ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------- HOÀNG GIANG QUỲNH ANH
Truyện cổ Grimm dƣới góc nhìn phân tâm học
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
HOÀNG GIANG QUỲNH ANH
Truyện cổ Grimm dƣới góc nhìn phân tâm học
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Duy Hiệp
HàNội– 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các nghiên cứu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Hoàng Giang Quỳnh Anh
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất
tới thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.
Thầy đã luôn tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập kể từ khi
là sinh viên Đại học đến khi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp và nay là luận
văn Thạc sĩ. Thầy luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ em khi gặp các vướng
mắc do còn ít kinh nghiệm nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã trang bị cho em những kiến thức
và kinh nghiệm quý giá trong thời gian học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn!
HàNội, tháng 11 năm 2015
Học viên
Hoàng Giang Quỳnh Anh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tiêu chí khảo sát hành vi bạo lực trong truyện cổ Grimm
…...Error! Bookmark not defined.
Bảng 1.2. Thống kê các hành động bạo lực trong truyện cổ Grimm
……Error! Bookmark not defined.
Bảng 1.3. Quátrìnhtácđộngbịđộngcóthểquansátthấytrong 19 truyện.......36
Bảng 2.1 Thống kê biểu tượng trong truyện cổ Grimm
……………...Error! Bookmark not defined.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do lựa chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 4
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................... 11
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 11
3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 11
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 13
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 14
4.1. Sơ lược về lí thuyết phân tâm học ........................................................ 14
4.2.Phân tích diễn ngôn phê phán ................................................................ 16
5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 17
CHƢƠNG 1. CĂN TÍNH TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM ..................... 18
1.1. Bạo lực trong truyện cổ Grimm .......................................................... 19
1.1.1. Những đối tượng chủ động tham gia thực hiện hành động bạo lực 49
1.1.2. Những đối tượng bị động tham gia thực hiện hành vi bạo lực......... 53
1.2 Căn tính bạo lực qua các lớp truyện kể ................................................. 55
Tiểu kết ........................................................................................................ 59
CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY TẮC LUÂN LÍ THÔNG QUA CÁC BIỂU
TƢỢNG .......................................................................................................... 61
2.1. Thế giới biểu tượng trong truyện cổ Grimm ........................................ 62
2.1.1. Biểu tượng về con người: Mẹ, Vua, Con gái vua, Hoàng tử ............ 67
2.1.2. Biểu tượng về động vật và sinh vật ma thuật: Động vật, Phù thủy 71
2.2. Ý nghĩa của biểu tượng ......................................................................... 76
2.2.1. Tăng sức hấp dẫn ......................................................................................... 77
2.2.2. Duy trì một xã hội gia trưởng ................................................................... 79
2.2.3. Trọn vẹn thông điệp của Kito giáo và Kinh Thánh ............................ 80
2.2.4. Trường hợp điển hình: Công chúa ngủ trong rừng ............................. 81
2.3. Các vỉa tầng tâm thức trong các lớp truyện kể ..................................... 82
Tiểu kết ........................................................................................................ 86
CHƢƠNG 3: ẨN ỨC TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM ........................... 88
3.1. Trí tưởng tượng và thế giới cổ tích ....................................................... 89
3.2. Dòng chảy văn hóa trong các câu chuyện của Grimm ......................... 94
3.3 Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm .......................... 107
Tiểu kết ...................................................................................................... 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1. Nguồn gốc của văn học dân gian, cũng giống như nguồn gốc của ngôn
ngữ loài người, không có cách thức nào để có thể biết được toàn bộ nguồn
gốc đầu tiên. Khó để xác định tài liệu nào trong số các tài liệu hiện nay là
nguyên thủy, bên cạnh đó, sự phát triển tổng thể của văn học dân gian cũng
không được đề cập một cách rõ ràng. Bởi mỗi một nhóm người, một cộng
đồng người, dù lớn hay nhỏ đã xử lí nền văn học dân gian của họ theo một
cách riêng.
Bản thân hai chữ “dân gian” đã gợi nên một chiều to lớn về kích thước và ý
nghĩa sâu sắc của văn học. Điều này một phần bởi văn học dân gian đặc biệt
nhấn mạnh các đặc điểm riêng của thể loại được coi là xuất hiện sớm nhất
trong lịch sử văn hóa nhân loại bởi tính chất truyền miệng khi con người chưa
có chữ viết. Văn học dân gian hay còn gọi là văn học truyền miệng bao gồm
cả thơ, văn xuôi, những bài hát, thần thoại, các nghi lễ… Đó là một nền văn
học đồng hành cùng con người từ những buổi sơ khai, khi con người bắt đầu
cuộc sống có ý thức, biết cảm nhận cái đẹp, biết yêu cái đẹp; một nền văn học
chỉ lưu truyền qua trí nhớ [16]. Nền văn học ấy là sự kết tinh của quá trình
sáng tạo nghệ thuật của nhân dân qua hàng ngàn đời nay, qua nhiều thế hệ.
Những tác phẩm văn học dân gian, chính vì vậy, là kinh nghiệm, là giá trị mà
những thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ sau.
Văn học dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích sống với thời gian bằng sức hấp
dẫn nội tại của nó, bằng vẻ đẹp muôn đời. Lấp lánh ngũ sắc cùng những triết
1
lí nhân sinh ẩn sâu bên dưới, văn học dân gian đã, đang và sẽ vẫn là nền tảng
để các nhà văn, nhà thơ học tập, tiếp thu những vẻ đẹp nguyên sơ của nó
trong sáng tạo nghệ thuật.
1.2. Bất cứ một dân tộc nào trên thế giới cũng có truyện cổ tích. Đó là những
câu chuyện hoang đường về cái thiện, cái ác với những bà tiên, những người
khổng lồ, mụ phù thủy độc ác,... Nhưng đó lại là món quà quý giá đối với trẻ
em khắp nơi trên thế giới. Đó là những câu chuyện thực sự đáng kể, hàm chứa
những giá trị lớn lao về đạo đức, những quan niệm nhân sinh trong quá khứ.
Chúng ta, xã hội loài người sẽ không thể có được những bước phát triển dài
nếu như không quan tâm đến văn học dân gian, đến truyện cổ tích. Nghiên
cứu truyện cổ tích là một trong những nghiên cứu quan trọng về những niềm
vui, nỗi khổ, những bầu không khí ngập tràn đấu tranh chống lại cường
quyền, bạo lực của những con người chịu biết bao áp bức trong xã hội có giai
cấp.
1.3. Truyện cổ tích là quan trọng đối với con người. Lịch sử từ những thời kì
xa xưa, từ nền văn hóa cổ, từ những quan niệm về cái thiện, cái ác, về hi vọng
của tầng lớp nhân dân lao động, của những con người xưa là một trong những
khía cạnh được giảng dạy cho nhiều trẻ em, giúp những đứa trẻ hiểu rõ về cái
thiện, cái ác theo một cách nhất định. Dù những câu chuyện đó là những sáng
tác hoang đường của dân gian, của những người sống khác chúng ta nhiều thế
kỉ, có thể không còn phù hợp với chúng ta, không phù hợp với xã hội hiện
đại, rằng những con người hiện đại thông minh hơn nhiều so với quá khứ,
thậm chí chỉ năm hay mười năm trước đây thôi, quá khứ vẫn là lỗi thời và
không liên quan đến chúng ta, nhưng không phải vậy. Xã hội càng hiện đại,
con người càng không nên quay lưng lại với nền văn học dân gian, với truyện
2
cổ tích. Chúng ta đang sống trong một xã hội với mức độ thay đổi nhanh
chóng của thời gian, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, của công nghệ.
Văn học dân gian, truyện cổ tích vì vậy mà càng có ý nghĩa với chúng ta.
Chúng ta phải xác định được những quan niệm, nguồn gốc lâu đời, những
cách người xưa ứng xử với cái ác, nâng đỡ cái thiện,… mới có thể lí giải được
những giá trị thiện – ác của hiện tại. Văn học dân gian – truyện cổ tích không
thể bị che phủ bởi một lớp sương mù, được cảm nhận một cách mơ hồ. Trong
xã hội càng hiện đại, chúng ta càng không thể thiếu thông tin về chính chúng
ta, với những quan niệm lâu đời từ quá khứ, càng không thể để sự thiếu thông
tin ấy dẫn chúng ta đến với sự thờ ơ và quay lưng với cả một nền văn học đồ
sộ của nhân loại.
1.4. Truyện cổ tích long lanh ngũ sắc cùng với những nội dung tích cực của
nó đối với thế giới tâm hồn trẻ thơ đã được khẳng định qua việc truyền bá (in
ấn, dịch thuật, nghiên cứu, giảng dạy ở các cấp học) trên toàn thế giới. Trên
thế giới, ít có tác phẩm nào được dịch sang nhiều thứ tiếng như bộ truyện cổ
Grimm. Không những được dịch mà còn được phổ biến rộng rãi trong các dân
tộc, các môi trường tư tưởng và tôn giáo, các tầng lớp nhân dân khác nhau,
được các lứa tuổi ưa thích (không riêng gì trẻ em), ngoài ra còn được phổ
nhạc, đưa lên sân khấu, biểu diễn ballet, quay thành phim truyện, phim búp
bê, phim hoạt hình, phóng tác lại bằng thơ văn, hội họa, điêu khắc… “Cho
đến nay, đó là tập truyện dân gian nổi tiếng nhất thế giới.” (Penguin Books);
“Ít có tác phẩm nào giúp chúng ta mất ít công phu mà cảm thông được cái
thầm kín sâu sắc và huyền bí của tâm hồn Đức như tập Truyện cổ Grim”
(Robert Laffont); “Trong kho báu của thế giới trẻ em Đức này, đúng là lời ăn
tiếng nói của nhân dân được thể hiện một cách tuyệt vời, không cần hoa hòe
hoa sói gì cả”. (G. Kles); “Truyện cổ Grim có cái nhân hậu, đôi khi hóm
3
hỉnh, của truyện cổ của ta…” (Võ Quảng); “Truyện cổ Grim ư? Đó là sự hấp
dẫn đầy thú vị, đó là một món ăn không thể thiếu được với mọi tuổi trẻ trên
hành tinh xanh của chúng ta” (Santaemilia) [37].
Từ góc độ phân tâm học, tiếp nối những người đi trước, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu truyện cổ tích từ khía cạnh tìm hiểu các vỉa tầng tâm thức dân
gian phương Tây (cụ thể ở đây là truyện kể của Anh em nhà Grimm) qua việc
nghiên cứu văn bản, dựa trên bản dịch của Lương Văn Hồng, mong tìm kiếm
được những điều thú vị vừa cho thưởng thức cho công việc nghiên cứu sau
này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Truyện cổ Grimm không phải là tác phẩm xa lạ đối với độc giả và giới
nghiên cứu trên thế giới. Để có thể kể được đầy đủ lịch sử nghiên cứu truyện
cổ Grimm đến nay không phải vấn đề dễ dàng. Bởi truyện cổ Grimm tồn tại
qua nhiều năm, có nhiều bản cập nhật của chính anh em nhà Grimm, các bài
nghiên cứu theo năm tháng ở nước ngoài đến được với độc giả Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi kể đến những công trình
nghiên cứu:
Các lí thuyết văn học hiện đại, hậu hiện đại của phương Tây bắt đầu được
dịch và đưa về Việt Nam bao gồm công trình của Lyotard [19], Petrescu [20]
hay phân tích một trường hợp điển hình theo cách tiếp cận mới như công trình
của Deleuze và Guattari [9].
Cuốn sách của Tatar [31] viết năm 1987 và được tái bản, cập nhật năm 2003
có tựa đề: The hard facts of the Grimms' fairy tales. Công trình đưa ra những
4
nghiên cứu về mặt khuất sau truyện cổ Grimm. Những vấn đề liên quan đến
tình dục (sex), hành động bạo lực, các nạn nhân và những kẻ kiếm tìm hiện
lên trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm.
Cuốn sách của Haase, D. (Ed.) năm 1996 [29] The reception of Grimms' fairy
tales: Responses, reactions, revisions lại kể về một vấn đề khác trong truyện
cổ Grimm. Cuốn sách trình bày nhiều nội dung nhưng chủ yếu đi sâu phân
tích các bản cập nhật trong truyện cổ Grimm, các hành động đáp trả lại của
các nhân vật.
Công trình của Zipes [36] 1997 được cập nhật năm 2013 Happily ever after:
Fairy tales, children, and the culture industry, trình bày các vấn đề liên quan
đến kết thúc của truyện cổ Grimm. Công trình phân tích một trường hợp trong
truyện cổ Grimm là Hansel and Grethel là ví dụ minh họa cho vấn đề bị bỏ
rơi, bị lạm dụng xuất hiện trong truyện cổ.
