VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ GIÀU TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THỊ GIÀU TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự chỉ dẫn của thầy hướng dẫn khoa học. Các kết quả nêu trong luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, vídụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn
Huỳnh Thị Giàu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU
TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung .................................................... 7
1.2. Đặc điểm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .. 12
1.3. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong xét xử vụ án hình sự và một số
nguyên tắc tố tụng hình sự .............................................................................. 14
1.4. Ý nghĩa của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm ................................................................................................................. 17
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH ......................................... 21
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung 21
2.2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định ..................................... 38
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN .... 64
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................................... 64
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................. 64
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm ................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA : Bộ Công an
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tố cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án TAND tỉnh Bình Định đã thụ lý, xét xử và trả
hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều trả bổ sung từ năm 2016 đến năm 2020 ....... 39
Bảng 2.2: Thống kê số vụ án TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ, Viện kiểm sát
chấp nhận, không chấp nhận điều tra bổ sung năm 2016 đến năm 2020 ......... 40
Bảng 2.3: Thống kê số vụ án Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng
xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ năm 2016 đến năm 2020 ................... 41
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xác định sự thật khách quan vụ án trải qua một quá trình tố tụng, trong
quá trình đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách
quan, toàn diện đầy đủ, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội. Giải quyết xong vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn tố
tụng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, trong đó giai đoạn xét xử
có vai trò đặc biệt quan trọng. Tại phiên tòa, mọi chứng cứ, tài liệu, đồ vật thu
thập được trong quá trình điều tra, truy tố được Hội đồng xét xử đưa ra xem
xét công khai, đánh giá toàn diện trong quá trình tranh tụng. Từ đó, Tòa án
đưa ra phán quyết khách quan, chính xác, phù hợp với quy định của pháp luật.
Tòa án xét xử công bằng, nghiêm minh góp phần bảo vệ bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, quyền con người được bảo vệ, điều này được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015. Quyền con người, quyền công dân đượcNhà nước quan tâm coi
trọng, cam kết thực hiện bằng pháp luật. Đây là một trong những nhân tố
quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, góp phần đấu tranh
phòng chống tội phạm. Thông qua việc giải quyết xét xử các loại án, đặc biệt
là qua các phiên tòa công khai góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm
pháp luật, tôn trọng các quy tắc xử sự trong cuộc sống, nâng cao ý thức đấu
tranh phòng chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên,
không phải vụ án hình sự nào Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng thu thập
đầy đủ những tài liệu, chứng cứ để Tòa án có thể đưa ra xét xử. Thực tiễn
1
chứng minh rằng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hoặc qua thẩm vấn công
khai tại phiên tòa có nhiều trường hợp hồ sơ vụ án không thu thập đầy đủ tài
liệu chứng cứ để kết luận về tội phạm, người phạm tội hoặc quá trình điều tra,
truy tố còn vi phạm quy định nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hoặc trong hồ sơ
còn có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác, có đồng phạm khác.
Sau khi nghiên cứu BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, em thấy rằng còn
có những quy định chưa chặt chẽ cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp,thể
hiện rõ chức năng của từng cơ quan tố tụng, để nhận thức và áp dụng pháp
luật một cách thống nhất, tránh trường hợp hồ sơ vụ án hình sự trả qua trả lại
làm ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án, gây tốn kém chi phí tố tụng, ảnh
hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, yêu cầu đặt ra là phải nâng
cao chất lượng xét xử các loại án, đặc biệt là án hình sự được xác định là
nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp. Để nâng cao chất lượng
xét xử các vụ án hình sự thì việc áp dụng đúng đắn, chính xác và đầy đủ các
quy định của BLTTHS là một yêu cầu quan trọng hàng đầu. Trong hoạt động
tố tụng hình sự, việc Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung
khi có các căn cứ theo quy định tại Điều 280 BLTTHS năm 2015, hướng dẫn
tại TTLT số 02/2017 là hết sức cần thiết, đảm bảo cho việc xét xử vụ án
khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay.
Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm xét xử
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì việc nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án không những
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang
tính cấp thiết. Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài:" Trả hồ sơ đểđiều
tra bổ sung từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định" làm đề tài luận
2
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài trả hồ sơ
điểu để điều tra bổ sung được xây dựng thành đề tài luận văn thạc sỹ, tiến sỹ.
Các công trình có đề cập đến nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung như: Luận
văn Thạc sỹ luật “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa
án quân sự” của tác giả Bùi Đức Tùng (Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2018), Luận văn Thạc sỹ luật: “Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh” của tác giả Dương Phạm Đăng Khoa (Học Viện khoa học xã
hội, năm 2014). Luận văn Thạc sỹ luật: "Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hải Phòng"của tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền (Học viện khoa
học xã hội, năm 2016); Luận văn Thạc sỹ luật “Chất lượng xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tòa án quân sự ở Quân khu 3- Quân đội nhân dân Việt
Nam” của tác giả Trần Thị Tuyết Lành (2015); Luận văn Thạc sỹ luật: “Áp
dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của Tòa án Quân sự Quân khu
3” của tác giả Hoàng Hữu Qúy (2013); Luận án Tiến sĩ Luật học: “Áp dụng
pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án quân sự ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Dương Văn Thăng (2017), cũng như nhiều bài viết
của nhiều tác giả khác được đăng trên các tạp chí chuyên ngành Luật về vấn
đề này. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
về hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Định, đặc biệt khi BLTTHS năm 2015, TTLT số
02/2017 đã có hiệu lực thi hành nhưng nhận thức và áp dụng pháp luật tố tụng
về trả hồ sơ để điều tra bổ sung vẫn còn khác nhau, chưa được thống nhất.
Lý do nghiên cứu đề tài này là để góp phần nâng cao chất lượng trả hồ
3
sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Định trong thời
gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận,
thực tiễn, làm rõ những vi phạm, sai lầm và nguyên nhân, từ đó đưa ra các
giải pháp nâng cao chất lượng trong việc ra các quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung theo BLTTHS năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết mục đích nghiên cứu những vấn đề nêu trên, luận văn tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung nói
chung, trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng.
- Phân tích, đánh giá quá trình áp dụng pháp luật và thực tiễn trả hồ sơ
để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định trong thời gian qua;
phân tích những tồn tại hạn chế và các nguyên nhân dẫn đến việc Toà án phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng như việc ban hành các quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung đúng hoặc chưa đúng quy định pháp luật.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là:
- Những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật về hoạt động
trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định.
- Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong hoạt
4
động trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình
sự gồm Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố (ra cáo trạng) và Tòa án cấp sơ
thẩm. Tuy nhiên, theo như đề tài là từ thực tiễn của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định và với yêu cầu của luận văn thạc sỹ luật học, thì học viên chỉ tập trung
nghiên cứu những lý luận về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS
năm 2015; TTLT số 02/2017 tại TAND tỉnh Bình Định.
Mốc thời gian đề tài nghiên cứu đó là vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung
của TAND tỉnh Bình Định trong 05 năm gần đây (năm 2016 đến năm 2020).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài này là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp và quyền con
người được bảo vệ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: So sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê. Tác giả sử dụng những số liệu trong biểu mẫu thống
kê, các báo cáo tổng kết năm của Tòa án nhân hai cấp tỉnh Bình Định, báo cáo
thi đua từ năm 2016 đến năm 2020 của TAND tỉnh Bình Định; nghiên cứu các
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tổng hợp các tri thức khoa học pháp
luật tố tụng hình sự và các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2015, phân tích khái niệm, ý nghĩa của
5
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án. Trên cơ sở đó đề ra các
giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là công trình nghiên cứu về hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định.
Những kết quả nghiên cứu phục vụ yêu cầu thực tiễn nhằm nâng cao chất
lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND tỉnh Bình Định và yêu cầu nâng
cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự trong công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cầu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về trả hồ sơ điều tra bổ sung
tronggiai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều
tra bổsung trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và thực tiễn thi hành tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ để
6
điều tra bổsung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ
SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng
gồm Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tuân
thủ thực hiện chặt chẽ các trình tự thủ tục tố tụng nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án, giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật. Cơ quan cảnh sát
điều tra, VKSND, TAND đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
Tuy nhiên, các cơ quan này phải có mối quan hệ phối hợp, chế ước lẫn nhau
trong quá trình giải quyết vụ án để không bị chồng chéo, vụ án được giải
quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong thực tiễn, không phải ở
giai đoạn tố tụng nào việc điều tra, thu thập và đánh giá chứng cứ cũng đầy
đủ, chính xác và đúng trình tự thủ tục luật định. Vì vậy BLTTHS quy định
một số điều luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung để các cơ quan tiến hành tố
tụng căn cứ vào đó mà thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình một
cách chặt chẽ.
Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay không có khái niệm
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điều 280 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định căn
cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán; TTLT số 02/2017 hướng dẫn
các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại Điều 280 và khoản 3
Điều 298 BLTTHS năm 2015 khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Hội đồng xét xử quyết định trong giai đoạn
xét xử tại phiên tòa [40, tr.8].
7
Theo tác giả: “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động tố tụng để cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khắc phục, bổ sung làm rõ thêm những
chứng cứ quan trọng còn thiếu, hoặc phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng,
nhằm giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo để không bỏ lọt
tội phạm và không làm oan người vô tội”.
1.1.2. Thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn
truy tố thì thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung thuộc Viện kiểm sát; nếu vụ
án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ
sung thuộc Thẩm phán; nếu vụ án trong giai đoạn xét xử thì thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử.
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án
theo Điều 245 BLTTHS, yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung khi thuộc một
trong các trường hợp: hồ sơ vụ án còn thiếu chứng cứ để chứng minh một
trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà Viện kiểm sát
không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều
tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến
vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng [31, tr.179]. Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố nhằm khắc phục sai sót trong quá trình điều tra, qua đó
có thể đủ căn cứ truy tố một người trước Tòa án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung theo Điều 280 BLTTHS, khi thuộc một trong các trường hợp: Khi thiếu
những chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; có căn cứ
cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành
vi khác mà BLHS quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn có đồng
8
phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội
phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc
khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng [31, tr.201].
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điểu
tra bổ sung, trong quyết địnhtrả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ vấn đề
nào cần phải điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án.
Trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thông qua việc
xét hỏi kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa nếu phát hiện có
những căn cứ tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS, đó là khi: thiếu những chứng cứ
dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của
BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài
hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà
BLHS quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc
có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến
vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc khởi tố, điều tra,
truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng … mà không thể khắc phục tại
phiên tòa thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận và ra quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát.
1.1.3. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung và cơ quan thụ lý vụ án tự mình
bổ sung chứng cứ
Là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, sau khi nhận
hồ sơ cùng đề nghị truy tố của Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát có thể
tự mình thực hiện các hoạt động điều tra để bổ sung chứng cứ hoặc trả hồ sơ
điều tra bổ sung.
Đối với Toà án, sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, nếu việc điều tra chưa đầy
đủ, Toà án có các phương án khác nhau để xử lý: 1/ Trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nếu có căn cứ luật định; 2/ Yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mà
không cần trả hồ sơ; 3/ Tự mình xác minh, thu thập chứng cứ trong trường
9
hợp thiếu các chứng cứ không phải là quan trọng, việc thu thập đơn giản...
Trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án
có căn cứ mà Viện kiểm sát có thể tự bổ sung được, thì Viện kiểm sát tiến
hành điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều
246 của BLTTHS năm 2015; trường hợp không thể tự mình bổ sung được thì
Viện kiểm sát căn cứ vào các khoản 5 Điều 236, khoản 1 Điều 246 của
BLTTHS năm 2015 để trả hồ sơ điều tra bổ sung đúng quy định, đó là ra
quyết định trả hồ sơ và chuyển quyết định kèm hồ sơ vụ án cho Cơ quan cảnh
sát điều tra.
Trong trường hợp Viện kiểm sát cho rằng quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ theo quy định tại các điều 3, 5 và 6
của TTLT số 02/2017, thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên
quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo
quy định tại Điều 246 và khoản 3 Điều 280 của BLTTHS năm 2015.
1.1.4. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
Căn cứ vào Điều 277 BLTTHS năm 2015 về thời hạn chuẩn bị xét xử ,
Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những
người tham gia tố tụng, tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên
tòa. Trong thời hạn luật định, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong
các quyết định:
- Trả hồ sơ điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung: để khắc phục, bổ sung
và làm rõ thêm những chứng cứ quan trọng còn thiếu mà không thể bổ sung tại
phiên tòa được, có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố,
bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm, hoặc có căn
cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà
BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhằm tìm ra sự thật
10
khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội.
- Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án:
Tạm đình chỉ vụ án: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm
đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp: có căn cứ quy định tại
điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 BLTTHS; Không biết rõ bị can, bị cáo
đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử; trường hợp này phải yêu cầu
Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ
án; Chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến nghị.
Đình chỉ vụ án: Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản
1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS khi
không có yêu cầu khởi tố của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người
dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Đưa vụ án ra xét xử: để xem xét, đánh giá thực chất vụ án, đồng thời
trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ ra phán xét về tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ từ đó ra bản án hình sự một cách chính xác, công
minh, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Trước khi đưa vụ án hình sự ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa;
thành viên Hội đồng xét xử phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án hình sự. Hồ sơ vụ
án hình sự bao gồm các tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập trong quá trình điều tra, truy tố được sắp xếp theo một trình tự nhất
định phục vụ cho giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án. Hồ sơ
được hình thành từ khi có quyết định khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra thu thập
đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, hoàn tất hồ sơ
chuyển cho Viện kiểm sát với bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Viện kiểm
sát ra cáo trạng truy tố và chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án.
Như vậy, trước khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán được phân công chủ
11
tọa phiên tòa, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, các thành viên Hội
đồng xét xử phải nghiên cứu và đánh giá toàn diện các chứng cứ trong hồ sơ
vụ án hình sự, nếu thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà không thể
bổ sung tại phiên tòa được, có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm
sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội
phạm, hoặc có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng
chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng; để có cơ sở xét xử vụ án được chính xác điều luật quy định, Thẩm phán,
Hội đồng xét xử có quyền trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung
nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố.
Như vậy, “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơthẩm
là qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hoặc thông qua việc tranh tụng công
khai tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử phát
hiện thấy thiếu chứng cứ quan trọng; bị can còn thực hiện hành vi khác mà
BLHS quy định là tội phạm; có đồng phạm khác hoặc có người khác thực
hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án, nhưng chưa
được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phạm tội khác nặng hơn;có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụngmà không thể khắc phục được tại phiên tòa và
cần phải trả hồ sơ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để có thể đưa ra
phán quyết chính xác, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội”.
