạp chí Nhà nước và pháp

luật số 12/2007.

34. Thủ tướng chính phủ, Chỉ thị số 37/2004/CT - TTg về việc tiếp tục thực hiện

Nghị quyết 09/1998/NQ - CP và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm

của chính phủ đến năm 2010.

35. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 1217/2012/QĐ - TTg ngày 06.09.2012 về

phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống tội phạm 2012 - 2015.

36. Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội, 2000.

37. Trần Hữu Tráng (2011), Nạn nhân của tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam.

38. Trường đại học Luật Hà Nội(2012), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân.

39. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tội phạm học và Điều tra tội phạm, Nxb Học

viện khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Nguyễn Tú “Xử lý cán bộ biết cấp đất nhầm vẫn giấu hồ sơ”

1152226.html>, (26/11/2019).

41. Từ điển luật học, Nxb từ điển bách khoa Hà Nội 1999.

42. Đào Trí Úc (2000), Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ (2017), Báo cáo số 430/BC-VKS, ngày

05/12/2017.

44. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố

tụng Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt Nam, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (1994), Tội phạm học Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

47. Võ Khánh Vinh (2000), Tội phạm học Việt nam, một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

48. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội;

49. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm)

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

50. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

51. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin,

1999, tr. 1649.

52. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

53. Nguyễn Xuân Yêm (2011), Khoa học hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 1.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội phạm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng

Số vụ án Số bị cáo Ghi chú Năm

44 52 2015

45 56 2016

44 51 2017

58 62 2018

65 74 2019

256 295 Tổng

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.2. Mức độ tổng quan so sánh số vụ trên số bị cáo đã xét xử

tại TAND quận Cẩm Lệ và thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

Quận Cẩm Lệ TP. Đà Nẵng Tỷ lệ (%) vụ Tỷ lệ (%) bị

án so với cáo so với Nă Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ TPĐN TPĐN m (2) (3) (4) (1) (1/3) (2/4)

52 615 1042 7.15 4.99 2015 44

56 632 1021 7.12 5.48 2016 45

51 644 1121 6.83 4.55 2017 44

62 665 1245 8.72 4.98 2018 58

74 712 1311 9.13 5.64 2019 65

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.3. Cơ số tội phạm của tình hình tội phạm

trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

Tổng số án đã Cơ số tội phạm xét xử Năm Dân số Tỷ lệ tăng dân số Số vụ Số bị cáo Vụ Bị cáo /10.000 dân /10.000 dân

2015 108.704 0 4,05 4,78 44 52

2016 111.468 2,5 4,04 5,02 45 56

2017 114.270 2,5 3,85 4,46 44 51

2018 133.813 17,1 4,33 4,63 58 62

2019 159.295 19,0 4,08 4,65 65 74

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.4. Tỷ lệ giữa số bị cáo và số vụ ở quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

Tỷ lệ số bị cáo/số vụ ở quận Quận Cẩm Lệ TP. Đà Nẵng Cẩm Lệ so với TP Đà Nẵng Năm Bị cáo Bị cáo Cẩm Lệ TP. Đà Nẵng Vụ Vụ

(1) (3) (4) (2) (2/1) (4/3)

44 615 1042 52 1.18 1.69 2015

45 632 1021 56 1.24 1.62 2016

44 644 1121 51 1.16 1.74 2017

58 665 1245 62 1.07 1.87 2018

65 712 1311 74 1.14 1.84 2019

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.5. Tỷ lệ số vụ, số bị cáo giữa các nhóm tội phạm (theo BLHS 2015 ) trên

địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến năm 2019.

