ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

ĐINH THỊ QUỲNH ANH

QUAN NIỆM VỀ BẦU CỬ CỦA JOHN STUART MILL

TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN” VÀ

Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

ĐINH THỊ QUỲNH ANH

QUAN NIỆM VỀ BẦU CỬ CỦA JOHN STUART MILL

TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN” VÀ

Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học

Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Hạnh

Hà Nội - 2016

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

NỘI DUNG ................................................................................................................ 9

Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM

CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN . 9

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................... 9

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ..... 9

1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ..... 12

1.2. Tiền đề tƣ tƣởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử ............. 15

1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham ...................................................... 15

1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville ........................................... 17

1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare ................................................. 20

1.3. Khái quát về J.S. Mill và “Chính thể đại diện” ......................................... 23

1.3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của J.S. Mill ........................................ 23

1.3.2. Về “Chính thể đại diện” ........................................................................... 28

Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM CỦA J.S. MILL VỀ BẦU CỬ

TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI

VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................ 33

2.1. Hai nguyên tắc nền tảng cho quan niệm về bầu cử của J.S. Mill ............. 33

2.1.1. Nguyên tắc công lợi .................................................................................. 33

2.1.2. Nguyên tắc về quyền tự do ....................................................................... 35

2.2. Quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện” .. 37

2.2.1. Mối quan hệ giữa chính thể đại diện và bầu cử ....................................... 37

2.2.2. Quan niệm về mở rộng quyền bầu cử ....................................................... 41

2.2.3. Quan niệm về quyền bầu cử cho phụ nữ .................................................. 57

2.2.4. Quan niệm về quy trình bầu cử ................................................................ 62

2.2.5. Quan niệm về cách thức bỏ phiếu và nhiệm kỳ của Nghị viện ................. 66

2.3. Những giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.

Mill trong “Chính thể đại diện” ......................................................................... 68

2.3.1. Những giá trị chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill............... 68

2.3.2. Những hạn chế chủ yếu trong quan niệm về bầu cử của J.S.Mill ............ 73

2.4. Ý nghĩa quan niệm về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”

đối với Việt Nam hiện nay ................................................................................... 76

2.4.1. Ý nghĩa lý luận .......................................................................................... 76

2.4.2. Ý nghĩa thực tiễn ....................................................................................... 80

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 90

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý nhân loại nói chung và lịch sử tư

tưởng về nhà nước nói riêng, vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước được coi là vấn đề

quan trọng và phức tạp nhất. Theo V.I. Lê Nin: “đó là vấn đề rất cơ bản, rất mấu

chốt trong toàn bộ chính trị, đến nỗi không những thời đại giông tố và cách mạng như thời đại chúng ta, mà cả trong các thời đại yên tĩnh nhất”1.

Lịch sử đã chứng minh sự tồn tại của rất nhiều học thuyết, lý thuyết hay quan

niệm khác nhau về vấn đề nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước phải

đứng trên nhiều góc nhìn, phản ánh nhiều mặt của vấn đề. Các lý thuyết do con

người sáng tạo nên và để phục vụ cho lợi ích con người. Những giá trị thực tiễn và

lý luận mà các mô hình nhà nước dân chủ trên thế giới đem lại là một nguồn tài liệu

quý giá cho Việt Nam nghiên cứu và học tập trong sự nghiệp xây dựng nhà nước

pháp quyền và kiện toàn hệ thống chính trị.

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất của Hiến

pháp ở bất kỳ quốc gia nào. Quyền lực thuộc về nhân dân phải có các hình thức và

biện pháp thực hiện nhất định. Hình thức dân chủ đại diện với việc nhân dân bỏ

phiếu bầu ra những người đại diện, những người này thay mặt nhân dân, được nhân

dân ủy nhiệm giải quyết các công việc của nhà nước là hình thức thực hiện quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Phương pháp bầu cử trở thành một trong những hình thức thực hiện quyền tự

do dân chủ, một trong những biểu hiện quyền con người trong lĩnh vực chính trị.

Về tầm quan trọng của bầu cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Tổng tuyển

cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để

gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước

1 V.I. Lê Nin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, M, .1976, tr.5.

thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không phân

1

chia trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân

Việt Nam đều có hai quyền đó” (Tờ Cứu quốc phỏng vấn ứng cử viên Đại biểu

Quốc hội khoá đầu tiên, VietNamNet, 01/01/2006)

Phương Tây – là khởi nguồn của dòng tư tưởng xã hội dân chủ, nơi mà tất cả

các công dân có quyền được tham gia tối đa một cách thực sự vào các quyết định

chung cho sự phát triển, tồn vong của quốc gia. Dòng tư tưởng này đã thấm đẫm

vào thực tiễn đời sống chính trị, mang lại nhiều thành tựu quan trọng cho quá trình

hình thành, phát triển và kiện toàn bộ máy nhà nước tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Trong bối cảnh hội nhập và tiếp biến văn hóa toàn cầu hiện nay, chúng ta cần

nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá và tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng có giá trị

của phương Tây. Nghiên cứu triết học một cách nghiêm túc, chúng ta luôn ý thức

được tầm quan trọng của việc nghiên cứu những tư tưởng triết học vĩ đại trong lịch

sử tư tưởng nhân loại để lấy đó như bài học, kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển

của Việt Nam nói chung và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam hiện nay nói riêng.

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân

mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ

trí thức”. Đó là tuyên bố trịnh trọng trong Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Điều 6 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Nhân

dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện

thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà

nước”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm

2006) đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước là “Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [47-tr.40]. Một trong những phương

hướng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chiến lược này là “Tiếp tục đổi mới tổ

chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất

2

lượng đại biểu Quốc hội…phát huy tốt vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc

hội”[47, tr.126]. Như vậy, có thể thấy được định hướng của Đảng về đổi mới chế độ

bầu cử được thể hiện khá rõ ràng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XII đã

chỉ rõ cần phải “Tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cơ cấu và tiêu chuẩn, nâng cao chất lượng đại biểu,

tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách một cách hợp lý” và “Đổi mới bầu

cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những

người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ,

dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”.

Như vậy, xét về cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn, định hướng chính trị của

Đảng cũng như định hướng nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học chính trị nhân loại,

việc đổi mới nhận thức về pháp luật bầu cử là hoàn toàn cấp thiết, phù hợp với mục

tiêu chính trị cũng như mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đời sống triết học chính trị thế giới đã vô

cùng sôi động, ngay từ thời cổ đại chúng ta đã có “Nền Cộng hòa” của Plato – một

tác phẩm nổi tiếng thể hiện ước mơ về một nhà nước lý tưởng, chúng ta cũng hoàn

toàn kinh ngạc khi đọc “Chính trị luận” của Aristotle,…cho đến “Khảo luận thứ hai

về chính quyền của” John Locke, “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu hay “Bàn

về khế ước xã hội” của Jean-Jacques Rousseau. Vấn đề nhà nước là gì, mục đích ra

đời của nhà nước ra sao, nhà nước có thể làm được gì và cơ chế hình thành nhà

nước như thế nào là những trăn trở, suy tư, phân tích chính của các triết gia. Một

vấn đề nan giải còn tồn tại chưa có cách giải quyết thỏa đáng đó là bằng cách nào để

có thể thiết lập được một hình thức nhà nước đại diện cho tất cả mọi người chứ

không phải số đông nhằm tổ chức một xã hội quy củ, hệ thống, đảm bảo hài hòa

quyền lợi của mọi người.

Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn như vậy, tác giả mong muốn

tìm tòi những tư tưởng về nhà nước trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Một triết gia

gây sự chú ý đặc biệt chính là J.S. Mill (J.S. Mill) – nhà tư tưởng nổi tiếng người

3

Anh thế kỷ XIX, sự nghiệp chính trị và học thuật của ông có ảnh hưởng to lớn đến

công cuộc xây dựng hệ thống chính trị ở nhiều quốc gia trên thế giới. J.S.Mill

(1806-1873) được coi là người đại diện chính cho trường phái chủ nghĩa Công lợi

(Utilitarianism). Tư tưởng chính trị nổi bật của ông có thể coi là xuất phát từ lập

luận rằng mọi hành động của con người đều phải hướng tới việc mang lại tối đa

hạnh phúc (tức sự thỏa mãn các nhu cầu) cho đa số người. Học thuyết của ông đã có

đóng góp rất lớn trong việc đem lại các quyền tự do, dân chủ cho phụ nữ và tầng lớp

lao động ở nước Anh đầu thế kỷ XIX cũng như để lại nhiều bài học to lớn đối với

các quá trình thực hiện quản lý xã hội của các nhà nước dân chủ.

Nghiên cứu sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, J.S.Mill đã để lại một kho tàng các

tác phẩm tiêu biểu như “Bàn về tự do” (On Liberty, năm 1859), “Chính thể đại

diện” (Representative government, năm 1861), “Chủ nghĩa công lợi”

(Utilitarianism, năm 1863),v.v. Trong các tác phẩm này, tác giả luận văn lựa chọn

“Chính thể đại diện” – được coi là tác phẩm kinh điển về nền dân chủ phương Tây,

tác giả luận văn muốn làm rõ những giá trị của các quan điểm của J. S. Mill về bầu

cử mà theo ông đó là phương thức để thiết lập chính thể lý tưởng. Về cá nhân tác

giả luận văn, hướng nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị xã hội phương Tây một

cách hệ thống qua các tác phẩm nổi tiếng là hướng nghiên cứu yêu thích, lâu dài của

từ lâu.

2. Tình hình nghiên cứu

“Chính thể đại diện” ra đời cách đây hơn một thế kỷ rưỡi và được xếp vào

Bộ sách “Great Books of the Western World” (Tạm dịch: Những cuốn sách vĩ đại

của phương Tây”) .Có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về quan

niệm của J.S. Mill. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học

chính trị của J.S.Mill chiếm số lượng khiêm tốn trong các đề tài nghiên cứu, đặc

biệt quan niệm về bầu cử của ông lại là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới mẻ.

Trong số các tác phẩm của J. S. Mill, có hai tác phẩm được dịch ra tiếng Việt

đó là “Bàn về tự do” (Nguyễn Văn Trọng dịch, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành lần

4

đầu năm 2005) và “Chính thể đại diện” (Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn

dịch, giới thiệu và chú thích, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành lần đầu năm 2008). Đây

là hai tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của J. S. Mill. Các bản dịch của hai dịch

giả Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn cũng là những bản dịch công phu, tỉ

mỉ, có lời giới thiệu của người dịch phân tích đánh giá khái quát toàn bộ nội dung.

Đề tài "Tư tưởng chính trị phương Tây cận, hiện đại" do TS Ngô Huy Đức,

Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ nhiệm là đề tài

nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng chính trị. Đề tài dành chương II để nghiên cứu

về các tư tưởng của Mandison và Mill, trong đó, tư tưởng chính trị của J. S. Mill

được để cập thông qua các luận đề như quan niệm về con người chính trị, quan

niệm về thể chế chính trị, mối quan hệ giữa con người chính trị và thể chế chính trị.