1.2. Đặc điểm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm
Đặc điểm về chủ thể: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử); Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) có quyền ra quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
Đặc điểm về căn cứ: Căn cứ vào khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp: 1/ Khi thiếu
12
chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85
BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; 2/ Có căn cứ cho rằng
ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác
mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; 3/ Có căn cứ cho rằng còn có đồng
phạm khác hoặc có người thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm
liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; 4/ Việc
khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Những căn
cứ này được hướng dẫn chi tiết tại TTLT số 02/2017.
Đặc điểm về hình thức: Căn cứ theo quy định tại Điều 9 TTLT số
02/2017 thì việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ra quyết định bằng văn bản
và do người có thẩm quyền ký theo quy định.Phần nội dung của quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi cụ thể vấn đề cần phải điều tra bổ sung,
những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cần được khắc phục, căn cứ
pháp luật áp dụng. Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì
quyết định cần nêu rõ các vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung trước chưa được
điều tra bổ sung, hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu, hoặc từ kết
quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra.Trường hợp Tòa
án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố về tội danh nặng hơn
theo quy định tại khoản 3 Điều 298 của BLTTHS năm 2015, thì trong quyết
định trả hồ sơ phải nêu rõ tội danh nặng hơn mà Tòa án đề nghị Viện kiểm sát
truy tố lại. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải được lập theo mẫu số
33-HS áp dụng trong trường hợp Thẩm phán được phân công nghiên cứu ra
Quyết định trả hồ sơ hoặc mẫu số 34-HS áp dụng trong trường hợp Hội đồng
xét xử ra Quyết định trả hồ sơ (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-
HĐTP ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao).
Đặc điểm về thủ tục: Theo quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTHS
năm 2015, Tòa án phải gửi quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện
13
kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết
định. Hội đồng xét xử qua quá trình thẩm định chứng cứ, tranh tụng tại phiên
tòa phát hiện một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280
BLTTHS năm 2015 hoặc Kiểm sát viên có đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, thì HĐXX tiến hành nghị án. Sau khi thống nhất giữa các thành viên hội
đồng xét xử thì ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
1.3. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong xét xử vụ án hình sự và một
số nguyên tắc tố tụng hình sự
1.3.1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung và nguyên tắc bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là
những quy định cơ bản chung nhất, được ghi nhận trong BLTTHS và mang ý
nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, theo đó các cơ quan
tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng phải triệt để tuân theo
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng, thực hiện đúng
đắn các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung giúp nâng cao
việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, đảm
bảo cho các giai đoạn tố tụng hình sự được diễn ra theo đúng trình tự quy
định của pháp luật, giữ vững nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong tố
tụng hình sự [40, tr.15].
1.3.2. Trả hồ sơ điều tra bổ sung và nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là bảo đảm quyền con người,
quyền công dân theo quy định của Hiến pháp. Để đảm bảo quyền con người
thì việc đảm bảo thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong
BLTTHS là việc rất quan trọng. Nếu cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ không đảm bảo được sự khách quan, dẫn tới vi
14
phạm nghiêm trọng tố tụng như việc dùng bức cung, nhục hình làm cho lời
khai của bị can không đúng sự thật; không có người phiên dịch trong trường
hợp bị can không sử dụng được tiếng Việt,… thì Thẩm phán Chủ tọa phiên
tòa hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho bị cáo, bảo vệ quyền con người.
1.3.3. Trả hồ sơ điều tra bổ sung và nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án
Tố tụng hình sự là quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể thực hiện
chức năng của TTHS, những chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ khi tiến hành
tố tụng nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội là đòi hỏi tất yếu của bất kỳ nhà nước
nào nhằm mục đích trừng trị và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quan hệ xã
hội thống trị, trật tự pháp luật và quyền con người, quyền công dân. Mục đích
này chỉ trở thành hiện thực, có hiệu lực trên thực tế khi tội phạm xảy ra được
chứng minh, xử lý theo một quy trình nhất định.
Người bị buộc tội là những người có thể chịu hậu quả bất lợi từ kết quả
xác định sự thật của cơ quan tiến hành tố tụng vì vậy họ có quyền đưa ra
chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy
định này của pháp luật nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các
quyền tự do dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự nước ta. Đồng thời nó
có vai trò phản biện quan trọng trong quá trình xác định sự thật của vụ án.
Việc xác định sự thật phải được tiến hành do cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng và chỉ được sử dụng những biện pháp hợp pháp. Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử qua quá trình thẩm
định chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng làm xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng thì có thể căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS
năm 2015 ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu Viện kiểm sát
15
khắc phục những vi phạm trên.
Như vậy, việc thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là
một trong những yếu tố quan trọng, đảm bảo tối đa quyền hợp pháp của công
dân từ đó tạo niềm tin cho Nhân dân, nâng cao sự ổn định xã hội, góp phần
quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
của dân, do dân và vì dân.
1.3.4. Trả hồ sơ điều tra bổ sung và nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏimọi tội phạm phải được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Nếu có căn cứ
tuyên bố bị cáo phạm tội, Tòa án ban hành bản án tuyên bố bị cáo phạm tội gì.
Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không
thể thu thập đầy đủ các chứng cứ xác định sự thật của vụ án, hoặc có vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình thu thập các chứng cứ đó, thì
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử sau khi xem xét một cách
toàn diện có quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc
phục những sai sót trên. Trường hợp những sai sót đó không thể khắc phục và
không thể chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì Tòa án
phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
1.3.5. Trả hồ sơ điều tra bổ sung và nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được đảm bảo
Trên nền tảng của tố tụng thẩm vấn, tiếp thu tối đa những điểm phù hợp
của tố tụng tranh tụng hướng tới mục đích phát hiện chính xác, nhanh chóng
mọi tội phạm xử lý khách quan, công minh theo quy định của pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.Tại khoản 5 Điều 103 Hiến
pháp năm 2013 quy định “Nguyêntắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”
để Tòa án đánh giá toàn bộ nộidung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm
bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đây là một bước
tiến lớn và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
16
cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung góp phần thể hiện rõ được nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự. Thông qua xem xét, thẩm định các chứng cứ
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét
xử có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung qua đó đảm bảo xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan
người vô tội.
1.4. Ý nghĩa của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
1.4.1. Ý nghĩa pháp lý
Giai đoạn xét xửcó chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do
BLTTHS quy định để xét xử vụ án tại phiên tòa đảm bảo chính xác, khách
quan những hành vi phạm tội, nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn đấu
tranh phòng chống tội phạm, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Thông qua xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, trên cơ sở kết quả tranh
tụng công khai tại phiên tòa, Tòa án kiểm tra lại và đánh giá chính xác, đầy
đủ, toàn diện chứng cứ và các tình tiết khách quan của vụ án để giải quyết vụ
án và đưa ra một bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Để đưa ra
phán quyết đảm bảo đúng quy định của pháp luật, Tòa án phải xem xét toàn
diện chứng cứ có tại hồ sơ, căn cứ vào tình tiết khách quan của vụ án, nếu hồ
sơ vụ án chưa đầy đủ, còn thiếu các chứng cứ quan trọng không thể bổ sung
tại phiên tòa được, có đồng phạm khác hoặc có vi phạm nghiêm trọng trình tự
thủ tục thì Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu
Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu
17
thập, bổ sung chứng cứ theo quy định BLTTHS; Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm
sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án
tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng
trong xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội, không bỏ lọt tội phạm.
1.4.2. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Ý nghĩa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn:
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩaViệt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụbảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều 2 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014,trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, để đảm
bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án nhân
dân phải nâng cao chất lượng xét xử các loại án, trong đó nâng cao chất lượng
trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Vì vậy trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có ý nghĩa chính
trị - xã hội hết sức quan trọng.
1.4.3. Ý nghĩa bảo đảm quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình
sự
Quyền con người là một trong những quyền cơ bản của con người được
ghi tại Điều 8 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) “Mọi người đều có
quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp
hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã
được hiến pháp hay luật pháp quy định.” Như vậy, Quyền con người được
18
ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật bằng cơ chế đảm bảo vật chất, chính
trị, tư tưởng, pháp lý cho mỗi con người nói riêng và cho toàn xã hội nói
chung bằng pháp luật. Trong đó có pháp luật hình sự.
Luật tố tụng hình sự trước hết là công cụ của nhà nước chống lại các
hành vi tội phạm xâm hại đến lợi ích của xã hội bao gồm quyền con người. Vì
thế, xử lý nghiêm minh mọi hành vi tội phạm,không bỏ lọt tội phạm và không
làm oan người vô tộilà nhiệm vụ quan trọng của pháp luật, trong đó có pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người luôn là nghĩa vụ
của Nhà nước. Quyền con người được Tòa án bảo vệ phải bằng các quy định
của pháp luật, trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự quy
định trách nhiệm của những cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Tòa án.
Các cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện trách nhiệm bảo vệ quyền con người
của mình trước hết bằng việcnghiêm chỉnh tuân thủ và thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc của tố tụng hình sự. Đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, cũng phải tuân thủ nguyên tắc bảo đảo quyền con người bằng việc chấp
hành nghiêm các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch
số 02/2017 ngày 22/12/2017 của liên ngành VKSNDTC – TANDTC – BCA.
1.4.4. Ý nghĩa phòng chống tội phạm
Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định các cơ quan tiến hành tố tụng
phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị buộc tội, có một quyết định hình phạt đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật mang tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt đối với các tội phạm bị phát hiện, bản thân
hình phạt tiếp tục thực hiện, cũng như phát huy chức năng phòng ngừa chung
đối với các tội phạm chưa bị phát hiện. Để thực hiện chức năng phòng ngừa
19
tình hình tội phạm, hình phạt phải có khả năng nhận diện, tác động và giảm
thiểu các yếu tố thuộc về nguyên nhân, điều kiện phạm tội của tình hình tội
phạm. Nếu hình phạt nhằm ứng phó với các tội phạm cụ thể đang xảy ra và có
hướng tác động chiến lược trong tương lai, thì chức năng phòng ngừa tình
hình tội phạm của hình phạt mới có hiệu quả cao nhất.
Quá trình áp dụng hình phạt, cần tính toán và ước lượng mức độ tác
động của hình phạt được áp dụng tương ứng với các yếu tố nhân thân người
phạm tội, bảo đảm tính cá thể hóa hình phạt sâu sắc với cá nhân người phạm
tội, từ đó phát huy hết khả năng chống và phòng ngừa tội phạm của hình phạt.
Có thể nói rằng, thực hiện có hiệu quả chức năng phòng ngừa tình hình
tội phạm là điều kiện làm gia tăng khả năng kiểm soát tội phạm trong xã hội.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đúng sẽ góp phần đem lại ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm hiện nay.
Kết luận Chương 1
Quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
được quy định trong BLTTHS nhằm đảm bảo sự thật của vụ án được xác định
một cách khách quan, chính xác, hợp pháp. Những chứng cứ chứng minh, các
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
phải được làm rõ, thu thập, chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định. Do đó
để đảm bảo Tòa án có thể xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tránh
trường hợp kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì việc đảm bảo sự
chính xác, hợp pháp, đầy đủ, khách quan của những chứng cứ chứng minh tội
phạm, người phạm tội trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng. Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là quy định giúp cho Tòa án
20
có thể đưa ra một bản án, quyết định công bằng, chính xác, đúng pháp luật.
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TRẢ HỒ
SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung
2.1.1. Khái quát lịch sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ năm 1945 đến
2003
2.1.1.1. Quy định pháp luật giai đoạn 1945 đến năm 1988 về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
Giai đoạn năm 1945 đến năm 1988, quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
về điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa được hệ thống hóa vào
một văn bản nhất định. Quy phạm pháp luật tố tụng hình sự lúc này được quy
định rải rác trong Sắc lệnh, Luật, Thông tư. Nhìn chung, các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự ở giai đoạn này còn đơn giản, chung chung chưa cụ thể,
các văn bản pháp luật trong giai đoạn này đã quy định về thẩm quyền xét xử
cũng như thủ tục xét xử tại phiên toà sơ thẩm của Toà án nhưng không có quy
định về việc Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ cho Viện kiểm sát.
2.1.1.2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Ngày 28/6/1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được Quốc hội
thông qua.
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm lần đầu
tiên được quy định tại Điều 154, Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
21
Ngày 08/12/1988, Thông tư liên ngành số 01/TTLN được ban hành “Hướng
dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS”, mục 4 Phần I của Thông tư
liên tịch này quy định“Khi Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung,
thì Toà án xoá sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Toà án trả hồ sơ vào sổ thụ lý
của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Toà án thụ lý lại”.
Sau đó, Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành công văn
81/2002/TANDTC, ngày 10/06/2002, hướng dẫn một số vấn đề về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Theo Công văn 81 thì mặc dù trong BLTTHS không có
điều luật nào quy định cụ thể việc Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung như Điều 154. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm, khi thấy có
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 154 BLTTHS, thì Hội
đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Mặt khác, khoản 2
Điều 173 BLTTHS quy định một trong các quyết định Hội đồng xét xử phải
thảo luận và thông qua tại phòng nghị án, đó là quyết định yêu cầu điều tra bổ
sung, nghĩa là tại phiên toà khi thấy có một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 154 BLTTHS thì Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 173
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 để ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung cho Viện kiểm sát.
2.1.1.3. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự thứ hai của nước ta được Quốc hội
ban hành. Năm 2004 BLTTHS này có hiệu lực. Giai đoạn năm 2003, các văn
bản tố tụng hình sự hiện hành quy định về Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để
điều tra bổ sung cụ thể và đầy đủ hơn như thủ tục, thẩm quyền trả hồ sơ, các
căn cứ trả, thời hạntrả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, đó là:
Tại Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về căn cứ để
Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. So với Điều 154 BLTTHS năm 1988, thì
22
Điều 179 BLTTHS năm 2003 vẫn không thay đổi gì. Tuy nhiêntheo khoản 2
Điều 121 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Toà án chỉ được ra quyết
định trả hồ sơ không quá hai lần. Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày
05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003,
khi phát hiện thấy vấn đề cần điều tra bổ sung, thì Tòa án vẫn phải tiếp tục
nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án để xem xét có vấn đề nào khác cần điều tra bổ
sung hay không. Toà án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai
trong trường hợp những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ nhất chưa được
điều tra bổ sung, hoặc đã được điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu, hoặc từ
kết quả điều tra bổ sung thấy có vấn đề mới cần phải điều tra bổ sung.