Công trình của Zipes [35] năm 2012 có tên Fairy tales and the art of
subversion trình bày các vấn đề liên quan đến dị bản của truyện cổ tích nói
chung và truyện cổ Grimm là một trong những ví dụ.
2.2. Khoảng trên dưới 20 năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu Việt Nam lần
lượt giới thiệu, tiếp cận và lí giải văn học dân gian theo hướng lí thuyết hiện
đại của phương Tây: các tác giả như Lê Chí Quế, Nguyễn Xuân Kính,
Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Xuân Đức, Trần Thị An đã cho thấy những thế
mạnh của lí thuyết hiện đại thông qua việc tìm hiểu và ứng dụng vào nghiên
cứu các tác phẩm ở góc độ motif [15], hoặc theo hướng tiếp cận hiện đại như
Đào Duy Hiệp [14], hậu hiện đại của các tác giả như Phương Lựu [18], Lê
5
Huy Bắc [4].
2.3. Chúng tôi tiến hành khảo sát các khóa luận, luận văn tốt nghiệp có liên
quan đến truyện cổ tích thuộc bộ môn văn học dân gian và bộ môn văn học
phương Tây của khoa Văn học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(trước đây là Trường Tổng hợp) từ năm 1966 đến nay, gồm có:
1. Năm 1966: Những yếu tố lãng mạn trong hệ thống hình tượng nhân vật của
truyện cổ tích Việt Nam. Người viết: Lê Chí Quế. Người hướng dẫn: Đinh Gia
Khánh.
2. Năm 1969: Tìm hiểu vài nét về truyện cổ tích có chủ đề người vợ hoặc
người chồng đội lốt vật ở nước ta. Người viết: Đặng Tuêch Trí. Người hướng
dẫn: Lê Chí Quế.
3. Năm 1977: Tìm hiểu kiểu truyện: Người đội lốt vật trong truyện cổ tích dân
gian. Người viết: Nguyễn Minh Ý. Người hướng dẫn: Chu Xuân Diên.
4. Năm 1980: Vai trò, tác dụng, ý nghĩa xã hội của yếu tố thần kì trong truyện
cổ tích Việt Nam. Người viết: Lý Trung Nghĩa. Người hướng dẫn: Đinh Gia
Khánh.
5. Năm 1992:
- Bước đầu tìm hiểu truyện kể H.C. Andersen. Người viết: Hoàng Đình Huân.
Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.
- Tiếng nói thiên nhiên trong truyện cổ Andersen. Người viết: Lương Thu Ba.
Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.
- Tìm hiểu mốt số đặc điểm nghệ thuật truyện cổ Andersen. Người viết:
Nguyễn Thị Bích Liên. Người hướng dẫn: Nguyễn Trường Lịch.
6. Năm 1994: Nhân vật người kể chuyện trong truyển cổ của H.C. Andersen
đã dịch ở Việt Nam. Người viết: Lưu Lan Hương. Người hướng dẫn: Nguyễn
6
Trường Lịch.
7. Năm 1999: Bước đầu tìm hiểu tình tiết hóa thân trong “Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam”. Người viết: Dương Thị Hiếu. Người hướng dẫn: Nguyễn
Hùng Vĩ.
8. Năm 2001: Hình ảnh người học trò trong ca dao và truyện kể dân gian.
Người viết: Nguyễn Lệ Thủy. Người hướng dẫn: Nguyễn Xuân Kính.
9. Năm 2006: Dấu ấn truyện cổ tích trong sáng tác của một số nhà văn hiện
đại Việt Nam. Người viết: Nguyễn Thị Hồng Nhung. Người hướng dẫn:
GS.TS Lê Chí Quế.
- So sánh truyện cổ Grimm và truyện cổ Andersen. Người viết: Trần Thị Hải
Yến. Người hướng dẫn: Trần Hinh.
10. Năm 2008: Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ góc độ tự sự. Người viết:
Khúc Thùy Linh. Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.
11. Năm 2009: Kiểu truyện anh cả - em út trong truyện kể dân gian Việt Nam
và một số nước Châu Á. Người viết: Trương Thị Vân Anh. Người hướng dẫn:
GS.TS Lê Chí Quế.
12. Năm 2011: So sánh 31 chức năng – nhiệm vụ - hành động theo V.Ia.
Propp giữa Lục đô tập kinh và truyện cổ tích Việt Nam. Người viết: Đỗ Thị
Thúy. Người hướng dẫn: Nguyễn Hùng Vĩ.
13. Năm 2012: Bước đầu điều tra không gian diễn ra hoạt động trong kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi. Người viết: Vũ Thị Yên.
Người hướng dẫn: Nguyễn Hùng Vĩ.
14. Năm 2013: Nghiên cứu cấu trúc và phân tâm học truyện cổ Grimm từ góc
nhìn giáo dục (Qua bản tiếng Anh). Người viết: Hoàng Giang Quỳnh Anh.
Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp.
15. Năm 2014: Truyện cổ tích Nga dưới góc nhìn cấu trúc. Người viết: Phạm
7
Văn Hải. Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Thủy.
2.4. Các bài viết có liên quan đến truyện cổ tích khác, phải kể đến:
- Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif – Những khả thủ và
bất cập [1].
- Cổ tích hiện đại: “Cô bé bán diêm” của Andersen [3].
- Tìm hiểu motif thách đố trong truyện cổ tích (Lương Thị Khuyên) [38].
- Từ nàng tiên cá của Hans Christian Andersen đến nàng tiên cá của Walt
Disney (Trần Lê Hoa Tranh) [39].
Bên cạnh đó, trong quá trình tìm kiếm các bài viết có liên quan đến đề tài,
chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những bài viết của các tác giả có nghiên cứu
truyện cổ tích theo hướng phân tâm học. Từ trước đến nay, có rất nhiều
phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo nhiều quan điểm khác nhau.
Các bài viết của các tác giả chúng tôi liệt kê ở trên, đều theo hướng cái nhìn
đến việc xem xét các bình diện cấu trúc văn bản nghệ thuật để tạo nên mối
liên hệ nội tại xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm với mối tương quan giữa
nội dung và hình thức, để tác phẩm vừa có sự hài hòa, vừa có sự thống nhất
cao độ. Các tác giả mặt khác cũng đều khẳng định rằng nghiên cứu tác phẩm
văn học trên bình diện cấu trúc văn bản nghệ thuật giúp người nghiên cứu,
một mặt nắm được đặc trưng thẩm mĩ, bản chất của ngôn ngữ văn học; mặt
khác, xác lập được các nguyên tắc, các hệ thống thao tác văn bản hoá tác
phẩm một cách chuẩn xác, cũng như hiểu sâu hơn ý nghĩa của việc văn bản
hoá tác phẩm một cách khoa học.
Trong số những bài viết, những công trình nghiên cứu kể trên, có hai hướng
nghiên cứu thuộc hai đề tài khóa luận:
Thứ nhất, là khóa luận So sánh truyện cổ Grimm và truyện cổ Andersen.
8
Người viết: Trần Thị Hải Yến, người hướng dẫn: Trần Hinh. Đây là một trong
số ít những công trình nghiên cứu có liên quan tới truyện cổ Grimm tại khoa
Văn học. Căn cứ vào lí thuyết so sánh và những trường phái văn học so sánh
ở Nga – Xô Viết từ cuối TK XIX đến nay, công trình đi sâu nghiên cứu, so
sánh chất liệu dân gian; chất liệu hiện thực; tính triết lí đạo đức; các bình diện
về chủ đề, nhân vật, cốt truyện, kết cấu của cả truyện cổ Grimm và truyện cổ
Andersen. Công trình dừng lại ở việc so sánh, đối chiếu giữa hai kho tàng
truyện cổ nổi tiếng hàng đầu thế giới đến thời điểm hiện nay, cung cấp cho
người đọc một cái nhìn tổng quan về hai kho tàng. Từ đó, khẳng định tầm ảnh
hưởng cũng như ý nghĩa của truyện cổ Grimm, truyện cổ Andersen nói riêng
và truyện cổ tích nói chung với các nền văn học sau này.
Thứ hai, là khóa luận Nghiên cứu cấu trúc và phân tâm học truyện cổ Grimm
từ góc nhìn giáo dục (Qua bản tiếng Anh). Người viết: Hoàng Giang Quỳnh
Anh. Người hướng dẫn: PGS.TS Đào Duy Hiệp. Công trình nghiên cứu 12/30
truyện nổi tiếng nhất theo xếp hạng của Anh và Đức, sử dụng mô hình
Greimas để phân tích các cấu trúc chức năng và ý nghĩa các lớp truyện kể
trong truyện cổ Grimm. Từ đó dẫn tới khẳng định truyện cổ Grimm có thể
chia thành 2 loại tùy thuộc theo cấu trúc chức năng của nhân vật trong từng
truyện kể. Với chương 2, công trình đi sâu vào nghiên cứu các biểu tượng
trong truyện cổ Grimm gồm 3 loại: biểu tượng ánh sáng, biểu tượng bóng tối
và biểu tượng trung gian, cũng thông qua mô hình Greimas để làm sáng tỏ lớp
ý nghĩa sâu xa của các biểu tượng trong truyện cổ Grimm. Chương 3, dưới
góc nhìn giáo dục, công trình đi vào nghiên cứu cách thức giáo dục trẻ thông
qua truyện cổ Grimm, kèm theo thực hiện các khảo sát xã hội học.
Bên cạnh hai khóa luận, chúng tôi có tiếp thu những nghiên cứu, quan điểm
9
của bài viết Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện đại (trường hợp
Chim ưng thần) của PGS.TS. Đào Duy Hiệp tại Hội thảo Tự sự học dân gian,
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, năm 2009. Đây là một trong số những bài viết
kì công, nghiên cứu sâu sắc không chỉ gợi ý cho chúng tôi về: sự hình thành
và phát triển của cổ tích phương Tây, nội dung truyện cổ Grimm, quan điểm
của Propp và lí thuyết sơ đồ hành động của Greimas cho các nhân vật trong
truyện cổ, cách ứng dụng phương pháp cấu trúc, lí thuyết phân tâm học vào
phân tích một truyện cổ mà còn gợi mở cho chúng tôi về thế giới của cổ tích –
thế giới của truyện cổ Grimm – mà tác giả kì công nghiên cứu một trường hợp
điển hình nhất – Truyện Chim ưng thần.
2.5. Ở Việt Nam, phê bình phân tâm học được biết đến khá sớm, ngay từ đầu
những năm 30 của thế kỉ trước trong những trang phê bình của Trương Tửu
hay Nguyễn Văn Hanh. Phân tâm học ngay sau đó hầu như vắng mặt sau năm
1945 ở miền Bắc bởi những thống trị của phê bình xã hội học marxit. Ở miền
Nam, mặt khác cũng có một vài tác giả quan tâm đến dịch, giới thiệu và ứng
dụng phân tâm học như Vũ Đình Lưu, Đàm Quang Thiện, Thanh Lãng. Chỉ
tới sau Đổi mới năm 1986, phân tâm học mới bắt đầu sức sống mãnh liệt trở
lại với những phân tích sắc bén của Đỗ Lai Thúy với chuyên luận Hồ Xuân
Hương hoài niệm phồn thực và tập chuyên đề Bút pháp của ham muốn.
Những bước đột phá trong nghiên cứu phân tâm học của Đỗ Lai Thúy phải kể
đến: các nghiên cứu không còn bám vào tiểu sử tác giả, hay đơn giản theo
kiểu sơ đồ: “dồn nén - ẩn ức – thăng hoa” mà phải thao tác trực tiếp với văn
bản, tìm kiếm những kí hiệu mang bản chất thực sự của phân tâm học. Mặt
khác, sử dụng những gợi dẫn của J. Lacan và bộ công cụ thao tác ngôn ngữ
của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga, trường phái ngôn ngữ Praha và phê
bình mới Anh-Mĩ, Đỗ Lai Thúy đi tìm và giải mã những cấu trúc vô thức
10
trên/trong/qua văn bản để chỉ ra những “bút pháp ham muốn” của những nhà
văn có dấu ấn phân tâm như trường hợp Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Nguyễn Gia Thiều, Hoàng Cầm, Chế Lan Viên, Xuân Diệu [24].
