VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN ĐIỀU
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN ĐIỀU
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH XUÂN NAM
Hà Nội, năm 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ ................................................. 8
1.1. Khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý ..................................... 8
1.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam đối với tội tàng trữ ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép chất
ma túy nói riêng ........................................................................................... 14
1.3. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
dùng để phân biệt với một số tội phạm khác về ma túy có các yếu tố tương
đồng .............................................................................................................. 33
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .............. 41
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy và tội tàng
trữ trái phép chất ma túy xảy ra trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2015 đến năm 2019 ................................................................ 41
2.2. Đánh giá thực trạng việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về
tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh ............................................................................................................. 47
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TÀNG TRỪ TRÁI PHÉP CHẤT MA
TUÝ................................................................................................................. 63
3.1. Các giải pháp ......................................................................................... 63
3.2. Một số kiến nghị và đề xuất .................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
TA:
Toà án
TAND:
Toà án nhân dân
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn Quận 4 ........................................................ 42
Bảng 2.2. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm tội
phạm về ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn Quận 4
Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................. 44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới cơ cấu kinh tế, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, đồng thời vị trí, vai trò
của Việt Nam ngày càng được đề cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên dưới tác động
tiêu cực của nền kinh tế và mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới và
trong khu vực, đã tác động ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói chung, đặc biệt là
tình hình tội phạm về ma túy, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tội phạm về ma túy là loại tội phạm mới xuất hiện trong thời kỳ phát triển
kinh tế thị trường hội nhập quốc tế nhưng hậu quả và hệ lụy để lại cho gia đình
người phạm tội cũng như xã hội ngày càng lớn chính vì vậy, quan điểm đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này đã được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng và
Nhà nước và Thể chế hòa các quan điểm của Đảng và lần đầu tiên được quy định tại
điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009) với tính chất là một
loại hành vi của tội ghép (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy và được tách ra với tính chất là một tội phạm độc lập được quy
định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) loại tội phạm
này ngày càng phát triển gia tăng cả về số lượng tội phạm và cả về số lượng người
phạm tội.
Cũng như thực trạng tình hình tội phạm về ma túy nói chung và về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn cả nước, trong những năm vừa qua,
trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, tình hình tội tàng trữ trái phép chất ma
túy vẫn diễn ra hết sức phức tạp và phát triển theo xu thế ngày càng gia tăng gây ra
bức sức lo lắng trong quần chúng nhân dân. Trước tình hình đó các cơ quan trực
tiếp đấu tranh bảo vệ pháp luật như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa
án nhân dân đã phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và quần
chúng nhân dân tích cực phát động và áp dụng các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn
cũng như phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử kịp thời nghiêm minh các hành
1
vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy được dư luận đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên
trên thực tế tội tàng trữ trái phép các chất mà túy khi phát hiện, CQĐT, VKSND,
TAND gặp rất nhiều khó khăn do các đối tượng phạm tội và sử dụng nhiều phương
thức thủ đoạn xạo quyệt và chống đối hết sức quyết liệt. Việc chứng minh hành vi
phạm tội đặc biệt là giữa hành vi tàng trữ trái phép với hành vi mua ma túy để trực
tiếp sử dụng; giữa hành vi vận chuyển trái phép các chất ma túy với hành vi tàng trữ
trái phép chất ma tuý cũng hết sức phức tạp do các đối tượng phạm tội tìm mọi cách
chối tội; Việc xác định các chất ma túy, trọng lượng, hàm lượng các chất ma túy
phải trải qua giai đoạn giám định trong một số trường hợp cũng phải kéo dài thời
gian và gặp những khó khăn nhất định. Chính vì vậy việc lựa chọn vấn đề "Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy từ thực tiền Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh" Làm đề tài
luận văn thạc sĩ là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ma túy, tội phạm về ma túy trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy
cũng như hệ lụy của nó cho đối tượng phạm tội, gia đình của họ và đối với xã hội
luôn luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân, đặc biệt là
những nhà nghiên cứu lý luận và những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp
luật có liên quan đối với tội phạm về ma túy. Chính vì vậy đã có nhiều công trình,
đề tài khoa học, bài viết và các luận án tiến sĩ, thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này. Có
thể viện dẫn một số công trình, đề tài, bài viết, luận án, luân văn sau đây:
- Trần Văn Kiệm, hình phạt đối với tôi tàng trữ trái phép chất ma túy. Báo
bảo vệ pháp luật ngày 20/11/2019.
- Nguyễn Thị Ngà, Nguyễn Văn A Phạm tội tàng từ trái phép chất ma túy
theo điểm a, c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, Tạp chí Tòa án điện tử ngày
25/3/2020.
- Tìm hiểu nội dung về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Điều 249
BLHS, https://conganquangbinh.gov.com.
- Nguyễn Duy Hội, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. hinhsu.luật việt.com
ngày 13/7/2018.
2
- Nguyễn Đức Hùng, Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) quy định tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, htts://côngtyluattgs.vn ngày
06/5/2019.
- Lê Hồng Minh đánh giá lời khai nhận của người có ma túy để xác định tội
danh và lần phạm tội. Cổng thông tin điện tử VKSNDTC, vksndtc.gov.vn ngày
10/5/2020.
- Kiều Phong - Tuấn Vũ, Thành phố Hồ Chí Minh bàn giải pháp chặt vòi
bạch tuộc ma túy, báo Sài Gòn giải phóng 4/10/2019.
- Phan Anh, Thành phố Hồ Chí Minh dốc toàn lực trị tội phạm ma túy, bảo
người lao động ngày 05/11/2019.
- Triệu Thị Ngân Hà (2017) “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp
luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” Luận văn Thạc sĩ Học viện khoa
học xã hội.
- Phạm Phương Trang (2019), “ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh” Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Ngô Quỳnh Thanh (2018), Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Thị Mai Nga (2010), hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra của VKSND trong điều tra các vụ án về ma túy, luận án tiến sĩ, học viện
cảnh sát nhân dân.
Do BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018 tách Điều 194 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) từ
bốn hành vi độc lập là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma tuý thành bốn tội độc lập là tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Điều 249),
tội vận chuyển trái phép chất ma tuý (Điều 250); tội mua bán trái phép các chất ma
tuý (Điều 251); tội chiếm đoạt các chất ma tuý do đó các công trình nghiên cứu về
tội tàng trữ trái phép chất ma tuý không nhiều. Tuy nhiên qua nghiên cứu các công
trình trên đây cho thấy, các tác giả đã nghiên cứu trên nhiều phương diện và dưới
3
nhiều góc độ khác nhau về loại tội phạm này. Tuy nhiên chưa có một công trình cụ
thể nào nghiên cứu về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý từ thực tiễn quận 4, Thành
phố Hồ Chí Minh vì vậy đề tài luận văn là đề tài hoàn toàn mới và không trùng với
bất kỳ một công trình khoa học nào đã công bố. Mặc dù vậy kết quả nghiên cứu của
các công trình nêu trên có thể được kế thừa một số vấn đề trong quá trình thực hiện
đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn nghiên cứu những lý luận, các quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án tàng
trữ trái phép chất ma tuý trên địa bàn Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian 5 năm kể từ năm 2015 đến năm 2019 luận văn đã đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao áp dụng các quy định của tội phạm này trong khởi tố, điều tra, truy
tố, và xét xử sơ thẩm trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đặt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận về ma tuý, tàng trữ trái phép
chất ma tuý, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
+ Nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội tàng trữ trái phép các chất ma tuý.
+ Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với một số tội phạm khác về ma
tuý.
+ Khảo sát thu thập số liệu, thông tin về tội tằng trữ trái phép chất ma tuý
trên địa bàn Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đánh giá thực trạng tình hình định tội danh và quyết định hình phạt trong
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm loại tội phạm này tìm ra những kết quả đặt
được, những tồn tại, khó khan vướng mắc.
4
+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa việc áp dụng
các quy định của pháp luật về tội phạm này trong khởi tố, điều tra, truy tố, và xét xử
sơ thẩm trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận, pháp luật
về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và trực tiếp áp dụng các quy định của tội phạm
này trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm từ thực tiễn Quận 4, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
+ Phạm vi về nội dung: đề tài luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật và
thực tiễn áp dụng các quy định của tội phạm này tại quận 4, Thành phố Hồ Chí
Minh.
+ Phạm vi về không gian: đề tài luận văn khảo sát thu thập, nghiên cứu số
liệu vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý do khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trên địa
bàn quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phạm vi về thời gian: đề tài luận văn nghiên cứu số liệu trong khoảng thời
gian 5 năm kể từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận: đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận là phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma tuý
nói riêng. Nhằm đảm bảo cho việc nghiên cứu đề tài luận văn đi đúng hướng và đạt
được mục đích đã đề ra.
- Phương pháp cụ thể: đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp
các phương pháp cụ thể như: phương pháp diễn giải, quy nạp; phương pháp phân
tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát, thu thập thông tin, số liệu;
phương pháp trao đổi, toạ đàm trực tiếp với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán có năng lực, kinh nghiệm trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án về
tội tàng trữ trái phép chất ma tuý đang công tác tại CQĐT, VKSND, TAND quận 4,
5
Thành phố Hồ Chí Minh. Việc sử dụng cac Phương pháp này nhằm bảo đảm cho
việc viết các nội dung của các chương theo đúng yêu cầu đã đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận
Là công trình khoa học được nghiên cứu, phân tích toàn diện và sâu sắc để
làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như cơ sở pháp lý của tội Tàng trữ trái phép chất
ma túy theo Bộ luật hình sự Việt Nam.
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính hệ thống và
tương đối toàn diện về tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận 4, thành
phố Hồ Chí Minh ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ giúp xác định được khái niệm, các đặc điểm riêng có, cũng như nội hàm
của vụ án tội tàng trữ trái pháp chất ma túy, từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập
pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về vấn đề này.
- Về mặt thực tiễn
Tổng kết, rút ra được những kinh nghiệm về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy ở giai đoạn điều tra từ năm 2015 đến năm 2019 do Cơ quan điều tra Công an
Quận 4 thụ lý điều tra, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, xét xử của Tòa
án nhân dân Quận 4. Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các Cơ quan THTT nói
chung, Viện kiểm sát nói riêng xác định, áp dụng đúng đắn trình tự, thủ tục để truy
tố trong vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên cạnh đó, tác giả cũng hy
vọng luận văn có thể được sử dụng trong công tác nghiên cứu của các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật… Những người có thẩm quyền
THTT và những người tham gia tố tụng có thể nghiên cứu nhằm áp dụng pháp luật
vào quá trình công tác thực tiễn, nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý.
6
Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý từ thực tiễn Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ
TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
1.1. Khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
1.1.1. Khái niệm về chất ma tuý
Ngày nay thuật ngữ về ma tuý được sử dụng rộng rải trong nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, thuật ngữ, ma
túy, chất ma túy, tội phạm về ma túy được quy định trong các công ước của Liên
hiệp quốc và trong các văn bản pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh
vực đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, ma túy thường được hiểu với các nghiệm
như: tình trạng nghiện ma túy, người nghiện ma túy, tiêm chích ma túy... Tuy nhiên
do phát triển của khoa học công nghệ dẫn đến đời sống vật chất tinh thần của con
người ngày càng được nâng lên, đặc biệt là từ những năm giữa thế kỷ XX đến nay
nhu cầu vui chơi, giải trí của các tầng lớp nhân dân đáng chú ý là giới trẻ ngày càng
cao do đó xuất hiện tình trạng lạm dụng việc sử dụng các loại cây cỏ có tính chất
gây nghiện trước đây. Xuất phát từ nhu cầu ngày càng lớn của xã hội, các đối tượng
phạm tội đã sử dụng những thành tựu của khoa học để điều chế, chế suất các loài
cây cỏ, hoa, quả, nhựa có tính năng chữa bệnh và vui chơi giải trí thành các chất gây
nghiện, chất hướng thần có lượng độc tố cao, tạo thuận lợi cho việc sử dụng, tàng
trữ, vận chuyển, mua bán và thuật ngữ ma túy được hình thành và ra đời. Vậy ma
túy là gì?
- Theo từ điển Hán Việt thì “ma” Có nghĩa là tê liệt hoặc “làm mê mẫn” hoặc
làm cho “tê liệt”, “tuý” có nghĩa là say “ma túy” là một danh từ dùng để chỉ chất
thuốc có khả năng gây ra hiện tượng thần kinh tê liệt dùng nhiều sẽ bị nghiện.
Nghiên cứu khái niệm ma túy nêu trên mặc dù được giải nghĩa theo nghĩa Hán Việt
mang tính nôm na dễ hiểu và còn sai nghĩa và khái quát được tác hại của ma túy là
làm tê liệt hệ thần kinh và nếu dùng nhiều sẽ bị nghiện... [3, tr.14]. Tuy nhiên hạn
chế của khái niệm này là chỉ đề cập đến hậu quả của việc sử dụng ma túy, chưa làm
rõ được chất ma túy là gì.
8
- Theo Từ điển Tiếng việt thì ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng
gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện [21, tr.583]. Nghiên cứu
khái niệm này cho thấy, khi nói đến ma túy có đề cập đến cách gọi chung của các
chất có tác dụng gây ra trạng thái ngây ngất, đờ đẫn dùng quen sẽ thành nghiện
nhưng cũng chưa làm rõ được các chất đó là chất gì.
- Theo Công ước Thống nhất về các chất ma túy năm 1901 Đã sửa đổi bổ
sung theo nghị định thư 1972 Sửa đổi Công ước Thống nhất về các chất ma túy năm
1961 của Liên Hiệp quốc thì sau khi đưa ra định nghĩa về một số loại cây, lá nhựa
có chất ma túy thì tại điểm J khoản 1 Công ước có đưa ra khái niệm
“ma tuý” nghĩa là bất kỳ chất liệu nào trong bảng I và II dù dưới dạng tự nhiên hay
tổng hợp. Cách đưa ra khái niệm của công ước về ma túy là dựa trên cơ sở tổng hợp
các chất ma túy đã được quy định trong hai bảng của Công ước dù bất kỳ dưới dạng
tự nhiên hay đã qua điều chế. Khái niệm này còn tiếp tục được quy định tại điểm r
khoản 1 Điều 1 Công ước của Liên hiệp quốc tế về chống buôn bán bất hợp pháp
của chất ma tuý và chất hướng thần năm 1988.
- Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các tội
phạm về ma tuý tại Chương XX gồm 13 Điều (từ Điều 247 đến Điều 259 không đưa
ra khái niệm chất ma tuý mà các chất ma tuý được liệt kê một số chất có tên gọi cụ
thể và các loại cây khác có chứa chất ma tuý, các chất ma tuý khác ở thể rắn, thể
lỏng. Theo đó các chất ma tuý theo quy định của BLHS là:
+ Cây thuốc phiện, cái Coca, cây Cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma túy do Chính phủ quy định; Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cây Coca; lá
khát, lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây Cần sa, quả thuốc phiện khô, tươi,
+ Heroine, cocaine, methamphetamine, amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11
+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng, thể rắn.
- Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2008) đã đưa ra
một số định nghĩa liên quan đến ma túy cụ thể như sau:
+ Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành.
9
+ Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
+ Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu
sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
+ Tiền chất ma túy là hóa chất cần thiết trong quá trình điều chế, sản xuất
chất ma túy, được quy định trong danh mục của Chính phủ ban hành.
+ Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp
có chứa hợp chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất là các loại
thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ y tế ban hành có chứa
các chất quy định tại Khoản 2,3,4 Điều này. Đồng thời, Luật Phòng chống ma túy
cũng quy định về các loại cây có chứa chất ma túy và đưa ra khái niệm về người
nghiện ma túy như sau:
Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây Anh túc), cây Coca,
cây Cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định. Đến thời
điểm hiện nay, danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành được quy định cụ
thể trong các Nghị định gồm: Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của
Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất; Nghị định
số133/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/11/2003 của Chính phủ quy định bổ
sung một số chất vào Danh mục các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số 163/2007/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 12/11/2007 quy định sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số
chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ; Nghị định số 17/2011/NĐ-CP
ngày 22/02/2011 quy định về bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học đối với một số
chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy ban hành kèm theo Nghị
định số 67/2001/NĐ-CPngày 01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007của Chính phủ; Nghị định số 82/2013/NĐ-CP
ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các Danh mục chất ma túy và tiền chất;
Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chất ma túy
10
và tiền chất; gần đây nhất ngày 29/5/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
60/2020/ NĐ-CP sửa đổi, bổ sung danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành
kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Theo đó,
các chất ma túy được chia thành ba danh mục gồm:
Danh mục I: các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng trong lĩnh vực y
tế, việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và
điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (có trong Bảng
IV Công ước của Liên hiệp quốc năm 1961 và Bảng I Công ước của Liên hiệp quốc
năm 1971 (gồm 45 chất.
Danh mục II: các chất ma túy độc hại, được dùng hạn chế trong phân tích,
kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo
yêu cầu điều trị (có trong Bảng I và Bảng II Công ước của Liên hiệp quốc năm
1971) gồm 121 chất.
Danh mục III: các chất ma túy độc dược dùng trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều
trị (có trong Bảng III và Bảng IV Công ước của Liên hiệp quốc năm 1971) gồm 69
chất.
Từ sự phân tích các quan điểm, các quy định của pháp luật về ma túy, chất
ma túy có thể rút ra khái niệm như sau:
Ma túy là các chất có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào
cơ thể con người dưới bất kỳ hình thức nào sẽ gây kích thích mạnh hoặc ức chế thần
kinh và làm thay đổi trạng thái ý thức cũng như sinh lý của người sử dụng. Nếu lạm
dụng, con người sẽ bị lệ thuộc vào ma túy và dẫn đến tình trạng nghiện đối với
người sử dụng ma túy.