Luận án Tiến sĩ Triết học của Ngô Thị Như (Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân Văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2012) với tên đề tài: “Triết

học chính trị của J.S. Mill – Giá trị và bài học lịch sử”, trình bày một cách hệ thống

triết học chính trị J.S.Mill và chỉ ra những nội dung cơ bản trong triết học chính trị

của ông. Luận án cũng phân tích và rút ra những giá trị, bài học lịch sử của triết học

chính trị J.S.Mill trong vấn đề tự do cá nhân, quyền lực nhà nước, dân chủ, bầu cử,

giáo dục và giải phóng phụ nữ, qua đó chỉ rõ những hạn chế của triết học chính trị

J.S.Mill thể hiện ở tính chủ quan, thiếu nhất quán và thiếu một cơ sở thực tiễn thể

hiện ở quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân.

Luận văn cao học Triết học của Nguyễn Thị Thùy Linh (Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 10, năm 2010) với tên đề tài

“Quan niệm về Chính thể của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”. Tác giả đi sâu

phân tích nội dung tư tưởng của J.S.Mill về chính thể trong “Chính thể đại diện”,

phân tích những giá trị và hạn chế của quan niệm đó. Đây là một trong những công

trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống đầu tiên tư tưởng của J.S.Mill trong “Chính

thể đại diện” tuy nhiên quan niệm về bầu cử chỉ chiếm một phần rất khiêm tốn.

5

Như vậy, nghiên cứu tư tưởng của J.S.Mill về bầu cử vẫn còn là một hướng

nghiên cứu mới mẻ, đầy khó khăn nhưng không kém phần hấp dẫn mà chúng tôi tin

chắc rằng sẽ góp phần làm phong phú thêm tư tưởng chính trị của ông.

J.S.Mill không xa lạ với giới học giả thế giới, đặc biệt là các học giả phương

Tây. Các đề tài nghiên cứu về J.S.Mill tập trung phân tích tư tưởng chính trị của

ông, đặt nó trong mối quan hệ với dòng chảy tư tưởng triết học chính trị phương

Tây thời kỳ cổ đại, cận đại và hiện đại để đánh giá những giá trị, điểm tiến bộ và

hạn chế trong hệ thống tư tưởng của ông.

J.S. Mill (1806-1873) là nhà tư tưởng nổi tiếng người Anh ở thế kỷ XIX và

có ảnh hưởng sâu rộng đối với triết học chính trị phương Tây cận - hiện đại. Do

vậy, các học giả ở nhiều quốc gia đã nghiên cứu về nội dung tư tưởng chính trị của

ông với những công trình có giá trị nhất định. Trong đó, phải kể đến những tác

phẩm sau:

"Great political thinkers" (Tạm dịch: Những nhà tư tưởng chính trị vĩ đại)

của William Thomas (Oxford University Press, New York, 1992) là công trình

nghiên cứu tư tưởng chính trị về 4 nhà tư tưởng gồm Niccolo Machiavelli, Thomas

Hobbes, J. S. Mill và Karl Marx. Trong công trình này, William Thomas nghiên cứu

về J. S. Mill theo từng luận điểm: tuổi thơ, nền giáo dục sớm, kinh tế chính trị học.

J. S. Mill được đánh giá như một nhân vật quan trọng của lịch sử tư tưởng thế kỷ

XIX, một nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại.

Luận án Tiến sỹ của John Mercel Robson (Đại học Toronto, Tháng 12, 1956)

với đề tài “The social and political thought of J.S. Mill” (Tư tưởng chính trị - xã hội

của J.S. Mill) đề cập quan niệm của Mill về Chính phủ song còn rất hạn chế. Tác

giả chủ yếu đi phân tích những tư tưởng chính trị xã hội nói chung của Mill như

Đạo đức học, Phương pháp khoa học hay một số vấn đề xã hội khác.

Cuốn “Mill on Democracy: From the Athenian Polis to Representative

Government” (Tạm dịch: Mill bàn về Dân chủ: Từ thành bang Athen đến Chính thể

Đại diện) của Nadia Urbinati, giáo sư chuyên nghiên cứu về Lý thuyết chính trị và

6

lịch sử Hy Lạp thuộc Khoa Khoa học Chính trị của Đại học Columbia, Hoa Kỳ.

Công trình khoa học này được xem là nghiên cứu đầu tiên mang lại những kiến thức

sâu rộng về lý thuyết Dân chủ của Mill.

Cuốn sách “Tư tưởng chính trị của J.S. Mill” được nhà xuất bản Đại học

Cambridge xuất bản năm 2007 của hai tác giả Nadia Urbinati và Alex Zakaras đã

đưa ra một cách đánh giá lại (theo cách diễn đạt của các tác giả) về giá trị trong tư

tưởng chính trị Mill. Trong cuốn này, các tác giả cố gắng liệt kê những bài viết đề cao

giá trị triết học chính trị của Mill, từ đó các tác giả đưa ra nhận định riêng của mình về

sức hấp dẫn của những ý tưởng đặc sắc trong tư tưởng J.S. Mill.

Tựu chung, có thể nói rằng góc độ tiếp cận triết học chính trị J.S.Mill của các

tác giả trên thế giới thường tập trung nghiên cứu cả hệ thống tư tưởng hoặc những

tư tưởng chính trị của ông. Quan niệm của J.S.Mill về bầu cử chỉ được nghiên cứu

đan cài trong các công trình liên quan đến chính thể đại diện nói chung. Tiếp thu giá

trị từ những công trình nghiên cứu, tác giả luận văn mạnh dạn đi tìm hiểu những nội

dung về quan niệm bầu cử của Mill được trình bày trong “Chính thể đại diện”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm về bầu cử của J.S.

Mill; làm rõ những quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S.Mill trong “Chính thể đại

diện”, từ đó rút ra ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam

hiện nay.

Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ cơ bản:

- Phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm về bầu cử của J.S.

Mill trong “Chính thể đại diện”.

- Phân tích những quan niệm cơ bản về bầu cử của J.S. Mill, chỉ ra một số

giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và rút ra ý nghĩa đối với việc đổi mới bầu cử ở Việt

Nam hiện nay.

7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn lấy quan niệm về bầu cử của J.S. Mill làm đối tượng nghiên cứu.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào những quan niệm cơ bản

về bầu cử của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện”. Luận văn cũng bước đầu phân tích

ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của

Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và đổi mới bộ máy Nhà Nước.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác

như: phương pháp phân tích – tổng hợp, logic – lịch sử, hệ thống – cấu trúc, đồng

thời sử dụng phương pháp tiếp cận từ góc độ chính trị - pháp lý.

6. Đóng góp của luận văn

- Đóng góp về mặt lý luận: Luận văn đã phân tích một cách tương đối hệ

thống và đầy đủ những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm bầu cử của J.S.Mill;

những nội dung cơ bản trong quan niệm về bầu cử của Mill trong “Chính thể đại

diện” và chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc đổi mới bầu cử ở Việt Nam hiện nay. Do

đó, luận văn góp phần vào việc khẳng định giá trị hệ thống tư tưởng chính trị của

J.S.Mill, đặc biệt là tư tưởng về bầu cử của ông.

- Đóng góp về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

cho công tác học tập và nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học và những người

quan tâm đến triết học chính trị của J.S. Mill.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

2 chương, 7 tiết.

8

NỘI DUNG

Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM

CỦA J.S.MILL VỀ BẦU CỬ TRONG TÁC PHẨM CHÍNH THỂ ĐẠI DIỆN

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX

Thứ nhất, cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX

thắng lợi làm tiền đề phát triển mạnh mẽ cho phương thức sản xuất tư bản.

Đến thế kỷ XVII, Anh trở thành nước có nền kinh tế mạnh nhất châu Âu.

Khu vực phía Bắc, phía Nam nước Anh, đặc biệt là khu vực Luân Đôn mọc ra hàng

loạt các công trường thủ công sản xuất nhiều sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là

hàng len dạ. Các công trường thủ công phát triển là nhân tố thúc đẩy ngoại thương

Anh, hàng loạt các bến cảng ra đời và phát triển đã đưa hàng hóa của Anh xuất khẩu

khắp nơi trên thế giới. Từ đó, chủ nghĩa tư bản xâm nhập mạnh mẽ đến cả nông

thôn nước Anh.

Về chính trị, đứng đầu nước Anh trong giai đoạn này là vua Charles I (1600

– 1649), chế độ phong kiến ngày càng tìm cách kìm hãm, ngăn trở sự phát triển của

lực lượng sản xuất chủ nghĩa tư bản.

Về tình hình xã hội trước cách mạng tư sản, giai cấp tư sản bao gồm chủ

xưởng, nhà buôn giàu lên nhanh chóng và có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ nhờ công

nghiệp len dạ và đặc biệt là buôn bán những người nô lệ.

Qua quá trình phát triển của thủ công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực len

dạ đã thúc đẩy và giúp cho sự phát triển của nghề nuôi cừu, do đó ở nông thôn Anh

giai đoạn này, một số quý tộc nhỏ và vừa đã chuyển hướng kinh doanh theo hướng

tư bản chủ nghĩa và tầng lớp quý tộc mới đã hình thành, đồng thời ngày càng có

thế lực về kinh tế. Đời sống quần chúng nhân dân ngày càng cơ cực, đặc biệt là

nông dân Anh trong giai đoạn này, qua quá trình rào đất, cướp ruộng để trồng

cỏ nuôi cừu.

9

Chính vì những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm của giai cấp tư sản, quý tộc

mới với các tầng lớp phong kiến đã đưa đến cuộc cách mạng tư sản Anh. Cuộc cách

mạng đã đánh dấu sự thắng lợi của liên minh giữa tư sản và quý tộc mới, có ý nghĩa

to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử thế giới. Đối với nước Anh, cuộc

thắng lợi này đã mở đường thênh thang cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Đối với thế

giới, cách mạng tư sản Anh đã đánh dấu thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang

tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp Anh thế kỷ XVIII thay đổi một cách

căn bản diện mạo nước Anh.

Cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở châu Âu đã diễn ra một bước nhảy

vọt phát triển mới trong lĩnh vực sản xuất đó là cuộc cách mạng nhằm mục đích cơ

khí hóa nền sản xuất thay thế cho lao động thủ công, thực chất cuộc cách mạng này

là sự thay đổi về mặt kỹ thuật để tăng năng suất lao động cao hơn so với thời kỳ tư

bản chủ nghĩa và để củng cố nền tảng mới.

