ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------------------------------------- HOÀNG GIANG QUỲNH ANH

Truyện cổ Grimm dƣới góc nhìn phân tâm học

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài

Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

HOÀNG GIANG QUỲNH ANH

Truyện cổ Grimm dƣới góc nhìn phân tâm học

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Duy Hiệp

HàNội– 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các nghiên cứu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Hoàng Giang Quỳnh Anh

Lời cảm ơn

Lời đầu tiên, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất

tới thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.

Thầy đã luôn tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập kể từ khi

là sinh viên Đại học đến khi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp và nay là luận

văn Thạc sĩ. Thầy luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ em khi gặp các vướng

mắc do còn ít kinh nghiệm nghiên cứu.

Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho em những kiến thức

và kinh nghiệm quý giá trong thời gian học tập tại trường.

Em xin chân thành cảm ơn!

HàNội, tháng 11 năm 2015

Học viên

Hoàng Giang Quỳnh Anh

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Tiêu chí khảo sát hành vi bạo lực trong truyện cổ Grimm

…...Error! Bookmark not defined.

Bảng 1.2. Thống kê các hành động bạo lực trong truyện cổ Grimm

……Error! Bookmark not defined.

Bảng 1.3. Quátrìnhtácđộngbịđộngcóthểquansátthấytrong 19 truyện.......36

Bảng 2.1 Thống kê biểu tượng trong truyện cổ Grimm

……………...Error! Bookmark not defined.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do lựa chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 4

3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................... 11

3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 11

3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 11

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 13

4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 14

4.1. Sơ lược về lí thuyết phân tâm học ........................................................ 14

4.2.Phân tích diễn ngôn phê phán ................................................................ 16

5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 17

CHƢƠNG 1. CĂN TÍNH TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM ..................... 18

1.1. Bạo lực trong truyện cổ Grimm .......................................................... 19

1.1.1. Những đối tượng chủ động tham gia thực hiện hành động bạo lực 49

1.1.2. Những đối tượng bị động tham gia thực hiện hành vi bạo lực......... 53

1.2 Căn tính bạo lực qua các lớp truyện kể ................................................. 55

Tiểu kết ........................................................................................................ 59

CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY TẮC LUÂN LÍ THÔNG QUA CÁC BIỂU

TƢỢNG .......................................................................................................... 61

2.1. Thế giới biểu tượng trong truyện cổ Grimm ........................................ 62

2.1.1. Biểu tượng về con người: Mẹ, Vua, Con gái vua, Hoàng tử ............ 67

2.1.2. Biểu tượng về động vật và sinh vật ma thuật: Động vật, Phù thủy 71

2.2. Ý nghĩa của biểu tượng ......................................................................... 76

2.2.1. Tăng sức hấp dẫn ......................................................................................... 77

2.2.2. Duy trì một xã hội gia trưởng ................................................................... 79

2.2.3. Trọn vẹn thông điệp của Kito giáo và Kinh Thánh ............................ 80

2.2.4. Trường hợp điển hình: Công chúa ngủ trong rừng ............................. 81

2.3. Các vỉa tầng tâm thức trong các lớp truyện kể ..................................... 82

Tiểu kết ........................................................................................................ 86

CHƢƠNG 3: ẨN ỨC TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM ........................... 88

3.1. Trí tưởng tượng và thế giới cổ tích ....................................................... 89

3.2. Dòng chảy văn hóa trong các câu chuyện của Grimm ......................... 94

3.3 Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm .......................... 107

Tiểu kết ...................................................................................................... 112

KẾT LUẬN .................................................................................................. 115

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118

MỞ ĐẦU

1. Lí do lựa chọn đề tài

1.1. Nguồn gốc của văn học dân gian, cũng giống như nguồn gốc của ngôn

ngữ loài người, không có cách thức nào để có thể biết được toàn bộ nguồn

gốc đầu tiên. Khó để xác định tài liệu nào trong số các tài liệu hiện nay là

nguyên thủy, bên cạnh đó, sự phát triển tổng thể của văn học dân gian cũng

không được đề cập một cách rõ ràng. Bởi mỗi một nhóm người, một cộng

đồng người, dù lớn hay nhỏ đã xử lí nền văn học dân gian của họ theo một

cách riêng.

Bản thân hai chữ “dân gian” đã gợi nên một chiều to lớn về kích thước và ý

nghĩa sâu sắc của văn học. Điều này một phần bởi văn học dân gian đặc biệt

nhấn mạnh các đặc điểm riêng của thể loại được coi là xuất hiện sớm nhất

trong lịch sử văn hóa nhân loại bởi tính chất truyền miệng khi con người chưa

có chữ viết. Văn học dân gian hay còn gọi là văn học truyền miệng bao gồm

cả thơ, văn xuôi, những bài hát, thần thoại, các nghi lễ… Đó là một nền văn

học đồng hành cùng con người từ những buổi sơ khai, khi con người bắt đầu

cuộc sống có ý thức, biết cảm nhận cái đẹp, biết yêu cái đẹp; một nền văn học

chỉ lưu truyền qua trí nhớ [16]. Nền văn học ấy là sự kết tinh của quá trình

sáng tạo nghệ thuật của nhân dân qua hàng ngàn đời nay, qua nhiều thế hệ.

Những tác phẩm văn học dân gian, chính vì vậy, là kinh nghiệm, là giá trị mà

những thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ sau.

Văn học dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích sống với thời gian bằng sức hấp

dẫn nội tại của nó, bằng vẻ đẹp muôn đời. Lấp lánh ngũ sắc cùng những triết

1

lí nhân sinh ẩn sâu bên dưới, văn học dân gian đã, đang và sẽ vẫn là nền tảng

để các nhà văn, nhà thơ học tập, tiếp thu những vẻ đẹp nguyên sơ của nó

trong sáng tạo nghệ thuật.

1.2. Bất cứ một dân tộc nào trên thế giới cũng có truyện cổ tích. Đó là những

câu chuyện hoang đường về cái thiện, cái ác với những bà tiên, những người

khổng lồ, mụ phù thủy độc ác,... Nhưng đó lại là món quà quý giá đối với trẻ

em khắp nơi trên thế giới. Đó là những câu chuyện thực sự đáng kể, hàm chứa

những giá trị lớn lao về đạo đức, những quan niệm nhân sinh trong quá khứ.

Chúng ta, xã hội loài người sẽ không thể có được những bước phát triển dài

nếu như không quan tâm đến văn học dân gian, đến truyện cổ tích. Nghiên

cứu truyện cổ tích là một trong những nghiên cứu quan trọng về những niềm

vui, nỗi khổ, những bầu không khí ngập tràn đấu tranh chống lại cường

quyền, bạo lực của những con người chịu biết bao áp bức trong xã hội có giai

cấp.

1.3. Truyện cổ tích là quan trọng đối với con người. Lịch sử từ những thời kì

xa xưa, từ nền văn hóa cổ, từ những quan niệm về cái thiện, cái ác, về hi vọng

của tầng lớp nhân dân lao động, của những con người xưa là một trong những

khía cạnh được giảng dạy cho nhiều trẻ em, giúp những đứa trẻ hiểu rõ về cái

thiện, cái ác theo một cách nhất định. Dù những câu chuyện đó là những sáng

tác hoang đường của dân gian, của những người sống khác chúng ta nhiều thế

kỉ, có thể không còn phù hợp với chúng ta, không phù hợp với xã hội hiện

đại, rằng những con người hiện đại thông minh hơn nhiều so với quá khứ,

thậm chí chỉ năm hay mười năm trước đây thôi, quá khứ vẫn là lỗi thời và

không liên quan đến chúng ta, nhưng không phải vậy. Xã hội càng hiện đại,

con người càng không nên quay lưng lại với nền văn học dân gian, với truyện

2

cổ tích. Chúng ta đang sống trong một xã hội với mức độ thay đổi nhanh

chóng của thời gian, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, của công nghệ.

Văn học dân gian, truyện cổ tích vì vậy mà càng có ý nghĩa với chúng ta.

Chúng ta phải xác định được những quan niệm, nguồn gốc lâu đời, những

cách người xưa ứng xử với cái ác, nâng đỡ cái thiện,… mới có thể lí giải được

những giá trị thiện – ác của hiện tại. Văn học dân gian – truyện cổ tích không

thể bị che phủ bởi một lớp sương mù, được cảm nhận một cách mơ hồ. Trong

xã hội càng hiện đại, chúng ta càng không thể thiếu thông tin về chính chúng

ta, với những quan niệm lâu đời từ quá khứ, càng không thể để sự thiếu thông

tin ấy dẫn chúng ta đến với sự thờ ơ và quay lưng với cả một nền văn học đồ

sộ của nhân loại.

1.4. Truyện cổ tích long lanh ngũ sắc cùng với những nội dung tích cực của

nó đối với thế giới tâm hồn trẻ thơ đã được khẳng định qua việc truyền bá (in

ấn, dịch thuật, nghiên cứu, giảng dạy ở các cấp học) trên toàn thế giới. Trên

thế giới, ít có tác phẩm nào được dịch sang nhiều thứ tiếng như bộ truyện cổ

Grimm. Không những được dịch mà còn được phổ biến rộng rãi trong các dân

tộc, các môi trường tư tưởng và tôn giáo, các tầng lớp nhân dân khác nhau,

được các lứa tuổi ưa thích (không riêng gì trẻ em), ngoài ra còn được phổ

nhạc, đưa lên sân khấu, biểu diễn ballet, quay thành phim truyện, phim búp

bê, phim hoạt hình, phóng tác lại bằng thơ văn, hội họa, điêu khắc… “Cho

đến nay, đó là tập truyện dân gian nổi tiếng nhất thế giới.” (Penguin Books);

“Ít có tác phẩm nào giúp chúng ta mất ít công phu mà cảm thông được cái

thầm kín sâu sắc và huyền bí của tâm hồn Đức như tập Truyện cổ Grim”

(Robert Laffont); “Trong kho báu của thế giới trẻ em Đức này, đúng là lời ăn

tiếng nói của nhân dân được thể hiện một cách tuyệt vời, không cần hoa hòe

hoa sói gì cả”. (G. Kles); “Truyện cổ Grim có cái nhân hậu, đôi khi hóm

3

hỉnh, của truyện cổ của ta…” (Võ Quảng); “Truyện cổ Grim ư? Đó là sự hấp

dẫn đầy thú vị, đó là một món ăn không thể thiếu được với mọi tuổi trẻ trên

hành tinh xanh của chúng ta” (Santaemilia) [37].

Từ góc độ phân tâm học, tiếp nối những người đi trước, chúng tôi tiến hành

nghiên cứu truyện cổ tích từ khía cạnh tìm hiểu các vỉa tầng tâm thức dân

gian phương Tây (cụ thể ở đây là truyện kể của Anh em nhà Grimm) qua việc

nghiên cứu văn bản, dựa trên bản dịch của Lương Văn Hồng, mong tìm kiếm

được những điều thú vị vừa cho thưởng thức cho công việc nghiên cứu sau

này.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Truyện cổ Grimm không phải là tác phẩm xa lạ đối với độc giả và giới

nghiên cứu trên thế giới. Để có thể kể được đầy đủ lịch sử nghiên cứu truyện

cổ Grimm đến nay không phải vấn đề dễ dàng. Bởi truyện cổ Grimm tồn tại

qua nhiều năm, có nhiều bản cập nhật của chính anh em nhà Grimm, các bài

nghiên cứu theo năm tháng ở nước ngoài đến được với độc giả Việt Nam còn

nhiều hạn chế. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi kể đến những công trình

nghiên cứu:

Các lí thuyết văn học hiện đại, hậu hiện đại của phương Tây bắt đầu được

dịch và đưa về Việt Nam bao gồm công trình của Lyotard [19], Petrescu [20]

hay phân tích một trường hợp điển hình theo cách tiếp cận mới như công trình

của Deleuze và Guattari [9].

Cuốn sách của Tatar [31] viết năm 1987 và được tái bản, cập nhật năm 2003

có tựa đề: The hard facts of the Grimms' fairy tales. Công trình đưa ra những

4

nghiên cứu về mặt khuất sau truyện cổ Grimm. Những vấn đề liên quan đến

tình dục (sex), hành động bạo lực, các nạn nhân và những kẻ kiếm tìm hiện

lên trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm.

Cuốn sách của Haase, D. (Ed.) năm 1996 [29] The reception of Grimms' fairy

tales: Responses, reactions, revisions lại kể về một vấn đề khác trong truyện

cổ Grimm. Cuốn sách trình bày nhiều nội dung nhưng chủ yếu đi sâu phân

tích các bản cập nhật trong truyện cổ Grimm, các hành động đáp trả lại của

các nhân vật.

Công trình của Zipes [36] 1997 được cập nhật năm 2013 Happily ever after:

Fairy tales, children, and the culture industry, trình bày các vấn đề liên quan

đến kết thúc của truyện cổ Grimm. Công trình phân tích một trường hợp trong

truyện cổ Grimm là Hansel and Grethel là ví dụ minh họa cho vấn đề bị bỏ

rơi, bị lạm dụng xuất hiện trong truyện cổ.

Công trình của Zipes [35] năm 2012 có tên Fairy tales and the art of

subversion trình bày các vấn đề liên quan đến dị bản của truyện cổ tích nói

chung và truyện cổ Grimm là một trong những ví dụ.

2.2. Khoảng trên dưới 20 năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu Việt Nam lần

lượt giới thiệu, tiếp cận và lí giải văn học dân gian theo hướng lí thuyết hiện

đại của phương Tây: các tác giả như Lê Chí Quế, Nguyễn Xuân Kính,

Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Xuân Đức, Trần Thị An đã cho thấy những thế

mạnh của lí thuyết hiện đại thông qua việc tìm hiểu và ứng dụng vào nghiên

cứu các tác phẩm ở góc độ motif [15], hoặc theo hướng tiếp cận hiện đại như

Đào Duy Hiệp [14], hậu hiện đại của các tác giả như Phương Lựu [18], Lê

5

Huy Bắc [4].

2.3. Chúng tôi tiến hành khảo sát các khóa luận, luận văn tốt nghiệp có liên

quan đến truyện cổ tích thuộc bộ môn văn học dân gian và bộ môn văn học

phương Tây của khoa Văn học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

(trước đây là Trường Tổng hợp) từ năm 1966 đến nay, gồm có:

1. Năm 1966: Những yếu tố lãng mạn trong hệ thống hình tượng nhân vật của

truyện cổ tích Việt Nam. Người viết: Lê Chí Quế. Người hướng dẫn: Đinh Gia

Khánh.

2. Năm 1969: Tìm hiểu vài nét về truyện cổ tích có chủ đề người vợ hoặc

người chồng đội lốt vật ở nước ta. Người viết: Đặng Tuêch Trí. Người hướng

dẫn: Lê Chí Quế.

3. Năm 1977: Tìm hiểu kiểu truyện: Người đội lốt vật trong truyện cổ tích dân

gian. Người viết: Nguyễn Minh Ý. Người hướng dẫn: Chu Xuân Diên.

4. Năm 1980: Vai trò, tác dụng, ý nghĩa xã hội của yếu tố thần kì trong truyện

cổ tích Việt Nam. Người viết: Lý Trung Nghĩa. Người hướng dẫn: Đinh Gia

Khánh.

5. Năm 1992:

- Bước đầu tìm hiểu truyện kể H.C. Andersen. Người viết: Hoàng Đình Huân.

Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.

- Tiếng nói thiên nhiên trong truyện cổ Andersen. Người viết: Lương Thu Ba.

Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.

- Tìm hiểu mốt số đặc điểm nghệ thuật truyện cổ Andersen. Người viết:

Nguyễn Thị Bích Liên. Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.

6. Năm 1994: Nhân vật người kể chuyện trong truyển cổ của H.C. Andersen

đã dịch ở Việt Nam. Người viết: Lưu Lan Hương. Người hướng dẫn: Nguyễn

6

Trường Lịch.

7. Năm 1999: Bước đầu tìm hiểu tình tiết hóa thân trong “Kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam”. Người viết: Dương Thị Hiếu. Người hướng dẫn: Nguyễn

Hùng Vĩ.

8. Năm 2001: Hình ảnh người học trò trong ca dao và truyện kể dân gian.

Người viết: Nguyễn Lệ Thủy. Người hướng dẫn: Nguyễn Xuân Kính.

9. Năm 2006: Dấu ấn truyện cổ tích trong sáng tác của một số nhà văn hiện

đại Việt Nam. Người viết: Nguyễn Thị Hồng Nhung. Người hướng dẫn:

GS.TS Lê Chí Quế.

- So sánh truyện cổ Grimm và truyện cổ Andersen. Người viết: Trần Thị Hải

Yến. Người hướng dẫn: Trần Hinh.

10. Năm 2008: Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ góc độ tự sự. Người viết:

Khúc Thùy Linh. Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.

11. Năm 2009: Kiểu truyện anh cả - em út trong truyện kể dân gian Việt Nam

và một số nước Châu Á. Người viết: Trương Thị Vân Anh. Người hướng dẫn:

GS.TS Lê Chí Quế.

12. Năm 2011: So sánh 31 chức năng – nhiệm vụ - hành động theo V.Ia.

Propp giữa Lục đô tập kinh và truyện cổ tích Việt Nam. Người viết: Đỗ Thị

Thúy. Người hướng dẫn: Nguyễn Hùng Vĩ.

13. Năm 2012: Bước đầu điều tra không gian diễn ra hoạt động trong kho

tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi. Người viết: Vũ Thị Yên.

Người hướng dẫn: Nguyễn Hùng Vĩ.

14. Năm 2013: Nghiên cứu cấu trúc và phân tâm học truyện cổ Grimm từ góc

nhìn giáo dục (Qua bản tiếng Anh). Người viết: Hoàng Giang Quỳnh Anh.

Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.

15. Năm 2014: Truyện cổ tích Nga dưới góc nhìn cấu trúc. Người viết: Phạm

7

Văn Hải. Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Thủy.

2.4. Các bài viết có liên quan đến truyện cổ tích khác, phải kể đến:

- Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif – Những khả thủ và

bất cập [1].

- Cổ tích hiện đại: “Cô bé bán diêm” của Andersen [3].

- Tìm hiểu motif thách đố trong truyện cổ tích (Lương Thị Khuyên) [38].

- Từ nàng tiên cá của Hans Christian Andersen đến nàng tiên cá của Walt

Disney (Trần Lê Hoa Tranh) [39].

Bên cạnh đó, trong quá trình tìm kiếm các bài viết có liên quan đến đề tài,

chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những bài viết của các tác giả có nghiên cứu

truyện cổ tích theo hướng phân tâm học. Từ trước đến nay, có rất nhiều

phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo nhiều quan điểm khác nhau.

Các bài viết của các tác giả chúng tôi liệt kê ở trên, đều theo hướng cái nhìn

đến việc xem xét các bình diện cấu trúc văn bản nghệ thuật để tạo nên mối

liên hệ nội tại xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm với mối tương quan giữa

nội dung và hình thức, để tác phẩm vừa có sự hài hòa, vừa có sự thống nhất

cao độ. Các tác giả mặt khác cũng đều khẳng định rằng nghiên cứu tác phẩm

văn học trên bình diện cấu trúc văn bản nghệ thuật giúp người nghiên cứu,

một mặt nắm được đặc trưng thẩm mĩ, bản chất của ngôn ngữ văn học; mặt

khác, xác lập được các nguyên tắc, các hệ thống thao tác văn bản hoá tác

phẩm một cách chuẩn xác, cũng như hiểu sâu hơn ý nghĩa của việc văn bản

hoá tác phẩm một cách khoa học.

Trong số những bài viết, những công trình nghiên cứu kể trên, có hai hướng

nghiên cứu thuộc hai đề tài khóa luận:

Thứ nhất, là khóa luận So sánh truyện cổ Grimm và truyện cổ Andersen.

8

Người viết: Trần Thị Hải Yến, người hướng dẫn: Trần Hinh. Đây là một trong

số ít những công trình nghiên cứu có liên quan tới truyện cổ Grimm tại khoa

Văn học. Căn cứ vào lí thuyết so sánh và những trường phái văn học so sánh

ở Nga – Xô Viết từ cuối TK XIX đến nay, công trình đi sâu nghiên cứu, so

sánh chất liệu dân gian; chất liệu hiện thực; tính triết lí đạo đức; các bình diện

về chủ đề, nhân vật, cốt truyện, kết cấu của cả truyện cổ Grimm và truyện cổ

Andersen. Công trình dừng lại ở việc so sánh, đối chiếu giữa hai kho tàng

truyện cổ nổi tiếng hàng đầu thế giới đến thời điểm hiện nay, cung cấp cho

người đọc một cái nhìn tổng quan về hai kho tàng. Từ đó, khẳng định tầm ảnh

hưởng cũng như ý nghĩa của truyện cổ Grimm, truyện cổ Andersen nói riêng

và truyện cổ tích nói chung với các nền văn học sau này.

Thứ hai, là khóa luận Nghiên cứu cấu trúc và phân tâm học truyện cổ Grimm

từ góc nhìn giáo dục (Qua bản tiếng Anh). Người viết: Hoàng Giang Quỳnh

Anh. Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp. Công trình nghiên cứu 12/30

truyện nổi tiếng nhất theo xếp hạng của Anh và Đức, sử dụng mô hình

Greimas để phân tích các cấu trúc chức năng và ý nghĩa các lớp truyện kể

trong truyện cổ Grimm. Từ đó dẫn tới khẳng định truyện cổ Grimm có thể

chia thành 2 loại tùy thuộc theo cấu trúc chức năng của nhân vật trong từng

truyện kể. Với chương 2, công trình đi sâu vào nghiên cứu các biểu tượng

trong truyện cổ Grimm gồm 3 loại: biểu tượng ánh sáng, biểu tượng bóng tối

và biểu tượng trung gian, cũng thông qua mô hình Greimas để làm sáng tỏ lớp

ý nghĩa sâu xa của các biểu tượng trong truyện cổ Grimm. Chương 3, dưới

góc nhìn giáo dục, công trình đi vào nghiên cứu cách thức giáo dục trẻ thông

qua truyện cổ Grimm, kèm theo thực hiện các khảo sát xã hội học.

Bên cạnh hai khóa luận, chúng tôi có tiếp thu những nghiên cứu, quan điểm

9

của bài viết Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện đại (trường hợp

Chim ưng thần) của PGS.TS. Đào Duy Hiệp tại Hội thảo Tự sự học dân gian,

ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, năm 2009. Đây là một trong số những bài viết

kì công, nghiên cứu sâu sắc không chỉ gợi ý cho chúng tôi về: sự hình thành

và phát triển của cổ tích phương Tây, nội dung truyện cổ Grimm, quan điểm

của Propp và lí thuyết sơ đồ hành động của Greimas cho các nhân vật trong

truyện cổ, cách ứng dụng phương pháp cấu trúc, lí thuyết phân tâm học vào

phân tích một truyện cổ mà còn gợi mở cho chúng tôi về thế giới của cổ tích –

thế giới của truyện cổ Grimm – mà tác giả kì công nghiên cứu một trường hợp

điển hình nhất – Truyện Chim ưng thần.

2.5. Ở Việt Nam, phê bình phân tâm học được biết đến khá sớm, ngay từ đầu

những năm 30 của thế kỉ trước trong những trang phê bình của Trương Tửu

hay Nguyễn Văn Hanh. Phân tâm học ngay sau đó hầu như vắng mặt sau năm

1945 ở miền Bắc bởi những thống trị của phê bình xã hội học marxit. Ở miền

Nam, mặt khác cũng có một vài tác giả quan tâm đến dịch, giới thiệu và ứng

dụng phân tâm học như Vũ Đình Lưu, Đàm Quang Thiện, Thanh Lãng. Chỉ

tới sau Đổi mới năm 1986, phân tâm học mới bắt đầu sức sống mãnh liệt trở

lại với những phân tích sắc bén của Đỗ Lai Thúy với chuyên luận Hồ Xuân

Hương hoài niệm phồn thực và tập chuyên đề Bút pháp của ham muốn.

Những bước đột phá trong nghiên cứu phân tâm học của Đỗ Lai Thúy phải kể

đến: các nghiên cứu không còn bám vào tiểu sử tác giả, hay đơn giản theo

kiểu sơ đồ: “dồn nén - ẩn ức – thăng hoa” mà phải thao tác trực tiếp với văn

bản, tìm kiếm những kí hiệu mang bản chất thực sự của phân tâm học. Mặt

khác, sử dụng những gợi dẫn của J. Lacan và bộ công cụ thao tác ngôn ngữ

của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga, trường phái ngôn ngữ Praha và phê

bình mới Anh-Mĩ, Đỗ Lai Thúy đi tìm và giải mã những cấu trúc vô thức

10

trên/trong/qua văn bản để chỉ ra những “bút pháp ham muốn” của những nhà

văn có dấu ấn phân tâm như trường hợp Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh

Quan, Nguyễn Gia Thiều, Hoàng Cầm, Chế Lan Viên, Xuân Diệu [24].

Căn cứ tình hình nghiên cứu văn học dân gian của ta, chúng tôi khẳng định

chưa có bất kì công trình hoặc bài viết nào trong phạm vi tìm hiểu của chúng

tôi trùng với đề tài.

3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Truyện kể gia đình cho trẻ em (tiếng Đức: Kinder- und Hausmärchen) là một

tập hợp các truyện cổ tích tiếng Đức lần đầu tiên được xuất bản năm 1812 bởi

Jacob Grimm và Wilhelm Grimm. Bộ truyện này thường được biết đến với

tên gọi Truyện cổ tích Grimm (tiếng Đức: Grimms Märchen) là những truyện

cổ tích dân gian, từng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới,

được dịch ra 160 thứ tiếng, trong đó tiếng Việt là ngôn ngữ nguồn mà luận

văn khảo sát.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Toàn bộ truyện kể sưu tầm của anh em Grimm là 211 truyện nhưng chỉ có

trên dưới 20 truyện được coi là nổi tiếng trên toàn thế giới theo sự xếp hạng

của Anh [40] và của Đức [41] gồm các truyện như Cô bé Lọ Lem, Hêxen và

Grêten, Hanxơ sắt, Nàng Bạch Tuyết,… đều được dịch sang tiếng Việt.

Trong luận văn này, chúng tôi sẽ sử dụng bản tiếng Việt của dịch giả Lương

Văn Hồng, ấn bản gồm 4 tập được Nhà xuất bản Kim Đồng in và in tái bản

năm 2014, gồm 201 truyện do anh em nhà Grimm sưu tầm. Theo dịch giả

11

Lương Văn Hồng, đây là phiên bản khiến ông hài lòng nhất, không phải chỉ

bởi đây là phiên bản đầy đủ, nội dung sách được biên tập kĩ lưỡng, hình vẽ

minh họa sinh động, mà tất cả các tên riêng đã được hiệu chỉnh cho thống

nhất với nguyên bản [10].

Nói về giá trị của tác phẩm, nguyên Tổng lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức tại

TP HCM Erhard Zander chia sẻ: “Trong thời buổi có những xung đột chính

trị và khởi đầu của nhiều cuộc chiến tranh, người dân yêu thích những câu

chuyện có lối hành văn súc tích và trong sáng, những câu chuyện đó để lại

trong lòng họ hình ảnh của một thế giới hòa đồng, nơi thiện luôn luôn thắng

ác… Những sự kiện tương tự nhất định cũng có trong lịch sử Việt Nam. Có lẽ

vì vậy mà truyện cổ Grimm được mọi người Việt Nam yêu thích”. Giáo sư

Chu Xuân Diên cho rằng: “Đọc Truyện cổ Grimm, độc giả không những chỉ

thấy lòng mình ấp áp hẳn lên vì nội dung nhân đạo của nó, trí óc mình sắc sảo

thêm lên vì những kinh nghiệm về cuộc sống dồi dào của nó, cảm quan thẩm

mĩ được thỏa mãn vì nghệ thuật kể chuyện trong sáng mà hấp dẫn của nó”

[37].

Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những truyện

xét có yếu tố bạo lực trong 19 truyện được coi là nổi tiếng nhất của bộ truyện

cổ Grimm. Đó là:

1. Mười hai anh em

2. Anh trai và em gái

3. Nàng Rapunzel

4. Hansel và Grethel

5. Cô bé Lọ Lem

6. Cô bé mũ đỏ

12

7. Công chúa ngủ trong rừng

8. Nàng Bạch Tuyết

9. Cô gái không có bàn tay

10. Những nhạc sĩ thành Bremen

11. Thần chết đỡ đầu

12. Vua Ếch

13. Ba sợi tóc vàng của quỷ

14. Sói và bảy chú dê con

15. Ba chiếc lá rắn

16. Bảy con quạ

17. Chú thợ may nhỏ can đảm

18. Jôrinđơ và Jôgigơn

19. Con chim vàng

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tâm học đến với chúng ta đến nay đã được một khoảng thời gian khá

dài, không chỉ là một vài năm. Bởi lẽ đó, chúng ta có quyền tin tưởng rằng,

tính chất phong phú, giàu sức sinh sôi của những tác giả nghiên cứu phân tâm

học là không thể bác bỏ. Nỗ lực của Freud đã khiến chúng ta thấy được những

điều ẩn trú trong tư tưởng, trong ngôn từ của chúng ta. Và nhờ văn học, qua

văn học mà chúng ta nhận thức được tính người của ta: trong suy nghĩ, trong

nói năng, trong những lời lẽ được sử dụng và rèn rũa trong các mối quan hệ

thường ngày với bạn bè, cha mẹ,… để hỏi, để trả lời, để sống. Chỉ thông qua

văn học, đặc biệt là văn học truyền miệng – văn học dân gian trong những kỉ

nguyên và những nền văn minh chưa có chữ viết mà con người tự vấn về bản

13

thân mình, về số phận, về hoạt động xã hội và tinh thần của mình.