Việc nghiên cứu về ma túy và chất ma túy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với CQĐT, VKS, TA trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm cho việc khởi
tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Khái niệm về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
11
Tàng trữ theo nghĩa thông thường là cất giữ cẩn thận những thứ có giá trị.
Theo đó thì tàng trữ cũng đồng nghĩa với tích trữ nhưng thường đi liền với hành vi
cất giữa những thứ bị cấm và được hiểu theo nghĩa là tàng trữ trái phép.
Khái niệm này chỉ đề cập đến hành vi tàng trữ như là hành vi cất dấu những
đồ vật có giá trị như cất dấu vàng, bạc, tiền… tàng trữ còn đồng nghĩa với tích trữ
nhưng thường được đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và có mục đích
thu được những mối lợi nhất định cho người tích trữ hoặc để phòng ngừa lúc gặp
khó khăn như tích trữ lương thực, thực phẩm…
Theo Từ điển Luật học thì “tàng trữ trái phép là hành vi cất giữ trái phép đối
tượng cụ thể trong người, nơi ở, nơi làm việc hoặc ở một nơi nào khác. Do tính chất
đặc biệt của một số đối tượng nên hành vi tàng trữ trái phép một trong những đối
tượng này bị pháp luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm. Đó là: Tội tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội tàng trữ trái phép vật liệu
nổ; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy [20, tr.693,694].
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần tội phạm) do GS.TSKH Lê
Cảm chủ biên thì khái niệm về hành vi vận chuyển, tàng trữ trái phép các chất ma
túy cụ thể như sau: “hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ trái
phép chất ma túy trong người, trong nhà hoặc ở nơi nào khác không kể thời gian
bao lâu”.
Quan điểm trên đây đã mô tả được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là
hành vi cất giấu trái phép ở những địa điểm nhất định nhưng hạn chế là chưa nêu
được mục đích của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Theo bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) phần
các tội phạm của tác giả Đinh Văn Quế thì khái niệm về tội phạm theo quy định tại
Điều 194 như sau “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm
chiếm đoạt, cưỡng bức, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa
đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy [11, tr.78].
Nghiên cứu khái niệm trên cho thấy, mặc dù khái niệm đã khái quát hóa
được các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
12
chất ma túy nhưng đây là tội ghép bốn hành vi phạm tội do chưa làm rõ được khái
niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 do
GS.TS Trần Văn Luyện chủ biên thì tàng trữ trái phép chất ma túy được hiểu là
“tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, dấu trái phép chất ma túy ở bất kỳ
nơi nào như: trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong valy, cho vào thùng
xăng xe, cất trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc mang theo người mà
không nhằm mục đích mua bán hay sử dụng trái phép chất ma túy khác.
Quan điểm trên đây đã đề cập tương đối toàn diện về hành vi tàng trữ trái
phép chất ma tuý như: Tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi cất giữ, dấu bất hợp
pháp ở nhiều vị trí, địa điểm khác nhau đồng thời nêu được mục đích của tội tàng
trữ trái phép chất ma tuý.
Tuy nhiên, nghiên cứu tất cả các khái niệm về tàng trữ, tàng trữ trái phép,
tàng trữ trái phép chất ma tuý vẫn chưa đưa ra được khái niệm, mang tính tổng quát
với tính khái quát cao về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo quan điểm của
chúng tôi để đưa ra khái niệm mang tính khái quát cao về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy phải trên cơ sở nghiên cứu, phân tích quy định của BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017 về khái niệm tội phạm được quy định tại (Điều 8); Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy (Điều 249) đồng thời phải nghiên cứu, phân tích khái niệm
chất ma túy; khái niệm tàng trữ, tàng trữ trái phép chất ma túy. Từ đó có thể đưa ra
khái niệm về tội tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện bằng hành vi cất giữ, cất dấu trái phép chất ma túy ở bất cứ nơi nào như: trong
nhà, ngoài sân, vườn, chôn dưới đất để trong vali, thùng xe, cất giấu trong quần áo,
tư trang mặc trên người hoặc mang theo người… mà không nhằm mục đích mua
bán hay sản xuất trái phép các chất ma túy khác do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến chính sách và quy định của Nhà
nước về thống nhất quản lý các chất ma túy.
13
1.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam đối với tội tàng trữ ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép
chất ma túy nói riêng
1.2.1. Thời kỳ trước khi ban hànhBộ luật hình sự năm 1985
Nước ta có diện tích tự nhiên là 332,212 km2 trong đó đồi núi chiếm ¾ diện
tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp, địa hình thấp dưới 1000 m chiếm 85 %
diện tích lãnh thổ tạo thành một cánh cung luôn hướng ra biển đông chạy dài
1400km. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thích hợp với phát triển của các loài thực vật.
Trước đây ở nước ta không có thuật ngữ “ma túy” mà chỉ tồn tại thuật ngữ “thuốc
phiện” nhựa cây thuốc phiện hay còn gọi là cây “Anh túc”. Cho đến nay chưa có thể
biết chính xác cây thuốc phiện từ đâu được đưa vào Việt Nam trồng từ năm nào mà
chỉ xác định vào khoảng đầu thế kỷ thứ XVII đã được trồng phổ biến ở các tỉnh
miền núi phía bắc và bắc trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ An), đặc biệt được trồng
nhiều nhất ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Lào Cai, Hà Giang, Cao
Bằng.
Tương tự như vậy, cây Cần sa, cây Coca cũng là hai loại cây có chứa chất
ma túy được đưa vào trồng ở Việt Nam muộn hơn so với cây thuốc phiện. Cây Cần
sa và cây Coca được trồng ở các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây Nam bộ. Do
hai loại cây này có tính chất và đặc điểm giống cây thuốc phiện nên được liệt vào
cây thuốc phiện.
Ban đầu, cây Thuốc phiện, cây Coca, cây Cần sa được trồng và khai thác, sử
dụng như một loại thảo dược dùng trị các bệnh phong thấp, tiêu hóa hoặc dùng làm
thuốc giảm đau, sau đó được dùng để hút trong các lễ hội, đám ma, đám cưới và trở
thành có nhiều người nghiện. Người nghiện thuốc phiện không chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe, giảm sút sức lao động mà còn có nhiều biểu hiện bất thường về thần kinh
và có những hành động đáng lo ngại, thậm chí là hành động nguy hiểm cho xã hội
dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho gia đình và xã hội. Để ngăn chặn tệ nạn nghiện hút và
trồng cây thuốc phiện một số làng, bản đã lập ra các Hương ước quy định về việc
cấm sử dụng thuốc phiện.
14
Nhận thức được sự nguy hiểm của việc trồng và sử dụng cây Thuốc phiện,
cây Cần sa, cây Coca đối với con người và xã hội. Năm bành trị thứ III, triều
Nguyễn đã ban hành đạo luật đầu tiên về việc cấm trồng cây thuốc phiện vì cho
rằng: “con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dục, trộm cướp; dùng nó
để dòm ngó nhà người ta trong kinh thành, ngoài thì thôn xóm vì nó mà có khi hỏa
hoạn, khánh kiệt tài sản; vì nó mà thân tàn người chẳng ra người”. Đạo luật này
cũng quy định rõ: từ nay về sau, quan lại và dân chúng không được trồng và mua
bán thuốc phiện, ai đã trồng thì phải phá đi, người nào chứa, giữ thì phải hủy đi .
Nhận thức được tác hại của việc trồng cây thuốc phiện và sử dụng nhựa cây
thuốc phiện không chỉ đối với người nghiện mà còn mang lại nhiều tác hại xấu cho
toàn bộ xã hội. Chính vì vậy, ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong bài nói chuyện
về "Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta vơi rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi
thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng gian giảo,
tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại
nhân dân chúng ta… Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện .
Thực hiện chỉ thị này của Hồ Chủ Tịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số: 150/TTg ngày 05/3/1952 quy định việc xử lý đối với những hành vi
vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện với những nội dung cụ thể sau đây:
Điều 5 - Ngoài các cơ quan chuyên trách, không ai được tàng trữ và chuyển
vận nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi.
Điều 6 - (Do Nghị định số 225-TTg ngày 22/12/1952 của Chính phủ sửa đổi
và bổ sung Nghị định số 150/TTg ngày 5/3/1952 quy định những hành vi phạm
pháp sẽ bị phạt như sau:
- Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc chuyển vận trái phép;
- Phạt tiền từ 1 đến 5 lần giá trị số thuốc phiện lậu.
Ngoài ra, người phạm pháp còn có thể bị truy tố trước Tòa án nhân dân.
15
Tuy nhiên, những người đã bán lậu thuốc phiện cho người khác mà sau lại tố
cáo với các cơ quan chuyên trách và giúp bắt được người buôn lậu thì sẽ được coi là
lập công chuộc tội và không phải phạt.
Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 225/TTg ngày
22/12/1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện sẽ
bị xử lý bằng các hình thức cụ thể như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận
chuyển trái phép; phạt tiền từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu. Ngoài ra,
người vi phạm còn có thể bị truy tố trước TAND.
Năm 1945, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được
lập lại và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Nhà
nước Việt Nam tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong
đó có công tác đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện và các chất ma túy khác. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 580/TTg ngày 15/9/1995 quy định
những Trường hợp cụ thể đưa ra Tòa án để xét xử như:
Điều 2 - Các Nghị định quy định những người vi phạm Nghị định số 150-
TTg ngày 05/3/1952 trong những trường hợp sau đây có thể đưa ra Tòa án nhân dân
xét xử:
- Buôn thuốc phiện lậu có nhiều người tham dự và có thủ đoạn gian lậu;
- Tang vật trị giá trên 1 triệu đồng;
- Buôn nhỏ hoặc làm môi giới nhưng có tính chất thường xuyên, chuyên môn
hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần.
- Các vụ có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội;
- Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan.
Điều 3 của Nghị định quy định bị can sẽ bị phạt như sau:
Phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
- Phạt tiền như đã quy định ở Điều 6 nghị định số 150-TTg ngày 05/3/1952.
- Tịch thu tang vật
Các phương tiện như thuyền, xe… dùng để chuyển vận thuốc phiện lậu có
thể bị tịch thu, nếu người chủ những phương tiện đó có liên quan đến việc buôn lậu.
16
Điều 4 - Các nghị định quy định trường hợp kẻ buôn lậu dùng vũ lực chống
cự lại nhà chức trách khi bị bắt giữ thì sẽ chiếu hình luật chung mà xử phạt thêm về
tội ấy.
Để cụ thể hóa đường lối xét xử đối với những hành vi phạm tội về thuốc
phiện, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành các Thông Tư số: 635/VVH-HS ngày
29/3/1958 và Thông Tư số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 hướng dẫn đường lối truy
tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện. Theo Thông tư này, Bộ Tư pháp
còn hướng dẫn việc xử lý đối với hành vi vi đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu.
Về đường lối và chủ trương truy tố, xét xử đối với những vụ buôn thuốc
phiện lậu, Thông tư số 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 quy định:
Khi xét xử cần phân biệt: Loại tổ chức thường xuyên và tổ chức nhất thời;
phạm vi hoạt động trong một tỉnh hay liên tỉnh; loại cầm đầu toàn bộ tổ chức buôn
lậu và loại cầm đầu từng bộ phận: Xuất vốn, mua hàng, chuyên chở, tàng trữ, tiêu
thụ hàng lậu. Phân biệt sự nguy hiểm của từng loại cầm đầu ấy mà xử lý; Loại
chuyên nghiệp đã có tiếng từ hồi Pháp thuộc và loại mới vào nghề; Loại phần tử xấu
có tội ác, loại phần tử địch và những kẻ phạm pháp có tính chất cơ hội; Loại vũ khí
hành hung cán bộ và loại thường.
Về mức án, Thông tư số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 quy định một số hình
phạt tù được áp dụng đối với từng người phạm tội cụ thể và quy định một số biện
pháp tư pháp khác như phạt tiền và tịch thu tài sản của người phạm tội.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số: 76-CP ngày 25/3/1977 về vấn đề hướng dẫn
thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước, trong đó có nếu quan điểm
chống buôn lậu thuốc phiện của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời kỳ này, TAND
tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn, áp
dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu
thuốc phiện nói riêng trên cơ sở của Nghị quyết này. Tuy nhiên trong thời kỳ này,
pháp luật hình sự Việt Nam chưa được hệ thống hóa một cách chính thức mà chỉ
bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành. Do đó không thể hiện
được tình toàn diện, đầy đủ và chung nhất chính sách hình sự của Đảng và Nhà
17
nước ta trong việc xử lý tội phạm nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói
riêng. Vì vậy, việc ban hành một BLHS mới là vấn đề khách quan, cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược lúc bấy giờ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo về Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Đến những năm đầu thập kỷ 90, do ảnh hưởng và tác động của các nước
trong khu vực đặc biệt là các nước có đường biên giới trên bộ với nước ta, tình hình
tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng ma túy ở nước ta có chiều hướng gia tăng.
Đặc biệt, tình trạng tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép thuốc phiện và các chất
ma túy khác qua biên giới đang ngày càng trở nên phổ biến. Trước tình hình đó và
do yêu cầu thực tế của đời sống xã hội, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã thông
qua BLHS năm 1985. Đây là BLHS đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm và
hình phạt và cũng là lần đầu tiên thuật ngữ "Chất ma túy" được đưa vào sử dụng
trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, BLS năm 1985 mới chỉ
có duy nhất một điều luật quy định tội phạm về ma túy (Điều 203. Tội tổ chức sử
dụng chất ma túy) và hai điều luật có liên quan đến ma túy (Điều 97. Tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới) và (Điều 166. Tội buôn
bán hàng cấm). Khi mới ban hành việc áp dụng hai điều luật của BLHS về "Tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới" và "Tội buôn
bán hàng cấm" này được thực hiện theo hướng: hành vi buôn bán vận chuyển ma
túy trong nước thì bị áp dụng Điều 166 BLHS, còn hành vi buôn bán vận chuyển
ma túy qua biên giới thì bị áp dụng Điều 97 BLHS. Vì vậy, tội phạm vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy vẫn chưa được ngăn chặn một cách quyết liệt và hiệu
quả trong thời kỳ này.
Trước tình hình buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy ngày càng gia tăng cả
về số lượng tội phạm và người phạm tội và diễn biến rất phức tạp, việc áp dụng
Điều 97 và 166 BLHS năm 1985 để xử ký các hành vi phạm tội về ma túy như trên
đã không thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm
18
nguy hiểm này. Chính vì vậy, ngày 28/12/1989, Quốc hội đã bổ sung Điều 96a quy
định về "Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy" quy
định mức hình phạt cao nhất là tử hình. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa
đổi bổ sung như vậy, tình hình phạm tội về ma túy không những không giảm đi, mà
tiếp tục gia tăng với những diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Mặc dù các cơ quan
tiến hành tố tụng ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý hành vi
có liên qua đến ma túy nhưng cũng không thể ngăn chặn được tệ nạn ma túy và tội
phạm về ma túy.
Đến năm 1992, cuộc đấu tranh phòng chống ma túy đã chính thức được quy
định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 61 của Hiến pháp năm 1992 quy định:
"Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định về chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa các bệnh xã hội nguy hiểm".
Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992, Đảng và Nhà nước ta
đã đổi mới chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy. Ngày 22/12/1992, Quốc
hội khóa IX thông qua Luật sủa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985.
Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới
luật để tiếp tục ngăn chặn một cách có hiệu quả hơn sự gia tăng của tội phạm về ma
túy. Song, hệ thống pháp luật vẫn chưa hoàn chỉnh nên đã gây ra nhiều khó khăn
cho thực tiễn đấu tranh phòng, chống ma túy và tội phạm về ma túy. Do đó, có thể
nói rằng việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 lần này cũng chỉ là biện pháp mang
tính tình thế. Theo hướng dẫn tại thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993
của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp về một số quy định của
BLHS thì:
Đối với những người buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên
giới hàng hóa là vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, các chất ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy, từ nay chỉ
được truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
19
hóa qua biên giới" theo Điều 97 mà không truy cứu thêm về tội phạm tương ứng
theo quy định tại các điều 05, 96, 96a, 99 như hướng dẫn trước đây.
Tiếp theo liên ngành tư pháp trung ương tiếp tục ban hành Thông tư liên
ngành số 06/TTLN ngày 14/2/1995 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ,
Bộ Tư pháp hướng dẫn lại cụ thể như sau:
Sau một thời gian thực hiện thông tư liên tịch số 05/TTLT nói trên, thực tiễn
công tác điều tra, truy tố, xét xử cho thấy đối với các hành vi buôn bán trái phép
hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa là các chất ma túy thì tội danh
buôn bán hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy theo Điều 96a BLHS là đúng hơn
và đề cao hơn ý nghĩa của cuộc đấu tranh chống loại tội phạm này. Vì vậy, đối với
mọi hành vi buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép qua biên giới chất ma túy chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 96a BLHS năm 1985.
Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 1985 (sau khi luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 22/12/1992) thì: Các
hành vi khác như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trong nước
đối với các chất ma túy chưa bị coi là tội phạm. Chính vì vậy, năm 1997 Quốc hội
đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985, trong đó tội phạm về ma túy được
quy định thành một chương riêng: Chương VIIA “Các tội phạm về ma túy” để bổ
sung vào “Phần các tội phạm” của BLHS năm 2985 gồm 14 điều với 13 tội danh cụ
thể. Trong lần sửa đổi, bổ sung này, các hành vi phạm tội “sản xuất”, “tàng trữ”,
“mua bán”, “vận chuyển” trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 96a Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 đã được tách ra thành các tội danh
riêng biệt (Điều 185b. Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Điều 185c. Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy, Điều 185d. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy và Điều
185đ. Tội mua bán trái phép chất ma túy). Như vậy, có thể nói đây là lần đầu tiên
pháp luật hình sự Việt Nam quy định “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy” thành những tội danh riêng biệt. Đặc biệt là trong số các Điều 185b,
Điều 186c, Điều 186d, Điều 186đ này, trọng lượng, số lượng, thể tích, loại ma túy
cũng như chất ma túy đã được quy định một cách cụ thể tương ứng với từng khung
20
hình phạt cụ thể và tương ứng với từng tội danh cụ thể. Vấn đề này tạo ra nhiều
thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
trong việc nhận thức đúng đắn về mặt lý luận cũng như trong việc áp dụng pháp luật
để xử lý tội phạm về ma túy một cách đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Chính sách hình sự
này thể hiện thái độ kiên quyết và triệt để của Đảng và Nhà nước ta trong việc trừng
trị nghiêm khắc các tội phạm về ma túy. Hơn thế nữa, điểm nhấn quan trọng nhất
trong chính sách hình sự của Việt Nam đối với bọn tội phạm về ma túy trong thời
kỳ này chính là việc Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số: 798/QĐ-CTN ngày
01/09/1997 về việc nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia ba Công
ước của Liên hợp quốc về kiểm sát ma túy gồm: Công ước thống nhất về các chất
ma túy băm 1961, công ước về các chất hướng thần năm 1971 và công ước về
chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988.
Để đảm bảo thống nhất trong việc xử lý các tội phạm về ma túy nói chung
theo quy định tại Chương VIIA “Các tội phạm về ma túy” mới được sửa đổi, bổ
sung năm 1997, trong việc xử lý các tội “tàng trữ”, “vận chuyển”, “mua bán” trái
phép chất ma túy nói riêng, các cơ quan chức năng hữu quan đã ban hành nhiều văn
bản sưới luật gồm Thông tư liên ngành, Thông tư liên tịch để hướng dẫn thực hiện.
Trong đó, Thông tư liên tịch số: 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 và Thông tư liên tịch số: 02/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
05/8/1998 của TAND tối cao, VKSND tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về
việc hướng dẫn áp dụng Chương VIIA “Các tội phạm về ma túy” mới được sửa đổi,
bổ sung năm 1997 và được đánh giá là các văn bản hướng dẫn đầy đủ và toàn diện
nhất trong việc thống nhất áp dụng pháp luật và xử lý các tội “tàng trữ”, “vận
chuyển”, “mua bán” trái phép chất ma túy.
Tại Thông tư liên tịch số: 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 của TAND tối cao, VKSND tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an)
về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS về các chất ma túy được giải thích một cách cụ thể rõ ràng hơn:
21
Chất ma túy là những chất được xác định và có tên riêng trong khoa học.
Trong Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều cua BLHS 1985 đã quy định một số
chất ma túy cụ thể thường gặp như: Heroin, nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao
coca… Ngoài ra, trong điều luật còn quy định các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc ở
thể lỏng mà không liệt kê cụ thể đó là các chất gì. Vì vậy, trong thực tiễn, khi áp
dụng pháp luật các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng cần
hiểu các chất ma túy khác là các chất ma túy được quy địn cụ thể trong các Công
ước quốc tế về kiểm soát ma túy mà Việt Nam đã tham gia ngoài các chất ma túy đã
được quy định cụ thể trong Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
năm 1985 (Kèm theo Thông tư này có Danh mục các chất ma túy theo quy định
trong các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia).
Mặt khác, các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy cũng được xác định cụ thể hơn như sau:
- Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185c là hành vi cất
giữ bất hợp pháp các chất ma túy ở bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích mua
bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không
có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người cất giữ bất hợp pháp chất ma túy hộ cho người khác mà biết mục đích
mua bán trái phép chất ma túy này của người đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội “mua bán trái phép chất ma túy” với vai trò của người đồng phạm (người
giúp sức).
- Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185d là hành vi
chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác được thực hiện dưới
bất kỳ hình thức nào mà không nhằm mục đích mua bán.
- Hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185d là hành vi
bán hay mua, tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái
phép, cũng được coi là hành vi mua bán trái phép chất ma túy hoặc dùng chất ma
túy để trao đổi, thanh toán… bất hợp pháp.
22
Thông tư liên tịch số: 02/TTLT-TANDTC-VNSNDTC-BNV ngày 05/8/1998
của TAND tối cao, VKSND tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) tiếp tục
hướng dẫn cụ thể hơn các hành vi (mua bán trái phép chất ma túy) như sau:
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 285d BLHS là một
trong các hành vi sau đây
- Bán trái phép chất ma túy cho người khác;
- Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
- Xin chất ma tuy nhằm bán trái phép cho người khác;
- Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
- Vận chuyển chất ma túy để bán trái phép cho người khác;
- Dùng chất ma túy để trao đổi, thanh toán… trái phép;
- Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma
túy để bán lại trái phép cho người khác.
Đồng thời, thông tư liên tịch này cũng nêu rõ một số trường hợp cụ thể để áp
dụng pháp luật trong thực tiễn:
Người nào thực hiện một trong các hành vi được hướng dẫn tại các điểm a và
e đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội (mua bán trái phép chất ma túy)
theo Điều 185d BLHS không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có và
(để có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện một trong các hành vi
được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và g về tội mua bán trái phép chất ma túy
theo Điều 185d BLHS, thì cần phải chứng minh được mục đích thực hiện một trong
các hành vi này của họ là bán trái phép chất ma túy đó). Trong trường hợp không
chứng minh được mục đích bán trái phép chất ma túy của họ, thì tùy từng trường
hợp cụ thể mà căn cứ vào hướng dẫn tại tiết b, điểm 4, mục II, phần B của Thông tư
liên tịch số: 01/1998 ngày 02/01/1998 để xử lý hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 185c BLHS hoặc về
tội “vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điều 185d BLHS. Mặc khác, Thông tư
liên tịch số 02/TTLT ngày 05/8/1998 này còn hướng dẫn cụ thể về việc xử lý đối
với đồng phạm: “người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người nào thực
23
hiện một trong các hành vi trên đây đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
“mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 185d BLHS”.
Như vậy, qua bốn lần sửa đổi, bổ sung (theo các Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS năm 1985 được quốc hội thông qua vào các ngày 28/12/1989,
ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997) cùng với việc ban hành nhiều
văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành BLHS năm 1985, pháp luật hình sự Việt
Nam nói chung và các chế định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy nói riêng đã từng bước được xây dựng một cách hoàn thiện, chặt chẽ và rõ
ràng hơn. Đây cũng là những cơ sở vững chắc ban đầu cho việc pháp điển hóa
BLHS lần thứ hai vào năm 1999 nhằm giải quyết kịp thời và đáp ứng yêu cầu do
thực tiễn đặt ra trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và phòng
chống tội phạm về ma túy nói riêng.
1.2.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong bối cảnh nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã góp phần giải quyết được một
phần nhu cầu bức xúc của xã hội và của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm vào
thời kỳ đó, nhưng những hạn chế về kỹ thuật lập pháp và thiếu sự đồng bộ, chặt chẽ
cũng như việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần đã làm cho BLHS năm 1985 không
còn là một chỉnh thể hoàn chỉnh và thống nhất. Hơn nữa, công cuộc đổi mới ở nước
ta đã bắt đầu được thực hiện từ năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế cũng như thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
về ma túy nói riêng đã có nhiều biến đổi nhanh chóng. Thực tế này đòi hỏi BLHS
của nước ta phải được sửa đổi, bổ sung toàn diện, đặc biệt là trong điều kiện tội
phạm về ma túy đang có xu hướng trở thành tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và
Việt Nam cũng đã chính thức tham gia ba công ước của Liên Hợp quốc về kiểm
soát ma túy từ ngày 01/09/1997. Do đó, chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta
24
cũng cần phải điều chỉnh kịp thời. Chính vì vậy, từ ngày 21/12/1999 BLHS mới đã
được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua. Trong BLHS mới ban hành năm
1999, các tội phạm về ma túy được quy định tại chương XVIII gồm 10 điều luật
quy định và bổ sung một số tội danh mới cụ thể: Điều 192. Tội trồng cây thuốc
phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma túy; Điều 193. Tội sản xuất trái phép chất
ma túy; Điều 194. Tội tràng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái
phép chất ma túy; Điều 196. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương
tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 197.
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 198. Tội chứa chấp việc sử dụng
trái phép chất ma túy; Điều 1999. Tội sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 200. Tội
cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 201. Tội vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.
Theo đó, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đã được
ghép với tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy thành một tội chung quy định tại Điều
194 BLHS năm 1999: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy”. So với các quy định của BLHS năm 1985 về các tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (và cả tội chiếm đoạt chất ma túy), thì quy
định tại Điều 194 BLHS năm 1999 bước đầu đã được đánh giá là có nhiều tiến bộ
về mặt lập pháp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống các loại
tội phạm về ma túy. Về kỹ thuật lập pháp, việc quy định các hành vi tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (và cả hành vi chiếm đoạt chất ma túy) trong
cùng một điều luật, đồng thời chuyển quy định hình phạt bổ sung từ một điều luật
riêng (Điều 185 trong BLHS năm 1985) thành khoản 5 trong Điều 194 BLHS năm
1999 đã giảm thiểu được một cách đáng kể số lượng điều luật. Đồng thời giảm số
lượng điều luật có hình phạt tử hình trong điều kiện nước ta đã gia nhập hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á năm 1985 (Asean) và trở thành thành viên chính thức của
Apec năm 1998 là hết sức cần thiết nhằm đề cao vấn đề nhân quyền. Trong những
năm đầu thi hành BLHS năm 1999, việc áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi
phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng như việc quyết
25
định hình phạt và hình phạt bổ sung đã được đánh giá là đơn giản hơn, thuận tiện
hơn và hiệu quả hơn. Lí do là khi các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chứng minh
được một hành vi phạm tội cụ thể nào đó là hành vi “tàng trữ trái phép chất ma túy”
hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy” hay là hành vi “ mua bán trái phép chất
ma túy”, thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể áp dụng Điều 194 BLHS để
giải quyết vụ án trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, theo cấu trúc của
Điều 194 của BLHS năm 1999 thì việc quy định về định lượng chất ma túy trong
các khung hình phạt cụ thể, các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự
cũng như khung hình phạt cụ thể đối với các hành vi phạm tội “tàng trữ” “vận
chuyển” và “mua bán” trái phép chất ma túy là hoàn toàn giống nhau. Điều này
cũng có nghĩa là các nhà làm luật đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của các hành vi “tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi “vận chuyển trái phép
chất ma túy” và hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” là hoàn toàn giống nhau
hoặc tương đương với nhau. Đây cũng chính là một trong những vấn đề dẫn đến
giải quyết các vụ án trong thời gian này gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và bất cập
cả về lý luận và thực tiễn.
Nhìn chung, BLHS năm 1999 đã chính thức định lượng hóa một cách cụ thể
các chất ma túy trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức hình phạt, nâng cao
hình phạt tiền và tịch thu tài sản, đồng thời có thêm một số hình phạt bổ sung khác.
Đó cũng chính là những điểm mới quan trọng nhất trong chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta đối với tội phạm về ma túy. Để hoàn thiện thêm hệ thống
pháp luật về phòng, chống ma túy, Quốc hội khoa X (kỳ họp thứ 8) đã thông qua
Luật Phòng chống ma túy vào ngày 09/12/2000. Sau đó, luật Sửa đổi, bổ sụng một
số điều của luật phòng chống ma túy do Quốc hội ban hành năm 2008 tiếp tục thể
hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta cũng như nỗ lực của toàn xã hội trong việc
ngăn chặn các tệ nạn về ma túy trong việc phòng chống tội phạm về ma túy nói
chung và tội phạm về tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Trong quá trình thi hành BLHS năm 1999, TAND tối cao, VKSND tối cao,
Chính phủ và một số cơ quan chức năng khác đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn
26
áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999. Trong số đó, có các văn bản hướng
dẫn các quy định của BLHS về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy như các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao gồm: Nghị quyết số
01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định của các
Điều 139, Điều 193, Điều 194, Điều 278, Điều 279 và Điều 289 BLHS; Nghị quyết
số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số trường hợp cụ
thể của BLHS; Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp
dụng một số điều của BLHS. Cả ba Nghị quyết này đều tập trung hướng dẫn áp
dụng một số vấn đề cụ thể nhằm phục vụ cho hoạt động xét xử của ngành Tòa án,
đặc biệt trong Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều BLHS, vấn đề xác định
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phạm tội mua bán trái phép chất ma túy đã được hướng dẫn cụ thể.
Cùng với những văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét
xử của ngành Tòa án như đã nêu, chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp và một số cơ quan chức năng khác cũng đã ban hành nhiều
nghị định, thông tư liên ngành, thông tư liên tịch để hướng dẫn chi tiết hơn, cụ thể
hơn các quy định của BLHS năm 1999 như: Thông tư liên tịch số:
17/2007/TTLT/BCA/TANDTC/VKSNDTC/BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an,
TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ tư pháp quy định về việc hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999
đã trở thành văn bản pháp lý quan trọng trong việc áp dụng một cách chi tiết, đầy đủ
và thống nhất các quy định của BLHS về tội phạm ma túy.
Để tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS nói chung và các quy định
của BLHS về các tội phạm ma túy nói riêng ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc
hội khóa XII đã thông qua luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999.
Việc ban hành việc sửa đổi, bổ sung này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến
trình hoàn thiện pháp luật hình sự của nhà nước ta, góp phần khắc phục những hạn
chế, bất cập của BLHS năm 1999, từng bước đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra
27
và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Sửa đổi, bổ sụng BLHS năm 2009 đã thể chế hóa chính sách nhân đạo
của Đảng, Nhà nước; hình sự hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử
lý về hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, công
nghệ và hội nhập quốc tế; phi hình sự hóa một số hành vi bị coi là tội phạm trong
BLHS năm 1999 nay không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Theo đó, luật sửa đổi,
bổ sung BLHS năm 2009 loại bỏ hình phạt tử hình ở 8 điều luật (trong đó có khoản
4, Điều 197 tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy). BLHS năm 1999 quy định
người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
“gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên; gây
chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác”. Theo luật sửa đổi,
bổ sung BLHS năm 2009 người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì chỉ bị phạt tù đến 20
năm hoặc tù chung thân.
Tại khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009, các nhà làm luật
đã loại bỏ (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS năm 1999, trong đó có tội “sử dụng
trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 199. Việc bãi bỏ điều luật này thể hiện
tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam và cũng khẳng định một thực tế là:
Thực tiễn thi hành BLHS năm 1999 đã cho thấy các hành vi sử dụng trái phép chất
ma túy không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma
túy trong BLHS lần này xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
Việt Nam trong thời gian qua. Thực tế đã chứng minh hiệu quả răn đe, phòng ngừa
chung của việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật này là
không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối với người sử dụng trái phép
chất ma túy bằng các chế tài hình sự cũng rất hạn chế. Hơn nữa, số lượng người sử
dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, nên nhà nước không thể xử lý hết
số người này bằng các biện pháp, chế tài hình sự. Việc tiếp tục quy định hành vi sử
28
dụng trái phép chất ma túy là tội phạm trong BLHS rất dễ dẫn đến tình trạng không
công bằng khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
1.2.4. Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) về các tội phạm ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Sau hơn 14 năm thi hành BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã
có những tác động tích cực đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, các tội phạm về ma túy trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói
riêng; bảo đảo thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần
tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên kể từ khi BLHS
năm 1999 ban hành đến nay tình hình đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn về mọi
mặt. Để thể chế hóa quan điểm của Đảng về đường lối chính sách đấu tranh phòng
chống tội phạm và yêu cầu cải cách tư pháp cũng như cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Tại kỳ họp thứ
10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Việc ban hành BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã đánh dấu một bước
quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật là cơ sở pháp lý để đấu
tranh phòng chống tội phạm ngày càng có hiệu quả.
- Đối với các tội phạm về ma túy các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) có một số điểm mới so với các quy định của BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) ở một số điểm sau đây:
+ Về số lượng tội phạm, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), các
tội phạm về ma túy được quy định tại chương XVIII với 9 điều bao gồm từ điều 192
đến điều 201. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các tội phạm về ma
túy được quy định tại chương XX gồm 13 điều (từ điều 247 đến điều 259), tức là
nhiều hơn 4 điều so với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
+ Tách điều 194 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thành 4 điều:
điểm mới đáng lưu ý đầu tiên là BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã
tách điều 194 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thành 4 tội riêng biệt
29
đó là tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249; tội “vận
chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 250; tội “ mua bán trái phép
chất ma túy” được quy định tại Điều 251 và tội “chiếm đoạt chất ma túy” được quy
định tại điều 252.
Việc thay đổi này được dựa trên thực tiễn cho thấy việc gộp chung các tội
danh trong cùng một điều luật gặp không ít khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
+ Quy định về định lượng: về định lượng các chất ma túy, BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã pháp điển hóa quy định cụ thể, rõ ràng mức tối
thiểu đến mức tối đa định lượng chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự trong
từng điều luật, đó là các Điều 249, Điều 250, Điều 252; quy định cụ thể việc định
lượng các tiền chất, các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy tại các Điều 253 và Điều 254.
+ Quy định thêm về một số chất ma túy: Đồng thời BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm một số chất ma túy nằm trong danh mục
các chất ma túy đã được chính phủ quy định vào các điều luật cụ thể như chất ma
túy Methamphetamine, Amphetamine, MDMA…
+ Thay đổi về đơn vị tính: BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có
sự thay đổi về đơn vị tính, các vụ án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật
chứng đều được xác định bằng gam, kilogam,… đây chính là đơn vị tính khối lượng
chứ không phải trọng lượng. Vì vậy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đã thay đổi đơn vị tính từ “trọng lượng” thành”khối lượng” trong các điều luật để
đảm bảo tính chính xác của đơn vị tính.