Anh là nước đầu tiên ở châu Âu diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp này, có

thể nói nguyên nhân là do nước Anh là nước đầu tiên tiến hành cách mạng tư sản

với sự phát triển lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất hay cụ thể là Anh hội đủ ba điều

kiện chính để tiến hành cách mạng công nghiệp. Đầu tiên, Anh là nước có cách

mạng tư sản nổ ra sớm đưa chính quyền thuộc về giai cấp tư sản, khi chế độ phong

kiến sụp đổ, giai cấp tư sản tiếp tục củng cố vị thế của mình bằng cách phát triển về

kinh tế mà chỉ có cách mạng công nghiệp mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó, mục

đích là tạo ra một phương thức sản xuất mới thay thế phương thức sản xuất phong

kiến đã lỗi thời. Điều kiện thứ hai là do kinh tế tư bản phát triển mạnh mẽ ở nước

Anh, đặc biệt là công nghiệp. Thứ ba là do Anh có một hệ thống thuộc địa rộng lớn,

đủ điều kiện để cho nước Anh tích lũy tư bản nguyên thủy ban đầu (vốn ban đầu).

Trong tất cả các điều kiện trên, có thể nói tích lũy tư bản nguyên thủy là việc vô

cùng quan trọng để Anh có thể tiến hành được cách mạng công nghiệp vì có một

nguồn vốn thặng dư lớn sẽ giúp nước Anh luôn sẵn sàng quay vòng sản xuất.

10

Cùng với ba điều kiện chính trên, với việc phát minh ra máy hơi nước của

James Watt năm 1784 và đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước của George

Stephenson năm 1814 đã tạo dựng gần như đầy đủ những điều kiện hoàn hảo để

Anh tiến hành thành công cách mạng công nghiệp. Để có được sự thành công của

cuộc cách mạng không thể không kể đến những ưu đãi mà thiên nhiên đã ban tặng

nước Anh với lượng than đá khổng lồ và rất nhiều các mỏ sắt.

Hai cuộc cách mạng trên có ảnh hưởng vô cùng to lớn tới mọi mặt đời sống

xã hội nước Anh lúc bấy giờ, phơi bày những mâu thuẫn ngày càng gia tăng trong

xã hội Anh. Người ta thấy rằng, mặc dù cuộc cách mạng tư sản đã giành thắng lợi

với việc lật đổ tầng lớp phong kiến mới chỉ đem lại những quyền lợi cho giai cấp

cầm quyền – giai cấp tư sản mà thôi, nông dân và quần chúng lao động bị mất đất

và đời sống thì ngày càng khó khăn hơn. Đây cũng là lý do vì sao cuộc cách mạng

tư sản ở nước Anh là cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Hệ quả của các cuộc

cách mạng đã làm biến đổi sâu sắc đời sống của nông dân và quần chúng lao động ở

nước Anh lúc đấy giờ, cấu trúc gia đình và xã hội có sự thay đổi rõ rệt.

Về mặt xã hội, trước hiện trạng giai cấp tư sản rào đất cướp ruộng của nông

dân để trồng cỏ nuôi cừu phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may đang khát nguyên

liệu đã khiến tình trạng di dân từ nông thôn lên thành thị ngày một nghiêm trọng.

Những người nông dân mất đất giờ đây không còn nơi để canh tác mưu sinh, không

còn nhà cửa, phiêu bạt khắp nơi, họ dồn lên các thành phố công nghiệp gây một sức

ép lớn về các điều kiện sống. Chỗ ở đông đúc, chật chội, không có đủ lương thực

hay nước sạch khiến dịch bệnh hoành hành ở nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm diễn ra

và các tệ nạn xã hội như nghiệp rượu, ma túy, mại dâm cũng tất yếu đi kèm.

Trong những công xưởng công nghiệp, tình trạng sống và điều kiện lao động

của tầng lớp công nhân cũng không có gì khả quan hơn. Điều kiện sống và làm việc

vô cùng cực khổ, bị các ông chủ tư sản bóc lột một cách tàn bạo, mỗi người phải

làm việc từ khoảng 12 đến 15 tiếng một ngày, thậm chí có khi lên tới 19 tiếng và

sáu ngày trong một tuần. Tình trạng thất nghiệp thêm nghiêm trọng và có xu hướng

11

tăng cao đã khiến cả phụ nữ và thậm chí là cả trẻ em cũng phải làm việc trong các

nhà máy để kiếm sống. Từ hiện thực vô cùng khắc nghiệt này dẫn đến những cuộc

đấu tranh của công nhân mà bắt đầu là phong trào đập phá máy móc, phong trào này

diễn ra bộc phát và không đạt được nhiều thành công. Đặc biệt, vị trí và quyền lợi

của phụ nữ trong xã hội rất thấp kém, họ bị đàn áp, bóc lột và không có quyền được

tham gia vào các công việc xã hội. Nhiều nhà tư tưởng đã lên tiếng bênh vực cho

phụ nữ, đòi quyền đi bầu cho họ. Ngoài ra, tình hình đất nước sau cách mạng cũng

gặp phải rất nhiều khó khăn cho công tác tổ chức nhà nước, quản lý xã hội.

Xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội như vậy đã thôi thúc các nhà tư tưởng

lúc bấy giờ mong muốn tìm ra cách giải quyết những tình trạng đó và J.S. Mill là

một đại diện tiêu biểu. Với một nhà tư tưởng lớn, chưa bao giờ thỏa hiệp trong công

cuộc đấu tranh cho công bằng, tự do, dân chủ như J.S.Mill, ông suy tư, trăn trở cho số

phận những kiếp người khốn khổ, bị ức hiếp trong xã hội, những con người không có

những “quyền cơ bản” của một con người, để từ đó đã cho ra đời hàng loạt các tác

phẩm mang tính triết học, đạo đức, chính trị, xã hội vĩ đại của mình.

1.1.2. Bối cảnh văn hóa - chính trị nước Anh cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX

Muốn hiểu rõ và sâu sắc những tư tưởng và luận giải của Mill trong “Chính

thể đại diện” không thể không có cái nhìn khái quát về tình hình chính trị Anh ở

thời kỳ này.

Sau cách mạng, thắng lợi thuộc về liên minh giữa giai cấp tư sản và tầng lớp

quý tộc mới, hình thức chính thể Cộng hòa nghị viện được thiết lập mà quyền lực

tối cao được tập trung trong vào Hạ nghị viện. Nhưng chính thể này không tồn tại

được lâu do giai cấp tư sản sau cách mạng đã không giải quyết nhiệm vụ chia ruộng

đất cho nông dân dẫn đến mâu thuẫn xã hội phát triển thêm gay gắt giữa tư sản với

quần chúng nhân dân lao động.

Trước tình thế đó, giai cấp tư sản đã phải thoả hiệp với tầng lớp quý tộc mới

nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn xã hội.

Hai sự kiện quan trọng thể hiện rõ sự thỏa hiệp này là:

12

Thứ nhất, sau khi Oliver Cromwell – người lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản

qua đời vào năm 1658, kéo theo sự sụp đổ của nền Cộng hòa, Charles II đang lưu

vong ở nước ngoài đã được mời về nước lên ngôi vua năm 1660.

Thứ hai, vào tháng 2/1689, Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật mới có tên

là "Đạo luật thừa nhận ngôi vua và quyền hành của nghị viện". Đạo luật này là cơ

sở pháp lý cho sự ra đời nhà nước quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay. Nội

dung chủ yếu của đạo luật này là đề cao vai trò của Nghị viện và khẳng định ngôi vua

sẽ được giữ lại nhưng chỉ mang tính biểu tượng - nhà vua trị vì mà không cai trị.

Như vậy có thể khẳng định rằng chính thể quân chủ lập hiến ở Anh ra đời là

kết quả của sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới, là sản phẩm và biểu

hiện của cuộc cách mạng tư sản không triệt để.

Lúc bấy giờ, Thượng viện thuộc tầng lớp đại quý tộc chỉ định có uy lực hơn

Hạ nghị viện do quần chúng nhân dân bầu ra. Cuộc bầu cử Hạ nghị viện cũng được

tiến hành theo những quy tắc rất hạn chế quyền bầu cử. Phần lớn thành viên ở Hạ

nghị viện là những người được bầu ra từ những vùng đất ít dân cư sinh sống mà

việc bầu cử thường bị các chúa đất thao túng. Không chỉ có các ghế ở nghị viện

được mua bán bằng tiền mà cả đến các cử tri hay thậm chí là những lá phiếu bầu

cũng trở thành vật trao đổi của nhà giàu. Vấn đề này được Mill đề cập rõ nét trong

những lập luận của mình. Tầng lớp lao động và cả tầng lớp trung gian trong xã hội

cũng bị tước đoạt quyền chính trị.

Ở Thượng viện là sự tranh chấp quyền lực của Đảng Whig (nay là Đảng Dân

chủ tự do) và Đảng Tory (nay là Đảng Bảo thủ). Đảng Tory có quan hệ với giới

thượng lưu và Giáo hội Anh, trong khi đảng Whig gần gũi hơn với giới nghiệp

đoàn, tài chính và chủ đất. Hai đảng này thay nhau quản lý đất nước và tranh chấp

để giành đa số ghế trong nghị viện. Nhìn chúng, cả hai đảng đều bảo vệ quyền lợi

cho giai cấp tư sản và quý tộc thượng lưu, củng cố quyền thống trị của giai cấp tư

sản. Hình thức quân chủ lập hiến này khác hẳn so với hình thức nhà nước quân chủ

chuyên chế trước đây của Anh, ở hình thức mới, Thủ tướng và nội các chính phủ

13

thuộc về tay đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện do đảng có cử ra và ủng hộ.

Thủ tướng và nội các chỉ chịu trách nhiệm trước nghị viện chứ không thông qua

vương quyền.

Bối cảnh văn hóa tinh thần phương Tây thời Mill chứng kiến cuộc khủng

hoảng tinh thần hậu cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp. Hai cuộc cách

mạng to lớn đã thay đổi tận gốc rễ các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật,

nó xuất phát từ nước Anh rồi sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Bên cạnh những tiến bộ

xã hội không thể phủ nhận của một giai đoạn lịch sử sôi động, hai cuộc cách mạng

cũng để lại những nhiệm vụ to lớn không giải quyết được – chính những nhiệm vụ

này lại là căn nguyên dẫn đến đấu tranh, phản đối trong xã hội Anh.

Cuộc cách mạng tư sản diễn ra đã mở đường cho một bước phát triển ngoạn

mục của giai cấp tư sản khi chế độ phong kiến phản động đã bị lật đổ, mọi quyền lợi

giờ đã thuộc về tay giai cấp tư sản, tuy nhiên lực lượng mạnh mẽ sát cánh và quyết

định sự thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản Anh là giai cấp nông dân lại không có

được quyền lợi gì, nhiệm vụ đòi đất cày không thực hiện được mà tình hình rào đất

cướp ruộng còn diễn ra gay gắt hơn. Đời sống nông dân trở nên nghèo khổ, tha

hương cầu thực, phải di dân lên thành phố làm thuê, đói khổ.