Căn cứ tình hình nghiên cứu văn học dân gian của ta, chúng tôi khẳng định
chưa có bất kì công trình hoặc bài viết nào trong phạm vi tìm hiểu của chúng
tôi trùng với đề tài.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Truyện kể gia đình cho trẻ em (tiếng Đức: Kinder- und Hausmärchen) là một
tập hợp các truyện cổ tích tiếng Đức lần đầu tiên được xuất bản năm 1812 bởi
Jacob Grimm và Wilhelm Grimm. Bộ truyện này thường được biết đến với
tên gọi Truyện cổ tích Grimm (tiếng Đức: Grimms Märchen) là những truyện
cổ tích dân gian, từng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới,
được dịch ra 160 thứ tiếng, trong đó tiếng Việt là ngôn ngữ nguồn mà luận
văn khảo sát.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ truyện kể sưu tầm của anh em Grimm là 211 truyện nhưng chỉ có
trên dưới 20 truyện được coi là nổi tiếng trên toàn thế giới theo sự xếp hạng
của Anh [40] và của Đức [41] gồm các truyện như Cô bé Lọ Lem, Hêxen và
Grêten, Hanxơ sắt, Nàng Bạch Tuyết,… đều được dịch sang tiếng Việt.
Trong luận văn này, chúng tôi sẽ sử dụng bản tiếng Việt của dịch giả Lương
Văn Hồng, ấn bản gồm 4 tập được Nhà xuất bản Kim Đồng in và in tái bản
năm 2014, gồm 201 truyện do anh em nhà Grimm sưu tầm. Theo dịch giả
11
Lương Văn Hồng, đây là phiên bản khiến ông hài lòng nhất, không phải chỉ
bởi đây là phiên bản đầy đủ, nội dung sách được biên tập kĩ lưỡng, hình vẽ
minh họa sinh động, mà tất cả các tên riêng đã được hiệu chỉnh cho thống
nhất với nguyên bản [10].
Nói về giá trị của tác phẩm, nguyên Tổng lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức tại
TP HCM Erhard Zander chia sẻ: “Trong thời buổi có những xung đột chính
trị và khởi đầu của nhiều cuộc chiến tranh, người dân yêu thích những câu
chuyện có lối hành văn súc tích và trong sáng, những câu chuyện đó để lại
trong lòng họ hình ảnh của một thế giới hòa đồng, nơi thiện luôn luôn thắng
ác… Những sự kiện tương tự nhất định cũng có trong lịch sử Việt Nam. Có lẽ
vì vậy mà truyện cổ Grimm được mọi người Việt Nam yêu thích”. Giáo sư
Chu Xuân Diên cho rằng: “Đọc Truyện cổ Grimm, độc giả không những chỉ
thấy lòng mình ấp áp hẳn lên vì nội dung nhân đạo của nó, trí óc mình sắc sảo
thêm lên vì những kinh nghiệm về cuộc sống dồi dào của nó, cảm quan thẩm
mĩ được thỏa mãn vì nghệ thuật kể chuyện trong sáng mà hấp dẫn của nó”
[37].
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những truyện
xét có yếu tố bạo lực trong 19 truyện được coi là nổi tiếng nhất của bộ truyện
cổ Grimm. Đó là:
1. Mười hai anh em
2. Anh trai và em gái
3. Nàng Rapunzel
4. Hansel và Grethel
5. Cô bé Lọ Lem
6. Cô bé mũ đỏ
12
7. Công chúa ngủ trong rừng
8. Nàng Bạch Tuyết
9. Cô gái không có bàn tay
10. Những nhạc sĩ thành Bremen
11. Thần chết đỡ đầu
12. Vua Ếch
13. Ba sợi tóc vàng của quỷ
14. Sói và bảy chú dê con
15. Ba chiếc lá rắn
16. Bảy con quạ
17. Chú thợ may nhỏ can đảm
18. Jôrinđơ và Jôgigơn
19. Con chim vàng
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tâm học đến với chúng ta đến nay đã được một khoảng thời gian khá
dài, không chỉ là một vài năm. Bởi lẽ đó, chúng ta có quyền tin tưởng rằng,
tính chất phong phú, giàu sức sinh sôi của những tác giả nghiên cứu phân tâm
học là không thể bác bỏ. Nỗ lực của Freud đã khiến chúng ta thấy được những
điều ẩn trú trong tư tưởng, trong ngôn từ của chúng ta. Và nhờ văn học, qua
văn học mà chúng ta nhận thức được tính người của ta: trong suy nghĩ, trong
nói năng, trong những lời lẽ được sử dụng và rèn rũa trong các mối quan hệ
thường ngày với bạn bè, cha mẹ,… để hỏi, để trả lời, để sống. Chỉ thông qua
văn học, đặc biệt là văn học truyền miệng – văn học dân gian trong những kỉ
nguyên và những nền văn minh chưa có chữ viết mà con người tự vấn về bản
13
thân mình, về số phận, về hoạt động xã hội và tinh thần của mình.
Sự sợ hãi và bạo lực là hai yếu tố hiện hữu trong hầu hết trong truyện cổ tích.
Quái vật ăn thịt trẻ em, cha mẹ đánh đập những đứa trẻ, phù thủy sử dụng
phép thuật và đặt lời nguyền lên những cô gái xinh đẹp chỉ là một vài trong số
những ví dụ về hành động bạo lực, tàn ác và nỗi sợ hiện hữu rõ trong các
truyện cổ tích. Bởi những lẽ đó, dưới ánh sáng của lí thuyết phân tâm học,
luận văn mong muốn tìm hiểu được lớp ý nghĩa sâu xa của truyện cổ Grimm
để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về một nền văn hóa, tâm linh một dân tộc
của phương Tây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Sơ lược về lí thuyết phân tâm học
Nghiên cứu văn học theo hướng phân tâm học là một trường phái nghiên cứu
văn học đặc biệt phát triển ở phương Tây đầu thế kỷ XX. Nguồn gốc của
phương pháp nghiên cứu này bắt nguồn từ chuyên ngành tâm lí của bác sĩ
người Áo S. Freud. Những phát hiện của ông về những vấn đề liên quan đến
tính dục và mặc cảm Oedipe (của những bé trai), mặc cảm Electra (của những
bé gái) của Freud đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu nhân
văn lúc bấy giờ.
Tiếp nhận ảnh hưởng từ Freud, một môn đệ xuất sắc của ông đồng thời cũng
là người sớm ly khai và đẩy phân tâm học rẽ sang một hướng khác - nhà tâm
lí học phân tích người Thụy Sĩ C. Jung, đã là người đã đưa phân tâm học tách
khỏi bệnh lí học và đồng thời, hòa đồng lí thuyết này vào trong môi trường
khoa học xã hội - nhân văn. Lí thuyết về cổ mẫu (archétype) như là trọng tâm
của nghiên cứu tâm lí học các chiều sâu, yếu tố nền tảng của vô thức tập thể
thực sự đã tạo nên thành tựu đáng kể trong nghiên cứu văn học. Cổ mẫu
14
(archetype là từ kép gồm từ arche: cổ, khởi đầu, cơ sở, nguyên lý… và từ
typos: mẫu, loại, dấu ấn, hình ảnh, mô hình, tiêu chuẩn… nên được dịch ra
nhiều cách khác nhau trong tiếng Việt: cổ mẫu, mẫu cổ, mẫu gốc, nguyên
mẫu, nguyên tượng, mẫu tượng, sơ nguyên tượng, siêu mẫu…) theo Từ điển
văn học, là “khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu tượng, các cấu
trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng trong vô
thức tập thể của cộng đồng nhân loại; vô thức tập thể này là một yếu tố đặc
trưng cho tất cả các vô thức cá nhân” [23]. Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới cũng nhấn mạnh: “Các mẫu gốc hiển hiện ra như những cấu trúc tâm thần
gần như phổ biến, bẩm sinh hay được thừa kế, một thứ ý thức tập thể; chúng
thể hiện qua các biểu tượng đặc biệt chứa đầy một công suất năng lượng lớn.
Chúng đóng một vai trò động lực và thống nhất đáng kể trong sự phát triển
nhân cách” [8].
Jung nói: “Nguyên sơ tượng (archétype), hay siêu mẫu, hay nguyên hình – dù
đó là quỷ, người hay biến cố – được lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử ở bất
kì đâu có trí tưởng tượng sáng tạo tự do hoạt động. Lần lượt chúng ta có ở đây
trước hết là nguyên hình huyền thoại. Nghiên cứu tỉ mỉ các hình tượng này ta
nhận thấy trong chừng mực nào đấy chúng là bản tổng kết đã được công thức
hóa của khối kinh nghiệm điển hình to lớn của vô số các thế hệ tổ tiên: đó có
thể nói là vết tích tâm lý của vô số cảm xúc cùng một kiểu” [21]. Jung còn
hiểu “Mẫu gốc là một định thức biểu trưng, nó luôn làm chức năng ở nơi nào
mà loại khái niệm ý thức không có, hoặc không thể có xét về hoàn cảnh bên
trong và bên ngoài” và “nó luôn luôn bảo lưu ý nghĩa và chức năng của mình.
Nó không bị hủy hoại mà chỉ bị biến thái, bộc lộ mình dưới các hình thức
15
mới…” [15].
Từ nền tảng lí thuyết của hai nhà nghiên cứu này, phân tâm học đã phát triển
thành rất nhiều hướng nghiên cứu, từ nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học
tộc người (G. Devereux), phân tâm học và Thiền (E. Fromm), phân tâm học
và văn học dân gian (V. Dundes) đến các nghiên cứu về chủ đề (Ch. Mauron,
G. Bachelard), nghiên cứu tác giả, tác phẩm (M. Bonapart, J. Delay, J.
Bellemin-Noel), người đọc (N. Holland),… trong nghiên cứu văn học. Trong
xu thế ấy, phân tâm học văn bản được ra đời như một sự cộng sinh giữa
trường phái cấu trúc - kí hiệu học Pháp với phân tâm học với người khai sinh
ra nó là J. Lacan.
Phân tâm học giải thích tác phẩm văn học dựa vào những đặc điểm của tâm lí
học về vô thức. Đó là sự thăng hoa của những xung năng, những ẩn ức về
ham muốn tính dục (chủ yếu trong tuổi thơ) nhưng bị cấm đoán về mặt xã hội,
gia đình. Phân tâm học đặc biệt thích hợp trong việc ứng dụng vào nghiên cứu
văn học dân gian, nghiên cứu các huyền thoại, như các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra, khi dấu ấn về cái cá thể, cái “tôi” chưa rõ nét, bị hòa lẫn, nhòa phai với cái
“vô thức tập thể” [15]. Vô thức tập thể là “những nội dung tâm thức được kết
tinh từ nhiều truyền thống tâm lý, tâm linh, văn hóa và tôn giáo của nhiều thế
hệ loài người trong lịch sử”, bao gồm “những lo âu và sợ hãi, vui mừng và
phấn chấn, tranh đấu và thành công, những tương giao giữa nam và nữ, giữa
con cái và cha mẹ, những linh ảnh về người cha người mẹ, những thái độ đối
với hận thù và yêu thương, đối với sinh tử và ly biệt, những quyền lực của các
nguyên lý trời đất, tối sáng, âm dương…” [17].
4.2.Phân tích diễn ngôn phê phán
Phân tích diễn ngôn phê phán (Critical Discourse Analysis) là phương pháp
16
tập trung vào các mô tả diễn ngôn thực tiễn, về “cách thức ngôn ngữ định
hình bởi các mối quan hệ thuộc về quyền lực và ý thức hệ” và “những tác
động mang tính xây dựng dựa trên bản sắc xã hội” (Fairc Lough 1992: 12).
Đối với các mối quan hệ giữa thực hành xã hội và ngôn ngữ, Fairc (2003: 2)
nhấn mạnh việc phân tích các văn bản văn học thực hiện theo cách tiếp cận
phân tích diễn ngôn phê phán bắt đầu từ tiền đề: ngôn ngữ là một phần của
đời sống xã hội, kết nối các yếu tố khác nhau của đời sống xã hội, để phân
tích xã hội và nghiên cứu xã hội phải luôn có khía cạnh ngôn ngữ”. Điều này
liên quan đến phân tích hệ thống ngôn ngữ học của hệ thống chức năng ngôn
ngữ (Systemic Functional Linguistics) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa
quyền lực và bạo lực trong bộ sưu tập truyện cổ Grimm.
Dưới ánh sáng của lí thuyết phân tâm học, chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh
và phân tích tính chất uyên bác và triết lí dân gian những truyện chúng tôi
kháo sát để đi đến kết luận rằng tất cả “mẫu gốc”, cái thiện, cái ác, quy luật
luân lí truyện là nằm trong chủ đích sáng tạo của dân gian, không phải ngẫu
nhiên, vô tình. Đó là bản năng sâu xa của sự sinh tồn và những quy luật khách
quan muôn đời.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 Chương, với phân tâm học là phương pháp xuyên suốt:
Chƣơng 1: Căn tính trong truyện cổ Grimm
Chƣơng 2: Những quy tắc luân lí thông qua các biểu tƣợng
17
Chƣơng 3: Ẩn ức trong truyện cổ Grimm
CHƢƠNG 1. CĂN TÍNH TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM
Hầu hết chúng ta đều chịu ảnh hưởng một cách đáng ngạc nhiên từ những
người có chung căn tính. Nhiều hành động, quan niệm trên thế giới được duy
trì thông qua những sự ngộ nhận về một căn tính độc nhất và không thể lựa
chọn. Amartya Sen [22] – Giáo sư kinh tế học và Triết học tại Đại học
Harvard cho rằng: việc có chung căn tính với người khác là một điều rất quan
trọng để có thể sống trong một xã hội và tầm quan trọng của một căn tính cụ
thể sẽ tùy thuộc vào bối cảnh xã hội.
