ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ HẢI YẾN QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ TÔN GIÁO VÀ YẾU TỐ THẨM MỸ TRONG NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội-2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ HẢI YẾN QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ TÔN GIÁO VÀ YẾU TỐ THẨM MỸ TRONG NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN KIM SƠN Hà Nội-2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài. ......................................................................................................... 6
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. ................................................................ 7
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài. ....................................................................................... 7
4. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 10
6. Cấu trúc của Luận văn ................................................................................................ 11
CHƢƠNG 1: THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ TRONG BỐI CẢNH THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG ĐỜI TRẦN ........................................................ 12
1.1. Khái niệm về Thiền và thực tiễn của Thiền học ................................................. 12
1.1.1. Khái niệm về Thiền .......................................................................................... 12
1.1.2. Vấn đề thực tiễn của Thiền học ....................................................................... 13
1.2. Diện mạo của văn học Thiền Lý - Trần .............................................................. 15
1.2.1. Đội ngũ sáng tác ............................................................................................. 19
1.2.2. Khuynh hướng sáng tác của văn học Lý – Trần ............................................. 21
1.2.2.1. Đề tài về cảnh giới giác ngộ ........................................................................ 21
1.2.2.2. Về cách tu tâm dưỡng tính ........................................................................... 26
1.3. Cuộc đời và những sáng tác văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ ............... 30
CHƢƠNG 2: THIỀN TRONG VĂN CHƢƠNG CỦA TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ ....... 34
2.1. Quan niệm về Thiền trong sáng tác văn học của Tuệ Trung Thƣợng sĩ ......... 34
2.2. Triết lý Thiền trong văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ ............................ 36
2.2.1. Những phạm trù về bản thể luận thể hiện trong văn chương Tuệ Trung
4
Thượng sĩ ................................................................................................................... 36
2.2.1.1. Triết lý về tâm không .................................................................................... 36
2.2.1.2. Phạm trù chân như ....................................................................................... 42
2.2.2. Tu dưỡng luận hay chính là tư tưởng “hòa quang đồng trần” của Tuệ
Trung Thượng sĩ ........................................................................................................ 51
CHƢƠNG 3: VĂN CHƢƠNG CHUYỂN TẢI THIỀN CỦA TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ ............................................................................................................................ 57
3.1. Tƣ duy Thiền và tƣ duy thơ – tính phi lô gic của Thiền và tƣ duy trực
ngộ phi lô gic của thơ ................................................................................................... 57
3.2. Thi pháp thơ Tuệ Trung Thƣợng sĩ .................................................................... 59
3.2.1. Đề tài tôn giáo thể hiện trong thơ ................................................................... 59
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính triết lý Phật giáo ............................................................. 67
3.2.3. Không gian và thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ .................... 77
3.2.3.1. Không gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ ...................................... 77
3.2.3.2. Thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ ......................................... 80
3.3. Hình tƣợng và xúc cảm ......................................................................................... 83
3.3.1. Thiền gia là chủ thể trữ tình trong thơ ............................................................ 83
3.3.2. Xúc cảm của Thiền gia .................................................................................... 94
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 102
PHỤ LỤC ............................................................................................................................... 107
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Văn học Lý - Trần từ lâu luôn là thách thức đối với giới nghiên cứu cả ở
nội dung cũng như là hình thức. Nó được các nhà văn, nhà thơ thể hiện qua
các tác phẩm của mình bằng những gam màu tôn giáo và những suy tư về
cuộc sống đương thời. Có thể nói đó là thời kỳ nở rộ của nền văn học viết
Việt Nam.
Thời Lý - Trần tư tưởng Phật giáo chiếm vị trí độc tôn và chi phối tới
những sáng tác văn học. Tư tưởng đó xuyên suốt trong những tác phẩm của
các Thiền sư với những nội dung về cuộc đời và thế sự. Một trong những tác
giả tiêu biểu của triều đại nhà Trần đó là Tuệ Trung Thượng sĩ. Chính ông đã
truyền tư tưởng Phật giáo vào trong thi phẩm của mình như một sức mạnh của
thái độ “cư trần lạc đạo”. Ông là người đầu tiên bàn tới những quan điểm “bất
nhị” và sự giải thoát con người ngay giữa cuộc đời hiện thực.
Tuệ Trung Thượng sĩ là người của dòng dõi vương triều, song ông có một
cảm quan về cuộc đời, và một cách sống của Thiền gia. Ông chịu ảnh hưởng
lớn của tư tưởng Phật giáo, nhưng những giáo điều và những luật định
nghiêm ngặt của Phật giáo không ràng buộc, bó chặt vào trong suy tưởng và
phong cách sáng tác của ông. Tuệ Trung Thượng sĩ – hình ảnh tự tại giải
thoát, “hòa quang đồng trần” đã trở thành một người tiên phong trong việc
“hòa lẫn” thế tục với Thiền.
Những sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ là những bài ca mang âm
hưởng của tôn giáo, bộc lộ những suy tư về cuộc đời, về vô thường, chân như,
về cả cái tự tại siêu thoát trong hiện thực. Ông đã đem cái mới đến cho văn
chương Lý - Trần. Song cái mới đó được thể hiện ở sự hòa trộn giữa những
6
yếu tố thẩm mỹ và những yếu tố tôn giáo trong các sáng tác văn học của ông.
Những tác phẩm văn học của ông không bị khô cứng như những tác phẩm tôn
giáo khác, bởi trong đó thể hiện những cảm xúc và tâm tư riêng của Tuệ
Trung Thượng sĩ.
Vì những lý do trên chúng tôi nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố tôn
giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng
sĩ nhằm tìm hiểu sâu hơn về tư tưởng cũng như những giá trị nghệ thuật trong
sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ.
2. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về Yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong
những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ (chủ yếu là qua sáng tác về
thơ). Yếu tố tôn giáo chủ yếu thể hiện trên phương diện Thiền học, Thiền
tính.
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài.
Qua việc tìm hiểu tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp, những tư tưởng của Tuệ
Trung Thượng sĩ thể hiện trong sáng tác văn học. Chúng tôi nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn
học của Tuệ Trung Thượng sĩ với mục đích làm rõ hơn về giá trị tư tưởng
trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ. Đồng thời khám phá về sự đan
xen, tác động qua lại giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong mỗi tác
phẩm văn học để từ đó hiểu một cách chân xác và tổng quát về thái độ sống
của tác giả, về cảm quan sống của một Thiền gia nhập thế.
Từ mục đích đó, nghiên cứu đề tài chúng tôi mong muốn góp phần làm
phong phú tư liệu về Tuệ Trung Thượng sĩ. Qua đó làm nổi bật giá trị tư
tưởng cũng như nghệ thuật các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ, đồng thời
mang lại những giá trị nhất định trong việc khơi mạch nguồn sáng tạo cho
7
những công trình nghiên cứu tiếp theo.
4. Lịch sử vấn đề.
Từ trước đến nay một số các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt
Nam, Phật giáo Lý – Trần đều đã đề cập tới nhân vật Tuệ Trung Thượng sĩ,
đã có một số công trình và bài viết về Tuệ Trung Thượng sĩ trên phương diện
tư tưởng, trong lĩnh vực văn học. Trong đó kể tới Kỷ yếu hội thảo khoa học
về Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm
nghiên cứu Hán Nôm, (2000) [59]. Cuốn sách là tập hợp những bài nghiên
cứu về Tuệ Trung Thượng sĩ. Trong đó có những bài nghiên cứu thiên về
cuộc đời, về hành trạng, và những khám phá Tuệ Trung Thượng sĩ trên
phương diện đạo, về phương diện Thiền. Trong một số bài được đăng trong
kỷ yếu có bài “tinh thần tam giáo đồng nguyên qua một số bài thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ “ tác giả Trần Thanh Đam đã trình bày về tư tưởng của Tuệ Trung
Thượng sĩ Trần Tung qua một số bài thơ trong hệ thống thơ của Tuệ Trung.
Hay bài “Chất Thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ” của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Xuân, ở bài viết này cũng đã chọn một số bài thơ của Tuệ
Trung phân tích và bình luận về chất Thiền, nhưng ở mức độ giới thiệu và
chưa đi vào phân tích cụ thể những triết lý hay Thiền ngữ trong đó. Và một số
bài nghiên cứu về vai trò của phái Thiền Trúc Lâm trong xã hội Việt Nam đời
Trần. Đồng thời những bài viết trong cuốn kỷ yêu cũng nêu ra được vai trò
của Tuệ Trung Thượng sĩ với của Thiền tông Việt Nam trong lịch sử phát
triển của dân tộc. Tuy nhiên trong số nhiều những bài nghiên cứu đó chưa có
bài nghiên cứu nào đi vào khai thác thi phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ dưới
góc độ tôn giáo và thẩm mỹ.
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đức Diện với đề tài Tư tưởng triết
học của Tuệ Trung Thượng sĩ [62] đã phân tích hoàn cảnh ra đời của những
tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ. Trong công trình nghiên cứu này,
8
tác giả đã làm rõ về cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm của ông trên
phương diện tư tưởng. Luận án cũng đã trình bày một cách có hệ thống quan
điểm về bản thể, thế giới hiện tượng, mối quan hệ giữa bản thể và thế giới
hiện tượng trong triết học của ông.
Lê Thị Thanh Tâm trong luận án Tiến sĩ Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý
- Trần Việt Nam và thơ Thiền Đường Tống[42] cũng có những đánh giá phân
tích so sánh về một số bài thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ với những nhà thơ
Đường Tống trên phương diện hình ảnh con người với những chuyến tiêu
dao, trên thuyền và hình ảnh con người tìm kiếm. Tác giả có trích dẫn và đánh
giá một số bài thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ khi so sánh với Hoa Đình
Thuyền tử: “Tuệ Trung Thượng sĩ đời Trần thì khác hơn. Con thuyền của ông
là con thuyền ngao du, con thuyền trong cuộc chơi của mọi sóng gió, con
thuyền “chơi đùa với chân như”, “chơi đùa vơi hư không”. Với hệ thống thi
liệu này, tác giả cung cấp được phần nào trong cách nhìn về tiêu dao của Tuệ
Trung Thượng sĩ. Tuy nhiên đó chỉ là những so sánh giữa thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ với thơ Thiền Đường Tống, tác giả không đi cụ thể những bài thơ
của Tuệ Trung.
Hoàng Văn Cảnh với luận án Tiến sĩ “Pháp bảo đàn kinh” và ảnh hưởng
của nó với các nhà Thiền học đời Trần [3] đã có những phân tích mang tính
hệ thống về sự ảnh hưởng của Pháp bảo đàn kinh đến tư tưởng và đối với
những sáng tác của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng
sĩ. Tác giả đã phân tích ảnh hưởng đó trên phương diện tư tưởng. Đó là tài
liệu quan trọng trong việc nghiên cứu Tuệ Trung Thượng sĩ. Bởi Tuệ Trung
Thượng sĩ là một Thiền gia, và cuốn Pháp bảo đàn kinh của Huệ Năng, là
một trong những kinh điển của Thiền tông Trung Hoa, có ảnh hưởng vô cùng
lớn tới hệ tư tưởng của phái Trúc Lâm Yên Tử về thể tính, bản lai diện mục,
vô trụ, vô chấp, vô tướng. Và sự ảnh hưởng từ cuốn kinh điển đó mang tới
9
những cách nhìn đầy triết lý trong thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Những bài viết và tư liệu trên đã góp phần vào hệ thống nghiên cứu về
Tuệ Trung Thượng sĩ, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu, hay bài viết
nào khai thác cụ thể về yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng
tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Với việc tham khảo tài liệu của các nhà nghiên cứu, cũng như những bài
viết về Tuệ Trung Thượng sĩ chúng tôi nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố
tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung
Thượng sĩ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu
tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ chúng tôi
đã sử dụng Phương pháp Phân tích, tổng hợp. Dựa trên những tác phẩm văn
học cụ thể của Tuệ Trung Thượng sĩ, từ đó phân tích những giá trị nghệ thuật,
những hình tượng, và giá trị triết lý của Thiền học. Qua đó để đánh giá về tư
tưởng đồng thời qua đó khẳng định được trong thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ
có những yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ.
Bên cạnh đó việc sử dụng phương pháp liên ngành trong đề tài nghiên cứu
này rất quan trọng và không thể thiếu. Tên đề tài thể hiện mối liên hệ giữa
lĩnh vực văn hóa học với văn học. Bằng những kiến thức về văn hóa học, tôn
giáo học cụ thể là về những khái niệm cơ bản của Phật giáo Thiền tông, dựa
trên nền tảng về tác gia văn học Tuệ Trung Thượng sĩ, chúng tôi tham chiếu
và phân tích trên góc độ văn học. Đó thể hiện tính liên ngành trong quá trình
nghiên cứu, và nhờ đó một tác gia văn học, một Thiền gia Tuệ Trung được lột
tả trên bình diện tư tưởng cũng như những nghệ thuật trong thơ ông.
Nghiên cứu đề tài về một tác giả văn học trong bối cảnh văn học đời Trần
10
việc đánh giá so sánh là không thể thiếu. Từ đó chúng tôi sử dụng phương
pháp so sánh để làm nổi bật hơn con người cũng như tư tượng nghệ thuật của
tác giả Thiền gia Tuệ Trung Thượng sĩ. So sánh những tác phẩm thơ văn của
ông với các tác phẩm của tác gia khác trong cùng thời đại để thấy sự giống và
khác nhau của Tuệ Trung Thượng sĩ với những thi nhân vừa là thiền gia,
không phải là Thiền gia khi làm thơ
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1: Thiền và văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ trong bối cảnh Thiền
và văn chương đời Trần
Chương 2: Thiền trong văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ
11
Chương 3: Văn chương chuyển tải Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ
CHƢƠNG 1: THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ
TRONG BỐI CẢNH THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG ĐỜI TRẦN
1.1. Khái niệm về Thiền và thực tiễn của Thiền học
1.1.1. Khái niệm về Thiền
Samadhi: Định hay là Thiền định. Theo các nhà nghiên cứu, “Thiền” là
nói tắt, nói đầy đủ là Thiền na, phiên âm theo ngôn ngữ Ấn Độ, là Dhyna,
được dịch là tịch lự, trầm tư về một chân lý, một triết lý hoặc đạt đến chỗ ngộ
và in sâu trong tâm thức. Xung quanh khái niệm về Thiền, có nhiều ý kiến.
Tác giả Nguyễn Tài Thư, viết trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: “Thiền là
phương pháp tự tỉnh, tự giác, tự ngộ, tự chứng. Đây là yếu tố hoàn toàn có
tính cá nhân, có tính cô đơn, tính triết lý sâu thẳm của con người đối với vũ
trụ. Sự giác ngộ và chứng đắc được ví như người uống nước lạnh, nóng tự
biết. Cái ngộ, cái biết ấy không thể nói cho ai thấy được” [49].
Hội thảo Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Trần Trung
Phượng với bài viết Mạch Thiền trong văn hóa - tư tưởng Việt Nam viết:
“Thiền không phải là một hệ thống khái niệm có thể lĩnh hội được bằng lý trí
hoặc bằng phân tích khoa học. Diễn tả theo ngôn ngữ hình tượng (một cái hết
sức tương đối và hoàn toàn có tính chất biểu trưng), Thiền là một vòng tròn
không thể xác định được chu vi và chính vì thế có thể tìm thấy tâm điểm của
vòng tròn này ở bất cứ chỗ nào” [59].
Từ những khái niệm trên chúng tôi hiểu rằng Thiền là sự tu tập, tập luyện,
tập luyện thân tâm để đạt tới sự bừng sáng của trí tuệ. Để khái quát Thiền là
gì dùng lời của tác giả Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm, để hiểu hơn
những đặc tính của Thiền: “Những nhà tư tưởng Ấn Độ cho rằng, người thông
12
minh là người cả đời biết tập trung suy nghĩ, tư tưởng vào một cái. Nếu làm
được như vậy chắc chắn cuộc đời họ sẽ phát hiện, tìm ra được một cái gì đó
hữu ích. Việc tập trung tư tưởng này cũng giống như người ta tập trung ánh
sáng vào một điểm. Khi đó điểm sáng trở nên rất mạnh. Tư tưởng cũng vậy,
nếu biết tập trung, nó tạo nên được những sức mạnh mà người ta không bao
giờ ngờ tới. Các nhà bác học sở dĩ họ phát sinh ra cái này, cái kia là vì cả cuộc
đời họ cũng chỉ nghĩ về một vấn đề”[18].
1.1.2. Vấn đề thực tiễn của Thiền học
Thực tiễn của Thiền học là chuyên ngành nghiên cứu về phương pháp
Thiền định để con người đạt tới chứng ngộ. Các Thiền sư sử dụng những nghi
thức tu tập của đạo Thiền để mong cầu đạt tới cảnh giới giác ngộ, tìm kiếm
Niết bàn và khám phá về bản thể.
Triết lý nhà Phật quan niệm vũ trụ vốn là một cái “chân như”, “chân tính”,
hay “bản lai tính”, có tính chất hằng thường, không trái cũng không phải,
không xấu cũng không tốt, “vô thủy”, “vô chung”. Không có cái đầu cũng
không có cái cuối. Bản tính của sự vật vốn là tự tính, chẳng có cái “vô”, mà
cũng chẳng có cái “hữu”. Tất thảy mọi vật đều biến chuyển theo quy luật sinh
diệt, hoa nở rồi tàn, thời thế có thái có bĩ, con người sinh ra rồi cũng già và
chết đi cũng giống như cây cỏ, loài vật. Nếu xét về tự tính của sự vật các
Thiền gia Lý - Trần cho rằng bản thân con người cũng không nằm ngoài quy
luật đó, sống đúng với quy luật ắt hẳn không có buồn đau bi thương. Thiền
gia quan niệm không có khái niệm về “hư” cũng không có cái gọi là “thực”,
lúc mê thì cho là “thực” thì tỉnh thì nói là “hư”. Tất cả mọi biến chuyển có -
không đều do tâm vọng động mà ra, cái tâm tính đó chi phối tới con người, tới
hành động cũng như những sai trái của con người. Vốn mọi vật đều theo dòng
chảy tự nhiên, nắm bắt được sự vận động hằng thường hẳn con người đã tự
13
đốn ngộ được chân tâm của mình.
Nếu Thiên chúa giáo mang lại sự cuồng tín cho mỗi con chiên thì Phật
giáo mang tới con đường nhận chân bể khổ của đời người và tìm cách giải
thoát đường khổ đó cho con người. Nhưng tìm ra bể khổ ở Phật giáo không
dựa vào thần Phật mà ở chính bản thân bằng cách tu sửa, chứng ngộ. Tôn chỉ
của Thiền tông Lý - Trần theo đại thừa Phật giáo, sự quảng đại của thân tâm
và cách ứng xử với cuộc đời với con người. Với các Thiền phái Tì Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo Việt Nam
thời Lý - Trần, cụ thể là Thiền Trúc Lâm đã kế thừa và hình thành với những
kinh sách riêng mang tính chất một tôn giáo độc lập phù hợp với lòng người
với nhân quần. Thực tế Thiền học nghiên cứu về phương pháp Thiền định,
nhờ Thiền định mới tiếp cận được chân lý, giải thoát cùng với pháp môn đốn
ngộ “trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Theo quan niệm Phật giáo tất
cả những hiện tượng, những sự vật trên cõi nhân sinh này chỉ là hư ảo, không
có thật, mọi tên gọi khái niệm chỉ là giả danh. Tất cả đều từ tâm sinh ra. Tâm
động sinh ra vọng tưởng, tâm tĩnh thì hư vô, sắc không, sinh tử đều “không”.
Cái tánh không của vật thể, của thế giới khách quan hằng thường. Tánh
không, không phải là sự trống rỗng mà quay trở về với chính bản thể, bản
nguyên của tạo vật, trở về với nguồn cội. Thiền học, khai mở cho người ta
thấy thế giới chân như (tuyệt đối), một cảnh giới giác ngộ tự tâm. Tuy nhiên
Thiền học Lý - Trần bàn về một Niết bàn thực tại, không phải Niết bàn ở Tây
phương cực lạc như Tịnh độ, không cầu đạo, cầu Phật bên ngoài mà hướng
vào nội tâm con người. Phật nói rằng tất cả các chúng sinh đều có Phật tính,
chỉ cần quay trở về với Phật tính tự tâm hẳn nhiên sẽ thành Phật. Cuộc đối
thoại của Trần Thái Tông và quốc sư Phù Vân thể hiện rõ tư tưởng Phật tại
tâm. “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết
gọi là chơn Phật. Nay bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, Không
14
nhọc tìm cầu bên ngoài” [52].
Vấn đề tiếp theo mà Thiền học luôn đề cập tới đó là chuyện sinh tử, luôn
là đề tài trong các tác phẩm thi ca Thiền gia, vấn đề sinh tử là vấn đề vô
thường mà người mới học đạo luôn luôn truy tìm và đi lý giải điều đó, lý giải
về cuội nguồn của sự vật sinh ra, rồi mất đi, tìm về sự bắt đầu cũng như một
cái kết thúc. Tuy nhiên sinh tử đại sự là quan niệm của thường nhân, đau khổ
về sự ra đi của số kiếp, của đời người hay của một sự kết thúc nào đó. Phật
giáo cho rằng mọi hiện tượng luôn biến đổi và vận động theo trật tự của tự
tính, nó hằng thường như những gì vốn có, có khổ đau, có hoan hỉ ai lạc, cũng
đều do tâm khởi ra, thấy vui không cười, thấy buồn không khóc, đó mới đạt
đến sự chứng ngộ với chân tâm mình. Con người luôn nhầm lẫn và sự nhầm
lẫn đó cũng do tâm sai biệt mà ra người lầm mê cho rằng “sinh tử đại sự”.
Sinh cũng là giả sinh, tử cũng giả tử. Còn đối với các bậc Thiền sư đạt đạo
không có sinh cũng chẳng có tử, tất cả khái niệm đó chỉ là vọng tâm mà ra.
Trong cái quy luật sinh tử đó, con người chỉ là bước từ bến nọ sang bến kia,
chốn nào cũng khổ đau, chốn nào cũng an nhiên nếu người ta làm chủ được
tâm vọng động của mình thì lúc đó sinh tử trở lại bình thường, trở về đúng vị
trí của nó.
Thiền học thực chất là nghiên cứu về phương pháp Thiền định để chân
tâm tĩnh tại tìm đến giải thoát và giác ngộ. Thiền học cũng là nghiên cứu về
giáo lý đặc thù của Phật giáo, Thiền học Lý - Trần mang đến cho người học
những phương pháp đốn ngộ truyền thống và một tinh thần nhập thế siêu việt.
1.2. Diện mạo của văn học Thiền Lý - Trần
Xã hội thời Lý - Trần là xã hội kinh qua những biến cố và thăng trầm của
ngoại xâm cũng như nội loạn. Trước triều đại Lý, vào những năm đầu thế kỷ
X, với chiến thắng Ngô Quyền đã xóa sạch một nghìn năm bắc thuộc của dân
15
tộc đại Việt. Bằng việc khẳng định chủ quyền với phương Bắc, và một triều
đại hùng cường xuất hiện, Việt Nam tự đứng trên đôi chân và nền văn hóa đa
dạng của mình. Thời kỳ bắc thuộc, về lĩnh vực văn hóa không tránh khỏi sự
pha trộn, loại bỏ và ảnh hưởng của nước ta và phương Bắc. Tuy nhiên tinh
thần của đại Việt không lúc nào bị lu mờ trong sự kinh bang của nền văn hóa
khác. Lý Công Uẩn lên ngôi, đánh dấu mốc sử vàng bằng việc dời đô về
Thăng Long, tiếp đến là sự chuyển giao quyền lực có một không hai trong
lịch sử các triều đại phong kiến trong và ngoài nước là nhà Lý sang nhà Trần.
Một sự chuyển giao quyền lực tuy còn nhiều điều bàn cãi song cái được hơn
là cái mất. Trần Thủ Độ, con người tham vọng, chính sự tham vọng của ông
đã mở ra thời kỳ hoàng kim cho triều Trần, và sự thịnh vượng lâu bền của dân
tộc trong các đời vua Trần.
Thời kỳ này các dòng phái Thiền tông vào nước ta, thế kỷ thứ 6 Thiền sư
Tì Ni Đa Lưu Chi người miền Nam Thiên Trúc (Ấn Độ) đắc pháp với tam tổ
Tăng Xán ở Trung Hoa, qua Việt Nam truyền đạo, mở đầu cho dòng Thiền Tì
Ni Đa Lưu Chi vào Việt Nam “Đây là một Thiền phái rất có tính cách dân tộc
Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ”1. Dòng
Thiền Tì Ni Đa Lưu Chi tồn tại và phát triển từ năm 580 – 1216, truyền thừa
được 19 thế hệ, có những Thiền sư của Thiền phái này đã nhập thế tích cực
giúp đời: Thiền sư Định Không, Trưởng lão La Quý An, Thiền sư Vạn Hạnh,
Minh Không, Bảo Nghiêm… Khoảng 300 năm sau vào thế kỷ thứ IX, Việt
Nam xuất hiện đạo Thiền theo hướng Trung Quốc truyền qua, đó là dòng
Thiền Vô Ngôn Thông. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông trải qua 15 thế hệ với 40
vị truyền thừa kể đến một số Thiền sư có ảnh hưởng lớn tới thời cuộc bấy giờ:
Định Hương, Khuông Việt, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ, Thường
1 Nuyễn Lang, Việt Nam phật giáo sử luận
16
Chiếu… Đến thời Lý Thánh Tông, vị vua nằm mộng xây chùa Diên Hựu đã
thành lập Thiền phái Thảo Đường. Với sự ra đời và phát triển của ba dòng
Thiền, dân tộc Việt Nam được thừa hưởng những tinh hoa của tư tưởng Phật
giáo Thiền tông truyền vào kết hợp với tinh thần yêu nước, yêu dân, đoàn kết
tự cường. Những Thiền sư đại diện cho các dòng Thiền đó thể hiện tinh thần
Thiền tông với sự truyền giáo đến các đệ tử của mình bằng những bài thi kệ
nổi tiếng, những bài thi kệ đó tồn tại trong hệ thống văn thơ Việt Nam như
những tác phẩm văn học Phật giáo chói sáng của thời kỳ văn học Lý - Trần,
nó không chỉ mang ý nghĩa răn dạy, chỉ dẫn các đệ tử mà còn có giá trị nhân
văn sâu sắc, bên cạnh cảm thức tôn giáo của mỗi bài thi kệ là hồn cốt của dân
tộc Việt trong đó. Những bài thơ chứa đậm tinh thần Phật giáo cùng với văn
phong tính cách của người Việt tạo nên những nốt thăng, nốt trầm của bản
nhạc văn chương Thiền đại đồng thuần Việt. Đến thời Trần Nhân Tông, Phật
Giáo hoàn toàn trở thành quốc giáo, bởi chính vị hoàng đế minh tuệ này đã trở
thành Hương Vân Đầu Đà Trúc Lâm Yên Tử. Ngài được tôn xưng là Phật
Hoàng, bên cạnh những triết thuyết hoằng pháp thần dân, Phật Hoàng còn để
lại những bài thơ, bài phú mang chất Thiền tông rõ nét, trong những bài thơ
phú đó, tư tưởng tùy duyên, hòa quang đồng trần, vô sở đại, được ngài bộc lộ.
Để có được một Phật Hoàng của Trúc Lâm, không thể không nói tới người
thầy mà chính Trần Nhân Tông thừa nhận, có ảnh hưởng vô cùng lớn trong
con đường ngộ đạo của mình đó là Tuệ Trung Thượng sĩ. Tuệ Trung Thượng
sĩ - ngọn đuốc sáng của Thiền tông thời Lý - Trần.
Từ hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh ra đời của các dòng Thiền, thời đại Lý -
Trần với hệ tư tưởng xuyên suốt, trải dài một màu sắc Phật giáo. Không thể
phủ nhận trên con đường Phật giáo trở thành quốc giáo thì Nho giáo, Lão
Trang luôn song hành, đỉnh cao của sự dung hòa đó là hệ thống tam giáo đồng
nguyên, trong phương thức trị nước an dân của các bậc hoàng đế. Khi Phật
17
giáo chủ đạo, khi Nho giáo lên ngôi, nhưng những hệ tư tưởng ngoại bang đó
vào Việt Nam, đã hòa đồng trong dòng chảy của tinh thần yêu nước thương
nòi của người Việt. Không còn sắc diện của Phật giáo Trung - Ấn, không còn
Nho giáo, Lão giáo thuần Trung Hoa. Đến Việt Nam, kết hợp với cung cách
và tâm tính của người Việt, các luồng tư tưởng đó đã tồn tại theo âm hưởng
của văn hóa dân tộc Việt, đã tạo ra những thành tựu trong văn học. Kiều Thu
Hoạch khẳng định: “ Thiền sư Lý - Trần tỏ ra rất sở trường trong việc hình
tượng hóa giáo lý nhà Phật” [25]. Qua những bài thơ Thiền, những bài phú,
các Thiền sư vẫn dữ nguyên khí chất truyền đạo của mình, gợi mở cho người
tiếp nhận tự khai sáng tâm siêu việt của mình. Tuy nhiên trong một số những
bài thơ mang đậm chất Thiền tông, một số bài thơ vẫn có hơi hướng của Nho
- Lão. Sự kết hợp tinh tế đó, là sản phẩm đặc biệt mang tâm hồn của người
Việt.