Ngoài ra, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã đánh dấu một bước tiến

vượt bậc trong lịch sử về mặt cơ khí - kỹ thuật để tăng năng suất lao động và mở ra

một thời kỳ phát triển chưa từng thấy về mọi lĩnh vực đời sống xã hội Anh. Giai cấp

công nhân ra đời từ đây và nhanh chóng trở thành lực lượng đông đảo nhất trong xã

hội. Trái lại với quy mô cũng như vai trò của mình, những người công nhân bị bóc

lột thậm tệ, là tầng lớp đông đảo nhất nhưng cũng là tầng lớp đói khổ vào bậc nhất.

Các cuộc tấn công, nổi dậy chống lại các ông chủ tư sản để đòi quyền lợi diễn ra ở

khắp nơi trên nước Anh.

Tất cả những hệ quả này đã đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi

những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến, dẫn đến phản kháng, đấu tranh

diễn ra khắp nơi. Đồng thời cũng giải phóng tư tưởng, con người ngày càng có ý

14

thức về các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng. Chính mâu thuẫn giai cấp

giữa tư sản và công nhân, nhân dân lao động, sự phân biệt đối xử bất công với phụ

nữ hay tham vọng tham chính bịp dân của các chính trị gia thời kỳ này đã làm cho

những học thuyết về quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình

thành, khiến cho những cá nhân mẫn tiệp như J.S. Mill không ngừng day dứt, trăn

trở. Và chính từ bệ phóng này, ông đã viết hăng say và tạo nên một hệ thống tác

phẩm đồ sộ và giá trị về các lĩnh vực triết học, chính trị, xã hội.

1.2. Tiền đề tƣ tƣởng hình thành quan niệm của J.S. Mill về bầu cử

Nhìn chung, ảnh hưởng của các nhà tư tưởng đi trước đối với sự hình thành

hệ thống triết học chính trị - xã hội J.S. Mill có thể kể đến như: Jeremy Bentham,

James Mill, Wilhelm von Humboldt… Đặc biệt, xem xét dưới hệ thống quan điểm

của J.S. Mill trong “Chính thể đại diện” mà phạm vi nghiên cứu là quan niệm về

bầu cử của ông thì không thể không kể đến ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc của các nhà

tư tưởng: Jeremy Bentham (1748 – 1832), Alexis Tocqueville (1805 - 1859),

Thomas Hare (1806 – 1891). Trước hết, tác giả luận văn đi phân tích những nét tư

tưởng chính của những tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của J.S. Mill

về bầu cử.

1.2.1. Thuyết công lợi của Jeremy Bentham

Jeremy Bentham (1748 – 1832) là một triết gia kiêm nhà cải cách xã hội

người Anh, ông là cha đẻ của Thuyết Công lợi (Utilitarianism), ông cho rằng lợi ích

cá nhân hoàn toàn đồng nhất với lợi ích xã hội. Ông giữ một vị trí quan trọng trong

lịch sử văn hóa tinh thần của nước Anh.

Jeremy Bentham khai triển đạo đức công lợi, theo ông, tính chất tốt hay xấu

của một hành vi được đo lường theo tính lợi ích của nó, nghĩa là theo cái gì đem lại

cho chúng ta tối đa “khoái lạc” và tối thiểu “khổ đau”. Học thuyết đạo đức và chính

trị này của Bentham bắt nguồn từ việc ông không hài lòng với những cơ sở lý

thuyết về luật pháp hiện hành và cách áp dụng luật tại các tòa án. Ông cho rằng

những cơ sở bất hợp lý và hỗn loạn của những hệ thống pháp lý và cấu trúc xã hội

15

lúc bấy giờ là nguyên nhân gây ra bất ổn chính trị. Các tác phẩm chính của Bentham

có thể kể tới như “Những đối thoại của Chính phủ” (1776), “Về các nguyên tắc đạo

đức và pháp luật (xuất bản năm 1789), “Cải cách Nghị viện” (1817), “Đạo đức học

hay khoa học về đạo đức” (gồm hai tập, được công bố vào năm 1843)….

Bentham mở đầu Về các nguyên tắc đạo đức và pháp luật với một tiền đề cơ

bản: “Thiên nhiên đã đặt nhân loại dưới sự cai quản của hai ông chủ tối cao là đau

khổ và khoái lạc. Chúng chỉ ra những gì chúng ta nên làm và quyết định những gì

chúng ta phải làm. Bên cạnh chúng, một mặt là tiêu chuẩn đúng và sai, mặt kia là

chuỗi các nguyên nhân và hậu quả”. Như vậy, theo Bentham, dưới góc độ tâm lý,

khi tìm hiểu cội rễ hành động của con người thì đều thấy tất cả chỉ để chạy theo lạc

thú và né tránh đau khổ. Hay nói cách khác, bàn về tư cách con người, sự đau khổ

và khoái lạc quyết định việc chúng ta phải làm. Ngoài tính chất tâm lý của chủ

nghĩa khoái lạc còn có khía cạnh đạo đức, trong đó, yếu tố đúng hay sai về mặt luân

lý phụ thuộc đau khổ hoặc sung sướng nhiều hay ít. Như vậy sự đau khổ và khoái

lạc chỉ cho chúng ta biết cái nên làm là gì.

Nếu đau khổ và khoái lạc là tiêu chuẩn của đạo đức thì các hành động phải

được đánh giá bằng hậu quả của chúng. Do đó, chủ nghĩa công lợi là “thuyết đạo

đức cứu cánh”. Chủ nghĩa công lợi là nguyên tắc của lợi ích, hữu dụng. Theo

Bentham, hành động phù hợp với nguyên tắc lợi ích khi nó có xu hướng làm gia

tăng hạnh phúc của cộng đồng nhiều hơn là làm giảm. Nói khác đi, hạt nhân của

Thuyết Công lợi là “Luôn luôn hành động để đem lại hạnh phúc lớn nhất cho nhiều

người nhất”, nó hướng hành động đúng phải theo là nhằm gia tăng tối đa sự sung

sướng hoặc giảm tới mức tối thiếu đau khổ. Học thuyết này trở nên quen thuộc với

tên gọi Thuyết Công lợi, những người ủng hộ thuyết này áp dụng chúng vào đời

sống đạo đức cá nhân cũng như vào chính sách chính trị, luật pháp và xã hội. Nó có

ảnh hưởng lớn đến đến đường lối cai trị nước Anh lúc đó.

Có thể nói, một mặt Bentham là người bảo vệ chủ nghĩa cá nhân bởi ông đề

cao vai trò của mỗi cá nhân trong sự thỏa mãn hay đau khổ của họ. Mặt khác, tính

16

công lợi theo quan niệm của Bentham không đồng nhất với mức độ thỏa mãn của cá

nhân trong sự gắn liền với các hoạt động xã hội rộng lớn. Những quan niệm số học

về khoái lạc hay coi sự thỏa mãn về thể chất cũng giống như tinh thần là những

điểm yếu ở Bentham mà sau này được Mill khắc phục. Khi còn trẻ, Mill ảnh hưởng

rất nhiều từ Bentham. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với các nhà tư tưởng Pháp và một số

nhà tư tưởng Anh tiền bối, ông đã có những ý nghĩ khác xa so với Bentham, đặc

biệt là trong quan niệm về chất lượng khoái lạc. Mặc dù tiến bộ về nhiều mặt so với

Bentham nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận ảnh hưởng mạnh mẽ từ

nhà tư tưởng này tới J.S. Mill.

1.2.2. Tư tưởng dân chủ của Alexis de Tocqueville

Alexis de Tocqueville (1805 – 1859) sinh ra ở Pháp nhưng dấu ấn cuộc đời

và sự nghiệp lại gắn chặt với nước Mỹ. Cho đến tận ngày nay, ông vẫn được coi là

“một huyền thoại” của nước Mỹ - đất nước mà ông thông hiểu hơn chính quê hương

Pháp. Tocqueville từng đảm đương những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà

nước Pháp như đại biểu Quốc hội (1839 – 1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ

trưởng Bộ Ngoại giao Pháp (1849).

Sau những biến cố khi cách mạng Pháp nổ ra (1848 – 1849), Tocqueville tìm

đường sang nước Mỹ với niềm mong mỏi lớn lao sẽ học tập được nhiều điều về mô

hình chính trị kiểu mẫu của Mỹ để giúp xây dựng nền chính trị Pháp.

Không chỉ ở Mỹ, Tocqueville còn đến Anh để nghiên cứu hệ thống chính trị

ở quốc gia này. Ông đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu hệ thống chính trị của

Hoa Kỳ và cho ra đời rất nhiều khảo luận về lĩnh vực này. Tác phẩm “Nền dân trị

Mỹ” (Nguyên bản có tên: Democracy in America) là một trong những khảo luận

đầu tiên, sâu sắc nhất và nổi tiếng nhất về lĩnh vực này. Tác phẩm được xuất bản

phần 1 vào năm 1835 và phần 2 vào năm 1840. Trong tác phẩm này, Tocqueville đã

thẳng thắn chỉ ra những nguy cơ của nền dân chủ Hoa Kỳ. Ông lo ngại ý kiến của

quần chúng có xu hướng tạo ra tình trạng chuyên chế và chế độ cai trị theo số đông số

học có thể cũng có tính chất đàn áp không khác gì một kẻ chuyên quyền (Nền dân trị

17

Mỹ phân tích hệ thống lập pháp và hành pháp của Hoa Kỳ) cùng ảnh hưởng của những

định chế xã hội và chính trị đối với thói quen và cách hành xử của dân chúng.

Tocqueville đã cố gắng đem những gì mình học hỏi được và những ý tưởng,

mong muốn thay đổi đến Pháp song không được toại nguyện, nước Pháp không ghi nhận

những điều đó. Những tư tưởng của ông trong tác phẩm được hưởng ứng tại nước Anh,

trong đó, J.S. Mill là người thừa nhận và nghiên cứu một cách vô cùng nghiêm túc.

