VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN

NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN

NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VÕ THỊ KIM OANH

Hà Nội, năm 2019

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA

HÌNH SỰ SƠ THẨM ................................................................................................ 6

1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 6

1.1.1. Khái niệm về tranh tụng.

1.1.2. Khái Khái niệm về phiên tòa hình sự sơ thẩm

1.1.3. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòahình sự sơ thẩm

1.2.1.Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm

1.3. Cơ sở của việc quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ................ 13

1.2.2.Ý nghĩa tranh tụng phiên tòa hình sự sơ thẩm

1.4. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển quy định về tranh tụng tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm từ trước năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003 ....................................................................................................................... 14

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP

DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH

PHƯỚC .................................................................................................................... 21

2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm ...................................................................................................... 21

2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Bình

Long, tỉnh Bình Phước ........................................................................................... 33

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG TẠI

PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM....................................................................... 48

3.1. Nhu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ........... 48

3.2. Một số giải pháp cụ thể .................................................................................. 51

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Theo nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới”, chủ trương đề cao vai trò tranh tụng tại phiên tòa nói chung và tranh

luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, tiếp

tục đề cập tới nội dung này và một lần nữa lại khẳng định: “Nâng cao chất lượng

tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư

pháp”.

Việc tranh tụng tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo cho đại diện Viện

kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho bị hại, bị hại và những người tham gia tố tụng khác được phân tích, đánh giá

chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với pháp

luật., qua đó giúp cho Hội đồng xét xử có những định hướng, nhận định khách

quan, toàn diện về toàn bộ vụ án, giúp cho việc tranh tụng đi đúng trọng tâm, nghị

án và tuyên án một cách khách quan, chính xác và đầy đủ.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thời gian qua đã cho thấy về mặt lý luận cũng

như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các quy định về trình tự tranh tụng tại phiên

tòa sơ thẩm vụ án hình sự còn một số bất cập, hạn chế như: Đối với vụ án mà bị cáo

có người đại diện hợp pháp thì chưa quy định người đại diện hợp pháp của bị cáo

trình bày bào chữa cho bị cáo và đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại

lẽ ra người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, bị hại hoặc người đại diện

hợp pháp của họ sẽ trình bày buộc tội đối với bị cáo trước khi người bào chữa bào

chữa cho bị cáo hoặc trước khi bị cáo trình bày bào chữa cho mình (nếu không có

người bào chữa) thì mới phù hợp với chức năng của bên buộc tội và bên bào chữa

trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, tranh tụng chưa phát huy đúng mức, nhiều vụ án

chưa phát huy hết khả năng tranh luận của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên

1

tòa; một số Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa chưa xem trọng quá trình tranh tụng tại

phiên tòa, chưa tạo điều kiện cho các bên tham gia tranh luận và đối đáp một cách

tích cực, thường khống chế thời gian tranh luận; trình độ chuyên môn và kỹ năng

một số kiểm sát viên còn hạn chế, chưa am hiểu nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng

với nhiệm vụ được giao; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác hoặc

người đại diện hợp pháp của họ phần lớn rất hạn chế về hiểu biết pháp luật và

không có kỹ năng tranh luận…

Để khắc phục những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng

hình sự và trong thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm, giúp cho Hội đồng xét xử có những định hướng, nhận định khách quan,

toàn diện về toàn bộ vụ án, để từ đó đưa ra những nhận định và phán quyết đúng

đắn về vụ án, phát huy tính dân chủ, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con

người mà Hiến pháp đã ghi nhận, góp phần tích cực trong công cuộc cải cách tư

pháp của Đảng và Nhà nước đang đặt ra. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tranh

tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn

Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” làm đề tài luận văn Thạc sĩ

Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong quá trình nghiên cứu thấy rằng trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ

thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề đã có nhiều bài viết, công trình

nghiên cứu ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh với phạm vi khác nhau. Chẳng hạn như:

- Luận văn Thạc sĩ “Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt

Nam - Những lý luận và thực tiễn” của tác giả Ngô Huyền Nhung (năm 2012);

- Luận văn Thạc sĩ “Thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Luật

tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Văn

Chung (năm 2015).

Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có liên

quan đến tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như: “Một số vấn đề tranh tụng

trong tố tụng hình sự” của Lê Tiến Châu (Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm

2003); “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và

2

phương hướng hoàn thiện” của tác giả Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh toà hình sự,

TANDTC (năm 2011);

Hầu hết các công trình đó là những công trình nghiên cứu cơ bản và trực

diện về tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;

về xét xử sơ thẩm và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm trong vụ án hình sự nói chung;

còn về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân

thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước thì chưa được khoa học pháp lý Việt Nam quan

tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về người tiến hành tố tụng và người

tham gia tố tụng trong vụ án hình sự mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai trò của

những chủ thể này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về những đổi mới

trong việc tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; những đổi mới về tổ chức

phiên tòa sơ thẩm và thủ tục xét xử sơ thẩm mang tính chất chung chung mà chưa

được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn trong một

công trình khoa học độc lập; chưa đánh giá một cách toàn diện về trình tự tranh

tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Như

vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên

cứu đề tài Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước” là đòi hỏi

khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

- Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm đánh giá một cách có hệ thống và toàn

diện về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, chức năng và vai trò của các chủ thể cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến chất

lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

So sánh, đối chiếu giữa Bộ luật Tố tụng năm 2003 với Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2015 để tìm ra những quy định còn bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những đề

xuất, kiến nghị những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định của

3

pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt

Nam. Đồng thời, đánh giá thực trạng qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại một số Tòa

án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh, từ đó có những kiến nghị cụ thể để việc áp dụng

pháp luật về Tố tụng hình sự, nhất là về trình tự tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ

thẩm, để xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia

tranh tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, nhằm đảm bảo cho Hội đồng xử xác

định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những

chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để có những nhận định và quyết định

chính xác hơn, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan người

không phạm tội hoặc bỏ lọt người phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

- Đối tượng nghiên cứu đề tài

Các quy định của pháp luật về trình tự tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo

Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, khảo sát các phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án

nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

- Phạm vi nghiên cứu đề tài

Trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật học thuộc chuyên ngành

Luật hình sự và Tố tụng hình sự, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề

chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến trình tự tranh tụng tại phiên tòa

sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nhất là về thực tiễn áp dụng pháp luật

về trình tự tranh tụng, thực trạng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm tại

Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

5. Cơ sở lý luận vàPhương pháp nghiên cứu đề tài

Phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ những nội dung trong đề tài: Phần

mở đầu và Chương 1, được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng mác-xít; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối

chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa

học luật hình sự. Ở Chương 2, Chương 3 được thực hiện trên cơ sở phương pháp

4

phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê và khảo sát thực tiễn để tìm ra luận

chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Trong tiến trình cải cách tư pháp, việc nâng cao chất lượng tranh tụng (phần

tranh luận, đối đáp giữa bên buộc tội và bên bào chữa) có ý nghĩa quan trọng trong

việc xác định sự thật, hạn chế oan sai, đúng người đúng tội. Người viết đã phân tích

thực trạng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bình

Long, tỉnh Bình Phước. Từ thực tiễn xét xử, người viết lần lượt phân tích vai trò,

trách nhiệm và những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể

tham gia hoạt động tranh tụng. Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, người viết đã

trình bày những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án nhân dân

thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm có 03 chương.

Chương 1: Những vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Chương 2: Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thị xã Bình

Long, tỉnh Bình Phước.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ

thẩm

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG

TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

1.1. Khái niệm

1.1.1. Khái niệm về tranh tụng

Trong từ điển Tiếng Việt, tranh tụng là “Thưa kiện nhau để dành lẽ phải” [1,

tr.1966]. Trong tiếng Anh, tranh tụng (litigation) là thuật ngữ được sử dụng để mô

tả thủ tục tố tụng được khởi xướng giữa hai bên đối lập nhau để buộc thi hành hoặc

bào chữa về một quyền hợp pháp [36]. Như vậy, xét về góc độ từ ngữ, tranh tụng là

sự cáo buộc, kiện tụng, đấu tranh giữa hai bên có những lợi ích đối lập theo quy

định của pháp luật.

Xét về mặt thuật ngữ pháp lý, “Tranh tụng xuất hiện khi có sự xung đột lợi

ích giữa hai chủ thể trong một quan hệ pháp lý nhất định mà bản thân các chủ thể

đó không tự giải quyết được phải cần đến chủ thể thứ ba làm trọng tài phân xử”

[27]. Có thể hiểu, tranh tụng diễn ra khi hai chủ thể trong cùng một quan hệ pháp lý

có lợi ích trái ngược nhau không ngừng mâu thuẫn, đấu tranh, phủ định ý kiến, lập

luận của nhau. Tranh tụng có thể diễn ra trong tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố

tụng hành chính. Nhưng trong phạm vi bài viết, người viết chú trọng đến tranh tụng

trong tố tụng hình sự, cụ thể là tranh tụng tại phiên tòa hình sự - đỉnh điểm của quá

trình tranh tụng trong tố tụng hình sự.

Trong khoa học pháp lý khái niệm “tranh tụng” không còn quá mới mẻ đối

với Việt Nam. Nhưng trước năm 2002, vấn đề tranh tụng ở nước ta còn là một vấn

đề khá mới, nhiều ý kiến tỏ rõ quan điểm không thừa nhận “tranh tụng” trong tố

tụng hình sự Việt Nam. Kể từ sau Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây xin gọi tắt là

Nghị quyết 08) được ban hành. Ngày càng nhiều tác giả đề cập đến vấn đề tranh

tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng.

Ta có thể kể đến một số quan điểm nổi bật sau:

6

Thứ nhất, có khá nhiều quan điểm đã nhận định tranh tụng chính là cuộc

tranh luận (tranh cãi) về vụ án mà trong đó các bên đưa ra lý lẽ, chứng cứ hoặc các

văn bản pháp luật nhằm bảo vệ sự buộc tội hoặc bào chữa của mình: Trong chuyên

đề: “Tranh tụng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát

viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Viện Kiểm Sát

nhân dân tối cao đã khẳng định: “Tranh tụng được hiểu với nghĩa không phải là một

kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên và những người

tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, cụ thể là tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự,

bao gồm cả phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm…”[31]. Hoặc “Tranh tụng là chỉ cuộc

tranh luận về vụ án bằng cách các bên tham gia đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các

văn bản làm cơ sở cho sự buộc tội hay bào chữa của mình để người thứ ba đứa

giữa hai bên là tòa án làm trọng tài phân xử” [10, tr.31] hoặc “Tranh tụng cần

phải được hiểu là sự tranh luận theo thủ tục quy định của luật tố tụng” [11, tr.4].

Theo tôi, các quan điểm trên chưa thật sự phù hợp. Bởi vì các quan điểm này đã

đồng nhất khái niệm tranh tụng với khái niệm tranh luận. Về bản chất, tranh tụng và

tranh luận có mối quan hệ mật thiết nhưng không thể đồng nhất. Tranh luận là một

thủ tục độc lập của phiên tòa hình sự, đứng sau phần xét hỏi. Trong tranh luận, các

bên bằng lời nói hay tư duy của mình để tổng hợp, đánh giá giá trị chứng cứ hay các

nội dung liên quan đến vụ án đã được trình bày trong phần xét hỏi trước đó. Trong

phần tranh luận tại phiên tòa, tính tranh tụng thể hiện rất rõ nhưng tranh luận không

bao quát được hết bản chất tranh tụng. Tranh tụng không chỉ gói gọn trong những

lời nói qua lại tại tòa mà rộng hơn là tranh tụng còn thể hiện qua các hoạt động tố

tụng khác. Vì vậy tôi không đồng tình với các quan điểm trên.

Thứ hai, có quan điểm cho rằng tranh tụng là “Quá trình xác định sự thật

khách quan về vụ án, đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích Tố

tụng hình sự có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất chức năng của mình ở tất cả

các giai đoạn của quá trình Tố tụng hình sự”[9, tr.23-24]. Theo ý kiến của tác giả,

quan điểm này vừa có điểm hợp lý, vừa có điểm chưa hợp lý. Chưa hợp lý ở chỗ

tranh tụng không phải quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Nhưng tác

7

giả Nguyễn Đức Mai đưa ra được điểm tiến bộ đó là tranh tụng là phương tiện, tiền

đề quan trọng để xác định sự thật vụ án đồng thời cũng là phương tiện bảo đảm cho

các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự có thể thực hiện một cách có hiệu

quả chức năng của mình. Bởi lẽ, khi tranh tụng được bảo đảm, quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể được phân định một cách rõ ràng, từ đó việc thực hiện chức năng tố

tụng của các bên cũng sẽ đạt hiệu quả cao. Trong các hoạt động tố tụng nếu thiếu

mất đi sự tranh tụng, thì các hoạt động tố tụng trở nên phiến diện, một chiều. Chính

vì vậy, tranh tụng là tiền đề quan trọng để xác định sự thật khác quan của vụ án.

Thứ ba, có quan điểm trình bày tranh tụng là “quá trình cọ sát các quan

điểm, lập luận về vụ án giữa các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào

quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khác quan của vụ án” và “quá

trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ của các bên

buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án”[3, tr.41-42]. Tác giả

đồng tình với khái niệm của tác giả Lê Tiến Châu. Tranh tụng là quá trình mà trong

đó các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa cọ sát, tiếp xúc các quan điểm, lập luận

về các vấn đề liên quan đến vụ án với nhau nhằm xác định sự thật khác quan của vụ

án.

Từ những quan điểm trên, có thể hiểu tranh tụng là quá trình tồn tại, vận

động và đấu tranh giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội..Tranh tụng thể hiện rõ ràng

nhất trong thủ tục tranh luận tại phiên toà nhưng tranh tụng và tranh luận không

hoàn toàn đồng nhất. Tranh tụng cũng là phương tiện, tiền đề quan trọng cho quá

trình xác định sự thật khách quan của vụ án diễn ra công bằng, đảm bảo các quyền

của công dân, quyền con người đồng thời vừa kiểm soát tốt tội phạm, tạo nên lòng

tin cho nhân dân về sự công bằng, chính trực của các cơ quan tiến hành tố tụng,

cũng như nhận thức đúng về vai trò của người bào chữa trong hoạt động tố tụng

hình sự.

1.1.2. Khái niệm về phiên tòa hình sự sơ thẩm

8

Phiên tòa hình sự sơ thẩm là hình thức tố tụng của xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự; đó là hình thức hoạt động của Tòa án ở cấp thấp nhất để xem xét và ra phán

quyết lần đầu về toàn bộ vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.

1.1.3. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là một giai đoạn của tranh

tụng trong tố tụng hình sự và ở giai đoạn này tranh tụng cũng là sự đối trọng nhằm

phủ định lẫn nhau giữa bên buộc tội và gỡ tội nhưng sự khác biệt ở đây là đã có sự

xuất hiện của Tòa án với vai trò là trọng tài của hai bên tranh tụng. Vì vậy, buộc tội,

bào chữa và xét xử là kết quả tranh tụng tại tòa chính là căn cứ để Hội đồng xét xử,

bên buộc tội và bên bào chữa xác định sự thật vụ án được khách quan nhất.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, chức năng buộc tội trực tiếp do kiểm sát viên,.

Bị hại được quyền trình bày ý kiến, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình. Chức năng bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chủ yếu do

bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của (bị cáo, pháp nhân thương

mại) thực hiện. Từ sự phân tích nêu trên cho thấy, tranh tụng tại phiên tòa hình sự

sơ thẩm là tổng hợp những hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng

hình sự được các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa thực hiện công khai tại phiên

tòa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình và

phản bác chứng cứ, lập luận của bên kia về vụ án dưới sự điều khiển, quyết định của

Hội đồng xét xử nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của mình

trong việc giải quyết vụ án.

1.2 . Đặc điểm, ý nghĩa tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm 1.2.1.Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm

- Thứ nhất, về chủ thể tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Ba chức năng của tố tụng hình sự (buộc tội, gỡ tội, xét xử) là ba chức năng

tất yếu, tiền định.

