VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CÔNG THẮNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CÔNG THẮNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung
thực. Các kết luận khoa học của luận văn là kết quả quá trình tự nghiên cứu
của tác giả!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN CÔNG THẮNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............. 7
1.1. Khái niệm tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ... 7
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 11
1.3. Cơ sở quy định và điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự ........................................................................................... 14
1.4. Lịch sử lập pháp các quy định về tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự ........................................................................................... 17
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .............................. 20
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự ................................................................................. 20
2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh ........................................................................................................... 22
2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân .............................. 34
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 43
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ........... 44
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự 44
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự .............................................................................................................. 45
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
VAHS : Vụ án hình sự
THTT : Tiến hành tố tụng
TAND : Tòa án nhân dân
TTHS : Tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
VKS : Viện kiểm sát
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019. .......................................... 23
Bảng 2.2. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh giải quyết có Luật sư tham gia bào chữa từ năm 2015 đến năm 2019 24
Bảng 2.3. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh giải quyết có Luật sư tham gia bào chữa do được Chỉ định tham
gia từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................... 25
Bảng 2.4. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát và số vụ án hình sự sơ
thẩm Viện kiểm sát rút quyết định truy tố hoặc thay đổi tội danh từ
năm 2015 đến năm 2019 ......................................................................... 26
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh tụng trong TTHS là một khái niệm quen thuộc nhưng ở nước ta,
đây là một vấn đề còn mới, ít được đề cập trong khoa học pháp lý. Tranh tụng
được đề cập chính thức trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị
quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: đẩy mạnh tranh tụng tại
tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp.
Tuy nhiên, tranh tụng chỉ được coi là nguyên tắc cơ bản trong TTHS cho đến
khi BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực nhằm thể chế hóa
những quy định trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta và thực tiễn
xét xử và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Mặc dù BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có bước
tiến bộ rất lớn khi ghi nhận những nội dung liên quan đến tranh tụng như ghi
nhận nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26); điều
chỉnh khái niệm về chứng cứ, quy định quyền thu thập chứng cứ của người
bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ; bổ sung quy định
về giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279); quy định
chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290 và Điều
291)...nhằm tăng cường tranh tụng, góp phần hạn chế oan sai nâng cao chất
lượng giải quyết các vụ án hình sự.
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian vừa qua trên địa bàn cả nước và tỉnh Bắc
Ninh cho thấy quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 vẫn có một
số quy định chưa phù hợp với thực tiễn và các quy định khác của BLTTHS,
trong thực tiễn thì hoạt động tranh tụng vẫn còn mang tính hình thức, chưa
được chú trọng và quan tâm đúng mức; chưa được phát huy đúng mức nhiều
vụ án chưa phát huy hết khả năng tranh luận của các chủ thể tham gia tố tụng
tại phiên tòa; một số Hộ đồng xét xử mà vai trò chủ yếu là Thẩm phán được
1
phân công chủ tọa phiên tòa chưa xem trọng quá trình tranh tụng tại phiên tòa,
chưa tạo điều kiện cho các bên tham gia tranh luận và đối đáp một cách tích
cực, vẫn còn có tình trạng khống chế thời gian tranh luận; bên cạnh đó thì
trình độ chuyên môn và kỹ năng của chủ thể buộc tội là Kiểm sát viên còn
hạn chế, chưa am hiểu nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng với nhiệm vụ được
giao; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác hoặc người đại diện
hợp pháp của họ phần lớn rất hạn chế về hiểu biết pháp luật và không có kỹ
năng tranh luận…
Do vậy, trước yêu cầu của của việc tiếp tục cải cách tư pháp, nâng cao
chất lượng tranh tụng, hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm và thực tiễn tranh tụng tại
tỉnh Bắc Ninh, tác giả chọn đề tài: “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài trên cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu, mà tiêu biểu là một số công trình sau:
(i) Về sách chuyên khảo (Giáo trình, Bình luận khoa học BLTTHS):
Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2011), Bình
luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Học viện Khoa
học Xã hội (2012), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Nxb.Tư pháp, Hà Nội;
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai (2011), Đề tài
khoa học cấp cơ sở Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về “Hoàn thiện các
quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm- cơ sở lý luận và thực tiễn”, Hà Nội; Phạm Hồng Hải (2004), Cải cách
tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb.
Đại học Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Thái Phúc (1995), “Một số vấn đề về
quyền công tố”, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận và thực
2
tiễn cấp bách của TTHS Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Nguyễn
Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên) (2003), Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
(ii) Luận văn thạc sĩ, tiến sĩ: Nguyễn Hải Ninh (2003), Thủ tục xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Tiến Long (2005),
Thực hiện pháp luật đảm bảo Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử án hình sự
sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Hồng Nhung (2014), Cơ sở
lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở
tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội; Lê Trung Dũng (2018), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của cá tòa án quân sự
Quân khu 2, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;
v.v…
(iii) Tạp chí và các tài liệu khác: Trần Văn Độ (2004), Bản chất của
tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04; Nguyễn Thái Phúc
(2008), Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong TTHS theo yêu cầu
của cải cách tư pháp, Tạp chí NN&PL, số 08; Nguyễn Trương Tín (2010),
Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của người bị hại và nguyên đơn dân
sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí
luật học, số 03; Cao Xuân Phong (2003), Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo
trong phiên tòa mở rộng tranh tụng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
08/2003; Đinh Văn Quế (2004), Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 01/2004;
PGS. TS Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí
3
khoa học pháp lý, số 04/2004; Từ Văn Nhũ (2012), Đổi mới thủ tục xét xử
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 10/2012, Hà Nội; v.v...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát
chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về tranh tụng, nhiều công trình nghiên cứu về tranh tụng trong bối
cảnh BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật; tính đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu đề tài trên trong phạm vi một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh,
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Do vậy, việc nghiên cứu
đề tài: “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh” là vấn đề hoàn toàn mới và không trùng lặp với các công trình đã
nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài trên nhằm làm sâu sắc thêm lý luận và
pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở đó,
luận văn đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế vướng mắc của
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và
nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế, từ đó luận văn kiến nghị một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự của tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm; cũng như khái quát lịch sử lập pháp tố tụng hình
sự về tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
- Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại Bắc Ninh giai đoạn năm 2015 đến năm
4
2019.
- Luận văn phân tích những yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi pháp luật tố tụng hình sự mà trọng
tâm là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Ninh
Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải
cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp cụ thể
như: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, thống kê…để nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sâu sắc
thêm một số vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thông qua phân tích thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh. Đồng thời, nâng cao nhận thức về hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là một tài liệu
5
tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học những nội dung liên quan đến
hoạt động tranh tụng và là tài liệu có giá trị tham khảo về mặt lý luận đối với
những người làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tố tụng của tỉnh Bắc
Ninh, cũng như là tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy. Kết quả
nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về
hoạt động tranh tụng trong công tác xây dựng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại
6
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự
1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự
Có thể nói “tranh tụng” là kết quả, thành tựu tiến bộ của nhân loại trong
việc bảo vệ quyền con người. Trong tố tụng hình sự thì đây là cơ chế hữu hiệu
để đi đến chân lý trong vụ án, bảo đảm sự công bằng và minh bạch trong giải
quyết vụ án hình sự.
Các nhà nghiên cứu lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới chứng minh
rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại nổi
tiếng người Hy Lạp Plato. Ông cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về
một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất
hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật” [16, tr.10]. Ý tưởng này của Plato
được các luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng là một trong những
nguyên tắc cơ bản của TTHS ở nhà nước Hy Lạp cổ đại. Dưới góc độ ngôn
ngữ học thì, tranh tụng là “thưa kiện nhau để giành lẽ phải” [43, tr.1966]. Như
vậy, về ngôn ngữ, tranh tụng là sự kiện tụng hay cáo buộc lẫn nhau giữa các
bên có lợi ích đối lập nhau.
Do đó, có thể hiểu: Tranh tụng là việc các bên đưa ra quan điểm cùng
với các luận cứ để bảo vệ và tranh luận với nhau, để bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ quan điểm của bên ngược lại nhằm đạt mục đích của mình.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam có nhiều cách hiểu khác
nhau và chưa thống nhất quan điểm về tranh tụng.
Quan điểm cho rằng: “Tranh tụng là quá trình tranh luận, trao đổi giữa
các bên. Trong tranh tụng, các quan điểm pháp lý khác nhau được cọ sát và
7
chân lý khách quan xuất hiện” [14, tr.126]. Khái niệm này tiếp cận tranh tụng
là quá trình tranh luận giữa các quan điểm khác nhau là chưa đúng với bản
chất của tranh tụng. Bởi theo tác giả, tranh tụng bên cạnh việc tranh luận còn
là quá trình đấu tranh nhằm phủ định, bác bỏ lẫn nhau giữa hai quan điểm
buộc tội và gỡ tội, để đi tới chân lý khách quan.
Còn theo từ điển Tiếng Việt thì, tranh tụng là “Thưa kiện nhau để dành
lẽ phải” [46, tr.1966].
Tác giả Nguyễn Trương Tín có quan điểm: “Tranh tụng trong TTHS
được hiểu là quá trình đối trọng bình đẳng nhằm phủ định lẫn nhau giữa chức
năng buộc tội và bào chữa” [25].
Nhận xét: các khái niệm tranh tụng nêu trên đều có những yếu tố hợp
lý, mặc dù còn có cách tiếp cận khác nhau nhưng các tác giả đều thống nhất ở
nội hàm: tranh tụng là hoạt động tố tụng, trong đó có sự tham gia của hai chủ
thể là buộc tội và gỡ tội nhằm bác bỏ quan điểm của nhau. Tuy nhiên theo tác
giả, để xây dựng được khái niệm tranh tụng với đầy đủ nội hàm cần bao hàm
được yếu tố chủ thể, phạm vi và cách thức thực hiện tranh tụng.
Tiếp thu các quan điểm về khái niệm tranh tụng nêu trên nêu trên, dưới
góc độ phân tích tranh tụng trong tố tụng hình sự, tác giả đưa ra khái niệm
tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau: Tranh tụng trong tố tụng hình sự là
hoạt động nhận thức, tư duy và là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự do các chủ thể buộc tội và gỡ tội thực hiện trên cơ sở tài
liệu, chứng cứ và các kỹ năng tranh luận được thực hiện theo trình tự, thủ tục
do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ
quan điểm của biên kia làm cơ sở để kết luận về vụ án hình sự.
Bên cạnh khái niệm về tranh tụng còn có một số khái niệm liên quan và
quan hệ gần gũi, mật thiết là khái niệm về “nguyên tắc tranh tụng”, “bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng”, “tranh tụng tại phiên tòa” và “tranh tụng ngoài phiên
tòa”. Theo đó, nguyên tắc tranh tụng nguyên tắc cơ bản trong tố tụng tư pháp,
8
trong đó có TTHS, mang tính định hướng chỉ đạo hoạt động của các chủ thể
thực hiện các giai đoạn tố tụng, là một góc độ tiếp cận của tranh tụng. Tuy
nhiên, tranh tụng còn được tiếp cận dưới nhiều góc độ như là một mô hình tố
tụng...Tranh tụng trong TTHS diễn ra ở mọi giai đoạn của quá trình tố tụng,
tuy nhiên chỉ có thể được tiến hành đầy đủ tại phiên tòa đặc biệt là phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng (trong TTHS) là những điều kiện, cơ sở
nhằm tạo điều kiện cho các bên buộc tội, gỡ tội và trách nhiệm của Tòa án
trong việc tạo điều kiện cho các bên thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Tranh tụng ngoài phiên tòa là hình thức có sự đấu tranh, phủ định lẫn
nhau giữa các bên có chức năng, đối trọng với nhau nhưng không có sự tham
gia của Tòa án (Hội đồng xét xử) như là trung gian, trọng tài cho hoạt động
tranh tụng mà thay vào đó là một chủ thể khác như Hội động trọng tài...
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất: Về khái niệm phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
mà ở đó phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là hình thức hoạt động xét xử lần
đầu của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xét xử vụ án hình sự để xem xét và ra
phán quyết lần đầu về toàn bộ vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định. Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự cũng chính là nơi mà các chủ
thể buộc tội và chủ thể gỡ tội thực hiện chức năng tố tụng của mình một cách
công khai và đầy đủ nhất. Tại phiên tòa sơ thẩm thì Kiểm sát viên được phân
công là người thực hiện chức năng buộc tội - thực hành quyền công tố tại
phiên tòa; bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện chức năng bào chữa
theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bản chất của hoạt động xét
xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chính là sự kiểm tra một cách công
khai tất cả các tài liệu, chứng cứ của vụ án đã được thu thập trong quá trình
9
điều tra, thông qua kết quả tranh tụng của các chủ thể buộc tội và gỡ tội để có
cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện về quan điểm của Cơ quan
điều tra thông qua bản Kết luận điều tra và của Viện kiểm sát, thông qua Cáo
trạng truy tố bị can ra trước Tòa án.
Thứ hai: Về khái niệm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chính là sự đối trọng
nhằm phủ định lẫn nhau giữa chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội nhưng sự
khác biệt là Tòa án mà ở đây là Hội đồng xét xử với vai trò là trọng tài điều
hành phần tranh tụng của hai bên. Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự các
chủ thể buộc tội và gỡ tội thực hiện chức năng tố tụng của mình một cách
công khai và đầy đủ nhất bởi đây là nơi hội tụ đầy đủ ba chức năng cơ bản
của tố tụng hình sự là: Buộc tội, bào chữa và xét xử mà kết quả tranh tụng tại
tòa chính là căn cứ để Hội đồng xét xử, bên buộc tội và bên bào chữa xác định
sự thật vụ án được khách quan nhất.
Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng buộc tội trực tiếp do
Kiểm sát viên, bị hại (trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại)
thực hiện. Kiểm sát viên buộc tội thông qua Cáo trạng, quá trình xét hỏi, luận
tội và tranh luận với bên bào chữa. Bị hại được quyền trình bày ý kiến, đưa ra
các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chức năng bào
chữa tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chủ yếu do bị cáo, người bào chữa,
người đại diện hợp pháp của (bị cáo, pháp nhân thương mại) thực hiện. Phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất
quá trình tố tụng nói chung và tranh tụng nói riêng.
Do vậy, có thể hiểu: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là
hoạt động nhận thức, tư duy và là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự do các chủ thể buộc tội và gỡ tội thực hiện tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự, trên cơ sở tài liệu, chứng cứ và các kỹ năng tranh luận
được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định
10
nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của biên kía, dưới sự điều
khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung tâm, trọng tài nhằm đi đến việc
giải quyết vụ án hình sự.
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự
1.2.1. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Từ khái niệm nêu trên, dưới góc độ pháp lý, chúng ta có thể thấy
những đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, về chủ thể tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự thì bên cạnh sự xuất hiện của hai
chủ thể là chủ thể buộc tội và gỡ tội thì còn có sự xuất hiện của chủ thể thứ ba
là Hội đồng xét xử. Ba chủ thể trên gắn liền với ba chức năng tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là buộc tội, bào chữa (gỡ tội) và xét xử do các chủ
thể có địa vị pháp lý khác nhau thực hiện.
- Nhóm chủ thể có chức năng tranh tụng gồm: Chủ thể chính là bên
buộc tội và bên gỡ tội.
+ Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội: Viện kiểm sát (đại diện là
Kiểm sát viên), thực hành quyền công tố tại phiên tòa để nhân danh Nhà nước
buộc tội bị cáo tại phiên tòa. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật và trước Viện trưởng (Phó Viện trưởng) về hành vi, quyết định của mình.
+ Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại (trường hợp vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của bị hại) – cũng chủ thể buộc tội nhân danh cá nhân.
Trường hợp buộc tội này là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết quy định tại khoản 1 các điều 134, 135,
136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 BLHS năm 2015. Theo đó: bị hại
hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa và họ có quyền
11
trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.
+ Chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội: Bị cáo, người bào chữa; người
đại diện cho bị cáo hoặc pháp nhân thương mại đưa ra các chứng cứ, các căn
cứ pháp lý và lập luận để bác bỏ sự buộc tội, đưa ra các kết luận, yêu cầu và
đề nghị với Hội đồng xét xử về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa thì bị cáo
trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Người bào
chữa hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào
chữa và tình tiết khác của vụ án theo hướng gỡ tội (vô tội hoặc giảm nhẹ).
- Nhóm chủ thể có chức năng xét xử: Là các thành viên của Hội đồng
xét xử được phân công giải quyết vụ án, đóng vai trò trung gian, trọng tài cho
các chủ thể khác tham gia tranh tụng tạo điều kiện cho các chủ thể khác thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ và tranh tụng dân chủ, bình đẳng.
- Nhóm các chủ thể khác: như người làm chứng, người có quyền lợi
liên quan...nhằm giúp Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án.
Thứ hai, về nội dung tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Nội dung tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện ở việc
các bên (buộc tội, gỡ tội) có quyền đưa ra các tài liệu, chứng cứ do các Cơ quan và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập được trong quá trình điều tra hoặc
các tài liệu, chứng cứ do người bào chữa tự thu thập theo đúng quy định của pháp
luật tố tụng hình sự để tranh luận với nhau nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án
điều hành của Hội đồng xét xử (Chủ tọa phiên tòa).
Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, thông qua tranh tụng thì kết quả tranh
tụng cũng chính là cơ sở để Hội đồng xét xử căn cứ để chứng minh, làm rõ nội
dung vụ án từ đó Hội đồng xét xử có những đánh giá khách quan, toàn diện và
đưa ra bản án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Thứ ba, về phạm vi tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự giữa các bên được
bắt đầu khi Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, xét hỏi, tranh luận đối đạp về các
12
chứng cứ có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của
bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức
hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân,
điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Thứ tư, về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Ngay phần thủ tục bắt đầu phiên tòa cũng hết sức quan trọng mà ở đó
Hội đồng xét xử phải: Kiểm tra sự có mặt của những thành phần được triệu
tập đến phiên tòa như bị cáo, bị hại, người làm chứng; xem xét và giải quyết
yêu cầu đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, về sự vắng
mặt của người tham gia tố tụng; giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho
người tham gia tố tụng; yêu cầu cam đoan của người làm chứng, người phiên
dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản.
Tiếp đó là thủ tục công bố bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, công bố
các lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự, tranh luận đối đáp các ý kiến của Kiểm sát viên và chủ thể khác có
liên quan, nghị án và tuyên án trên cơ sở chứng cứ, tài liệu đã được xét hỏi
công khai tại phiên tòa và kết quả tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội;
ra bản án phán quyết về các nội dung đã được tranh tụng tại phiên tòa và đồng
thời kết thúc thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2.2. Ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
*Ý nghĩa chính trị - xã hội
Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chính là việc cụ thể hóa
chủ trương, đường lối của Đảng ta như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và của
Nhà nước ta đã được ghi nhận tại Điều 103 của Hiến pháp năm 2013.
Bên cạnh đó, hoạt động này còn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ
13
quyền con người, trong bối cảnh Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tư tưởng tất cả vì quyền lợi của nhân
dân, thể hiện tính dân chủ, nhân văn, nhân đạo và tiến bộ của Nhà nước ta đối
với người bị buộc tội.
*Ý nghĩa pháp lý
Tranh tụng làm cho các yếu tố của vụ án như chứng cứ vật chất, lời
khai… của các bên rõ ràng, đồng thời cũng tìm ra điểm mâu thuẫn của chứng
cứ, tình tiết của vụ án. Điều này là căn cứ để tìm ra sự thật dưới những cách
nhìn khác nhau đem lại cái nhìn toàn diện về vụ án.
Thực hiện tranh tụng trong tố tụng hình sự nói chung và tại phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng nhằm đảm bảo quyền con người và quyền
công dân, đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, phản ánh tính nhân
văn sâu sắc trong hệ thống pháp luật. Điều này phù hợp với tinh thần nhân
quyền ngày càng được đề cao cũng như phản ánh xu hướng phát triển chung
về mặt lập pháp trên thế giới.
1.3. Cơ sở quy định và điều kiện đảm bảo thực hiện tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Cơ sở quy định tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1.1. Theo yêu cầu của cải cách tư pháp
Theo tinh thần của cải cách tư pháp, Tòa án là trung tâm của cải cách tư
pháp và hoạt động xét xử là trọng tâm. Theo đó, vấn đề nâng cao chất lượng
tại các phiên tòa xét xử là yêu cầu cấp thiết của cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/06/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010… đều
đã xác định tầm quan trong của tranh tụng trong xét xử, một trong những nội
dung trọng tâm, khâu đột phá của cải cách tư pháp. Trong đó, Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị có xác định quan điểm chỉ đạo
hoạt động đối với Tòa án nhân dân là: “… việc phán quyết của Tòa án phải
14
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có tính thuyết phục và
trong thời hạn pháp luật quy định”. Điều đó khẳng định, tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.3.1.2. Theo yêu cầu của Hiến pháp
Hiến pháp 2013 đã quy định tại Chương II về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Có thể thấy việc xác định quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngay sau Chương quy định về chế độ
Chính trị đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước luôn coi trọng, ghi
nhận và bảo đảm quyền con người và đó cũng là biểu hiện của một Nhà nước
tiến bộ, dân chủ, văn minh. Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động
tranh tụng đã được thể chế hóa ở Hiến pháp 2013. Chính vì vậy, để bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự thì cũng lần đầu tiên tại khoản 5, Điều
103, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm”. Thể chế các quy định của Hiến pháp 2013 thì cũng lần đầu tiên Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015 cũng đã ghi nhận việc bảo đảm tranh tụng trong xét
xử là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Với việc ghi nhận của Hiến
pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì quyền của người bị buộc tội sẽ
được đảm bảo đầy đủ, bị cáo được quyền tự bào chữa cho mình hoặc nhờ
người bào chữa, được quyền tranh luận, đối đáp với luận tội của đại diện Viện
kiểm sát để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa. Với việc
lần đầu tiên, Hiến pháp 2013 cũng đã khẳng định ngoài công tác xét xử thì
Tòa án còn có nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp, để thực hiện quyền tư pháp
thì phải bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng. Ngược lại, chỉ có tranh tụng
được bảo đảm thì quyền tư pháp mới được thể hiện. Để bảo đảm mối quan hệ
15
hữu cơ như vậy thì các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
cũng cần phải đổi mới tư duy pháp lý nói chung và tư duy xét xử nói riêng,
phải coi trọng tranh tụng; tạo lập cho được môi trường thật sự dân chủ và bình
đẳng tại phiên tòa.
1.3.1.3. Đảm bảo theo nguyên tắc tố tụng hình sự
Như đã phân tích ở trên, lần đầu tiên BLTTHS Việt Nam đã quy định
tranh tụng trở thành nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Theo đó Điều 26
BLTTHS 2015 đã quy định: “...Bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ
vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tranh tụng. Điều này cũng
đặt ra yêu cầu các chủ thể buộc tội và gỡ tội hoàn toàn bình đẳng với nhau,
Hội đồng xét xử là chủ thể phải bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng trên tại
phiên tòa xét xử trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn
bộ quá trình giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên
tòa sơ thẩm.
1.3.2. Điều kiện bảo đảm thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự
Thứ nhất, những đảm bảo về mặt pháp lý.
Để tranh tụng được thực hiện một cách bình đẳng, công khai thì những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật liên quan về quyền, nghĩa
vụ của các chủ thể buộc tội, gỡ tội cần được quy định cụ thể, đầy đủ, hợp lý
về địa vị tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, được tạo điều kiện tham gia xét
hỏi, tranh luận
Thứ hai, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn của chủ thể tham
gia tranh tụng cần được nâng cao, đáp ứng yêu cầu tranh tụng.
Thứ ba, đảm bảo cơ sơ vật chất như phòng xử án, số hóa hồ sơ...cho
hoạt động tranh tụng nhằm tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong
16
quá trình tố tụng;
Thực tiễn cho thấy, tiêu chí đánh giá đã đảm bảo tranh tụng trong xét
xử bên cạnh việc hoàn thiện BLTTHS về quyền nghĩa vụ, đảm bảo pháp lý
cho chủ thể tham gia tranh tụng thì việc đánh giá hiệu quả tranh tụng thể hiện
ở việc tạo điều kiện cho các bên tranh tụng tại phiên tòa không bị giới hạn, bó
buộc bởi các áp lực và việc Tòa án có căn cứ vào kết quả tranh tụng để đưa ra
phán quyết đối với vụ án hay không.
1.4. Lịch sử lập pháp các quy định về tranh tụng và tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
* Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi
BLTTHS năm 1988 có hiệu lực pháp luật
Đây là giai đoạn đất nước ta mới giành được độc lập, hệ thống pháp luật
đang giữ lại những quy định không trái với thể chế chính trị, nguyên tắc của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời có sự kế thừa, tiếp thu tinh
hoa của hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Trong thời kỳ này,
pháp luật cũng đã từng bước quy định vai trò, chức năng nhiệm vụ và quyền,
nghĩa vụ của những chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự. Một số
văn bản tiêu biểu như: Sắc lệnh số 33C ngày 13 tháng 9 năm 1945, Sắc lệnh
số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán, Hiến pháp
năm 1946. Trong giai đoạn ban hành Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cho thấy những quy định liên
quan đến tranh tụng đã có những bước tiến quan trọng.
Như vậy, có thể thấy trong hệ thống văn bản giai đoạn này đã phân
định rõ hơn vai trò của từng chủ thể tham gia tố tụng là Tòa án với chức năng
xét xử, Viện kiểm sát nhân dân với chức năng giữ quyền công tố (buộc tội) và
bị cáo có một trong những quyền quan trọng nhất là quyền bào chữa.
Đến khi Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981 ra đời thì cơ bản ghi nhận các nội dung đã ghi
17
nhận trong Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960. Bên cạnh đó, Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm
1987 được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng để các tổ chức luật sư và luật
sư hoạt động.
Nhận xét chung: Có thể thấy trong giai đoạn này các quy định về tranh
tụng trong TTHS được quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, chưa
quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia tranh tụng.
Do sự ảnh hưởng của pháp luật Liên bang Xô viết nên mô hình tố tụng hình
sự vẫn thiên về thẩm vấn, xét hỏi.
* Giai đoạn từ khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực pháp luật đến trước
khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật
Trong giai đoạn này thì các quy định liên quan đến tranh tụng đã được
quy định cụ thể, rõ nét hơn so với giai đoạn trước đây. Trong giai đoạn này
còn nhiều văn bản được ban hành thể hiện về tranh tụng như: Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 1988 (sửa đổi vào các năm
1990 1992 và 2000), và đặc biệt là BLTTHS năm 2003.
- BLTTHS năm 1988 và năm 2003 ghi nhận một số nguyên tắc như:
"Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật” (Điều 9 BLTTHS); nguyên tắc: "Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 11 BLTTHS); "Bảo đảm quyền bình
đẳng trước Toà án”... (Điều 19 BLTTHS), thể hiện những nội dung liên quan
đến hoạt động tranh tụng.