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nội dung cụ thể như sau:
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
30
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và
252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam
đến dưới 500 gam;
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
d) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của
cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định
có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20
gam;
h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100
mililít;
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;
e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam
đến dưới 01 kilôgam;
31
g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;
h) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của
cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định
có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;
k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100
gam;
m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250
mililít;
n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
điểm từ điểm e đến điểm m khoản này;
o) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 15 năm:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01
kilôgam đến dưới 05 kilôgam;
b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;
c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của
cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định
có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng tù 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300
gam;
32
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750
mililít;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam
trở lên;
b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 có khối lượng 100 gam trở lên;
c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của
cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định
có khối lượng 75 kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất
đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các
điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
1.3. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma
túy dùng để phân biệt với một số tội phạm khác về ma túy có các yếu tố tương
đồng
1.3.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
33
1.3.1.1. Khách thể
Khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là các quy định, chính sách
thống nhất quản lý của nhà nước về chất ma túy. Đối tượng của tội phạm là các chất
ma túy, đó là các chất gây nghiện, chất hướng thần, được quy định trong các danh
mục do Chính phủ ban hành; Các cây có chứa chất ma túy như cây thuốc phiện (cây
Anh túc), cây Cô ca, cây Cần sa hoặc các cây khác do Chính phủ quy định.
Cũng như các nước trên thế giới, ở nước ta, xuất phát từ tác hại của các chất
ma túy đối với sức khỏe của con người và hệ lụy của tệ nạn về ma túy đối với gia
đình người nghiện ma túy và cho xã hội; Nhà nước có quy định nghiêm ngặt và
thống nhất quản lý về chất ma túy. Chính vì vậy nếu có hành vi vi phạm quy định
của Nhà nước về quản lý chất ma túy được quy định trong BLHS đều bị coi là tội
phạm bị xử lý nghiêm khắc.
1.3.1.2. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi
cất, giữ, giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào như: trong nhà, ngoài sân,
vườn, chôn dưới đất, để trong valy, cho vào thùng xe, cánh cửa xe, cất trong quần
áo, tư trang cá nhân mặc trên người hoặc mang theo người.
Việc cất, giữ, giấu bất hợp pháp chất ma túy phải không nhằm mục đích để
bán hoặc để sản xuất trái phép chất ma túy khác. Đây cũng là yếu tố bắt buộc trong
mặt khách quan của tội phạm này.
Về trọng lượng, hành vi tội tàng trữ trái phép chất ma túy để cấu thành tội
phạm cần phải có trọng lượng tối thiểu theo quy định của điều luật. Hậu quả của
hành vi tội tàng trữ trái phép chất ma túy không phải là yếu tố bắt buộc của mặt
khách quan của tội phạm.
1.3.1.3. Chủ thể
Chủ thể của tội tội tàng trữ trái phép chất ma túy là bất kỳ ai, đạt được độ
tuổi theo quy định của pháp luật và có năng lực trách nhiệm hành vi.
34
Căn cứ vào Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và Điều 249 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì đối với tội tội tàng trữ trái phép chất ma túy
thì người thực hiện hành vi phạm tội trở thành chủ thể của loại tội phạm này phải
đạt được độ tuổi như sau: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chịu trách nhiệm
hình sự khi phạm tội thuộc trong các trường hợp quy định tại khoản 2, 3, 4 của loại
tội phạm này (nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội phạm này
được quy định ở tất cả các khung hình phạt.
1.3.1.4. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy được thể hiện ở chỗ tội
phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Tức là người thực hiện hành vi phạm tội
biết được hành vi của mình là bị pháp luật nghiêm cấm, thấy trước được tác hại
nguy hiểm do hành vi của mình gây ra nhưng vẫn thực hiện.
1.3.1.5. Về hình phạt áp dụng
- Hình phạt chính
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không chỉ cụ thể hóa hơn về
khối lượng các chất ma túy mà còn quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn về các yếu tố
định khung cơ bản và khung tăng nặng. Theo đó thì tội tàng trữ trái phép chất ma
túy Điều 249 BLHs năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được tách ra từ Điều
194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất
ma túy của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) do đó có sự điều chỉnh
mức hình phạt của các khung theo hướng nhẹ hơn phù hợp với tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này so với các tội phạm khác. Cụ thể như sau:
+ Tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hình
phạt của khung cơ bản quy định từ 01 năm đến 05 năm tù.
+ Khung hình phạt tăng nặng gồm 03 khung; khung 2 quy định mức hình
phạt từ 5 năm đến 10 năm tù; khung 3 quy định mức hình phạt từ 10 năm đến 15
năm tù; khung 4 quy định từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy thuộc vào
khối lượng chất ma túy mà CQĐT có thẩm quyền thu giữ.
35
Như vậy, về hình phạt chính đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy có
mức thấp nhất của khung cơ bản khoản 1 Điêu 249 là 01 năm và mức cao nhất của
hình phạt quy định tại khung tăng nặng khoản 4 là tù chung thân, không có quy định
hình phạt tử hình.
- Hình phạt bổ sung
Cùng với việc áp dụng hình phạt chính, đối với tội tàng trữ trái phép chất ma
túy, người bị kết án về tội này còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt về phòng ngừa ngăn
chặn người phạm tội.
1.3.2. Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma túy với vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy
1.3.2.1. Những đặc điểm giống nhau
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép chất
ma túy (Điều 250), tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251), tội chiếm đoạt
chất ma túy (Điều 252) BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được tách ra
từ tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc hiếm đoạt chất ma túy (Điều
194) BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên trong 4 tội này thì
các tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua
bán trái phép chất ma túy thường nằm trong một chuỗi hành vi nối tiếp nhau và đan
xen lẫn nhau. Trong khi đó tội chiếm đoạt chất ma túy thì hành vi chiếm đoạt
thường được thực hiện một cách độc lập, riêng rẽ và luôn kèm theo các dấu hiệu
pháp lý khác trong cấu thành tội phạm; Chính vì vậy, khi phân biệt tội tàng trữ trái
phép chất ma túy chúng tôi chia làm hai mục là phân biệt tội tàng trữ trái phép chất
ma túy với tội vận chuyển trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy và
phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tội chiếm đoạt chất ma túy.
- Về khách thể cả 03 tội phạm nêu trên đều xâm phạm quy định, chính sách
thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy; đối tượng của tội phạm là các chất
36
ma túy bao gồm các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh
mục do Chính phủ ban hành; các cây cỏ có chứa chất ma túy như: Cây Thuốc phiện
(cây Anh túc), cây Cô ca, cây Cần sao hoặc các loại cây khác do Chính phủ quy
định.
- Về chủ thể của cả 03 tội phạm trên thể hiện người thực hiện hành vi của cả
4 tội phạm đều do lỗi cố ý trực tiếp, là người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức
hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, thấy trước được hành vi của mình bị
pháp luật nghiêm cấm, thấy trước được tác hại do hành vi mình gây ra nhưng vẫn
thực hiện.
- Về hậu quả của 03 tội phạm nêu trên không phải là yếu tố bắt buộc trong
cấu thành tội phạm. Những thiệt hại do 04 nhóm loại tội phạm gây ra cho xã hội là
những thiệt hại phi vật chất (chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước đối với
chất ma túy)
1.3.2.2. Những đặc điểm khác nhau
Việc phân biệt 3 tội danh nêu trên được dựa trên cơ sở sự khác nhau của yếu
tố thuộc dấu hiệu khách quan và hình phạt áp dụng
Thứ nhất, những yếu tố khác nhau về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy:
Tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy ở
bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan; phương tiện giao
thông; trong túi quần áo, túi xách… mà không nhằm mục đích mua bán hay sản
xuất trái phép chất ma túy khác hoặc vận chuyển từ nơi này đến nới khác.
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định người phạm tội có
tàng trữ trái phép chất ma túy hay không.
Nếu người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cho người khác
mà biết rõ người này mua bán trái phép chất ma túy do mình tàng trữ, thì hành vi
cất giữ ma túy của người đó không phải là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà
được coi là hành vi giúp sức cho người mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy,
37
người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy:
Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất
ma túy từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này đến vị trí khác, từ người này sang
người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác… bằng bất kỳ phương thức nào (trừ
hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán.
Nếu vận chuyển ma túy hộ cho người khác mà biết rõ mục đích mua bán ma
túy của người mà mình nhận vận chuyển hộ, thì người có hành vi vận chuyển ma
túy bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò
giúp sức.
Khi xác định hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy cũng như hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy như trên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải căn
cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong một không gian, thời gian nhất định để phân
biệt hành vi nào là hành vi tàng trữ và hành vi nào là hành vi vận chuyển.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy:
Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán hay mua để bán lại; vận chuyển
chất ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc sản xuất ra chất ma túy
khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa, tài sản khác không
phải là tiền hay dùng hàng hóa, tài sản khác không phải là tiền để đổi lấy ma túy.
Bán trái phép chất ma túy cho người khác là dùng ma túy mà mình có dưới
bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt
được để bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản.
Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là dùng tiền hoặc tài
sản để đổi lấy chất ma túy và dùng chất ma túy đó để bán cho người khác lấy tiền
hoặc tài sản. Việc xác định hành vi mua bán trái phép chất ma túy là trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng và phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ
án. Chỉ khi nào các cơ quan tiến hành tố tụng xác định rõ mục đích của người phạm
tội là mua bán chất ma túy đó nhằm bán lại, thì mới có thể truy cứu trách nhiệm
hình sự người đó về tội mua bán trái phép chất ma túy.
38
Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi được thực
hiện bằng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma túy rồi dùng chất
ma túy đó đem bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản khác không phải là tiền.
Nếu người phạm tội xin được ma túy và bán ngay cho người khác, thì hành vi phạm
tội đó là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, nếu người phạm tội xin
được chất ma túy rồi đem cất giữ sau đó mới bán cho người khác thì hành vi phạm
tội đó được xác định là tội “tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”.
Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi cất giữ
trái phép chất ma túy rồi đem bán chất ma túy đó cho người khác. Nếu hành vi
phạm tội chỉ là hành vi tàng trữ mà không đem bán hoặc các cơ quan tiến hành tố
tụng không chứng minh được mục đích tàng trữ nhằm bán trái phép chất ma túy đó,
thì người phạm tội chỉ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong trường hợp
người phạm tội tàng trữ rồi đem bán chất ma túy đó hoặc khi các cơ quan tiến hành
tố tụng chứng minh được người phạm tội tàng trữ có mục đích nhằm bán trái phép
chất ma túy đó, thì tội phạm được xác định là tội tàng trữ, mua bán trái phép chất
ma túy.
Trong trường hợp người phạm tội dùng chất ma túy để trao đổi, để thanh
toán trái phép hoặc dùng tài sản khác (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán
lấy chất ma túy để bán lại trái phép cho người khác thì hành vi này cũng được xác
định là tội mua bán trái phép chất ma túy.
Thứ hai, về hình phạt
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy có mức thấp nhất và cao nhất trong cùng
một khung hình phạt thấp hơn so với tội vận chuyển trái phép chất ma túy và tội
mua bán trái phép chất ma túy.
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy có mức cao nhất của hình phạt quy định
tại Khoản 4 là chung thân; Trong khi đó mức cao nhất của hình phạt quy định tại
Khoản 4 Tội vận chuyển trái phép chất ma túy là tử hình.
1.3.3. Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tội chiếm đoạt chất ma
túy
39
- Các đặc điểm giống nhau
+ Vì khách thể, tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm đoạt chất ma
túy có khách thể giống nhau là đều xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý
của Nhà nước về chất ma túy.
+ Về chủ thể của tội phạm, cả 02 loại tội phạm trên đều là bất kỳ ai đạt độ
tuổi theo quy định của pháp luật và có năng lực về trách nhiệm hình sự.
+ Về hình phạt, cả 02 loại tội phạm này đều có mức thấp nhất và mức cao
nhất trong mỗi khung hình phạt như nhau.
- Các dấu hiệu khác nhau về mặt khách quan và chủ quan
+ Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp
và đối tượng tác động của tội phạm là chất ma túy, chất hướng thần, cây có chứa
chất ma túy do Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, hành vi phạm tội "chiếm đoạt chất ma túy" có thể được thực hiện
do lỗi cố ý gián tiếp, tức là người thực hiện hành vi phạm tội "chiếm đoạt chất ma
túy" có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra mà không cần biết đối tượng chiếm đoạt
(đối tượng tác động của tội phạm) là chất ma túy hay là các loại tài sản khác. Xét về
thực chất, hành vi phạm tội "chiếm đoạt chất ma túy" chỉ khác với những hành vi
phạm tội chiếm đoạt tài sản về đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động
của tội phạm chiếm đoạt tài sản là các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, công dân, còn đối tượng tác động của tội phạm "chiếm đoạt chất
ma túy" phải là các chất ma túy do pháp luật quy định. Ngoài ra, khi hành vi phạm
tội "chiếm đoạt chất ma túy" gây ra những thiệt hại (nếu có) về tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản cho người khác, thì người thực
hiện hành vi phạm tội "chiếm đoạt chất ma túy" đó còn phải chịu trách nhiệm hình
sự về các tội danh độc lập tương ứng với những thiệt hại (nếu có) mà người phạm
tội đã gây ra. Trong khi đó, những thiệt hại (nếu có) này chỉ được xác định là tình
tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội có tính
chất chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
40
Để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy, trước hết đề tài của luận văn để tìm hiểu, phân tích và lý luận và lý giải các
quan điểm về ma túy, chất ma túy, tội phạm về tàng trữ trái phép, từ đó rút ra các
khái niệm về chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Nội dung của Chương 1 cũng đi sâu phân tích và làm rõ các quy định của
pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma túy qua các thời kỳ khác nhau như: Thời
kỳ trước khi ban hành BLHS năm 1985; Thời kỳ từ khi ban hành BLHS năm 1999
đến trước khi ban hành BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và quy định
của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy. Mặt khác trong Chương 1 của đề tài luận văn đã phân tích , làm rõ các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ trái phép chất ma túy, trên cơ sở đó phân biệt loại
tội phạm này với tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất
ma túy và tội chiếm đoạt chất ma túy làm cơ sở cho việc định tội danh chính xác
đúng pháp luật trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này.
Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy và tội
tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra trên địa bàn quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2015 đến năm 2019
2.1.1. Các yếu tố tác động đến tình hình tội phạm nói chung, tội phạm về ma
túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Yếu tố địa lý, hành chính, dân cư
41
Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh chính thức thành lập ngày 31/8/1933 trực
thuộc khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Ngày nay, Quận 4 là một quận nội thành thuộc
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên là 4,18 km2 (một trong những quận
có diện tích nhỏ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh). Quận 4 nằm ở phía Nam Thành
phố Hồ CHí Minh được bao bọc bằng hệ thống kênh rạch. Phía Đông Bắc là sông
Sài Gòn, bờ bên kia là Quận 2. Phía Tây Nam là Kênh Tẻ, Bến Nghé, bờ bên kia là
Quận 1. Phía Nam Quận 4 là Kênh Tẻ, bờ bên kia là Quận 7. Được bao bọc bởi 03
bề sông nước, do đó hệ thống giao thông nối Quận 4 với các quận tiếp giáp bằng 07
chiếc cầu bắc qua. Toàn quận có 15 phường, với số dân là 175.000 người, mật độ
dân số 43.500 người/ km2.
- Yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội
Khác với địa bàn các quận khác, do yếu tố hành chính, địa lý của Quận 4 có
diện tích nhỏ, lại là quận trung tâm, do đó, không có điều kiện phát triển các khu
công nghiệp, mà nền kinh tế Quận 4 đẩy mạnh phát triển theo hướng mở rộng dịch
vụ tài chính ngân hàng, chứng khoán, văn phòng cho thuê, kinh doanh bất động sản;
phát triển nhà hàng, khách sạn, khu thăm quan, du lịch và các loại hình kinh doanh
dịch vụ có điều kiện… Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, dưới tác động của
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì
các yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, cùng với sự tác
động của yếu tố địa lý, hành chính, dân cư, kinh tế, văn hóa xã hội đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tình hình tội phạm và cơ cấu tội phạm xảy ra trên địa bàn Quận 4.
2.2.2. Diễn biến tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn Quận 4 Thành phố
Hồ Chí Minh
Bảng 2.1. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn Quận 4
Khởi tố, Đình chỉ, Năm Truy tố Xét xử sơ thẩm Điều tra tạm đình chỉ
42
Số bị Số bị Số bị Số vụ Số bị can Số vụ Số vụ Số vụ can can can
2015 225 184 152 163 141 143 84 41
2016 238 210 150 164 147 162 86 48
2017 248 221 147 157 144 149 104 72
2018 207 164 118 126 115 119 92 45
2019 227 193 135 144 121 139 106 54
Tổng 1145 972 702 654 668 712 472 260
Nguồn: Báo cáo thống kê tội phạm của VKSND Quận 4 TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu diễn biến tình hình tội phạm được phát hiện, khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử sơ thẩm trong 05 năm qua, từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn
Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Số lượng vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, tạm đình chỉ,
đình chỉ cao
Mặc dù diện tích và số dân của Quận 4 thấp nhất so với 23 quận, huyện còn
lại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng số lượng vụ án và số lượng bị can,
bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm hàng năm, có thời điểm tăng, có
thời điểm giảm, nhưng Quận 4 vẫn là quận có tình hình tội phạm phức tạp và số
lượng vụ án xảy ra, số lượng người phạm tội tương đối nhiều.