Phải nói rằng trong giai đoạn Phật giáo nở nộ này, để trích cú ý nghĩa
những câu kinh, để truyền giảng về giáo lý của Phật giáo, với phương trâm
“dĩ tâm truyền tâm” hẳn chỉ có những câu thơ Thiền là hàm ý đủ nhất, vừa
ngắn gọn, vừa sâu xa, vừa nói hết được đạo lý lại không mắc vào sự diễn giải
dễ nhầm lẫn khái niệm. Văn học có vai trò đáng kể để các Thiền sư qua đó
bộc lộ tâm đạo của mình. Văn học giai đoạn này, có vai trò chuyên trở tư
tưởng của các Thiền gia tới người tiếp nhận, những câu thơ miêu tả về thiên
nhiên, về thế sự hay chính là bày tỏ tư tưởng thâm sâu của sự chứng ngộ, cách
tu tâm của bậc trí giả. Với bút pháp khi tả cảnh, khi gợi mở nội tâm, những
câu hỏi tu từ bỏ lửng. Giá trị thẩm mỹ trong mỗi bài thơ Thiền thể hiện qua
cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên vạn vật trước thời cuộc ví như “Thị đệ
tử” của Thiền sư Vạn Hạnh, “Ngôn hoài” của ngài Không Lộ, hay tiêu biểu có
“Cáo tật thị chúng”, Mãn Giác Thiền sư, “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân
Tông, và không thể không nói đến những bài thơ Thiền của Tuệ Trung
18
Thượng sĩ. Trong những bài thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ nói riêng
của các Thiền sư Lý - Trần nói chung cảm thức tôn giáo hòa quyện với giá trị
nhân văn, vừa răn dạy người vừa giáo hóa nhưng không khô khan, nhẹ nhàng,
đơn giản sâu sắc, luôn đạt tới cảnh giới tột đỉnh của nhận thức để người tiếp
nhận tự khai ngộ.
1.2.1. Đội ngũ sáng tác
Tôn giáo là hệ thống giáo lý kinh điển, tuy nhiên những Thiền sư, các tác
gia văn học Lý - Trần bàn về hữu vô, sinh tử, niết bàn qua những áng văn thơ.
Trong mỗi bài thơ Thiền, thể hiện sự lắng đọng cảm xúc và truyền tải nhiều
luận đàm về cuộc sống. Đội ngũ sáng tác họ là ai? Là những nhà tu hành,
hoàng thân quốc thích hay những cư sĩ an bần lạc đạo. Tất cả họ đã mang tới
cho thơ văn Lý - Trần những sáng tác văn học tiêu biểu thể hiện hệ thống tư
tưởng cho cả thời đại về giáo lý về thẩm mỹ văn chương.
Người Việt Nam với bản lĩnh độc lập tự cường, cùng với tính uyển
chuyển của cư dân lúa nước phương nam, nên bất kỳ một học thuyết nào vào
Việt nam đều phục vụ đạo yêu nước yêu dân của dân tộc. Phật giáo khi vào
Việt Nam cũng ảnh hưởng và chịu sự chi phối của quy luật đó. Với tính cởi
mở, quảng đại quần chúng, với hệ thống giáo lý phá chấp triệt để, tinh thần
đốn ngộ tự tại, Phật giáo bắt gặp được những luồng tư tưởng vốn có, kết hợp
với tín ngưỡng dân gian, dung hợp với các hệ tư tưởng khác như Nho giáo,
Lão Trang tạo nên một diện mạo riêng cho đạo Phật Việt Nam. Phật giáo
Thiền tông thời Lý - Trần tạo cho mình một vị thế đặc biệt trong dòng chảy
lịch sử của dân tộc Việt. Sự du nhập Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc với hệ
quả là các dòng phái, Vô Ngôn Thông, Tì Ni Đa Lưu Chi và Thảo Đường,
hình thành phát triển đã mở ra một thời kỳ nở rộ của Thiền tông, cùng hệ
thống các kinh điển truyền thừa các tác giả văn học Phật giáo xuất hiện với
19
những bài thi kệ nói lên sự vô chấp, giáo truyền sự đốn ngộ, và những nguyên
tắc của quy luật sinh tồn. Hệ thống những bài thi kệ đó, là sản phẩm tất yếu
của một thời kỳ Thiền tông đơm hoa.
Trong hệ thống văn học Việt Nam có thể nói, thời đại văn học Lý - Trần
là thời đại bùng nổ của các Thiền sư xuất gia và tại gia. Từ nhà tu hành đến
bậc quan lại, hoàng đế, tinh thần Phật giáo thấm sâu trong mỗi dòng tư tưởng
của họ qua các bài thi kệ. Tuy Phật giáo dường như đã trở thành một hệ tư
tưởng chính thống trong xã hội thời Lý – Trần, nhưng Nho giáo và Lão giáo
cũng không bị lu mờ. Thời kỳ này hiện tượng tam giáo đồng nguyên hiện tiền
rõ nhất, hòa quyện nhất và thông đạt nhất. Nho giáo với đặc quyền riêng của
mình vẫn giữ một vị trí tối cao trong phương pháp “trị an” của các hoàng đế
thời đó. Nho giáo có những tôn chỉ riêng trong hệ thống tư tưởng mà các vua
quan đời Lý – Trần sử dụng như một cách thức trị quốc, tuy nhiên để “an
dân” và hướng lòng dân theo thì các vua triều Lý đặc biệt là đến triều Trần
dùng Phật giáo để truyền bá tư tưởng của giai cấp thống trị. Những Thiền sư,
quốc sư ra giúp vua gây dựng cơ đồ như Vạn Hạnh, Khuông Việt, Mãn Giác,
Không Lộ, đến những đế vương Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân
Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ… Họ tiêu biểu cho những con người tham vọng
“giáo dân” bằng Phật giáo, và tìm đến một phương pháp chứng ngộ của riêng
mình. Hệ thống đội ngũ sáng tác giai đoạn này thể hiện thái độ yêu nước,
đoàn kết toàn dân. Tiên phong trong vấn đề này phải kể đến Thiền sư Vạn
Hạnh, người đã có công phò tá và lập ra triều Lý. Với những bài thơ, những
bài sấm vĩ thể hiện con mắt thông tường trước thời cuộc của ngài. Bài kệ : Thị
đệ tử, trước khi viên tịch, Thiền sư Vạn Hạnh đọc cho các đệ tử nói về sự sinh
diệt hằng thường, nói về cuộc đời thịnh suy, hay “Yết bảng thị chúng”, một
cách thông báo với toàn dân về sự sụp đổ của nhà Tiền Lê, và sự xuất hiện
của nhà Lý. Qua những bài sấm vĩ đó thấy được sự mẫn tuệ và nghệ thuật
20
chính trị của Thiền sư. Hay đến một loạt các tác gia văn học Lý - Trần tiêu
biểu cho tinh thần đoàn kết tự cường, xây dựng một quốc gia thanh bình trên
phương châm đạo và đời song hành. Thánh đăng ngữ lục là tác phẩm viết về
cuộc đời hành trì và tài năng của năm vị hoàng đế triều Trần, Trần Thái Tông,
Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông. Những vị
hoàng đế đó ngoài là năm vị vua sáng của dân tộc, họ còn là những nhà tu
hành người xuất gia, người tại thế, và là những nhà thơ nhà văn tiêu biểu của
dòng văn học Lý - Trần. Có thể nói những sáng tác như Khóa hư lục, Thiền
Tông chỉ nam tự, Cư trần lạc đạo,…và những bài thơ sáng tác thời kỳ này là
những tác phẩm tiêu biểu, và những luồng tư tưởng khác nhau song mục đích
cuối cùng đều muốn thể hiện niềm khao khát yêu chuộng hòa bình, sự an bần
lạc đạo, và khơi gợi giúp đỡ thị chúng bỏ bến mê tìm về bến giác. Đội ngũ
sáng tác văn học Phật giáo giai đoạn này đa nhân cách, phong phú về thể loại
cũng như loại hình, thể hiện những khát khao giao cảm với đời, và sự chứng
ngộ nhân tâm cũng như những thông điệp mang tính đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Khuynh hướng sáng tác của văn học Lý – Trần
Nghiên cứu về khuynh hướng sáng tác văn học Phật giáo giai đoạn Lý -
Trần cần một hệ thống nhiều tư liệu cũng như khảo chú, tuy nhiên trong đề tài
luận văn này việc mô tả một số thể loại chỉ để minh chứng cho sự truyền tải
tư tưởng Phật giáo trong đó. Không chú trọng làm sáng rõ những thể tài như
những nội dung độc lập mang giá trị lịch sử. Chúng tôi chỉ nhằm mục đích
giới thiệu một số thể tài trong văn học Phật giáo Lý - Trần để thấy được sự
toàn diện trong hình thức sáng tác của các tác gia văn học giai đoạn này.
1.2.2.1. Đề tài về cảnh giới giác ngộ
Văn học là lãnh địa để thi nhân mang cảm xúc từ cuộc sống trở về với
cuộc sống. Đề tài tôn giáo là phạm trù rộng lớn đó là mảng triết thuyết kỳ bí
21
của cảnh giới giác ngộ. Đề tài tôn giáo được các Thiền nhân gợi mở trong
những vần thơ và ý thơ. Những phạm trù sinh - tử, sắc - không vốn là những
hình tướng không rõ ràng nhưng được các tác gia chọn làm đề tài bàn luận và
tốn không ít giấy mực. Thiền sư Viên Chiếu (999- 1090) viết “Nhưng nếu
nhận thức được rằng cái tâm là không, sắc tướng cũng là không, thì “sắc”, và “không”, khi ẩn khi hiện, mặc nó đổi dời”2. Trong quan niệm Phật giáo Thiền
tông thì sinh tử, sắc không cũng là giả tướng. Hình tướng của sự vật theo
quan niệm Phật giáo không xác định, sắc - không, chỉ là giả tướng, nếu gọi
tên được sự vật thì sự vật ấy đã biến đổi rồi. Quan niệm bất nhị, thể hiện rõ
nhất qua tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ. Cảnh giới giác ngộ mà các Thiền
sư thể hiện trong thi kệ của mình, không phải một thế giới Niết Bàn cao xa
ngoài thực tại, không phải một thế giới huyễn hoằng thâm sâu, mà nó tồn tại
ngay trong lòng con người, tại tâm mỗi người. Thiền học chủ trương “bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, giáo ngoại biết truyền”3.
Thiền tông thời Lý - Trần nhu cầu thể ngộ hướng vào nội tại bản tâm để truy
tìm sự giải thoát. Quay trở về với bản tâm là kim chỉ nam mà Thiền tông
hướng tới, Thiền tông Lý - Trần chủ trương tìm về cái tâm nội tại, an tâm tự
tại tức là Phật. Phật không ở bên ngoài, mà trong mỗi con người đều có Phật
tính. Giác ngộ tức là khơi gợi được Phật tính của bản thân. Thiền học thời kỳ
này đã thể hiện được hết quyền năng của mình, quyền năng của sự sáng tạo.
Thị đệ tử (Vạn Hạnh) [47]
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Dịch: Thân như bóng chớp có rồi không
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Cây cối xanh tươi thu não nùng
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý, Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
2 Thơ văn Lý - Trần, tập 1 3 Đàn Kinh - Huệ Năng
22
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
Bài thơ nói đến sự vô thường của cuộc đời con người cũng như của tạo
vật. “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Nếu là xác thân trong triết lý của đạo
Phật cũng do tứ đại mà hợp thành (đất, nước, lửa, gió). Hợp thành rồi tan ra
theo quy luật của tự nhiên. Nói “thân” là “cuộc đời” thì cuộc đời con người
cũng như bóng chớp, hữu sinh hữu tử. Chỉ một chớp mắt là mọi thứ đều thay
đổi. “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khổ”, mùa xuân cây tốt tươi, mùa thu héo
úa. Điều đó giống như quy luật sinh, tồn, một quy luật hằng thường bất biến
và sự vật luôn luôn vận động, biến đổi từ trạng thái này đến trạng thái khác.
Thuận theo tự nhiên con người sẽ không còn khổ đau. Nhưng con người mãi
luẩn quẩn trong vòng sinh tử, con người luôn bị chính mình o ép lấy thân, tâm
rộng mở của mình. Luôn sống trong thế giới u minh, luôn mê động trước tạo
cảnh mà không biết rằng mọi thứ chỉ là giả tạm của thế giới hiện thực. Cuộc
thịnh suy kia rồi cũng sẽ đến, thịnh suy của tạo vật, của sự việc cũng như giọt
nước trên đầu ngọn cỏ, mong manh, dễ tan trước bình minh, triều đại nào
cũng hưng vong rồi suy tàn, cây cối rồi cũng héo úa, cái mầm còn thì lại xanh
tươi, một vòng tuần hoàn luân hồi của đạo Phật. Nhưng con người luôn đau
khổ trước thịnh suy, trước úa tàn, đau khổ trước sinh tử. Con người luôn chỉ
nhìn thấy cái ngọn mà chưa biết cái gốc, chỉ nhìn thấy cái mất đi mà không
quan tâm tới vì sao lại mất đi. Vạn vật hữu sinh hữu diệt. Sinh diệt là chuyện
thường tình mà luôn hao tâm tới những điều tự tại hiện tiền đó. Thiền sư là
bậc đạt đạo, trong con mắt của họ, mọi thứ luôn đúng vị trí của nó, mọi thứ
nói có là có nói không là không, không bị mê lầm trong cái có ảo ảnh mà
cũng không bị luyến ái trong cái diệt tàn của sự vật. Chứng ngộ được những
điều tưởng như đơn giản đó, con người không còn khổ đau, con người không
còn bi ai. Song Phật đã dạy, con người vạn kiếp vẫn không thoát khỏi được
luân hồi, chỉ có ai nhận thức, tĩnh đạt thì mới bật được ra vòng sinh tử đó thôi.
23
Trong bài thơ “Thị đệ tử” nhà thơ nhắc cho đệ tử biết quy luật tuần hoàn tự tại
của vũ trụ của tạo vật, xung quanh từ điều nhỏ nhất hoa tàn, hoa nở, đến cuộc
thịnh suy của sơn hà xã tắc. Mọi thứ tuân theo quy luật tự nhiên, mọi thứ luôn
là ảo ảnh, không có thực chỉ có chân tâm là tồn tại. Cảm nhận từng ý thơ của
Thiền sư thấy được sự chảy trôi của không gian, thời gian, sự chuyển biến của
con người cũng như là thế sự. Thản nhiên trước quy luật sinh tồn đó, cũng là
lúc con người ta đạt được chứng ngộ của riêng mình.
Cáo tật thị chúng (Mãn Giác Thiền sư) [47]
Xuân khứ bách hoa lạc Dịch: Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân lai bách hoa khai Xuân tới, trăm hoa cười\
Sự trục nhãn tiền quá Trước mắt việc đi mãi
Lão tòng đầu thượng đáo Trên đầu già đến rồi
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai Đêm qua, sân trước một cành mai
(Ngô Tất Tố)
Cáo tật thị chúng là bài thơ đúc kết sự giác ngộ chân lý đạo Phật và những
rung động chủ quan của nhà thơ trước hình ảnh, màu sắc, âm thanh của thế
giới vật chất. Bài kệ là sự hòa hợp tuyệt vời giữa nội dung tôn giáo và nội
dung nhân văn, thể hiện tính bất phân giữa văn và triết trong văn học Thiền tông thời Lý - Trần4. Bài thơ mở đầu với quy luật muôn đời và vòng quay bất
tận của tạo vật “Xuân khứ bách hoa lạc”. “Xuân lai bách hoa khai”. Một quy
luật hằng thường của triết lý nhà Phật. Song, con người ta luôn luôn lầm lạc
4 Theo “Thuyền uyển tập anh” bài kệ ra đời vào ngày 30 tháng 11 Hội Phong thứ 5 (1906)
sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ . Bài kệ do Mãn Giác thiền sư làm không có tên, “Cáo
tật thị chúng” là đầu đề do Lê Quý Đôn đặt.
24
trong thế giới hỗn dung u minh của chính mình, ao ước và mong muốn cuộc
đời lúc nào cũng như mùa xuân tươi đẹp, nhưng mùa xuân rồi cũng tàn, hoa
cũng rụng.
“Sự trục nhãn tiền quá. Lão tòng đầu thượng đáo”. Hai câu thơ tiếp tác giả
nói tới quy luật sinh lão bệnh tử của con người. Năm tháng qua đi, mọi việc
cứ thế tiếp diễn. Cuộc đời con người như xuân, hạ, thu, đông, hết đông xuân
lại tới. Đó là vòng tròn luân hồi theo quan niệm của đạo Phật. Nhận chân quy
luật đó, tự tại an nhiên với thực tại con người sẽ không có khổ đau. Nhưng
con người luôn luôn đau khổ, sinh cũng khổ, diệt cũng khổ. Bởi vì không biết
sinh diệt là do tâm, do chính bản thân của mình, giác ngộ là khai ngộ được
thân tâm. Khi tâm khai ngộ thì ý thức về sinh tử là chuyện thường tình, lúc đó
con người còn gì khổ đau.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Hai câu kết nhà thơ diễn giải một cách hết sức giản đơn nhưng thâm thúy
triết lý Phật giáo Thiền tông. Phật giáo Thiền tông chủ trương thế giới niết
bàn không ở đâu xa, mà ở trong thực tại. Con người hốt nhiên đốn ngộ là lúc
con người ở thế giới Niết bàn rồi. Điều mà Thiền học muốn hướng con người
đến không phải trông chờ vào một cõi niết bàn sau cái chết cũng không phải
là tìm cách thay đổi thực tại mà là thay đổi thái độ với chính hiện thực ấy. Hai
câu kết có hình ảnh “nhất chi mai”, cành mai luôn là biểu tượng cao quý trong
văn thơ nhạc họa, cành mai ở đây nở khi xuân đã tàn, hay chính là tâm đạt
đạo của nhà thơ nở giữa rừng úa tàn của mùa xuân tạo vật. Đó là cái tâm an
nhiên tự tại của bậc đạt đạo, vượt lên trên sinh diệt. Nhành mai còn thể hiện
vẻ đẹp tâm linh bất diệt theo quan niệm đạo Phật.
“Cáo tật thị chúng” là thi phẩm độc đáo thể hiện niềm tin mãnh liệt của
Thiền sư về sự lạc quan trong cuộc sống. Bài kệ là tác phẩm trác tuyệt nêu lên
25
xu thế thời đại và cảm thức tôn giáo đã hòa quyện vào nhau đưa bài thơ tiến
xa hơn mục đích ban đầu của nó là đúc kết giáo lý Phật giáo nhằm răn dạy
chúng đệ tử.
Thiền sư Vạn Hạnh tiêu biểu với Thị đệ tử thì Mãn Giác Thiền sư nổi
tiếng với Cáo tật thị chúng, Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú, Không
Lộ Thiền sư với Ngôn hoài… bênh cạnh đó một loạt các tác giả văn học Lý -
Trần lấy đề tài về cảnh giới giác ngộ mà “Thiền uyển tập anh” đã dẫn.
Cảnh giới giác ngộ là đề tài bất tận trong các thi kệ của các Thiền gia,
xuất gia cũng như tại gia. Người học đạo đau đáu trước việc khai ngộ chân
tâm, phải khai ngộ được bản tâm vi diệu của mình, lúc đó mới tường tận vén
được tấm màn u minh, mới giúp đời, truyền đạo. Nói tới cảnh giới giác ngộ,
là nói tới thế giới chân như, một sự tuyệt đối trong nhận thức của các tác giả
Thiền gia. Nhiều bài thơ trong hệ thống văn học Phật giáo Lý - Trần đã thâu
tóm được đủ nhất về đề tài giác ngộ, song những bài thơ lấy đề tài Phật giáo
đó không nói cụ thể thế nào là sự giác ngộ, mà qua lời thơ, cấu tứ, hình ảnh có
khi chỉ là âm thanh, các bậc Thiền sư nói với đệ tử, từ đó các đệ tử tự khai
ngộ.
1.2.2.2. Về cách tu tâm dưỡng tính
Các Thiền sư đã sử dụng văn học làm phương tiện truyền tải nội dung,
qua ngôn từ và câu chữ những ngụ ý về cách tu tâm dưỡng tính lộ diện trong
muôn màu cuộc sống. Nói đến cách tu tâm, dưỡng tính hẳn khái niệm gần
giống của Nho giáo. Nho giáo chủ trương “sửa mình”, “sửa” để trở thành
người quân tử hoàn thiện. Sự hoàn thiện đó bao bọc trong tam cương ngũ
thường, luôn sống theo khuôn phép, không vượt qua khuôn phép của bản
thân. Sự đúng mực hay mẫu mực trong Nho giáo khác với trong Phật giáo, cụ
26
thể trong cách tu Thiền của các Thiền gia. Chủ trương “sống Thiền” được các
Thiền gia chuyển tiếp đến Tuệ Trung Thượng sĩ. Đề tài về tu tâm dưỡng tính
trong thơ văn Phật giáo thể hiện rõ nhất hình ảnh con người sống theo Thiền.
Hình ảnh con người trong thời đại Lý - Trần là hình ảnh con người tìm về
“biện tâm” của chính mình. “Tức tâm tức Phật” giác ngộ hay không giác ngộ
là do bản thân của mỗi con người. Không chịu khó hành trì hẳn không đạt
thành tựu, thành tựu đó không đồ sộ chỉ đơn giản hướng tâm được tĩnh lặng,
kêu gọi tâm không vọng động trở về với tâm như, con người có thể giác ngộ
trong đời sống thường nhật.
Trần Nhân Tông với “Cư trần lạc đạo phú”, Trần Thái Tông với “Niệm
Phật luận”:
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Thiền gia thực tập giới, tịnh, độ, để tìm về cái tâm không vọng động, mọi
thứ giả cảnh đều do tâm vọng động mà ra, con người ta điều khiển hành động
thường dễ hơn điều khiển suy nghĩ. Suy nghĩ không bị kiểm soát, không nhìn
thấy, bởi vậy suy nghĩ hay là ý là nghiệp nặng nhất trong ba nghiệp (thân, ý,
khẩu) của nhà Phật và mọi khổ đau cũng từ suy nghĩ mà thành. Mọi mong cầu
xuất hiện trong suy nghĩ, tâm tưởng. Mọi thứ khởi niệm từ ý thức mà thành,
mong cầu giàu sang mong cầu vô diệt…, có những mong cầu nhỏ thì nỗi khổ
nhỏ, có mong cầu lớn nỗi khổ lớn. Và những điều mong cầu đó thật ra cuối
cùng chỉ là giả cảnh. Không đáp ứng được mong cầu, suy nghĩ ước vọng
không thành hiện thực, con người mới đau khổ, nhưng đau khổ cái không có
hình tướng. Thiền tông với phương châm sống gần gũi với cuộc sống đời
thường và nhìn cuộc sống vô thường. Phật giáo không phải là công cụ để
người ta ẩn náu, dấu mọi đau khổ và bế tắc trong đó. Phật giáo là thế giới
rộng mở ở trong đó mỗi người tự tìm thấy bản ngã của chính mình, tự xác
27
nhận lẽ sống của đời thường.
Phương châm tu sửa bản thân của Phật giáo đó là “ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm”. “Bất ưng sở trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp
sanh tâm, ưng vô trụ sở nhi sanh kỳ tâm. Tức là muốn hàng phục tâm mình để
thành tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì không nên trụ nơi sắc,
không nên trụ nơi thanh hương vị xúc pháp… trọng tâm của sự tu là đừng
dính mắc vào sáu trần thì tâm an trụ, tâm an trụ tức là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”5. Đó là tinh thần vô trụ, không dựa vào, không bám víu vào
khái niệm, vào các sự vật hiện tượng dù là hữu hình hay vô hình của Thiền
tông. Khi người tu tập đạt đến trình độ hành động, suy nghĩ đều vô chấp, tức
là đạt tới cảnh giới thấu hiểu triết lý thâm sâu của giải thoát và tự tại trong
cuộc sống. Lục tổ Huệ Năng khi còn tại thế, sau khi nghe người ta đọc đến
câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” hốt nhiên đốn ngộ, ở Việt Nam, vua Trần
Thái Tông diễn giải thâm ý trong Khóa hư lục sau khi nghe đến câu kinh trên
của Kim Cương Kinh cũng đốn ngộ thân tâm. Tìm về với Tánh không, hay
chính là thật tướng của sự vật, con người không nhầm lẫn giữa có và không,
không còn tồn tại giữa sinh và diệt. Khi khái niệm nêu ra ngay lập tức nó sẽ
rơi vào thế nhị nguyên. Vướng vào khái niệm nhị nguyên, người ta dễ bị lầm
tưởng, phân rạch ròi, khi đã đặt suy nghĩ vào sự rạch ròi thì thật tướng của sự
vật lại bị tan biến. Tìm tới bản lai diện mục, trong thế giới chân như tuyệt
bích là con người đang sống đúng với quy luật hiện tồn của tạo vật. Sẽ không
còn ảo ảnh, cũng như là mê vọng. Triết lý Phật giáo muôn màu kỳ diệu, văn
thơ Thiền thời Lý - Trần đã áp dụng triết lý quy luật đó như thế nào trong
5 Thích Thanh Từ, Khóa hư lục giảng giải, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh
28
những bài thơ Thiền của mình.
Thiền sư Đạo Huệ6 (?- 1073) đọc lời kệ thể hiện tâm ý của mình với đệ tử
trong cách nhận thức về tánh không
Địa, Thủy, hỏa, phong, thức Dịch: Đất, nước, lửa, gió, thức
Nguyên lai nhất thiết không Hết thảy vốn đều “không”
Như vân hoàn tụ tán Như mây tan rồi tụ
Phật nhật chiếu vô cùng Phật nhật chiếu không cùng
(Hoàng Lê) [47]
Quan niệm con người được tạo thành do tứ đại giai không (đất, nước, lửa,
gió). Sự hợp thành của hữu cơ, vô cơ, của khí trời từ khi hình thành trong
bụng mẹ đến khi chào đời. Nhưng tứ đại giai không kia theo Đạo Huệ vốn là
“không”. Nếu không có cái không có, thì ắt nhiên cái có cũng không đến, vậy
con người nếu cho là từ tứ đại giai không mà hợp thành, thì tứ đại giai không
kia vốn lại là “không”, vậy con người cũng là “không”. Nhưng cái “không”
này không phải là sự phủ nhận sạch trơn, mà chỉ là khẳng định sự tồn tại của
một quy luật. Tứ đại giai không cũng chỉ là tên gọi, nếu gọi ra tên của sự vật,
chấp vào cái hình tướng, thì cái hình tướng ấy cũng mất đi, tức là gọi tên nó,
là nó đã tan biến rồi. Vậy nên, mọi thứ cứ để hiện tiền, không quan tâm đến
việc sinh ra thì sẽ không có cái mất đi. Khi đã nghĩ đến điều mất đi, ắt hẳn
phải có chỗ sinh ra. Đạo Huệ dạy các đệ tử của mình, không nên mắc vào
khái niệm nào, không nên trụ vào một tên gọi nào hết, chỗ không trụ kia chính
là tâm kỳ sinh. Bởi vì nếu trụ vào sự vật nào đó, thì sự vật đó cũng tan biến
6 Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, dịch và chú giải, Thiền uyển tập anh (1990), Nxb Văn học
29
ngay khi ngã chấp vào đó. Vô trụ nghĩa là thật tướng, là tánh không.
1.3. Cuộc đời và những sáng tác văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ
Thượng sĩ hành trạng viết: “Tuệ Trung Thượng sĩ là con đầu của Khâm
Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh
Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong
cho thượng sĩ tước Hưng Ninh Vương.” Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là
tước hiệu Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu lúc
mất năm 1251 khi đó Tuệ Trung Thượng sĩ 21 tuổi. Tuệ Trung Thượng sĩ là
anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, và Trần Quốc Tuấn có người
con tên là Trần Quốc Tảng - Hưng Nhượng Vương, một số người nhầm Tuệ
Trung Thượng sĩ tên là Trần Quốc Tảng thực tế tên đời của ông là Trần Tung.
Theo Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ là người có khí lượng thâm
trầm, phong thần nhàn nhã, từ nhỏ ông tỏ ra là người có phẩm chất cao sáng,
thuần hậu và yêu mến đạo Phật. Ông có công trong hai quốc kháng chiến
chống quân Nguyên - Mông. Lúc đầu ông được cử trấn Hồng Lộ, tức là Hải
Dương bây giờ, về sau chuyển giữ tiết độ sứ giữ trấn hải đạo Thái Bình. Sau
ông lui về ấp Tịnh Bang, đổi tên lại là Vạn Niên, tự hiệu là Tuệ Trung.
Cuộc đời của Tuệ Trung Thượng sĩ gắn với sự hưng thịnh cũng như cùng
trải qua những cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông vĩ đại của nhà Trần
bên cạnh Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Tuệ Trung Thượng sĩ là chí sĩ
trên thao trường, là người quân tử gác bỏ tâm tư và cùng toàn quân xông trận
khi đất nước lâm nguy. Hành động của Tuệ Trung thể hiện khí tiết của đạo
Nho nhưng tấm lòng yêu thương nhân quần của ông thì chứa chan tinh thần từ
bi hỉ xả. Không hợp với quan trường ông về xây dựng Dưỡng Chân Trang để
nuôi chân tính. Phong thái cũng như đạo nghiệp của Tuệ Trung tạo nên một
đặc tính về nhân cách riêng biệt của nhân sĩ giữa triều đại Trần. Năm 1291
30
ông tịch tại Dưỡng Chân Trang.