Những tư tưởng có giá trị mà Mill sử dụng sau này trong các luận thuyết của

mình được học tập từ Tocqueville là nguyên tắc “nhân dân tối thượng” và nguyên

tắc “tự do và bình đẳng”. Với nguyên tắc “nhân dân tối thượng” giống như các bậc

tiền bối Montesquieu và Rousseau, Tocqueville cho rằng nguồn gốc của quyền lực

xã hội nằm bên trong xã hội, nó thuộc về nhân dân và mục tiêu của nó cũng hướng

tới nhân dân, “nhân dân là nguồn gốc và mục tiêu của mọi thứ. Tất cả đều từ nhân

dân mà ra và tất cả đều tích tụ vào nhân dân” [39, tr. 113]

Theo Tocqueville sự bình đẳng chính là nguồn gốc của nguyên tắc “nhân dân

tối thượng”, bình đẳng ở đây là “bình đẳng trong những điều kiện”. Để có thể tạo

được sự bình đẳng này, thì hoặc là trao quyền lực cho mỗi công dân hoặc là không

trao cho bất kỳ ai. Việc không trao quyền cho ai đồng nghĩa với việc xóa bỏ xã hội

bởi vì con người không còn ở trong xã hội nữa, không quan tâm đến vấn đề xã hội

mà chỉ quan tâm đến những vấn đề cá nhân. Sự bình đẳng bằng cách trao quyền cho

mỗi công dân sẽ giúp thoát khỏi nạn quyền lực chuyên chế và xây dựng thành công

nguyên tắc “nhân dân tối thượng”. Chính ở tư tưởng này Mill chịu ảnh hưởng của

Tocqueville, Mill thẳng thắn chỉ ra những hệ quả của chính quyền chuyên chế khi

quyền lực không thuộc về nhân dân, nhân dân theo Mill hiểu là toàn thể chứ không

phải là số đông số học. Mill đã trăn trở rất nhiều về mối nguy hiểm của dân chủ, đó

là sự đàn áp của đa số lên cá nhân hay thiểu số. Trong “Chính thể đại diện” Mill đã

dành một dung lượng đáng kể để phân tích về vấn đề này.

Bên cạnh nguyên tắc “nhân dân tối thượng”, nguyên tắc “tự do và bình

đẳng” chính là tư tưởng nổi bật của Tocqueville có ảnh hưởng đến Mill. Tự do và

18

bình đẳng là giá trị căn bản của con người nó dành cho tất cả mọi người trên thế

giới không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị, văn hóa. Tự do theo

nghĩa truyền thống là các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm nên còn gọi tự do Hiến

định nhằm bảo tính độc lập tự chủ và nhân phẩm của con người trước những chèn

ép về chính trị, xã hội, tôn giáo... J.S. Mill hiểu tự do theo nghĩa “tự do của mỗi

người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác và tự do xã hội là ranh

giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc lập cá nhân” [35, tr. 9]. Tocqueville phân

loại ra làm hai loại là tự do quý tộc và tự do dân chủ. Nếu xã hội tồn tại tự do quý

tộc, thì sự tự do này được xem như một đặc quyền dành cho một số người chứ

không thuộc về toàn bộ thành viên trong xã hội. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng

giữa người tự do và người không tự do. Còn trong xã hội tồn tại tự do dân chủ, sự tự do

đó có mối quan hệ mật thiết với bình đẳng, phục tùng những nguyên tắc của bình đẳng.

Ngoài hai nguyên tắc trên, Mill cũng thấm đẫm những tư tưởng độc đáo khác

của Tocqueville trong tác phẩm “Nền dân trị Mỹ”. Mill đã sử dụng khá nhiều cụm từ

mà Tocqueville đã nhắc đến trước đó là “chuyên chế của đa số”. Quyền tự do trong xã

hội dân chủ được ủng hộ mạnh mẽ, khác hẳn so với ở chế độ độc tài. Tuy nhiên, nó

cũng có mặt trái, vì không bị áp đặt dưới sự chuyên quyền nên dễ xảy ra nhiều tranh

cãi, bất đồng ý kiến mà phần thắng thường thuộc về đa số. Chính ở điểm này Mill chịu

ảnh hưởng từ Tocqueville. Bên cạnh đó, Tocqueville cũng cho rằng, những truyền

thống và sự chuyên nghiệp trong lập pháp một mặt bảo vệ vững chắc những lý do để

hình thành luật. Mặt khác, khi nó được lan rộng và thừa nhận sâu rộng trong xã hội thì

nó lại trở thành yếu tố gây trở ngại đối với những suy nghĩ độc đáo, khác biệt so với

những bộ óc bình thường và gây khó khăn để áp dụng những ý tưởng mới mẻ. Do ảnh

hưởng tử những phân tích của Tocqueville về nền văn hóa Mỹ mà sau này, Mill đã suy

nghĩ một cách nghiêm túc về mối nguy hiểm của dân chủ chính là sự khác biệt của đa

số sẽ đàn áp cá nhân hay thiểu số.

Như vậy, lập trường dân chủ với những phân tích sắc sảo của Tocqueville trong

“Nền dân trị Mỹ” đã ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến Mill. Không chỉ hứng thú, đam mê

19

với những vấn đề Tocqueville gợi ra mà Mill còn đưa ra lập trường riêng thể hiện

những suy nghĩ của cá nhân ông về những vấn đề cả Tocqueville và Mill cùng lưu tâm.

1.2.3. Luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare

Thomas Hare (1806 – 1891) là một người đề xuất cải cách bầu cử ở Anh.

Hare Trong tác phẩm của mình, Mill đã nhắc rất nhiều lần đến Hare và hệ thống bầu

cử của ông.

Nói về hệ thống của Thomas Hare, ông cho rằng “đơn vị của sự đại diện, chỉ

tiêu của các cử tri được quyền có một đại biểu cho mình, sẽ được xác định bằng quá

trình lấy trung bình thông thường” [34, tr. 218]. Và như vậy, mỗi cử tri có quyền tự

do bỏ phiếu cho bất cứ ứng viên nào mặc dù ứng viên đó tranh cử ở địa phương

khác nhau trong cả nước. Vì vậy mà, có thể cử tri không ủng hộ và không muốn

ứng viên tại địa phương của họ làm đại diện cho họ thì họ vẫn tìm kiếm được người

đại diện cho mình trên địa bàn cả nước. Mill nhiệt thành ủng hộ và coi đó như một

phương cách giảm thiểu chuyên chế của đa số: “trong mức độ như vậy, điều này có

thể đem lại quyền bầu cử cho nhóm thiểu số mà nếu không thế thì những quyền ấy

đã bị tước đoạt thực sự” [34, tr. 218].

Một lợi ích khác nữa mà hệ thống của ông Hare đem lại, đó là, kể cả cử tri

bầu cho ứng viên địa phương của họ mà ứng viên đó không đủ số lá phiếu để được

đại diện thì lá phiếu của họ vẫn có thể đem lại sự đại diện đối với ứng viên nào đó ở

một địa phương khác. Bởi vì, trong lá phiếu của họ được ghi tên những ứng viên họ

bầu cho theo thứ tự ưu tiên, và “cần thiết phải để cho số phiếu được tính cho người

đắc cử không vượt quá chỉ tiêu, dù cho ứng viên có thể thu được nhiều đến đâu đi

nữa: số phiếu còn lại bầu cho anh ta có thể có phiếu bầu tính cho người tiếp theo

trong những danh sách tương ứng cần đến những phiếu ấy, và nhờ số phiếu còn lại

ấy mà người đó hoàn tất được chỉ tiêu” [34, tr.219]. Bằng cách này, bất kể cử tri nào

cũng sẽ tìm được cho mình người đại diện. Ngoài ra, tính minh bạch của bầu cử

cũng được đề cao “những lá phiếu và tất cả các yếu tố tính toán có thể đặt ở nơi lưu

trữ mà tất cả những ai quan tâm đều có thể tiếp cận được; và nếu bất cứ ai thu được

20

chỉ tiêu mà không đắc cử một cách sai trái thì người ấy dễ dàng có thể chứng minh

được điều đó” [34, tr. 220].

Trích dẫn cuốn “Luận thuyết về Bầu cử các Đại biểu” của ông Hare, Mill

đánh giá rất cao: “Càng nghiên cứu những công trình này sâu hơn, càng có ấn tượng

mạnh mẽ hơn về tính khả thi hoàn hảo của kế hoạch và những lợi thế phi thường

của nó, tôi xin mạnh dạn dự đoán như thế” [34, tr. 221]. Mill đánh giá “kế hoạch

của ông Hare thuộc loại những cải tiến vĩ đại nhất từng được tạo nên trong lý thuyết

và thực hành chính quyền” [34, tr. 221], bởi nó đảm bảo cho sự đại diện tỷ lệ theo

số đông của bất cứ cấp bầu cử nào dựa trên các nguyên tắc công lý và bình đẳng.

Thêm nữa, các cử tri không còn bị đại diện bởi một người mà họ không lựa chọn

như thực tế ở Anh lúc đó. Với thiểu số ở địa phương không đủ để bầu cho một đại

diện thì “sẽ để ý chờ đợi xem có ứng viên nào tại đâu đó có vẻ như sẽ thu được số

phiếu bầu khác thêm vào số phiếu bầu của họ” [34, tr. 223]. Chính kiểu cách bầu cử

này sẽ có thể đánh giá đúng tài năng và trí tuệ của các ứng cử viên, nó có ích hơn

hẳn tình trạng đương thời khi một ai đó có tài năng và cá tính cũng rất khó được vào

Nghị viện. Lý do bởi “Chỉ có những người có ảnh hưởng địa phương, hay là những

người tiến thân bằng cách chịu chi tiền rộng rãi, hay là những người được một trong

hai đảng lớn cử xuống” [34, tr. 223] mới có thể đắc cử. Với những ý tưởng của ông

Hare, nếu một ai đó không được đại diện bởi người mà họ mong muốn vì sự khắt

khe trên thì họ “đều có thể điền vào lá phiếu của mình trong danh mục các ứng viên,

những người được chọn từ tất cả những người danh tiếng trong quốc gia, có nguyên

tắc chính trị chung mà họ có thiện cảm” [34, tr. 223]. Điều này mở rộng cơ hội vào

Nghị viện cho các ứng viên có tài năng và cá tính mà không chi tiền hay là người

của đảng phái nào.

Có thể đánh giá, hệ thống bầu cử theo ông Hare đáp ứng được tính đại diện

cho những nhóm thiểu số. Mặt khác, “những nhóm đa số hẳn cũng bị bắt buộc phải

chú ý tìm kiếm các nghị sĩ có tầm cỡ cao hơn nữa” [34, tr. 224]. Thêm một lợi ích

từ hệ thống này là, “một khi người được các nhà lãnh đạo đề cử cũng sẽ phải đọ sức

cạnh tranh không phải chỉ với ứng viên của nhóm thiểu số mà còn với tất cả những

21

người đã thành danh trong nước mong muốn được phục vụ” [CT, tr. 224]. Theo đó

các cử tri không còn bị áp lực từ tiền hay từ các đảng nữa. Hơn nữa, sự cạnh tranh

công bằng giữa các địa phương cũng được thực hiện, “các đơn vị bầu cử sẽ trở

thành những người cạnh tranh nhau để có được ứng viên tốt nhất và sẽ ganh đua

nhau lựa chọn trong số người ở địa phương có kiến thức và quan hệ, tìm ra những ai

nổi bật nhất về mọi phương diện khác” [34, tr. 225].

Bằng cách phân tích hệ thống bầu cử của ông Hare, J. S. Mill đã gián tiếp chỉ

ra cách thức duy trì một nền dân chủ chính hiệu chứ không như “trong nền dân chủ

giả hiệu, thay vì đem lại sự đại diện cho tất cả, lại đưa đến sự đại diện riêng cho

những nhóm đa số địa phương, tiếng nói của nhóm thiểu số có kiến thức có thể

không có được cơ quan ngôn luận nào hết trong hội đồng đại biểu” [34, tr. 225-

226]. Cũng bằng phương pháp này, chất lượng các đại biểu được cải thiện rõ rệt.

Bởi “Nhóm thiểu số có kiến thức phân tán ở khắp các khu vực bầu cử có thể hợp

nhất lại để làm đắc cử một số đại biểu tỷ lệ theo số đông của chính họ, là những

nhân vật có tài năng nhất mà đất nước có được” [34, tr. 226]. Và chính những đại

biểu của số đông lúc này sẽ phải tìm cách đáp trả lại những lý lẽ hay luận cứ của

những vị đại diện của thiểu số có kiến thức, tài năng khác.

Như vậy, luận thuyết về bầu cử của Thomas Hare đã có ảnh hưởng lớn đến

những đề xuất về cải cách bầu cử của J.S. Mill. Bằng cách chắt lọc những tinh hoa

tư tưởng, phát triển và hệ thống hóa những tri thức tiếp thu được, Mill đã cho ra đời

quan niệm về bầu cử mang tính kế thừa, khách quan và độc đáo.

Tóm lại, tác giả luận văn đã trình bày vài nét về những nhà tư tưởng có ảnh

hưởng lớn đến quá trình hình thành tư tưởng về bầu cử của J.S. Mill. Trong suốt

cuộc đời của Mill, có rất nhiều bậc tiền bối cũng như rất nhiều các học thuyết tư

tưởng có tác động đến hệ thống tư tưởng của ông nói chung và quan niệm về bầu cử

nói riêng, tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn của luận văn, tác giả đã chỉ trình bày

một số nhà tư tưởng với những học thuyết của họ có ảnh hưởng một cách trực tiếp

đến sự hình thành quan niệm của Mill.

22

1.3. Khái quát về J.S. Mill và “Chính thể đại diện”

1.3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của J.S. Mill

J.S. Mill là một nhà triết học, kinh tế học, logic học tài ba và là nhà lý thuyết

nổi tiếng về đạo đức học người Anh. J.S. Mill được coi là nhà tư tưởng lỗi lạc của

thời đại cải cách xã hội và là triết gia Anh có ảnh hưởng nhất thế kỷ XIX. Cho tới

nay, giới học thuật vẫn công nhận ông là người có ảnh hưởng sâu sắc nhất đã bảo vệ

thành công chủ nghĩa kinh nghiệm cũng như tự do chính trị, xã hội, văn hóa. Nhìn

một cách tổng quát, mục tiêu và lý tưởng của học thuyết Mill là hướng đến một xã

hội tiến bộ trong đó mỗi cá nhân đều có được tự do.

J.S. Mill sinh ngày 20/5/1806 ở Pentonville, London. Ông là con trai cả của

nhà sử học, kinh tế và triết học James Mill – nhà triết học gốc người Scotland đã

chuyển tới sống ở London và trở thành một tên tuổi nổi tiếng với việc tiếp tục triết

lý thực dụng của Jeremy Bentham. Mẹ của ông là Harriet Barrow, người có ảnh

hưởng rất ít tới Mill bởi ông chủ yếu nhận được những kế hoạch học tập và sự giáo

dục từ người cha. Cha Mill đã dạy ông với một chương trình rất nghiêm khắc. Học

vấn của ông bắt đầu từ tiếng Hy Lạp và môn số học từ năm 3 tuổi, đến năm 13 tuổi,

ông đã có được kiến thức tương đương với chương trình đại học toàn phần.

Khi mới 8 tuổi, Mill đã đọc “Các truyện ngụ ngôn Hy Lạp” của Aesop,

“Cuộc viễn chinh (Anabasis)” của Xenophon và toàn bộ các tác phẩm của

Herodotus. Ông đã làm quen với các tác phẩm của nhà văn trào phúng Lucian, nhà

lịch sử triết học Diogenes Laertius, nhà văn Isocrates và 6 hội thoại của Plato.

Ngoài ra, Mill cũng dành thời gian đọc cẩn thận và kỹ lưỡng nhiều tác phẩm lịch sử

bằng tiếng Anh. Cũng ngay từ khi 8 tuổi, ông đã bắt đầu học tiếng Latin, hình học

Euclid, đại số và dạy học cho các em của mình. Lĩnh vực quan tâm chính của ông là

lịch sử, ông đã học qua tất cả các tác giả Hy Lạp và La Mã thường được dạy ở

trường, ông đã đọc được các tác phẩm của Plato một cách dễ dàng khi chỉ mới 10

tuổi. Bước sang tuổi 12, ông bắt đầu nghiên cứu sâu về logic trong triết học kinh

viện, đồng thời đọc các luận thuyết logic của Aristote. Trong những năm tiếp theo,

23

ông bắt đầu học kinh tế chính trị, nghiên cứu các tác phẩm của Adam Smith và

David Ricardo. Trên thực tế, Mill chịu ảnh hưởng nhiều của James Mill, nhưng điều

này đã khiến ông luôn bị mâu thuẫn trong tư duy bởi những suy nghĩ khác biệt so

với cha mình. Bởi vậy trong ông luôn có những ràng buộc về tư tưởng và sự phát

triển tư duy thiếu tự nhiên. Thực chất, đây chính là kết quả của cách giáo dục mà

James Mill áp dụng theo nguyên tắc tâm lý học liên tưởng của Bentham.

Từ 5/1820 đến 7/1821, Mill sống ở Pháp, học tiếng Pháp, hóa học, thực vật

học và toán học nâng cao. Năm 1821 ông trở về và bắt đầu học tâm lý học và luật

La Mã. Vào năm 1826 khi bước sang tuổi 20, Mill bị rơi vào trạng thái trầm cảm

trong nhiều tháng song ông vẫn tiếp tục công việc của mình. Chính trong thời gian

này, Mill bắt đầu băn khoăn về những điều mà ông vẫn tin tưởng trước đây. Ông tự

hỏi mình liệu ông có hạnh phúc hơn nếu mọi cải cách mà ông và cha tin tưởng

thành hiện thực và ông kinh hoàng nhận ra rằng câu trả lời là “không”.

Năm 1828, Mill gặp Gustave d’Eichtahl (1804 - 1882) – một tín đồ trung

thành của Saint Simon. Chính sự gặp gỡ này đã gợi mở cho Mill đến với những tác

phẩm của August Comte. Ông cũng gặp John Sterling – một học trò của Samuel

Taylor Coleridge. Thông qua tìm hiểu về tư tưởng của những nhà tư tưởng này, Mill

đã nhận ra vai trò đặc biệt quan trọng của các tổ chức xã hội và văn hóa trong lịch

sử phát triển của con người. Từ đây, ông nhận thấy nhiệm vụ của mình là giúp cho

xã hội Anh thoát khỏi tình trạng khủng hoảng mà không chỉ sử dụng hình thức bút

chiến đơn thuần như cha ông và Bentham. Nghĩa là, một mặt chỉ trích những hình

thức tổ chức xã hội cũ, mặt khác cố gắng tìm kiếm một hình thức mới tốt đẹp hơn.

Trên thực tế, các hình thức cũ đã tồn tại từ rất lâu đời và nó được mặc nhiên cho là

đúng qua các thế hệ. Thậm chí, mọi ý kiến không công nhận các hình thức ấy đều bị

gạt bỏ. Như vậy, giai đoạn này, các nhà cải cách xã hội nhận ra rằng: không thể đơn

thuần sử dụng những triết lý với những hệ thống tư tưởng đồ sộ mà cần phải đưa ra

những đề xuất cụ thể lấy tư tưởng triết học làm nền tảng mới có thể giúp thay đổi

các hình thức cũ. Với Mill, ông không từ bỏ những triết lý cũ về vị lợi của mình

nhưng đã sử dụng nó khác đi. Ông không còn chỉ chỉ trích hay phê bình mà thực tế

24

hơn, ông muốn từ đó có thể phát triển lên để cho phép hình thức mới xuất hiện từ

việc kết hợp những điểm tốt nhất của các hình thức cũ. Ông cho rằng, quan niệm về

dân chủ của các nhà cấp tiến tiền bối đang bị bó hẹp, kiềm chế bởi ý nghĩ về sự

nguy hiểm của dân chủ đối với các cá nhân.

Năm 1830, Mill gặp Harriet Taylor, người sau này đã trở thành vợ ông đồng

thời là người ảnh hưởng tới ông trong suốt quãng đời còn lại. Mill đã viết trong

cuốn “Tự thuật” (Autobiography) của mình rằng người vợ của ông chính là người

có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ cũng như hoàn thiện đạo đức

của ông. Taylor đã khiến ông suy tư về sự phát triển và tiến bộ của các cá nhân

trong xã hội mà trong đó phụ nữ cũng như nam giới, công nhân cũng như quý tộc.

Mill nhận thấy một điều rõ ràng rằng, nếu những mục tiêu về sự tiến bộ của các cá

nhân mà ông hướng tới có thể thực hiện được thì con người sẽ đạt được hạnh phúc

lớn hơn rất nhiều so với lúc đó. Mill thực sự hụt hẫng trước sự ra đi của vợ khi bà bị

bệnh nặng và qua đời ở Avignon năm 1858. Sau đó nửa năm, ông sống trong một

ngôi nhà gần Avignon để được gần mộ của người vợ yêu quý.

Quay trở lại với những công việc, vị trí mà Mill đảm nhận, vào năm 1828

ông trở thành trợ lý thanh tra của văn phòng India House. Trong 20 năm, từ 1836

đến 1856, Mill đảm nhận trách nhiệm về mối quan hệ của công ty Đông Ấn với các

bang Ấn Độ, và năm 1856, Mill trở thành trưởng văn phòng thanh tra. Khi Nghị

viện Anh yêu cầu công ty giải thể sau vụ nổi dậy ở Ấn Độ và dù Mill đã nỗ lực bảo

vệ công ty song ông không thành công. Sau đó ông được đề xuất một vị trí trong

Hội đồng tư vấn nhưng ông đã từ chối. Mill nghỉ hưu năm 1858, đó cũng là thời

gian vợ ông mất.

Năm 1865, Mill được bầu vào Hạ viện. Khi làm việc tại Hạ viện, ông thấy

mình mâu thuẫn với những suy nghĩ, những mục tiêu của các đại cử tri, ông cũng

không muốn thỏa hiệp bởi nếu thỏa hiệp sẽ vi phạm vào những nguyên tắc của

mình. Bởi thế, ông đã thất bại trong cuộc bầu cử vào năm 1868 do một mực bảo vệ

lập trường chính trị đồng thời lên án gay gắt hành động của một quan chức Anh thời

đó (Vụ Thống đốc Eyre).