2015

2016

2017

2018

2019

Số

Số

STT

Các nhóm tội

tội

vụ/số bị

Vụ

Bị

Bị

Bị

Bị

Bị

chương

phạm

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

danh

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

Tính mang,

sức khỏe,

14

6

7

6

10

9

11

15

18

15 19

3

51/65

danh dự,

nhân phẩm

Tội xâm

phạm quyền

tự do của con

15

người, quyền

0

0

0

0

1

1

0

0

0

0

1

1/1

tự do, dân

chủ của công

dân

Xâm phạm

16

9

11

10

14 10 12

12

13

14 17

4

55/67

sở hữu

Trật tự quản

18

0

0

0

0

1

1

1

1

1

2

1

3/4

lý kinh tế

Tội phạm

19

0

0

0

0

0

0

1

1

1

1

1

2/2

môi trường

Tội phạm ma

20

16

19

18

20 15 16

18

18

20 21

2

87/94

túy

An toàn, trật

21

13

15

11

12

8

10

11

11

14 15

3

57/63

tự công cộng

256/29

52

45

56 44 51

58

62

65 74

15

TS án, bị cáo đã XX 44

5

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bảng 1.6. Thứ tự 5 tội danh có mức độ phạm tội (vụ/bị cáo) cao nhất trên địa bàn

quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019

Số vụ

STT

Tội danh

2015

2016

2017

2018

2019

Tỷ lệ (%)

/bị cáo

TP.ma túy

1

(điều 249,

16/19 18/20 15/16 18/18 20/21

87/94

33,98/31,86

250, 251)

Vi phạm quy

định về điều

khiển phương

8/10

6/7

7/9

8/8

10/11

39/45

15,23/15,26

2

tiện giao

thông đường

bộ (điều 260)

Lừa đảo

chiếm đoạt

5/7

6/7

6/6

7/8

8/9

32/37

12,50/12,54

3

tài sản (điều

174)

Cố ý gây

4

thương tích

3/3

3/5

7/9

10/11 11/13

34/41

13,28/13,90

(điều 134)

Trộm cắp tài

5

sản (điều

3/3

3/5

3/4

4/4

5/6

18/22

7,04/7,46

173)

35/42 36/44 38/44 47/49 54/60

210/239

82,03/81,02

Tổng

256/295

100%

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.7. Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm

Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019

(lấy năm 2015 làm định gốc).

Năm Số vụ án Tỷ lệ (%) tăng giảm Số bị cáo Tỷ lệ (%)tăng giảm

2015 44 100 100 52

2016 45 102,27 107,69 56

2017 44 100 98,08 51

2018 58 131,82 119,23 62

2019 65 147,73 142,31 74

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.8. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ

từ năm 2015 đến năm 2019 trên cơ sở tổng số dân trong sự so sánh với các địa

bàn cùng cấp.

Trung bình số Hệ số Tổng số Số dân/ STT Địa danh dân Từ năm tiêu bị cáo số bị cáo 2015 - 2019 cực

1 Quận Cẩm Lệ 125.510 295 425/1 6

2 Quận Liên Chiểu 172.609 376 459/1 7

3 Quận Thanh Khê 189.082 526 359/1 4

4 Quận Hải Châu 208.091 704 296/1 2

5 Quận Sơn Trà 158.898 605 244/1 1

6 Quận Ngũ Hành Sơn 82.391 254 324/1 3

7 Huyện Hòa Vang 134.262 318 422/1 5

0 0 8 Huyện đảo Hoàng Sa 0

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.9. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến

năm 2019 trên cơ sở diện tích trong sự so sánh với các địa bàn giáp ranh cùng

cấp

STT Địa danh Diện tích (km 2) Số bị cáo / diện tích

Quận Cẩm Lệ Quận Liên Chiểu Tổng bị cáo từ 2015 đến 2019 295 376 33,76 79,13 8,74/1 4,75/1 Hệ số tiêu cực 4 6 1 2

Quận Thanh Khê 526 9,36 54,62/1 1 3

Quận Hải Châu 704 21,35 32,97/1 2 4

Quận Sơn Trà 605 59,32 10,20/1 3 5

Quận Ngũ Hành Sơn 254 38,59 6,58/1 5 6

318 7 Huyện Hòa Vang 736,91 0,43/1 7

0 Huyện đảo Hoàng Sa 305 0 8

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.10. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015

đến năm 2019 được tính trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư, diện tích trong sự so

sánh với các địa bàn giáp ranh cùng cấp.