Sự sợ hãi và bạo lực là hai yếu tố hiện hữu trong hầu hết trong truyện cổ tích.

Quái vật ăn thịt trẻ em, cha mẹ đánh đập những đứa trẻ, phù thủy sử dụng

phép thuật và đặt lời nguyền lên những cô gái xinh đẹp chỉ là một vài trong số

những ví dụ về hành động bạo lực, tàn ác và nỗi sợ hiện hữu rõ trong các

truyện cổ tích. Bởi những lẽ đó, dưới ánh sáng của lí thuyết phân tâm học,

luận văn mong muốn tìm hiểu được lớp ý nghĩa sâu xa của truyện cổ Grimm

để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về một nền văn hóa, tâm linh một dân tộc

của phương Tây.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Sơ lược về lí thuyết phân tâm học

Nghiên cứu văn học theo hướng phân tâm học là một trường phái nghiên cứu

văn học đặc biệt phát triển ở phương Tây đầu thế kỷ XX. Nguồn gốc của

phương pháp nghiên cứu này bắt nguồn từ chuyên ngành tâm lí của bác sĩ

người Áo S. Freud. Những phát hiện của ông về những vấn đề liên quan đến

tính dục và mặc cảm Oedipe (của những bé trai), mặc cảm Electra (của những

bé gái) của Freud đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu nhân

văn lúc bấy giờ.

Tiếp nhận ảnh hưởng từ Freud, một môn đệ xuất sắc của ông đồng thời cũng

là người sớm ly khai và đẩy phân tâm học rẽ sang một hướng khác - nhà tâm

lí học phân tích người Thụy Sĩ C. Jung, đã là người đã đưa phân tâm học tách

khỏi bệnh lí học và đồng thời, hòa đồng lí thuyết này vào trong môi trường

khoa học xã hội - nhân văn. Lí thuyết về cổ mẫu (archétype) như là trọng tâm

của nghiên cứu tâm lí học các chiều sâu, yếu tố nền tảng của vô thức tập thể

thực sự đã tạo nên thành tựu đáng kể trong nghiên cứu văn học. Cổ mẫu

14

(archetype là từ kép gồm từ arche: cổ, khởi đầu, cơ sở, nguyên lý… và từ

typos: mẫu, loại, dấu ấn, hình ảnh, mô hình, tiêu chuẩn… nên được dịch ra

nhiều cách khác nhau trong tiếng Việt: cổ mẫu, mẫu cổ, mẫu gốc, nguyên

mẫu, nguyên tượng, mẫu tượng, sơ nguyên tượng, siêu mẫu…) theo Từ điển

văn học, là “khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu tượng, các cấu

trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng trong vô

thức tập thể của cộng đồng nhân loại; vô thức tập thể này là một yếu tố đặc

trưng cho tất cả các vô thức cá nhân” [23]. Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới cũng nhấn mạnh: “Các mẫu gốc hiển hiện ra như những cấu trúc tâm thần

gần như phổ biến, bẩm sinh hay được thừa kế, một thứ ý thức tập thể; chúng

thể hiện qua các biểu tượng đặc biệt chứa đầy một công suất năng lượng lớn.

Chúng đóng một vai trò động lực và thống nhất đáng kể trong sự phát triển

nhân cách” [8].

Jung nói: “Nguyên sơ tượng (archétype), hay siêu mẫu, hay nguyên hình – dù

đó là quỷ, người hay biến cố – được lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử ở bất

kì đâu có trí tưởng tượng sáng tạo tự do hoạt động. Lần lượt chúng ta có ở đây

trước hết là nguyên hình huyền thoại. Nghiên cứu tỉ mỉ các hình tượng này ta

nhận thấy trong chừng mực nào đấy chúng là bản tổng kết đã được công thức

hóa của khối kinh nghiệm điển hình to lớn của vô số các thế hệ tổ tiên: đó có

thể nói là vết tích tâm lý của vô số cảm xúc cùng một kiểu” [21]. Jung còn

hiểu “Mẫu gốc là một định thức biểu trưng, nó luôn làm chức năng ở nơi nào

mà loại khái niệm ý thức không có, hoặc không thể có xét về hoàn cảnh bên

trong và bên ngoài” và “nó luôn luôn bảo lưu ý nghĩa và chức năng của mình.

Nó không bị hủy hoại mà chỉ bị biến thái, bộc lộ mình dưới các hình thức

15

mới…” [15].

Từ nền tảng lí thuyết của hai nhà nghiên cứu này, phân tâm học đã phát triển

thành rất nhiều hướng nghiên cứu, từ nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học

tộc người (G. Devereux), phân tâm học và Thiền (E. Fromm), phân tâm học

và văn học dân gian (V. Dundes) đến các nghiên cứu về chủ đề (Ch. Mauron,

G. Bachelard), nghiên cứu tác giả, tác phẩm (M. Bonapart, J. Delay, J.

Bellemin-Noel), người đọc (N. Holland),… trong nghiên cứu văn học. Trong

xu thế ấy, phân tâm học văn bản được ra đời như một sự cộng sinh giữa

trường phái cấu trúc - kí hiệu học Pháp với phân tâm học với người khai sinh

ra nó là J. Lacan.

Phân tâm học giải thích tác phẩm văn học dựa vào những đặc điểm của tâm lí

học về vô thức. Đó là sự thăng hoa của những xung năng, những ẩn ức về

ham muốn tính dục (chủ yếu trong tuổi thơ) nhưng bị cấm đoán về mặt xã hội,

gia đình. Phân tâm học đặc biệt thích hợp trong việc ứng dụng vào nghiên cứu

văn học dân gian, nghiên cứu các huyền thoại, như các nhà nghiên cứu đã chỉ

ra, khi dấu ấn về cái cá thể, cái “tôi” chưa rõ nét, bị hòa lẫn, nhòa phai với cái

“vô thức tập thể” [15]. Vô thức tập thể là “những nội dung tâm thức được kết

tinh từ nhiều truyền thống tâm lý, tâm linh, văn hóa và tôn giáo của nhiều thế

hệ loài người trong lịch sử”, bao gồm “những lo âu và sợ hãi, vui mừng và

phấn chấn, tranh đấu và thành công, những tương giao giữa nam và nữ, giữa

con cái và cha mẹ, những linh ảnh về người cha người mẹ, những thái độ đối

với hận thù và yêu thương, đối với sinh tử và ly biệt, những quyền lực của các

nguyên lý trời đất, tối sáng, âm dương…” [17].

4.2.Phân tích diễn ngôn phê phán

Phân tích diễn ngôn phê phán (Critical Discourse Analysis) là phương pháp

16

tập trung vào các mô tả diễn ngôn thực tiễn, về “cách thức ngôn ngữ định

hình bởi các mối quan hệ thuộc về quyền lực và ý thức hệ” và “những tác

động mang tính xây dựng dựa trên bản sắc xã hội” (Fairc Lough 1992: 12).

Đối với các mối quan hệ giữa thực hành xã hội và ngôn ngữ, Fairc (2003: 2)

nhấn mạnh việc phân tích các văn bản văn học thực hiện theo cách tiếp cận

phân tích diễn ngôn phê phán bắt đầu từ tiền đề: ngôn ngữ là một phần của

đời sống xã hội, kết nối các yếu tố khác nhau của đời sống xã hội, để phân

tích xã hội và nghiên cứu xã hội phải luôn có khía cạnh ngôn ngữ”. Điều này

liên quan đến phân tích hệ thống ngôn ngữ học của hệ thống chức năng ngôn

ngữ (Systemic Functional Linguistics) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa

quyền lực và bạo lực trong bộ sưu tập truyện cổ Grimm.

Dưới ánh sáng của lí thuyết phân tâm học, chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh

và phân tích tính chất uyên bác và triết lí dân gian những truyện chúng tôi

kháo sát để đi đến kết luận rằng tất cả “mẫu gốc”, cái thiện, cái ác, quy luật

luân lí truyện là nằm trong chủ đích sáng tạo của dân gian, không phải ngẫu

nhiên, vô tình. Đó là bản năng sâu xa của sự sinh tồn và những quy luật khách

quan muôn đời.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn được

chia thành 3 Chương, với phân tâm học là phương pháp xuyên suốt:

Chƣơng 1: Căn tính trong truyện cổ Grimm

Chƣơng 2: Những quy tắc luân lí thông qua các biểu tƣợng

17

Chƣơng 3: Ẩn ức trong truyện cổ Grimm

CHƢƠNG 1. CĂN TÍNH TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM

Hầu hết chúng ta đều chịu ảnh hưởng một cách đáng ngạc nhiên từ những

người có chung căn tính. Nhiều hành động, quan niệm trên thế giới được duy

trì thông qua những sự ngộ nhận về một căn tính độc nhất và không thể lựa

chọn. Amartya Sen [22] – Giáo sư kinh tế học và Triết học tại Đại học

Harvard cho rằng: việc có chung căn tính với người khác là một điều rất quan

trọng để có thể sống trong một xã hội và tầm quan trọng của một căn tính cụ

thể sẽ tùy thuộc vào bối cảnh xã hội.

Trong quá trình phát triển của bất kể châu lục nào, cũng xảy ra nhiều cuộc

đụng độ giữa các nền văn mình, và Âu Châu trung cổ cũng không phải là một

ngoại lệ. Ở mỗi cuộc đụng độ đó, các nền văn minh giao thoa với nhau một

phần, chấp nhận tồn tại song hành một phần, và cũng loại trừ lẫn nhau phần

nào đó. Xét trên góc độ tổng thể, đó là những bữa tiệc lớn của những căn tính

cộng đồng lớn dựa trên khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, kinh tế, thể chế và

cả phong tục tập quán. Xét trên góc độ cá thể, đó là công cuộc chia sẻ căn tính

của nhiều nhân thân đơn lẻ, với niềm tin, phương tiện và mục đích sống khác

nhau. Dù là sự giao lưu tổng thể hay giao lưu cá thể, những cuộc giao lưu

mãnh liệt ấy luôn đem lại hứng khởi, đau thương cho cả kẻ chiến thắng lẫn

người chiến bại. Các sự kiện, kinh nghiệm đó được lưu truyền trong dân gian,

bồi tụ và chuyển biến thành các câu chuyện để vừa nhắn nhủ, vừa chia sẻ, và

vừa tìm kiếm sự cảm thông [6].

Các câu chuyện cổ tích cũng như các huyền thoại, có thể được xem như

những biểu tượng của các quy trình tâm lí biến đổi và phát triển phức tạp. Đó

là phương tiện tuyệt vời để giúp chúng ta đạt được những hiểu biết và học

18

được những điều cơ bản về bản thân chính con người chúng ta. Truyện cổ

mang trong mình giá trị tượng trưng về bản chất con người, phản ánh các sự

việc chúng ta quan sát trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí truyện cổ tích

cũng được lựa chọn để cung cấp giá trị ngụ ngôn và cung cấp các giải pháp

cho vấn đề của con người để cuối cùng dẫn đến sự thay đổi và cuộc sống trọn

vẹn hơn. Truyện cổ Grimm ra đời vào thế kỉ 19, với nhiều ràng buộc về tôn

giáo, cộng đồng. Trong phạm vi chương 1 của luận văn, chúng tôi sẽ tìm hiểu

sâu về một trong số những căn tính của truyện cổ Grimm là căn tính bạo lực.

Để từ đó đi đến kết luận về mối quan hệ giữa bạo lực và quyền lực trong

truyện cổ Grimm.

1.1. Bạo lực trong truyện cổ Grimm

Bộ truyện cổ Grimm ghi chép các quá trình và tình huống bạo lực với mức độ

lớn. Thực tế này đã được tranh luận nhiều bởi các học giả như Tatar [31]. Anh

em nhà Grimm đã thay đổi một số chi tiết trong các câu chuyện trong các

phiên bản sau để “nỗ lực đáp ứng nhu cầu tinh thần của trẻ em”; các phiên

bản cập nhật và định hình đến khi công bố chính thức, theo Zipes [34], có

thay đổi một số trong nội dung nhưng cũng không thể thay đổi toàn bộ diễn

biến bạo lực của các nhân vật. Jacob và Wilhelm chỉ hạ bớt các hình phạt bạo

tàn trong các chuyến viếng thăm của các nhân vật phản diện để loại bỏ nỗi

đau trong câu chuyện như Tatar [31] giải thích.

Mặc dù truyện cổ Grimm truyền đi sự sáng tạo từ những vật liệu dân gian ban

đầu, nhưng cốt lõi của các câu chuyện này được giữ nguyên, kể cả tính bạo

lực và tàn ác có thể thấy ở hầu hết các câu chuyện. Một trường hợp điển hình

là câu chuyện Hansel và Grethel. Trong câu chuyện này, mụ phù thủy cố

gắng để lừa Grethel vào lò để kiểm tra nhiệt độ, nhưng thực tế ý định là để

19

đẩy Grethel vào lò và nướng thịt Grethel, đó là một hành động có chủ ý của

kẻ ăn thịt người, bao gồm cả những lời lăng mạ cô bé. Câu chuyện kết thúc

bằng một cảnh giết người rất tàn nhẫn: mụ phù thủy bị thiêu sống trong lò

nướng. Nhận định về cảnh này, Tatar [31] cho rằng đó là điềm báo trước về

những kinh hoàng của Đế chế thứ ba, chủ yếu vì hai lí do: thứ nhất là các phù

thủy luôn mang những đặc điểm đặc trưng của “người Do Thái theo khuôn

mẫu”; thứ hai là phù thủy đã bị thiêu cháy trong lò. Các câu chuyện cũng bao

gồm nhiều nhân vật với các vai trò của nam giới và nữ giới, phù hợp với các

giai cấp có quyền thống trị trong thời gian đó.

Các hành vi bạo lực cũng được vun bồi, gắn liền với những xung đột về căn

tính, và trở thành những motif quen thuộc, bởi trong cuộc sống đương thời, nó

vốn diễn ra ở khắp mọi nơi. Chúng ta khó lòng ngăn chặn hay dập tắt sự lây

lan của bạo lực, bởi bạo lực xuất phát từ chính những sự cố chấp, từ chính căn

tính của từng thân nhân. Một cách tốt đẹp, căn tính có thể là cội nguồn phong

phú cho cuộc sống nồng ấm, hạnh phúc; theo một cách nào khác, nó cũng

chính là nguồn cơn cho bạo lực và tội ác. Xét trên bình diện chọn lọc tự

nhiên, bạo lực chính là một dạng căn tính, được cụ thể hoá khi những căn tính

hiếu chiến phải kháng cự với sức mạnh từ các căn tính cạnh tranh khác.

Ý tưởng về các “nhu cầu đạo đức” (moral needs) được phát triển rộng rãi bởi

Zipes [34], cho rằng câu chuyện của Jacob và Wilhelm đóng góp vào “sự

sáng tạo một ý thức sai lầm và củng cố một quá trình xã hội độc tài”, kể từ khi

họ huấn luyện trẻ em tìm hiểu các vai trò cố định mà có thể dẫn đến điều trị

bệnh tâm lí hoặc thể chất cho phụ nữ, ví dụ thái độ phân biệt giới tính và phân

biệt chủng tộc.

Van Dijk [33] cho rằng quyền lực xã hội được hiểu là “sức mạnh được xây

20

dựng dựa trên các nguồn lực xã hội khan hiếm, chẳng hạn như sức mạnh, tiền

bạc, địa vị, danh vọng, kiến thức, thông tin, văn hóa.”. Quyền lực là một sức

mạnh phổ quát thể hiện các mối quan hệ của con người, làm nền tảng cho

chính quyền và bạo lực”. Horno [30] mô tả chính quyền là "sử dụng tích cực

sức mạnh của quyền lực", trong khi bạo lực "liên quan đến việc sử dụng năng

lượng tiêu cực, áp đặt mà không được chấp nhận bởi người khác. Hơn nữa,

"khi những lời bạo lực được nói bởi người khác hay bởi chính mình, cũng có

thể được coi là thực hiện hành vi bạo lực”.

Trong ngôn ngữ Đức, từ bạo lực (Gewalt) không chỉ đơn thuần nói về các

hành vi vật lý. Xem xét các truyện cổ Grimm, ta cần hiểu “Bạo lực” (Gewalt)

theo cả hình thức diễn ngôn, cũng như vật chất của nó. Walter Benjamin, một

nhà triết học người Đức gốc Do Thái đã nêu cụ thể trong cuốn Phê phán bạo

lực (Zur Kritik der Gewalt, 1977) về diễn ngôn của từ “Bạo lực” (Gewalt)

trong xã hội nước Đức: “Gewalt (Bạo lực trong ngôn ngữ Đức) đồng thời

mang ba ý nghĩa: quyền lực, sức mạnh, và sự cưỡng bức”.

Bạo lực và sức mạnh, bản chất là phương tiện kết nối mối quan hệ giữa thủ

phạm và nạn nhân, kể từ khi có một cuộc xung đột bạo lực, một trong những

yếu tố liên quan là mạnh hơn kẻ khác (Bagshaw) [26]. Trong 19 câu chuyện

chúng tôi khảo sát, các nhân vật được miêu tả là mạnh mẽ hay không mạnh

mẽ được biểu thị qua địa vị xã hội và hành động của nhân vật (ngôn từ hoặc

phi ngôn từ). Bằng việc dựa trên quan điểm về việc phân chia quyền lực gì

cho nhân vật (địa vị xã hội, sức mạnh cơ bắp, sức mạnh ma thuật…), cho

phép các nhân vật làm gì (những hành động được thực hiện bởi ai và ảnh

hưởng tới ai), một bức tranh rõ ràng về kiểu xã hội đương thời với các căn

21

tính đa dạng được mô tả trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm nổi lên.

Căn tính có thể hiểu như là một sự tự ý thức mà mỗi người thường trải qua,

hay lĩnh hội trong mối tương quan tới nhận thức của người khác. Nó không

phải là một khái niệm nguyên khối bất biến, mà có tính linh hoạt, có thể

chuyển dời, hay thậm chí là những ý niệm mang tính đại chúng. Căn tính cá

nhân, hay căn tính cộng đồng có thể được xác định, cấu thành bởi hàng loạt

các yếu tố như tôn giáo, quốc tịch, chính trị, ngôn ngữ, chủng tộc, giới tính,

địa vị xã hội. Mỗi con người được coi là một nhân thân độc nhất; sự hình

thành căn tính của mỗi nhân thân sẽ dẫn đến quá trình chia sẻ căn tính đó với

các nhân thân khác, và bắt đầu tạo ra những xung đột, từ xung đột vũ lực tới

xung đột tinh thần, giai cấp…

Các xung đột, hay hiểu cách khác là các căn tính bạo lực trong truyện cổ

Grimm có thể được phân loại theo nhân vật, theo xung đột, hoặc theo cộng

đồng. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 19 truyện trong phạm vi khảo sát để

xác định từng hành vi bạo lực với những yếu tố đã tham gia và hoàn cảnh

22

xung quanh đối tượng tham gia. Tiêu chí khảo sát được mô phỏng như sau:

Căn tính trong truyện cổ Grimm

Thành phần tham gia bị động

Thành phần tham gia chủ động/tích cực

Các đặc điểm ma thuật: phù thủy

Các cặp vợ chồng Đầy tớ

Người: Các vị vua và hoàng hậu, Các bà mẹ và anh chị em ruột, những người sống lẩn trốn (ngoài vòng pháp luật)

Các con vật

Bảng 1.1: Tiêu chí khảo sát hành vi bạo lực trong truyện cổ Grimm

Khi nghiên cứu quá trình vật chất tự nguyện tham gia có liên quan đến hành

vi độc ác và bạo lực, chúng tôi nhận thấy rằng các quá trình này đôi khi được

thực hiện bởi thủ phạm, nhưng đôi khi cũng bao gồm hậu quả (hoàn cảnh) của

hành vi bạo lực, như những nhiệm vụ khó khăn trong ngôi nhà mà Cô bé Lọ

Lem hay Grethel phải thực hiện.

Trong bảng sau đây, chúng tôi mô tả quá trình thực hiện hành động trong

10/19 truyện. Các truyện còn lại phân tích tương tự. Cột thứ hai là quá trình

23

ngôn ngữ có thể quan sát thấy, trong cột thứ ba liên quan đến các ảnh hưởng,

tức là những người chịu ảnh hưởng cuối cùng của hành động. Những từ xuất

24

hiện sau dấu ngoặc đơn là giải thích cho nhân tố người tham gia.

Tác nhân Hành động Ảnh hƣởng Truyện

Mẹ ghẻ (phù thuỷ) Đánh đập, đuổi đi Người em gái

Hoá phép biến dạng Con gái mụ Anh trai và em gái Những người thợ Vây, bắn Con Mang (người anh trai) săn

Cầm tay, cầu hôn Người em gái Vua

Họ (người phù thuỷ Khiêng, khoá cửa (nhốt), hun khói Hoàng hậu (người em gái) và con gái) chết ngạt

Hoàng hậu (người Bế, đắp chăn, cho bú Con trai em gái)

Vuốt lưng Con Mang (người anh trai)

Nhà vua Ban thưởng, phong làm Tể tướng Chàng trai (Phò mã) Ba chiếc lá rắn

Nhà vua trừng phạt Giải công chúa và tên lái tàu

công chúa và tên lái "Tha mày sao được" xuống chiếc thuyền thủng đáy và

đẩy ra biển khơi tàu

25

Chàng trai (Phò mã) Vung kiếm chém Con rắn đứt thành ba khúc

giết con rắn

Con rắn khác hồi Con rắn vừa bị chém sống dậy tức sinh cho con rắn vừa Thả ba cái lá lên những chỗ bị chém thì bị chém

Phò mã cứu sống Nhặt ba cái lá, đắp lên hai mắt và Công chúa được hồi sinh tức thì công chúa miệng

Phò mã Ăn Mỗi ngày chỉ ăn một mẩu nhỏ

Phò mã cho công Công chúa ăn hết bánh và uống hết Cho ăn bánh và uống rượu vang chúa ăn rượu vang

Công chúa Khiêng đầu, quẳng xuống biển Phò mã

Hứa hẹn Tên lái tàu

Tâu lời gian trá Nhà vua

Người hầu (của Phò Vớt lên, đắp la rắn (để cứu sống) Phò mã mã)

26

Đứa trẻ Nhà vua Nhận nuôi nấng, dạy dỗ Ba sợ tóc vàng của

Đặt vào hòm, ném xuống nước Đứa trẻ con quỷ

Viết thư dặn hoàng hậu giết và đem Chàng thanh niên (Đứa trẻ) chôn

Bà lão trong rừng Hỏi thăm, cảnh báo Chàng thanh niên (Đứa trẻ)

Van nài Bọn cướp

Xé bức thư của vua, viết một bức thư Bọn cướp Cứu sống chàng thanh niên khác, chỉ lối đi cho chàng thanh niên

Chàng thanh niên Trả lời: "Mọi sự trên đời đều biết" Các tên lính canh, người lái đò

Hứa hẹn: "Khi trở về, sẽ nói cho biết"

Nói lại lời của quỷ

Hỏi han về các chuyện khó hiểu Bà giúp việc của quỷ

Nói dối về vàng bên kia sông Nhà vua

Bà giúp việc của Làm phép biến thành con kiếm Chàng thanh niên (Đứa trẻ) quỷ

Dặn dò ẩn nấp, im lặng

Đưa tóc của quỷ, biến lại thành người

27

Nhổ tóc, hỏi han Con quỷ

Dì ghẻ Mắng thậm tệ Cô chị

Dì ghẻ và con ruột Mừng vui xúm xít khi thấy vàng bạc Cô chị Bà chúa Tuyết

Dỡ bánh, kéo bánh ra khỏi lò để Bánh mì Cô chị không bị cháy

Rung cây cho táo chín rụng, xếp táo Táo ngay ngắn

Chăm chỉ dọn nhà Bà chúa Tuyết

Bà chúa Tuyết Thân mật trò chuyện Cô chị

Đưa về nhà mình

Trao cho ống sợi, thưởng vàng

Phạt đổ nhựa thông Cô em

Lười biếng, kiêu kì Bánh mì, táo Cô em

Tỏ ra chăm chỉ Bà chúa Tuyết

Lười biếng

Cô chị Con gà trống gáy Gái vàng, gái bạc...

28

Gái dơ, gái bẩn... Cô em

Mẹ kế (Hoàng hậu) Bực tức, căm ghét Bạch Tuyết

Lệnh giết Bạch Tuyết, lấy gan phổi về Thợ săn Nàng Bạch Tuyết

Lệnh xào gan phổi cho mụ ăn Nhà bếp

Thắt lưng chặt cứng, làm nghẹt thở Bạch Tuyết

Chải tóc, cắm lược tẩm thuốc độc

Lừa ăn phần táo có độc

Bảy chú lùn Để yên cho nàng ngủ Bạch Tuyết

Dặn dò phải cẩn thận mụ hoàng hậu,

không được cho ai vào nhà

Cắt dây lưng, tháo lược độc

Làm quan tài, canh gác thi hài

Không động tới nàng, để cho nàng đi Muông thú trong rừng

Đến khóc thương nàng

29

Trân trọng nàng như người yêu Hoàng tử Bạch Tuyết thương nhất trên đời

Gương thần Khen Bạch Tuyết Mẹ kế (Hoàng hậu)

Khen hoàng hậu

Người cha "Lũ trời đánh" Bảy người con trai

"Ước gì cả bảy thằng đều thành quạ"

"Cô ấy tuy đẹp thật, nhưng chính cô Những người xung ấy là nguyên nhân sự bất hạnh của Cô em gái Bảy con quạ quanh bảy người anh trai"

Đi mãi, đi hoài, đi tới tận cùng thế

Cô em gái giới, Đi tới mặt trời, mặt trăng, tới các Bảy người anh trai

vì sao, tới núi thuỷ tinh

Nếm ở mỗi đĩa một miếng và uống

mỗi cốc một hớp; thả chiếc nhẫn

mang theo vào cốc nước cuối cùng

Bảy người anh trai "Chúng ta đã được giải thoát" Bảy người anh trai

30

Dê mẹ "Các con yêu dấu... hãy cnahr giác Bảy chú dê con Sói và bảy chú dê

chó sói" con

"Thằng quỷ sứ ấy" Chó sói

Rạch bụng con quái vật

"Giọng mày khàn khà ồ ồ, đúng mày Bảy chú dê con Chó sói là chó sói"

"Chân mẹ đâu có đen như chân mày,

mày đúng là chó sói"

Nhét đá vào bụng

Chó sói Giả giọng dê mẹ Bảy chú dê con

Ăn cục phấn to cho thanh giọng

Doạ ăn thịt Bác xay bột

Nuốt chửng hết con này đến con kia Bảy chú dê con

Khệ nệ mang thúng hàng nặng trèo Chú thợ may nhỏ

lên ba bậc thang nhưng bán được ít thó can đảm

31

Bà bán hàng hàng, vừa đi vừa lẩm bẩm rủa thầm Chú thợ may

Quát, phẩy rồi quật không thương tiếc

và mắng "Đợi đấy, tao cho chúng

Chú thợ may mày biết tay!" Lũ ruồi

Khoe khoang "Một đòn chết bảy",

Bóp nát pho mát, ném con chim lên Gã khổng lồ

trời, giả vờ bê cành cây

Gây xích mích để hai gã khổng lồ tự Hai gã khổng lồ giết nhau

Các tướng quân Xin bãi chức về nhà Nhà vua

Lệnh đi giết hai gã khổng lồ, hứa gả Nhà vua Chú thợ may con gái và chia nửa giang sơn

Nuối tiếc và bày mưu buộc chú thợ

may đi bắt con kì lân đang phá hoại

rừng

Yêu cầu phải bắt được con lợn rừng

32

hung dữ đang hoành hành

"Chiếc lông vàng quý hơn cả một Nhà Vua Quần thần vương quốc"

"Không những muốn có một chiếc, Con chim vàng Hoàng tử cả Nhà Vua mà muốn có cả con chim"

Hoàng tử cả, hoàng Không tin và bắn con vật hay giỡn cợt Con cáo tử hai

"Cáo thân yêu, cứ yên tâm, ta không Hoàng tử út hại mi đâu!"