25

Về sau, Mill đã có một cuộc sống rất thoải mái ở Avignon. Ngôi nhà của ông

chứa đầy sách báo. Mill cực kỳ say mê âm nhạc và bản thân ông cũng là một nghệ

sỹ piano tài giỏi. Ở miền quê Avignon này, ông vẫn thường đọc sách, viết sách, bàn

luận, đi dạo và nghiên cứu thực vật. Ông cũng đã dành thời gian tìm kiếm, phân loại

các loài hoa mùa xuân và hoàn tất một danh mục quần thể thực vật.

Tại Avignon, Mill vẫn luôn miệt mài lao động và vẫn luôn dành mối quan

tâm sâu sắc đến các vấn đề của xã hội mặc dù ông đang sống ẩn dật. Mill đã qua đời

ở Avignon ngày 8/5/1873. Chân dung con người vĩ đại này được đúc đồng và được

dựng trên đường ven bờ sông Thames ở London.

Các giai đoạn trong triết học chính trị J.S. Mill:

Giai đoạn thứ nhất được đánh dấu bằng việc tác phẩm “Bàn về những vấn đề

phức tạp của Kinh tế Chính trị” của ông được xuất bản vào năm 1844. Tác phẩm

này chứa đựng những bài luận được coi là những lời giải cho các bài toán rắc rối, ví

dụ như sự phân chia lợi ích của thương mại quốc tế hay ảnh hưởng của tiêu dùng

đối với sản xuất. Mill đã kế thừa nhiều hạt nhân hợp lý từ David Ricardo đồng thời

đã đưa ra những nhận định sâu sắc hơn.

Giai đoạn thứ hai bắt đầu bằng sự xuất bản của tác phẩm “Các nguyên lý của

kinh tế chính trị học” năm 1848. Lúc này, Mill thể hiện rõ ràng tính độc lập và sáng

tạo trong cách tư duy và cách thức giải quyết các vấn đề so với các bậc tiền bối.

Vào thời gian này, ông cũng nỗ lực ủng hộ cho việc xây dựng hình thức sở hữu

nông dân. Đây được coi là một giải pháp cho tình trạng nghèo đói và tình hình bất

ổn ở Ireland. Từ đây, ông đã nghiên cứu sâu hơn về các nhà văn xã hội chủ nghĩa và

thấy rằng các vấn đề xã hội cũng quan trọng như các vấn đề chính trị. Mill không

thừa nhận chế độ sở hữu và chủ trương phân tách giữa sản xuất và phân phối. Ông

không đồng tình với hình thức phân phối khi hình thức này thường xuyên đẩy các

tầng lớp lao động vào cuộc sống khốn khó và đói kém.

Giai đoạn cuối cùng Mill khắc phục những điểm yếu trong hệ thống của

mình. Nếu như với những nghiên cứu ở giai đoạn trước, ông không đưa ra được một

26

giải pháp khả thi thì ở giai đoạn thứ ba này, ông đã khá thành công trong việc phân

tích sâu sắc cách thức làm thế nào để xây dựng lại xã hội để xã hội đó ngày càng tốt

đẹp hơn. Trong giai đoạn này, Mill được trợ giúp khá nhiều từ người vợ của mình.

Sau khi bà Taylor mất, Mill đã xuất bản một loạt sách về đạo đức học và triết

học. Đây là những đứa con tinh thần Mill đã nuôi dưỡng từ lâu và được ủng hộ rất

lớn từ vợ mình. Các tác phẩm nổi tiếng như “Bàn về Tự do” và “Những suy nghĩ về

cải cách Nghị viện” được xuất bản vào năm 1859; Cuốn “Chính thể đại diện” mà

chúng ta đang tìm hiểu được xuất bản năm 1861. Thành công của Mill trong “Chính

thể đại diện” là ông đã hệ thống hóa các quan điểm đã từng được trình bày trong

nhiều bài báo và tiểu luận. Tác phẩm “Thuyết vị lợi” được xuất bản năm 1863 là

những nỗ lực của Mill một mặt hướng tới trả lời các câu hỏi có xu hướng chống lại

lý thuyết đạo đức của ông; mặt khác nhằm loại bỏ những quan niệm sai lầm về lý

thuyết đó.

Các bài luận trong tập bốn tác phẩm “Luận án” (1875) của ông nói về những

vấn đề cơ bản như tài sản, đất đai, lao động hay các vấn đề siêu hình học và tâm lý

học. Ông viết các bài luận này cho tờ Fortnightly Review trong giai đoạn ông tham

gia nghị trường. Năm 1867, Mill được coi là một trong những người sáng lập tổ

chức đầu tiên giành quyền bầu cử cho phụ nữ. Năm 1869, ông xuất bản tác phẩm

“Sự Khuất phục của Phụ nữ” (The Subjection of Women, viết năm 1861). Tác phẩm

này là một tuyên ngôn kinh điển về quyền bầu cử của phụ nữ. Sự kiện được coi là

hoạt động xã hội cuối cùng của ông liên quan đến mốc ra đời của Tổ chức cải cách

sở hữu đất đai.

Cuốn “Tự truyện” và “Ba bài luận về Tôn giáo” được xuất bản sau khi ông mất.

Cuối cùng, có thể tổng kết các tác phẩm cơ bản của J.S. Mill như sau:

Hệ thống logic (1843), Bàn về những vấn đề phức tạp của Kinh tế Chính trị

(1844), Các nguyên lý của kinh tế chính trị học (1848), Bàn về Tự do (1859),

Những suy nghĩ về cải cách Nghị Viện (1859), Chính thể đại diện (1861), Chủ

nghĩa công lợi (1863), Sự Khuất phục của Phụ nữ (xuất bản năm 1869, viết năm

27

1861), Khảo cứu triết học của ngài William Hamilton (1865), Tự truyện (xuất bản

1873), Ba bài luận về Tôn giáo (xuất bản 1873).

Như vậy, việc điểm lại những sự kiện quan trọng trong cuộc đời cũng như

những kết quả từ sự lao động miệt mài của J.S. Mill đã cho chúng ta hình dung về

một con người tài hoa, trách nhiệm và mang trong mình tinh thần nhân văn cao cả.

Bên cạnh đó, từ đặc thù nghiên cứu quan niệm Mill về “Chính thể”, tác giả luận văn

cũng đặc biệt quan tâm đến Triết học chính trị của nhà tư tưởng này.

Tóm lại, một điều có thể thấy rằng, từ những đóng góp vô cùng ý nghĩa và

sâu sắc của Mill mà cho tới nay, ông vẫn luôn được nhắc đến trong giới học thuật.

Ông được đánh giá là một nhà tư tưởng can đảm vì dám dấn thân vào những vấn đề

nhạy cảm của thời đại bất chấp những cản trở hay sự bất lợi trong sự nghiệp tham

chính của mình. Mặc dù vậy, con người J.S. Mill luôn sẵn sàng học hỏi người khác

có thể thấy ông đã tiếp thu nhiều ý tưởng hợp lý từ các bậc tiền nhân.

1.3.2. Về “Chính thể đại diện”

Bối cảnh ra đời “Chính thể đại diện”

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa ở châu

Âu có những chuyển biến mạnh mẽ. Các cuộc cách mạng tư sản nổ ra và giành

thắng lợi, xóa bỏ chế độ cai trị hà khắc phong kiến, thiết lập nền dân chủ hiện đại.

Sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, kinh tế tư bản khiến quá trình sản xuất tập

trung cao độ, biến cả châu Âu thành một xí nghiệp sản xuất khổng lồ. Tất cả những

sự kiện trên đánh dấu việc những khối quần chúng đông đảo đã bước lên vũ đài

chính trị, đã tập hợp nhau lại thành những tổ chức xã hội có sức mạnh to lớn, làm

thay đổi diện mạo hầu hết các lĩnh vực của đời sống châu Âu. Xét ở phương diện

văn minh thì đây có thể coi là một sự tiến bộ, tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, đây

là một hiện đặc biệt chứa đựng trong nó nhiều mối nguy hại tiềm tàng cũng như

mâu thuẫn xã hội to lớn như đảo lộn hệ giá trị văn hóa tinh thần, khiến xã hội mất

ổn định, thậm chí là đe dọa quyền sống của con người. Đặc biệt ở Anh, xã hội sau

thời kỳ cách mạng công nghiệp gặp phải vô vàn những vấn đề nan giải như làn sóng

di cư gây áp lực lớn cho xã hội, tình trạng bóc lột lao động thậm tệ, đời sống của

phụ nữ và trẻ em khốn khổ,v.v.

28

Quan tâm đến những vấn đề liên quan đến đời sống chính trị xã hội, quyền

phụ nữ và trẻ em, biến đổi của lịch sử, xã hội cùng với những yêu cầu bức thiết của

thực tiễn lịch sử đặt ra đã thúc đẩy J.S.Mill suy tư và nghiên cứu. Cuốn “Chính thể

đại diện” được ra đời trong hoàn cảnh đó, nó được xuất bản năm 1861, và cho đến

nay được tái bản nhiều lần với nhiều thứ tiếng khác nhau.

Kết cấu và nội dung cơ bản của “Chính thể đại diện”

“Chính thể đại diện” là một trong ba tác phẩm được chọn vào Bộ sách “Great

Books of The Western World” (Tạm dịch: Những cuốn sách vĩ đại của phương Tây) cùng

với hai tác phẩm khác đồng tác giả là “Bàn về Tự do” và “Chủ nghĩa công lợi”. Chính thể

đại diện là một tác phẩm rất nổi tiếng, được coi là một tác phẩm kinh điển về triết học

chính trị và triết học xã hội.

“Chính thể đại diện” là tác phẩm thuộc lĩnh vực triết học về chính trị và xã

hội, là một trong các tác phẩm kinh điển về nền dân chủ phương Tây. Tác phẩm

cung cấp cho người đọc những tri thức để hiểu được cơ sở của nền dân chủ phương

Tây. Ông chú giải tỉ mỉ về chính thể - cơ quan quyền lực nhà nước chịu trách

nhiệm tối cao trong việc tổ chức, quản lý con người và xã hội, về quyền lực nhà

nước, về dân chủ, ông đi sâu phân tích hình thức chính thể thức lý tưởng bằng cách

phân biệt dân chủ chính hiệu và dân chủ giả hiệu, dựa trên thuyết công lợi đưa ra

tiêu chuẩn đánh giá chính thể, vạch ra phương hướng xây dựng một chính thể đại

diện cho tất-cả chứ không phải cho số đông cơ học.

Tác phẩm bao gồm: Lời tựa và 18 chương, J.S.Mill đã ghi rõ tiêu đề của từng chương.

Chương I : Có thể lựa chọn hình thức chính thể ở chừng mực nào?