Có thể thấy rằng BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đã đan xen các yếu
tố tranh tụng trong quá trình tố tụng, nổi bật là tranh tụng tại phiên tòa. Mặc
dù vậy, tranh tụng vẫn chưa được quy định là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Tố tụng hình sự Việt Nam.… đòi hỏi phải có những giải pháp nhằm
18
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, thể chế hóa được đường lối, tư
tưởng của Đảng về cải cách tư pháp. Có thể nói, BLTTHS năm 1988 và 2003
đã có một số quy định tranh tụng nhưng còn mờ nhạt.
Tiểu kết chương 1
Thông qua Chương 1 của luận văn tác giả đã lần lượt phân tích và làm
rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và lịch sử lập pháp tố tụng hình sự
của Nhà nước ta về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự. Theo đó,
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhận thức, tư duy
và là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự do các
chủ thể buộc tội và gỡ tội thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, trên
cơ sở tài liệu, chứng cứ và các kỹ năng tranh luận được thực hiện theo trình
tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ quan điểm của biên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án
với vai trò trung tâm, trọng tài nhằm đi đến việc giải quyết vụ án một cách
khách quan, toàn diện. Đây chính là nền tàng và cơ sở để tác giả phân tích
quy định của BLTTHS năm 2015 về tranh tụng sơ thẩm vụ án hình sự và thực
19
tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh tại Chương 2 của luận văn.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực pháp luật từ ngày
01/01/2018 là bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp nước ta, với nhiều quy định
mới tiến bộ đã bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền của người buộc tội
trong đó có những nội dung về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ nhất, bổ sung nguyên tắc: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị
kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tuân thủ pháp luật trong hoạt động
điều tra (Điều 19); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); kiểm tra,
giám sát trong tố tụng hình sự (Điều 33).
Quy định cụ thể về thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát (Điều 239):
BLTTHS năm 2015. Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa
tại phiên tòa (Điều 290 và Điều 291).
Giới hạn xét xử (Điều 298): Trong BLTTHS năm 2015 thì Tòa án có
quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng tội danh mà Viện kiểm sát truy tố sau
khi đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ tội
danh đã truy tố.
Thứ hai, trong BLTTHS năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa bằng một chương là “Thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa”.
* Về xét hỏi tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên tiến hành công bố bản Cáo trạng.
20
- Về trình tự xét hỏi:
So với BLTTHS năm 2003 thì trong BLTTHS năm 2015 đã quy định:
Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi tại phiên tòa và là người
sẽ quyết định hỏi trước và hỏi ai trước, hỏi ai sau theo thứ tự hợp lý, logic.
Sau khi Chủ tọa hỏi xong sẽ quyết định để các chủ thể khác như Thẩm phán,
Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp... của đương sự thực hiện việc hỏi.
+ BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm việc công bố lời khai tại giai
đoạn truy tố và các trường hợp công bố lời khai tại phiên tòa: khi người được
xét hỏi không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;
bổ sung quy định với các trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ
gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
đời tư của cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu của người tham gia tố tụng
hoặc tự thấy cần thiết thì HĐXX không công bố tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
- Về phạm vi xét hỏi: BLTTHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi xét hỏi
của Kiểm sát viên và người bào chữa. Đây là những điểm mới nhằm phân biệt
rõ chức năng buộc tội, chức năng bào chữa tại phiên tòa nhằm đảm bảo phạm
vi tranh tụng tại phiên tòa. Bị cáo quyền được trực tiếp đặt câu hỏi với các bị
cáo khác, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng nếu
được Chủ tọa đồng ý thay vì đề nghị Chủ tọa hỏi (các Điều 309, 310 và 311).
Đồng thời, so với quy định BLTTHS năm 2003 thì
- Xem xét vật chứng theo khoản 2 Điều 312 BLTTHS năm 2015.
- BLTTHS năm 2015 đã bổ sung mới quy định: Nghe, xem nội dung
được ghi âm, ghi hình có âm thanh.
- Một số quy định khác: từ Điều 314 đến 319 BLTTHS:
Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại
phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi
những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định
21
giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án. Khi xét thấy
cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại,
định giá lại tài sản.
- Kết thúc việc xét hỏi.
* Quy định về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự: Điều
320 đến 325 BLTTHS năm 2015.
- Luận tội của Kiểm sát viên
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể
các nội dung của luận tội, nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử;
tăng trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong việc luận tội
- Tranh luận tại phiên tòa: Nhằm đảo bảo nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử thì BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn về thủ tục
tranh luận tại phiên tòa.
- Trở lại việc xét hỏi (Điều 323 BLTTHS năm 2015): Nếu qua tranh
luận mà thấy còn có tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì
Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp
tục tranh luận.
- Bị cáo nói lời sau cùng.
2.2. Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Khái quát tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh gồm có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao
gồm 1 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện với 126 đơn vị hành chính cấp xã, bao
gồm 26 phường, 6 thị trấn và 94 xã. Tương ứng với đó, tỉnh Bắc Ninh gồm có
01 TAND tỉnh và 08 TAND cấp huyện gồm: TAND thành phố Bắc Ninh,
TAND thị xã Từ Sơn, TAND huyện: Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong, Tiên
Du, Gia Bình, Thuận Thành. Tổng số cán bộ, công chức của TAND hai cấp tỉnh
22
Bắc Ninh là 137 biên chế, trong đó 01 Thẩm phán cao cấp; 28 Thẩm phán trung
cấp; 35 Thẩm phán sơ cấp; 01 Thẩm tra viên chính; 15 Thẩm tra viên; 04 Thư ký
viên chính; 20 Thư ký Tòa án; 33 Chức danh khác. Về trình độ chuyên môn: 02
Tiến sĩ; 38 Trên đại học; 94 Đại học; 03 Cao đẳng, trung cấp.
Trong đó, TAND tỉnh Bắc Ninh có 04 Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự,
Tòa Dân sự, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và người chưa thành niên với 46
biên chế (02 Tiến sỹ; 13 Thạc sỹ (01 người đang học NCS); 31 Cử nhân Luật
và Đại học) với 01 Thẩm phán cao cấp; 12 Thẩm phán trung cấp; 06 Thẩm tra
viên; 22 Thư ký; 05 Chuyên viên và 23 Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt
động xét xử theo quy định của pháp luật. Có thể nói đây là những nguồn lực
chất lượng để Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh hoàn thành tốt các
nhiệm vụ của mình trong đó có việc đảm bảo chất lượng xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự.
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh
đã thụ lý ở cấp sơ thẩm tổng số: 8182 vụ án với 16.573 bị cáo, trong đó đã
giải quyết 8.120 số vụ với 16.523 bị cáo, trung bình đạt tỉ lệ 99,12 % hàng
năm, đạt tỷ lệ rất cao. Cụ thể:
Bảng 2.1. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Bắc Ninh giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019.
S Số vụ án Số bị cáo đã Số vụ án đã Số bị cáo đã Tỷ lệ giải
ST Năm đã thụ lý thụ lý giải quyết giải quyết quyết án
1 2015 1.594 3.176 3.164 98,31% 1.567
2 2016 1.589 3.165 3.157 99,49% 1.581
3 2017 1.634 3.398 3.395 99,87% 1.632
4 2018 1.654 3.411 3.392 99,27% 1.642
5 2019 1.711 3.423 3.415 98,24% 1.698
8.120 6 Tổng cộng 8.182 16.573 16.523 99,12%
23
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Qua bảng trên cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019 số lượng các vụ án
và bị cáo mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh thụ lý là tương đối lớn.
Năm 2015 Tòa án hai cấp đã giải quyết 1567 vụ án với 3164 bị cáo, chiếm tỉ
lệ 98,31%/năm. Đến năm 2016 thì số vụ án tăng lên là 1581 vụ với 3157 bị
cáo, đạt tỉ lệ 99,49%/năm; năm 2017 là 1632 vụ với 3395 bị cáo, đạt tỉ lệ giải
quyết là 99,87%/năm, có giảm hơn so với năm 2016. Đến năm 2018, Tòa án
hai cấp đã giải quyết sơ thẩm 1642 vụ với 3392 bị cáo, đạt tỉ lệ giải quyết
99,27%/năm, con số này vào năm 2019 là 1698 vụ với 3415 bị cáo, đạt tỉ lệ
giải quyết 98,24%/năm. Thực tiễn cho thấy, số vụ án mà Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Bắc Ninh thụ lý và giải quyết sơ thẩm tăng dần qua các năm, tỷ lệ
giải quyết án đạt trung bình là 99,12%/năm, thể hiện sự gia tăng và phức tạp
của tình hội tội phạm trên địa bàn tỉnh từ năm 2015 đến năm 2019, và sự nỗ
lực của cán bộ, công chức ngành Tòa án tỉnh Bắc Ninh. Đáng lưu ý là từ năm
2015 đến năm 2019, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có sự
tham gia của người bào chữa ngày một gia tăng. Cụ thể:
Bảng 2.2. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh giải quyết có Luật sư tham gia bào chữa từ năm 2015 đến năm 2019
Số vụ án Số vụ án có Tỷ lệ Luật sư Số bị cáo đã SST Năm đã giải Luật sư tham tham gia bào giải quyết quyết gia bào chữa chữa
2015 1.567 1 455 29,03% 3.164
2016 1.581 2 462 29,22% 3.157
2017 1.632 3 513 31,4% 3.395
2018 1.642 4 511 31,12% 3.392
2019 1.698 5 578 34,04% 3.415
24
6 31,06% Tổng 8120 16.523 2.519
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Đoàn
Luật sư tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Bảng 2.3. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Bắc Ninh giải quyết có Luật sư tham gia bào chữa do được Chỉ định
tham gia từ năm 2015 đến năm 2019
Tỷ lệ Luật sư chỉ Số vụ án chỉ Số vụ án Số vụ án có định tham gia định mời Luật STT Năm đã giải Luật sư tham bào chữa so với sư tham gia bào quyết gia bào chữa tổng số vụ án có chữa Luật sư tham gia
1 2015 1567 455 47 10,32%
2 2016 1581 462 51 11,03%
3 2017 1632 513 73 14,23%
4 2018 1642 511 76 14,87%
5 2019 1698 578 78 13,49%
6 Tổng 8120 12,9% 2519 325
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Đoàn Luật
sư tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019)
Qua các bảng số liệu trên có thể thấy, giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019 các vụ án hình sự sơ thẩm có người bào chữa tham gia chiếm tỉ lệ khá
cao, đạt tỉ lệ trung bình là 31,06%/năm, với 2519 vụ/8120 tổng số vụ án hình
sự, và có xu hướng tăng dần qua các năm Trong đó, số người bào chữa chỉ
định chiếm tỉ lệ 12,9%/năm trong tổng số vụ án có người bào chữa tham gia.
Thể hiện nhận thức pháp luật và tầm quan trọng của chế định người
bào chữa trong tố tụng hình sự hiện nay. Đây chính là yếu tố bảo đảm cho
25
việc tranh tụng hình sự được thực chất và hiệu quả hơn.
Bảng 2.4. Số vụ án hình sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Bắc Ninh chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát và số vụ án hình sự sơ
thẩm Viện kiểm sát rút quyết định truy tố hoặc thay đổi tội danh
từ năm 2015 đến năm 2019
Số vụ án
VKS rút Số vụ án Số vụ án HĐXX Tỷ lệ HĐXX quyết định STT Năm đã giải chấp nhận quan chấp nhận quan truy tố hoặc quyết điểm của VKS điểm của VKS thay đổi tội
danh
18 99,04% 1 2015 1.567 1.552
16 99,11% 2 2016 1.581 1.567
12 99,69% 3 2017 1.632 1.627
17 99,84% 4 2018 1.642 1.623
13 97,46% 5 2019 1.698 1.655
76 98,93% 6 Tổng 8120 8.024
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm
2019)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, số vụ án mà Tòa án chấp nhận quan
điểm của Viện kiểm sát chiếm tỷ lệ rất cao là 98,93% (8024/8120 vụ án).
2.2.2. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Thự hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với tinh thần: “Đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
26
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [3], trong đó
“trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND” [3] và
các văn kiện khác của Đảng như: Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của
Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc XII của Đảng. Quy định
của Hiến pháp năm 2013 và cụ thể là BLTTHS năm 2015 về tranh tụng trong
xét xử vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng,
trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc
Ninh đã đạt được những kết quả nhất định như sau:
- Tổ chức thực hiện tốt giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, đa số các vụ án hình sự
được giải quyết, xét xử đúng thời hạn luật định, chất lượng giải quyết, xét xử
được nâng lên, không để xảy ra việc kết án oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Tính
tranh tụng ngày càng được quan tâm góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai.
Bằng chứng là theo Báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh thì tỷ lệ án
hình sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán lần lượt là 0,8% (năm
2015); 0,6% (năm 2016); 0,7% (năm 2017) và 0,5% (năm 2018); 0,6% (năm
2019). [27].
Điều này thể hiện cải cách tư pháp và những quy định mới của pháp
luật hiện hành đã có những tác động tích cực đến nhận thức của đội ngũ Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử.
- Hoạt động tranh tụng được chú trọng và quan tâm và đề cao thể hiện
thông qua việc tham gia ngày một nhiều của đội ngũ Luật sư trong giải quyết
các vụ án hình sự của Tòa án.
- Đối với Kiểm sát viên: Chất lượng xây dựng bản luận tội (phiên toà
sơ thẩm) đều đáp ứng được yêu cầu của việc tranh tụng. Kĩ năng và chất
lượng xét hỏi và chất lượng tranh luận tại phiên tòa được nâng lên.