"Anh sẽ không phải hối hận vì điều Hoàng tử út Con cáo đó"

"Làm như vậy anh sẽ gặp nguy hiểm

đấy"

"Tôi vốn muốn anh chịu một số khổ

sở, nhưng tôi lại rất thương anh nên

33

sẵn lòng giúp anh khi khó khăn"

"Anh làm không được bao nhiêu, để

tôi làm thay cho. Anh nằm nghỉ đi"

"Hãy bắn tôi chết, rồi chặt đầu và

chân"

"Tôi không thể để anh thế này. Tôi sẽ

giúp anh lên khỏi giếng"

"Chàng đã có những gì chàng mong

muốn, nhưng nỗi đau khổ của tôi thì

chưa kết thúc."

Mẹ kế mắng Lọ "Con ngan ngu ngốc"; "Ra ngay, con Lọ Lem phải làm lụng vất vả từ Cô bé Lọ Lem

Lem làm bếp!", "... cô công chúa đài các" sáng đến tối

"Đồ Lọ Lem"; "... nếu mày nhặt trong Mẹ kế trộn lẫn đậu hai tiếng đồng hồ mà xong thì cho Ngăn cản Lọ Lem đi dự tiệc biển và tro mày đi"

34

Chim câu giúp Lọ "... rồi tất cả chim trên trời đều sà Lọ Lem nhặt xong đám đậu lẫn Lem xuống quanh đống tro"

Lọ Lem khóc bên "Cây ơi, cây hãy rung đi; Thả xuống Chim thả xuống những thứ Lọ

cây hạt dẻ ... cho em" Lem mong muốn

Hoàng tử chỉ nhảy "Đây là vũ nữ của tôi" với mình Lọ Lem

Hoàng tử đuổi theo "Ta chỉ lấy người đó làm vợ, người Hai cô con gái dì ghẻ mừng rỡ Lọ Lem và nhận vừa đi chiếc hài này" được chiếc giày

"Cứ chặt phăng ngón cái/ một miếng Cô chị chặt ngón cái, và cô em Mẹ xúi hai con gái đi. Khi con đã là hoàng hậu thì chẳng chặt một miếng gót chân gọt chân bao giờ phải đi chân đất nữa

Chim câu hót về hai "Máu thấm trên hài, Do chân quá dài, Hoàng tử quay lại tìm cô dâu thật cô chị Chính cô dâu thật, Vẫn ở trong nhà."

Mẹ kế ngăn cản Lọ "Nó dơ bẩn lắm, không thể cho nó ra Hoàng tử khăng khăng đòi gọi Lọ

Lem thử giày mắt hoàng tử được." Lem cho kì được

35

Hoàng tử reo lên "Cô dâu thật đây Hoàng tử bế Lọ Lem lên ngựa về Lọ Lem thử giày rồi" cung

Hai cô chị đến phỉnh "Cô chị đi bên phải, cô em đi bên trái" Chim bồ câu mổ mỗi cô một mắt nịnh trong đám cưới

Chim bồ câu mổ mỗi cô một mắt "Cô chị đi bên trái, cô em đi bên phải" nữa

Chim Mụ phù thuỷ Gọi và ăn thịt

Biến thành chim Các thiếu nữ trinh tiết

Làm đông cứng Những ai lại gần lâu đài trăm bước Jorinde và Joringel

Jorinde hoá thành Joringel kinh hoàng và choáng Chim hót: "Xin chào bạn đời!" chim hoạ mi váng muốn té xỉu

Không tài nào nhúc nhích được

Joringel bị cứng đơ Chàng đứng chết lặng đi chân tay, không khóc mà cũng

không nói được tiếng nào

Jorinde bị mụ phù Mụ phù thuỷ quay người lại và đi mất Joringel được tự do thuỷ nhốt vào lồng

Joringel nằm mơ Chàng tỉnh dậy và lên đường đi tìm Vào sáng ngày thứ chín thì chàng

36

thấy bông hoa đỏ hoa Đi hết ngày này sang ngày khác tìm thấy bông hoa đỏ chói

chói, mơ thấy gặp

lại Jorinde

Mụ phù thuỷ mang Nhanh như chớp, chàng nhảy về phía Jorinde hiện nguyên hình, nàng

đi một lồng chim và ấy, chạm hoa vào lồng chim và mụ ôm hôn chàng như những ngày

tính đi ra phía cửa phù thuỷ xưa

"Con đi cho ngoan, đừng có lang Khăn đỏ nói "Con sẽ làm tất cả Mẹ dặn dò Khăn đỏ thang..."; "Con nhớ chào bà, đừng có những điều mẹ dặn" Cô bé đội mũ đỏ mắt la mày xét nhìn các xó nhà nhé!"

"Cháu đi đâu mà cứ đăm đăm thẳng Sói dụ dỗ Khăn đỏ Khăn đỏ thơ thẩn hái hoa trong tiến như đi học ấy. Ở trong rừng vui chơi trong rừng rừng và quên giờ đến nhà bà nội lắm cháu ạ!"

Chẳng nói chẳng rằng ... nuốt chửng Sói ăn thịt bà nội Bà nội bị sói ăn thịt bà cụ

37

Sói liền nhảy ra khỏi giường, nuốt Sói ăn thịt Khăn đỏ Khăn đỏ bị sói ăn thịt chửng Khăn đỏ đáng thương

Bác thợ săn cứu hai Lấy kéo rạch bụng con sói đang ngủ Cứu được hai bà cháu Khăn đỏ bà cháu

Sói tỉnh dậy, ngã khuỵu xuống lăn Khăn đỏ Nhét đá vào bụng sói ra chết

Bác thợ săn Lột da sói mang về nhà

Vua sai người làm Mƣời hai hoàng tử "... thì mười hai đứa con trai kia phải mười hai cái quan chết để cho con gái ta thừa hưởng một Hoàng hậu suốt ngày rầu rĩ tài và nói với hoàng mình gia tài và trị vì vương quốc này" hậu

Hoàng hậu dặn Nếu thấy cờ trắng thì trở về, nếu thấy

trước khi để các cờ đỏ thì hãy tiếp tục lên đường trốn Mười hai hoàng tử trốn vào rừng

hoàng tử trốn đi đi

Mười hai hoàng tử "người con gái đầu tiên chúng ta găp Mười hai anh em trốn vào rừng

tức giận thề trả thù sẽ phải đầu rơi máu chảy" sâu

38

"Mẹ đừng khóc nữa, con sẽ đi tìm các Nàng lên đường, vào tận rừng sâu Em gái an ủi mẹ anh con" tìm các anh

Tìm cho bằng được mười hai Công chúa "Sẽ đi tới cùng trời cuối đất" người anh trai

"Sẵn sàng chết để giải thoát cho mười Công chúa hai anh"

Mọi người (12 hết sức vui mừng, chạy lại ôm hôn Mười ba anh em sống với nhau vui

vẻ hoàng tử) (công chúa) thắm thiết

Hái mười hai bông huệ trắng để tặng Mười hai người anh bị biến thành Công chúa quạ các anh

Bảy năm câm lặng, không nói, Công chúa Giải thoát cho các anh trai không cười

Công chúa Không nói nhưng gật đầu

trèo lên cây, bồng cô xuống, đặt cô Nhà vua Công chúa trở thành hoàng hậu lên ngựa và đi về hoàng cung

Hoàng thái hậu dè "Nó chỉ là đứa ăn mày hạ đẳng ... Hoàng hậu (công chúa 13) bị đưa

bỉu những loại người thâm độc" lên giàn hoả thiêu

Công chúa nhẫn Bị cột chặt vào giàn hoả thiêu, lửa Mười hai con quạ bay tới, sà

39

nhịn không kêu lên cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bắt đầu xuống đất và hiện thành mười hai

lời nào liếm tới quần áo nàng chàng trai

Hoàng thái hậu thâm bị đưa ra xét xử, ném vào vạc dầu sôi Chết hiểm độc ác bơi cùng lũ rắn độc

Gia đình Hansel và miếng bánh mì ăn hàng ngày cũng Lấy gì mà nuôi những đứa con Hansel và Grethel

Gretel nghèo khó không kiếm nổi đáng thương

Người vợ nói với "... bỏ mặc chúng ở đó, còn ta cứ việc Người chồng không đồng tình chồng đi làm việc của ta"

Người vợ chanh nói sa sả, không để cho chồng yên Người chồng đành chịu, thuận

chua thân theo ý vợ

Hansel và Gretel đói chúng nghe hết đầu đuôi câu chuyện Gretel khóc sướt mướt, Hansel

quá nên không ngủ và những điều bà mẹ nói với bố nhặt sỏi trắng cho vào túi để đến

được chúng lúc cần dùng

40

Bố mẹ đánh lừa Bố mẹ bỏ về, để mặc hai đứa trẻ "Khi nào xong sẽ về đón chúng mày" Hansel và Gretel trong rừng

Hai anh em lần theo "... lũ con mất dạy, sao chúng mày Người bố mừng vui ra mặt vì vệt sỏi cuội để về không ngủ nữa ở trong rừng" không muốn bỏ con nhà, bị bà mẹ mắng

Hai anh em nằm Người chồng đành chịu, thuận nghe thấy mẹ nói "Phải tống khứ lũ trẻ con đi" theo ý vợ với bố

Hai anh em mệt tự nhiên mà đánh chén một bữa ngon Mụ phù thuỷ lừa đưa hai anh em nhoài, thấy nhà xây lành trời cho vào nhà bằng bánh mì

Mụ phù thuỷ mắng "nó phải ăn ngon cho chóng béo, khi Gretel oà khóc nức nở nhiếc Gretel nào nó thức béo, tao sẽ ăn thịt"

Gretel vừa xách nước, vừa than dù béo hay gầy thì mai tao cũng làm Mụ phù thuỷ vãn, hai hàng nước mắt chảy trên thịt đem nấu gò má

41

Mụ phù thuỷ đẩy cô "Chui vào, nhìn xem bên phải lò đã Gretel giả ngây ngô không chui bé tới trước cửa lò, đủ nóng chưa" vào lửa đã cháy bốc cả

ra phía ngoài cửa lò

đẩy mụ phù thuỷ thật mạnh làm mụ Gretel Con mụ già rú lên khủng khiếp chui tọt hẳn vào trong lò

co cẳng chạy, ba chân bốn cẳng chạy Cả nhà sống trong cảnh yên vui Hai anh em thẳng vào nhà, ôm ghì cổ bố mà hôn hạnh phúc

Mười hai bà mụ chúc đức hạnh, sắc đẹp, giàu sang phú Công chúa ngủ niệm chú chúc quý... tất cả những điều tốt đẹp có thể trong rừng mừng công chúa mơ ước được ở trần gian

"Đến năm mười lăm tuổi, công chúa

Bà mụ thứ mười ba sẽ bị mũi quay sợi đâm phải rồi lăn ra

chết!"

42

"Công chúa sẽ không chết, mà chỉ Bà mụ thứ mười hai Làm giảm nhẹ lời nguyền ngủ một giấc dài trăm năm."

Công chúa, cả lâu bụi hồng gai mọc rậm phủ kín cả đài, vua, hoàng hậu đều ngủ triền miên lâu đài và triều đình

Ông lão can ngăn, "Con muốn tới đó để gặp nàng Hồng Chàng đi tới đâu, bụi hồng gai nhưng hoàng tử Hoa xinh đẹp" khép kín lại đến đó không sợ

Hoàng tử cúi xuống hôn nàng Công chúa bừng tỉnh

Chủ nghĩ cách kết liễu đời lừa để lấy Lừa đã cạn kiệt sức Lừa trốn đi Nhạc sĩ thành bộ da Bremen Lừa rủ thêm chó săn "Cậu đi với mình, sung voà ban nhạc. Chó nhận lời, cả hai cùng đi tuổi già trốn cùng Mình chơi đàn, cậu đánh trống."

Mèo vuốt râu và nói "Bà chủ định dìm chết mình." Mèo đi cùng lừa và chó với lừa

"Tối nay là mình bị cắt tiết đây. Ờ,

Gà nói với lừa chừng nào còn gáy được thì ráng sức Gà nhập bọn, cả bốn cùng đi

43

mà gáy cho thoả chí"

"Giá như kiếm được vài cái xương Chó nghĩ bụng Cả bọn tới căn nhà của bọn cướp dính tí thịt thì cũng hay rồi"

nghe tiếng khủng khiếp, tưởng là ma giật mình bỏ chạy thục mạng về Bọn cướp hiện vào phía rừng

Tắt đèn, tìm chỗ nằm ngủ theo sở Bốn nhạc sĩ đánh chén no say thích và thói quen riêng

"Thương tôi với ... vợ tôi nhìn thấy Rapuzel Người chồng van Mụ phù thuỷ đặt lời hứa phải trao rau mơn mởn nên thèm, thèm đến nỗi nài mụ phù thuỷ cho mụ đứa con sau này có thể chết đi được"

Khi người vợ sinh con, mụ phù Người chồng Hoảng sợ, đồng ý tất cả thuỷ tới đòi đứa bé

vui vẻ nhã nhặn, dùng lời lẽ nhẽ

Hoàng tử nhàng kể cho Rapuzel về khát khao Rapuzel dần dần tĩnh tâm lại

được gặp nàng

44

Mụ phù thuỷ mắng "Ái chà, mày là quân vô đạo..." Rapuzel

Túm tóc Rapuzel, lôi giật và tay trái Những bím tóc óng mượt rơi

ghì Rapuzel, tay phải cầm kéo cắt tóc xuống đất

Rapuzel bị đưa tới thường xuyên bị đói khát dằn vặt miền hoang vu

Mụ phù thuỷ nguyền "Mắt sẽ bị gai đâm mù" rủa hoàng tử

Hoàng tử choáng

váng nhảy từ trên bị gai đâm mù cả hai mắt

tháp xuống bụi gai

Hoàng tử vừa đi vừa than khóc nhớ người yêu chàng đi mấy năm trời

Nghe tiếng Rapuzel Hoàng tử theo hướng tiếng người nói

gọi con đi tới

Rapuzel ôm hoàng Mắt hoàng tử sáng ra, và nhìn Hai giọt lệ nhỏ xuống mắt chàng tử mà khóc được như xưa

Khi đứa con thứ không biết xoay xở thế nào nữa trong Chạy ra đường cái, nhờ người đầu Thần chết đỡ đầu

45

mười ba ra đời, cảnh bần hàn tiên mà bác gặp làm cha đỡ đầu

người cha cho đứa trẻ

Chúa trời động lòng

thương, muốn làm chăm sóc nó, để nó được sung sướng

cha đỡ đầu

Người cha từ chối "Ông chỉ phò người giàu sang, bỏ Bác đi tìm người khác Chúa trời mặc kẻ nghèo đói khó rét"

Người cha từ chối "Ông chuyên môn lừa dối và quyến rũ Bác đi tìm người khác Quỷ mọi người"

Thần Chết "Ta coi ai cũng như ai" Người cha đồng ý

Chẳng bao lâu đã lừng danh bốn Trở nên giàu có, được mời tới xem Chàng thanh niên phương trời bệnh tình của nhà vua

Thần Chết hầm hầm

Chàng thanh niên được tha một lần đến chỉa ngón tay "Mày đã lừa ta." vì là con đỡ đầu trỏ vào mặt thầy

46

lang

Thần Chết rảo bước "Thế là mày hết đời! Giờ thì tới lượt Thầy lang bị đưa xuống âm phủ về phía thầy lang mày chết!

Thầy lang xin thần "Trời ơi, cha kính yêu, cha hãy Thần Chết làm ra bộ chiều ý con Chết thắp cho ngọn thương con ..." đỡ đầu đèn mới khác

cố tình đánh rơi chiếc đèn nhỏ xuống Thầy lang lăn ra đất và bị thần Thần Chết đất Chết bắt đi

lấy một quả cầu vàng tung lên để bắt Vua ếch Công chúa thường Đó là đồ chơi mà nàng quý nhất chơi

Công chúa nhìn theo nhưng quả cầu đã biến mất

Nàng (công chúa) khóc mỗi lúc một to

Một con ếch nhô chiếc đầu to tướng và xấu xí lên khỏi mặt nước

Tôi (công chúa) khóc nhớ quả cầu vàng

Tôi (ếch) chắc chắn sẽ có cách giúp công chúa

Tôi (ếch) cũng chẳng thích quần áo, châu báu, mũ miện vàng

47

Ta (công chúa) sẽ làm tất cả những điều ếch muốn

Công chúa thấy lại đồ chơi đẹp đẽ của mình rất mừng

Ếch mở cửa cho tôi vào Công chúa

Con cưng của ta, có điều gì làm con Vua Công chúa sợ hãi thế?

Công chúa Đành phải làm theo Vua cha

Công chúa Sợ con ếch da lạnh nhớp nháp Oà lên khóc

Tôi (ếch) Mỏi mệt Muốn được ngủ trên giường

Đã đánh ba vòng đai sắt quanh tim Bác Hai-rích Buồn để tim khỏi bị đau buồn mà vỡ ra

48

Bảng 1.2. Thống kê các hành động bạo lực trong truyện cổ Grim

Qua quá trình thực hiện hành vi của các nhân vật được thống kê ở trên, chúng tôi

nhận thấy các nhân vật hầu hết đều xét được trong hai trạng thái chủ động hoặc bị

động. Vị trí của tác nhân và đối tượng bị ảnh hưởng đã bị thay đổi do sự biến đổi

của người bị ảnh hưởng tới chủ thể và tác nhân trong mục đích trực tiếp. Trong

bảng dưới đây, chúng tôi sẽ cung cấp một vài trường hợp tiêu biểu cho việc các

quá trình tác động bị động có thể quan sát thấy trong 19 truyện:

Đối tƣợng bị Quá trình bị động Tác nhân (cũ) Truyện

ảnh hƣởng

Ba chiếc lá rắn Tôi Phải được chôn

Ba chiếc lá rắn Cái xác chết Được chôn

Mười hai anh em Nàng Phải bị thiêu

Mụ phù thủy Bị thiêu cháy đến (bởi Grethel) Hansel và Grethel

chết

Mụ phù thủy Bị quăng vào lửa (bởi vua) Anh trai và em gái

và thiêu chết

Mái tóc Bị cắt Rapunzel

Hoàng hậu phù Đưa vào đôi giày Nàng Bạch Tuyết

thủy đỏ nung nóng

Bảng 1.3. Quá trình tác động bị động có thể quan sát thấy trong 19 truyện

1.1.1. Những đối tượng chủ động tham gia thực hiện hành động bạo lực

1.1.1.1. Sự tham gia chủ động của con người

Vua và hoàng hậu

Một trong những ví dụ về hành vi bạo lực có sự tham gia tích cực của yếu tố con

người là trong truyện Mười hai anh em. Nhà vua sử dụng địa vị xã hội của mình, ra

lệnh 12 người con trai sẽ bị giết nếu đứa trẻ thứ mười ba sắp sửa được sinh ra là

49

một nàng công chúa. Bởi vì Vua không muốn toàn bộ vương quốc của mình bị chia

thành mười ba phần. Cũng trong chính câu chuyện này, vị vua thứ hai đã bị hoàng

thái hậu thuyết phục sử dụng quyền lực để kết án giết chết người vợ của mình.

Trong Ba chiếc lá rắn, nàng công chúa đã hạn chế sự lên ngôi phò mã của nhiều

người bởi tư tưởng chồng phải được chôn sống cùng với mình ngay khi chết. Sau

đó, khi được phò mã cứu để quay trở lại cuộc sống thì người phụ nữ ấy đã thay

lòng đổi dạ, cố gắng giết chồng bằng cách ném anh ta xuống biển.

Trong một trường hợp khác, Chú thợ may nhỏ can đảm, sau khi phát hiện ra thân

thế thật của chồng mình, công chúa không chấp nhận sự thật ấy. Nàng đã thỉnh cầu

với vua cha về điều trăn trở của mình. Với quyền lực và thân phận của mình, nhà

vua và công chúa quyết định khiêng chú thợ may xuống tàu và đẩy ra đảo xa. Hành

động tuy không thành do có một nhân vật hầu cận tiết lộ kế hoạch nhưng cũng hé

mở việc hành động dựa trên thân phận, địa vị xã hội cao hơn của những vị vua,

hoàng hậu trong truyện cổ Grimm.

Cha mẹ, anh chị em ruột, mẹ kế và con riêng của mẹ kế

Bà mẹ kế và các con riêng của mẹ kế trong Cô bé Lọ Lem (Cinderella) đã tự gây

nên những chấn thương ngoài sức tưởng tượng cho bản thân. Thêm vào đó, người

mẹ chính là tác nhân ép con mình cắt chân cho phù hợp với chiếc giày của hoàng

tử để có thể bước tới địa vị xã hội cao hơn trong hoàng cung. Sức mạnh của người

mẹ có được trong trường hợp này là do xây dựng dựa trên một vị trí ưu thế hơn

50

trong gia đình.

Cùng một lí do, bà mẹ trong Hansel và Grethel (Hansel and Grethel) ép người

chồng đưa hai đứa con đẻ của mình vào rừng để thú dữ ăn thịt, từ bỏ trách nhiệm

nuôi con.

Trong Ba sợi tóc vàng của quỷ, khi đứa trẻ sinh ra chưa có sự quyết định, cha và

mẹ ruột của đứa trẻ lại trao đứa con của mình cho người lạ mặt để nhận lại rất

nhiều vàng.

Những nhân vật sống lẩn trốn ngoài vòng pháp luật

Những nhân vật sống lẩn trốn ngoài vòng pháp luật đó là những tên cướp, những

kẻ trộm. Đó là những tên trộm trong Những nhạc sĩ thành Bremen xuất hiện thoáng

qua trong ngôi nhà đầy thức ăn nhưng chưa thực hiện hành vi tội ác nào khác.

Những nhân vật này trong các câu chuyện chúng tôi khảo sát thường sử dụng sức

mạnh của mình để thực hiện những hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cũng có trường

hợp ngoại lệ như những tên cướp trong Ba sợi tóc vàng của quỷ đã đánh tráo lá thư

của vua gửi cho hoàng hậu, nhờ vậy mà chàng trai mới được sống.

Chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các hành vi bạo lực của con người trong truyện

cổ Girmm đều được thực hiện dựa trên sức mạnh có được từ địa vị xã hội của họ

(đó là các vị vua, hoàng hậu, mẹ hoặc anh em).

Sự tham gia chủ động của những sinh vật ma thuật

Hầu hết các phép thuật hoặc những sinh vật có phép mê hoặc đều dẫn tới hành

động bạo lực trong truyện cổ Grimm. Quyền lực của những sinh vật này có được

chủ yếu dựa vào sức mạnh kì diệu to lớn được cung cấp. Trong Anh trai và em gái,

51

bà mẹ kế độc ác đi theo bước chân của hai đứa trẻ mỗi ngày và làm phép để chúng

không thể uống nước. Khi người em gái trở thành một nữ hoàng, bà mẹ kế độc ác

cùng đứa con gái của mình đã thực hiện một việc làm tàn ác “đưa hoàng hậu trẻ

đẹp vào bồn tắm để ngạt thở tới chết” rồi thay thế vị trí của nàng.

Trong Rapunzel, mụ phù thủy độc ác đã nhốt Rapunzel trong một ngôi tháp qua

nhiều năm, rồi khiến hoàng tử bị gai đâm vào mắt, cắt mái tóc của Rapunzel và đẩy

nàng đến một nơi xa xôi. Mụ phù thủy độc ác trong Hansel và Grethel chuyên đi

ăn thịt trẻ con cố gắng tìm cách để ngược đãi sau đó giết chúng ăn thịt. Một mụ

phù thủy khác như trong Jorinde và Joringel lại luôn tìm cách khiến tất cả các cô

gái hóa thành chim và nhốt lại trong lâu đài của mụ. Trong Bảy con quạ, chỉ một

câu nói mà người cha đã khiến bảy người con trai trở thành quạ và chúng bị đi đến

một nơi ở khác trong trạng thái đau đớn. Mười hai người anh trai ngay lập tức hóa

thành mười hai con quạ sau khi cô em gái trong Mười hai hoàng tử hái mười hai

bông hoa trước nhà. Bà mụ thứ mười ba trong Công chúa ngủ trong rừng cầu cho

công chúa sẽ chết năm mười lăm tuổi bởi mũi quay sợi đâm vào tay vì quá tức giận

khi không được mời tới bữa tiệc. Vì lời nguyền mà hoàng tử trong Vua Ếch bị biến

thành ếch, hay thành cáo như trong Con chim vàng.

1.1.1.2. Động vật

Trong số các câu chuyện thuộc phạm vi chúng tôi khảo sát, có những câu chuyện

có sự tham gia tích cực của các loài động vật như: bốn con vật trong Những nhạc sĩ

thành Bremen tấn công bọn cướp hay đôi chim bồ câu chọc mù cả hai mắt của hai

chị em con mẹ kế trong Cô bé Lọ Lem. Hầu hết các loài động vật này đều biết nói –

và đặc biệt bạo lực. Quyền lực của chúng được xây dựng dựa trên sức mạnh ma

52

thuật được cung cấp và trở thành khả năng tự vệ của chúng.

1.1.2. Những đối tượng bị động tham gia thực hiện hành vi bạo lực

Nhân vật người vợ hoặc người chồng trong bộ truyện cổ Grimm có thể được coi là

nhân vật có sức chống cự yếu và thụ động trong các hành vi bạo lực. Đó là những

nhân vật không thực hiện hành vi bạo lực nhưng cư xử như một kẻ đồng lõa của

những hành vi ấy thông qua việc cho phép người thân thực hiện hành vi. Một ví dụ

là nhân vật nữ hoàng trong Mười hai anh em, bà ngồi than thở cả ngày trong khi

người chồng – đức vua tìm đủ cách để giết những chàng hoàng tử mà không làm

bất cứ điều gì để ngăn cản hành động. Trong Hansel và Grethel, nhân vật người

cha chấp nhận việc bỏ rơi hai đứa con đẻ của mình khi người vợ thuyết phục. Hay

trong Cô bé Lọ Lem, người cha cũng để mẹ kế và hai người con riêng ra lệnh cho

con gái ruột của mình mà không có sự phản đối. Đối với các trường hợp này,

quyền lực của nhân vật trong truyện cổ Grimm có thể coi được xây dựng dựa trên

cơ sở thế mạnh và điểm yếu. Đây là những người thực hiện hành vi một cách thụ

động thông qua việc chấp nhận các hành vi bạo lực với người thân của mình, tức là

đồng lõa với hành vi bạo lực.

Xem xét các câu chuyện trong đối tượng khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng các

câu chuyện thể hiện một mối quan hệ rõ ràng giữa quyền lực và địa vị xã hội. Các

trường hợp thường là hành vi bạo lực được thực hiện bởi những người từng là nạn

nhân và được đưa lên vị trí cao hơn. Việc phân tích các câu chuyện đã minh chứng

cụ thể về mối quan hệ rõ ràng giữa quyền lực và địa vị xã hội. Như thường thấy,

các hành vi bạo lực thường được thể hiện bởi những người đã từng là nạn nhân của

sự bạo hành, nhưng sau đó có được một địa vị xã hội cao hơn. Sự liên hệ đó, chính

là sức mạnh mà kẻ tàn ác sử dụng để giáng hành vi bạo lực nên nạn nhân của họ;

những hành vi bạo lực có cùng cơ chế, tương tự như các hành vi có chủ đích đã

53

làm hại đến họ khi còn là nạn nhân, hoặc bị lạm dụng bởi một kẻ bạo tàn khác.

Trong địa vị xã hội mới, chính những nạn nhân lại trở thành kẻ tàn độc, hoặc đồng

thuận cho người vợ hoặc chồng hoặc người thân thiết của mình có những hành vi

tàn độc. Đối với những tình huống như vậy, cơ chế báo thù thậm chí còn tàn ác

hơn so với những đau thương đã xảy ra trong quá khứ. Ví như trong Mười hai

hoàng tử, hoàng thái hậu trước đó đã thêm thắt những câu chuyện tội lỗi khiến vua

nản lòng, chiều theo ý mẹ để hành hình hoàng hậu-vợ mình sau cùng bị đưa ra xét

xử một cách bạo tàn: ném vào vạc dầu sôi bơi cùng lũ rắn độc và chết. Hay trong

Anh trai và Em gái, người con gái của mẹ kế được thay thế nữ hoàng bằng một sức

mạnh siêu nhiên của mình, sau cùng bị đưa vào rừng bị thú hoang xé xác thành

từng mảnh. Mẹ của cô, mụ phù thủy bị đem thiêu cháy. Mụ phù thủy độc ác trong

Hansel và Grethel, một kẻ ăn thịt người sau cùng bị Grethel đẩy vào lò nướng, hú

lên một tiếng khủng khiếp và chết. Cô công chúa trong Ba chiếc lá rắn bị chính

cha ruột của mình trừng phạt bằng cách ném xuống một con tàu đục nhiều lỗ và

đẩy ra biển cho chết chìm cùng kẻ đồng lõa bởi đã cố gắng tìm cách giết chồng.

