VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÒA
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÒA
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Nay tôi viết Lời cam
đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
HỌC VIÊN
Nguyễn Thị Thu Hòa
BẢNG VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Bộ luật dân sự TNHH MTV
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT .......................................... 8 1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý ... 8 1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng ...................................... 15 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................................................... 27 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ........................................................................... 27 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 38 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM .................................................................................... 55 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 55 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
So với nhiều ngành nghề luật khác trong hệ thống các nghề luật Việt
Nam, thì nghề luật sư và các quy định về nghề luật sư hình thành muộn màng,
do đó, hệ thống pháp luật về nghề luật sư và hành nghề luật sư chưa thật sự
hoàn chỉnh và đồng bộ. Trong khi đó, nghề luật sư được cho là tiêu biểu nhất
và thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật vì nó luôn hướng tới
việc bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Những năm gần đây, xã hội ngày càng phát triển, quyền con người,
quyền công dân được đề cao, đồng thời cũng phát sinh thêm nhiều mối quan
hệ giữa công dân với công dân, giữa công dân với các tổ chức và giữa các tổ
chức với nhau. Những mối quan hệ này có thể nảy sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng
đến quyền lợi của mỗi bên. Điều này dẫn đến một nhu cầu thiết yếu là nhiều
tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành
nghề luật sư cung cấp. Trước, trong và sau một quá trình tố tụng hay trước
một cuộc đàm phán, giao kết, thực hiện một giao dịch, không một tổ chức, cá
nhân nào mà không muốn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực
tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng lên một cách rõ rệt. Số
lượng luật sư tăng nhanh, song song cùng phát triển là sự ra đời của các tổ
chức hành nghề luật sư ngày một nhiều.
Khác với các ngành nghề khác trong xã hội, nghề luật sư có tính đặc
thù riêng, mang tính độc lập, tự chịu trách nhiệm. Một luật sư Việt Nam có
thể hành nghề thông qua hai hình thức là hành nghề theo tư cách cá nhân
và hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức hành nghề luật
sư được điều chỉnh bởi Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Tuy nhiên, vấn đề về trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật của tổ chức hành nghề luật sư không được cụ thể hóa trong Luật Luật
1
sư mà vẫn tuân theo các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan về
vấn đề này. Do vậy, để xem xét các vấn đề về tư cách pháp nhân và trách
nhiệm, nghĩa vụ tài sản khi thực hiện dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề
luật sư còn phải thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật Dân sự
năm 2015.
Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực khá rộng, là đặc quyền của giới luật sư,
được pháp luật bảo hộ và được hiểu là sự giúp đỡ về mặt pháp lý của các luật
sư cho những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc
giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng có những vi
phạm và phát sinh tranh chấp, đặc biệt là các trường hợp xác định trách nhiệm
pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật, mối quan hệ về trách nhiệm pháp lý giữa các luật sư trực tiếp
thực hiện và các tổ chức hành nghề luật sư như thế nào…? Pháp luật về luật
sư và hành nghề luật sư đang ngày dần hoàn thiện, đã có những đóng góp tích
cực cho sự phát triển của nghề luật sư, nhưng trên thực tế, một số quy định
của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập chưa đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật. Bởi
vậy, học viên đã chủ động lựa chọn đề tài “Trách nhiệm pháp lý của tổ chức
hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động và hành nghề
không phải là một vấn đề quá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu khoa
học. Pháp luật về nghề luật sư và những bất cập trong hoạt động của các tổ
chức hành nghề luật sư đã được đề cập trong một số nghiên cứu ở các mức độ
khác nhau như bài viết trên các tạp chí, tham luận tại các diễn đàn, tiểu luận
của các học viên, nghiên cứu sinh. Việc nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận
2
và phương diện khác nhau. Một số công trình khoa học tiêu biểu về nghề luật
sư và những bất cập của Luật Luật sư trong hệ thống pháp luật hay quản lý
nhà nước về nghề luật sư như các giáo trình về nghề luật luật sư, sách kỹ năng
hành nghề luật sư, tài liệu học tập, bài viết nghiên cứu hay các luận văn thạc
sĩ, luận án tiến sĩ. Các công trình nghiên cứu liên quan được thể hiện như sau:
2.1. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực luật sư và
hành nghề luật sư, có một số công trình tiêu biểu như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam” do ông Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp
là Chủ nhiệm đề tài, được thực hiện năm 2003;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Vấn đề xã hội hóa hoạt động
luật sư và tư vấn pháp luật” của tác giả Dương Đình Khuyến, được thực hiện
năm 2001…
2.2. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực hợp đồng
dịch vụ pháp lý có các công trình tiêu biểu như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng,
nhu cầu và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp là Chủ nhiệm đề tài, được thực
hiện năm 2005;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong
hành nghề luật sư - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Quỳnh
Anh được thực hiện năm 2006;
- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam” của tác giả Hoàng Thị Vịnh được thực hiện năm 2014;
3
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa
tổ chức hành nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” của tác giả Lê Bình Phương được thực hiện năm 2017…
2.3. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về hình thức tổ chức
hành nghề luật sư có các công trình tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Tổ chức luật sư ở Việt Nam”
của tác giả Đoàn Văn Duy được thực hiện năm 1996;
- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả LS. Phan
Trung Hoài được thực hiện năm 2003;
- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Minh được thực hiện
năm 2009… và còn nhiều bài nghiên cứu, các luận văn, luận án khác nghiên
cứu về vấn đề luật sư và hành nghề luật sư…
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với đề tài
“Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật
sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện
nay, từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra, nhiệm vụ mà luận văn phải làm
rõ đó là:
4
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm
pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Khái quát, phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đánh giá về những ưu điểm và tồn tại
của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập
để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật
sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, từ đó, nâng cao
giá trị nghề luật sư trong xã hội góp phần bảo vệ công lý, đem lại sự bình
đẳng, công bằng cho người dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực trạng
về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực
hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo Luật Luật sư 2006, Luật sửa đổi,
bổ sung Luật Luật sư năm 2012 tại Việt Nam cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về nghề
luật sư và hành nghề luật sư… Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng
5
các phương pháp nghiên cứu truyền thống và tin cậy để làm sáng tỏ đề tài
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận
chung của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư
Việt Nam hiện nay khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về
trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp
nhằm khắc phục tồn tại bất cập để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp
lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực hiện hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật, từ đó nâng cao, tôn vinh giá trị nghề luật sư trong xã hội
góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
tổ chức theo quy định pháp luật.
Luận văn cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu
và giảng dạy các vấn đề liên quan đến nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật.
6
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức
hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật.
7
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư
Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư được sửa đổi bổ sung năm
2012 quy định luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư,
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi
chung là khách hàng). Trong Luật Luật sư, khái niệm luật sư đã được cụ thể
hơn bằng quy định về tiêu chuẩn luật sư, đây là điểm mới so với Pháp lệnh
Luật sư năm 2001.
Điều 10 Luật Luật sư quy định: “Luật sư là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khỏe, đảm bảo hành nghề luật sư thì có thể trở
thành luật sư”. Tiêu chuẩn trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật là điều “bất biến”. Với các tiêu chuẩn cơ bản về luật sư quy định tại
Luật Luật sư thì gần như tương tự tiêu chuẩn đối với điều tra viên, kiểm sát
viên và thẩm phán. Quy định này ngoài việc đảm bảo sự thống nhất về tiêu
chuẩn đối với các chức danh tư pháp, nó còn tạo ra mối liên kết giữa luật sư
và các chức danh tư pháp khác trong quá trình đào tạo nghề và hoạt động
nghề nghiệp. Việc quy định cụ thể về tiêu chuẩn luật sư đã góp phần tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký gia
nhập Đoàn luật sư và thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư.
8
Một điểm đặc thù trong tiêu chuẩn luật sư so với các chức danh tư pháp
khác đó chính là tiêu chuẩn có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều này
trong thực tiễn cho thấy, nhiều điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên sau khi
nghỉ hưu mới trở thành luật sư và điều kiện sức khỏe không bảo đảm đã ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng hành nghề luật sư. Đây là sự bất cập trong
quy định về tiêu chuẩn sức khỏe đối với luật sư vì pháp luật không quy định
cụ thể gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước và Đoàn luật sư trong quá
trình xem xét cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và cho gia nhập đoàn luật sư.
Việc xác nhận một người có đảm bảo sức khỏe hay không chỉ dựa vào Giấy
chứng nhận sức khỏe do một tổ chức, cơ quan y tế xác nhận, điều này là rất dễ
dàng có được trong thực tế hiện nay.
Người có đủ tiêu chuẩn theo Điều 10 Luật luật sư muốn hành nghề luật
sư phải được cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp) cấp chứng chỉ hành nghề luật
sư và gia nhập một Đoàn luật sư để có tư cách là thành viên của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam và thành viên của một Đoàn luật sư.
Điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư phải đáp ứng các
yêu cầu về chuyên môn như phải có bằng cử nhân luật, đã tốt nghiệp khóa đào
tạo nghề, hoàn thành thời gian tập sự và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự
hành nghề luật sư. Đây chính là điều kiện cần đối với người muốn hành nghề
luật sư.
Điều kiện gia nhập một Đoàn luật sư là yêu cầu mang tính nghề nghiệp,
thể hiện tính chất đặc thù của nghề luật sư so với các nghề nghiệp khác trong
xã hội. Luật sư được Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp Thẻ luật sư làm thông
hành cho việc hành nghề luật sư. Khi tác nghiệp nghề luật sư, luật sư với vai
trò phản biện theo tố tụng và phản biện xã hội theo yêu cầu dịch vụ pháp lý
với công dân hoặc tổ chức xã hội.
9
Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện hành nghề luật sư hiện
nay là phù hợp với thông lệ nghề nghiệp được pháp luật về luật sư của nhiều
nước trên thế giới quy định. Một người chỉ được coi là “Luật sư” khi có đủ
điều kiện nêu trên. Khi đã trở thành luật sư, người đó có quyền được hành
nghề luật sư (cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng) theo
phạm vi, hình thức hành nghề luật sư quy định tại Luật Luật sư. Nếu một
người không có đủ điều kiện hành nghề luật sư nhưng vẫn hành nghề luật sư
dù dưới bất kỳ hình thức nào thì được coi là hành nghề luật sư bất hợp pháp
và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Hiện nay Nhà nước ta đang trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì vai trò, vị trí của luật sư
trong xã hội cũng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn và toàn diện hơn.
Hoạt động luật sư không chỉ phục vụ đắc lực yêu cầu của hoạt động xét xử
nói riêng, hoạt động tư pháp nói chung mà còn là một nhân tố quan trọng
trong việc hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển.
Có thể nói nghề luật sư là nghề tự do và các luật sư hành nghề độc lập
trên cơ sở các quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Chính vì tính
chất đặc thù của nghề luật sư nên trong cơ chế thực thi pháp luật thì hoạt động
hành nghề luật sư luôn được coi là một bộ phận quan trọng. Thông qua hoạt
động nghề nghiệp của mình, luật sư là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống,
góp phần tích cực trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu các
quy định trong pháp luật tố tụng thể hiện rõ quyền của luật sư khi hành nghề
được mở rộng đáng kể thì Luật Luật sư cũng có những quy định tạo điều kiện
thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Ngoài ra,
Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý,
nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề.
10
Luật Luật sư quy định luật sư được thực hiện hoạt động nghề nghiệp
trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhưng cũng quy định các hành vi bị
nghiêm cấm đối với luật sư. Nếu Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị
nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn bị xử lý hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, nếu gây
thiệt hại thì họ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy
định về các tổ chức, các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, quy định chế độ bào chữa, điều kiện công nhận luật sư [17]. Đây là
khung pháp lý nền tảng cho sự phát triển về các quy định đối với nghề luật sư,
các tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam sau này. So với các nước trên thế
giới hình thức tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam có nhiều nét tương đồng.
Hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến ở các nước khác là: Văn phòng
luật sư cá nhân, hành nghề độc lập; công ty luật hợp danh. Còn ở Việt Nam
theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi bổ
sung Luật Luật sư năm 2012 quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư
như sau: “Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (a) Văn phòng luật sư; (b)
Công ty luật” [35].
- Văn phòng luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư có một thành viên và
Văn phòng luật sư có nhiều thành viên. Văn phòng luật sư có con dấu và tài
khoản theo quy định của pháp luật.
- Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH.
Công ty luật hợp danh có ít nhất 02 luật sư thành lập. Công ty luật TNHH bao
gồm công ty luật TNHH có 02 thành viên trở lên và công ty luật TNHH 01
thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu làm giám đốc công ty.
11
Công ty luật TNHH 02 thành viên trở lên do ít nhất 02 luật sư thành lập và
thỏa thuận cử 01 thành viên làm giám đốc.
Luật sư đứng ra thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2
năm hành nghề liên tục. Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức hoạt động
theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên
quan. Tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa
phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc
công ty luật là thành viên. Tổ chức hành nghề luật sư hoạt động theo đúng
nội dung đăng ký hoạt động.
Để có một khái niệm chính thức về tổ chức hành nghề luật sư ở Việt
Nam thì đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định.
Luật sư muốn thành lập hoặc tham gia cùng các luật sư đồng nghiệp thành
lập tổ chức hành nghề luật sư phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện như
Luật Luật sư quy định. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi để các luật sư trực
tiếp hoạt động nghề nghiệp. Các luật sư tác nghiệp theo sự phân công của
đại diện tổ chức hành nghề luật sư nơi mình đăng ký là thành viên hoặc
cộng sự. Tổ chức luật sư thực hiện chế độ tự quản trên nguyên tắc quản lý
và hành nghề luật sư do Nhà nước quy định dựa theo Điều lệ Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư và Điều lệ
Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc.Tổ chức hành nghề
luật sư được hiểu là một loại hình tổ chức nghề nghiệp có sự kết hợp giữa
Nhà nước cho phép thành lập, thống nhất quản lý và chế độ tự quản của tổ
chức nghề nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư. Sự khác biệt và đặc thù
của các tổ chức hành nghề luật sư là việc cấp phép hoạt động, chịu sự quản
lý trực tiếp về hình thức tổ chức hành nghề là do Sở Tư pháp nơi Đoàn luật
sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc nhưng về mô hình hoạt động,
12
chế độ tài chính kế toán thì lại áp dụng như loại hình doanh nghiệp hay
công ty và chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp.
Từ các phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về tổ chức hành
nghề luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề luật là một tổ chức nghề nghiệp
của các luật sư hoặc của một luật sư được thành lập, đăng ký tại Sở Tư
pháp tỉnh/thành phố nơi Đoàn luật sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực
thuộc nhằm bổ trợ cho các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Một
luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập chỉ một tổ chức hành nghề luật
sư và phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Luật Luật sư đã
quy định. Tổ chức nghề nghiệp luật sư hoạt động theo nguyên tắc kết hợp
giữa sự quản lý nhà nước và tính tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp
của luật sư”.
Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư xuất phát từ bản chất, vị trí, vai
trò của luật sư của trong xã hội. Nghề luật sư chú trọng đề cao vai trò của cá
nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư. Bởi thế, tổ chức hành nghề luật sư có
một số đặc điểm tiêu biểu như:
Thứ nhất, tổ chức hành nghề luật sư tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
Thứ hai, tổ chức hành nghề luật sư có tính chất tự do, độc lập và tự
chịu trách nhiệm
Thứ ba, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư mang tính dịch vụ và
được nhận thù lao, lệ phí từ khách hàng
Thứ tư, tổ chức hành nghề luật sư là một nghề không kiêm nhiệm
Thứ năm, tổ chức hành nghề luật sư luôn gắn với sinh mệnh chính trị
của mỗi con người
13
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, như trách
nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến
trong phần quy định của quy phạm pháp luật hay trách nhiệm là việc chủ thể
phải thực hiện một mệnh lệnh cụ thể của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có
thẩm quyền. Hoặc trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong phần chế tài của các quy phạm
pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ
vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác
được pháp luật quy định.
Tựu chung lại, có thể hiểu, trách nhiệm pháp lý là một quan hệ pháp
luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ
thể vi phạm pháp luật, trong đó, bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu các
hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những
loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự.
1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã
hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính
trị….
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là
điểm khác biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác
của nhà nước như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng… Trách nhiệm
pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể hiện
14
qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân
thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định.
Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy
ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Dựa vào tính chất
của trách nhiệm pháp lý có thể chia thành một số loại sau:
(i) Trách nhiệm hình sự: Là trách nhiệm của một người đã thực hiện
một tội phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì
việc phạm tội của họ. Hình phạt này do Tòa án quyết định trên cơ sở của Bộ
luật Hình sự, nó thể hiện sự lên án, sự trừng phạt của Nhà nước đối với người
phạm tội và là một trong những biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.
(ii) Trách nhiệm hành chính: Là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính, phải gánh chịu một
biện pháp cưỡng chế hành chính tùy theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp
cưỡng chế này do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết
định trên cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
(iii) Trách nhiệm dân sự: Là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh
chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên
có quyền. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi
thường thiệt hại.
1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc
cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng
15
dịch vụ”. Quy định trên cho thấy, hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng
thông dụng, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực
hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có
một quy định nào nêu rõ khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và
hợp đồng tư vấn pháp luật nói riêng là gì. Tuy nhiên, trong một số đề tài
nghiên cứu khoa học, một số tác giả đã nêu quan điểm của mình về khái niệm
hợp đồng dịch vụ pháp lý như sau:
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Mai Anh (2015): “Hợp đồng tư
vấn pháp lý là sự thỏa thuận của bên thuê dịch vụ với bên cung cấp dịch vụ về
việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, theo đó bên cung ứng dịch vụ sẽ thực
hiện tư vấn pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ phải
trả thù lao tư vấn cho bên cung ứng dịch vụ” [2, tr.26]. Cũng theo quan điểm
của tác giả, “chủ thể bên cung ứng hợp đồng tư vấn pháp luật gồm có: luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, trung tâm tư
vấn pháp luật” [2, tr.35]. Với cách trình bày như vậy, thì tác giả mới chỉ tiếp
cận về một phần của dịch vụ tư vấn pháp luật đó là “tư vấn pháp lý”.
Theo quan điểm của tác giả Vũ Quỳnh Anh (2006) thì “hợp đồng dịch
vụ pháp lý là một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề nghiệp, theo đó,
bên luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thuê luật sư, còn bên thuê luật
sư phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận” [1, tr.18]. Quan niệm của tác giả phù
hợp với quy định của Luật Luật sư, theo đó, luật sư là chủ thể duy nhất có thể
cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội.
Theo quan điểm của tác giả Trần Bích Hạnh (2015), thì “kinh doanh
dịch vụ pháp lý rộng hơn hành nghề luật sư và có thể hiểu dịch vụ thương mại
pháp lý là loại hình dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà bên cung
ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ thể có liên quan đến
16
pháp luật nhằm mục đích kiếm lời” [21 tr.13]. Khái niệm này đặc biệt nhấn
mạnh dịch vụ pháp lý là hình thức kinh doanh thương mại, tìm kiếm lợi
nhuận, chưa thể hiện đúng bản chất, tinh thần của hoạt động dịch vụ pháp lý
đối với tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Trong thời đại khoa học công nghệ 4.0 hiện nay, dịch vụ pháp lý đã
được hiểu theo nghĩa rộng hơn, quy định cũng thông thoáng hơn cho một số
ngành nghề, không chỉ bó hẹp trong phạm vi Luật luật sư, do đó có rất nhiều
quan điểm khác nhau về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng. Dưới góc nhìn của tác giả, chủ thể có thể
cung ứng dịch vụ pháp lý là tổ chức hành nghề luật sư, luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng thừa phát lại, tổ
chức trọng tài thương mại. Trong một số trường hợp bên yêu cầu dịch vụ
pháp lý không nhất định phải là người hưởng lợi mà họ thực hiện yêu cầu
dịch vụ pháp lý vì lợi ích của một bên thứ ba. Ví dụ, người đại diện hoặc
người thân thích của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người ký
hợp đồng dịch vụ pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư nhưng người được
bào chữa lại chính là người bị buộc tội. Đây chính là sự thỏa thuận của các
chủ thể về mỗi loại dịch vụ pháp lý mà các bên hướng tới nhằm thỏa mãn nhu
cầu về mặt pháp lý cho bản thân hoặc cho người thứ ba.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng: “Hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật là sự thỏa thuận có thù lao giữa bên được phép cung cấp dịch vụ và
bên yêu cầu dịch vụ nhằm thực hiện các dịch vụ tư vấn pháp luật được pháp
luật cho phép”.
1.2.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Khác với các hợp đồng dịch vụ khác là công việc có thể thực hiện
được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội, bên thuê yêu cầu
bên cung cấp phải thực hiện theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và các
17
thỏa thuận khác, thì ngoài những quy định chung của pháp luật về hợp đồng
dịch vụ, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn có tính chất đặc thù, đó là, chỉ
có tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư mới được ký kết hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật (hợp đồng dịch vụ pháp lý) theo quy định tại Điều 26, Điều 39
của Luật Luật sư.
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bắt buộc khi giao kết phải bằng văn
bản. Thời gian thực hiện là do các bên thỏa thuận tùy theo tính chất và nội
dung công việc dịch vụ, tuy nhiên, trong các vụ án hình sự, đa phần thời hạn
của hợp đồng phụ thuộc thuộc thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng và
cơ quan nhà nước khác. Người thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
phải là luật sư am hiểu pháp luật chuyên ngành để cung cấp dịch vụ pháp lý
và luật sư của tổ chức hành nghề luật sư được trực tiếp làm việc cùng cơ quan
tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước yêu cầu giải quyết theo quy định của
pháp luật, không bị ngăn cấm. Luật sư phản biện lại các kết luận không có căn
cứ pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình.
Tổ chức hành nghề luật sư được nhận thù lao của khách hàng theo thỏa thuận
tại hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bằng văn bản do Trưởng
Văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật ký trực tiếp với khách hàng.
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng song vụ,
mang tính ưng thuận
Tính chất song vụ thể hiện như quy định về loại hợp đồng song vụ theo
Bộ luật Dân sự, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, các bên đều có
nghĩa vụ đối với nhau. Bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu
cầu bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật thực hiện đúng đối tượng của hợp
đồng và phải trả thù lao tương ứng, ngược lại bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật thực hiện theo thỏa thuận thì cũng có yêu cầu buộc bên sử dụng
18
(bên thuê) phải trả thù lao tương xứng. Tính ưng thuận của hợp đồng thể hiện
việc các chủ thể tự do ý chí khi thương lượng thỏa thuận về nội dung hợp
đồng. Khi đã đồng ý xác lập, giao kết hợp đồng thì có nghĩa hợp đồng bắt
buộc thực hiện. Điểm nổi bật là giá trị pháp lý gắn với công việc mà bên cung
ứng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thực hiện với kỹ năng, kinh nghiệm của
mình theo quy định pháp luật.
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật mang tính chất đền bù
Khi bên yêu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật thì phải trả một
khoản phí tương ứng do bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật đưa ra trên cơ
sở pháp luật quy định về mức phí, lệ phí, thù lao của tổ chức hành nghề luật
sư khi thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật. Nếu bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì bên yêu cầu sử dụng
dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu cầu hoàn trả một phần lệ phí dịch vụ
pháp lý mà bên yêu cầu đã nộp khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
sau khi trừ các chi phí thực tế do tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện.
Thứ ba, chủ thể cung ứng trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
phải đáp ứng về kinh doanh có điều kiện
Dịch vụ tư vấn pháp luật phải luôn gắn liền với pháp luật và chủ thể
thực hiện, phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mới được
cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Theo khoản 2 Điều 7 Luật Đầu tư quy
định về danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ
lục 4 của Luật này, thì hành nghề luật sư, hành nghề công chứng, hoạt động
dịch vụ của tổ chức trọng tài thương mại và hành nghề thừa phát lại là những
nghề kinh doanh có điều kiện.
Thứ tư, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng không được
thỏa thuận về kết quả
19
Trừ các loại dịch vụ pháp lý khác như xác nhận, dịch thuật hay một số
dịch vụ pháp lý cụ thể khác có thể xác định được rõ ràng kết quả, thì các bên
thỏa thuận được kết quả, còn lại những dịch vụ pháp lý do bản chất vô hình
nên không có cơ sở để thỏa thuận kết quả công việc cụ thể. Các bên thỏa
thuận đối tượng của hợp đồng là những công việc cụ thể, bên cung cấp sẽ
bằng công sức, trí tuệ, kinh nghiệm, sự tận tâm và trên cơ sở pháp luật để
hoàn thành công việc đã cam kết, không chuyển giao cho người khác làm thay
trừ khi có thỏa thuận. Điều này là sự khác biệt và đặc trưng của hợp đồng dịch
vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng, có thể
thấy rõ nét trong lĩnh vực tham gia tố tụng.
1.2.2. Vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
1.2.2.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là một loại trong hợp đồng dịch vụ
pháp lý nói chung. Đây là một loại hợp đồng đặc trưng duy nhất được Luật
Luật sư quy định. Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ có khái niệm
về hợp đồng dịch vụ nói chung, mà không có quy định cụ thể chi tiết về hợp
đồng dịch vụ pháp lý hay hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Luật Luật sư là
luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư và
luật sư cũng chỉ duy nhất có Điều 26 nói về thực hiện dịch vụ pháp lý theo
hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó hướng dẫn hợp đồng dịch vụ pháp lý phải
được lập thành văn bản và gồm một số nội dung cơ bản. Chưa từng có một
quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung, nên càng chưa có một
quy định chi tiết thế nào là vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý hay vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Do đó, nền tảng các quy định về vi phạm
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vẫn dựa trên quy định của pháp luật về vi
phạm hợp đồng nói riêng theo Bộ luật Dân sự, mà cụ thể là vi phạm nghĩa vụ
dân sự nói chung được quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm
20
2015, cụ thể là: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách
nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ” [33].
Từ các khái quát và phân tích ở trên, theo quan điểm của tác giả, có thể
hiểu về khái niệm vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật như sau: “Vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc một trong hai bên chủ thể ký
kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ, không đúng nội dung một trong các thỏa thuận hoặc cam kết
của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật”.
1.2.2.2. Các dạng vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Như trên đã phân tích, tuy hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là loại
hợp đồng đặc thù riêng trong hoạt động tư pháp, được nhắc đến trong Luật
Luật sư dưới hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng chưa từng có quy
định cụ thể, chi tiết. Bởi vậy, các vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
nói riêng cơ bản vẫn mang tính đặc trưng của vi phạm hợp đồng nói chung.
Do đó, thường xảy ra tình trạng hoặc là vi phạm hợp đồng đã ký kết hoặc là vi
phạm các quy định pháp luật về hợp đồng dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Có thể
tóm lược một số dạng vi phạm hợp đồng như:
Một là, vi phạm của các chủ thể đối với hợp đồng đã giao kết. Dạng vi
phạm hợp đồng này thường được thể hiện qua các trường hợp sau:
(i) Không chịu thực hiện hợp đồng hoặc đơn phương chấm dứt hợp
đồng mà không giải thích lý do cho bên kia (hợp đồng chưa được bên nào
thực hiện). Trường hợp này thường xảy ra do sau khi ký kết hợp đồng thì phát
hiện ra mình bị hớ hoặc rơi vào điều kiện không có khả năng thực hiện hoặc
biết rõ là nếu thực hiện thì sẽ bị bất lợi…
21
(ii) Không chịu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mặc dù đã được
hưởng các quyền lợi từ hợp đồng. Ví dụ như đã thu lệ phí hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật nhưng sau đó không thực hiện công việc đã thỏa thuận.
(iii) Không thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
Hai là, những vi phạm pháp luật thường gặp khi ký kết, thực hiện hợp
đồng:
(i) Giao kết hợp đồng không tuân thủ hình thức hợp đồng đã được pháp
luật quy định. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bắt buộc phải lập thành văn
bản nhưng lại không thực hiện đúng.
(ii) Đối tượng giao kết hợp đồng bị pháp luật cấm. Ví dụ như trong hợp
đồng thỏa thuận mức án mà luật sư sẽ bào chữa cho bị can, bị cáo tại Tòa án.
(iii) Hợp đồng thể hiện không rõ ràng và thiếu các nội dung chính theo
quy định của Luật Luật sư.
(iv) Nội dung hợp đồng ký kết do bị ép buộc, không đảm bảo nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng thỏa thuận giữa hai bên.
1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm
hợp đồng
1.2.3.1. Trách nhiệm pháp lý của luật sư thực hiện
Do luật sư hành nghề dưới hai hình thức là hành nghề với tư cách cá
nhân hoặc luật sư hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư nên trách
nhiệm của luật sư khi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng khác
nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý của tổ
chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, do đó,
tác giả chỉ nêu quan điểm về trách nhiệm của luật sư thực hiện trong phạm vi
hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư.
Luật sư tham gia hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư có thể là luật
sư Trưởng văn phòng luật sư, là giám đốc công ty luật (văn phòng luật sư/
22
công ty luật có một luật sư) hoặc luật sư là cộng sự của một văn phòng luật sư
hoặc là luật sư hành nghề tại một công ty luật TNHH một thành viên, công ty
luật TNHH hai thành viên hoặc công ty luật hợp danh. Tùy theo hình thức
tham gia hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư, mà trách nhiệm của các
luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng khác nhau. Pháp
luật không quy định cụ thể điều này và trên thực tế các tổ chức hành nghề luật
sư khác nhau cũng có những quy định khác nhau về trách nhiệm của luật sư
khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã ký kết.