+ Tòa chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát là: 8024 vụ/8120 vụ án
27
đã xét xử chiếm chiếm tỷ lệ rất cao là 98,93%. Số liệu nêu trên cho thấy tỷ lệ
số vụ mà Toà án đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát chiếm tỷ lệ cao
(98,93%), phản ánh chất lượng truy tố, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên toà là tốt. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã xét hỏi, làm rõ đặc
trưng, của từng vụ án, tranh tụng từng nội dung cụ thể với người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác. Điển hình như vụ án sau:
Ví dụ: Vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép
chất ma túy” theo Bản án số 25/2017/HSST ngày 09/06/2017 của TAND tỉnh
Bắc Ninh.
Nội dung: Khoảng 20h15’ ngày 24/11/2016, tại đường L, phường S,
thành phố BN, tỉnh Bắc Ninh, Phòng cảnh sát điều tra (PC47) – Công an tỉnh
Bắc Ninh bắt quả tang Nguyễn Văn K đang mang theo 117,0372 gam
Methamphetamine để bán kiếm lời. Khám xét nơi ở, bị cáo còn tàng trữ trái
phép tại nhà 2320,4011 gam Methamphetamine và 40,4085 gam MDMA. Tại
phiên tòa, cũng như tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn K khai nhận số ma túy
mà K mang đi nhằm chuyển giao cho khách và số ma túy K tàng trữ trái phép
tại nhà là của Nguyễn Thị Kh. Trong quá trình điều tra, ngay sau khi bắt giữ
bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nhà ở, điều tra, lấy lời khai và
cho đối chất giữa Nguyễn Thị Kh và bị cáo nhưng đến nay chưa đủ chứng cứ
để quy kết số ma túy trên là của Nguyễn Thị Kh để xử lý trong vụ án này.
Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh thực hiện quyền công tố tại phiên
tòa phát biểu quan điểm luận tội đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối
với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử
tuyên bị cáo phạm hai tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”. Áp dụng điểm e khoản 3, điểm e khoản 4 Điều 194 (Điểm
b khoản 4 Điều 249 BLHS năm 2015) điểm p khoản 1 Điều 46; điểm x khoản
1 Điều 51 BLHS 2015; Điều 33, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn
28
Văn K 15 – 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” phạt tiền từ 10
đến 15 triệu đồng và 20 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng
hợp hình phạt buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả hai tội là 30 năm
tù.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với tội danh mà Cáo trạng của
VKS đã truy tố, song Luật sư cho rằng Cơ quan điều tra đã chưa làm tròn
trách nhiệm của mình trong việc chứng minh tội phạm nên đã không làm rõ
hành vi phạm tội của đối tượng tên Kh dẫn đến buộc bị cáo phải chịu trách
nhiệm toàn bộ trách nhiệm là bất lợi cho bị cáo. Theo Luật sư trong vụ án
này, mặc dù bị cáo có hành vi cất giữ hơn 2000 gam ma túy tổng hợp tại nhà,
nhưng Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy thì nên
rút cả hành vi tàng trữ vào hành vi mua bán để đề nghị HĐXX chỉ xử bị cáo
về một tội danh với hai hành vi là tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy và
áp dụng một hình phạt. Ngoài ra, Luật sư cũng đồng ý về các tình tiết giảm
nhẹ mà đại diện VKS đã đề cập và đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng
mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện VKS.
Trong phần đối đáp và tranh luận: Đại diện VKS thực hành quyền công
tố tại phiên tòa không nhất trí với quan điểm của Luật sư và khẳng định bị cáo
phạm tội với hai hành vi độc lập. Do vậy, việc truy tố bị cáo để xét xử về hai
tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy là đúng quy định và có lợi cho
bị cáo, cũng như đã chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo K nên vẫn
giữ nguyên quan điểm của mình.
Trên cơ sở xem xét chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa,
HĐXX của TAND tỉnh Bắc Ninh xác định: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
đã làm tròn trách nhiệm chứng minh tôi phạm của mình đó là chứng minh
hành vi phạm tội của bị cáo K, còn bị cáo khai ma túy thu của bị cáo là của
đối tượng tên Kh nhưng ngoài lời khai của bị cáo ra thì bị cáo cũng không đưa
ra được chứng cứ nào khác để chứng minh lời khai của mình là đúng nên
29
không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Kh được. Bản thân bị cáo K
cũng đã thừa nhận việc mang ma túy đi bán và có số điện thoại của người
mua, bị cáo đang gọi điện cho người mua nhưng chưa kịp liên hệ thì bị bắt
giữ, số ma túy thu tại nhà bị cáo khai của Kh gửi đã chứng minh hai hành vi
phạm tội độc lập của bị cáo nên không thể chấp nhận yêu cầu của Luật sư là
xử bị cáo về một tội danh với hai hành vi tàng trữ và mua bán trái phép chất
ma túy và chỉ áp dụng một hình phạt được, bị cáo K bị Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Ninh truy tố về hai tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 và điểm e khoản
4 BLHS năm 1999 là hoàn toàn có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
và đã ra bản án tuyên bố Nguyễn Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt: Nguyễn Văn K 16 (mười
sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 20 (hai mươi) năm tù
về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội,
buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả hai tội là 30 (ba mươi) năm tù.
* Ngược lại, đối với chủ thể gỡ tội (người bào chữa, bị cáo): Theo
thống kê, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 các vụ án hình sự sơ thẩm có
người bào chữa tham gia chiếm tỉ lệ khá cao, đạt tỉ lệ trung bình là 34,04%/
năm, với 2519 vụ/8120 tổng số vụ án hình sự, và có xu hướng tăng dần qua
các năm. Trong đó, số người bào chữa chỉ định chiếm tỉ lệ 12,9%/năm trong
tổng số vụ án có người bào chữa tham gia (xem Bảng 2.4). Đồng thời là sự
tăng nhanh của đội ngũ Luật sư: tính từ tháng 5/2009, trong 10 năm qua, tính
đến thời điểm tháng 9/2019, tổng số Luật sư cả nước là 13.563 luật sư. Nếu
chia bình quân đầu người theo dân số của Việt Nam tỷ lệ xấp xỉ là 01 Luật
sư/7.148 người dân. [47].
- Chiến lược phát triển Luật sư đến năm 2020 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành nhiều biện
pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của luật
30
sư trong xã hội. Đội ngũ Luật sư được tăng cường mạnh mẽ là tiền đề cho
việc nâng cao nhận thức pháp lý của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tranh tụng tại tòa án cũng như các giai đoạn khác của vụ án hình sự
vì đây là đội ngũ trợ giúp kiến thức pháp lý và đóng vai trò là người bào chữa
bảo vệ cho quyền lợi của các bị can, bị cáo.
- Nhiều Luật sư tham gia bào chữa đã thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao khi tích cực nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận để gỡ tội hoặc giảm nhẹ
hình phạt cho thân chủ tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Ví dụ: Vụ án “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”
theo Bản án số 35/2016/HSST ngày 11/11/2016 của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/6/2016, Trương Bá T, sinh
năm 1975, ở thôn C, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đi xe mô tô BKS 99T1 -
2664 đến Trung tâm điều dưỡng thương binh ở thôn P, xã N, huyện T, tỉnh
Bắc Ninh, tìm gặp bị cáo Lê Ngọc Q. Tại phòng riêng của bị cáo Q, anh T đã
chửi bới, dùng mũ cối đập khoảng 02 đến 03 cái vào vùng đầu, mặt của bị cáo
nhưng bị cáo đều đỡ và tránh được. Sau đó, anh T đi ra ngoài, khoảng 5 phút
sau thì quay lại. Thấy bị cáo Q đang ngồi trên xe lăn, anh T tiếp tục chửi bới,
dùng mũ cối, cốc thủy tinh và phích nước để đánh bị cáo. Do bị anh T đánh,
bị cáo đã lấy được con dao chuôi nhựa màu vàng dùng để gọt hoa quả đang ở
trên bàn cạnh đó, bị cáo cầm dao trên tay phải đâm 01 nhát trúng ngực trái
của anh T. Tiếp đó, bị cáo khua dao ngang về phía người anh T thì trúng 02
nhát vào cẳng tay trái và 02 nhát vào hõm nách trái của anh T. Hậu quả là anh
T đã gục ngã và tử vong tại cửa phòng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
đã truy tố Q về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
theo khoản 1 Điều 95 BLHS.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công
tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố, sau khi phân
tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết
31
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án đã đề nghị
HĐXX tuyên bố bị cáo Q phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh” như Cáo trạng đã truy tố. Áp dụng khoản 1 Điều 95; điểm b,
p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33, Điều
51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc Q từ 20 đến 24 tháng tù.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Về tội danh, Cáo trạng truy tố
bị cáo Q theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự là không phù hợp mà bị cáo
phạm tội theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, nguyên nhân dẫn đến
hành vi phạm tội của bị cáo là do anh T liên tiếp đánh bị cáo nhiều lần. Tại
thời điểm xảy ra sự việc, bị cáo bị liệt nửa người, nhiều trọng bệnh, hành vi
của anh T có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của bị cáo. Vì vậy,
Luật sư cho rằng hành vi này của bị cáo là vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của
mình và đã bồi thường cho gia đình anh T số tiền là 16.000.000 đồng. Hơn
nữa, đại diện gia đình của người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Do đó, Luật sư đề nghị HĐXX áp dụng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình
sự để xử phạt bị cáo ở mức án nhẹ nhất về tội “Giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng”.
+ Bị cáo Q nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư. Bị cáo không
tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Đối với quan điểm của Luật sư, Đại diện Viện kiểm sát đối đáp, phát
biểu quan điểm cho rằng: Trong vụ án này, anh T đã đến đánh bị cáo Q 02 lần,
bị cáo đã tỏ ra bực bội. Lần thứ 02 anh T đến không có hung khí gì, bị cáo Q có
đủ sức khỏe để chống trả nhưng bị cáo đã dùng dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào
người anh T, vì vậy Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố.
Sau khi xem xét chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX
32
của TAND tỉnh Bắc Ninh đã đồng ý với quan điểm của người bào chữa khi
xác định: Bản thân người bị hại dùng hung khí nguy hiểm như mũ cối, cốc thủ
tinh, phích nước hành hung bị cáo, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng
của bị cáo. Hành vi này của người bị hại đã và đang diễn ra, chưa chấm dứt.
Về tương quan lực lượng, người bị hại có sức khỏe bình thường, tuổi đời còn
trẻ; phía bị cáo Q là thương binh nặng, không có khả năng tự bảo vệ bản thân,
trong quá trình sinh hoạt phải có người giúp đỡ. Khi xảy ra sự việc thì bà M
(vợ bị cáo) và anh C (nhân viên y tế) đều không có mặt trong phòng. Như
vậy, khi anh T có hành vi xâm hại đến sức khỏe của bị cáo đã làm phát sinh
quyền tự phòng vệ để bảo vệ mình. Nếu hành vi của người bị hại đã chấm
dứt, nhưng do bị ức chế về tinh thần mà bị cáo đã dùng dao đâm gây tử vong
cho bị hại thì sẽ phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự
như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, trong trường hợp này,
như đã phân tích ở trên, hành vi trái pháp luật của người bị hại vẫn đang tiếp
diễn, vì vậy hành vi dùng dao đâm gây ra cái chết cho anh T của bị cáo thuộc
trường hợp “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo
khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự như lời bào chữa của Luật sư tại phiên tòa.
Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử và tuyên bị cáo Q phạm tội “Giết người do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo khoản 1 Điều 96, xử phạt bị cáo
Lê Ngọc Q 15 (mười lăm) tháng tù.
* Nguyên nhân của những kết quả đạt được
- Năng lực, trình độ chuyên môn của Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân ngày một nâng cao và nhận thức đúng đắn về tranh tụng, với
tinh thần: bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả
tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu
đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
+ Nhiều Kiểm sát viên, Thẩm phán nhận thức rõ rệt hơn tranh tụng.
+ Chất lượng cán bộ ngày càng được nâng lên, đáp ứng đầy đủ các quy
33
định về đạo đức, phẩm chất, năng lực, trình độ theo quy định.
- Bên cạnh đó, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn, sự nỗ lực phấn đấu của các tổ chức Luật sư và tự thân nội tại của
các Luật sư, trong những năm qua đã từng bước được nâng cao.
- BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn với nhiều quy định
mới về tranh tụng là cơ sở pháp lý quan trọng để cho các chủ thể thực hiện
hoạt động tranh tụng của mình.
2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân
2.3.1. Những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, thì thực tiễn xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019 cho thấy việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
vẫn còn những tồn tại, vướng mắc sau đây:
- Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 các vụ án hình sự sơ thẩm có
người bào chữa mặc dù gia tăng, nhưng tựu chung sự tham gia chiếm tỉ lệ
chưa cao, trung bình là 34,04%/năm (Bảng 2.2).
+ Một số vụ án Tòa án vẫn chưa phát huy được vai trò của mình, nguyên
tắc tranh tụng vẫn còn mang tính hình thức.
Ví dụ: Vụ án về tội “Chứa mại dâm” theo Bản án số 24/2019/HS-PT
ngày 23/4/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung: Vào khoảng 21h30 ngày 04/7/2018 tại quán karaoke HK
thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; được sự đồng ý của
Nguyễn Hồng T cho phép nhân viên bán dâm, Phạm Huy L đã bố trí cho
Hoàng Thị Thanh H bán dâm cho Nguyễn Văn D tại phòng 401; Đinh Thị H
bán dâm cho Nguyễn Văn H tại phòng 403; Trần Thị Hoài L bán dâm cho
Nguyễn Văn N tại phòng 405. Khi các đối tượng đang thực hiện hành vi mua
34
bán dâm thì bị lực lượng Công an huyện T phát hiện và bắt quả tang.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện VKSND huyện T đã đề nghị HĐXX áp
dụng điểm a khoản 3, khoản 5, Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51,
điểm g, h khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 56; khoản 5 Điều 65 BLHS đề
nghị xử phạt Nguyễn Hồng T 11 năm đến 13 năm tù. Áp dụng điểm a khoản 3
Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều
38; khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Huy L 08
năm đến 10 năm tù.
+ Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Đồng ý với Cáo trạng của
VKS về tội danh, nhưng cho rằng mức đề nghị hình phạt đối với bị cáo là quá
cao. Theo Luật sư, ngoài những tình tiết giảm nhẹ mà Cáo trạng đã áp dụng
thì trong vụ án này đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo về hoàn cảnh
gia đình là hộ nghèo, bố bị cáo mới bị tai biến hiện hoàn cảnh hết sức khó
khăn, bị cáo chỉ tham gia giúp sức cho bị cáo T với vai trò thứ yếu, bị cáo
được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 51 là
“phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” để đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tới mức thấp nhất đối với bị cáo.
+ Tuy nhiên với nội dung này Đại diện VKSND huyện T đã không
tranh luận, đối đáp lại với ý kiến của người bào chữa, và chỉ nêu quan điểm
chung chung là “giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố”. Tại phiên
tòa, HĐXX sơ thẩm cũng không đề nghị đại diện VKSND huyện T tranh luận
để xác định xem Phạm Huy L có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” không, không làm rõ tình tiết giảm nhẹ này cho
bị cáo L.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST ngày 21 tháng 01 năm
2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố các
bị cáo Nguyễn Hồng T và Phạm Huy L phạm tội “Chứa mại dâm” theo điểm
a khoản 3, Điều 327. Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 327; điểm s, khoản 1,
35
khoản 2, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52; Điều 38; khoản 2, Điều 54 Bộ
luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Huy L 08 năm tù. Ngày 25/01/2019, bị cáo
Nguyễn Hồng T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 01/02/2019, bị cáo Phạm Huy L kháng cáo với nội dung xin giảm
nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, người bào chữa vẫn tiếp tục giữ nguyên ý kiến
cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 51 là “phạm
tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX đã nhận định: “Đối với Phạm Huy L:
Bị cáo L là người chưa có tiền án tiền sự, trong vụ án giữ vai trò giúp sức cho
bị cáo T trong việc bố trí sắp xếp phòng cho khách bán dâm, bị cáo không
được hưởng lợi gì từ việc mua bán dâm. Quá trình giải quyết tại phiên tòa sơ
thẩm Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự để quyết định định hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên mức án
mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, cần xem xét đến
hoàn cảnh gia đình và xuất thân của bị cáo. Do vậy, cần cho bị cáo được
hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 51 BLHS
như quan điểm của người bào chữa là phù hợp và HĐXX đã chấp nhận kháng
cáo của bị cáo Phạm Huy L, sửa bản án sơ thẩm.
+ Người bào chữa tham gia các hoạt động tranh tụng nhưng chưa
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, kỹ năng lập luận và nghiên cứu pháp luật vẫn còn
hạn chế.
Ví dụ: Vụ án về tội “Bắt người trái pháp luật” theo Bản án hình sự sơ
thẩm số 45/2018/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân
huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
Khoảng tháng 02/2017, Lê Văn H cùng với Lâm Ngọc A, sinh năm
1996 ở thôn N, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc có làm dịch vụ nhân viên phục
vụ hát karaoke cho quán karaoke Hương Mai ở thôn Thường Vũ, xã An Bình,
huyện T, tỉnh Bắc Ninh do ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1970 ở thôn A, xã L,
36
huyện T, tỉnh Bắc Ninh làm chủ. Do mối quan hệ quen biết và ở cùng thôn
với Hoàng nên ngày 18/02/2017, chị Lê Thị C, sinh ngày 26/3/2000, đến quán
karaoke Hương Mai và tự nguyện làm nhân viên cho H. Đến khoảng 18 giờ
ngày 23/02/2017, tại sân và cổng quán karaoke Hương Mai giữa chị C và H
nảy sinh mâu thuẫn trong công việc, chị C đòi về, H đã dùng tay tát một cái
vào mặt và dùng chân đá một cái vào lưng, một cái vào bụng chị C làm chị C
bị chảy máu mũi. Lúc này ông Nguyễn Văn L ra can ngăn, đưa chị C vào
trong quán và cùng vợ là bà Phạm Thị H1 lau máu cho chị C rồi bảo chị C lên
phòng ở tầng 2 của quán để ngủ. Sau khi đánh chị C, H đã điện thoại cho anh
Đinh Bá T2 (tên gọi khác là X), sinh năm 1995, ở thôn D, xã X, huyện T, tỉnh
Bắc Ninh (khi đó T2 cũng đang làm dịch vụ nhân viên phục vụ hát karaoke)
để hỏi T2 về việc cho chị C về làm tại quán của T2 và được T2 đồng ý, H hẹn
T2 sáng hôm sau cùng đi đón chị C. Đến khoảng 06 giờ ngày 24/02/2017, H
gọi xe taxi nhãn hiệu Kiamorning màu bạc, biển kiểm soát 29A - 398.57 cùng
với Lâm Ngọc A đến quán của T2 ở thôn V, xã Q, huyện T, tỉnh Bắc Ninh để
đón T2. Khi đến đón T2, thì có T2 cùng với Dương Thành Đ, sinh năm 1997
ở thôn B, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội (Đ đang làm quản lý nhân viên
cho T2) đã đi cùng H và Ngọc A. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày thì nhóm của
H đến quán karaoke Hương Mai, lái xe đỗ xe ở ngoài cổng quán, còn nhóm
của H đi vào trong quán. H đi lên tầng 2 và vào phòng nơi chị C ở, còn T2 và
Đ ngồi hút thuốc ở sân rồi đi ra xe đợi. H vào phòng chị C, bảo với chị C là
“tao đưa mày về” rồi cầm tay lôi chị C. Chị C kháng cự không chịu đi, H đã
dùng chân đạp hai cái vào bụng chị và lôi chị ra hành lang tầng hai. Lúc này
vợ chồng ông L thấy nhóm của H vào, thấy H đi lên chỗ chị C và nghe thấy
tiếng ồn ào, ông L đã cầm một con dao chạy lên tầng 2 và dọa H: “Mày mà
đánh nhân viên ở nhà tao thì tao chém chết, có gì gọi nó xuống nói chuyện”.
Sau đó, ông L, H và chị C đi xuống dưới sân. Khi xuống sân, H nói với ông L
về việc đưa chị C đi. Sau đó, H cầm tay trái của chị C để lôi chị C đi. Chị C
37
vùng vẫy, kháng cự không đi. H đã nói với Lâm Ngọc A: “Khiêng nó lên xe”.
Lúc này, Ngọc A đi đến cầm tay phải của chị C, còn H cầm tay trái và chân
trái của chị C rồi khiêng chị C lên đi ra phía xe ô tô. Khi bị khiêng đi, chị C
vẫn vùng vẫy, kháng cự làm tay cầm chân chị C của H bị rời ra, nhưng H và
Ngọc A cầm tay chị C tiếp tục lôi, đẩy chị C vào xe ôtô. Sau khi lên xe ôtô,
nhóm của H đã đưa chị C đến quán của T2 ở thôn V, xã Q, huyện T, tỉnh Bắc
Ninh. Trên đường đi về quán, H giới thiệu T2 cho chị C và bảo chị C về quán
của T2 làm việc cho T2. Khi đến cửa quán, chị C tự xuống xe và tự đi vào
quán của T2. Vào trong quán, chị C được đưa vào một phòng để nghỉ, còn H
và Ngọc A ngồi uống nước một lúc rồi đi về. Quá trình chị C ở quán, T2 có
nói với chị C là “Em ở đây làm việc cho anh, làm được thì làm, không làm
được thì em đi”, T2 không bắt ép chị C phải làm cho T2, không khóa cửa
phòng, không khóa cửa quán, không hạn chế tự do và không đánh đập chị C.
Chị C ở lại quán của anh T2, ngủ trong phòng đến khoảng 22 giờ cùng ngày,
rồi đi ra nhờ xe của một người đi đường về quán của ông L, lấy đồ dùng cá
nhân và nhờ ông L gọi xe taxi đi về nhà. Đến ngày 24/8/2017, bà Lê Thị S là
mẹ đẻ của chị C và luật sư Lê Khắc Hải có đơn đề nghị Công an huyện T xem
xét, xử lý hành vi của H và đồng phạm. Ngày 02/01/2018, Lê Văn H bị Cơ
quan điều tra bắt giữ và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Đối với đối
tượng Lâm Ngọc A, cơ quan điều tra đã khởi tố bị can, tuy nhiên Ngọc A đã
bỏ trốn khỏi địa phương, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với
Ngọc A nhưng chưa có kết quả. Vì vậy, cơ quan điều tra đã tách vụ án xử lý
sau đối với hành vi “Bắt người trái pháp luật” của Ngọc A.
Bị hại cho rằng: VKS truy tố H theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự
là không phù hợp vì H phạm tội có tổ chức; lời khai H và C có nhiều mâu
thuẫn nhưng không có người làm chứng tham gia phiên tòa để làm rõ; VKS
đã mớm cho mẹ H nộp 1.000.000đ vào Chi cục thi hành án để tăng tình tiết
giảm nhẹ cho H; chưa làm rõ hành vi không tố giác của anh Quang – lái xe
38
trong vụ án; đề nghị tăng bồi thường về danh dự, nhân phẩm và do H điện
thoại đe dọa, khủng bố nên chị không đi làm được 02 tháng yêu cầu buộc H
phải bồi thường tiền mất thu nhập; CQĐT không đưa chiếc xe chở H và đồng
bọn là vật chứng vụ án để xem xét, làm rõ là không đúng quy định.
+ Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị hại cho rằng: H và Lâm
Ngọc A đồng phạm nên là phạm tội có tổ chức, do vậy cần truy tố, xét xử
theo khoản 2 Điều 123 BLHS, Cáo trạng chưa xem xét hành vi không tố giác
của anh Quang lái xe tắc xi; CQĐT ra Quyết định khởi tố bị can đối với Lâm
Ngọc A ngày 31/01/2018 là không đúng vì sự việc xảy ra ngày 24/02/2018; bị
cáo không tác động gia đình nộp bồi thường thay nhưng bị đề nghị áp dụng
cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS là không
đúng; H đe dọa chị C nên chị C phải trốn không về nhà 02 tháng không làm
ăn được nên đề nghị tăng bồi thường về nhân phẩm, danh dự và mất thu nhập
trong 02 tháng. Đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đại diện VKS đối đáp với Luật sư và bị hại: Hành vi của H và Lâm
Ngọc A là đồng phạm giản đơn, không có tính tổ chức nên cấp sơ thẩm không
xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung
tăng nặng “Phạm tội có tổ chức” là phù hợp. Căn cứ vào chứng cứ trong hồ
sơ, không có căn cứ anh Quang, anh T2 đồng phạm với bị cáo. Đối với đề
nghị xem xét hành vi không tố giác của anh Quang, theo quy định tại Điều
314 thì hành vi của anh Quang lái xe không cấu thành tội phạm. CQĐT ra
Quyết định khởi tố bị can đối với Lâm Ngọc A ngày 31/01/2018 (BL 15) là
đúng, vì vụ án xảy ra vào 24/02/2017, Luật sư đã có sự nhầm lẫn. Người làm
chứng (ông L) được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt và đã có lời khai đầy đủ
trong hồ sơ vụ án, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên việc vắng
mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; về việc bị
cáo cho rằng VKS mớm cho mẹ bị cáo nộp 1.000.000 đồng để lấy tình tiết
giảm nhẹ cho bị cáo là không có cơ sở; việc bị hại khai bị H đe dọa, nên 02
39
tháng không làm ăn được nhưng không có căn cứ chứng minh nên không
chấp nhận. Đối với chiếc ô tô chở bị cáo và bị hại đến nhà anh T2, đây là xe
taxi bị cáo thuê, cơ quan điều tra đã xác minh, lấy lời khai đối với anh Quang
là chủ xe, xác định chiếc xe không phải vật chứng vụ án nên không đưa vào
xử lý là phù hợp. Vì vậy, VKS giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng.
Đối đáp lại, Luật sư thừa nhận việc CQĐT ra Quyết định khởi tố bị can
đối với Lâm Ngọc A ngày 31/01/2018 là đúng như đại diện VKS nêu. Các
vấn đề khác, Luật sư giữ nguyên quan điểm, đề nghị HĐXX xem xét.
Căn cứ kết quả tranh tụng và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án trên,
HĐXX đã ra Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2018/HSST ngày 11 tháng 7 năm
2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố bị
cáo Lê Văn H phạm tội “Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 123;
điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999, xử phạt: Lê Văn H
08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/01/2018.
Nhận xét: Qua vụ án trên cho thấy người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị hại khi tranh tụng với KSV đã có những sai lầm khi đưa ra những
lập luận tranh luận như: không nắm rõ thời điểm khởi tố bị can đối với Lâm
Ngọc A (mặc dù thể hiện trong hồ sơ), không nắm rõ về lý luận phạm tội có
tổ chức và quy định của pháp luật về các trường hợp phạm tội không tố giác
tội phạm theo Điều 314 BLHS năm 2015, dẫn đến có những tranh luận và đối
đáp không thuyết phục. Do vậy, HĐXX đã không chấp nhận các luận điểm
mà Luật sư đưa ra.