- Nhóm chủ thể có chức năng tranh tụng gồm:

+ Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội: Viện kiểm sát (đại diện là Kiểm sát

viên)- là chủ thể buộc tội nhân danh Nhà nước (quyền công tố);

9

+ Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại (trường hợp vụ án được khởi tố

theo yêu cầu của bị hại) - là chủ thể buộc tội nhân danh cá nhân (quyền tư tố).

Buộc tội nhân danh nhà nước là nội dung chủ yếu của chức năng buộc tội,

thực hiện việc xét hỏi, đề nghị Hội đồng xét xử quan điểm giải quyết vụ án bằng

bản luận tội; tranh luận, đối đáp với bên gỡ tội và người tham gia tố tụng...

Buộc tội nhân danh cá nhân gồm có bị hại, nguyên đơn dân sự; người đại

diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự.

+ Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa: Bị cáo, người bào chữa; người đại

diện cho bị cáo hoặc pháp nhân thương mại đưa ra các chứng cứ, các căn cứ pháp lý

và lập luận để bác bỏ sự buộc tội, đưa ra các kết luận, yêu cầu và đề nghị với

HĐXX về việc giải quyết vụ án.

- Nhóm chủ thể có chức năng xét xử: Gồm có Hội đồng xét xử (Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa, thẩm phán, hội thẩm) giữ vai trò trọng tài giữa bên buộc tội và

bên bào chữa.

- Nhóm các chủ thể khác tham gia vào hoạt động tranh tụng nhằm giúp Tòa

án xác định sự thật khách quan, giải quyết đúng đắn các vấn đề của vụ án (Thư ký

phiên tòa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

đến vụ án; người làm chứng, người giám định, người phiên dịch; người dịch thuật;

đại diện cơ quan, tổ chức xã hội..).

- Thứ hai, về nội dung tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là thực hiện

việc xét hỏi để chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa

điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện hành vi

phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự

hay không. Mục đích, động cơ phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách

nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo. Tính chất, mức độ thiệt hại do

hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Lúc này, nội dung

tranh tụng mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và giá trị

chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập, kiểm tra, đánh

10

giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tòa giữa bên buộc tội với

bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên bào chữa - là hai

bên của cuộc tranh tụng về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án.

Dựa trên kết quả chứng minh về chứng cứ tại tòa, Hội đồng xét xử chỉ lắng

nghe để ghi nhận đầy đủ ý kiến của các bên trong cuộc tranh luận; Chủ tọa phiên

tòa không được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho các bên trình

bày, đối đáp hết các ý kiến của họ giúp Hội đồng xét xử có được những đánh giá

khách quan, toàn diện về các vấn đề cần giải quyết của vụ án làm cơ sở giải quyết

vụ án được chính xác, đúng pháp luật.

- Thứ ba, về phạm vi tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chính giữa các bên được bắt

đầu sau khi Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, tức là bắt đầu từ thủ tục bắt đầu

phiên tòa đến xét hỏi, tranh luận, nghị án và kết thúc khi Hội đồng xét xử tuyên án.

- Thứ tư, về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Mục đích của tranh tụng là để xác định sự thật khách quan của vụ án nhằm

đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tranh tụng là: kiểm tra sự có mặt

của những thành phần được triệu tập đến phiên tòa; giải quyết yêu cầu đề nghị thay

đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, về sự vắng mặt của người tham gia tố

tụng; giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho người tham gia tố tụng; yêu cầu cam

đoan của người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định,

người định giá tài sản. Xem xét giải quyết yêu cầu về việc triệu tập thêm người làm

chứng và đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét tại phiên tòa.

Tiếp đó là thủ tục công bố bản cáo trạng của Viện kiểm sát, phát sinh thủ tục

các bên theo quy định của pháp luật để chứng minh các chứng cứ nhằm làm rõ các

tình tiết về vụ án. Quá trình xét hỏi; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào

chữa có thể kết hợp công bố các lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi các vấn đề liên quan đến vụ án đã được

làm sáng tỏ và các bên tranh tụng không có ý kiến gì thì Chủ tọa phiên tòa chuyển

sang tranh luận đối đáp các ý kiến của Kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan

11

về những vấn đề, quan điểm đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ

án. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được xét hỏi công khai tại phiên tòa và kết

quả tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội; Hội đồng xét xử tiến hành nghị án,

sau đó ra bản án phán quyết về các nội dung đã được tranh tụng tại phiên tòa và

đồng thời kết thúc thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

1.2.2.Ý nghĩa tranh tụng phiên tòa hình sự sơ thẩm

Thứ nhất, Tranh tụng là sự phản biện cần thiết cho hoạt động chứng minh

của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án.

tranh tụng còn hạn chế được các tiêu cực trong tố tụng như việc ép cung, nhục hình,

hối lộ,…. Đồng thời, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũng

được bảo đảm. Như vậy có thể nói, tranh tụng góp phần bảo vệ tốt quyền con người

trong các hoạt động tố tụng.

Thứ hai, Tranh tụng còn tạo ra môi trường đỏi hỏi các bên trong tố tụng phải

luôn rèn luyện, hoàn thiện sự am hiểu, trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ để

chứng minh, bảo vệ những quan điểm, chứng cứ, luận cứ của mình, nâng cao hiệu

quả thực hiện chức năng tố tụng của mình để tìm ra sự thật khách quan của vụ án,

đồng thời nâng cao nhận thức, niềm tin của người dân vào vai trò của luật sư cũng

như cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba, mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa được

xác định rõ ràng hơn. Thẩm phán không gánh vác quá nhiều trách nhiệm: vừa thực

hiện chức năng xét xử, vừa chứng minh tội phạm và có thể còn thực hiện luôn cả

chức năng bào chữa. Thẩm phán chỉ thực hiện duy nhất chức năng xét xử. Có sự

phân công quyền và nghĩa vụ phù hợp cho các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội

và chức năng bào chữa thực hiện tốt chức năng của mình. Điều này tạo nên thế

“kiềng 3 chân” cân bằng trong các hoạt động tố tụng nhằm bảo vệ tốt các quyền con

người đồng thời kiểm soát được tội phạm.

Từ những phân tích trên cho thấy, tranh tụng mang ý nghĩa to lớn trong hoạt

động chứng minh tội phạm trên cơ sở vẫn đảm bảo các quyền con người. Vì vậy,

chúng ta cần ngày càng hoàn thiện và nâng cao chất lượng trong tố tụng hình sự nói

12

chung và tại phiên toà xét xử nói riêng bằng cách nghiên cứu vấn đề tranh tụng tại

các quốc gia khác và học hỏi những nhân tố, thủ tục tích cực phù hợp với nước ta.

1.3.Cơ sở của việc quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

1.3.1.Theo yêu cầu của cải cách tư pháp

Tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một trong những nội dung có ý nghĩa

quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo

tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để

xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách

quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động

tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị

quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết

luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trong của tranh tụng

trong xét xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách

tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp.

1.3.2 Theo yêu cầu của Hiến pháp

Trong tố tụng hình sự quyền con người dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả của

sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần.

Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể chế hóa ở

Hiến pháp 2013.

Hiến pháp quy định rõ ràng, đầy đủ quyền của người bị buộc tội. Với nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử, quyền của bị cáo sẽ được đảm bảo đầy đủ, bị cáo được

quyền tự bào chữa cho mình hoặc nhờ người bào chữa, được quyền tranh luận, đối

đáp với luận tội của đại diện Viện kiểm sát để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Theo đó, bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đặc biệt quan

trọng để công bằng và công lý của một quốc gia được thể hiện. Có thể nói thực hiện

quyền tư pháp và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có quan hệ chặt

chẽ với nhau như hình với bóng, Không thể thực hiện quyền tư pháp nếu thiếu tranh

tụng trong hoạt động xét xử. Ngược lại, chỉ có tranh tụng được bảo đảm thì quyền

tư pháp mới được thể hiện. Nếu thừa nhận mối quan hệ hữu cơ như vậy thì phải có

13

một sự đổi mới về tư duy và nhận thức; phải coi trọng tranh tụng; tạo lập cho được

môi trường thật sự dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa.

1.3.3 Đảm bảo theo nguyên tắc tố tụng hình sự

Nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ

thể trong việc thực hiện quá trinh tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định

của pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó

tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội thông qua, nguyên tắc

tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,

đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự

để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,

xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình

bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào

kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Như vậy, đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong Bộ

luật Tố tụng hình sự, đồng thời từ đó vấn đề tranh tụng cũng đã được thể hiện trong

một loạt các quy định khác nhau của Bộ luật, với mục đích tăng cường tranh tụng

trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng

xác định sự thật khách quan của vụ án.

1.4 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển quy định về tranh tụng tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2003

1.4.1.Quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giai đoạn

từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước những năm 1960, các quy định của

14

pháp luật về tổ chức phiên tòa và tiến hành tố tụng tại phiên tòa của Tòa án chưa

được hệ thống hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật nào nhất định, mà các

quy định này nằm rải rác trong các văn bản như Sắc lệnh, Luật hoặc các Thông tư.

Trong Sắc lệnh số 51/ST ngày 17/04/1946 về ấn định thẩm quyền các Tòa án

và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án cũng có quy định thể hiện nội

dung thủ tục tranh luận tại phiên tòa thời kỳ đó. Tại Điều 26 Sắc lệnh này quy định:

“Ông Công tố ủy viên Tòa án nhân dân tỉnh hoặc thành phố bắt buộc phải có mặt

tại các phiên tòa hình và hộ. Khi ra phiên tòa, ông Công tố ủy viên cũng như bên bị

cùng bên dân sự nguyên cáo, có quyền yêu cầu Tòa thi hành mọi phương sách cần

thiết để chứng tỏ sự thật. Khi cuộc thẩm vấn ở phiên tòa xong rồi, ông Công tố ủy

viên thay mặt xã hội buộc tội bị can. Bao giờ ông Công tố ủy viên cũng nói sau dân

sự nguyên cáo. Bên bị can được nói sau cùng, trước khi Tòa án tuyên án. Tòa

không bắt buộc phải xử theo lời yêu cầu của ông Công tố ủy viên” [5, Điều 26].

Theo Thông tư số 22- ngày 8/12/1957 của Bộ tư pháp trả lời một số điểm về quyền

bào chữa. Tại mục III của Thông tư này có hướng dẫn: “Sau khi Công tố viên luận

tội, người bào chữa được trình bày lời bào chữa của mình, đề ra những điểm không

đồng ý với Công tố viên và biện bác, xuất phát từ quan điểm bảo vệ pháp luật,

chính sách và quyền lợi chính đáng của bị can. Sau khi người bào chữa nói xong

mà Công tố viên đáp lại thì người bào chữa có quyền trả lời” [2, tr.44].

Đến đầu những năm 1960, sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, cùng với đó là sự

ra đời của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/07/1960; Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân ngày 15/07/1950 và Pháp lệnh quy định nhiệm vụ quyền hạn của Cảnh

sát nhân dân ngày 16/07/1962, quy định tách bạch chức năng xét xử và chức năng

buộc tội do hai cơ quan khác nhau thực hiện (Toà án và Viện kiểm sát)…đây là

những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên toà

hình sự, trong đó bao gồm cả thủ tục liên quan đến tranh tụng tại phiên toà.

Hoạt động tố tụng tại phiên toà cũng còn nhiều tồn tại, như việc các thẩm

phán chỉ dựa vào hồ sơ mà coi nhẹ việc thẩm vấn, tranh luận công khai trước Toà,

nhiều vụ việc thẩm phán không chú ý, không lắng nghe bị cáo trình bày do đó

15

không làm rõ được các tình tiết khách quan của vụ án do đó chỉ ra phán quyết theo

chủ trương đã duyệt án trước đó... Để khắc phục những tồn tại và bất cập trên, Toà

án nhân dân tối cao đã ban hành Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm ban

hành kèm theo Thông tư số 16 - TATC ngày 27/9/1974, trong đó phần thứ 4 quy

định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa của Tòa án nhân dân quy định: “Đối với

những vụ án phải đưa ra xét xử, việc xét xử tại phiên tòa là giai đoạn quyết định vụ

án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ trình tự tố tụng hình sự vì trong

phiên tòa, Tòa án nhân dân thẩm tra lại toàn bộ chứng cứ, nghe tranh cãi và cuối

cùng quyết định việc xử lý vụ án” [28, tr.132]. Có thể nói đây là những quy định rất

tiến bộ về thủ tục tố tụng tại phiên toà và nó vẫn còn nguyên giá trị pháp lý cho đến

ngày nay.

Quy định về thủ tục tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo

Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã đánh dấu một bước phát triển mới của khoa

học Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của đời sống

xã hội lúc bấy giờ. Trên cơ sở một số nguyên tắc tố tụng được ghi nhận trong Hiến

pháp, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân phù hợp hơn với

xu thế tự do, dân chủ, phù hợp với chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng.

Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 để mở đầu

cho phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, qua đó “đề nghị kết tội bị

cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ

hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề

nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội” [16, Điều 191].

Trong quá trình tranh tụng, việc hỏi, đối đáp của Kiểm sát viên chủ yếu là

đưa ra những lập luận để phản bác những ý kiến không phù hợp của bị cáo, người

bào chữa và những người tham gia tố tụng khác về các nội dung được Kiểm sát viên

đưa ra trong lời luận tội. Kết quả tranh luận giữa các bên có ý nghĩa hết sức quan

trọng đối với việc giải quyết vụ án của Toà án. Việc phán quyết của Toà án phải căn

cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện

các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị hại, của người bào chữa, bị cáo,

16

nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra

những bản án, quyết định đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 tuy là bộ luật đầu tiên về tố tụng hình sự

của nước ta, nhưng những quy định của bộ luật về thủ tục tranh luận tại phiên toà

hình sự sơ thẩm cũng tương đối chặt chẽ và đầy đủ, tuy vậy bản thân nó cũng vẫn

còn một số điểm hạn chế nhất định, những hạn chế này sẽ được khắc phục trong Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2003.

1.4.2 Các quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh tụng

tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ghi nhận một số nguyên tắc như: Nguyên

tắc: "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực

pháp luật” (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Bảo đảm quyền bào

chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự);

nguyên tắc: "Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia” (Điều 15 Bộ luật Tố

tụng hình sự); "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”

(Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Xét xử công khai” (Điều 18 Bộ luật

Tố tụng hình sự); nguyên tắc: "Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án” (Điều 19

Bộ luật Tố tụng hình sự).

Về chủ thể thực hiện tranh tụng: Chủ thể thực hiện việc tranh tụng tại Toà án

chủ yếu được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì Viện kiểm sát có các

quyền và nghĩa vụ sau: có trách nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10); áp dụng

mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn

diện và đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội;

những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; bảo đảm

cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (Điều 11); giải thích và bảo đảm cho

những người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ (Điều 62); thu thập,

xem xét và đánh giá chứng cứ (các Điều 65 và 66); Điều 37 BLTTHS đã quy định

cụ thể về các hoạt động của KSV tại phiên tòa: "đọc cáo trạng, quyết định của Viện

17

kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc

luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người

tham gia tố tụng tại phiên tòa”. Song hành với quyền công tố, KSV tham gia phiên

tòa còn có quyền "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà

án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà

án”.Ngoài ra, người bị hại, nguyên đơn dân sự tham gia tố tụng thực hiện chức năng

buộc tội ở một mức độ nhất định. Để các chủ thể này có thể thực hiện chức năng

của mình trong tố tụng hình sự, pháp luật quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ

tố tụng nhất định được quy định tại các Điều 51, Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự

như quyền "trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp”; quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng”.