Tuy nhiên, do yếu tố địa lý, hành chính là quận trung tâm, do đó, số lượng vụ
án được phát hiện, khởi tố nhiều nhưng số lượng người phạm tội bỏ trốn, không biết
bị can ở đâu phải tạm đình chỉ còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, trên địa bàn Quận
4 còn xảy ra tình trạng số người phạm tội cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản… từ
các địa phương khác đến và do địa bàn phức tạp, do vậy, sau khi khởi tố, không
phát hiện được người phạm tội, do đó, số lượng vụ án, số lượng bị can phải tạm
đình chỉ, đình chỉ còn chiếm tỷ lệ cao.
- Về cơ cấu của tội phạm
Nghiên cứu cơ cấu tội phạm xảy ra trong 05 năm quan cho thấy, khác với các
quận huyện khác của Thành phố Hồ Chí Minh, do đặc điểm đặc biệt của yếu tố địa
43
lý, hành chính, kinh tế, văn hóa xã hội của địa bàn Quận 4 như đã nêu trên, trên địa
bàn Quận 4 chủ yếu xảy ra 16 loại tội phạm sau đây (xếp theo thứ tự số lượng tội
phạm và người phạm tội): Trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma túy, tội cướp giật
tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc, tội giao
cấu với người dưới 16 tuổi, tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản, tội dâm ô,
tội cướp tài sản, tội hủy hoại tài sản, tội gây rối trật tự công cộng, tội vi phạm các
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội chứa gái mại dâm, tội
sản xuất, buôn bán hàng giả…
2.2.3. Diễn biến tình hình tội phạm về ma túy xảy ra trên địa bàn Quận 4
Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.2. Bảng thống kê kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm tội phạm về ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn
Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh
Khởi tố điều tra Truy tố Xét xử sơ thẩm Điều luật Năm BLHS Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can Số vụ Số bị can
2015 Đ194 68 86 60 76 59 75
2016 Đ194 69 94 61 84 58 72
2017 Đ194 58 69 57 67 56 66
Đ249 37 46 28 30 26 26
Đ250 5 5 5 5 5 5 2018
Đ251 13 17 11 14 11 14
Đ249 55 70 50 54 48 49
Đ250 0 0 0 0 2 2 2019
Đ251 13 15 12 13 10 11
318 472 284 343 255 315 Tổng
Nguồn: Báo cáo thống kê tội phạm của VKSND Quận 4 TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu diễn biến tình hình tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận
chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy là những tội phạm
44
phổ biến và có liên kết với nhau trong các tội phạm về ma túy xảy ra trên địa bàn
Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh có thể rút ra một số đặc điểm mang tính đặc thù
sau đây:
- Số người nghiện ma túy trên địa bàn Quận 4 có trong danh sách quản lý của
Công an Quận là khoảng 4.200 người so với khoảng 100.000 người nghiện ma túy
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là con số tương đối cao so với các quận
huyện khác của Thành phố (chiếm 4,2% số người nghiện ma túy trên địa bàn Thành
phố).
- Tội phạm về ma túy xảy ra chủ yếu là 03 tội, đó là tội tội tàng trữ trái phép
chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy
và chiếm một tỷ lệ lớn về số lượng vụ án, số lượng bị cáo trong tổng số vụ án, tổng
số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
+ Năm 2015, số vụ án, số bị cáo phạm tội về ma túy được đưa ra xét xử là 59
vụ/ 144 vụ, chiếm tỷ lệ 40,97% số vụ án xét xử sơ thẩm; 75 bị cáo / 143 bị cáo,
chiếm 52,44% số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
+ Năm 2016, số vụ án, số bị cáo phạm tội về ma túy được đưa ra xét xử là 84
vụ/ 147 vụ, chiếm tỷ lệ 57,14% số vụ án xét xử sơ thẩm; 72 bị cáo / 162 bị cáo,
chiếm 44,45% số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
+ Năm 2017, số vụ án, số bị cáo phạm tội về ma túy được đưa ra xét xử là 67
vụ/ 144 vụ, chiếm tỷ lệ 46,52% số vụ án xét xử sơ thẩm; 66 bị cáo / 149 bị cáo,
chiếm 46,52% số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
+ Năm 2018, số vụ án, số bị cáo phạm tội về ma túy được đưa ra xét xử là 55
vụ/ 115 vụ, chiếm tỷ lệ 47,82% số vụ án xét xử sơ thẩm; 42 bị cáo / 119 bị cáo,
chiếm 35,29% số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
+ Năm 2019, số vụ án, số bị cáo phạm tội về ma túy được đưa ra xét xử là 60
vụ/ 121 vụ, chiếm tỷ lệ 49,58% số vụ án xét xử sơ thẩm; 62 bị cáo /139 bị cáo,
chiếm 44,60% số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm.
- Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, do BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, do đó đánh giá về tình
45
hình tội phạm này so với tội vận chuyển trái phép chất ma túy và tội mua bán trái
phép chất ma túy chỉ đánh giá trong hai năm là năm 2018 và năm 2019, cụ thể như
sau:
+ Năm 2019, số vụ án, số bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy được
đưa ra xét xử sơ thẩm so với tổng số vụ án, tổng số bị cáo phạm tội vận chuyển trái
phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy là 48 vụ/ 12 vụ, nhiều gấp 04
lần số vụ; 49 bị cáo /13 bị cáo, nhiều gấp 3,76 lần số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ
thẩm.
+ Năm 2018, số vụ án, số bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy được
đưa ra xét xử sơ thẩm so với tổng số vụ án, tổng số bị cáo phạm tội vận chuyển trái
phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy là 26 vụ/ 16 vụ, nhiều gấp
1,62 lần số vụ; 26 bị cáo/ 19 bị cáo, nhiều gấp 1,36 lần số bị cáo bị đưa ra xét xử sơ
thẩm.
Nghiên cứu số liệu thống kê tình hình tội phạm về ma túy nói chung và tội
tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy không chỉ các tội phạm về ma túy (phổ biến và chủ yếu là tội tàng
trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái
phép chất ma túy) xảy ra rất nhiều và chiếm tỷ lệ cao so với tổng số tội phạm và
người phạm tội các loại khác, đặc biệt trong đó, tội tàng trữ trái phép chất ma túy lại
chiếm tỷ lệ rất cao so với tổng số tội phạm về ma túy và người phạm tội về ma túy.
Vấn đề này cũng phản ánh sự tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế và sự tác động của các yêu tố đặc thù về địa lý hành chính, dân cư, kinh tế, văn
hóa xã hội thực tại của Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời, cũng phản ánh
tinh thần quyết tâm đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói chung, trong đó
có tội tàng trữ trái phép chất ma túy của các cơ quan tiến hàng tố tụng của Quận 4
Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua.
46
2.2. Đánh giá thực trạng việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
2.2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong việc áp dụng các quy định của Bộ
luật Hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tội vận chuyển trái phép chất
ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội
mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) có sự liên kết chặt chẽ với nhau (mua bán, vận chuyển, tàng trữ).
Trước khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018, cả 03 tội này được quy định thành một tội ghép là tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định tại Điều
199 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm về ma túy cho thấy có trường hợp phạm tội cùng một lúc thực hiện
vừa thực hiện hành vi mua bán, vừa tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc vừa thực
hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy vừa có hành vi mua bán, tàng trữ trái
phép chất ma túy. Nhưng cũng có những trường hợp đối tượng chỉ thực hiện một
hành vi phạm tội là tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc hành vi mua bán trái phép
chất mua túy hoặc hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Chính vì vậy, việc
nhận thức và áp dụng đúng các quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn áp
dụng pháp luật về ma tuý để định tội danh đúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc quyết định hình phạt và xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan người vô tội.
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về
ma túy nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng, trong những năm vừa
qua, các cơ quan tiến hành tố tụng Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đã mở những
đợt tấn công loại tội phạm này. Cụ thể, từ năm 2015 đến năm 2019, CQĐT đã khởi
tố, điều tra 318 vụ/ 402 bị can; VKSND truy tố 284 vụ/ 343 bị can; TAND xét xử sơ
47
thẩm 255 vụ/ 315 bị cáo. Đặc biệt, có một số vụ án có nhiều tình tiết phức tạp
nhưng đã được CQĐT, VKSND, TAND Quận 4 nhận thức đúng đắn các quy định
của pháp luật hình sự nên việc định tội danh đúng ngay từ ban đầu, dẫn đến việc
giải quyết vụ án được kịp thời, nhanh chúng, đúng pháp luật. Điển hình là vụ án sau
đây:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 20/9/2015, tại Khách sạn Đông Hồ, số 44
đường số 41, phường 6, Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, Công an phường 6 kết
hợp với tổ bảo vệ khách sạn đã bắt giữ Trần Văn Tân đang ở phòng 402 cất giữ trái
phép 01 gói nylon màu trắng hàn kín, có quấn băng keo màu đen, bên trong chứa
chất tinh thể màu trằng trong suốt để trong tủ quần áo. Sau khi phát hiện, Công an
phường có sự chứng kiến của nhân viên khách sạn đã tiến hành niêm phong và có
chữ ký xác nhận của Trần Văn Tân và có dấu của Công an phường và gửi đi giám
định. Theo kết quả của bản giám định số 145/PC54 ngày 21/9/2015 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì trong gói niêm phong, chất bột
màu trắng có chứa thành phần Methamphetamine, trọng lượng 8,8001 gram, hàm
lượng 68,81%. Hồ sơ vụ án được chuyển lên Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh. Trong quá trình điều tra, Trần Văn Tân khai nhận số ma túy bị Công an
phường 6, Quận 4 thu giữ khi bắt quả tang là của ông Cường (Tân chỉ biết tên ông
Cường, không biết địa chỉ của ông Cường ở đâu) đưa cho Tâm để giao cho đối
tượng Báu (Tân cũng không biết địa chỉ của Báu ở đâu) với giá là 12.000.000 đồng,
Tân được hưởng tiền công là 800.000 đồng. Trần Văn Tân còn khai, trước đó vào
ngày 19/8/2015, Tân còn giao cho Báu một lần một gói ma túy trị giá 8.000.000
đồng và được hưởng tiền công là 500.000 đồng.
Trong vụ án này, mặc dù Trần Văn Tân khai nhận số ma túy bị bắt quả tang
là định giao cho Báu vào ngày 20/9/2015, đồng thời Tân cũng khai đã 01 lần giao
ma túy cho Báu trước đó vào ngày 19/8/2015 nhưng trong quá trình điều tra, CQĐT
không xác định được họ, tên, địa chỉ chính xác của ông Cường và Báu nên không
thể triệu tập để lấy lời khai và xác minh cụ thể để đánh giá lời khai của Trần Văn
Tân có đúng đắn và chính xác không, do đó, không đủ cơ sở để quy kết Trần Văn
48
Tân phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Chính vì vậy, CQĐT đã khởi tố vụ án,
khởi tố bị can về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vụ án đã được CQĐT sau khi kết thức điều tra làm bản kết luận điều tra và
đề nghị truy tố bị can Trần Văn Tân về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và hồ sơ
vụ án đã được chuyển sang VKSND Quận 4 truy tố. Ngày 25/4/2016, TAND Quận
4 đã đưa vụ án ra xét xử với đúng tội danh nêu trên.
2.2.2.2. Những kết quả đã đạt được trong việc áp dụng các quy địnhc ủa Bộ
luật Hình sự trong định tội danh theo cấu thành khung cơ bản
Thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép
chất ma túy trên địa bàn Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, các đối tượng
phạm tội thường là người nghiện ma túy hoặc vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên
thường trước đó đã bị xử lý hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy,
chiếm đoạt chất ma túy, đặc biệt, có đối tượng đã bị kết án về các tội phạm này
nhưng chưa được xóa án tích. Mặt khác, một số đối tượng có hành vi tàng trữ trái
phép chất ma túy bị CQĐT Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, bắt
giữ nhưng chưa đủ khối lượng để khởi tố về tội phạm này. Trong khi đó, nơi cư trú,
nơi sinh sống, làm việc của đối tượng lại ở nhiều địa phương khác nhau, do đó, việc
làm rõ các yếu tố về nhân thân, về tiền án, tiền sự gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù
vậy, với tinh thần kiên quyết đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy nói
chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng, trong những năm vừa qua,
CQĐT Công an Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đã khắc phục nhiều khó khăn để
tiến hành điều tra, xác minh rõ tiền án, tiền sự của một số đối tượng có lý lịch gia
đình và bản thấn hết sức phực tạp nhằm đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm này. Điển hình như trường hợp sau đây:
Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 25/4/2018, tổ tuần tra Công quan Quận 4 đang
trên đường tuần tra ở khu vực cầu Tân Thuận 1 phường 18, Quận 4 thì phát hiện Lê
Văn Tài đang điều khiển xe gắn máy biển số 59C1-647.42 có biểu hiện nghi vấn
liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện
49
trong hộc của yên xe gắn máy biển số 59C1-647.42 có một gói nylon bên ngoài có
dán chất dẻo màu đen, bên trong có chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy nên tiến
hành thu giữ tang vật và đưa Lê Văn Tài về trụ sở Công an phường 18 để lập biên
bản phạm tội quả tang và tiến hành niêm phong gói chất bột màu trắng có chữ ký
của Lê Văn Tài để gửi đi giám định. Tại bản kết luận giám định số 420/PC09 ngày
26/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận
chất bột màu trắng trong gói niêm phong là Heroine có khối lượng là 0,09 gram.
Tại CQĐT Công an Quận 4, Lê Văn Tài khai nhận, do bản thân nghiện ma
túy nên ngày 20/4/2018, Tài dùng điện thoại Iphone 6 của bà Trương Thị Kim (mẹ
của Tài) sử dụng mạng xã hội Facebook nhắn tin đến một người tên là Hà (không rõ
lai lịch, quê quán ở đâu) sử dụng tài khoản tên “Ngo Nguyễn” để đặt hàng mua ma
túy với giá 1.000.000 đồng và yêu cầu người này đem ma túy đến giao dịch tại
Trạm thu phí cầu Cát Lái trên xa lộ Hà Nội. Từ ngày 20/4/2018 đến ngày 24/4/2018
Lê Văn Tài đã sử dụng cho bản thân hơn phân nửa số ma túy mà Tài đã mua của
“Ngo Nguyễn”, số còn lại Tài cất giấu để dành bán lại cho những con nghiện khác.
Đến 11 giờ 30 phút ngày 25/4/2018, Tài nhận được tin nhắn của Phúc (người này
cũng không rõ lai lịch) nhắn tin đến hỏi mua 800.000 đồng ma túy, Tài đồng ý và
hẹn Phúc giao ma túy tại đài liệt sỹ phường 18 Quận 4. Sau đó, Tài lấy số ma túy đã
mua từ người có tên tài khoản Facebook là “Ngo Nguyễn” còn dư lại và lấy chất
dẻo màu đen để vào cốp xe gắn máy biển số 59C1-647.42 và điều khiển xe máy đi
một mình đến điểm hẹn để bán ma túy cho Phúc. Khi Tài đi đến cầu Tân Thuận 1
phường 18 Quận 4 thì bị tổ tuần tra Công an Quận 4 kể tra, phát hiện và bắt giữ như
nói trên.
Trong quá trình điều tra lấy lời khai về nhân thân, Lê Văn Tài bước đầu
không chịu khai báo, sau đó khai báo bản thân bỏ nhà đi lang thang từ nhỏ lên
không biết quê quán ở đâu. Trước thái độ khai báo gian dối và cố tình giấu diếm
quê quán của đối tượng phạm tội, CQĐT Công an Quận 4 kiên quyết đấu tranh, kết
hợp với giáo dục, thuyết phục, cuối cùng buộc Tài phải khai báo quê quán tại Diễn
Châu, Nghệ An vào Bình Dương lao động tự do rồi sa vào con đường nghiện ngập
50
ma túy. Từ lời khai của Tài, CQĐT Công an Quận 4 đã phối hợp với Cơ quan điều
tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Công an tỉnh Bình Dương tra cứu hồ sơ
nghiệp vụ và xác định vào ngáy 18/6/2015, Lê Văn Tài đã bị TAND thị xã Dĩ An
kết án 02 năm tù về tội chiếm đoạt chất ma túy và chưa được xóa án tích. Mặt khác,
trong quá trình điều tra vụ án, CQĐT Quận 4 không xác định được nhân thân, lai
lịch của đối tượng Phúc, không thu thập được tài liệu, chứng cứ xác định Tài có
hành vi bán ma túy cho Phúc nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với Lê Văn Tài về hành vi “mua bán trái phép chất ma túy”.
Đối với nam thanh niên sử dụng tài khoản Facebook “Ngo Nguyễn” bán ma
tuý cho Lê Văn Tài, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên CQĐT Công an
Quận 4 không có cơ sở để làm rõ.
Từ kết quả điều tra như trên, CQĐT Công an Quận 4 đã ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Văn Tài phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS “đã bị kết án về Điều 252 BLHS,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Vụ án được VKSND Quận 4 ra các quyết định phê chuẩn các quyết định của
CQĐT, đồng thời, truy tố bị can Lê Văn Tài ra trước TAND Quận 4 xét xử theo
điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS. Ngày 04/4/2019, TAND Quận 4 đã đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm và kết án Lê Văn Tài 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
2.2.2.3. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật
Hình sự trong định tội danhtheo cấu thành tăng nặng trong trường hợp không xác
định được khối lượng chất ma túy thuốc khoản 2, khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự
Ngoài quy định tội phạm thuộc khung cơ bản tại khoản 1 Điều 249 BLHS,
tội tàng trữ trái phép chất ma túy còn quy định 03 khung tăng nặng trách nhiệm hình
sự tại các khoản 2, 3, 4. Trong đó có 02 khung tăng nặng quy định tại khoản 2,
khoản 3 Điều 249 thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện.