Tuệ Trung Thượng sĩ có 49 bài thơ trong cuốn “Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ
lục”. Bên cạnh đó còn có 4 bài kệ trong phần Đối cơ và 13 bài Tụng cổ phần
Cử công án. Sự nghiệp sáng tác văn chương của tác giả Tuệ Trung bắt nguồn
từ cảm thức về đạo Thiền và những cảm xúc thường nhật của con người trước
thiên địa mênh mông. Là Thiền gia không xuất gia nên những suy nghĩ trong
thơ của Tuệ Trung không bị bó buộc trong phạm vi những kinh điển luận
chứng. Phải kể tới chùm thơ về sinh tử, Niết bàn, Tính không, sắc không. Hay
khi lại là những bài thơ mang tâm trạng về chốn Tĩnh Bang, khi là những bài
thơ về Thiền sư Tiêu Dao người thầy đạo của Tuệ Trung. Bên cạnh đó còn là
những lời thơ răn giảng cho hậu nhân, hay những nhắc nhở về cuộc sông vốn
như nhiên. Tất cả dòng mạch trong cảm xúc thi ca của Tuệ Trung không bị bó
buộc vào sự cứng nhắc của giáo lý, mà hàm chứa những nội tâm sâu sắc của
người hành Thiền và chứng Thiền một cách có kiến giải. Trong những vần
thơ của tác giả đó đây có dáng dấp của một nhà Nho quân tử hay phong thái
tiêu dao của Lão Trang cùng với cảm tác tự nhiên về duyên sinh duyên khởi
của Thiền gia. Sự dung hợp nhuần nhị trong mỗi bài thơ chứa chất những cảm
xúc riêng biệt khó có thể bị nhầm lẫn với những nhà thơ khác. Với những bài
thơ “Phật tâm ca”, “Sinh tử nhàn nhi dĩ”, “An định thời tiết”, “Vạn sự quy
như”, “Phóng cuồng ngâm”, “Họa Hưng Trí thượng vị hầu”, “Giang hồ tự
thích”… Tuy có những mạch cảm hứng riêng và lạ, nhưng văn chương của
Tuệ Trung Thượng sĩ không tách rời trong hệ thống văn học Phật giáo Lý -
Trần. Về tư tưởng, nội dung về hình thức thể hiện, những đề tài và những cảm
xúc đều tương quan với hệ thống văn học thời đại ông. Tất cả những tư tưởng
và hành trạng của Tuệ Trung được gói gọn trong bốn câu thơ ở cuối bài phú
Cư Trần Lạc Đạo:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
31
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo, hữu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền. [6]
Nói thơ văn Tuệ Trung Thượng sĩ là bộ phận thơ văn Phật giáo Lý - Trần
vì trong những sáng tác của ông thể hiện tinh thần nhập thế đời Trần, thể hiện
sự tùy duyên tùy tục và những suy tư về lẽ sinh tồn cũng như những khát
vọng của cá thể trước vũ trụ. Khát vọng được sống Thiền, được hòa trộn lẫn
đạo và đời. Tuệ Trung Thượng sĩ người đi tiên phong trong những sáng tác
đó. Ông là ngọn cờ dẫn đường của Trúc Lâm Yên Tử, cũng từ đây Phật giáo
đời Trần có diện mạo và có vị thế quan trọng trong hệ tư tưởng Phật giáo
Việt.
Tiểu kết:
Tuệ Trung Thượng sĩ là một nhân sĩ, một Thượng sĩ và một thi sĩ tiêu
biểu của triều Trần. Cuộc đời của ông là tấm gương sáng về lòng kiên trung,
tận hiếu với quốc gia dân tộc trước trách nhiệm của một bề tôi. Tuệ Trung
cùng với quân dân triều Trần viết lên bản hùng ca chống giặc Nguyên Mông
xâm lược. Mở ra một thời kỳ độc lập vững bền, và một nền văn hóa đa dạng
khi Phật giáo trở thành quốc giáo. Những sáng tác văn chương của Tuệ Trung
Thượng sĩ là một bộ phận cấu thành trong hệ thống văn chương đời Trần. Tư
tưởng Thiền học của ông là kim chỉ nam dẫn đường và mở ra một thời kỳ rực
rỡ của Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Văn học Phật giáo Lý - Trần, với một diện mạo và một khuynh hướng
sáng tác đặc thù, khác hẳn các thể loại văn học trước đó, và là điểm sáng chói
của hệ thống văn học dân tộc. Thời đại Lý - Trần chói sáng bởi những gương
mặt tác gia - Thiền gia xuất chúng. Những sáng tác của họ là những bài thi kệ
thức tỉnh chúng sinh, hay những nhận định về chân lý cuộc sống, có khi là
32
những lời răn giảng cho bậc đệ tử thấu triệt tôn chỉ của tông phái. Đội ngũ
sáng tác giai đoạn này chủ yếu là các Thiền gia, cư sĩ, các bậc công thần hiểu
đạo. Đề tài nổi bật mà các Thiền gia quan tâm thể hiện những phạm trù và tư
tưởng của Phật giáo. Trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ xuất phát điểm trên nền
văn học đó nhưng thơ của ông thể hiện rõ sự đan xen giữa yếu tố thẩm mỹ và
chất Thiền. Những yếu tố Thiền, yếu tố thẩm mỹ của văn chương trong thơ
của Tuệ Trung Thượng sĩ khác với hệ thống thơ văn của thời đại. Tuy là bộ
phận của văn học thời Trần nhưng tư tưởng và những xúc cảm của Tuệ Trung
thể hiện rõ bản tính tùy duyên, tùy tục, “hòa quang đồng trần” của người quân
tử yêu mến cửa “Không”.
Nghiên cứu Thiền và văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ trong bối cảnh
Thiền và văn chương đời Trần, trước tiên thấy được diện mạo, khuynh hướng
trong những sáng tác văn học đời Trần. Những sáng tác văn học đó thể hiện
trong hệ thống văn học Phật giáo đời Trần phong phú về đối tượng sáng tác,
và sâu rộng trong các thể tài, nội dung tư tưởng Phật giáo được truyền tải qua
mỗi tác phẩm. Từ đó tham chiếu với Thiền và văn chương của Tuệ Trung
Thượng sĩ, là một bộ phận của Thiền và văn chương đời Trần. Đó là mối quan
hệ tương hỗ bổ sung, tạo tiền đề nhận diện rõ Thiền và văn chương Tuệ Trung
Thượng sĩ trong toàn hệ thống văn học đời Trần một cách sâu rộng. Từ đó mở
đường nghiên cứu, tìm hiểu những triết lý và thế giới thẩm mỹ trong những
33
sáng tác văn học của Tuệ Trung.
CHƢƠNG 2: THIỀN TRONG VĂN CHƢƠNG CỦA TUỆ TRUNG
THƢỢNG SĨ
2.1. Quan niệm về Thiền trong sáng tác văn học của Tuệ Trung Thƣợng sĩ
Tư tưởng Thiền trong văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ hay chính là tư
tưởng quan niệm Thiền của ông. Đối với Tuệ Trung ở đâu cũng có Thiền, ai
cũng thực hành Thiền được, không phân biệt Tăng hay tục, tại gia hay xuất
gia. Thiền trong quan niệm của ông không phải là một sự trốn chạy thực tế,
một sự bó buộc, khép kín như một số người đã lầm tưởng, mà Thiền là một
phương pháp khai ngộ của nội tâm, để thấy được giá trị chân thực và nhiệm
màu của bản thể. Bởi thế Nguyễn Khắc Chung đã nhận xét: “Tuệ Trung
Thượng sĩ người thấu suốt đến chỗ cội nguồn của tâm tính, tột cùng của trí
tuệ” [12].
Xuất thân trong gia đình dòng dõi vương gia, song tính cách và cuộc sống
của Tuệ Trung Thượng sĩ khác hẳn với những vương tôn quý tộc khác. Ông
bỏ ngoài danh vọng, sống một đời sống Thiền mẫu mực mà các Thiền sư phái
Trúc Lâm tán tụng là “con quỳ thiêng nơi rừng pháp”. Để đạt đến một đời
sống Thiền như bản chân của nó, Tuệ Trung Thượng sĩ đã “hòa quang đồng
trần” trong cái thế giới hỗn tục hư thực của người đời, nương theo phương
tiện đời thường mà đạt đến sự giác ngộ của bản thân. Đời sống Thiền của Tuệ
Trung, không mong cầu đạt đến một bậc trí giác, hay tụng kinh niệm Phật, đối
với Thượng sĩ tu Thiền là sống được Thiền giữa đời sống hiện tại. Mọi kinh
điển, giáo lý đều chỉ là phương tiện để con người ta đạt đến giới hạn nhất
định, đưa người ta vượt qua bến mê về với hiện thực. Tuy nhiên khi đã vượt
qua được những hư thực, làm chủ được bản thân trong đôi mắt Thiền gia thì
lúc đó cuộc sống hàng ngày muôn trùng cám dỗ cũng không lôi tâm tính của
34
ông trở về với những dung tục.
Tuệ Trung Thượng sĩ cho rằng bản tính vũ trụ vốn là một cái “chân như”,
“chân tính”, hay “bản lai tính”, có tính chất hằng thường, không trái cũng
không phải, không xấu cũng không tốt, “vô thủy”, “vô chung”. Không có cái
đầu cũng không có cái cuối. Bản tính của sự vật vốn là tự tính, chẳng có cái
“vô”, mà cũng chẳng có cái “hữu”. Tất thảy mọi vật đều biến chuyển theo quy
luật sinh diệt, hoa nở rồi tàn, thời thế có thái có bĩ, con người sinh ra rồi cũng
già và chết đi cũng giống như cây cỏ, loài vật. Nếu xét về tự tính của sự vật
Tuệ Trung Thượng sĩ cho rằng bản thân con người cũng không nằm ngoài
quy luật đó, sống đúng với quy luật ắt hẳn không có buồn đau bi thương. Ông
cho rằng không có khái niệm về “hư” cũng không có cái gọi là thực”, lúc mê
thì cho là hư thì tỉnh thì nói là thực. Tất cả mọi biến chuyển có - không đều do
tâm vọng động mà ra, cái tâm tính đó chi phối tới con người, tới hành động
cũng như những sai trái của con người. Vốn mọi vật đều theo dòng chảy tự
nhiên, nắm bắt được sự vận động hằng thường hẳn chỉ có Thượng sĩ. Khi
người chuẩn bị nhập diệt đã không cho người nhà khóc thương, kê giường ra
giữa nhà nằm tĩnh tâm và nói “sống chết là lẽ thường nhiên, sao lại phải buồn
thảm luyến tiếc để cho chân tính ta náo động” [12, tr.510]. Một Thiền sư được
tôn sùng thời Trần song ông chưa một lần xuống tóc xuất gia. Ông sống ở đời,
sống trong “đạo” thấu đáo của riêng mình, hòa mình vào chốn thế tục.
Tuệ Trung Thượng sĩ sống theo nguyên tắc “tùy tục” không phải đến
Thượng sĩ mới có, mà kể từ Thiền sư Thường Chiếu, một Thiền sư làm vạch
nối giữa Phật giáo cuối đời Lý sang đời Trần. Song cái lối “tùy tục” của
Thường Chiếu là sống chết theo người đời chứ không phải như Tuệ Trung
“tùy tục” đến mức “phá giới”. Nhìn mọi vật đều “vô tướng”, Tuệ Trung sống
theo quy tắc của sự ngộ Phật pháp với bản thân mình. Ông cho tất thảy mọi
vật đều chỉ là “danh giả” do cái nhìn “nhị kiến” của con người mà ra, đối với
35
con mắt của nhân quần thì “phá giới” hẳn là tội lỗi song với con mắt của Tuệ
Trung Thượng sĩ thì “phá giới và trì giới” cả tội và phúc cũng là không có.
“Trì giới và nhẫn nhục chỉ chuốc tội không chuốc phúc, muốn biết không tội
phúc đừng trì giới và nhẫn nhục”. Tuệ Trung đã sống đúng với cái nhìn “vô
tướng”. Mọi tên gọi đều là giả tướng, mọi khái niệm nêu ra đều phá vỡ cái
bản chất của sự vật. Tuệ Trung dùng ngôn ngữ là phương tiện để giải thích
cho môn đồ của mình, nhưng với những học trò khác nhau ông có cách giảng
giải chỉ bảo khác nhau. Ông dùng từ phương pháp “dĩ tâm truyền tâm”, đến cả
cách thức giảng dạy bằng những bài kệ. Đối với ông, chủ trương giải thoát tư
tưởng, chủ trương phá bỏ khái niệm và kinh điển để người tiếp nhận tự đốn
ngộ, không bị lệ thuộc vào bất kỳ điều gì. Tuệ Trung Thượng sĩ người có ảnh
hưởng vô cùng lớn đối với đệ nhất tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chính
Trần Nhân Tông đã bái lạy Tuệ Trung Thượng sĩ, coi người là bậc thầy truyền
giáo cho mình. Sự nghiệp vĩ đại của Tuệ Trung Thượng sĩ ngoài việc sống tùy
tục, hòa quang đồng trần thì tư tưởng của người có ảnh hưởng lớn tới Điều
Ngự Giác Hoàng. Tuệ Trung Thượng sĩ đã sống trọn vẹn với đời sống Thiền
của mình, một tấm gương mẫu mực cho các bậc học giả chí tôn, hay những
học trò cửa Thiền về sự “tùy tục” trong đời sống hằng thường.
2.2. Triết lý Thiền trong văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ
2.2.1. Những phạm trù về bản thể luận thể hiện trong văn chương Tuệ
Trung Thượng sĩ
2.2.1.1. Triết lý về tâm không
Tâm Không. Tâm tính rộng lớn, có khả năng dung nạp muôn tượng, giống
như hư không, nên gọi là Tâm không. Hồng tự nghĩa (Đại 77, 406 thượng)
nói: Từ vô thủy đến nay vốn trụ nơi Tâm không. Tâm Không, Tâm xa lìa tất
36
cả phiền não chướng ngại, vắng lặng vô tướng. Kinh Nhân vương bát nhã ba
la mật quyển thượng (Đại 8, 827 hạ) nói: Không tuệ tịch lặng quán vô duyên,
lại quán tâm không vô lượng báo [36].
Tuệ Trung Thượng sĩ người hành Thiền trong lòng thế tục. Bình luận,
kiến giải về hành trạng cũng như các trước tác của Tuệ Trung Thượng sĩ hẳn
dùng ngôn từ hạn hẹp khó mà khái quát hay phô bày được tính chân thực hay
trí tuệ thâm sâu của người. Bằng sự vụn vặt của bản tâm nhỏ bé, người viết
chỉ muốn khai mở, hay chỉ dẫn phần nào được triết lý vi diệu mà Tuệ Trung
đã đốn ngộ và đưa vào thơ. Nguyễn Duy Hinh cho rằng: “Không của Thiền
tông là chân lý tuyệt đối mà ngôn ngữ con người không thể nào diễn đạt được
(bất khả tư nghị)” [22, tr.97]. Triết lý Phật giáo nói chung, về Tâm không nói
riêng, trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ là những mảng màu khó tìm, một người
cảm thụ không tinh tế, giống như người xem tranh chỉ nhìn thấy những khối
hình họa xếp sắp trưng bầy lộn xộn mà không thấy sự hòa quyện nghệ thuật
các họa tiết trong đó. Để hiểu được triết lý trong thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ
là cả một quá trình học hỏi và kiếm tìm, chiêm nghiệm bằng đời sống Thiền
thực thụ mới truy tầm được hồn cốt qua những vần thơ Thiền đó. Là người
sống đời sống Thiền giản dị, đời thường, nên những triết lý hay tinh thần Phật
giáo trong thơ ông cũng dung dị, nhẹ nhàng dễ hiểu. Triết lý về Tâm không, là
khái niệm giải thích về trạng thái không định của tâm, tâm đã đạt trạng thái
Thiền định, Tâm là tâm không, không phải sự trống rỗng của nội tâm, mà một
sự nhất tâm. Sự “không” ở đây không phải không có và cái không dao động,
không bị vọng động xô đẩy trạng thái tâm không là trạng thái Tâm Phật. Lúc
đó mọi cảm xúc, mọi tác động từ bên ngoài cũng không lay động được bản
tâm của người đã chứng Thiền. Và trong bản tâm kia, không khi nào khởi nên
những sắc dục phàm tục, những ước vọng, tất cả những trạng thái ngoài thân
không ảnh hưởng đến con người. Trong bài Phật Tâm ca, Tuệ Trung Thượng
37
sĩ đã nói được đầy đủ nhất triết lý về Tâm không:
Phật, Phật, Phật bất khả kiến! Dịch: Phật! Phật! Phật không thể thấy
Tâm, tâm, tâm, bất khả thuyết! Tâm, tâm, tâm không thể bàn
Những khái niệm, tâm Phật, vạn pháp cũng chỉ là những danh từ giả danh,
tuy nhiên dựa vào danh từ, ngôn từ hạn hẹp để nói lên sự vô cùng bên trong.
Để thuyết giảng, hay bàn luận về những phạm trù rộng lớn đó không giống
với tôn chỉ của Thiền gia bởi Thiền tông vốn dĩ “vô ngôn”, tuy nhiên cảm xúc
của các Thiền gia cũng không thể không nói ra. Khúc hát ca của Tuệ Trung
Thượng sĩ về Tâm Phật hay chính đó là tâm không. Khi tâm không vọng tưởng, tâm an định lúc đó đã đạt trạng thái của tâm không, tức là Tâm Phật7.
“Bồ đề chỉ hướng tâm giác, hà lao hướng ngoài cầu huyền? thính thuyết ỷ thử
tu hành Tây phương chỉ tại nhãn tiền. Cố tri, nhất thiết vạn pháp, tận tại tự
thân chi trung, hà bất vu tự tâm đốn diện chân như bản tính? Phật thị tự tính,
mạc hướng thân ngoại cầu. Tự quy y Phật, bất ngôn ỷ tha Phật. Tự tính bất quy, vô sở ỷ xứ”8 (Bồ đề chính chỉ hướng giác ngộ ở nơi tâm, sao lại nhọc
nhằn đi cầu điều huyền hư ở bên ngoài? Dựa theo điều này mà tu hành, Tây
phương ở ngay trước mặt. Cho nên cần biết, vạn pháp tất thẩy đều ở trong tự
thân ta, sao chẳng quay về tự tâm đốn diện chân như bản tính? Phật chính là
Tự tính, chớ hướng ra ngoài thân mà truy cầu. Tự quy về quy y Phật nơi
mình, không nói quy y Phật nào khác. Tự tính không quy, sẽ không có chỗ
nào mà dựa) [38]. Vấn đề của vạn vật vạn pháp cũng đều từ tâm, niết bàn
cũng ở tâm sinh ra, bồ đề hay phiền não cũng do tâm khởi nên. Lục tổ ngày
trước khuyên chúng đệ tử tự quy y Phật nơi mình, tìm Phật đâu xa, bản tâm
7 Thiền sư Bản Tịnh nói: “Ngài Trung sứ muốn cầu Phật hay hỏi Đạo. Phật thì tâm ấy là Phật. Nếu muốn hỏi đạo thì vô tâm là đạo”. Trung xứ không hiểu xin sư nói rõ hơn, nên sư lại nói: “Nếu muốn cầu Phật , tâm ấy tức Phật. Phật do tâm mà nên. Nay nếu ngộ tâm là không, thì Phật cũng không, cho nên muốn hiểu đạo (tức Phật) thì vô tâm là đọa - Tổ đường tập quyển 3 8 Đàn Kinh, Huệ Năng
38
chân như chính là Phật. Hay ở Quốc sư Phù Vân nói với vua Trần Thái Tông:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó
chính là chân Phật” [52, tr.30]. Thiền tông chủ trương trực chỉ nhân tâm, kiến
tính thành Phật.
Ngọc hữu hà hề châu hữu lỗi
Tánh để vô hồng diệc vô lục
Diệc vô đắc
Diệc vô thất
Dịch: Ngọc có tì thì châu có vết
Tánh gốc không hồng cũng không lục
Cũng không được
Cũng không mất
(Phật tâm ca)
Phật giáo quan niệm mọi sự vật hiện tượng, mọi khái niệm cũng chỉ là giả
danh, bởi thực chất không có cái gọi là có và cũng không có cái gọi là không,
không có sắc chẳng có không, sắc sắc không không cũng chỉ là tên gọi. Phật
giáo quan niệm mọi thứ đều do duyên khởi hình thành, tất cả các mối quan hệ
đó mất đi, các hiện tượng, sự vật trở về trạng thái không, trạng thái không là
trạng thái thực của sự vật hiện tượng đó, nó tồn tại trong các mối quan hệ, tuy
nhiên bản tính của nó vốn là “không”, “không” được tạo ra từ đâu, “không”
mang một đặc điểm riêng điển hình cụ thể, tất cả sinh tồn trong mối quan hệ
là duyên khởi. Và nó tốt hay xấu, nó tồn tại dưới dạng thức nào lại là tâm quy
định. Tâm sinh vạn pháp sinh, tâm diệt vạn pháp diệt. Những triết lý Phật giáo
được chuyển tải trong văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ giàu cảm xúc. Tuệ
Trung Thượng sĩ sử dụng ngôn ngữ văn chương với những cặp phạm trù Sinh
tử, chân như, niết bàn, sắc không. Cũng trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục
39
bàn giải vấn đề “tức tâm tức Phật”.
Tâm tức Phật Dịch: Tâm tức Phật
Phật tức tâm Phật tức tâm
Diệu chỉ linh minh đạt cổ tâm Diệu chỉ sáng linh khắp cổ kim
Xuân lại tự thị xuân hoa tiếu Xuân đến hoa xuân tự nhiên nở
Thu đáo vô phi thu thủy thâm Thu về đâu khỏi nước thu sâu
Bỏ vọng tâm Xả vọng tâm
Giữ chân tính [12] Thủ chân tính
“ Tiến vân;
- Cổ nhân đạo: “Tức tâm tức Phật, vi thậm ma Phật bất hiện tiền?
Sư vân:
- Thám châu phẫu bạn tuy nan đắc.
Mạc hướng khô ngư tác biệt tầm
Dịch:
Lại hỏi: - Người xưa nói “Tâm ấy tức Phật”, tại sao Phật chẳng hiện
ra trước mắt?
Sư đáp: - Tìm ngọc tách trai dầu khó được
Đừng mong mổ cá uổng công tìm” [46].
Cách lý giải của Tuệ Trung Thượng sĩ đôi khi khiến người nghe bị rơi
vào vòng luẩn quẩn nhưng đôi khi lại làm đệ tử tự nhận ra trong cách nói
vòng vo của ông. Ở đây cách trả lời của Tuệ Trung Thượng sĩ khiến người
nghe phải suy luận suy tưởng. Người hỏi muốn biết Phật ở đâu, nhưng người
hỏi không biết Phật tại tâm, nếu khởi tâm tìm Phật, thì Phật không thể thấy
được. Khởi niệm lên là đã rơi vào vòng điên đảo luẩn quẩn của sinh tử rồi, thế
sao biết đường mà đi. Tâm chúng sinh thường luôn vọng động, bởi thế khó
mà nhận ra được tâm mình là Phật. Tuy nhiên nếu biết ngay ở chỗ vọng tâm
40
mà dừng lại, thì dù khó như “tìm ngọc tách trai” cuối cùng cũng thấy. Còn
nếu quay tìm Phật bên ngoài thì có dễ như “mổ cá” cũng tìm hoài không
được. Giải thích về tức Tâm tức Phật của phần Đối cơ hoàn toàn khác với
những câu chữ và ngôn từ trong bài Phật tâm ca.
Trong bài Phật tâm ca cặp hình ảnh đối xứng giữa Tâm - Phật, giữa
Xuân - Thu tạo nên những cảm xúc của thi vần, nhạc điệu. Ngôn từ của thi ca
là ngôn từ của cảm xúc, tuy Thiền thi có khác với ngôn từ thơ ca khác nhưng
âm hưởng của cảm xúc của nhạc điệu hoàn toàn giống nhau, nó cùng mang
những tâm tư và những cảm xúc bất diệt từ cõi lòng đến với cõi lòng. Một vấn
đề hai cách lý giải khác nhau đã mang lại những hiệu ứng tiếp nhận không
giống nhau. Tuy tác giả đều muốn người đọc, người nghe nhận biết và trực
ngộ nhưng sự khai ngộ của Đối cơ thiên về triết lý thuần Phật giáo, còn trong
Thiền thi nó được nâng lên từ những cảm xúc và những ngôn từ của một tác
gia văn học. Để đạt đến tâm Phật là tâm ta, tâm ta tức tâm Phật, hẳn nhiên
phải sống, tồn tại theo quy luật tự nhiên sớm nở tối tàn. Mọi hạnh phúc khổ
đau mọi hiện tượng thế giới quan bên ngoài thực chất cũng chỉ là hình ảnh
chiếu ra từ tâm, giữ được tâm tĩnh, tâm Thiền định không phải ai cũng làm
được. Một bản tâm không vọng động, tâm nhất tâm, thì những hiện tượng bên
ngoài không chi phối đến cuộc sống của bậc đại ngộ được. Cùng với yếu chỉ
Thiền tông, Tuệ Trung Thượng sĩ quay về với tự tâm của bản thể, sống theo
tự nhiên, xuân đến, thu về, quy luật hằng thường của tạo vật. Phong thái ung
dung tự tại của Tuệ Trung không khác gì với Lão - Trang, mặc nhiên trước
kiến tạo tự nhiên, không buồn, không vui trước vạn vật thay đổi. Bỏ vọng tâm,
giữ chân tính. Còn giữ vọng tâm, là còn vướng vào những giả danh, vướng
vào tà kiến, vọng tâm mất, tâm không hiện hữu, như nhiên hằng thường, Niết
bàn thực lộ. Để đạt đến cảnh giới Tâm không con người vô cầu vô trụ, trong
kinh Kim Cương có nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Phải chăng kỳ tâm
41
ấy chính là tâm không, vô sở trụ, mọi thứ nó đều do duyên khởi mà thành,
không truy cầu những huyễn hoặc hoài nghi. Còn hoài nghi còn lâm vào
những quan niệm về nhị kiến trước hiện tượng sự vật, bỏ nhị kiến, quay về
với bản tâm vô lượng lúc đó tâm ta tức tâm Phật, còn cần tìm Phật ở đâu xa.
Thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ thể hiện khúc triết, triết thuyết của nhà Phật.
Tâm vương [12] Dịch:
Tâm vương vô tướng diệc vô hình Tâm vương không tướng cũng không hình
Nhãn tự ly châu dã diện mục Mắt tợ ly châu chẳng phân minh
Dục thức giá ban chân diện mục Muốn biết tâm vương chân diện mục
Ha ha nhật ngọ đả tam canh Ha ha trưa nắng điểm canh ba
Tâm vương là chủ đạo về tinh thần, chủ đạo lục thức vô hình vô tướng,
muốn truy tìm tâm vương tức là tâm Như Lai, há chẳng phải giữa trưa mà
điểm canh ba. Bài thơ Tâm vương, là lời tự nhắc của Tuệ Trung Thượng sĩ về
vấn đê truy tìm Tâm Phật, tìm tâm Phật là điều huyễn hoặc không thể tìm
được, không biết rằng tâm vương, tâm Phật kia lại hiển nhiên ngay trước mắt.
2.2.1.2. Phạm trù chân như
“Một khái niệm quan trọng của Ðại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đối
cuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính bất động, thường hằng, nằm
ngoài mọi lí luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới
hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ,
vượt ra khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và
chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân” (Từ
điển đạo uyển) [36].
Nói đến phạm trù chân như trong Phật giáo thì phải dùng muôn nghìn chữ
cũng không thể diễn tả đủ đầy rành rọt được, vốn dĩ phàm những từ ngữ về
42
Thiền tông nó thường chứa đựng sự thực chứng riêng của mỗi người, có giảng
giải cặn kẽ cũng chỉ như gió thoảng qua, không tìm được một đích chung. Và
như thế, trong thơ văn Tuệ Trung Thượng sĩ có nói tới chân như, là đang nói
về bản thể của hiện thực, bản chân của vấn đề qua mỗi bài thơ, là sắc không,
sinh tử, là nhân duyên, nghiệp báo, là những vấn đề rất đỗi thường ngày, ăn
ngủ, đi lại, thời tiết gió mưa, tất cả nó đều có thuộc tính chân như. Chân như,
hay sự tuyệt đối, tuyệt đối trong thế không có thực không có hư, không có sắc
không có không, thân tâm đều ở trạng thái nhất thể, tự nhận chân được bản
thể đó là chân như, tự nhận thức được sự hằng thường của tự nhiên đó là chân
như. Nếu diễn giải lý lẽ chân như của đạo Phật để ai đó đều thấu hiểu thì
không còn thế giới thế tục này nữa, đâu đâu cũng là cảnh giới Niết bàn. Tuy
nhiên trong những vần thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ có nhắc tới phạm trù
chân như, như một trải nghiệm của bản thân đã kinh qua muôn vạn hình của
tạo hóa, tác giả khắc lên ngôn từ gợi mở về cảnh giới chân như, người đọc
qua đó mỗi người liễu ngộ ở những tầng bậc khác nhau, thu nhận được tinh
túy của thi nhân.
Sinh tử do lai bãi vấn trình Dịch: Sinh tử từ đâu chớ hỏi mà
Nhân duyên thời tiế tự nhiên thành Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành
Sơn vân dã hữu xuất sơn thế Mây núi chực chờ bay khỏi núi
Giản thủy chung vô đầu giản thanh. Nước khe rồi cũng chảy vào khe
(An định thời tiết)
Trong phần Đối cơ của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục có chép:
“Tiến vấn: - Như hà thị sanh tử nghiệp?
Sư vân: - Thu sương trích trích lô hoa ngạn?
Dạ tuyết phân phân nguyệt sắc thiên
43
Dịch:
Lại hỏi: - Thế nào là nghiệp sinh tử ?
Sương thu lấm tấm bờ hoa sậy
Tuyết đêm rơi rắc trời màu trăng”
Nội dung của bài thơ “An định thời tiết” và trong phần Đối cơ Tuệ Trung
Thượng sĩ muốn nói về chuyện sinh tử. Sinh tử cũng là giả danh, nếu cho là
có sinh ắt sẽ có tử, tuy nhiên sinh tử do nhân duyên hợp thành, nhân duyên
hết sinh tử tan, nhân duyên đến sinh tử tụ, vậy sinh tử cũng không có không
mất, không có cái gọi là khái niệm về sinh, không có cái gọi là khái niệm về
tử, mà sinh tử được gọi tên là thế, còn bản nguyên của nó là sự hợp thành của
các duyên khởi, nhân duyên là tự nhiên. Mây bay trên đỉnh núi, nước vẫn
chảy vào khe. Đó là quy luật tự nhiên như nhiên, những sự vật hiện tượng
nhìn nhận chúng trong cội nguồn bản nguyên đó là chân như. Chân như là
nhìn sự vật hiện tượng như nó vốn có, không nhìn nó trong mối quan hệ biến
đổi, sự biến đổi đó cũng là do tâm vọng động sinh ra, khi tâm như rồi, cảnh
giới chân như hiện lên. Tuệ Trung Thượng sĩ nhắc tới một quy luật tự nhiên,
hằng thường. Trong bài thơ “An định thời tiết”, khi nói tới sinh tử người nghe
như đang thấy sự kiến giải thấu tình đạt lý của người đã trải nghiệm, một
người đã kinh qua những trăn trở về sinh tử. Với ngôn từ bình dị, đời thường
không đi lý giải cụ thể về vấn đề đặt ra mà dùng hình tượng mây núi, nước
chảy trong khe, những cặp hình tượng sóng đôi tạo nên liên tưởng về sự tuần
hoàn tự nhiên của con người của cuộc đời. Nhan đề là “An định thời tiết”
song câu mở đâu bàn về chuyện sinh tử. Cái khôn khéo của thi nhân là vừa
gợi mở những ý thơ mang tính Thiền ý, vừa đưa những ngụ ý sâu xa của mình
qua những cặp hình tượng. Qua những hình tượng đó, ngụ ý của nhà thơ hiển
hiện. Cũng trả lời về chuyện sinh tử song trong phần Đối cơ dường như nó
44
mất đi những nốt nhạc, những hình tượng so sánh hoặc ẩn dụ. Cũng là Thiền
nhưng Thiền trong văn chương của Tuệ Trung Thượng sĩ có những nhậm vần
không khô khan lý tính như khi tác giả trả lời người hỏi. Tuệ Trung Thượng sĩ
cũng không trả lời trực tiếp về chuyện sinh tử như đã trích trong phần Đối cơ.