Về trình tự, thủ tục tranh tụng tại phiên toà, phần lớn các quan điểm khoa

học hiện nay đều xác định hoạt động tranh tụng được bắt đầu ngay từ phần thủ tục

bắt đầu phiên tòa. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, công bố

thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền nghĩa vụ của bị cáo, chủ

toạ phiên toà phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai đề

nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra

xem xét hay không.Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết

định.Như vậy, việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa

ra vật chứng, tài liệu mới để Hội đồng xét xử xem xét chính là những đảm bảo cho

việc xét hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa. Trên thực tế, hoạt

động tranh tụng tại phiên tòa bắt đầu rõ nét nhất bằng việc Kiểm sát viên đọc bản

cáo trạng trong phần xét hỏi tại phiên toà. Điều 207 Bộ luật Tố tụng hình sự quy

định: "Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau

đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi

thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Có thể xem đây là giai đoạn trung tâm của

quá trình tranh tụng. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội, trước sự

18

chứng kiến của Hội đồng xét xử, công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc

đưa ra các lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. Điều 217 Bộ luật Tố

tụng hình sự quy định:"Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu,

chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà”.

Đây là điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Như vậy, căn cứ vào kết

quả xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên sẽ trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị

cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu

thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Bộ luật

Tố tụng hình sự tuyên bị cáo vô tội. Để việc luận tội của mình bảo đảm đúng đắn,

chính xác và có sức thuyết phục, Kiểm sát viên phải tổng hợp, phân tích, đánh giá

một cách logic các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại tòa, xác

định bốn yếu tố của cấu thành tội phạm, xem xét tính chất, mức độ và hậu quả của

vụ án cũng như tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ để việc đề xuất mức án cho tội danh của bị cáo được chính xác.

Theo Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp

hành Trung ương Đảng: "kết quả tranh tụng” chính là cơ sở để Hội đồng xét xử ra

phán quyết.Điều luật cũng quy định rõ: "Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm

sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và

những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên

tranh luận”.

Từ những phân tích nội dung một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2003 có thể thấy rằng Tố tụng hình sự nước ta là tố tụng thẩm vấn nhưng đã

đan xen các yếu tố tranh tụng trong quá trình tố tụng, nổi bật là tranh tụng tại phiên

tòa. Mặc dù vậy, tranh tụng vẫn chưa được quy định là một trong những nguyên tắc

cơ bản của Tố tụng hình sự Việt Nam.

Kết luận chương 1

Chương 1 đã trình bày một cách khái quát và cơ bản hai vấn đề mang tính

nền tảng lý luận và cơ sở pháp lý đối với việc nghiên cứu đề tài luận văn là “hoạt

động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” như sau:

19

1. Người viết đã phân tích được khái niệm tranh tụng, phạm vi tranh tụng và

hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Từ đó, người viết cũng đã trình bày

những quan điểm khác nhau về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như

giới hạn nội hàm khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm: công

bố bản cáo trạng; xét hỏi bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người

làm chứng; xem xét vật chứng; hỏi người giám định, điều tra viên, tranh luận.

2. Người viết đã lần lượt trình bày và phân tích các mô hình tố tụng trên thế

giới bao gồm hai mô hình tố tung cơ bản là mô hình tố tụng tranh tụng của thông

luật (common law) và mô hình tố tung thẩm vấn của luật lục địa (civil law). Từ đó,

người viết phân tích mô hình tố tụng hỗn hợp của pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam trong tiến trình cải cách tư pháp, đẩy mạnh hoạt động tranh tụng tại Tòa.

20

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TRANH

TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại

phiên tòa hình sự sơ thẩm

2.1.1. Quy định về xét hỏi tại tại phiên tòa sơ thẩm

Thủ tục xét hỏi là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự nói chung và của

hoạt động xét xử nói riêng. Trong giai đoạn này Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và

những người khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành kiểm tra các

chứng cứ, tài liệu của vụ án một cách công khai bằng cách trực tiếp xét hỏi bị cáo,

người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác, xem xét vật

chứng, công bố lời khai, xem xét tại chỗ…nhằm làm rõ các nội dung, tình tiết của

vụ án, qua đó có những định hướng, nhận định khách quan, toàn diện về toàn bộ vụ

án giúp cho việc tranh luận đi đúng trọng tâm, nghị án và tuyên án một cách chính

xác và đầy đủ.

Thứ nhất, quy định về bổ sung cáo trạng của Kiểm sát viên

Theo quy định tại Điều 306 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì tại phần

xét hỏi, sau khi đọc bản cáo trạng, Kiểm sát viên được quyền trình bày ý kiến bổ

sung và ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.

Thứ hai, về trình tự xét hỏi

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gộp chung phần xét hỏi và tranh luận

thành phần tranh tụng để phù hợp với yêu cầu của công tác tranh tụng tại phiên tòa.

Tại Điều 307 Bộ luật Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chủ tọa

phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.

Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán (trường

hợp Hội đồng 3), Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.

21

Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi

thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản

được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.

Theo tác giả, việc xác định rõ trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trách

nhiệm xét hỏi để chứng minh hành vi phạm tội chủ yếu là của Kiểm sát viên. Cụ

thể, Kiểm sát viên phải là người xét hỏi trước và là người hỏi chính; Hội đồng xét

xử xét hỏi sau và chỉ hỏi về những tình tiết chưa rõ hoặc để kiểm tra, xác minh các

chứng cứ mới tại phiên toà. Trình tự xét hỏi như vậy sẽ buộc Kiểm sát viên phải

tích cực xét hỏi, tranh luận đối đáp lại ý kiến của bị cáo, người bào chữa để bảo vệ

cho bản cáo trạng của mình qua đó tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử có nhiều thời

gian để tập trung lắng nghe, đánh giá ý kiến của các bên, xem xét đánh giá các

chứng cứ khác trong vụ án.

Thứ ba, về phạm vi đối tượng chủ thể được tham gia xét hỏi trực tiếp

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì chỉ có Hội đồng xét

xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người

định giá tài sản và người giám định là được tham gia hỏi trực tiếp tại phiên toà, còn

những người khác thì chỉ có quyền đề nghị chủ tọa phiên toà hỏi thêm ai đó về nội

dung gì [18, Khoản 2 Điều 207]. Để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tham gia

tranh tụng trong việc thực hiện quyền chứng minh trong vụ án và để thực hiện

quyền đó thì Bộ luật Tố tụng hình sự cần quy định cho người bị hại, bị cáo, nguyên

đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng

có quyền xét hỏi trực tiếp.

Thứ tư, về nội dung xét hỏi của Kiểm sát viên

Tại khoản 2 Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Kiểm

sát viên hỏi về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ

tội và những tình tiết khác của vụ án…”. Quy định này vô hình chung dẫn đến cách

hiểu là Kiểm sát viên thực hiện cả chức năng gỡ tội cho bị cáo tại phiên toà trong

khi theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Vện kiểm sát có

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

22

tụng hình sự. Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát thực hành

quyền công tố cũng đồng nghĩa là thực hiện việc buộc tội bị cáo, bởi vì “công tố”

được hiểu là “truy tố, buộc tội bị cáo và phát biểu ý kiến trước toà án, nhân danh

nhà nước”. Như vậy, sẽ là mâu thuẫn nếu như Kiểm sát viên thực hiện cả việc buộc

tội và gỡ tội bị cáo tại phiên toà.

Theo tác giả, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không cần thiết phải quy

định cụ thể việc Kiểm sát viên, người bào chữa…hỏi về những nội dung gì, bởi lẽ

chính tư cách tham gia tố tụng và chức năng tố tụng của các chủ thể tham gia phiên

toà đã mặc nhiên “quy định” nội dung mà các chủ thể này hướng tới xét hỏi là gì.

Ví dụ, người bào chữa đương nhiên sẽ luôn hỏi những câu hỏi về những tình tiết có

lợi cho việc bào chữa với mục đích gỡ tội cho bị cáo. Ngược lại, Kiểm sát viên sẽ

hỏi những câu hỏi với xu hướng buộc tội để bảo vệ cáo trạng của mình là có căn cứ

pháp luật. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ nên quy định việc chủ toạ phiên toà

có quyền cắt (chấp nhận hay không chấp nhận) những câu hỏi của các chủ thể tham

gia xét hỏi, nếu như câu hỏi của họ không liên quan đến vụ án hoặc có tính chất gợi

ý (mớm cung). Ví dụ: Tại khoản 1 Điều 275 Bộ luật Tố tụng hình sự của Nga quy

định:“Chủ toạ phiên toà không chấp nhận những câu hỏi có tính chất gợi ý và

những câu hỏi không liên quan đến vụ án”.

Thứ năm, về việc ghi chép và sử dụng tài liệu tại phiên toà trong quá trình

xét hỏi

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền tự bào

chữa cho mình. Tuy nhiên, cơ chế để bị cáo có thể thực hiện quyền này vẫn chưa

đảm bảo, còn thiếu những quy định nhằm tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện có hiệu

quả quyền tự bào chữa.

Trong vụ án hình sự, thông thường từ khi vụ án được khởi tố điều tra đến khi

xét xử phải mất một khoảng thời gian nhất định, trí nhớ của những người tham gia

tố tụng về những nội dung vụ án có thể không được đầy đủ và chính xác khiến cho

việc khai báo tại phiên toà gặp không ít khó khăn. Mặt khác, trong quá trình tham

gia tranh tụng tại phiên toà, bị cáo phải tham gia tranh luận, đối đáp với Kiểm sát

23

viên - là người có kiến thức pháp luật, lại có đầy đủ hồ sơ vụ án trong tay, có thể

viện dẫn, công bố chứng cứ để chứng minh cho quan điểm của mình bất cứ lúc

nào…vì vậy nếu không quy định cho bị cáo nói riêng và những người tham gia tố

tụng nói chung được ghi chép, sử dụng tài liệu tại phiên toà thì sẽ không bảo đảm

được quyền bình đẳng giữa các bên khi tham gia tố tụng tại phiên toà.

Thứ sáu, kết thúc việc xét hỏi

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định tại Điều 318: “Khi xét thấy

những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát

viên, bị cáo, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét

hỏi vấn đề gì nữa không, sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một

phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.

2.1.2. Quy định về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm

Nhiều tư tưởng, quan điểm, định hướng lớn về cải cách tư pháp được đề cập

trong các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

21/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới”. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, Nghị quyết 08

NQ/TW của Bộ chính trị đã đề ra nhiệm vụ cho hoạt động xét xử là: “Nâng cao

chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với

Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... việc phán quyết

của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem

xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa,

bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp

để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời

hạn pháp luật quy định”.

Thể chế quan điểm trên của Đảng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ

sung một số quy định trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo

hướng nâng cao hơn trách nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại

phiên toà, theo đó Kiểm sát viên có trách nhiệm xét hỏi, tranh luận để bảo vệ cáo

trạng đã truy tố.

24

Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự được quy định tại Mục V Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015, bao gồm 6 điều, từ Điều 320 đến Điều 325. So với

quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định thành một chương

riêng, thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 lại gộp chung phần xét hỏi và phần

tranh luận vào một chương là phần tranh tụng tại phiên tòa, tuy nhiên tổng số điều,

tên chương và tên điều về cơ bản là không thay đổi. Về nội dung, bổ sung một số

quy định nhằm cụ thể hóa các yêu cầu của Nghị quyết 08-NQ/TW về nâng cao tính

dân chủ, công khai về tranh tụng tại phiên tòa và xác định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng

hơn quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên và các chủ thể khác tham gia tranh luận,

cũng như trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc bảo đảm cho các bên tham gia

luận tại phiên tòa, cụ thể như sau:

Thứ nhất, trình tự phát biểu khi tranh luận

Điều 320 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “1. Sau khi kết thúc

việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì

rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội.

2. Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho

bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.

3. Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền

và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì

người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.

4. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người

đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội”

Thứ hai, quy định về tranh luận

Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “1. Bị cáo, người bào

chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài

liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định

có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành

vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo

trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình

25

phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều

kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người bào

chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.

2. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến

cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên

tòa.

3. Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều

kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác

tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan

đến vụ án và ý kiến lặp lại.

Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người

bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát

viên tranh luận.

4. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên,

bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách

quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những

người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong

bản án.”

Để bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, điều luật quy định bị cáo, người

bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về lời

luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Người tham gia tố tụng cóq

uyền đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên, nếu không đồng

ý thì phải phân tích lý do của việc không đồng ý đó và đưa ra đề nghị của mình về

vấn đề đó.

Điều luật còn quy định, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến

của người khác, Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo

điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền

cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia

tranh luận thoải mái tranh luận, đưa ra các ý kiến thuyết phục đến cùng vấn đề mình

26

bảo vệ và bảo đảm việc tranh luận được dân chủ, công khai hơn tại phiên tòa. Điều

này còn có ý nghĩa rất lớn đối với Hội đồng xét xử, theo đó Hội đồng xét xử càng

nghe được nhiều ý kiến tranh luận, đối đáp khác nhau thì càng có điều kiện để xem

xét, quyết định một cách chính xác, khách quan hơn về việc giải quyết vụ án.

Bên cạnh việc không hạn chế thời gian tranh luận, để phiên tòa không kéo

dài một cách không cần thiết, Chủ tọa phiên tòa có quyền cắt ý kiến đối đáp trong

các trường hợp những ý kiến đó không liên quan đến vụ án, người tham gia tố tụng

phát biểu nhiều lần một vấn đề, những lời phát biểu đó trùng lặp nhau hoặc trùng

lặp với ý kiến của người khác đã phát biểu.

Từ những nội dung trên cho chúng ta thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

đã có những quy định bổ sung mới rất tiến bộ, nhằm xác định rõ ràng, cụ thể và đầy

đủ hơn quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tranh luận. Những quy định này

giúp khắc phục tình trạng Kiểm sát viên đối đáp qua loa, đối đáp cho có đối với các

ý kiến tranh luận của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

bảo vệ tốt hơn quyền của các chủ thể này.

Thứ ba, trở lại việc xét hỏi

Tại Điều 323 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Nếu qua tranh

luận mà thấy cần thiết xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định

trở lại,việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận”.

Thông qua việc tranh luận, các bên đi sau phân tích, đưa ra nhiều chứng cứ,

tài liệu và có những ý kiến đánh giá khác nhau về một vấn đề nào đó mà việc tranh

luận không có kết quả, hoặc các bên có đưa ra tài liệu, chứng cứ mới thì có thể quay

lại phần xét hỏi. Việc xét hỏi để làm rõ thêm những vấn đề còn chưa rõ, để bảo đảm

hơn tính chính xác, khách quan của vụ án. Vì vậy điều luật quy định trong trường

hợp này Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Trong quá trình tranh

luận Hội đồng xét xử có thể quyết định quay trở lại xét hỏi nhiều lần mà không nhất

thiết là chỉ một lần.

Việc quay trở lại phần thủ tục xét hỏi có thể do Hội đồng xét xử tự quyết

định hoặc có thể do Kiểm sát viên hay những người tham gia tranh luận yêu cầu và

27

Hội đổng xét xử nhận thấy yêu cầu đó là cần thiết. Luật không quy định Hội đồng

xét xử quyết định trở lại xét hỏi vào thời điểm nào khi tranh luận, nhưng thông

thường Hội đồng xét xử quyết định trở lại xét hỏi khi các bên không có ý kiến phát

biểu và đối đáp thêm mặc dù có những vấn đề chưa được làm sáng tỏ. Khi việc xét

hỏi thêm xong thì Chủ tọa lại cho tiếp tục tranh luận. Việc tranh luận xung quanh

kết quả đã xét hỏi thêm, nếu kết quả đó làm thay đổi quan điểm của người tham gia

tranh luận thì người đó có quyền thay đổi ý kiến.