Ngày 27/8/2010, liên ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công
an - Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-
VKSNDTC- BCA- TANDTC hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về
trả hồ sơ về điều tra bổ sung. Tại Điều 1 quy định “Chứng cứ quan trọng đối
với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a Khoản 1 Điều 179
BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh
một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS năm 2003 và nếu
thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn
diện, đúng pháp luật.
Khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS năm
2003, “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” giải thích là trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng các trình tự thủ tục
Bộ luật tố tụng hình sự quy định làm xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định
sự thật khách quan toàn diện vụ án. Tại Điều 4 của TTLT số 01/2010 cũng
quy định cụ thể những trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục
23
tố tụng.
Quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong luật tố tụng hình sự là
mong muốn đặt mục tiêu tìm đến chân lý khách quan của sự việc. Mục tiêu
xuyên suốt của Bộ luật tố tụng hình sự nước ta là tìm ra sự thật, tìm đến chân
lý khách quan của sự việc. Mục tiêu này chi phối tất cả trình tự, thủ tục, thẩm
quyền của chủ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Từ mục tiêu này, trong các
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam không quy định “tuỳ nghi truy tố” hay “mặc
cả thú tội” như trong mô hình luật tố tụng hình sự tranh tụng. Việc phát hiện
và xử lý tội phạm mang tính bắt buộc.
2.1.2. Quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung theo Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015
2.1.2.1. Quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm
Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ trả hồ sơ điều
tra bổ sung đó là khi:
1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy
định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị
can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm;
c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng
chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng.
Điều 280 của BLTTHS năm 2015 gồm có bốn căn cứ trả hồ sơ để điều
24
tra bổ sung, nhiều hơn một căn cứ so với BLTTHS năm 2003. Theo quy định
trên, những căn cứ để Thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ
sung bao gồm: 1/ Khi thiếu chứng cứu dùng để chứng minh một trong những
vấn đề quy định tại Điều 85 (những quy định cần phải chứng minh trong vụ
án hình sự) mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; 2/ Có căn cứ cho rằng
ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác
mà BLHS quy định là tội phạm; 3/ Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm
khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm
liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; 4/ Việc
khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng [31, tr.201].
Các căn cứ trên đã được hướng dẫn cụ thể tại TTLT số 02/2017 (TTLT
số 02/2017 thay thế cho TTLT số 01/2010).
Thẩm quyền ra trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định
tại Điều 45, Điều 277 và Điều 299 của BLTTHS năm 2015.
+ Khoản 2 Điều 45 BLTTHS năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Thẩm phán:
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”
+ Khoản 2 của Điều 277 quy định:
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra
một trong các quyết định:
a)…
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung
c)…”
Theo các quy định trên, thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ
sung của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thuộc
về Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Thẩm phán nghiên cứu hồ
sơ thấy cần xem xét có một trong các căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung theo
25
khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015 thì Thẩm phán ra “Quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung” cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung yêu cầu được
ghi trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Phạm vi, giới hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung:
- Phạm vi trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu những chứng cứ quan
trọng đối với vụ án.
Tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017, chứng cứ để chứng minh
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại điểm a khoản
1 Điều 280 là chứng cứ quy định tại Điều 86, Điều 87 BLTTHS năm
2015 dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85, Điều
441 BLTTHS năm 2015 nếu thiếu chứng cứ này thì không giải quyết vụ án
được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật [45, tr.02].
Khi thiếu chứng cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Thứ nhất, chứng cứ chứng minh “Có hành vi phạm tội xảy ra hay
không” là chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS hay thuộc các trường hợp không phải
là hành vi phạm tội.
Thứ hai, chứng cứ chứng minh “Thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy
ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ,
phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào.
Thứ ba, chứng cứ chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm
tội” là chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội
đó.
Thứ tư, chứng cứ chứng minh “Có lỗi hay không có lỗi”đó là chứng cứ
xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp, hay lỗi cố ý gián tiếp, hoặc lỗi
26
vô ý vì quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả quy định tại Điều 10 và Điều 11 của
Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ năm, chứng cứ chứng minh “Có năng lực trách nhiệm hình sự
không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi phạm tội, người đó đã đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hay một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức, hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình
hay không; nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng
nào.
Thứ sáu, chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là
chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ
gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay
là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;
Thứ bảy, chứng cứ chứng minh “Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định bị can, bị cáo
được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51,
Điều 84 của BLHS hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào
quy định tại Điều 52, Điều 85 của BLHS;
Thứ tám, chứng cứ chứng minh “Đặc điểm về nhân thân của bị can, bị
cáo” là chứng cứ xác định lý lịch bị can, bị cáo; nếu bị can, bị cáo là pháp
nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và những vấn đề khác có
liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp nhân thương mại.
Thứ chín, chứng cứ chứng minh “Tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ dùng để đánh giá tính chất, mức độ
thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra.
Thứ mười, chứng cứ chứng minh “nguyên nhân và điều kiện phạm tội”
là những chứng cứ xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan và điều kiện
cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
Mười một, chứng cứ chứng minh “Những tình tiết khác liên quan đến
27
việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” là
những chứng cứ chứng minh những vấn đề quy định tại các Điều 20, 21, 22,
23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các Điều luật khác của Bộ luật hình sự.
Mười hai, chứng cứ khác để chứng minh một hay nhiều vấn đề quy
định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015,nếu thiếu chứng cứ đó thì không có đủ
căn cứ để giải quyết vụ án đó là: tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người
dưới 18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vai trò của từng bị can, bị cáo trong vụ
án có đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm
dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật;
Mười ba, trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì ngoài việc xác
định chứng cứ trong các trường hợp được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g,
h, i, k, l và m khoản này còn phải xác định chứng cứ để chứng minh điều kiện
chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75
của BLHS.
Không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh
thuộc một trong các trường hợp trên nhưng nếu thiếu vẫn truy tố, xét xử được
hoặc không thể thu thập được chứng cứ đó. Ví dụ: Có 05 người làm chứng
nhưng chỉ xác định được 03 người; hiện trường vụ án đã bị xáo trộn và thay
đổi, không thể xem xét lại được, hoặc vật chứng vụ án đã bị mất không thể
tìm được.
- Phạm vi trả hồ sơ điều tra bổ sung theo các điểm b, c khoản 1 Điều
280 BLTTHS năm 2015:
“Khi có căn cứ để cho rằng bị can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi
khác mà BLHS quy định là tội phạm, còn có đồng phạm khác hoặc có người
khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án
nhưng chưa được khởi tố, khởi tố bị can thuộc một trong các sau đây thì
Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa)
28
trả hồ sơ để điều tra bổ sung”- Điều 5 TTLT số 02/2017 [45, tr.04].
Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ
vụ án cho thấy hành vi của bị can hoặc bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay
nhiều tội khác;
Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ trong hồ
sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can hoặc bị cáo về một hay
nhiều tội khác;
Ngoài bị can hoặc bị cáo đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho
thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan
đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây [45, tr.05] :
Thứ nhất, Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ
trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can, bị cáo thực hiện cấu thành một
hoặc nhiều tội khác nhưng chứng cứ trong hồ sơ cho thấy có thể xét xử bị can,
bị cáo về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị
can hoặc bị cáo ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố.
Thứ hai, đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ
án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhưng có căn cứ để tách vụ án theo
quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 của BLTTHS năm 2015;
Thứ ba là, đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy
định tại Điều 284 của BLTTHS năm 2015 [45, tr.05].
- Phạm vi trả hồ sơ điều tra bổ sung khi việc khởi tố, điều tra, truy tố có
vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS):
Điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015: “Vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình
29
tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định
sự thật khách quan và toàn diện vụ án”.
Theo hướng dẫn tại Điều 6 TTLT số 02/2017 quy định phối hợp thực
hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015. Khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ
tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án trả hồ sơ để
điều tra bổ sung:
+ Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của
Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
+ Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa
cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật tố tụng
hình sự.
+ Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của
người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS;
+ Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố
tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
+ Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc
Điều 242 của BLTTHS;
+ Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố
tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án
cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy
định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;
+ Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc
30
điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch
hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề
khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);
+ Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố
tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng
không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo
quy định tại Điều 70 của BLTTHS;
+ Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều
49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của BLTTHS;
+ Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không
đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh
trong vụ án hình sự;
+ Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan
đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản
5 Điều 88 của BLTTHS;
+ Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá
trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa,
thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;
+ Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp
luật;
+ Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình
tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
+ Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
+ Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung.
31
Tuy nhiên, nếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng Tòa án
không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Trong giai đoạn điều tra, truy tố mặc dù có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, nhưng việc vi phạm đó không làm thiệt hại nghiêm trọng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, người bị buộc tội, người bị
hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử thì thì họ đã đủ 18 tuổi [45, tr.07].
- Phạm vi trả hồ sơ điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can
hoặc bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố:
Theo khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015 quy định về giới hạn xét xử “3.
Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện
kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại….”,
Trường hợp này được TTLT số 02/2017 hướng dẫn tại Điều 7 như sau:
“1. Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết
định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì Viện kiểm sát trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung để thay đổi tội danh và kết luận điều tra
về tội danh khác nặng hơn;
2. Trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực
hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan điều
tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 của BLTTHS”.
* Thời hạn và số lần điều tra bổ sung:
- Về thời hạn điều tra bổ sung:
Tại khoản 2 Điều 174 của Bộ luật tố tụng năm 2015 quy định: “Trường
hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn
điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều
tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng”.
32
TTLT số 02/2017 cũng như TTLT số 01/2010 trước đây không giải
thích quy định “ngay” là thời gian bao lâu. Việc quy định về thời hạn chưa
chặt chẽ này tạo ra khe hở, làm dẫn đến sau khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát chậm bổ sung những yêu cầu
của Tòa án làm cho một số vụ án giải quyết còn kéo dài không có thời hạn,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng,
làm giảm sự nghiêm minh của pháp luật trong các vụ án hình sự.
Ngoài ra, thời hạn để điều tra bổ sung do Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ
là không quá một tháng là chưa phù hợp, bởi vì: Thời hạn điều tra bổ sung do
Tòa án trả hồ sơ về trường hợp bị can phạm tội mới hoặc có đồng phạm khác
(tội mới là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, không thể tách vụ án
theo khoản 2 Điều 170) thì thời hạn một tháng khó có thể kết thúc và hoàn
thiện hồ sơ để chuyển cho Tòa án.
- Về số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS năm 2015: “Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần…..”. Như vậy
BLTTHS đã giới hạn cụ thể trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có
quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung 01 lần, tại phiên tòa Hội đồng xét xử có
quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung 01 lần. Quy định này rất chặt chẽ, tránh
việc tùy tiện, lợi dụng trả hồ sơ để kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Theo
quy định của BLTTHS năm 2003, nếu như Tòa án trả hồ sơ hai lần trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, thì kết quả tranh tụng tại phiên tòa mà phát hiện ra có
căn cứ để yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ không còn ý nghĩa vì Tòa án
đã hết số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung. Quy định tại BLTTHS năm 2015 đã
khắc phục, bất cập nêu trên góp phần đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng
tại phiên tòa.
2.1.2.2. Quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa
Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa.
33
Khoản 6 Điều 326 BLTTHS năm 2015 quy định:
“ Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các
vấn đề: …..
c) Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện
kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ”
Căn cứ để Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa
được quy định tại Điều 280, khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 và được
hướng dẫn trong TTLT số 02/2017.
BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về số lần trả hồ sơ điều tra bổ
sung của Hội đồng xét xử tại phiên tòa “Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để
điều tra bổ sung một lần.” (khoản 2 Điều 174). BLTTHS năm 2015 quy định
như vậy đã khắc phục được tình trạng trước đây về vấn đề này như: chưa có
văn bản nào hướng dẫn Hội đồng xét xử được trả mấy lần, có tình trạng
không giới hạn số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử dẫn
đến việc bị can, bị cáo bị tạm giam kéo dài, ảnh hưởng đến quyền con người
trong tố tụng, không phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013.
Thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa
Thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa thuộc về Hội đồng xét
xử.
Thủ tục ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa của Tòa
án cấp sơ thẩm được hướng dẫn tại TTLT số 02/2017 và khoản 3 Điều 280
BLTTHS năm 2015.
Theo quy định trên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm hình sự,
việc trả hồ sơ điều tra bổ sung được tiến hành như sau:
- Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định
tại khoản 2 Điều 277 BLTTHS năm 2015 [31, tr.199]. Hội đồng xét xử ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 299 BLTTHS
34
năm 2015.
- Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải theo đúng mẫu 33-HS
(dùng cho Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa), quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung theo đúng mẫu 34-HS (dùng cho Hội đồng xét xử) ban hành
kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Nội dung của quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung phải ghi cụ thể những vấn đề cần phải điều tra bổ sung, vấn
đề vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cần khắc phục, những căn cứ pháp
luật được áp dụng khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát.
- Trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại theo quy
định tại khoản 3 Điều 298 của BLTTHS năm 2015, thì trong quyết định trả hồ sơ
phải nêu rõ tội danh nặng hơn mà Tòa án đề nghị Viện kiểm sát truy tố lại.
- Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Tòa án, nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có
căn cứ mà Viện kiểm sát có thể tự bổ sung được thì Viện kiểm sát tiến hành
điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều 246 của
BLTTHS năm 2015; trường hợp không thể tự mình bổ sung được thì Viện
kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho
Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Tòa án không có căn cứ theo quy định tại các điều 3, 5 và 6 của
TTLT số 02/2017, thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết
định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo quy
định tại Điều 246 và khoản 3 Điều 280 của BLTTHS năm 2015.
- Sau khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có kết luận
điều tra bổ sung, trong đó kết luận rõ đối với từng vấn đề điều tra bổ sung,
quan điểm giải quyết vụ án: Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản
kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra kết luận điều tra mới
thay thế theo quy định tại khoản 3 Điều 245 của BLTTHS năm 2015; nếu kết
35
quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ điều tra, thì Cơ quan điều tra ra quyết
định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 230 của BLTTHS năm 2015.
- Sau khi có kết quả điều tra bổ sung, Viện kiểm sát xử lý như sau: Nếu
kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung cáo trạng trước đó thì
Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và
chuyển hồ sơ đến Tòa án; nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản
nội dung cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế
và chuyển hồ sơ đến Tòa án; Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ
án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Cơ quan
điều tra, Tòa án biết theo quy định tại Điều 248 của BLTTHS năm 2015.
Để hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án và Viện kiểm sát phải
thực hiện đúng quy định tại Điều 13 của TTLT số 02/2017.