Một cách trả lời buộc người hỏi phải vận dụng hết tư duy, gợi mở hết khả
năng tự khiến ngộ cho riêng mình. Tuệ Trung Thượng sĩ đứng trên phương
diện đạo mà trả lời, còn qua những vần thơ Thiền tác giả là một thi nhân, hay
đó chính là Thiền gia có tâm hồn thi nhân. Ở phương diện nào đó ý nghĩa của
câu thơ thuận theo tự nhiên mà Tuệ Trung Thượng sĩ muốn nói cũng giống
như “thuận thiên lập mệnh” của Khổng Tử. Tuệ Trung Thượng sĩ tu Thiền
nhưng không xuất gia, cầm binh đánh giặc bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Trong con người hành đạo đó có dáng dấp của bậc quân tử đại trượng phu,
cũng có thư thái an nhàn của Lão - Trang trong phong thái thích tiêu dao, vui
thú giang hồ. Ở đây Thiền là tư tưởng chủ đạo của Tuệ Trung Thượng sĩ. Tuệ
Trung Thượng sĩ điển hình của mẫu người quân trung thời Trần, khi Phật giáo
được Trần Nhân Tông khơi dựng tôn xưng thành quốc giáo, Tuệ Trung
Thượng sĩ là lá cờ tiên phong của Thiền gia tại thế có tấm lòng trung quân ái
quốc.
Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông Dịch: Từ Không hóa Có, Có Không
Hữu hữu vô vô tất cánh đồng không
Phiền não Bồ đê nguyên bất nhị Có Có Không Không rốt lại đồng
Chân như vọng niệm tổng giai không Phiền não bồ đề nguyên chỉ một
Thân như huyễn cảnh nghiệp như ảnh Chân như, vọng niệm thảy đều không
Tâm nhược thanh phong, tính nhược Thân như cảnh giả, nghiệp như ảnh
bồng Tâm tợ thanh phong, tánh tợ bồng
Hưu vấn tử sinh, ma dữ Phật Thôi hỏi tử sinh, ma với Phật
Chúng tinh củng bắc, thủy triều đông Mọi sao chầu bắc, nước xuôi đông
45
(Vạn sự quy như)
Bài thơ “Vạn sự quy như”, Tuệ Trung Thượng sĩ khẳng định sự hiện tiền
của bản thể, của thực tại và hư vô, những tên gọi những khái niệm là thật
tướng mà cũng không là thật tướng. “Có Có Không Không rốt lại đồng”.
Trong bài thơ này thì dấu ấn tư tưởng Lão Trang thể hiện sự hòa đồng tam
giáo trong tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ. Lão Tử trong hệ tư tưởng của
mình đề cập tới vô vi, vô vi của Lão Tử xuất phát tử điểm “Thiên địa vạn vật
sinh ư hữu, hữu sinh ư vô” (Vạn vật trong trời đất sinh ra từ “có”, “có” sinh
ra từ “Không”. Với Lão Tử vô thường không trái nghĩa với “hữu”) [59,
tr.157]. Chính vì thế Tuệ Trung viết “Tòng vô hiện hữu hữu vô thông”. Ở đây
bắt gặp sự đồng điệu gần gũi giữ tư tưởng Thiền tông và tư tưởng Lão Trang.
Triết học phương Đông coi vấn đề “danh” là một trong những phạm trù quan
niệm mà hầu hết các nhà tư tưởng phương đông như Trang tử, Dương Tử,
Lão Tử, hay Khổng tử, đều nhắc tới. “Danh” ở đây là cặp phạm trù sóng đôi
với “thực”. Trong thế giới thực tại hằng thường này, mọi thứ tồn tại chân
thực. Tồn tại hay không tồn tại cuối cùng cũng vẫn là bản chất của sự vật, nói
nó có là nó có, nói nó không là nó không. Chịu ảnh hưởng “danh học” của
tưởng Lão Tử, Tuệ Trung quan niệm mọi cái trong thế giới hiện tượng đều do
con người “gọi tên mà có”. Vậy thì những khái niệm và mệnh đề chỉ là tên
gọi, sự vật đó không bị những tên gọi ràng buộc, có gọi nó là danh khác nó
vẫn thế, không gọi nó là gì nó vẫn thế. Cái hữu thực đó nằm trong quy luật
hằng thường của tạo hóa. Vạn vật, vạn pháp đều như nhau. Thiền sư Hy
Thiên nói: “Tâm ấy tức Phật. Tâm, Phật và chúng sinh, phiền não và Bồ đề,
tuy tên gọi khác nhau mà thể tánh là một (Tức tâm tức Phật. Tâm, Phật,
chúng sinh, Bồ đề, phiền não, danh dị thể nhất) [12]. “Phiền não Bồ đề bất
dị”. Tất cả những tinh thần ngăn trở giác ngộ đều là phiền não. Ngược lại nếu
gạt bỏ hết phiền não tức là Bồ đề. Bởi con người vốn thể tính tham sân si,
46
những thể tính đó là phiền não, nhưng trong khi chế ngự được tham sân si thì
lại là Bồ đề. Cũng chỉ là cách gọi tên khác nhau khi tâm ta không chế ngự
được thể tính. Phiền não và Bồ đề đều không thể rời nhau. Phiền não là tính
phân biệt với Bồ đề. Bởi thế, phiền não cũng chính là Bồ đề, không gạt bỏ thể
tính nào, mà chỉ là nhận chân ra được tính thật của phiền não lúc đó cũng
chính là Bồ đề. “Chân như vọng niệm tổng giai không” tức là chân như vọng
niệm đều là một. Trong thế giới vô minh này, con người luôn ngộ nhận mình
làm chủ được hoàn cảnh sự vật, bản thân mình sẽ thay đổi, biến đổi nhiều
điều xung quanh. Tuy nhiên, quan niệm thập nhị nhân duyên của Phật giáo
cho rằng, vạn vật sinh ra đều do duyên khởi mà hợp thành, nhìn nhận được
bản nguyên của vấn đề, không khởi sinh vọng niệm là xuyên thấu vào tấm
màn u minh lúc đó chân như hiện tiền. Bởi thế Tuệ Trung Thượng sĩ khuyên
“thôi hỏi sinh tử, ma với Phật”. Phàm chuyện sinh tử thôi không đi tìm lời
giải đáp, không thắc mắc “ma tâm” với Phật làm gì, cuộc sống nó vốn là quy
luật tự nhiên, sinh sống theo sự hiện tiền của quy luật là mọi thứ yên hòa.
Khái niệm “Ma” là khái niệm chung, của những vọng niệm sinh ra. Không
giống khái niệm “ma” trong cách hiểu của dân gian. “Ma” mà dân gian vẫn
hiểu là phần linh hồn của người đã khuất. Trong Phật giáo, tất cả những hoại
huyền hoặc không chân thật, biến trá xảo mị như Ma vương (kẻ luôn chống
đối lại Đức Phật) là ma. Ma này làm người ta mê muội, cản trở con người đến
gần với đạo pháp. Tuệ Trung Thượng sĩ khuyên không nên vướng víu vào
những khái niệm có không, ma Phật, sinh tử niết bàn, phiền não bồ đề.
Tuệ Trung Thượng sĩ được Thiền sư Tiêu Dao trao truyền tâm ấn, đã ngày
đêm học Thiền chứng thực Thiền trong dòng thế tục. Tuy ngài không xuất
gia, không trì giới, nhưng Thượng sĩ đã đạt được thành tựu của kẻ học đạo.
Tuệ Trung Thượng sĩ đã thấu triệt tông chỉ, yếu chỉ của Thiền tông. Ông nhìn
mọi việc trong cuộc sống dưới con mắt Thiền nhân. Bởi thế, chuyện sinh tử,
47
Niết bàn, giác ngộ, giải thoát đối với ông đều trở nên “dĩ nhàn”. Ông chủ
trương “đập phá” khái niệm, trừ bỏ quan niệm nhị nguyên. Đối với người tu
Thiền, cần sống tùy duyên, vui cái vui của thế sự, và sống đúng với dòng chảy
của tự nhiên, tâm như nhiên như thế là giải thoát là giác ngộ.
Sinh tử nhàn nhi dĩ
Tâm chi sinh hề, sinh tử sinh Dịch: Tâm vọng sinh thì sinh tử sinh
Tâm chi diệt, hề sinh tử diệt Tâm tắt diệt thì sinh tử diệt
Sinh tử nguyên lai tự tính không Sinh tử xưa nay vốn tính không
Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt… Thân hư ảo này rồi cũng diệt…
Sinh tự vọng sanh tử vọng tử Sinh vốn sinh giả chết chết giả
Tứ đại vốn không từ đâu nổi [12] Tứ đại bản không tòng hà khỉ
Đối với Tuệ Trung Thượng sĩ giải thoát chứng ngộ hay sinh tử Niết bàn cũng chỉ là danh xưng9, mà danh xưng vốn không thật, chỉ có bản lai diện
mục là thật. Nội tại của vấn đề nằm trong cái vỏ của danh xưng. “Sinh tử
nguyên lai tự tính không”. Tính không ở đây không phải là sự trống rỗng mà
không có sinh không có tử, cái gọi là sinh tử chỉ là giả danh mà thôi. Nếu có
sinh ắt có tử, nhưng nằm ngoài quy luật sinh tử thì chuyện sinh tử không còn
nghĩa lý gì. Phàm những bậc tu hành đắc đạo mới vượt ra khỏi cõi của sinh tử,
nên chuyện sinh tử lúc đó trở lại là không.
Thanh văn tọa Thiền ngã bất tọa
Bồ tát thuyết pháp ngã bất thuyết
9 Trích dẫn ngữ lục thuyết minh: có người hỏi chân lý chí cực là gì? Thiền sư Vân Cư đáp: “Ta chỉ lấy những ý chủ yếu mà nói thôi. Các ngươi nên tâm niệm trong bản tính của Thanh tịnh không có phàm nhân và thánh nhân, không có kẻ liễu ngỗ sáng suốt và kẻ không minh liễu. Phàm nhân và thánh nhân cả hai đều là tên gọi. Nếu căn cứ vào tên gọi mà lý giải thì sẽ đọa sinh tử luân hồi. Nếu biết nhận định rõ tất cả giả danh đều không thật mới thấy không có sự vật nào có thể sử dụng danh xưng được”
48
(Sinh tử nhàn nhi dĩ) [12]
Tuệ Trung Thượng sĩ không bám víu vào hình thức, bám víu vào khái
niệm ở chỗ nghi thức đối với ông chỉ mang tính hình thức. Thế giới của Tuệ
Trung Thượng sĩ là thế giới hiện hữu những dung dị, trong sự giản dị đời
thường đó ông tự mình tu tập và chứng quả. Không cần phải ngồi Thiền, hay
nói pháp mới là tu và đối với sự tu hành của Tuệ Trung thật khác người. Vốn
dĩ con người bình thường luôn coi sinh tử đại sự, cả cuộc đời cũng chỉ tiềm
kiếm và trả lời câu hỏi sinh tử. Ngay như Trần Nhân Tông trước khi nhập
Niết bàn cũng nói lại với đệ tử của mình (các ngươi nên chuyên tâm tìm hiểu
sinh tử). Vậy sao lại nói “sinh tử nhàn nhi dĩ” như Tuệ Trung Thượng sĩ, bởi
các bậc đại trí họ xem sinh tử là lẽ thường. Thượng sĩ hành trạng “Sống chết
là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rồi tâm trí của ta”, hay
bài kệ của Trần Nhân Tông đọc cho Pháp Loa nghe trước khi tịch diệt: Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt”10. Vấn đề sinh tử là vấn đề mà
người mới học đạo luôn truy tầm, nhưng các bậc đại ngộ thì sinh với tử như
có có không không, mọi thứ đều là thực mà cũng không phải là thực. Quy luật
sinh tử, là quy luật hằng thường tự nhiên của con người, cũng như hoa tàn rồi
hoa nở, một năm có bốn mùa tuần hoàn. Không có gì có thể thay đổi quy luật
đó, nhưng nhìn nhận và cảm nhận quy luật đó thì mỗi bậc trí giả có quan niệm
riêng, song các Thiền gia đều không màng gì đến chuyện sinh tử. Hữu sinh
hữu tử, đó là bản chất của sự việc trong mối tương quan với tồn tại. Đời sống
thực tại là có khởi nguồn có kết thúc, có đến có đi, mọi thứ chảy trôi theo
đúng quy luật. Trong thế giới Thiền thi mọi thứ tồn tại ở chứng ngộ, nên
tưởng là mâu thuẫn nhưng không phải mâu thuẫn. Tưởng là các vị đôi khi nói
ngược nhưng không phải nói ngược. Thiền thi, trong thế giới thơ ca ấy là sự
thực chứng từ bản tâm. Trong thế giới đó, Thiền gia đạt tới sự chứng ngộ của
10 Trần Nhân Tông, Kệ tịch diệt, Thơ văn Lý - Trần, tập 2
49
bản tâm, nên mỗi lời nói ra, mỗi khi xúc cảm của bản thân tuôn trào cũng
không phải xúc cảm bình thường đó là thứ cảm xúc của giác ngộ, của trí tuệ
bát nhã ba la mật.
Ngu nhân điên đảo bố sinh tử Dịch: Kẻ ngu bối rối sợ sinh tử
Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ Người trí thoáng đạt coi thường thôi!
Bàn chuyện sinh tử trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ người đọc
dường như đang trải nghiệm với những thực chứng của nhà thơ Thiền gia. Ở
đây không thể cảm nhận bằng sự phân tích ngôn từ, hay lo gic học. Thứ lo gic
của thơ Thiền, là một tư duy phi logic. Nó là logic của giác ngộ, phải thoát bỏ
cái logic của ngôn từ, của hằng số để đón nhận một thứ logic giác ngộ. Không
thể học, không thể tự tìm tòi mà phải thực chứng, thực chứng được bản tâm vi
diệu của mình lúc đó mới cảm nhận được. Quy luật thơ Thiền không thể diễn
giải được bằng ngôn ngữ mà chỉ cảm nhận được bằng trí tuệ vô ngôn. Nói là
giả sinh giả tử, nhưng không thể nói trong hoàn cảnh thực tại, mà giả sinh giả
tử này trong cảnh giới đã giải thoát thực tại. Giải thoát thực tại tức là không bị
bám víu vào thực tại, con người đạt trạng thái vô định, nhưng sự vô định này
không phải không cảm nhận được điều gì mà là biết rõ mọi điều. Vấn đề giải
thoát được các Thiền gia truyền tâm cho các đệ tử. Qua những thi phẩm tuyệt
bích, chỉ có chứng ngộ, hay những lúc ngôn từ va đập vào não, hốt nhiên
chứng ngộ lúc đó mới thấy được những lời nói của Thiền gia thấu đáo. Quy
luật sinh tồn là hữu sinh hữu diệt, nhưng trong cảnh giới giải thoát thì không
sinh không diệt. Đã bước chân thoát ra khỏi bến mê rồi, vén được tấm màn u
minh che tối tâm tính rồi, thì mọi vấn đề trở nên tường tận, lúc đó sinh không
sinh, diệt không diệt. Phiền não là bồ đề. Cảnh giới giác ngộ, hay thế giới
Niết bàn ấy là thế giới vô định của bản tâm, là cảnh giới chân như tuyệt bích.
Tuy nhiên bàn về Niết bàn, thì Niết bàn là ở đâu. Ở Tây Phương cực lạc hay
hiện tiền trước mặt. Đối với Tuệ Trung Thượng sĩ thì Niết Bàn chính là thực
50
tại. Quan niệm của Tuệ Trung Thượng sĩ là sống đời sống Thiền bình dị, “đi
cũng Thiền, ngồi cũng Thiền. Trong lò lửa hồng một đóa sen”. Tất cả những
động tác nhỏ nhất cũng là Thiền rồi. Không phải tọa Thiền và thuyết pháp
mới là học Thiền. Và thế giới niết bàn, sự chứng ngộ hay cảnh giới giải thoát
của Tuệ Trung Thượng sĩ là ở chỗ đó.
Tằng vi vật dục dịch lao khu Dịch: Từng do vật dục khiến lao thân
Bãi lạc trần hiêu thế ngoại du Gạt bỏ trần duyên khiến nhẹ lâng
Tát thủ na biên siêu Phật, Tổ Buông lỏng tay ra siêu Phật, Tổ
Nhất hồi đẩu tẩu, nhất hồi hưu Mỗi lần phấn chấn lại lần khân
(Xuất trần)
Niết bàn sanh tử mạn la lung Dịch: Niết bàn sanh tử chẳng buộc ràng
Phiền não bồ đề nhàn đối địch Phiền não bồ đề không đối nghịch
(Phật tâm ca)
Đáo gia tu tri bãi vấn trình Dịch: Đến nhà phải biết thôi hỏi đường
Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ Thấy trăng tìm ngón chi cho khổ
(Sinh tử nhàn nhi dĩ)
2.2.2. Tu dưỡng luận hay chính là tư tưởng “hòa quang đồng trần” của
Tuệ Trung Thượng sĩ
“Hòa quang đồng trần” là danh từ của Lão Trang mà các Phật tử đời sau
diễn tả thái độ dấn thân và hòa mình vào cuộc đời của các vị bồ tát. Tuệ
Trung Thượng sĩ, ngọn đuốc sáng của Thiền tông triều Trần, người được vua
Trần Nhân Tông tôn xưng là bậc thầy, Trần Thái Tông tôn sưng là sư huynh
có thái độ dấn thân vào cuộc đời như những vị bồ tát xuất gia. Cuộc đời và
hành trạng của Tuệ Trung là tấm gương sáng, bất diệt cho mọi thế hệ soi theo.
Tuệ Trung Thượng sĩ là đệ tử của Thiền Sư Tiêu Dao, Thiền sư Tiêu Dao đắc
pháp với Thiền sư cư sĩ nổi tiếng của thành Thăng Long đó là Ứng Thuận.
51
Trải qua sự truyền thừa của dòng “quán bích”, Tuệ Trung Thượng sĩ cũng
đứng trong hàng vị những cư sĩ tại gia đắc pháp và có tâm bồ tát, một trí tuệ
siêu việt và một lối sống Thiền mẫu mực.
Tuệ Trung Thượng sĩ người có ảnh hưởng vô cùng lớn, người khai mở
tâm trí cho Đại Đầu Đà Hương Vân Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông -
Tổ sư của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, người được tôn xưng là Phật Hoàng.
Trần Nhân Tông trong Thượng sĩ hành trạng đã không ngớt lời tôn tụng Tuệ
Trung “Rừng Thiền ba phía. Biển pháp một người”. Chính những tư tưởng
Thiền Tông của Phật Hoàng được Tuệ Trung trao truyền cũng như đời sống
thực tế tu tập cũng như hành đạo của vị vua anh minh bậc nhất của lịch sử dân
tộc ta mang màu sắc thế tục dung dị không khác Tuệ Trung Thượng sĩ.
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Của báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền”.
“Đói thì ăn, mệt ngủ liền”. Đó là thế giới Niết bàn thực tại. Sống theo đời
sống thế tục, theo nhu cầu của bản thân, nhu cầu thiết yếu là phương trâm của
Trúc Lâm Yên Tử nói chung và của Tuệ Trung Thượng sĩ nói riêng. Đó là sự
vận dụng tinh tế của đạo Phật với đời sống. Không phải tu Thiền là giữ
nghiêm những giới định, tu tập theo sự khổ hạnh gò ép thân tâm. Sự tùy
duyên của Tuệ Trung ở điểm nào đó gần với tư tưởng của Lão Trang. Lão
Trang chủ trương sống thuận với tự nhiên, không đối nghịch với hoàn cảnh,
Tuệ Trung Thượng sĩ cũng thế “Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y”
Vạn vật bất năng dung [12]
Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y Dịch: Nước khỏa thân, vui cứ thoát y
Lễ phi vong giả, tục tùy nghi Phải đâu bỏ lễ chỉ tùy nghi
52
Kim xuyên ngốc ẩy vi huyền dặc Trâm vàng mụ hói treo làm móc
Minh kính manh nhân tác cái chi Gương báu ông mù lấy đậy ly
Ngọc tháo nhập cầm ngưu bất thính Khúc ngọc phổ đàn trâu chẳng quản
Hoa trang anh lạc tượng hà tri Vòng hoa châu báu tượng màng chi
Hu ta nhất khúc huyền trung diệu Ôi chao một khúc huyền trung diệu
Hiệp bả hoàng kim chú Tử Kỳ Lấy cả vàng thoi đúc Tử Kỳ
Bài thơ Vạn vật bất năng dung hàm chứa những suy nghĩ về lối sống tùy
duyên tùy tục của Tuệ Trung, đó là lối sống thuận theo lẽ thường, thuận theo
tự nhiên. Tuệ Trung Thượng sĩ hiểu rõ quy luật, biến đổi và sống khác với
quy luật chẳng khác nào mụ hói có trâm vàng, ông mùa có gương báu. “Đến
nước cởi trần thôi mặc áo. Phải đâu bỏ lễ chỉ tùy nghi”. Sự tùy nghi đó thể
hiện rõ trong cung cách sống và sự hành đạo của ngài. Sống đời sống thế tục,
trong mọi hoàn cảnh, giữ được tâm chân như hẳn nhiên phải là một bậc đại
trí. Sự xáo động của cuộc sống hằng ngày thường khó có thể giúp một người
tu hành chuyên tâm. Nhưng ngài Thượng sĩ không theo sự tu tập cứng nhắc
và mô phạm “Thanh văn ngồi Thiền ngã bất tọa. Bồ tát thuyết pháp ngã bất
thuyết”. Không tuân theo giới luật tu tập, không tuân theo những quy tắc
trong kinh điển, nhưng Tuệ Trung lại hiểu rõ tông chỉ của Thiền môn. Ngài
hiểu tận tường và sâu sắc triết lý sinh tử, giải thoát giác ngộ. Vì hiểu được cái
khó của vạn người còn mắc phải nên ngài sống trong lòng thế tục, nương theo
sự thay đổi của cục diện mà sống. Là một bậc quân thần, là một nho sinh của
cửa Khổng, Tuệ Trung sống đúng bổn phận và trách nhiệm của người quân
tử. Bên cạnh đó, ngài sớm tìm ra lý tưởng soi sáng cho cuộc đời và cho nhân
quần phía sau, là sự giải thoát tâm vọng động. Sự tĩnh tâm, và an nhiên trong
chốn ta bà.
Bài thơ còn nói tới sự phù hợp của vạn vật, cũng giống như cách hiểu
Thiền, hay thơ Thiền. Thiền học mỗi người tùy từng căn cơ mà liễu đạo khác
53
nhau. Không có sự quân bình trong giáo lý nhà Phật. Căn cơ đến đâu thì nhận
đến đó, cùng một bài kệ Thiền gia đọc ra nhưng chúng đệ tử, mỗi người nhận
được những kết quả thấu hiểu không giống nhau. Bởi thế trong hàng ngàn vạn
đệ tử ngồi nghe Phật tổ thuyết pháp, ngài cầm trên tay cành Sen mà chỉ có
Tôn giả Ca Diếp là hiểu thấu dụng ý của Phật Thích Ca. Sự vô ngôn của đạo
Phật là ở đó, “dĩ tâm truyền tâm”. Không cần giảng giải, chỉ nêu ra sự vật, và
tùy duyên đệ tử tiếp nhận đến đâu thì thọ hưởng đến đó. Chân lý sâu xa của
đạo Phật cũng được Tuệ Trung Thượng sĩ dùng những hình ảnh ẩn dụ để nói
lên về sự phù hợp trong cuộc sống. Thiếu nữ rất cần kim vàng cài tóc, song
mụ hói thì chẳng màng, người sáng nhìn gương soi, còn người mù thì không
cầu. Tuệ Trung Thượng sĩ muốn nói, trong cuộc sống đối với người này thì
quan trọng nhưng cùng sự việc đó người khác lại bỏ qua. Vạn vật cần có sự
tùy duyên tương thích, nếu gò ép mà đón nhận hẳn không mang lại kết quả
viên mãn. Đạo hạnh cũng thế, không cầu mà được, phải tùy thuộc sự tu tập
rèn luyện của mỗi con người.
Trong một lần Tuệ Trung Thượng sĩ dự tiệc cùng Hoàng thái hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm, trên bàn có đồ chay và mặn, Tuệ Trung chọn thức ăn
không phân biệt chay mặn. Thái hậu có hỏi “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì
thành Phật sao được”. Thượng sĩ cười đáp “Phật là Phật. Anh là anh. Anh
chẳng cần làm Phật. Phật chẳng cần làm anh. Em chẳng nghe các bậc cổ đức
có nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao” [12]. Tu hành mà
ăn thịt hẳn chỉ có ở Thượng sĩ. Ông đề cao tâm vạn Phật- tâm Phật- tâm Ta.
Ăn thịt hay ăn cỏ đó chẳng qua là quy luật của tự nhiên, của sự sinh tồn, bậc
đạt đạo hiểu được quy luật tự nhiên đó khác với việc sống phá giới sát sanh,
bởi giáo luật đề ra cho con người đang trên đường đạt đến chứng ngộ, nếu
không có khuôn khổ, phương tiện sự tu tập dễ bị phá vỡ, nhưng đối với bậc
54
đại trí thấu hiểu thâm sâu thì ăn gì còn quan trọng nữa không.
Thiền sư Tuệ Nghiêm cho rằng “Thượng sĩ đã hòa lẫn ánh sáng của mình
trong cuộc đời bụi bặm, trộn lẫn cả trắng với đen”. Vua Trần Thánh Tông coi
Thượng sĩ là sư huynh trên phương diện Đạo, ban tặng danh hiệu Thượng sĩ
một danh hiệu tương đương với danh hiệu Bồ Tát, vì cả cuộc đời ông dấn
thân vì nhân quần. Vốn là người hâm mộ cửa Không từ nhỏ, song đất nước
lâm nguy Tuệ Trung Thượng sĩ cũng lên đường dẹp giặc trong kháng chiến
chống Nguyên Mông. Thật khó phân biệt cái hạnh từ bi của Tuệ Trung với
quần sinh hay cái dũng của người quân tử. Thấy việc nghĩa phải làm hay sự
chống lưng đấu cật với dân tộc. “Xuất trần”, “thoát thế” nhưng ông bảo “đây
không phải chuyện chim hạc lánh đàn gà”. Thiền học của Tuệ Trung Thượng
sĩ là Thiền học Đại Việt trong thế “trung lưu chỉ trụ”, giữa ngã ba đường
“chính trị - quân sự - văn hóa”. Sau khi đất nước thanh bình, ông lui về lập
“Dưỡng chân trang” để làm nơi nuôi dưỡng chân tính, giác ngộ cho mình và
cho đời. Vua Trần Nhân Tông đã viết “Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa
cùng ánh sáng chứ không trái hẳn với người đời. Nhờ đó mà người có thể làm
tiếp nối được hạt giống chánh pháp và dìu dắt được những kẻ cơ sơ” [46,
tr.172].
Tiểu kết:
Tuệ Trung Thượng sĩ tu Thiền theo cách riêng của mình, ông trở thành
Thiền gia không xuất gia và được Hoàng đế Trần Thái Tông tôn xưng làm
Thượng sĩ. Qua những sáng tác văn chương của Tuệ Trung chứa đựng những
triết lý và những phạm trù Phật giáo sâu sắc. Chất Thiền trong thơ của ông
khác với Thiền trong thể loại khác. Đó là sự kết hợp khéo léo giữa thẩm mỹ
và tư tưởng. Mặc dù trong mỗi bài thơ của ông đều nói về những giáo lý “sắc
không”, “sinh tử”, “niết bàn”, “chân như” song những triết lý đó được ông
đưa vào những áng thơ một cách tinh tế. Người đọc dễ nhận ra được tư tưởng
55
ở trong đó mà không cảm thấy bị trở ngại như khi đọc các công án Thiền hay
tìm hiểu phần Đối Cơ, Tụng cổ trong Thượng sĩ ngữ lục. Thiền trong thi của
Tuệ Trung Thượng sĩ là những lý giải của bản thể cũng như thể hiện rõ được
yếu chỉ Thiền tông của ông “Trực chỉ nhân tâm”.
Nghiên cứu Thiền trong văn chương của Tuệ Trung Thượng sĩ thấy rõ
hơn một nhân cách đa diện, một tài năng thơ văn sáng chói của bầu trời thi ca
Lý - Trần. Những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ thể hiện thấu
56
triết tinh thần Thiền nhập thế của Thiền gia.
CHƢƠNG 3: VĂN CHƢƠNG CHUYỂN TẢI THIỀN CỦA TUỆ
TRUNG THƢỢNG SĨ
3.1. Tƣ duy Thiền và tƣ duy thơ – tính phi lô gic của Thiền và tƣ duy trực
ngộ phi lô gic của thơ
Nói về Thiền như đã trình bày ở phần khái niệm, có rất nhiều cách hiểu.