Chương II : Tiêu chuẩn cho biết sự tốt đẹp của một hình thức chính thể

Chương III : Hình thức chính thể mang tính đại diện là hình thức chính thể lý tưởng

tốt đẹp nhất

Chương IV : Trong các điều kiện xã hội nào chính thể đại diện không thể áp dụng được

Chương V : Những chức năng đích thực của các cơ quan đại diện

Chương VI : Những yếu kém và những nguy cơ – có khả năng xảy ra với chính thể

đại diện

29

Chương VII : Dân chủ thực sự và dân chủ giả hiệu; Sự đại diện cho tất-cả và sự

đại diện cho số-đông

Chương VIII : Mở rộng quyền bầu cử

Chương IX : Nên bầu cử hai giai đoạn hay không?

Chương X : Kiểu cách bỏ phiếu

Chương XI : Nhiệm kỳ của nghị viện

Chương XII : Liệu có nên đòi hỏi các thành viên nghị viện phải cam kết hay không?

Chương XIII : Về hệ thống lưỡng viện

Chương XIV : Về nền hành pháp trong một chính thể đại diện

Chương XV : Về các cơ quan đại diện địa phương

Chương XVI : Về tính chất quốc gia trong liên hệ với chính thể đại diện

Chương XVII : Về các chính thể đại diện liên bang

Chương XVIII: Về sự cai trị các nước phụ thuộc bởi một nhà nước tự do

Có thể thấy, trong tác phẩm này được chia làm hai phần lớn. Phần thứ nhất

bao gồm nội dung chương 1, chương 2. Phần này J. S. Mill khảo sát các hình thức

chính thể trong lịch sử cũng như phân tích những giá trị, hạn chế của mỗi hình thức.

Với việc kết hợp luận giải và những bằng chứng thực tế trong lịch sử, Mill đã cung

cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát về các hình thức chính thể mà loài người

đã trải qua. Ông cũng đưa đến cho người đọc cách hình dung về một chính thể tốt

đẹp sẽ cần có những yếu tố nào. Phần thứ hai bao gồm 16 chương còn lại. Về cơ

bản, phần này J.S. Mill khẳng định tính lý tưởng của hình thức chính thể mang tính

đại diện và đề xuất những ý tưởng để giải quyết một số vấn đề tồn đọng trong thời

đại của ông khi áp dụng chính thể đại diện. Đặc biệt, ở nhóm chương 8, 9, 10 và 11,

J.S.Mill trình bày đề xuất xây dựng một chế độ bầu cử dân chủ mở rộng đến tất cả

người dân, ông yêu cầu quyền bầu cử không được phân biệt nam nữ hay sở hữu tài

sản, những người có trí tuệ ưu việt cần có được tiếng nói tốt hơn trong cuộc bầu cử.

Ông cũng nêu quan điểm ủng hộ bầu cử trực tiếp để khắc phục được tệ tham nhũng,

hối lộ. Ở điểm này, Mill đã khiến cho độc giả thấy được giá trị tư tưởng mang tính

30

lịch sử của ông khi chính trị Anh thời kỳ này đang bước vào giai đoạn khủng hoảng

cũng như mang tính thời đại khi nhiều nước trên thế giới hiện nay cũng đang gặp

phải những vấn đề nhức nhối về chính trị. Thêm nữa, ở phần thứ hai này, Mill đề

cập đôi chút đến các nước phụ thuộc hay thuộc địa của Anh thời bấy giờ. Từ góc

nhìn của một học giả ở mẫu quốc trong lịch sử, độc giả khắp nơi trên thế giới đã có

cơ hội mường tượng lại một khoảng thời gian trong quá khứ một cách khách quan

và khá chính xác.

Tóm lại, “Chính thể đại diện” có thể coi như một bản “lập hiến”, có giá trị to

lớn trong việc thiết lập một chính thể tốt đẹp, lấy lợi ích của toàn thể người dân lên

trên hết, đảm bảo hài hòa các lợi ích vốn mâu thuẫn của các giai tầng trong xã hội.

31

Tiểu kết chƣơng I

Toàn bộ chương 1, tác giả đã đi tìm hiểu về những điều kiện, tiền đề ảnh

hưởng đến sự hình thành quan niệm về bầu cử của John Stuart Mill trong “Chính

thể đại diện”. Những hiểu biết cơ bản đó cùng với một số nét chủ yếu về cuộc đời

của J.S.Mill có thể giúp hình dung một cách rõ nét hơn về tiến trình ra đời tác phẩm

cũng như những giá trị trong các quan niệm của ông.

J.S. Mill sinh ra trong thời đại xảy ra những biến đổi sâu sắc của đời sống xã

hội nước Anh nói riêng và của lịch sử phát triển nhân loại nói chung, sự chuyển

giao giữa cái mới và cái cũ, khuôn mẫu và phá cách. Tinh thần trách nhiệm và lòng

đam mê với triết học, chính trị, xã hội đã đưa ông vượt qua tất cả những khó khăn thời

đại để thể hiện tiếng nói của mình, bày tỏ ước mong về một nhà nước, một hình thức

chính thể lý tưởng có thể đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người dân. Dưới ánh sáng

tư tưởng của Jeremy Bentham, Thomas Hare hay Tocqueville,…J.S.Mill đã có thêm

những cơ sở và động lực mạnh mẽ để xây dựng hệ thống quan niệm chính trị - xã hội

đầy ấn tượng trong “Chính thể đại diện”.

“Chính thể đại diện” ra đời như một sản phẩm tất yếu của đời sống lịch sử và

con người, nó thể hiện một cách rõ ràng mối bận tâm sâu sắc của tác giả đối với

những vấn đề thời đại có liên quan đến con người, đời sống chính trị xã hội – một

đặc trưng trong tư tưởng của các nhà triết học phương Tây cận - hiện đại. Tác phẩm

không chỉ có ý nghĩa thời đại như một tài liệu lịch sử sinh động về sự phát triển,

biến đổi của tồn tại người mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Tác phẩm ra đời là nỗ lực của tác giả để xác định và nhận thức những vấn đề

cấp bách của thời đại, thúc giục xây dựng những biện pháp giải quyết, giúp con

người thoát khỏi tình trạng khủng hoảng của thời đại. Để hiểu được điều này, tôi sẽ

đi sâu vào vấn đề chính đó là cơ chế thiết lập và duy trì một chính thể - bầu cử. Với

những nhìn nhận sâu sắc của mình, J.S. Mill đã thể hiện những vấn đề vốn phức tạp,

hóc búa và nhạy cảm về đời sống chính trị một cách sáng rõ với những phân tích,

lập luận thuyết phục.

32

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Aristotle (2014), Chính trị luận, Nguyễn Trọng dịch, Nxb Tri thức

2. Alvin Tofler (1991), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

3. Crane Brinton (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển Bách khoa.

4. Claude Frédéric Bastiat (2015), Luật pháp, Nxb Tri thức.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. C. Mác và Ph. Ăngghen (2001), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

8. David E. Cooper (2002), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hóa

Thông tin.

9. Dagobert D.Runes (2009), Lịch sử triết học từ cổ đại đến cận hiện đại, Nxb

Văn hóa Thông tin

10. Bùi Đăng Duy (2000), Triết học phương Tây hiện đại, trong: Bùi Thanh Quất

và Vũ Tình: Lịch sử triết học, phần VI, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục.

11. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

12. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao (2011), Hiến pháp:

những vấn đề lý luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

13. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90

15. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Trần Thái Đỉnh (1961), Nhập môn triết học, Nxb Ra khơi, Sài Gòn.

17. Ngô Huy Đức (2010), (chủ nhiệm), Đề tài nhánh KX 10-10: "Tư tưởng chính trị

phương Tây cận, hiện đại", Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

18. Friedrich August Hayek (2015), Tự do kinh tế và Chính thể đại diện (Tập hợp

các bài tiểu luận chính trị của F.A. Hayek), Nxb Tri thức.

19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa

Chính trị học (1999), Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

21. Học viện Hành chính quốc gia (2007), Giáo trình Lịch sử hành chính nhà nước

Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội

22. Ðỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà Nội.

23. Đỗ Minh Hợp (2010), Lịch sử triết học đại cương, Nxb Giáo dục Việt Nam.

24. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh (2008), Đại cương lịch sử

triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Tổng

hợp Tp Hồ Chí Minh.

25. Nguyễn Thị Thùy Linh (2010),“Quan niệm về Chính thể của J.S. Mill trong tác

phẩm Chính thể đại diện”, luận văn cao học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Niccolo Machiavelli (2012), Quân Vương - Thuật trị nước, Nxb Lao động - Xã

hội, Hà Nội (Vũ Mạnh Hồng, Nguyễn Hiền Chi dịch)

27. Ngô Thị Như (2012), Triết học chính trị của J.S. Mill - Giá trị và bài học lịch

sử, Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại

học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

91

28. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2006), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

29. Plato (1963), Nền Cộng hòa, người dịch: Trần Thái Đỉnh, Nxb Sài Gòn.

30. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

31. Quốc hội (2002), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

1992 (sửa đổi) (2002), Hà Nội

32. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

33. John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự,

Nxb Tri thức, Hà Nội.

34. J.S. Mill (2008), Chính thể đại diện, Nxb Tri thức, Hà Nội.

35. J.S. Mill (2009), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.

36. Jean-Jacques Rousseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, (Thanh Đạm dịch).

37. Bùi Thanh Quất, Vũ Tình (2000), Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Mai Sơn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức

39. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri thức, Hà Nội, tập 1 (Phạm Toàn dịch).

40. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri thức, Hà Nội, tập 2 (Phạm Toàn dịch).

41. Đoàn Trọng Truyến (2006), Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb

Công An Nhân Dân, Hà Nội

44. Từ điển triết học (1960), Nxb Sự thật và Nxb Tiến bộ, Hà Nội.

92

Tiếng Anh

45. Nicholas Capaldi (2004), J.S. Mill - abiography, Cambridge university Press,

London.

46. John Gray and G.W. Smith (1991), J. S. Mill on liberty in focus, Routledge

Press, London.

47. Richard H. Popkin, Avrum Stroll (1993), Philosophy made simple, Doubleday

Press, New York

48. John M. Robson, Bruce L. Kinzer (1988): Public and Parliamentary Speeches

by J.S. Mill, Routledge and Kegan Paul Press, London.

49. John M. Robson, F.E.L. Priestley (1985), Essays on Ethics, Religion and Society

by J.S. Mill, Routledge and Kegan Paul Press, London.

50. John M. Robson, Francis Edward Sparshott (1978): Essays on Philosophy and

the Classics by J.S. Mill, Routledge and Kegan Paul Press, London.

51. Robert C. Solomon, Clancy Martin, Thomson (2005), Since Socrate,

Wadsworth press, New York.

52. William Thomas (1992), Great political thinkers, Oxford University Press, New York

93