Trong quá trình phát triển của bất kể châu lục nào, cũng xảy ra nhiều cuộc
đụng độ giữa các nền văn mình, và Âu Châu trung cổ cũng không phải là một
ngoại lệ. Ở mỗi cuộc đụng độ đó, các nền văn minh giao thoa với nhau một
phần, chấp nhận tồn tại song hành một phần, và cũng loại trừ lẫn nhau phần
nào đó. Xét trên góc độ tổng thể, đó là những bữa tiệc lớn của những căn tính
cộng đồng lớn dựa trên khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, kinh tế, thể chế và
cả phong tục tập quán. Xét trên góc độ cá thể, đó là công cuộc chia sẻ căn tính
của nhiều nhân thân đơn lẻ, với niềm tin, phương tiện và mục đích sống khác
nhau. Dù là sự giao lưu tổng thể hay giao lưu cá thể, những cuộc giao lưu
mãnh liệt ấy luôn đem lại hứng khởi, đau thương cho cả kẻ chiến thắng lẫn
người chiến bại. Các sự kiện, kinh nghiệm đó được lưu truyền trong dân gian,
bồi tụ và chuyển biến thành các câu chuyện để vừa nhắn nhủ, vừa chia sẻ, và
vừa tìm kiếm sự cảm thông [6].
Các câu chuyện cổ tích cũng như các huyền thoại, có thể được xem như
những biểu tượng của các quy trình tâm lí biến đổi và phát triển phức tạp. Đó
là phương tiện tuyệt vời để giúp chúng ta đạt được những hiểu biết và học
18
được những điều cơ bản về bản thân chính con người chúng ta. Truyện cổ
mang trong mình giá trị tượng trưng về bản chất con người, phản ánh các sự
việc chúng ta quan sát trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí truyện cổ tích
cũng được lựa chọn để cung cấp giá trị ngụ ngôn và cung cấp các giải pháp
cho vấn đề của con người để cuối cùng dẫn đến sự thay đổi và cuộc sống trọn
vẹn hơn. Truyện cổ Grimm ra đời vào thế kỉ 19, với nhiều ràng buộc về tôn
giáo, cộng đồng. Trong phạm vi chương 1 của luận văn, chúng tôi sẽ tìm hiểu
sâu về một trong số những căn tính của truyện cổ Grimm là căn tính bạo lực.
Để từ đó đi đến kết luận về mối quan hệ giữa bạo lực và quyền lực trong
truyện cổ Grimm.
1.1. Bạo lực trong truyện cổ Grimm
Bộ truyện cổ Grimm ghi chép các quá trình và tình huống bạo lực với mức độ
lớn. Thực tế này đã được tranh luận nhiều bởi các học giả như Tatar [31]. Anh
em nhà Grimm đã thay đổi một số chi tiết trong các câu chuyện trong các
phiên bản sau để “nỗ lực đáp ứng nhu cầu tinh thần của trẻ em”; các phiên
bản cập nhật và định hình đến khi công bố chính thức, theo Zipes [34], có
thay đổi một số trong nội dung nhưng cũng không thể thay đổi toàn bộ diễn
biến bạo lực của các nhân vật. Jacob và Wilhelm chỉ hạ bớt các hình phạt bạo
tàn trong các chuyến viếng thăm của các nhân vật phản diện để loại bỏ nỗi
đau trong câu chuyện như Tatar [31] giải thích.
Mặc dù truyện cổ Grimm truyền đi sự sáng tạo từ những vật liệu dân gian ban
đầu, nhưng cốt lõi của các câu chuyện này được giữ nguyên, kể cả tính bạo
lực và tàn ác có thể thấy ở hầu hết các câu chuyện. Một trường hợp điển hình
là câu chuyện Hansel và Grethel. Trong câu chuyện này, mụ phù thủy cố
gắng để lừa Grethel vào lò để kiểm tra nhiệt độ, nhưng thực tế ý định là để
19
đẩy Grethel vào lò và nướng thịt Grethel, đó là một hành động có chủ ý của
kẻ ăn thịt người, bao gồm cả những lời lăng mạ cô bé. Câu chuyện kết thúc
bằng một cảnh giết người rất tàn nhẫn: mụ phù thủy bị thiêu sống trong lò
nướng. Nhận định về cảnh này, Tatar [31] cho rằng đó là điềm báo trước về
những kinh hoàng của Đế chế thứ ba, chủ yếu vì hai lí do: thứ nhất là các phù
thủy luôn mang những đặc điểm đặc trưng của “người Do Thái theo khuôn
mẫu”; thứ hai là phù thủy đã bị thiêu cháy trong lò. Các câu chuyện cũng bao
gồm nhiều nhân vật với các vai trò của nam giới và nữ giới, phù hợp với các
giai cấp có quyền thống trị trong thời gian đó.
Các hành vi bạo lực cũng được vun bồi, gắn liền với những xung đột về căn
tính, và trở thành những motif quen thuộc, bởi trong cuộc sống đương thời, nó
vốn diễn ra ở khắp mọi nơi. Chúng ta khó lòng ngăn chặn hay dập tắt sự lây
lan của bạo lực, bởi bạo lực xuất phát từ chính những sự cố chấp, từ chính căn
tính của từng thân nhân. Một cách tốt đẹp, căn tính có thể là cội nguồn phong
phú cho cuộc sống nồng ấm, hạnh phúc; theo một cách nào khác, nó cũng
chính là nguồn cơn cho bạo lực và tội ác. Xét trên bình diện chọn lọc tự
nhiên, bạo lực chính là một dạng căn tính, được cụ thể hoá khi những căn tính
hiếu chiến phải kháng cự với sức mạnh từ các căn tính cạnh tranh khác.
Ý tưởng về các “nhu cầu đạo đức” (moral needs) được phát triển rộng rãi bởi
Zipes [34], cho rằng câu chuyện của Jacob và Wilhelm đóng góp vào “sự
sáng tạo một ý thức sai lầm và củng cố một quá trình xã hội độc tài”, kể từ khi
họ huấn luyện trẻ em tìm hiểu các vai trò cố định mà có thể dẫn đến điều trị
bệnh tâm lí hoặc thể chất cho phụ nữ, ví dụ thái độ phân biệt giới tính và phân
biệt chủng tộc.
Van Dijk [33] cho rằng quyền lực xã hội được hiểu là “sức mạnh được xây
20
dựng dựa trên các nguồn lực xã hội khan hiếm, chẳng hạn như sức mạnh, tiền
bạc, địa vị, danh vọng, kiến thức, thông tin, văn hóa.”. Quyền lực là một sức
mạnh phổ quát thể hiện các mối quan hệ của con người, làm nền tảng cho
chính quyền và bạo lực”. Horno [30] mô tả chính quyền là "sử dụng tích cực
sức mạnh của quyền lực", trong khi bạo lực "liên quan đến việc sử dụng năng
lượng tiêu cực, áp đặt mà không được chấp nhận bởi người khác. Hơn nữa,
"khi những lời bạo lực được nói bởi người khác hay bởi chính mình, cũng có
thể được coi là thực hiện hành vi bạo lực”.
Trong ngôn ngữ Đức, từ bạo lực (Gewalt) không chỉ đơn thuần nói về các
hành vi vật lý. Xem xét các truyện cổ Grimm, ta cần hiểu “Bạo lực” (Gewalt)
theo cả hình thức diễn ngôn, cũng như vật chất của nó. Walter Benjamin, một
nhà triết học người Đức gốc Do Thái đã nêu cụ thể trong cuốn Phê phán bạo
lực (Zur Kritik der Gewalt, 1977) về diễn ngôn của từ “Bạo lực” (Gewalt)
trong xã hội nước Đức: “Gewalt (Bạo lực trong ngôn ngữ Đức) đồng thời
mang ba ý nghĩa: quyền lực, sức mạnh, và sự cưỡng bức”.
Bạo lực và sức mạnh, bản chất là phương tiện kết nối mối quan hệ giữa thủ
phạm và nạn nhân, kể từ khi có một cuộc xung đột bạo lực, một trong những
yếu tố liên quan là mạnh hơn kẻ khác (Bagshaw) [26]. Trong 19 câu chuyện
chúng tôi khảo sát, các nhân vật được miêu tả là mạnh mẽ hay không mạnh
mẽ được biểu thị qua địa vị xã hội và hành động của nhân vật (ngôn từ hoặc
phi ngôn từ). Bằng việc dựa trên quan điểm về việc phân chia quyền lực gì
cho nhân vật (địa vị xã hội, sức mạnh cơ bắp, sức mạnh ma thuật…), cho
phép các nhân vật làm gì (những hành động được thực hiện bởi ai và ảnh
hưởng tới ai), một bức tranh rõ ràng về kiểu xã hội đương thời với các căn
21
tính đa dạng được mô tả trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm nổi lên.
Căn tính có thể hiểu như là một sự tự ý thức mà mỗi người thường trải qua,
hay lĩnh hội trong mối tương quan tới nhận thức của người khác. Nó không
phải là một khái niệm nguyên khối bất biến, mà có tính linh hoạt, có thể
chuyển dời, hay thậm chí là những ý niệm mang tính đại chúng. Căn tính cá
nhân, hay căn tính cộng đồng có thể được xác định, cấu thành bởi hàng loạt
các yếu tố như tôn giáo, quốc tịch, chính trị, ngôn ngữ, chủng tộc, giới tính,
địa vị xã hội. Mỗi con người được coi là một nhân thân độc nhất; sự hình
thành căn tính của mỗi nhân thân sẽ dẫn đến quá trình chia sẻ căn tính đó với
các nhân thân khác, và bắt đầu tạo ra những xung đột, từ xung đột vũ lực tới
xung đột tinh thần, giai cấp…
Các xung đột, hay hiểu cách khác là các căn tính bạo lực trong truyện cổ
Grimm có thể được phân loại theo nhân vật, theo xung đột, hoặc theo cộng
đồng. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 19 truyện trong phạm vi khảo sát để
xác định từng hành vi bạo lực với những yếu tố đã tham gia và hoàn cảnh
22
xung quanh đối tượng tham gia. Tiêu chí khảo sát được mô phỏng như sau:
Căn tính trong truyện cổ Grimm
Thành phần tham gia bị động
Thành phần tham gia chủ động/tích cực
Các đặc điểm ma thuật: phù thủy
Các cặp vợ chồng Đầy tớ
Người: Các vị vua và hoàng hậu, Các bà mẹ và anh chị em ruột, những người sống lẩn trốn (ngoài vòng pháp luật)
Các con vật
Bảng 1.1: Tiêu chí khảo sát hành vi bạo lực trong truyện cổ Grimm
Khi nghiên cứu quá trình vật chất tự nguyện tham gia có liên quan đến hành
vi độc ác và bạo lực, chúng tôi nhận thấy rằng các quá trình này đôi khi được
thực hiện bởi thủ phạm, nhưng đôi khi cũng bao gồm hậu quả (hoàn cảnh) của
hành vi bạo lực, như những nhiệm vụ khó khăn trong ngôi nhà mà Cô bé Lọ
Lem hay Grethel phải thực hiện.
Trong bảng sau đây, chúng tôi mô tả quá trình thực hiện hành động trong
10/19 truyện. Các truyện còn lại phân tích tương tự. Cột thứ hai là quá trình
23
ngôn ngữ có thể quan sát thấy, trong cột thứ ba liên quan đến các ảnh hưởng,
tức là những người chịu ảnh hưởng cuối cùng của hành động. Những từ xuất
24
hiện sau dấu ngoặc đơn là giải thích cho nhân tố người tham gia.