Mẹ kế trong Nàng Bạch Tuyết cố gắng ba lần giết cô nhưng không thành, sau cùng

phải đi đôi giày nung đỏ và nhảy múa cho tới chết.

Quyền lực có thể đo được bằng nhiều cách thức khác nhau, tùy thuộc vào uy tín xã

hội, danh tiếng để kiểm soát các vấn đề liên quan đến tâm lí. Trong bộ truyện cổ

Grimm, chúng tôi nhận thấy quyền lực được đo trong điều kiện địa vị xã hội, hoặc

trong sự quen thuộc, sức mạnh có được nhờ vào ma thuật hoặc quyền lực tự nhiên.

Hầu hết, nạn nhân là phụ nữ hoặc trẻ em, và những người thực hiện hành vi bạo

lực, thường là một người đàn ông có địa vị xã hội cao, nếu là một phụ nữ thường

54

xuất phát từ lòng tham lam, ghen tị hoặc từ vai trò là một bà mẹ kế.

1.2 Căn tính bạo lực qua các lớp truyện kể

Truyện cổ Grimm là “bộ sưu tập” trong một bối cảnh lịch sử xã hội làm sáng rõ

các thành tựu đáng chú ý của cả một thời kì lịch sử của dân tộc Đức. Ở đây, chúng

ta cần nhớ rằng việc thu thập các câu chuyện cổ chỉ là một phần nhỏ trong công

trình nghiên cứu học thuật của anh em nhà Grimm. Khi Jacob và Wilhelm bắt đầu

thu thập tất cả các câu chuyện dân gian và các bài hát ở đầu thế kỉ 19, họ đều là

những sinh viên rất trẻ ở Đại học Marburg.

Họ tin tưởng rằng, văn học hiện đại dù giàu có đáng kể nhưng cũng không thể diễn

tả được bản chất đích thực từ những kinh nghiệm của người dân và những gì ràng

buộc họ lại với nhau. Cả Jacob và Wilhelm hoàn toàn không chính thức hóa khái

niệm của họ về văn học dân gian khi họ thực hiện các ấn phẩm đầu tiên. Mục đích

thu thập, và bảo quản tất cả các thể loại được coi là di tích cổ xưa bao gồm những

câu chuyện, huyền thoại, bài hát, truyện ngụ ngôn, truyền thuyết, sử thi, tài liệu và

các hiện vật khác – không chỉ là những câu chuyện cổ tích. Dự định của họ là để

theo dõi và nắm bắt được bản chất của quá trình tiến hóa văn hóa và ngôn ngữ như

thế nào để chứng minh tính tự nhiên, xuất phát từ nhu cầu, phong tục và nghi lễ

của những người dân thường. Đây là một trong những lí do khiến Jacob và

Wilhelm gọi bộ sưu tập của mình là một cẩm nang giáo dục (Erziehungsbuch), để

kể lại cho những người Đức cũng như các nhóm khác ở Châu Âu giúp họ trải

nghiệm những giá trị của mình thông qua cách kể chuyện. Và thế là, hai anh em

nhà Grimm đã kiến thiết nên một kho tàng vừa đồng nhất, lại vừa giàu cấu trúc.

Kho tàng truyện cổ Grimm giống như những bức tranh kỷ hà mô tả sự bao la của

vụ trụ, sự thần thánh của Thượng đế. Từ xa, ta nhìn thấy một sự tổng thể, thống

nhất và tái lặp về màu sắc; nhưng lại gần, ta mới nhìn thấy các nhóm nhân vật, đặc

55

biệt là căn tính từng nhân vật tạo ra những sự khác biệt riêng.

Với các ấn bản đầu tiên của truyện cổ Grimm, Jacob và Wilhelm không trau dồi

những câu chuyện theo cách mà họ đã mài dũa và tinh chỉnh như các câu chuyện

về sau. Trong bản đầu tiên, ta có thể thấy cả giọng kể đặc biệt của những người kể

cho anh em nhà Grimm câu chuyện, và với chính mức độ này, một số phương ngữ

tiếng Đức cũng xuất hiện khiến cho các câu chuyện dân gian trở nên chân thực

hơn, có tính toàn vẹn hơn. Nói cách khác đi, Jacob và Wilhelm để cho các câu

chuyện của mình vụng về như vậy.

Trở lại với các ấn bản đầu tiên, có nhiều câu chuyện trong danh mục các chuyện

Jacob và Wilhelm sưu tầm bị chính họ loại bỏ, ví dụ như: "The Hand with Knife"

("Die tay mit dem Messer"), "Herr Fix-It-Up" (" Herr Fix und Fertig "), “Puss in

Boots "(" Der gestiefelte Kater ")," Bluebeard "(" Blaubart "), và" Simple Hans "("

Hans Dumm ") [42] vì những lý do khác nhau. Không phải vì những người kể các

câu chuyện này kém mà vì họ không đáp ứng được một số yêu cầu của anh em nhà

Grimm – mục đích tìm kiếm để xuất bản những câu chuyện có nguồn gốc từ Đức.

"Puss in Boots", ("Prinzessin Mäusehaut"), và "Okerlo" ("Der Okkerlo") được

đánh giá là quá mang nhiều chất Pháp để có thể đưa vào bộ suu tập. Sau đó, Jacob

và Wilhelm đều nhận ra đây là quan niệm sai lầm vì không thể biết được đầy đủ

nguồn gốc chính xác của câu chuyện dân gian. Một số câu chuyện khác như "Der

Tod und der Gänshirt" bị bỏ qua bởi thiếu tính văn chương, "Die Stiefmutter" bị bỏ

qua vì sự rời rạc… Khi tiếp tục thu thập các biến thể của các câu chuyện và gửi

đền bạn bè từ truyền miệng và cả những cuốn sách, Jacob và Wilhelm cải thiện các

câu chuyện kết hợp với phiên bản đầu tiên.

Điều khác biệt thứ hai mà người đọc có thể nhận thấy về những câu chuyện trong

56

bản đầu tiên là hầu hết chúng đều ngắn hơn và có điểm nhấn khác với những câu

chuyện tương tự được chỉnh sửa trong các bản sau này. Jacob và Wilhelm chép

những câu chuyện truyền miệng và nội dung thô, sau đó mới chỉnh sửa.

Điều thứ ba, người đọc sẽ nhận ra rằng tất cả các câu chuyện đều theo mạch thẳng,

và có ít hoặc không có mô tả, nhấn mạnh vào hành động và hướng đến giải quyết

các xung đột. Những người kể chuyện dễ bị hướng đến những chân lí mà họ biết,

mặc dù có sức mạnh của ma thuật, có những chuyển đổi kì diệu và sự bạo tàn,

những người kể chuyện vẫn tin vào câu chuyện của họ.

Điểm cuối cùng cũng là điểm quan trọng nhất trong những câu chuyện là ở những

người cung cấp nội dung cho anh em nhà Grimm. Đó chủ yếu là những người có

học thức mà Jacob, Wilhelm quen biết khá tốt. Ví dụ họ làm quen các thành viên

của gia đình Wild và Hassenpflug tại Kassel, gia đình von Haxthausen trong

Münster; Wilhelm biết con gái của tướng Friederike Mannel trong một thị trấn gần

đó. Dorothea Viehmann, vợ của một thợ may, cung cấp nhiều câu chuyện, và trong

một số trường hợp, Grimm mất các câu chuyện trong sách nhưng nhận lại được

chúng từ trong các bức thư. Thông qua chữ viết, các câu chuyện cũng không bị

giảm mất chất dân gian. Họ gửi các câu chuyện của mình cho những người khác,

hoặc họ đọc những câu chuyện ấy, hiểu chúng và biến thành của mình.

Chính việc thu thập và chỉnh sửa này dẫn chúng ta đến hai vấn đề đáng lưu ý. Thứ

nhất, cần nhận định rằng căn tính luôn tồn tại dưới dạng số nhiều và tầm quan

trọng của căn tính này không nhất thiết xóa sạch tầm quan trọng của căn tính khác.

Thứ hai, mỗi con người trong xã hội, thực ra đều thuộc về nhiều nhóm khác nhau.

Mỗi căn tính theo nhóm như vậy, đều có thể, đôi khi là chắc chắn đem lại cho cá

57

thể ý thức về sự hòa hợp của nhóm và sự trung thành của nhóm. Việc anh em nhà

Grimm thu thập các câu chuyện bằng cách thức như vậy, đã thu thập các nhóm căn

tính trong bộ truyện cổ Grimm từ những tầng lớp trí thức trong xã hội lúc bấy giờ.

Nếu ý thức của các nhóm căn tính dẫn đến sự thành công của nhóm và thông qua

đó có thể mang lại những điều tốt đẹp hơn cho cá nhân, thì những hình mẫu hành

vi mang căn tính đó có thể đi đến chỗ được nhân lên và thúc đẩy.

Thật vậy, cả trong sự lựa chọn có ý thức (liên quan đến cách thức anh em nhà

Grimm sưu tầm) và chọn lọc theo tiến hóa (dựa trên điều kiện lúc bấy giờ của

chính xã hội Đức), những ý tưởng về căn tính có thể là quan trọng, và là hỗn hợp

kết hợp giữa ý thức và tiến hóa có chọn lọc cũng có thể dẫn đến sự phổ biến của

hành vi chịu ảnh hưởng từ căn tính. Qua nhiều thế kỉ, văn học dân gian và các câu

chuyện cổ tích đã giữ lại những đoạn quan trọng trong cốt truyện ban đầu và phát

triển các chi tiết cụ thể liên quan đến văn hóa. Bruno Bettelheim [27] cho rằng ý

nghĩa và vai trò của truyện cổ tích trong xã hội là mang đến một thông điệp quan

trọng, có ý thức và trong tâm thức về từng cấp độ hành động ở thời điểm đó cũng

như truyền đạt những vấn đề phổ quát của con người.

Sự sợ hãi và bạo lực vì thế đã tràn ngập trong xã hội theo thời gian, dưới nhiều

hình thức, do đó, không có gì ngạc nhiên khi hai yếu tố này hiện hữu trong hầu hết

trong truyện cổ tích của anh em nhà Grimm làm nên căn tính bạo lực. Quái vật ăn

thịt trẻ em, cha mẹ đánh đập những đứa trẻ, phù thủy sử dụng phép thuật và đặt lời

nguyền lên những cô gái xinh đẹp chỉ là một vài trong số những ví dụ về hành

động bạo lực, tàn ác và nỗi sợ hiện hữu rõ trong các truyện cổ tích. Trong một số

truyện cổ tích, với mục đích dẫn dắt một cách thận trọng để phát triển các hình

thức kỉ luật dùng cho trẻ em trong quá khứ: “Trong nhóm các câu chuyện này, trẻ

58

sẽ gặp những thử thách hiện hữu mà chúng ta phải chiến đấu khi sống cuộc sống

của người trưởng thành: phản bội, mưu mô, khắc phục sự sợ hãi, thù hận, cãi vã và

ghen tuông. Trẻ không phải chỉ đối diện với các mặt xấu xí của nhân loại mà còn

phải sử dụng tất cả khả năng để đối phó với các thế lực đen tối” (Guggenbuhl)

[28].

Jacob và Wilhelm thường bị chỉ trích nhiều, đặc biệt bởi các nhà phê bình trong 50

năm qua vì đã thay đổi và chỉnh sửa các câu chuyện từ phiên bản đầu tiên đến

phiên bản thứ bảy. Nói cách khác đi, các nhà phê bình cho rằng các câu chuyện của

anh em nhà Grimm là những câu chuyện giả dối. Nhưng đây thực sự là một điều

vô lí bởi không ai có thể ghi lại và duy trì chính xác tính xác thực của một câu

chuyện. Chưa kể đến yếu tố anh em nhà Grimm thu gom, biên tập, biên dịch và

đóng vai trò trung gian, nỗ lực để làm chung với nhiều người và các nguồn tài liệu

khác nhau để giữ những câu chuyện và cách kể chuyện truyền thống. Bởi tất cả

những lí do như vậy, những ấn bản được biết đến đầu tiên của truyện cổ Grimm

nên được biết đến bởi đó là một minh chứng cho những tiếng nói sâu bên trong

chúng ta. Những câu chuyện trong Grimm không phải là câu chuyện của họ, mà là

câu chuyện của chính chúng ta. Giống như một quả bóng ném lên không trung nhất

định phải bay lên hay rơi xuống, truyện cổ Grimm vẫn sẽ được lưu truyền, cho dù

nguyên dạng hay tiếp tục được cải biên, bởi lực hấp dẫn là căn tính khác biệt của

chính mỗi người.

Tiểu kết

Bằng cách nghiên cứu các quá trình cấu trúc trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi

đã tìm ra những nội dung bạo lực cao hiện hữu trong bộ truyện cổ Grimm. Dựa vào

mức độ tham gia, chúng tôi nhận thấy những thành phần tham gia hành vi bạo lực

59

một cách chủ động thường được xác định là con người, động vật và các sinh vật

ma thuật, hoặc thụ động (nạn nhân hay kẻ đồng lõa) thường được xác định thuộc

nhóm vợ chồng. Từ đó, kết luận rằng những người đang nắm giữ quyền lực là một

trong những đối tượng gây nên hành vi bạo lực, bất kể điều kiện. Tất cả các hành

vi bạo lực của con người đều được thực hiện bởi những người nắm giữ một địa vị

xã hội cao hơn về mặt cấu trúc chính trị (vua và hoàng hậu) hoặc cấu trúc gia đình

(cha, mẹ, anh chị em đối với con ruột yếu thế hơn). Điều này chỉ ra rằng mối quan

hệ giữa bạo lực và quyền lực là phổ biến trong bộ truyện cổ, cho phép những người

có vị trí xã hội cao hơn gây những hành vi bạo lực với những người kém may mắn

hơn. Điều này đã được chứng minh bởi thực tế, những nhân vật trước đó là nạn

nhân, sau khi bước lên một địa vị xã hội cao hơn đã trở thành thủ phạm gây bạo

lực lên những người khác như một sự trả thù những gì đã xảy ra với họ. Nói cách

khác, mối quan hệ giữa thủ phạm và nạn nhân trong bộ truyện cổ Grimm được xây

dựng dựa trên sự xuất hiện hoặc sự thiếu hụt/yếu về quyền lực xã hội, và cách thức

sử dụng quyền lực ấy đối với các nạn nhân. Mô hình hành vi như vậy có thể dễ

dàng nhìn thấy trong những câu chuyện như Nàng Bạch Tuyết, Rapunzel, Ba chiếc

lá rắn, Mười hai hoàng tử, và nhiều câu chuyện khác.

Tiếp nối quá trình nghiên cứu các hành vi bạo lực – căn tính nổi bật trong truyện

cổ Grimm, ở chương sau, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ các biểu tượng trong truyện

60

cổ Grimm, từ đó đi đến giải thích những quy tắc luân lí qua các lớp truyện kể.

CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY TẮC LUÂN LÍ THÔNG QUA CÁC

BIỂU TƢỢNG

Việc sử dụng sự sợ hãi và yếu tố bạo lực trong văn học dân gian nói chung và

truyện cổ tích nói riêng là một vấn đề gây tranh cãi giữa những người tin tưởng vào

sự công bằng và những người cho rằng điều đó có thể khiến trẻ sợ văn hóa dân

gian. Hai luồng quan điểm đưa ra hai hệ thống niềm tin khác nhau. Với quan niệm

cho rằng trẻ em cần được bảo vệ từ tất cả các hình ảnh bạo lực, đặc biệt là những

bạo lực được tìm thấy trong các câu chuyện dân gian, quan điểm phản bạo lực cố

gắng chứng minh rằng hình ảnh đó mang lại tác hại cho bản thân đứa trẻ và những

người khác. Ngược lại, quan niệm ủng hộ các yếu tố bạo lực cho rằng sự sợ hãi và

bạo lực trong truyện cổ tích góp một phần không nhỏ đóng góp để xây dựng một

xã hội an toàn hơn, có học thức hơn.

Bắt nguồn từ đặc điểm truyền miệng, văn học dân gian và các câu chuyện cổ tích

đã thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bắt chước các yếu tố xã hội, các câu

chuyện dân gian cung cấp một phương tiện để chia sẻ sự thận trọng, nỗi sợ hãi, và

các giá trị trong trí tưởng tượng của người lớn và trẻ em. Jack Zipes [36]cho rằng,

ban đầu, các câu chuyện cổ tích được viết dành cho người lớn, và mặc dù được dự

định để củng cố các tập tục và giá trị của công dân để giúp họ hiểu với nhiều mức

độ khác nhau, nhưng họ cũng nhận thấy đặc điểm có thể coi là nguy hiểm: các

hành vi xã hội có thể không hoàn toàn được quy định và kiểm soát thông qua các

câu chuyện cổ tích. Đây là một trong những lí do khiến truyện cổ tích không được

dành cho trẻ em.

Với quan điểm của Jung cho rằng các cổ mẫu là công cụ của sự di truyền văn hóa,

61

của tâm thức dân tộc, chúng tôi tin rằng truyện cổ tích, dưới góc nhìn phân tâm về

các biểu tượng, có thể là một trong những con đường truyền thụ giá trị văn hóa dân

tộc, mở rộng ra là của cả nhân loại. Các cổ mẫu này tạo nên một "phòng chứa" các

giá trị đạo đức, văn hóa, giáo dục mà con người "sinh ra đã có sẵn", tức là các cổ

mẫu này nằm trong "vô thức tập thể" của mỗi tộc người, của mỗi dân tộc hay cũng

có thể nói là của cả loài người. Một khi xác định được là có sự tiếp nối giữa đứa trẻ

và người lớn, “người nguyên thủy” và “người văn minh”, cái khác thường và cái

thông thường, cái bệnh lý và cái bình thường, thì ngay lập tức, người ta sẽ thấy

chiếc hố sâu được lấp đầy; chiếc hố ngăn cách các sản phẩm như dấu hiệu tiền

triệu, những chuyện kể huyễn tưởng. Và lưu ý quan trọng nhất là cái vô thức tập

thể nằm ở tầng sâu nhất (của cá nhân) và rộng nhất (của tập thể) mà bản thân cá

nhân hay tập thể đó thừa nhận, tuân theo, tôn vinh nhưng có khi không thể lý giải

được, không thể nhận thức rõ ràng được, nguồn gốc nó từ đâu tới, cơ chế nó vận

hành trong đời sống như thế nào. Làm sao mà con người từ thời cổ đại, khi chưa có

ngôn ngữ, chưa có chữ viết lại có thể trao truyền, lưu giữ văn hóa cho tới tận ngày

hôm nay. Đó chính nhờ con đường "di truyền văn hóa" qua các biểu tượng mà

truyện cổ tích là một trong những con đường như vậy.

2.1. Thế giới biểu tượng trong truyện cổ Grimm

Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1998), biểu tượng có hai nghĩa, nghĩa thứ

nhất là: “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là: “hình thức của nhận thức, cao

hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của

sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”; còn “biểu tượng” trong tiếng Anh (symbol)

là một từ bắt nguồn từ những ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã

và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Theo Từ điển Biểu tượng thì “những gì được gọi

là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý

62

nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó”. Quan niệm quen thuộc nhất về khái niệm

“biểu tượng” là nó gắn liền với một nội dung, một tư tưởng nào đó. Biểu tượng có

cái biểu hiện bên ngoài của nội dung, đồng thời cũng có một ý nghĩa thống nhất

đóng kín bên trong nó. Trong biểu tượng, bao giờ cũng có “mẫu gốc”. Và bởi lẽ

đó, để tiếp cận biểu tượng, chúng ta cần hiểu cái bản chất của “mẫu gốc”, ngược

lên từ thời đại chưa có chữ viết, các chuyện kể được gìn giữ bằng truyền miệng,

trong kí ức “vô thức tập thể”.

Nghiên cứu các biểu tượng là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp, nó đòi

hỏi người nghiên cứu phải có cách tiếp cận vừa cụ thể lại vừa bao quát theo cả hai

chiều đồng đại và lịch đại. Nghiên cứu các biểu tượng có thể được coi là một trong

những cách tiếp cận cụ thể nhất đối với văn hóa vì biểu tượng chính là sự kết tinh

các giá trị văn hóa được con người tạo nên. Ở một phương diện khác, văn hoá lại

chính là tập hợp của một hệ thống các biểu tượng do con người tạo ra. Và như vậy,

biểu tượng chính là đối tượng để con người thể hiện bản sắc văn hoá thông qua

nhân sinh quan và thế giới quan của họ. Biểu tượng là một sản phẩm văn hóa được

hình thành một cách tự nhiên trong “hành trình văn hóa” của loài người. Tuy

nhiên, khi nền văn minh của nhân loại càng phát triển thì những thành tố văn hóa

đó càng trở nên phức tạp. Vì vậy, khoa học hiện đại đã phân chia các cách tiếp cận

đối với biểu tượng thành những ngành hoặc nhóm ngành nghiên cứu khác nhau.

Với tốc độ phát triển của khoa học hiện nay thì sẽ ngày càng có thêm nhiều ngành

khoa học mới ra đời để đáp ứng và thích nghi với nhu cầu ngày càng cao của con

người. Việc nghiên cứu các biểu tượng rất cần một cái nhìn tổng thể không chỉ với

các đối tượng nghiên cứu mà còn phải bao quát tới các ngành khoa học liên quan.

Theo TS Đinh Hồng Hải, với câu hỏi “Chúng ta nghiên cứu biểu tượng nhằm mục

đích gì?” - câu trả lời đơn giản là để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa của

63

nó như thế nào, được sử dụng ra sao, lại là những vấn đề không hề đơn giản vì mỗi

biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào thời gian và không gian của nó. Nói

cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hoá sản sinh ra nó,

phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, và tất nhiên, mục đích sử dụng

của nó cũng thay đổi tuỳ thuộc vào các yếu tố trên [13].

Xét đặc trưng đó của biểu tượng, chúng tôi nghiên cứu các biểu tượng xuất hiện

64

trong bộ truyện cổ như bảng sau đây:

Vua Ếch

Nàng Rapun zel

Bà chúa tuyết

Nàng Bạch Tuyết

Bảy con quạ

Con chim vàng

Mười hai anh em

Những nhạc sĩ thành Bremen

Thần chết đỡ đầu

Ba chiế c lá rắn

Jôrin đơ và Jôgig ơn

Hans el và Gret hel

Cô bé Lọ Lem

Anh trai và em gái

Người đẹp ngủ trong rừng

Cô bé quà ng khă n đỏ

Ba sợi tóc vàng của quỷ

Sói và bảy chú dê con

Chú thợ may nhỏ can đảm

Truyện Biểu tƣợng

x

x

x

x

x

x

x

x

(Số) ba (Lễ) Ban phép lành (Số) bảy Bếp lò Bóng tối (Số) bốn Cáo Cắt xẻo, cắt cụt Chảo, vạc Chết, thần chết Chiêm mộng Chó sói Con gái vua Cung điện Cửa Cửa sổ (Màu) Đỏ Động vật Giường Giày Gót Gỗ, rừng Gươm Gương (Cây) Hạt dẻ Hoa

x x x x x x x x x

x x x x x x x x x x

x x x x x

x x x x x x x

x x x x x x x x x x

x x x

x x x x x x x x x x

x x x x x x

x x x x x x x x x x

x x x x x

x x x x x

x x x x x x x

x x x x x x

x x x x x x x x

x x x x x x x

x x x x x x

x x x x x x x x x

x x x

x x x x x x x x

65

Bảy con quạ

Con chim vàng

Ba chiế c lá rắn

Jôrin đơ và Jôgig ơn

Vua Ếch

Nàng Rapun zel

Bà chúa tuyết

Nàng Bạch Tuyết

Mười hai anh em

Hans el và Gret hel

Cô bé Lọ Lem

Những nhạc sĩ thành Bremen

Thần chết đỡ đầu

Truyện Biểu tƣợng

Anh trai và em gái

Người đẹp ngủ trong rừng

Ba sợi tóc vàng của quỷ x x x x x x

Sói và bảy chú dê con x

x x

x x

x x x x x

Chú thợ may nhỏ can đảm x x x

x x x x x x

x x x x x x x x

x x x x

Cô bé quà ng khă n đỏ x x x

x x x x x

x x x x x x x x x x

Hoàng tử Khói Khổng lồ Kiêng kị Lửa Mẹ (Số) mười hai Nguồn, suối Ngựa Nữ hoàng Nước mắt Phù thủy Quạ Quỷ dữ Than khóc Tiếng thét Tình yêu (Màu)Vàng Vua

x x x x x x x x x x

x x x x x x x x x x

x x x x x x x

x x x x x x x x x x

x x x x x x x x

x x

66

Bảng 2.1 Thống kê biểu tƣợng trong truyện cổ Grimm

Trong 19 truyện thuộc đối tượng khảo sát, có những biểu tượng xuất hiện

nhiều lần hơn cả. Đó là biểu tượng Tình yêu (15/19 truyện), Bóng tối (14/19

truyện), Giường (13/19 truyện), Gỗ, rừng (13/19 truyện), Mẹ (12/19 truyện),

Cung điện (12/19 truyện), Động vật (11/19 truyện), Vua (11/19 truyện), Cửa

(11/19 truyện), Chết, thần chết (10/19 truyện), Con gái vua (9/19 truyện),

Hoàng tử (7/19 truyện), Nước mắt (7/19 truyện), Than khóc (7/19 truyện),

Phù thủy (6/19 truyện).

Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào những

biểu tượng bao gồm: những chủ thể/sinh vật thực hiện hành động bạo lực,

những nạn nhân của hành động bạo lực đã khảo sát ở chương 1 để từ đó tìm ra

các quy tắc luân lí qua các lớp truyện kể. Đó là: Vua; Con gái vua; Hoàng tử;

Phù thủy; Động vật. Nhóm các biểu tượng xuất hiện nhiều này có thể phân

loại như sau:

2.1.1. Biểu tượng về con người: Mẹ, Vua, Con gái vua, Hoàng tử

2.1.1.1. Mẹ

Trong tiếng Pháp hai từ mère (mẹ) và mer (biển) phát âm gần như nhau, nên

hình ảnh mẹ có thể được gắn liền với biểu tượng biển, cũng như với biểu

tượng đất vì cả ba đều là nơi chứa đựng và mang trọng trách lưu giữ sự sống.

Biển và đất là những biểu tượng của thân thể người mẹ. Hình ảnh người mẹ

nổi bật lên trong các truyện cổ của anh em nhà Grimm cũng có tính cách hai

chiều đối nghịch nhau như biểu tượng về đất và biển. Người mẹ là sự an toàn

của chỗ trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và dinh dưỡng (như trong Cô

bé choàng khăn đỏ). Ngược lại, đó cũng là nguy cơ bị o ép bởi môi trường

chật hẹp và bị ngạt thở do kéo dài quá mức chức năng và dẫn dắt khiến người

mẹ lấn át người cha trở thành kiểu giam hãm và áp chế người cha (như trong

67

Hansel và Grethel, Cô bé Lọ Lem, Nàng Rapuzel, Mười hai anh em). Trong

phân tâm học hiện đại, biểu tượng người mẹ có giá trị một mẫu gốc. Đó là

dạng thức đầu tiên của anima mà mỗi cá thể con người sở nghiệm (tức là cái

vô thức). Cái vô thức này có hai mặt, một mặt mang ý nghĩa xây dựng, mặt

khác mang ý nghĩa phá hoại. Nó sẽ phá hoại khi nó là nguồn của mọi bản

năng, là toàn bộ mẫu gốc, là tàn dư của tất cả những gì con người trải nghiệm

từ những khởi thủy xa xưa nhất, là nơi tích lũy của những kinh nghiệm siêu-

cá nhân. Nhưng cái vô thức cần đến ý thức để thể hiện mình, vô thức chỉ thực

sự tồn tại khi được đặt trong tương quan của cái vô thức, điều đó phân biệt

con người và bản năng của con vật. Bản chất của vô thức, đó là yếu tố phi cá

nhân và có tính gốc nguồn nên vô thức có ưu thế tương đối, có thể quay lại

đối đầu và tiêu diệt cái ý thức đã phát sinh ra, khi ấy vô thức đóng vai trò như

người mẹ ăn thịt con. Nếu nhìn từ góc độ đứa trẻ, dễ dàng để thấy những hình

ảnh người mẹ bị biến dị trong truyện cổ Grimm. Người mẹ trong những

trường hợp này thực hiện một sự thôi miên không ý thức: bỏ rơi đứa con

(Hansel và Grethel), không làm được gì để ngăn chặn điều nguy hại đến tính

mạng của con (Mười hai anh em) hay đuổi theo đeo bám những đứa trẻ để tìm

cách làm hại chúng (Anh trai và em gái). Con người khi ấy phải đối mặt với

tính cách mâu thuẫn của các bản năng, vì muốn được mẹ nuông chiều, che

chở như trong cả ba câu chuyện, đứa trẻ đã vấp phải đúng điều ngược lại, tức

là những cơn thịnh nộ hoặc sự yếu đuối khó chế ngự được của bản năng

người mẹ.