Khi các bên đưa ra tài liệu, chứng cứ mới trong quá trình tranh luận thì Hội

đồng xét xử phải xem xét tính chân thực, khách quan của từng tài liệu, chứng cứ đó

bằng cách quay trở lại việc xét hỏi. Nếu tài liệu, chứng cứ mới đó là tài liệu gốc, tin

cậy được, phản ánh tính chân thực, khách quan thì mặc dù tài liệu đó do Luật sư hay

người tham gia tố tụng khác thu thập, Hội đồng xét xử có thể coi đó là chứng cứ để

xác định sự thật vụ án. Nếu tài liệu, chứng cứ không thể tin cậy thì Hội đồng xét xử

bác bỏ.

Thứ tư, bị cáo nói lời sau cùng

Tại Điều 324 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:“Sau khi những

người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết

thúc tranh luận.Bị cáo được nói lời sau cùng. Không được đặt câu hỏi khi bị cáo

nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý

nghĩa quan trọng đối với vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc hỏi.

Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không

liên quan đến vụ án nhưng không được hạn chế thời gian đối với bị cáo.”

Sau khi những người tham gia tranh luận phát biểu ý kiến và đối đáp xong,

Chủ tọa phiên tòa hỏi có ai có ý kiến tranh luận gì thêm không. Nếu họ không trình

bày gì thêm thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh luận và cho bị cáo

nói lời sau cùng. Luật quy định bị cáo được nói lời sau cùng là để Hội đồng xét xử

nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhận thức của bị cáo sau khi đã xét hỏi, tranh luận

xong để có cơ sở cân nhắc đường lối xử lý cho phù hợp. Trong lời nói sau cùng, bị

cáo có quyền trình bày tất cả những gì mà họ thấy phải nói, thái độ của họ đối với

28

việc buộc tội, đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý đến tình tiết nay hay tình tiết khác của

vụ án, hay thái độ tỏ ra ăn năn hối cải… Hội đồng xét xử không được hạn chế thời

gian đối với bị cáo khi nói lời sau cùng, nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không trình

bày những điểm không liên quan đến vụ án. Trong vụ án có nhiều bị cáo, Chủ tọa

phiên tòa bố trí cho các bị cáo nói lời sau cùng theo một trật tự nhất định. Nếu trong

lời nói sau cùng bị cáo trình bày thêm những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối

với vụ án, như có tội hay không có tội, có thể thay đổi tội danh, thay đổi khung hình

phạt, các tình tiết đó mâu thuẫn với kết quả xét hỏi, tranh luận... thì Hội đồng xét xử

phải quyết định trở lại xét hỏi. Quy định này đảm bảo cho việc xét xử các vụ án

hình sự được chính xác, khách quan và toàn diện.

Thứ năm, xem xét việc rút quyết đinh truy tố

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về rút quyết định truy tố, đây là

hoạt động thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Viện kiểm sát khi thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng. Sau khi

nghiên cứu quy định này trong việc nhận thức và giải quyết trong thực tiễn của các

Tòa án, đối chiếu với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và những văn

bản pháp luật trước đây, tác giả nhận thấy:

Tại Công văn 328/NCPL ngày 22/6/1993 của Tòa án nhân dân tối cao về

việc rút quyết định truy tố có hướng dẫn: “Quyết định truy tố của Viện kiểm sát

chính là bản cáo trạng mà kiểm sát viên đọc tại phiên tòa”. Như vậy, có thể hiểu rút

quyết định truy tố chính là rút cáo trạng. Rút toàn bộ quyết định truy tố tức là rút

toàn bộ cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố người phạm tội; rút một phần quyết

định truy tố tức là kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không xét xử người phạm

tội về một tội hoặc về một số tội nào đó hoặc không áp dụng các tình tiết tăng nặng

trách nhiệm hình sự đoạn: giai đoạn từ khi nhận hồ sơ vụ án đến trước khi có quyết

định đưa vụ án ra xét xử; giai đoạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi

mở phiên tòa.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định việc rút quyết định truy tố của

Viện kiểm sát tại Điều 285: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều

29

157 (Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy

định tại Điều 16 (Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) hoặc Điều 29 (Các căn

cứ miễn trách nhiệm hình sự) hoặc khoản 2 Điều 91 (Quy định về người dưới 18

tuổi phạm tội) của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi

mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án”; Điều 319: “Sau khi kết thúc việc

xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết

luận về tội nhẹ hơn”.

Việc giải quyết việc rút quyết định truy tố được quy định tại điểm b, khoản 1

Điều 282: “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một

trong các trường hợp:… b) Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi

mở phiên tòa”; Điều 325: “1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố

hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án; 2.

Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội

đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút

quyết định truy tố đó” và khoản 4, Điều 326: “Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn

bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án

theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có

tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy

tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện

kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp”.

Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cơ bản vẫn kế thừa những quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn trước đây về

trường hợp rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Cụ thể , theo quy định tại

khoản 2, Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 29 Quyết định

960/2007/QĐ-VKSTC ngày 27/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối

cao ban hành quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ

án hình sự và hướng dẫn tại Công văn 328/NCPL ngày 22/6/1993 của Tòa án nhân

dân tối cao về việc rút quyết định truy tố thì nếu việc rút quyết định truy tố của kiểm

sát viên có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định

30

đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án đó biết. Nếu Viện

kiểm sát cấp trên nhất trí với kiến nghị của Tòa án thì ra quyết định hủy việc ra

quyết định rút truy tố của Viện kiểm sát cấp dưới và chuyển hồ sơ cho Tòa án đã

tạm đình chỉ vụ án. Tòa án thụ lý lại và xét xử trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày

thụ lý lại.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nếu Viện kiểm sát rút

quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết

định đình chỉ vụ án; nếu tại phiên tòa sơ thẩm, kiểm sát viên rút một phần quyết

định truy tố, hoặc kết luận về một tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét

xử vụ án; Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội

đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút

quyết định truy tố đó, nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét

xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ

thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp

hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Việc nhà làm luật quy định các

trường hợp như trên là để khắc phục những sai sót trong việc truy tố sai người phạm

tội và đồng thời khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong việc rút quyết định truy tố

không có căn cứ của kiểm sát viên.

Về thủ tục, tại khoản 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy

định: “Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư

ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch

thuật, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, hoãn phiên tòa, bắt tạm giam hoặc trả tự do

cho bị cáo phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và được lập văn bản”.

Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định quyết định đình chỉ vụ án

của hội đồng xét xử phải được thông qua tại phòng nghị án và được lập thành văn

bản mà chưa quy định trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố khi Tòa án

đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi phiên tòa được mở.

Tại Điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi Kiểm sát

viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét

31

xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy

tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa

trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó”.

Tại phiên tòa chỉ sau khi xét hỏi, trong lời luận tội của mình Kiểm sát viên có

thể tuyên bố rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh

nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải tiếp tục xét xử toàn bộ vụ án. Trường hợp

Kiểm sát viên rút quyết định truy tố đối với một hay một số bị cáo và giữ nguyên

quyết định truy tố đối với các bị cáo còn lại, hoặc rút quyết định truy tố đối với một

tội thìvẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các tội khác.

Căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận được ghi trong bản án. cùng với

việc luận tội nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội

nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ

quyết định truy tố thì trước khi nghị án Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham

gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút đó. Khi nghị án, nếu Hội đồng xét xử cho

rằng việc rút quyết định truy tố đúng đắn thì ra bản án tuyên bị cáo vô tội; nếu thấy

bị cáo có tội và rút quyết định truy tố không đúng, thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ

án và kiến nghị lên Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện

kiểm sát cấp trên trực tiếp.

Điểm bất cập là, khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố, nhưng Hội đồng xét

xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án hoặc kiến nghị lên kiểm sát viên cấp trên, điều này

không phù hợp bởi lẽ nếu kiểm sát viên đã rút quyết định truy tố (rút toàn bộ cáo

trạng) thì đương nhiên sẽ không có lời luận tội, cũng không có việc đối đáp tranh

luận giữa các bên và nếu Tòa án vẫn tiếp tục xét xử, vẫn ra bản án thì trái với chức

năng xét xử của Tòa án, qua đó xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội.

Đáng lẽ ra, khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố phần nào, thì Hội đồng

xét xử chỉ được xét xử phần còn lại, và nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định

truy tố thì vụ án phải được tuyên bố bị cáo vô tội, chứ không phải Hội đồng xét xử

lựa chọn là tiếp tục xét xử. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết

định truy tố đã mâu thuẫn với chức năng xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền công

32

tố của kiểm sát viên đặt ra yêu cầu nếu không có buộc tội thì không phát sinh việc

xét xử. Ở đây, cũng không nên lo ngại việc rút quyết định truy tố tùy tiện, bởi vì

pháp luật tố tụng hình sự đã tạo ra nhiều quy phạm tổng hợp, như quyền kháng cáo,

kháng nghị, chế độ kiểm tra, giám sát, trách nhiệm pháp lý ràng buộc đối với người

tiến hành tố tụng rất chặt chẽ.

Như vậy, tại phiên toà dù Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định

truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục tiến hành thủ tục tranh luận tại phiên tòa để

xác định sự thật của vụ án để có căn cứ xác định quyết định của Viện kiểm sát là có

căn cứ hay không. Khi nghị án, nếu Hội đồng xét xử thấy rằng việc rút quyết định

truy tố là đúng đắn thì ra bản án tuyên bị cáo không phạm tội. Nếu thấy rằng bị cáo

vẫn có tội và việc rút quyết định truy tố là không đúng thì quyết định tạm đình chỉ

vụ án và báo cáo vụ việc lên Viện kiểm sát cấp trên. Viện kiểm sát cấp trên nếu thấy

quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới là đúng đắn thì quyết định đình chỉ vụ án và

thông báo cho Tòa án đã xét xử, nếu thấy quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới

không đúng thì ra quyết định hủy quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới và đề nghị

Tòa án phục hồi xét xử đối với bị cáo.

2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án nhân

dân thị xã

2.2.1. Thực tiễn xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị

xã Bình Long, tỉnh Bình Phước

- Thứ nhất, về thực tiễn xét hỏi của Kiểm sát viên.

Theo quy định của pháp luật, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,

Kiểm sát viên thực hiện hai chức năng, đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Đây là một quyền đồng

thời cũng là nghĩa vụ của Kiểm sát viên.

Theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc hỏi của Kiểm sát viên

buộc phải hỏi theo thứ tự: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân

hỏi, sau đó mới đến lượt Kiểm sát viên hỏi. Như đã đề cập tại Chương 1, việc Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cho Hội đồng xét xử hỏi trước và xét hỏi

33

chủ yếu tại phiên tòa là không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành trong đó đã sửa đổi, bổ sung quy

định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa, do đó việc ai hỏi trước, ai hỏi sau là do Chủ

tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi quyết định cho phù hợp với từng vụ án và diễn

biến cụ thể tại phiên tòa, theo đó việc xét hỏi của Kiểm sát viên không còn theo thứ

tự cứng nhắc nữa mà Kiểm sát viên được hỏi lúc nào là do Chủ tọa phiên tòa quyết

định. Việc sửa đổi, bổ sung về trình tự xét hỏi của Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015 tạo ra một cơ chế thực sự dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa, tạo điều kiện để

thực hiện một cách có hiệu quả nhất quyền buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa [6,

tr.108]. Hơn nữa, thông qua việc xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xác

định đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết của vụ án làm cơ sở cho việc xác

định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý

vật chứng và các quyết định khác. Để đảm bảo điều này, Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 quy định chủ tọa phiên tòa quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ

tự hợp lý. Do vậy, Kiểm sát viên cần chủ động việc xét hỏi tại phiên tòa khi chủ tọa

phiên tòa yêu cầu xét hỏi. Khi được xét hỏi, Kiểm sát viên hoàn toàn có quyền hỏi

ai trước, ai sau theo chủ ý của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của Chủ tọa

phiên tòa. Kiểm sát viên có thể chủ động đề nghị Chủ tọa phiên tòa cho hỏi bất kỳ

ai nếu thấy cần thiết. Tuy nhiên, Kiểm sát viên cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và

xây dựng kế hoạch xét hỏi, dự kiến những câu hỏi và dự kiến với những tình huống

cụ thể có thể xảy ra tại phiên tòa để có phương án giải quyết cho phù hợp.

Tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, Bình Phước, xuất phát từ địa vị pháp

lý của Kiểm sát viên là người thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, là người

đại diện cho Viện kiểm sát để bảo vệ cáo trạng truy tố trước phiên tòa nên Kiểm sát

viên phải hỏi về toàn bộ vụ án để có cơ sở đề xuất trong phần luận tội, đề xuất tội

danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, Điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết

tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng,

biện pháp tư pháp… Điều đó có nghĩa là Kiểm sát viên phải bảo đảm tất cả chứng

34

cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án phải được kiểm tra công khai tại phiên tòa, không bỏ

sót chứng cứ, tài liệu, đồ vật nào.

Việc xét hỏi của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long tại

phiên tòa là sự kiểm tra lại các chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội,

tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại, xử

lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đã được thu thập

trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo vệ cáo trạng. Do đó, Kiểm sát viên phải đặt

những câu hỏi liên quan đến diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định

hành vi phạm tội của bị cáo, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức

độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị cáo; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật

và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình

tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, Kiểm sát viên đã thực hiện chức năng

gỡ tội cho bị cáo tại phiên tòa trong khi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 thì Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho

Viện kiểm sát thực hành quyền công tố cũng đồng nghĩa là thực hiện việc buộc tội

bị cáo, bởi vì “công tố” có thể hiểu là truy tố, buộc tội bị cáo và phát biểu ý kiến

trước Tòa án, nhân danh Nhà nước.

Tại Công văn số 13-CV/BCĐCCTP ngày 04/11/2003 của Ban chỉ đạo cải

cách tư pháp đã khẳng định: “Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên

tòa phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh

mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra

nhữngchứng cứ trực tiếp và những chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm

sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án”. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có

nhiều phiên tòa Kiểm sát viên đã không thực hiện hoặc thực hiện chưa tích cực

chức năng nhiệm vụ của mình đã được pháp luật trao cho. Kiểm sát viên chưa chủ

động xét hỏi hoặc chỉ hỏi những câu hỏi có tính chất bổ sung còn việc hỏi để chứng

35

minh tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án vẫn do Chủ tọa phiên tòa thực

hiện.

Thứ hai, về việc xét hỏi của Hội đồng xét xử

Thực tế có những vụ án đã xét xử tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long tỉnh

Bình Phước, khi xét hỏi bị cáo thì Chủ tọa phiên tòa bộc lộ ngay định kiến là xét hỏi

bị cáo theo hướng buộc tội, vì vậy khi bị cáo không thừa nhận lời khai của mình tại

giai đoạn điều tra thì Chủ tọa công bố các bút lục ghi lời khai của bị cáo tại giai

đoạn điều tra, đồng thời giáo dục bị cáo theo kiểu mớm cung như: nếu nhận tội thì

được giảm nhẹ hình phạt, nếu quanh co chối tội thì sẽ không được hưởng tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc làm như vậy tạo cảm giác Chủ tọa phiên tòa đã

có sẵn bản án và kết quả xét xử như thế nào thì đã được biết trước và như vậy là

không phù hợp với nguyên tắc tranh tụng theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự

2015.

Trong thực tiễn xét xử hầu như Hội thẩm nhân dân không nghiên cứu hồ sơ

vụ án trước khi mở phiên tòa, nếu có thì cũng chỉ nghiên cứu sơ sài, thậm chí có

Hội thẩm chỉ cần photo bản cáo trạng để xem nội dung vụ án như thế nào và ra xử.

Do đó, Hội thẩm không nắm rõ các tình tiết của vụ án, tại phiên tòa hoặc là Hội

thẩm không đặt câu hỏi, hoặc là hỏi lại những vấn đề mà Chủ tọa phiên tòa đã hỏi,

hoặc là chỉ hỏi vài câu hỏi cho có.