Tác nhân Hành động Ảnh hƣởng Truyện
Mẹ ghẻ (phù thuỷ) Đánh đập, đuổi đi Người em gái
Hoá phép biến dạng Con gái mụ Anh trai và em gái Những người thợ Vây, bắn Con Mang (người anh trai) săn
Cầm tay, cầu hôn Người em gái Vua
Họ (người phù thuỷ Khiêng, khoá cửa (nhốt), hun khói Hoàng hậu (người em gái) và con gái) chết ngạt
Hoàng hậu (người Bế, đắp chăn, cho bú Con trai em gái)
Vuốt lưng Con Mang (người anh trai)
Nhà vua Ban thưởng, phong làm Tể tướng Chàng trai (Phò mã) Ba chiếc lá rắn
Nhà vua trừng phạt Giải công chúa và tên lái tàu
công chúa và tên lái "Tha mày sao được" xuống chiếc thuyền thủng đáy và
đẩy ra biển khơi tàu
25
Chàng trai (Phò mã) Vung kiếm chém Con rắn đứt thành ba khúc
giết con rắn
Con rắn khác hồi Con rắn vừa bị chém sống dậy tức sinh cho con rắn vừa Thả ba cái lá lên những chỗ bị chém thì bị chém
Phò mã cứu sống Nhặt ba cái lá, đắp lên hai mắt và Công chúa được hồi sinh tức thì công chúa miệng
Phò mã Ăn Mỗi ngày chỉ ăn một mẩu nhỏ
Phò mã cho công Công chúa ăn hết bánh và uống hết Cho ăn bánh và uống rượu vang chúa ăn rượu vang
Công chúa Khiêng đầu, quẳng xuống biển Phò mã
Hứa hẹn Tên lái tàu
Tâu lời gian trá Nhà vua
Người hầu (của Phò Vớt lên, đắp la rắn (để cứu sống) Phò mã mã)
26
Đứa trẻ Nhà vua Nhận nuôi nấng, dạy dỗ Ba sợ tóc vàng của
Đặt vào hòm, ném xuống nước Đứa trẻ con quỷ
Viết thư dặn hoàng hậu giết và đem Chàng thanh niên (Đứa trẻ) chôn
Bà lão trong rừng Hỏi thăm, cảnh báo Chàng thanh niên (Đứa trẻ)
Van nài Bọn cướp
Xé bức thư của vua, viết một bức thư Bọn cướp Cứu sống chàng thanh niên khác, chỉ lối đi cho chàng thanh niên
Chàng thanh niên Trả lời: "Mọi sự trên đời đều biết" Các tên lính canh, người lái đò
Hứa hẹn: "Khi trở về, sẽ nói cho biết"
Nói lại lời của quỷ
Hỏi han về các chuyện khó hiểu Bà giúp việc của quỷ
Nói dối về vàng bên kia sông Nhà vua
Bà giúp việc của Làm phép biến thành con kiếm Chàng thanh niên (Đứa trẻ) quỷ
Dặn dò ẩn nấp, im lặng
Đưa tóc của quỷ, biến lại thành người
27
Nhổ tóc, hỏi han Con quỷ
Dì ghẻ Mắng thậm tệ Cô chị
Dì ghẻ và con ruột Mừng vui xúm xít khi thấy vàng bạc Cô chị Bà chúa Tuyết
Dỡ bánh, kéo bánh ra khỏi lò để Bánh mì Cô chị không bị cháy
Rung cây cho táo chín rụng, xếp táo Táo ngay ngắn
Chăm chỉ dọn nhà Bà chúa Tuyết
Bà chúa Tuyết Thân mật trò chuyện Cô chị
Đưa về nhà mình
Trao cho ống sợi, thưởng vàng
Phạt đổ nhựa thông Cô em
Lười biếng, kiêu kì Bánh mì, táo Cô em
Tỏ ra chăm chỉ Bà chúa Tuyết
Lười biếng
Cô chị Con gà trống gáy Gái vàng, gái bạc...
28
Gái dơ, gái bẩn... Cô em
Mẹ kế (Hoàng hậu) Bực tức, căm ghét Bạch Tuyết
Lệnh giết Bạch Tuyết, lấy gan phổi về Thợ săn Nàng Bạch Tuyết
Lệnh xào gan phổi cho mụ ăn Nhà bếp
Thắt lưng chặt cứng, làm nghẹt thở Bạch Tuyết
Chải tóc, cắm lược tẩm thuốc độc
Lừa ăn phần táo có độc
Bảy chú lùn Để yên cho nàng ngủ Bạch Tuyết
Dặn dò phải cẩn thận mụ hoàng hậu,
không được cho ai vào nhà
Cắt dây lưng, tháo lược độc
Làm quan tài, canh gác thi hài
Không động tới nàng, để cho nàng đi Muông thú trong rừng
Đến khóc thương nàng
29
Trân trọng nàng như người yêu Hoàng tử Bạch Tuyết thương nhất trên đời
Gương thần Khen Bạch Tuyết Mẹ kế (Hoàng hậu)
Khen hoàng hậu
Người cha "Lũ trời đánh" Bảy người con trai
"Ước gì cả bảy thằng đều thành quạ"
"Cô ấy tuy đẹp thật, nhưng chính cô Những người xung ấy là nguyên nhân sự bất hạnh của Cô em gái Bảy con quạ quanh bảy người anh trai"
Đi mãi, đi hoài, đi tới tận cùng thế
Cô em gái giới, Đi tới mặt trời, mặt trăng, tới các Bảy người anh trai
vì sao, tới núi thuỷ tinh
Nếm ở mỗi đĩa một miếng và uống
mỗi cốc một hớp; thả chiếc nhẫn
mang theo vào cốc nước cuối cùng
Bảy người anh trai "Chúng ta đã được giải thoát" Bảy người anh trai
30
Dê mẹ "Các con yêu dấu... hãy cnahr giác Bảy chú dê con Sói và bảy chú dê
chó sói" con
"Thằng quỷ sứ ấy" Chó sói
Rạch bụng con quái vật
"Giọng mày khàn khà ồ ồ, đúng mày Bảy chú dê con Chó sói là chó sói"
"Chân mẹ đâu có đen như chân mày,
mày đúng là chó sói"
Nhét đá vào bụng
Chó sói Giả giọng dê mẹ Bảy chú dê con
Ăn cục phấn to cho thanh giọng
Doạ ăn thịt Bác xay bột
Nuốt chửng hết con này đến con kia Bảy chú dê con
Khệ nệ mang thúng hàng nặng trèo Chú thợ may nhỏ
lên ba bậc thang nhưng bán được ít thó can đảm
31
Bà bán hàng hàng, vừa đi vừa lẩm bẩm rủa thầm Chú thợ may
Quát, phẩy rồi quật không thương tiếc
và mắng "Đợi đấy, tao cho chúng
Chú thợ may mày biết tay!" Lũ ruồi
Khoe khoang "Một đòn chết bảy",
Bóp nát pho mát, ném con chim lên Gã khổng lồ
trời, giả vờ bê cành cây
Gây xích mích để hai gã khổng lồ tự Hai gã khổng lồ giết nhau
Các tướng quân Xin bãi chức về nhà Nhà vua
Lệnh đi giết hai gã khổng lồ, hứa gả Nhà vua Chú thợ may con gái và chia nửa giang sơn
Nuối tiếc và bày mưu buộc chú thợ
may đi bắt con kì lân đang phá hoại
rừng
Yêu cầu phải bắt được con lợn rừng
32
hung dữ đang hoành hành
"Chiếc lông vàng quý hơn cả một Nhà Vua Quần thần vương quốc"
"Không những muốn có một chiếc, Con chim vàng Hoàng tử cả Nhà Vua mà muốn có cả con chim"
Hoàng tử cả, hoàng Không tin và bắn con vật hay giỡn cợt Con cáo tử hai
"Cáo thân yêu, cứ yên tâm, ta không Hoàng tử út hại mi đâu!"
"Anh sẽ không phải hối hận vì điều Hoàng tử út Con cáo đó"
"Làm như vậy anh sẽ gặp nguy hiểm
đấy"
"Tôi vốn muốn anh chịu một số khổ
sở, nhưng tôi lại rất thương anh nên
33
sẵn lòng giúp anh khi khó khăn"
"Anh làm không được bao nhiêu, để
tôi làm thay cho. Anh nằm nghỉ đi"
"Hãy bắn tôi chết, rồi chặt đầu và
chân"
"Tôi không thể để anh thế này. Tôi sẽ
giúp anh lên khỏi giếng"
"Chàng đã có những gì chàng mong
muốn, nhưng nỗi đau khổ của tôi thì
chưa kết thúc."
Mẹ kế mắng Lọ "Con ngan ngu ngốc"; "Ra ngay, con Lọ Lem phải làm lụng vất vả từ Cô bé Lọ Lem
Lem làm bếp!", "... cô công chúa đài các" sáng đến tối
"Đồ Lọ Lem"; "... nếu mày nhặt trong Mẹ kế trộn lẫn đậu hai tiếng đồng hồ mà xong thì cho Ngăn cản Lọ Lem đi dự tiệc biển và tro mày đi"
34
Chim câu giúp Lọ "... rồi tất cả chim trên trời đều sà Lọ Lem nhặt xong đám đậu lẫn Lem xuống quanh đống tro"
Lọ Lem khóc bên "Cây ơi, cây hãy rung đi; Thả xuống Chim thả xuống những thứ Lọ
cây hạt dẻ ... cho em" Lem mong muốn
Hoàng tử chỉ nhảy "Đây là vũ nữ của tôi" với mình Lọ Lem
Hoàng tử đuổi theo "Ta chỉ lấy người đó làm vợ, người Hai cô con gái dì ghẻ mừng rỡ Lọ Lem và nhận vừa đi chiếc hài này" được chiếc giày
"Cứ chặt phăng ngón cái/ một miếng Cô chị chặt ngón cái, và cô em Mẹ xúi hai con gái đi. Khi con đã là hoàng hậu thì chẳng chặt một miếng gót chân gọt chân bao giờ phải đi chân đất nữa
Chim câu hót về hai "Máu thấm trên hài, Do chân quá dài, Hoàng tử quay lại tìm cô dâu thật cô chị Chính cô dâu thật, Vẫn ở trong nhà."
Mẹ kế ngăn cản Lọ "Nó dơ bẩn lắm, không thể cho nó ra Hoàng tử khăng khăng đòi gọi Lọ
Lem thử giày mắt hoàng tử được." Lem cho kì được
35
Hoàng tử reo lên "Cô dâu thật đây Hoàng tử bế Lọ Lem lên ngựa về Lọ Lem thử giày rồi" cung
Hai cô chị đến phỉnh "Cô chị đi bên phải, cô em đi bên trái" Chim bồ câu mổ mỗi cô một mắt nịnh trong đám cưới
Chim bồ câu mổ mỗi cô một mắt "Cô chị đi bên trái, cô em đi bên phải" nữa
Chim Mụ phù thuỷ Gọi và ăn thịt
Biến thành chim Các thiếu nữ trinh tiết
Làm đông cứng Những ai lại gần lâu đài trăm bước Jorinde và Joringel
Jorinde hoá thành Joringel kinh hoàng và choáng Chim hót: "Xin chào bạn đời!" chim hoạ mi váng muốn té xỉu
Không tài nào nhúc nhích được
Joringel bị cứng đơ Chàng đứng chết lặng đi chân tay, không khóc mà cũng
không nói được tiếng nào
Jorinde bị mụ phù Mụ phù thuỷ quay người lại và đi mất Joringel được tự do thuỷ nhốt vào lồng
Joringel nằm mơ Chàng tỉnh dậy và lên đường đi tìm Vào sáng ngày thứ chín thì chàng
36
thấy bông hoa đỏ hoa Đi hết ngày này sang ngày khác tìm thấy bông hoa đỏ chói
chói, mơ thấy gặp
lại Jorinde
Mụ phù thuỷ mang Nhanh như chớp, chàng nhảy về phía Jorinde hiện nguyên hình, nàng
đi một lồng chim và ấy, chạm hoa vào lồng chim và mụ ôm hôn chàng như những ngày
tính đi ra phía cửa phù thuỷ xưa
"Con đi cho ngoan, đừng có lang Khăn đỏ nói "Con sẽ làm tất cả Mẹ dặn dò Khăn đỏ thang..."; "Con nhớ chào bà, đừng có những điều mẹ dặn" Cô bé đội mũ đỏ mắt la mày xét nhìn các xó nhà nhé!"
"Cháu đi đâu mà cứ đăm đăm thẳng Sói dụ dỗ Khăn đỏ Khăn đỏ thơ thẩn hái hoa trong tiến như đi học ấy. Ở trong rừng vui chơi trong rừng rừng và quên giờ đến nhà bà nội lắm cháu ạ!"