Tuy nhiên, về cơ bản, các tổ chức hành nghề luật sư và các luật sư dựa
trên hợp đồng cộng tác hoặc hợp đồng lao động để xác định trách nhiệm khi
vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng. Việc vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chủ yếu là sự vi phạm về việc thực hiện hợp
đồng, như công việc không hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng không đạt
được mong muốn của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng thường đòi lại phí
thù lao luật sư mà khách hàng đã nộp. Trong các trường hợp này, vai trò của
luật sư là thứ yếu vì đại diện của tổ chức hành nghề luật sư tham gia ký kết
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng là Trưởng Văn phòng luật
sư hoặc Giám đốc công ty luật. Do đó, khi phát sinh tranh chấp, các tổ chức
hành nghề luật sư sẽ thay mặt luật sư đứng ra giải quyết, sau đó, các tổ chức
hành nghề luật sư căn cứ vào thỏa thuận đã ký kết giữa tổ chức hành nghề luật
sư với Luật sư để yêu cầu thực hiện trách nhiệm.
1.2.3.2. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư
Khách hàng khi có yêu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật sẽ ký kết
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật giữa tổ chức hành nghề luật sư với khách
hàng. Việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật thường được xác định ở các dạng:
23
(i) Công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
không đạt yêu cầu như mong muốn của khách hàng;
(ii) Không thực hiện các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ
tư vấn pháp luật đã ký kết;
Theo khoản 5 Điều 40 Luật Luật sư quy định về trách nhiệm của tổ chức
hành nghề luật sư là phải “bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức
mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài
tố tụng hoặc dịch vụ pháp lý khác”, tuy nhiên, quy định chi tiết cụ thể ra sao thì
chưa có. Việc xác định trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm
hợp đồng vẫn chủ yếu dựa vào các quy định của Bộ luật Dân sự.
Khách hàng khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với tổ chức
hành nghề luật sư có thể là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, do đó, trách
nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật với các chủ thể khách hàng khác nhau cũng khác nhau. Nhưng về cơ
bản, trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ
tư vấn pháp luật thường là trách nhiệm bồi thường, thể hiện ở việc hoàn trả
toàn bộ hoặc một phần lệ phí dịch vụ tư vấn pháp luật và bồi thường thiệt hại
do lỗi của tổ chức hành nghề luật sư vi phạm gây ra.
Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chưa được cụ thể hóa trong Luật luật sư và Quy
tắc đạo đức ứng xử nghề luật sư. Do đó trách nhiệm pháp lý của các tổ chức
hành nghề luật sư khi vi phạm đều dựa trên căn cứ tại Bộ luật dân sự về vi
phạm hợp đồng và tổ chức hành nghề luật sư chịu trách nhiệm dân sự đối với
khách hàng. Cụ thể khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ
tư vấn pháp luật với khách hàng thì sẽ phải hoàn trả phí thù lao đã nhận của
khách hàng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý. Chi phí hợp lý là chi phí luật sư
đã đi làm việc có sự xác nhận của khách hàng hay cơ quan có thẩm quyền.
24
Chi phí ngày, giờ làm việc của luật sư được thực hiện theo quy định của pháp
luật. Thông thường khách hàng sẽ chấp nhận khoản chi phí này và mong
muốn nhận lại phần lệ phí còn dư. Cũng có nhiều trường hợp do sự thỏa thuận
giữa tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng mà tổ chức hành nghề luật sư
còn phải chịu phạt vi phạm và bồi thường do vi phạm hợp đồng. Tựu chung
trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật thường là trách nhiệm dân sự là bồi thường và phạt vi
phạm hợp đồng. Trong từng trường hợp cụ thể do thỏa thuận của hai bên mà
dẫn đến việc chịu trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư là
không giống nhau nhưng đều trên quy định của pháp luật dân sự.
25
Tiểu kết chương
Hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể thế nào là dịch vụ tư vấn
pháp luật, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, các nội dung này chỉ được thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau trong một số công trình nghiên cứu khoa
học. Vì không quy định cụ thể nên việc tiếp cận và nghiên cứu đều xuất phát
từ những gì pháp luật quy định chung nhất về hợp đồng, về trách nhiệm pháp
lý khi vi phạm hợp đồng và được lập luận trong trường hợp cụ thể là trách
nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư do vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra.
Trong Chương 1, với những lý luận khái quát và tổng thể về trách
nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật đã phần nào làm rõ những khái niệm cơ bản về luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật…
và trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư, của luật sư khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ký kết với khách hàng. Do quy định của pháp
luật đối với các khái niệm trên còn chưa cụ thể, rõ ràng nhưng thông qua sự
khái quát và phân tích của tác giả, một số khái niệm về cơ bản đã được rõ
nghĩa hơn và có ý nghĩa về mặt lý luận đóng góp cho việc đánh giá thực trạng
pháp luật và đề xuất hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của tổ
chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt
Nam hiện nay.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM
HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm
pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
2.1.1. Các quy định pháp luật về hành nghề luật sư và tổ chức hành
nghề luật sư
Hoạt động hành nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay được quy định trong Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm
2012. Luật Luật sư có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và
được xây dựng trên quan điểm chỉ đạo là cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong từng lĩnh vực hành nghề, quy định rõ hơn cơ chế pháp lý bảo đảm
cho luật sư thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, đồng thời đề cao trách nhiệm
pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong quá trình hành nghề.
Điều 22 Luật Luật sư quy định về phạm vi hành nghề luật sư theo
hướng mở rộng. Theo đó, ngoài việc tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp
luật và các dịch vụ pháp lý khác như quy định của Pháp lệnh Luật sư năm
2001, Luật Luật sư còn cho phép luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho
khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. Theo quy
định này thì khi đã giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (hoặc
hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức) luật sư đương nhiên đại diện cho
khách hàng (hoặc cơ quan, tổ chức) để giải quyết các công việc theo phạm vi,
nội dung được ghi trong hợp đồng trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
27
Đây là điểm tiến bộ rất quan trọng, làm tăng thêm đáng kể quyền của luật sư
trong hành nghề, giúp gắn kết hơn quan hệ giữa luật sư và khách hàng, thông
qua đó luật sư sẽ giúp bảo vệ có hiệu quả hơn quyền và lợi ích của khách
hàng.
Luật Luật sư được sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã sửa một mục gồm 10
điều (Mục 1 Chương III từ Điều 22 đến Điều 31) quy định hoạt động hành
nghề của luật sư, trong đó, quy định cụ thể về nội dung, quyền và nghĩa vụ
của luật sư trong từng lĩnh vực hoạt động bao gồm hoạt động tham gia tố
tụng, hoạt động đại diện ngoài tố tụng, hoạt động tư vấn pháp luật, các hoạt
động dịch vụ pháp lý khác. Quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật
sư được đặc biệt quan tâm bởi quy định này đã góp phần tháo gỡ vướng mắc,
khó khăn cho các luật sư và các cơ quan tố tụng trong việc cấp giấy chứng
nhận tham gia tố tụng cho luật sư, từ đó tạo thuận lợi cho các luật sư ngay từ
đầu cũng như trong suốt quá trình thực hiện bào chữa hoặc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho khách hàng.
Theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ
chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư,
công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề
luật sư kể cả cho tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Trong
điều kiện phát triển hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì quy
định tại Pháp lệnh Luật sư tỏ ra không còn phù hợp. Thực tiễn cho thấy, các
cơ quan, tổ chức đặc biệt là doanh nghiệp đang thực sự có nhu cầu tuyển dụng
luật sư làm việc với tư cách luật sư riêng để giúp giải quyết những vấn đề
pháp lý liên quan.
Ngoài ra nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư có thể chủ động lựa
chọn hình thức hành nghề phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của
mình, luật sư hoạt động độc lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật.
28
Từ thực tiễn trên, Luật Luật sư mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo
đó, luật sư có thể lựa chọn hình thức hành nghề trong tổ chức hành nghề luật
sư (như quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001) hoặc hành nghề với tư
cách cá nhân.
Luật Luật sư đã tiến một bước dài theo hướng đưa các tổ chức hành
nghề luật sư xích lại với các loại hình doanh nghiệp. Luật Luật sư đã quy định
về các hình thức tổ chức hành nghề tại Mục 2 Chương III bao gồm:
- Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành
lập, được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư
thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn
phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng.
- Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH.
So với Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định thêm loại hình
công ty luật TNHH. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh
nghiệp, Luật Luật sư còn quy định công ty luật TNHH có thể là công ty luật
TNHH hai thành viên trở lên hoặc công ty luật TNHH một thành viên. Luật
Luật sư không phân biệt về phạm vi hành nghề giữa văn phòng luật sư và
công ty luật, theo đó văn phòng luật sư và công ty luật đều được thực hiện các
dịch vụ pháp lý theo quy định tại Điều 4 Luật Luật sư.
Việc cho phép luật sư được thành lập công ty luật TNHH để hành nghề
nhằm bảo đảm sự phù hợp giữa quy định của pháp luật về luật sư với pháp
luật về doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thì kinh doanh
dịch vụ pháp lý là một ngành nghề và cá nhân đáp ứng đủ điều kiện luật định
được phép lựa chọn thành lập các loại hình doanh nghiệp để tiến hành hoạt
động kinh doanh. Các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý
bao gồm công ty hợp danh và công ty TNHH. Pháp luật cũng quy định để bảo
29
đảm quyền lợi của khách hàng, công ty luật có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho
khách hàng.
Luật sư thành lập văn phòng luật sư phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Các luật sư thành lập công
ty luật hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình
về mọi nghĩa vụ của công ty. Các luật sư thành viên của công ty luật TNHH
hai thành viên trở lên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của công ty trong
phạm vi tài sản góp vào công ty. Luật sư thành lập công ty luật TNHH một
thành viên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của công ty trong phạm vi phần
tài sản của công ty.
2.1.2. Các quy định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật
Việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật được tuân
theo Điều 26 Luật Luật sư và các quy định cụ thể của Bộ luật Dân sự năm
2015. Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cơ bản về trình
tự thủ tục được thực hiện như hợp đồng dịch vụ nói chung cũng bao gồm các
bước: Đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng, thời điểm
giao kết hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Trong
phạm vi luận văn, tác giả chỉ nêu các quy định về vấn đề giao kết và thực hiện
hợp đồng
Thứ nhất, giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Khi khách hàng có yêu cầu dịch vụ tư vấn pháp luật đưa ra lời đề nghị
thì giữa khách hàng và tổ chức hành nghề luật sư sẽ xác lập một hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật, khi đó, các bên tham gia phải tiến hành giao kết hợp
đồng.
30
Điều 386 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Đề nghị giao kết hợp
đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề
nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”.
Theo ý kiến của tác giả: “Đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
là hành vi của một bên biểu lộ ý chí của mình về việc cùng với bên kia tạo lập
một hợp đồng với những nội dung và điều kiện xác định”.
Về nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, hợp đồng là
sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia giao kết trên nguyên tắc
tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội có hiệu lực đối với các bên thực hiện và được tôn
trọng.
Về phương thức đề nghị giao kết hợp đồng, các bên có thể lựa chọn
phương thức đề nghị giao kết hợp đồng trực tiếp hoặc gián tiếp.
Như vậy có thể hiểu, giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc
tổ chức hành nghề luật sư nhân danh mình để xác lập quyền và nghĩa vụ với
khách hàng thông qua luật sư là người đại diện theo pháp luật. Với đặc điểm
là một nghề đặc thù, luật sư không được chèo kéo để khách hàng yêu cầu
mình. Khi luật sư hành nghề thông qua tổ chức hành nghề luật sư, tức là nhân
danh tổ chức mà mình là thành viên để cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật.
Cho nên, bản thân luật sư cũng như người đại diện theo pháp luật của tổ chức
hành nghề luật sư buộc phải biết khả năng chuyên môn của từng thành viên
trong tổ chức mình để cân nhắc có nên cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật cho
khách hàng hay không.
Để đi đến giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì giữa khách
hàng và luật sư có một quá trình đàm phán trước khi ký kết. Đó là quá trình
nắm bắt thông tin vụ việc và xác định yêu cầu của khách hàng. Là người có
nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật, nên khách hàng sẽ trình bày nội
31
dung vụ việc và các chứng cứ tài liệu kèm theo (nếu có), luật sư nắm bắt
thông tin và có thể đề nghị khách hàng cho biết rõ ngay một số nội dung.
Thông qua đó, luật sư xác định nội dung và phạm vi theo yêu cầu của khách
hàng cũng như khả năng của tổ chức mình có đáp ứng được yêu cầu hay
không. Là loại hình dịch vụ đặc biệt nên pháp luật quy định tương đối chặt
chẽ để đảm bảo việc quyền lợi cho khách hàng: “Luật sư tôn trọng sự lựa
chọn luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và
thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng” (khoản 1 Điều 26
Luật Luật sư năm 2006). Nếu nhận thấy vụ việc ngoài khả năng, ví dụ như
luật sư chuyên về lĩnh vực hình sự nhưng khách hàng lại yêu cầu về lĩnh vực
đầu tư thì tổ chức hành nghề luật sư phải từ chối.
Việc nắm bắt nội dung và yêu cầu của khách hàng mới chỉ là bước đầu,
giữa khách hàng và luật sư còn có một quá trình thương lượng, đàm phán tiếp
theo là luật sư sẽ làm những gì, giá dịch vụ là bao nhiêu? Đây là nội dung
khách hàng rất quan tâm xem yêu cầu của mình được thực hiện như thế nào,
chi phí có phù hợp hay không rồi mới đi đến quyết định. Luật sư sẽ làm gì, đó
là quyền và nghĩa vụ của luật sư mà pháp luật quy định: “Khi nhận vụ việc,
luật sư thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề
nghiệp của luật sư trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”
(khoản 2 Điều 24 Luật Luật sư năm 2006).
Như vậy, khi mới quyết định nhận vụ việc của khách hàng luật sư đã
phải thông báo cho khách hàng biết về quyền và nghĩa vụ của mình. “Hoạt
động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố
tụng và Luật Luật sư” (khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ
sung năm 2012). Quyền và nghĩa vụ của luật sư không chỉ được quy định tại
Luật Luật sư, mà còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật về tố tụng
khác nhau.
32
Về trách nhiệm nghề nghiệp, khi hành nghề luật sư phải tuân thủ
nguyên tắc hành nghề luật sư, ngay từ thời điểm đàm phán, luật sư phải từ
chối nhận vụ việc của khách hàng trong các trường hợp quy định Quy tắc 9.1.
Cụ thể, luật sư từ chối nhận vụ việc trong trường hợp “có sự xung đột về lợi
ích theo Quy tắc 11.1 mà không giải quyết được nếu tiếp nhận vụ việc đó”.
Luật sư không được vì lợi ích của mình, tổ chức hành nghề luật sư của
mình và người thân thích của mình mà phản bội lại khách hàng trong các vụ
việc mà luật sư đang đảm nhiệm, vì vậy, ngay từ khi tiếp nhận yêu cầu đã
phải xem xét xem khách hàng mới có đối lập với khách hàng hiện hữu về lợi
ích hay không?
Khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có trường hợp khách
hàng giao kết vì chính lợi ích của mình, có trường hợp vì lợi ích của người
thứ ba. Nếu giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của chính
khách hàng thì việc thỏa thuận nội dung hợp đồng tương đối thuận lợi, nhưng
khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của người thứ ba thì
việc có thực hiện được thỏa thuận hay không trong nhiều trường hợp lại phụ
thuộc vào chủ thể này.
Thứ hai, thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc các bên trong hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo nội dung
đã thỏa thuận. Khi các bên thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật phải
tuân thủ nguyên tắc chung của thực hiện hợp đồng là thực hiện đúng nội dung
đã thỏa thuận, đảm bảo tính trung thực, hợp tác và không xâm phạm đến lợi
ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, khi thực hiện hợp đồng các chủ thể
còn phải tuân theo những quy tắc đặc thù nhất định. Điều 5 Luật Luật sư năm
2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã quy định cụ thể về nguyên tắc hành nghề
33
luật sư, đó là phải “tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư”.
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng song vụ, khi các bên đã
thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ
của mình khi đến hạn, không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực
hiện nghĩa vụ đối với mình (khoản 1 Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của người
thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực
hiện nghĩa vụ đối với mình (Điều 415 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trường hợp
người thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nhưng phải thông báo cho
bên có quyền và hợp đồng coi như bị hủy bỏ, các bên hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận (khoản 1 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015).
2.1.3. Các quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức hành
nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Như trên đã phân tích, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng
song vụ, khi đã giao kết thì có giá trị thực hiện với các bên. Đối với tổ chức
hành nghề luật sư nội dung mà họ mong muốn bên sử dụng dịch vụ tư vấn
pháp luật thực hiện là cung cấp thông tin tài liệu đầy đủ, trung thực, kịp thời
và thanh toán thù lao, chi phí đúng như thỏa thuận.
Khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật các tổ chức hành nghề
luật sư đều yêu cầu bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thanh toán
(hoặc ứng trước một khoản tiền) để sử dụng làm chi phí thực hiện dịch vụ tư
vấn pháp luật. Có thể hiểu đây giống như một khoản tiền đảm bảo cho việc
thực hiện hợp đồng. Các hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật xác định việc
không thanh toán, thanh toán không đầy đủ hoặc không đúng hạn là căn cứ
xác định lỗi vi phạm và có thể dẫn đến đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi
34
bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật vi phạm hợp đồng thì các tổ chức hành
nghề luật sư chỉ có thể tiếp tục hoặc chấm dứt thực hiện công việc, bởi vì dịch
vụ tư vấn pháp luật là vô hình liên quan đến pháp luật và việc thực hiện phụ
thuộc vào bên thứ ba nên khó có thể trì hoãn để đợi nhau thực hiện nghĩa vụ
của mình.
Ngoài quy định của pháp luật thì Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam còn mang tính chất như quyền theo luật định mà luật
sư có quyền từ chối việc giao kết: “Khách hàng có thái độ không tôn trọng
luật sư và nghề luật sư và không thay đổi thái độ này” (Quy tắc 9.1.6). Tuy
nhiên, thái độ khách hàng không tôn trọng luật sư phát sinh trong quá trình
thực hiện hợp đồng nhưng trong hợp đồng lại không thỏa thuận thì có được
coi là vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật hay không? Đây vẫn là vấn
đề bỏ ngỏ khi mà thực tiễn xảy ra rất nhiều nhưng căn cứ để từ chối thì hoàn
toàn mang tính cảm nhận.
Luật Luật sư không quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức
hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Ngoài khoản 5 Điều 40 Luật Luật sư quy định nghĩa vụ của tổ chức hành
nghề luật sư là “bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra
cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và
dịch vụ pháp lý khác” và khoản 2 Điều 92 Luật Luật sư quy định xử lý vi
phạm đối với tổ chức hành nghề luật sư bất hợp pháp là “tổ chức không đủ
điều kiện hành nghề luật sư mà hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào
thì bị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử lý theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định pháp luật” thì không còn quy định nào khác.
Trên cơ sở pháp luật để xác định trách nhiệm của các bên trong hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, ngoài sự điều chỉnh của Luật Luật sư thì quy
35
định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt
Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vẫn áp dụng các nguyên
tắc quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tổ chức hành nghề luật sư khi vi
phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 13, Điều 360 Bộ luật Dân sự năm
2015 về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ).
Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng được thực hiện theo
Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài việc bồi thường do vi phạm hợp
đồng, các bên còn thể thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng. Mức phạt vi
phạm hợp đồng do hai bên thỏa thuận khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật nhưng không vượt quá quy định của pháp luật.
Tổ chức hành nghề luật sư không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện
hợp đồng, mà chỉ là đại diện cho một bên trong giao kết hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật, sau đó phân công luật sư cộng sự hoặc luật sư thành viên của tổ
chức hành nghề luật sư trực tiếp tham gia thực hiện công việc theo thỏa thuận
với khách hàng. Nhưng khi phát sinh các tranh chấp do vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật, thì tổ chức hành nghề luật sư sẽ chịu trách nhiệm
trước khách hàng về việc bồi thường và phạt vi phạm hợp đồng trừ khi tổ
chức hành nghề luật sư và luật sư có thỏa thuận khác.
2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc các tổ chức hành nghề luật sư khi vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật sẽ dẫn đến hậu quả như sau:
- Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Khách hàng hủy bỏ hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Khách hàng đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
36
Tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật tùy theo mức độ vi phạm mà xác định trách nhiệm pháp lý đối với khách
hàng. Lỗi, mức độ vi phạm là căn cứ để tổ chức hành nghề luật sư thực hiện
việc bồi thường thiệt hại cho khách hàng trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận
khác.
Thực tế khi xảy ra vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật khách
hàng thường yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư hoàn trả lại lệ phí thù lao đã
nộp sau khi trừ đi những chi phí thực tế hợp lý, hợp pháp mà luật sư của tổ
chức hành nghề luật sư đã thực hiện. Sau khi việc hoàn trả lệ phí thù lao cho
khách hàng, hai bên sẽ thống nhất chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật và không còn xảy ra tranh chấp.
Hãn hữu số ít việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật bị khách hàng khởi kiện ra tòa án yêu cầu bồi thường và
phạt vi phạm hợp đồng. Số ít trường hợp này thường do hai bên không đạt
được thỏa thuận do tổ chức hành nghề luật sư không chấp nhận việc hoàn trả
lệ phí thù lao hoặc hoàn trả giá trị quá thấp khiến khách hàng không chấp
nhận. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về việc chấm
dứt, đơn phương hay hủy bỏ hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Hậu quả pháp lý chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo sự
thỏa thuận của các bên: Mặc dù các bên tự nguyện chấm dứt hợp đồng, nhưng
cũng phải tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định về năng lực chủ thể,
mục đích, sự tự nguyện, hình thức… Đối với chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật mà người bị buộc tội là người thứ ba trong hợp đồng không
đồng ý mà tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật và bên yêu cầu dịch vụ
tư vấn pháp luật vẫn thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thì coi như đã vi phạm
pháp luật và hậu quả sẽ phải do cả hai bên cùng chịu trách nhiệm.
37
Hậu quả pháp lý do hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng: Theo
nguyên tắc chung, các bên có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp
đồng theo thỏa thuận hoặc do luật định nhưng đều phải thông báo “ngay” cho
bên còn lại. Nếu bên nào hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt không đúng thỏa
thuận hoặc trái pháp luật, không thông báo cho bên kia thì phải bồi thường.
Khi hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bị đơn phương chấm dứt thực
hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm
dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp.
Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận
về phạt vi phạm, bồi thường và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Khoản 2
Điều 475 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Các bên phải hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và
chi phí bảo quản, phát triển tài sản”. Trường hợp hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật vì lợi ích của người thứ ba, Điều 415 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định: “… Nếu các bên trong hợp đồng có tranh chấp về việc thực hiện hợp
đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi
tranh chấp được giải quyết”.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật
2.2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật và trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống vật chất và tinh
thần được cải thiện, dân trí ngày càng được nâng cao, ý thức pháp luật của
38
người dân cũng chuyển biến sâu sắc, người dân càng ngày càng nhận thức rõ
hơn vai trò hữu hiệu của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, bảo vệ công lý và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ đó cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của người dân được
dự báo càng ngày càng tăng. Song song với việc đội ngũ luật sư phát triển để
đáp ứng nhu cầu của xã hội thì việc mở rộng và chuyên môn hóa các tổ chức
hành nghề luật sư cũng ngày càng được quan tâm.
Trong hơn 10 năm thực hiện Luật Luật sư với các quy định về hành
nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư cũng ngày càng mở rộng phạm vi
hoạt động theo hướng hoàn thiện. Nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật
cao, người dân am hiểu pháp luật hơn do đó pháp luật cũng cần quy định chi
tiết cụ thể hơn đối với trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư trong
cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Trong quá trình hoạt động hành nghề luật
sư, các tổ chức hành nghề luật sư cơ bản tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật về hình thức tổ chức, mô hình hoạt động, thực hiện quyền và nghĩa vụ
theo thỏa thuận tại các hợp đồng dịch vụ pháp lý ký kết với khách hàng. Tuy
nhiên, thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của tổ chức
hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn nhiều
khó khăn vướng mắc.
Như trên đã trình bày, Luật Luật sư không quy định cụ thể về trách
nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật, chỉ nêu chung một quy định là “bồi thường thiệt hại do lỗi mà
luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn
pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ pháp lý khác”. Do đó, trong thực
tiễn khi có sự vi phạm xảy ra, để giải quyết các tranh chấp đều phải áp dụng
Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Tổ chức
hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng
39
thường ở các dạng: thực hiện công việc theo thỏa thuận không đáp ứng yêu
cầu của khách hàng, dịch vụ pháp lý mà khách hàng yêu cầu không đạt kết
quả, thời gian thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật bị kéo dài và hậu quả của
các vi phạm đều dẫn đến việc khách hàng yêu cầu hoàn trả lệ phí dịch vụ. Xin
đơn cử một ví dụ cụ thể:
Vụ thứ nhất: “Ngày 27/12/2016, Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang xử sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý
giữa nguyên đơn là ông Trần Thanh Toàn, ở tỉnh Trà Vinh với bị đơn là Luật
sư NTBX thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang.
Theo ông Trần Thanh Toàn, thì em trai của ông bị các cơ quan tố tụng
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang khởi tố, truy tố về hành vi buôn bán hàng
cấm. Vì vậy, ngày 6/8/2014, ông gặp Luật sư NTBX thuộc Văn phòng Luật
sư TB, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang để nhờ Luật sư NTBX bào chữa cho em
ông. Luật sư NTBX nhận lời và hai bên đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý có
nội dung: Luật sư NTBX bào chữa cho em trai ông Toàn với mức thù lao là
120 triệu đồng. Tại Điều 5 của hợp đồng quy định về “chấm dứt hợp đồng” có
ghi: “Hợp đồng chấm dứt khi thực hiện xong Điều 1 được giải quyết bằng văn
bản pháp lý là bản án sơ thẩm”. Tuy nhiên, do bản hợp đồng đánh máy không
có từ “án treo” nên ông Toàn không đồng ý ký. Sau đó Luật sư NTBX viết tay
thêm từ “án treo” vào sau cụm từ “bản án sơ thẩm” tại Điều 5 của hợp đồng,
nên ông Toàn mới đồng ý ký. Sau khi ký hợp đồng, ông Toàn đã giao tiền cho
Luật sư NTBX hai lần, tổng cộng là 80 triệu đồng. Số tiền còn lại 40 triệu
đồng, hai bên thỏa thuận khi ông Toàn nhận được bản án sơ thẩm thì Luật sư
NTBX sẽ nhận nốt tiền.
Tháng 11/2014, Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xử sơ thẩm đã phạt
em trai ông Trần Thanh Toàn một năm sáu tháng tù giam. Vì em trai mình
không được hưởng án treo, nên ông Toàn cho rằng, Luật sư NTBX không
40
thực hiện đúng nội dung hợp đồng. Do đó, ông Toàn khởi kiện Luật sư NTBX
ra Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang và yêu cầu Luật sư
NTBX phải hoàn trả cho ông 68 triệu đồng, còn 12 triệu đồng, ông Toàn đồng
ý chi cho Luật sư NTBX để đi lại, xăng, xe…
Mặc dù tại phiên tòa, Luật sư NTBX thừa nhận có nhận lời bào chữa
cho em trai ông Toàn, hợp đồng dịch vụ nêu trên được ký giữa Luật sư và ông
Trần Thanh Toàn, nhưng khẳng định không thỏa thuận kết quả án treo như
ông Toàn trình bày. Sở dĩ Luật sư NTBX có ghi thêm từ “án treo” vào hợp
đồng là do ông Toàn yêu cầu và để trấn an tinh thần cho mẹ của ông. Luật sư
NTBX cho rằng, mình có sơ suất khi không hủy hợp đồng trên, mà lại tin vào
thỏa thuận miệng để ghi thêm từ “án treo” vào hợp đồng.
Cũng theo Luật sư NTBX, ngoài hợp đồng đã ký với ông Trần Thanh
Toàn, thì hai bên còn thỏa thuận miệng có một số người chứng kiến. Luật sư
NTBX đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa để triệu tập thêm những người làm
chứng. Yêu cầu của Luật sư NTBX được Hội đồng xét xử chấp nhận, tuy
nhiên, từ ngày 8/4/2016 đến ngày 27/12/2016, Luật sư NTBX không cung cấp
được địa chỉ nhân chứng để Tòa triệu tập. Về số tiền, Luật sư NTBX khai đã
dùng 50 triệu đồng để lo làm thủ tục cho em trai ông Toàn được tại ngoại theo
quy định của pháp luật, còn lại 30 triệu đồng chi phí bào chữa cho em trai ông
Toàn tại phiên tòa sơ thẩm. Luật sư NTBX cho rằng, mình đã làm hết trách
nhiệm nên không đồng ý với yêu cầu của ông Toàn.
Với các tình tiết như trên, Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân
dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cho rằng, thỏa thuận giữa ông
Toàn và Luật sư NTBX về việc Luật sư NTBX nhận bào chữa cho em trai
ông để Tòa án xử án treo là đúng sự thật. Bởi lẽ, Điều 5 bản hợp đồng dịch vụ
pháp lý có ghi “Hợp đồng chấm dứt khi thực hiện xong vụ việc theo Điều 1
được giải quyết bằng văn bản pháp lý là bản án sơ thẩm án treo”. Việc Luật
41
sư nói phải ghi án treo để ông Toàn trấn an tinh thần cho mẹ của ông Toàn là
không có căn cứ vì ông Toàn không thừa nhận.
Việc Luật sư NTBX cho rằng, số tiền nhận trước 50 triệu đồng là để lo
cho em trai ông Toàn tại ngoại, còn 30 triệu đồng nhận thêm là để bào chữa
chứ không hứa kết quả án treo, nhưng ngoài lời khai của Luật sư NTBX, thì
không còn chứng cứ nào khác để chứng minh lời khai này là đúng sự thật, nên
Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Việc Luật sư NTBX yêu cầu hoãn phiên tòa để triệu tập người làm
chứng và Tòa án đã yêu cầu Luật sư NTBX cung cấp địa chỉ của họ, nhưng
Luật sư NTBX không làm, nên Tòa không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa
nữa.
Hội đồng xét xử kết luận việc Luật sư NTBX thỏa thuận bào chữa cho
em trai ông Toàn trong vụ án hình sự và xác định để Tòa xử cho em trai ông
Toàn được hưởng án treo với giá 120 triệu đồng đã vi phạm điểm 14.11 Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, vi phạm khoản 2 Điều 5
Luật Luật sư. Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa ông Toàn với Luật sư NTBX đã
vi phạm điều cấm của pháp luật, không thỏa mãn Điều 122 Bộ luật Dân sự.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử kết luận: Hợp đồng dịch vụ pháp lý
giữa ông Trần Thanh Toàn với Luật sư NTBX là hợp đồng vô hiệu, do đó,
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và các bên phải hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận. Vì vậy, Luật sư NTBX phải có nghĩa vụ hoàn trả
số tiền 80 triệu đồng đã nhận cho ông Toàn. Tuy nhiên, phía ông Toàn đồng ý
trả chi phí đi lại cho Luật sư NTBX là 12 triệu đồng. Đây là sự tự nguyện của
ông Toàn được Hội đồng xét xử ghi nhận”[53].
Vụ thứ hai: “Trường hợp đã xảy ra cách đây vài năm, một tổ chức
hành nghề luật sư kết hợp với vài chủ thể khác (do tổ chức hành nghề luật sư
đứng tên ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng) trong việc đề nghị Ủy
42
ban nhân dân của tỉnh A trả hết phần tiền do thu hồi đất của nhiều hộ dân
trong phạm vi một số xã, với tổng số tiền khoảng 18 tỷ đồng.
Vấn đề này, Ủy ban nhân dân tỉnh A đã có văn bản khẳng định việc Ủy
ban nhân dân tỉnh giữ lại số tiền này là cần thiết và đúng quy định của pháp
luật. Số lượng hộ dân rất đông tới hàng trăm hộ đã làm giấy ủy quyền cho một
nhóm người đứng ra ký kết hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư, nội dung
là tổ chức hành nghề luật sư được hưởng 50% giá trị đòi được. Sau đó, Ủy
ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định trả lại số tiền này cho người dân.
Khi các hộ dân nhận được tiền và trả cho tổ chức hành nghề luật sư
được khoảng vài tỷ đồng, thì trong một cuộc tiếp xúc cử tri, lãnh đạo Ủy ban
nhân dân tỉnh A tuyên bố, người dân đương nhiên được nhận số tiền này và
luật sư không có vai trò gì trong việc các hộ dân được Ủy ban nhân dân tỉnh
trả nốt tiền, vì vậy, các hộ dân đã không tiếp tục trả tiền cho luật sư nữa.
Khi đó cũng xuất hiện vướng mắc, không thống nhất giữa tổ chức hành
nghề luật sư này với các tổ chức hành nghề luật sư khác đã tham gia cùng
giải quyết dịch vụ này. Vướng mắc và tranh chấp nhiều bên đã xảy ra. Các tổ
chức hành nghề luật sư buộc phải khởi kiện ra Tòa để giải quyết vụ
việc…”[53].
Trong các trường hợp tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật với khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư là
người trực tiếp chịu trách nhiệm giải quyết. Tổ chức hành nghề luật sư là
công ty luật hợp danh hay công ty TNHH có điều lệ hoạt động, trong đó, điều
lệ sẽ quy định trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm của
cá nhân luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Tổ chức hành nghề luật sư là các công ty thì mô hình hoạt động rõ nét
theo Luật Doanh nghiệp là hình thức công ty TNHH nên thường có cơ chế trả
lương cụ thể theo vị trí, kinh nghiệm, năng lực của luật sư thành viên, do đó,
43
khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật thì
giám đốc công ty luật TNHH hoặc công ty luật hợp danh sẽ là người đại diện
giải quyết và chịu trách nhiệm bồi thường vật chất cho khách hàng.
Đối với tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư do một luật sư
thành lập thì Trưởng văn phòng chịu trách nhiệm. Nếu văn phòng luật sư có
cộng sự hoặc ký hợp đồng hợp tác với các luật sư thành viên thì hợp đồng
cộng tác sẽ quy định về trách nhiệm của các luật sư khi vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật. Văn phòng luật sư hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp tư nhân thường hoạt động dưới ba hình thức sau:
Một là, các luật sư cộng sự cùng đóng góp kinh phí hoạt động, Trưởng
văn phòng là người đại diện ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, các luật sư
cộng sự tự khai thác công việc, tự hưởng phí thù lao dịch vụ và đóng một
khoản phí cố định để duy trì văn phòng luật sư ;
Hai là, văn phòng luật sư gồm các luật sư cộng sự và không đóng góp
một khoản phí cố định để duy trì văn phòng luật sư mà khi luật sư có khách
hàng thì văn phòng luật sư ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật để luật sư
thực hiện và luật sư sẽ trích phần trăm lệ phí dịch vụ cho văn phòng theo tỷ lệ
thỏa thuận;
Trong hai trường hợp này khi có sự vi phạm thì Trưởng văn phòng sẽ
ủy quyền cho chính luật sư đang thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật có tranh
chấp trực tiếp giải quyết với khách hàng và luật sư tự chịu trách nhiệm vật
chất đối với việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Ba là, văn phòng luật sư do một luật sư thành lập là Trưởng văn phòng
và tuyển dụng các luật sư theo hợp đồng lao động trả lương. Trường hợp này
khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với
khách hàng thì Trưởng văn phòng luật sư sẽ chịu trách nhiệm giải quyết và
bồi thường thiệt hại (nếu có).
44
Thực tiễn từ hoạt động làm nghề của tác giả thì trong các trường hợp vi
phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng, mục đích của khách
hàng chỉ là yêu cầu hoàn trả lại phí dịch vụ khách hàng đã nộp khi ký hợp
đồng, rất ít trường hợp khách hàng yêu cầu bồi thường thiệt hại hay phạt vi
phạm. Vì lý do khách quan mà nội dung công việc không đạt như mong muốn
của khách hàng thì hai bên thống nhất sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong
quá trình đã thực hiện hợp đồng, tổ chức hành nghề luật sư mà cụ thể là luật
sư thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý hoàn trả lại một phần lệ phí dịch vụ thì
hai bên chấm dứt hợp đồng, không phát sinh tranh chấp, kiến nghị, khiếu
kiện.
Còn trong các trường hợp tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật dẫn đến việc khách hàng khởi kiện tại Tòa án yêu
cầu bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm hợp đồng thường do hai bên không
thỏa thuận, thương lượng được, khiến cho tranh chấp trở nên phức tạp, mất
thời gian. Việc này ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, danh dự của tổ chức
hành nghề luật sư và của chính bản thân luật sư đã thực hiện dịch vụ tư vấn
pháp luật.
Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật thường là sự bất đồng
quan điểm giữa tổ chức hành nghề luật sư hay luật sư thực hiện với khách
hàng. Nó phát sinh từ thời điểm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã được
giao kết và chưa được thanh lý. Như đã trình bày ở phần trên, luật sư mong
muốn khách hàng cung cấp tài liệu, thông tin một chính xác, đầy đủ và kịp
thời để đưa ra các giải pháp và thực hiện công việc một cách hiệu quả. Tuy
nhiên, việc không đáp ứng theo yêu cầu của luật sư mà khách hàng phải chịu
tổn thất đã dẫn đến tranh chấp. Khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật, tổ chức hành nghề luật sư mong muốn là thu được thù lao. Việc không
45
thanh toán đúng, đủ là một trong những nguyên nhân xảy ra tranh chấp giữa
luật sư với khách hàng.
Khi luật sư đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật nhưng khách hàng không thanh toán thù lao hoặc thanh
toán không đầy đủ thì tổ chức hành nghề luật sư hoàn toàn có quyền yêu cầu
khách hàng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết, nếu không thực hiện thì có thể
khởi kiện theo con đường tố tụng. Tuy nhiên, các tổ chức hành nghề luật sư
không mong muốn khởi kiện tại Tòa án vì mất thời gian và quan trọng hơn đó
là danh dự và uy tín. Khi khách hàng không thanh toán, thanh toán không đầy
đủ tiền thù lao cho luật sư thì hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chưa được
thanh lý.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, tổ chức
hành nghề luật sư mà trực tiếp là luật sư thực hiện công việc không đúng cam
kết dẫn đến xảy ra tranh chấp. Sự không thể cụ thể về chất lượng dịch vụ tư
vấn pháp luật là nguyên nhân khách hàng tranh chấp với tổ chức hành nghề
luật sư về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Khi thực hiện công việc theo
thỏa thuận, luật sư phải thật sự mẫn cán bằng lương tâm và trách nhiệm nghề
nghiệp của mình.
Tại Quy tắc 9.2 - Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam quy định có rất nhiều trường hợp luật sư được từ chối thực hiện vụ việc.
Việc từ chối không chỉ xuất phát từ việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật của khách hàng, mà còn có nhiều lý do khác như khách hàng không
chấp nhận ý kiến tư vấn đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội hoặc
cung cấp chứng cứ giả... Như vậy, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư là tương đối rộng và không chỉ giới hạn
với những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
46
Do các vụ việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật ít được công khai nên để có số liệu thống kê chính xác là điều
không dễ dàng. Ví dụ: Đoàn Luật sư Hải Phòng hiện có gần 100 tổ chức hành
nghề luật sư, bao gồm các văn phòng luật sư, công ty luật TNHH một thành
viên, tuy nhiên, tại báo cáo công tác khen thưởng, kỷ luật nhiệm kỳ 2014 -
2019 của Hội đồng khen thưởng kỷ luật Đoàn luật sư Hải Phòng chỉ có 2 vụ
việc liên quan đến việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật của tổ
chức hành nghề luật sư. Hai vụ việc khách hàng có đơn kiến nghị đến Hội
đồng khen thưởng kỷ luật về việc tổ chức hành nghề luật sư không thực hiện
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và khách hàng yêu cầu được hoàn trả tiền
dịch vụ đã nộp và đề nghị thanh lý hợp đồng.
Trong hai vụ việc trên, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư là giám
đốc công ty luật TNHH một thành viên và Trưởng văn phòng luật sư đều là
người trực tiếp tham gia giải quyết. Trong một nhiệm kỳ đại hội của Đoàn
Luật sư 5 năm (2014 - 2019), việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chỉ có 02 vụ là con số rất ít ỏi.
Số liệu trên không phải vì mong muốn sự vi phạm xảy ra nhiều, mà
thực tế chứng minh việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng
và vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung của tổ chức hành nghề luật sư
có thể không là con số thật. Do đó, để thấy được trách nhiệm của các tổ chức
hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là rất mờ
nhạt, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức để có những quy định cụ thể
là điều không khó chấp nhận.
2.2.2. Những vấn đề còn bất cập, tồn tại và nguyên nhân
Qua thực tiễn cho thấy, Luật Luật sư với những quy định thông thoáng,
mở rộng hơn về tổ chức hành nghề luật sư từ đó cung cấp các dịch vụ tư vấn
pháp luật phong phú đa dạng hơn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá
47
nhân đã đi vào đời sống một cách thiết thực và hữu ích. Bên cạnh những mặt
tích cực, những lợi ích mà khách hàng được hưởng từ việc ký kết hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật đối với tổ chức hành nghề luật sư thì cũng còn những
hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ
chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đối với
khách hàng. Trong phạm vi đề tài của mình, tác giả chỉ nêu những bất cập,
tồn tại và nguyên nhân về thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp
đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
Như đã phân tích trong các tiểu mục ở phần trên của luận văn, các quy
định của pháp luật về trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam
khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn rất hạn chế, thậm chí chưa
có quy định cụ thể, để xác định trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề
luật sư. Trong các trường hợp vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đều
phải dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm dân sự khi giao kết
thực hiện hợp đồng dịch vụ. Vấn đề này trong thực tế xảy ra một số bất cập,
hạn chế như sau:
Thứ nhất, chưa có quy định về khái niệm dịch vụ tư vấn pháp luật và
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư được sử dụng ngày càng phổ biến,
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật được giao kết và thực hiện ngày càng
nhiều. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định cụ thể khái niệm và đặc điểm của dịch vụ tư vấn pháp luật và hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật. Vì vậy, việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ
tư vấn pháp luật không những phải tuân thủ Luật Luật sư, Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, mà còn phải vận dụng các quy định
của các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Việc vận dụng nhiều
48
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh một quan hệ xã hội dễ
dẫn tới những cách hiểu khác nhau thậm chí có thể là xung đột pháp luật.
Ở góc độ luật chuyên ngành, Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung
năm 2012 chỉ liệt kê dịch vụ pháp lý, quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý
chưa rõ ràng, còn chung chung, trừu tượng dẫn đến tình trạng chưa có căn cứ
chắc chắn để xác định phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư đối
với từng vi phạm, từng loại hình dịch vụ cụ thể. Khi có tranh chấp liên quan
đến thù lao và chi phí của luật sư thì lại được thực hiện theo pháp luật dân sự.
Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về dịch vụ pháp lý và hợp
đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói
riêng, cần phải bổ sung và hoàn thiện các quy định cụ thể và chi tiết trong
pháp luật về luật sư. Các quy định có tính chất chung chỉ nên quy định trong
Bộ luật Dân sự. Trong bộ luật này cần có những quy định chung có tính khái
quát cao, thể hiện rõ quyền tự do hợp đồng để bảo đảm tính ổn định của Bộ
luật Dân sự. Không nên đưa vào Bộ luật Dân sự các quy định về các loại hợp
đồng chuyên biệt đặc thù của các quan hệ xã hội khác nhau. Nếu có đưa một
loại hợp đồng nào đó vào trong Bộ luật Dân sự, thì không nên quy định ở văn
bản pháp luật khác nữa để tránh trùng lặp, chồng chéo.
Thứ hai, hạn chế và bất cập về hình thức hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật
Tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng khi giao kết hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật không chỉ tuân thủ các nguyên tắc của Luật Luật sư, mà
còn đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa thuận, bình đẳng, thiện chí hợp tác, trung
thực và ngay thẳng theo Bộ luật Dân sự và Luật thương mại. Xuất phát từ
nguyên tắc này nên hình thức hợp đồng cũng phải đa dạng dựa trên thỏa thuận
giữa các bên theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật thương mại.
49
Tại khoản 2 Điều 26 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm
2012 quy định về hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý phải lập thành văn bản.
Trong khi đó khoản 1 Điều 5 Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011
của Bộ Tư pháp quy định: “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng
dịch vụ pháp lý hoặc theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ pháp lý…”.
Điều này thể hiện sự bất cập vế tính không nhất quán trong cùng một hệ thống
pháp luật.
Để đề cao quyền tự thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh và tính chất công việc nên hạn chế quy định cứng
nhắc hợp đồng bắt buộc phải ký kết dưới hình thức văn bản. Luật Luật sư cần
quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hướng thừa nhận các thông tin
các bên gửi cho nhau qua đường điện tín (telex, fax) và các hình thức thông
tin kỹ thuật số (thư điện tử email, zalo, viber..).
Việc quy định luật sư thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật theo hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật là cần thiết nhưng mọi trường hợp, hợp đồng dịch vụ
tư vấn pháp luật phải lập thành văn bản là không phù hợp. Bởi đối với những
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có giá trị lớn, phức tạp, thời gian thực hiện
kéo dài thì việc giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bằng văn bản là
phù hợp. Tuy nhiên, đối với những yêu cầu về dịch vụ tư vấn pháp luật có giá
trị nhỏ, thời gian thực hiện ngắn mà vẫn phải lập phiếu thỏa thuận hoặc ký
hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là không cần thiết, bởi khách hàng đến với
luật sư mong muốn dịch vụ được cung ứng nhanh gọn, hiệu quả. Rất nhiều
trường hợp khách hàng đến luật sư tư vấn chỉ mong nhận được câu trả lời
“được hay không được”, “đúng luật hay không” hay sau một thời gian tư vấn,
trao đổi luật sư mới quyết định mức thù lao là bao nhiêu, vì vậy, trong những
trường hợp này, việc lập và ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là không
cần thiết.
50
Thứ ba, hạn chế bất cập về tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp
luật
Do các văn bản pháp luật chưa có sự thống nhất, còn chồng chéo dẫn
đến tình trạng nhiều tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư, không
có chức năng tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật dẫn đến nhầm lẫn
cho khách hàng. Mặc dù, dịch vụ pháp lý tư vấn pháp luật và phạm vi hành
nghề của tổ chức hành nghề luật sư đã được quy định trong Luật Luật sư, tuy
nhiên trong các văn bản quy phạm pháp luật khác và trong thực tế vẫn có tổ
chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư vẫn có thể thực hiện những
công việc này, cụ thể: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính. Khi tham gia tố tụng, cá nhân, tổ chức
tham gia với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo; người bảo vệ quyền
và lợi ích cho đương sự; người đại diện theo ủy quyền.
Thực tế, đã và đang tồn tại hiện tượng các công ty TNHH, trung tâm
dịch vụ, văn phòng tư vấn, dịch vụ…. đua nhau mở dịch vụ tư vấn pháp luật,
thậm chí còn nhận thực hiện cả dịch vụ thủ tục pháp lý, tranh tụng… làm cho
khách hàng nhầm lẫn với các tổ chức hành nghề luật sư. Pháp luật quy định
các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, trung tâm dịch vụ, văn phòng tư
vấn.. chỉ được tham gia các dịch vụ hành chính như: đánh máy, soạn thảo văn
bản, dịch thuật, hướng dẫn các thủ tục liên quan đến hành chính chứ không
được phép tham gia tư vấn pháp luật cũng như tham gia tố tụng tại tòa án như
các tổ chức hành nghề luật sư.
Thứ tư, theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 thì “người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người
thân thích của họ lựa chọn”. Để trở thành người bào chữa thì tổ chức hành
nghề luật sư và người bị buộc tội hoặc người đại diện hoặc người thân thích
của họ phải giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý.
51
Khi người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội là
người giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là trường hợp
giao kết và thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Người thứ ba là
người bị buộc tội, họ có quyền yêu cầu hoặc từ chối người bào chữa bất cứ
lúc nào. Khi người bị buộc tội từ chối người bào chữa mà luật sư mới làm thủ
tục để đăng ký người bào chữa thì tổ chức hành nghề luật sư phải vận dụng
quy định tại khoản 1 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015 “trường hợp người
thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng phải thông báo cho
bên có quyền và hợp đồng được coi là bị hủy bỏ, các bên phải hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận”.
Tuy nhiên, cho rằng, hợp đồng bị hủy bỏ là không phù hợp vì để đi đến
giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì luật sư đã phải tư vấn, soạn
thảo hợp đồng, phải đi đến cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thủ tục đăng
ký bào chữa. Nếu tổ chức hành nghề luật sư phải chấp nhận như trường hợp
hủy bỏ hợp đồng và phải trả lại tất cả các khoản tiền đã nhận của khách hàng
theo hợp đồng là không hợp lý. Bởi vì, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư
thực hiện sẽ mất một khoản chi phí và thù lao mà mình đã bỏ ra để thực hiện
những việc nhất định.
Trường hợp luật sư đã được đăng ký bào chữa, đã thực hiện một số
công việc theo nghĩa vụ của mình nhưng người bị buộc tội từ chối luật sư, thì
mặc dù có mong muốn, nhưng luật sư cũng không thể tiến hành các công việc
của mình theo hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ pháp lý không thể thực hiện, buộc
phải chấm dứt mà các bên đều không có lỗi, căn cứ theo quy định của pháp
luật tại khoản 2 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người thứ
ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ, thì
52
nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam
kết đối với bên có nghĩa vụ..”.
Như vậy, nếu theo quy định này, thì xem như luật sư đã hoàn thành
công việc của mình theo hợp đồng và người đại diện hoặc người thân thích
của người bị buộc tội phải thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng cho tổ chức
hành nghề luật sư. Đây là một quy định khó chấp nhận đối với bên sử dụng
dịch vụ tư vấn pháp luật nếu quá trình giải quyết tranh chấp áp dụng quy định
pháp luật này.
Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội
từ chối luật sư thì về nguyên tắc hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật sẽ được
chấm dứt, tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 thì “mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều
phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ
vụ án…”. Như vậy, nếu giữa tổ chức hành nghề luật sư và bên sử dụng dịch
vụ tư vấn pháp luật là người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc
tội đồng ý chấm dứt hợp đồng mà người bị buộc tội không đồng ý, thì luật sư
vẫn phải tiếp tục bào chữa. Quy định như vậy sẽ mâu thuẫn với một số Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, trong đó có Quy tắc 6.2:
“Luật sư tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng” nếu khách hàng không lựa
chọn mình nữa thì luật sư cũng phải tôn trọng.
53
Tiểu kết chương
Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật hiện
hành về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi
vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là một trong những vấn đề trọng
tâm của luận văn. Tại Chương 2, tác giả đã làm rõ các quy định của pháp luật
về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm và hậu quả
pháp lý của việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Tác giả cũng nêu
thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của tổ chức hành
nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, những bất cập, tồn
tại và nguyên nhân. Đây sẽ là căn cứ thực tiễn để đề ra phương hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề
luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật trong
chương tiếp theo.
54
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI
PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư
vấn pháp luật
3.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật về luật sư và tổ chức hành nghề Luật
sư phải thể chế hoá đầy đủ những nội dung có liên quan của Chiến lược cải
cách tư pháp, cũng như những định hướng quan trọng của Đảng về cải cách
hành chính, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại hội
lần thứ XII của Đảng
Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã đề ra nhiệm vụ “đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có
phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo
đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định
rõ chế độ, trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để
phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư, đề cao trách nhiệm của tổ chức
luật sư đối với thành viên của mình”.
Từ định hướng của Đảng Nhà nước tại các văn kiện Quốc hội đã thể
chế hóa ban hành Luật Luật sư và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư tạo
hành lang pháp lý để hoạt động nghề luật sư được phát triển và hoạt động tuân
thủ pháp luật có hiệu quả. Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Luật sư
còn tồn tại nhiều bất cập, thiếu những quy định cụ thể rõ ràng do đó việc
không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động nghề luật sư là
nhiệm vụ đặt lên hàng đầu. Tiếp tục hướng dẫn thi hành và triển khai có hiệu
55
quả Luật Luật sư và các văn bản, quy định có liên quan tạo cơ sở pháp lý
đồng bộ, cụ thể nhằm tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề
nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư, của luật sư đặc biệt là việc tuân thủ
pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, đồng thời hoàn thiện cơ chế bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ. Song song tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Cụ thể tăng cường
kiểm tra, thanh tra để nắm bắt tình hình, số lượng và hoạt động của các tổ
chức hành nghề luật sư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn và
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhưng cũng biểu dương, khen thưởng
kịp thời đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư khi có những đóng
góp, gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực đạo đức luật sư, từ
đó, nâng cao trách nhiệm, vai trò của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư
trong xã hội cũng như trong hoạt động nghề nghiệp. Ngoài ra nâng cao vai trò
tự quản của tổ chức luật sư đặc biệt là của các tổ chức hành nghề luật sư bằng
việc ban hành các văn bản quy định về tổ chức, điều hành, quản lý và trách
nhiệm pháp lý cụ thể của các tổ chức hành nghề luật sư trong hoạt động hành
nghề. Cần có chế tài và biện pháp xử lý, cách thức giải quyết về trách nhiệm
của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý đối
với khách hàng.
Trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, nghề luật
sư luôn nhận được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Nâng cao vị thế của
luật sư trong tố tụng là yếu tố góp phần làm cho hoạt động tố tụng trở nên
minh bạch hơn và giảm bớt những hạn chế, bất cập trong hoạt động tư pháp,
vì vậy, cần tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nghị quyết số
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Chỉ thị 33-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
56
với tổ chức và hoạt động của luật sư nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ luật
sư đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, nâng cao vị thế, vai trò, tính
chuyên nghiệp và tăng cường trách nhiệm xã hội của luật sư; Chiến lược phát
triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục nâng cao
chất lượng đội ngũ luật sư phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, đáp
ứng những yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập
quốc tế; lấy chất lượng cung cấp dịch vụ làm thước đo chất lượng luật sư. Đặc
biệt, cần nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trong mối tương quan với nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp. Chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa
nghề luật sư về quy mô, tổ chức, khả năng cung cấp dịch vụ… theo tiêu chí
chung về hoạt động của luật sư trong khu vực và thế giới; mở rộng phạm vi
hoạt động; thúc đẩy năng lực cạnh tranh của luật sư Việt Nam nhằm chiếm
lĩnh thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý trong nước, từng bước tham gia, giải
quyết những vụ việc pháp lý ở nước ngoài.
3.1.2. Tổng kết thực tiễn, rà soát những hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Luật sư, đặc biệt liên quan đến vấn đề hành nghề
và trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư trong khi giao kết
và thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư cần tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động hành nghề của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, bảo
đảm để luật sư thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, góp phần bảo vệ
công lý theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho
việc kiện toàn, cơ cấu lại các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và thông lệ quốc tế về nghề
luật sư cũng như tính đặc thù, đồng bộ với các loại hình doanh nghiệp theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
57
Sửa đổi các quy định của Luật Luật sư, tạo điều kiện thuận lợi nhưng
cũng phù hợp với thông lệ chung của các nước trong khu vực và trên thế giới
về hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt
Nam. Nghiên cứu, khảo sát, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xây dựng chính
sách phát triển tổ chức hành nghề luật sư phù hợp với nhu cầu của xã hội về
dịch vụ pháp lý, phát triển tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn hoạt động
chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế, có khả năng cạnh tranh với các
tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Thực hiện chính sách phát triển tổ chức
hành nghề luật sư bảo đảm đến năm 2020, phát triển được khoảng 30 tổ chức
hành nghề luật sư có quy mô từ 50 đến 100 luật sư và từ 100 luật sư trở lên
hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh thương mại có yếu tố
nước ngoài trong đó có khoảng 10 tổ chức hành nghề của Việt Nam có
thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới, có khả năng cạnh tranh với các
tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.
3.1.3. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hoạt
động nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường sự phối
hợp, tham vấn giữa Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương
Nghề luật sư là nghề độc lập, mang tính chất tự quản rất cao. Một mặt,
Nhà nước cần đảm bảo cho tính tự quản nghề nghiệp được phát huy cao độ,
mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của luật sư cũng cần phải có sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức
nghề nghiệp luật sư. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả quản lý nhà nước
đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp của luật sư ở một số địa phương
chưa đảm bảo hiệu quả cao, còn để xảy ra nhiều sai phạm của luật sư cả về vi
phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và
thể chế hóa bằng pháp luật, theo đó phải phân biệt rõ việc quản lý nhà nước
với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản
58
lý những nội dung gì? và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý
những nội dung gì? Trách nhiệm kiểm tra, giám sát như thế nào? Quy trình xử
lý các sai phạm của luật sư, của Đoàn luật sư ra sao? Có như vậy, mới bảo
đảm hành lang pháp lý vững chắc để luật sư tuân thủ các quy định của pháp
luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong quá trình hoạt động nghề
nghiệp của mình, bảo đảm luật sư thượng tôn pháp luật, vì công lý, vì lợi ích
tốt nhất của khách hàng và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Thực tiễn hoạt động của luật sư còn nhiều khó khăn, trở ngại, trong đó
có cả các trở ngại khách quan về cơ chế, về quản lý… Để đảm bảo cho hoạt
động nghề nghiệp của luật sư được đảm bảo hiệu quả, chuyên nghiệp và đạt
chất lượng cao thì cần thiết phải tăng cường sự phối hợp, trao đổi, tham vấn
giữa các cơ quan nhà nước với Đoàn luật sư. Cần có cơ chế để định kỳ hàng
quý Ban Nội chính và Sở Tư pháp chủ trì mời các cơ quan nhà nước có liên
quan và Đoàn luật sư cấp tỉnh để thực hiện việc trao đổi về công tác phối hợp,
thực thi pháp luật,… cũng như tham vấn các dự án, chính sách của địa
phương. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước; trách
nhiệm, vị trí, vai trò của Đoàn luật sư, góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc và tạo thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư và tổ chức
hành nghề luật sư.
3.1.4. Xây dựng hệ thống các tiêu chí và giá trị văn hóa nghề nghiệp
luật sư, đảm bảo cho các tổ chức hành nghề luật sư và mỗi luật sư hoạt động
có hiệu quả, phù hợp với chức năng xã hội của luật sư
Tổ chức hành nghề luật sư cần phải xây dựng cho mình các chuẩn mực
trong việc hành nghề luật sư, chuẩn mực này phải thống nhất, có tính truyền
bá tinh thần cộng đồng với niềm tin sâu sắc về lý tưởng của nghề luật sư, có
59
độ tin cậy cao về phẩm giá, về đạo đức nghề nghiệp và có một chuẩn mực
chung về ứng xử văn hóa.