Nhận xét chung: Có thể thấy một thực trạng diễn ra tại các phiên tòa
sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn tồn tại đó là Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử
chưa làm hết trách nhiệm, vai trò của mình, điều đó đã dẫn đến tranh tụng
trong quá trình giải quyết không được thực chất, vẫn mang tính hình thức.
Vẫn còn tình trạng Kiểm sát viên dựa vào việc kiểm sát xét xử tại phiên tòa
40
làm thay một số hoạt động của Chủ tọa phiên tòa như: nhắc nhở Luật sư về
cách lập luận, yêu cầu giữ trật tự phiên tòa đang diễn ra... vai trò của Tòa án
chưa phát huy đúng mức.
- KSV tuy không hẳn từ chối tranh luận, nhưng né tránh những câu
hỏi khó của những người tham gia tố tụng, số vụ án có người tham gia bào
chữa chiếm tỷ lệ không nhiều, nên các phiên tòa hình sự nói chung và sơ thẩm
nói riêng không có hoặc sự tranh tụng, tranh luận hiện nay là rất hạn chế. Do
vậy, đa số các vụ án hình sự được xét xử sơ thẩm trong thời gian vừa qua ít
dựa vào kết quả tranh tụng, vẫn còn tình trạng “án tại hồ sơ”, dẫn đến những
bản án vi phạm nghiêm trọng tố tụng.
- Vẫn còn tình trạng, HĐXX còn đặt những câu hỏi mang tính buộc tội
bị cáo, việc để cho HĐXX hỏi trước hết các vấn đề như hiện nay, làm ảnh
hưởng đến quá trình buộc tội của VKS, việc hỏi của Kiểm sát viên nhiều khi
mang tính hình thức do HĐXX đã hỏi hết các nội dung cần hỏi để làm rõ việc
buộc tội.
2.3.2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, thiếu sót trong thực
hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
- Có thể thấy thực trạng pháp luật hiện nay thì hệ thống quy phạm pháp
luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng vẫn còn một số điểm chưa
được hoàn thiện và nhà làm luật cũng chưa có những hướng dẫn kịp thời để
áp dụng trong thực tiễn. Bên cạnh đó, trong quy định của BLHS về một số tội
danh như các tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm tình dục mới chưa có hướng
dẫn, dễ gây nhầm lẫn, nên khi tranh tụng, giữa Kiểm sát viên với người bào
chữa vẫn có những quan điểm khác nhau, và phán quyết của Toà án giữa nơi
này với nơi khác hoặc giữa hai cấp về cùng vấn đề nhưng cũng khác nhau.
Ngoài ra, mô hình tố tụng hình sự của Nhà nước ta cũng chưa có sự
41
phân định cụ thể chức năng, vị trí của Cơ quan tố tụng như: Tòa án vẫn có
nhiệm vụ khởi tố vụ án, buộc tội theo tội danh nặng hơn hoặc Viện kiểm sát
kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật và của người tham gia tố tụng...
- Nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
trong đó có các Kiểm sát viên, Thẩm phán về tranh tụng còn hạn chế, vẫn cho
rằng mình là người nhân danh Nhà nước, mang nặng tính quyền lực nhà nước,
đã đặt mình cao hơn so với những người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo,
người bào chữa… Đặc biệt, nhận thức của lãnh đạo Viện kiểm sát và KSV ở
nhiều địa phương trong tỉnh còn chưa coi trọng công tác nâng cao chất lượng
tranh tụng của KSV tại phiên tòa, chưa quan tâm tổ chức tập huấn, trao đổi,
tổng kết rút kinh nghiệm cho cán bộ, KSV về nâng cao chất lượng tranh tụng,
kĩ năng tranh tụng tại phiên tòa.
+ Nhiều trường hợp Kiểm sát viên chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, Cáo
trạng sao chép từ Kết luận điều tra, không phát hiện ra những hạn chế, vi
phạm trong việc truy tố bị cáo; không tìm ra những điểm thiếu căn cứ trong
quyết định truy tố để kịp thời xử lý; vẫn tiếp tục bảo vệ quan điểm truy tố
trong khi người bào chữa và bị cáo đưa ra những chứng cứ thuyết phục hơn.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực trình độ nói chung, bồi dưỡng
về kỹ năng tranh tụng cho Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nói riêng chưa
được quan tâm đúng mức, đặc biệt là việc đào tạo, bồi dưỡng tư duy logic
hình thức cho Kiểm sát viên để vận dụng vào hoạt động tranh tụng, bởi lẽ
logic học hình thức là khoa học của tư duy, trình độ năng lực, kĩ năng, kinh
nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Luật sư vẫn còn hạn chế nhất định
+ Số Luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án
hình sự không nhiều
Sự quá tải trong công việc của Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cũng như
điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế là một trong các nguyên nhân cơ bản dẫn
42
đến chất lượng tranh tụng chưa cao.
Tiểu kết chương 2
Tại Chương 2 của luận văn tác giả đã khái quát những quy định của
BLTTHS năm 2015 về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, với
những điểm mới so với BLTTHS năm 2003. Đồng thời, phân tích thực tiễn
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019 số lượng các vụ án và bị cáo
mà Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh thụ lý là tương đối lớn, thể hiện sự gia tăng
và phức tạp của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh từ năm 2015 đến năm
2019, và sự nỗ lực của cán bộ, công chức ngành Tòa án hai cấp tỉnh Bắc
Ninh. Đáng lưu ý là từ năm 2015 đến năm 2019, trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự có sự tham gia của người bào chữa ngày một gia tăng,
chất lượng của Kiểm sát viên, Thẩm phán ngày một nâng cao và nhận
thức đúng đắn về tranh tụng...tuy nhiên, thực tiễn tranh tụng vẫn cho thấy một
số tồn tại, hạn chế như: Chất lượng tranh tụng trong nhiều phiên tòa còn hạn
chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, vẫn còn tình trạng không
tranh luận lại tại phiên tòa, quá trình nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên còn
nhiều thiếu sót, Tòa án không xem xét tình tiết gỡ tội có thiên hướng buộc tội,
người bào chữa tham gia các hoạt động tranh tụng nhưng chưa nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ án, kỹ năng lập luận và nghiên cứu pháp luật vẫn còn hạn chế...dẫn
đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Điều này đòi hỏi thời gian tới cần
43
phải có những giải pháp hiệu quả để giải quyết tồn tại, hạn chế nêu trên.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự
3.1.1. Yêu cầu của công cuộc tiếp tục cải cách tư pháp của Nhà
nước ta
Tiếp tục thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
tư pháp trong đó yếu tố quan trọng là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Nguyên tắc tranh tụng tuy
đã được ghi nhận nhưng vẫn còn một số vướng mắc dẫn tới chất lượng xét xử
chưa cao, quyền bào chữa của bị cáo ở một số vụ chưa được thực hiện thực
chất; tố tụng hình sự vẫn chưa khắc phục hết tình trạng cắt khúc, chưa tạo ra
cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau trong hoạt động tố tụng…Do vậy, trong
bối cảnh hiện nay việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa vụ án hình
sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm nói riêng có ý nghĩa quan trọng, góp phần
tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.
3.1.2. Yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong đó quyền của người bị buộc tội
Để đáp ứng các yêu cầu của Công ước quốc tế về quyền con người,
quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với tình hình, chiến lược
cải cách nền tư pháp đến năm 2020, thực tiễn xét xử vụ án hình sự thì thì việc
ghi nhận và tạo cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên (buộc
tội, gỡ tội) được bình đẳng với nhau, việc xét xử đảm bảo tính công bằng,
công minh, yếu tố tranh tụng được phát huy thì quyền công dân và quyền con
người sẽ được đảm bảo. Bởi mục đích cuối cùng của xã hội, là xu hướng đến
đảm bảo các quyền con người và xây dựng một xã hội văn minh giàu đẹp. Do
44
vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong tố tụng hình sự
và xét xử vụ án hình sự, nâng cao chất lượng, năng lực của bên buộc tội và
bên gỡ tội là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
3.1.3. Yêu cầu của hội nhập quốc tế
Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế thì việc xây dựng và hoàn thiện các
văn bản pháp luật, thiết lập bộ máy đủ thẩm quyền và năng lực để chỉ đạo, điều
hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các hoạt động hội nhập quốc tế, trong đó việc
tiếp thu những điểm mới, tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng của các quốc gia
trên thế giới có vai trò quan trọng, theo hướng bảo vệ quyền con người, quyền của
người bị buộc tội và yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay có vai trò quan trọng và ý
nghĩa trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền nước ta hiện nay.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tăng
cường công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật liên quan đến hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cần hoàn thiện theo hướng có
những đảm bảo cho các chủ thể (Kiểm sát viên, người bào chữa và người
tham tố tụng khác) thực hiện nguyên tắc tranh tụng của mình như: hoàn thiện
những quy định về địa vị tố tụng của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa;
hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng; chứng minh và chứng cứ về quyền thu thập
và cung cấp chứng cứ; thẩm quyền truy tố của VKS, phương thức người bào
chữa thu thập chứng cứ và cách thức người bào chữa thu thập chứng
cứ...nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng, để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng
thực hiện các nội dung tranh tụng theo nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình.
3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự
- Nguyên tắc xác định sự thật vụ án (Điều 15):
Theo tác giả để bảo đảm tranh tụng được hiệu quả, Tòa án thực sự là
45
trung gian, là người “cầm cân nảy mực” trong việc ra các phán quyết trên cơ
sở tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh tụng giữa bên buộc tội (Viện kiểm sát)
và bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo) thì không nên quy định Tòa án có trách
nhiệm chứng minh tội phạm như các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
khác như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra vì vô hình chung đã ràng buộc Tòa án phải
làm thay chức năng buộc tội của Viện Kiểm sát, ảnh hưởng đến tính khách
quan phán quyết mà Tòa án ban hành.
Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 15 quy định về xác định sự thật
của vụ án: “...2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm
sát. Phán quyết của Tòa án được thực hiện trên cơ sở sự thật vụ án được
chứng minh tại phiên tòa”.
- Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 153)
Theo tác giả, việc quy định nguyên tắc này như hiện nay làm ảnh
hưởng, chi phối đến chức năng xét xử của Tòa án đã được hiến định, không
đảm bảo bình đẳng, khách quan khi Tòa án tiến hành khởi tố vụ án sau đó có
thể sẽ tiến hành xét xử vụ án mà mình đã khởi tố trước đó đã làm ảnh hưởng
đến nguyên tắc độc lập khi xét xử và tính khách quan đối với quá trình xem
xét vụ án, quyết định của bản án đối với tội phạm và người phạm tội. Mặt
khác, thực tiễn xét xử cho thấy, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Hội
đồng xét xử chủ yếu kiến nghị VKS xem xét khởi tố.
Vì vậy, theo tác giả các quy định trên nên được điều chỉnh lại theo
hướng: “4. Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu
qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Điều 154
BLTTHS năm 2015: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu của
Hội đồng xét xử, Viện kiểm sát phải xem xét giải quyết theo quy định.
Trường hợp không đồng ý với yêu cầu trên của Hội đồng xét xử, Viện kiểm
46
sát phải thông báo bằng văn bản và nêu lý do cụ thể”.
- Theo tác giả cần bổ sung và kết cấu ngắn gọn theo hướng: “Người bị
buộc tội có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa theo quy định của
Bộ luật này”. Và bổ sung vào điểm g, khoản 1, Điều 61 BLTTHS liên từ “và”
nhằm khẳng định bị cáo vừa có quyền tự bào chữa, đồng thời nhờ người bào
chữa: “Điều 61. Bị cáo: ...2. Bị cáo có quyền:...Tự bào chữa và nhờ người bào
chữa;...”
+ Quy định tại Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định là không cần
thiết vì đã trùng với quy định tại Điều 16 BLTTHS và một số quy định tại
Chương IV (Người tham gia tố tụng). Hoặc nếu giữ lại quy định trên cần thay
dấu “,” bằng liên từ “và” trong cụm “ tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa”,
vì cách quy định hiện tại dễ gây hiểu nhầm là người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức là tự bào chữa hoặc nhờ
người bào chữa, và không cần thiết phải giữ lại từ “khác” trong cụm từ “nhờ
người khác bào chữa”:
3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa
- Nghiên cứu BLTTHS năm 2015 hiện hành cho thấy một số quy định
về bào chữa không được quy định tập trung mà quy định ở nhiều phần khác
nhau của BLTTHS. Ví dụ: Quy định về người bào chữa; thủ tục đăng ký bào
chữa; quyền, nghĩa vụ của người bào chữa; lựa chọn, thay đổi người bào chữa
quy định từ Điều 72 đến 82, Chương V, BLTTHS năm 2015; quy định về
quyền kháng cáo tại khoản 2 Điều 331 Chương XXIII; quy định về bào chữa
của người chưa thành niên tại các Điều 422...việc sắp xếp các quy định trên
dễ dấn đến trường hợp quy định không đầy đủ các nội dung liên quan đến bào
chữa. Do vậy, để khắc phục hạn chế nêu trên thì các quy định liên quan đến
bào chữa trong BLTTHS nên được sắp xếp thành một chương riêng.
- Đối với trường hợp chỉ định người bào chữa theo tác giả nên quy định
về việc người bào chữa (dự bị) cho bị cáo khi vì lý do nào đó trong giai đoạn
47
trước họ đó họ đã từ chối người bào chữa, nhưng đến phiên tòa họ lại yêu cầu
vào quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015 thể hiện tính nhân đạo, cũng
như bảo đảm tốt hơn cho việc tranh tụng tại phiên tòa.