Trong các tình tiết định khung tăng nặngtại khoản 2, 3 Điều 249 có một số
tình tiết không thuộc yếu tố định lượng (xác định khối lượng chất ma túy) và một số
tình tiết khác như: có tổ chức, phạm tội từ 02 lần trở lên, lợi dụng chức vụ quyền
hạn, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, có tính
51
chất chuyên nghiệp mà khi định tội danh trong quá trình định tội danh CQĐT,
VKSND, TAND để đảm bảo định đúng tội danh theo đúng quy định của pháp luật.
Do BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định hành vi phạm tội
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy vào chung
một điều luật (Điều 194) do đó, kể từ năm 2015 đến năm 2017, VKSND Quận 4
không có số liệu thống kê cụ thể từng loại tội. Do vậy, không có cơ sở để đánh giá
chính xác việc áp dụng các quy định của BLHS trong việc định tội danh đối với tội
tàng trữ trái phép chất ma túy theo cấu thành khung tăng nặng. Tuy nhiên, từ thực
tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm các vụ án tàng trữ trái phép chất ma
túy theo khung tăng nặng thuộc khoản 2, khoản 3 Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), qua số liệu thống kê của VKSND Quận 4 cho thấy: Trong
02 năm (năm 2018 và năm 2019), trong tổng số 92 vụ án/ 116 bị can phạm tội tàng
trữ trái phép chất ma túy, có 36 bị can/ 60 bị can.
Từ thực tiễn định tội danh theo cấu thành tăng nặng đối với bị can phạm tội
tàng trữ trái phép chất ma túy, nhận thấy, hầu hết các tội phạm về ma túy nói chung,
tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng đều là những trường hợp phát hiện và bắt
quả tang, do đó, bị can chỉ khai báo về hành vi phạm tội theo khối lượng ma túy khi
bị bắt giữ. Việc đấu tranh mở rộng vụ án để làm rõ những người đồng phạm, những
lần phạm tội trước khi bị bắt giữ gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, trong những
năm vừa qua, CQĐT, VKSND, TAND Quận 4 đã thực hiện tốt quan hệ phối hợp
trên cơ sở các quy định của pháp luật đã khai thác, tập trung lực lượng thẩm tra, xác
minh kịp thời để làm rõ hành vi phạm tội của đổi tượng phạm tội quả tang có tổ
chức hay không, ngoài phạm tội lần này, đối tượng trước đó đã có hành vi phạm tội
tàng trữ trái phép chất ma túy hay chưa, có hay không hành vi sử dụng người dưới
16 tuổi vào việc phạm tội, vấn đề tái phạm nguy hiểm… Chính vì vậy, các trường
hợp bị can bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo cấu thành tăng nặng theo
khoản 2, khoản 3 Điều 249 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong những năm
vừa qua đều đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không có trường hợp nào bị
52
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để hủy án hoặc sửa án
vì phải thay đổi tội danh, thay đổi việc áp dụng khung hình phạt.
2.2.2. Những tồn tại và khó khăn, vướng mắc
2.2.2.1. Về thực trạng tạm đình chỉ điều tra
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma
túy, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy, để đảm bảo cho công tác điều tra
có hiệu quả, CQĐT sau khi đã phát hiện hành vi phạm tội xảy ra có dấu hiệu tội
phạm thì phải ra quyết định khởi tố vụ án và tiến hành hoạt động điều tra theo quy
định của BLTTHS nhằm phát hiện người thực hiện hành vi phạm tội. Khi xác định
được người thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT phải ra quyết định khởi tố bị can và
tủy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, CQĐT áp dụng các biện pháp ngăn chặn để
đảm bảo cho bị can không bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra.
Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, thường được CQĐT phát hiện và
bắt quả tang, tuy nhiên, theo quy định của BLHS và BLTTHS, để đảm bảo việc
khởi tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bắt buộc CQĐT phải gửi mẫu
của chất nghi là ma túy đã thu giữ và gửi đi giám định để xác định chất bị thu giữ có
phải là chất ma túy hay không, nếu là ma túy thì đó là chất gì, tên gọi; trọng lượng
ma túy là bao nhiêm gram, kilogram, hàm lượng ma túy chiếm bao nhiêu %. Trên
cơ sở kết quả giám định của cơ quan có thẩm quyền, CQĐT căn cứ vào các quy
định tại Điều 249 BLHS để ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng
biện pháp ngăn chặn. Chính vì vậy, khi phát hiện, thu giữ chất nghi là ma túy,
CQĐT phải kịp thời lấy mẫu và gửi đi giám định. Tuy nhiên, trong 05 năm vừa qua
(từ năm 2015 đến năm 2019), trên địa bàn Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh vẫn để
xảy ra trường hợp phải tạm đình chỉ điều tra (đến nay đã phục hồi điều tra được 02
vụ) vì lí do sau khi ra quyết định khởi tố vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng
chưa xác định được bị can; có trường hợp đã xác định được bị can, nhưng CQĐT
không kịp thời gửi mẫu là chất nghi là ma túy đi giám định hoặc do thời gian tiên
hành giám định kéo dài, dẫn đến không biết bị can ở đâu, do đó, khi đã hết thời hạn
53
điều tra, Cơ quan Công an Quận 4 phải ra quyết định đình chỉ điều tra. Điển hình
như trường hợp sau đây:
Vào lúc 23 giờ 15 phút ngày 30/3/2018, tổ tuần tra Công an Quận 4 tiến hành
tuần tra trên địa bàn, khi đến trước Chung cư Grand Riverside, địa chỉ tại 278 Bến
Vân Đồn, phường 2 Quận 4 phát hiện Nguyễn Văn Tiến (hộ khẩu thường trú tại căn
hộ B28 chung cư Gold view số 346 Bến Vân Đồn phường 1 Quận 4) đang ngồi trên
xe gắn máy hiệu Honda Blade màu xanh đen, biển số 59P2-828.91 dừng trước
chung cư, có biểu hiện nghi vấn, nên tổ tuần tra tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra
phát hiện trên baga xe máy của Tiến có một hộp giấy màu trắng, bên trong có một
gói nylon chứa 02 viên nén màu xanh, 02 viên nén màu xám, 02 viên nén màu hồng
nên tổ tuần tra thu giữ và đưa Nguyễn Văn Tiến về trụ sở Công an phường 2 Quận 4
để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại CQĐT, lúc đầu Nguyễn Văn Tiến khai nhận số ma túy bị thu giữ là của
Võ Văn Bình. Bình đưa cho Tiến để Tiến đưa đi giao cho khách ở Quận 1, Quận 3
Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Tiến là người giao ma túy nhưng Bình là
người nhận tiền. Bình trả tiền công cho Tiến nhưng Tiến chưa nhận tiền công nào từ
Bình. Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 30/3/2019, Tiến tiếp tục đi giao ma túy thì bị tổ
tuần tra Công an Quận 4 kiểm tra thu giữ vật chứng và đưa Tiến về trụ sở Công an
phường 2 để làm việc.
Quá trình điều tra, xác minh, CQĐT Công an Quận 4 đã tiến hành ghi lời
khai của Võ Văn Bình. Ban đầu, Bình thừa nhận có biết Tiến và giao ma túy cho
Tiến đi giao lại cho một số người đặt mua ma túy qua điện thoại nhưng không rõ họ
tên, lại lịch nhưng sau đó lại không thừa nhận. CQĐT cho Tiến nhận dạng và đối
chất với Bình thì Bình khai không giao ma túy cho Tiến đi bán, Bình cũng không
bán ma túy cho ai. Qua khám xét nơi ở của Bình tại căn hộ B07 Chung cư Gold
view số 346 Bến Vân Đồn, phường 1 Quận 4, Cơ quan điều tra Quận 4 không thu
được gì liên quan đến ma túy, do đó, không có cơ sở để xử lý đối với Võ Văn Bình,
đồng thời, cũng không xác định được hành vận chuyển hoặc bán chất ma túy của
Bình.
54
Về kết quả giám định, tại bản kết luận giám định số 819/KLGĐ-H ngày
20/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký bên ngoài ghi tên Đặng Quang (người
chứng kiến), Nguyễn Văn Tiến và hình dấu mộc đỏ của Công an phường 2 Quận 4
02 viên nén màu xám là chất ma túy ở thể rắn có khối lượng 1,05 gram
bên trong có:
02 viên nén màu xanh là chất ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,75 gram
loại MDMA;
02 viên nén màu hồng là chất ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,6521 gram
loại MDMA;
loại MDMA;
Tuy nhiên, do CQĐT Công an Quận 4 gửi mẫu nghi là chất ma túy đi giám
định không kịp thời và thời gian giám định kéo dài nên kết thức thời hạn tạm giữ
(kể cả gia hạn) Nguyễn Văn Tiến được tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú và khi có
kết luận giám định, CQĐT Công an Quận 4 đã ra quyết định khởi tố bị can và ra
lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng Tiến đã bỏ trốn nên hết thời hạn điều tra, CQĐT
phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra và ra quyết định truy nã bị can.
2.2.2.2. Một số Điều tra viên, kiểm sát viên chưa nắm vững các quy định của
pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Từ thực trạng công tác điều tra tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn
Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy, vì nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan khác nhau, do đó, vấn đề xảy ra ở 02 trường hợp mặc dù
sau khi khởi tố vụ án, CQĐT Công an Quận 4 áp dụng các biện pháp tố tụng và các
biện pháp nghiệp vụ để điều tra, xác minh làm rõ đối tượng phạm tội nhưng hết thời
hạn điều tra. Điển hình là vụ án sau đây:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/8/2018, tổ tuần tra công an Quận 4 phối hợp
với Công an phường 8 Quận 4 tiến hành tuần tra đến trước số nhà 243/39 đường
Hoàng Diệu, phường 8 Quận 4 thì phát hiện 02 đối tượng đang ngồi trên 02 xe máy
(một xe máy hiệu Vision màu đỏ, biển số 59C1-678.31 và một xe máy hiệu Honda
55
Wave, biển số 59C1-467.36) có biểu hiện nghi vấn, ngay lúc đó, đối tượng ngồi trên
xe máy hiệu Vision màu đỏ, biển số 59C1-678.31 bỏ chạy, tổ tuần tra đuổi theo
nhưng không bắt được. Qua kiểm tra hai xe máy Công an phát hiện trong cốp xe
máy hiệu Vision màu đỏ, biển số 59C1-678.31 có một gói nylon màu đen bên trong
chứa tinh thể màu trắng nghi vấn là chất ma túy nên tiến hành đưa đối tượng ngồi
trên xe máy hiệu Honda Wave, biển số 59C1-467.31, 02 xe máy và vật chứng về trụ
sở Công an phường 8 Quận 4 để lập biên bản. Tại Công an phường 8, đối tượng bị
bắt giữ khai họ tên là Trần Minh Hà, sinh ngày 26/10/1997, đăng ký hộ khẩu
thường trú tại số nhà 196/53 Tôn Thất Thuyết, phường 3 Quận 4. Đối tượng bỏ
chạy là Hoàng Thanh Tuấn, sinh năm 1996 là bạn quen biết qua mạng Facebook,
hiện đang sinh sống tại số nhà 243/39 đường Hoàng Diệu phường 8 Quận 4.
Tại Bản kết luận giám định số 1592/KLGĐ-4 ngày 15/8/2018 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: chất tinh thể màu trắng
trong gói nylon được niêm phong có chữ ký của Trần Minh Hà và dấu mộc của
Công an phường 8 Quận 4 là chất ma túy ở thể rắn, loại Methanphetamine, có khối
lượng là 3,0481 gram.
Quá trình điều tra, Hà khai báo: do quen biết nên Tuấn gọi điện rủ Hà đi chơi
uống cà phê, do chỉ quen biết qua Facebook nên lần đầu gặp mặt khi đến trước số
nhà 243/39 đường Hoàng Diệu, phường 8 Quận 4 cả hai bên gặp nhau và đang ngồi
trên xe nói chuyện thì bị Công an đến kiểm tra lúc đó thì Tuấn đã bỏ chạy. Bản thân
Hà không nghiện ma túy, không biết Tuấn có cất giấu gì trong cốp xe và chỉ khi
Công an khám xét xe của Tuấn thì mới biết trong cốp xe có chất cấm. Quá trình
điều tra, xác minh lời khai của Trần Minh Hà xác định Hà không biết về hành vi
tàng trữ trái phép chất ma túy của người có tên là Hoàng Thanh Tuấn, do đó, không
có cơ sở để khởi tố Trần Minh Hà về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đối với đối tượng còn lại, theo lời khai của Trần Minh Hà là Hoàng Thanh
Tuấn, sau khi khởi tố vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, CQĐT tiến hành
xác minh xe máy màu đỏ biển số 59C1-678.31 hiệu Vision của chủ sở hữu là ông
Thái Văn Bền ở Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị mất trộm vào tháng 01/2018.
56
Xác minh số nhà 243/39 không có ai tên là Hoàng Thanh Tuấn đang ở đây. Chính vì
vậy, khi hết thời hạn điều tra, CQĐT Công an Quận 4 không xác định được đối
tượng phạm tội nên đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ ba, giữa Điều tra viên, kiểm sát Viên và Thẩm phán, trong một số
trường hợp vẫn còn có những quan điểm khác nhau về đánh giá tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án do đó dẫn đến thực trạng phải trả điều tra bổ sung vụ án
Trong 05 năm vừa qua (kể từ năm 2015 đến năm 2019) nhìn chung các vụ án
tàng trữ trái phép chất ma tuý đã được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm
trên địa bàn Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh đều được phát hiện và bắt quả tang
người phạm tội, do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản đã thống nhất quan
điểm điều tra, xử lý. Tuy nhiên, do tính chất của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
và do nhiều loại đối tượng khac nhau thực hiện và xuất phát từ yêu cầu đấu tranh
mở rộng vụ án và đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý đã dẫn đến trong thực
tiễn có một số trường hợp vẫn còn có quan điểm khác nhau về xử lý tội phạm, vì
vậy, vẫn còn tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Năm 2015, có 02 trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung (trong đó có
01 vụ VKSND đã trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung, 01 vụ TAND trả hồ sơ
để điều tra bổ sung).
Năm 2016, có 02 trường hợp VKSND đã trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ
sung.
Năm 2017, có 02 trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung (trong đó có
01 vụ VKSND đã trả hồ sơ cho CQĐT điều tra bổ sung, 01 vụ TAND trả hồ sơ để
điều tra bổ sung).
Năm 2018, có 01 trường hợp VKSND đã trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ
sung.
Qua nghiên cứu các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, gồm VKSND
trả hồ sơ vụ án, yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra bổ sung và TAND trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung đều thuộc các trường hợp như: ngoài tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý đã bị khởi tố còn có căn cứ khởi tố bị can về tội mua bán trái phép chất ma
57
tuý; ngoài bị can còn có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến
vụ án nhưng chưa bị khởi tố bị can.
Nhìn chung các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều được CQĐT
Cônng an Quận 4 tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu ghi trong quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung của VKSND và TAND. Tuy nhiên, việc điều tra bổ sung để
làm rõ những nội dung mà VKSND và TAND đã yêu cầu trong thực tiễn gặp nhiều
khó khăn lí do là bởi các đối tượng phạm tội thường có kinh nghiệm khai báo, do
đó, khi bị bắt chỉ nhận tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, không khai báo hoặc khai
báo không rõ ràng về những người đồng phạm, về những người mua bán hoặc đối
tượng phạm tội thuộc thành phần lang thang, không có nơi cư trú rõ ràng dẫn đến
việc điều tra, xác minh gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong số 07 trường hợp
trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ 01 trường hợp làm rõ được ngoài bị can phạm tội
còn có người đồng phạm khác.
Ngoài những tồn tại cơ bản trên đây, còn có một số tồn tại khác trong việc áp
dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, CQĐT, VKSND, TAND Quận 4
Biên bản phạm tội quả tang trong một số trường hợp lập chưa đúng quy
Thành phố Hồ Chí Minh cần phải khắc phục:
định tại Điều 133 BLTTHS năm 2015; các loại biên bản hỏi cung bị can, biên bản
lấy lời khai người làm chứng chưa ghi nhận nội dung giải thích quyền và nghĩa vụ
Trong một số trường hợp lấy mẫu vật là chất ma tuý gửi đi giám định còn
của họ trong biên bản….
Bản cáo trạng chưa đánh giá hết được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
thuế về khối lượng;
Một số bản án chưa xác định hình thức xử lý vật chứng của vụ án…
hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý;
2.2.2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự đối với tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 2015 (sửa dổi, bổ sung
năm 2017) khi xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, việc áp dụng khoản 5 Điều
58
249 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng” hầu như không thể thực hiện được vì lí do các đối tượng phạm tội đều là
những người nghiện ma túy, đối tượng lang thang nên không có tài sản gì đáng kể.
Tại khoản 1 Điều 249 tội tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định: “Người
nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển,
sản xuất trái phép chất ma tuý, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
từ 01 năm đến 05 năm:
a, Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251,
252 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”.
Quy định này cần phải có hướng dẫn thi hành vì có hai cách hiểu khác nhau,
đó là: Cách hiểu thứ nhất cho rằng đây là một tình tiết định khung, các hiểu thứ hai
cho rằng, quy định như vậy là chỉ áp dụng cho những trường hợp tàng trữ trái phép
chất ma tuý khi khối lượng hoặc thể tích ma tuý chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Thực tiễn hiện nay, một số đối tượng phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
biết rõ đối tượng mua, đối tượng bán ma tuý nhưng không khai báo vì chưa có
chính sách khoan hồng cụ thể để coi đây như là trường hợp đối tượng lập công,
chuộc tội, do đó, khi giáo dục, thuyết phục đối tượng phạm tội phải khai báo các đối
tượng phạm tội khác có liên quan.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn, vướng mắc
Thực trạng của những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng các quy định của BLHS đối với tội tàng trữ trái phép chất ma tuý do những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một là, trong thời gian qua do yêu cầu của việc giảm biên chế cũng như
việc tuyển chọn, bố trí công tác của CQĐT, VKSND, TAND, do đó, lực lượng Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải luân chuyển vị trí việc làm, do đó, một số
còn thiếu kinh nghiệm trong điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Mặc khác,
do áp lực công việc và đặc thù của công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về
59
ma tuý nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng, dẫn đến, có những
ảnh hưởng nhất định đến chất lượng, hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội
phạm.