Khi xây dựng quy chế hoạt động của tổ chức hành nghề hoặc trong hợp
đồng hợp tác giữa các luật sư, cần phải đưa thêm vào một số nội dung quy
định trong Luật Luật sư, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp và một số tiêu chí về
ứng xử văn hóa, đặc biệt là sự ràng buộc về trách nhiệm bảo đảm uy tín nghề
nghiệp, các điều cấm và trách nhiệm về tài sản đối với tổ chức hành nghề luật
sư khi xảy ra việc khách hàng khiếu nại mà tổ chức hành nghề luật sư đã phải
giải quyết với khách hàng (nếu có); ngoài ra còn phải quy định rõ về nghĩa vụ
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư và việc đóng bảo hiểm xã hội
cho các thành viên của tổ chức hành nghề luật sư.
Để duy trì sự thực hiện thống nhất và xuyên suốt, tạo ra mặt bằng
chung của văn hóa nghề nghiệp thì người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư
phải gương mẫu trong việc tuân thủ các chuẩn mực do mình đề ra, vừa
nghiêm khắc trong kỷ luật hành nghề nhưng cũng phải có không khí sinh hoạt
dân chủ, những rủi ro mà những vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
mang đến phải được hạn chế ở mức thấp nhất.
Bản thân luật sư và tổ chức hành nghề luật sư cần phải từng bước xây
dựng hệ thống đánh giá một cách công bằng về hiệu quả, chất lượng cung cấp
dịch vụ, có chế độ kiểm tra định kỳ, chấn chỉnh khuyết điểm, nâng cao mặt
tích cực và sáng tạo để củng cố uy tín của mình. Trên cơ sở sự phân công
trách nhiệm, quản trị tốt nguồn thu nhập và phân phối, thì cần có chính sách
phân phối hợp lý như là một đòn bẩy tích cực để kích thích lòng say mê nghề
nghiệp, ý thức tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cá nhân trong tổ chức; ngoài việc
khen thưởng về vật chất, thì phải có sự khuyến khích, động viên khen thưởng
về tinh thần như bình chọn điển hình tiêu biểu, giới thiệu ứng cử vào các tổ
chức dân cử…; trong việc quản trị tổ chức hành nghề luật sư cần phải ứng
60
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng chương trình đào tạo tại chỗ,
nâng cao trình độ ngoại ngữ, cử luật sư tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn
và dài hạn ở nước ngoài.
Ngoài ra, cần phải xây dựng và thiết lập các tiêu chuẩn để xét bình
chọn và tổ chức khen thưởng danh hiệu “luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
tiêu biểu về văn hóa nghề nghiệp luật sư”; cần phải có sự thống nhất trong
trang phục của luật sư khi hành nghề; có các nguyên tắc và nội dung chung
khi giới thiệu, quảng cáo trên báo chí hoặc danh thiếp được coi như một công
cụ giao tiếp văn hóa; xây dựng cơ sở dữ liệu các văn bản tư vấn và bào chữa,
bảo vệ quyền lợi hợp pháp điển hình của các luật sư trong cả nước; các cơ
quan quản lý hành chính tư pháp, tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức hành
nghề luật sư cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật và xử lý vi
phạm pháp luật đối với Luật sư khi hành nghề luật sự, khi thực hiện các
quyền, nghĩa vụ được quy định trong pháp luật và trong Quy tắc đạo đức nghề
nghiệp luật sư.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp
luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi
vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về trách nhiệm của các
tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam
Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 chưa quy định cụ
thể, chi tiết về trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư ngoài quy định tại
khoản 5, khoản 6 Điều 40 về nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư là “bồi
thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng
trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý
khác. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình
theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” và quy định chung tại
61
Điều 90 về xử lý vi phạm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, chi nhánh
của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài tại Việt
Nam là: “Tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam... vi phạm quy định của
Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, với khả năng hiểu biết và
trình độ nghiên cứu khoa học còn hạn hẹp, song tác giả vẫn xin mạnh dạn nêu
một vài giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của tổ
chức hành nghề luật sư Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung, thay thế một số quy định hiện hành về
trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam. Cần quy định chi tiết về
trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi thực hiện hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng là thế nào và tương ứng có các chế
tài xử lý khi vi phạm;
Thứ hai, tuy tinh thần của hợp đồng là sự tự do thỏa thuận nhưng nên
chăng quy định mẫu hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với những nội dung
cụ thể vì thường khi các tổ chức hành nghề luật sư soạn thảo hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật đã soạn sẵn về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật. Việc này có thể dẫn đến bên cung ứng dịch vụ pháp lý sẽ làm giảm
những trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư nếu có vi phạm xảy ra;
Thứ ba, quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp
đồng trong Luật luật sư hoặc hướng dẫn cụ thể việc áp dụng Bộ luật Dân sự
phần vi phạm, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng đối với các tổ
chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ký kết
với khách hàng;
Thứ tư, nếu sự vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật của tổ chức
hành nghề luật sư đối với khách hàng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc
62
biệt nghiêm trọng thì không chỉ có biện pháp xử lý phạt vi phạm hành chính
mà có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với các pháp nhân trong Bộ luật hình sự hiện hành;
Thứ năm, quy định bắt buộc các tổ chức hành nghề luật sư phải mua
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư chứ không chỉ dừng lại ở quy
định chung như hiện nay.
3.2.2. Củng cố, kiện toàn, xây dựng, nâng cao trình độ chuyên môn
của các luật sư Việt Nam
Giữa bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay thì việc
cải cách tư pháp là một yêu cầu cần thiết tuy nhiên chất lượng đội ngũ luật sư
chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Thứ nhất là do hệ thống pháp luật thiếu sự
đồng bộ, không rõ ràng, chưa đầy đủ; Thứ hai là trong các lĩnh vực về đầu tư,
kinh doanh, thương mại như tài chính ngân hàng, sở hữu trí tuệ, bảo hiểm,
hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp mại quốc tế… thì còn
thiếu luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực này. Trên thực tế ở Việt Nam hiện
nay, các luật sư tham gia rất ít vào việc giải quyết các vụ kiện có liên quan
đến yếu tố nước ngoài. Phần lớn họ chỉ tham gia bào chữa tại các phiên tòa xử
các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và các quan hệ khác ở trong nước.
Do vậy việc tham gia giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài đối với
các luật sư Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Do đó cần củng cố, kiện toàn,
xây dựng, nâng cao trình độ chuyên môn của các luật sư Việt Nam cụ thể như
sau:
Thứ nhất, xây dựng, ban hành các đề án về phát triển số lượng luật sư
theo vùng miền, lĩnh vực pháp luật; tuyên truyền, phổ biến nâng cao vị trí, vai
trò của luật sư; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và
chất lượng hoạt động hành nghề luật sư trong tham gia tố tụng, tư vấn pháp
luật. Tổ chức đào tạo đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế tại
63
Trung tâm liên kết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu
tăng số lượng luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp quốc
tế từ 50 người (năm 2015) lên khoảng 150 người vào năm 2020.
Đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung có tính chất
kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp thêm những kiến thức như: thương
mại, tư pháp quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các vụ tranh chấp và những vấn
đề liên quan đến yếu tố nước ngoài… Hiện nay chúng ta có nhiều văn phòng
luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam, thông qua
hợp tác và thực tập tại các văn phòng này, các luật sư Việt Nam sẽ có điều
kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ việc giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài. Tiếp tục thực hiện bồi dưỡng bắt buộc, thực
hiện bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề
luật sư và đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư, bảo đảm đến năm 2020, 100%
số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên. Nâng cao chất lượng đội ngũ
luật sư, thu hút nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề luật sư, tạo nguồn để
bổ sung nhân lực cho các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà nước
từ đội ngũ luật sư
Thứ hai, Luật sư cần chuyên môn hóa lĩnh vực hoạt động của mình.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì một làn sóng thương mại và đầu tư tràn
vào nước ta một cách mạnh mẽ dẫn đến việc các tranh chấp liên quan đến
thương mại và đầu tư cũng xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp. Do đó các
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có ý
thức “phòng bệnh” để hạn chế rủi ro bằng cách thông qua các luật sư. Điều
này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hóa hoạt động của mình.
Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, không phải một người hành
nghề luật sư giỏi là nhất thiết phải am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, bởi
trong thực tế các vụ án hình sự và phi hình sự xuất hiện rất đa dạng, ở mọi
64
lĩnh vực của đời sống do vậy một luật sư giỏi và có trách nhiệm với nghề thì
cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Chúng ta
không thể tách rời khỏi xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới bởi
Luật sư của các nước nào dù theo hệ thống Common Law hay hệ thống Civil
Law đều chuyên môn hóa khi hành nghề theo một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước
đó, chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”,“luật sư về
thừa kế”,“ luật sư về hôn nhân và gia đình”,“luật sư về ngân hàng”,“luật sư về
chứng khoán”,“luật sư về bảo hiểm”,“luật sư về bất động sản”, thậm chí có “
luật sư về bồi thường thiệt hại”,“luật sư chuyên về tai nạn giao thông”…
Khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng
mang quốc tịch Việt Nam mà còn là khách hàng mang quốc tịch của nhiều
quốc gia khác.
Vì vậy, các luật sư cần chủ động hơn trong việc tự tạo ra mọi điều kiện
hành nghề cần thiết cho bản thân mình để hướng tới việc mở rộng khách hàng
và phục vụ tất cả mọi đối tượng khách hàng dù là khách hàng trong nước hay
ngoài nước, là tổ chức hay cá nhân. Họ phải luôn luôn cập nhật kiến thức
pháp luật mới nếu muốn có nhiều cơ hội tham gia các phiên tranh tụng tại tòa
đối với các vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài hay các vụ án xét xử tại
nước ngoài. Để làm được điều đó thì trước tiên họ phải xác định được mình
muốn chuyên sâu hành nghề về lĩnh vực gì, sau đó phải tìm hiểu, cập nhật các
văn bản, kiến thức pháp luật về lĩnh vực đó nhất là pháp luật của quốc tế,
ngoài ra họ cũng cần nâng cao các kiến thức về ngoại ngữ và tin học. Chính
quá trình hội nhập là nguyên nhân thúc đẩy các Luật sư trẻ của nước ta luôn
luôn không ngừng học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ
năng khác như tin học, ngoài ngữ nếu họ muốn rèn luyện bản lĩnh của mình,
có sự tự tin khi hành nghề để tham gia tranh tụng tại bất cứ phiên tòa nào, tại
bất cứ đâu dù ở Việt Nam hay nước ngoài. Có thể nói một Luật sư giỏi phải là
65
một luật sư khi tham gia các vụ tranh tụng quốc tế phải có khả năng ngoại ngữ
lưu loát và phải hiểu được các quy định pháp luật chung của quốc tế cũng như
của các nước liên quan có chủ thể tham gia tố tụng. Ở nước ta hiện nay, việc
các luật sư sử dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ tin học khi tác nghiệp
và hành nghề không còn là hình ảnh xa lạ với mọi người. Do vậy, trước khi
tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên tòa, các luật sư
cần nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi
hình sự và việc đầu tiên mà họ phải làm chính là bổ sung, cập nhật và hoàn
thiện kiến thức chuyên môn của mình, nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học
[54].
Thứ ba, Luật sư phải giỏi trong kỹ năng giao tiếp để có thể thuận lợi
hơn khi làm việc với khách hàng trong quá trình bào chữa hay bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của họ. Do vậy, khi giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách
hàng thì các văn phòng luật sư cần phải có sẵn các mẫu văn bản, giấy tờ đơn
giản, chính xác, rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp nhưng không thể quá nặng
tính hành hành chính, điều này sẽ giúp cho việc giao kết với khách hàng
nhanh chóng và thuận tiện hơn. Ngoài ra, trước khi ký hợp đồng thì khách
hàng cũng cần được biết về tiến trình tố tụng để giải quyết vụ việc của mình,
danh sách các luật sư được chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực cụ thể cùng
với bảng tính mức thù lao của họ, tất cả những nội dung này cần phải được
công khai tới khách hàng.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ việc thì luật sư và khách hàng phải
luôn hợp tác với nhau và coi nhau như những người cộng sự cùng nỗ lực để
giải quyết vấn đề chung. Có thể nói đây là cái nhìn mới về mối quan hệ giữa
luật sư với khách hàng hiện nay. Việc khách hàng “bán cái” toàn bộ vụ việc
cho Luật sư khi thuê Luật sư trợ giúp pháp lý cho mình đã không còn phù hợp
với tình hình thực tế. Và Luật sư cũng cần phải nhận thức được rằng mối quan
66
hệ giữa mình và khách hàng là mối quan hệ hợp tác, hai bên thống nhất để đạt
được mục đích chứ không phải là mối quan hệ một chiều khi cho rằng khách
hàng “nhờ vả” và luật sự có quyền quyết định mọi thứ liên quan đến vụ việc.
Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ việc luật sư phải luôn luôn trao đổi
thông tin thường xuyên đối với khách hàng về tình hình công việc mình đang
làm, nhất là bản chất của vụ việc đang giải quyết một cách rõ ràng nhất, trung
thực nhất và khách quan nhất.
Các luật sư cũng phải nhận thức rõ về vấn đề quyền con người khi tham
gia các vụ tranh tụng, quyền con người cần phải được tôn trọng một cách cao
nhất dù thân chủ của mình là bị cáo, người bị hại hay là đương sự. Vì vậy, khi
tham gia tranh tụng trong bất cứ vụ án hình sự nào thì người luật sư cần phải
giữ cho mình một cái đầu tỉnh táo, không nên quá coi trọng vào kết quả điều
tra, cáo trạng của các cơ quan Tư pháp mà phải có tư duy của mình, đặt lợi
ích của thân chủ lên trên hết, đưa ra các phương hướng giải quyết vụ việc trên
cơ sở luật định với mục đích phải bảo vệ thân chủ cho dù trước đó đã có
những chứng cớ buộc tội bất lợi cho thân chủ.
Còn trong tố tụng phi hình sự, có thể nhận thấy rằng hiện nay các vụ án
đều có xu hướng thiên về việc hòa giải hơn là đưa ra xét xử trước Tòa án. Khi
tham gia vào các vụ việc tranh tụng phi hình sự, luật sư phải hiểu rõ bản chất
của vụ việc, biết được yêu cầu chính xác của thân chủ là gì để có thể bảo vệ
lợi ích tối đa cho thân chủ. Luật sư phải có những đánh giá khách quan về vụ
việc và chỉ rõ cho thân chủ thấy những thuận lợi và không thuận lợi của vụ
việc. Qua đó có thể hướng thân chủ đến việc hòa giải nếu thân chủ cũng mong
muốn điều đó, hoặc thân chủ không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ
bất lợi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật.
Có thể nói, hiện nay trên thế giới việc nhận định một xã hội có nền tư
pháp công bằng, dân chủ, văn minh không phải là việc xã hội đó có nhiều vụ
67
án được giải quyết một cách thấu tính, đạt lý hay không mà là việc xã hội đó
ít có các vụ việc tranh chấp, mà nếu có tranh chấp thì trước tiên giải quyết các
vụ việc tranh chấp đó bằng phương pháp hòa giải có lợi cho các bên chứ
không phải có suy nghĩ chỉ có ra tòa mới bảo vệ được quyền lợi của mình.