- Điều 291 BLTTHS (Sự có mặt của người bào chữa): Theo tác giả việc
cho phép Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa nếu người bào chữa vắng mặt như
hiện nay vô hình chung dễ dẫn đến việc người bào chữa thiếu trách nhiệm
trong việc bào chữa và việc đánh giá chứng cứ sẽ không khách quan, có tính
đối trọng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, trong khi việc có mặt của bên buộc
tội là bắt buộc trong mọi phiên tòa. Chính vì vậy, theo tác giả luận văn thì
BLTTHS nên quy định sự có mặt của người bào chữa là bắt buộc.
- Đến nay trong BLTTHS năm 2015 chưa có những quy định cụ thể
nào để xử lý trách nhiệm do có những hành vi cản trở hoạt động hành nghề
luật sư và thực tiễn cũng chưa có trường hợp nào người tiến hành tố tụng bị
xử lý nghiêm túc và công khai về hành vi cản trở Luật sư trong hoạt động bào
chữa; trong khi đó, nếu người bào chữa có hành vi chưa chuẩn mực đối với cơ
quan và người người tiến hành tố tụng thì sẽ bị gửi văn bản yêu cầu xử lý
người bào chữa đó, thậm chí còn bị đề nghị thu hồi chứng chỉ hành nghề và
thẻ luật sư. Do vậy, cần quy định chặt chẽ nội dung này trong luật và cần phải
có những chế tài nghiêm khắc đối với người bào chữa vi phạm quy định của
pháp luật và đạo đức nghề luật sư.
- Về quy định tại khoản 4 Điều 88 BLTTHS.
Thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, khi thu thập được chứng cứ
quan trọng, quyết định việc có tội hay không có tội của bị can, bị cáo thì
thông thường người bào chữa sẽ không tiến hành giao nộp ngay mà chỉ đợi
đến khi phiên tòa được mở, thậm chí đến phần tranh luận mới xuất trình, gây
khó khăn trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ của Tòa án. Nguyên
nhân là do người bào chữa lo sợ khi giao nộp những chứng cứ quan trọng sẽ
bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến giá trị chứng minh không còn. Ngoài ra,
48
khi một bên gỡ tội thực hiện thu thập các chứng cứ gỡ tội, khi thu thập được
lại phải kịp thời giao nộp cho bên buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng – Viện
kiểm sát) dẫn đến sự thiếu khách quan khi đánh giá chứng cứ. Do vậy, tác giả
kiến nghị: BLTTHS cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan THTT
khi tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ do người bào chữa cung cấp trong trường
hợp này.
+ Quy định trường hợp người bào chữa thu thập chứng cứ bằng việc đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên
quan đến việc bào chữa hầu như không khả thi trên thực tế do sự bất hợp tác
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các tài liệu, đồ vật. Do vậy,
tác giả kiến nghị: BLTTHS cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ
quan THTT trong việc hỗ trợ người bào chữa thu thập chứng cứ với những
trường hợp này.
3.2.1.3. Hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của các chủ thể buộc tội
Để đảm bảo tranh tụng thực sự có hiệu quả và được các chủ thể buộc
tội, gỡ tội và xét xử, pháp luật tố tụng hình sự cần có những hoàn thiện trong
sự phân định tính chất, vị trí và chức năng của từng chủ thể: Cơ quan điều tra,
VKS, Tòa án và Cơ quan thực hiện một số hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động tranh tụng trong thời gian tới
theo hướng có sự tách bạch, phân định rõ ràng giữa các chủ thể thực hiện các
chức năng (buộc tội: Điều tra, truy tố và chức năng xét xử) với mục đích
xuyên suốt cần hướng tới là thực sự tạo lập sự bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên gỡ tội (bên bào chữa), sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án
trong hoạt động xét xử nói chung và trong quá trình tranh tụng nói riêng, để
Tòa án thực sự là người “cầm cân nảy mực”, bảo đảm công bằng trong xét xử
vụ án hình sự trong giai đoạn sơ thẩm nói riêng và các giai đoạn xét xử khác
trong tố tụng hình sự.
Trên cơ sở nghiên cứu, so sánh các kết quả nghiên cứu của các tác giả
49
khác nhau, tác giả cho rằng, có thể phân chia các chủ thể thực hiện các chức
năng cơ bản trong tố tụng hình sự nước ta thành các nhóm theo chức năng tố
tụng mà không phân chia theo nhóm chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham
gia tố tụng như quy định trong BLTTHS hiện hành. Cụ thể, để nâng cao hơn
nữa chất lượng tranh tụng cần phân chia các chủ thể trong tố tụng hình sự
Việt Nam theo hướng: Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội gồm: CQĐT
(gồm các chủ thể tố tụng hình sự thuộc CQĐT như: Thủ trưởng CQĐT, Phó
Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Cán bộ điều tra); Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành điều tra và người được giao nhiệm vụ điều tra trong các cơ quan này;
VKS (gồm các chủ thể tố tụng hình sự thuộc VKS như Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, KSV và Kiểm tra viên); bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại
trong trường hợp bị hại chết, bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại.
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gồm: Người bị buộc tội (người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo); người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần và người bào chữa.
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử là Tòa án.
Các chủ thể khác: người làm chứng, người chứng kiến; người giám
định, người định giá tài sản;...
Theo đó, cần thay đổi cơ cấu của BLTTHS hiện hành theo hướng nhập
Chương III (Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng) và Chương IV (Người tham gia tố tụng) thành một chương
có tên gọi là "Các chủ thể tố tụng hình sự" với các mục như sau: - Mục I: Các
chủ thể buộc tội. - Mục II: Các chủ thể bào chữa. - Mục III: Toà án. - Mục IV:
Các chủ thể tố tụng khác. Việc thay đổi cơ cấu của BLTTHS về chủ thể tố
tụng hình sự như nêu trên không chỉ là sự thay đổi về mặt hình thức mà thể
50
hiện sự thay đổi tư duy về phân loại chủ thể tố tụng hình sự gắn với chức
năng tố tụng, là tiền đề để quy định địa vị pháp lý của mỗi nhóm chủ thể tố
tụng hình sự phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng”. [17, tr.126-
129].
3.2.1.4. Hoàn thiện một số quy định khác của Bộ luật tố tụng hình sự
Quy định tại Điều 305, BLTTHS 2015 là một trong các quy định góp
phần bảo đảm sự bình đẳng, hiệu quả khi tranh tụng giữa các bên buộc tội và
gỡ tội khi các bên có thể đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc
yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét. Nhưng nội dung trên lại
chỉ được xem xét trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng lại không được
quy định trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, trong quá trình
xét xử, sau khi kết thúc phần thủ tục tại phiên tòa mà người tham gia tố tụng
muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài
liệu ra xem xét thì lại không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu.
Vì vậy, theo tác giả cần bổ sung theo hướng trong suốt quá trình xét xử
tại phiên tòa, nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn, có xuất hiện một số tình tiết
mới chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án, thì cả bên buộc tội và bên gỡ tội có
quyền đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng để xem
xét toàn diện và khách quan hơn.
- Điều 307 BLTTHS quy định về trình tự xét hỏi, như hiện nay theo tác
giả là chưa hợp lý. Bởi có thể thấy trong quy định này thì việc xét hỏi tại
phiên tòa được thực hiện chủ yếu bởi Hội đồng xét xử. Việc hỏi của bên buộc
tội (Kiểm sát viên) và bên gỡ tội là nhiệm vụ chính, quan trọng trong hoạt
động tranh tụng để bảo vệ sự buộc tội và hướng gỡ tội của các bên lại phụ
thuộc hoàn toàn vào Hội đồng xét xử. Ngược lại, Tòa án với vai trò “trung
gian”, quyết giải quyết vụ án trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xác
định đầy đủ, khách quan các tình tiết buộc tội cũng như gỡ tội (thông qua việc
xét hỏi, nghe các bên tranh luận) lại là người can thiệp quá nhiều vào hoạt
51
động này.
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự tại phiên tòa sơ thẩm cho thấy, nhiều
trường hợp Hội đồng xét xử đã hỏi hết, Kiểm sát viên thậm chí không hỏi
thêm câu gì để làm rõ việc buộc tội của mình có đúng, có căn cứ? Như vậy,
theo tác giả quy định này chưa thực sự hợp lý để đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, cần sửa đổi theo hướng
khi tiến hành thủ tục xét hỏi, Hội đồng xét xử chỉ lắng nghe và chủ tọa phiên
tòa chỉ giữ quyền điều hành phiên tòa, quyết định cho ai hỏi ai, duy trì thời
gian hỏi và có quyền cắt các ý kiến các câu hỏi không đúng trọng tâm.
Do vậy, tác giả kiến nghị Điều 307 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi:
...2. Khi xét hỏi từng người thứ tự hỏi như sau: Kiểm sát viên hỏi trước,
sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện việc hỏi...”.
- Điều 88 BLTTHS năm 2015 về thu thập chứng cứ cần được giới hạn
lại, phù hợp với quy định tại Điều 252 BLTTHS năm 2015 (Tòa án xác minh,
thu thập, bổ sung chứng cứ) trong một số trường hợp cụ thể.
“Điều 88. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền tiến hành
hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng
Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tự mình thu thập chứng
cứ để đảm bảo việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 252 Bộ luật này .”
- Điều 252 BLTTHS 2015 thể hiện “Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ bằng các hoạt động...” và quy định từ khoản 1 đến khoản 5 là phù
hợp. Tuy nhiên, khoản 6 không phải là hoạt động như nội hàm của Điều 252
52
mà là trường hợp riêng biệt, là điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ. Nói
cách khác, nội dung Điều luật gồm 02 nội dung chính nên việc xây dựng Điều
luật gồm 6 khoản thể hiện 01 nội dung chính là không chính xác.
Do vậy, theo quan điểm tác giả, Điều 252 BLTTHS 2015 phải được sửa
đổi lại phù hợp với nội hàm điều luật là:
“Điều 252. Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ
1. Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các
hoạt động:…
2. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ
nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án”.
3.2.2. Tăng cường năng lực của các chủ thể tham gia tranh tụng tại
phiên tòa hình sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng
3.2.2.1. Tăng cường năng lực điều hành tranh tụng, nhận thức về tranh
tụng của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
- Ngành tòa án nói chung và Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần thường
xuyên tăng cường công tác đào tạo kỹ năng điều hành tranh tụng cho Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân với các kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu cải cách
tư pháp, kịp thời đổi mới tư duy và phương pháp công tác, nhằm hướng tới
tính chủ động, bản lĩnh của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong xử lý tình
huống, chủ động, hiệu quả, nắm vững quy định của pháp luật và khả năng vận
dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề pháp lý đặt ra trong việc điều khiển
quá trình tranh luận, đối đáp của các bên, nhất là đối với các vụ án có đông bị
cáo và nhiều Luật sư tham gia, phải đảm bảo hoạt động xét xử phải độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, không bị tác động bởi những áp lực hay bất kỳ dư
luận nào. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có bản lĩnh chính
trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ
pháp chế; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tụy và
53
tự giác cao với công việc; có kỹ năng điều hành phiên tòa, xét xử vụ án chuyên
sâu, theo từng cấp (sơ thẩm, phúc thẩm), theo từng lĩnh vực giải quyết án (hình
sự trị an, hình sự ma túy, kinh tế, chức vụ...), theo từng nhóm tội cụ thể.
- Tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, tổ chức hội
thảo khoa học nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự nói chung và
hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa nói riêng, tăng cường, hình thức
phong phú, toàn diện, kết hợp đào trong nước với đào tạo nước ngoài.
3.2.2.2. Tăng cường năng lực, nhận thức về tranh tụng của Kiểm sát
viên trong thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự
Để nâng cao hiệu quả công tác tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự thì việc nâng cao năng lực của chủ thể buộc tội có vai trò cốt yếu, đặc biệt là
việc nâng cao năng lực của đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp của tỉnh Bắc Ninh.
VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần thực hiện nghiêm chỉnh, triển khai
thực hiện tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự được nêu tại mục 2, Điều 2, Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày
27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật, công tác của VKSND, Tòa án nhân dân, công tác thi hành án: “b)...Nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự...”.Thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số: 09/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của
Viện trưởng VKSND tối cao: “Tăng cường các biện pháp nâng cao chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa” và Chỉ thị số: 01/CT-
VKSTC ngày 17 tháng 12 năm 2019, Công tác của ngành Kiểm sát nhân dân
năm 2020 của Viện trưởng VKSND tối cao: “hạn chế đến mức thấp nhất các
trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu khởi tố, nhất là các trường hợp do bỏ lọt
tội phạm, người phạm tội và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Chủ
động phối hợp với Cơ quan điều tra tiến hành tổng rà soát, quản lý, kiểm sát
chặt chẽ các vụ việc, vụ án hình sự tạm đình chỉ; hạn chế thấp nhất việc bỏ lọt
tội phạm, người phạm tội trong các vụ án tạm đình chỉ…Đẩy mạnh các biện
54
pháp nhằm nâng cao kỹ năng, chất lượng các hoạt động xét hỏi, tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự; tiếp tục thực hiện việc công bố tài
liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa trong toàn ngành Kiểm sát. Hạn
chế thấp nhất các trường hợp Tòa án tuyên khác tội danh Viện kiểm sát đã
truy tố; không để xảy ra việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội”.
Để triển khai các nội dung trên, theo tác giả luận văn cần thực hiện tốt
một số giải pháp cụ thể như:
+ Tiếp tục nâng chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại
phiên tòa hình sự.
Cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại mỗi phiên tòa, có biện pháp khen
thưởng động viên kịp thời đối với Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ tranh
tụng, lấy đó làm căn cứ để đánh giá chất lượng Kiểm sát viên và tiêu chí để
xét bổ nhiệm, đề bạt cán bộ; chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, ưu tiên
trang bị máy tính xách tay cho Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử. Tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh
nghiệm, tăng cường hoạt động đối thoại giữa Kiểm sát viên với luật sư về kỹ
năng tranh tụng tại phiên tòa.
+ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế biệt phái Kiểm sát viên ở Viện
kiểm sát cấp trên xuống cấp dưới làm nhiệm vụ thực hành công tố và ngược
lại, đề cao vai trò trách nhiệm của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, cũng như
vai trò công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo viện Kiểm sát các cấp nhằm hỗ
trợ cho các hoạt động của Kiểm sát viên trong đó có hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa. Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo, rèn
luyện kỹ năng trình bày, kỹ năng đối đáp và tranh luận tại phiên tòa, kỹ năng
tiếp cận và xử lý thông tin, tình huống tại phiên tòa, kỹ năng hùng biện, phản
biện sắc bén, tính thuyết phục cao; kỹ năng quan sát, tổng hợp và ghi chép
nhanh, rèn tác phong tự tin, trình bày mạch lạc, lưu loát, thái độ bình tĩnh,
55
đúng mực, tôn trọng người đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên.
Đối với từng Kiểm sát viên: Thường xuyên tự rèn luyện các kỹ năng về
tranh tụng, lập luận, chuyên môn nghiệp vụ. Kiểm sát viên được phân công
thực hành quyền công tố phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc nội dung của vụ
án, các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, dự kiến các vấn đề cần xét hỏi,
xây dựng kế hoạch tranh luận và đối đáp tại phiên tòa. Khắc phục tình trạng
Kiểm sát viên tranh luận, đối đáp với Luật sư không triệt để, đầy đủ và người
tham gia tố tụng; triển khai thực hiện việc “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài
liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa để bảo đảm tính thuyết phục trong
quá trình tranh tụng; chủ động xử lý tốt các tình huống người tham gia tố tụng
cung cấp chứng cứ, tài liệu mới, bảo đảm quan điểm truy tố, buộc tội của
Viện kiểm sát thuyết phục, có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
+ Ngoài ra, đối với những vụ án do Viện kiểm sát nhân dân cấp trên thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhưng ủy quyền cho VKSND cấp dưới
thì cần phải đảm bảo đủ thời gian cho Kiểm sát viên của Viện kiểm sát cấp dưới
nghiên cứu hồ sơ vụ án, thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.
3.2.2.3. Tăng cường năng lực tranh tụng của người bào chữa tại phiên
tòa hình sự
Trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hoàn thiện cơ
chế, chính sách và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của luật sư, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, chất lượng,
chuyên môn đáp ứng yêu cầu của hoạt động tranh tụng.
+ Tăng cường phối hợp, phát triển chuyên sâu các tổ chức hành nghề
luật sư, phối hợp với Cơ quan tiến hành tố tụng để trao đổi kỹ năng tranh tụng
tại phiên tòa với đội ngũ luật sư.
- Về đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý: bên cạnh luật sư thì sự tham gia
của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý có nghĩa rất quan trọng bởi không phải đối
tượng nào cũng có thể thuê luật sư đặc biệt là những đối tượng có hoàn cảnh
56
khó khăn. Do vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, trong đó có Sơ Tư pháp
cần có những chính sách tăng cường số lượng và chất lượng của đội ngũ này
trên địa bàn tỉnh.
- Hoàn thiện quy định về Bào chữa viên nhân dân, mặc dù BLTTHS
năm 2015 đã có quy định cụ thể hơn về chức danh này; tuy nhiên theo tác giả
cần có văn bản pháp lý quy định cụ thể về thành lập, tổ chức, quản lý, phát
triển đội ngũ này.
3.2.3. Một số giải pháp khác
- Nghiên cứu và áp dụng việc “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố chứng
cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa để bảo đảm sự công khai, bình đẳng trong quá
trình tranh tụng tại các phiên tòa hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Theo tác
giả đây là giải pháp quan trọng nhằm làm tinh gọn hồ sơ vụ án, thuận lợi cho
quá trình nghiên cứu, khai thác hồ sơ dễ dàng và nhanh chóng, qua đó rút
ngắn thời gian nghiên cứu và trích cứu tài liệu của Kiểm sát viên, nâng cao
hiệu quả của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, góp phần bảo đảm tính khách
quan khi kiểm chứng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bảo đảm
tính thuyết phục trong quá trình tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên với
người bào chữa. để đảm bảo hiệu quả theo tác giả cần thực hiện tốt một số
biện pháp sau:
+ Tăng cường trang bị cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động xét xử của
Tòa án, trong đó cần chú trọng việc đảm bảo trang thiết bị phục vụ cho quá
trình xây dựng hồ sơ số hóa và quá trình công bố chứng cứ, tài liệu bằng hình
ảnh tại phiên tòa. Đây là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu để thực hiện
được công tác này. Các trang thiết bị phải bảo đảm về tính năng, tính ổn định
và không kết nối Internet để bảo đảm không bị gián đoạn trong quá trình thực
hiện và không bị lộ, lọt thông tin.
+ Trong quá trình tổ chức thực hiện cần có kế hoạch cụ thể, chi tiết, ưu
tiên thực hiện đối với những vụ án phức tạp, có thể có nhiều tình huống phát
57
sinh trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa nhất là các vụ án có nhiều người
tham gia tố tụng, nhiều luật sư tham gia. Viện kiểm sát phải phối hợp tốt với
Tòa án để thực hiện các nội dung công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại
phiên tòa được thống nhất, tránh chồng chéo và thực hiện không đúng quy
định của pháp luật.
+ Thành lập bộ phận kỹ thuật để phục vụ trong quá trình công bố hồ sơ
số hóa tại phiên tòa. Đối với Kiểm sát viên khi thực hiện tranh tụng tại phiên
tòa phải chuẩn bị tốt các tài liệu chuẩn bị xét xử kết hợp với kế hoạch sử dụng
chứng cứ, tài liệu được số hóa, phải nắm chắc hồ sơ vụ án và hồ sơ được số
hóa, đánh dấu những nội dung cần lưu ý để tiện cho người xem trong quá
trình công bố.
- Triển khai thi hành các đạo luật về tư pháp, đặc biệt là các đạo luật
trong lĩnh vực hình sự, như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; xây dựng,
ban hành nhiều thông tư liên tịch nhằm hướng dẫn thi hành các đạo luật trên;
rà soát, sửa đổi các thông tư liên tịch để kịp thời tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, đây là
hoạt động có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cơ sở pháp lý để thực hiện tranh
tụng, đặc biệt là tranh tụng về tội danh và quyết định hình phạt.
Tiểu kết chương 3
Thông qua Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích một số yêu cầu
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
như: Yêu cầu của công cuộc tiếp tục cải cách tư pháp, yêu cầu của công cuộc
xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó có việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong đó quyền của người buộc tội, yêu cầu của hội nhập
quốc tế; đồng thời tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng tranh tụng trong thời gian tới như: Hoàn thiện một số quy định của
pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ
58
thẩm vụ án hình sự; nâng cao năng lực của các chủ thể tranh tụng, hoàn thiện
tổ chức của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu mới...hướng tới hoạt động
59
tranh tụng đạt thực chất và hiệu quả hơn trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Ninh.
KẾT LUẬN
Có thể thấy, tranh tụng là hoạt động có vai trò rất quan trọng trong việc
bảo đảm quyền con người, hạn chế oan sai và thể hiện sự tiến bộ của nền tư
pháp của nước ta. Thông qua 03 chương của luận văn tác giả đã phân tích,
làm rõ một số nội dung cụ thể như:
Chương 1 của luận văn tác giả đã lần lượt phân tích và làm rõ một số
vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở và lịch sử lập pháp tố tụng hình sự
của Nhà nước ta về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2 của luận văn tác giả đã khái quát những quy định của
BLTTHS năm 2015 về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, với
những điểm mới so với BLTTHS năm 2003. Đồng thời, phân tích thực tiễn
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên,
nhìn chung thực tiễn tranh tụng tại Bắc Ninh vẫn cho thấy một số tồn tại, hạn
chế như: Chất lượng tranh tụng trong nhiều phiên tòa còn hạn chế, chưa thực
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, vẫn còn tình trạng không tranh luận lại
tại phiên tòa, quá trình nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên còn nhiều thiếu
sót, Tòa án không xem xét tình tiết gỡ tội có thiên hướng buộc tội, người bào
chữa tham gia các hoạt động tranh tụng nhưng chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án, kỹ năng lập luận và nghiên cứu pháp luật vẫn còn hạn chế...dẫn đến vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Chương 3 của luận văn tác giả đã phân tích một số yêu cầu nhằm nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự; đồng thời tác
giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong
thời gian tới như: Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự; nâng cao năng lực của các chủ
thể tranh tụng, hoàn thiện tổ chức của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu
60
mới.
Những kết quả nghiên cứu trên, tác giả hy vọng có thể đóng góp về mặt
lý luận và thực tiễn cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự của tỉnh Bắc Ninh nói riêng và phạm vi cả nước nói chung. Tuy nhiên, luận
văn được nghiên cứu trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 được ban hành mới,
nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn những quy định mới chưa được ban hành
để hướng dẫn. Trong khi kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của tác giả còn
hạn chế. Do vậy, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả
luận văn rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn đồng nghiệp
61
để luận văn được hoàn thiện hơn./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Hán - Việt tự điển, NXB Văn hóa thông tin
2. Bộ tư pháp (2003), Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi, Thông tin
khoa học xét xử, (1), Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày
24/5/2005, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Lê Tiến Châu (2003), Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS, Tạp
chí KHPL (01), Hà Nội.
7. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945, Hà Nôi.
8. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 quy định tổ
chức các đoàn thể luật sư và chế độ luật sư tập sự, Hà Nội.
9. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 07 ngày 15/01/1946, Hà Nội.
10. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, Hà Nội.
11. Chủ tịch nước (1949), Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949, Hà Nội.
12. Lê Trung Dũng (2018), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
theo pháp luật tố tụng hình Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện hàn
lâm Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Phan Hùng (2018), Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Ninh Thuận, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Phạm Hồng Hải (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
62
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Khoa Luật Trường Đại học Cannor Mỹ (2003), Tạp chí Thông tin
khoa học xét xử, (01), tr.10.
17. Lê Thị Thúy Nga (2019), Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
18. Nguyễn Thái Phúc (1995), “Một số vấn đề về quyền công tố”, Kỷ
yếu đề tài khoa học cấp bộ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của
TTHS Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
19. Nguyễn Thái Phúc (2003), Vấn đế Giới hạn xét xử trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2003.
20. Ths. Lê Thanh Phong - Phó Chánh án Tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh, Bàn về giới hạn xét xử trong BLTTHS năm 2015, Tạp chí
Kiểm sát số 13/2018, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
22. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức TAND, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức VKSND, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
25. Nguyễn Trương Tín (2010), Một số vấn đề về sự tham gia tranh
tụng của người bị hại và nguyên đơn dân sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo
yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Luật học, số 3/2010, Hà Nội.
26. TS. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2013), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tuc tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.89.
27. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo tổng kết năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019, Bắc Ninh.
28. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 25/2017/HSST ngày
63
09/06/2017, Bắc Ninh.
29. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 35/2016/HSST ngày
11/11/2016, Bắc Ninh.
30. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 24/2019/HS-PT
ngày 23/4/2019, Bắc Ninh.
31. Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Bản án hình sự sơ thẩm
số 07/2019/HSST ngày 21/01/2019, Bắc Ninh.
32. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 51/2018/HS-PT
ngày 29/10/2018, Bắc Ninh.
33. Tòa án nhân dân dân tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 23/2019/HS-PT
ngày 22/04/2019, Bắc Ninh.
34. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số
54/2018/HS-ST ngày 28/11/2018, Bắc Ninh.
35. Tòa án nhân dân Tối cao (2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb. Lao
động, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Trượng (2008), Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa
hình sự và việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải
cách tư pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
37. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Chỉ thị số
01/CT-VKSTC ngày 17/12/2019, Công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm
2020, Hà Nội.
38. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy tắc ứng xử
của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án, Ban hành kèm theo Quyết định số
46/QĐ-VKSTC ngày 20 tháng 02 năm 2017, Hà Nội.
39. Võ Khánh Vinh (2014), Hội thảo khoa học “Quyền tư pháp và việc
cụ thể hóa quyền tư pháp trong Luật tổ chức TAND (sửa đổi), truy cập tại địa
chỉ https://congly.vn/thoi-su/tieu-diem/quyen-tu-phap-duoi-goc-nhin-cua-cac-
64
nhakhoa-hoc-va-chuyen-gia-phap-luat-53208.html ngày 12/6/2014
40. Võ Khánh Vinh (2015), Kết luận Hội thảo khoa học “Các chức
năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh Cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” ngày 28/11/2015 tại Học viện KHXH. truy cập tại địa chỉ:
http://gass.edu.vn/Detail.aspx?ArticleID=2895&CatdID=225&CatdIDP
arent= 226 ngày 08/01/2016.
41. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của Phần chung
Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
42. Võ Khánh Vinh (2012), Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
43. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện ngôn ngữ học (1992), Từ
điển Tiếng Việt, Nxb. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
44. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1996), Tội phạm học, Luật
Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb.Từ điển Bách
khoa & NXB. Tư pháp, Hà Nội.
46. Từ điển tiếng Việt, Ban biên soạn chuyên từ điển New Era (2005),
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
47.https://lsvn.vn/luat-su-va-cong-dong/hoat-dong-luat-su/ky-niem-74-
nam-truyen-thong-luat-su-viet-nam-va-10-nam-thanh-lap-lien-doan-luat-su-
65
viet-nam-33213.html