Trong thế giới của Thiền, nơi khóa nhập và không tồn tại bất cứ khái niệm
nào khiến cho kẻ mới học Thiền luôn cảm thấy là điều bí hiểm. Người hiểu
Thiền cho đó là sự hiển nhiên, người mới biết Thiền luôn kiếm tìm một lời
giải thích và càng đi vào khái niệm tìm kiếm càng bị rơi vào vòng luẩn quẩn
và khó luận bàn. Thiền mang đến cho người học sự tĩnh lặng của bản tâm
cũng như sự bừng sáng đốn ngộ. Tư duy Thiền ở một khía cạnh nào đó có sự
tương đồng với tư duy thơ. Bởi rằng thế giới của thơ ca là thế giới ở đó người
ta không thể tìm thấy sự lô gic nào đó của trí tuệ, không thể kiếm tìm sự rạch
ròi trong mỗi ý thơ hay mỗi vần thơ. Đó là cả một sự trực ngộ hay trực giác
khi cảm quan về cảnh tượng mà hốt nhiên nhà thơ đón nhận được. Như
Nghiêm Vũ đã từng so sánh sự diệu ngộ trong thơ với đốn ngộ của Thiền có
sự tương đồng nhưng không phải là sự đồng nhất: “Đạo Thiền ở chỗ diệu ngộ,
đạo thơ cũng ở chỗ diệu ngộ. Học vấn của Mạnh Hạo Nhiên còn cách xa Hàn
Dũ, nhưng thơ thì trên tài Hàn Dũ, chẳng qua là vì có diệu ngộ. Chỉ có diệu
ngộ mới làm nên bản sắc và đáng lưu hành… Thơ có tài riêng không liên
quan đến sách, có thú riêng không liên quan đến lý. Người xưa đâu phải
không đọc nhiều sách, không thấu lý lẽ, nhưng chỉ ai không sa vào con đường
11 Trung quốc lịch đại văn luận, Quách Thiệu Ngu chủ biên, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 2001, tập II, tr. 424
57
lý lẽ, không vướng vào mạng lưới ngôn từ, thì mới trên tài. Bởi vì thơ là để ngâm vịnh tính tình..”11. Sự đốn ngộ của Thiền là bừng sáng của bản tâm,
không theo một quy luật nào của trực giác. Giống như lời phát biểu của nhà
văn Victo Huygô “phương thức vươn lên để hiểu được thượng đế là hãy cúi
xuống để nhìn sâu vào nội tâm mình”. Thiền tông cũng thế, muốn đốn ngộ
được không phải tìm đâu bên ngoài mà ngay chính nơi quay về với bản tâm vi
diệu, nhìn thấu nội tâm của mình thì mọi trí giác lúc đó được khai mở, Thiền
gọi đó là đốn Ngộ. Ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Đạo là gì”, ngài
Nam Tuyền trả lời: “Tâm bình thường là đạo”. Câu trả lời bao hàm đầy đủ ý
nghĩa khái quát của Thiền tông khi chủ trương “tức Tâm tức Phật”. Tư duy
Thiền và tư duy thơ là khác nhau. Thơ như Nghiêm Vũ đã nói là “ngâm vính
tính tình”, còn Thiền thì chủ trương “minh tâm kiến tính” (sáng lòng để thấy
được tính Phật), nhưng “vong tình” (quên đi tình cảm của mình). Và mục đích
của Thiền ngộ và thi ngộ cũng khác, ngộ của Thiền là hướng về cõi Niết Bàn,
ngộ của thơ là hướng về thế giới thẩm mỹ. Thơ tuy nói là “ý tại ngôn ngoại”
nhưng vẫn phải dùng ngôn ngữ để diễn tả cảm xúc, diễn tả hình tượng. Còn
Thiền cũng sử dụng ngôn ngữ nhưng bên cạnh đó còn sử dụng hành động, cử
chỉ. Tuy khác nhau như thế nhưng ở Thiền chủ trương không cần tụng niệm
giáo lý nghiền ngẫm kinh kệ, tu hành khổ hạnh mà chỉ cần chân tâm bừng ngộ
là thành Phật, như thế thơ có thể vận dụng tư duy trực ngộ phi lô gic đó để
sáng tác. Đó là sự tương đồng giữa tư duy Thiền và tư duy thơ.
Thẩm mỹ trong văn học nói chung và trong văn học Phật giáo nói riêng,
trước tiên nó đều là những yếu tố mang đến một tác phẩm văn học hoàn chỉnh
trên phương diện hình thức, để truyền tải một nội dung mà tác giả muốn gửi
gắm. Những yếu tố thẩm mỹ trong văn học phải kể đến trên phương diện
ngôn ngữ, đề tài, không gian thời gian, xúc cảm trữ tình. Sự khác biệt trong
thẩm mỹ văn chương Phật giáo cụ thể là thơ Thiền nó không tuân theo quy
luật hay phạm trù cố định. Những yếu tố thẩm mỹ này được chi phối bởi xúc
58
cảm trữ tình đạt đến bậc bát nhã. Nói đến cảm xúc của nhà thơ, không đơn
giản khi chiếu cảm xúc trong thơ Thiền của các Thiền gia với các cảm xúc
của những thi nhân đơn thuần khác. Bởi rằng những cảm xúc trong thi Thiền
nó được phát khởi từ trái tim được soi sáng bởi trí não thức tỉnh. Nó liên quan
đến lý trí, nhưng ở đây không phải thứ lý trí khô cứng mà nó là sự sắp đặt của
dụng tâm, mà cái dụng tâm đó vượt lên trên những xúc cảm đơn thuần.
Những cảm xúc thẩm mỹ trong thơ Thiền được chiếu rọi dưới ánh sáng của trí
huệ bát nhã, một thứ trí huệ không tự học được mà tự đốn ngộ, tự bản tâm
quay trở về tìm thấy sự thanh khiết của ánh sáng tâm hồn. Nó không đơn giản
là những dao cảm đời thường trước tạo vật, tuy những tạo vật được nhắc đến
trong thơ nhưng những cảnh vật đó được tưới nước của từ bi, của đạo hạnh.
Yếu tố thẩm mỹ của thơ Thiền không thể rạch ròi mà phân định, chỉ biết là nó
thuộc về một thứ lý tính của trí tuệ giác ngộ. Gam màu thẩm mỹ trong nghệ
thuật thơ ca đó bao trùm những ngôn ngữ, không gian và thời gian cũng như
nhân vật theo triết lý đạo Phật.
3.2. Thi pháp thơ Tuệ Trung Thƣợng sĩ
3.2.1. Đề tài tôn giáo thể hiện trong thơ
Văn học sinh ra từ cuộc sống và trở lại phục vụ cuộc sống. Khai thác đề
tài trong những sáng tác văn học vô cùng phong phú. Văn nhân là “thư ký
trung thành của thời đại” - Ban zăc. Việc lựa chọn đề tài sáng tác khô"ng phải
là điều khó, tuy nhiên vào những thời điểm khác nhau, nhu cầu thời cuộc khác
nhau thể tài mang những nội dung khác nhau. Nói về đề tài mảng văn học Lý
- Trần, thời kỳ của quân trung ái quốc, chống giặc ngoại xâm bảo vệ biên
cương xây dựng đất nước. Bởi thế đề tài sáng tác văn học giai đoạn này
thường là những tâm tư tình cảm của con người trước vận mệnh Tổ quốc, là
sự khát vọng một đất nước thái bình, dân chúng yên ấm. Hàng loạt những tác
59
phẩm tiêu biểu thời đại này với những đề tài về chí sĩ, về quốc gia dân tộc.
Phải kể đến bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng
Đạo, hay những bài thơ của Trần Quang Khải trước mỗi chiến công và rất
nhiều những sáng tác của các tác gia khác trong giai đoạn này. Tuy nhiên đề
tài đó thuần túy bộc lộc về nỗi niềm, về cảm quan của chủ thể, cá nhân với
những hiện tượng đang diễn ra trước mắt. Những đề tài đó khác với đề tài
được thể hiện trong thơ Thiền nói chung và thơ Tuệ Trung Thượng sĩ nói
riêng. Với hơn bốn mươi bài thơ Thiền, Tuệ Trung Thượng sĩ đề cập tới đề tài
Phật giáo, như sinh tử, niết bàn, giải thoát, nhập thế, xuất thế... Tuy đề tài về
triết lý Phật giáo nhưng mỗi bài thơ mang một âm hưởng, một tư tưởng khác
nhau, không có sự trùng lặp nhàm chán. Với những bài “Trụ trượng tử”,
“Nhập trần”, “Phóng ngưu”, “Thoát cư”, “Thoát thế”… Những bài thơ khi sử
dụng điển tích Phật giáo, khi là sự trải nghiệm của nhà thơ:
Nhật nhật trượng trì tại chưởng trung
Hốt nhiên như hổ hựu như long
Niêm lai khước khủng sơn hà toái
Trát khởi toàn phương nhật nguyệt lung
Tam xích Song lâm hà xứ hữu?
Lục hoàn Địa Tạng khoái nan phùng
Túng nhiêu thế đạo kỳ khu thậm
Bất nại tùng tiền Bột Tốt Ông
Trúc Thiên dịch:
Chiếc gậy ngày ngày nằm dạo rong
Bỗng dưng như cọp với như rồng
Chống lên đã ngại sơn hà lở
Cất dậy càng e nhật nguyệt long.
Ba thước Song Lâm đâu chẳng thấy
60
Sáu khoen Địa Tạng thoắt hoàn không.
Dầu cho thế đạo nhiều gai gốc
Có nại bao giờ Bột Tốt Ông.
(Trụ trượng tử) [46]
Trong mấy mươi bài thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ, bài “Trụ trượng
tử” là bài thơ đa nghĩa, nhiều cách hiểu khác nhau, và đến giờ vẫn hàm nhiều
ý nghĩa. Sự đa nghĩa trong thơ luôn là yếu tố hấp dẫn người nghe, bởi rằng
khó mà biết được dụng ý thực sự của Thiền gia khi ngài đã đi xa ngàn dặm,
hậu nhân đời sau cũng tùy căn cơ mà ứng hiểu, vậy nên hiểu thế nào là quyền
mỗi người, dù có bị coi là áp đặt thì sự hiểu đó cũng chính đáng với bản thân
người khai mở. “Trụ trượng tử” đa phần đều dịch là “Cây gậy Thiền”. Sự
thống nhất đầu tiên mở ra nội dung của bài thơ Thiền tính, và những chi tiết
trong thơ hẳn nhiên đều hàm chứa ý nghĩa của triết lý của giáo lý đạo Phật.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Duy Hinh, cách hiểu đầu tiên, nếu bám vào những từ
ngữ trong bài thơ đã được dịch ra thì bài thơ chứa đựng tâm trạng đầy phẫn
nộ của học Nho, sự bất mãn và phẫn uất với thời cuộc khi cây gậy Thiền vung
lên hóa long hóa hổ, lở sơn hả, nhật nguyệt long, và như thế không giống với
Thiền tính đơn thuần. Nó giống với khí thế của bậc Nho sĩ hơn là Thiền gia.
Hiểu theo cách đó, quả nhiên bài thơ chất chứa những tâm trạng phẫn uất
trước không gian bao la. Tuệ Trung Thượng sĩ trước tiên cũng là người quân
tử theo đúng nghĩa hành đạo của Nho gia, cầm quân trừ đạo bảo về quốc gia
dân tộc, nhưng ngài có tấm lòng từ bi độ lượng trước thiên nhiên cảnh vật,
trước nhân thế, theo đúng phong cách học giả đời Trần “Cư trần lạc đạo”. Dù
có nói rằng hốt nhiên cây gậy trở nên như hổ như long, thì sự so sánh đó cũng
không thể nói đến một tâm trạng phẫn nộ. Bởi trong lịch sử Phật giáo, cây gậy
luôn có sức mạnh to lớn. Cây gậy của ngài Địa Tạng tỏa hào quang chiếu
sáng độ cho những chúng sinh lầm đường dưới sa môn và trên ta bà. Trong
61
truyền thuyết về ngài Đạt Ma sư tổ đi đâu cũng mang theo cây tích trượng.
Bởi vậy gắn với bậc tu hành, bồ tát thì cây gậy như là một phương tiện siêu
độ. Đối với các bậc cao tăng của phái Lâm Tế cũng thường xuyên dùng cây
gậy để đập vỡ những rào cản của con người khi tìm tới chân trời trí giác của
giải thoát. Cây gậy Thiền, trường tồn trong lịch sử Phật giáo, trong đời sống
và truyền thuyết, Tuệ Trung Thượng sĩ chọn đề tài là cây gậy cũng chỉ nói lên
sức mạnh của phương tiện trong quá trình hành trì tu tập. Trúc Thiên dịch câu
cuối “Bột Tốt Ông” là Buddha, trong thơ văn Lý - Trần, Lý Việt Dũng chú
giải trích dẫn của Từ Nguyên, Bột Tốt là trạng thái bước đi khập khiễng, và
Bột Tốt Ông là ông già bước đi khập khiễng trước kia, vậy giờ đây ông lão
không lo sợ những bước đi khập khiễng nữa vì đã có cây gậy Thiền. Cây gậy
Thiền là điểm tựa để giúp con người đến với bến giác. Sắp xếp trình tự ý thơ
và ngôn từ, bài thơ có nói về cây gậy Thiền đầy khí phách, đến cuối là sự
nâng tựa cho bước đi khập khiễng. Cái cốt yếu của Thiền tông là ở đó, không
phải ở hình thức to lớn vĩ đại và ở bản nguyên bên trong, cái còn đọng lại là
điều gì, có tác dụng như thế nào với cuộc đời con người.
Đề tài tôn giáo trong thơ văn Lý - Trần nói chung và thơ văn Tuệ Trung
Thượng sĩ nói riêng bao hàm tất cả những triết lý của đạo Phật về cuộc đời, về
những cách nhìn trước sinh tử, niết bàn, trước giải thoát giác ngộ. Mỗi một
bài thơ, Tuệ Trung Thượng sĩ nhắc tới vấn đề sinh tử trong những khuôn hình
khác nhau. Lúc thì “sinh tử dĩ nhàn”, khi thì “mê” “ngộ” khó phân, phiền não
bồ đề là một, khi thì nhắc tới tâm ta tâm Phật, lúc lại trở về với thoát thế, nhập
trần. Dường như hơn bốn mươi bài thơ được trích trong Ngữ lục bao hàm nội
dung sâu xa về triết lý đạo Phật.
Bài Thoát thế [12]
Phiên thân nhất trịch xuất phàn lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn không
62
Tam giới mgang mang tâm liễu liễu
Nguyệt hoa tây một, nhật thăng đông
Dịch:
Xoay mình nhảy xuống thoát chuồng lồng
Mắt nhìn muôn sự chỉ là không
Ba cõi mênh mang lòng tỏ rõ
Đằng tây trăng lặn, nhật lên đông
Cùng trong nhóm đề tài nói về sự nhập trần, xuất trần, thoái cư, thì thoát
thế thể hiện đầy đủ cách nhìn cuộc đời của Tuệ Trung Thượng sĩ trước nhân
tình thế thái. Cõi đời đối với nhà thơ cũng như là một cái “chuồng lồng”-
“phàn lung”. Nhà thơ đã cho mình thoát khỏi những dung tục của đời thường,
những phiền muộn mà cuộc đời đã nhốt thân ta trong một cái “chuồng lồng”.
Tác giả ví như cuộc sống này bó hẹp cái thân vô tướng, hốt nhiên nhà thơ
thoát khỏi cái chuồng lồng hạn hẹp kia. Ở đây là hình ảnh ẩn dụ khá tinh tế,
phải chăng là thoát được thân xác. Tác giả muốn so sánh sự thoát khỏi thế tục
của mình, như con thú thoát khỏi cái chuồng lồng để vùng vẫy thoải mái trong
không gian sống tự tại của riêng mình. Tác giả nhận thấy cuộc sống là những
gò ép, là những khuôn luật vô lý mà con người đặt ra và tự chui vào lồng để
nhốt chính bản tâm thanh lương của mình. Chỉ có tự mình mới thoát khỏi
được vòng vây thế tục, không ai có thể giúp bản thân trừ phi chính ta tìm đến
bến giác bỏ vọng mê, mọi sai lầm sẽ tiêu tàn, chỉ còn những đạo hạnh, những
trí tuệ bát nhã là bừng sáng “mắt nhìn muôn sự đều là không”. “Không” và
“có” là phạm trù triết học mà trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ đã nhắc đi nhắc
lại. Tác giả muốn khẳng định mọi giá trị cuộc sống, mọi cảnh vật hữu hình
hay vô hình cũng chỉ là “không” thôi. Đến đây Tuệ Trung Thượng sĩ đã tỏ rõ
cuộc sống hằng thường, tỏ rõ được ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới)
hay chính là đã tỏ rõ cõi lòng của mình. “Đằng tây trăng lặn, nhật lên đông”.
63
Tác giả “nhảy” ra khỏi thế sự tìm về với bến giác, tìm đến với quy luật tự
nhiên, trăng lặn đằng tây, mặt trời mọc đằng đông. Bài thơ mở đầu nhẹ nhàng
kết thúc bình thản nhẹ nhàng, đó là cái tĩnh của Thiền. Tuệ Trung Thượng sĩ
trải dài cuộc đời mình với thế tục nhưng ông tường tận rõ quy luật của tự
nhiên, ông mặc nhiên sống cùng thế tục nhưng trong lòng trải đầy trí huệ tinh
tần của một Thiền gia. Thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ không hoa mĩ, đôi khi
đọc lên tính triết lý rất nhiều song vẫn dung dị dễ đi vào lòng người. Với
những trải nghiệm của bản thân mà Tuệ Trung Thượng sĩ sáng tác nên những
bài thơ Thiền hay những câu thơ Thiền tính sâu nét về cuộc đời thế tục, sắc
sắc không không, về tất cả những phạm trù liên quan đến bản thể luận hay
liên quan đến tự tính. Trong hệ thống thi ca của Tuệ Trung, dường như chỉ
qua những bài thơ người đọc có thể đón nhận được tất cả những khái niệm
những triết lý về bản thể, tính không, chân như, bát nhã. Những tầm đọc đơn
thuần hẳn không đăng nhập được với những khái niệm đó, phải đồng cảm và
ở một giới hạn nhất định hòa mình vào cuộc sống, hòa vào tư tưởng của ngài
mới tường rõ những điều ngài muốn trao truyền qua thơ.
Phóng ngưu [12] Ngẫu hướng Qui Sơn đắc đệ lân12
Hoang vu cam tác mục ngưu nhân
Quốc vương đức trạch khoan như hải
Tùy phận ta ta thủy thảo xuân
Dịch:
Chợt hướng Quy Sơn ở cạnh gần
Hoang dã chăn trâu dám lần khân
Ơn đức nhà vua rộng như biển
12 Quy Sơn đắc đệ lân: Có thể ám chỉ ngài Đại An, dẫn thuyết Đại An: “Đại An này ở núi Quy ba mươi năm, ăn cơm núi Quy, ỉa tại núi Quy mà không học thiền núi Quy chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó đi trệch bở ruộng hay chạy vào cỏ rậm thì lôi nó lại…”
64
Nước suối, hoa rừng xuân an thân
Tuệ Trung sử dụng điển tích Đại An Thiền sư trăn trâu để nói về sự khâm
phục và ngưỡng mộ tiền nhân vê việc tu chân tính. Đó là hình ảnh ẩn dụ, bởi
Tuệ Trung Thượng sĩ thân là cư Vương, giữ chức Tiết Độ Sứ, sau về ở ẩn tại
Dưỡng chân trang thì việc chăn trâu cũng chỉ là hình ảnh ước lệ. Trong tu
Thiền hình ảnh con trâu luôn được các Thiền gia nhắc tới như một sự nỗ lực
để tu tập đạt đến bậc chứng ngộ. Trong Thiền tông có bức họa về “thập đồ
ngưu”, là công cuộc giáo huấn con trâu trở nên thuần phục. Giáo huấn trâu
hay chính là quá trình tu tập sửa đổi tâm tính của người học đạo, từ sự ngỗ
ngược cứng đầu, cuối cùng con trâu đã bị người chủ thuần phục, ý nghĩa đó
cũng giống quá trình học đạo của con người, lúc đầu chưa hiểu đạo còn ngang
ngược, dần dần, giáo lý thấm nhuần trong tâm thức của người học, mọi giá trị
về triết lý Thiền tông được lĩnh hội, tâm trí trở nên thuần phục với chính bản
thân. Đề tài là “phóng ngưu”, dù Tuệ Trung Thượng sĩ không phải là người
chăn trâu, nhưng ông muốn so sánh quá trình tu tập của mình, cũng giống như
việc thuần tính một con trâu. Tác giả còn ví mình chăn trâu cùng với Thiền sư
Đại An làm láng giềng gần. So sánh về địa lý và lịch sử, điều đó là không thể,
nhưng hình ảnh so sánh ẩn dụ muốn nói tới sự ngưỡng mộ của ngài Tuệ
Trung dành cho Đại An Thiền sư, người nhất tâm tu dưỡng chân tính. Thượng
sĩ ví mình là láng giềng gần của Đại An, hay chính là sự tu tập chân tính của
ngài muốn được như ngài Đại An:
Ân đức nhà vua rộng như biển
Nước suối hoa rừng xuân an thân
Tuệ Trung Thượng sĩ tu Thiền nhưng là một trong những nhân vật hiểu
Tam giáo của triều Trần, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Thái Tông, Trần Nhân
Tông và cả Trần Thánh Tông, tất cả cùng giống nhau vì cùng am tường Tam
giáo, cùng tu Thiền và xuất phát điểm cùng là dòng dõi quý tộc vương hầu.
65
Tuy nhiên trong thơ của mỗi người lại chứa chan những cảm xúc thế sự và
bản tâm thể hiện khác nhau. Nếu Trần Thái Tông vì bất mãn với sự sắp đặt
của quyền cường vào núi Yên Tử hụt trở về viết Khóa hư lục, Tứ Sơn, ngũ
giới… chất chứa nhiều triết thuyết Phật giáo, mang nỗi hờn, và sự hờn giận
đó ngài đã dành hết vào trong những lời kinh câu kệ, Trần Thánh Tông hội
họp các Thiền sư bàn luận về Thiền tông, sinh tử, chân tâm… sống là làm
theo Thiền lý thấu đạt thể Không an nhiên tự tại, còn Trần Nhân Tông, Đại
Đầu Đà của dòng Thiền Yên Tử có khí khái an nhiên, vui tươi trong mỗi câu
thơ. Chỉ mình Tuệ Trung Thượng sĩ là kẻ sĩ, nhưng không cam chịu sống như
một kẻ sĩ, tham chiến nhưng trong lòng vẫn không thỏa. Ông sinh ra không
phải để xuất gia, sinh ra không phải để làm vua, sinh ra không phải tiêu dao
như Đạo Tái. Thế nhưng ông vẫn chen chân hoạn lộ mà không đạt sở nguyện
của bậc quân tử, không đạt được mưu cầu phần vì ông đánh giá mình cao và
cho mình khác người, lời thơ của ông đôi khi hơi chua chát, đôi khi tự tại
nhưng cảm xúc thơ nhiều lúc như bị ứ đọng bởi những bức xúc về thời thế
bủa vây. Ông rời khỏi quan trường, nhưng cái chí quân vương vẫn chưa đạt,
chưa đạt được cái chí, nhưng vẫn biết ơn mưa móc của Thánh nhân. Dường
như có sự đối lập trong tư tưởng Tuệ Trung. Ham vấn học Thiền, nghiêng
mình với yếu chỉ Thiền tông, nhưng xuất thân dòng dõi quý tộc sĩ quan, chất
khí phách của người quân tử vẫn thường trực trong ông, nên dù có tiêu dao dù
có đứng ngoài quan lộ nhưng ông vẫn cảm mến trước thấu rõ ơn đức nhà vua.
Nước suối hoa rừng xuân an thân
Tuệ Trung Thượng sĩ biết để được “xuân an thân” trước tiên phải nhớ ơn
đức của nhà vua. Tuệ Trung tìm về với suối hoa rừng xuân, tìm về với thiên
nhiên thanh vắng trong tâm thế nhớ ơn và nhà thơ thấu suốt cõi lòng nhân thế,
thấu suốt trong tâm thế của bậc quân thần. Về ở ẩn, về với cõi tục dung dị của
riêng mình cũng giống như một thời những nhà nho ẩn dật vẫn làm. Sự ra đi,
66
từ bỏ quan trường của Tuệ Trung một phần như sự lánh đời, bởi ngài vốn dĩ là
dòng dõi huyết thống vương triều, ngài vốn dĩ là bậc bề tôi trung hiếu, nhưng
Tuệ Trung tìm tới Dưỡng chân trang không phải lánh đời hoàn toàn, mà tìm
về chốn thanh tĩnh nuôi chân tính, và ở đây ngài thường xuyên bàn luận Thiền
lý, các đệ tử môn sinh vẫn thường lui tới tham vấn, ngài tận tình chỉ bảo. Sự
thanh cao thấu suốt của Tuệ Trung khiến vua Trần Nhân Tông luôn tỏ lòng
tôn kính như bậc thầy về đạo thuật.
Bài thơ mang tựa đề “Phóng ngưu” - chăn trâu, nhưng thực chất Tuệ
Trung Thượng sĩ đang muốn học theo tiền nhân tìm chốn thanh tĩnh để nuôi
dưỡng chân tâm Thiền tính của mình. Sự lánh đời nhưng không bỏ mặc thế
tục, Tuệ Trung cảm ơn ân đức của quân vương, nhớ cái ơn đức đó tức Tuệ
Trung là bậc bề tôi trung hiếu, coi mọi thứ không cao sang, mọi chuyện đều
như nhiên là Tuệ Trung đã đạt đến thấu rõ chân tính bản thân. Tuệ Trung
Thượng sĩ trong một phút giây nào đó tâm trạng dỗi hờn, phận uất của khí tiết
anh hùng chưa thỏa nguyện, phút giây đó là sự tồn đọng của một bề tôi theo
đạo Nho trung hiếu, bản tâm của Tuệ Trung đã vượt lên trên những thế sự,
nhân tình, tìm về quy sơn ẩn tích mà “chăn trâu” - nuôi dưỡng chân tính của
riêng mình. Triết lý nhà Phật có răn muốn giúp người trước tiên bản thân
mình phải tu sửa liễu ngộ.
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính triết lý Phật giáo
Kinh Lăng Già (…..) khẩn thiết bảo ta rằng ngôn ngữ là một phương tiện
hoàn toàn thiếu thích đáng để diễn đạt và truyền đạt nội thể của Giác Ngộ.
Kinh Kim Cang viết “Vô pháp khả thuyết thị danh thuyết pháp” (thuyết pháp
là: không có pháp nào có thể thuyết ấy là thuyết pháp). Thực tại vô tướng, thể
tính chơn như không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý niệm. Thiền Tông
phương châm vô ngôn, bởi vì sự chứng ngộ không thể nói bằng lời, không thể
67
diễn đạt người này đạt ngộ như nào, người kia đạt ngộ ra sao, tất cả đều im
ắng trong không gian Thiền tĩnh mịch, và thời gian chân như, trong một
khoảnh khắc hốt nhiên chứng ngộ, có thể trong cả đời vẫn chưa ngộ, vẫn sống
trong u mê vẩn đục. Phật giáo khác với các tôn giáo ở chỗ đó, nói là vô ngôn
không có nghĩa là không nói gì, sự vô ngôn thể hiện bằng nhiều cách, thời đức
Phật Thích Ca khởi đầu cho phương pháp dĩ tâm truyền tâm, “Thế Tôn niêm
hoa, Ca Diếp vi tiếu”. Sự vô ngôn trong Thiền tông là phương pháp chứng
ngộ tuyệt bích mà dòng Thiền Vô Ngôn Thông thực hiện theo tông chỉ đó.
Bởi ngôn ngữ là một giới hạn, một rào cản có thể phá bỏ nhiều tính chất thực
của sự vật, sự việc. Nhưng trong những trường hợp khác nhau mà mức độ sử
dụng ngôn ngữ khác nhau, không phải trường hợp trao truyền pháp môn nào
cũng vô ngôn. Bởi thế trong nhà Phật hai chữ “tùy duyền” sử dụng rất linh
hoạt trong từng hoàn cảnh, và đối với mỗi Thiền sư áp dụng sự tùy duyên một
cách khác nhau trong việc thuyết pháp cho đệ tử hiểu đạo lý. Nhưng nói vô
ngôn, vậy những bài thơ Thiền thì vô ngôn ở đâu, những bài thơ Thiền vẫn có
ngôn ngữ đó thôi. Trong mỗi bài thơ Thiền, cách thể hiện ngôn ngữ của mỗi
Thiền sư là khác nhau. Điểm khác biệt giữa ngôn ngữ thơ Thiền và ngôn ngữ
của thể loại văn chương khác ở chỗ nào. Nói về thi ca “ý tại ngôn ngoại”,
nhưng không phải là không có ngôn ngữ, sự hàm ngôn ở đây khác với sự vô
ngôn trực ngộ của thơ Thiền. Ý không thể hiện rõ nhưng ngôn ngữ vẫn hiện
diện tạo biên độ để ý lộ ra ngoài. Ngôn ngữ trong thi ca tuy không nhiều như
ngôn ngữ diễn giải trong văn xuôi, không mang tính thời đại trong ký sự
nhưng nó vẫn là những âm vần được thoát ra từ cảm xúc của nhà thơ “tức
cảnh sinh tình”.
“Nhân tình sơ mật xao bồng vũ
Thế thái cao đê phách ngạn triều”
(Tình người lúc thân lúc sơ như hạt mưa gõ trên mui thuyền
68
Thói đời khi cao khi thấp như ngọn sóng vỗ bên bờ sông)
(Chu trung độc chước – Trần Quang Thiều) [29, tr.107]
Tác giả Trần Quang Thiều cũng dùng câu từ hàm xúc để thể hiện quan
niệm tâm tư của mình trước sự thay đổi của nhân tình thế thái, tác giả dùng sự
so sánh với “hạt mưa gõ trên mui thuyền” thể hiện nỗi buồn trước lòng người
trước cuộc đời. Tuy nhiên trong thơ Thiền thì khác hẳn. Không có sự bộc lộ
nỗi niềm u buồn, hay sự cô tịch niềm nhớ mong. Mà ngôn ngữ thơ Thiền là
ngôn ngữ của cõi lòng đã ngộ, là thứ ngôn ngữ không còn mang tính cảm tính
mà ngôn ngữ trực nhận trước hiện tiền của tạo vật. Tuy là thơ Thiền nhưng
không phải tác giả nào cũng sử dụng ngôn ngữ giống nhau. Mỗi người lựa
chọn đường đi riêng của mình song cái đích cuối cùng của Thiền thi là mang
tới sự nhận chân về cuộc sống, về tạo vật bằng con mắt biện chứng. Đó là thứ
ngôn ngữ biện tâm của Thiền ca.