STT Địa danh

Quận Cẩm Lệ Quận Liên Chiểu Thứ bậc đã xét theo diện tích và dân số 6 + 4 7 + 6 Hệ số tiệu cực 10 13 TT Cấp độ Nguy hiểm 4 6 1 2

Quận Thanh Khê 4 + 1 5 2 3

Quận Hải Châu 2 + 2 4 1 4

Quận Sơn Trà 1 + 3 4 1 5

Quận Ngũ Hành Sơn 3 + 5 8 3 6

Huyện Hòa Vang 5 + 7 12 5 7

Huyện đảo Hoàng Sa 0 0 0 8

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.11. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo địa điểm gây án

TT Mức độ nguy STT Địa bàn Số vụ đã xét xử hiểm

1 Phường Khuê Trung 50 4

2 Phường Hòa Thọ Đông 17 6

3 Phường Hòa Thọ Tây 26 5

4 Phường Hòa Phát 58 3

5 Phường Hòa An 76 1

6 Phường Hòa Xuân 68 2

Tổng số 295

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.12. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo hình phạt đã áp dụng.

Tổng Tù từ 7 Tù giam Cải tạo HP HP Án Năm bị năm trở dưới 7 không giam chính bổ treo cáo lên năm khác sung giữ

2015 52 1 22 2 0 10 19

2016 56 2 27 3 0 12 15

2017 51 2 30 0 0 9 10

2018 62 3 41 1 0 6 12

2019 74 0 49 0 0 4 21

Tổng 295 8 169 6 0 41 77

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.13. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo giới tính của người phạm tội

Giới tính Số bị cáo Tỷ lệ (%)

65,08 Nam 192

34,92 Nữ 103

100 Cộng 295

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.14. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 được xác định theo độ tuổi của

người phạm tội

Tuổi bị cáo Số bị cáo Tỷ lệ (%)

18.98 Từ 14 đến dưới 18 tuổi 56

59.66 Từ 18 đến dưới 30 tuổi 176

14.58 Từ 30 đến dưới 45 tuổi 43

6.78 Từ 45 tuổi trở lên 20

100 295 Tổng số

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.15. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo trình độ học vấn của

người phạm tội.

Lớp

Không

TC,

CĐ,

Cộng

trình

Năm

ĐH

độ học

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

vấn

2 2 1 5 8 9 11 52 2015 14

1 2 2 8 9 12 12 56 2016 10

1 1 1 1 2 4 5 8 12 3 51 2017 13

Không

Lớp

TC,

trình

CĐ,

Cộng

Năm

độ học

ĐH

10

11

12

2

3

4

5

6

8

9

7

vấn

2018 15 1 1 5 7 3 8 11 7 62 4

2019 20 1 1 1 2 5 14 15 10 74 5

Tổng 72 2 1 1 6 20 295 4 11 10 26 30 51 61

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.16. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo nghề nghiệp của người phạm tội.

Không nghề Lao động Nông Cán bộ, Học sinh, Tổng

Năm nghiệp phổ thông dân công nhân sinh viên cộng

2015 14 16 2 12 52 8

2016 15 14 1 15 56 11

2017 13 16 0 13 51 9

2018 15 21 1 11 62 14

2019 20 24 1 14 74 15

Tổng 77 91 5 65 295 57

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

Bảng 1.17. Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo tiền án, tiền sự của người phạm tội.

Tổng số Tiền án Tiền sự Tỷ lệ% Năm bị cáo

52 7 13 38,46 2015

56 10 11 39,29 2016

51 9 7 31,37 2017

62 8 5 20,97 2018

74 4 6 13,51 2019

295 38 42 27,12 Tổng

Nguồn: Thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng