VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ

LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG

DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ

LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ

ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Nay tôi viết Lời cam

đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội xem xét để tôi có

thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Thu Hòa

BẢNG VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Bộ luật dân sự TNHH MTV

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT .......................................... 8 1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý ... 8 1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng ...................................... 15 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................................................... 27 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ........................................................................... 27 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 38 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM .................................................................................... 55 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................................................................. 55 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

So với nhiều ngành nghề luật khác trong hệ thống các nghề luật Việt

Nam, thì nghề luật sư và các quy định về nghề luật sư hình thành muộn màng,

do đó, hệ thống pháp luật về nghề luật sư và hành nghề luật sư chưa thật sự

hoàn chỉnh và đồng bộ. Trong khi đó, nghề luật sư được cho là tiêu biểu nhất

và thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật vì nó luôn hướng tới

việc bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Những năm gần đây, xã hội ngày càng phát triển, quyền con người,

quyền công dân được đề cao, đồng thời cũng phát sinh thêm nhiều mối quan

hệ giữa công dân với công dân, giữa công dân với các tổ chức và giữa các tổ

chức với nhau. Những mối quan hệ này có thể nảy sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng

đến quyền lợi của mỗi bên. Điều này dẫn đến một nhu cầu thiết yếu là nhiều

tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành

nghề luật sư cung cấp. Trước, trong và sau một quá trình tố tụng hay trước

một cuộc đàm phán, giao kết, thực hiện một giao dịch, không một tổ chức, cá

nhân nào mà không muốn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực

tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng lên một cách rõ rệt. Số

lượng luật sư tăng nhanh, song song cùng phát triển là sự ra đời của các tổ

chức hành nghề luật sư ngày một nhiều.

Khác với các ngành nghề khác trong xã hội, nghề luật sư có tính đặc

thù riêng, mang tính độc lập, tự chịu trách nhiệm. Một luật sư Việt Nam có

thể hành nghề thông qua hai hình thức là hành nghề theo tư cách cá nhân

và hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức hành nghề luật

sư được điều chỉnh bởi Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.

Tuy nhiên, vấn đề về trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật của tổ chức hành nghề luật sư không được cụ thể hóa trong Luật Luật

1

sư mà vẫn tuân theo các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan về

vấn đề này. Do vậy, để xem xét các vấn đề về tư cách pháp nhân và trách

nhiệm, nghĩa vụ tài sản khi thực hiện dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề

luật sư còn phải thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật Dân sự

năm 2015.

Dịch vụ pháp lý là một lĩnh vực khá rộng, là đặc quyền của giới luật sư,

được pháp luật bảo hộ và được hiểu là sự giúp đỡ về mặt pháp lý của các luật

sư cho những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc

giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng có những vi

phạm và phát sinh tranh chấp, đặc biệt là các trường hợp xác định trách nhiệm

pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật, mối quan hệ về trách nhiệm pháp lý giữa các luật sư trực tiếp

thực hiện và các tổ chức hành nghề luật sư như thế nào…? Pháp luật về luật

sư và hành nghề luật sư đang ngày dần hoàn thiện, đã có những đóng góp tích

cực cho sự phát triển của nghề luật sư, nhưng trên thực tế, một số quy định

của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những hạn chế,

bất cập chưa đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật. Bởi

vậy, học viên đã chủ động lựa chọn đề tài “Trách nhiệm pháp lý của tổ chức

hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư hoạt động và hành nghề

không phải là một vấn đề quá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu khoa

học. Pháp luật về nghề luật sư và những bất cập trong hoạt động của các tổ

chức hành nghề luật sư đã được đề cập trong một số nghiên cứu ở các mức độ

khác nhau như bài viết trên các tạp chí, tham luận tại các diễn đàn, tiểu luận

của các học viên, nghiên cứu sinh. Việc nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận

2

và phương diện khác nhau. Một số công trình khoa học tiêu biểu về nghề luật

sư và những bất cập của Luật Luật sư trong hệ thống pháp luật hay quản lý

nhà nước về nghề luật sư như các giáo trình về nghề luật luật sư, sách kỹ năng

hành nghề luật sư, tài liệu học tập, bài viết nghiên cứu hay các luận văn thạc

sĩ, luận án tiến sĩ. Các công trình nghiên cứu liên quan được thể hiện như sau:

2.1. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực luật sư và

hành nghề luật sư, có một số công trình tiêu biểu như:

- Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt

Nam” do ông Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp

là Chủ nhiệm đề tài, được thực hiện năm 2003;

- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Vấn đề xã hội hóa hoạt động

luật sư và tư vấn pháp luật” của tác giả Dương Đình Khuyến, được thực hiện

năm 2001…

2.2. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về lĩnh vực hợp đồng

dịch vụ pháp lý có các công trình tiêu biểu như:

- Đề tài khoa học cấp Bộ “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng,

nhu cầu và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp là Chủ nhiệm đề tài, được thực

hiện năm 2005;

- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong

hành nghề luật sư - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Quỳnh

Anh được thực hiện năm 2006;

- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt

Nam” của tác giả Hoàng Thị Vịnh được thực hiện năm 2014;

3

- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa

tổ chức hành nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí

Minh” của tác giả Lê Bình Phương được thực hiện năm 2017…

2.3. Trong các công trình nghiên cứu đã công bố về hình thức tổ chức

hành nghề luật sư có các công trình tiêu biểu như:

- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Tổ chức luật sư ở Việt Nam”

của tác giả Đoàn Văn Duy được thực hiện năm 1996;

- Luận án Tiến sĩ luật học với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức

và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả LS. Phan

Trung Hoài được thực hiện năm 2003;

- Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài “Luật sư và tổ chức hành nghề

luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Minh được thực hiện

năm 2009… và còn nhiều bài nghiên cứu, các luận văn, luận án khác nghiên

cứu về vấn đề luật sư và hành nghề luật sư…

Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với đề tài

“Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật

sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện

nay, từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật về vấn đề này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra, nhiệm vụ mà luận văn phải làm

rõ đó là:

4

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm

pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật;

- Khái quát, phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của

các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đánh giá về những ưu điểm và tồn tại

của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi

phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;

- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập

để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật

sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, từ đó, nâng cao

giá trị nghề luật sư trong xã hội góp phần bảo vệ công lý, đem lại sự bình

đẳng, công bằng cho người dân.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp

luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi

phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật và thực trạng

về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực

hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo Luật Luật sư 2006, Luật sửa đổi,

bổ sung Luật Luật sư năm 2012 tại Việt Nam cho đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn dựa trên quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về nghề

luật sư và hành nghề luật sư… Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng

5

các phương pháp nghiên cứu truyền thống và tin cậy để làm sáng tỏ đề tài

nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh,

phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về mặt lý luận, luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận

chung của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư

Việt Nam hiện nay khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về

trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp

nhằm khắc phục tồn tại bất cập để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp

lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi thực hiện hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật, từ đó nâng cao, tôn vinh giá trị nghề luật sư trong xã hội

góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và

tổ chức theo quy định pháp luật.

Luận văn cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho người nghiên cứu

và giảng dạy các vấn đề liên quan đến nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý của

các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm pháp lý của

tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật.

6

Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức

hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở

Việt Nam hiện nay

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của

các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật.

7

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT

1.1. Khái quát về tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm pháp lý

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư

1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư

Luật Luật sư năm 2006 và Luật Luật sư được sửa đổi bổ sung năm

2012 quy định luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư,

thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi

chung là khách hàng). Trong Luật Luật sư, khái niệm luật sư đã được cụ thể

hơn bằng quy định về tiêu chuẩn luật sư, đây là điểm mới so với Pháp lệnh

Luật sư năm 2001.

Điều 10 Luật Luật sư quy định: “Luật sư là công dân Việt Nam trung

thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức

tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập

sự hành nghề luật sư, có sức khỏe, đảm bảo hành nghề luật sư thì có thể trở

thành luật sư”. Tiêu chuẩn trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và

pháp luật là điều “bất biến”. Với các tiêu chuẩn cơ bản về luật sư quy định tại

Luật Luật sư thì gần như tương tự tiêu chuẩn đối với điều tra viên, kiểm sát

viên và thẩm phán. Quy định này ngoài việc đảm bảo sự thống nhất về tiêu

chuẩn đối với các chức danh tư pháp, nó còn tạo ra mối liên kết giữa luật sư

và các chức danh tư pháp khác trong quá trình đào tạo nghề và hoạt động

nghề nghiệp. Việc quy định cụ thể về tiêu chuẩn luật sư đã góp phần tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho việc cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký gia

nhập Đoàn luật sư và thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư.

8

Một điểm đặc thù trong tiêu chuẩn luật sư so với các chức danh tư pháp

khác đó chính là tiêu chuẩn có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều này

trong thực tiễn cho thấy, nhiều điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên sau khi

nghỉ hưu mới trở thành luật sư và điều kiện sức khỏe không bảo đảm đã ảnh

hưởng không nhỏ đến chất lượng hành nghề luật sư. Đây là sự bất cập trong

quy định về tiêu chuẩn sức khỏe đối với luật sư vì pháp luật không quy định

cụ thể gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước và Đoàn luật sư trong quá

trình xem xét cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và cho gia nhập đoàn luật sư.

Việc xác nhận một người có đảm bảo sức khỏe hay không chỉ dựa vào Giấy

chứng nhận sức khỏe do một tổ chức, cơ quan y tế xác nhận, điều này là rất dễ

dàng có được trong thực tế hiện nay.

Người có đủ tiêu chuẩn theo Điều 10 Luật luật sư muốn hành nghề luật

sư phải được cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp) cấp chứng chỉ hành nghề luật

sư và gia nhập một Đoàn luật sư để có tư cách là thành viên của Liên đoàn

Luật sư Việt Nam và thành viên của một Đoàn luật sư.

Điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư phải đáp ứng các

yêu cầu về chuyên môn như phải có bằng cử nhân luật, đã tốt nghiệp khóa đào

tạo nghề, hoàn thành thời gian tập sự và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự

hành nghề luật sư. Đây chính là điều kiện cần đối với người muốn hành nghề

luật sư.

Điều kiện gia nhập một Đoàn luật sư là yêu cầu mang tính nghề nghiệp,

thể hiện tính chất đặc thù của nghề luật sư so với các nghề nghiệp khác trong

xã hội. Luật sư được Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp Thẻ luật sư làm thông

hành cho việc hành nghề luật sư. Khi tác nghiệp nghề luật sư, luật sư với vai

trò phản biện theo tố tụng và phản biện xã hội theo yêu cầu dịch vụ pháp lý

với công dân hoặc tổ chức xã hội.

9

Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện hành nghề luật sư hiện

nay là phù hợp với thông lệ nghề nghiệp được pháp luật về luật sư của nhiều

nước trên thế giới quy định. Một người chỉ được coi là “Luật sư” khi có đủ

điều kiện nêu trên. Khi đã trở thành luật sư, người đó có quyền được hành

nghề luật sư (cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng) theo

phạm vi, hình thức hành nghề luật sư quy định tại Luật Luật sư. Nếu một

người không có đủ điều kiện hành nghề luật sư nhưng vẫn hành nghề luật sư

dù dưới bất kỳ hình thức nào thì được coi là hành nghề luật sư bất hợp pháp

và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Hiện nay Nhà nước ta đang trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì vai trò, vị trí của luật sư

trong xã hội cũng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn và toàn diện hơn.

Hoạt động luật sư không chỉ phục vụ đắc lực yêu cầu của hoạt động xét xử

nói riêng, hoạt động tư pháp nói chung mà còn là một nhân tố quan trọng

trong việc hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển.

Có thể nói nghề luật sư là nghề tự do và các luật sư hành nghề độc lập

trên cơ sở các quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Chính vì tính

chất đặc thù của nghề luật sư nên trong cơ chế thực thi pháp luật thì hoạt động

hành nghề luật sư luôn được coi là một bộ phận quan trọng. Thông qua hoạt

động nghề nghiệp của mình, luật sư là cầu nối đưa pháp luật vào cuộc sống,

góp phần tích cực trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật,

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu các

quy định trong pháp luật tố tụng thể hiện rõ quyền của luật sư khi hành nghề

được mở rộng đáng kể thì Luật Luật sư cũng có những quy định tạo điều kiện

thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Ngoài ra,

Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý,

nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề.

10

Luật Luật sư quy định luật sư được thực hiện hoạt động nghề nghiệp

trong khuôn khổ pháp luật cho phép nhưng cũng quy định các hành vi bị

nghiêm cấm đối với luật sư. Nếu Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị

nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn bị xử lý hành chính hoặc bị

truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, nếu gây

thiệt hại thì họ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư

Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy

định về các tổ chức, các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa, quy định chế độ bào chữa, điều kiện công nhận luật sư [17]. Đây là

khung pháp lý nền tảng cho sự phát triển về các quy định đối với nghề luật sư,

các tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam sau này. So với các nước trên thế

giới hình thức tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam có nhiều nét tương đồng.

Hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến ở các nước khác là: Văn phòng

luật sư cá nhân, hành nghề độc lập; công ty luật hợp danh. Còn ở Việt Nam

theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi bổ

sung Luật Luật sư năm 2012 quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư

như sau: “Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: (a) Văn phòng luật sư; (b)

Công ty luật” [35].

- Văn phòng luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư có một thành viên và

Văn phòng luật sư có nhiều thành viên. Văn phòng luật sư có con dấu và tài

khoản theo quy định của pháp luật.

- Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH.

Công ty luật hợp danh có ít nhất 02 luật sư thành lập. Công ty luật TNHH bao

gồm công ty luật TNHH có 02 thành viên trở lên và công ty luật TNHH 01

thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu làm giám đốc công ty.

11

Công ty luật TNHH 02 thành viên trở lên do ít nhất 02 luật sư thành lập và

thỏa thuận cử 01 thành viên làm giám đốc.

Luật sư đứng ra thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2

năm hành nghề liên tục. Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức hoạt động

theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên

quan. Tổ chức hành nghề luật sư đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa

phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc

công ty luật là thành viên. Tổ chức hành nghề luật sư hoạt động theo đúng

nội dung đăng ký hoạt động.

Để có một khái niệm chính thức về tổ chức hành nghề luật sư ở Việt

Nam thì đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định.

Luật sư muốn thành lập hoặc tham gia cùng các luật sư đồng nghiệp thành

lập tổ chức hành nghề luật sư phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện như

Luật Luật sư quy định. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi để các luật sư trực

tiếp hoạt động nghề nghiệp. Các luật sư tác nghiệp theo sự phân công của

đại diện tổ chức hành nghề luật sư nơi mình đăng ký là thành viên hoặc

cộng sự. Tổ chức luật sư thực hiện chế độ tự quản trên nguyên tắc quản lý

và hành nghề luật sư do Nhà nước quy định dựa theo Điều lệ Liên đoàn

Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư và Điều lệ

Đoàn luật sư nơi tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc.Tổ chức hành nghề

luật sư được hiểu là một loại hình tổ chức nghề nghiệp có sự kết hợp giữa

Nhà nước cho phép thành lập, thống nhất quản lý và chế độ tự quản của tổ

chức nghề nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư. Sự khác biệt và đặc thù

của các tổ chức hành nghề luật sư là việc cấp phép hoạt động, chịu sự quản

lý trực tiếp về hình thức tổ chức hành nghề là do Sở Tư pháp nơi Đoàn luật

sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực thuộc nhưng về mô hình hoạt động,

12

chế độ tài chính kế toán thì lại áp dụng như loại hình doanh nghiệp hay

công ty và chịu sự điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp.

Từ các phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về tổ chức hành

nghề luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề luật là một tổ chức nghề nghiệp

của các luật sư hoặc của một luật sư được thành lập, đăng ký tại Sở Tư

pháp tỉnh/thành phố nơi Đoàn luật sư mà tổ chức hành nghề luật sư trực

thuộc nhằm bổ trợ cho các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Một

luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập chỉ một tổ chức hành nghề luật

sư và phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Luật Luật sư đã

quy định. Tổ chức nghề nghiệp luật sư hoạt động theo nguyên tắc kết hợp

giữa sự quản lý nhà nước và tính tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp

của luật sư”.

Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư xuất phát từ bản chất, vị trí, vai

trò của luật sư của trong xã hội. Nghề luật sư chú trọng đề cao vai trò của cá

nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư. Bởi thế, tổ chức hành nghề luật sư có

một số đặc điểm tiêu biểu như:

Thứ nhất, tổ chức hành nghề luật sư tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo

đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam

Thứ hai, tổ chức hành nghề luật sư có tính chất tự do, độc lập và tự

chịu trách nhiệm

Thứ ba, hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư mang tính dịch vụ và

được nhận thù lao, lệ phí từ khách hàng

Thứ tư, tổ chức hành nghề luật sư là một nghề không kiêm nhiệm

Thứ năm, tổ chức hành nghề luật sư luôn gắn với sinh mệnh chính trị

của mỗi con người

13

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý

1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý

Trách nhiệm pháp lý được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, như trách

nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý được đề cập đến

trong phần quy định của quy phạm pháp luật hay trách nhiệm là việc chủ thể

phải thực hiện một mệnh lệnh cụ thể của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có

thẩm quyền. Hoặc trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể phải gánh chịu những

hậu quả pháp lý bất lợi được quy định trong phần chế tài của các quy phạm

pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ

vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác

được pháp luật quy định.

Tựu chung lại, có thể hiểu, trách nhiệm pháp lý là một quan hệ pháp

luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ

thể vi phạm pháp luật, trong đó, bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu các

hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong

phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của

hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những

loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm

hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự.

1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý

Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là

điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã

hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính

trị….

Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà

nước được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là

điểm khác biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác

của nhà nước như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng… Trách nhiệm

pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể hiện

14

qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân

thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định.

Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy

ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Dựa vào tính chất

của trách nhiệm pháp lý có thể chia thành một số loại sau:

(i) Trách nhiệm hình sự: Là trách nhiệm của một người đã thực hiện

một tội phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì

việc phạm tội của họ. Hình phạt này do Tòa án quyết định trên cơ sở của Bộ

luật Hình sự, nó thể hiện sự lên án, sự trừng phạt của Nhà nước đối với người

phạm tội và là một trong những biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được

thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.

(ii) Trách nhiệm hành chính: Là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức

hoặc cá nhân đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính, phải gánh chịu một

biện pháp cưỡng chế hành chính tùy theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp

cưỡng chế này do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết

định trên cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

(iii) Trách nhiệm dân sự: Là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh

chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi

ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên

có quyền. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi

thường thiệt hại.

1.2. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và trách nhiệm pháp lý của

tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự

thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc

cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng

15

dịch vụ”. Quy định trên cho thấy, hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng

thông dụng, đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực

hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội.

Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có

một quy định nào nêu rõ khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và

hợp đồng tư vấn pháp luật nói riêng là gì. Tuy nhiên, trong một số đề tài

nghiên cứu khoa học, một số tác giả đã nêu quan điểm của mình về khái niệm

hợp đồng dịch vụ pháp lý như sau:

Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Mai Anh (2015): “Hợp đồng tư

vấn pháp lý là sự thỏa thuận của bên thuê dịch vụ với bên cung cấp dịch vụ về

việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, theo đó bên cung ứng dịch vụ sẽ thực

hiện tư vấn pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ phải

trả thù lao tư vấn cho bên cung ứng dịch vụ” [2, tr.26]. Cũng theo quan điểm

của tác giả, “chủ thể bên cung ứng hợp đồng tư vấn pháp luật gồm có: luật sư,

tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, trung tâm tư

vấn pháp luật” [2, tr.35]. Với cách trình bày như vậy, thì tác giả mới chỉ tiếp

cận về một phần của dịch vụ tư vấn pháp luật đó là “tư vấn pháp lý”.

Theo quan điểm của tác giả Vũ Quỳnh Anh (2006) thì “hợp đồng dịch

vụ pháp lý là một loại hợp đồng thuộc ngành dịch vụ nghề nghiệp, theo đó,

bên luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thuê luật sư, còn bên thuê luật

sư phải trả tiền thù lao theo thỏa thuận” [1, tr.18]. Quan niệm của tác giả phù

hợp với quy định của Luật Luật sư, theo đó, luật sư là chủ thể duy nhất có thể

cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội.

Theo quan điểm của tác giả Trần Bích Hạnh (2015), thì “kinh doanh

dịch vụ pháp lý rộng hơn hành nghề luật sư và có thể hiểu dịch vụ thương mại

pháp lý là loại hình dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà bên cung

ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ thể có liên quan đến

16

pháp luật nhằm mục đích kiếm lời” [21 tr.13]. Khái niệm này đặc biệt nhấn

mạnh dịch vụ pháp lý là hình thức kinh doanh thương mại, tìm kiếm lợi

nhuận, chưa thể hiện đúng bản chất, tinh thần của hoạt động dịch vụ pháp lý

đối với tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.

Trong thời đại khoa học công nghệ 4.0 hiện nay, dịch vụ pháp lý đã

được hiểu theo nghĩa rộng hơn, quy định cũng thông thoáng hơn cho một số

ngành nghề, không chỉ bó hẹp trong phạm vi Luật luật sư, do đó có rất nhiều

quan điểm khác nhau về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng. Dưới góc nhìn của tác giả, chủ thể có thể

cung ứng dịch vụ pháp lý là tổ chức hành nghề luật sư, luật sư hành nghề với

tư cách cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng thừa phát lại, tổ

chức trọng tài thương mại. Trong một số trường hợp bên yêu cầu dịch vụ

pháp lý không nhất định phải là người hưởng lợi mà họ thực hiện yêu cầu

dịch vụ pháp lý vì lợi ích của một bên thứ ba. Ví dụ, người đại diện hoặc

người thân thích của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người ký

hợp đồng dịch vụ pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư nhưng người được

bào chữa lại chính là người bị buộc tội. Đây chính là sự thỏa thuận của các

chủ thể về mỗi loại dịch vụ pháp lý mà các bên hướng tới nhằm thỏa mãn nhu

cầu về mặt pháp lý cho bản thân hoặc cho người thứ ba.

Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng: “Hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật là sự thỏa thuận có thù lao giữa bên được phép cung cấp dịch vụ và

bên yêu cầu dịch vụ nhằm thực hiện các dịch vụ tư vấn pháp luật được pháp

luật cho phép”.

1.2.1.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Khác với các hợp đồng dịch vụ khác là công việc có thể thực hiện

được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội, bên thuê yêu cầu

bên cung cấp phải thực hiện theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và các

17

thỏa thuận khác, thì ngoài những quy định chung của pháp luật về hợp đồng

dịch vụ, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn có tính chất đặc thù, đó là, chỉ

có tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư mới được ký kết hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật (hợp đồng dịch vụ pháp lý) theo quy định tại Điều 26, Điều 39

của Luật Luật sư.

Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bắt buộc khi giao kết phải bằng văn

bản. Thời gian thực hiện là do các bên thỏa thuận tùy theo tính chất và nội

dung công việc dịch vụ, tuy nhiên, trong các vụ án hình sự, đa phần thời hạn

của hợp đồng phụ thuộc thuộc thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng và

cơ quan nhà nước khác. Người thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

phải là luật sư am hiểu pháp luật chuyên ngành để cung cấp dịch vụ pháp lý

và luật sư của tổ chức hành nghề luật sư được trực tiếp làm việc cùng cơ quan

tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước yêu cầu giải quyết theo quy định của

pháp luật, không bị ngăn cấm. Luật sư phản biện lại các kết luận không có căn

cứ pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình.

Tổ chức hành nghề luật sư được nhận thù lao của khách hàng theo thỏa thuận

tại hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bằng văn bản do Trưởng

Văn phòng luật sư hoặc giám đốc công ty luật ký trực tiếp với khách hàng.

Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có những đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng song vụ,

mang tính ưng thuận

Tính chất song vụ thể hiện như quy định về loại hợp đồng song vụ theo

Bộ luật Dân sự, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, các bên đều có

nghĩa vụ đối với nhau. Bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu

cầu bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật thực hiện đúng đối tượng của hợp

đồng và phải trả thù lao tương ứng, ngược lại bên cung ứng dịch vụ tư vấn

pháp luật thực hiện theo thỏa thuận thì cũng có yêu cầu buộc bên sử dụng

18

(bên thuê) phải trả thù lao tương xứng. Tính ưng thuận của hợp đồng thể hiện

việc các chủ thể tự do ý chí khi thương lượng thỏa thuận về nội dung hợp

đồng. Khi đã đồng ý xác lập, giao kết hợp đồng thì có nghĩa hợp đồng bắt

buộc thực hiện. Điểm nổi bật là giá trị pháp lý gắn với công việc mà bên cung

ứng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thực hiện với kỹ năng, kinh nghiệm của

mình theo quy định pháp luật.

Thứ hai, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật mang tính chất đền bù

Khi bên yêu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật thì phải trả một

khoản phí tương ứng do bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật đưa ra trên cơ

sở pháp luật quy định về mức phí, lệ phí, thù lao của tổ chức hành nghề luật

sư khi thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật. Nếu bên cung ứng dịch vụ tư vấn

pháp luật vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì bên yêu cầu sử dụng

dịch vụ tư vấn pháp luật có quyền yêu cầu hoàn trả một phần lệ phí dịch vụ

pháp lý mà bên yêu cầu đã nộp khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

sau khi trừ các chi phí thực tế do tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện.

Thứ ba, chủ thể cung ứng trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

phải đáp ứng về kinh doanh có điều kiện

Dịch vụ tư vấn pháp luật phải luôn gắn liền với pháp luật và chủ thể

thực hiện, phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mới được

cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Theo khoản 2 Điều 7 Luật Đầu tư quy

định về danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ

lục 4 của Luật này, thì hành nghề luật sư, hành nghề công chứng, hoạt động

dịch vụ của tổ chức trọng tài thương mại và hành nghề thừa phát lại là những

nghề kinh doanh có điều kiện.

Thứ tư, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng không được

thỏa thuận về kết quả

19

Trừ các loại dịch vụ pháp lý khác như xác nhận, dịch thuật hay một số

dịch vụ pháp lý cụ thể khác có thể xác định được rõ ràng kết quả, thì các bên

thỏa thuận được kết quả, còn lại những dịch vụ pháp lý do bản chất vô hình

nên không có cơ sở để thỏa thuận kết quả công việc cụ thể. Các bên thỏa

thuận đối tượng của hợp đồng là những công việc cụ thể, bên cung cấp sẽ

bằng công sức, trí tuệ, kinh nghiệm, sự tận tâm và trên cơ sở pháp luật để

hoàn thành công việc đã cam kết, không chuyển giao cho người khác làm thay

trừ khi có thỏa thuận. Điều này là sự khác biệt và đặc trưng của hợp đồng dịch

vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng, có thể

thấy rõ nét trong lĩnh vực tham gia tố tụng.

1.2.2. Vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

1.2.2.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là một loại trong hợp đồng dịch vụ

pháp lý nói chung. Đây là một loại hợp đồng đặc trưng duy nhất được Luật

Luật sư quy định. Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ có khái niệm

về hợp đồng dịch vụ nói chung, mà không có quy định cụ thể chi tiết về hợp

đồng dịch vụ pháp lý hay hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Luật Luật sư là

luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư và

luật sư cũng chỉ duy nhất có Điều 26 nói về thực hiện dịch vụ pháp lý theo

hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó hướng dẫn hợp đồng dịch vụ pháp lý phải

được lập thành văn bản và gồm một số nội dung cơ bản. Chưa từng có một

quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung, nên càng chưa có một

quy định chi tiết thế nào là vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý hay vi phạm

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Do đó, nền tảng các quy định về vi phạm

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vẫn dựa trên quy định của pháp luật về vi

phạm hợp đồng nói riêng theo Bộ luật Dân sự, mà cụ thể là vi phạm nghĩa vụ

dân sự nói chung được quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm

20

2015, cụ thể là: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách

nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ

không thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa

vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ” [33].

Từ các khái quát và phân tích ở trên, theo quan điểm của tác giả, có thể

hiểu về khái niệm vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật như sau: “Vi

phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc một trong hai bên chủ thể ký

kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã không thực hiện hoặc thực hiện

không đầy đủ, không đúng nội dung một trong các thỏa thuận hoặc cam kết

của hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật”.

1.2.2.2. Các dạng vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Như trên đã phân tích, tuy hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là loại

hợp đồng đặc thù riêng trong hoạt động tư pháp, được nhắc đến trong Luật

Luật sư dưới hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng chưa từng có quy

định cụ thể, chi tiết. Bởi vậy, các vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

nói riêng cơ bản vẫn mang tính đặc trưng của vi phạm hợp đồng nói chung.

Do đó, thường xảy ra tình trạng hoặc là vi phạm hợp đồng đã ký kết hoặc là vi

phạm các quy định pháp luật về hợp đồng dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Có thể

tóm lược một số dạng vi phạm hợp đồng như:

Một là, vi phạm của các chủ thể đối với hợp đồng đã giao kết. Dạng vi

phạm hợp đồng này thường được thể hiện qua các trường hợp sau:

(i) Không chịu thực hiện hợp đồng hoặc đơn phương chấm dứt hợp

đồng mà không giải thích lý do cho bên kia (hợp đồng chưa được bên nào

thực hiện). Trường hợp này thường xảy ra do sau khi ký kết hợp đồng thì phát

hiện ra mình bị hớ hoặc rơi vào điều kiện không có khả năng thực hiện hoặc

biết rõ là nếu thực hiện thì sẽ bị bất lợi…

21

(ii) Không chịu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mặc dù đã được

hưởng các quyền lợi từ hợp đồng. Ví dụ như đã thu lệ phí hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật nhưng sau đó không thực hiện công việc đã thỏa thuận.

(iii) Không thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận ghi trong hợp đồng.

Hai là, những vi phạm pháp luật thường gặp khi ký kết, thực hiện hợp

đồng:

(i) Giao kết hợp đồng không tuân thủ hình thức hợp đồng đã được pháp

luật quy định. Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bắt buộc phải lập thành văn

bản nhưng lại không thực hiện đúng.

(ii) Đối tượng giao kết hợp đồng bị pháp luật cấm. Ví dụ như trong hợp

đồng thỏa thuận mức án mà luật sư sẽ bào chữa cho bị can, bị cáo tại Tòa án.

(iii) Hợp đồng thể hiện không rõ ràng và thiếu các nội dung chính theo

quy định của Luật Luật sư.

(iv) Nội dung hợp đồng ký kết do bị ép buộc, không đảm bảo nguyên

tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng thỏa thuận giữa hai bên.

1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm

hợp đồng

1.2.3.1. Trách nhiệm pháp lý của luật sư thực hiện

Do luật sư hành nghề dưới hai hình thức là hành nghề với tư cách cá

nhân hoặc luật sư hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư nên trách

nhiệm của luật sư khi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng khác

nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý của tổ

chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, do đó,

tác giả chỉ nêu quan điểm về trách nhiệm của luật sư thực hiện trong phạm vi

hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư.

Luật sư tham gia hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư có thể là luật

sư Trưởng văn phòng luật sư, là giám đốc công ty luật (văn phòng luật sư/

22

công ty luật có một luật sư) hoặc luật sư là cộng sự của một văn phòng luật sư

hoặc là luật sư hành nghề tại một công ty luật TNHH một thành viên, công ty

luật TNHH hai thành viên hoặc công ty luật hợp danh. Tùy theo hình thức

tham gia hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư, mà trách nhiệm của các

luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cũng khác nhau. Pháp

luật không quy định cụ thể điều này và trên thực tế các tổ chức hành nghề luật

sư khác nhau cũng có những quy định khác nhau về trách nhiệm của luật sư

khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã ký kết.

Tuy nhiên, về cơ bản, các tổ chức hành nghề luật sư và các luật sư dựa

trên hợp đồng cộng tác hoặc hợp đồng lao động để xác định trách nhiệm khi

vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng. Việc vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chủ yếu là sự vi phạm về việc thực hiện hợp

đồng, như công việc không hoàn thành hoặc đã hoàn thành nhưng không đạt

được mong muốn của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng thường đòi lại phí

thù lao luật sư mà khách hàng đã nộp. Trong các trường hợp này, vai trò của

luật sư là thứ yếu vì đại diện của tổ chức hành nghề luật sư tham gia ký kết

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng là Trưởng Văn phòng luật

sư hoặc Giám đốc công ty luật. Do đó, khi phát sinh tranh chấp, các tổ chức

hành nghề luật sư sẽ thay mặt luật sư đứng ra giải quyết, sau đó, các tổ chức

hành nghề luật sư căn cứ vào thỏa thuận đã ký kết giữa tổ chức hành nghề luật

sư với Luật sư để yêu cầu thực hiện trách nhiệm.

1.2.3.2. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư

Khách hàng khi có yêu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật sẽ ký kết

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật giữa tổ chức hành nghề luật sư với khách

hàng. Việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật thường được xác định ở các dạng:

23

(i) Công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

không đạt yêu cầu như mong muốn của khách hàng;

(ii) Không thực hiện các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ

tư vấn pháp luật đã ký kết;

Theo khoản 5 Điều 40 Luật Luật sư quy định về trách nhiệm của tổ chức

hành nghề luật sư là phải “bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức

mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài

tố tụng hoặc dịch vụ pháp lý khác”, tuy nhiên, quy định chi tiết cụ thể ra sao thì

chưa có. Việc xác định trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm

hợp đồng vẫn chủ yếu dựa vào các quy định của Bộ luật Dân sự.

Khách hàng khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với tổ chức

hành nghề luật sư có thể là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, do đó, trách

nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật với các chủ thể khách hàng khác nhau cũng khác nhau. Nhưng về cơ

bản, trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ

tư vấn pháp luật thường là trách nhiệm bồi thường, thể hiện ở việc hoàn trả

toàn bộ hoặc một phần lệ phí dịch vụ tư vấn pháp luật và bồi thường thiệt hại

do lỗi của tổ chức hành nghề luật sư vi phạm gây ra.

Trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chưa được cụ thể hóa trong Luật luật sư và Quy

tắc đạo đức ứng xử nghề luật sư. Do đó trách nhiệm pháp lý của các tổ chức

hành nghề luật sư khi vi phạm đều dựa trên căn cứ tại Bộ luật dân sự về vi

phạm hợp đồng và tổ chức hành nghề luật sư chịu trách nhiệm dân sự đối với

khách hàng. Cụ thể khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ

tư vấn pháp luật với khách hàng thì sẽ phải hoàn trả phí thù lao đã nhận của

khách hàng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý. Chi phí hợp lý là chi phí luật sư

đã đi làm việc có sự xác nhận của khách hàng hay cơ quan có thẩm quyền.

24

Chi phí ngày, giờ làm việc của luật sư được thực hiện theo quy định của pháp

luật. Thông thường khách hàng sẽ chấp nhận khoản chi phí này và mong

muốn nhận lại phần lệ phí còn dư. Cũng có nhiều trường hợp do sự thỏa thuận

giữa tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng mà tổ chức hành nghề luật sư

còn phải chịu phạt vi phạm và bồi thường do vi phạm hợp đồng. Tựu chung

trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật thường là trách nhiệm dân sự là bồi thường và phạt vi

phạm hợp đồng. Trong từng trường hợp cụ thể do thỏa thuận của hai bên mà

dẫn đến việc chịu trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư là

không giống nhau nhưng đều trên quy định của pháp luật dân sự.

25

Tiểu kết chương

Hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể thế nào là dịch vụ tư vấn

pháp luật, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, các nội dung này chỉ được thể

hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau trong một số công trình nghiên cứu khoa

học. Vì không quy định cụ thể nên việc tiếp cận và nghiên cứu đều xuất phát

từ những gì pháp luật quy định chung nhất về hợp đồng, về trách nhiệm pháp

lý khi vi phạm hợp đồng và được lập luận trong trường hợp cụ thể là trách

nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư do vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra.

Trong Chương 1, với những lý luận khái quát và tổng thể về trách

nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật đã phần nào làm rõ những khái niệm cơ bản về luật sư, tổ chức

hành nghề luật sư, trách nhiệm pháp lý, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật…

và trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư, của luật sư khi vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ký kết với khách hàng. Do quy định của pháp

luật đối với các khái niệm trên còn chưa cụ thể, rõ ràng nhưng thông qua sự

khái quát và phân tích của tác giả, một số khái niệm về cơ bản đã được rõ

nghĩa hơn và có ý nghĩa về mặt lý luận đóng góp cho việc đánh giá thực trạng

pháp luật và đề xuất hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của tổ

chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt

Nam hiện nay.

26

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI PHẠM

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm

pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

2.1.1. Các quy định pháp luật về hành nghề luật sư và tổ chức hành

nghề luật sư

Hoạt động hành nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam

hiện nay được quy định trong Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm

2012. Luật Luật sư có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và

được xây dựng trên quan điểm chỉ đạo là cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ của luật

sư trong từng lĩnh vực hành nghề, quy định rõ hơn cơ chế pháp lý bảo đảm

cho luật sư thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, đồng thời đề cao trách nhiệm

pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong quá trình hành nghề.

Điều 22 Luật Luật sư quy định về phạm vi hành nghề luật sư theo

hướng mở rộng. Theo đó, ngoài việc tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp

luật và các dịch vụ pháp lý khác như quy định của Pháp lệnh Luật sư năm

2001, Luật Luật sư còn cho phép luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho

khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. Theo quy

định này thì khi đã giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (hoặc

hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức) luật sư đương nhiên đại diện cho

khách hàng (hoặc cơ quan, tổ chức) để giải quyết các công việc theo phạm vi,

nội dung được ghi trong hợp đồng trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

27

Đây là điểm tiến bộ rất quan trọng, làm tăng thêm đáng kể quyền của luật sư

trong hành nghề, giúp gắn kết hơn quan hệ giữa luật sư và khách hàng, thông

qua đó luật sư sẽ giúp bảo vệ có hiệu quả hơn quyền và lợi ích của khách

hàng.

Luật Luật sư được sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã sửa một mục gồm 10

điều (Mục 1 Chương III từ Điều 22 đến Điều 31) quy định hoạt động hành

nghề của luật sư, trong đó, quy định cụ thể về nội dung, quyền và nghĩa vụ

của luật sư trong từng lĩnh vực hoạt động bao gồm hoạt động tham gia tố

tụng, hoạt động đại diện ngoài tố tụng, hoạt động tư vấn pháp luật, các hoạt

động dịch vụ pháp lý khác. Quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật

sư được đặc biệt quan tâm bởi quy định này đã góp phần tháo gỡ vướng mắc,

khó khăn cho các luật sư và các cơ quan tố tụng trong việc cấp giấy chứng

nhận tham gia tố tụng cho luật sư, từ đó tạo thuận lợi cho các luật sư ngay từ

đầu cũng như trong suốt quá trình thực hiện bào chữa hoặc bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp cho khách hàng.

Theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ

chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư,

công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề

luật sư kể cả cho tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Trong

điều kiện phát triển hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì quy

định tại Pháp lệnh Luật sư tỏ ra không còn phù hợp. Thực tiễn cho thấy, các

cơ quan, tổ chức đặc biệt là doanh nghiệp đang thực sự có nhu cầu tuyển dụng

luật sư làm việc với tư cách luật sư riêng để giúp giải quyết những vấn đề

pháp lý liên quan.

Ngoài ra nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư có thể chủ động lựa

chọn hình thức hành nghề phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của

mình, luật sư hoạt động độc lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật.

28

Từ thực tiễn trên, Luật Luật sư mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo

đó, luật sư có thể lựa chọn hình thức hành nghề trong tổ chức hành nghề luật

sư (như quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001) hoặc hành nghề với tư

cách cá nhân.

Luật Luật sư đã tiến một bước dài theo hướng đưa các tổ chức hành

nghề luật sư xích lại với các loại hình doanh nghiệp. Luật Luật sư đã quy định

về các hình thức tổ chức hành nghề tại Mục 2 Chương III bao gồm:

- Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành

lập, được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư

thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm

bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn

phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng.

- Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật TNHH.

So với Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định thêm loại hình

công ty luật TNHH. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh

nghiệp, Luật Luật sư còn quy định công ty luật TNHH có thể là công ty luật

TNHH hai thành viên trở lên hoặc công ty luật TNHH một thành viên. Luật

Luật sư không phân biệt về phạm vi hành nghề giữa văn phòng luật sư và

công ty luật, theo đó văn phòng luật sư và công ty luật đều được thực hiện các

dịch vụ pháp lý theo quy định tại Điều 4 Luật Luật sư.

Việc cho phép luật sư được thành lập công ty luật TNHH để hành nghề

nhằm bảo đảm sự phù hợp giữa quy định của pháp luật về luật sư với pháp

luật về doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thì kinh doanh

dịch vụ pháp lý là một ngành nghề và cá nhân đáp ứng đủ điều kiện luật định

được phép lựa chọn thành lập các loại hình doanh nghiệp để tiến hành hoạt

động kinh doanh. Các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý

bao gồm công ty hợp danh và công ty TNHH. Pháp luật cũng quy định để bảo

29

đảm quyền lợi của khách hàng, công ty luật có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách

nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho

khách hàng.

Luật sư thành lập văn phòng luật sư phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ

tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Các luật sư thành lập công

ty luật hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình

về mọi nghĩa vụ của công ty. Các luật sư thành viên của công ty luật TNHH

hai thành viên trở lên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của công ty trong

phạm vi tài sản góp vào công ty. Luật sư thành lập công ty luật TNHH một

thành viên chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của công ty trong phạm vi phần

tài sản của công ty.

2.1.2. Các quy định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật

Việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật được tuân

theo Điều 26 Luật Luật sư và các quy định cụ thể của Bộ luật Dân sự năm

2015. Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật cơ bản về trình

tự thủ tục được thực hiện như hợp đồng dịch vụ nói chung cũng bao gồm các

bước: Đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng, thời điểm

giao kết hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Trong

phạm vi luận văn, tác giả chỉ nêu các quy định về vấn đề giao kết và thực hiện

hợp đồng

Thứ nhất, giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Khi khách hàng có yêu cầu dịch vụ tư vấn pháp luật đưa ra lời đề nghị

thì giữa khách hàng và tổ chức hành nghề luật sư sẽ xác lập một hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật, khi đó, các bên tham gia phải tiến hành giao kết hợp

đồng.

30

Điều 386 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Đề nghị giao kết hợp

đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề

nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”.

Theo ý kiến của tác giả: “Đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

là hành vi của một bên biểu lộ ý chí của mình về việc cùng với bên kia tạo lập

một hợp đồng với những nội dung và điều kiện xác định”.

Về nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, hợp đồng là

sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia giao kết trên nguyên tắc

tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật,

không trái đạo đức xã hội có hiệu lực đối với các bên thực hiện và được tôn

trọng.

Về phương thức đề nghị giao kết hợp đồng, các bên có thể lựa chọn

phương thức đề nghị giao kết hợp đồng trực tiếp hoặc gián tiếp.

Như vậy có thể hiểu, giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc

tổ chức hành nghề luật sư nhân danh mình để xác lập quyền và nghĩa vụ với

khách hàng thông qua luật sư là người đại diện theo pháp luật. Với đặc điểm

là một nghề đặc thù, luật sư không được chèo kéo để khách hàng yêu cầu

mình. Khi luật sư hành nghề thông qua tổ chức hành nghề luật sư, tức là nhân

danh tổ chức mà mình là thành viên để cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật.

Cho nên, bản thân luật sư cũng như người đại diện theo pháp luật của tổ chức

hành nghề luật sư buộc phải biết khả năng chuyên môn của từng thành viên

trong tổ chức mình để cân nhắc có nên cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật cho

khách hàng hay không.

Để đi đến giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì giữa khách

hàng và luật sư có một quá trình đàm phán trước khi ký kết. Đó là quá trình

nắm bắt thông tin vụ việc và xác định yêu cầu của khách hàng. Là người có

nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật, nên khách hàng sẽ trình bày nội

31

dung vụ việc và các chứng cứ tài liệu kèm theo (nếu có), luật sư nắm bắt

thông tin và có thể đề nghị khách hàng cho biết rõ ngay một số nội dung.

Thông qua đó, luật sư xác định nội dung và phạm vi theo yêu cầu của khách

hàng cũng như khả năng của tổ chức mình có đáp ứng được yêu cầu hay

không. Là loại hình dịch vụ đặc biệt nên pháp luật quy định tương đối chặt

chẽ để đảm bảo việc quyền lợi cho khách hàng: “Luật sư tôn trọng sự lựa

chọn luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và

thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng” (khoản 1 Điều 26

Luật Luật sư năm 2006). Nếu nhận thấy vụ việc ngoài khả năng, ví dụ như

luật sư chuyên về lĩnh vực hình sự nhưng khách hàng lại yêu cầu về lĩnh vực

đầu tư thì tổ chức hành nghề luật sư phải từ chối.

Việc nắm bắt nội dung và yêu cầu của khách hàng mới chỉ là bước đầu,

giữa khách hàng và luật sư còn có một quá trình thương lượng, đàm phán tiếp

theo là luật sư sẽ làm những gì, giá dịch vụ là bao nhiêu? Đây là nội dung

khách hàng rất quan tâm xem yêu cầu của mình được thực hiện như thế nào,

chi phí có phù hợp hay không rồi mới đi đến quyết định. Luật sư sẽ làm gì, đó

là quyền và nghĩa vụ của luật sư mà pháp luật quy định: “Khi nhận vụ việc,

luật sư thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề

nghiệp của luật sư trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”

(khoản 2 Điều 24 Luật Luật sư năm 2006).

Như vậy, khi mới quyết định nhận vụ việc của khách hàng luật sư đã

phải thông báo cho khách hàng biết về quyền và nghĩa vụ của mình. “Hoạt

động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố

tụng và Luật Luật sư” (khoản 1 Điều 27 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ

sung năm 2012). Quyền và nghĩa vụ của luật sư không chỉ được quy định tại

Luật Luật sư, mà còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật về tố tụng

khác nhau.

32

Về trách nhiệm nghề nghiệp, khi hành nghề luật sư phải tuân thủ

nguyên tắc hành nghề luật sư, ngay từ thời điểm đàm phán, luật sư phải từ

chối nhận vụ việc của khách hàng trong các trường hợp quy định Quy tắc 9.1.

Cụ thể, luật sư từ chối nhận vụ việc trong trường hợp “có sự xung đột về lợi

ích theo Quy tắc 11.1 mà không giải quyết được nếu tiếp nhận vụ việc đó”.

Luật sư không được vì lợi ích của mình, tổ chức hành nghề luật sư của

mình và người thân thích của mình mà phản bội lại khách hàng trong các vụ

việc mà luật sư đang đảm nhiệm, vì vậy, ngay từ khi tiếp nhận yêu cầu đã

phải xem xét xem khách hàng mới có đối lập với khách hàng hiện hữu về lợi

ích hay không?

Khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có trường hợp khách

hàng giao kết vì chính lợi ích của mình, có trường hợp vì lợi ích của người

thứ ba. Nếu giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của chính

khách hàng thì việc thỏa thuận nội dung hợp đồng tương đối thuận lợi, nhưng

khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của người thứ ba thì

việc có thực hiện được thỏa thuận hay không trong nhiều trường hợp lại phụ

thuộc vào chủ thể này.

Thứ hai, thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là việc các bên trong hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo nội dung

đã thỏa thuận. Khi các bên thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật phải

tuân thủ nguyên tắc chung của thực hiện hợp đồng là thực hiện đúng nội dung

đã thỏa thuận, đảm bảo tính trung thực, hợp tác và không xâm phạm đến lợi

ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, khi thực hiện hợp đồng các chủ thể

còn phải tuân theo những quy tắc đặc thù nhất định. Điều 5 Luật Luật sư năm

2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã quy định cụ thể về nguyên tắc hành nghề

33

luật sư, đó là phải “tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật

sư”.

Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng song vụ, khi các bên đã

thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ

của mình khi đến hạn, không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực

hiện nghĩa vụ đối với mình (khoản 1 Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vì lợi ích của người

thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực

hiện nghĩa vụ đối với mình (Điều 415 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trường hợp

người thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện

nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nhưng phải thông báo cho

bên có quyền và hợp đồng coi như bị hủy bỏ, các bên hoàn trả cho nhau

những gì đã nhận (khoản 1 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015).

2.1.3. Các quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức hành

nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Như trên đã phân tích, hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là hợp đồng

song vụ, khi đã giao kết thì có giá trị thực hiện với các bên. Đối với tổ chức

hành nghề luật sư nội dung mà họ mong muốn bên sử dụng dịch vụ tư vấn

pháp luật thực hiện là cung cấp thông tin tài liệu đầy đủ, trung thực, kịp thời

và thanh toán thù lao, chi phí đúng như thỏa thuận.

Khi giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật các tổ chức hành nghề

luật sư đều yêu cầu bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật phải thanh toán

(hoặc ứng trước một khoản tiền) để sử dụng làm chi phí thực hiện dịch vụ tư

vấn pháp luật. Có thể hiểu đây giống như một khoản tiền đảm bảo cho việc

thực hiện hợp đồng. Các hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật xác định việc

không thanh toán, thanh toán không đầy đủ hoặc không đúng hạn là căn cứ

xác định lỗi vi phạm và có thể dẫn đến đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi

34

bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật vi phạm hợp đồng thì các tổ chức hành

nghề luật sư chỉ có thể tiếp tục hoặc chấm dứt thực hiện công việc, bởi vì dịch

vụ tư vấn pháp luật là vô hình liên quan đến pháp luật và việc thực hiện phụ

thuộc vào bên thứ ba nên khó có thể trì hoãn để đợi nhau thực hiện nghĩa vụ

của mình.

Ngoài quy định của pháp luật thì Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề

nghiệp luật sư Việt Nam còn mang tính chất như quyền theo luật định mà luật

sư có quyền từ chối việc giao kết: “Khách hàng có thái độ không tôn trọng

luật sư và nghề luật sư và không thay đổi thái độ này” (Quy tắc 9.1.6). Tuy

nhiên, thái độ khách hàng không tôn trọng luật sư phát sinh trong quá trình

thực hiện hợp đồng nhưng trong hợp đồng lại không thỏa thuận thì có được

coi là vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật hay không? Đây vẫn là vấn

đề bỏ ngỏ khi mà thực tiễn xảy ra rất nhiều nhưng căn cứ để từ chối thì hoàn

toàn mang tính cảm nhận.

Luật Luật sư không quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức

hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

Ngoài khoản 5 Điều 40 Luật Luật sư quy định nghĩa vụ của tổ chức hành

nghề luật sư là “bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra

cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và

dịch vụ pháp lý khác” và khoản 2 Điều 92 Luật Luật sư quy định xử lý vi

phạm đối với tổ chức hành nghề luật sư bất hợp pháp là “tổ chức không đủ

điều kiện hành nghề luật sư mà hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào

thì bị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử lý theo quy định của pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo

quy định pháp luật” thì không còn quy định nào khác.

Trên cơ sở pháp luật để xác định trách nhiệm của các bên trong hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, ngoài sự điều chỉnh của Luật Luật sư thì quy

35

định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt

Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật vẫn áp dụng các nguyên

tắc quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tổ chức hành nghề luật sư khi vi

phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại

trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 13, Điều 360 Bộ luật Dân sự năm

2015 về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ).

Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng được thực hiện theo

Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài việc bồi thường do vi phạm hợp

đồng, các bên còn thể thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng. Mức phạt vi

phạm hợp đồng do hai bên thỏa thuận khi ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật nhưng không vượt quá quy định của pháp luật.

Tổ chức hành nghề luật sư không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện

hợp đồng, mà chỉ là đại diện cho một bên trong giao kết hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật, sau đó phân công luật sư cộng sự hoặc luật sư thành viên của tổ

chức hành nghề luật sư trực tiếp tham gia thực hiện công việc theo thỏa thuận

với khách hàng. Nhưng khi phát sinh các tranh chấp do vi phạm hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật, thì tổ chức hành nghề luật sư sẽ chịu trách nhiệm

trước khách hàng về việc bồi thường và phạt vi phạm hợp đồng trừ khi tổ

chức hành nghề luật sư và luật sư có thỏa thuận khác.

2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc các tổ chức hành nghề luật sư khi vi

phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật sẽ dẫn đến hậu quả như sau:

- Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;

- Khách hàng hủy bỏ hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật;

- Khách hàng đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

36

Tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật tùy theo mức độ vi phạm mà xác định trách nhiệm pháp lý đối với khách

hàng. Lỗi, mức độ vi phạm là căn cứ để tổ chức hành nghề luật sư thực hiện

việc bồi thường thiệt hại cho khách hàng trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận

khác.

Thực tế khi xảy ra vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật khách

hàng thường yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư hoàn trả lại lệ phí thù lao đã

nộp sau khi trừ đi những chi phí thực tế hợp lý, hợp pháp mà luật sư của tổ

chức hành nghề luật sư đã thực hiện. Sau khi việc hoàn trả lệ phí thù lao cho

khách hàng, hai bên sẽ thống nhất chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật và không còn xảy ra tranh chấp.

Hãn hữu số ít việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật bị khách hàng khởi kiện ra tòa án yêu cầu bồi thường và

phạt vi phạm hợp đồng. Số ít trường hợp này thường do hai bên không đạt

được thỏa thuận do tổ chức hành nghề luật sư không chấp nhận việc hoàn trả

lệ phí thù lao hoặc hoàn trả giá trị quá thấp khiến khách hàng không chấp

nhận. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về việc chấm

dứt, đơn phương hay hủy bỏ hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Hậu quả pháp lý chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật theo sự

thỏa thuận của các bên: Mặc dù các bên tự nguyện chấm dứt hợp đồng, nhưng

cũng phải tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định về năng lực chủ thể,

mục đích, sự tự nguyện, hình thức… Đối với chấm dứt hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật mà người bị buộc tội là người thứ ba trong hợp đồng không

đồng ý mà tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật và bên yêu cầu dịch vụ

tư vấn pháp luật vẫn thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thì coi như đã vi phạm

pháp luật và hậu quả sẽ phải do cả hai bên cùng chịu trách nhiệm.

37

Hậu quả pháp lý do hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng: Theo

nguyên tắc chung, các bên có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp

đồng theo thỏa thuận hoặc do luật định nhưng đều phải thông báo “ngay” cho

bên còn lại. Nếu bên nào hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt không đúng thỏa

thuận hoặc trái pháp luật, không thông báo cho bên kia thì phải bồi thường.

Khi hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bị đơn phương chấm dứt thực

hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm

dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa

thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp.

Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm

giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận

về phạt vi phạm, bồi thường và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Khoản 2

Điều 475 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Các bên phải hoàn trả cho

nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và

chi phí bảo quản, phát triển tài sản”. Trường hợp hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật vì lợi ích của người thứ ba, Điều 415 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy

định: “… Nếu các bên trong hợp đồng có tranh chấp về việc thực hiện hợp

đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi

tranh chấp được giải quyết”.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với

các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật

2.2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật và trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật

Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống vật chất và tinh

thần được cải thiện, dân trí ngày càng được nâng cao, ý thức pháp luật của

38

người dân cũng chuyển biến sâu sắc, người dân càng ngày càng nhận thức rõ

hơn vai trò hữu hiệu của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình, bảo vệ công lý và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Từ đó cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của người dân được

dự báo càng ngày càng tăng. Song song với việc đội ngũ luật sư phát triển để

đáp ứng nhu cầu của xã hội thì việc mở rộng và chuyên môn hóa các tổ chức

hành nghề luật sư cũng ngày càng được quan tâm.

Trong hơn 10 năm thực hiện Luật Luật sư với các quy định về hành

nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư cũng ngày càng mở rộng phạm vi

hoạt động theo hướng hoàn thiện. Nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật

cao, người dân am hiểu pháp luật hơn do đó pháp luật cũng cần quy định chi

tiết cụ thể hơn đối với trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư trong

cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Trong quá trình hoạt động hành nghề luật

sư, các tổ chức hành nghề luật sư cơ bản tuân thủ đúng các quy định của pháp

luật về hình thức tổ chức, mô hình hoạt động, thực hiện quyền và nghĩa vụ

theo thỏa thuận tại các hợp đồng dịch vụ pháp lý ký kết với khách hàng. Tuy

nhiên, thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của tổ chức

hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn nhiều

khó khăn vướng mắc.

Như trên đã trình bày, Luật Luật sư không quy định cụ thể về trách

nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật, chỉ nêu chung một quy định là “bồi thường thiệt hại do lỗi mà

luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn

pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ pháp lý khác”. Do đó, trong thực

tiễn khi có sự vi phạm xảy ra, để giải quyết các tranh chấp đều phải áp dụng

Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Tổ chức

hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng

39

thường ở các dạng: thực hiện công việc theo thỏa thuận không đáp ứng yêu

cầu của khách hàng, dịch vụ pháp lý mà khách hàng yêu cầu không đạt kết

quả, thời gian thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật bị kéo dài và hậu quả của

các vi phạm đều dẫn đến việc khách hàng yêu cầu hoàn trả lệ phí dịch vụ. Xin

đơn cử một ví dụ cụ thể:

Vụ thứ nhất: “Ngày 27/12/2016, Tòa án nhân dân thành phố Long

Xuyên, tỉnh An Giang xử sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý

giữa nguyên đơn là ông Trần Thanh Toàn, ở tỉnh Trà Vinh với bị đơn là Luật

sư NTBX thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang.

Theo ông Trần Thanh Toàn, thì em trai của ông bị các cơ quan tố tụng

huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang khởi tố, truy tố về hành vi buôn bán hàng

cấm. Vì vậy, ngày 6/8/2014, ông gặp Luật sư NTBX thuộc Văn phòng Luật

sư TB, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang để nhờ Luật sư NTBX bào chữa cho em

ông. Luật sư NTBX nhận lời và hai bên đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý có

nội dung: Luật sư NTBX bào chữa cho em trai ông Toàn với mức thù lao là

120 triệu đồng. Tại Điều 5 của hợp đồng quy định về “chấm dứt hợp đồng” có

ghi: “Hợp đồng chấm dứt khi thực hiện xong Điều 1 được giải quyết bằng văn

bản pháp lý là bản án sơ thẩm”. Tuy nhiên, do bản hợp đồng đánh máy không

có từ “án treo” nên ông Toàn không đồng ý ký. Sau đó Luật sư NTBX viết tay

thêm từ “án treo” vào sau cụm từ “bản án sơ thẩm” tại Điều 5 của hợp đồng,

nên ông Toàn mới đồng ý ký. Sau khi ký hợp đồng, ông Toàn đã giao tiền cho

Luật sư NTBX hai lần, tổng cộng là 80 triệu đồng. Số tiền còn lại 40 triệu

đồng, hai bên thỏa thuận khi ông Toàn nhận được bản án sơ thẩm thì Luật sư

NTBX sẽ nhận nốt tiền.

Tháng 11/2014, Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xử sơ thẩm đã phạt

em trai ông Trần Thanh Toàn một năm sáu tháng tù giam. Vì em trai mình

không được hưởng án treo, nên ông Toàn cho rằng, Luật sư NTBX không

40

thực hiện đúng nội dung hợp đồng. Do đó, ông Toàn khởi kiện Luật sư NTBX

ra Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang và yêu cầu Luật sư

NTBX phải hoàn trả cho ông 68 triệu đồng, còn 12 triệu đồng, ông Toàn đồng

ý chi cho Luật sư NTBX để đi lại, xăng, xe…

Mặc dù tại phiên tòa, Luật sư NTBX thừa nhận có nhận lời bào chữa

cho em trai ông Toàn, hợp đồng dịch vụ nêu trên được ký giữa Luật sư và ông

Trần Thanh Toàn, nhưng khẳng định không thỏa thuận kết quả án treo như

ông Toàn trình bày. Sở dĩ Luật sư NTBX có ghi thêm từ “án treo” vào hợp

đồng là do ông Toàn yêu cầu và để trấn an tinh thần cho mẹ của ông. Luật sư

NTBX cho rằng, mình có sơ suất khi không hủy hợp đồng trên, mà lại tin vào

thỏa thuận miệng để ghi thêm từ “án treo” vào hợp đồng.

Cũng theo Luật sư NTBX, ngoài hợp đồng đã ký với ông Trần Thanh

Toàn, thì hai bên còn thỏa thuận miệng có một số người chứng kiến. Luật sư

NTBX đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa để triệu tập thêm những người làm

chứng. Yêu cầu của Luật sư NTBX được Hội đồng xét xử chấp nhận, tuy

nhiên, từ ngày 8/4/2016 đến ngày 27/12/2016, Luật sư NTBX không cung cấp

được địa chỉ nhân chứng để Tòa triệu tập. Về số tiền, Luật sư NTBX khai đã

dùng 50 triệu đồng để lo làm thủ tục cho em trai ông Toàn được tại ngoại theo

quy định của pháp luật, còn lại 30 triệu đồng chi phí bào chữa cho em trai ông

Toàn tại phiên tòa sơ thẩm. Luật sư NTBX cho rằng, mình đã làm hết trách

nhiệm nên không đồng ý với yêu cầu của ông Toàn.

Với các tình tiết như trên, Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân

dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cho rằng, thỏa thuận giữa ông

Toàn và Luật sư NTBX về việc Luật sư NTBX nhận bào chữa cho em trai

ông để Tòa án xử án treo là đúng sự thật. Bởi lẽ, Điều 5 bản hợp đồng dịch vụ

pháp lý có ghi “Hợp đồng chấm dứt khi thực hiện xong vụ việc theo Điều 1

được giải quyết bằng văn bản pháp lý là bản án sơ thẩm án treo”. Việc Luật

41

sư nói phải ghi án treo để ông Toàn trấn an tinh thần cho mẹ của ông Toàn là

không có căn cứ vì ông Toàn không thừa nhận.

Việc Luật sư NTBX cho rằng, số tiền nhận trước 50 triệu đồng là để lo

cho em trai ông Toàn tại ngoại, còn 30 triệu đồng nhận thêm là để bào chữa

chứ không hứa kết quả án treo, nhưng ngoài lời khai của Luật sư NTBX, thì

không còn chứng cứ nào khác để chứng minh lời khai này là đúng sự thật, nên

Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Việc Luật sư NTBX yêu cầu hoãn phiên tòa để triệu tập người làm

chứng và Tòa án đã yêu cầu Luật sư NTBX cung cấp địa chỉ của họ, nhưng

Luật sư NTBX không làm, nên Tòa không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa

nữa.

Hội đồng xét xử kết luận việc Luật sư NTBX thỏa thuận bào chữa cho

em trai ông Toàn trong vụ án hình sự và xác định để Tòa xử cho em trai ông

Toàn được hưởng án treo với giá 120 triệu đồng đã vi phạm điểm 14.11 Quy

tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, vi phạm khoản 2 Điều 5

Luật Luật sư. Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa ông Toàn với Luật sư NTBX đã

vi phạm điều cấm của pháp luật, không thỏa mãn Điều 122 Bộ luật Dân sự.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử kết luận: Hợp đồng dịch vụ pháp lý

giữa ông Trần Thanh Toàn với Luật sư NTBX là hợp đồng vô hiệu, do đó,

không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và các bên phải hoàn trả

cho nhau những gì đã nhận. Vì vậy, Luật sư NTBX phải có nghĩa vụ hoàn trả

số tiền 80 triệu đồng đã nhận cho ông Toàn. Tuy nhiên, phía ông Toàn đồng ý

trả chi phí đi lại cho Luật sư NTBX là 12 triệu đồng. Đây là sự tự nguyện của

ông Toàn được Hội đồng xét xử ghi nhận”[53].

Vụ thứ hai: “Trường hợp đã xảy ra cách đây vài năm, một tổ chức

hành nghề luật sư kết hợp với vài chủ thể khác (do tổ chức hành nghề luật sư

đứng tên ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng) trong việc đề nghị Ủy

42

ban nhân dân của tỉnh A trả hết phần tiền do thu hồi đất của nhiều hộ dân

trong phạm vi một số xã, với tổng số tiền khoảng 18 tỷ đồng.

Vấn đề này, Ủy ban nhân dân tỉnh A đã có văn bản khẳng định việc Ủy

ban nhân dân tỉnh giữ lại số tiền này là cần thiết và đúng quy định của pháp

luật. Số lượng hộ dân rất đông tới hàng trăm hộ đã làm giấy ủy quyền cho một

nhóm người đứng ra ký kết hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư, nội dung

là tổ chức hành nghề luật sư được hưởng 50% giá trị đòi được. Sau đó, Ủy

ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định trả lại số tiền này cho người dân.

Khi các hộ dân nhận được tiền và trả cho tổ chức hành nghề luật sư

được khoảng vài tỷ đồng, thì trong một cuộc tiếp xúc cử tri, lãnh đạo Ủy ban

nhân dân tỉnh A tuyên bố, người dân đương nhiên được nhận số tiền này và

luật sư không có vai trò gì trong việc các hộ dân được Ủy ban nhân dân tỉnh

trả nốt tiền, vì vậy, các hộ dân đã không tiếp tục trả tiền cho luật sư nữa.

Khi đó cũng xuất hiện vướng mắc, không thống nhất giữa tổ chức hành

nghề luật sư này với các tổ chức hành nghề luật sư khác đã tham gia cùng

giải quyết dịch vụ này. Vướng mắc và tranh chấp nhiều bên đã xảy ra. Các tổ

chức hành nghề luật sư buộc phải khởi kiện ra Tòa để giải quyết vụ

việc…”[53].

Trong các trường hợp tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật với khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư là

người trực tiếp chịu trách nhiệm giải quyết. Tổ chức hành nghề luật sư là

công ty luật hợp danh hay công ty TNHH có điều lệ hoạt động, trong đó, điều

lệ sẽ quy định trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư và trách nhiệm của

cá nhân luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

Tổ chức hành nghề luật sư là các công ty thì mô hình hoạt động rõ nét

theo Luật Doanh nghiệp là hình thức công ty TNHH nên thường có cơ chế trả

lương cụ thể theo vị trí, kinh nghiệm, năng lực của luật sư thành viên, do đó,

43

khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật thì

giám đốc công ty luật TNHH hoặc công ty luật hợp danh sẽ là người đại diện

giải quyết và chịu trách nhiệm bồi thường vật chất cho khách hàng.

Đối với tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư do một luật sư

thành lập thì Trưởng văn phòng chịu trách nhiệm. Nếu văn phòng luật sư có

cộng sự hoặc ký hợp đồng hợp tác với các luật sư thành viên thì hợp đồng

cộng tác sẽ quy định về trách nhiệm của các luật sư khi vi phạm hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật. Văn phòng luật sư hoạt động theo mô hình doanh

nghiệp tư nhân thường hoạt động dưới ba hình thức sau:

Một là, các luật sư cộng sự cùng đóng góp kinh phí hoạt động, Trưởng

văn phòng là người đại diện ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, các luật sư

cộng sự tự khai thác công việc, tự hưởng phí thù lao dịch vụ và đóng một

khoản phí cố định để duy trì văn phòng luật sư ;

Hai là, văn phòng luật sư gồm các luật sư cộng sự và không đóng góp

một khoản phí cố định để duy trì văn phòng luật sư mà khi luật sư có khách

hàng thì văn phòng luật sư ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật để luật sư

thực hiện và luật sư sẽ trích phần trăm lệ phí dịch vụ cho văn phòng theo tỷ lệ

thỏa thuận;

Trong hai trường hợp này khi có sự vi phạm thì Trưởng văn phòng sẽ

ủy quyền cho chính luật sư đang thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật có tranh

chấp trực tiếp giải quyết với khách hàng và luật sư tự chịu trách nhiệm vật

chất đối với việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

Ba là, văn phòng luật sư do một luật sư thành lập là Trưởng văn phòng

và tuyển dụng các luật sư theo hợp đồng lao động trả lương. Trường hợp này

khi tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với

khách hàng thì Trưởng văn phòng luật sư sẽ chịu trách nhiệm giải quyết và

bồi thường thiệt hại (nếu có).

44

Thực tiễn từ hoạt động làm nghề của tác giả thì trong các trường hợp vi

phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng, mục đích của khách

hàng chỉ là yêu cầu hoàn trả lại phí dịch vụ khách hàng đã nộp khi ký hợp

đồng, rất ít trường hợp khách hàng yêu cầu bồi thường thiệt hại hay phạt vi

phạm. Vì lý do khách quan mà nội dung công việc không đạt như mong muốn

của khách hàng thì hai bên thống nhất sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong

quá trình đã thực hiện hợp đồng, tổ chức hành nghề luật sư mà cụ thể là luật

sư thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý hoàn trả lại một phần lệ phí dịch vụ thì

hai bên chấm dứt hợp đồng, không phát sinh tranh chấp, kiến nghị, khiếu

kiện.

Còn trong các trường hợp tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật dẫn đến việc khách hàng khởi kiện tại Tòa án yêu

cầu bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm hợp đồng thường do hai bên không

thỏa thuận, thương lượng được, khiến cho tranh chấp trở nên phức tạp, mất

thời gian. Việc này ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, danh dự của tổ chức

hành nghề luật sư và của chính bản thân luật sư đã thực hiện dịch vụ tư vấn

pháp luật.

Tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật thường là sự bất đồng

quan điểm giữa tổ chức hành nghề luật sư hay luật sư thực hiện với khách

hàng. Nó phát sinh từ thời điểm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đã được

giao kết và chưa được thanh lý. Như đã trình bày ở phần trên, luật sư mong

muốn khách hàng cung cấp tài liệu, thông tin một chính xác, đầy đủ và kịp

thời để đưa ra các giải pháp và thực hiện công việc một cách hiệu quả. Tuy

nhiên, việc không đáp ứng theo yêu cầu của luật sư mà khách hàng phải chịu

tổn thất đã dẫn đến tranh chấp. Khi thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật, tổ chức hành nghề luật sư mong muốn là thu được thù lao. Việc không

45

thanh toán đúng, đủ là một trong những nguyên nhân xảy ra tranh chấp giữa

luật sư với khách hàng.

Khi luật sư đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật nhưng khách hàng không thanh toán thù lao hoặc thanh

toán không đầy đủ thì tổ chức hành nghề luật sư hoàn toàn có quyền yêu cầu

khách hàng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết, nếu không thực hiện thì có thể

khởi kiện theo con đường tố tụng. Tuy nhiên, các tổ chức hành nghề luật sư

không mong muốn khởi kiện tại Tòa án vì mất thời gian và quan trọng hơn đó

là danh dự và uy tín. Khi khách hàng không thanh toán, thanh toán không đầy

đủ tiền thù lao cho luật sư thì hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chưa được

thanh lý.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, tổ chức

hành nghề luật sư mà trực tiếp là luật sư thực hiện công việc không đúng cam

kết dẫn đến xảy ra tranh chấp. Sự không thể cụ thể về chất lượng dịch vụ tư

vấn pháp luật là nguyên nhân khách hàng tranh chấp với tổ chức hành nghề

luật sư về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Khi thực hiện công việc theo

thỏa thuận, luật sư phải thật sự mẫn cán bằng lương tâm và trách nhiệm nghề

nghiệp của mình.

Tại Quy tắc 9.2 - Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt

Nam quy định có rất nhiều trường hợp luật sư được từ chối thực hiện vụ việc.

Việc từ chối không chỉ xuất phát từ việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật của khách hàng, mà còn có nhiều lý do khác như khách hàng không

chấp nhận ý kiến tư vấn đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội hoặc

cung cấp chứng cứ giả... Như vậy, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư là tương đối rộng và không chỉ giới hạn

với những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

46

Do các vụ việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật ít được công khai nên để có số liệu thống kê chính xác là điều

không dễ dàng. Ví dụ: Đoàn Luật sư Hải Phòng hiện có gần 100 tổ chức hành

nghề luật sư, bao gồm các văn phòng luật sư, công ty luật TNHH một thành

viên, tuy nhiên, tại báo cáo công tác khen thưởng, kỷ luật nhiệm kỳ 2014 -

2019 của Hội đồng khen thưởng kỷ luật Đoàn luật sư Hải Phòng chỉ có 2 vụ

việc liên quan đến việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật của tổ

chức hành nghề luật sư. Hai vụ việc khách hàng có đơn kiến nghị đến Hội

đồng khen thưởng kỷ luật về việc tổ chức hành nghề luật sư không thực hiện

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật và khách hàng yêu cầu được hoàn trả tiền

dịch vụ đã nộp và đề nghị thanh lý hợp đồng.

Trong hai vụ việc trên, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư là giám

đốc công ty luật TNHH một thành viên và Trưởng văn phòng luật sư đều là

người trực tiếp tham gia giải quyết. Trong một nhiệm kỳ đại hội của Đoàn

Luật sư 5 năm (2014 - 2019), việc tổ chức hành nghề luật sư vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật chỉ có 02 vụ là con số rất ít ỏi.

Số liệu trên không phải vì mong muốn sự vi phạm xảy ra nhiều, mà

thực tế chứng minh việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng

và vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung của tổ chức hành nghề luật sư

có thể không là con số thật. Do đó, để thấy được trách nhiệm của các tổ chức

hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là rất mờ

nhạt, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức để có những quy định cụ thể

là điều không khó chấp nhận.

2.2.2. Những vấn đề còn bất cập, tồn tại và nguyên nhân

Qua thực tiễn cho thấy, Luật Luật sư với những quy định thông thoáng,

mở rộng hơn về tổ chức hành nghề luật sư từ đó cung cấp các dịch vụ tư vấn

pháp luật phong phú đa dạng hơn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá

47

nhân đã đi vào đời sống một cách thiết thực và hữu ích. Bên cạnh những mặt

tích cực, những lợi ích mà khách hàng được hưởng từ việc ký kết hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật đối với tổ chức hành nghề luật sư thì cũng còn những

hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của tổ

chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đối với

khách hàng. Trong phạm vi đề tài của mình, tác giả chỉ nêu những bất cập,

tồn tại và nguyên nhân về thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về trách

nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp

đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.

Như đã phân tích trong các tiểu mục ở phần trên của luận văn, các quy

định của pháp luật về trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam

khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật còn rất hạn chế, thậm chí chưa

có quy định cụ thể, để xác định trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề

luật sư. Trong các trường hợp vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật đều

phải dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm dân sự khi giao kết

thực hiện hợp đồng dịch vụ. Vấn đề này trong thực tế xảy ra một số bất cập,

hạn chế như sau:

Thứ nhất, chưa có quy định về khái niệm dịch vụ tư vấn pháp luật và

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

Dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư được sử dụng ngày càng phổ biến,

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật được giao kết và thực hiện ngày càng

nhiều. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy

định cụ thể khái niệm và đặc điểm của dịch vụ tư vấn pháp luật và hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật. Vì vậy, việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ

tư vấn pháp luật không những phải tuân thủ Luật Luật sư, Quy tắc đạo đức và

ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, mà còn phải vận dụng các quy định

của các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Việc vận dụng nhiều

48

văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh một quan hệ xã hội dễ

dẫn tới những cách hiểu khác nhau thậm chí có thể là xung đột pháp luật.

Ở góc độ luật chuyên ngành, Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung

năm 2012 chỉ liệt kê dịch vụ pháp lý, quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý

chưa rõ ràng, còn chung chung, trừu tượng dẫn đến tình trạng chưa có căn cứ

chắc chắn để xác định phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư đối

với từng vi phạm, từng loại hình dịch vụ cụ thể. Khi có tranh chấp liên quan

đến thù lao và chi phí của luật sư thì lại được thực hiện theo pháp luật dân sự.

Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về dịch vụ pháp lý và hợp

đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật nói

riêng, cần phải bổ sung và hoàn thiện các quy định cụ thể và chi tiết trong

pháp luật về luật sư. Các quy định có tính chất chung chỉ nên quy định trong

Bộ luật Dân sự. Trong bộ luật này cần có những quy định chung có tính khái

quát cao, thể hiện rõ quyền tự do hợp đồng để bảo đảm tính ổn định của Bộ

luật Dân sự. Không nên đưa vào Bộ luật Dân sự các quy định về các loại hợp

đồng chuyên biệt đặc thù của các quan hệ xã hội khác nhau. Nếu có đưa một

loại hợp đồng nào đó vào trong Bộ luật Dân sự, thì không nên quy định ở văn

bản pháp luật khác nữa để tránh trùng lặp, chồng chéo.

Thứ hai, hạn chế và bất cập về hình thức hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật

Tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng khi giao kết hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật không chỉ tuân thủ các nguyên tắc của Luật Luật sư, mà

còn đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa thuận, bình đẳng, thiện chí hợp tác, trung

thực và ngay thẳng theo Bộ luật Dân sự và Luật thương mại. Xuất phát từ

nguyên tắc này nên hình thức hợp đồng cũng phải đa dạng dựa trên thỏa thuận

giữa các bên theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật thương mại.

49

Tại khoản 2 Điều 26 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm

2012 quy định về hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý phải lập thành văn bản.

Trong khi đó khoản 1 Điều 5 Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011

của Bộ Tư pháp quy định: “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng

dịch vụ pháp lý hoặc theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ pháp lý…”.

Điều này thể hiện sự bất cập vế tính không nhất quán trong cùng một hệ thống

pháp luật.

Để đề cao quyền tự thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp

với điều kiện hoàn cảnh và tính chất công việc nên hạn chế quy định cứng

nhắc hợp đồng bắt buộc phải ký kết dưới hình thức văn bản. Luật Luật sư cần

quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hướng thừa nhận các thông tin

các bên gửi cho nhau qua đường điện tín (telex, fax) và các hình thức thông

tin kỹ thuật số (thư điện tử email, zalo, viber..).

Việc quy định luật sư thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật theo hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật là cần thiết nhưng mọi trường hợp, hợp đồng dịch vụ

tư vấn pháp luật phải lập thành văn bản là không phù hợp. Bởi đối với những

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật có giá trị lớn, phức tạp, thời gian thực hiện

kéo dài thì việc giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật bằng văn bản là

phù hợp. Tuy nhiên, đối với những yêu cầu về dịch vụ tư vấn pháp luật có giá

trị nhỏ, thời gian thực hiện ngắn mà vẫn phải lập phiếu thỏa thuận hoặc ký

hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là không cần thiết, bởi khách hàng đến với

luật sư mong muốn dịch vụ được cung ứng nhanh gọn, hiệu quả. Rất nhiều

trường hợp khách hàng đến luật sư tư vấn chỉ mong nhận được câu trả lời

“được hay không được”, “đúng luật hay không” hay sau một thời gian tư vấn,

trao đổi luật sư mới quyết định mức thù lao là bao nhiêu, vì vậy, trong những

trường hợp này, việc lập và ký hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là không

cần thiết.

50

Thứ ba, hạn chế bất cập về tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp

luật

Do các văn bản pháp luật chưa có sự thống nhất, còn chồng chéo dẫn

đến tình trạng nhiều tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư, không

có chức năng tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật dẫn đến nhầm lẫn

cho khách hàng. Mặc dù, dịch vụ pháp lý tư vấn pháp luật và phạm vi hành

nghề của tổ chức hành nghề luật sư đã được quy định trong Luật Luật sư, tuy

nhiên trong các văn bản quy phạm pháp luật khác và trong thực tế vẫn có tổ

chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư vẫn có thể thực hiện những

công việc này, cụ thể: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố

tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính. Khi tham gia tố tụng, cá nhân, tổ chức

tham gia với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo; người bảo vệ quyền

và lợi ích cho đương sự; người đại diện theo ủy quyền.

Thực tế, đã và đang tồn tại hiện tượng các công ty TNHH, trung tâm

dịch vụ, văn phòng tư vấn, dịch vụ…. đua nhau mở dịch vụ tư vấn pháp luật,

thậm chí còn nhận thực hiện cả dịch vụ thủ tục pháp lý, tranh tụng… làm cho

khách hàng nhầm lẫn với các tổ chức hành nghề luật sư. Pháp luật quy định

các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, trung tâm dịch vụ, văn phòng tư

vấn.. chỉ được tham gia các dịch vụ hành chính như: đánh máy, soạn thảo văn

bản, dịch thuật, hướng dẫn các thủ tục liên quan đến hành chính chứ không

được phép tham gia tư vấn pháp luật cũng như tham gia tố tụng tại tòa án như

các tổ chức hành nghề luật sư.

Thứ tư, theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015 thì “người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người

thân thích của họ lựa chọn”. Để trở thành người bào chữa thì tổ chức hành

nghề luật sư và người bị buộc tội hoặc người đại diện hoặc người thân thích

của họ phải giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý.

51

Khi người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội là

người giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là trường hợp

giao kết và thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Người thứ ba là

người bị buộc tội, họ có quyền yêu cầu hoặc từ chối người bào chữa bất cứ

lúc nào. Khi người bị buộc tội từ chối người bào chữa mà luật sư mới làm thủ

tục để đăng ký người bào chữa thì tổ chức hành nghề luật sư phải vận dụng

quy định tại khoản 1 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015 “trường hợp người

thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ

thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng phải thông báo cho

bên có quyền và hợp đồng được coi là bị hủy bỏ, các bên phải hoàn trả cho

nhau những gì đã nhận”.

Tuy nhiên, cho rằng, hợp đồng bị hủy bỏ là không phù hợp vì để đi đến

giao kết hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, thì luật sư đã phải tư vấn, soạn

thảo hợp đồng, phải đi đến cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thủ tục đăng

ký bào chữa. Nếu tổ chức hành nghề luật sư phải chấp nhận như trường hợp

hủy bỏ hợp đồng và phải trả lại tất cả các khoản tiền đã nhận của khách hàng

theo hợp đồng là không hợp lý. Bởi vì, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư

thực hiện sẽ mất một khoản chi phí và thù lao mà mình đã bỏ ra để thực hiện

những việc nhất định.

Trường hợp luật sư đã được đăng ký bào chữa, đã thực hiện một số

công việc theo nghĩa vụ của mình nhưng người bị buộc tội từ chối luật sư, thì

mặc dù có mong muốn, nhưng luật sư cũng không thể tiến hành các công việc

của mình theo hợp đồng. Hợp đồng dịch vụ pháp lý không thể thực hiện, buộc

phải chấm dứt mà các bên đều không có lỗi, căn cứ theo quy định của pháp

luật tại khoản 2 Điều 416 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người thứ

ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ, thì

52

nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam

kết đối với bên có nghĩa vụ..”.

Như vậy, nếu theo quy định này, thì xem như luật sư đã hoàn thành

công việc của mình theo hợp đồng và người đại diện hoặc người thân thích

của người bị buộc tội phải thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng cho tổ chức

hành nghề luật sư. Đây là một quy định khó chấp nhận đối với bên sử dụng

dịch vụ tư vấn pháp luật nếu quá trình giải quyết tranh chấp áp dụng quy định

pháp luật này.

Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội

từ chối luật sư thì về nguyên tắc hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật sẽ được

chấm dứt, tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2015 thì “mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều

phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ

vụ án…”. Như vậy, nếu giữa tổ chức hành nghề luật sư và bên sử dụng dịch

vụ tư vấn pháp luật là người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc

tội đồng ý chấm dứt hợp đồng mà người bị buộc tội không đồng ý, thì luật sư

vẫn phải tiếp tục bào chữa. Quy định như vậy sẽ mâu thuẫn với một số Quy

tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, trong đó có Quy tắc 6.2:

“Luật sư tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng” nếu khách hàng không lựa

chọn mình nữa thì luật sư cũng phải tôn trọng.

53

Tiểu kết chương

Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật hiện

hành về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi

vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật là một trong những vấn đề trọng

tâm của luận văn. Tại Chương 2, tác giả đã làm rõ các quy định của pháp luật

về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm và hậu quả

pháp lý của việc vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật. Tác giả cũng nêu

thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của tổ chức hành

nghề luật sư vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật, những bất cập, tồn

tại và nguyên nhân. Đây sẽ là căn cứ thực tiễn để đề ra phương hướng và giải

pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề

luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật trong

chương tiếp theo.

54

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP

LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM KHI VI

PHẠM HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của

tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam trong thực hiện hợp đồng dịch vụ tư

vấn pháp luật

3.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật về luật sư và tổ chức hành nghề Luật

sư phải thể chế hoá đầy đủ những nội dung có liên quan của Chiến lược cải

cách tư pháp, cũng như những định hướng quan trọng của Đảng về cải cách

hành chính, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo Nghị quyết Đại hội

lần thứ XII của Đảng

Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 đã đề ra nhiệm vụ “đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có

phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo

đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định

rõ chế độ, trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để

phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư, đề cao trách nhiệm của tổ chức

luật sư đối với thành viên của mình”.

Từ định hướng của Đảng Nhà nước tại các văn kiện Quốc hội đã thể

chế hóa ban hành Luật Luật sư và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư tạo

hành lang pháp lý để hoạt động nghề luật sư được phát triển và hoạt động tuân

thủ pháp luật có hiệu quả. Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Luật sư

còn tồn tại nhiều bất cập, thiếu những quy định cụ thể rõ ràng do đó việc

không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động nghề luật sư là

nhiệm vụ đặt lên hàng đầu. Tiếp tục hướng dẫn thi hành và triển khai có hiệu

55

quả Luật Luật sư và các văn bản, quy định có liên quan tạo cơ sở pháp lý

đồng bộ, cụ thể nhằm tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề

nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư, của luật sư đặc biệt là việc tuân thủ

pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, đồng thời hoàn thiện cơ chế bảo đảm

để luật sư thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ. Song song tăng cường hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư. Cụ thể tăng cường

kiểm tra, thanh tra để nắm bắt tình hình, số lượng và hoạt động của các tổ

chức hành nghề luật sư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn và

xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhưng cũng biểu dương, khen thưởng

kịp thời đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư khi có những đóng

góp, gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực đạo đức luật sư, từ

đó, nâng cao trách nhiệm, vai trò của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư

trong xã hội cũng như trong hoạt động nghề nghiệp. Ngoài ra nâng cao vai trò

tự quản của tổ chức luật sư đặc biệt là của các tổ chức hành nghề luật sư bằng

việc ban hành các văn bản quy định về tổ chức, điều hành, quản lý và trách

nhiệm pháp lý cụ thể của các tổ chức hành nghề luật sư trong hoạt động hành

nghề. Cần có chế tài và biện pháp xử lý, cách thức giải quyết về trách nhiệm

của các tổ chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý đối

với khách hàng.

Trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, nghề luật

sư luôn nhận được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Nâng cao vị thế của

luật sư trong tố tụng là yếu tố góp phần làm cho hoạt động tố tụng trở nên

minh bạch hơn và giảm bớt những hạn chế, bất cập trong hoạt động tư pháp,

vì vậy, cần tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển

kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nghị quyết số

49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

Chỉ thị 33-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

56

với tổ chức và hoạt động của luật sư nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ luật

sư đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, nâng cao vị thế, vai trò, tính

chuyên nghiệp và tăng cường trách nhiệm xã hội của luật sư; Chiến lược phát

triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục nâng cao

chất lượng đội ngũ luật sư phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, đáp

ứng những yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập

quốc tế; lấy chất lượng cung cấp dịch vụ làm thước đo chất lượng luật sư. Đặc

biệt, cần nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trong mối tương quan với nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp. Chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa

nghề luật sư về quy mô, tổ chức, khả năng cung cấp dịch vụ… theo tiêu chí

chung về hoạt động của luật sư trong khu vực và thế giới; mở rộng phạm vi

hoạt động; thúc đẩy năng lực cạnh tranh của luật sư Việt Nam nhằm chiếm

lĩnh thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý trong nước, từng bước tham gia, giải

quyết những vụ việc pháp lý ở nước ngoài.

3.1.2. Tổng kết thực tiễn, rà soát những hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Luật sư, đặc biệt liên quan đến vấn đề hành nghề

và trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư trong khi giao kết

và thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật.

Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư cần tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động hành nghề của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, bảo

đảm để luật sư thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, góp phần bảo vệ

công lý theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho

việc kiện toàn, cơ cấu lại các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam phù hợp với

điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và thông lệ quốc tế về nghề

luật sư cũng như tính đặc thù, đồng bộ với các loại hình doanh nghiệp theo

quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014.

57

Sửa đổi các quy định của Luật Luật sư, tạo điều kiện thuận lợi nhưng

cũng phù hợp với thông lệ chung của các nước trong khu vực và trên thế giới

về hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt

Nam. Nghiên cứu, khảo sát, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xây dựng chính

sách phát triển tổ chức hành nghề luật sư phù hợp với nhu cầu của xã hội về

dịch vụ pháp lý, phát triển tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn hoạt động

chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế, có khả năng cạnh tranh với các

tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Thực hiện chính sách phát triển tổ chức

hành nghề luật sư bảo đảm đến năm 2020, phát triển được khoảng 30 tổ chức

hành nghề luật sư có quy mô từ 50 đến 100 luật sư và từ 100 luật sư trở lên

hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh thương mại có yếu tố

nước ngoài trong đó có khoảng 10 tổ chức hành nghề của Việt Nam có

thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới, có khả năng cạnh tranh với các

tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.

3.1.3. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hoạt

động nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường sự phối

hợp, tham vấn giữa Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương

Nghề luật sư là nghề độc lập, mang tính chất tự quản rất cao. Một mặt,

Nhà nước cần đảm bảo cho tính tự quản nghề nghiệp được phát huy cao độ,

mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của luật sư cũng cần phải có sự quản lý chặt

chẽ của Nhà nước, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức

nghề nghiệp luật sư. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả quản lý nhà nước

đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp của luật sư ở một số địa phương

chưa đảm bảo hiệu quả cao, còn để xảy ra nhiều sai phạm của luật sư cả về vi

phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và

thể chế hóa bằng pháp luật, theo đó phải phân biệt rõ việc quản lý nhà nước

với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản

58

lý những nội dung gì? và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý

những nội dung gì? Trách nhiệm kiểm tra, giám sát như thế nào? Quy trình xử

lý các sai phạm của luật sư, của Đoàn luật sư ra sao? Có như vậy, mới bảo

đảm hành lang pháp lý vững chắc để luật sư tuân thủ các quy định của pháp

luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư trong quá trình hoạt động nghề

nghiệp của mình, bảo đảm luật sư thượng tôn pháp luật, vì công lý, vì lợi ích

tốt nhất của khách hàng và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa.

Thực tiễn hoạt động của luật sư còn nhiều khó khăn, trở ngại, trong đó

có cả các trở ngại khách quan về cơ chế, về quản lý… Để đảm bảo cho hoạt

động nghề nghiệp của luật sư được đảm bảo hiệu quả, chuyên nghiệp và đạt

chất lượng cao thì cần thiết phải tăng cường sự phối hợp, trao đổi, tham vấn

giữa các cơ quan nhà nước với Đoàn luật sư. Cần có cơ chế để định kỳ hàng

quý Ban Nội chính và Sở Tư pháp chủ trì mời các cơ quan nhà nước có liên

quan và Đoàn luật sư cấp tỉnh để thực hiện việc trao đổi về công tác phối hợp,

thực thi pháp luật,… cũng như tham vấn các dự án, chính sách của địa

phương. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước; trách

nhiệm, vị trí, vai trò của Đoàn luật sư, góp phần tháo gỡ những khó khăn,

vướng mắc và tạo thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư và tổ chức

hành nghề luật sư.

3.1.4. Xây dựng hệ thống các tiêu chí và giá trị văn hóa nghề nghiệp

luật sư, đảm bảo cho các tổ chức hành nghề luật sư và mỗi luật sư hoạt động

có hiệu quả, phù hợp với chức năng xã hội của luật sư

Tổ chức hành nghề luật sư cần phải xây dựng cho mình các chuẩn mực

trong việc hành nghề luật sư, chuẩn mực này phải thống nhất, có tính truyền

bá tinh thần cộng đồng với niềm tin sâu sắc về lý tưởng của nghề luật sư, có

59

độ tin cậy cao về phẩm giá, về đạo đức nghề nghiệp và có một chuẩn mực

chung về ứng xử văn hóa.

Khi xây dựng quy chế hoạt động của tổ chức hành nghề hoặc trong hợp

đồng hợp tác giữa các luật sư, cần phải đưa thêm vào một số nội dung quy

định trong Luật Luật sư, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp và một số tiêu chí về

ứng xử văn hóa, đặc biệt là sự ràng buộc về trách nhiệm bảo đảm uy tín nghề

nghiệp, các điều cấm và trách nhiệm về tài sản đối với tổ chức hành nghề luật

sư khi xảy ra việc khách hàng khiếu nại mà tổ chức hành nghề luật sư đã phải

giải quyết với khách hàng (nếu có); ngoài ra còn phải quy định rõ về nghĩa vụ

mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư và việc đóng bảo hiểm xã hội

cho các thành viên của tổ chức hành nghề luật sư.

Để duy trì sự thực hiện thống nhất và xuyên suốt, tạo ra mặt bằng

chung của văn hóa nghề nghiệp thì người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư

phải gương mẫu trong việc tuân thủ các chuẩn mực do mình đề ra, vừa

nghiêm khắc trong kỷ luật hành nghề nhưng cũng phải có không khí sinh hoạt

dân chủ, những rủi ro mà những vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp

mang đến phải được hạn chế ở mức thấp nhất.

Bản thân luật sư và tổ chức hành nghề luật sư cần phải từng bước xây

dựng hệ thống đánh giá một cách công bằng về hiệu quả, chất lượng cung cấp

dịch vụ, có chế độ kiểm tra định kỳ, chấn chỉnh khuyết điểm, nâng cao mặt

tích cực và sáng tạo để củng cố uy tín của mình. Trên cơ sở sự phân công

trách nhiệm, quản trị tốt nguồn thu nhập và phân phối, thì cần có chính sách

phân phối hợp lý như là một đòn bẩy tích cực để kích thích lòng say mê nghề

nghiệp, ý thức tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cá nhân trong tổ chức; ngoài việc

khen thưởng về vật chất, thì phải có sự khuyến khích, động viên khen thưởng

về tinh thần như bình chọn điển hình tiêu biểu, giới thiệu ứng cử vào các tổ

chức dân cử…; trong việc quản trị tổ chức hành nghề luật sư cần phải ứng

60

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng chương trình đào tạo tại chỗ,

nâng cao trình độ ngoại ngữ, cử luật sư tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn

và dài hạn ở nước ngoài.

Ngoài ra, cần phải xây dựng và thiết lập các tiêu chuẩn để xét bình

chọn và tổ chức khen thưởng danh hiệu “luật sư, tổ chức hành nghề luật sư

tiêu biểu về văn hóa nghề nghiệp luật sư”; cần phải có sự thống nhất trong

trang phục của luật sư khi hành nghề; có các nguyên tắc và nội dung chung

khi giới thiệu, quảng cáo trên báo chí hoặc danh thiếp được coi như một công

cụ giao tiếp văn hóa; xây dựng cơ sở dữ liệu các văn bản tư vấn và bào chữa,

bảo vệ quyền lợi hợp pháp điển hình của các luật sư trong cả nước; các cơ

quan quản lý hành chính tư pháp, tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức hành

nghề luật sư cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật và xử lý vi

phạm pháp luật đối với Luật sư khi hành nghề luật sự, khi thực hiện các

quyền, nghĩa vụ được quy định trong pháp luật và trong Quy tắc đạo đức nghề

nghiệp luật sư.

3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hoàn thiện pháp

luật về trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi

vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về trách nhiệm của các

tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam

Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 chưa quy định cụ

thể, chi tiết về trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư ngoài quy định tại

khoản 5, khoản 6 Điều 40 về nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư là “bồi

thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng

trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý

khác. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình

theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” và quy định chung tại

61

Điều 90 về xử lý vi phạm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, chi nhánh

của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài tại Việt

Nam là: “Tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam... vi phạm quy định của

Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính theo

quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải

bồi thường theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, với khả năng hiểu biết và

trình độ nghiên cứu khoa học còn hạn hẹp, song tác giả vẫn xin mạnh dạn nêu

một vài giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của tổ

chức hành nghề luật sư Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung, thay thế một số quy định hiện hành về

trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam. Cần quy định chi tiết về

trách nhiệm pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư khi thực hiện hợp đồng

dịch vụ tư vấn pháp luật với khách hàng là thế nào và tương ứng có các chế

tài xử lý khi vi phạm;

Thứ hai, tuy tinh thần của hợp đồng là sự tự do thỏa thuận nhưng nên

chăng quy định mẫu hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật với những nội dung

cụ thể vì thường khi các tổ chức hành nghề luật sư soạn thảo hợp đồng dịch

vụ tư vấn pháp luật đã soạn sẵn về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ tư vấn

pháp luật. Việc này có thể dẫn đến bên cung ứng dịch vụ pháp lý sẽ làm giảm

những trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư nếu có vi phạm xảy ra;

Thứ ba, quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp

đồng trong Luật luật sư hoặc hướng dẫn cụ thể việc áp dụng Bộ luật Dân sự

phần vi phạm, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp đồng đối với các tổ

chức hành nghề luật sư khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ký kết

với khách hàng;

Thứ tư, nếu sự vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật của tổ chức

hành nghề luật sư đối với khách hàng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc

62

biệt nghiêm trọng thì không chỉ có biện pháp xử lý phạt vi phạm hành chính

mà có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với các pháp nhân trong Bộ luật hình sự hiện hành;

Thứ năm, quy định bắt buộc các tổ chức hành nghề luật sư phải mua

bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư chứ không chỉ dừng lại ở quy

định chung như hiện nay.

3.2.2. Củng cố, kiện toàn, xây dựng, nâng cao trình độ chuyên môn

của các luật sư Việt Nam

Giữa bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay thì việc

cải cách tư pháp là một yêu cầu cần thiết tuy nhiên chất lượng đội ngũ luật sư

chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Thứ nhất là do hệ thống pháp luật thiếu sự

đồng bộ, không rõ ràng, chưa đầy đủ; Thứ hai là trong các lĩnh vực về đầu tư,

kinh doanh, thương mại như tài chính ngân hàng, sở hữu trí tuệ, bảo hiểm,

hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp mại quốc tế… thì còn

thiếu luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực này. Trên thực tế ở Việt Nam hiện

nay, các luật sư tham gia rất ít vào việc giải quyết các vụ kiện có liên quan

đến yếu tố nước ngoài. Phần lớn họ chỉ tham gia bào chữa tại các phiên tòa xử

các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và các quan hệ khác ở trong nước.

Do vậy việc tham gia giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài đối với

các luật sư Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Do đó cần củng cố, kiện toàn,

xây dựng, nâng cao trình độ chuyên môn của các luật sư Việt Nam cụ thể như

sau:

Thứ nhất, xây dựng, ban hành các đề án về phát triển số lượng luật sư

theo vùng miền, lĩnh vực pháp luật; tuyên truyền, phổ biến nâng cao vị trí, vai

trò của luật sư; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và

chất lượng hoạt động hành nghề luật sư trong tham gia tố tụng, tư vấn pháp

luật. Tổ chức đào tạo đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế tại

63

Trung tâm liên kết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu

tăng số lượng luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp quốc

tế từ 50 người (năm 2015) lên khoảng 150 người vào năm 2020.

Đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung có tính chất

kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp thêm những kiến thức như: thương

mại, tư pháp quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các vụ tranh chấp và những vấn

đề liên quan đến yếu tố nước ngoài… Hiện nay chúng ta có nhiều văn phòng

luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam, thông qua

hợp tác và thực tập tại các văn phòng này, các luật sư Việt Nam sẽ có điều

kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ việc giải quyết tranh chấp

thương mại có yếu tố nước ngoài. Tiếp tục thực hiện bồi dưỡng bắt buộc, thực

hiện bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề

luật sư và đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư, bảo đảm đến năm 2020, 100%

số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên. Nâng cao chất lượng đội ngũ

luật sư, thu hút nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề luật sư, tạo nguồn để

bổ sung nhân lực cho các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà nước

từ đội ngũ luật sư

Thứ hai, Luật sư cần chuyên môn hóa lĩnh vực hoạt động của mình.

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì một làn sóng thương mại và đầu tư tràn

vào nước ta một cách mạnh mẽ dẫn đến việc các tranh chấp liên quan đến

thương mại và đầu tư cũng xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp. Do đó các

doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có ý

thức “phòng bệnh” để hạn chế rủi ro bằng cách thông qua các luật sư. Điều

này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hóa hoạt động của mình.

Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, không phải một người hành

nghề luật sư giỏi là nhất thiết phải am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, bởi

trong thực tế các vụ án hình sự và phi hình sự xuất hiện rất đa dạng, ở mọi

64

lĩnh vực của đời sống do vậy một luật sư giỏi và có trách nhiệm với nghề thì

cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Chúng ta

không thể tách rời khỏi xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới bởi

Luật sư của các nước nào dù theo hệ thống Common Law hay hệ thống Civil

Law đều chuyên môn hóa khi hành nghề theo một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước

đó, chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”,“luật sư về

thừa kế”,“ luật sư về hôn nhân và gia đình”,“luật sư về ngân hàng”,“luật sư về

chứng khoán”,“luật sư về bảo hiểm”,“luật sư về bất động sản”, thậm chí có “

luật sư về bồi thường thiệt hại”,“luật sư chuyên về tai nạn giao thông”…

Khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng

mang quốc tịch Việt Nam mà còn là khách hàng mang quốc tịch của nhiều

quốc gia khác.

Vì vậy, các luật sư cần chủ động hơn trong việc tự tạo ra mọi điều kiện

hành nghề cần thiết cho bản thân mình để hướng tới việc mở rộng khách hàng

và phục vụ tất cả mọi đối tượng khách hàng dù là khách hàng trong nước hay

ngoài nước, là tổ chức hay cá nhân. Họ phải luôn luôn cập nhật kiến thức

pháp luật mới nếu muốn có nhiều cơ hội tham gia các phiên tranh tụng tại tòa

đối với các vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài hay các vụ án xét xử tại

nước ngoài. Để làm được điều đó thì trước tiên họ phải xác định được mình

muốn chuyên sâu hành nghề về lĩnh vực gì, sau đó phải tìm hiểu, cập nhật các

văn bản, kiến thức pháp luật về lĩnh vực đó nhất là pháp luật của quốc tế,

ngoài ra họ cũng cần nâng cao các kiến thức về ngoại ngữ và tin học. Chính

quá trình hội nhập là nguyên nhân thúc đẩy các Luật sư trẻ của nước ta luôn

luôn không ngừng học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ

năng khác như tin học, ngoài ngữ nếu họ muốn rèn luyện bản lĩnh của mình,

có sự tự tin khi hành nghề để tham gia tranh tụng tại bất cứ phiên tòa nào, tại

bất cứ đâu dù ở Việt Nam hay nước ngoài. Có thể nói một Luật sư giỏi phải là

65

một luật sư khi tham gia các vụ tranh tụng quốc tế phải có khả năng ngoại ngữ

lưu loát và phải hiểu được các quy định pháp luật chung của quốc tế cũng như

của các nước liên quan có chủ thể tham gia tố tụng. Ở nước ta hiện nay, việc

các luật sư sử dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ tin học khi tác nghiệp

và hành nghề không còn là hình ảnh xa lạ với mọi người. Do vậy, trước khi

tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên tòa, các luật sư

cần nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi

hình sự và việc đầu tiên mà họ phải làm chính là bổ sung, cập nhật và hoàn

thiện kiến thức chuyên môn của mình, nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học

[54].

Thứ ba, Luật sư phải giỏi trong kỹ năng giao tiếp để có thể thuận lợi

hơn khi làm việc với khách hàng trong quá trình bào chữa hay bảo vệ quyền

lợi hợp pháp của họ. Do vậy, khi giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách

hàng thì các văn phòng luật sư cần phải có sẵn các mẫu văn bản, giấy tờ đơn

giản, chính xác, rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp nhưng không thể quá nặng

tính hành hành chính, điều này sẽ giúp cho việc giao kết với khách hàng

nhanh chóng và thuận tiện hơn. Ngoài ra, trước khi ký hợp đồng thì khách

hàng cũng cần được biết về tiến trình tố tụng để giải quyết vụ việc của mình,

danh sách các luật sư được chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực cụ thể cùng

với bảng tính mức thù lao của họ, tất cả những nội dung này cần phải được

công khai tới khách hàng.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ việc thì luật sư và khách hàng phải

luôn hợp tác với nhau và coi nhau như những người cộng sự cùng nỗ lực để

giải quyết vấn đề chung. Có thể nói đây là cái nhìn mới về mối quan hệ giữa

luật sư với khách hàng hiện nay. Việc khách hàng “bán cái” toàn bộ vụ việc

cho Luật sư khi thuê Luật sư trợ giúp pháp lý cho mình đã không còn phù hợp

với tình hình thực tế. Và Luật sư cũng cần phải nhận thức được rằng mối quan

66

hệ giữa mình và khách hàng là mối quan hệ hợp tác, hai bên thống nhất để đạt

được mục đích chứ không phải là mối quan hệ một chiều khi cho rằng khách

hàng “nhờ vả” và luật sự có quyền quyết định mọi thứ liên quan đến vụ việc.

Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ việc luật sư phải luôn luôn trao đổi

thông tin thường xuyên đối với khách hàng về tình hình công việc mình đang

làm, nhất là bản chất của vụ việc đang giải quyết một cách rõ ràng nhất, trung

thực nhất và khách quan nhất.

Các luật sư cũng phải nhận thức rõ về vấn đề quyền con người khi tham

gia các vụ tranh tụng, quyền con người cần phải được tôn trọng một cách cao

nhất dù thân chủ của mình là bị cáo, người bị hại hay là đương sự. Vì vậy, khi

tham gia tranh tụng trong bất cứ vụ án hình sự nào thì người luật sư cần phải

giữ cho mình một cái đầu tỉnh táo, không nên quá coi trọng vào kết quả điều

tra, cáo trạng của các cơ quan Tư pháp mà phải có tư duy của mình, đặt lợi

ích của thân chủ lên trên hết, đưa ra các phương hướng giải quyết vụ việc trên

cơ sở luật định với mục đích phải bảo vệ thân chủ cho dù trước đó đã có

những chứng cớ buộc tội bất lợi cho thân chủ.

Còn trong tố tụng phi hình sự, có thể nhận thấy rằng hiện nay các vụ án

đều có xu hướng thiên về việc hòa giải hơn là đưa ra xét xử trước Tòa án. Khi

tham gia vào các vụ việc tranh tụng phi hình sự, luật sư phải hiểu rõ bản chất

của vụ việc, biết được yêu cầu chính xác của thân chủ là gì để có thể bảo vệ

lợi ích tối đa cho thân chủ. Luật sư phải có những đánh giá khách quan về vụ

việc và chỉ rõ cho thân chủ thấy những thuận lợi và không thuận lợi của vụ

việc. Qua đó có thể hướng thân chủ đến việc hòa giải nếu thân chủ cũng mong

muốn điều đó, hoặc thân chủ không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ

bất lợi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật.

Có thể nói, hiện nay trên thế giới việc nhận định một xã hội có nền tư

pháp công bằng, dân chủ, văn minh không phải là việc xã hội đó có nhiều vụ

67

án được giải quyết một cách thấu tính, đạt lý hay không mà là việc xã hội đó

ít có các vụ việc tranh chấp, mà nếu có tranh chấp thì trước tiên giải quyết các

vụ việc tranh chấp đó bằng phương pháp hòa giải có lợi cho các bên chứ

không phải có suy nghĩ chỉ có ra tòa mới bảo vệ được quyền lợi của mình.