Điều 13 của TTLT số 02/2017 quy định:
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu thấy có
một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại các điều 3, 4,
5 và 6 của Thông tư liên tịch này thì Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc
có thể bổ sung được tại phiên tòa mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Qua bàn bạc trao đổi, nếu Kiểm sát viên và Thẩm phán không thống
nhất ý kiến, thì phải báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét cho ý kiến về việc
giải quyết vụ án.
Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện ra có căn cứ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, thì Viện kiểm sát làm văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 280 của BLTTHS.
2. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử
làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Nếu có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại các
điều 3, 4, 5 và 6 của Thông tư liên tịch này hoặc phát sinh những vấn đề mới,
36
phức tạp mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử tự mình
hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.”
Ngoài ra BLTTHS năm 2015 đã tạo sự chủ động cho Thẩm phán, Hội
đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sư, hạn chế được tình trạng
giải quyết vụ án bị kéo dài không cần thiết Thẩm phán phải trả hồ sơ điều tra
bổ sung, Thẩm phán áp dụng Điều 252 BLTTHS năm 2015 để xác minh, thu
thập, bổ sung chứng cứ. Bằng các hoạt động của mình, Tòa án tiến hành việc
xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ như:
1. Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp;
2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án;
3. Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa;
4. Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên
quan đến vụ án;
5. Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp
bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206
và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại;
yêu cầu định giá lại tài sản;
6. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ
nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 251 của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tạm ngừng phiên tòa khi: “Cần phải xác
minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện
ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ
ngày tạm ngừng phiên tòa”. Tuy nhiên quy định này cũng tạo thêm áp lực
cho Thẩm phán trong quá trình thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án.
37
Đây là quy định mới rất tinh tế, từ đó Tòa án có thể chủ động hơn trong
việc đánh giá toàn diện chứng cứ, tìm sự thật khách quan của vụ án, từ đó ra
một bản án thấu tình đạt lý, đúng quy định của pháp luật.
2.2. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
2.2.1. Tổng quan về Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và kết quả xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có trụ sở tại số 01 Lê Lợi, thành phố
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. TAND tỉnh quản lý 11 Tòa án nhân dân huyện,
thị xã, thành phố. Tổng số cán bộ, công chức Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Bình Định là 202 biên chế.Trong đó Tòa án tỉnh 50 biên chế, Tòa án cấp
huyện 152 biên chế. Ban lãnh đạo TAND tỉnh Bình Định gồm 03 đồng chí
(Chánh án và 02 Phó Chánh án).
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có 4 Tòa chuyên trách (Hình sự, Dân
sự, Hành chính và Gia đình và người chưa thành niên), 3 phòng tham mưu
giúp việc (Văn phòng; Phòng Tổ chức cán bộ - Thanh tra và Thi đua khen
thưởng, Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án); với 50 cán bộ, công chức;
trong đó có 1 Thẩm phán cao cấp, 15 Thẩm phán Trung cấp, 19 Thư ký, 4
Thẩm tra viên và 11 cán bộ khác; trình độ chuyên môn: 02 thạc sỹ luật, 47 cử
nhân; trình độ chính trị: 10 cao cấp, 22 trung cấp.
Đảng bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định thuộc Đảng ủy Khối các cơ
quan tỉnh; Ban chấp hành Đảng bộ gồm 7 đồng chí (Bí thư, Phó Bí thư và 5
Ủy viên); Ủy ban kiểm tra Đảng ủy 3 đồng chí; tổng số đảng viên 51 đồng
chí, sinh hoạt tại 7 Chi bộ trực thuộc.
Trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình
Định, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã tập trung nâng cao chất lượng xét
xử các loại án, đặc biệt là các vụ án Hình sự, đưa ra xét xử các bị cáo nghiêm,
đảm bảo khách quan, toàn diện, chính xác và đúng trình tự luật định; xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm
38
oan người vô tội.
Trong 05 năm (từ năm 2016 đến năm 2020), TAND tỉnh Bình Định đã
xét xử 386 vụ/ 1.044 bị cáo. Số liệu cụ thể từng năm thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án TAND tỉnh Bình Định đã thụ lý, xét xử và trả
hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều trả bổ sung từ năm 2016 đến năm 2020
Đơn vị tính: Vụ, bị cáo.
Trong đó
Tổng số vụ án
Số vụ án
hình sự sơthẩm
đã giải
Số vụ án trả
Số vụ án
Số vụ
Năm
TAND tỉnh Bình
quyết,
2016
Định đã thụ lý 60
xét xử 60
hồ sơ để điều tra bổ sung 0
tạm đình chỉ, đình chỉ 0
án đã xét xử 60
2017 60 60 04 0 56
2018 91 91 25 0 66
2019 83 83 15 0 68
2020 92 92 11 0 81
Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bình Định từ năm 2016 - năm 2020.
386 55 0 331 Tổng cộng 386
2.2.2. Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, Thẩm phán và các thành
viên hội đồng xét xử luôn nghiên cứu kỹ hồ sơ, phát hiện nhiều vụ án trong
quá trình truy tố có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, nên đã trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ
sung để làm rõ dấu hiệu đồng phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Trước khi trả hồ sơ, Tòa án đã tổ chức họp liên ngành, phối
hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát, Công an huyện trong việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung theo Thông tư liên tịch số 01/2010 và thông tư số 02/2017/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP.
Trên cơ sở thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 và các
39
hướng dẫn của TTLT 01/2010 và 02/2017, kết quả các quyết định về tố tụng
hình sự trong trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND tỉnh Bình Định đạt kết
quả tốt. Từ năm 2016- năm 2020, TAND tỉnh Bình Định đã ra quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung 55 vụ/84 bị cáo. Nhiều vấn đề, yêu cầu trong quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã
được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định chấp nhận điều tra bổ sung, các
cơ quan tố tụng của tỉnh Bình Định bảo đảm giải quyết vụ án khách quan,
toàn diện đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trong tổng số các vụ án TAND tỉnh Bình Định đã ra quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung, về cơ bản các quyết định trả hồ sơ của TAND tỉnh
Bình Định đều có căn cứ, được Viện kiểm sát tỉnh Bình Định chấp nhận đạt tỷ
lệ cao (48/55 vụ trả hồ sơ = 87,3%), số vụ án TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định không được chấp nhận chiếm tỷ
lệ nhỏ (7/55 vụ = 12,7%). Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND
tỉnh Bình Định từ năm 2016 - năm 2020 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2: Thống kê số vụ án TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ, Viện kiểm
sát chấp nhận, không chấp nhận điều tra bổ sung năm 2016 đến năm 2020
Năm
Số vụ/ bị cáo Tòa án trả hồ sơ Thẩm phán CTPT trả Hội đồng xét xử trả hồ sơ cho Viện kiểm sát Viện kiểm sátchấp nhận(số vụ/ số bị cáo) Viện kiểm sát không chấp nhận(số vụ/ số bị cáo)
2016 0/0 0 0 0 0
2017 04/09 03 04/09 0 01
2018 25/40 18 25/40 0 07
2019 15/20 12 09/14 06/06 03
2020 11/15 06 10/10 01/05 05
Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bình Định năm 2016 - năm 2020.
Tổng cộng 55/84 39 48/73 07/11 16
Qua thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình
40
Định trong 5 năm qua cho thấy, lý do TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung chủ yếu là để yêu cầu khởi tố bổ sung đồng phạm khác hoặc có
người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến
vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can là 36 vụ, chiếm 65,5%;
để bổ sung chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa được là
12 vụ chiếm 21,8%; để truy tố bị can về hành vi khác mà BLHS quy định là
tội phạm là 07 vụ chiếm 12,7%. Việc ra các quyết định về trả hồ sơ để điều
tra bổ sung của TAND tỉnh Bình Định trong thời gian qua đã có những đóng
góp tích cực trong việc giải quyết vụ án hình sự bảo đảm xét xử nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không làm oan người vô tội. Thông qua
các quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung còn làm tăng cường hơn nữa trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong 55 vụ, 84 bị cáo mà Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để điều tra bổ sung, Thẩm phán
nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định trả hồ sơ 39 vụ, Hội đồng xét xử trả 16 vụ.
Thể hiện quan bảng sau:
Bảng 2.3: Thống kê số vụ án Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng
xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ năm 2016 đến năm 2020
Đơn vị tính: Vụ
Năm
Số vụ án Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ Hội đồng xét xử ra quyết định trả
0 0 0 2016
04 03 01 2017
25 18 07 2018
15 12 03 2019
11 06 05 2020
Tổng cộng 39 55
41
16 Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bình Định năm 2016 - năm 2020.
Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại TAND tỉnh Bình Định, trong
quá trình nghiên cứu số liệu và các quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của
TAND tỉnh Bình Định để làm luận văn, chúng tôi thấy những trường hợp chủ
yếu Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần lược như sau:
- Thứ nhất, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng còn có
đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là
tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can:
Đây là những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều nhất,
chiếm khoảng 60% các trường hợp TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ điều tra
bổ sung.
Ví dụ: Vụ án Lê Văn Thiệt (Sinh năm 1962, nơi cư trú: Thôn An Hội,
xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) cùng đồng phạm, bị Viện
KSND tỉnh Bình Định truy tố về tội “Hủy hoại rừng”theo quy định tại điểm b
khoản 3 Điều 189 BLHS 1999.
Sau khi kiểm tra rừng, ngày 01/09/2017, Hạt kiểm lâm huyện An Lão,
tỉnh Bình Định phát hiện tại các khoảnh 7, và 8 tiểu khu 1 thuộc xã An Hưng,
huyện An Lão bị chặt phá. Theo kết quả kiểm tra, đo đạc thực tế tại hiện
trường, ngày 15/09/2017, Trung tâm Quy hoạch nông nghiệp nông thôn tỉnh
Bình Định xác định có 08 vị trí rừng bị phá tại khoảnh 7 và khoảnh 8 tiểu khu
1 xã An Hưng, huyện An Lão với tổng diện tích 60,90 ha, trữ lượng rừng bị
thiệt hại 5.195,40 m3; ngoài ra, Trung tâm còn xác định tại khoảnh 7 và
khoảnh 8 tiểu khu 1 còn có 01 khu vực rừng đã bị phá được ghi nhận trên Bản
đồ ngày 15/09/2017 là “Keo 01 năm tuổi” (chưa đo đạc xác định diện tích, trữ
lượng rừng bị thiệt hại). Trong ngày này, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Định ra
Quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau đó chuyển hồ sơ cho Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Bình Định để điều tra.
Ngày 25/10/2017, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định tiếp tục có
42
Quyết định trưng cầu giám định số 185, trưng cầu Trung tâm Quy hoạch nông
nghiệp Nông thôn tỉnh Bình Định giám định tách phần diện tích của 02 khu
vực rừng tại vị trí c-TXB/15.00 thuộc khoảnh 7 tiểu khu 1 (do liên quan đến
02 nhóm đối tượng phá rừng) và giám định bổ sung diện tích, trữ lượng rừng
bị thiệt hại đối với khu vực rừng đã trồng keo 01 năm tuổi tại khoảnh 7 và
khoảnh 8 tiểu khu 1. Ngày 30/11/2017, Trung tâm Quy hoạch Nông nghiệp
Nông thôn tỉnh Bình Định có Thông báo số 189/TB-TTQH thông báo kết quả
giám định thiệt hại về rừng (kèm theo Bản đồ đo đạc diện tích thiệt hại về
rừng) xác định: Tổng diện tích rừng đã bị phá tại khoảnh 7 và khoảnh 8 tiểu
khu 1 xã An Hưng, huyện An Lão là 64,18 ha, trữ lượng rừng bị thiệt hại
5.522,20 m3, tổng giá trị rừng bị thiệt hại là là 4.792.800.600 đồng, gồm 12
vị trí theo các ký hiệu:
- Tại khoảnh 7 tiểu khu 1 với diện tích 25,87 ha, trữ lượng rừng 2.602,50
m3 gồm 06 vị trí:
+ a-TXB/1,71 (diện tích 1,71 ha, trữ lượng rừng 172,00 m3)
+ b-TXB/4,12 (diện tích 4,12 ha, trữ lượng rừng 414,50 m3)
+ c1-TXB/13,69 (diện tích 13,69 ha, trữ lượng rừng 1.377,20 m3)
+ c2-TXB/1.31 (diện tích 1,31 ha, trữ lượng rừng 131,80 m3)
+ d-TXB/1.85 (diện tích 1,85 ha, trữ lượng rừng 186,10 m3)
+ e-TXB/3.19 (diện tích 3,19 ha, trữ lượng rừng 320,90 m3)
- Tại khoảnh 8 tiểu khu 1 với diện tích 38,31 ha, trữ lượng rừng 2.919,70
m3 gồm 06 vị trí:
+ a-TXN/18.53 (diện tích 18,53 ha, trữ lượng rừng 1.610,30 m3)
+ b-TXN/0.39 (diện tích 0,39 ha, trữ lượng rừng 25,80 m3)
+ c-TXN/0.30 (diện tích 0,30 ha, trữ lượng rừng 19,90 m3),
+ d-TXN/19.00 (diện tích 19,00 ha, trữ lượng rừng 1.257,80 m3)
+ e-TXN/0.04 (diện tích 0,04 ha, trữ lượng rừng 2,60 m3)
+ g-TXN/0.05 (diện tích 0,05 ha, trữ lượng rừng 3,30 m3).
43
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 280
BLTTHS năm 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra Quyết định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định do trong vụ án này cần điều tra
làm rõ hành vi của Nguyễn Trọng Tài, Huỳnh Văn Tuấn và các đối tượng
được các bị cáo thuê chặt phá rừng; Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
khởi tố bị can, tránh bỏ lọt tội phạm, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật,.
Ví dụ 2: Vụ án Ngô Thị Hoa (Sinh năm 1972, nơi cư trú: Thôn Thạnh
Đông, xã Hoài Hương, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) và đồng phạm, bị
VKSND tỉnh Bình Định truy tố về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 48/2010/QĐ-
TTg về chính sách khuyến khích, hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản và dịch vụ
hải sản trên các vùng biển xa, theo đó các chủ tàu cá đăng ký hoạt động khai
thác hải sản trên các vùng biển xa mỗi năm được nhà nước hỗ trợ tiền chi phí
nhiên liệu tối đa 04 chuyến biển, mỗi chuyến biển được hỗ trợ từ 18 triệu
đồng đến 100 triệu đồng tùy theo công suất tàu cá. Điều kiện để được hỗ trợ
là: Tàu cá phải đăng ký khai thác hải sản trên vùng biển xa, mỗi chuyến tàu cá
có hoạt động trên vùng biển xa ít nhất là 15 ngày theo vùng biển quy định và
xác nhận của Ủy ban nhân dân các đảo thuộc quần đảo, Hải quân Hoàng
Sa,Trường Sa hoặc nhắn tin máy định vị tầm xa (gọi tắt là máy HF) và phải
làm hồ sơ xin hỗ trợ theo quy định. Kinh phí hỗ trợ được sử dụng từ nguồn
ngân sách Nhà nước.