Chẳng nói chẳng rằng ... nuốt chửng Sói ăn thịt bà nội Bà nội bị sói ăn thịt bà cụ
37
Sói liền nhảy ra khỏi giường, nuốt Sói ăn thịt Khăn đỏ Khăn đỏ bị sói ăn thịt chửng Khăn đỏ đáng thương
Bác thợ săn cứu hai Lấy kéo rạch bụng con sói đang ngủ Cứu được hai bà cháu Khăn đỏ bà cháu
Sói tỉnh dậy, ngã khuỵu xuống lăn Khăn đỏ Nhét đá vào bụng sói ra chết
Bác thợ săn Lột da sói mang về nhà
Vua sai người làm Mƣời hai hoàng tử "... thì mười hai đứa con trai kia phải mười hai cái quan chết để cho con gái ta thừa hưởng một Hoàng hậu suốt ngày rầu rĩ tài và nói với hoàng mình gia tài và trị vì vương quốc này" hậu
Hoàng hậu dặn Nếu thấy cờ trắng thì trở về, nếu thấy
trước khi để các cờ đỏ thì hãy tiếp tục lên đường trốn Mười hai hoàng tử trốn vào rừng
hoàng tử trốn đi đi
Mười hai hoàng tử "người con gái đầu tiên chúng ta găp Mười hai anh em trốn vào rừng
tức giận thề trả thù sẽ phải đầu rơi máu chảy" sâu
38
"Mẹ đừng khóc nữa, con sẽ đi tìm các Nàng lên đường, vào tận rừng sâu Em gái an ủi mẹ anh con" tìm các anh
Tìm cho bằng được mười hai Công chúa "Sẽ đi tới cùng trời cuối đất" người anh trai
"Sẵn sàng chết để giải thoát cho mười Công chúa hai anh"
Mọi người (12 hết sức vui mừng, chạy lại ôm hôn Mười ba anh em sống với nhau vui
vẻ hoàng tử) (công chúa) thắm thiết
Hái mười hai bông huệ trắng để tặng Mười hai người anh bị biến thành Công chúa quạ các anh
Bảy năm câm lặng, không nói, Công chúa Giải thoát cho các anh trai không cười
Công chúa Không nói nhưng gật đầu
trèo lên cây, bồng cô xuống, đặt cô Nhà vua Công chúa trở thành hoàng hậu lên ngựa và đi về hoàng cung
Hoàng thái hậu dè "Nó chỉ là đứa ăn mày hạ đẳng ... Hoàng hậu (công chúa 13) bị đưa
bỉu những loại người thâm độc" lên giàn hoả thiêu
Công chúa nhẫn Bị cột chặt vào giàn hoả thiêu, lửa Mười hai con quạ bay tới, sà
39
nhịn không kêu lên cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bắt đầu xuống đất và hiện thành mười hai
lời nào liếm tới quần áo nàng chàng trai
Hoàng thái hậu thâm bị đưa ra xét xử, ném vào vạc dầu sôi Chết hiểm độc ác bơi cùng lũ rắn độc
Gia đình Hansel và miếng bánh mì ăn hàng ngày cũng Lấy gì mà nuôi những đứa con Hansel và Grethel
Gretel nghèo khó không kiếm nổi đáng thương
Người vợ nói với "... bỏ mặc chúng ở đó, còn ta cứ việc Người chồng không đồng tình chồng đi làm việc của ta"
Người vợ chanh nói sa sả, không để cho chồng yên Người chồng đành chịu, thuận
chua thân theo ý vợ
Hansel và Gretel đói chúng nghe hết đầu đuôi câu chuyện Gretel khóc sướt mướt, Hansel
quá nên không ngủ và những điều bà mẹ nói với bố nhặt sỏi trắng cho vào túi để đến
được chúng lúc cần dùng
40
Bố mẹ đánh lừa Bố mẹ bỏ về, để mặc hai đứa trẻ "Khi nào xong sẽ về đón chúng mày" Hansel và Gretel trong rừng
Hai anh em lần theo "... lũ con mất dạy, sao chúng mày Người bố mừng vui ra mặt vì vệt sỏi cuội để về không ngủ nữa ở trong rừng" không muốn bỏ con nhà, bị bà mẹ mắng
Hai anh em nằm Người chồng đành chịu, thuận nghe thấy mẹ nói "Phải tống khứ lũ trẻ con đi" theo ý vợ với bố
Hai anh em mệt tự nhiên mà đánh chén một bữa ngon Mụ phù thuỷ lừa đưa hai anh em nhoài, thấy nhà xây lành trời cho vào nhà bằng bánh mì
Mụ phù thuỷ mắng "nó phải ăn ngon cho chóng béo, khi Gretel oà khóc nức nở nhiếc Gretel nào nó thức béo, tao sẽ ăn thịt"
Gretel vừa xách nước, vừa than dù béo hay gầy thì mai tao cũng làm Mụ phù thuỷ vãn, hai hàng nước mắt chảy trên thịt đem nấu gò má
41
Mụ phù thuỷ đẩy cô "Chui vào, nhìn xem bên phải lò đã Gretel giả ngây ngô không chui bé tới trước cửa lò, đủ nóng chưa" vào lửa đã cháy bốc cả
ra phía ngoài cửa lò
đẩy mụ phù thuỷ thật mạnh làm mụ Gretel Con mụ già rú lên khủng khiếp chui tọt hẳn vào trong lò
co cẳng chạy, ba chân bốn cẳng chạy Cả nhà sống trong cảnh yên vui Hai anh em thẳng vào nhà, ôm ghì cổ bố mà hôn hạnh phúc
Mười hai bà mụ chúc đức hạnh, sắc đẹp, giàu sang phú Công chúa ngủ niệm chú chúc quý... tất cả những điều tốt đẹp có thể trong rừng mừng công chúa mơ ước được ở trần gian
"Đến năm mười lăm tuổi, công chúa
Bà mụ thứ mười ba sẽ bị mũi quay sợi đâm phải rồi lăn ra
chết!"
42
"Công chúa sẽ không chết, mà chỉ Bà mụ thứ mười hai Làm giảm nhẹ lời nguyền ngủ một giấc dài trăm năm."
Công chúa, cả lâu bụi hồng gai mọc rậm phủ kín cả đài, vua, hoàng hậu đều ngủ triền miên lâu đài và triều đình
Ông lão can ngăn, "Con muốn tới đó để gặp nàng Hồng Chàng đi tới đâu, bụi hồng gai nhưng hoàng tử Hoa xinh đẹp" khép kín lại đến đó không sợ
Hoàng tử cúi xuống hôn nàng Công chúa bừng tỉnh
Chủ nghĩ cách kết liễu đời lừa để lấy Lừa đã cạn kiệt sức Lừa trốn đi Nhạc sĩ thành bộ da Bremen Lừa rủ thêm chó săn "Cậu đi với mình, sung voà ban nhạc. Chó nhận lời, cả hai cùng đi tuổi già trốn cùng Mình chơi đàn, cậu đánh trống."
Mèo vuốt râu và nói "Bà chủ định dìm chết mình." Mèo đi cùng lừa và chó với lừa
"Tối nay là mình bị cắt tiết đây. Ờ,
Gà nói với lừa chừng nào còn gáy được thì ráng sức Gà nhập bọn, cả bốn cùng đi
43
mà gáy cho thoả chí"
"Giá như kiếm được vài cái xương Chó nghĩ bụng Cả bọn tới căn nhà của bọn cướp dính tí thịt thì cũng hay rồi"
nghe tiếng khủng khiếp, tưởng là ma giật mình bỏ chạy thục mạng về Bọn cướp hiện vào phía rừng
Tắt đèn, tìm chỗ nằm ngủ theo sở Bốn nhạc sĩ đánh chén no say thích và thói quen riêng
"Thương tôi với ... vợ tôi nhìn thấy Rapuzel Người chồng van Mụ phù thuỷ đặt lời hứa phải trao rau mơn mởn nên thèm, thèm đến nỗi nài mụ phù thuỷ cho mụ đứa con sau này có thể chết đi được"
Khi người vợ sinh con, mụ phù Người chồng Hoảng sợ, đồng ý tất cả thuỷ tới đòi đứa bé
vui vẻ nhã nhặn, dùng lời lẽ nhẽ
Hoàng tử nhàng kể cho Rapuzel về khát khao Rapuzel dần dần tĩnh tâm lại
được gặp nàng
44
Mụ phù thuỷ mắng "Ái chà, mày là quân vô đạo..." Rapuzel
Túm tóc Rapuzel, lôi giật và tay trái Những bím tóc óng mượt rơi
ghì Rapuzel, tay phải cầm kéo cắt tóc xuống đất
Rapuzel bị đưa tới thường xuyên bị đói khát dằn vặt miền hoang vu
Mụ phù thuỷ nguyền "Mắt sẽ bị gai đâm mù" rủa hoàng tử
Hoàng tử choáng
váng nhảy từ trên bị gai đâm mù cả hai mắt
tháp xuống bụi gai
Hoàng tử vừa đi vừa than khóc nhớ người yêu chàng đi mấy năm trời
Nghe tiếng Rapuzel Hoàng tử theo hướng tiếng người nói
gọi con đi tới
Rapuzel ôm hoàng Mắt hoàng tử sáng ra, và nhìn Hai giọt lệ nhỏ xuống mắt chàng tử mà khóc được như xưa
Khi đứa con thứ không biết xoay xở thế nào nữa trong Chạy ra đường cái, nhờ người đầu Thần chết đỡ đầu
45
mười ba ra đời, cảnh bần hàn tiên mà bác gặp làm cha đỡ đầu
người cha cho đứa trẻ
Chúa trời động lòng
thương, muốn làm chăm sóc nó, để nó được sung sướng
cha đỡ đầu
Người cha từ chối "Ông chỉ phò người giàu sang, bỏ Bác đi tìm người khác Chúa trời mặc kẻ nghèo đói khó rét"
Người cha từ chối "Ông chuyên môn lừa dối và quyến rũ Bác đi tìm người khác Quỷ mọi người"
Thần Chết "Ta coi ai cũng như ai" Người cha đồng ý
Chẳng bao lâu đã lừng danh bốn Trở nên giàu có, được mời tới xem Chàng thanh niên phương trời bệnh tình của nhà vua
Thần Chết hầm hầm
Chàng thanh niên được tha một lần đến chỉa ngón tay "Mày đã lừa ta." vì là con đỡ đầu trỏ vào mặt thầy
46
lang
Thần Chết rảo bước "Thế là mày hết đời! Giờ thì tới lượt Thầy lang bị đưa xuống âm phủ về phía thầy lang mày chết!
Thầy lang xin thần "Trời ơi, cha kính yêu, cha hãy Thần Chết làm ra bộ chiều ý con Chết thắp cho ngọn thương con ..." đỡ đầu đèn mới khác
cố tình đánh rơi chiếc đèn nhỏ xuống Thầy lang lăn ra đất và bị thần Thần Chết đất Chết bắt đi
lấy một quả cầu vàng tung lên để bắt Vua ếch Công chúa thường Đó là đồ chơi mà nàng quý nhất chơi
Công chúa nhìn theo nhưng quả cầu đã biến mất
Nàng (công chúa) khóc mỗi lúc một to
Một con ếch nhô chiếc đầu to tướng và xấu xí lên khỏi mặt nước
Tôi (công chúa) khóc nhớ quả cầu vàng
Tôi (ếch) chắc chắn sẽ có cách giúp công chúa
Tôi (ếch) cũng chẳng thích quần áo, châu báu, mũ miện vàng
47
Ta (công chúa) sẽ làm tất cả những điều ếch muốn
Công chúa thấy lại đồ chơi đẹp đẽ của mình rất mừng
Ếch mở cửa cho tôi vào Công chúa
Con cưng của ta, có điều gì làm con Vua Công chúa sợ hãi thế?
Công chúa Đành phải làm theo Vua cha
Công chúa Sợ con ếch da lạnh nhớp nháp Oà lên khóc
Tôi (ếch) Mỏi mệt Muốn được ngủ trên giường
Đã đánh ba vòng đai sắt quanh tim Bác Hai-rích Buồn để tim khỏi bị đau buồn mà vỡ ra
48
Bảng 1.2. Thống kê các hành động bạo lực trong truyện cổ Grim
Qua quá trình thực hiện hành vi của các nhân vật được thống kê ở trên, chúng tôi
nhận thấy các nhân vật hầu hết đều xét được trong hai trạng thái chủ động hoặc bị
động. Vị trí của tác nhân và đối tượng bị ảnh hưởng đã bị thay đổi do sự biến đổi
của người bị ảnh hưởng tới chủ thể và tác nhân trong mục đích trực tiếp. Trong
bảng dưới đây, chúng tôi sẽ cung cấp một vài trường hợp tiêu biểu cho việc các
quá trình tác động bị động có thể quan sát thấy trong 19 truyện:
Đối tƣợng bị Quá trình bị động Tác nhân (cũ) Truyện
ảnh hƣởng
Ba chiếc lá rắn Tôi Phải được chôn
Ba chiếc lá rắn Cái xác chết Được chôn
Mười hai anh em Nàng Phải bị thiêu
Mụ phù thủy Bị thiêu cháy đến (bởi Grethel) Hansel và Grethel
chết
Mụ phù thủy Bị quăng vào lửa (bởi vua) Anh trai và em gái
và thiêu chết
Mái tóc Bị cắt Rapunzel
Hoàng hậu phù Đưa vào đôi giày Nàng Bạch Tuyết
thủy đỏ nung nóng
Bảng 1.3. Quá trình tác động bị động có thể quan sát thấy trong 19 truyện
1.1.1. Những đối tượng chủ động tham gia thực hiện hành động bạo lực
1.1.1.1. Sự tham gia chủ động của con người
Vua và hoàng hậu
Một trong những ví dụ về hành vi bạo lực có sự tham gia tích cực của yếu tố con
người là trong truyện Mười hai anh em. Nhà vua sử dụng địa vị xã hội của mình, ra
lệnh 12 người con trai sẽ bị giết nếu đứa trẻ thứ mười ba sắp sửa được sinh ra là
49
một nàng công chúa. Bởi vì Vua không muốn toàn bộ vương quốc của mình bị chia
thành mười ba phần. Cũng trong chính câu chuyện này, vị vua thứ hai đã bị hoàng
thái hậu thuyết phục sử dụng quyền lực để kết án giết chết người vợ của mình.