Cùng một phạm trù chân như liễu ngộ, Huệ Quang tôn giả sử dụng khí tiết
của hoa mai để nói về mùa xuân.
Mai hoa: [6]
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông.
Dịch: Hoa mai
Ngửa mặt trời xanh hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc mình hoa
Bẻ về, không để chưng vui mắt
Chỉ mượn mầu Xuân đỡ bệnh già
Bài thơ “Mai hoa” thuộc chủ đề thơ vịnh cảnh của Huyền Quang Tôn giả.
69
Tuy nhiên, chủ đề là vịnh cảnh, nhưng cả bài thơ không mô tả vẻ đẹp hay màu
sắc của hoa mai. Tác giả mượn đặc tính của hoa mai chịu được tàn lạnh, mà
vẫn tươi tốt, mang tới mùa xuân những sắc hoa rực rỡ. Qua hình ảnh cành mai
mà Huyền Quang Thiền nhân muốn nói về sự thức tỉnh của con người trước
lúc chiều tà, nhận rõ “già đã điểm trên đầu” nhưng không vì thế mà âu sầu rầu
não. Huyền Quang tường tận về quy luật sinh tồn của sự vật, tác giả thấu triệt
về sinh diệt của cảnh vật của cuộc đời con người. Hiểu được quy luật của tạo
hóa đó, tác giả muốn mượn cành mai để mang mùa xuân về, mượn cành mai
để nói về khí tiết thanh cao của mình. Cả bài thơ là sự rung động của tâm hồn
trước cảnh sắc sinh tàn, là bài ca ca ngợi về sự sống bất diệt của con người.
Trần Nhân Tông, trước cảnh xuân mà lòng không rạo rực, trước sự
chuyển đổi của vạn vật mà lòng vẫn như nhiên. Nhà thơ, Thiền gia đã gạt bỏ
được những muộn phiền của cuộc đời, những vần xoay của tạo hóa, mà tâm
tĩnh lặng như nhiên trước cảnh vật. Sự tĩnh lẵng đó thể hiện tâm đốn ngộ của
nhà thơ. Bài thơ là sự lắng đọng thi nhân nhìn đời bằng con mắt Thiền gia.
Đối với nhà thơ thì cuộc sống muôn màu muôn vẻ lúc nào cũng trôi đi, cũng
chảy theo sự tham vọng của lục dục của bản ngã. Nhưng sự xô bồ của cuộc
sống không ảnh hưởng tới các Thiền gia, những con người ở bậc trí giác của
hạnh ngộ.
“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Hoa đường thềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi”
Huệ Chi dịch:
Chim nhẩn nha kêu liễu trổ dày
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế
70
Cùng tựa lan can ngắm núi mây. [6]
Sự vô ngôn trong thơ Thiền, là sử dụng những cặp phạm trù sóng đối khi
nói về giáo lý, khi thì nói nghịch, khi nói quá, khi thì nói vòng vo, cái cần nói
không nói, nhưng qua những vần thơ lại toát lên trong đó tư tưởng giác ngộ.
Thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ cũng giống như những bài thơ Thiền của các
Thiền gia khác, đó là những bài ca liễu ngộ trong phút giây thực chứng bằng
cảm xúc và trí tuệ bát nhã mà khởi thành. Nó không phải những rung động
của thứ luyến ái đơn thuần, nó không phải là những rung cảm bột phát từ hỉ
nộ ai lạc, mà nó là kết quả của quá trình thực chứng, sự trải nhiệm của lý tính
của suy tưởng và vô duy. So với những Thiền gia làm thơ cùng thời thì thơ
Tuệ Trung Thượng sĩ không mượt mà mà trữ tình như thơ Huyền Quang,
không thế tục như thơ Trần Nhân Tông, ở trong ngôn ngữ thơ của Tuệ Trung
đâu đâu cũng thấy sắc màu triết lý của tôn giáo, lúc bàng bạc dư vị của tâm
ngộ, khi mơ mơ tỉnh tỉnh trong những mê ngộ.
Mộng trung tác sinh tế sinh thô
Giác hậu vô tuyệt liêm tuyệt hào
Dịch:
Lúc đang mộng nào thô nào tế
Tỉnh ra rồi chẳng một mẩy may
(Trữ từ tự cảnh văn)
Thơ Thiền, thật khó dùng ngôn từ diễn tả hết sự vi diệu ở thành quả của
nó. Để hiểu được phần nào nội dung của thơ Thiền, cũng sẽ là sự tùy nghi với
mỗi đối tượng. Minh Đức Triều Tâm ảnh nói: “Thơ vi vút trong không gian
thẩm mỹ của ước lệ, còn Thiền thênh thang trong cõi tĩnh mặc trong sáng và
vô duy. Bởi thế ngôn ngữ của Thiền khác ngôn ngữ của thơ ca, và ngôn ngữ
trong thơ Thiền khác biệt với ngôn ngữ của những thể loại thơ khác. Ngôn
71
ngữ của thơ Thiền là ngôn ngữ trực quan, cụ thể, mang triết lý về cuộc sống
nhân sinh, sinh tử, niết bàn, vô ngã…"13 điểm qua mấy chục bài thơ Thiền
của Tuệ Trung những khái niệm được ông sử dụng trong thơ chứa chan màu
sắc tôn giáo, ngôn ngữ giàu triết lý Phật giáo: những từ như Phật, Tâm,
Không, “nhân duyên”, “tứ đại”, Thiền, “niệm”, “giả danh”, “tâm vương”, “sát
na”, “nhị kiến”, “sinh tử”, “phiền não bồ đề”, “ngã nhân”, “sắc không”, “hữu
vô”, “mê ngộ”, “thị phi”, “vọng chân”, “bất nhị”, “tức tâm tức Phật”, “tức
Phật tức tâm”, “nương sinh diện”. Đó là những khái niệm mà Tuệ Trung dùng
trong thơ của mình. Những phạm trù mang tính triết lý đạo Phật. Ở ngôn ngữ
thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ không giàu hình ảnh, không khiến người ta siêu
lòng bởi những du dương mà khiến người ta lắng đọng và suy tưởng nhiều
hơn. Từng câu chữ từng cụm từ lúc nào cũng đánh thức người đọc từ bến mê
tìm về bến giác. Thơ là người, thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ phản chiếu tâm
hồn Tuệ Trung, khi thét lên trời xanh tiếng hét rợn người, khi lắng lại trong
khúc hát tiêu dao của kẻ mặc khách, lúc lại trầm ngâm suy tư của người quân
tử, khi trầm mình lắng đọng của bậc Thiền giả. Qua ngôn ngữ thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ đủ để thấy được nhiều tâm trạng của thi nhân, tâm trạng của kẻ lữ
thứ giữa chốn tùy tục, của kẻ sĩ bất đắc chí trong chốn quan trường, của
những lời thơ tri ân ca ngợi đức hạnh của các bậc đại sư đi trước. Nếu phân
nhóm thơ của Tuệ Trung thành những nhóm khu biệt, có thể tìm trong đó
nhóm thơ về cảm tác trước vũ trụ bao la sinh tử niết bản, giải thoát giác ngộ,
nhóm thơ về vui thú tiêu dao, nhóm thơ về cảnh vật trong dưỡng chân trang
và nhóm tri ân ca ngợi công đức của các Thiền sư đi trước. Trong thơ của Tuệ
Trung còn chất chứa những câu hỏi phản vấn, và những câu hỏi tự thân, hỏi
13 Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Thơ, Thiền - Những đường bay và những chân trời, Bài tham luận trong Festival thơ Huế (2006)
72
để hỏi mà cũng không để hỏi: “Thôi hỏi tử sinh, ma với Phật”; “sinh tử từ đâu
chớ hỏi mà”; “người mất trước kia là ai đó? Người sinh sau này lại là ai?” -
(Tiền thất giả thị a thùy? Hậu đắc giả hựu thị thùy?) [46].
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã nhận định "Thơ đời Trần tinh vi
trong trẻo, đều có sở trường tột bật cũng như đời Hán, đời Đường bên Trung
Hoa" hay Lê Quý Đôn trong Quần thư khảo biện và Thư kinh diễn nghĩa đã
tự hào rằng: "Nước Nam ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng
triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa, nhân tài cốt cách văn chương,
không khác gì Trung Hoa". Tuệ Trung Thượng sĩ là nhân cách sáng ngời đời
Trần, trong số những thi nhân đời Trần thi Tuệ Trung Thượng sĩ nổi lên như
một bông sen ưu tư trí tuệ giữa vườn Thiền. Ngôn ngữ trong thơ Thiền nói
chung và thơ Tuệ Trung Thượng sĩ nói riêng là thư ngôn ngữ vô ngôn. Cách
nói vô ngôn có thể gói trong những thí dụ sau: Nói nghịch, Nói vượt qua, Nói
chối bỏ, Nói quyết, Nói nhại, Hét, Phép im lặng, Lý luận vòng tròn. Ở thơ
Tuệ Trung có đủ những cách nói như thế. “Hét” là những âm thanh kết thúc
bài thơ. Một tiếng hét lên, tác động cực lớn tới người tiếp nhận, tạo sự giật
mình trong trạng thái chông chênh để tìm đến trạng thái vô thức của chứng
ngộ.
Tỉnh ! tỉnh ! trước ! Dịch: Thức ! thức ! tỉnh !
Trước ! tỉnh ! tỉnh ! Tỉnh ! thức ! thức !
Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh Dẫm đất bốn bề chớ lệch nghiêng
A thùy ư thử tính đắc cập Ai có như lời tin được vậy
Cao bộ Tì Lô dính thượng hành Đạp đỉnh Tì Lô bước bước lên
Hát (Tiếng hét)
(Phật tâm ca) [46]
Đồng nhiếp nhập Như Lai quảng đại viên trí
73
Chi kính
Đốt
Dịch :
Cùng nhiếp vào gương tròn đầy rộng lớn trí
Như Lai
(tiếng hét)
(Phàm thánh bất dị) [46]
Cao ấp trân trọng
Bằng hữu đệ huynh
Hoặc nhân nhân hữu thánh hữu thánh hữu linh
Hảo biếm khởi nhãn tình tiến da
Đốt !
Chắp tay trân trọng
Dâng lên bạn lứa anh em
Hoặc ai ai tâm thánh trí linh
Xin ghé mắt xem qua chốc lát
(tiếng quát)
(Trữ từ tự cảnh văn) [46]
“Hát” trong bài “Phật tâm ca”, “đốt” trong “Phàm thánh bất dị”; “Trữ từ
tự cảnh văn”. Kết thúc bài thơ là tiếng hét xuất hiện, lý giải vòng vo có, nói
nghịch có, nói quyết có. Ngôn ngữ thơ Thiền đặc trưng và khác ngôn ngữ thơ
đơn thuần khác. Thơ là những khúc nhạc du dương đưa hồn con người từ
cánh đồng bát ngát mênh mông của niềm vui hạnh phúc đến bến vắng của khổ
đau, bất hạnh. Thơ là điệu hồn tâm trạng của thi nhân, ngôn ngữ thơ tinh tế
ngắn gọn diễn tả đủ nhất những cảm xúc rung động của con người trước cảnh
vật thiên nhiên vũ trụ, nói lên được những khát khao của tiểu ngã và mong
muốn thoát khỏi những bó buộc của quy luật. Thơ Thiền lại khác, cái khác ở
74
đây rất cụ thể rõ ràng. Trong thơ Thiền không dung chứa những cảm xúc đơn
thuần của con người, không có đường bay của những ảo mộng và những chân
trời viễn xứ. Thơ Thiền là thể loại thơ đặc biệt nhất trong dòng thơ của kho
tàng văn học nước ta. Tất cả sự thanh tao và điều thực chứng của các Thiền sư
về sắc không, hữu vô, về vô minh, giải thoát giác ngộ, niết bàn sinh tử, chân
như được diễn đạt trong thơ Thiền. Ở đó ngôn ngữ không phải là những giọng
điệu ca thán, mà là ngôn ngữ tự thân, sự vô ngôn, không lý giải, kiến giải mà
chỉ đưa ra những mệnh đề, đưa ra những lý thuyết và giáo lý để người đọc tự
cảm nhận, tự huyền hoại trong đó để tìm một đường bay thênh thang cho
riêng mình. Thơ Thiền là sự kết hợp của minh triết phương đông và tư duy tri
kiến của bậc giác ngộ. Ngôn ngữ thơ đã hòa trong những tri kiến đó, không có
thứ ngôn ngữ diễn tả cảm xúc. Trong thơ Thiền những câu thơ đôi khi tưởng
đối nghịch, đôi khi tưởng lạc vấn đề từ câu đầu đến câu cuối, nhưng nó lại là
một chỉnh thể, chỉ là cách nói khác của nhà thơ để lý giải về một phạm trù
Thiền tính trong đó.
Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông
Hữu hữu vô vô tất cánh đồng
Dịch:
Từ Không hóa Có, Có Không thông
Có Có Không Không rốt lại đồng
(Vạn sự quy như)
Một trong những cách nói của Thiền gia đó là nói vòng vo, một vòng luẩn
quẩn, nhưng cái luẩn quẩn đó lại chính là cái quy luật hằng thường. Triết lý
nhà Phật vê sắc không, hữu vô, luôn là phạm trù mà người tiếp nhận truy tầm.
Có, Không, đúng là Có Có Không Không, nhưng cuối cùng nói Không với
Có, vì theo Tuệ Trung Thượng sĩ thì tất cả mọi Có và Không đều là một.
Quan niệm nhất nguyên của ngài dẫn về con đường đồng quy mọi thứ. Sinh ra
75
là Có, mất đi là Không, nhưng sinh cũng là Không thì còn đâu cái mất đi nữa.
Nói là Có thì Có, nói là Không thì Không, không nói Có thì không có Không,
và không khởi niệm Không lấy đâu cái Có để đối nghịch. Sự vòng vo dẫn tới
một chân như tuyệt đối mà Tuệ Trung Thượng sĩ muốn diễn giải.
Quan âm lưu thủy
Phú quý phù vân
Phong hỏa tán thời
Lão thiếu thành trần
Hồn phách phân, sắc thân như mộng
Dịch:
Tháng ngày nước chảy
Giàu sang mây trôi
Gió lửa rã tan
Già trẻ thành bụi
Hồn lìa phách sắc thân như mộng.
(Trữ từ tự cảnh văn) [12]
Tuệ Trung Thượng sĩ nói về một quy luật nhân sinh bằng ngôn ngữ quả
quyết của Thiền tông, đó là cách nói khẳng định trước sự vật, khẳng định sự
chảy trôi của tháng ngày, sự biến hóa của đời người từ trẻ rồi đến già. “Hồn
lìa phách sắc thân như mộng” câu thơ khẳng định về quy luật sinh tồn của con
người, trẻ già rồi chết đi, sắc thân tan biến và như một giấc mộng. Quả là thơ
Thiền ý vị tinh thâm, sự vi diệu của thứ ngôn ngữ nói mà như không nói,
không nói mà như nói. Tuệ Trung Thượng sĩ nói sắc thân như mộng, một câu
thơ ngắn gọn nhưng hàm chứa rộng lớn về quy luật hằng thường, và kiến giải
về sinh tử, hữu vô. Con người quy tròn trong vòng luân hồi sinh tử, sinh ra rồi
lớn lên già đi rồi mất tan, cái sắc thân mà người đời luôn nâng niu, coi trọng
luôn cầu an thì cuối cùng cũng chỉ là mộng thôi. Nó không thật, không có
76
thật, chỉ là sự biến đổi của tự nhiên, sắc thân đó không thể trẻ mãi, không thể
già mãi, mà sẽ tan biến trong chớp mắt. Vậy nên sự quả quyết của Tuệ Trung
Thượng sĩ về sinh tử, về hữu vô đã mang đến cho người tiếp nhận những tri
kiến cụ thể. Ngôn ngữ trong thơ là ngôn ngữ của bậc thành đạo, ngôn ngữ của
Thiền học hàm chứa nội dung giáo lý. Tuy là dung chứa nội dung giáo lý
nhưng người đọc không cảm thấy khô cứng, khi tác giả thuyết giải về yếu chỉ
của Thiền tông, những phảm trù sắc không, sinh tử, niết bàn.
3.2.3. Không gian và thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ
3.2.3.1. Không gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ
“Không gian thơ Thiền là không gian của trực giác, là thế giới của tỉnh
thức hiện tiền. Đây là miền đất thuộc thẩm quyền của tuệ giác, với tâm thái vô
duy để chụp bắt và nhìn ngắm rỗng rang cái- đang - là, chưa qua sự chế biến của tình cảm, quan niệm, tư kiến chủ quan”14 . Không gian thơ Thiền là không
gian có tư tưởng Phật học, Thiền học, có những tình cảm thanh cao, thoát tục.
Ở đó các nhà thơ luôn thể hiện tâm thế của nhân vật trữ tình trước không gian
u tịch, vắng lặng, thanh bình, nhẹ nhàng. Trong không gian thơ Thiền những
khái niệm xuất thế, niết bàn, vô vi giải thoát được Tuệ Trung diễn đạt bằng lý
trí, bên cạnh đó người ta dễ nhận thấy và dễ bắt gặp một không gian của từ bi
hỷ xả nhưng thường sử dụng công cụ tư tưởng để tỏ bày, lý giải và minh
chứng. Hay không gian của sự kinh qua chiêm nghiệm trên đường đời nên có
những nhận thức cảm xúc của Phật giáo. Ở đó có cả cái nhìn về lẽ phải những
giá trị tình tương chung một dòng đạo lý phương Đông. Trong thơ Thiền của
Tuệ Trung Thượng sĩ không gian bao trùm là không gian tĩnh lặng thanh bình,
là không gian của Thiền định để con người nuôi dưỡng chân tính tìm về bến
giác. Hay ở đó còn có cả không gian của thế giới triết thuyết về những đạo lý
77
Phật giáo, là sự cởi mở chân thành của con người kinh qua những sự đời. 14 Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Thơ, Thiền - Những đường bay và những chân trời, Bài tham luận trong Festival thơ Huế (2006)
Không gian thơ Tuệ Trung Thượng sĩ có khi là nốt nhạc vui khi là không gian
u tịch tĩnh mịch của Thiền định, khi lại là những ngọn núi sừng sững của cuộc
đời. Trong không gian thơ Tuệ Trung Thượng sĩ dễ bắt gặp những tâm trạng
đan xen của thế tục lẫn giải thoát, của hư vô lẫn tỉnh thức. Lúc là thiên nhiên
tươi mới theo quy luật bốn mùa, khi là những trải nghiệm.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt
Tân niên hoa phát cố niên hoa
Tam sinh thúc hốt chân phong chúc
Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma
Dịch:
Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng đêm nay
Hoa nở năm mới cũng là hoa năm cũ
Ba sinh thấm thoắt thực như ngọn đuốc trước gió
Chín cõi tuần hoàn giống như con kiến bò trên miệng cối xay bột
(Đốn tỉnh – Chợt Tỉnh) [12]
“Trăng”, “hoa” là là tương cảnh nói về những sự vật không biến đổi, con
người luôn ngờ rằng mọi thứ nhìn thấy hôm nay khác hôm qua, và ngày mai
cũng sẽ thay đổi. Đó chỉ là cái nhìn của sự dao động trong tâm của bản thể.
Cặp “trăng”, “hoa” đối xứng chỉ sự vĩnh hằng của tự nhiên. Không gian thiên
nhiên siêu thoát trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ. Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ
của nguồn an lạc, của bản tâm như nhiên mà Tuệ Trung đã đạt được trong quá
trình rèn luyện và dưỡng chân tính. Không gian trong thơ Thiền nói chung và
trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ nói riêng mang những gam màu của sự tỉnh
thức, chứng ngộ về sự vật xung quanh con người. Không có ánh trăng hôm
qua, không có hoa nở hôm nay, đặt ra hôm qua và hôm nay chỉ do sự nhận
thức chưa tường của cá thể chưa chứng ngộ. Khi đã đạt tới cảnh giới vi diệu
78
của vô vi niết bàn thì trăng hôm qua là trăng hôm nay, bóng trăng đó không
hề thay đổi, lúc nào cũng như nhiên với sự hiện tiền của nó. Bài thơ chứa
chan không gian của sự đốn ngộ, không gian của giáo lý Phật giáo khi nhìn
vào cõi nhân sinh.
Đối với Tuệ Trung, cuộc sống luôn là sự hằng thường như nó vốn có, mọi
thứ đổi thay hay không đổi thay không phải suy nghĩ hay phân vân lựa chọn
tự nhiên vô niệm giống như “bóng trăng xưa” và “ngọn gió trời” (Thị chúng -
Bảo mọi người). Không gian siêu nhiên mở ra để xua đuổi con người thoát
khỏi những mối bận tâm chẳng đâu ra đâu ấy, mở ra con đường đi đến “bỉ
ngạn” (bờ bên kia), nơi sáng trong tươi đẹp không còn bụi bặm nữa. Bên cạnh
không gian thiên nhiên rộng lớn hàm chứa nội dung về quy luật về tự nhiên
thì trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ hiện lên không gian của giải thoát, của thế
tục và đôi khi có cả địa ngục và thiên đàng.
Phiền não bồ đề ám tiêu ma
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt
Hoạch than lô thán đốn thanh lương
Kiếm thụ đao sơn lập tồi chiết
Dịch:
Phiền não và bồ đề ngầm tiêu ma hết
Địa ngục và thiên đường tự nó khô kiệt
Vạc dầu, lò lửa bỗng trở nên mát mẻ
Rừng gươm, núi đao lập tức đổ gãy
(Sinh tử nhàn nhi dĩ) [12]
Tác giả nói về thế giới sau diệt, đó là những vạc dầu, lò lửa, đó là sự đối
lập với cảnh giới an nhiên của con người trong hạnh ngộ an lạc. Không gian
đó mở ra nhưng không phải diễn tả sự ghê gớm của chốn địa ngục, mà ở đây
79
tác giả muốn nhấn mạnh về sự giải thoát chốn đó. Khi an tâm, Tâm Phật là
Tâm Ta thì thế giới có hỗn dung, có địa ngục hay thiên đàng cũng không còn
quan trọng. Người tỉnh thức là người đạt đến tâm ngộ, và an nhiên trước cảnh
vật. Lời thơ Tuệ Trung muốn khẳng định về sự chứng ngộ, khi đạt được cảnh
giới niết bàn, của giải thoát, thì vạc dầu, rừng đao cũng biến mất. Con người
ta khi sống thường lo âu tới lúc chết đi, hoặc là bị gươm đao, hoặc là bị cho
vào vạc dầu hành hạ. Nhưng ở đây Tuệ Trung như nhiên trước mọi thứ, bởi
theo Tuệ Trung Thượng sĩ thì tâm tĩnh, trí qoảng đạt, Tâm Ta là Tâm Như Lai
rồi thì mọi ảo cảnh cũng như hung cảnh đều tan biến, trước mắt chỉ là sự an
bình. Gạt bỏ sự sợ hãi con người nên tìm tới sự hành đạo, dưỡng tâm, nuôi
chân tính. Chỉ có sự sửa đổi chân tính, bản tâm tìm bến giác thì mọi huyễn ải,
hư vô đều tan hết. Sự thanh khiết của chân tâm giúp con người bình thản
trước mọi không gian dù là địa ngục hay khi ở thiên đàng.
3.2.3.2. Thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ
Thời gian trong thơ hay là thời gian nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn học
luôn là điểm sáng để người đọc tìm đến và suy ngẫm. Bởi trong dòng chảy đó,
tác giả đưa vào thời gian những ẩn ức của quá khứ, niềm hy vọng của tương
lai hay những tiếc nuối của hiện tại. Đó là thứ thời gian của tuyến tính, đôi khi
với dụng tâm nghệ thuật nó lại trở thành sự phi tuyến tính trong mỗi tác phẩm
văn học. Tuy nhiên thời gian trong thơ Thiền thì khác, đó là kiểu thời gian của
quy luật, thời gian của nhân quả luân hồi, hay thời gian của cảm thức mà nhà
thơ muốn bày tỏ về sự trực ngộ của mình. Nó không đơn thuần chỉ là quá khứ,
hiện tại, tương lai. Nó trở thành thời gian của thời gian, không phải là thứ thời
gian tâm tưởng đơn thuần mà là sự trực ngộ của quy luật tuần hoàn vũ trụ.
Niên lai hạ hạn hữu thu lâm,
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm.
80
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ
Bạch đầu không phụ áu dân tâm.
(Mấy năm liền mùa hè bị hạn, mùa thu bị lụt
Lúa khô mạ thối tai hại rất nhiều.
Đọc ba vạn sách mà thành vô dụng,
Đầu bạc tuổi già, luống phụ lòng dân !)
(Mậu thân chính nguyệt tác - Trần Nguyên Đán) [29, tr.108]
Tác giả Trần Nguyên Đán có nói tới thời gian trong bài thơ “Mậu thân
chính nguyệt tác”. Đó là những thời gian cụ thể, khi tác giả nói về hoàn cảnh
thiên tai lũ lụt. Thời gian trong đoạn thơ trên không mang tính phiếm chỉ, nó
cụ thể theo trật tự tuyến tính “tuổi đã già”. Tác giả thương tâm cho cảnh
người dân lam lũ khổ cực, tác giả muốn cùng giúp đỡ người vượt qua can qua
nhưng tuổi đã già.
Xuân lai bách thảo sinh
Dịch: Mùa xuân đến thì trăm cây cỏ sinh sôi)
Trì giới kiêm nhẫn nhục
Dịch: Trì giới và nhẫn nhục
Cũng nhắc về thời gian của mùa vụ nhưng thời gian “mùa hè”, “mùa thu”
trong thơ Trần Nguyên Hãn chỉ về thời gian của quá khứ. Còn nhắc tới
“xuân” trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ đó thờ thời gian thiên nhiên là thời
gian của bốn mùa tuần hoàn theo quy luật và trải dài trong dòng suy tưởng
của Tuệ Trung, là thời gian của hoa cỏ, là thời gian của muôn loài vật theo
quy luật tuần hoàn và tác sinh. Thời gian thường nhật của đời người, của tạo
cảnh trong thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ trở thành thời gian mang âm
hưởng của Phật giáo, thứ thời gian nhìn trong đó người ta thấy sự tuần hoàn
81
của vạn vật, xuân đến trăm hoa nở, thu về nước thu sâu.
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu
Thu đáo vô phi thu thủy thâm
Dịch: Mùa xuân đến thì hoa xuân cười
Mùa thu đến thì không nơi nào không phải là nước thu sâu.
(Phật tâm ca - Bài ca tâm và Phật)
Trong thời gian bốn mùa trong năm, tác giả nhắc đến sự tuần hoàn của tự
nhiên, xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân đến thì trăm hoa đua nở, thu về nước
thu sâu. Thời gian trải dài trong quy luật sinh tồn, mọi thứ thấy rồi mất, đẹp
rồi tàn, không có cái gì đứng yên, mọi thứ tuần hoàn theo quy luật sớm nở tối
tàn. Qua đó Tuệ Trung Thượng sĩ muốn nhắc tới điều quan trọng nhất của
cuộc sống là thuận theo lẽ tự nhiên, nghịch lại với lẽ tự nhiên, trái với quy luật
sẽ vấp phải sự khổ đau, và nguồn khổ cũng từ đó mà sinh ra. Trong tứ diệu
đế, thập nhị nhân duyên Phật tổ đã giải thích con đường dẫn đến khổ và cách
hóa giải nó, một trong những lý lẽ mà Phật tổ đưa ra là sự ham muốn và tham
lam của con người, muốn tất cả rồi mất tất cả. Sống tùy duyên thuận tự nhiên
thì sự an nhiên thường lạc sẽ ngự tiền. Con người quên mất quy luật tự nhiên,
mà tham vọng chạy theo sự giả tạm nhất thời, và đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến nguồn khổ. Để diệt khổ ngoài việc trút bỏ vọng tâm, từ bỏ những khởi
nghiệp làm dao động thân tâm và an nhiên theo quy luật của vạn vật sẽ có sự
hằng thường như nhiên. Nhưng thế giới này, cuộc đời này, con người luôn
quên đi quy luật vận hành của vạn vật và đôi khi thức tỉnh tự sợ chính mình.
Thời gian thiên nhiên mở ra trước mắt một bầu trời hiện tiền của sự hằng
thường đến đi, sinh diệt, câu thơ nói về thời tiết đơn thuần, song đằng sau đó
82
là một sự tiên nghiệm về quy luật tự nhiên.