Để được hỗ trợ chi phí nhiên liệu cho tàu cá khai thác hải sản vùng biển
xa, ngư dân phải nộp hồ sơ xin hỗ trợ cho Chi cục Thủy sản để thẩm định,
trình UBND tỉnh phê duyệt và chi tiền hỗ trợ. Hồ sơ xin hỗ trợ chi phí nhiên
liệu gồm: Đơn xin hỗ trợ chi phí nhiên liệu cho tàu cá khai thác hải sản xa bờ;
Giấy phép khai thác hải sản; Giấy xác nhận tàu cá có khai thác hải sản trên
vùng biển xa của Chỉ huy các đảo xa, hoặc xác nhận vị trí tàu cá hoạt động
44
vùng biển xa (theo mẫu Giấy phụ lục 4a hoặc 4b do Chi Cục Thủy sản cấp;
Xác nhận tàu cá xuất, nhập bến của Đồn, Trạm Biên phòng cảng vào Giấy
phụ lục 4a hoặc Sổ Danh bạ thuyền viên; Nhật ký khai thác hải sản trong
chuyến đi biển; Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá.
Lợi dụng chính sách này, từ năm 2012 đến năm 2016, thực tế một số
tàu cá không khai thác hải sản trên vùng biển xa, cũng không vào các đảo
Hoàng Sa, Trường Sa…để ký giấy xác nhận khai thác tàu cá hoặc không nhắn
tin định vị tầm xa (máy HF) nên không đủ điều kiện để được hỗ trợ chi phí
nhiên liệu theo quy định của Nhà nước mà các chủ tàu cá đã thông qua
Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Phạm Văn Tận, Đặng Hoàng
Tám, Lê Văn Giới, Lê Văn Vân, Huỳnh Thị Bích Hậu, Phan Thị Nghiệm, tên
Phúc (không rõ họ tên địa chỉ) làm khống hồ sơ, bằng hình thức ký khống
giấy xác nhận đảo và nhắn tin máy HF để nhận tiền hỗ trợ. Để làm được hồ
sơ, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Đặng Hoàng Tám nhận các giấy tờ tàu cá rồi gửi
cho Ngô Thị Hoa để ký khống giấy xác nhận đảo rồi đưa lại cho Đặng Hoàng
Tám để Tám hướng dẫn chủ tàu cá làm đơn đề nghị hỗ trợ chi phí nhiên liệu,
viết sổ nhật ký khai thác. Tương tự như trên, Lê Văn Giới nhận hồ sơ của các
chủ tàu cá rồi gửi cho Võ Thị Kim Thế để ký khống giấy xác nhận đảo khống
hồ sơ cho các tàu cá. Còn Ngô Thị Hoa đã trực tiếp nhận giấy tờ của các chủ
tàu như: Sổ danh bạ thuyền viên, sổ nhật ký khai thác hải sản, giấy chứng
nhận an toàn tàu cá rồi liên hệ với Võ Thị Kim Thế để mua giấy xác nhận đảo
đã được các đảo trưởng ký sẵn bán với giá 2,5 triệu đồng đến 03 triệu đồng/01
giấy. Mua của Nguyễn Văn Liêm với giá 03 triệu đồng/01 giấy, cộng với tiền
nhờ Liêm đăng ký danh sách hải quân vùng 4 với giá 1,5 triệu đồng; Mua của
Ngô Chí Thực, Đặng Ngọc Nam, Lê Ngọc Phương, Lương Duy Hãnh, Phạm
Văn Lợi và tên Thọ (không rõ họ tên ở Cam Ranh) với giá từ 2,5 triệu đồng
đến 05 triệu đồng/01 giấy; Để ký xác nhận xuất, nhập bến thì Ngô Thị Hoa
thuê tên Tuấn, hoặc Nam ( không rõ họ tên) là thuyền trưởng của 02 tàu cá
45
của mình và tên Tín (không rõ họ tên địa chỉ) đi ký xác nhận giấy xuất, nhập
bến với giá 4,5 triệu đồng/01 lần và Hoa liên hệ với các đồn trưởng như:
Nguyễn Hữu Bình, Nguyễn Đình Dũng, Phan Hồng Thanh ký khống xuất
nhập bến với giá từ 01 triệu đến 02 triệu đồng/01 lần xuất, nhập. Còn đối với
việc nhắn tin bằng máy nhắn tin HF thì Hoa thuê Lê Văn Hổ và Cao Văn Sơn
cứ mỗi lần nhắn được 05 tin thành công thì Hoa trả tiền công cho Cao Văn
Sơn và Lê Văn Hổ với giá từ 40 triệu đồng đến 70 triệu đồng.
Như vậy, từ năm 2012 đến năm 2016, có 183 chủ tàu cá đã thông qua
Ngô Thị Hoa, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Huỳnh Thị Bích Hậu, Phạm Văn Tận,
Nguyễn Thiện Quốc, Nguyễn Thanh Dũng, Đặng Hoàng Tám, Lê Văn Giới,
Lê Văn Vân, Ngô Thị Hoa và tên Phúc (không rõ họ tên) làm khống 928 hồ
sơ hỗ trợ chi phí nhiên liệu chiếm đoạt của Nhà nước 40.051.000.000đ; Trong
đó, Ngô Thị Hoa khai nhận đã mua giấy xác nhận đảo của Nguyễn Văn Liêm,
Ngô Chí Thực, Lương Duy Hãnh, Đặng Ngọc Nam và tên Thọ (không rõ họ
tên) mua của Võ Thị Kim Thế, Phan Thị Nghiệm, Lê Văn Vân để làm khống
cho 183 chủ tàu với số lượng 885 hồ sơ, chiếm đoạt 37.762.000.000đ, các chủ
tàu cá đã khắc phục hậu quả 32.504.000.000 đồng. Còn lại 7.547.000.000đ
các chủ tàu cá chưa khắc phục được. Riêng Ngô Thị Hoa được các chủ tàu cá
đã chi trả với số tiền 9.200.300.000 đồng. Còn Huỳnh Thị Bích Hậu, Phạm
Văn Tận, Nguyễn Thiện Quốc, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thanh
Dũng, Đặng Hoàng Tám, Lê Văn Giới, Lê Văn Vân và tên Phúc (không rõ họ
tên) làm hồ sơ cho 16 chủ tàu, với số lượng 43 hồ sơ, chiếm đoạt
2.289.000.000đ các chủ tàu đã trả tiền công với số tiền 688.000.000đ
Qua nghiên cứu hồ sơ, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 280 BLTTHS
năm 2015 Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để điều tra làm rõ hành vi “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” của Phạm Văn Tận, Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Thị Thanh
Tâm, Đặng Văn Lồng, Đặng Thị Cọt, Ngô Thị Sỹ, Nguyễn Thị Kim Oanh
46
nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt
người phạm tội.
- Thứ hai, trả hồ sơ để điều tra bổ sung để khởi tố, điều tra bổ sung bị
can về một hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm
Ví dụ: Vụ án Phan Thanh Quang (Sinh ngày 08.02.1992 tại Bình
Định; Nơi cư trú: Thôn Trung Tín 1, Thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy
Phước,tỉnh Bình Định) bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định truy tố về
tội:“Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c, d khoản 2
Điều 250 của Bộ luật hình sự;
Vào đầu năm 2016, Phan Thanh Quang quen với đối tượng tên Tý
(chưa rõ lai lịch, nhân thân) giữa Quang và Tý có thỏa thuận với nhau về việc
khi nào Tý có xe mô tô không có đăng ký, xe do người khác trộm cắp mà có
thì đưa cho Quang tiêu thụ. Sau đó, Quang nói lại cho Hường Văn Hùng biết
và đồng ý khi nào Quang có xe mô tô không có đăng ký, xe do người khác
trộm cắp mà có thì đem bán cho Hùng. Rồi Hùng nói lại với Trần MinhTú khi
nào Hùng có xe mô tô không có giấy đăng ký, xe do người khác trộm cắp mà
có thì đem bán cho Tú và Tú đồng ý.
Trong khoảng thời gian đầu năm 2016 cho đến tháng 3/2017, Phan
Thanh Quang đã nhận tiêu thụ của của Tý 14 xe mô tô các loại rồi đem bán lại
cho Hùng 13 xe mô tô, còn 01 xe Quang sử dụng đi lại, sau đó đem thế chấp
cho bà Phạm Thị Lợi. Sau khi, Hùng mua 13 xe mô tô của Quang rồi bán lại
choTú 08 xe còn lại thế chấp cho Trần Ngọc Thái 01 xe và bán 04 xe cho 04
người lạ khác không xác định được lai lịch. Đối với Tú sau khi mua 08 xe của
Hùng, Tú đã sử dụng 02 xe để đi lại thì bị Công an TP Quy Nhơn và PC67
Công an tỉnh Bình Định bắt giữ còn 06 xe bán cho Phạm Ngọc Thuận, Khắc
Văn Lâm, Nguyễn Minh Trọng, Nguyễn Trần Nammỗi người 01 xe và Đoàn
Anh Hiệp 02 xeđể sử dụng.
Qua nghiên cứu hồ sơ, tại các lời khai của bị can Phan Thanh Quang, bị
47
can đều khai rằng giữa bị can và người thanh niên tên Tý có quen biết trước,
có sự thỏa thuận giữa bị can và Tý trong việc tìm loại xe như thế nào để trộm
cắp (theo yêu cầu của Hường Văn Hùng) nhằm mục đích dễ tiêu thụ, mặc
khác bị cáo Phan Thanh Quang không mua xe của Tý mà Quang nhận xe của
Tý và mang đi bán cho Hường Văn Hùng và được Tý cho tiền từ 200-500
nghìn đồng tùy loại xe. Do đó, đối với bị cáo Phan Thanh Quang có dấu hiệu
phạm tội “Trộm cắp tài sản” với vai trò giúp sức. Để có căn cứ xác định đúng
tội danh đối với Phan Thanh Quang, đề nghị cần làm rõ vai trò của Phan
Thanh Quang trong việc giúp sức cho người thanh niên tên Tý trong việc hỗ
trợ về mặt tinh thần cho Tý thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào
điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
đã ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để điều
tra bổ sung xem xét tội danh “Trộm cắp tài sản” đối với bị can Phan Thanh
Quang.
- Thứ ba, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì cần xem xét thêm những
chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.
Nguyên nhân chủ yếu của việc trả hồ sơ trong những trường hợp này là
thiếu những chứng cứ quan trọng như: Xác định tội danh, khung hình phạt,
định giá tài sản, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thực
nghiệm điều tra, trưng cầu giám định… mà không thể bổ sung làm rõ tại
phiên tòa được.
Ví dụ: Vụ án Phan Lâm Hơn (Sinh năm 1959, nơi ĐKNKTT: Tổ 35,
KV 7, P. Đống Đa, Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; nguyên Giám đốc công ty
TNHH Thanh Bình), Phạm Thị Bình, Phạm Thị Thu Thảo, bị Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Định truy tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” theo Khoản 4 Điều 175 BLHS;
Công ty TNHH Thanh Bình được thành lập vào ngày 17/7/2002 và
được Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Định cấp giấy phép kinh doanh với
48
ngành nghề: Sản xuất giấy xuất khẩu, chế biến hàng gỗ, mua bán gỗ nguyên
liệu, dịch vụ cân điện tử ô tô, xây dựng, khai thác đá Granite và đá thạch anh,
cho thuê kho bãi... Khi thành lập Công ty có hai thành viên góp vốn, gồm:
Phan Lâm Hơn góp vốn 54% và Phạm Thị Bình góp vốn 46%. Từ ngày thành
lập cho đến năm 2011, Công ty Thanh Bình có tuyển dụng 03 thành viên gồm
Nguyễn Thành Thảo kế toán, Phạm Nhật Chiêu kế toán, Nguyễn Thị Ngọc
Nữ kế toán thống kê. Công ty đã 10 lần thay đổi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và 02 lần đăng ký mẫu dấu với cơ quan có thẩm quyền. Lần đầu
đăng ký mẫu con dấu có ký hiệu SĐKKD 3502000171, mang tên Công ty
TNHH Thanh Bình Bình Định. Đến ngày 23/7/2012 thì Công ty TNHH
Thanh Bình đăng ký mẫu dấu lần thứ 2 có ký hiệu MSDN 4100452913, mang
tên Công ty TNHH Thanh Bình và được Phòng cảnh sát quản lý trật tự xã hội
Công an tỉnh Bình Định thu con dấu cũ và cấp con dấu mới vào ngày
06/8/2012, theo Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu số: 130 ngày 23/7/2012.
Để có vốn hoạt động sản xuất kinh doanh, từ ngày 16/12/2007 đến
ngày 23/9/2011 Công ty TNHH Thanh Bình bắt đầu giao dịch quan hệ vay
vốn với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Định
(Nay đổi tên thành Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh
Quy Nhơn viết tắt là Ngân hàng Ngoại Thương Quy Nhơn) bằng 68 Hợp
đồng tín dụng ngắn hạn và trung hạn. Hiện còn nợ lại 10 hợp đồng tín dụng
ngắn hạn, và 02 hợp đồng tín dụng trung hạn.
Từ ngày 02/3/2011 đến 23/9/2011, Công ty Thanh Bình vay vốn tại
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam chi nhánh Quy Nhơn với 10 Hợp
đồng tín dụng ngắn hạn với tổng số tiền 14.900.000.000đ. Để bảo đảm cho
các khoản vay nêu trên Công ty Thanh Bình (đại diện là vợ, chồng Phan Lâm
Hơn, Phạm Thị Bình) đã ký kết 07 hợp đồng thế chấp tài sản, gồm: Nhà làm
việc; tường rào cổng ngõ; nhà thường trực; sân bê tông; nhà xưởng chính; 01
tủ tụ bù trọn bộ 280KVA; 01 tủ điện phân phối; 01 băng tải nguyên liệu; máy
49
sản xuất dăm gỗ và các phụ kiện kèm theo; 01 băng tải; 50 cái container; xe
cải tiến bánh hơi; hệ thống cân ô tô điện tử 60 tấn; Toàn bộ diện tích rừng
trồng gỗ giao bạch đàn tại Lô 02 và Lô 03 diện tích 45.000m2 tại xã Mỹ
Châu, huyện Phù Mỹ; Ngôi nhà và Quyền sử dụng đất tại địa chỉ 192 Huỳnh
Thúc Kháng, P. Thị Nại, TP. Quy Nhơn; hệ thống băng tải và máng trượt
nguyên liệu; Máy băm gỗ; Máy sàn rung kiểu Nhật; Motor 250HP; tủ điện, tủ
bù; Nhà để xe công nhân; Nhà xưởng cơ khí; Nhà ăn công nhân; Nhà xưởng
CD đứng; Bể nước PCCC; Sân bê tông nội bộ; đường bê tông nội bộ; Nhà
kho chứa nguyên liệu. Các tài sản này được Ngân hàng định giá khi cho vay
là 19.510.000.000đ. Như vậy, Công ty TNHH Thanh Bình đã vay vốn tại
Ngân hàng TMCP ngoại thương, chi nhánh Quy Nhơn với 12 hợp đồng tín
dụng ngắn hạn và trung hạn với tổng số tiền đã rút vốn là 17.748.000.000đ và
đã trả được 3.892.514.041đ tiền gốc; còn nợ lại 13.855.485.959đ tiền gốc, nợ
lãi 15.166.384.859đ.