Trong Ba chiếc lá rắn, nàng công chúa đã hạn chế sự lên ngôi phò mã của nhiều
người bởi tư tưởng chồng phải được chôn sống cùng với mình ngay khi chết. Sau
đó, khi được phò mã cứu để quay trở lại cuộc sống thì người phụ nữ ấy đã thay
lòng đổi dạ, cố gắng giết chồng bằng cách ném anh ta xuống biển.
Trong một trường hợp khác, Chú thợ may nhỏ can đảm, sau khi phát hiện ra thân
thế thật của chồng mình, công chúa không chấp nhận sự thật ấy. Nàng đã thỉnh cầu
với vua cha về điều trăn trở của mình. Với quyền lực và thân phận của mình, nhà
vua và công chúa quyết định khiêng chú thợ may xuống tàu và đẩy ra đảo xa. Hành
động tuy không thành do có một nhân vật hầu cận tiết lộ kế hoạch nhưng cũng hé
mở việc hành động dựa trên thân phận, địa vị xã hội cao hơn của những vị vua,
hoàng hậu trong truyện cổ Grimm.
Cha mẹ, anh chị em ruột, mẹ kế và con riêng của mẹ kế
Bà mẹ kế và các con riêng của mẹ kế trong Cô bé Lọ Lem (Cinderella) đã tự gây
nên những chấn thương ngoài sức tưởng tượng cho bản thân. Thêm vào đó, người
mẹ chính là tác nhân ép con mình cắt chân cho phù hợp với chiếc giày của hoàng
tử để có thể bước tới địa vị xã hội cao hơn trong hoàng cung. Sức mạnh của người
mẹ có được trong trường hợp này là do xây dựng dựa trên một vị trí ưu thế hơn
50
trong gia đình.
Cùng một lí do, bà mẹ trong Hansel và Grethel (Hansel and Grethel) ép người
chồng đưa hai đứa con đẻ của mình vào rừng để thú dữ ăn thịt, từ bỏ trách nhiệm
nuôi con.
Trong Ba sợi tóc vàng của quỷ, khi đứa trẻ sinh ra chưa có sự quyết định, cha và
mẹ ruột của đứa trẻ lại trao đứa con của mình cho người lạ mặt để nhận lại rất
nhiều vàng.
Những nhân vật sống lẩn trốn ngoài vòng pháp luật
Những nhân vật sống lẩn trốn ngoài vòng pháp luật đó là những tên cướp, những
kẻ trộm. Đó là những tên trộm trong Những nhạc sĩ thành Bremen xuất hiện thoáng
qua trong ngôi nhà đầy thức ăn nhưng chưa thực hiện hành vi tội ác nào khác.
Những nhân vật này trong các câu chuyện chúng tôi khảo sát thường sử dụng sức
mạnh của mình để thực hiện những hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp ngoại lệ như những tên cướp trong Ba sợi tóc vàng của quỷ đã đánh tráo lá thư
của vua gửi cho hoàng hậu, nhờ vậy mà chàng trai mới được sống.
Chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các hành vi bạo lực của con người trong truyện
cổ Girmm đều được thực hiện dựa trên sức mạnh có được từ địa vị xã hội của họ
(đó là các vị vua, hoàng hậu, mẹ hoặc anh em).
Sự tham gia chủ động của những sinh vật ma thuật
Hầu hết các phép thuật hoặc những sinh vật có phép mê hoặc đều dẫn tới hành
động bạo lực trong truyện cổ Grimm. Quyền lực của những sinh vật này có được
chủ yếu dựa vào sức mạnh kì diệu to lớn được cung cấp. Trong Anh trai và em gái,
51
bà mẹ kế độc ác đi theo bước chân của hai đứa trẻ mỗi ngày và làm phép để chúng
không thể uống nước. Khi người em gái trở thành một nữ hoàng, bà mẹ kế độc ác
cùng đứa con gái của mình đã thực hiện một việc làm tàn ác “đưa hoàng hậu trẻ
đẹp vào bồn tắm để ngạt thở tới chết” rồi thay thế vị trí của nàng.
Trong Rapunzel, mụ phù thủy độc ác đã nhốt Rapunzel trong một ngôi tháp qua
nhiều năm, rồi khiến hoàng tử bị gai đâm vào mắt, cắt mái tóc của Rapunzel và đẩy
nàng đến một nơi xa xôi. Mụ phù thủy độc ác trong Hansel và Grethel chuyên đi
ăn thịt trẻ con cố gắng tìm cách để ngược đãi sau đó giết chúng ăn thịt. Một mụ
phù thủy khác như trong Jorinde và Joringel lại luôn tìm cách khiến tất cả các cô
gái hóa thành chim và nhốt lại trong lâu đài của mụ. Trong Bảy con quạ, chỉ một
câu nói mà người cha đã khiến bảy người con trai trở thành quạ và chúng bị đi đến
một nơi ở khác trong trạng thái đau đớn. Mười hai người anh trai ngay lập tức hóa
thành mười hai con quạ sau khi cô em gái trong Mười hai hoàng tử hái mười hai
bông hoa trước nhà. Bà mụ thứ mười ba trong Công chúa ngủ trong rừng cầu cho
công chúa sẽ chết năm mười lăm tuổi bởi mũi quay sợi đâm vào tay vì quá tức giận
khi không được mời tới bữa tiệc. Vì lời nguyền mà hoàng tử trong Vua Ếch bị biến
thành ếch, hay thành cáo như trong Con chim vàng.
1.1.1.2. Động vật
Trong số các câu chuyện thuộc phạm vi chúng tôi khảo sát, có những câu chuyện
có sự tham gia tích cực của các loài động vật như: bốn con vật trong Những nhạc sĩ
thành Bremen tấn công bọn cướp hay đôi chim bồ câu chọc mù cả hai mắt của hai
chị em con mẹ kế trong Cô bé Lọ Lem. Hầu hết các loài động vật này đều biết nói –
và đặc biệt bạo lực. Quyền lực của chúng được xây dựng dựa trên sức mạnh ma
52
thuật được cung cấp và trở thành khả năng tự vệ của chúng.
1.1.2. Những đối tượng bị động tham gia thực hiện hành vi bạo lực
Nhân vật người vợ hoặc người chồng trong bộ truyện cổ Grimm có thể được coi là
nhân vật có sức chống cự yếu và thụ động trong các hành vi bạo lực. Đó là những
nhân vật không thực hiện hành vi bạo lực nhưng cư xử như một kẻ đồng lõa của
những hành vi ấy thông qua việc cho phép người thân thực hiện hành vi. Một ví dụ
là nhân vật nữ hoàng trong Mười hai anh em, bà ngồi than thở cả ngày trong khi
người chồng – đức vua tìm đủ cách để giết những chàng hoàng tử mà không làm
bất cứ điều gì để ngăn cản hành động. Trong Hansel và Grethel, nhân vật người
cha chấp nhận việc bỏ rơi hai đứa con đẻ của mình khi người vợ thuyết phục. Hay
trong Cô bé Lọ Lem, người cha cũng để mẹ kế và hai người con riêng ra lệnh cho
con gái ruột của mình mà không có sự phản đối. Đối với các trường hợp này,
quyền lực của nhân vật trong truyện cổ Grimm có thể coi được xây dựng dựa trên
cơ sở thế mạnh và điểm yếu. Đây là những người thực hiện hành vi một cách thụ
động thông qua việc chấp nhận các hành vi bạo lực với người thân của mình, tức là
đồng lõa với hành vi bạo lực.
Xem xét các câu chuyện trong đối tượng khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng các
câu chuyện thể hiện một mối quan hệ rõ ràng giữa quyền lực và địa vị xã hội. Các
trường hợp thường là hành vi bạo lực được thực hiện bởi những người từng là nạn
nhân và được đưa lên vị trí cao hơn. Việc phân tích các câu chuyện đã minh chứng
cụ thể về mối quan hệ rõ ràng giữa quyền lực và địa vị xã hội. Như thường thấy,
các hành vi bạo lực thường được thể hiện bởi những người đã từng là nạn nhân của
sự bạo hành, nhưng sau đó có được một địa vị xã hội cao hơn. Sự liên hệ đó, chính
là sức mạnh mà kẻ tàn ác sử dụng để giáng hành vi bạo lực nên nạn nhân của họ;
những hành vi bạo lực có cùng cơ chế, tương tự như các hành vi có chủ đích đã
53
làm hại đến họ khi còn là nạn nhân, hoặc bị lạm dụng bởi một kẻ bạo tàn khác.
Trong địa vị xã hội mới, chính những nạn nhân lại trở thành kẻ tàn độc, hoặc đồng
thuận cho người vợ hoặc chồng hoặc người thân thiết của mình có những hành vi
tàn độc. Đối với những tình huống như vậy, cơ chế báo thù thậm chí còn tàn ác
hơn so với những đau thương đã xảy ra trong quá khứ. Ví như trong Mười hai
hoàng tử, hoàng thái hậu trước đó đã thêm thắt những câu chuyện tội lỗi khiến vua
nản lòng, chiều theo ý mẹ để hành hình hoàng hậu-vợ mình sau cùng bị đưa ra xét
xử một cách bạo tàn: ném vào vạc dầu sôi bơi cùng lũ rắn độc và chết. Hay trong
Anh trai và Em gái, người con gái của mẹ kế được thay thế nữ hoàng bằng một sức
mạnh siêu nhiên của mình, sau cùng bị đưa vào rừng bị thú hoang xé xác thành
từng mảnh. Mẹ của cô, mụ phù thủy bị đem thiêu cháy. Mụ phù thủy độc ác trong
Hansel và Grethel, một kẻ ăn thịt người sau cùng bị Grethel đẩy vào lò nướng, hú
lên một tiếng khủng khiếp và chết. Cô công chúa trong Ba chiếc lá rắn bị chính
cha ruột của mình trừng phạt bằng cách ném xuống một con tàu đục nhiều lỗ và
đẩy ra biển cho chết chìm cùng kẻ đồng lõa bởi đã cố gắng tìm cách giết chồng.
Mẹ kế trong Nàng Bạch Tuyết cố gắng ba lần giết cô nhưng không thành, sau cùng
phải đi đôi giày nung đỏ và nhảy múa cho tới chết.
Quyền lực có thể đo được bằng nhiều cách thức khác nhau, tùy thuộc vào uy tín xã
hội, danh tiếng để kiểm soát các vấn đề liên quan đến tâm lí. Trong bộ truyện cổ
Grimm, chúng tôi nhận thấy quyền lực được đo trong điều kiện địa vị xã hội, hoặc
trong sự quen thuộc, sức mạnh có được nhờ vào ma thuật hoặc quyền lực tự nhiên.
Hầu hết, nạn nhân là phụ nữ hoặc trẻ em, và những người thực hiện hành vi bạo
lực, thường là một người đàn ông có địa vị xã hội cao, nếu là một phụ nữ thường
54
xuất phát từ lòng tham lam, ghen tị hoặc từ vai trò là một bà mẹ kế.
1.2 Căn tính bạo lực qua các lớp truyện kể
Truyện cổ Grimm là “bộ sưu tập” trong một bối cảnh lịch sử xã hội làm sáng rõ
các thành tựu đáng chú ý của cả một thời kì lịch sử của dân tộc Đức. Ở đây, chúng
ta cần nhớ rằng việc thu thập các câu chuyện cổ chỉ là một phần nhỏ trong công
trình nghiên cứu học thuật của anh em nhà Grimm. Khi Jacob và Wilhelm bắt đầu
thu thập tất cả các câu chuyện dân gian và các bài hát ở đầu thế kỉ 19, họ đều là
những sinh viên rất trẻ ở Đại học Marburg.