3.3. Hình tƣợng và xúc cảm
3.3.1. Thiền gia là chủ thể trữ tình trong thơ
Con người trong văn học Lý - Trần là hình ảnh viên mãn về tài cũng như
xuất chúng trong thế giới chứng ngộ, đó là thế hệ những cá nhân như Vạn
Hạnh, Viên Chiếu, Định Không,Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Nhần
Tông, và Tuệ Trung Thượng sĩ. Chưa khi nào trong lịch sử dân tộc Đại Việt,
lịch sử Phật giáo hệ thống thư tịch, thơ ca mang dấu ấn riêng, mạnh, cho cả
một thời đại như triều đại Lý - Trần. Đó là những áng thơ văn tuyệt bích của
dòng văn học Việt. Những cá nhân trong thời đại Lý - Trần cũng là những cái
tôi cá tính trên văn đàn và trong chính trường, có thể nói đó là thời kỳ của
nhân tài. Trong hệ thống văn học Lý - Trần thì mảng thơ văn, cụ thể là thơ
Thiền là điểm sáng và là viên ngọc được các Thiền sư mài dũa tinh tế trong
tâm thức và khởi tả trước hiện thực. Trong thơ Thiền ngoài những tư tưởng về
giáo lý, về thiên nhiên cảnh vật, thì hình ảnh con người được soi chiếu qua
lăng kính của bản tâm chứng ngộ, và qua những xúc cảm tinh tế đời thường
thi nhân. Tuệ Trung Thượng sĩ là ngọn đèn dẫn đường cho Đệ nhất Tổ Trúc
Lâm Điều Ngự - người khởi nguồn cho dòng Thiền nhất tông Việt Nam triều
Trần, với tư tưởng “Cư trần lạc đạo”. Thượng sĩ xuất thân vương tôn, chăm
mài Nho học nhưng ông lại yêu mến cửa Thiền, và hòa tư tưởng của mình
cùng với tư tưởng Lão Trang. Trong những vần thơ của ông, tính giáo lý Phật
giáo còn có cả những chí khí của người quân tử, và thú tiêu dao của phong
thái Lão Trang. Thời đại Lý - Trần là thời đại hệ tư tưởng tam giáo đồng
nguyên. Bên cạnh sự giao lưu văn hóa với hai nền văn hóa lớn của lịch sử thế
giới là Trung Hoa và Ấn Độ. Đại Việt được hấp thu những tinh túy của văn
hóa nhân loại, cùng với nền văn hóa bản địa đã tạo nên sự phức hợp đan xen
giữa các dòng trào lưu và tư tưởng. Tuy nhiên tư tưởng chính thống mà các
83
triều đại giai đoạn này dựa vào là hệ tư tưởng Phật Giáo, nhưng cung cách
Lão Trang, Nho Khổng không hề mờ nhạt. Tất cả được hòa lẫn, không bài trừ
nhau, tạo thành một diện mạo, một khuôn mặt văn hóa Lý - Trần sắc nét, ngời
sáng trong dòng chảy tư tưởng dân tộc. Tuệ Trung Thượng sĩ là cá nhân xuất
chúng trong thời đại đó. Ở ông hội tụ những phẩm hạnh của một đấng nam
nhi “cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Bên cạnh đó còn là nhân cách dung hợp
giữa các hệ tư tưởng của Lão Khổng, với thú tiêu dao và những bài ca phóng
cuồng bộc lộ vô ngã của chính mình trước thiên địa hữu tình.
Phong thái tiêu dao của Tuệ Trung Thượng sĩ ảnh hưởng từ Thiền sư Tiêu
Dao - người đắc pháp cùng Thiền sư Ứng Thuận một trong những nhân vật
xuất sắc của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Tiêu Dao là sư phụ truyền pháp cho
Tuệ Trung Thượng sĩ. Ngay cái tên hiệu của ngài đã mang đậm một phong
thái của sự thiên dịch, sự di chuyển. Tuệ Trung Thượng sĩ ngoài ảnh hưởng
Thiền tông từ Thiền sư Tiêu dao, trong phong cách thơ của ông còn thấm
đượm tinh thần Nho Lão. Tuệ Trung Thượng sĩ ngoài là con người Thiền tinh
tấn còn có một phong thái tiêu dao của phong cách Lão Trang, và sự ẩn dật,
lênh đênh an nhàn của một nhà Nho.
Giang hồ tự thích 1 Dịch:
Hồ hải sơ tâm vị thỉ ma Giang hồ lòng cũ chửa gọt mài
Quang âm như tiễ hựu như thoa Ngày tháng thoi đưa lại tên bay
Thanh phong, minh nguyệt sinh nhai túc Nước biếc non xanh đời thừa thải
Lục thủy thanh sơn hoạt kế đa Trăng thanh gió mát đủ sinh nhai
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn Buồm coi một cánh qua sông sớm
Vãn hoành đoản địch lộng yên ba Sáo trúc đưa ngang lúc nắng phai
Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức Tăm bóng Tạ Tam nay đã bật
84
Lưu đắc không thuyền các thiển sa Thuyền không bãi cạn đậu chờ ai
Tuệ Trung Thượng sĩ có tới hai bài thơ mang nhan đề là “Giang hồ tự
thích”, trong hai bài thơ hình ảnh con thuyền là tâm điểm để nói về tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Hình ảnh con thuyền độc mộc là hình ảnh mang đậm
chất của nhà Nho hưởng nhàn. Sự thanh cao tinh tế của con người được bộc lộ
rõ trong từng câu thơ. Với bài thơ “Giang hồ tự thích 1”, hình ảnh con người
ngao du sơn thủy với nước biếc non xanh, trăng thanh gió mát, rồi chiếc
thuyền con, cây sáo trúc. Tất cả những hình ảnh đó khiến người đọc liên
tưởng tới một nhà Nho hơn là một Thiền nhân. Thiền gia làm thơ không phải
lúc nào cũng phải cất lên những lời kinh câu kệ. Đối với Tuệ Trung Thượng sĩ
sống đúng với hiện thực đã là một cách sống Thiền. Sự hòa hợp giữa Nho -
Lão - Phật trong con người Tuệ Trung Thượng sĩ, càng khẳng định lối sống
tùy duyên, tùy tục hòa chan ánh sáng thế tục vào trong thơ trong đạo của
mình. Tuệ Trung Thượng sĩ là Thiền gia tại thế, nhưng nhân cách và phẩm
hạnh của ngài sánh ngang với bậc thanh văn bồ tát. Lối sống của ngài sau này
được Trần Nhân Tông ca ngợi trong Thượng sĩ hành trạng. “Ôi thần vận của
Thượng sĩ thật nghiêm túc. Nét mặt và cử chỉ phẳng phiêu ngay thẳng. Những
điều nói về đạo huyền, bàn về pháp diệu của Ngài, như gió mat, tợ trăng
thanh. Đương thời các hàng thạc đức, nơi nơi đều cho Thượng Sĩ là người tin
sâu biết rõ, nhưng thoáng ngược, thoáng xuôi, thật khó mà lường được” (12,
tr.510). Đó là những lời nhận xét tha thiết mà Trần Nhân Tông dành cho
Thượng sĩ, qua những ngôn từ biểu cảm đó, có thể thấy Thượng sĩ là người
đạo huyền uyên thâm, nhưng khó biết người suy nghĩ gì, khó biết được hành
xử của người. Bởi trong con người của Thượng sĩ, tư tưởng Tam giáo đồng
nguyên, tư tưởng đoàn kết dân tộc bao phủ, để rạch ròi đâu là Nho, đâu là Lão
Trang đâu là Thiền thật khó, vì trong Thiền có Lão, trong Thiền lại có Nho.
Nói những bài thơ chủ đề tiêu dao mang đậm phong vị Nho, Lão, nhưng ở đó
85
không hẳn không có Thiền. Nhân cách của Tuệ Trung Thượng sĩ thật là một
trong những tính cách điển hình của thời đại Lý - Trần. Thú tiêu dao, phiêu
bạt lênh đênh cùng sông nước, trăng trời, ta có thể hình dung tới Lý Bạch Đỗ
Phủ của đời Đường, hay Vương Duy:
Ngư chu trục thủy ái sơn xuân
Lưỡng ngạn đào hoa giáo cổ tân
Tọa khan hồng thụ bất tri viễn
Dịch:
Thuyền chài theo dòng nước yêu cảnh nước non mùa xuân
hai bên bở hoa đào nở trên bến cũ
mãi xem “hồng thụ” mà không biết đã đi xa [57].
Những câu thơ của Phật thi Vương Duy mang đậm chất Thiền thi, cảnh
con thuyền xuôi nước mùa xuân, cảnh hoa đào. Đó là vẻ đẹp trường tồn có
được trong xúc cảm giác ngộ từ hoa đào của nhà thơ. Tuệ Trung có xúc cảm
của cái tôi tiêu dao phóng thích giữa chốn nước non thanh bình. Những nước,
những ánh trăng thừa thãi, những cánh buồm đó nói lên tâm trạng an nhàn của
Tuệ Trung, không gian thiên nhiên và cảnh tượng làm nhân vật trữ tình trở
nên mênh mông, nhưng mênh mông trong cõi miên viễn của riêng mình. Sự
thong dong của nhà thơ, như hưởng thụ nhưng như trải qua và như đang vẫn
còn chờ đợi điều gì đó. Câu cuối bài thơ “Giang hồ tự thích 1”: “Thuyền
không bãi cạn đậu chờ ai”, câu hỏi nghi vấn, nhưng hỏi chỉ để hỏi không cần
trả lời, bởi rằng bản thân nhà thơ đã có câu trả lời. Bóng dáng Tạ Tam giờ đã
xa, chỉ còn hiện tại Tuệ Trung, chỉ còn thời đại của Thượng sĩ. Thuyền không,
sự nhẹ tênh của cảm giác, cũng là sự siêu thoát của thanh âm khi mọi nhộn
nhịp phía trên không lan tỏa và lôi kéo tâm hồn nhà thơ quây quần trong bức
tranh thiên nhiên đẹp dịu đó, có tiếng sáo vi vu qua nắng phai, có cánh buồm,
có người lữ thứ, nhưng kết thúc bài thơ lại là thuyền không đợi bến cạn,
86
dường như trong cuộc hành trình này, Tuệ Trung Thượng sĩ vẫn đi tìm một
điều gì đó. Tìm bản thân hay tìm lại điều đã qua, nhưng cuối cùng lại là
không tìm điều gì, chỉ là sự bâng khuâng của tâm trạng trước thiên nhiên, chỉ
là sự ngộ về bản tâm của mình. Tất cả những thanh âm trong trẻo kia rồi cũng
tiêu tan, tất cả gam màu nắng phai nước biếc rồi kia cũng không dung hợp
được tâm hồn của nhà thơ, khi bản thân nhà thơ cho rằng sự vật trong ánh mắt
chỉ là sự tạm bợ từ tâm vọng khởi ra, khi tâm tĩnh như nhiên thì mọi thứ lại
trở về đúng trạng thái của nó. Sự tiêu dao ngao du cũng thế, cuối cùng rồi
cũng không biết mình còn muốn thêm điều gì, hay chỉ là viễn du trong cõi
mộng huyền mà thôi. Hai bài thơ vui thích giang hồ đều có hình ảnh con
thuyền nhỏ, con thuyền là biểu trưng cho sự tiêu du, thanh tao, sông nước
mây trời của người nghệ sĩ. Ở đây tâm hồn nhà thơ là tâm hồn nghệ sĩ, nhưng
chất Thiền vẫn in đậm trong con người thi nhân ấy, vẫn tiêu dao, vẫn thả hồn
cùng mây trời sông nước nhưng vẫn nhận ra mọi điều cũng là ở chân tâm mà
ra. Tiếng chim nhạn, gió thu mênh mang (Giang hồ tự thích 2) là sự thức tỉnh
đối với nhà thơ, đó là những xúc cảm giác ngộ hòa lẫn với xúc cảm an nhàn
tự tại của Nho gia. “đủng đỉnh chèo đưa khỏi thác ghềnh”. Những lời thơ an
nhiên của Tuệ Trung, cho thấy không phải thơ ông chỉ nói về triết lý tôn giáo
mà bên cạnh đó còn có những xúc cảm bình dị thường nhân.
Thiên địa thiếu vọng hề hà mang mang
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương
Hoặc cao cao hề vân chi sơn
Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương
Cơ tắc xan hề Hòa la phạn
Khốn tắc miên hề Hà hữu hương
Hứng thời xuy hề vô khổng địch
Tịnh xứ phần hề giải thoát hương
87
Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa ….
Dịch:
Trời đất liếc trông chừ sao mênh mang
Chống gậy rong chơi chừ ngoài cõi xa
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ, cơm bố thí
Mệt thì ngủ chừ, chốn không làng
Lúc hứng thổi chừ, sáo không lỗ
Nơi thanh tịnh đốt chừ, giải thoát hương
Mỏi nghỉ chút chừ nơi vắng vẻ …
(Phóng cuồng ngâm) [12]
Phóng cuồng ngâm15 đơn thuần chỉ là khúc ca ngông nghênh của một
Thiền gia có tâm hồn nghệ sĩ. Thú tiêu dao của Thượng sĩ đạt đến đỉnh cao
khi “Đói thì ăn chừ cơm bố thí; Mệt thì ngủ chừ chốn không làng; Lúc hứng
thổi chừ, sáo không lỗ; Nơi thanh tịnh đốt chừ giải thoát hương”. Mặc nhiên
trong chốn đời hỗn tục này, tìm kiếm một tâm hồn thi nhân thoát thế hòa lẫn
một phong thái tiêu dao lãng tử của Lão trang và Nho giáo hẳn chỉ có ở
Thượng sĩ, tất cả những ngôn từ đó vừa phiêu du của tao nhân mặc khách vừa
chất chứa những xúc cảm giác ngộ của bậc Thiền nhân. Cũng vui thú giang
hồ, cũng tiêu dao, nhưng là tiêu dao của một Thiền nhân bởi sự cao hứng
cũng như chứng ngộ vô cùng của Tuệ Trung thể hiện “cơm bố thí, chốn
15 Có người cho rằng chữ “cuồng” trong bài Phóng cuồng này có nghĩa là ý khí mạnh mẽ chứ không phải điên cuồng, theo Lý Việt Dũng trong “thượng sĩ ngữ lục giảng giải” thì phóng cuồng ở đây không có nghĩa là điên cuồng hay cuồng nhiệt mà chẳng qua Thượng sĩ không muốn coi khúc ngâm của mình là một bài ca chứng đạo hay một bài kệ tụng truyền pháp mẫu mực trang nghiêm mà chỉ xem đó là một khúc hát nghông nghênh phóng khoáng có tính chất tiêu dao của một Thiền sư đạt đạo thắm đượm khí chất của một hn Nho sĩ lãng tử và một Đạo sĩ thoát tục. Đó là một con người phiêu diêu không bị ràng buộc
88
không làng, sáo không lỗ”. Sự khác người của Thượng sĩ hay chính là sự nhận
chân của nhà thơ về bản lai diện mục với hiện thực. Dù rằng có tiêu dao, hát
khúc ca ngông nghênh, và phiêu bạt chốn giang hồ, nhưng Tuệ Trung vẫn
hành xử trong phạm vi của bậc chân tu, vẫn ý thức được xung quanh thế giới sự vật hỗn mang. “Nơi thanh tịnh đốt chừ giải thoát hương16”. Khúc hát
ngông nghênh của Tuệ Trung Thượng sĩ là khúc ca về giác ngộ, về cuộc sống
hành Thiền của ngài, tất cả như được hiện lên qua từng vần thơ toát lên tính
chất ung dung tự tại, tất cả có cả Nho, Đạo, Thiền, nhưng tất cả đó đều bình
thường giản dị, không khác biệt, phi thường bí tàng. Dường như, Thượng sĩ
muốn bộc lộ về cuộc sống thường nhật của mình, cuộc sống của ngài đã kinh
qua nhiều biến cố, đã vượt qua nhiều thử thách, và cuối cùng ngài ngộ ra chân
lý, tất cả những điều đó là vô thường, hiện tiền. “Buông tứ đại chừ chớ nắm
giữ. Xong một đời chừ thôi ngược xuôi. Thỏa nguyện ta chừ, đạt cái ta vốn
thật. Sống chết bức nhau chừ, hề hấn gì ta!” (Phóng cuồng ngâm).
Bên cạnh con người tiêu dao, vui thích giang hồ trong thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ còn có những con người với phẩm hạnh cao đẹp. Một số bài thơ tác
giả viết về các bậc cao tăng đạt đạo ca ngợi đức hạnh của các Thiền sư tiền
bối. Phải kể đến: Tụng Thánh Tông đạo học (Ca tụng đạo học của Trần Thánh
Tông); Phỏng Tăng Điền đại sư (Viếng Đại sư Tăng Điền); Thượng Phước
Đường Tiêu Dao đại sư (Thăm Thiền sư Tiêu Dao ở tịnh xá Phước Đường);
Tặng Thuần Nhất pháp sư (Tặng pháp sư Thuần Nhất); Điêu Tiên Sư (Khóc
thương tiên sư)
Thánh học cao minh đạt cổ âm
16 Giải thoát hương là một trong năm phần hương, một là giới hương, Định hương, Tuệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương”. Dâng giải thoát hương để cúng giường giải thoát thân. Sách Khóa hư lục viết: “Hương này trồng từ rừng giới, tưới bằng nước Thiền Na, đốn về vườn Tuệ, róc bằng giao giải thoát. Rìu búa, sức người chẳng cần đến xuất hiện từ hình thế thiên nhiên.
89
Thiết nhiên Long tạng quán hoa tâm
Thích phong ký đắc khai quyền bảo
Tổ ý tương vô thấy thủy châm
Trí bát Thiền quan thông Thiếu Thất
Tình siêu giáo hải khóa Uy Âm
Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú
Thùy thính viên đề thâm xứ thâm
Dịch:
Thánh học cao minh đạt cổ âm
Đương nhiên Long tạng suốt gan tâm
Thích phong mở được tay cầm ngọc
Tổ ý kim kia thấy đáy trầm
Trí vượt ải Thiền thông Thiếu Thất
Tình siêu biển giáo vượt Uy Âm
Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp
Tiếng vượn ai nghe vẳng động thâm
(Tụng Thánh Tông học đạo)
Tạm lai tỉnh vấn cổ chùy Thiền
Tượng mạo kỳ đi tráng thả kiên
Huệ Khả thân tàm bì tủy ký
Triệu Châu thiên dữ hạc quy niên
Tu tri thế hữu nhân trung Phật
Hưu quái lô khai hỏa lý liên
Trân trọng già đà tùy hứng lễ
Kỷ đa mạn khước tử nhung chiên
Dịch:
Tạm tới thăm chơi vị cổ chùy
90
Vững vàng khỏi mạnh bậc kỳ di
Huệ Khả thẹn thùng điều da tủy
Triệu Châu duy cậy tuổi hạc quy
Mới biết cõi người còn có Phật
Lửa lò sen nở hạ lùng chi
(Thượng Phước Đường Tiêu Dao Thiền sư)
Bài thơ “Tụng Thánh Tông đạo học” được Tuệ Trung Thượng sĩ sáng tác
bằng tấm lòng kính cẩn của nhà thơ với đạo học của vua Trần. Trần Thánh
Tông là bậc hậu học của Tuệ Trung. Vua là một trong những bậc đế vương
anh minh thấu triệt đạo lý của triều Trần. Tuệ Trung Thượng sĩ dùng hết lời
vàng ngọc để ca ngợi đạo học của vua. Là con của Trần Thái Tông, cha của
Trần Nhân Tông, vua Trần Thánh Tông truy tầm học đạo, hiểu rõ yếu chỉ
Thiền tông nhưng ngài không xuất gia. Tuy không xuất gia nhưng kiến thức
và sự chứng ngộ của ngài đã vượt xa những gì mà mọi người nhìn thấy.
Những lời khen của Thượng sĩ dành cho vua Trần Thánh Tông, giống như sự
ca ngợi một người thông tuệ. Trong một lần vua Thánh Tông mời Tuệ Trung
tới cúng chay cho Hoàng Thái Hậu thiên cảm Thượng sĩ có đọc bài kệ:
Viết kệ trình kiến giải
Như dụi mắt thấy quái
Dụi mắt thấy quái xong
Lại rỡ ràng tự tại
Sau đó vua phê tiếp:
Rỡ ràng và tự tại
Cũng một thứ thấy quái
Thấy quái mà không quái
91
Thì quái ấy tự hoại.
Tuệ Trung nghe xong rất bằng lòng về bài kệ của vua, sự trao truyền qua
lại tham vấn giữa vua và Thượng sĩ thể hiện bằng lòng tôn kính và sự ngưỡng
mộ. Chính vua đã gọi Tuệ Trung là Thượng sĩ, một tên gọi tương đương với
phẩm hạnh của bồ tát, và chính đạo học của vua cũng làm Thượng sĩ khâm
phục. Sự truy tầm học đạo của vua Thánh Tông thể hiện qua những lời ca
tụng của Thượng sĩ thấy được vào thời đại Thượng sĩ Phật giáo chiếm vị trị
trọng yếu, từ vua quan cũng nhất tâm theo, và như thế người người trong
thiên hạ, kẻ sợ mà theo, người kính mà theo cũng không ít.
Trí vượt ải Thiền thông Thiếu Thất
Tình siêu biển giáo vượt Uy Âm
(Tụng Thánh Tông học đạo)
Sự am tường Thiền tông của vua, dường như chỉ có Tuệ Trung thấu hiểu
sự chứng ngộ của vua Trần Thánh Tông. Nhín bề ngoài người ta chỉ nhìn
được nét tài ba của vua mà không nhận thấy lý trí của ngài vượt qua núi Thiếu
Thất, tinh thần của ngài vượt qua biển kinh điển Phật giáo. “Tiếng vượn ai
nghe vẳng động thâm”. Câu cuối bài thơ ca tụng sự chứng ngộ của Trần
Thánh Tông. Đó là chỗ ngộ thâm sâu của nhà vua, và từ đó khuyên mọi người
hãy tìm quay lại vọng tâm của mình, hãy tìm tới chỗ thâm sâu như nhà vua để
giải tỏa những nghiệp lực và đạt được yếu chỉ của Thiền tông.
Tới bài thơ “Thượng Phước Đường Tiêu Dao đại sư”, ở đây hình ảnh con
người với phẩm hạnh cao đẹp được Tuệ Trung Thượng sĩ dùng ngôn ngữ ca
tụng cùng tri kiến của riêng mình, về đạo học cũng như nhân phẩm của Thiền
sư. Với những vần thơ thế sự, vần thơ về triết lý nhân sinh về giáo lý nhà
Phật, và còn những vần thơ ca tụng thánh hiền được Thượng sĩ trân trọng.
Công đức của các vị đối với Tuệ Trung lớn lao, và các bậc đại sĩ đó là tấm
92
gương mà trong lòng Tuệ Trung khâm phục và noi theo.
Huệ Khả thân tàm bì tủy ký
Triệu Châu thiên dữ hạc quy niên
Dịch: Huệ Khả thẹn thùng điều da tủy17
Triệu Châu duy cậy tuổi hạc quy
Thượng sĩ ví sự ngộ đạo của Thiền sư Tiêu Dao hơn cả. Ngay đến Huệ
Khả còn phải thẹn với chuyện ký biệt của Tổ Đạt Ma dành cho, và với tuổi tác
sánh ngang hạc quy của Triệu Châu cũng không đổi bằng được với sự chứng
ngộ của sư phụ Thượng sĩ. Tuệ Trung Thượng sĩ cho rằng sự chứng ngộ của thầy mình như “Lửa lò sen nở lạ lùng chi”18. Phẩm hạnh và đức độ của Thiền
sư Tiêu Dao là sự hiếm hoi trên cõi đời dung tục này. Với một số bài thơ dành
viết về Thiền sư Tiêu Dao cho thấy Thượng sĩ là người trân trọng kính lễ đối
với bậc tiền nhân, biết ơn và cả sự kính ngưỡng vô cùng đặc biệt dành cho
Thiền sư Tiêu Dao. Qua ngôn ngữ thán tụng của Tuệ Trung càng thấy được
hình ảnh con người trong thời đại Lý - Trần là những tấm gương chiếu sáng
cả bầu trời thế tục. Những con người vì dân tộc ra trận, vì sự hưng vong của
quốc gia mà dốc sức chống ngoại xâm. Và cả những con người với phẩm chất
17 Huệ Khả thân tàm bì tủy ký: quyển 3 sách Cảnh Đức Truyền Đăng lục chép: “…Sư muốn trở về Tây Trúc bèn nói với các môn nhân rằng “Ta sắp đi đây. Các ngươi mỗi người hãy tự nêu đắc sở ta xem”. Môn nhân Đạo Phó bạch: “Theo cỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, chỉ nên theo phần dụng của đạo”. Tổ bảo “ngươi được phần da của ta”. Ni Tổng Trì bạch: “ Chỗ hiểu của con hôm nay giống ngài A Nan nhìn thấy nước Phật A Súc. Chỉ thấy một lần thôi, không thấy lại nữa”. Tổ bảo “ngươi được phần thịt của ta”. Môn nhân Đạo Dục bạch: “Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng có. Chỗ thấy của con là không một pháp nào có thể đắc”. Tổ bảo: “người được phần xương của ta”. Sau cùng đến phiên Huệ Khả, ngài chỉ lễ bái Tổ rồi quay lại đứng yên chỗ cũ. Tổ bảo: “ngươi được phần tủy của ta”. 18 Trong kinh Duy Ma Cật đại 14 – 550 trung chép: Biểu thị ngũ dục mà vẫn thể hiện hành Thiền, khiến cho tâm ma hoảng loạn, không còn được tự tiện hại nữa. Trong lửa sanh hoa sen đáng gọi là hiếm thấy. Tại ngũ dục mà vẫn hành Thiền, chuyện hiếm thấy cũng như thế”
93
tiêu dao, với phẩm hạnh cao đẹp. Cả thời đại Lý - Trần nở rộ những đóa sen
ngát hương giữa đất trời Đại Việt. Những con người với sự chứng ngộ riêng
của bản tâm, đã mang đến hệ tư tưởng Việt những góc nhìn riêng, mới, đặc
sắc rõ nét. Có thể nói, chưa khi nào, con người hào hùng và đầy nhiệt huyết
dấn thân cho dân tộc, cũng như trao dồi kinh điển Phật pháp như thời đại Lý -
Trần từ vua tôn tới thứ dân, nhất nhất một lòng kính ngưỡng hiền tài, đạo học.
Dường như văn hóa và chính trị thời Lý - Trần đan xen hòa quyện trong thế
chân vạc ba chân của mối giao hòa tiếp thu những luồng văn hóa ngoại biên,
cộng hưởng với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, và hệ thống những cá
nhân xuất sắc, đã mở ra một thời kỳ với những tác phẩm văn học tiêu biểu
mang giá trị lịch sử tồn tại tới ngày nay.
3.3.2. Xúc cảm của Thiền gia
Tuệ Trung Thượng sĩ là khuôn mặt tiêu biểu của thời đại Lý - Trần trên
phương diện tư tưởng cũng như phương diện văn hóa văn học. Ở ông là sự
đan xen hòa quyện giữa trí làm trai và cái tôi tiêu dao, giữa mưu cầu an sinh
với sự vô thường trước thực tại. Tâm hồn Thượng sĩ như Trần Nhân Tông đã
nói, thật khó mà đoán định được suy nghĩ của ngài. Khi nào là thực khi nào là
hư, và khi nào là đúng khi nào là không. Tuệ Trung Thượng sĩ, ngọn đèn sáng
chỉ đường cho Trúc Lâm Đầu Đà, là bề tôi trung hiếu và một bậc chân tu lỗi
lạc. Trong sáng tác văn chương của ông có sự đan xen của thú tiêu dao (vui
thích giang hồ) có sự “cuồng say” với thực tại và là những khi thỏa nguyện
Thiền định của riêng mình.
Trong những bài thơ còn lại của Tuệ Trung Thượng sĩ một số bài là
những xúc cảm mang đậm chất tôn giáo, về sắc không sinh tử, phiền não, bồ
đề, niết bàn và chân như (Phật Tâm ca, thủ nê ngưu, an định thời tiết, vạn sự
quy như, phàm thánh bất dị, sinh tử dĩ nhàn, trụ trượng tử,…) hay đến những
bài về cảm xúc thường nhật cái tôi phiêu linh, và vui thú tiêu dao (Vui thích
94
giang hồ, Phóng cuồng ngâm..) rồi tới những xúc cảm về bản thân với sự
(nhập trần, thoát thế, dưỡng chân, chiếu thân), hay những lời khuyên giảng
với người học, (thế thái hư huyễn, thị chúng, khuyến thế tiến đạo), và tới
những bài thơ viết về phẩm hạnh của các bậc đại trí, đại đức, và cả những lời
khuyên giảng đối với các bậc học đạo chưa buông bỏ thế tục: (Thượng Phúc
Điền Tiêu Dao Thiền sư, Phỏng Tăng Điền Đại sư, điệu tiên sư, Họa Hưng
Trị thượng vị hầu, Tặng Thuần Nhất Pháp sư). Với hệ thống thơ ca phong
phú, những trước tác của tác giả còn ghi lại trong Thượng sĩ ngữ lục thể hiện
những xúc cảm đa dạng của bậc giác ngộ, của chân tu, của cái tôi thương mến
về lẽ đời, và xúc cảm trước cảnh tượng và những con người từng gắn bó với
Thượng sĩ. Thượng sĩ là một phong cách đa diện, đa diện nhưng không phức
tạp, đó là đôi khi tác giả để hồn mình phiêu ngập chân trời, đôi khi lại nhớ
mong cảnh người cũ, khi thì rõ sự triết lý uyên thâm về những giáo lý Phật
Pháp. Đọc thơ Thượng sĩ vừa có cảm xúc của một môn đồ học đạo, khi có
cảm xúc của cái tôi cố luyện rèn thân tâm giữa thế tục, hòa trộn ánh sáng của
đạo với ánh sáng của đời. Lúc lại vi vút mênh mông cùng với khúc tiêu dao,
và ngông nghênh với khúc hát không lời, thổi sáo không lỗ. Khi rảnh rang lại
đốt giải thoát hương để cầu giải thoát thân. Sự đan xen xúc cảm tôn giáo và
xúc cảm thẩm mỹ trong các bải thơ, thấy được Thượng sĩ là một con người
tiêu biểu và một gương mặt sáng của thời đại.
Tiểu kết:
Thế giới thẩm mỹ trong văn chương là sự tuyệt bích của thể tài, của ngôn
ngữ, không gian, thời gian, hình tượng và cảm xúc. Tất cả làm nên một chỉnh
thể văn học hoàn chỉnh. Tuy nhiên thế giới thẩm mỹ của văn chương chuyển
tải Thiền ngoài những điều vốn có của một tác phẩm thi ca, thơ Thiền Tuệ
Trung Thượng sĩ đã hội tụ đủ nhất sự vi diệu khi kết hợp kết hợp giữa tư duy
Thiền và tư duy thơ. Mỗi bài thơ trong sáng tác của Thượng sĩ đều chuyển tải
95
được những nội dung về tôn giáo. Đó là những triết lý về sinh tử, niết bàn, về
tính Không, và cả những cảm xúc của Thiền gia về con người trong cuộc
sống. Tuệ Trung Thượng sĩ là Thiền gia tại thế, cuộc đời hành Thiền, chứng
ngộ và giải thoát của ông được thể hiện qua thế giới thẩm mỹ của văn
chương. Tuy nhiên với thế giới thẩm mỹ trong văn chương của Tuệ Trung
không chỉ đơn giản là sự trác tuyệt trong mỗi ý thơ, vần thơ, thể tài không
thời gian, nhân vật trữ tình. Mà còn chuyển tải một tư tưởng Thiền, tư tưởng
Thiền đó thể hiện trên những phương diện của cá nhân tiêu dao, hình ảnh của
con người trong thời đại Lý - Trần. Đó là những con người với thú tiêu dao
cùng cuộc sống tuy duyên, tùy tục trong thế giới hỗn dung của thực tại. Là
con người với những phẩm hạnh cao đẹp. Hay là những không gian rộng lớn
và thời gian mênh mông của đốn ngộ, của quy luật sinh diệt tuần hoàn. Văn
chương của ông nói chung thơ Thiền nói riêng là những mạch nguồn cảm xúc,
khiến người đọc lúc trầm ngâm suy tư, khi thăng hoa bay bổng, lúc lại sực
tỉnh. Những tác phẩm văn học đó thể hiện nội tâm cũng như tính cách của Tuệ
Trung. Một trong những cá tính “hiếm” của thời Trần.