Do Công ty TNHH Thanh Bình để nợ quá hạn nên ngày 19/11/2013,
Ngân hàng gửi đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định để yêu cầu
Công ty Thanh Bình trả nợ và xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay của 12
hợp đồng tín dụng nói trên. Trong quá trình Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
thụ lý giải quyết vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Ngoại
thương Bình Định và Cty Thanh Bình thì Phan Lâm Hơn cố tình không đến
Tòa án để giải quyết vụ kiện. Đồng thời để chiếm đoạt số tiền vay nợ của
Ngân hàng, Phan Lâm Hơn (đại diện Công ty Thanh Bình) đã dùng thủ đoạn
gian dối, bằng cách lập khống các tài liệu, chứng từ vay mượn tiền của bà
Phạm Thị Thu Thảo như Hợp đồng vay mượn tiền số 03, có thế chấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AP612529 ngày 25/9/2009 do UBND tỉnh
Bình Định cấp; Phiếu thu số 16 có chữ ký của Nguyễn Thị Ngọc Nữ và Phạm
Nhật Chiêu kế toán của Công ty; Giấy giao nhận tiền; Biên bản bàn giao tài
sản thế chấp cùng ngày 02/4/2010 với số tiền 10.000.000.000đ. Ngày
50
06/8/2014, Thảo sử dụng các tài liệu, chứng từ được lập khống để khởi kiện
Công ty Thanh Bình tại Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn. Ngày
20/8/2014, Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn thụ lý giải quyết hòa giải
giữa các bên đương sự. Ngày 12/9/2014, Tòa án nhân dân thành phố Quy
Nhơn ra Quyết định số 169/2014/QĐST-DS công nhận sự thoả thuận của các
bên đương sự.
Ngày 23/10/2014 Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định ban hành
Quyết định số 03 lấy hồ sơ để thi hành án đối với 02 Quyết định số 169 và số
170 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn và ra Quyết định thi hành án
số 05/QĐ-CTHA ngày 24/10/2014. Trong quá trình Thi hành án, ngày
28/10/2014 bà Phạm Thị Bình - Phó giám đốc Công ty Thanh Bình viết giấy
ủy quyền cho ông Phan Lâm Hơn - Giám đốc toàn quyền Quyết định, lập và
ký tên xác nhận trên các giấy tờ, văn bản, có liên quan đến việc thi hành án,
xử lý tài sản của Công ty TNHH Thanh Bình để thanh toán trả nợ cho bà
Phạm Thị Thu Thảo và Phạm Thị Minh để cấn trừ toàn bộ nghĩa vụ phải thi
hành án.
Quá trình thi hành án, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định có tiến
hành xác minh tài sản của người phải thi hành án (Công ty TNHH Thanh
Bình) nhưng trong biên bản xác minh không ghi tài sản nào là tài sản thuộc
quyền sở hữu của Công ty Thanh Bình và tài sản nào Công ty TNHH Thanh
Bình đã thế chấp cho Ngân hàng Ngoại Thương Bình Định mà tiến hành lập
biên bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa người phải thi hành án là (Công ty
TNHH Thanh Bình đại diện ông Phan Lâm Hơn) và người được thi hành án
bà Phạm Thị Thu Thảo giao toàn bộ tài sản gồm: Nhà làm việc; nhà kho tiền
chế; nhà máy sản xuất dăm gỗ và máy móc; Nhà kho gồm số 01; số 02; số 03;
số 04; Nhà ăn; nhà bảo vệ; nhà để xe; tường rào cổng ngõ; 01 trạm cân ô tô 60
tấn; hồ nước phòng cháy chữa cháy cho bà Phạm Thị Thu Thảo quản lý để
cấn trừ nghĩa vụ thi hành án. Trong đó, có một số tài sản đang thế chấp tại
51
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - chi nhánh Bình Định bằng 03
Hợp đồng thế chấp tài sản như: Hợp đồng 01 ngày 20/6/2009; số 01 ngày
16/9/2009; số 01 ngày 04/11/2009 gồm: Nhà làm việc; Nhà máy sản xuất dăm
gỗ và máy móc; Nhà ăn; Nhà bảo vệ; Nhà để xe; Tường rào cổng ngõ; 01
trạm cân ô tô 60 tấn; hồ nước phòng cháy chữa cháy.
Việc Phan Lâm Hơn là Giám đốc Công ty TNHH Thanh Bình không
tiếp tục thực hiện trả nợ vay cho Ngân hàng mà cùng với Phạm Thị Thu Thảo
làm giả các chứng từ vay mượn tiền của Thảo nhằm chiếm đoạt tài sản của
Ngân hàng. Số tài sản này được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự
tỉnh Bình Định xác định và kết luận vào ngày 18/7/2017 gồm: Nhà máy sản
xuất dăm gỗ và máy móc thiết bị; Nhà làm việc; Tường rào, cổng ngõ; Nhà bảo
vệ (nhà thường trực); Nhà để xe; nhà ăn; Bể nước phòng cháy chữa cháy; 01
trạm cân ô tô 60 tấn đã chuyển giao cho bà Phạm Thị Thu Thảo có giá trị
3.138.133.000đ. Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra tài sản của Công ty TNHH
Thanh Bình và kê biên giao toàn bộ tài sản cho Phan Lâm Hơn quản lý.
Ngày 08/9/2015, Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng kết luận:
+ Hình dấu tròn có nội dung “Công ty T.N.H.H Thanh Bình Bình Định
-TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, SĐKKD 3502000171-CTTNHH” trên Giấy
nhận nợ vay đề ngày 02/4/2010 và hình dấu tròn (qua photocopy ) có nội
dung “Công ty T.N.H.H Thanh Bình Bình Định -TP Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định-SĐKKD 3502000171-CTTNHH” trên Giấy nhận nợ vay (bản
photocopytừ bản gốc), đề ngày 18/11/2011 với mẫu hình dấu tròn có nội dung
“Công ty T.N.H.H Thanh Bình Bình Định-TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định-
SĐKKD 3502000171-CTTNHH” của Công ty TNHH Thanh Bình, tỉnh Bình
Định là không phải được in ra từ một con dấu.
+ Chữ ký và chữ viết (qua photocopy) mang tên “ P. Nhật Chiêu” và
Ph. Nhật Chiêu” trên “phiếu thu” (bản photocopy), số 16 đề ngày 02/4/2010
và “ Phiếu thu” (bản photocopy), số 28 đề ngày 18/11/2011 với mẫu chữ ký
52
và chữ viết đứng tên Phạm Nhật Chiêu là không phải do cùng một người ký
và viết ra.
+ Chữ ký và chữ viết (qua photocopy) mang tên “ Nguyễn Thị Ngọc
Nữ” và trên “Phiếu thu” (bản photocopy), số 16, đề ngày 02/4/2010 và “
Phiếu thu” (bản photocopy), số 28, đề ngày 18/11/2011 với mẫu chữ ký và
chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Ngọc Nữ là không phải do cùng một người ký
và viết ra.
- Ngày 11/5/2017, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xử hủy 02 Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự
số: 169, số 170/2014 cùng ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố
Quy Nhơn để điều tra xét xử lại. Tuy nhiên, ngày 18/7/2017 Tòa án nhân dân
thành phố Quy Nhơn đã tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự giữa nguyên
đơn Phạm Thị Thu Thảo, Phạm Thị Minh và bị đơn Công ty TNHH Thanh
Bình (đại diện là ông Phan Lâm Hơn, Giám đốc), đồng thời có công văn số
241, 242 trả lời cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định về việc vay
mượn của bà Phạm Thị Thu Thảo, Phạm Thị Minh với Công ty TNHH Thanh
Bình có dấu hiệu tội phạm hình sự.
Ngày 26/6/2018, Phan Lâm Hơn cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định 03 chứng cứ (bản gốc) gồm: Hợp đồng vay mượn tiền số 03; Phiếu
thu số: 02 cùng ngày 02/4/2010; Biên bản họp hội đồng thành viên ngày
03/4/2010 của Công ty TNHH Thanh Bình. Ngày 20/7/2018, Phân Viện
KHHS tại Đà Nẵng kết luận: Hình dấu tròn có nội dung “Công ty TNHH
Thanh Bình Bình Định” là do cùng một con dấu đóng ra; Chữ ký, chữ viết
mang tên Phạm Thị Bình dưới các mục “Người lập phiếu” và “Thủ quỹ” thì
do một người ký và viết ra. Không đủ cơ sở kết luận chữ ký mang tên Phan
Lâm Hơn có trước hay có sau so với hình dấu tròn có nội Công ty TNHH
Thanh Bình Bình Định; không xác định được thời gian in, ký và đóng dấu đối
với nội dung in, chữ ký và hình dấu trên mẫu giám định.
53
Quá trình điều tra, Phạm Thị Thu Thảo không giao trả những tài sản đã
được Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định bàn giao vào ngày 27/11/2014
cho Công ty TNHH Thanh Bình để giao trả cho Ngân hàng.
Tại phiên tòa ngày 29/6/2019, các bị cáo và Luật sư bào chữa cho các
bị cáo cung cấp cho Hội đồng xét xử nhiều chứng cứ mới, mà những chứng
cứ này chưa được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Định và Viện
KSND tỉnh Bình Định thu thập, xác minh trong quá trình điều tra, truy tố.
Đây là những chứng cứ mới phát sinh mà Hội đồng xét xử không thể bổ sung
tại phiên tòa được. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015,
Hội đồng xét xử đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Định nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Nhìn chung, kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND tỉnh Bình
Định cho thấy:
Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung từ năm 2016
đến năm 2020 là đúng trình tự, thủ tục của BLTTHS và Thông tư 01/2010 và
Thông tư 02/2017 ban hành. Các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều
có căn cứ, đúng pháp luật, cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Trong 55
trường hợp Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để
điều tra bổ sung, chủ yếu là trả hồ sơ để khởi tố thêm đồng phạm khác. Việc
trả hồ sơ đều nhằm để củng cố chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội.
Việc điều tra bổ sung đều được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
theo đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS năm 2015.
Những vấn đề cần phải điều tra bổ sungcủa Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định nêu ra trong các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều được Cơ
quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Định, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Định thực hiện nghiêm túc, đảm bảo thời hạn, góp phần bảo đảm việc
54
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật; đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh
Bình Định trong thời gian qua.
2.2.2. Những hạn chế của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm và nguyên nhân
2.2.2.1. Những hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm trong quá trình trả hồ sơ để điều tra bổ sung
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã được Viện kiểm sát chấp nhận, bảo
đảm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, thì theo số liệu thống kê của Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Định, trong tổng số các vụ án mà TAND tỉnh Bình Định trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để điều tra bổ sung từ năm
2016 – năm 2020 vẫn còn có những hạn chế, Viện kiểm sát không chấp nhận.
Các hạn chế tập trung vào một số trường hợp sau đây:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của một số Thẩm phán, HĐXX không có
căn cứ nên Viện kiểm sát không chấp nhận, hoặc Viện kiểm sát không thể đáp
ứng do yêu cầu điều tra bổ sung không khả thi, làm ảnh hưởng thời gian tố tụng.
Một số trường hợp, Thẩm phán, Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung chưa chặt chẽ, không đúng về hình thức. Tại Điều 9
của Thông tư số 02/2017 đã hướng dẫn: Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
phải ra quyết định bằng văn bản và do người có thẩm quyền ký theo quy định
tại các điều 41, 44 và 45 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vấn đề hình thức của
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã có hướng dẫn cụ thể, nhưng vẫn
còn một số quyết định chưa tuân thủ triệt để quy định.
Công tác phối hợp giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên, giữa lãnh đạo hai
ngành Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh đôi lúc chưa nhịp
nhàng, cứng nhắc hoặc nể nang làm ảnh hưởng đến kết quả điều tra bổ sung
chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Có vụ án Tòa án nhân dân tỉnh Bình
55
Định xét thấy cần làm rõ thêm một số vấn đề để xử tội nặng hơn nhưng Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định không làm.
Ví dụ: Trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, có
trường hợp Viện kiểm sát ra cáo trạng và chuyển hồ sơ sang Tòa án. Thẩm
phán được phân công trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có căn cứ phải
truy tố bị cáo về tội danh nặng hơn tội Viện kiểm sát đã truy tố, tội danh nặng
hơn lại thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, vì vậy Thẩm phán đã ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát truy tố về tội danh
nặng hơn theo thẩm quyền. Nhưng Viện kiểm sát cấp trên không rút hồ sơ lên
truy tố bị can về tội danh nặng hơn, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố bị can về tội danh ban đầu, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội
danh nặng hơn và bị Tòa án cấp trên hủy bản án sơ thẩm do vi phạm thẩm
quyền xét xử. Trong vụ án này, do sự phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát
chưa chặt chẽ, hoặc do nể nang nên dẫn đến việc bản án sơ thẩm bị hủy.
Trình độ năng lực, nhận thức của một vài Thẩm phán, một số thành
viên của Hội đồng xét xử đôi lúc chưa cao. Có vài vụ án việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung là không cần thiết, nếu có nội dung cơ quan điều tra chưa chứng
minh mà tại phiên tòa có thể làm rõ được thì không phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. Thực tiễn công tác xét xử cho thấy việc xác định bị cáo cố ý phạm
tội hay vô ý phạm tội có nhiều trường hợp không phải do điều tra thu thập
được, mà là do đánh giá thông qua hành vi khách quan của bị cáo hoặc tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhiều trường hợp có thể xác định tại phiên
tòa. Thậm chí có những chứng cứ rất quan trọng nhưng vẫn có thể bổ sung tại
phiên tòa. Thẩm phán không phân biệt giữa chứng cứ và đánh giá chứng cứ
nên đã ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không đúng với quy định tại
Điều 280 BLTTHS năm 2015.