2.1.1.2. Vua

Sau biểu tượng người mẹ, biểu tượng Vua xuất hiện mang sức mạnh và những

ý định. Quyền lực của vua trong các truyện đều khiến người ta sợ hãi, sức

mạnh là vô hạn, các ý định của vua hiếm khi thất bại (như trong Mười hai

68

hoàng tử, Anh trai và em gái, Cô bé Lọ Lem, Nàng Bạch Tuyết, Vua Ếch, Ba

chiếc lá rắn). Hình ảnh ấy là tập trung những ham muốn, tự chủ, tự cai quản

lấy chính mình, nhận thức được toàn bộ vấn đề. Trong lớp ý nghĩa đó, cùng

với hình ảnh người anh hùng, vị thánh, người cha, người hiền minh, người

cầm cán cân công lí, vua là mẫu gốc của sự hoàn thiện của con người. Và mẫu

gốc ấy huy động tất cả các năng lượng tinh thần để hiện thực hóa, giữ sự công

bằng, đến mức có thể xử chết cả chính con gái mình như trong Ba chiếc lá

rắn, xử cả mẹ đẻ của mình vì đã âm mưu giết vợ mình như trong Anh trai và

em gái, mang lại sự công bằng cho vợ như trong Nàng Bạch Tuyết. Nhưng

hình ảnh ấy cũng có thể bị biến chất thành hình ảnh của một kẻ bạo chúa, biểu

hiện một ý muốn về sức mạnh không được kiềm chế đến mức lo ngại giang

sơn bị chia cắt đến độ ban lệnh giết chết mười hai đứa con trai như trong

Mười hai hoàng tử, nhất quyết đuổi theo giết đứa bé mà tự cho rằng có nguy

hiểm với ngai vàng của mình như trong Ba sợi tóc vàng của quỷ, và sẵn sàng

nuốt lời để giết người anh hùng đã từng định cho cưới con gái mình như trong

Chú thợ may nhỏ can đảm.

2.1.1.3. Con gái vua

Con gái vua – Công chúa là chủ đề hầu như xuất hiện trong tất cả các truyện

cổ tích, và truyện cổ Grimm cũng không phải ngoại lệ. Con gái vua được gả

cho người anh hùng, ban thưởng cho lòng dùng cảm của anh hùng. Dù phải

vượt qua những thử thách, cuộc chiến đấu khó khăn và bao hiểm nguy có thể

hại đến tính mạng nhưng người anh hùng biết cách để chiến thắng.

Các truyền thuyết về nguồn gốc vũ trụ nói Nước là nguyên tố cổ xưa nhất.

Sách Sáng thế kí nói Chúa tách nước thượng đẳng khỏi nước hạ đẳng. Vì vậy,

cũng giống như Lửa, Nước có quyền năng thử tội, phán quyết. Nhưng nước

không chỉ có tính năng thanh tẩy, xóa hết lịch sử và khôi phục con người ở

69

trạng thái mới, đó còn là biểu tượng của sự phục sinh, làm sáng tỏ công lí và

bảo hộ. Về điều này, con gái vua là hình ảnh hiện thân cho sự trong sáng vô

tư đến giải cứu con người đang bị đe dọa: cứu 12 người anh trai trở lại hình

hài làm người như trong Mười hai hoàng tử, hiện về để vạch trần bộ mặt của

mẹ con mẹ kế độc ác lừa gạt người khác như trong Anh trai và em gái. Khi

ấy, con gái vua là mặt thuận của nước, thuộc về nước thượng đẳng mà Chúa

Trời ngay từ đầu đã tách ra.

Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, những trận nước dâng cao luôn báo trước

những thời kì thử thách. Nước ngập tràn khắp nơi là biểu hiện của những tai

họa. Nước có thể tàn phá và nhấn chìm, nuốt chửng những cánh đồng đang ra

hoa. Trong những trường hợp đó, nước là hình ảnh tượng trưng cho một sức

mạnh trừng trị những kẻ có tội, nhưng không thể làm hại những con người

chính trực. Những dòng nước lớn chỉ nhấn chìm những kẻ có tội, vì vậy mà

trong Anh trai và em gái, khi công chúa-người em gái được minh oan trở lại,

hoàng thái hậu – kẻ xúi bẩy vua phải chịu chết, hay như trong Nàng Bạch

Tuyết, mẹ kế độc ác phải đi đôi giày nung đỏ nhảy múa cho đến chết. Mặt

khác, nếu chính công chúa có ý định gây điều tàn ác tới con người chính trực,

thì chính nàng sẽ phải đổi mạng sống của mình, bị nhấn chìm trong biển khơi

như trong Ba chiếc lá rắn.

Hình ảnh về con gái vua còn được kiến giải trong mối quan hệ tương đối phổ

biến với Vua cha. Vua cha là hình ảnh của vô thức tập thể đã thu thập tất cả

mẫu gốc của lịch sử nhân loại. Còn con gái vua biểu thị cái vô thức cá nhân

chưa có kinh nghiệm riêng nên không vươn lên trên được cái vô thức tập thể -

chính là cha nàng (như trong Mười hai anh em, Công chúa ngủ trong rừng,

Vua Ếch, Ba sợi tóc vàng của quỷ, Vua Ếch, Ba chiếc lá rắn, Chú thợ may

70

nhỏ can đảm). Nhưng rồi một hoàng tử (hay bản chất hoạt động của ý thức) sẽ

xuất hiện, đánh thức và giải phóng nàng, trên cơ sở đó có thể tăng sự phối hợp

hành động giữa hoàng tử và con gái vua, tượng trưng cho sự kết hợp giữa vô

thức tập thể (vua), vô thức cá nhân (con gái vua) và ý thức (hoàng tử).

2.1.1.4. Hoàng tử

Là hình ảnh xuất hiện với tần suất ít hơn so với ba hình ảnh trên trong nhóm

các biểu tượng về con người, hoàng tử là hình ảnh tượng trưng cho sự hứa

hẹn nắm quyền tối cao, vị trí hàng đầu. Hoàng tử đánh thức nàng công chúa,

cứu nàng sống lại như trong Công chúa ngủ trong rừng. Biểu tượng này còn

thể hiện những phẩm chất vương giả ở thời kì thiếu niên nhưng vẫn chưa thể

làm chủ được, chưa rèn luyện được. Ý niệm về hoàng tử vì vậy mà gắn liền

với hình ảnh tuổi trẻ, người anh hùng. Chức năng của hoàng tử trong các câu

chuyện vì vậy không phải là làm công việc cầm cán cân công lí như vua mà

phải làm nên những kì tích anh hùng. Cùng với hình ảnh công chúa, hai hình

ảnh là các dạng lí tưởng hóa của người nam giới và người phụ nữ theo nghĩa

về vẻ đẹp, tình yêu, tuổi trẻ và lòng dũng cảm. Trong các câu chuyện của anh

em nhà Grimm, vì vậy mà hoàng tử thường là nạn nhân của các hành động

bạo lực, là nạn nhân của mụ phù thủy như trong Nàng Rapuzel, bị biến thành

con vật như trong Vua Ếch và chỉ được phục hồi nguyên dạng là hoàng tử nhờ

một tình yêu dũng cảm. Cương vị hoàng tử lúc này là phần thưởng cho một

tình yêu trọn vẹn.

2.1.2. Biểu tượng về động vật và sinh vật ma thuật: Động vật, Phù thủy

2.1.2.1. Động vật

Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh động vật xuất hiện nhiều trong bộ truyện

cổ Grimm đến vậy. Động vật với tư cách là mẫu gốc, biểu trưng cho những

71

lớp vỉa tầng sâu kín của tiềm thức và bản năng. Ý nghĩa biểu trưng của con

vật như chúng ta bắt gặp trong bộ truyện như con mang, quạ, chim bồ câu,

chó sói, ếch, dê, rắn, cáo, gà, lợn với những đặc tính riêng của mỗi con, được

gọi tên bao hàm toàn bộ lịch sử ngoài người chứ không phải riêng một

khoảnh khắc của nền văn minh.

Những con vật, dù ta xem xét chúng theo nhóm hay như những cá thể đều

tương ứng với tính cách có bản chất biểu trưng. Trước tiên với biểu tượng về

loài chim (trong Cô bé Lọ Lem, Con chim vàng, Bảy con quạ). Với việc chim

bay được khiến con vật này dễ được dùng làm biểu trưng cho các mối liên lạc

giữa trời và đất. Xét một cách khái quát hơn nữa, chim tượng trưng cho tinh

thần, thiên thần, cho trạng thái cao cấp của sinh tồn. Các học thuyết huyền bí

đã phác nên cả một hệ thống tương ứng giữa: chim – màu sắc – xung lực tâm

thần. Bốn màu sắc chủ yếu được thể hiện bởi các loài vật bao gồm: con quạ,

con chim đen là biểu tượng của trí khôn; công, màu lục và xanh là biểu tượng

của khát vọng tình yêu; thiên nga, màu trắng là biểu tượng của dục tính làm

nảy sinh sự sống thân xác; phượng hoàng đỏ là biểu tượng của thần thành và

bất tử. Như trong truyện Cô bé Lọ Lem, tình yêu xuất hiện thành thiện được

biểu thị bằng hình ảnh đôi chim bồ câu thần thánh can thiệp giúp nắm giữ cán

cân công lí để bảo vệ tình yêu. Lúc này, chim bồ câu với chức năng của mình,

sẽ thực hiện những hành động bạo lực để giữ lấy sự công bằng.

Mặt khác như trong Bảy con quạ, Mười hai anh em đó lại là hình ảnh tượng

trưng cho trí khôn, thông suốt suy nghĩ khi cô em gái đến tìm mà không giết

nàng. Nhưng đó đồng thời cũng là biểu tượng của hi vọng bởi trong khắp hai

câu chuyện, những chàng trai bị biến thành quạ sẽ luôn được trở lại làm

người. Đó là hình ảnh hướng tới niềm tin vào công lí, vào lẽ phải, sẽ không

72

bao giờ mất đi.

Một trường hợp biểu tượng khác cũng đem lại ám ảnh chính là biểu tượng chó

sói. Ý nghĩa biểu tượng của sói trong Cô bé quàng khăn đỏ, Sói và bảy chú dê

con đều không mang lớp nghĩa tích cực. Nghĩa biểu tượng nó mang là kẻ dày

vò thông qua hình ảnh mõm – có tính mẫu gốc, gắn liền với hiện tượng luân

phiên ngày-đêm, chết-sống: mõm ngấu nghiến và nhả ra, có có tính khởi

xướng tùy theo hệ động vật từng nơi mà nó mang dáng vẻ của động vật phàm

ăn: ăn thịt bà và cô bé quàng khăn đỏ, tìm đủ cách để ăn thịt đàn dê con, thậm

chí còn ăn nhưng không nhai, nuốt chửng vào bùn. Trong các truyện kể Bắc

Âu có nêu về hình ảnh đặc thù của sói là ngấu nghiến các thiên thể, cũng có

thể liên hệ với hình ảnh sói ngấu nghiến chim cút như được nhắc đến trong

kinh Ring-Veda. Nếu chim cút là biểu tượng của ánh sáng thì mõm sói là đêm

tối, hang, địa ngục, giải thoát khỏi mõm sõi là tìm thấy ánh sáng, thấy bình

minh. Mõm sói gắn liền với nỗi khiếp sợ thời thơ ấu của những đứa trẻ tiếp

sau cái chết của người bà: “Bà ơi, sao mõm bà to thế” G Durand nhận xét,

như vậy mới thấy sự quy tụ rất rõ giữa vết cắn của bọn họ chó với nỗi sợ hãi

hủy hoại thời gian. Con quái vật ngấu nghiến thời gian của con người”.

Jung đã phát biểu trong Con người và những biểu tượng của nó: “Sự có nhiều

đến thừa thãi những biểu tượng động vật trong các tôn giáo và nghệ thuật mọi

thời đại không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của biểu tượng. Nó cũng cho

thấy đối với con người là quan trọng đến nhường nào sự thống hợp vào trong

cuộc sống của mình cái nội dung tâm lí của biểu tượng, tức là cái bản năng.

Con vật, cái linh hồn bản năng trong con người có thể trở nên nguy hiểm, nếu

nó không được thừa nhận và hòa nhập vào cuộc sống của cá nhân. Sự thừa

nhận linh hồn động vật là điều kiện cho sự thống nhất hóa cá thể, cho sự phát

triển toàn vẹn của nó”. Điều ấy giải thích lí do tại sao bên cạnh những hình

73

ảnh của loài động vật, trong truyện cổ Grimm còn có những yếu tố ma thuật

biến con người trở thành động vật như trong Mười hai anh em, Bảy con quạ,

Vua Ếch. Chính sự đa dạng của các loài vật trong các câu chuyện của anh em

nhà Grimm đã tạo thành những dạng đồng nhất hóa một phần với con người,

chúng là những khía cạnh, những hình ảnh của bản chất phức tạp của con

người, là những tấm gương phản chiếu những xung năng sâu kín, những bản

năng được thuần hòa hoặc vẫn còn hoang dã. Mỗi con vật xuất hiện trong câu

chuyện vì vậy mà tương ứng với một phần trong mỗi chúng ta, đã được thống

hợp hoặc sẽ được thống hợp vào trong tính nhất thống hài hòa của con người.

Trong bản chất ấy có tính thiện, tính ác, có những phút bản năng hoang dã

vẫn còn thì những hành động bạo lực là điều có thể lí giải.

2.1.2.2. Phù thủy

Jung cho rằng các nữ phù thủy đều là một dạng phóng chiếu của cái anima

nam tính, nghĩa là của cái phần nữ tính nguyên thủy tồn tại trong vô thức của

người đàn ông: những nữ phù thủy cụ thể hóa cái bóng thần học này mà khó

có thể tự giải thoát được, và đồng thời họ cũng choàng lên bản thân mình một

thứ sức mạnh đáng sợ. Chức năng chủ yếu của phù thủy, như tên gọi đã chỉ

ra, là bỏ bùa phép cho những con người mà nó muốn làm hại, vì một lí do nào

đó. Hoặc đi tìm kiếm những của cải vật chất và những sự trả thù cá nhân

ngược với quy luật tự nhiên.

Xuất hiện trong 6/19 truyện trong phạm vi khảo sát của luận văn, chúng tôi

nhận thấy nữ phù thủy dường như là bản sao giống kẻ chịu tội thay cho những

người phụ nữ, họ chuyển vào hình ảnh nữ phù thủy những yếu tố tăm tối của

những xung năng trong con người họ. Sự phóng chiếu này tạo nên bản chất

hoang tưởng của các nữ phù thủy, luôn cho rằng những điều mình mong

74

muốn có thể trót lọt. Vậy nên bà mẹ kế trong Anh trai và em gái cho rằng có

thể lừa được vua, đem con gái mình thay thế hoàng hậu đã chết, mụ phù thủy

trong Hansel và Grethel mới nghĩ rằng có thể lừa được Grethel để đẩy cô bé

vào lò quay chín, hoàng hậu trong Nàng Bạch Tuyết mới cho rằng đã giết

được Bạch Tuyết để mình trở nên xinh đẹp tuyệt trần. Những sức mạnh tăm

tối này của vô thức chừng nào chưa được đặt dưới ánh sáng của nhận thức, ở

đây là nhận thức của những nhân vật như vua, Grethel, hoàng tử thì nữ phù

thủy sẽ còn sống. Hình ảnh đó là hiện thân của những ham muốn, những nỗi

sợ hãi và những xu hướng khác của tâm thức xung năng với cái tôi của chính

chúng ta. Jung đã lưu ý rằng “anima (tính nữ trong mỗi người đàn ông)

thường được nhân cách hóa bằng một nữ phù thủy hay nữ giáo sĩ” bởi phụ nữ

có nhiều mối gắn bó hơn với những lực lượng tăm tối và các thần linh. Nữ

phù thủy là phản đề hình ảnh lí tưởng hóa về người phụ nữ.

Theo một nghĩa khác, nhân vật nữ phù thủy là sự biểu hiện của những nội

dung phi lí trong tâm trí. Các nhân vật trong truyện cổ Grimm đều không thể

thoát khỏi tay của phù thủy với pháp thuật cao siêu bằng một hành động hay

những tác động hỗ trợ bên ngoài. Điều này có thể thấy rõ nhất trong Công

chúa ngủ trong rừng, khi bà tiên thứ mười ba giận dữ đưa ra lời tiên đoán

công chúa sẽ chết vào năm mười lăm tuổi thì không có một năng lượng nào

khác có thể cứu được công chúa khỏi cái chết ngoài nụ hôn của hoàng tử -

một động thái tích cực đối với cái vô thức, thêm vào đó tích hợp dần dần

những yếu tố phát tiết từ trong vô thức vào nhân cách có ý thức để tạo nên sự

biến đổi. Ở đây là nhờ lời chúc của bà tiên thứ mười hai, hoàng tử (có ý thức)

và chính công chúa (vô thức).

Phù thủy cũng có thể chỉ là một biểu tượng của những năng lượng tạo sinh có

75

tính bản năng vô kỉ luật, không được thuần hóa, và đi ngược lại với lợi ích

của cái tôi, của gia đình, của thị tộc. Phù thủy là người nhận đảm đương

những sức mạnh đen tối của vô thức, biết cách sử dụng sức mạnh đó, do vật

đảm bảo cho mình những quyền năng đối với người khác. Vì vậy mà trong

một số các câu chuyện của Grimm, phù thủy xuất hiện dưới bóng của người

mẹ kế (Anh trai và em gái, nàng Bạch Tuyết). Chỉ có thể tước bỏ “vũ khí” của

phù thủy bằng cách đặt chính những sức mạnh đó trong sự kiềm chế của ý

thức, đồng nhất sức mạnh đó bằng cách trục xuất chúng ra: thiêu chết (Hansel

và Grethel), cho vào vạc dầu sôi (Anh trai và em gái), đi đôi giày nung đỏ

(Nàng Bạch Tuyết).

2.2. Ý nghĩa của biểu tượng

Trên thực tế, nghiên cứu biểu tượng là một công việc đã được các nhà khoa

học trên thế giới đề cập đến từ lâu thông qua các chuyên ngành khoa học đã ra

đời từ trước Công Nguyên như toán học, triết học, sử học, xã hội học, nghệ

thuật học… Mặc dù các chuyên ngành khoa học nêu trên ít nhiều đều đề cập

đến biểu tượng như một đối tượng nghiên cứu của chúng nhưng chưa có một

chuyên ngành nào thực sự là một chuyên ngành khoa học độc lập nghiên cứu

các biểu tượng. Chuyên ngành đầu tiên đề cập đến các biểu tượng như một

chuyên ngành khoa học độc lập là ký hiệu học (semiotics/ semiology) vào đầu

thế kỷ XX. Ký hiệu học là bộ môn nghiên cứu ý nghĩa của các ký hiệu, tín

hiệu, biểu tượng, hiện tượng văn hoá… và hành vi sử dụng chúng. Ký hiệu

học giải nghĩa các thành tố văn hoá do con người tạo ra trong quá trình phát

triển của văn hoá như ngôn ngữ, biểu tượng, hoạt động, hành vi sống… của

con người. Các nhà ký hiệu học hiện đại như Claude Lévi-Strauss, Jacques

Lacan, Michel Foucault, Jacques Derrida, Roland Barthes, Julia Kristeva… đã

áp dụng cấu trúc luận dưới góc nhìn ký hiệu học cho nhiều lĩnh vực như mỹ

76

học, nhân học, tâm lý, truyền thông, ngôn ngữ… [12] Vì vậy, nghiên cứu

ngôn ngữ biểu tượng của một tộc người hay một cộng đồng có tính liên kết

cao trong xã hội (chẳng hạn một tôn giáo) cũng chính là nghiên cứu văn hoá

của tộc người hay cộng đồng người đó.

Trong khi ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cho phép con người giao tiếp với

nhau bằng khả năng tri nhận trực tiếp của các giác quan, thì ngôn ngữ biểu

tượng cho phép con người ở nhiều nền văn minh khác nhau, nhiều vùng văn

hoá khác nhau, thậm chí ở nhiều thời gian và không gian khác nhau hiểu được

nhau nhờ vào đặc tính căn bản của nó là thông tin và giao tiếp thông qua hệ

thống kí hiệu hàm nghĩa của nó. Nhờ có ngôn ngữ biểu tượng mà con người

có khả năng giao tiếp vượt thời gian và không gian để hiểu được con người

sống ở các nền văn minh cổ xưa cách chúng ta hàng nghìn năm thông qua

những di vật văn hoá mà họ để lại. [11]

Từ khảo sát các biểu tượng trong truyện cổ Grimm, chúng tôi nhận thấy, nữ

giới xuất hiện nhiều ở hầu hết các trang truyện cổ. Đó là hoàng hậu, là mẹ kế,

là mẹ ruột, là các chị em gái, là những cô con gái là con riêng của mẹ kế

(không có câu chuyện nào về con trai riêng của mẹ kế), là công chúa, là các

bà tiên, là nữ phù thủy. Các chủ thể này xuất hiện nhiều hơn hẳn so với các

hình ảnh về vua, ông bố, hoàng tử. Thay vì đơn thuần phản ánh những lí

tưởng xã hội, những câu chuyện cổ tích duy trì những quy tắc của người Kito

giáo, vấn đề gia trưởng trở thành một phương tiện để duy trì hệ thống phân

cấp giới.

2.2.1. Tăng sức hấp dẫn

Đó là một trong những đặc điểm quan trọng nhất mà một phụ nữ có thể có, và

77

thường là báo hiệu một tương lai hạnh phúc, cũng là ý nghĩa đầu tiên mà các

biểu tượng trong truyện cổ Grimm mang lại. Trong đó, các nhân vật nữ tốt

thường phục tùng, chấp nhận số phận của mình trong cuộc sống. Họ chờ đợi

hoàng tử xuất hiện và kiểm soát số phận của mình. Theo nhiều cách, như

trong Cô bé Lọ Lem, có thể được hiểu là một cuộc thi sắc đẹp của phụ nữ,

nhấn mạnh một thông điệp rằng một phụ nữ có diện mạo trẻ trung, đặc biệt là

khi kết hợp với thái độ nhu mì sẽ tạo nên một bản sắc quan trọng nhất của

phái nữ. Ngược lại, những phụ nữ không có sắc đẹp luôn là nguồn cơn của

mọi sự nghi ngờ. Các chị em con riêng của mẹ kế là một ví dụ về việc trong

tâm trí của tác giả, những người phụ nữ không hấp dẫn sẽ cố gắng tìm cách để

trở nên hấp dẫn. Ở khía cạnh này, mong muốn có được một vẻ đẹp khiến tính

cách của họ có phần trở nên nguy hiểm. Việc các cô gái cắt gót chân của mình

cũng để lộ quan điểm cho rằng phụ nữ sẽ đi đến việc phá hoại lẫn nhau. Điều

này mang lại một thông điệp chiếm khoảng 17% của câu chuyện rằng các cô

gái không nên tin tưởng nhau.

Nếu các nhân vật nữ chính là xinh đẹp và tốt, thì các nhân vật đóng vai phản

diện phải thể hiện các thuộc tính ngược lại và điều này phần lớn đúng. Các

trường hợp ngoại lệ là các cô gái xinh đẹp hiếm hoi mà không phải phục tùng

như Công chúa ngủ trong rừng bắt buộc phải có những cách thức cư xử tốt để

cuối cùng đạt được hạnh phúc hôn nhân. Đó là ví dụ cho việc nếu đúng vai trò

của giới, những người phụ nữ sẽ được khen thưởng.

Các cô gái lười biếng và những phụ nữ lớn tuổi hơn thường xấu xí, độc ác và

quyết tâm lợi dụng các ưu thế của các nhân vật nữ chính. Họ cũng thể hiện

những đặc điểm mà đe dọa trực tiếp đến lí tưởng của nhân vật nữ chính, nét

tính cách của nhóm nhân vật này thể hiện thường là rất quyết tâm, và thậm chí

78

có phần thể hiện sự tham lam. Thay vì chấp nhận số phận, tình trạng, hoàn

cảnh của bản thân, các nhân vật nữ này thường có kế hoạch để thay đổi tình

trạng ấy, đôi khi còn không cần có sự hiện diện của người đàn ông, họ vẫn tự

mình thực hiện kế hoạch thay đổi cuộc đời. Những người phụ nữ nắm giữ một

mức độ quyền lực tốt nhất định và tương đối vô tính trong các câu chuyện cổ

của anh em nhà Grimm duy chỉ có các nàng tiên. Đây chính là đặc điểm tạo

nên mối tương quan giữa giới tính và cái ác. Tất cả những khuôn mẫu được

xây dựng cho các cô gái chính là sự tin tưởng vào trong một mối quan hệ giữa

khuôn mặt đáng yêu và tính cách đáng yêu. Nếu bạn rất đẹp thì bất kể bạn

đang ở trong tình huống nào vẫn nên chờ đợi một cách kiên nhẫn, chờ hoàng

tử đến và giải cứu bạn.

Qua phần lớn các lớp truyện kể, không thấy bóng dáng hiện hữu của nhân vật

nữ anh hùng. Vai nam chính có thể không dẫn dắt vào bức tranh tổng thể,

khác với nhân vật nữ chính nhưng họ luôn là đối tượng hiện hữu trong những

giấc mơ, trở thành vị cứu tinh ở cuối câu chuyện. Các vị anh hùng, thường

được mô tả là một chàng hoàng tử dũng cảm (như trong Công chúa ngủ trong

rừng, chàng sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy để cứu nàng công chúa trong lâu

đài), chứng tỏ sự nam tính thông qua giết chết người phụ nữ lớn tuổi (có thể

là mẹ kế hoặc phù thủy), hoàn toàn không thấy sự xuất hiện của người đàn

ông lớn tuổi trở thành đối tượng của nhân vật này. Điều này tạo nên sự bất

bình đẳng của phụ nữ so với nam giới trong cùng sự xuất hiện.

2.2.2. Duy trì một xã hội gia trưởng

Trong những năm 1980, phụ nữ đã đạt được nhiều thành công khi đấu tranh

giành quyền lợi và nâng cao nhận thức về các vấn đề bất bình đẳng giới. Phụ

nữ có quyền kiểm soát sức khỏe sinh sản của mình, theo đuổi những ước mơ

79

và có quyền tìm kiếm, lựa chọn công việc. Một xu hướng thú vị xuất hiện

trong những câu chuyện cổ tích ở giai đoạn này là thay vì tập trung phản ánh

những biến đổi trong xã hội, tầm quan trọng của việc phụ nữ nhận thức được

sự hấp dẫn của mình, các câu chuyện cổ tích mới bắt đầu miêu tả phụ nữ

trong vai trò mạnh mẽ hơn, độc lập hơn. Các câu chuyện cổ tích mới này có

sự xuất hiện của hình ảnh vật lí hiếm hoi đại diện cho giới là màu tóc. Hệ

thống niềm tin mới được xây dựng cho phụ nữ là họ có thể đạt được những

điều trên bằng cách riêng của họ với điều kiện họ đủ hấp dẫn để đạt được điều

ấy.

Điều ấy khác hoàn toàn với trong bộ truyện cổ Grimm: vẻ đẹp gắn liền với xã

hội con người sống, do đó tập trung vào vẻ đẹp nữ tính là cách thức hiệu quả

để cắt bỏ những nét đẹp khác của các hình ảnh về phụ nữ trong các câu

chuyện. Đây chính là sự bất bình đẳng trong vai trò giới được xây dựng thông

qua các biểu tượng.

2.2.3. Trọn vẹn thông điệp của Kito giáo và Kinh Thánh

Điều này được minh họa phần nào bởi thực tế, hầu như mọi truyện trong đối

tượng khảo sát của chúng tôi đều dẫn đến đỉnh điểm hôn nhân. Trong các câu

chuyện có sự xuất hiện của các hoàng tử, chưa bao giờ nói về vẻ đẹp của họ,

nhưng sự nam tính là đủ để đảm bảo rằng cuộc sống hôn nhân của họ sẽ được

hạnh phúc mãi mãi về sau. Thông điệp được gửi thông qua biểu tượng này là

lời nhắn nhủ đến các cô gái: việc định cư và kết hôn là quan trọng. Một chủ

đề khác trong Kinh Thánh mà được nuôi dưỡng trong truyện cổ Grimm là

hình ảnh người phụ nữ quyến rũ. Các nhân vật nữ chính sẽ gây nguy hiểm cho

bản thân và cho người khác vì ngoại hình của mình. Điểm yếu của họ cũng sẽ

đặt những người đàn ông vào các tình huống nguy hiểm. Quả táo xuất hiện

80

trong Nàng Bạch Tuyết chính là đại diện cho sự cám dỗ. Không thể vượt qua

sự tò mò của bản thân, cũng giống như Eva, Bạch Tuyết cắn quả táo và ngủ

thiếp đi. Tương tự, trình tự trong Công chúa ngủ trong rừng liên quan đến sự

thức tỉnh sau khi có sự xuất hiện của hoàng tử có sự tương đồng mạnh mẽ

trong Kinh Thánh. Một nụ hôn là điều cần thiết để đánh thức công chúa thức

dậy có thể tượng trưng cho sự thay đổi từ tuổi thơ vô tội thành tội lỗi khi

trưởng thành.