Sở dĩ không có sự đồng đều về vai trò giữa Chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm

nhân dân trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa có thể xuất phát từ các nguyên nhân

sau:

+ Một là, Hội thẩm nhân dân hiện nay còn kiêm nhiệm, cơ cấu Hội thẩm

nhân dân theo từng lĩnh vực như giáo dục, y tế, tài chính, hưu trí… mặc dù, Hội

thẩm có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp lý,

đây là vấn đề bất cập trong thực tiễn hiện nay.

+ Hai là, nhiều trường hợp Hội thẩm nhân dân đã được Chánh án phân công

xét xử vụ án nhưng đến ngày xét xử lại bận công việc không tham gia xét xử được,

do đó Tòa án phải mời Hội thẩm khác đến tham gia, Hội thẩm được mời không có

36

thời gian nghiên cứu hồ sơ nên chỉ đọc qua bản cáo trạng để biết nội dung vụ án rồi

tham gia xử. Do đó, tại phiên tòa Hội thẩm sẽ không hỏi hoặc hỏi ít thậm chí là hỏi

sai trọng tâm vụ án.

+ Ba là, vì Hội thẩm nhân dân hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên ý thức

trách nhiệm trong quá trình xét xử không áp dụng theo việc thi hành công vụ như ở

cơ quan của họ, tổng kết công tác thi đua khen thưởng cuối năm ở cơ quan không

xem hoạt động của cán bộ, công chức kiêm nhiệm là Hội thẩm làm tiêu chí đánh giá

năng lực công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì thế không phát huy được

tinh thần trách nhiệm của Hội thẩm trong công tác xét xử.

+ Bốn là, theo quy định của pháp luật và thực tiễn xét hỏi thì Chủ tọa phiên

tòa là người hỏi trước và hỏi chính đối với tất cả các vấn đề cần giải quyết trong vụ

án. Do đó, đến lượt Hội thẩm nhân dân hỏi thì không còn vấn đề gì để hỏi nữa, hỏi

về nội dung vụ án thì hỏi lại những câu hỏi mà Chủ tọa đã hỏi, cho nên Hội thẩm

hỏi những câu hỏi cho có và không đi vào trọng tâm vụ án hoặc không xét hỏi gì

thêm.

- Thứ ba, về thủ tục xét hỏi của những người tham gia tố tụng khác.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì khi xét hỏi từng

người, Người bào chữa hỏi sau Chủ tọa phiên tòa, các Hội thẩm và Kiểm sát viên.

Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Người bào chữa thực hiện việc xét hỏi sau

Kiểm sát viên là hợp lý, bởi vì chỉ sau khi xét hỏi buộc tội rồi mới đến xét hỏi gỡ tội

được. Về nguyên tắc thì Người bào chữa bình đẳng với Kiểm sát viên trong xét hỏi,

do đó để hỏi ai, hỏi về cái gì, hỏi như thế nào lại là quyền của Người bào chữa,

nhưng việc xét hỏi của Người bào chữa phải được đảm bảo thực hiện trên cơ sở tôn

trọng sự thật khách quan của vụ án và sử dụng các biện pháp hợp pháp, tuân thủ các

quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bào chữa không được xúi giục bị cáo

cố tình khai báo sai sự thật. Nhiệm vụ của Người bào chữa là gỡ tội, làm giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự của bị cáo, vì vậy tôn trọng sự thật khách quan không có nghĩa

là Người bào chữa phải làm rõ các tình tiết buộc tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự mà Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Người bào chữa khác chưa hỏi đến.

37

Khác với việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, Người bào chữa có thể đặt các

dạng câu hỏi khác nhau tùy theo phương pháp của từng Người bào chữa. Việc xét

hỏi của Người bào chữa không chỉ về các tình tiết của vụ án, mà còn làm sáng tỏ

các yếu tố liên quan đến vụ án như mối quan hệ giữa bị cáo và những người tham

gia tố tụng khác, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân bị cáo… điều này giúp cho

Hội đồng xét xử có sở sở để đánh giá chính xác, khách quan các chứng cứ đã được

thu thập trong hồ sơ vụ án.

Theo tinh thần cải cách tư pháp, mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống được

kết hợp với mô hình tố tụng tranh tụng. Vì vậy, hoạt động thẩm vấn tại phiên tòa là

rất quan trọng, hoạt động này nhằm kiểm tra chéo các chứng cứ, người làm chứng

để xác định tính đúng đắn, xác thực của lời khai có phù hợp với các tài liệu, chứng

cứ khác trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ, lời khai đó có được thu thập đúng

quy định của pháp luật hay không. Thông qua xét hỏi tại phiên tòa, các bên có

quyền đưa ra ý kiến, quan điểm nhận xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ của mình

và các vấn đề có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

quy định quyền thu thập chứng cứ chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện,

quy định gánh nặng xét hỏi cho Tòa án, trong khi đó Người bào chữa không được

quyền chủ động thu thập chứng cứ, do đó làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ

tại phiên tòa.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định Người bào chữa trong vụ án

hình sự có quyền xác minh, thu thập chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị cáo. Do

đó, Người bào chữa chủ động lập kế hoạch để tự xác minh, thu thập chứng cứ khi

thấy cần thiết. Những tài liệu, chứng cứ mà Người bào chữa thu thập được sẽ là cơ

sở để Người bào chữa xây dựng được kế hoạch xét hỏi đầy đủ, đúng trọng tâm, hỏi

những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không hỏi thừa những vấn đề cần hỏi, như

vậy việc xét hỏi tại phiên tòa của Người bào chữa mới đạt hiệu quả cao nhất.

Tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, đối với các vụ án

mà Người bào chữa là các Luật sư được chỉ định thì hầu hết là các Luật sư không có

ý kiến về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố mà Luật sư chỉ hỏi về hoàn cảnh gia

38

đình bị cáo, vấn đề bồi thường thiệt hại… để khi tranh luận chỉ xin Hội đồng xét xử

xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Thực tiễn xét xử cho

thấy phần lớn tại các phiên tòa mà có Luật sư chỉ định thì nội dung xét hỏi của Luật

sư chỉ là về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà hiển nhiên các bị cáo sẽ

được áp dụng, chỉ có ít phiên tòa các Luật sư hỏi về các vấn đề liên quan đến tội

danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, các vấn đề về những tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự để Hội đồng xét xử phải xem xét để áp dụng như: phạm tội nhưng

chưa gây thiệt hoặc gây thiệt hại không lớn; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít

nghiêm trọng; Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái

pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra…

Nguyên nhân người bào chữa không chủ động và chưa tích cực trong quá

trình xét hỏi tại phiên tòa có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau:

+ Một là, pháp luật trao cho Hội đồng xét xử quyền xét hỏi trước và hỏi

chính, hỏi tất cả các vấn đề trong vụ án, bao gồm cả buộc tội và gỡ tội. Do đó, cũng

như Kiểm sát viên, tại phiên tòa vai trò của Người bào chữa rất mờ nhạt. Lẽ ra

Người bào chữa nên chủ động, tích cực hỏi để bảo vệ quan điểm của mình về bị

cáo, nhưng Hội đồng xét xử đã hỏi hết, Người bào chữa không còn gì để hỏi hoặc

nhiều Người bào chữa lại có tâm lý ỷ lại, trông đợi ở Hội đồng xét xử. Vì ý thức

trách nhiệm chưa cao nên Người bào chữa không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa

vụ mà pháp luật quy định cho họ.

+ Hai là, việc tiếp cận hồ sơ vụ án của Người bào chữa hiện nay còn nhiều

bất cập, đây là một trong những nguyên nhân giảm hiệu quả của hoạt động xét hỏi.

Việc tiếp cận hồ sơ là cơ sở để xây dựng đề cương xét hỏi và chuẩn bị những điều

kiện cần thiết tham gia phiên tòa nhưng từ ngay khâu đầu tiên Người bào chữa đã

gặp khó khăn. Pháp luật quy định cho Người bào chữa được quyền đọc, ghi chép và

sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, tuy nhiên

trên thực tế khi nào Người bào chữa được đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong

hồ sơ vụ án là phụ thuộc vào Tòa án.

39

+ Ba là, một vấn đề cũng không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến việc

bào chữa của Người bào chữa, đó là thù lao của Người bào chữa hiện nay quá thấp,

nhất là đối với các trường hợp Người bào chữa được chỉ định, mức thù lao hiện nay

không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu để Người bào chữa toàn tâm toàn ý thu thập

tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch xét hỏi và bào chữa cho bị

cáo.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không đưa ra khái niệm về Người bảo vệ

quyền lợi của đương sự, nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa khái niệm

về Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là “người được bị hại, đương sự nhờ bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp”. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003 thì một người để được làm Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự thì phải

được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận. Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định này, hay nói cách khác Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015 đã bỏ cơ chế xin - cho của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,

đáp ứng theo đúng tinh thần cải cách tư pháp. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 đã tách bị hại ra khỏi khái niệm đương sự, do đó đương sự theo quy định

của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ còn nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và

người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Quyền tham gia xét hỏi của Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được quy

định khoản 2 Điều 207 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là sau Người bào chữa.

Quyền xét hỏi là một trong những phương tiện để Người bảo vệ quyền lợi của

đương sự thực hiện nghĩa vụ đối với người mà mình nhận bảo vệ thông qua việc hỏi

“những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự” (khoản 3 Điều

209). Sự tham gia của Người bảo vệ quyền lợi của đương sự phụ thuộc vào đương

sự mà họ nhận bảo vệ. Do đó, việc tham gia thực hiện các chức năng tố tụng phụ

thuộc vào tư cách tố tụng của đương sự. Nếu đương sự mà họ nhận bảo vệ là người

bị hại, nguyên đơn dân sự thì họ tham gia với chức năng buộc tội. Nếu đương sự mà

họ nhận bảo vệ là bị đơn dân sự thì họ là chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội. Dù ở

vai trò nào, cũng giống như Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự

40

có nghĩa vụ “sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự

thật của vụ án” (khoản 4 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003), bảo vệ quyền

lợi của đương sự mà mình nhận bảo vệ. Để tránh nhầm lẫn với chức năng của Kiểm

sát viên và Người bào chữa thì tại phiên tòa Người bảo vệ quyền lợi của đương sự

cần xác định chính xác đối tượng mà mình bảo vệ phải nhắm vào mục tiêu là lợi ích

của đối tượng đó để đặt câu hỏi tập trung, đúng trọng tâm.

Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Người bảo

vệ quyền lợi của đương sự bao gồm: Luật sư, Bào chữa viên nhân dân hoặc người

khác. Như vậy, đối tượng được tham gia bảo vệ quyền lợi của đương sự rộng hơn

Người bào chữa: ngoài Luật sư; Bào chữa viên nhân dân; Người đại diện hợp pháp

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn có đối tượng là “người khác”. Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015 không còn quy định chung chung đối tượng “người khác”

như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mà đã xác định rõ có 04 đối tượng có thể

làm Người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự là: Luật sư; Người đại diện; Bào

chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý. Tuy nhiên, cho dù là ai thì khi làm

Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự thì đều phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, xây

dựng kế hoạch xét hỏi liên quan đến vấn đề mà mình bảo vệ quyền lợi, tại phiên tòa

họ phải chủ động và tích cực tham gia xét hỏi.

Trên thực tế xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình

Phước người được mời tham gia tố tụng với tư cách là Người bào chữa chiếm tỷ lệ

cao hơn so với người được mời tham gia tố tụng với tư cách là Người bảo vệ quyền

lợi của đương sự. Tuy nhiên có những vụ án, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự

đã thực hiện vai trò của mình tại phiên tòa với tinh thần trách nhiệm rất cao.

Qua đó đã cho thấy tinh thần trách nhiệm rất cao của Luật sư bảo vệ quyền

lợi cho bị hại, Luật sư đã nghiên cứu hồ sơ rất kỹ lưỡng, nắm chắc từng vấn đề về tố

tụng cũng như nội dung của vụ án, xây dựng kế hoạch xét hỏi chất lượng, hiệu quả,

tập trung vào những tình tiết để buộc tội bị cáo.

Tuy nhiên, có những vụ án Người bảo vệ quyền lợi của đương sự xin vắng

mặt tại phiên tòa chỉ gửi bản trình bày ý kiến cho Hội đồng xét xử hoặc khi tham

41

gia phiên tòa, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự không xét hỏi mà chỉ đến khi

tranh luận phát biểu ý kiến là đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, đồng

ý với bản luận tội của Kiểm sát viên, yêu cầu bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho

bị hại. Qua đó thấy được sự thiếu trách nhiệm, thụ động của Người bảo vệ quyền lợi

của đương sự khi thực hiện nhiệm vụ của mình, trong khi đương sự trông chờ được

Luật sư trợ giúp về mặt pháp lý, đấu tranh với những vấn đề còn bất nhất trong hồ

sơ vụ án nhưng cái mà họ nhận được từ Người bảo vệ quyền lợi chỉ là một bản trình

bày ý kiến được gửi cho Hội đồng xét xử hoặc là câu đề nghị Hội đồng xét xử xem

xét về trách nhiệm dân sự của bị cáo.

Nguyên nhân những bất cập của Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là:

+ Một là, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người hỏi cuối cùng, sau

khi Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và Người bào chữa đã hỏi hết tất cả các vấn đề

trong vụ án đến khi Người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi thì không còn gì để

hỏi.

+ Hai là, tâm lý của Người bảo vệ quyền lợi của đương sự không đặt nặng

như tâm lý của Người bào chữa là làm sao cho bị cáo được vô tội hoặc tội nhẹ nhất.

Thường thì Người bảo vệ quyền lợi của đương sự quan tâm đến trách nhiệm bồi

thường của bị cáo, làm sao cho đương sự được bồi thường mức cao nhất.

+ Ba là, cũng như Người bào chữa chỉ định, Người bảo vệ quyền lợi của

đương sự mà được chỉ định thì thù lao trả cho họ rất thấp. Vì vậy, họ thường không

có tinh thần trách nhiệm cao nhất trong việc thu thập chứng cứ, chủ động tham gia

xét hỏi để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của đương sự.

2.2.2. Thực tiễn tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân

thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước

- Thứ nhất, tranh luận của Kiểm sát viên.

Thực tiễn công tác kiểm sát xét xử án hình sự của Kiểm sát viên tại Tòa án

nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước trong những năm gần đây cho thấy các

Kiểm sát viên đã nhận thức đúng và đầy đủ về bản chất, ý nghĩa của tranh luận đối

với quá trình xét xử vụ án hình sự và vai trò của mình trong việc thực hiện chức

42

năng công tố tại phiên tòa, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn và

rèn luyện kỹ năng trong tranh luận để từ đó xây dựng dự thảo bản luận tội, đề cương

xét hỏi, dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và hướng xử lý khi

tranh luận, đối đáp phù hợp với diễn biến tại phiên tòa. Đồng thời, Kiểm sát viên đã

chủ động và tích cực hơn khi tham gia xét hỏi để kiểm tra các chứng cứ, tài liệu và

các tình tiết về vụ án; ghi chép ý kiến, đề nghị của bị cáo, bị hại và những người

tham gia tố tụng khác để kịp thời bổ sung bản luận tội và để phục vụ cho phần tranh

luận được tốt hơn. Khi tranh luận, đối đáp Kiểm sát viên bình tĩnh phân tích, lập

luận có sức thuyết phục trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và

phù hợp với các quy định của pháp luật để làm sáng tỏ sự thật khách quan về vụ án,

bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân truy tố là có căn cứ. Vì vậy,

hoạt động tranh luận, đối đáp và đề xuất của Kiểm sát viên về các vấn đề cần giải

quyết trong vụ án có sức thuyết phục không chỉ đối với Hội đồng xét xử mà cả với

những người tham dự phiên tòa. Ngoài ra, kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên

cũng có nhiều tiến bộ, linh hoạt thể hiện ở thái độ khiêm tốn, khách quan, bình đẳng

và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng; sử dụng thuật ngữ chính xác,

lập luận ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có sức thuyết phục nên từng bước đã khắc

phục hiện tượng “đao to, búa lớn” trong tranh luận, đối đáp.