Ví dụ: Trường hợp không cần thiết trả hồ sơ cho Viện kiểm sát (do xác
định, chứng minh các tình tiết liên quan đến vụ án không đúng)
56
Vụ án: Lê Trần Anh Khoa, bị VKSND tỉnh Bình Định truy tố về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo khai khi thực hiện hành vi phạm tội
có người yêu của bị cáo là chị Nguyễn Thị H cũng có mặt tại hiện trường
nhưng cơ quan điều tra chưa lấy lời khai của chị H mặc dù bị cáo khai rõ địa
chỉ của chị Nguyễn Thị H. Trong vụ án này lời khai của chị Nguyễn Thị H
không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án thì TAND tỉnh Bình Định
không cần phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định để lấy
lời khai của chị Nguyễn Thị H với tư cách là người làm chứng mà chỉ cần
triệu tập chị H ra Tòa với tư cách là người làm chứng để xét hỏi. Trong vụ án
này TAND tỉnh Bình Định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát là không cần thiết.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong trả hồ sơ để điều tra
bổ sung
Thứ nhất, quy định của pháp luật và hướng dẫn thi hành chưa chặt chẽ
Theo quy định tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định về số lần trả hồ
sơ: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một
lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần [31,
tr.137]. Theo quy định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị
xét xử Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên
tòa HĐXX chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm
hạn chế việc lợi dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết
vụ án. Đồng thời buộc Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên
cứu hồ sơ vụ án, phát hiện các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh
tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Tuy nhiên, trên thực tế có
những trường hợp sau khi Thẩm phán, HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ
án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ
yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức năng hướng dẫn
cụ thể.
57
Khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn:
“Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định
nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ
sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra
bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện
nay có những quan điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm 1: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định
trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ
sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ
sung của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết
quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi
nhận lại hồ sơ vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và
nêu rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn.
Quan điểm 2: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ
sơ yêu cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung
lần trước như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLT.
Quan điểm của tác giả: BLTTHS quy định Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và HĐXX được trả hồ sơ để điều
tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu
điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều tra bổ sung còn sót những vấn
đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng không đạt yêu cầu hoặc từ
kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau
khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu rõ lý do như
58
hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Bởi lẽ,
trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung còn
thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề
mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện
kiểm sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát
sinh vấn đề gì mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có
vấn đề cần điều tra bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung lần trước chưa yêu cầu thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu
điều tra bổ sung, trường hợp này HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định khi nghị án kết thúc, HĐXX phải
quyết định một trong những vấn đề: Ban hành bản án và tuyên án; quay lại phần
xét hỏi và tranh luận nếu xét thấy cần xét hỏi thêm những vấn đề của vụ án mà
chưa được xét hỏi, chưa làm rõ; trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung;
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; tạm đình chỉ vụ án’’.
BLTTHS không quy định các trường hợp HĐXX phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Tuy nhiên, theo hướng dẫn Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT
các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát
điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung
tại phiên tòa khi nào?
Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần
điều tra bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong
hồ sơ vụ án không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát
hiện. Nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì
HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát
59
hiện những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng
cứ được, nhưng tại phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì
HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề
thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó
Thẩm phán chưa trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để
yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán
đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời
là không có căn cứ thì HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Trường hợp không bổ sung
được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết
định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Quy định trên được hiểu Tòa
án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát
thấy yêu cầu của Tòa án là có căn cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng
không bổ sung được và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến
hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là
những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát không điều tra bổ
sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy tố, trường
hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm 1:Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu
điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280
và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung.
Quan điểm 2,cũng là quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ
những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ
quy định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để
yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả
60
tiếp chỉ kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị
cáo phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị
lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c
khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét
xử vụ án và nhận định trong bản án.
Trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài sản,
cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án
trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu
cầu giám định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay,
vấn đề này giữa Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau.
Quan điểm của Viện kiểm sát: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến
hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và
khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ
sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5
Điều 252 BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo
yêu cầu của Tòa án.
Quan điểm của tác giả: Theo quy định tại khoản 1 Điều 210; khoản 1
Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ trên là cơ sở để Viện
kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội ở khoản nào của
điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung tại phiên tòa
được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo quy định
[26, tr.04].
Thứ hai, nguyên nhân khách quan
Trong những năm gần đây, tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh
Bình Định ngày càng diễn biến hết sức phức tạp, với thủ đoạn thực hiện tội
phạm tinh vi và nghiêm trọng hơn. Nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, phạm tội
nhiều lần, nhiều vụ án ma túy đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm Hủy hoại rừng
với quy mô lớn, diện tích rừng thiệt hại lên đến hơn 60 héc ta, …. nên ảnh
61
hưởng không nhỏ đến chất lượng điều tra, truy tố, xét xử khi xác định sự thật
khách quan vụ án. Có nhiều vụ án hồ sơ rất dày, chứng cứ thu thập được
thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tình tiết xảy ra rất phức tạp,
Điều tra viên, Kiểm sát viên nhận định, đánh giá chứng cứ, điều tra vụ án
chưa toàn diện, thu thập thiếu chứng cứ, nhiều tình tiết chưa được làm rõ mà
không thể khắc phục được nên phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, ma túy, hủy hoại rừng trên địa bàn
tỉnh Bình Định rất phức tạp, nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện, án có
liên quan đến nhiều lĩnh vực, cần phải làm việc với rất nhiều cơ quan liên
quan; việc điều tra xác minh gặp nhiều khó khăn, có một số vụ án phức tạp
phải gia hạn điều tra mới đủ thời gian kết luận điều tra, vì vậy thiếu sót trong
công tác điều tra là khó tránh khỏi.
BLHS, BLTTHS có nhiều nội dung quy định còn bất cập, chưa chặt
chẽ, nhiều quy định chưa rõ ràng nhưng chưa được hướng dẫn.
Trong thời gian gần đây các đối tượng thường phản cung sau khi nhận
bản kết luận điều tra, cáo trạng hoặc tại phiên tòa, các đối tượng nại ra các
tình tiết mới nhằm chối tội từ đó Hội đồng xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung.
Thứ ba, nguyên nhân chủ quan
Tinh thần trách nhiệm, năng lực nghiệp vụ của một số Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Điều tra viên chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong bối cảnh cải cách tư pháp. Việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ,
kỹ năng xử lý tại phiên tòa trong một vài vụ án Hội thẩm nhân dân chưa
chuyên nghiệp, thiếu quyết đoán, nên khi có vấn đề phức tạp thì các Hội thẩm
nhân dân biểu quyết theo đa số nên Hội đồng xét xử phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong một số vụ án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung chưa nghiên cứu sâu Điều 280 BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên
62
tịch số 02/2017, dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung không đạt chất lượng.
Ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung căn cứ không đúng, nội dung yêu
cầu điều tra bổ sung chưa chặt chẽ, còn mang tính chung chung, không cụ
thể, nên Viện kiểm sát không chấp nhận điều tra bổ sung.
Trách nhiệm của một số Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên
tòa xét xử hình sự sơ thẩm chưa cao, không nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ
án để đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, dẫn đến có vài trường hợp mặc
dù hồ sơ vụ án thiếu chứng cứ chứng cứ quan trọng, nhưng có thể bổ sung
được tại phiên tòa, không cần thiết phải trả hồ sơ nhưng vẫn trả hồ sơ, dẫn
đến Viện kiểm sát không chấp nhận, vụ án được đưa ra xét xử tuyên bị cáo
phạm tội theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Quan điểm, nhận thức của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên đối
với các quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung chưa thống nhất nên đôi lúc có
sự mâu thuẫn về các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung; sự phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong một số vụ án đôi lúc chưa kịp thời, chưa được
chặt chẽ, chưa mềm dẽo, nhất là đối với những vụ án phức tạp cần trao đổi để
đưa ra hướng trả hay không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Kết luận Chương 2
Chương 2 đã đưa ra những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của
TAND tỉnh Bình Định. Qua nghiên cứu chúng ta có thể nhận thấy rằng bên
cạnh những ưu điểm, kết quả áp dụng những quy định của pháp luật vào thực
tiễn xét xử sơ thẩm tại TAND tỉnh Bình Định còn nhiều những vướng mắc,
bất cập. Những vướng mắc, bất cập này nguyên nhân từ các quy định của
pháp luật chưa hoàn thiện, từ nhận thức của những người tiến hành tố tụng.
Đây là vấn đề quan trọng vì thế cần sự nhận thức rõ ràng và rút kinh nghiệm
nghiêm túc để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết án nhằm đáp
63
ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của việc cải cách tư pháp.
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.1.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy
nhà nước, trong đó cải cách tư pháp có vai trò rất quan trọng. Đảng và Nhà
nước ta đã triển khai và đề ra nhiệm vụ: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật...”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII (năm 1997); Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị
quyết 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị định hướng đẩy mạnh
việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống
tư pháp hiệu quả, trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người.
Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến cải cách bộ máy nhà nước,
trong đó cải cách tư pháp đóng vai trò quan trọng trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quản lý xã hội bằng pháp luật.... Trong đó Tòa
án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp, xét xử là hoạt động trọng tâm
của quá trình cải cách tư pháp.
3.1.2. Yêu cầu phân biệt các chức năng tố tụng
Chức năng tố tụng hình sự gồm 03 chức năng: Buộc tội, bào chữa (gỡ
tội) và xét xử. Mục đích của Bộ luật tố tụng hình sự là truy tố tội phạm và
64
người phạm tội, chức năng “Buộc tội”; bào chữa cho bị can, bị cáo và luật sư
của họ, chức năng “Gỡ tội”; “Xét xử” là hoạt động của Tòa án. 03 chức năng:
buộc tội, gỡ tội, xét xử luôn tồn tại trong bất kỳ một loại tố tụng hình sự nào.
Vì vậy, nói chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong
quá trình tố tụng hình sự, mà không lẫn lộn các chức năng trong luật tố tụng
hình sự. BLTTHS ban hành nhằm mục đích quy định về trình tự, thủ tục chặt
chẽ nhằm xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tòa án đã được Hiến pháp năm 2013 xác định là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền tư pháp. Việc xác định chức năng tố tụng và mục đích xác định sự thật
của vụ án là cơ sở quan trọng cho việc quy định và thực hiện trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong tố tụng hình sự.
3.1.3. Yêu cầu của Hiến pháp về tổ chức bộ máy nhà nước.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự biến động và phát triển
của thế giới, để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Hiến pháp năm
2013 bổ sung thêm nguyên tắc về tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước
ta: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt Nhân dân thực
hiện các quyền nhân dân giao cho, không bị lạm quyền và có sự kiểm soát của
Nhân dân, đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền lực nhà
nước được giao cho mình. Điều 69 Hiếp pháp năm 2013 quy định Quốc hội
thực hiện quyền lập pháp, Điều 94 Hiến pháp quy định Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp, Điều 102 Hiếp pháp quy định Tòa án nhân dân thực hiện
quyền tư pháp [28, tr.55].
Khoản 2, Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đây là nguyên tắc xuyên suốt
và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
65
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Khoản 3, Điều
102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [28, tr.55].
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
3.1.4. Yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm và không làm
oan người vô tội
Ngày nay, trước yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm và không
làm oan người vô tội đòi hỏi việc điều tra, truy tố, xét xử phải thực hiện đảm
bảo đúng trình tự thủ tục luật định. Yêu cầu phòng, chống oan sai luôn đặt ra
đồng thời với yêu cầu chống để lọt tội phạm. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22-10-2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới” nhấn mạnh: Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; đồng thời, là công cụ hữu hiệu
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa”; coi việc “Tiếp tục đẩy mạnh
cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét
xử… nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội,
không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội” là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì ngay từ
giai đoạn điều ra phải điều tra đầy đủ, tuân thủ trình tự thủ tục tố tụng và thu
66
thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
Tại thời điểm này, BLTTHS năm 2015 và TTLT số 02/2017 đang có
hiệu lực thi hành, đã khắc phục được phần lớn vướng mắc, bất cập về pháp
luật cũng như thực tiễn áp dụng chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng đề tài còn một số vướng mắc, bất cập
trong chế định này, vì vậy, tôi đưa ra một số ý kiến khác để nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Khoản 3 Điều 280 BLTTHS năm 2015 quy định, trường hợp Viện kiểm
sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố, thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Quy định này không thật
chính xác và mâu thuẫn với quy định tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm
2015. Tòa án còn có quyền tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nếu
như Viện kiểm sát không bổ sung được các yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu
bổ sung chứng cứ của Tòa án.
Vì vậy, theo tôi Điều luật này cần sửa đổi là: “Trường hợp Viện kiểm
sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố, thì Tòa án tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
để giải quyết vụ án hoặc tiến hành xét xử vụ án”.
Tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm 2015 quy định: Trường hợp Tòa
án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ
sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để
giải quyết vụ án. Quy định như vậy làm giảm trách nhiệm buộc tội của Viện
kiểm sát và việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung sẽ khó
được Viện kiểm sát chấp nhận; thực tế hiện nay, khi Tòa án trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS, thì
67
Viện kiểm sát cho rằng luật đã quy định Tòa án có quyền bổ sung chứng cứ
thì Tòa án thực hiện quyền đó, chứ không thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Quy định tại Khoản 6 Điều 252 của BLTTHS gây khó khăn rất nhiều trong
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, ảnh hưởng không nhỏ đến mối
quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong điều kiện áp lực bởi quy
định về xét thi đua khen thưởng của Kiểm sát viên khi bị trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.
Các điều 252, 253 BLTTHS năm 2015 quy định về việc Tòa án xác
minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án, đây là điểm mới so với trước đây nhưng chưa được
hướng dẫn và Nghị quyết 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng
thẩm phán TAND Tối cao cũng chưa ban hành biểu mẫu để Tòa án các cấp
thực hiện. Vì vậy, vấn đề này cũng cần phải được hướng dẫn cụ thể về thủ
tục, biểu mẫu thực hiện thống nhất.
3.2.2. Tăng cường giám đốc, kiểm tra và tổng kết công tác xét xử, xây
dựng án lệ
Trong những năm qua, hệ thống Tòa án nhân dân đã có nhiều cố gắng,
khắc phục khó khăn, nỗ lực triển khai nhiều biện pháp thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ được giao, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, cơ bản đạt và vượt
chỉ tiêu, yêu cầu của các nghị quyết của Quốc hội, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Hoạt động xét xử cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật, chất
lượng ngày càng được nâng cao, hạn chế oan sai, tạo chuyển biến tích cực
theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về thực hiện quyền tư pháp, tôn trọng,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đại bộ phận cán bộ làm công tác tư
pháp tận tụy với công việc, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao.Tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm vẫn còn
diễn biến phức tạp. Công tác xét xử vẫn còn một số hạn chế để xảy ra trường
68
hợp oan, bỏ lọt tội phạm.Chính vì vậy, để thực hiện tốt 14 giải pháp của
Chánh án TAND Tối cao ban hành nâng cao chất lượng xét xử các loại án nói
chung và đặc biệt là nâng cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung, TAND
Tối cao cần phải tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, giải quyết các
loại vụ án, phát triển án lệ và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật; TAND
các cấp tổ chức các hội nghị chuyên đề về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, trong đó
làm rõ những trường hợp trả đúng, trả không có căn cứ và rút ra những kinh
nghiệm nhằm hạn chế những sai sót trong trả hồ sơ điều tra bổ sung để các Thẩm
phán nghiêm túc thực hiện.