Đây cũng là xu hướng chung hiện nay mà giới luật sư của các nước trên thế

giới đang coi trọng và áp dụng.

Thứ tư, Luật sư phải tham gia, tham dự các phiên tòa nhiều hơn để có

thể rút ra các kinh nghiệm cho mình. Trước khi tham gia tranh tụng bất cứ vụ

việc nào thì người luật sư cần phải lập sẵn cho mình kế hoạch xét hỏi, dự

đoán các vấn đề tranh tụng công khai tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu hồ

sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ của luật sư. Để

thực hiện tốt được điều này, các luật sư cần phải giành thời gian luyện tập tự

hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân

chủ. Để có thể tự tin đứng trước tòa thì luật sư cần phải thực hiện tốt các vấn

đề như về kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên

tòa, đặc biệt là cần chú trọng đến kỹ năng tranh luận công khai tại phiên tòa

của mình. Do vậy, bài bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng “mở” có

thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên tòa chứ không nên theo

cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước

Hội đồng xét xử [54]

3.2.3. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư

Nghề luật sư vốn là một nghề tự do, tổ chức hành nghề luật sư lại

không phải là thành viên của Đoàn luật sư, do đó, để tổ chức hành nghề luật

sư hoạt động có hiệu quả, tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm pháp lý khi

vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, cần phải đẩy mạnh công

tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động của các tổ chức hành

68

nghề luật sư. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, Sở tư pháp là cơ quan quản

lý về nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với Đoàn luật sư để tăng cường việc

giám sát đối với các tổ chức hành nghề luật sư. Hiện nay, Sở tư pháp căn cứ

quy định pháp luật thường xuyên yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư báo

cáo định kỳ theo quý và báo cáo cả năm. Tại các báo cáo Sở tư pháp mới yêu

cầu các tổ chức hành nghề luật sư báo cáo về số lượng luật sư trong tổ chức

hành nghề luật sư, số vụ việc, số chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức

hành nghề luật sư và tổng thu nhập dự kiến. Ngoài ra, theo định kỳ, Sở tư

pháp phối hợp cùng cơ quan thuế, Sở lao động thương binh xã hội kiểm tra

luân phiên các tổ chức hành nghề luật sư về công tác chấp hành pháp luật của

các tổ chức hành nghề luật sư trong lĩnh vực thuế, sử dụng lao động, công tác

quản lý hành chính của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc kiểm tra của các

cơ quan ban ngành phần nào yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư phải chấp

hành đúng quy định pháp luật nhưng về cơ bản do chưa có những quy phạm

pháp luật cụ thể, riêng biệt đối với lĩnh vực hành nghề luật sư nói chung và

với tổ chức hành nghề luật sư, luật sư nói riêng nên chủ yếu nếu có sai phạm

trong quản lý hành chính, vi phạm nghề nghiệp chủ yếu vẫn là biện pháp phạt

vi phạm hành chính. Do đó, để đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm

tra việc thực hiện hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, pháp luật cần

có những quy định cụ thể trong lĩnh vực này. Đoàn luật sư cần phát huy vai

trò của Hội đồng khen thưởng kỷ luật trong việc giám sát vi phạm của các tổ

chức hành nghề luật sư thông qua đơn thư khiếu nại của khách hàng và đề

xuất biện pháp xử lý. Liên đoàn luật sư Việt Nam phải thường xuyên yêu cầu

các Đoàn luật sư báo cáo về tình hình hoạt động, thành tích cũng như sai

phạm của các tổ chức hành nghề luật sư để có sự khen thưởng kịp thời nhưng

cũng có biện pháp xử lý ngay khi có vi phạm. Sở tư pháp cần phối hợp cùng

Đoàn luật sư kiểm tra, giám sát việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ

69

pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư với khách hàng. Trên thực tế điều

này cũng rất khó thực hiện vì không phải tổ chức hành nghề luật sư nào cũng

sẵn sàng phối hợp và vì một lý do rất đặc trưng của nghề luật sư là giữ bí mật

thông tin khách hàng nên không phải bất cứ hợp đồng dịch vụ pháp lý nào tổ

chức hành nghề luật sư cũng có thể công khai, cung cấp cho đoàn kiểm tra,

giám sát. Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý tổ chức

hành nghề luật sư chỉ thật sự hiệu quả khi có văn bản quy phạm pháp luật cụ

thể đồng thời có sự tự giác, chấp hành tuân thủ pháp luật và phối hợp của các

tổ chức hành nghề luật sư.

3.2.4. Thường xuyên quán triệt, học tập và giáo dục đạo đức nghề

nghiệp cho luật sư, tổ chức hành nghề luật sư

Luật sư là một nghề đặc thù, do vậy cần đòi hỏi sự trong sáng về đạo

đức nghề nghiệp. Để nâng cao được uy tín và vị thế của mình trong xã hội thì

những người hành nghề luật sư phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành

nghề bắt buộc. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có những quy định

chung này mà mỗi đoàn luật sư đều tự ban hành các quy tắc riêng và áp dụng

chúng với các thành viên của mình. Điều này cho thấy cần thiết phải có một

bộ quy tắc hành nghề luật sư chung nhất để đưa ra chuẩn mực điều chỉnh hoạt

động đối với giới luật sư Việt Nam.

Theo tác giả, có thể đưa ra những nguyên tắc chung như sau: Trong đạo

đức hành nghề, luật sư phải trung thành với khách hàng, không tiết lộ thông

tin khách hàng cho bất cứ ai, bất cứ cơ quan nào; không đồng lõa và giúp

khách hàng làm những việc sai trái. Liên quan đến việc tiếp nhận vụ việc từ

khách hàng, luật sư phải tuân theo các quy tắc: Không mâu thuẫn quyền lợi

(không đại diện cho hai khách hàng trong cùng một vụ việc có quyền lợi đối

lập). Luật sư phải từ chối các vụ việc không thuộc lĩnh vực chuyên môn của

mình và nên chủ động giúp cho khách hàng tìm kiếm các luật sư có lĩnh vực

70

chuyên môn phù hợp. Luật sư cũng không nên buôn bán cổ phiếu, không làm

ăn chung với khách hàng…

Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, các tổ chức

hành nghề luật sư cần chú trọng thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính

trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh, kết hợp với học tập Quy tắc Đạo đức và ứng xử

nghề nghiệp luật sư; tiếp tục triển khai việc quán triệt và thực hiện các văn

kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI.

Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kiến thức pháp luật,

kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, bồi dưỡng giáo dục

chính trị, tư tưởng thường xuyên trong nội bộ của các Đoàn luật sư, các tổ

chức hành nghề luật sư đối với các luật sư thành viên. Chú trọng công tác

hướng dẫn bồi dưỡng, giám sát tập sự hành nghề luật sư, quản lý chặt chẽ chất

lượng tập sự hành nghề nhằm tăng cường chất lượng đầu vào của đội ngũ luật

sư; đào tạo kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư...

71

Tiểu kết chương

Việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành

nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam

hiện nay không chỉ giới hạn trong việc hoàn thiện các quy định về trách

nhiệm pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình giao kết,

thực hiện các hợp đồng dịch vụ pháp lý, mà rộng hơn, nó liên quan và nằm

trong Chiến lược tổng thể phát triển nghề luật sư trong điều kiện Nhà nước

pháp quyền, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người và

quyền công dân, phát kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ở Chương 3 của luận văn, tác giả đã đề xuất định hướng và giải pháp

trên cơ sở tổng thể này, trong đó, về mặt định hướng, việc hoàn thiện pháp

luật về luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư phải thể chế hoá đầy đủ những

nội dung có liên quan của Chiến lược cải cách tư pháp, cũng như những định

hướng quan trọng của Đảng về cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng; tổng kết thực

tiễn, rà soát những hạn chế, bất cập để sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Luật sư, đặc biệt liên quan đến vấn đề hành nghề và trách nhiệm pháp lý của

các tổ chức hành nghề luật sư trong khi giao kết và thực hiện dịch vụ pháp lý;

tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp

của các tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường sự phối hợp, tham vấn giữa

Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương; xây dựng hệ thống các

tiêu chí và giá trị văn hóa nghề nghiệp luật sư, đảm bảo cho các tổ chức hành

nghề luật sư và mỗi luật sư hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chức năng xã

hội của luật sư.

72

KẾT LUẬN

Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài

những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì người luật sư còn phải

tuân thủ theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Cùng với các cơ quan bảo vệ pháp

luật và các chức danh tư pháp khác cùng làm nghề luật, luật sư đóng vai trò

quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát

triển xã hội. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, hoạt động luật sư trở thành một nghề không thể thiếu được trong xã

hội. Vì lẽ đó, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm và tạo điều kiện để phát triển

hoạt động luật sư bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ

sở quy định của Hiến pháp. Nghề luật sư ở Việt Nam đang từng ngày đạt

được những bước phát triển đáng ghi nhận, vai trò của nghề luật sư trong xã

hội ngày một được nâng cao, chất lượng, uy tín của luật sư ngày một lớn hơn,

hoạt động hành nghề của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ngày càng

phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Chính vì thế, trách nhiệm pháp lý

của luật sư, của các tổ chức hành nghề luật sư ngày càng được chú trọng và

được quy định rõ ràng bằng các quy định pháp luật cụ thể. Do đó, pháp luật

về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam cũng

mang tính cấp thiết và khá mới trong đời sống xã hội. Là luật sư và hiện cũng

đang hành nghề luật sư tại Văn phòng luật sư nên đây là trăn trở và cũng là

những băn khoăn của học viên trước vấn đề nêu trên.

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong

làm nghề để tìm ra những nguyên nhân của tồn tại các bất cập, từ đó đề xuất

giải pháp nhằm khắc phục để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của

các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam khi vi phạm hợp đồng dịch vụ tư vấn

pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Quỳnh Anh (2006), Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật

sư, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sỹ, Hà Nội;

2. Nguyễn Mai Anh (2015), Hợp đồng tư vấn pháp lý ở Việt Nam, Luận

văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội;

3. Ban chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết của Bộ chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

Bộ Tư pháp (2007), Hướng dẫn thi hành Luật luật sư, Hà Nội; 4.

Bộ Tư pháp (2011), số chuyên đề về pháp luật về luật sư, Tạp chí dân 5.

chủ và pháp luật, Hà Nội;

6. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011

hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định

hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội -

nghề nghiệp của luật sư, Hà Nội;

7. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Luật sư, Hà

Nội;

8. Bộ Tư pháp (2015), Quyết định số 1573/2015/QĐ-BTP ngày 28/8/2015

về việc phê duyệt Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hà Nội;

9. Bộ Tư pháp (2019), Thông tư số 02/2019/TT-BTP ngày 15/03/2019 quy

định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ

của luật sư, Hà Nội;

10. Nguyễn Văn Bốn, Quản lý nhà nước về dịch vụ tư vấn pháp luật tại

Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Bộ Tư pháp;

11. Chính phủ (2008), Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ

trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Hà Nội;

74

12. Chính phủ (2008), Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 về tư

vấn pháp luật, Hà Nội;

13. Chính phủ (2012), Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 sửa

đổi nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư,

tư vấn pháp luật, Hà Nội;

14. Chính phủ (2013), Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Hà Nội;

15. Chính phủ (2013), Báo cáo về một số hoạt động bổ trợ tư pháp (luật

sư, giám định tư pháp) năm 2013, Hà Nội;

16. Chính phủ (2013), Nghị định 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Hà Nội;

17. Chủ tịch (1945), Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính

phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội;

18. Đoàn Văn Duy (1996), Tổ chức luật sư ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ,

Hà Nội;

19. Đoàn Luật sư Hải Phòng (2018), Báo cáo công tác khen thưởng kỷ luật

nhiệm kỳ 2014-2018 , Hải Phòng;

20. Hoàng Huy Được (2012), Một số suy nghĩ về việc nâng cao chất lượng

luật sư, tính chuyên nghiệp của luật sư trong tiến trình cải cách tư

pháp tại Việt Nam, Tham luận hội thảo đóng góp ý kiến về dự án sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Hà Nội;

21. Trần Thị Bích Hạnh (2015), Pháp luật về dịch vụ luật sư Việt Nam hiện

nay, Hà Nội;

22. Hoàng Phước Hiệp, Một số vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý trước yêu

cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tư pháp;

75

23. Phan Trung Hoài, Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật

sư trong điều kiện mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003;

24. Phan Trung Hoài (2002), Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư,

Tạp chí Khoa học pháp luật số (07), Thành phố Hồ Chí Minh;

25. Đinh Thái Hoàng (2018), Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp

lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa

học Xã hội, Hà Nội;

26. Đặng Kim Hoa, Kiến nghị mô hình cung cấp dịch vụ pháp lý tại Việt

Nam, Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ tư pháp;

27. Dương Đình Khuyến (2001), Vấn đề xã hội hóa hoạt động luật sư và tư

vấn pháp luật, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;

28. Nguyễn Tiến Lập, Một số vấn đề về dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt

Nam, Công ty Tư vấn Investconsult Group;

29. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2011), Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề

nghiệp luật sư Việt Nam, Hà Nội;

30. Nguyễn Anh Minh (2009) Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt

Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;

31. Nguyễn Thị Minh, Vị trí, vai trò và nhu cầu của dịch vụ pháp lý trong

nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, Bộ Tư pháp;

32. Lê Bình Phương (2017), Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành

nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh,

Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội;

33. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội;

34. Quốc hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội;

35. Quốc hội (2012), Luật Luật sư sửa đổi, Hà Nội;

76

36. Nguyễn Văn Thảo (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở

Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội;

37. Nguyễn Hoàn Thành, Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,

thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển, Công ty Phạm và Liên

danh;

38. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định phê duyệt chiến lược phát

triển nghề luật sư đến năm 2020, Hà Nội;

39. Phan Hữu Thư, chủ biên (2001), Kỹ năng hành nghề luật sư, tập I, Nhà

xuất bản công an nhân dân, Hà Nội;

40. Phan Hữu Thư, chủ biên (2002), Kỹ năng hành nghề luật sư, tập III,

Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội;

41. Vương Thủy Tiên, Dịch vụ pháp lý tại một số nước, Bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam, Đoàn Luật sư Hà Nội;

42. Nguyễn Văn Tuân (2005), Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu

cầu và định hướng phát triển, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp, Hà

Nội;

43. Nguyễn Văn Tuân, Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp -

Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển, Bộ Tư pháp;

44. Phạm Văn Tuấn, Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý - Thực trạng,

nhu cầu và định hướng phát triển, Bộ tư pháp;

45. Nguyễn Hà Trang (2011), Hình thức hành nghề luật sư. Số chuyên đề:

pháp luật về luật sư, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tr.80-81, Hà Nội;

46. Hoàng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Luận

án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội;

77

TÀI LIỆU TRÊN INTERNET

47. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=2172

48. http://www.luat.tuvantinhoc.com/index.php/11/2015/nhung-dac-diem-

co-ban-cua-nghe-luat-su/

49. https://www.luatvietphong.vn/hinh-thuc-to-chuc-hanh-nghe-luat-su-o-

viet-nam-thuc-trang-va-mot-so-de-xuat-kien-nghi-n9647.html

50. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=2067

51. https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/linh-vuc-

khac/trach-nhiem-phap-ly-la-gi-123776

52.

53.

https://snv.quangbinh.gov.vn/3cms/vi-pham-phap-luat-va-trach-nhiem- phap-ly.htm http://lsvn.vn/luat-su-va-cong-dong/kinh-nghiem-thuc-tien/bai-hoc- cho-luat-su-khi-ky-hop-dong-dich-vu-phap-ly-23269.html http://www.lawvietnam.com.vn/NewsDetail.aspx?nid=336

54.

78