- Hai là, một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn có những hạn
chế nhất định về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hầu hết chưa được đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về các quy định của pháp luật quốc tế, các quy
định của BLHS về tội phạm về ma tuý; lý luận về định tội danh, kỹ năng nghiệp vụ
chuyên sâu về điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử và xét xử các vụ án về ma tuý nói chung, các vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý
nói riêng, dẫn đến trong một số trường hợp chưa đấu tranh làm rõ tất cả các hành vi
phạm tội của bị can, bị cáo dẫn đến còn bỏ loạt tội phạm, vi phạm pháp luật trong tố
tụng hình sự.
- Ba là, mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với CQĐT, giữa VKSND với
TAND chưa được chú trọng và quán triệt đầy đủ trên cơ sở các quy định của pháp
luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Chính vì vậy, vẫn còn trường hợp “quyền anh, quyền tôi” hoặc nể nang, né tránh
trách nhiệm dẫn đến dễ dàng bỏ qua một số vi phạm pháp luật và phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, kéo dài thời hạn điều tra, truy tố, xét xử không cần thiết.
- Bốn là, CQĐT, VKSND, TAND chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình
trong công tác phối hợp với chính quyền địa phương và công tác vận động quần
chúng nhân dân tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma tuý nói
chung, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng dẫn đến tình trạng vẫn còn tội
phạm ẩn chưa được phát hiện, điều tra, xử lý theo yêu cấu đấu tranh phòng chống
tội phạm.
- Năm là, hàng năm sau khi kết thúc xử lý các vụ án điểm, án xét xử lưu
động theo yêu cầu cải cách tư pháp đối với tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, giữa
CQĐT, VKSND, TAND chưa phối hợp tổng kết, đánh giá về kết quả đạt được,
những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng các quy định của BLHS để xử lý đối với
loại tội phạm này để từ đó phổ biến kinh nghiệm cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm
60
sát viên, Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng chống
loại tội phạm này.
- Sáu là, các quy định pháp luật về chất ma tuý, pháp luật và chính sách đấu
tranh phòng chống tội phạm về ma tuý thiếu sự đồng bộ, ổn định và thống nhất, dẫn
đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp
những khó khăn, vướng mắc nhất định.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý nói chung, tội phạm
tàng trữ trái phép chất ma tuý trong những năm vừa qua cho thấy chính sách và
pháp luật quy định đối với loại tội phạm này không chỉ xuất phát từ yêu cầu của
nước ta mà còn phải đáp ứng yêu cầu về hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm về ma tuý được quy định trong các Công ước quốc tế mà
Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia. Chính vì vậy, nhìn lại lịch sử lập pháp của nước
ta kể từ ngày thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 02/9/1945 đến
nay, cho thấy chính sách và pháp luật quy định về tội phạm ma tuý thường xuyên có
nhiều thay đổi qua từng thời kì phát triển của đất nước.
Trong sự thay đổi về chính sách, pháp luật về ma tuý thì xuất phát từ tính
chất đặc biệt nguy hiểm của các hành vi tàng trữ trái pháp chất ma tuý, vận chuyển
trái pháp chất ma tuý, mua bán trái phép chất ma tuý, chiếm đoạt chất ma tuý có sự
thay đổi nhiều nhất. Việc nhập bốn hành vi trên vào một tội ghép, hoặc tách bốn
hành vi đó thành bốn tội phạm khác nhau đã kéo theo một thực trạng là có nhiều
văn bản hướng dẫn thi hành, do đó, thiếu sự ổn định và đồng bộ, dẫn đến một thực
trạng là việc nhận thức và áp dụng pháp luật giữa CQĐT, VKSND, TAND trong
một số trường hợp không thống nhất.
Mặc dù BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã kế thừa và phát
triển các quy định của các BLHS năm 1985, 1999 và pháp điển hoá một số quy định
của các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS có tham khảo kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới, tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng thống nhất các quy định về tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý vẫn cần thiết phải có những sửa đổi, bổ sung hoặc
ngành tư pháp trung ương cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành.
61
Tiểu kết Chương 2
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu những vấn đề lí luận và các quy định của
BLHS đối với tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, chương 2 của Luận văn tiến hành
phân tích, đánh giá trên cơ sở thống kê sơ lược diễn biến tình hình tội phạm nói
chung, tội phạm về ma tuý, trong đó, có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý đã được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử trên địa bàn Quận 4 Thành phố Hồ Chí
Minh kể từ năm 2015 đến năm 2019. Trung tâm của Chương 2 Luận văn tập trung
đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự của CQĐT, VKSND, TAND Quận 4 trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử loại tội phạm này. Mặc khác, Chương 2 của Luận văn cũng phân tích, làm rõ
những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc
áp dụng quy định pháp luật hình sự để xử lý tội tàng trữ trái phép chất ma tuý của
các cơ quan tiến hành tố tụng Quận 4, có dẫn chứng các vụ án điển hình, cụ thể để
chứng minh để từ đó rút ra những nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn, vướng
mắc làm cơ sở để đề xuất giải pháp, kiến nghị tại Chương 3 của Luận văn.
62
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TÀNG TRỪ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
3.1. Các giải pháp
3.1.1. Nâng cao trình độ nhận thức của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán về ý nghĩa và tầm quan trọng của của công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm về ma tuý nói chung và tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta
hiện nay, tính chất và quy mô của tội phạm về ma tuý đã vượt qua ngoài biên giới
quốc gia và trở thành một trong những tội phạm mang tính xuyên quốc gia phổ biến
nhất đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc đấu tranh triệt phá
các đường dây phạm tội từ người thực hành đến các đối tượng chủ mưu, cầm đầu
gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp và có thể nối là không thể thực hiện được. Mặt
khác, tội phạm về ma tuý nói chung, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
nói riêng là loại tội phạm mang tính tệ nạn xã hội cao, phương thức thực hiện, che
dấu tội phạm hết sức tinh vi, xảo quyệt khi bị bắt giữ thì các đối tượng phạm tội
chống đối quyết liệt, kể cả sử dụng vũ khí nóng để chống lại lực lượng bắt giữ. Hậu
quả do hành vi phạm tội gây ra không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ, danh dự, tài sản,
có khi là cả tính mạng của người phạm tội, mà còn gây ra nhiều hệ luỵ xấu cho gia
đình của họ và cả xã hội, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp
làm phát sinh hàng loạt các loại tội phạm khác như giết người, cố ý gây thương tích,
cướp tài sản, trộm cắp tài sản… Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
là bên cạnh thực hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội lần đầu, ít
nghiêm trọng, còn thể hiện quan điểm đấu tranh triệt để, nghiêm khắc đối với các
đối tượng cầm đầu, chủ mưu, các đối tượng ngoan cố, không chịu khai báo, khai
báo không thành khẩn…
Xuất phát từ tính chất đặc biệt nguy hiểm của các tội phạm về ma tuý, trong
đó có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, đòi hỏi đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát
63
viên, Thẩm phán khi được giao nhiệm vụ trực tiếp điều tra, thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma
tuý phải quán triệt và nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm này; nắm vững quan điểm, đường lối chính sách của Đảng,
các quy định của pháp luật, có lập trường vững vàng và phải thể hiện tinh thần kiên
quyết đấu tranh chống tội phạm, không vì nể nang hoặc vì lợi ích riêng tư mà bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội.
3.1.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đấu tranh phòng,
chống tội phạm về ma tuý, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý cho đội
ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
Tội phạm về ma tuý, trong đó có các tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, vận
chuyển trái phép chất ma tuý, mua bán trái phép chất ma tuý có sự liên kết với nhau
đang xảy ra phổ biến trên tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh
miền núi phía Bắc và các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng số tội phạm xảy ra.
Thực trạng công tác điều tra, truy tố và xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma
tuý trong những năm vừa qua cho thấy vẫn còn tình trạng tội phạm ẩn chứa được
phát hiện, điều tra, xử lý; đối với các vụ án đã được phát hiện, điều tra, truy tố và
xét xử vẫn chỉ xảy ra những trường hợp chưa thống nhất về quan điểm định tội
danh, về chứng cứ chứng minh tội phạm và vẫn còn những vi phạm pháp luật tố
tụng. Thực trạng nêu trên có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân cơ
bản là do năng lực, trình độ của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
còn hạn chế. Chính vì vậy, để khắc phục tình trạng nói trên cần phải tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra, truy tố và xét xử cho những đối
tượng trực tiếp đấu tranh chống loại tội phạm này bằng các biện pháp sau đây:
- Thông qua các dự án đầu tư kinh phí của cơ quan phòng chống ma tuý và
tội phạm của Liên Hợp quốc, của các tổ chức phi chính phủ, của các nhà nước trên
thế giới nhằm nâng cao năng lực cho các cơ quan hành pháp và tư pháp trong đấu
tranh phòng chống tội phạm. Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao phối hợp
64
mời các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm về ma tuý; mở các khoá bồi dưỡng, tập huấn chung cho đội ngũ
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đi học tập kinh nghiệm và nghiên cứu tài
liệu về công tác điều tra, truy tố, xét xử của các nước trên thế giới và vận dụng vào
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này ở Việt Nam.
- Trong phạm vi chức năng của mỗi cơ quan, hàng năm mỗi cơ quan cần mở
các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về
ma tuý nói chung và tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng.
+ Đối với Bộ Công an, hàng năm cần mở các khóa nghiệp vụ điều tra cho
các Điều tra viên trực tiếp làm công tác điều tra tội phạm về ma tuý, trong đó có tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý về kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra, xác minh tố giác, tin
báo về tội phạm ma tuý; nghiệp vụ lấy lời khai ban đầu của người phạm tội quả
tang, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, khám xét, thu
giữ, kinh nghiệm về thu giữ, đóng gói, niêm phong, lấy mẫu gửi đi giám định, nội
dung, yêu cầu ghi trong quyết định trưng cầu giám định, đánh giá, sử dụng kết quả
giám định chất ma tuý; lý luận về định tội danh; quan điểm, đường lối, chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma tuý,
quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS về
các tội phạm về ma tuý.
+ Đối với VKSND Tối cao, hàng năm cần mở các khoá bồi dưỡng, tập huấn
nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các tội phạm về ma tuý nói chung
và tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng nhằm đảm bảo cho việc xét phê chuẩn
các quyết định khởi tố bị can lệnh, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
truy tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội, không làm oan người vô tội, đồng thời, bảo đảm cho các hoạt động tư
pháp của CQĐT, TAND và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý tuân thủ các quy định cua pháp luật. Theo đó,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần thiết phải bao gồm các nội dung sau đây:
65
Kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm về ma tuý nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma tuy nói riêng;
Định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma tuý trong thực hành quyền công tố kiểm
sát điều tra và kiểm sát xét xử; Kỹ năng kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, đối chất, nhận dạng; Kỹ năng nghiên
cứu hồ sơ, xây dựng cáo trạng; Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
tại phiên toà, kỹ năng tranh tụng tại phiên toà xét xử vụ án tàng trữ trái phép chất
ma tuý.
+ Đối với TAND tối cao, hàng năm cần tập huấn cho đội ngũ Thẩm phán
trực tiếp xét xử các vụ án về ma tuý, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xét xử nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
xét xử, bảo đảm cho việc ra các bản án, quyết định đúng người đúng tội, đúng
đường lối, chính xác của Đảng và Nhà nước. Theo đó, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cần có các nội dung sau:
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử vụ án tàng trữ trái phép chất ma
tuý; kỹ năng tiến hành thủ tục bắt đầu phiên toà, kỹ năng xét hỏi, điều hành phiên
toà, kỹ năng giải quyết những vấn đề phát sinh tại phiên toà, tranh luận vấn đề phát
sinh tại phiên toà, điều hành tranh luận, kỹ năng phân tích, đánh giá quá trình xét
hỏi, tranh luận để bảo đảm cho Hội đồng xét xử ra bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, có tính thuyết phục đối với bị cáo và những người tham gia phiên
toà.
Mặc khác, trong khuôn khổ các dự án quốc tế mà Bộ Công an, VKSND tối
cao, TAND tối cao trực tiếp ký kết với các Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ
hàng năm cử các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có năng lực, có trình độ
và có khả năng nghiên cứu đi nước ngoài hoặc học tập kinh nghiệm đấu tranh
phòng chống tội phạm về ma tuý nói chung, toọi tàng trữ trái phép chất ma tuý nói
riêng.
66
3.1.3. Tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan
điều tra, giữa Viện kiểm sát nhân dân với Toà án nhân dân trong công tác điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý
- Tăng cường mối quan hệ giữa VKSND với CQĐT. Mối quan hệ giữa
VKSND với CQĐT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói chung, các
vụ án về ma tuý trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng được quy
định tại các điều 159, 160, 161, 162, 165, 166, 167 BLTTHS năm 2015. Theo các
quy định của BLTTHS thì mối quan hệ giữa VKSND với CQĐT là mối quan hệ
phối hợp và chế ước. Chính vì vậy, khi được phân công thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý, Kiểm sát viên phải tiến hành
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động của CQĐT ngay từ
khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm tàng trữ trái phép chất ma tuý và trong suốt quá
trình điều tra vụ án. Kiểm sát viên phải kịp thời đề ra yêu cầu điều tra khi phát hiện
việc điều tra chưa đầy đủ, khách quan, toàn diện, còn thiếu chứng cứ chứng minh
tội phạm và người phạm tội, hồ sơ vụ án còn có mâu thuẫn giữa các chứng cứ, kết
luận giám định chưa đầy đủ, chính xác để Điều tra viên kịp thời phát hiện, thu thập
tài liệu, chứng cứ bổ sung, nghiên cứu hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn các quyết định
khởi tố bị can, các lệnh, quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn
chặn… nếu có căn cứ và hợp pháp thì báo cáo lãnh đạo ra quyết định phê chuẩn,
nếu còn thiếu tài liệu, chứng cứ thì yêu cầu bổ sung, nếu phát hiện hồ sơ đề nghị xét
phê chuẩn của CQĐT không có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo kiên quyết không phê
chuẩn.
- Mặt khác, Kiểm sát viên phải phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên trong việc
giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, kịp thời phê chuẩn
các quyết định, lệnh của CQĐT khi có đủ căn cứ và đúng pháp luật để tạo điều kiện
cho CQĐT tiến hành nhanh chóng các hoạt động điều tra tiếp theo.
- Tăng cường mối quan hệ giữa VKSND với TAND. Mối quan hệ giữa
VKSND với TAND được quy định tại các điều 266, 267 BLTTHS năm 2015. Khác
với mối quan hệ giữa VKSND với CQĐT, mối quan hệ giữa VKSND với TAND là
67
quan hệ phối hợp. Theo đó, trong quá trình xét xử vụ án tàng trữ trái phép chất ma
tuý phải phối hợp với Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà trong việc ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử, việc giao, gửi các quyết định của Toà án, giải quyết
các vấn đề về trả hồ sơ điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; phối hợp
trong việc tổ chức và xét xử tại phiên toà… nhằm đảm bảo cho việc xét xử của Hội
đồng xét xử được tiến hành nghiêm minh, đúng pháp luật; việc ra bản án, quyết
định của Hội đồng xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Ngoài ra, VKSND, CQĐT, TAND phải phối hợp với nhau trong trường
hợp giải quyết vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý, được xác định án điểm, án phục
vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương để tập trung lực lượng điều tra, truy tố, xét xử
nhanh chóng và kịp thời. Mặt khác, thông qua công tác điều tra, truy tố xét xử các
vụ án tàng trữ trái phép chất ma tuý, CQĐT, VKSND, TAND phát hiện nguyên
nhân, điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm, những sơ hở, thiếu sót trong công
tác quản lý hành chính, quản lý tình hình trật tự trị an để kiến nghị với cấp uỷ, chính
quyền địa phương ban hành nghị quyết, chương trình, kế hoạch phòng chống tội
phạm về ma tuý nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng, góp phần ổn
định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
của địa phương.
3.1.4. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát
nhân dân và Tòa án nhân dân đáp ứng yêu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma
túy nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng
Việc kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy của CQĐT, VKSND và TAND cần đặt
trong tổng thể chiến lược cải cách tư pháp. Cơ cấu tổ chức bộ máy của ba ngành
Kiểm sát, Tòa án và Công an nói chung chưa được bố trí hợp lý dẫn đến hiệu lực và
hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về ma túy, trong đó có vụ án tàng trữ
trái phép chất ma túy chưa cao. Việc đổi mới tổ chức, hoạt động của ba cơ quan này
nhằm tăng cường quan hệ phối hợp trong hoạt động TTHS theo quy định của
BLTTHS năm 2015 nói chung, trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án về ma túy là một
yêu cầu tất yếu khách quan. Trong những năm tới, để kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ
máy của CQĐT, VKSND và TAND cần thực hiện tốt các nội dung sau:
68
Một là, ngành Công an, Kiểm sát và Tòa án phải nghiêm túc thực hiện việc
tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả”, Nghị quyết số 39/NQ-TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Nghị định số
108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính sách tinh giản biên chế và đề án tinh
giản biên chế, nhằm đảm bảo tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp được tinh
gọn, hợp lý, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đảm bảo hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác cải cách tư pháp.