Có thể chọn những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung mang tính
chuẩn mực, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật để hình thành xây dựng án
lệvà thống nhất thực hiện trong toàn hệ thống.
3.2.3. Quán triệt thực hiện nghiêm Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của
Thẩm phán
Xét xử là công việc rất khó khăn, vất vả, rủi ro, nguy hiểm và nhiều
cám dỗ, bởi đó là quá trình đi tìm sự thật đã được che giấu một cách tinh vi
và trong nhiều trường hợp rất chuyên nghiệp; nếu không rèn cho mình bản
lĩnh vững vàng, sự liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực, thẩm phán
sẽ không thể hoàn thành được trọng trách của mình; hoạt động xét xử là hoạt
động “với con người” và “vì con người”, do đó đòi hỏi thẩm phán phải hành
xử một cách đúng mực, đúng pháp luật, tôn trọng con người. Phán quyết
của Tòa án nhân dân thể hiện quyền lực nhà nước, vừa tạo ra chuẩn mực pháp
lý, vừa tạo ra chuẩn mực đạo đức cho xã hội. Thẩm phán phải xem xét, đánh
giá sự việc một cách cẩn trọng, đặt ra trong từng hoàn cảnh cụ thể trên nền
tảng đạo đức xã hội để ra bản án thấu tình, đạt lý, nghiêm khắc nhưng cũng
rất nhân văn.
Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán đã hệ thống những chuẩn
mực đạo đức và quy tắc ứng xử của thẩm phán nhằm góp phần nâng cao chất
69
lượng đội ngũ thẩm phán, tăng cường liêm chính tư pháp. Bộ quy tắc đạo đức
và ứng xử của thẩm phán là kim chỉ nam chi phối các hành vi ứng xử của
thẩm phán trong công việc cũng như trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra, chất
lượng xét xử của đội ngũ thẩm phán đóng vai trò then chốt trong việc bảo
đảm sự công bằng, liêm chính, minh bạch của hệ thống Tòa án. Bởi vậy, Bộ
quy tắc đạo đức và ứng xử thẩm phán ra đời là một chuẩn mực mà tất cả các
thẩm phán trong hệ thống Tòa án Việt Nam phải tuân thủ. Bộ Quy tắc này đã
quy định rõ ràng và cụ thể các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, hành vi
thẩm phán không được làm hoặc phải tránh để đảm bảo sự liêm chính của
thẩm phán; là cơ sở để xem xét và xử lý kỷ luật đối với thẩm phán nếu có
hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử.
Để nâng cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì một trong
những giải pháp đặt ra là tất cả các thẩm phán phải nghiêm túc thực hiện Bộ
quy tắc đạo đức, ứng xử của Thẩm phán do Hội đồng tuyển chọn giám sát
thẩm phán Quốc gia ban hành ngày 04/7/2018.
3.2.4. Nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng và luật
sư
Để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và người đứng
đầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải nhận thức đầy đủ, chính xác, thống
nhất về vai trò, ý nghĩa của hoạt động điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, những
người tiến hành tố tụng và luật sư phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của
BLTTHS, các Thông tư hướng dẫn của liên ngành Tòa án nhân dân tối cao -
Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ công an trong việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư thường xuyên học
tập, trau dồi kiến thức đểáp dụng đúng quy định của BLTTHS một cách chính
xác, nâng cao nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp, cập nhật liên tục quy định mới
70
của pháp luật , các văn bản mới liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
Nhất là phải nắm vững quy định của BLHS và BLTTHS về chứng cứ, thủ tục
tố tụng thu thập chứng cứ và các quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Kiểm sát viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong hoạt động
kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, Kiểm sát viên phải bám sát các tiến độ của hoạt động điều tra vụ án,
hướng dẫn điều tra. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần trao đổi định kỳ với Điều tra
viên để nắm bắt các thông tin về tiến độ và nội dung của vụ án, phối hợp cùng
với Điều tra viên giải quyết các vấn đề mới phát sinh.
Chủ động đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống TAND. Tăng cường bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ cho Thẩm phán để đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh về hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng nhạy
bén đượctrước những biến đổi của đa dạng của nền kinh tế thị trường hiện
nay. Tăng cường giám sát kỷ luật, ban hành nội quy quy chế của đơn vị chặt
chẽ, thực hiện nghiêm bộ quy tắc đạo đức Thẩm phán, gắn trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị đối với vi phạm của cán bộ, công chức trong
cơ quan, đơn vị.
3.2.5. Tăng cường quan hệ chế ước và phối hợp giữa Tòa án và Viện
kiểm sát
Quan hệ phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều trakhi trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa đã
được quy định cụ thể trong TTLT số 02/2017, Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để đánh giá toàn diện chứng
cứ. Khi phát hiện thiếu chứng cứ quan trọng hoặc có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, thì Thẩm phán trao đổi và yêu cầu Kiểm sát viên bổ sung
chứng cứ kịp thời. Theo quy định tại Điều 284 BLTTHS năm 2015, trường
hợp những chứng cứ có thể bổ sung được, thì Thẩm phán nên tạo điều kiện để
Kiểm sát viên bổ sung; hạn chế việc nghiên cứu chưa kỹ nên không phát hiện
71
được những chứng cứ còn thiếu, đến khi mở phiên tòa xét xử mới phát hiện
được dẫn đến phải hoãn phiên, HĐXX ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa nên tạo điều kiện cho Kiểm sát viên
chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử làm rõ những tài liệu, chứng cứ liên
quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự [45, tr.10]. Trường hợp, tại
phiên tòa, những người tham gia tố tụng khai thêm những vấn đề mâu thuẫn,
hoặc phát sinh những vấn đề mới phức tạp không thể thực hiện ngay tại phiên
tòa, thì Hội đồng xét xử mới trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
BLTTHS năm 2015 quy định một số điểm rất mềm dẽo, không cứng
nhắc, tại tiết 1.1 mục 1 phần I của Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày
05/11/2004 hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003, khi nhận hồ sơ do Viện
kiểm sát chuyển đến, người nhận hồ sơ phải đối chiếu xem đầy đủ chưa, nếu
các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ so với bản kê tài liệu và bản cáo
trạng chưa được giao cho bị can, thì không nhận hồ sơ vụ án vì chưa đúng
quy định của BLTTHS. BLTTHS năm 2015 quy định tại Điểm b khoản 1
Điều 276: “ Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu
có) không đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được
giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và
yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung, vật chứng; yêu cầu giao nhận bản cáo trạng
cho bị can hoặc người đại diện của bị can.
Quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung không phải là ngồi lại bàn bạc sắp xếp cho tròn hồ sơ, mà là
phối hợp tạo điều kiện để thu thập chứng cứ, sớm tìm ra sự thật vụ án, tránh
việc trả hồ sơ không cần thiết, gây tốn kém thời gian và kinh phí của Nhà nước,
ảnh hưởng quyền lợi của bị can, bị cáo và của những người tham gia tố tụng.
Trong quá trình làm việc, cơ quan tiến hành tố tụng các cấp phải quát
triệt nghiêm túc, sâu sắc nội dung TTLT số 02/2017 đồng thời thường xuyên
tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quy định của
72
BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn để báo cáo Trung ương hướng
dẫn thống nhất và kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Kết luận Chương 3
Trên đây là các yêu cầu và giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng của
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
tại Tòa án nhân dân. Tuy các giải pháp này vẫn chưa thực sự cụ thể, còn có
nội dung nặng về tính lý luận, hình thức. Với sự hiểu biết, kiến thức của mình,
tôi đã cố gắng nêu ra các giải pháp đảm bảo nâng cao chất lượng hoạt động
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hy vọng có thể giúp ích cho TAND tỉnh Bình
Định nói riêng và hệ thống Tòa án nói chung có thể dựa vào những giải pháp
này triển khai chi tiết hơn nữa, qua đó dễ dàng triển khai áp dụng vào thực
73
tiễn trong quá trính xét xử, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình.
KẾT LUẬN
Trong 05 năm qua, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã triển khai thực
hiện đồng bộ 14 giải pháp của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, công tác xét
xử các vụ án hình sự đem lại nhiều kết quả tích cực, xét xử đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không có trường hợp nào xét xử
oan sai người vô tội, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung được Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Định đạt tỷ lệ cao. Công tác xét xử các vụ án hình sự của
TAND tỉnh Bình Định góp phần vào thành tích chung của toàn hệ thống Tòa
án nhân dân, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án, nếu phát hiện có những căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
Thẩm phán luôn chủ động và tạo điều kiện để Kiểm sát viên, Điều tra viên
trao đổi phối hợp tốt theo Thông tư liên tịch số 02/2017. Những vụ án không
thể khắc phục được sai sót thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử mới ra quyết định
trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những
thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
được khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp
luật. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại
phiên tòa được thực hiện chính xác, góp phần quan trọng vào việc giải quyết
vụ án được kịp thời, triệt để toàn diện và khách quan.
Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TAND tỉnh Bình Địnhtrong 05
năm (2016 – 2020) có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, ổn định trật tự
an toàn xã hội, tạo điều kiện để tỉnh Bình Định nói chung và thành phố Quy
Nhơn phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, phát huy tiềm năng du lịch
của thành phố biển xinh đẹp. Sự ổn định về an ninh chính trị đã khách du lịch
đến với Quy Nhơn ngày một đông và nhộn nhịp hơn. Có được thành quả đó là
74
nhờ vào sự đóng góp không nhỏ của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, góp
phần xây dựng tỉnh Bình Định là một trọng tỉnh trọng điểm kinh tế, một trung
tâm thương mại của Miền trung. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được,
thực tiễn hoạt đông trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong quá trình xét xử sơ
thẩm hình sự của TAND tỉnh Bình Định cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập
nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như đã phân tích
trên.
Từ thực tiễn xét xử, trên cơ sở phân tích, đánh giá những kết quả đã
đạt được, những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
TAND tỉnh Bình Định thời gian qua, tác giả luận văn đưa ra các giải pháp bảo
đảm áp dụng pháp luật đúng đắn trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự trong thời gian tới. Những kết quả nghiên
cứu của luận văn đem lại giá trị nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn để nâng
cao chất lượng trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đem lại hiệu quả cao trong công
tác giải quyết án hình sự, góp phần quan trọng phục vụ tốt nhiệm vụ chuyên
môn của hệ thống Tòa án nhân dân trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay
và nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Để hoàn thành luận văn, ngoài tâm huyết và nỗ lực của mình, tác giả đã
nhận được sự hướng dẫn hết sức tận tình của TS Đặng Quang Phương, sự hỗ
trợ giúp đỡ to lớn của lãnh đạo TAND tỉnh Bình Định cùng bạn bè, đồng
nghiệp. Đề tài nghiên cứu sâu về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, đây là cơ sở để nhận thức và áp
dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, đề tài tác giả chọn làm luận văn nghiên
cứu khá phức tạp và thời gian nghiên cứu có giới hạn, nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu
75
của các nhà khoa học, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn hoàn chỉnh hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính
trị ”Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Tài liệu lưu Văn
phòng trung ương Đảng, Hà Nội
3. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48- CT/TW ngày 22/10/2010 về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới”, Hà Nội.
4. Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình
sự, Tạp chí kiểm sát, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (2016), Một số vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng hình
sự, Tạp chí Khoa học đại học Quốc gia Hà Nội tập 32 số 1, Hà Nội.
6. Cục Thống kê tỉnh Bình Định (2016, 2017, 2018, 2019, 2020), Tình hình
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.
7. Trần Vi Dân (2010), Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung, điều tra lại, Tạp chí Kiểm sát (02), Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
NXB, Sự thật, 1987.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7 NXB. Chính trị
quốc gia, 2000
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 12 NXB. Chính trị
quốc gia, 2001
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
NXB. Chính trị quốc gia, 2016
12. Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm”, hoc/chi-tiet/79/219>. 13. Trần Văn Độ (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 14. Nguyễn Minh Đức (2016), Một số ý kiến về việc áp dụng quy định trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội. 15. Hồng Hà (2016), “Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần”, bo-sung-mot-lan-631909.html > 16. Nguyễn Văn Hải (2014), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện khoa học xã hội 17. Nguyễn Đức Hạnh (2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội 18. Nguyễn Thị Thương Huyền (2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sungtrong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội 19. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003, Hà Nội. 20. Trần Xuân Huệ (2009), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung cấp sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 21. Dương Phạm Anh Khoa (2014), Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học Viện khoa học xã hội. 22. Vũ Gia Lâm (2003), Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tạp chí Toà án nhân dân, số 8 tháng 4/2013. 23. Nguyễn Quang Lộc (2013), Bàn về chế định Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tạp chí Toà án nhân dân, số 8 tháng 4/2013. 24. Nguyễn Quý Lộc (2013), Bàn về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân số 08, Hà Nội 25. Nguyễn Phúc Lưu (2006), Bàn về việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội. 26. Lê Đình Nghĩa (2018), Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm, Tạp chí Tòa án. 27. Đỗ Văn Nghiêm (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn của Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội 29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội 30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 33. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND 2014 34. Đinh Văn Quế (1999), Vấn đề Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội. 35. Đinh Văn Quế (2006) Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2006. 36. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định (2016 - 2020), Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020. 37. Đào Anh Tới (2017) Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Tạp chí Kiểm sát. 38. Lê Thị Thu Thủy (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sungtrong giai đoạn truy tố từ thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội. 39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. 40. Bùi Đức Tùng (2018), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án quân sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 41. Võ Khánh Vinh (Chủ biên - 2011), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 42. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 43. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam ”, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội 44. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Bộ Công an - Tòa án nhân dân Tối cao (2010), Thông tư liên tịch số 01/2010/ TTLT - VKSNDTC -BCA- TANDTC ngày 27/8 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều ra bổ sung, Hà Nội. 45. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Bộ Công an - Tòa án nhân dân Tối cao (2017), Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT - VKSNDTC -BCA- TANDTC ngày 22/7/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Hà Nội.