2.2.4. Trường hợp điển hình: Công chúa ngủ trong rừng

Công chúa ngủ trong rừng là một câu chuyện cổ tích minh họa cho cả sự thay

đổi về mặt định kiến của nhà văn cho đến sự tồn tại khuôn mẫu của vai trò

giới tính và sự hiện diện của những lí tưởng gia trưởng mới. Các phiên bản

hoạt hình của Disney tập trung vào nhân vật nữ chính với mái tóc vàng, thân

hình mảnh khảnh còn hoàng tử được nhấn mạnh vào khả năng vũ đạo tuyệt

đẹp. Lời nguyền dành cho nàng được ban bởi một bà tiên độc ác ở nơi xa xa.

Nhân vật nữ ác này có mái tóc đen, lớn tuổi, có thái độ thù địch với công

chúa. Phiên bản này vẫn giữ một nét đặc điểm quan trọng mà anh em nhà

Grimm mất công nhấn mạnh chính là sự khôn ngoan của người phụ nữ. Nếu

người phụ nữ không khôn ngoan, họ sẽ bị sụp đổ. Cũng giống như Bạch

Tuyết, trong trường hợp này, các hình ảnh biểu tượng trong truyện cũng mang

theo lời hứa về sự độc lập kinh tế dẫn đến sự sụp đổ của các nhân vật nữ vô

tội.

Trong phiên bản của Grimm, hoàng tử chưa bao giờ gặp mặt công chúa

nhưng đã nghe những câu chuyện về vẻ đẹp truyệt trần của nàng và tự đặt

mình vào vai trò cứu tinh. Thông điệp đôi lần là bạo lực chính là một đặc

điểm cần thiết của con đực và con cái khi tức giận, khi trở nên ngang bướng,

81

và bạo lực có thể là điều cần thiết để kiểm soát vấn đề.

Ngoài ra, người phụ nữ lớn tuổi xấu xí luôn cố gắng để phá vỡ trật tự xã hội.

Bằng cách thức phá vỡ trật tự xã hội của nhân vật này mà trật tự xã hội được

phục hổi. Điều này một lần nữa nhấn mạnh và kéo dài sự không tin tưởng lẫn

nhau trong mối quan hệ của những người phụ nữ. Đồng thời, cũng phản ánh

giả định rằng Thiên Chúa là một Đấng Tối Cao nam, có trách nhiệm bảo vệ

và xử lí các vấn đề của người dân. Vai nam khi đó sẽ giết chết người phụ nữ

tóc đen, cứu người phụ nữ tóc vàng để khẳng định bản thân.

2.3. Các vỉa tầng tâm thức trong các lớp truyện kể

Truyện cổ tích có những ảnh hưởng rất đáng kể lên tâm lí của trẻ nhỏ. Đã có

một nghiên cứu được thực hiện với gần hai trăm trẻ em trong độ tuổi từ tám

đến mười học tại xã hội Đức cũ, cho thấy một xu hướng đáng ngạc nhiên về

ảnh hưởng về hành vi của các câu chuyện cổ tích với một giới nhất định [34].

Các cậu bé và cô bé đã được giới thiệu một loạt các câu chuyện và sau đó

được hướng dẫn để viết lại các câu chuyện cổ tích theo cách của riêng họ

thông qua bản tóm tắt mở đó. Những gì các nhà nghiên cứu phát hiện ra chính

là nếu câu giới thiệu câu chuyện đề nghị đàn áp các nhân vật chính hoặc chọn

một nạn nhân, thì cả các cậu bé lẫn cô bé sẽ viết về một cô gái. Tương tự như

vậy, nếu câu mở đầu của các câu chuyện đã giới thiệu về nhân vật có nét tính

cách độc lập nổi bật, hoặc rời khỏi nhà từ đầu thì các cậu bé, cô bé sẽ chọn

nhân vật chính là nam. Điều này cho thấy rằng các câu chuyện cổ tích mà các

em được nhận để đọc có những ảnh hưởng lên quan điểm của các em về

những hành vi được mong đợi dựa tên giới tính. Vai trò của nam và nữ trong

các câu chuyện cổ tích được định hình trong cảm giác của những đứa trẻ về

sự sống. Các nhóm căn tính được xây dựng bởi các tương tác với tư tưởng,

82

văn hóa, hiện vật và các hoạt động của xã hội. Điều này khác hoàn toàn với

phim ảnh, truyền hình, thay vì phản ánh xã hội chúng ta, lại phản ánh một cái

nhìn méo mó về sự nổi bật tương động tìm thấy trong các câu chuyện cổ tích.

Niềm tin được xây dựng trong các câu chuyện cổ tích về việc các phụ nữ

không thể tin tưởng lẫn nhau, và rằng vai trò của một người phụ nữ là gắn bó

với một nam giới được đưa ra rõ ràng. Trên truyền hình, hình ảnh nam giới

thường xuất hiện với vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, hình ảnh các nữ diễn viên

gắn bó cùng đối tác nam giới thường chủ yếu trẻ hơn, một lần nữa củng cố

các lí tưởng về vẻ đẹp trẻ trung của nữ giới và ngụ ý về một mức độ thành

công của người phụ nữ thông qua diện mạo mà cô ấy xuất hiện. Những ý

tưởng này cũng phản ánh mạnh mẽ giá trị của vẻ đẹp mà các câu chuyện của

anh em nhà Grimm nhấn mạnh.

Một sự khác biệt quan trọng là những người đàn ông thường được mô tả như

những người thực hiện điều bạo lực gì đó thay vì chấp nhận các hành động.

Người đàn ông được miêu tả với nhiều khả năng quay lại và thực hiện bạo

lực, tiêu diệt tận gốc thủ phạm để cứu các nạn nhân. Xu hướng này cho thấy

quan niệm rằng nam giới kiểm soát số phận của nạn nhân trong khi đó, hình

ảnh về người phụ nữ chờ đợi một nhân vật nam đến kiểm soát cô vẫn đang

tiếp tục tồn tại.

Điều quan trọng là chính chúng ta phải nhận thức được sự sợ hãi, bạo lực và

những quy tắc luân lí thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Marina Warner

cho rằng để hiểu đầy đủ một câu chuyện dân gian, chúng ta phải hiểu được

môi trường mà câu chuyện đó đã được kể và viết. “Tôi bắt đầu điều tra về ý

nghĩa của những câu chuyện, nhưng tôi đã sớm phát hiện ra rằng cần phải

nhìn vào bối cảnh mà các câu chuyện được viết, ở đó những người nào đã nói

83

với họ, nói điều gì và tại sao”. Khi thời gian thay đổi, ý nghĩa của các câu

chuyện dân gian, cổ tích, những gì là đáng sợ về sự trừng phạt của những

người phụ nữ bây giờ là những chuyện buồn cười hoặc ngược lại.

Cả văn học truyền miệng và văn học truyền thống tiếp tục tồn tại cạnh nhau

ngày hôm nay, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng có một sự khác biệt

trong vai trò so với chức năng của các nhóm này so với quá khứ. Sự khác biệt

này có thể được nhìn thấy trong cách thức xây dựng. Kiểm tra tất cả các câu

chuyện dân gian, Bruno Bettelheim [27] đi đến kết luận rằng bất kì yếu tố bạo

lực hay sự sợ hãi nào tìm thấy trong đa số các câu chuyện cổ tích đều nhanh

chóng được đáp trả lại bằng một thế lực tốt. Câu chuyện cổ tích có yếu tố ác

có mặt ở khắp mọi nơi. Trong thực tế, mỗi câu chuyện, cái tốt và cái xấu được

xây dựng dưới hình thức của nhân vật, thông qua những hành động của họ.

Điều ấy thể hiện một khuynh hướng rằng những điều tốt và điều xấu có mặt ở

khắp mọi nơi, trong cuộc sống và đó là khuynh hướng cho cả hai mặt tồn tại

của mỗi con người. Tính hai mặt này đặt ra các vấn đề liên quan đến đạo đức,

và đòi hỏi phải có sự đấu tranh để giải quyết. Bằng cách trình bày những yếu

tố tốt và xấu một cách cân bằng, những đứa trẻ khi tiếp nhận các câu chuyện

cổ tích sẽ có nhiều khả năng phán đoán độc lập. Đối với những người trẻ tuổi

ngày nay, sống trong một thế giới đa nguyên, và phải thích ứng với nhiều bộ

giá trị khác nhau, xây dựng khả năng phán đoán riêng và đánh giá tính

nghiêm trọng trong môi trường của một người là điều quan trọng hơn bao giờ

hết.

Điều thú vị là tâm lí học và thần kinh học đã dành một thời lượng đáng kể để

kiểm tra các câu chuyện cổ tích để tìm ra liệu rằng trẻ em có bị ảnh hưởng (và

sau đó thực hiện hành động) bởi sự tàn ác, sợ hãi và bạo lực được tìm thấy

84

trong các câu chuyện dân gian không? Nghiên cứu của họ cho thấy không

nhất thiết phải là các câu chuyện dân gian ảnh hưởng đến trẻ em, mà đúng

hơn là cách các câu chuyện được đọc và trình bày với trẻ mới là yếu tố gây

ảnh hưởng lớn nhất.

Có thể có chút nghi ngờ về việc kể một câu chuyện cổ tích với một đứa trẻ

mười lăm tháng tuổi có thể gây ra mối đe dọa, như chúng khó có thể tách các

nội dung từ các sự kiện trong thế giới hàng ngày, là không khôn ngoan nếu

tường thuật truyện cổ tích cho trẻ dưới bốn hoặc năm tuổi. Nhưng một phụ

huynh có thể từ chối hoặc không sử dụng những đặc điểm bạo tàn trong văn

hóa dân gian hoặc kiểm soát theo cách của riêng mình các yếu tố đó chắc

chắn cũng sẽ tìm thấy cách thức có hiệu quả nhưng cũng có hại khác.

Hơn nữa, sẽ là không công bằng nếu đổ lỗi hoàn toàn lên những câu chuyện

dân gian là nguyên nhân gốc rễ của xu hướng bạo lực trong hành vi của trẻ.

Chắc chắn trẻ sẽ có ảnh hưởng khi tiếp xúc với nỗi sợ hại và bạo lực thông

qua bạn bè, hoàn cảnh gia đình, những ảnh hưởng xã hội. Câu hỏi thực sự từ

những câu chuyện dân gian với những hình ảnh, biểu tượng, chi tiết đáng sợ

là có lí do cho việc trẻ muốn tìm hiểu các hành vi bạo lực hay không?

Allan Guggenbühl [28] lập luận trong cuốn sách The Incredible Fascination

of Violence rằng những người chủ động tìm ra các hình ảnh bạo lực trong

cuốn sách, trò chơi video, và bộ phim là những người có nhiều khả năng thực

hiện các hành vi bạo lực. Đổ lỗi cho một câu chuyện dân gian khủng khiếp

không phải là giải pháp cho các câu đố về hành vi của trẻ. “Bạo lực trong

phương tiện truyền thông không phải là nguyên nhân của các hành vi của trẻ

nhưng lại mang đến sự hợp thức hóa nhất định cho chúng” Guggenbühl nhấn

85

mạnh, và hơn nữa, "Cấu trúc thượng tầng về đạo đức của trẻ em khỏe mạnh

không bị phá vỡ khi họ đang phải đối mặt với bạo lực trong các phương tiện

truyền thông."

Sợ hãi và bạo lực trong dân gian và câu chuyện cổ tích có một lý do chính

đáng để được phổ biến trong văn hóa ngày càng bạo lực và sợ hãi của chúng

ta. Vạch trần cho trẻ em sự bạo lực trong cuốn sách cho phép cung cấp một

phương tiện thảo luận về những nỗi sợ và bất an trong thế giới thực. Tạo niềm

tin vào nhân vật, xây dựng những tưởng tượng để tạo ra những đóng góp tích

cực trong các cuộc đối thoại theo nhiều cách là điều mà các bộ phim hay

chương trình truyền hình không thể có. Gillian Cross đã viết trong Library

Journal School, "Tôi nghĩ rằng [bạo lực là] rất quan trọng trong sự tưởng

tượng về cái chết. Có hoặc không những nguy hiểm và tổn thương sẽ gây ra

ấn tượng nhất định cho trẻ. Nhưng những yếu tố ấy thay đổi chúng ta. Cuộc

sống thực là như vậy”.

Tiểu kết

Điều định nghĩa thực sự trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm là cách

thức trong đó có một sự phổ biến xảy ra trong thế giới tưởng tượng. Marina

Warner mô tả điều này như là "tạo ra một nhà hát với tất cả khả năng, điều gì

cũng có thể xảy ra." Các yếu tố ma thuật cùng các hình ảnh biểu tượng mà

không pha chút bạo lực và sợ hãi trong cốt truyện sẽ không thể thu hút những

đứa trẻ.

Kí ức tuổi thơ được xây dựng theo cách đáng sợ bởi vô số lí do nhưng cố

gắng để gắn các thuộc tính của sự sợ hãi đến các câu chuyện dân gian là điều

86

không công bằng. Chúng ta lùi lại và nhìn vào bối cảnh xã hội của những câu

chuyện dân gian khi chúng được tạo ra và trở thành mối quan tâm lớn của

những đứa trẻ.

Từ những kinh nghiệm thơ ấu của chính chúng ta có thể thấy rằng nhưng câu

chuyện về bạo lực thực sự tạo nên cảm giác lo sợ cho chúng ta, mặc dù chúng

ta có thể không hiểu lí do tại sao chúng ta lại được nghe những câu chuyện

như vậy và bằng cách thức nào chúng ta có thể vượt qua được. Thực chất, có

thể những câu chuyện dân gian không đáng sợ mà bởi những kì thị, những

quan điểm xung quanh nó. Chúng ta vốn dĩ được sinh ra trong sự sợ hãi.

Chúng ta được dạy về sự sợ hãi trước tiên bởi chính mẹ chúng ta khi họ đối

diện với những nỗi sợ, lo lắng liên tục trong tâm trí từ khi chúng ta còn trong

bụng. Do đó, người ta có thể thừa nhận những câu chuyện cổ tích tồn tại

những nỗi sợ hãi và bạo lực nhưng không nên sợ việc trẻ lớn lên và chia sẻ sự

hồi hộp, sợ hãi với người lớn, bởi đó là một phần của hoạt động học.

Hầu hết các câu chuyện của anh em nhà Grimm đều được xây dựng với một

phần ban đầu, sau đó di chuyển, thay đổi các thông tin và kết thúc bằng “họ

sống hạnh phúc mãi mãi về sau”. Điều này chứng tỏ rằng bộ truyện cổ Grimm

bất chấp những lời chỉ trích từ mọi góc độ vẫn luôn cân bằng và lành mạnh.

Nếu chúng ta có thể dạy cho con cái chúng ta làm thế nào để đối diện với nỗi

sợ hãi và bạo lực một cách lành mạnh bằng cách sử dụng các ví dụ tốt trong

87

truyện cổ, thế giới của chúng ta (hi vọng) sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn.

CHƢƠNG 3: ẨN ỨC TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM

Những nhà nghiên cứu về phân tâm học như Sigmund Freud, Otto Rank, Carl

Jung nhìn nhận những câu chuyện cổ tích là một trong những phương tiện để

phân tích tâm lí. Các chân lí sâu sắc được thể hiện trong các câu chuyện cổ

tích, trong đó miêu tả cụ thể, rõ ràng những quy trình phát triển phức tạp, diễn

biến phức tạp và năng động của các nhóm người là đầy đủ cho việc sáng tạo

cách thức chữa trị các nỗi đau tâm lí. Sử dụng các chủ đề của truyện cổ tích,

điều chỉnh trí tưởng tượng của trẻ trong các sự kiện, mốc, diễn biến quan

trọng cho phép chúng ta giải thích, diễn dịch lại và mở rộng một số cách để

giúp các cá nhân hiểu được môi trường sống xung quanh, những khó khăn của

mỗi cá nhân và xây dựng các hướng dẫn, tăng cường kiến thức giúp con

người hành động.

Nếu chúng ta nhìn thật kỹ vào cơ cấu của các nền văn minh đã thi nhau phủ

lên cuộc đua tiến hoá của nhân loại, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cấu

thành các nền văn minh đó, chính là những đường kim mũi chỉ được thêu dệt

bởi chính các câu chuyện dân gian, vô danh. Xét ở góc độ cá nhân, một câu

chuyện có thể trở thành một bài thuốc tinh thần cho một vài cá nhân, bởi

chúng ta có thể nhìn thấy đâu đó hình bóng của mình trong câu chuyện, tự

mình cảm thông với nhân vật, và tự mình cảm thông với mình. Xét ở trên góc

độ cộng đồng, những luồng câu chuyện vừa phản ánh thực trạng, vừa gửi gắm

thông điệp và cũng gieo thêm nhiều niềm hi vọng. Một xã hội cũng giống như

một thân nhân, cũng có sự thai nghén, sinh thành, trưởng thành, kèm theo

nhiều sóng gió. Một xã hội cũng có những căn tính riêng như một nhân thân,

những căn tính đó vừa vô tình lẫn hữu ý đã hiện mình trong các câu chuyện.

Xem xét kĩ lưỡng các nhóm căn tính, các mô hình, các biểu tượng trong

88

truyện cổ Grimm từ đó dẫn dắt đến những quan điểm tâm lí hiện đại như hệ

thống gia đình, quan hệ giữa các đối tượng và khuôn khổ nhận thức có thể

đem lại những hiểu biết mới cho con người. Sự am hiểu về cuộc hành trình

của nhân vật nữ chính trong các câu chuyện hay hình tượng người anh hùng

vượt qua những nỗi đau có thể tạo nên những cách thức vượt lên khó khăn

của con người.

3.1. Trí tưởng tượng và thế giới cổ tích

Các câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm không đặt mốc thời gian trong

thế giới của chúng ta, mà chỉ đặt thời gian sáng tạo. Việc đặt mốc này là để

tạo nên một thế giới và những nét tính cách của con người, những tính năng

ma thuật mà chúng ta không biết đến trong cuộc sống thực. Thế giới tưởng

tượng này được đặt trong thời gian dường như không bao giờ đứng lại. Thời

đại nào cũng sẽ tồn tại những mảnh đời như trong các câu chuyện, những uẩn

khúc như vậy và những hạnh phúc như vậy, chỉ khác nhau ở mức độ và cách

hiện diện. Bởi vậy, giá trị nghệ thuật, học thuật và ứng dụng của các câu

chuyện sẽ còn mãi, nhờ vào khả năng tự phản chiếu các mô thức xã hội mới

qua các ẩn ức xưa cũ. Hầu hết chúng ta đều nhớ thời điểm mà các câu chuyện

cổ tích đều chọn cách để bắt đầu: “Ngày xửa ngày xưa”. Sự bắt đầu này chỉ ra

rằng những câu chuyện được đặt ở thời điểm bên ngoài cuộc sống thực,

những câu chuyện là tưởng tượng và là một phần tinh thần khác. Đọc những

câu chuyện cổ tích khác nhau, chúng ta sẽ thấy không truyện nào có lịch sử

thời gian giống truyện nào. Người đọc sẽ không thể cảm nhận rằng chuyện

Nàng Bạch Tuyết diễn ra trước Cô bé Lọ Lem, Anh trai và em gái. Ở vùng đất

của cổ tích, trong thế giới của bộ truyện cổ Grimm, đó là một thế giới hòa

quện giữa những đặc điểm lấy ra từ thế giới thực của chúng ta với những đặc

điểm ma thuật và tưởng tượng. Giống như kết cấu của những huyền thoại,

89

truyền thuyết, các truyện cổ Grimm cho chúng ta dõi theo các nhân vật chính

khi họ đang phải trải qua thời kỳ tối tăm nhất của bản thân, để tạo ra cả một

sự chuyển hoá lớn, không chỉ với chính họ mà còn cả với cộng đồng xung

quanh họ.

Một đặc điểm quan trọng của các câu chuyện trong bộ truyện cổ Grimm là

tưởng tượng. Tưởng tượng có thể được coi như là nghĩ đến những điều không

có thực. Đây là một khả năng cả trẻ em và người lớn đều có, nhưng người lớn

thường nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa trẻ em và trí tượng tượng, rằng có

một mối quan hệ giữa trẻ em và khả năng tưởng tượng. Rằng đó là vấn đề mà

chỉ trẻ em mới có thể làm được, như thể trí tưởng tượng là một phần của

những đứa trẻ và rằng khi lớn lên chúng sẽ phát triển vượt xa khả năng tưởng

tượng. Nhưng Tolkien [32]đã viết, những hình ảnh đều được liên kết theo

cách thức khái quát và tưởng tượng: “Tâm trí con người ưu tiên việc nhìn thấy

các hình ảnh theo tính khái quát và tưởng tượng. Chúng ta không chỉ nhìn

thấy màu xanh lá của cây cỏ mà phân biệt với những sự vật khác (việc tìm

kiếm các sự vật để nhìn ngắm là công bằng) cũng có màu xanh lá cây như

cỏ”. Bởi vì chúng ta có thể tách biệt giữa màu sắc, hình dạng và số từ ngữ

chúng ta biết nên việc thiết lập và áp dụng những điều ấy vào những thứ khác

tức là chúng ta tưởng tượng. Vì vậy, rất rõ ràng rằng sẽ là không đúng nếu

cho rằng trẻ có nhiều khả năng để tưởng tượng hơn người lớn. Các tình tiết

trong truyện cổ là cả chuỗi những mã hoá. Từng hành động nhỏ của mỗi nhân

vật đều trở nên kinh điển và bao trùm nhiều ý nghĩa. Khi người đọc, người

nghe thưởng thức đến, họ tự giải mã câu chuyện theo một bộ giải mã của

riêng họ. Họ tự mường tượng ra và khôi phục lại quá trình sinh hoạt sống

90

động của các nhân vật trong từng câu chuyện. [5]

Tuy nhiên, khi chúng ta còn nhỏ, chúng ta có nhiều thời gian để tương tác với

những người khác, chúng ta rong chơi, chúng ta chạy nhảy tự do, và bộ giải

mã của chúng ta được bồi dưỡng liên tục. Nhưng khi chúng ta lớn lên, theo

một cách tự nhiên, chúng ta bị bủa vây bởi mối quan hệ với công việc, những

yêu cầu của công việc, của gia đình, của bản thân. Chúng ta có ít thời gian để

rong chơi, để tưởng tượng và tạo nên những điều mới mẻ, mặc dù người lớn

thường có xu hướng chia sẻ công khai những tưởng tượng của mình hơn trẻ.

Tolkien [32] đã xây dựng nên một thế giới với dòng chảy vượt ra bên ngoài

ranh giới của những câu chuyện. Ông coi những câu chuyện như một thế giới

thực tế và khiến người khác dễ dàng nhìn nhận nó. Sự tưởng tượng khi không

trở thành niềm vui thú sẽ đánh mất đi sức mạnh của nó. Các bà tiên trong các

câu chuyện có ý nghĩa khi bản thân mỗi người tin tưởng vào sức mạnh ấy từ

bên trong, không phải theo cách thức mà người đọc hoặc người nghe tin vào

việc câu chuyện được sắp trước. Thế giới truyện cổ tích mà anh em nhà

Grimm xây dựng mở ra một khung cảnh kì diệu với sự chan hòa của thiên

nhiên. Hai yếu tố này tạo nên những vẻ đẹp khác nhau cho các câu chuyện.

Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong đó những sinh vật kì diệu như yêu

tinh, người lùn, quỷ dữ, con rồng và nhiều hơn thế nữa. Đặc điểm của những

sinh vật này là chúng ta rất khó khăn để có thể tìm thấy chúng trong thế giới

thực, và chỉ có thể tưởng tượng. Một vài sinh vật trong số đó chúng ta có thể

rất quen thuộc như: ngựa, chim, chó, mèo. Trong hầu hết các câu chuyện cổ

tích, con người luôn đóng vai trò là nhân vật chủ chốt thường được đặt trong

tình huống giải quyết hoặc vượt qua một vấn đề. Hầu hết các nhân vật đều

thực hiện một cuộc hành trình, thường là việc thực hiện hành trình là do phải

lựa chọn hoặc cũng có thể tự thực hiện nhiệm vụ, các vấn đề của bản thân như

91

trong Cô bé Lọ Lem.

Con đường hành trình của các nhân vật trong truyện cổ Grimm cũng có thể

được sử dụng để tác động đến các vấn đề tâm lí. Thông qua việc kết hợp với

các câu chuyện cổ tích, nguồn sức mạnh mới có thể tăng cường cho con

người: Mặc dù cuộc sống có thể không công bằng và đầy những bất công,

nhưng đau khổ nên được nhận thức là không phải chỉ thuộc về mỗi mình. Các

câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm xây dựng một niềm tin về những

kết thúc có hậu. Mà điều đó có thể một số người trong số chúng ta có thể phải

đi những lối đi tối tăm và quanh co trước khi có thể tìm thấy những dòng sông

bình lặng hoặc những mục đích cao cả. Lẽ sống của mỗi người, nhân cách của

mỗi người từ đâu mà sinh ra, tại sao con người ta lại giống và khác nhau, sao

người ta lại tự ý thức về bản thân mình, và có cái gọi là nhân cách - thứ mà

người ta vừa có khả năng chủ động phần nào, vừa bị thụ động, chi phối bởi vô

số những định nghĩa, lề thói, những ràng buộc và các giá trị mang tính qui

ước, bó buộc. [25]

Những con số biểu tượng và hình ảnh trong câu chuyện của anh em nhà

Grimm như mẹ kế độc ác, bà tiên đỡ đầu, mùa đông tối tăm, hoặc bị lạc

đường trong rừng phản ánh trạng thái cảm xúc bên trong đáng lo ngại. Nhân

vật chính phải vượt qua các thử thách trong các tình huống khác nhau, tâm lí

của một cá nhân được thể hiện trong những cách để đối diện với chính mình

hay những ảnh hưởng đến cô. Ví dụ, Hansel và Grethel để lại dấu vết vụn

bánh mì để đánh dấu, và lừa mụ phù thủy không ăn chúng, là những minh

chứng về các loại hành động chiến lược để đảm bảo rằng một người không bị

tràn ngập bởi rối loạn cảm xúc. Những hình ảnh ẩn dụ bên trong "mẹ đỡ đầu"

của riêng mình hay "động vật hữu ích" là các cách thức để chuyển hóa nỗi

92

đau tinh thần, và những hành trình có nhiều bạo lực. Nếu chúng ta kết nối các

biểu tượng này có thể giúp ích cho trẻ trong việc xây dựng khả năng tự chăm

sóc.

Trong bộ truyện cổ Grimm thường có một lời nguyền dẫn đến một sự chuyển

đổi, như trong Công chúa ngủ trong rừng, Vua Ếch. Các nghiên cứu nhận

thức của các nhà nghiên cứu tâm lý đương đại, như Albert Bandura tại Đại

học Stanford, chứng thực rằng khi các cá nhân tiếp cận hoàn cảnh khó khăn

như những thách thức mà có thể được làm chủ, khả năng phục hồi của họ

được phát triển mạnh mẽ. Chính vì vậy, những câu chuyện kinh điển dạy

người ta không phải né tránh các thách thức khó khăn của cá nhân và rằng đó

là một trong những cách để giúp học phát triển về mặt thể chất và tinh thần.

Một tinh thần của chiến thắng và sự lạc quan trải dài qua những câu chuyện

mang tính tích cực. Các câu chuyện cổ tích, với hình ảnh từ những nhân vật

chính khi vượt qua lực lượng phá hoại với hàng loạt hành động sáng tạo, sống

sót trong các khu rừng tối tăm và nguy hiểm kèm theo, tiêu diệt các phù thủy

hoặc mẹ kế độc ác, khả năng phục hồi được tăng cường với những hành động

mạnh có thể kích thích những đứa trẻ trở nên mạnh mẽ. Chàng hoàng tử út

trong Con chim vàng đã lần này tới lần khác bị vua cha coi nhẹ, không giao

cho trọng trách. Đến khi chàng được tin tưởng, lên đường thực thi nhiệm vụ,

thì lại phạm phải lỗi lầm khi nhiệm vụ gần hoàn thành. Hết lần này tới lần

khác, mỗi khi chàng gặp nguy hiểm hoặc khốn khó, con cáo lại xuất hiện và

giúp chàng, bất kể chàng đã phạm phải lời dặn của cáo. Cuối cùng, chính con

cáo lại tự đưa mình đến với cái chết để được giải thoát khỏi lời nguyền và

hiện nguyên hình là một chàng hoàng tử khác. Đó chính là một sự hồi phục

mãnh liệt của niềm tin, qua một quá trình thử thách đầy sáng tạo. Truyện cổ

Grimm phản ánh đầy đủ bức tranh tự nhiên với tất cả các mặt đối lập được

93

miêu tả sống động: bóng tối và ánh sáng, mùa hè và mùa đông, điểm yếu và

sức mạnh, nghèo đói và giàu có. Bằng cách thức khuyến khích những đứa trẻ

chấp nhận vị trí của những con người lao động bình thường trong xã hội, hay

thân phận nhỏ bẻ của con người trong vũ trụ bao la, các câu chuyện nhắc nhở

con người rằng những thời gian chịu khổ ải, đau đớn thường không kéo dài,

và sự thay đổi theo chiều hướng tốt hơn là hoàn toàn có khả năng, khi con

người nỗ lực bền bỉ và có niềm tin kiên định. Việc sử dụng các câu chuyện cổ

tích bạo lực như một cách định hướng tích cực có thể nhấn mạnh các giai

đoạn cuộc sống khó khăn là điều kiện tiên quyết để dẫn đến sự phát triển sức

mạnh cá nhân và cuối cùng dẫn đến thành công to lớn. Như vậy, chúng ta

hoàn toàn có thể dạy những đứa trẻ thiết lập những kì vọng cho sự thay đổi

tích cực. Trong các câu chuyện, các anh hùng đều thể hiện sức mạnh năng lực

để chữa lành các vết thương. Cuộc sống vốn công bằng, lòng nhân hậu với

những người khác có thể giúp con người giải thoát khỏi sự đau đớn.