Tuy nhiên, trong Báo cáo tại kỳ họp thứ 2 Quốc Hội khóa XI, Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thừa nhận: “Trong thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử, vai trò của Kiểm sát viên ở nhiều Viện kiểm sát nhân dân còn yếu,

chưa làm tốt việc tranh luận tại phiên tòa”.

Những tồn tại này được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:

- Một số Kiểm sát viên không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên không phát

hiện được những mâu thuẫn giữa các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; những vi phạm về

thủ tục tố tụng; bỏ sót nội dung chưa được làm rõ ở giai đoạn điều tra như: Về tình

tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (chưa thu thập tài liệu để xác định

hoặc thu thập không đầy đủ),...; chuẩn bị không tốt dự thảo luận tội, kế hoạch tham

43

gia xét hỏi, không dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và hướng xử lý

nên thường bị động, lúng túng trong tranh luận, đối đáp.

Thứ hai, về việc tranh luận của những người tham gia tố tụng khác.

Ngoài Kiểm sát viên thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện và

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng tham gia vào quá trình tranh

luận. Trên thực tế, tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, trong đa

số trường hợp các chủ thể này (trừ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự) rất hạn chế về hiểu biết pháp luật và không có kỹ năng tranh luận.

Trong số các chủ thể thuộc bên bào chữa thì người bào chữa (Luật sư) là chủ

thể có vai trò quan trọng trong tranh luận tại các phiên tòa. Đến nay cả nước đã có

62 Đoàn Luật sư với hơn 9.436 Luật sư hành nghề. Trong đó, có trên 3.000 tổ chức

hành nghề Luật sư (Văn phòng Luật sư và Công ty luật). Ngoài ra, cả nước có trên

3.500 người tập sự hành nghề Luật sư, là nguồn bổ sung đáng kể cho đội ngũ Luật

sư trong tương lai [8]. Tuy nhiên, phần lớn các Luật sư giỏi thường tập trung tại các

thành phố lớn, các khu dân cư phát triển, một số Luật sư đi tỉnh để giải quyết các vụ

án hình sự thì chi phí thuê khá cao. Do đó, đối với các vùng miền còn khó khăn,

trình độ dân trí thấp, kinh tế chưa phát triển như thị xã Bình Long, Bình Phước thì

việc có Luật sư giỏi, am hiểu chặt chẽ các quy định pháp luật là rất ít. Chính điều

này đã hạn chế phần lớn chất lượng tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cho

thấy đa số các Luật sư đã có sự chuẩn bị công phu những luận cứ bào chữa, còn

không ngần ngại và chủ động tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm tìm ra

sự thật khách quan, nên đã đưa ra được các chứng cứ thuyết phục, áp dụng đúng

đắn các quy định của pháp luật; các quan điểm bào chữa và đề xuất có căn cứ,

khách quan, lập luận chặt chẽ và có sức thuyết phục được Hội đồng xét xử chấp

nhận; góp phần khắc phục những oan, sai, đem lại sự công bằng cho các bên tham

gia tố tụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tại các phiên tòa hình sự

sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước vẫn còn một số tồn

44

tại, hạn chế trong hoạt động của Luật sư nhất là trong tranh tụng nói chung và trong

tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng, thể hiện ở một số điểm sau đây:

- Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp trong những năm gần đây số vụ án

hình sự xét xử có Luật sư tham gia phiên tòa chỉ chiếm khoảng 20% tổng số vụ án

được xét xử, trong đó nhiều trường hợp bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu

cầu Luật sư bào chữa theo quy định của pháp luật. Tính tỷ lệ Luật sư so với dân số

của Việt Nam (khoảng 90 triệu dân) thì có tỷ lệ chỉ khoảng 1 Luật sư/10.000 dân là

quá thấp so với các nước trên thế giới: Tỷ lệ này ở Mỹ là 1/250, Nhật Bản là 1/400

và Singabore là 1/1000. Bên cạnh số lượng Luật sư hiện có so với số dân còn rất

thấp, thì đội ngũ Luật sư còn có sự phát triển mất cân đối lớn giữa khu vực thành thị

- nông thôn, miền núi - đồng bằng và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Số lượng

Luật sư tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như thành phố Hà Nội (có 2.476 Luật

sư) và thành phố Hồ Chí Minh (có 3.756 Luật sư), hai nơi này đội ngũ Luật sư đã

chiếm khoảng 2/3 trong tổng số Luật sư của cả nước, còn tại các địa phương khác,

số lượng Luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý).

- Thực tế rất nhiều vụ án do không có tiền thuê Luật sư nên bị cáo gặp rất

nhiều khó khăn trong việc tự bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho

mình. Trong khi đó một bộ phận không nhỏ trong xã hội là những người có kiến

thức pháp luật có thể bào chữa với mức thù lao thấp, thậm chí miễn phí cho bị cáo

nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì họ

không thể là người bào chữa. Theo số liệu khảo sát tại một số Tòa án nhân dân hai

cấp về số vụ án đã xét xử sơ thẩm trong các năm 2014 – 2017 có Luật sư tham gia

bào chữa so với tổng số các vụ án đã xét xử sơ thẩm chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm

tốn.

Điều này dẫn đến tình trạng còn lại khoảng 75% các vụ án hình sự, các bị

cáo không có người bào chữa tham gia phiên tòa. Đối với các phiên tòa này hoạt

động tranh luận giữa các bên diễn ra tẻ nhạt và mang tính thủ tục. Ngay cả đối với

một số phiên tòa có Luật sư tham gia (nhất là trong trường hợp do cơ quan tiến hành

tố tụng yêu cầu) thì hoạt động tranh luận, đối đáp của các bên nói chung và của Luật

45

sư bào chữa nói riêng chất lượng cũng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng này do một số

nguyên nhân sau:

- Một số Luật sư còn hạn chế về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề

nghiệp, nhất là kỹ năng trong tranh luận tại các phiên tòa; không nghiên cứu kỹ hồ

sơ vụ án; không làm tốt công tác chuẩn bị bày bào chữa, không dự kiến trước những

phương án bào chữa khác nhau,… nên chất lượng hoạt động bào chữa trong một số

trường hợp không cao, không bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của bị

cáo.

- Một số Luật sư không tham gia tích cực vào quá trình xét hỏi, tranh luận

hoặc không chú ý theo dõi diễn biến tại phiên tòa, không ghi chép hoặc ghi chép

không đầy đủ, chính xác nội dung, quan điểm luận tội hoặc ý kiến đối đáp của Kiểm

sát viên và những người tham gia tố tụng khác về các vấn đề cần giải quyết trong vụ

án. Vì vậy, khi tranh luận một số Luật sư chỉ phát biểu chung chung, có trường hợp

chỉ phát biểu một câu rất ngắn gọn “tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung buộc tội của

đại diện Viện kiểm sát nhân dân và xin giảm nhẹ cho bị cáo” và ngồi xuống.

- Trong một số trường hợp do không cập nhật kịp thời đầy đủ các quy định

của pháp luật (Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm, Bộ luật Dân sự,…) đã

được sửa đổi, bổ sung hoặc các văn bản mới ban hành có liên quan đến vụ án bào

chữa nên việc viện dẫn quy định của pháp luật chưa chính xác. Kỹ năng diễn đạt,

trình độ phân tích, lập luận trong tranh luận của một số Luật sư còn hạn chế nên lời

bào chữa không chặt chẽ, sự thuyết phục chưa cao. Nguyên nhân là do một số Luật

sư chạy theo cơ chế thị trường, ít chịu khó nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp

luật, tinh thần và trách nhiệm trong giải quyết một số vụ án chưa cao.

Ngoài người bào chữa, thì bị cáo, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa

vụ liên quan, người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng

tham gia vào quá trình tranh luận. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp các chủ thể

này (trừ Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự) rất hạn chế về hiểu

biết pháp luật và không có kỹ năng tranh luận. Vì vậy, vai trò của họ trong tranh

46

luận tại phiên tòa chỉ mang tính chất bổ sung, còn hoạt động tranh luận, đối đáp với

các chủ thể của bên buộc tội chủ yếu do Luật sư thực hiện.

Kết luận chương 2

Trên cơ sở kế thừa những nội dung Chương 1 về cơ sở lý luận, các quan

điểm và căn cứ pháp lý của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, Chương 2 phân

tích về thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị

xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Trên cơ sở hai hoạt động chính có nhiều bất cập phát sinh là thủ tục xét hỏi

và thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, người viết phân tích hoạt động tố tụng

của ba nhóm chủ thể chính là Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên (bên buộc tội và kiểm

sát tuân thủ pháp luật) và các chủ thể tham gia tố tụng khác (chủ thể chính là người

bào chữa và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp).

Cuối cùng, nếu Chương 1 có ý nghĩa then chốt trong việc xác định cơ sở lý

luận và những vấn đề pháp lý của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,

Chương 2 vừa có vai trò bổ sung làm rõ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thị xã

Bình Long, tỉnh Bình Phước. Từ đó, người viết có cơ sở thực tiễn để nghiên cứu và

phân tích những kiến nghị sửa đổi, bổ sung trong Chương 3 nhằm tính hiệu quả

trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã

Bình Long, tỉnh Bình Phước nói riêng, trong hoạt động tố tụng nói chung.

47

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG

TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

3.1. Các yêu cầu đặt ra trong việc chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm

3.1.1. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong những năm qua Bộ Chính trị đã ban

hành một số Nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật. Đặc biệt là

tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, chủ trương đề cao vai trò tranh

tụng tại phiên tòa nói chung và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng.

Các bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại

phiên tòa, nhất là ở phần tranh luận.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thời gian qua đã cho thấy về mặt lý luận cũng

như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các quy định về trình tự tranh tụng tại phiên

tòa sơ thẩm vụ án hình sự còn một số bất cập, hạn chế như: Đối với vụ án mà bị cáo

có người đại diện hợp pháp thì chưa quy định người đại diện hợp pháp của bị cáo

trình bày bào chữa cho bị cáo và đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại

lẽ ra người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, bị hại hoặc người đại diện

hợp pháp của họ sẽ trình bày buộc tội đối với bị cáo trước khi người bào chữa bào

chữa cho bị cáo hoặc trước khi bị cáo trình bày bào chữa cho mình (nếu không có

người bào chữa) thì mới phù hợp với chức năng của bên buộc tội và bên bào chữa

trong tố tụng hình sự. Đồng thời, chưa quy định đại diện của bị cáo được quyền

trình bày ý kiến tranh luận. Ngoài ra, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự

sơ thẩm còn nhiều hạn chế, một số phiên tòa việc tranh luận vẫn còn mang tính hình

thức, vai trò của các chủ thể tham gia tranh tụng chưa phát huy đúng mức, nhiều vụ

án chưa phát huy hết khả năng tranh luận của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên

tòa; một số Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa chưa xem trọng quá trình tranh tụng tại

48

phiên tòa, chưa tạo điều kiện cho các bên tham gia tranh luận và đối đáp một cách

tích cực, thường khống chế thời gian tranh luận; trình độ chuyên môn và kỹ năng

một số kiểm sát viên còn hạn chế, chưa am hiểu nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng

với nhiệm vụ được giao; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác hoặc

người đại diện hợp pháp của họ phần lớn rất hạn chế về hiểu biết pháp luật và

không có kỹ năng tranh luận. Những quy định trên cũng như thực tiễn áp dụng pháp

luật trong những năm vừa qua chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, cần được tháo

gỡ cả từ gốc độ lập pháp và áp dụng pháp luật liên quan đến trình tự tranh tụng tại

phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam.

3.1.2. Nhu cầu khắc phục các hạn chế

Thực trạng tranh luận tại các phiên toà xét xử hình sự sơ thẩm qua đánh giá,

phân tích ở trên cho chúng ta thấy, bên cạnh mặt tích cực thì hoạt động này cũng

còn rất nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục. Những hạn chế và bất cập này

đều xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định, thể hiện

như sau:

Trước tiên là những nguyên nhân từ những bất cập trong quy định của pháp

luật Tố tụng hình sự hiện hành: Hiện nay dưới sự phát triển không ngừng, liên tục

của nền kinh tế thị trường, cộng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng

mạnh mẽ, pháp luật nước ta nói chung, trong đó có pháp luật Tố tụng hình sự vẫn

chưa đáp ứng và theo kịp được sự phát mạnh mẽ đó. Hơn nữa pháp luật của nước ta

được xây dựng và hoàn thiện trong điều kiện vừa tìm tòi vừa rút kinh nghiệm và

tiếp thu kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các nước trên thế giới, do đó cũng còn

nhiều lĩnh vực, nhiều quy định chưa rõ ràng và không phù hợp với thực tiễn và đặc

thù của đất nước, từ đó làm giảm hiệu quả thi hành pháp luật. Một trong những quy

định còn bất cập đó, có các quy định liên quan đến việc tranh luận tại phiên toà xét

xử hình sự sơ thẩm của pháp luật nước ta.

Ví dụ các quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tranh

tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm cũng chưa phù hợp. Như quy định tại các Điều

49

306 đến Điều 325 về xét hỏi, hỏi, nghe lời trình bày hay các quy định về trình tự

phát biểu, đối đáp khi tranh luận chưa được đầy đủ và chưa cụ thể, rõ ràng; chưa

phù hợp với logic chức năng buộc tội và bào chữa, chưa bao quát đầy đủ các chủ

thể có quyền tranh luận đối đáp; hay quy định tại Điều 325 của Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 2015 về rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn của

Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án…tất cả các quy định

này còn chưa phù hợp nên trong quá trình áp dụng cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng, hiệu quả tranh luận tại các phiên toà xét xử các vụ án hình sự.

Thứ hai là những nguyên nhân từ yếu tố con người: Hiện nay trình độ, nhận

thức của đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp của nước ta cơ bản cũng đã đáp ứng

được yêu cầu của nhiệm vụ và công cuộc cải cách tư pháp. Tuy nhiên cũng còn có

một số Điều tra viên, Kiểm sát Viên, Thẩm phán, Luật sư trình độ chuyên môn và

nhận thức chưa đáp ứng được yêu cầu này. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại một bộ

phận không nhỏ những cán bộ bị tha hoá, vi phạm đạo đức, tư cách nghề nghiệp,

điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc điều tra xử lý tội phạm nói chung, trong đó

có việc ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tranh luận tại các phiên toà.

Ngoài ra với điều kiện thu nhập, chế độ lương, phụ cấp như hiện nay chưa

đảm bảo được đời sống cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là đội ngũ

cán bộ công chức của cá cơ quan tư pháp, do đó chưa khích lệ được tinh thần và

động viên họ yên tâm công tác. Đây là một trong nững nguyên nhân dẫn đến một số

tiêu cực trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp hiện nay.

Về phía các chủ thể tham gia vào quá trình tranh luận như bị cáo, người bị

hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan…đa số họ đều có sự hạn chế trong nhận

thức và hiểu biết về pháp luật, do đó khi tham gia phiên toà, tham gia tranh luân họ

rất khó bảo vệ quyền lợi của mình. Đây cũng là một trong những lý do ảnh hưởng

đến chất lượng tranh luận tại phiên toà.

Thứ ba là những nguyên nhân về cơ sở vật chất, kỹ thuật: Mặc dù Đảng,Nhà

nước ta cũng đã quan tâm hơn đến việc chăm lo phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật

cho các ngành tư pháp, tuy nhiên so với nhu cầu thực tế thì vẫn chưa đáp ứng được.

50

Nhiều nơi Hội trường xét xử, phòng xử án còn chật chội, cũ kỹ, không có phòng

cách ly người làm chứng, hệ thống, chất lượng âm thanh không đảm bảo…do đó

không phục vụ tốt việc xét xử và ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả tranh luận tại

các phiên toà, đặc biệt là đối với các phiên toà ở vùng sâu, vùng xa của đất nước.