Hai là, mặc dù tình hình tội phạm về có xu hướng ngày càng tăng nhưng căn
cứ vào định mức biên chế đã được phê duyệt, VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ
Công an phải chỉ đạo thực hiện bố trí biên chế đúng quy định và hợp lý trong hệ
thống VKSND, TAND và CQĐT tội phạm về ma túy thuộc Bộ Công an. Sắp xếp
lại các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS nói chung, vụ án
về ma túy nói riêng trong ngành Kiểm sát từ VKSND Tối cao xuống VKSND cấp
huyện cho thống nhất theo hướng chuyên trách nhằm đảm bảo sự thông suốt trong
chỉ đạo nghiệp vụ từ trên xuống dưới trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án về ma
túy. Sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký phiên tòa làm
nhiệm vụ xét xử các vụ án về ma túy một cách hợp lý tai TAND cấp tỉnh, TAND
cấp huyện, bảo đảm việc xét xử kịp thời các vụ án về ma túy đã xảy ra.
Trong thời gian tới cần tăng cường số lượng Điều tra viên cho CQĐT Công
an cấp huyện. Theo đó, bên cạnh việc tinh giản biên chế, không tăng biên chế
nhưng cần kết hợp giữa luân chuyển, điều chuyển và tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra để từng bước bổ nhiệm thêm Điều tra viên cho CQĐT
Công an cấp huyện. Đối với VKSND, cần thiết phải tăng cường số lượng KSV cho
cấp tỉnh và cấp huyện. Theo đó cũng cần kết hợp giữa việc luân chuyển, điều
chuyển và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ KSĐT và nghiệp vụ
điều tra để từng bước bổ nhiệm thêm KSV.
69
3.1.5. Tăng cường và tổ chức tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy giữa
Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là biện pháp để CQĐT, VKSND, TAND
cũng như Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán kiểm tra đánh giá, nhìn nhận lại
công tác của mình, trong đó có công tác điều tra, thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra và xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy. Thông qua công tác sơ
kết, tổng kết mà nhìn nhận, đánh giá lại được những việc đã làm được, những hạn
chế, thiếu sót, những khó khăn vướng mắc để khắc phục, từ đó rút kinh nghiệm
trong công tác. Thực tiễn trong những năm qua, giữa CQĐT, VKSND và TAND
chưa quan tâm tới công tác sơ kết, tổng kết để đánh giá kịp thời công tác điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, để góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này, trong
những năm tới cần tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Theo đó,
việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm có thể tiến hành như sau:
VKSND chủ trì cần phối hợp với CQĐT, TAND định kỳ tiến hành sơ kết 03
tháng, 06 tháng và tổng kết theo năm. Mặt khác có thể tiến hành sơ kết, tổng kết
theo chuyên đề như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án tàng trữ trái
phép chất ma túy. Ngoài ra, việc tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm cũng
cần được tổ chức sau khi kết thúc điều tra các vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy
lớn, có tính chất điển hình, phức tạp. Từ mỗi vụ án cụ thể đó, CQĐT, VKSND,
TAND sẽ tập hợp những vấn đề tồn tại, hạn chế, khó khăn vướng mắc về định tội
danh, về đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, những vi phạm pháp luật
(nếu có) để hàng tháng, hàng quý, hàng năm tổ chức rút kinh nghiệm chung.
Việc sơ kết, tổng kết phải hệ thống lại những kết quả đã đạt được, những hạn
chế, khó khăn vướng mắc, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và quan hệ giữa VKSND với CQĐT, giữa
VKSND với TAND trong điều tra vụ án về ma túy, đồng thời phải tìm ra và xây
dựng những giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
70
Việc sơ kết, tổng kết phải tiến hành nghiêm túc, từng bước. Trước hết tiến
hành ở từng cơ quan, sau đó tiến hành chung có sự tham gia của Điều tra viên,
Kiểm sát viên và Thẩm phán. Kết quả sơ kết, tổng kết được gửi cho lãnh đạo Công
an, VKSND và TAND cấp trên để có những ý kiến chỉ đạo, điều hành kịp thời và
quan tâm hơn nữa tới vấn đề này.
3.1.6. Nâng cao hiệu quả thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân lập hồ sơ ủy thác tư pháp gửi đi
nước ngoài (ủy thác tư pháp hình sự gửi đi)
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói chung, tội Tàng trữ
trái phép chất ma túy nói riêng trong một số trường hợp có yếu tố nước ngoài, do đó
cần phải yêu cầu các cơ quan tư pháp tương ứng của nước ngoài thực pháp các yêu
cầu tương trợ tư pháp từ phía Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua việc thực
hiện hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
về ma túy nói chung, vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng vẫn còn một số
hạn chế, thiếu sót và khó khăn nhất định. Nguyên nhân chủ yếu là: Do nhận thức
của một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán về tương trợ tư pháp,
pháp luật về tương trợ tư pháp hình sự chưa đầy đủ, đặc biệt là những vấn đề về
trình tự, thủ tục lập hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự gửi ra nước ngoài. Chính vì
vậy, trong thời gian tới, để khắc phục những hạn chế, thiếu sót nói trên và nâng cao
hiệu quả tương trợ tư pháp hình sự do CQĐT, VKSND, TAND gửi đi nước ngoài
cần làm tốt các nội dung sau:
Một là, phải nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tương trợ tư pháp về
hình sự; quán triệt và thực hiện đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ
tương trợ tư pháp theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, BLTTHS
năm 2015, các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương về hình sự, các Điều ước
quốc tế đa phương có điều khoản tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam đã ký
kết với một số nước trên thế giới, nhất là các Công ước về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia năm 2000, Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961,
71
Công ước về chất hướng thần năm 1971 và Công ước về chống buôn bán bất hợp
pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988… để làm căn cứ lập yêu cầu ủy
thác tương trợ tư pháp về hình sự đề nghị nước ngoài thực hiện.
Hai là, tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND với CQĐT, giữa VKSND
tới TAND và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Vụ Hợp tác quốc tế và Tương
trợ tư pháp về hình sự của VKSND tối cao trong việc lập, gửi yêu cầu tương trợ tư
pháp cho nước ngoài.
3.2. Một số kiến nghị và đề xuất
3.2.1. Hướng dẫn áp dụng quy định trường hợp phạm tội dưới mức khởi
điểm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính
hoặc bị kết án về tội đó
Điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự - Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và
252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trên thực tế có hai cách hiểu khác nhau về vấn đề này:
- Cách hiểu thứ nhất: Cho đây là một trong những tình tiết định khung, nên
khi một người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng, thể
tích theo quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này mà có các điều kiện quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này thì ngoài việc áp dụng một trong các điểm từ b
đến điểm i, còn phải áp dụng thêm điểm a khoản 1 mới đầy đủ.
- Cách hiểu thứ hai: Điểm a khoản 1 Điều 249 quy định như vậy là chỉ áp
dụng cho những trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy khi khối lượng hoặc thể
tích chất ma túy không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm
từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này. Do đó, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối
72
với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi khối lượng hoặc thể
tích chất ma túy không đạt mức tối thiểu được quy định từ điểm b đến điểm i khi
người đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và
252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trường hợp người
phạm tội đã bị kết án về các tội theo quy định chưa được xóa án tích thì áp dụng
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm; còn trường hợp đã bị xử lí vi
phạm hành chính về hành vi này thì chỉ xem xét vấn đề nhân thân khi lượng hình.
Chính vì điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định không rõ ràng
khi nào thì áp dụng tình tiết định khung hình phạt này nên đã dẫn đến có hai cách
hiểu khác nhau như trên. Nghiên cứu sinh đề xuất các cơ quan tiến hành tố tụng
Trung ương cần có văn bản hướng dẫn theo hướng chỉ khi nào người thực hiện hành
vi tàng trữ trái phép chất ma túy chưa đủ khối lượng, thể tích chất ma túy tối thiểu
quy định tại các điểm từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS mà có một
trong các điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
3.2.2. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư về sửa đổi, bổ sung Thông tư số
08/2015/TTLT ngày 14/11/2015
Ngày 14/11/2015 Bộ Công an, VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp ban hành Thông tư số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
sửa đổi tiểu mục 1.4 trong Thông tư số 17/2007, có nội dung:
“1.4. Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy
hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu
giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Bắt
buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy
trong các trường hợp sau:
73
a) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được
hòa thành dung dịch;
b) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã
được pha loãng;
c) Xái thuốc phiện;
d) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.
Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d tiết 1.4 Mục này, nếu
có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm
việc xét xử đúng pháp luật...”.
Để thống nhất trong việc ghi kết luận giám định, ngày 29/8/2016 Bộ Công an
ban hành Công văn số 2955/CSĐT(C44) về việc giải quyết các vụ án về ma túy,
trong đó hướng dẫn chi tiết cách ghi trong kết luận giám định, tại mục 1.
“1. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch
số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP sửa đổi, bổ sung tiết 1.4 mục 1
Phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, quy
định: “1.4. Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy
hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu
giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được”.
Vì vậy, đối với những trường hợp không bắt buộc phải trưng cầu giám định
để xác định hàm lượng, CQCSĐT Công an các cấp khi ra quyết định trưng cầu giám
định đối với các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy đã thu giữ được thì nội dung yêu cầu giám định cần ghi rõ: “Mẫu
gửi giám định có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy không? Loại chất ma túy, tiền chất gì? Trọng lượng (khối lượng) của mẫu
gửi giám định là bao nhiêu?”.
Đối với cơ quan thực hiện việc giám định, trong kết luận giám định phải xác
định rõ về chất ma túy để phù hợp với quy định của BLHS. Ví dụ như chất Heroine,
chất Cocain... không được kết luận “là chế phẩm Heroine” hoặc “có thành phần
Heroine ...”.
74
Ngày 02/02/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/2018/NĐ-CP quy
định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của
BLHS năm 2015. Theo tinh thần của Nghị định này, về cơ bản vẫn dựa trên Thông
tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015
để tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy. Tại Nghị định số 19/2018/NĐ-CP
chỉ hướng dẫn cách tính tổng trọng lượng của chất ma túy khi thu giữ giám định chỉ
có thành phần một chất (01 loại) ma túy. Trong nhiều vụ án viên ma túy thu giữ gửi
giám định chứa thành phần của 02 chất ma túy, có viên chứa đến 03 chất ma túy.
Như vậy, cách tính tổng trọng lượng của một chất ma túy trong viên ma túy được
giám định chứa đến 02 hay 03 chất ma túy, thậm chí chứa đến 05 hay 06 chất ma
túy, thì chưa được hướng dẫn cụ thể.
Có thể nói các văn bản của các ngành, của từng ngành đã ban hành nhằm giải
quyết kịp thời các vụ án về ma túy, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành TTHS,
trong đó ngay ở giai đoạn đầu tiên CQCSĐT và VKSND các cấp thống nhất trong
nhận thức và trong việc giải quyết vụ án.Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn vẫn còn
một số chỗ bất cập, theo đó Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 chỉ bắt buộc giám định hàm lượng trong bốn
trường hợp; còn trong Công văn số 2955/CSĐT(C44) của Bộ Công an ban hành
ngày 29/8/2016 lại nêu thêm quy định bổ sung thêm cách thức ghi trong biên bản
giám định rằng mẫu giám định có phải là chất ma túy không? Khối lượng, trọng
lượng nhưng không nêu hàm lượng; Nghị định số 19/2018/NĐ-CP chỉ hướng dẫn
cách tính tổng trọng lượng của chất ma túy khi thu giữ giám định chỉ có thành phần
một chất (01 loại) ma túy, trong thực tế nhiều loại ma túy thu được nhưng có nhiều
chất khác nhau, vậy cách tính hàm lượng, trọng lượng phải như thế nào?
3.2.4. Liên ngành tư pháp Trung ương cần ban hành Thông tư liên tịch
hướng dẫn áp dụng chính sách hình sự trong việc xử lý đối với các tội phạm về ma
túy nói chung và tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng
Thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy nói chung và
vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng, các đối tượng phạm tội khi bị bắt giữ
75
thường không khai báo hoặc có khai báo những không đầy đủ, không chính xác về
lai lịch, họ tên của người mua, người bán; các đối tượng cầm đầu, tổ chức, chủ
mưu; các đối tượng vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy mà chỉ khai nhận
hành vi tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy của mình đã bị phát hiện, bắt giữ.
Chính vị vậy, cho dù CQĐT, VKSND, TAND có rất nhiều cố gắng trong việc phát
hiện, điều tra, xử lý loại tội phạm này những thực trạng tình hình tội phạm vẫn
không giảm mà luôn có chiều hướng gia tăng. Từ nghiên cứu hồ sơ các vụ án về ma
túy nói chung, vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy bnois riêng, chúng tôi cho rằng
chính sách hình sự đối với những người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy của Đảng và Nhà nước cần phải được thể hiện cụ thể hơn về sự
khoan hồng đối với những trường hợp người phạm tội ăn năn, hối cải, thành khẩn
khai báo và tích cực giúp CQĐT, VKSND, TAND trong việc phát hiện, bắt giữ các
đối tượng chủ mưu, cầm đầu, tổ chức các đường dây phạm tội về ma túy.
Để đáp ứng yêu cầu đó, liên ngành tư pháp Trung ương gồm Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao và các cơ quan hữu quan
nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách khoan hồng, áp dụng
các quy định của pháp luật và quyết định hình phạt nhẹ hơn đối với người thực hiện
hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy khi có các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Người phạm tội tự thú; người phạm tội thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trng quá trình giải quyết vụ án; người
phạm tội đã lập công chuộc tội được quy định tại các điểm r, s, t, u Điều 51 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Việc hướng dẫn áp dụng chính sách khoan hồng này là cơ sở pháp lý quan
trọng và là yếu tố quan trọng động viên, khích lệ người phạm tội tàng trữ trái phép
chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy khai báo thành khẩn hơn và tích cực hợp
tác, giúp đỡ các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra và xuwr lý tận gốc rễ các
đường dây, tổ chức tội phạm về ma túy, đồng thời góp phần vào công tác phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.
76
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và pháp luật tại chương 1 và thực
trạng áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
từ thực tiễn quận 4 thành phố Hồ Chí Minh tại chương 2, chương 3 của luận văn đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này.
Các giải pháp được đề xuất tại chương 3 luận văn đi từ giải pháp về nhận
thức đúng đắn, đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm về ma túy nói chung và tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng
đến các giải pháp về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu
về điều tra, thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, nghiệp vụ
xét xử cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đến giải pháp về kiện
toàn cơ cấu tổ chức, tăng cường quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giải
pháp về tăng cường hợp tác quốc tế... Mặt khác, trong chương 3 luận văn cũng đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. Nhìn chung các giải pháp và kiến
nghị đã được đề xuất tại chương 3 có cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và có tính khả
thi.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công an, TAND tố cao, VKSND tối cao và Bộ Tư pháp (2015) Thông
tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-TANDTC-VKSTC-BTP sửa đổi, bổ sung một số
điểm của thông tư liên tích số 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSTC-BTP ngày
24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “các tội phạm về
ma túy” của BLHS năm 1999, ban hành ngày 14/11/2015, Hà Nội.
2. Bộ Công an, TAND tố cao, VKSND tối cao và Bộ Tư pháp (2007) Thông
tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSTC-BTP hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999, ban
hành ngày 24/12/2007, Hà Nội.
3. Trần Văn Chánh (1999) Từ điển Hán Việt, NxbTrẻ, TP Hồ Chí Minh, .
4. Chính phủ (2011) Nghị định số 17/2011/NĐ-CP quy định sửa tên, bổ
sung, chuyển, loại bỏ một số chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban
hành kèm theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2003 và Nghị định số
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007, ban hành ngày 22/2/2011, Hà Nội.
5. Chính phủ (2009) Nghị định số 45/2009/NĐ-CP quy định về việc hướng
dẫn nhập khẩu, lấy mẫu, quản lý, sử dụng mẫu các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần về mục đích quốc phòng, an ninh, ban hành ngày
13/5/2009, Hà Nội.
6. Chính phủ (2013) Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ban hành các chất ma túy
và tiền chất, ban hành ngày 19/7/2013, Hà Nội.
7. Chính phủ (2003) Nghị định số 133/2003/NĐ-CP quy định bổ sung vào
danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm theo Nghị định số
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2003, ban hành ngày 06/11/2003, Hà Nội.
8. Chính phủ (2007) Nghị định số 163/2007/NĐ-CP quy định sửa tên, bổ
sung, chuyển, loại bỏ một số chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban
hành kèm theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2003, ban hành ngày
12/11/2007, Hà Nội.
9. Quốc Cường, Thanh Thảo (2009) Pháp luật Việt Nam về phòng, chống ma
túy và công tác điều tra tội phạm, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
11. Đinh Văn Quế (2012) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi
bổ sung năm 2009) – Phần các tội phạm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Liên Hợp Quốc (2000) Ba công ước về kiểm soát ma túy, Nxb CAND, Hà
Nội.
13. Quốc Hội (1985) Bộ luật hình sự 1985, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Quốc Hội (1999) Bộ luật hình sự 1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Quốc Hội (2009) Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
16. Quốc Hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc Hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
18. Quốc Hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Quốc Hội (2008) Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật phòng, chống ma túy, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Thông tư liên tịch số 17/2017 ngày 24/12/2017 giữa Bộ công an, VKSND
tối cao, TAND tối cao” Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVII các
tội xâm phạm về ma túy của bộ luật 2005.
20. Đặng Khắc Thắng (2015) “Chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy
trong triều đại phong kiến Việt Nam”, hinh-su-doi-voi-toi-pham-ve-ma-tuy-trong-trieu-dai-phong-kien-Viet- Nam/14697.vgp, (03/8/2015). 21. Viện Khoa học Pháp lý (2006) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư Pháp. 22. Viện Ngôn ngữ học (2010) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa. 23. Đặng Thành Vinh (2008) Một số điểm mới trong việc truy cứu TNHS đối với các tội phạm về ma túy theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSTC-BTP ngày 24/12/2007, Thông tin khoa học, Viện Khoa học xét xử, Hà Nội.