Tất cả các câu chuyện của Grimm chúng tôi khảo sát đều cho thấy rằng các

nhân vật nữ chính đại diện cho mẫu người sử dụng quyền lực bên trong để

giải quyết các vấn đề. Theo Carl Jung, chúng ta có một câu chuyện yêu thích

mà đi theo chúng ta suốt cuộc đời. Bằng cách kết nối những đứa trẻ với các

câu chuyện yêu thích nhất của chúng, chúng ta có thể giúp chúng xây dựng,

làm nổi bật các cách thức để đối phó và giải quyết vấn đề hoặc đề xuất các

giải pháp với một đứa trẻ khi chúng đang loay hoay tìm kiếm cách thức vượt

qua các vấn đề thực tế.

3.2. Dòng chảy văn hóa trong các câu chuyện của Grimm

Mặc dù các câu chuyện cổ tích được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa thế

giới thực và thế giới tưởng tượng nhưng các giấc mơ có sự liên quan rất phức

94

tạp đến cuộc sống của chúng ta. Xã hội con người luôn ở trong dòng chảy liên

tục của lịch sử, văn hoá, và chúng ta ý thức được rằng chính mình là sự phản

chiếu của những dòng văn hoá, lịch sử ấy. Những câu chuyện cổ tích là những

biểu hiện cho sự phản chiếu vô thức thông qua hệ thống các hình ảnh mang

tính biểu tượng. Công việc của anh em nhà Grimm chính là xác định lại quá

trình phản ánh đó, tuyển chọn và hệ thống lại chúng thành các tác phẩm văn

học.

Thông qua sự chấp nhận rằng trong vòng tròn khả năng bị mẹ kế trả thù,

những tên lùn đồng lõa, mẹ đỡ đầu yêu thương, với những hạn chế bẩm sinh

của con người, đôi khi những đứa trẻ sẽ cảm thấy bị lo lắng trước những kì

vọng không thực tế của bản thân. Với bối cảnh của truyện cổ Grimm, chúng

ta có thể định hướng những đứa trẻ chấp nhận hai mặt của cuộc sống, rằng có

nhiều yếu tố, khả năng tích cực và tiêu cực trong mỗi cá nhân, tất cả những

điều ấy đều được tích hợp làm nên chính chúng ta. Một yếu tố đặc trưng trong

các câu chuyện cho thấy các nhân vật chính đa phần đều được hạnh phúc cho

đến tận cuối cùng. Cô bé Lọ Lem gặp được giúp đỡ bởi cây thần, chim chóc;

và Bạch Tuyết được gặp những người lùn. Từ góc độ tâm lí, khi một người

được nhận những sự đối xử không tốt từ trong gia đình, đó là cơ hội để

chuyển sang quá trình đón nhận và nuôi dưỡng sự nhân hậu từ nhiều con

người khác, như Joseph Campbell nói, "Các câu chuyện chỉ đơn giản như là

một minh chứng xây dựng niềm tin cho những đứa trẻ. Thế giới của ma thuật

là đặc điểm hiện diện của ham muốn, sợ hãi, những lý tưởng, tiềm năng, mà

đã phát triển trong các dây thần kinh, ngân nga trong máu, và vách ngăn các

giác quan, kể từ lúc bắt đầu. Nguyên mẫu về sự vui tươi và khiêm tốn trong

các câu chuyện cổ khiến chúng ta tự hỏi đâu là những điều đích thực của cuộc

sống”. Khi kể những câu chuyện về tiêu diệt các mụ phù thủy hoặc mẹ kế độc

95

ác như Mười hai hoàng tử, Anh trai và em gái, Hansel và Grethel, người lớn

kích thích sự kiên trì, bền bỉ của những đứa trẻ rất nhiều. Khi các nhân vật

chính rời khỏi ngôi nhà của mình, thực hiện một nhiệm vụ, nhân vật ấy phải

làm chủ nỗi sợ vượt qua các khu rừng tối tăm, đối mặt với các thử thách, hoàn

thành nhiệm vụ khó khăn, vượt qua được các nhân vật khác có thể là người

khổng lồ, thỏ, chim, cá, vua, hoàng hậu, phù thủy. Cuộc đấu tranh dữ dội diễn

ra ngay sau đó. Sức mạnh ma thuật của bà tiên đỡ đầu, cây đũa phép hoặc

chữa bệnh có thể giải cứu nhân vật chính và cuối cùng giúp họ chiến thắng,

hoặc có một chuyến đi đến một đất nước mới. Đôi khi, chính nhân vật ấy có

thể quay lại giết hại hoặc chống đối với chính gia đình mình hoặc xây dựng

những mối quan hệ nhân ái hơn. Như vậy có thể kết luận rằng nhân vật chính

câu chuyện cổ tích thường biến các sự kiện, các hành trình, các mốc vượt qua

của mình trở thành một cơ hội để phát triển năng lực cá nhân.

Trong quá trình trị liệu của Freud, cùng với sự dẫn dắt của quá trình trị liệu,

những bệnh nhân của Freud đã dẫn ông quay về với các sự kiện trong quá

khứ, những thứ bị chôn vùi trong ký ức lúc có ý thức. Freud cứ lần ngược lại

quá trình phát triển của con người từ thời thơ ấu của mỗi cá nhân, và thời sơ

khai của cả loài người. Tiến trình nghiên cứu đó của Freud có vẻ rất cao siêu

và xa vời, nhưng đều có thể được diễn ra bởi bất kì cá nhân nào, khi họ đọc

bất kể câu chuyện cổ nào. Sau này, Lacan đã tiếp nối và phát triển thêm việc

lần ngược lại quá trình của Freud, ông triển khai hệ thống những quan điểm

xoay quanh “Giai đoạn gương” (Mirror stage) để tìm cách diễn giải về khoảnh

khắc đầu tiên một con người bắt đầu xây dựng khả năng tự ý thức về mình, và

bắt đầu tạo nên những đặc tính, xu hướng nhân cách, xu hướng hành động.

Đó cũng là một quá trình kiến tạo chủ động của một cá thể, và đồng thời là

quá trình thụ động chịu sự chi phối rất mạnh của mạng lưới những mối quan

96

hệ với các cá nhân khác, và hơn hết là chịu ảnh hưởng từ mạng lưới quan hệ

và giá trị mang tính biểu trưng trong xã hội. Mượn cách tiếp cận của Lacan,

chúng ta có thể hiểu được vì sao mười hai chàng hoàng tử trong truyện “Mười

hai anh em” lại phải lẩn khuất chốn rừng sâu và đưa ra lời thề độc địa đến thế.

“Bảy con quạ” cũng là một ví dụ điển hình cho việc hình thành nhân cách con

người trong “Giai đoạn gương”. Trong cả hai câu chuyện, những người anh

đều phải lâm vào tình cảnh éo le, phải trốn vào rừng sâu hoặc phải biến thành

quạ bởi ý niệm của người cha. Nguồn gốc của tình cảnh có khác nhau, một

bên là do sự chểnh mảng của bảy người anh, một bên là do sự thèm khát có

con gái của đức vua, nhưng kết cục là những người anh trong cả hai câu

chuyện đều phải chịu đắng cay từ một thời khắc không bình thường của

những người cha.

Trong khuôn khổ lí thuyết của Carl Jung, có một khoảng thời gian gián đoạn

trong cuộc sống của mỗi con người, đó chính là chìa khóa cho sự phát triển

tiềm năng, sức mạnh của mỗi cá nhân trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Mô típ điển hình trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm xoay quanh

cuộc sống gia đình, các mối quan hệ liên quan đến người mẹ, người cha, sinh

con, người mẹ kế, hôn nhân,... Sự rời bỏ quê hương thường là cốt lõi của hành

động. Các nhân vật chính (anh hùng, các nàng công chúa) thường được hưởng

một sự nuôi dưỡng khác, từ một người cha, mẹ đỡ đầu hay từ một bà tiên.

Chính sự nuôi dưỡng đó là một gián đoạn với quá trình sinh dưỡng căn bản

trong xã hội. Kế đến, họ trải qua giai đoạn đau khổ, tăm tối trong những khu

rừng, nơi có nhiều quái vật ẩn náu, đó là một gián đoạn với những cảm xúc

tích cực và giao tiếp xã hội; để rồi họ đạt đến hào hoa, chạm đến hôn nhân,

tượng trưng cho phần thưởng của sự thành công và hoàn thành các nhiệm vụ

ở tuổi trưởng thành khi đã trải qua những tuyệt vọng, trầm cảm, giận dữ và lo

97

âu.

Ẩn trong các mô hình lặp đi lặp lại trong gia đình thường được sử dụng trong

các câu chuyện của anh em Grimm, thường thấy những nhóm hành động xuất

hiện. Nếu chúng ta nhìn vào những câu chuyện cổ tích và coi chúng là những

ẩn dụ của các gia đình thì chúng ta có thể giúp chính chúng ta tìm được cách

thức để đối diện với các vấn đề đáng lo ngại từ gia đình.

Các gia đình trong truyện cổ tích giống như các gia đình thường tìm kiếm liệu

pháp tâm lý: Thường thì những người cha vắng mặt hoặc không giải quyết

hiệu quả, triệt để các khúc mắc; những người mẹ kế người độc ác, hoành

hành, thiếu sự đồng cảm, và thậm chí giết người; và những anh chị em đang

ghen tị, hạ thấp phẩm giá và tạo cho nhau những trạng thái tình cảm tiêu cực.

Trong cuộc sống thực, nếu trong một gia đình bị khiếm khuyết một yếu tố nào

đó, gia đình đó sẽ xuất hiện những khoảng trống, là cơ hội cho các mối lo

ngại tấn công từng cá thể. Trong một gia đình, hệ thống các biểu hiện có thể

phát triển như sau: Nếu mối quan hệ của cha mẹ trở nên xáo trộn, và do đó đe

dọa sự an toàn của các nhóm gia đình, một đứa trẻ có thể phát triển trở thành

tâm điểm của sự chú ý của gia đình. Ví dụ, khi lập luận của cha mẹ leo thang,

một đứa trẻ có thể có hành vi không thích, như vậy là để chuyển hướng các

bậc cha mẹ khỏi cãi nhau. Khi cha mẹ chuyển sự chú ý của họ đối với những

đứa trẻ có vấn đề, lập luận lắng xuống và các mối đe dọa leo thang đối lập

giảm dần.

Trong cuộc sống gia đình đời thường, giữa Cái ấy và Cái tôi có sự va chạm,

quan hệ và đấu tranh với nhau thường xuyên. Quá trình va chạm, tranh đấu và

đổi mới đó tạo ra nhiều hệ quả đáng chú ý trong hoạt động tình cảm và sinh lý

của con người. Chúng ta sẽ có các kết quả khác nhau, nếu như trận chiến giữa

98

Ý thức và Vô thức có những kết cục khác nhau.

Nếu Ý thức thắng Vô thức, con người sẽ bình thường, làm chủ và điều tiết

được các hoạt động của mình.

Nếu Vô thức thắng Ý thức, thì khả năng tính dục sẽ trỗi dậy, chi phối các hoạt

động của chủ thể. Chủ thể bị rơi vào một phức cảm quan trọng trong Vô thức:

tam giác Cha - Mẹ - Con của Oedipe và trở nên khó kiểm soát hành động của

mình. Phức cảm này cũng tương tự như lòng ghen tị của mẹ chồng đối với

con dâu, vì quá yêu thương con trai của mình đến nỗi phải ghen tuông với cô

dâu xinh đẹp.

Nếu cuộc chiến giữa Ý thức và Vô thức không sớm có kết quả, mà tạm thời cọ

xát, hoà hoãn, giằng co lẫn nhau thì sẽ dẫn đến tình trạng rối loạn, bất thường

trong cả tâm và sinh lý.

Các câu chuyện Grimm đều cung cấp một cái nhìn để giúp chúng ta xem xét

lại các nhóm tính cách, nhóm chức năng hành động trong mỗi gia đình. Các

câu chuyện đều nhấn mạnh tính hệ thống của các nhóm chức năng như việc

tập trung mô tả một khía cạnh tích cực hoặc tiêu cực. Cho dù các anh hùng có

thể có xuất thân khác biệt, từ những người giàu nhất, quyền lực nhất hay

nghèo khó nhất; ngu ngốc nhất hay khôn ngoan nhất thì họ cũng không bao

giờ trở thành thành viên của những nhóm xã hội thông thường. Trong một

cách so sánh khác, chúng ta có thể thấy, hành động trong câu chuyện cổ tích

xoay quanh những nhân vật nguyên mẫu như kẻ ngu, anh hùng. Trong các gia

đình bị xáo trộn, nếu một thành viên được đối xử tốt hơn, một thành viên khác

trong gia đình thường bị chịu nhiều áp lực hơn hơn. Tương tự như trong

truyện cổ tích, những người bị bỏ rơi ở đầu của câu chuyện, cuối cùng thường

thay đổi vị trí với chính những kẻ áp bức ban đầu để có được sự khen thưởng

99

ở cuối câu chuyện. Cũng giống như lời hứa mà nhiều tôn giáo thường đưa ra,

sự sống an nhàn và hạnh phúc mãi mãi sẽ đến với những ai biết tôn thờ vào lẽ

phải, và trung kiên đương đầu với mọi khó khăn.

Khi chúng ta xem xét các mô hình tái diễn trong các câu chuyện cổ tích từ

một hệ thống quan điểm gia đình, ví dụ, các nhóm tính cách xấu tập trung về

phía những đứa con riêng, là đại diện cho hệ thống cơ bản có liên quan đến

gia đình bị xáo trộn. Sự xáo trộn này có thể làm giảm bớt những phát triển

quan trọng vốn có của những đứa trẻ, so với những đứa trẻ trong các gia đình

bình thường. Trong quá trình những đứa trẻ đó tự thân phản kháng bởi nhận

ra những thiếu sót của cha mẹ, chúng có thể có những hành động chống đối

với cha mẹ như Hansel, và do đó nhận thấy chính mình chứ không phải cha

mẹ xấu. Điều đó có thể dẫn đến nhận thức rằng khi không có người lớn đáp

ứng nhu cầu của mỗi đứa trẻ thì chức năng sống còn của chúng có thể sẽ bị đe

dọa. Khi đó, chúng sẽ không thể vượt lên trên những cảm xúc đớn đau của

bản thân, mà phải tự tìm kiếm những điều tích cực bên ngoài để phân biệt tốt

xấu, do vậy, khó có thể phán đoán được dựa trên những kinh nghiệm mơ hồ

của con người.

Những kinh nghiệm nhận thức tốt xấu về những người khác trong tâm lí được

phản ánh trong những hình ảnh về cái tốt và cái xấu của các câu chuyện cổ

tích. Các nhà trị liệu cũng thường dẫn dắt bệnh nhân tới sự liên tưởng về nhân

vật chính trong các truyện cổ tích để giúp họ tạo ra sự đồng cảm và tự chấp

nhận, tự tha thứ cho chính mình. Trong các câu chuyện cổ tích của Grimm,

đầy rẫy những hình ảnh bạo lực nhưng không có điều gì là vô cùng tốt hay

hoàn toàn xấu. Có phù thủy và bà mẹ đỡ đầu, động vật hữu ích, quái vật và

loài rồng, nhưng không có những câu chuyện bình thường mà tất cả họ đều

100

tham gia, xuất hiện trong các câu chuyện để từ đó chúng ta thấy rõ một vùng

trời tràn đầy niềm vui và hạnh phúc, có cả khuôn mặt rạng rỡ và vinh quang

của các thiên thần. Như trong Cô bé Lọ Lem, gia đình ban đầu đã được xem

như là tập trung “tất cả các xấu", nhưng cô gặp một hoàng tử "hoàn hảo";

trong Hansel và Grethel, chia tách là giữa những hình ảnh ban đầu của mụ

phù thủy tốt cho đứa trẻ ăn bánh kẹo, sau đó sẽ chuyển mình thành phù thủy

độc ác tàn hại người để ăn thịt. Các nhân vật anh hùng và nhân vật nữ gặp

phải những trải nghiệm rừng, hoặc bị cha mẹ bỏ bê đó có thể coi là hình ảnh

nổi bật cho cuộc chia li.

Sigmund Freud chia bản năng của con người ra làm ba phần: Tự ngã (cái ấy),

với trung tâm của nó là vô thức (inconscience); Bản ngã (cái tôi), với trung

tâm của nó là ý thức (conscience); và Siêu ngã (cái siêu tôi), với trung tâm

của nó là tiềm thức (subconscience). Với các nhà phân tâm học, vô thức là

một cõi riêng, một phần riêng trong cấu trúc tâm thức của con người, nơi chứa

đựng những xung lực có tính bản năng và những ước mơ không thể thực hiện

được, thậm chí, nhiều khi là không thể chấp nhận được trong xã hội. Các nhà

phân tâm học xem các giấc mơ như những cửa ngõ chính để dẫn vào thế giới

vô thức. Trong lĩnh vực văn học, nhiều nhà phê bình theo khuynh hướng phân

tâm học cũng thường xem các tác phẩm văn học y như một giấc mơ. Vậy nếu

giấc mơ là một sự hoàn thiện trá hình những ước muốn bị dồn nén của con

người, tác phẩm văn học cũng chính là hình thức thăng hoa, hoặc kết tinh của

các ẩn ức bị dồn nén trong vô thức, từ thời thơ ấu.

Trong mô hình về nhân cách của Sigmund Freud, ban đầu ông chỉ ra hai hệ

thống: cái ấy và cái tôi, và sau này, ông bổ sung thêm cái siêu tôi.

Cái ấy là hàm chứa những ham muốn vô thức, hay những đam mê đã bị chèn

101

ra khỏi ý thức. Cái ấy là hàng vạn đêm trường của Công chúa ngủ trong

rừng; là sự cầu nguyện của mười hai bà mụ hòng cứu vớt công chúa bé nhỏ

khỏi lời nguyền độc địa của bà mụ thứ mười ba; là lời đay nghiến của người

cha trong Bảy con quạ đã vô tình biến những đứa con mình thành quạ, và

cũng chính là sự cặm cụi, lầm lũi chăm chỉ của Lọ Lem khi bị mẹ kế và hai bà

chị chèn ép ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

Cái tôi là tiêu chuẩn chẩn hóa chính xác cho các rối loạn của các nhân vật.

Cái tôi được ý thức đó, chính là sự trung gian giữa Cái ấy và thế giới bên

ngoài, được hình thành trong quá trình xã hội hoá cá thể. Cái tôi phục vụ

những ham muốn của Cái ấy, mưu toan dẫn dắt những kích thích hành động

phi lý của Cái ấy để tương hợp với những đòi hỏi của hiện thực, với những

luận cứ của lý tính, nhằm hạn chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những

cơ chế phòng vệ khác nhau. Sự rối loạn của người cha trong Hansel và

Grethel khi phải tranh đấu giữa tình yêu thương con cái và sự lấn át của người

vợ chính là một rối loạn khi phần ý thức của người cha đã bị tác động bởi

người vợ, và chiến thắng phần vô thức, chiến thắng tình cảm của mình dành

cho hai người con. Sự rối loạn mà Cái tôi mang lại cũng có thể dễ dàng nhận

ra ở nhân vật phù thuỷ trong Nàng Bạch Tuyết, mỗi lần bà ta phát hiện ra rằng

Bạch Tuyết vẫn chưa chết và bà không phải là người xinh đẹp tuyệt trần. Sự

rối loạn đó lên cao bởi nỗi ngờ vực về một “hoàng hậu mới”, khiến bà phân

vân có nên tới dự hôn lễ hay không, để rồi phải đón nhận cái chết sau khi

nhảy múa không ngừng với đôi giày sắt nung đỏ. Quan trọng nhất là cơ chế

để chèn ép những ham muốn không cần thiết ra khỏi giới hạn của ý thức từ

góc độ văn hoá, nhờ lý tính ý thức lý giải những hành động bị động dấy lên

bởi những khao khát không được phép từ quan điểm xã hội, và những động

cơ được xã hội chấp nhận. Với sự trợ giúp của việc thăng hoa và kết tinh các

102

ẩn ức, những năng lượng của sự kích động vốn bị cấm đoán lại được giải toả

bằng những phương thức khác nhau mà cả xã hội và mỗi cá nhân đều có thể

chấp nhận.

Cái siêu tôi là kết quả của việc làm tương ứng những đòi hỏi và những mệnh

lệnh của đời sống xã hội. Quá trình chuyển hoá những đòi hỏi và những mệnh

lệnh bên ngoài thành các nhân tố của thế giới bên trong được thực hiện dưới

ảnh hưởng của các quan hệ gia đình và xã hội. Sự tác động của Cái siêu tôi sẽ

nảy sinh cảm giác của lương tâm. Cái siêu tôi đã giúp bác thợ săn thả cho

Bạch Tuyết đi, và tìm vật thế thân cho nàng, đem về báo cáo với hoàng hậu;

đã khiến mười hai chàng hoàng tử trong Mười hai anh em sống nhiều ngày

trong rừng với lời nguyền thề sẽ giết chết người con gái đầu tiên họ gặp,

nhưng lại trở nên hiền hoà và ôm chầm lấy cô em gái một cách mừng rỡ. Cái

siêu tôi cũng hiện hữu trong Anh trai và em gái, để cho nàng hoàng hậu trẻ

xấu xố vẫn hiện về vỗ về đứa con nhỏ hàng đêm, và rồi tình yêu thương chân

thành vô bờ bến đó cũng được đền đáp. Trong những trường hợp này, quá

trình xung đột giữa Ý thức và Vô thức trong các mạch truyện không dẫn đến

một điều gì bi kịch, mà dẫn đến một lối giải thoát, những khát khao không

được thoả mãn đã được thăng hoa.

Truyện cổ Grimm với hệ thống nhân vật mà thường xuyên thay đổi vai trò và

thay đổi hình dạng: Một con ếch có thể thay đổi thành một hoàng tử, hay một

phù thủy có thể có thể là mẹ kế và con người có thể thành chim chóc, muông

thú. Những hình thức thay đổi không chỉ dừng lại ở ngoại hình, mà cũng được

nhìn thấy trong sự rối loạn nhân cách, và đôi khi sự rối loạn nhân cách chi

phối chính sự thay đổi về ngoại hình. Con người khi ấy cũng có thể nhanh

chóng thay đổi hình dạng như tâm trạng bên trong từ sợ hãi, giằng co, hay để

103

yêu thương.

Cái ấy chứa những khuynh hướng bản năng; Cái tôi là vùng hiện thực nằm

giữa các ham muốn của Cái ấy và Cái siêu tôi; Cái siêu tôi đóng vai trò phê

bình và luân lý, và có thể ngăn cấm Cái ấy thực hiện những điều hằng mong

muốn.

Rối loạn tâm lý nhân vật thường rơi cùng một chiều hướng với mức độ

nghiêm trọng nhất, tăng dần theo hướng khuyếch đại. Những chấn thương

tâm lý của tuổi thơ, có thể bị suy giảm độ phát triển và sau đó bảo vệ chống

lại nỗi đau tinh thần bằng cách trở thành động lực chia tách, tạo ra biên giới

ngăn cách ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Một mô hình lạm dụng điển hình

có thể được tìm thấy trong câu chuyện của Hansel và Grethel: Các bậc phụ

huynh tập trung vào trẻ em và đổ lỗi cho chúng vì các điều kiện nghèo mà gia

đình sinh sống. Lựa chọn cách loại trừ gánh nặng của trẻ em bằng cách từ bỏ

chúng vào rừng, họ hy vọng có thể giải quyết những gánh nặng áp đảo của

cuộc sống và cứu rỗi lấy gia đình mình. Mỗi cá nhân tự tìm cách giải phóng

đau đớn bên trong của tập thể, cũng như tìm cách tự giải phóng mình bằng

cách gia tăng nỗi đau tinh thần của chính họ.

Trong truyện cổ Grimm, những so sánh với mô hình gia đình nổi lên và dễ

dàng để chúng ta quan sát, như cái chết và sự tái sinh, mẹ tốt và mẹ ác, hôn

nhân, và rời khỏi nhà. Các nguyên mẫu và các hệ thống được đặc trưng bởi

tính hai mặt, có sự tác động giữa các mặt đối lập, đặc điểm của hệ thống phân

cấp, vì vậy những người bị lạm dụng ngay từ đầu, trong các câu chuyện cổ

tích và trong các gia đình bị xáo trộn, cuối cùng có thể thay đổi vị trí với

những kẻ áp bức để sắp xếp lại các cân bằng ban đầu của quyền lực nơi các

xáo trộn đã được tạo ra. Ở đây, văn học có một vai trò đáng chú ý trong việc

104

tác động lên căn tính, các căn tính được xây dựng trong một quá trình liên tục

phản ảnh với người khác. Để biết chúng ta là ai, chúng ta cần phải học “người

khác” là ai, và ngược lại. Các đối tượng đã bị ngược đãi, để rồi trải qua cả

một thời kì khó khăn, đạt tới một địa vị mới, trong bối cảnh mới và quyền lực

mới, có khả năng hình thành căn tính của chính đối tượng đã bạo hành mình

khi xưa.

Cả hai nhà phân tâm học Carl Jung và nhân chủng học Gregory Bateson đã

quan tâm đến các mô hình kết nối các sự kiện sinh học và tâm lý. Bateson,

nghe có vẻ như Jung, nói, "Tôi nhặt lên một mơ hồ, cảm giác thần bí mà

chúng ta phải tìm kiếm các loại cùng một quy trình trong tất cả các lĩnh vực

của hiện tượng tự nhiên, ta phải xem xét cho cùng một loại pháp luật tại nơi

làm việc trong cơ cấu một tinh thể như trong cấu trúc của xã hội". Có thể

Bateson và Jung đã quan sát và tập trung vào các quy trình tương tự và dán

nhãn chúng khác nhau không? Có thể nguyên mẫu của Jung được hệ thống

của Bateson?

Có thể phát triển các lý thuyết Masterson của rối loạn nhân cách ranh giới và

bản thân cũng giải thích sự lặp lại tốt nhất cho những đứa trẻ? Những câu

chuyện trong đó các anh chị em lớn tuổi lạm dụng con gái út trong gia đình

như là một phương tiện để bảo vệ chống lại chính họ cảm thấy bất cập?

Nhân vật nữ chính có thể bị ảnh hưởng bởi tai họa, nhưng đều có thể tìm thấy

sự cứu chuộc nếu có lòng can đảm để rời khỏi mối quan hệ không hài hòa mà

tìm thêm những nguồn sống mới, hoặc bắt đầu một không gian sống nhân ái

hơn. Các nhân vật anh hùng được định hình như một mẫu người, thường được

105

mong đợi, thường sử dụng các nguồn nội lực để giải quyết vấn đề.

Sự thay đổi đáng kể nhất thường được thấy qua mô thức: Cuộc hành trình của

các anh hùng hay các nhân vật nữ chính thường mở ra cơ hội, tạo ra các cuộc

gặp gỡ để thông qua đó, những người khác trở thành trung gian cho trải

nghiệm đầu đời có ý nghĩa quyết định với cuộc đời của họ. Nếu khi đó, nhân

vật chính có thể biến đổi năng lượng bên trong vết thương sâu sắc, kết hợp

cùng sự đồng cảm với người khác, họ sẽ tạo ra những tuyệt tác bất ngờ để

đương đầu với số phận. Kết quả đó sau này sẽ khiến cho anh ta/ cô ấy đóng

góp cho một thế giới tốt hơn, trong một vai trò chủ động hơn và trong các

nhóm quan hệ xã hội rộng lớn hơn.