3.2. Một số giải pháp cụ thể

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

3.2.1.1. Quy định về trình tự xét hỏi: Hiện nay, quy định về trình tự xét hỏi

của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn gặp nhiều hạn chế như những phân tích

ở chương trên. Nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, học viên

cho rằng Việt Nam nên học hỏi Hoa Kỳ về vấn đề này như sau: Cho phép kiểm sát viên tự quyết định thứ tự xét hỏi người nào trước người nào sau dựa trên kinh

nghiệm làm việc, kỹ năng của mình. Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi

trước rồi đến người bào chữa, bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác.

Thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ nên hỏi thêm những vấn đề cần thiết nhưng

chưa được làm rõ hoặc còn mâu thuẫn trong qua trình xét hỏi của các bên. Nhưng

hỏi theo hướng để gợi mở vấn đề, sau đó có thể để Kiểm sát viên hoặc người bào

chữa tiếp tục vấn đề đó. Với trình tự xét hỏi như vậy sẽ buộc Kiểm sát viên tích cực

xét hỏi để bảo vệ bản cáo trạng của mình, người bào chữa có nhiều cơ hội để củng

cố lời bào chữa thông qua việc hỏi người tham gia tố tụng và qua đó tạo điều kiện

cho Hội đồng xét xử có thời gian tập trung lắng nghe các bên trình bày để có những cơ sở toàn diện và khách quan để đưa ra đánh giá phán quyết hợp lý. Bên cạnh đó,

tiếp tục nhấn mạng vai trò điều hành việc hỏi của Thẩm phán chủ tọa. Việc điều

hành ở đây không mang ý nghĩa thẩm phán tích cực xét hỏi người được triệu tập mà

điều hành việc hỏi ở đây có nghĩa như sau: Trong quá trình lắng nghe các bên xét hỏi, chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian xét hỏi và tạo điều kiện cho người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đặt câu hỏi. Nhưng chủ tọa phiên tòa

có quyền tự mình hoặc xem xét đề nghị của các bên khi cắt bỏ những câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo lặp lại hoặc không liên quan đến vụ án hoặc câu hỏi có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác điều tra hoặc xúc phạm nhân phẩm, danh dự

người đang được hỏi.

Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước,hỏi sau theo thứ tự hợp lý. 51

Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó quyết định để

thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.

Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi

thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.

Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên

quan đến việc giám định,định giá tài sản.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung như sau:

Kiểm sát viên phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội

trong vụ án và từng người nhằm quyết định hỏi người nào trước, hỏi người nào sau

theo thứ tự hợp lý.

Khi hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Cuối cùng, Hội đồng xét xử

thực hiện việc hỏi. Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi xét thấy việc hỏi chưa đầy đủ hoặc

có mâu thuẫn.

Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi

thêm về những tình tiết cầm làm sáng tỏ.

Ngưởi giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên

quan đến việc giám định, định giá tài sản.

Khi xét hỏi, Kiểm sát viên, người bào chữa và Hội đồng xét xử xem xét vật

chứng có liên quan trong vụ án.

Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi, không được hạn chế thời gian xét

hỏi và tạo điều kiện cho người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đặt câu hỏi.

Chủ tọa phiên tòa có quyền tự mình hoặc xem xét đề nghị của các bên cắt bỏ những

câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo lặp lại hoặc không liên quan đến vụ án hoặc câu hỏi

có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác điều tra hoặc xúc phạm nhân phẩm, danh dự người đang được hỏi.

3.2.1.2. Trách nhiệm đối với Thẩm phán

Từ những so sánh, phân tích những điểm giống và khác nhau về vai trò của

Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật tố tụng hình sự

của Hoa Kỳ có thể nhận ra rằng: vấn đề của Thẩm phán tại Việt Nam đó chính là sự

nhập nhằng về chức năng. Chúng ta vẫn quan niệm rằng chức năng chính của thẩm

phán là xét xử. Thẩm phán được ví như là người trọng tài công minh và trung lập,

52

dựa trên những gì các bên trình bày, lập luận để đưa ra phán quyết đúng đắn. Nhưng

trong các hoạt động tố tụng, Thẩm phán Việt Nam còn thực hiện một số hoạt động

tố tụng không thuộc chức năng xét xử dẫn đến tình trạng Thẩm phán hoạt động quá

tích cực tại phiên tòa và sự thụ động của Kiểm sát viên và luật sư. Tác giả đưa ra

những kiến nghị hoàn thiện pháp luật theo hướng đưa thẩm phán về đúng chức

năng, vị trí của mình:

Thẩm phán không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Như đã phân tích ở

chương II, trách nhiệm chứng minh tội phạm vô tình đã tạo cho Thẩm phán quá

nhiều gánh nặng. Thẩm phán phải thực hiện các hoạt động không thuộc chức năng

của mình như: tích cực tham gia vào các hoạt động xét hỏi, thẩm vấn những người

tham gia tố tụng. Điều này vô tình tạo nên sự chênh lệch giữa bên buộc tội và bên

gỡ tội, sự tranh tụng tại phiên tòa diễn ra mờ nhạt và mang tính hình thức.

Kiến nghị bỏ khoản 4 điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như

sau:

1. Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có

dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy

định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.

2. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết

định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 của Bộ luật này.

3. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:

a) Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan

điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

b) Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố;

c) Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu

khởi tố của Hội đồng xét xử.

4. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố

vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

53

khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử yêu cầu

bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy

tố đó. Trường hợp bị hại, đương sự, người đại diện của họ đồng ý với việc rút quyết

định truy tố đó thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không phạm tội thay vì tiếp tục xét

xử. Bởi vì khi Kiểm sát viên, bị hại, người đại diện của người bị hại đều muốn rút

lại toàn bộ quyết định truy tố thì sự buộc tội lúc đó đã chấm dứt, kéo theo sự chấm

dứt của chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Hiển nhiên, người bị buộc tội lúc

này phải được tuyên không phạm tội chứ không phải tiếp tục xét xử. tác giả đề nghị

điều chỉnh điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ

hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị

án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về

việc rút quyết định truy tố đó.

Kiến nghị sửa đổ, bổ sung như sau:

1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội

nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

2. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội

đồng xét xử yêu cầu bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến về việc

rút quyết định truy tố đó.

a. Trường hợp bị hại, đương sự, người đại diện của họ đồng ý với việc rút

quyết định truy tố đó thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không phạm tội.

b. Trường hợp bị hại, đương sự, người đại diện của họ không đồng ý với

việc rút quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

3.2.1.3. Trách nhiệm đối với Hội thẩm nhân dân: Do hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác

hoặc đã nghỉ hưu, nên không thể hiện được cái nhìn của nhiều ngành nghề và cũng

không thể hiện được tính đại diện nhân dân tham gia xét xử. Chính vì vậy phạm vi

lựa chọn nhân sự để bầu, cử làm Hội thẩm cần được mở rộng hơn, đa dạng hơn về ngành nghề. Khi xét xử vụ án có liên quan đến lĩnh vực nào thì ưu tiên chọn những 54

Hội thẩm có am hiểu về lĩnh vực đó tham gia phiên tòa. Chỉ như vậy, các Hội thẩm

nhân dân mới có thể nắm bắt được nhanh chóng các vấn đề của vụ án, cũng như

cung cấp cho thẩm phán những kiến thức, cái nhìn chuyên môn hơn về lĩnh vực họ am hiểu.

3.2.1.4. Trách nhiệm đối với Kiểm sát viên

Bổ sung vào Điều 319 quy định về việc Kiểm sát viên rút quyết định truy tố

hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát

viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ

hơn.

Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy

tố thì Hội đồng xét xử chỉ xét xử phần mà Viện kiểm sát vẫn truy tố.

Nếu Kiểm sát viên kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục

giải quyết toàn bộ vụ án.

Nếu Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử ra quyết

định đình chỉ vụ án và quyết định trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

- Sửa đổi khoản 4, Điều 326: “4. Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ

quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án và tuyên trả tự

do cho bị cáo ngay tại phiên tòa. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì

tuyên bố bị cáo không có tội”.

3.2.1.5. Quy định về người bào chữa

Dựa trên những so sánh, phân tích tại chương II về vấn đề từ chối người bào

chữa chỉ định của người bị buộc tội trong trường hợp bị cáo là người chưa thành

niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, theo quan điểm học viên,

cách giải quyết của Hoa Kỳ có nhiều ưu điểm đáng học hỏi. Theo đó, tòa án sẽ xem

xét chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu từ tối người bào chữa chỉ định của bị

cáo là người chưa thành niên, ngưới có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần dựa

trên khả năng thực tế của họ. Bởi vì việc tự bào chữa là vấn đề khá khó khăn ngay

cả đối với người đã thành niên có đầy đủ nhận thức và ý thức. Trong khi đó, người

chưa thành niên và người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần là những chủ thể

55

mà trí tuệ, khả năng suy nghĩ của họ chưa hoặc không phát triển đầy đủ. Chính vì

vậy, khi giải quyết yêu cầu từ chối người bào chữa chỉ định của bị cáo là người

chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì tòa án có

quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận. Việc quy định như vậy một mặt vẫn bảo

đảm được quyền có người bào chữa của bị cáo, đảm bảo hiệu quả bào chữa nhằm

cân bằng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, nâng cao chất lượng tranh tụng. Mặt

khác quy định này có thể bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân của bị

cáo tránh oan sai và những vi phạm trong tố tụng. Tuy nhiên, cơ sở để tòa án chấp

nhận hoặc không chấp nhận việc từ chối luật sư chỉ định của người chưa thành niên

hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần vẫn chưa được xác định rõ

ràng. Tòa án Hoa Kỳ phải cũng gặp không ít khó khăn trong vấn đề này. Thông

thường tại Hoa Kỳ, Thẩm phán sẽ dựa trên bản báo cáo của các chuyên gia để quyết

định. Nếu áp dụng điều này cho Việt Nam, có thể sẽ dẫn đến việc không đồng nhất

trong vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận từ chối luật sư bào chữa. Chính vì

vậy, để phù hợp hơn tình hình Việt Nam thì đối với trường hợp từ chối người bào

chữa chỉ định của người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào

chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi tòa án sẽ luôn

không chấp nhận.

Khoản 3, Điều 77 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “Thay đổi hoặc từ

chối người bào chữa”:

“Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ

luật này, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có

quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.

Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác

được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 76 của Bộ luật này.

Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội hoặc người

đại diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoàn 1 Điều

76 của Bộ luật này và chấm dứt việc chỉ định của người bào chữa.”

56

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung như sau:

1. …

2.

3. Trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 điều 76

của Bộ luật này, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ

vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.

Trường hợp bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất

của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình (điểm a, khoản 1, điều 76)

từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải thích về

quyền lợi của họ, lập biên bản về việc từ chối người bào chữa và vẫn tiến hành giải

quyết vụ án với sự có mặt của người bào chữa đã cử.

Trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự

bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi (điểm b,

khoản 1, điều 76) từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng phải giải thích về quyền lợi của họ và không chấp nhận yêu cầu từ chối người

bào chữa của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị

buộc tội.

3.2.1.6. Quy định về tranh luận tại phiên tòa

Nhằm bảo đảm cho các chủ thể tham gia vào quá trình tranh luận tại các

phiên tòa hình sự sơ thẩm thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ

nhất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể theo đúng quy

định của pháp luật, xử lý nghiêm người có hành vi phạm tội, tránh làm oan sai

người không có tội, làm cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình đấu tranh phòng,

chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì học

viên thấy cần thiết phải kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về

trình tự tranh luận và đối đáp trong tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được

quy định tại Điều 320 và Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm hoàn

thiện các quy định này, cụ thể như sau:

57

Cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 320 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 theo hướng: Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị

hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình

bày luận tội; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có

quyền trình bày, bổ sung ý kiến.

Cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015 theo hướng: Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có

quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với

Kiểm sát viên, bị hại (người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại) hoặc

người đại diện của bị hại (trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại) về

những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân

thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư

pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ

án.

Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị

của mình.

Để tháo gỡ những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật, trước hết

kiến nghị đến Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn trình tự

tranh luận và đối đáp tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm theo hướng:

+ Một là, sau khi kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội. Bị

cáo trình bày bào chữa; người bào chữa trình bày bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người

đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Bị hại, đương sự, người đại

diện của họ trình bày ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nếu có

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ

sung ý kiến. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc

người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận

58

tội; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì người này trình bày trước, bị

hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến.

+ Hai là, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình

bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát

viên và bị hại (trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại), người đại

diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại về những chứng cứ xác

định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị

cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình

phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều

kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.

+ Ba là, dựa trên những phân tích về điểm giống và khác giữa Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015 của Việt Nam và pháp luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ

trong chương II, tác giả đưa ra những kiến nghị về phần tranh luận tại phiên tòa như

sau: học viên kiến nghị bỏ đi cụm từ đối đáp đến cùng trong khoản 2 điều 322 Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập

luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố

tụng khác tại phiên tòa.”. Vì chúng ta khó có thể giải thích như thế nào là đối đáp

đến cùng. Như chương II đã trình bày, trong thực tiễn xét xử sẽ có những trường

hợp cùng một chứng cứ, cùng một vấn đề nhưng việc đánh giá giá trị chứng minh,

quan điểm triển khai ở mỗi người là khác nhau. Mỗi người đứng ở khía cạnh khác

nhau sẽ có sự đánh giá khác nhau và có thể chúng đều hợp lý. Nếu phải đối đáp đến

cùng những trường hợp như vậy thì rất khó xác định khi nào là đến cùng hoặc thậm

chí gây kéo dài thời gian vô ích và không khí nơi xét xử trở nên căng thẳng, nặng

nề. Như vậy, điều 320 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “Trình tự phát biểu khi

tranh luận” sẽ có thay đổi về thứ tự trình bày và bổ sung thêm điều khoản mới như

sau: Sau khi kết thúc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày lời luận tội trước; Sau đó đến

bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích của

mình ngay sau phần trình bày của Kiểm sát viên (không phân biệt giữa trường hợp

59

vụ án được hay không được khởi tố theo yêu cầu của bị hại); Tiếp đến là lời bào

chữa của bị cáo, người bào chữa, người đại diện của bị cáo; Cuối cùng Kiểm sát

viên trình bày ý kiến đối đáp lại từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham

gia tố tụng khác tại phiên tòa. Việc quy định như vậy, một mặt có thể giúp cho lời

bào chữa của bị cáo, người bào chữa được trọn vẹn hơn, đầy đủ hơn sau khi đã nghe

một cách tổng quát những lập luận buộc tội của kiểm sát viên, cũng như những ý

kiến của bị hại, người đại diện của bị hại. Mặt khác, việc trình bày ý kiến của kiểm

sát viên để đối đáp lại từng lập luận của người bào chữa là một nghĩa vụ, một bước

kế tiếp của quá trình tranh luận. Kiểm sát viên không thể bỏ qua hoặc từ chối thực

hiện. Điều này giúp nâng cao hơn chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, bảo

vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.

3.2.2. Một số giải pháp khác

3.2.2.1. Giải pháp hoàn thiện vai trò của Kiểm sát viên

Từ những phân tích ở chương II cho thấy vấn đề của Viện Kiểm sát không

nằm hoàn toàn ở quy định của Pháp luật mà hiện nay Viện kiểm sát cần nâng cao về

chất và lượng của đội ngũ cán bộ để thực hiện ngày càng tốt hơn, vững vàng hơn

chức năng buộc tội của mình. Học viên đưa ra một số kiến nghị như sau:

- Đề nghị phân công công tác, đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên chuyên trách

theo từng lĩnh vực tố tụng cố định trong suốt quá trình làm việc, đặc biệt là thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Bởi lẽ, trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm nghiêm khắc nhất, nếu có oan sai thì

việc khắc phục hậu quả vô cùng khó khăn, thậm chí không thể khắc phục. Chính vì

vậy cần có sự chuyên môn hóa lĩnh vực đối với Kiểm sát viên. Kiểm sát viên trong

lĩnh vực án hình sự sẽ được tạo điều kiện bồi dưỡng nghiệp vụ về giải quyết án hình

sự, những kỹ năng cần thiết trong việc tranh tụng tại phiên tòa thay vì được đào tạo

chung cả về án dân sự, hành chính,... Chính sự chuyên trách trong một lĩnh vực tố

tụng nhất định thì kiểm sát viên mới vững vàng về kiến thức chuyên môn, có nhiều

cơ hội tập trung và bồi đắp kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực tố tụng đó. Kinh

60

nghiệm thực tiễn càng phong phú, chuyên sâu thì kiểm sát viên càng có bản lĩnh

nghề nghiệp và chất lượng giải quyết vụ án sẽ đạt hiệu quả tốt hơn.

- Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cho kiểm sát viên chuyên về tố tụng

hình sự cần được chú trọng những kỹ năng đặc thù của kiểm sát viên cần có khi

thực hành quyền công tố tại phiên tòa như:

+ Kỹ năng xét hỏi: Kiểm sát viên phải đặt câu không mang tính áp đặt, ngắm

gọn, dễ hiểu, sử dụng ngôn từ chuẩn mực nhưng vẫn khai thác tốt những thông tin,

giải quyết được các mâu thuẫn ở người được hỏi. Trong trường hợp có nhiều bị cáo

thì phải có chuẩn bị trước hỏi vấn đề nào trước, hỏi bị cáo nào trước để có thể bộc

lộ những tình tiết có ý nghĩa nhằm giải quyết vụ án có hiệu quả.

+ Kỹ năng quan sát, lắng nghe, tổng hợp ý kiến: Kiểm sát viên không thể

khăng khăng nói rằng giữ quan điểm như trong quyết định truy tố mà không thể giải

thích, lập luận để phản bác bất cứ điểm mâu thuẫn nào ở luật sư bào chữa. Kiểm sát

viên phải biết lắng nghe, quan sát và tổng hợp những điểm mà luật sư đưa ra, xem

xét liệu thông tin đó là đúng hay có mâu thuẫn. Nếu đó là thông tin đúng thì phải

ghi chép và có sự điều chỉnh cho phù hợp. Nếu đó là thông tin không đáng tin cần

lập luận làm rõ hoặc bác bỏ.

+ Kỹ năng lập luận: đây là kỹ năng không thể thiếu đối với kiểm sát viên khi

thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Để sự buộc tội có chất lượng, ngoài những

chứng cứ hữu hiệu thì khả năng lập luận của Kiểm sát viên là yếu tố góp phần cho

việc buộc tội đạt hiệu quả cao. Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến hoặc bác bỏ ý

kiến của người bào chữa theo phương pháp quy nạp hoặc diễn giải nhưng quan

trọng là phải có dẫn chứng cụ thể. Kiểm sát viên không thể bày tỏ quan điểm phủ

nhận ý kiến của người bào chữa mà không nêu ra luận cứ, luận chứng thiết thực

nào.

- Kiểm sát viên cần ý thức rằng chức năng của Viện kiểm sát là buộc tội

những người thật sự phạm tội, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan

người vô tội. Khi thực hiện việc buộc tội một người, Kiểm sát viên không được chủ

quan, xem nhẹ, hoạt động trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội, tôn

61

trọng quyền con người, quyền công dân. Kiểm sát viên cần phát huy hơn nữa tính

chủ động trong việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, chú trọng khâu chuẩn bị đề

cương xét hỏi và có thái độ chuẩn mực tại phiên tòa xét xử.

- Thời hạn tố tụng là một trong những áp lực đối với Kiểm sát viên. Viện

kiểm sát các cấp cần quan tâm bố trí đủ lực lượng kiểm sát viên cho công tác thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, tránh để tình trạng quá tải

trong việc giải quyết án, đảm bảo kiểm sát viên có đủ thời gian để nghiên cứu hồ sơ

và chuẩn bị xét xử.

- Kiểm sát viên chủ động nâng cao, hoàn thiện bản thân, bản lĩnh chính trị,

đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy và tự giác cao với công việc.

3.2.2.2. Giải pháp hoàn thiện vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

+ Thẩm phán và Hội thẩm nhân cần ý thức rằng chức năng của họ là xét xử.

Vì vậy, trong các hoạt động của mình cần giữ sự vô tư, khách quan, độc lập, có thái

độ trung lập và điều khiển phiên tòa công bằng và tuân theo pháp luật. Thẩm phán

và Hội thẩm nhân dân phải tập trung lắng nghe lời trình bày của các bên trong quá

trình tranh tụng, dựa trên những chứng cứ được trình bày, kiểm tra, tranh luận tại

phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định.

+ Chú trọng phát triển các kỹ năng xét xử, điều khiển phiên tòa, xử lý tình

huống. Trong hoàn cảnh đất nước mở cửa hội nhập kinh tế, cần thường xuyên củng

cố, phổ biến những kiến thức mới, những kỹ năng xét xử chuyên biệt đối với các vụ

án về lĩnh vự chứng khoán, kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài, công nghệ

thông tin,…

+ Tập trung kinh phí và xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sửa

chữa, cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc cho Toà án nhân dân các cấp. Đảm bảo

phòng xét xử được bố trí phù hợp với Công văn 88/TANDTC-PC về việc triển khai

mô hình phòng xử án của Tòa án nhân dân Tối cao về vị trí chỗ ngồi của các thành

phần tham gia phiên tòa. Đồng thời các trụ sở tòa án cũng phải đảm bảo có những

phòng cách ly thích hợp để phục vụ cho phiên tòa xét xử cần cách ly các bị cáo

hoặc những người tham gia tố tụng khác.

62

+ Nâng cao về kiến thức pháp luật của Hội thẩm nhân dân đồng thời giảm

những vấn đề Hội thẩm tham gia giải quyết. Theo đó, Hội thẩm nhân dân cần có có

trình độ pháp luật từ trung cấp trở lên hoặc đã phải qua một lớp bồi dưỡng kiến thức

pháp luật tập trung ít nhất 06 tháng. Với trình độ pháp luật đó, hội thẩm nhân dân có

thể đảm nhiệm tốt chức năng xét xử, hạn chế sự phụ thuộc vào thẩm phán. Đồng

thời, vấn đề của vụ án mà Hội thẩm nhân dân có thể tham gia quyết định chỉ nên là

xác định có hay không có căn cứ kết tội bị cáo, trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải

xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng và kiến nghị phòng

ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm. Điều này tương tự như phiên tòa hình sự Hoa

Kỳ. Bởi vì, những vấn đề khác như tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do

các bên đưa ra hay hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo hay trách

nhiệm bồi thường thiệt hại hay án phí hình sự, xử lý vật chứng, cần những thẩm

phán chuyên nghiêp, có trình độ chuyên sâu về pháp luật quyết định. Như vậy, khi

nghị án, thẩm phán quyết định vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc

trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không, xác định tính hợp pháp của

những chứng cứ, tài liệu do các bên cung cấp, trình bày. Sau đó, các Hội thẩm nhân

dân cùng với thẩm phán bắt đầu quyết định có hay không có căn cứ kết tội bị cáo,

xác định điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự áp dụng dựa trên những chứng cứ,

tài liệu đã được thẩm phán xác định tính hợp pháp trước đó. Cuối cùng, Thẩm phán

giải quyết các vấn đề còn lại của vụ án như hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng

đối với bị cáo, bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt

hay không, án phí,…

Bên cạnh đó, đối tượng để bầu, cử làm hội thẩm tại Việt Nam không được đa

dạng như ở Hoa Kỳ. Do hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc

giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức

của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu [26]. Nên không thể

hiện được cái nhìn của nhiều ngành nghề và cũng không thể hiện được tính đại diện

nhân dân tham gia xét xử. Chính vì vậy phạm vi lựa chọn nhân sự để bầu, cử làm

Hội thẩm cần được mở rộng hơn, đa dạng hơn về ngành nghề. Khi xét xử vụ án có

63

liên quan đến lĩnh vực nào thì ưu tiên chọn những Hội thẩm có am hiểu về lĩnh vực

đó tham gia phiên tòa. Chỉ như vậy, các Hội thẩm nhân dân mới có thể nắm bắt

được nhanh chóng các vấn đề của vụ án, cũng như cung cấp cho thẩm phán những

kiến thức, cái nhìn chuyên môn hơn về lĩnh vực họ am hiểu.

3.2.3. Giải pháp hoàn thiện vai trò của những người tham gia tố tụng

+ Đội ngũ luật sư cần được phát triển cả về chất lượng và số lượng. Mặc dù

trong thời gian qua, số lượng luật sư ở nước ta có sự phát triển vượt bậc nhưng nếu

so sánh tỷ lệ luật sư trên số dân ở Việt Nam với các quốc gia khác thì tỉ lệ này còn

nghị tổng kết 5 năm thi hành luật Luật sư (2007 – 2011), tỷ lệ luật sư trên số dân tại Việt

Nam là 1 luật sư/14.000 người dân, trong khi đó tỉ lệ này ở Thái Lan là 1/1.526, Singapore

là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250. Chính vì vậy chúng ta cần

khá thấp, không đảm bảo nhu cầu cần được tư vấn và bào chữa (Theo báo cáo tại Hội

tích cực mở rộng hơn số lượng luật sư bào chữa.

+ Trong công tác đào tạo luật sư, cần tăng cường bồi dưỡng về các kỹ năng

tranh tụng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, vấn đề đạo đức

nghề nghiệp, văn hóa ứng xử cũng cần được quan tâm hoàn thiện.

+ Nhanh chóng hoàn thiện bộ “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của

luật sư trong tranh tụng và tư vấn pháp lý”. Ngày 10/01/2018, Liên đoàn luật sư

Việt Nam đã phối hợp cùng Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ (ABA) tổ chức hội thảo bàn về

quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư trong quá trình tranh tụng và tư

vấn pháp lý. Qua buổi hội thảo, luật sư Việt Nam có thể rút ra những kinh nghiệm

quý giá để phát triển và hoàn thiện bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của

luật sư trong tranh tụng và tư vấn pháp lý. Bộ quy tắc này sẽ là “kim chỉ nam” cho

luật sư trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, trong mối quan hệ với khách hàng

và đồng nghiệp góp phần giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng

đáng với sự tôn vinh của xã hội.

Kết luận chương 3

64

Chương 1 và Chương 2 đã phân tích làm những vấn đề cơ bản về lý luận,

thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị

xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, người viết trình bày những kiến nghị liên

quan đến hoạt động của các chủ thể tham gia hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình

sự sơ thẩm bao gồm Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, những người

tham gia tố tụng khác như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người bào chữa.

Bên cạnh bất cập liên quan đến hoạt động của các chủ thể tham gia hoạt

động tranh tụng, người viết cũng trình bày những kiến nghị sửa đổi, bổ sung liên

quan đến trình tự, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

65

KẾT LUẬN

Tranh tụng trong tố tụng hình sự là quá trình cọ sát các quan điểm, lập luận

về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình

tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, nhưng quá trình tranh

tụng không đồng nhất với quá trình tố tụng hình sự.

Người viết đã phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động tranh tụng

trong tố tụng hình sự. Từ đó, người viết xác định mô hình tranh tụng theo pháp luật

Việt Nam là mô hình tranh tụng có sự kết hợp mô hình thẩm vấn (sự thật vụ án

được xác định chủ yếu trong quá trình xét hỏi) và mô hình tranh tụng (sự thật vụ án

được xác định chủ yếu trong quá trình tranh luận). Trong tiến trình cải cách tư pháp,

việc nâng cao chất lượng tranh tụng (phần tranh luận, đối đáp giữa bên buộc tội và

bên bào chữa) có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật, hạn chế oan sai,

đúng người đúng tội.

Người viết đã phân tích thực trạng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Từ thực tiễn xét xử, người

viết lần lượt phân tích vai trò, trách nhiệm và những bất cập trong quá trình áp dụng

pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động tranh tụng. Từ cơ sở lý luận và cơ sở

thực tiễn, người viết đã trình bày những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh

tụng tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban biên soạn chuyên từ điển: New Era (2005) Từ điển Tiếng Việt, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.1966.

2. Bộ Tư pháp (1957) Thông tư số 22 của Bộ tư pháp trả lời một số điểm về

quyền bào chữa, ban hành ngày 08/12/1957, Hà Nội.

3. Lê Tiến Châu (2003) “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS”, Tạp chí

Khoa học pháp lý, số 1, tr.44.

4. Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam (1946) Sắc lệnh 13/SL, về tổ chức các

Tòa án và ngạch Thẩm phán (sửa đổi Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950), ban hành

ngày 24/1/1946, Hà Nội.

5. Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam (1946) Sắc lệnh ấn định thẩm quyền

của Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, Hà Nội.

6. Ngô Cường (2017) Bảo đảm tranh tụng trong xét xử (sách tham khảo),

Nxb Thanh Niên;

7. Nguyễn Ngọc Kiện (2016) Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ

thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ

Chí Minh;

8. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2012) Báo cáo số: 251/LĐLSVN ngày

29/10/2012 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

9. Nguyễn Đức Mai (1996) “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự”,

Tạp chí luật học, số 1, tr.23-24.

10. Nguyễn Đức Mai (1995) “Tranh tụng trong Tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà

Nước và Pháp luật, số 1, tr.31.

11. Từ Văn Nhũ (2002) “Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng

tranh tụng tại phiên tòa hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, tr.4.

12. Nguyễn Thái Phúc (2003) “Dự thảo BLTTHS sửa đổi và nguyên tắc tranh

tụng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9, tr.7.

13. Nguyễn Thái Phúc (2007) “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Những

vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý,

tid=118:ctc20075&id=337:mhtthsvnnvllvtt&Itemid=110>, (ngày 20/8/2017).

14. Quốc hội (2009) Bộ luật Hình sự năm 1991, sửa đổi bổ sung năm 2009,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Quốc hội (2017) Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Quốc hội (1988) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Nxb Chính trị quốc

gia – Sự thật, Hà Nội.

17. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

18. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

19. Quốc hội (1992) Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội (2004) Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội (1960) Luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, Nxb Chính trị quốc

gia – Sự thật, Hà Nội.

23. Quốc hội (1981) Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981, Nxb Chính trị quốc

gia – Sự thật, Hà Nội.

24. Quốc hội (2014) Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Quốc hội (2004) Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Lê Văn Sua (2015) “Chế định về Hội thẩm, vai trò của Hội thẩm khi tham

gia xét xử - Một số kiến nghị hoàn thiện”,Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp,

(20/10/2015).

,

27. Nguyễn Trương Tín (2007) Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo quy

định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ Luật hình sự, Trường

đại học Luật TP.HCM.

28. Tòa án nhân dân tối cao (1974) Thông tư số 16- TATC, phần thứ 4 quy

định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa, ban hành ngày 27/9/1974, Hà Nội.

29. Hoàng Anh Tuyên (2016) “Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình

sự” trong “Những điểm mới trong Bộ luật TTHS năm 2015”, tr.318-322

30. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) Thông báo tổng hợp ý kiến nhận xét

về phiên tòa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017 của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

31. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014) Chuyên đề “Tranh tụng và những

giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trang thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao, , truy cập ngày 06/6/2017.

32. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao– Bộ Công an – Bộ Quốc phòng (2005)

Thông tư liên tịch số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa Cơ

quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2003, ban hành ngày 07/9/2005, Hà Nội.

33. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an –

Bộ Quốc phòng (2005) Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TA TC-BCA -

BQP về Hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê

hình sự, thống kê tội phạm, ban hành ngày 01/7/2005, Hà Nội.

34. Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (1992) “Tập Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ

Chí Minh ký về Nhà nước và Pháp luật”, tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư

pháp, Hà Nội.

35. Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (2015) Báo cáo số: 1020/BC-UBTVQH13,

ngày 25/11/2015 về tiếp thu, giải trình ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về dự án Bộ

luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Hà Nội.

36. FreeAdvice staff, “What is litigation?”,

, (28/5/2019).