Đây cũng là xu hướng chung hiện nay mà giới luật sư của các nước trên thế
giới đang coi trọng và áp dụng.
Thứ tư, Luật sư phải tham gia, tham dự các phiên tòa nhiều hơn để có
thể rút ra các kinh nghiệm cho mình. Trước khi tham gia tranh tụng bất cứ vụ
việc nào thì người luật sư cần phải lập sẵn cho mình kế hoạch xét hỏi, dự
đoán các vấn đề tranh tụng công khai tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu hồ
sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ của luật sư. Để
thực hiện tốt được điều này, các luật sư cần phải giành thời gian luyện tập tự
hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân
chủ. Để có thể tự tin đứng trước tòa thì luật sư cần phải thực hiện tốt các vấn
đề như về kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên
tòa, đặc biệt là cần chú trọng đến kỹ năng tranh luận công khai tại phiên tòa
của mình. Do vậy, bài bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng “mở” có
thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên tòa chứ không nên theo
cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước
Hội đồng xét xử [54]
3.2.3. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư
Nghề luật sư vốn là một nghề tự do, tổ chức hành nghề luật sư lại
không phải là thành viên của Đoàn luật sư, do đó, để tổ chức hành nghề luật
sư hoạt động có hiệu quả, tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm pháp lý khi
vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, cần phải đẩy mạnh công
tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động của các tổ chức hành
68
nghề luật sư. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, Sở tư pháp là cơ quan quản
lý về nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với Đoàn luật sư để tăng cường việc
giám sát đối với các tổ chức hành nghề luật sư. Hiện nay, Sở tư pháp căn cứ
quy định pháp luật thường xuyên yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư báo
cáo định kỳ theo quý và báo cáo cả năm. Tại các báo cáo Sở tư pháp mới yêu
cầu các tổ chức hành nghề luật sư báo cáo về số lượng luật sư trong tổ chức
hành nghề luật sư, số vụ việc, số chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức
hành nghề luật sư và tổng thu nhập dự kiến. Ngoài ra, theo định kỳ, Sở tư
pháp phối hợp cùng cơ quan thuế, Sở lao động thương binh xã hội kiểm tra
luân phiên các tổ chức hành nghề luật sư về công tác chấp hành pháp luật của
các tổ chức hành nghề luật sư trong lĩnh vực thuế, sử dụng lao động, công tác
quản lý hành chính của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc kiểm tra của các
cơ quan ban ngành phần nào yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư phải chấp
hành đúng quy định pháp luật nhưng về cơ bản do chưa có những quy phạm
pháp luật cụ thể, riêng biệt đối với lĩnh vực hành nghề luật sư nói chung và
với tổ chức hành nghề luật sư, luật sư nói riêng nên chủ yếu nếu có sai phạm
trong quản lý hành chính, vi phạm nghề nghiệp chủ yếu vẫn là biện pháp phạt
vi phạm hành chính. Do đó, để đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, pháp luật cần
có những quy định cụ thể trong lĩnh vực này. Đoàn luật sư cần phát huy vai
trò của Hội đồng khen thưởng kỷ luật trong việc giám sát vi phạm của các tổ
chức hành nghề luật sư thông qua đơn thư khiếu nại của khách hàng và đề
xuất biện pháp xử lý. Liên đoàn luật sư Việt Nam phải thường xuyên yêu cầu
các Đoàn luật sư báo cáo về tình hình hoạt động, thành tích cũng như sai
phạm của các tổ chức hành nghề luật sư để có sự khen thưởng kịp thời nhưng
cũng có biện pháp xử lý ngay khi có vi phạm. Sở tư pháp cần phối hợp cùng
Đoàn luật sư kiểm tra, giám sát việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ
69
pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư với khách hàng. Trên thực tế điều
này cũng rất khó thực hiện vì không phải tổ chức hành nghề luật sư nào cũng
sẵn sàng phối hợp và vì một lý do rất đặc trưng của nghề luật sư là giữ bí mật
thông tin khách hàng nên không phải bất cứ hợp đồng dịch vụ pháp lý nào tổ
chức hành nghề luật sư cũng có thể công khai, cung cấp cho đoàn kiểm tra,
giám sát. Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý tổ chức
hành nghề luật sư chỉ thật sự hiệu quả khi có văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể đồng thời có sự tự giác, chấp hành tuân thủ pháp luật và phối hợp của các
tổ chức hành nghề luật sư.
3.2.4. Thường xuyên quán triệt, học tập và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho luật sư, tổ chức hành nghề luật sư
Luật sư là một nghề đặc thù, do vậy cần đòi hỏi sự trong sáng về đạo
đức nghề nghiệp. Để nâng cao được uy tín và vị thế của mình trong xã hội thì
những người hành nghề luật sư phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành
nghề bắt buộc. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có những quy định
chung này mà mỗi đoàn luật sư đều tự ban hành các quy tắc riêng và áp dụng
chúng với các thành viên của mình. Điều này cho thấy cần thiết phải có một
bộ quy tắc hành nghề luật sư chung nhất để đưa ra chuẩn mực điều chỉnh hoạt
động đối với giới luật sư Việt Nam.
Theo tác giả, có thể đưa ra những nguyên tắc chung như sau: Trong đạo
đức hành nghề, luật sư phải trung thành với khách hàng, không tiết lộ thông
tin khách hàng cho bất cứ ai, bất cứ cơ quan nào; không đồng lõa và giúp
khách hàng làm những việc sai trái. Liên quan đến việc tiếp nhận vụ việc từ
khách hàng, luật sư phải tuân theo các quy tắc: Không mâu thuẫn quyền lợi
(không đại diện cho hai khách hàng trong cùng một vụ việc có quyền lợi đối
lập). Luật sư phải từ chối các vụ việc không thuộc lĩnh vực chuyên môn của
mình và nên chủ động giúp cho khách hàng tìm kiếm các luật sư có lĩnh vực
70
chuyên môn phù hợp. Luật sư cũng không nên buôn bán cổ phiếu, không làm
ăn chung với khách hàng…
Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, các tổ chức
hành nghề luật sư cần chú trọng thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, kết hợp với học tập Quy tắc Đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư; tiếp tục triển khai việc quán triệt và thực hiện các văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI.
Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kiến thức pháp luật,
kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, bồi dưỡng giáo dục
chính trị, tư tưởng thường xuyên trong nội bộ của các Đoàn luật sư, các tổ
chức hành nghề luật sư đối với các luật sư thành viên. Chú trọng công tác
hướng dẫn bồi dưỡng, giám sát tập sự hành nghề luật sư, quản lý chặt chẽ chất
lượng tập sự hành nghề nhằm tăng cường chất lượng đầu vào của đội ngũ luật
sư; đào tạo kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư...
71
Tiểu kết chương
Việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành
nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
hiện nay không chỉ giới hạn trong việc hoàn thiện các quy định về trách
nhiệm pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình giao kết,
thực hiện các hợp đồng dịch vụ pháp lý, mà rộng hơn, nó liên quan và nằm
trong Chiến lược tổng thể phát triển nghề luật sư trong điều kiện Nhà nước
pháp quyền, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người và
quyền công dân, phát kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở Chương 3 của luận văn, tác giả đã đề xuất định hướng và giải pháp
trên cơ sở tổng thể này, trong đó, về mặt định hướng, việc hoàn thiện pháp
luật về luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư phải thể chế hoá đầy đủ những
nội dung có liên quan của Chiến lược cải cách tư pháp, cũng như những định
hướng quan trọng của Đảng về cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng; tổng kết thực
tiễn, rà soát những hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Luật sư, đặc biệt liên quan đến vấn đề hành nghề và trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư trong khi giao kết và thực hiện dịch vụ pháp lý;
tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp
của các tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường sự phối hợp, tham vấn giữa
Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương; xây dựng hệ thống các
tiêu chí và giá trị văn hóa nghề nghiệp luật sư, đảm bảo cho các tổ chức hành
nghề luật sư và mỗi luật sư hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chức năng xã
hội của luật sư.
72
KẾT LUẬN
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài
những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì người luật sư còn phải
tuân thủ theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Cùng với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và các chức danh tư pháp khác cùng làm nghề luật, luật sư đóng vai trò
quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát
triển xã hội. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, hoạt động luật sư trở thành một nghề không thể thiếu được trong xã
hội. Vì lẽ đó, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm và tạo điều kiện để phát triển
hoạt động luật sư bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ
sở quy định của Hiến pháp. Nghề luật sư ở Việt Nam đang từng ngày đạt
được những bước phát triển đáng ghi nhận, vai trò của nghề luật sư trong xã
hội ngày một được nâng cao, chất lượng, uy tín của luật sư ngày một lớn hơn,
hoạt động hành nghề của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ngày càng
phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Chính vì thế, trách nhiệm pháp lý
của luật sư, của các tổ chức hành nghề luật sư ngày càng được chú trọng và
được quy định rõ ràng bằng các quy định pháp luật cụ thể. Do đó, pháp luật
về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam cũng
mang tính cấp thiết và khá mới trong đời sống xã hội. Là luật sư và hiện cũng
đang hành nghề luật sư tại Văn phòng luật sư nên đây là trăn trở và cũng là
những băn khoăn của học viên trước vấn đề nêu trên.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
làm nghề để tìm ra những nguyên nhân của tồn tại các bất cập, từ đó đề xuất
giải pháp nhằm khắc phục để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của
các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn
pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quỳnh Anh (2006), Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật
sư, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sỹ, Hà Nội;
2. Nguyễn Mai Anh (2015), Hợp đồng tư vấn pháp lý ở Việt Nam, Luận
văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội;
3. Ban chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
Bộ Tư pháp (2007), Hướng dẫn thi hành Luật luật sư, Hà Nội; 4.
Bộ Tư pháp (2011), số chuyên đề về pháp luật về luật sư, Tạp chí dân 5.
chủ và pháp luật, Hà Nội;
6. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011
hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định
hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư, Hà Nội;
7. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Luật sư, Hà
Nội;
8. Bộ Tư pháp (2015), Quyết định số 1573/2015/QĐ-BTP ngày 28/8/2015
về việc phê duyệt Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hà Nội;
9. Bộ Tư pháp (2019), Thông tư số 02/2019/TT-BTP ngày 15/03/2019 quy
định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ
của luật sư, Hà Nội;
10. Nguyễn Văn Bốn, Quản lý nhà nước về dịch vụ tư vấn pháp luật tại
Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Bộ Tư pháp;
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Hà Nội;
74
12. Chính phủ (2008), Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 về tư
vấn pháp luật, Hà Nội;
13. Chính phủ (2012), Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 sửa
đổi nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư,
tư vấn pháp luật, Hà Nội;
14. Chính phủ (2013), Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Hà Nội;
15. Chính phủ (2013), Báo cáo về một số hoạt động bổ trợ tư pháp (luật
sư, giám định tư pháp) năm 2013, Hà Nội;
16. Chính phủ (2013), Nghị định 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Hà Nội;
17. Chủ tịch (1945), Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội;
18. Đoàn Văn Duy (1996), Tổ chức luật sư ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ,
Hà Nội;
19. Đoàn Luật sư Hải Phòng (2018), Báo cáo công tác khen thưởng kỷ luật
nhiệm kỳ 2014-2018 , Hải Phòng;
20. Hoàng Huy Được (2012), Một số suy nghĩ về việc nâng cao chất lượng
luật sư, tính chuyên nghiệp của luật sư trong tiến trình cải cách tư
pháp tại Việt Nam, Tham luận hội thảo đóng góp ý kiến về dự án sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Hà Nội;
21. Trần Thị Bích Hạnh (2015), Pháp luật về dịch vụ luật sư Việt Nam hiện
nay, Hà Nội;
22. Hoàng Phước Hiệp, Một số vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý trước yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tư pháp;
75
23. Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật
sư trong điều kiện mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003;
24. Phan Trung Hoài (2002), Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư,
Tạp chí Khoa học pháp luật số (07), Thành phố Hồ Chí Minh;
25. Đinh Thái Hoàng (2018), Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp
lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa
học Xã hội, Hà Nội;
26. Đặng Kim Hoa, Kiến nghị mô hình cung cấp dịch vụ pháp lý tại Việt
Nam, Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ tư pháp;
27. Dương Đình Khuyến (2001), Vấn đề xã hội hóa hoạt động luật sư và tư
vấn pháp luật, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;
28. Nguyễn Tiến Lập, Một số vấn đề về dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt
Nam, Công ty Tư vấn Investconsult Group;
29. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2011), Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam, Hà Nội;
30. Nguyễn Anh Minh (2009) Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;
31. Nguyễn Thị Minh, Vị trí, vai trò và nhu cầu của dịch vụ pháp lý trong
nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, Bộ Tư pháp;
32. Lê Bình Phương (2017), Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành
nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;
33. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội;
34. Quốc hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội;
35. Quốc hội (2012), Luật Luật sư sửa đổi, Hà Nội;
76
36. Nguyễn Văn Thảo (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở
Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội;
37. Nguyễn Hoàn Thành, Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển, Công ty Phạm và Liên
danh;
38. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định phê duyệt chiến lược phát
triển nghề luật sư đến năm 2020, Hà Nội;
39. Phan Hữu Thư, chủ biên (2001), Kỹ năng hành nghề luật sư, tập I, Nhà
xuất bản công an nhân dân, Hà Nội;
40. Phan Hữu Thư, chủ biên (2002), Kỹ năng hành nghề luật sư, tập III,
Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội;
41. Vương Thủy Tiên, Dịch vụ pháp lý tại một số nước, Bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, Đoàn Luật sư Hà Nội;
42. Nguyễn Văn Tuân (2005), Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu
cầu và định hướng phát triển, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà
Nội;
43. Nguyễn Văn Tuân, Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp -
Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển, Bộ Tư pháp;
44. Phạm Văn Tuấn, Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý - Thực trạng,
nhu cầu và định hướng phát triển, Bộ tư pháp;
45. Nguyễn Hà Trang (2011), Hình thức hành nghề luật sư. Số chuyên đề:
pháp luật về luật sư, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tr.80-81, Hà Nội;
46. Hoàng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội;
77
TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
47. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=2172
48. http://www.luat.tuvantinhoc.com/index.php/11/2015/nhung-dac-diem-
co-ban-cua-nghe-luat-su/
49. https://www.luatvietphong.vn/hinh-thuc-to-chuc-hanh-nghe-luat-su-o-
viet-nam-thuc-trang-va-mot-so-de-xuat-kien-nghi-n9647.html
50. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=2067
51. https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/linh-vuc-
khac/trach-nhiem-phap-ly-la-gi-123776
52.
53.
https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/vi-pham-phap-luat-va-trach-nhiem- phap-ly.htm http://lsvn.vn/luat-su-va-cong-dong/kinh-nghiem-thuc-tien/bai-hoc- cho-luat-su-khi-ky-hop-dong-dich-vu-phap-ly-23269.html http://www.lawvietnam.com.vn/NewsDetail.aspx?nid=336
54.
78