Nhiều câu chuyện cổ được liên hệ mật thiết với tự nhiên, với khả năng chữa

lành của mẹ thiên nhiên, đối với tất cả các chứng bệnh, thể xác lẫn tinh thần.

Các nhân vật dành nhiều thời giờ để nhuốm mình vào thiên nhiên, cô đơn

trong thiên nhiên, lạc lõng trong thiên nhiên chính là để chữa lãnh, bổ khuyết,

làm mới và làm mạnh chính bản thân mình. Thiên nhiên có một tầm quan

trọng sống còn trong cả quá trình chuyển đổi đó.

Các diễn biến quan trọng của phần lớn truyện cổ thường xảy ra trong một khu

rừng tối tăm. Cuộc sống tháng đoạn năm trường của mười hai chàng hoàng tử

trong Mười hai anh em diễn ra trong một khu rừng. Hai anh em Hansel và

Grethel cũng bị bố mẹ nhiều lần đưa vào rừng, tìm đường trở về nhà, để rồi

lại bị đưa vào rừng, lạc đường và trở về nhà sau khi đương đầu với mụ phù

thuỷ trong ngôi nhà bánh kẹo. Khi Bạch Tuyết bị bà mẹ kế ám hại, bác thợ

săn tốt bụng đã thả nàng đi, khu rừng không chỉ là nơi ẩn trú cho nàng, bao

bọc nàng, mà còn đã dành một trái tim nai để một lần đổi lấy mạng sống của

nàng. Cô bé quàng khăn đỏ vô tư nghe theo lời sói, ở trong rừng; cô bé khăn

106

đỏ mải mê hái hoa và lạc đường, cũng ở trong rừng; và vị cứu tinh của hai bà

cháu - bác thợ săn, cũng xuất hiện ở trong khu rừng. Sự huyền bí của những

cánh rừng đã biến chúng trở thành một biểu tượng vô cùng đặc trưng và xuất

sắc. Sự gian khó xuất hiện nơi những cánh rừng, sự giải thoát cũng xuất hiện

nơi những cánh rừng; khi các nhân vật lạc lối và phải xa rời cộng đồng, khi họ

phải thực thi một nhiệm vụ hay chuẩn bị đương đầu với một âm mưu, họ

đến/bị đẩy đến những cánh rừng. Những cánh rừng đồng thời gầm gừ đe doạ,

đồng thời vỗ về an ủi; vừa tối tăm nanh vuốt, nhưng cũng vừa bao bọc chở

che.

Xét trường hợp Công chúa ngủ trong rừng, thì cả triều đình chìm vào giấc

ngủ, và cả lâu đài biến thành một khu rừng. Nàng công chúa tội nghiệp vừa

mới sinh ra đã bị một lời nguyền, để khi nàng tròn mười lăm, thì cả lâu đài

tráng lệ trở nên một khu rừng bí hiểm. Ẩn ức trong tình huống này không chỉ

đến với một mình nàng công chúa, mà còn đến với cả triều đình, và trở thành

một sự huyền bí, huyễn hoặc và đe doạ cả biết bao vùng đất lân cận. Nàng

công chúa không có tội, nhưng cả triều đình đều phải ngủ vùi cả trăm năm.

Cũng giống như cách mà Kitô giáo lý giải về “Tội Tổ tông truyền”, mọi tội

lỗi sẽ được rửa sạch vào ngày sau, nếu như con người có niềm tin, và phần

thưởng lớn lao, hạnh phúc lớn lao sẽ dành cho kẻ nào có niềm tin kiên định.

3.3 Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm

Những năm 1960, đánh dấu sự khởi đầu của phong trào giải phóng phụ nữ ở

các nước phương Tây, tạo nên một làn sóng của nữ quyền. Mục đích chính

của những làn sóng này là nâng cao nhận thức đúng đắn của phụ nữ, mang lại

sự giải thoát cho phụ nữ và khuyến khích những hành động tập thể. Phụ nữ tự

107

hỏi tại sao họ phải hạ mình chấp nhận số phận, và tại sao họ nên sống trong

những quy tắc bị quy định bởi nam giới. Họ không thể là đối tượng về sự nữ

tính vĩnh cửu, càng không phải là đối tượng phục tùng.

Thông qua các câu chuyện cổ tích mà xã hội gia trưởng áp đặt cách luật lệ và

và cách cư xử với nhân vật. Những nhân vật nữ chính, như chúng tôi đã phân

tích ở trên, phải trải qua một loạt các thử thách, sự bất hạnh và đau khổ cho

đến khi được giải cứu, kết thúc sự đau buồn. Trong nhiều câu chuyện của

Grimm, chúng ta thấy sự bạo tàn và nhân vật nữ chính thường là người chịu

đựng. Nếu các nhân vật nữ được xuất hiện trong tất cả các hoạt động từ phần

đầu của câu chuyện, nhân vật nữ sẽ cần đi qua tất cả các trải nghiệm khắc

nghiệt trước khi kết hôn với hoàng tử. Điều đáng để lưu tâm là, những nhân

vật nữ khác hầu hết là người chủ động, như Grethel là người cứu Hansel từ

một mụ phù thủy hoặc Cô bé choàng khăn đỏ - người vượt qua thử thách mạo

hiểm, nhưng lại không chuyển sang trạng thái kết hôn – biểu tượng của sự

trưởng thành. Các nhân vật nữ này vẫn chưa được đặt vào đúng vai trò người

trưởng thành của họ.

Quay trở lại vấn đề mà các câu chuyện cổ trong bộ Grimm đưa ra về phụ nữ,

chúng tôi có thể nói rằng những nhân vật nữ vẫn có khả năng thoát khỏi hệ

thống biểu tượng của chế độ gia trưởng, bởi vì họ không phải đối mặt với việc

không được tránh khỏi sự nữ tính. Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện

của Grimm có thể chuyển thể vào trong cuộc sống thực chuẩn mực văn hóa

trong đó đề cao sự thụ động, phụ thuộc và tự nguyện hi sinh như là phẩm chất

của phái nữ. Những người đàn ông tốt có khả năng giảm sức ảnh hưởng của

phụ nữ và làm giảm khả năng gây hại của họ đối với con cái. Những người

phụ nữ đẹp phải được sở hữu còn những người phụ nữ xấu thì phải bị trừng trị

108

và phải bị giết. Phụ nữ bị vô hiệu hóa mọi mặt, sẵn sàng trở thành một phần

của thế giới đàn ông. Họ không được mong muốn có những cá tính cá nhân,

và đó là lí do tại sao phụ nữ luôn có những mong muốn khi họ đang ngủ

(Nàng Bạch Tuyết, Công chúa ngủ trong rừng). Họ hoàn toàn vô hại khi họ

đã chết, hay khi họ ngủ. Khi đó, đàn ông hoàn toàn không phải đối phó bất cứ

điều gì với phụ nữ.

Vì vậy, người đàn ông khiến phụ nữ hành xử theo cách mà họ thích, và vô

hiệu hóa sự nữ tính của mình, họ sẽ không xung đột với các nữ tính trong

những người đàn ông mà Jung gọi là “Anima” (nữ tính bên trong một người

đàn ông).

Những phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm được hình thành bởi những

người đàn ông như vậy, họ không đại diện cho ý tưởng về một người phụ nữ

nữ tính nhưng vẫn giữ các yếu tố nữ tính đó. Điều quan trọng nhất đối với các

anima không phải là có được phần thưởng bằng sự kết hôn, mà với họ, điều

quan trọng nhất là nhận ra được sự nữ tính của chính mình. Với hình ảnh này,

phụ nữ thực sự bị đánh giá thấp.

Ngoài anima còn có “animus” (sự nam tính bên trong người phụ nữ). Các

animus khiến chúng ta nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ phức tạp. Các

hoạt động, các hành vi nam tính bên trong của người phụ nữ có liên quan đến

trải nghiệm của người phụ nữ với cha mình, và kinh nghiệm này chúng ta

hoàn toàn có thể xác định được thông qua cách cư xử, thái độ của họ với

những người đàn ông khác trong cuộc sống.

Rõ ràng là khi nhân vật nữ hoàng/ người vợ qua đời, trong bất kì trường hợp

109

nào cũng sẽ có một sự nữ tính –người phụ nữ khác liên kết với nhà vua. Nếu

nhân vật nữ hoàng/ người vợ vắng mặt, điều đó có nghĩa là không còn bất kì

vị thần tình yêu (Eros) nào trong hệ thống [7]. Đó là lí do tại sao toàn bộ trọng

tâm của câu chuyện tập trung vào cô con gái. Những đổi mới của vương quốc,

sự cân bằng được cung cấp bởi sự nữ tính đều đi thông qua hình ảnh của các

công chúa.

Gánh nặng đặt trên vai các công chúa là bây giờ cô ấy chịu trách nhiệm với

các vị vua tương lai, với chồng của cô. Nhưng các vị vua/các ông bố có thể

chống lại sự thay đổi, sự đổi mới bằng nhiều cách khác nhau. Điều này có thể

giải thích lí do tại sao cha của Cô bé Lọ Lem hoàn toàn không quan tâm đến

nhu cầu, mong muốn và nguyện vọng của cô bé, bỏ mặc hoàn toàn cô bé

trong những khó khăn, sự hành hạ của mẹ kế hoặc như Bạch Tuyết bị giam

cầm trong một quan tài bằng kính, hoàn toàn cô lập với thế giới, với các cảm

quan xung quanh. Như Marie Louise von Franz nhận định, “...vì đó là con gái,

không phải là người cầu hôn, mà là người rơi vào bẫy. Con trai-trong-pháp

luật đại diện cho tương lai là người được mệnh để trở thành vua...” Ở đây, đàn

ông chỉ là một tác nhân xúc tác. Khi các yếu tố nam tính là rất mơ hồ, và các

công chúa, các cô con gái được mang đặc trưng đầy đủ hơn - Số phận của cô

là trung tâm - chúng ta biết rằng điều này có lẽ là một ý định của câu chuyện.

Để bênh vực phụ nữ, các nhà nữ quyền đã bỏ qua hình ảnh về những người

phụ nữ độc ác xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích. Đối ngược với sự đáng

yêu, dịu dàng, xinh đẹp của những nạn nhân không bao giờ phàn nàn trong

truyện Grimm là những hình ảnh phù thủy, mẹ kế, hoàng hậu độc ác. Nữ

hoàng sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nhìn thấy Bạch Tuyết chết. Bà mẹ kế

độc ác trong cô bé Lọ Lem luôn tìm cách để nhiệm vụ của cô không được

hoàn thành và khiến cho cô đau khổ. Những nhân vật này được miêu tả rất

110

độc ác, xấu xa, thậm chí làm hỏng chuyện. Và ở phần cuối, họ lại chết một

cách dữ dội. Điều này nhấn mạnh sự tiêu cực của phụ nữ. Đó là vấn đề giữa

hai hình ảnh người mẹ tốt và người mẹ xấu, vấn đề giữa con gái và mẹ. Cách

duy nhất để hòa giải với mẹ là tách thành hai thực thể: một bên là hài lòng với

hình ảnh “mẹ tốt” và bực bội với hình ảnh “mẹ xấu”.

Khi đứa trẻ lớn lên, cần có sự kết nối giữa âm thanh, kết hợp với người mẹ -

người chăm sóc chính. Mẹ là nguồn nuôi dưỡng chính, đứa trẻ chỉ tự nhiên

cho rằng, sẽ trông mong vào mẹ, bám vào mẹ để được đáp ứng tất cả các nhu

cầu. Đối với trẻ sơ sinh, mẹ là tất cả sự cho và nhận niềm yêu thương, là

nguồn gốc của mọi điều tốt lành trong thế giới. Khi lớn lên, theo thời gian, trẻ

có thể nhận ra không phải lúc nào mẹ cũng có thể luôn luôn đáp ứng tất cả các

nhu cầu của trẻ. Ban đầu, những đứa trẻ sơ sinh sẽ không thể đưa ra giải thích

hoặc ý nghĩa của thực trạng này. Chính vì vậy, không thể ngăn chặn trẻ bám

vào hình ảnh một người mẹ tốt. Theo thời gian, thực tế cuộc sống buộc những

đứa trẻ phải đối mặt với hiện thực đáng lo ngại rằng những người chịu trách

nhiệm cho cuộc sống của chúng có thể phù hợp hoặc không phù hợp, có cả

hài lòng và bực bội, có cả tốt và xấu. Nhưng vấn đề là những đứa trẻ bị cản

trở bởi các giới hạn về khái niệm, nguồn lực. Và cách thức tốt nhất là “tách”

mẹ thành hai thực thể khác nhau.

Đứa trẻ khi đó có thể có được các câu trả lời cho các hình ảnh như thể đó là

một thực thể riêng biệt và khác biệt để đưa vào sự trật tự, nếu không sẽ rất

khó hình dung về thế giới. Điều này cho phép những đứa trẻ được đáp ứng

bởi “người mẹ tốt” và có thời điểm bị khủng hoảng bởi “người mẹ kinh

khủng”. Kết quả là người mẹ tốt hướng đến những trải nghiệm ít ỏi bên trong,

một phần nữa hướng đến “cái tôi tốt” trong khi người mẹ xấu mang đến

111

những kinh nghiệm về sự tiêu cực hay “cái tôi xấu”. Về cơ bản, trong truyện

cổ Grimm có hình ảnh mẹ đỡ đầu, phụ thủy và các nhân vật nữ khác có chức

năng phân tách khái niệm trong trí tưởng tượng của trẻ.

Theo tâm lí học, có thể giải thích được rằng một đứa trẻ nghĩ rằng mẹ thờ ơ

với nhu cầu của mình, tức giận, trừng phạt, đe dọa khiến trẻ thậm chí muốn

thoạt khỏi mẹ trong một thời gian. Những phụ nữ nhẫn tâm khi này phải là

một “người xâm nhập” khác, người đi ra khỏi những nơi tốt, người biến

những nơi mà đứa trẻ sống thành không còn nhìn thấy cái tốt. Vậy thì đó phải

là mẹ kế, là phù thủy, hoặc sói,… những người sẽ được thay thế khi hình ảnh

của người mẹ tốt sau đó lại xuất hiện.

Một điều khác nữa, có thể nhận thấy là vấn đề đi xa khỏi ngôi nhà của mình

của các nhân vật nữ chính. Đó là một khía cạnh khác có vấn đề trong truyện

cổ Grimm mà có thể suy nghĩ nhiều mặt. Các nhân vật nữ chính trong các câu

chuyện cổ tích bước khỏi ngôi nhà của mình và đi vào rừng hoang, bị giam

trong tòa tháp như Cô bé Lọ Lem, Rapunzel, Bạch Tuyết để đi vào các khu

rừng hoang, bị đối xử tàn tệ. Có thể chúng ta sẽ đổ trách nhiệm dồn về cho mẹ

kế, cho mụ phù thủy độc ác nhưng cũng có thể nhìn thấy một ý nghĩa ẩn trong

việc phá vỡ nguyên tắc và đi ra khỏi nhà. Một mục đích được ẩn sâu trong đó

với nhân vật.

Tiểu kết

Tất cả các nhân vật chính trong bộ truyện cổ Grimm đều đi ra khỏi nhà hoặc

phải đối mặt với những thử nghiệm theo cách của riêng mình để trưởng thành,

để nhận ra được giới tính của mình. Câu chuyện về các cô gái không phải là

112

một quỹ đạo đơn giản từ khi phá bỏ sự trong trắng của con gái để kết hôn, lao

vào một thời kì bóng tối mà đó là họ cần phải để cho cảm xúc bắt kịp với sự

thay đổi của cơ thể.

Công chúa chìm trong giấc ngủ sâu hay sự chờ đợi của cô bé Lọ Lem, Bạch

Tuyết chìm vào giấc ngủ trước khi sẵn sàng mở mắt để thấy một hoàng tử.

Giai đoạn này của bóng tối là giai đoạn mà nhân vật nữ chính phải trải qua, vì

đây là cách duy nhất để bắt kịp với sự nữ tính của cô. Các nhân vật chính nên

bị đày ải qua một người mẹ kế độc ác hay một mụ phù thủy vì điều này không

thể thực hiện bởi người mẹ tốt. Trong hầu hết các chuyện thuộc đối tượng

khảo sát của chúng tôi, các cô gái không bao giờ nghi ngờ sự thật, đó là điều

tạo hóa tạo nên, dưới hình dạng của mẹ kế độc ác, của phù thủy, tác nhân xấu

được tăng lên, đẩy cô gái ra khỏi cảnh độc thân và chuyển tiếp vào giai đoạn

tình dục – đó là điều mà những người mẹ tốt không làm. Những người mẹ tốt

luôn con mình là một đứa trẻ, mãi mãi và không bao giờ có thể làm được điều

ấy.

Chúng ta có thể thấy các bà mẹ kế độc ác, các phù thủy, các nữ hoàng xuất

hiện mang lại nhiều điều tàn độc, bạo tàn nhưng chúng ta không thể phủ nhận

vai trò quan trọng của những nhân vật này trong các câu chuyện cổ. Đó là

những người cung cấp các xung đột Oedipal trong truyện cổ tích. Điều khiến

hạnh phúc của các cô con gái với Cha bị gián đoạn mang một ý nghĩa lớn

hơn, tức là có tồn tại một ý đồ xấu xa (tức là mẹ). Vào cuối của các câu

chuyện, phù thủy, những người mẹ kế độc ác phải bị giết chết hoặc bị trừng

phạt dữ dội vì nhân vật chính muốn diệt trừ người mẹ xấu trong tim mình.

Các trở ngại khiến cô con gái không có kết nối với người cha bị phá hủy vĩnh

viễn. Niềm tin về người mẹ tốt theo đó cũng được củng cố, sẽ không bao giờ

113

cảm thấy ghen tị với con gái mình hoặc ngăn cha/hoàng tử chung sống hạnh

phúc cùng nhau. Vì vậy, đối với các cô gái, niềm tin vào lòng tốt của mẹ và

lòng trung thành với hình ảnh của người mẹ tốt sẽ giúp làm giảm xu hướng

cảm giác tội lỗi về những gì có thể xảy ra với mẹ theo cách suy nghĩ của

114

mình.

KẾT LUẬN

Dưới ánh sáng của phân tâm học, luận văn hướng đến mục đích cho thấy các

câu chuyện cổ tích nói chung và bộ truyện cổ Grimm nói riêng có sự xuất

hiện của vô thức tập thể với thiên nhiên trong nguyên mẫu. Mặc dù các câu

chuyện cổ tích bị thay đổi theo thời gian nhưng vẫn tiếp tục có những ảnh

hưởng mạnh mẽ trong tâm trí của mỗi chúng ta và bắt nguồn từ trí tưởng

tượng của dân gian. Điều này chứng minh rằng truyện cổ tích phục vụ các

mối quan tâm cơ bản của con người. Mặc dù có sự mơ hồ trong những biểu

tượng trong truyện cổ tích, nhưng ngôn ngữ của các biểu tượng vẫn dẫn dắt

chúng ta đi trên con đường tâm lí của con người.

1. Bằng cách nghiên cứu các quá trình cấu trúc trong phạm vi nghiên cứu,

chúng tôi đã tìm ra những nội dung bạo lực cao hiện hữu trong bộ truyện cổ

Grimm. Dựa vào mức độ tham gia. Những thành phần tham gia hành vi bạo

lực một cách chủ động thường được xác định là con người, động vật và các

sinh vật ma thuật, hoặc thụ động (nạn nhân hay kẻ đồng lõa) thường được xác

định thuộc nhóm vợ chồng. Từ đó, kết luận rằng những người đang nắm giữ

quyền lực là một trong những đối tượng gây nên hành vi bạo lực, bất kể điều

kiện. Tất cả các hành vi bạo lực của con người đều được thực hiện bởi những

người nắm giữ một địa vị xã hội cao hơn về mặt cấu trúc chính trị (vua và

hoàng hậu) hoặc cấu trúc gia đình (cha, mẹ, anh chị em đối với con ruột yếu

thế hơn). Mối quan hệ giữa bạo lực và quyền lực là phổ biến trong bộ truyện

cổ, cho phép những người có vị trí xã hội cao hơn gây những hành vi bạo lực

với những người kém may mắn hơn.

2.Từ những kinh nghiệm thơ ấu của chính chúng ta có thể thấy rằng nhưng

câu chuyện về bạo lực thực sự tạo nên cảm giác lo sợ cho chúng ta, mặc dù

115

chúng ta có thể không hiểu lí do tại sao chúng ta lại được nghe những câu

chuyện như vậy và bằng cách thức nào chúng ta có thể vượt qua được. Thực

chất, có thể những câu chuyện dân gian không đáng sợ mà bởi những kì thị,

những quan điểm xung quanh nó. Chúng ta vốn dĩ được sinh ra trong sự sợ

hãi. Chúng ta được dạy về sự sợ hãi trước tiên bởi chính mẹ chúng ta khi họ

đối diện với những nỗi sợ, lo lắng liên tục trong tâm trí từ khi chúng ta còn

trong bụng. Do đó, người ta có thể thừa nhận những câu chuyện cổ tích tồn tại

những nỗi sợ hãi và bạo lực nhưng không nên sợ việc trẻ lớn lên và chia sẻ sự

hồi hộp, sợ hãi với người lớn, bởi đó là một phần của hoạt động học.

Hầu hết các câu chuyện của anh em nhà Grimm đều được xây dựng với một

phần ban đầu, sau đó di chuyển, thay đổi các thông tin và kết thúc bằng “họ

sống hạnh phúc mãi mãi về sau”. Điều này chứng tỏ rằng bộ truyện cổ Grimm

bất chấp những lời chỉ trích từ mọi góc độ vẫn luôn cân bằng và lành mạnh.

Nếu chúng ta có thể dạy cho con cái chúng ta làm thế nào để đối diện với nỗi

sợ hãi và bạo lực một cách lành mạnh bằng cách sử dụng các ví dụ tốt trong

truyện cổ, thế giới của chúng ta (hi vọng) sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn.

3.Các câu chuyện cổ trong bộ của Grimm có những nguyên tắc trong xã hội

và đồng thời có tính chất phổ biến. Từ tiếng cười, đến cái kết có hậu trong

từng câu chuyện, tính phổ quát được chia sẻ trong nhiều trang sách đều hướng

đến quần chúng, đến số đông như quan niệm của Jung về vô thức tập thể, bắt

nguồn từ kinh nghiệm tập thể. Từ các phân tích trong những câu chuyện của

Grimm, với các hình ảnh căn tính bạo tàn, với những nguyên tắc giáo dục các

cô gái có thể trở thành hướng dẫn giảng dạy cho những đứa trẻ khi bước vào

cuộc sống với thế giới quan đa dạng: bạn sẽ bị trừng phạt khi làm sai, khen

thưởng khi cư xử tốt, các nhân vật trong truyện cổ tích đồng thời cũng thử

116

thách các trật tự xã hội bằng cách xây dựng các yếu tố nguy hiểm cho hệ

thống và tiết lộ những lo âu trong tâm lí của con người. Các cô gái hay chàng

trai đóng vai nhân vật chính được kì vọng sự trưởng thành thông qua những

thử thách, trải nghiệm.

4.Nhân dân phải trừng phạt cái ác, sự ham muốn của đàn ông để hạn chế

những người phụ nữ sẽ gặp trong những trang truyện. Hầu hết mọi người cho

rằng trẻ em là đối tượng phù hợp cho những câu chuyện cổ tích giống như

việc cho rằng trẻ em có sự kết nối với chuyện cổ tích. Giả định này là sai,

người lớn có thể hiểu các câu chuyện cổ tích, có nhiều chất liệu trong đó

không chỉ dành cho trẻ em. Thương lượng, an ủi và tưởng tượng là tất cả

những gì cả người lớn và trẻ em đều có thể qua. Những câu chuyện cổ tích

dạy cho người lớn và trẻ em các bài học khác nhau, mà người lớn nào cũng

117

cần phải học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Trần Thị An (2008), Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và

motif - Những khả thủ và bất cập, Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 7,

tr86, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

3. Lê Huy Bắc (2007), Cổ tích hiện đại: Cô bé bán diêm của Andersen,

Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 7, tr 133.

4. Lê Huy Bắc (2013), Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam, Nxb. Tri

Thức, Hà Nội.

5. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb. Đại học

Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Bataille, Georges. (2012), Văn học và cái ác, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

7. Benac, Henri. (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

8. Chevalier, Jean. and Gheerbrant, Alain. (2002), Từ điển biểu tượng văn

hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

9. Deleuze, Gilles. and Guattari, Felix. (2013), Kafka vì một nền văn học

thiểu số, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

10. Grimm, J. and Grimm, W. (2014), Truyện cổ Grimm (trọn bộ 4 cuốn),

Nxb Nhi Đồng, Hà Nội.

11. Đinh Hồng Hải (2007), Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân

học biểu tượng ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc

học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng: một số hướng tiếp cận

118

lí thuyết, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

13. Đinh Hồng Hải (2010a), Nghiên cứu văn hoá từ góc nhìn nhân học biểu

tượng, Tạp chí Dân tộc học, số 5, năm 2011, Hà Nội.

14. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

15. Đào Duy Hiệp (2009), Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện

đại, Hội thảo Tự sự học dân gian, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, Hà Nội.

16. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (1998) - Võ Quang Nhơn - Chu Xuân

Diên, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

17. Lưu Hồng Khanh (2006), Tâm lý học chuyên sâu ý thức và những tầng

sâu vô thức, Nxb. Trẻ, Tp. HCM.

18. Phương Lựu (2012), Lí thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb. ĐH Sư

phạm, Hà Nội.

19. Lyotard, J.F (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

20. Petrescu, Liviu. (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

21. S.Freud – C.G.Jung. (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb.

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

22. Sen, Amartya. (2014), Căn tính và bạo lực: huyễn tưởng về số mệnh,

NXB Tri thức, Hà Nội.

23. Thế giới, Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học, Nxb. Thế giới, Tp.

HCM.

24. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn (phê bình phân tâm học),

Nxb. Tri thức, Hà Nội.

25. Wilson, E. O. (2014), Về bản tính người, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài

26. Bagshaw, D. M.(2003), Language, Power and Mediation. Australasian

119

Dispute Resolution Journal 14 (2), (pg 130–141), Australia.

27. Bettelheim, Bruno (1989) The Uses of Enchantment: The Meaning and

Importance of Fairy Tales, Random House, 1975, Newyork.

28. Guggenbühl, Allan. (1996), The Incredible Fascination of Violence:

Dealing with aggression and brutality among children, trans. Julia

Hillman, Connecticut: Spring Publications, Woodstock.

29. Haase, D. (1996), The reception of Grimms' fairy tales: Responses,

reactions, revisions. (pg 35-50), Wayne State University Press, Wayne.

30. Horno, P. (2005), Love, Power and Violence. A Comparative Analysis

of Physical and Humiliating Punishment Patterns, Save the children,

Madrid.

31. Tatar, Maria. (2003), The Hard Facts of the Grimm’s Fairy Tales (pg

121-127), Princeton University Press, Princeton.

32. Tolkien, John Ronald Reul (1963), The Monsters and the Critics. An

Anthology of Beowulf Criticism. Ed. Lewis E. Nicholson. London.

33. Van Dijk, T.(2001a), Critical Discourse Analysis. In Schiffrin,

Deborah, Tannen, Deborah and Hamilton, Heidi E. (eds.) the

Handbook of DiscourseAnalysis (pg 352-371), Blackwell, Oxford.

34. Zipes, Jack David. (2002), Breaking the Magic Spell: Radical Theories

of Folk and Fairy Tales, The University Press of Kentucky, Kentucky.

35. Zipes, Jack David. (2012), Fairy tales and the art of subversion (pg57).

Routledge.

36. Zipes, Jack David. (2013), Happily ever after: Fairy tales, children,

and the culture industry (pg39-61) Routledge.

Tài liệu mạng

37. Kim Đồng, Ấn bản "Truyện cổ Grimm" đầy đủ nhất được NXB Kim

120

Đồng phát hành, nxbkimdong.com.vn

diem/105385-ra-m%E1%BA%AFt-phi%C3%AAn-b%E1%BA%A3n-

vi%E1%BB%87t-%C4%91%E1%BA%A7y-%C4%91%E1%BB%A7-

201-truy%E1%BB%87n-c%E1%BB%95-grimm.html> (22/12/2015).

38. Lương Thị Khuyên (2011), Tìm hiểu motif thách đố trong truyện cổ

tích, Tapchivan.com

hieu-motif-thach-do-trong-truyen-co-tich-108.html> (28/10/2011).

39. Trần Lê Hoa Tranh (2012), Từ nàng tiên cá của Han Christain

Andersen đến nàng tiên cá của Walt Disney, Tapchivan.com

cua-hans-christian-andersen-den-nang-tien-ca-cua-walt-disney-

265.html> (5/3/2012).

40. Grimm's Fairy Tales, Grimmstories.com

(2015).

41. Grimms Märchen, Grimmstories.com

(2015).

42. Grimm, J. and Grimm, W.(1857): Household Tales with the Authors

Notes

121

(Accessed 15 November, 2007).