Qua nghiên cứu Văn chương chuyển tải Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ
chúng ta thấy được sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố thẩm mỹ và tôn giáo. Thẩm
mỹ trong văn học và chất Thiền trong văn chương có sự tương tác qua lại. Đó
là một khối thống nhất không phân định và tách rời. Trong một tác phẩm văn
học để nhận diện đâu là yếu tố tôn giáo (Thiền) đâu là yếu tố thẩm mỹ thì bản
thân những yếu tố đó đã bao hàm lẫn nhau, chứa đựng và hỗ trợ nhau để cùng
truyền đạt thông điệp của tác giả về tư tưởng của cá nhân, cũng như của cộng
đồng. Qua Ngôn ngữ, không gian thời gian, hình tượng cảm xúc, thơ Tuệ
Trung Thượng sĩ truyền tải được tính nghệ thuật của văn chương và tư tưởng
của tác giả. Những vần thơ đó thể hiện Tuệ Trung Thượng sĩ, một Thiền gia
96
nhập thế, sống tùy duyên và một Thiền gia giàu xúc cảm với cuộc đời.
Văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ là cả một thế giới thẩm mỹ chứa chất
những yếu tố và tự tính Thiền. Tác giả là một trong số ít ỏi các Thiền gia đời
Lý - Trần còn có nhiều trước tác mang tư tưởng và nghệ thuật cao. Tuệ Trung
Thượng sĩ không chỉ được tôn kính trời đại của ông, mà tới tận hôm nay
những thi liệu trong văn chương của ông là viên ngọc sáng mà các hậu nhân
97
đang ngay đêm mài dũa.
KẾT LUẬN
Bộ phận văn học Phật giáo Lý - Trần gồm nhiều những sáng tác lớn và có
nhiều giá trị. Việc tìm hiểu và đánh giá một tác phẩm Phật giáo trên phương
diện tư tưởng tôn giáo và xúc cảm thi ca quả là sự khó khăn không đơn giản.
Làm thế nào để những áng thơ văn ấy hiện lên với tinh thần Phật giáo và chất
nghệ sĩ nhiều xúc cảm của thi ca đơn thuần. Khai thác tác phẩm văn học dưới
những góc độ tư tưởng hòa lẫn hình thức đã khó, khai thác những tác phẩm
văn chương Phật giáo trên phương diện tư tưởng tôn giáo được chuyển tải và
đan xen với những yếu tố thẩm mỹ thật là “vạn trùng nan”. Nói là vạn trùng
nan nhưng không hẳn là bế tắc hoàn toàn. Với mỗi một tác gia trong giai đoạn
văn học Lý - Trần có những phong cách sáng tác không giống nhau. Chọn
nghiên cứu những tác phẩm văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ là chúng tôi
đang tìm đến một chân trời nhiều màu sắc và những áng mây đạo đời hòa
quyện trong sự dung hợp nhuần nhụy của con người đa tính cách. Vừa là chí
sĩ vừa là quan viên lại vừa là Thiền gia tại thế. Sự phức hợp trong một cá tính
tổng thể hẳn nhiên là sự lý thú đối với mỗi học giả khi kiếm tìm và nghiên
cứu, nhưng cũng là trở ngại khi làm nổi bật được tính cách đa nguyên nhưng
tư tưởng thì nhất nguyên đó. Tìm hiểu, lựa chọn và nghiên cứu tác giả Tuệ
Trung Thượng sĩ là một trong những thử thách cam go cần nhiều trải nghiệm
đòi hỏi sự nỗ lực cũng như là sự quyết tâm hay “dấn thân”, “thể nhập” lúc đó
mới mong cầu sự viên mãn. Tuy có những khó khăn trong quá trình nghiên
cứu về nhân cách lớn của triều Trần nhưng những kết quả đạt được thể hiện
niềm say mê, sự tôn kính cũng như những thể nghiệm đó phần nào được sáng
rõ.
Nghiên cứu đề tài về Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ
98
trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ chúng tôi đã làm
sáng rõ được những vấn đề cơ bản của thơ Tuệ Trung Thượng sĩ trong hệ
thống đa dạng của văn học Phật giáo Lý - Trần. Và qua những tác phẩm văn
chương của Tuệ Trung Thượng sĩ thấy được cuộc đời hành trạng, tu tập và
chứng ngộ của một “nhân sĩ - thượng sĩ - thi sĩ” (Nguyễn Duy Hinh). Thơ văn
Tuệ Trung Thượng sĩ là bộ phận của văn chương Lý - Trần. Nó có điểm
tương đồng và cũng có di biệt. Trên phương diện về tư tưởng truyền tải,
những sáng tác của Tuệ Trung thể hiện tôn chỉ của Thiền tông trong những
kiến giải khi rõ ràng, lúc ẩn ý về sinh tử, niết bàn, giải thoát, giác ngộ.
Thượng sĩ ngoài là một nhà thơ ông còn là một nhân sĩ xuất chúng của triều
Trần. Tuệ Trung cùng với quân dân trải qua những ngày tháng giao tranh bảo
vệ Tổ quốc trước xâm lăng, người còn là bậc thầy truyền đạo cho nhiều môn
sinh đệ tử, và góp phần không nhỏ trên bước đường nhận chân Thiền học của
Trần Nhân Tông. Cuộc đời cũng như sự nghiệp của Tuệ Trung Thượng sĩ gắn
với thời đại nhà Trần, Tuệ Trung là một cá nhân ưu tú trong khu vườn tinh
hoa của Thiền học Trúc Lâm.
Nghiên cứu Thiền trong văn chương của Tuệ Trung Thượng sĩ, chúng tôi
đã chỉ ra được những tư tưởng triết học của Phật giáo qua thơ văn Tuệ Trung .
Những tư tưởng Thiền học đó thể hiện trên mọi phương diện, mọi góc độ. Sự
lý giải về Thiền qua những bài thơ của Thượng sĩ khác với cách giải thích
Thiền của tác giả khác. Ở Thơ văn đó là sự cụ thể hóa từ góc độ phân tích
những triết lý tôn giáo qua những ngôn từ câu chữ, để thấy rõ những giá trị từ
xúc cảm tôn giáo của tác giả với hệ thống những bài thơ Thiền đặc sắc có giá
trị thơ ca Phật giáo Lý - Trần. Qua việc tìm hiểu phân tích những bài thơ của
tác giả Thiền gia trên phương diện những yếu tố tôn giáo thấy được Tuệ
Trung đã mang đến những áng thơ văn về những phạm trù “chân như”, “niết
bàn”, “sinh tử”, “phiền não bồ đề”, “sắc không”, “hữu vô… những cặp phạm
99
trù và những triết thuyết về tư tưởng Phật giáo được Tuệ Trung Thượng sĩ sử
dụng nhuần nhị qua những ngôn ngữ giàu hình ảnh, có khi nêu ra trực diện
những vấn đề tôn giáo đó để gợi mở cho người nghe nhìn nhận rõ. Những yếu
tố tôn giáo trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ là những
vấn đề mà người học đạo luôn luôn truy tầm mài dũa, những bài thơ Thiền
của tác giả vừa để bộc lộ suy tư của chính mình, nhưng cũng là những lời
huấn giảng sâu sắc mang hàm ý sâu xa để hậu nhân nghiền ngẫm và tìm cho
mình một lối đi riêng. Tất cả những bài thơ mang yếu tố tôn giáo với những
triết lý sâu sắc đó, đã gợi mở cho người đọc một cảm quan về nhân cách cũng
như là cách tu hành thực tập riêng của Thượng sĩ, người không xuất gia
nhưng lại ngộ đạo và chan hòa ánh sáng đạo vào với ánh sáng đời.
Văn chương của Tuệ Trung Thượng sĩ chuyển tải Thiền của Tuệ Trung
Thượng sĩ một cách rõ ràng đầy đủ và nhất quán một tư tưởng Thiền tông. Hệ
thống ngôn từ, đề tài, những hình tượng cảm xúc và không gian, thời gian
được tác giả đan xen với những yếu tố của Thiền học, những tư tưởng của
Thiền gia. Văn chương chuyển tải Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ, trước tiên là
thế giới thẩm mỹ của nhà thơ trước vũ trụ vạn vật, nhưng thế giới thẩm mỹ ấy
không chỉ dừng lại ở những cảm xúc thông thường trước cảm nhận về cái đẹp
thông thường của cuộc đời mà bao hàm những tư duy phi lô gic trực ngộ của
nhân tâm. Thế giới thẩm mỹ của thơ Tuệ Trung Thượng sĩ chuyển tải được sự
khô cứng, của những phạm trù triết học một cách rất tinh tế, khiến người tiếp
nhận được trải nghiệm và thực chứng những điều mà Thiền gia thể hiện. Qua
những vần thơ chứa đựng tư tưởng Thiền tông và thấy được sự đan xen giữa
Thiền trong văn chương, và văn chương chuyển tải Thiền được bộc lộ trong
một chỉnh thể văn học, có cả tư tưởng và có cả hình thức thể hiện.
Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã tìm hiểu và làm sáng rõ
những yếu tố Thiền, yếu tố thẩm mỹ trong mối quan hệ tổng thể của một
100
chỉnh thể thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ. Luận văn đã cố gắng thể hiện đầy
đủ nhất những dụng ý đã đặt ra khi nghiên cứu tìm hiểu Quan hệ giữa yếu tố
tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung
Thượng sĩ. Kết quả đạt được thể hiện tinh thần làm việc nỗ lực, niềm say mê,
kỳ vọng được góp vào hệ thống nghiên cứu về thơ văn của Tuệ Trung
Thượng sĩ. Đồng thời cũng là nền tảng tư liệu tham chiếu trong việc nghiên
101
cứu những tác giả Thiền gia khác của văn học Phật giáo Lý - Trần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tuấn Anh (2006), Mối quan hệ giữa xúc cảm thẩm mỹ và xúc
cảm tôn giáo trong tác phẩm Khóa hư lục, Luận văn thạc sĩ Khoa học Ngữ
văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG Hà Nội.
2. Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ Thiền Đường Tống, Nxb Đồng Nai.
3. Hoàng Văn Cảnh (2003), “Pháp bảo đàn kinh” và ảnh hưởng của nó đối
với các nhà Thiền học đời Trần, Luận án Tiến sĩ triết học, Viện Triết học
4. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp.
5. Nguyễn Duy Cần (1997), Phật học tinh hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
6. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập II, quyển
thượng, Nxb Khoa học Xã hội.
7. Nhật Chiêu (2007), 3000 thế giới thơm, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
8. Trương Trừng Cơ (2004) (Như Hạnh dịch), Thiền đạo tu tập Nxb Thuận
Hóa.
9. D.T. Suzuki (1999) (Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn), Nghiên cứu
kinh Lăng Già, Nxb Thuận Hóa, Huế.
10. D.T. Suzuki (2006) (Trúc Thiên dịch), Thiền luận, 3 tập, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
11. D.T. Suzuki (2000) (Thuần Bạch biên dịch), Thiền, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
12. Lý Việt Dũng (2002), Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục dịch giải, Nxb Mũi
Cà Mau, Cà Mau.
102
13. Lý Việt Dũng (Dịch) (2006), Cảnh Đức truyền đăng lục, Nxb Tôn giáo.
14. Vũ Dũng (1998), Tâm lý tôn giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Thích Nhất Hạnh (1964), Đạo Phật đi vào cuộc đời, Nxb Lá Bối, Sài
Gòn.
16. Thích Nhất Hạnh (2008), Đường xưa mây trắng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
17. Thích Nhất Hạnh (2009), Trái tim của Bụt, Nxb Tổng hợp Thành Phố
Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Henri Bennac (2005), Nguyễn Thế Công dịch, Dẫn giải ý tưởng văn
chương, Nxb Giáo dục.
20. Lưu Hiệp (1996), (Phan Ngọc dịch), Văn tâm điêu long, Nxb Văn học
21. Nguyễn Duy Hinh (1992), Phật giáo với văn học Việt Nam, Tạp chí Văn
học, (số 4).
22. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tuệ Trung Nhân sĩ – thượng sĩ – thi sĩ, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Nxb
Hội nhà văn Việt Nam.
25. Kiều Thu Hoạch ( 1965), Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lý - Trần, Tạp chí
văn học, (số 6).
26. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hướng văn học thời Lý - Trần,
Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ Thiền Việt Nam – những vấn đề lịch sử
và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
28. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý - Trần nhìn từ thể loại, Nxb
103
Giáo dục.
29. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X – Nửa
đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, tập 1+ 2, Nxb Bộ giáo dục-
Trung Tâm học liệu.
31. Kimura Taiken (1969), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Ban Tu Thư
Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Sài Gòn.
32. Krishnamurti (2004) (Nguyễn Tường Bách dịch), Đối diện cuộc đời,
Nxb Phụ nữ.
33. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà
Nội.
34. Nguyễn Công Lý (2003), Văn học Phật giáo Lý - Trần – Diện mạo và
đặc điểm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Trần Tuấn Mẫn (2006) (Dịch), Tứ đại Thiền gia ngữ lục, Nxb Phương
Đông.
36. Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
37. Thích Trí Quảng(2001 ), Tư Tưởng Phật giáo. Nxb Tôn giáo.
38. Nguyễn Kim Sơn (2010), Cội nguồn triết học của tinh thần Thiền nhập
thế Trần Nhân Tông, http://nguyenkimson.net
39. Phước Sơn – Trì Liên (Chủ biên) (2002), Thơ Thiền Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Trần Đình Sử (1999), Thi pháp văn học trung đại, Nxb Giáo dục.
41. Bùi Duy Tân (2005), Khảo luận dòng văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
42. Lê Thị Thanh Tâm (2007), Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý - Trần và
thơ Thiền Đường Tống, Luận án Tiến sĩ, Đại học KHXH&NV Tp Hồ Chí
104
Minh.
43. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ về văn học trung đại, Nxb
Khoa học Xã hội.
44. Lê Mạnh Thát (2004), Toàn tập Trần Thái Tông, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ
Chí Minh, tp Hồ Chí Minh.
45. Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Trúc Thiên (1968), Ngữ lục, Nxb Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
47. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) (1990), Thiền uyển
tập anh, Nxb Văn học, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb Văn hóa
Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.
49. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb
KHXH Hà Nội.
51. Phan Cẩm Thượng (1996), Bút pháp nghệ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
52. Thích Thanh Từ (1996), Khóa hư lục giảng giải, Thiền viện Thường
Chiếu, Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Thích Thanh Từ (Chủ biên) ( 2003), Những điều dạy về Phật của Trần
Nhân Tông. NXB Văn hoá Thông tin.
54. Thích Thanh Từ (1992), Pháp Bảo Đàn, Nxb Thành hội Phật giáo,
Thành phố Hồ Chí Minh.
55. Ngô Tất Tố (1942), Văn học đời Trần Việt Nam, Nxb Mai Lĩnh.
56. Đoàn Thị Thu Vân (1995), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của
thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI – XIV, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm thành
105
phố Hồ Chí Minh.
57. Đoàn Thị Thu Vân (1993), Quan niệm con người trong thơ Thiền Lý -
Trần, Tạp chí Văn học, (số 3).
58. Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
59. Viện Khoa học Xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), Tuệ
Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
60. Tầm Vu (1972), Tìm hiểu của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời
đại Lý - Trần qua tác phẩm văn học, Tạp chí Văn học, (số 2).
61. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
62. Nguyễn Đức Diện (2000), Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ,
106
Luận án tiến sĩ triết học, Viện triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
PHỤ LỤC
GIỚI THIỆU CÁC BẢN IN SÁCH TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC
Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục (gọi tắt là Thượng sĩ ngữ lục) là một tư liệu
Thiền tông được biên soạn vào thời Trần. Sách do “Trúc Lâm đại đầu đà đệ
nhất tổ Tịnh Huệ Điều Ngự giác hoàng khảo đính, Trúc Lâm hương đàn tự
pháp đệ tử tiểu đầu đà Pháp Loa Phổ Tuệ biên” tức do Pháp Loa biên soạn,
được Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông khảo đính và sau sách có bài bạt
của Trần Khắc Chung. Sách sưu tầm nhiều bài thuyết pháp và thi kệ của Tuệ
Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230-1291) và chưa biết niên đại ra đời do trong
các bản in không đề cập tới. Tuệ Trung Thượng sĩ là một tác gia lớn của văn
học đời Trần[1]. Trong các bản in không tìm thấy niên đại đời Trần nên chưa
biết sách được soạn năm nào. Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một tập ngữ
lục ra đời khá sớm ở nước ta còn lưu truyền đến ngày nay. Hiện sách đã có
nhiều người nghiên cứu, nhưng chưa tổng quan, giới thiệu sơ sài, chỉ chú
trọng tìm hiểu đến nội dung tập sách. Chúng tôi tìm được ba đợt in của sách,
một bản đời Hậu Lê và hai bản in đời Nguyễn. Tuy hai bản in đời Nguyễn
nhưng thực chất chỉ cùng dập từ một bộ ván chùa Pháp Vũ. Sau đây, xin giới
thiệu vài nét về các bản in sách được bảo tồn tại các thư viện.
1. Bản chùa Long Động:
Sách do chùa Long Động khắc ván trùng san nên gọi chung là bản Long
Động, được bảo tồn tại Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu A. 1932. Sách có
tất cả 44 tờ, mỗi tờ hai trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 15 chữ, gáy đề
“Thượng sĩ ngữ lục” khắc chữ, rõ ràng dễ đọc. Bài tựa đầu sách chiếm 4 tờ,
mặt a tờ 1 như dạng tờ bìa. Bố cục khá hay, chia làm 7 dòng, hai dòng ngoài
107
cùng ghi một bài kệ:
Thái hư nhất thể bản trường linh, tâm ấn nhân nhân nguyên tự thành.
Tam thế chư Phật truyền tâm ấn. tứ mục tương cố thái phân minh.
Phía giữa kẻ một khung vuông, bên trong một vòng tròn biểu thị sự viên
mãn. Bên trên có ba dòng chữ Hán, dòng giữa đề chữ Hán lớn “Trúc Lâm Tuệ
Trung Thượng sĩ ngữ lục”, hai câu hai bên: “Bồ đề tâm ấn, viên đông thái
hư”. Phía dưới bốn dòng chữ Hán, mỗi dòng một câu bốn chữ “sư đệ tứ mục,
tuệ nhãn tương giao. Ấn chứng như lai, truyền y tự tổ”.
Tờ 1b mới đi vào bài tựa. Dòng đầu ghi tác giả bài tựa “Trúc Lâm hội
thượng Yên tử sơn Long Động tự đồng tử tì kheo Tuệ Nguyên trùng san”
nghĩa là: Đồng tử tì kheo Tuệ Nguyên chùa Long Động núi Yên Tử trên hội
Trúc Lâm trùng san. Bài tựa do chính Tuệ Nguyên soạn vào năm Quí Hợi
niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683) nhà Lê. Trong một bài nghiên cứu của tác
giả Đồng Dưỡng đã chứng minh Tuệ Nguyên là tên gọi tắt chùa Tuệ Đăng
hòa thượng Chân Nguyên Thiền sư trụ trì chùa Long Động. Bài tựa có khẩu
khí của Thiền sư Chân Nguyên nên biết rõ do Nguyên soạn mà ông gọi tắt tên
mình là Tuệ Nguyên[2].
Phía sau bài tựa có bài Lược dẫn Thiền phái đồ tịnh tự dẫn từ tờ 4b đến
6a. Theo học giới, bài này cũng được soạn vào đời Trần, có thể in vào trước
bộ Ngữ lục.
Phần nội dung chia làm 4 phần:
1. Đối cơ: từ tờ 6b đến tờ 17a6
2. Thi tụng: từ tờ 17a7 đến tờ 35a4
3. Thượng sĩ hành trạng: từ tờ 35a5 đến 40a2
4. Chư nhân tán tụng: từ tờ 40a3 đến tờ 44a.
Tờ 44b7 ghi “Thanh hà huyện Hào xá xã bộ binh thư tả Huệ Nghĩa bái
108
tả” tức sách do Tuệ Nghĩa giữ chức bộ binh thư tả người Hào Xá huyện
Thanh Hà chép. Dòng cuối ghi “Trần triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục” chữ
Trần viết theo lối kiêm húy đời Lê, phía dưới có chữ “chung” tức hết tập sách.
Dòng tiếp theo đề “Bản lưu tại Yên Tử sơn Long Động tự dĩ hiển hậu ấn, học
thức kỳ xứ” nghĩa là: bản lưu tại chùa Long Động núi Yên Tử đề cho người
sau biết mà in, kẻ học thức biết nơi mà tìm. Mặt b ghi danh sách tăng tục công
đức in sách. dòng đầu chữ lớn “Thiệu thừa pháp chỉ tì kheo Chân Thiền cập
đạo tràng” và tiếp đó là thập phương công đức, khắc chữ nhỏ, mỗi khung
được khắc hai dòng nhỏ.
2. Bản chùa Pháp Vũ:
Sách được trùng san vào năm Quí Mão niên hiệu Thành Thái thứ 15 do tỳ
kheo Thanh Cừ chùa Pháp Vũ thôn Quảng Nội xã Đồng Lại tổng Đông Cao
huyện Vĩnh Lại phủ Ninh Giang tỉnh Hải Dương (gọi là bản chùa Pháp Vũ).
Theo tờ cuối ghi rõ “Cựu bản lưu tại Đông Triều huyện An lâm xã Đoan
Nghiêm tự” tức bản cũ được gìn giữ tại chùa Đoan Nghiêm, xã An Lâm huyện
Đông Triều. Phía sau bài tựa trùng san của Tuệ Nguyên chùa Long Động có
ghi niên đại “Cảnh Hưng nhị thập tứ niên tuế thứ Quí Mùi đông tiết cốc nhật
trùng san” nghĩa là: trùng san vào ngày lành tiết đông năm Quí Mùi niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 24 (1763). Nhiều nhà nghiên cứu, khi sử dụng bản này đều
cho bài tựa viết năm Cảnh Hưng thứ 24, thực chất Tuệ Nguyên viết năm
Chính Hòa thứ 4 theo như ở bản A. 1932. Tập Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục
này được đóng trước tập “Tam tổ thực lục”, phía sau của bộ sách có bài của tì
kheo Thanh Cừ. Trong bài đó thì sư Thanh Cừ trước chưa tìm được Thượng sĩ
ngữ lục, sau tìm thấy nên cho khắc in rồi đóng vào trước bộ Tam tổ thực lục
mà bản tự đã khắc ván vào năm Thành Thái thứ 9. Do đó mà có hai loại bản
Tam tổ thực lục, một bản giấy in riêng và một bản đóng chung với Thượng sĩ
ngữ lục. Bản in riêng Tam tổ thực lục được dập vào trước những năm Thành
109
Thái thứ 15 (1903).
Thượng sĩ ngữ lục gồm có 47 tờ, mỗi tờ hai trang, mỗi trang có 8 dòng,
mỗi dòng 14 chữ, khắc chân phương, rõ, đẹp. Trên gáy, phía trên đề “Thượng
sĩ ngữ lục” phía dưới đánh số tờ. Trước sách có bài Trùng san Thượng sĩ ngữ
lục tiểu dẫn do tì kheo Thanh Hanh soạn vào năm Thành Thái thứ 15 (1903).
Bài tiểu dẫn chiếm nguyên một tờ. Kế đến là một tờ dạng mao đầu mà bản A
1932 đã in. Kể từ đây, cách trang trí khá giống với bản trên. Riêng tờ cuối,
mặt b ghi “Trần triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục chung” tức hết nội dung
sách Thượng sĩ ngữ lục. Phía sau còn 4 dòng, ba dòng ghi đoạn văn mà sách
dựa vào tập Hoàng Việt văn tuyển[3] bổ sung thêm cứ liệu về Tuệ Trung.
Chính đoạn văn này mà nhiều người tin theo cho Tuệ Trung là Trần Quốc
Tảng, gây ra nhều tranh cãi, khác với bài Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân
Tông soạn nói rõ, Tuệ Trung là con cả của Trần Liễu. Dòng sau cùng ghi lại
nơi tàng bản cũ mà ta đã nói trên.
Bản Pháp Vũ, ngoài chính văn còn thấy sách có chú thích, khảo dị các từ.
Có thể công tác này do Thanh Hanh kiểm hiệu? Sách không còn bản in chùa
Đoan Nghiêm, mà còn bản chùa Long Động nên tra phần đó thấy khá giống.
Mỗi góc chú đều đề “cựu” tức bản cũ. Đôi khi các bản in dùng từ theo lối cổ,
bản mới đính chính lại cho hợp lối chữ đương thời.
3. Bản Việt Nam Phật Điển tùng san:
Năm 1943, Hội Phật Giáo Bắc Kỳ đứng in bộ Việt Nam Phật điển tùng
san. Hội nhờ Trường Viễn Đông Bác Cổ giúp đỡ cho công tác sao dập. Theo
tổng mục, Bộ đó gồm có 8 tập như: Bát Nhã trực giải, Pháp Hoa đề cương,
chư kinh nhật dụng, lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi, thụ giới nghi phạm
tổng tập, trần triều dật tồn Phật điển, Khóa Hư và Kế đăng lục[4]. “Thượng
sĩ ngữ lục” nằm trong tập thứ 6 với tiêu đề trần triều dật tồn Phật điển.
Tờ đầu tiên của tập Trần triều dật tồn Phật điển ghi rõ Việt nam Phật điển
110
tùng san, Hà Nội Viễn Đông bác cổ họa viện hộ san, Hà Nội Bắc Kỳ Phật
giáo tổng hội phát hành. Mặt b ghi các bậc tôn túc chứng minh mà sách đề
“chứng minh đạo sư
Cảnh Linh tự hòa thượng thích Quang Minh
Hưng Long tự hòa thượng Thích Thanh Thịnh
Bảo Khám tự hòa thượng Thích Doãn Hài
Hương Sơn động Thiên Trù tự hoà thượng Thích Thanh Tích
Yên Ninh tự hòa thượng thích Tâm Đức
Tuệ Tạng Thiền sư Thích Thanh Thuyên
Bắc kỳ Phật giáo tổng hội ấn hành kinh điển bộ vựng tập”
Tờ thứ hai ghi Trần triều dật tồn Phật điển, bên phải đề chữ nhỏ Việt Nam
Phật điển tùng san chi lục, tức quyển 6 của bộ Việt Nam Phật điển tùng san.
Mặt sau ghi mục lục gồm: Thượng sĩ ngữ lục, Tam tổ thực lục, Thiền đạo yếu
học và Bản hạnh ngữ lục. Thực chất, hai phần Thiền đạo yếu học và Bản hạnh
thực lục nằm trong tập Tam tổ thực lục. Tờ thứ ba mới đến tờ bìa của bộ
Thượng sĩ ngữ lục. Từ đây, sách dựa vào bản ván chùa Pháp Vũ in nguyên
Thượng sĩ ngữ lục và Tam tổ thực lục. Sách in cả bài tiểu dẫn của Thanh
Hanh cho đến tờ 47 là hết phần Ngữ lục. Ở đây không mô tả vì đã nói ở mục
Bản chùa Pháp vũ rồi.
Trang cuối của bộ sách Viện Nam Phật điển tùng san có 7 dòng chữ Pháp,
dịch từ tờ đầu của bản chữ Hán, phía dưới cùng ghi “HA NOI 1943” tức được
in năm 1943 tại Hà Nội.
Tóm lại, qua giới thiệu ba bản in sách Thượng sĩ ngữ lục, có thể đi tìm
được bản in tốt nhất dùng trong công việc nghiên cứu văn bản cũng như công
bố bản dịch. Đó chính là bản in chùa Long Động với niên đại xưa, tức năm
Chính Hòa thứ 4 (1683). Bản in chùa Pháp Vũ trùng san dựa trên bản in chùa
111
Đoan Nghiêm khắc ván vào năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763). Bản Đoan
Nghiêm hay bản Pháp Vũ thực sự là “phỏng lại bản Chính Hòa”[5]. Bản Pháp
Vũ chỉ dùng trong công việc đối chiếu các văn bản nhằm làm sáng tỏ cho bản
cần công bố.
[1] Theo thống kê của Nguyên Huệ Chi mục Khảo Luận văn bản của sách
Thơ văn Lý - Trần, tập 1 thì Thượng sĩ ngữ lục bao gồm 72 bài thơ, kệ, ngâm,
tụng và 1 chương ngữ lục của Trần Tung, 12 bài thơ và văn của 10 tác giả
khác (tr.115).
[2] Đồng Dưỡng, “Đi tìm một số bài tựa, bạt của Thiền sư Chân Nguyên”,
trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo, số 113.
[3] Đối chiếu bản Hoàng Việt văn tuyển, quyển 1, tờ 21a4 thì khá giống với
lời chú thích trong Thượng sĩ ngữ lục. Chỉ khác mấy từ cuối, bản Hoàng việt
văn tuyển đề “Hựu tác thử ca”, còn Thượng sĩ ngữ lục ghi “tịnh tác Phóng
Cuồng ca”.
[4] Dựa vào Tổng mục trong Bát nhã trực giải, tập 1 của bộ Việt Nam Phật
Điển tùng san. Pháp Đăng viện tàng thư.
112
[5] Dùng chữ của Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn Lý - Trần, tập 1, tr. 113.