Họ tin tưởng rằng, văn học hiện đại dù giàu có đáng kể nhưng cũng không thể diễn
tả được bản chất đích thực từ những kinh nghiệm của người dân và những gì ràng
buộc họ lại với nhau. Cả Jacob và Wilhelm hoàn toàn không chính thức hóa khái
niệm của họ về văn học dân gian khi họ thực hiện các ấn phẩm đầu tiên. Mục đích
thu thập, và bảo quản tất cả các thể loại được coi là di tích cổ xưa bao gồm những
câu chuyện, huyền thoại, bài hát, truyện ngụ ngôn, truyền thuyết, sử thi, tài liệu và
các hiện vật khác – không chỉ là những câu chuyện cổ tích. Dự định của họ là để
theo dõi và nắm bắt được bản chất của quá trình tiến hóa văn hóa và ngôn ngữ như
thế nào để chứng minh tính tự nhiên, xuất phát từ nhu cầu, phong tục và nghi lễ
của những người dân thường. Đây là một trong những lí do khiến Jacob và
Wilhelm gọi bộ sưu tập của mình là một cẩm nang giáo dục (Erziehungsbuch), để
kể lại cho những người Đức cũng như các nhóm khác ở Châu Âu giúp họ trải
nghiệm những giá trị của mình thông qua cách kể chuyện. Và thế là, hai anh em
nhà Grimm đã kiến thiết nên một kho tàng vừa đồng nhất, lại vừa giàu cấu trúc.
Kho tàng truyện cổ Grimm giống như những bức tranh kỷ hà mô tả sự bao la của
vụ trụ, sự thần thánh của Thượng đế. Từ xa, ta nhìn thấy một sự tổng thể, thống
nhất và tái lặp về màu sắc; nhưng lại gần, ta mới nhìn thấy các nhóm nhân vật, đặc
55
biệt là căn tính từng nhân vật tạo ra những sự khác biệt riêng.
Với các ấn bản đầu tiên của truyện cổ Grimm, Jacob và Wilhelm không trau dồi
những câu chuyện theo cách mà họ đã mài dũa và tinh chỉnh như các câu chuyện
về sau. Trong bản đầu tiên, ta có thể thấy cả giọng kể đặc biệt của những người kể
cho anh em nhà Grimm câu chuyện, và với chính mức độ này, một số phương ngữ
tiếng Đức cũng xuất hiện khiến cho các câu chuyện dân gian trở nên chân thực
hơn, có tính toàn vẹn hơn. Nói cách khác đi, Jacob và Wilhelm để cho các câu
chuyện của mình vụng về như vậy.
Trở lại với các ấn bản đầu tiên, có nhiều câu chuyện trong danh mục các chuyện
Jacob và Wilhelm sưu tầm bị chính họ loại bỏ, ví dụ như: "The Hand with Knife"
("Die tay mit dem Messer"), "Herr Fix-It-Up" (" Herr Fix und Fertig "), “Puss in
Boots "(" Der gestiefelte Kater ")," Bluebeard "(" Blaubart "), và" Simple Hans "("
Hans Dumm ") [42] vì những lý do khác nhau. Không phải vì những người kể các
câu chuyện này kém mà vì họ không đáp ứng được một số yêu cầu của anh em nhà
Grimm – mục đích tìm kiếm để xuất bản những câu chuyện có nguồn gốc từ Đức.
"Puss in Boots", ("Prinzessin Mäusehaut"), và "Okerlo" ("Der Okkerlo") được
đánh giá là quá mang nhiều chất Pháp để có thể đưa vào bộ suu tập. Sau đó, Jacob
và Wilhelm đều nhận ra đây là quan niệm sai lầm vì không thể biết được đầy đủ
nguồn gốc chính xác của câu chuyện dân gian. Một số câu chuyện khác như "Der
Tod und der Gänshirt" bị bỏ qua bởi thiếu tính văn chương, "Die Stiefmutter" bị bỏ
qua vì sự rời rạc… Khi tiếp tục thu thập các biến thể của các câu chuyện và gửi
đền bạn bè từ truyền miệng và cả những cuốn sách, Jacob và Wilhelm cải thiện các
câu chuyện kết hợp với phiên bản đầu tiên.
Điều khác biệt thứ hai mà người đọc có thể nhận thấy về những câu chuyện trong
56
bản đầu tiên là hầu hết chúng đều ngắn hơn và có điểm nhấn khác với những câu
chuyện tương tự được chỉnh sửa trong các bản sau này. Jacob và Wilhelm chép
những câu chuyện truyền miệng và nội dung thô, sau đó mới chỉnh sửa.
Điều thứ ba, người đọc sẽ nhận ra rằng tất cả các câu chuyện đều theo mạch thẳng,
và có ít hoặc không có mô tả, nhấn mạnh vào hành động và hướng đến giải quyết
các xung đột. Những người kể chuyện dễ bị hướng đến những chân lí mà họ biết,
mặc dù có sức mạnh của ma thuật, có những chuyển đổi kì diệu và sự bạo tàn,
những người kể chuyện vẫn tin vào câu chuyện của họ.
Điểm cuối cùng cũng là điểm quan trọng nhất trong những câu chuyện là ở những
người cung cấp nội dung cho anh em nhà Grimm. Đó chủ yếu là những người có
học thức mà Jacob, Wilhelm quen biết khá tốt. Ví dụ họ làm quen các thành viên
của gia đình Wild và Hassenpflug tại Kassel, gia đình von Haxthausen trong
Münster; Wilhelm biết con gái của tướng Friederike Mannel trong một thị trấn gần
đó. Dorothea Viehmann, vợ của một thợ may, cung cấp nhiều câu chuyện, và trong
một số trường hợp, Grimm mất các câu chuyện trong sách nhưng nhận lại được
chúng từ trong các bức thư. Thông qua chữ viết, các câu chuyện cũng không bị
giảm mất chất dân gian. Họ gửi các câu chuyện của mình cho những người khác,
hoặc họ đọc những câu chuyện ấy, hiểu chúng và biến thành của mình.
Chính việc thu thập và chỉnh sửa này dẫn chúng ta đến hai vấn đề đáng lưu ý. Thứ
nhất, cần nhận định rằng căn tính luôn tồn tại dưới dạng số nhiều và tầm quan
trọng của căn tính này không nhất thiết xóa sạch tầm quan trọng của căn tính khác.
Thứ hai, mỗi con người trong xã hội, thực ra đều thuộc về nhiều nhóm khác nhau.
Mỗi căn tính theo nhóm như vậy, đều có thể, đôi khi là chắc chắn đem lại cho cá
57
thể ý thức về sự hòa hợp của nhóm và sự trung thành của nhóm. Việc anh em nhà
Grimm thu thập các câu chuyện bằng cách thức như vậy, đã thu thập các nhóm căn
tính trong bộ truyện cổ Grimm từ những tầng lớp trí thức trong xã hội lúc bấy giờ.
Nếu ý thức của các nhóm căn tính dẫn đến sự thành công của nhóm và thông qua
đó có thể mang lại những điều tốt đẹp hơn cho cá nhân, thì những hình mẫu hành
vi mang căn tính đó có thể đi đến chỗ được nhân lên và thúc đẩy.
Thật vậy, cả trong sự lựa chọn có ý thức (liên quan đến cách thức anh em nhà
Grimm sưu tầm) và chọn lọc theo tiến hóa (dựa trên điều kiện lúc bấy giờ của
chính xã hội Đức), những ý tưởng về căn tính có thể là quan trọng, và là hỗn hợp
kết hợp giữa ý thức và tiến hóa có chọn lọc cũng có thể dẫn đến sự phổ biến của
hành vi chịu ảnh hưởng từ căn tính. Qua nhiều thế kỉ, văn học dân gian và các câu
chuyện cổ tích đã giữ lại những đoạn quan trọng trong cốt truyện ban đầu và phát
triển các chi tiết cụ thể liên quan đến văn hóa. Bruno Bettelheim [27] cho rằng ý
nghĩa và vai trò của truyện cổ tích trong xã hội là mang đến một thông điệp quan
trọng, có ý thức và trong tâm thức về từng cấp độ hành động ở thời điểm đó cũng
như truyền đạt những vấn đề phổ quát của con người.
Sự sợ hãi và bạo lực vì thế đã tràn ngập trong xã hội theo thời gian, dưới nhiều
hình thức, do đó, không có gì ngạc nhiên khi hai yếu tố này hiện hữu trong hầu hết
trong truyện cổ tích của anh em nhà Grimm làm nên căn tính bạo lực. Quái vật ăn
thịt trẻ em, cha mẹ đánh đập những đứa trẻ, phù thủy sử dụng phép thuật và đặt lời
nguyền lên những cô gái xinh đẹp chỉ là một vài trong số những ví dụ về hành
động bạo lực, tàn ác và nỗi sợ hiện hữu rõ trong các truyện cổ tích. Trong một số
truyện cổ tích, với mục đích dẫn dắt một cách thận trọng để phát triển các hình
thức kỉ luật dùng cho trẻ em trong quá khứ: “Trong nhóm các câu chuyện này, trẻ
58
sẽ gặp những thử thách hiện hữu mà chúng ta phải chiến đấu khi sống cuộc sống
của người trưởng thành: phản bội, mưu mô, khắc phục sự sợ hãi, thù hận, cãi vã và
ghen tuông. Trẻ không phải chỉ đối diện với các mặt xấu xí của nhân loại mà còn
phải sử dụng tất cả khả năng để đối phó với các thế lực đen tối” (Guggenbuhl)
[28].
Jacob và Wilhelm thường bị chỉ trích nhiều, đặc biệt bởi các nhà phê bình trong 50
năm qua vì đã thay đổi và chỉnh sửa các câu chuyện từ phiên bản đầu tiên đến
phiên bản thứ bảy. Nói cách khác đi, các nhà phê bình cho rằng các câu chuyện của
anh em nhà Grimm là những câu chuyện giả dối. Nhưng đây thực sự là một điều
vô lí bởi không ai có thể ghi lại và duy trì chính xác tính xác thực của một câu
chuyện. Chưa kể đến yếu tố anh em nhà Grimm thu gom, biên tập, biên dịch và
đóng vai trò trung gian, nỗ lực để làm chung với nhiều người và các nguồn tài liệu
khác nhau để giữ những câu chuyện và cách kể chuyện truyền thống. Bởi tất cả
những lí do như vậy, những ấn bản được biết đến đầu tiên của truyện cổ Grimm
nên được biết đến bởi đó là một minh chứng cho những tiếng nói sâu bên trong
chúng ta. Những câu chuyện trong Grimm không phải là câu chuyện của họ, mà là
câu chuyện của chính chúng ta. Giống như một quả bóng ném lên không trung nhất
định phải bay lên hay rơi xuống, truyện cổ Grimm vẫn sẽ được lưu truyền, cho dù
nguyên dạng hay tiếp tục được cải biên, bởi lực hấp dẫn là căn tính khác biệt của
chính mỗi người.
Tiểu kết
Bằng cách nghiên cứu các quá trình cấu trúc trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi
đã tìm ra những nội dung bạo lực cao hiện hữu trong bộ truyện cổ Grimm. Dựa vào
mức độ tham gia, chúng tôi nhận thấy những thành phần tham gia hành vi bạo lực
59
một cách chủ động thường được xác định là con người, động vật và các sinh vật
ma thuật, hoặc thụ động (nạn nhân hay kẻ đồng lõa) thường được xác định thuộc
nhóm vợ chồng. Từ đó, kết luận rằng những người đang nắm giữ quyền lực là một
trong những đối tượng gây nên hành vi bạo lực, bất kể điều kiện. Tất cả các hành
vi bạo lực của con người đều được thực hiện bởi những người nắm giữ một địa vị
xã hội cao hơn về mặt cấu trúc chính trị (vua và hoàng hậu) hoặc cấu trúc gia đình
(cha, mẹ, anh chị em đối với con ruột yếu thế hơn). Điều này chỉ ra rằng mối quan
hệ giữa bạo lực và quyền lực là phổ biến trong bộ truyện cổ, cho phép những người
có vị trí xã hội cao hơn gây những hành vi bạo lực với những người kém may mắn
hơn. Điều này đã được chứng minh bởi thực tế, những nhân vật trước đó là nạn
nhân, sau khi bước lên một địa vị xã hội cao hơn đã trở thành thủ phạm gây bạo
lực lên những người khác như một sự trả thù những gì đã xảy ra với họ. Nói cách
khác, mối quan hệ giữa thủ phạm và nạn nhân trong bộ truyện cổ Grimm được xây
dựng dựa trên sự xuất hiện hoặc sự thiếu hụt/yếu về quyền lực xã hội, và cách thức
sử dụng quyền lực ấy đối với các nạn nhân. Mô hình hành vi như vậy có thể dễ
dàng nhìn thấy trong những câu chuyện như Nàng Bạch Tuyết, Rapunzel, Ba chiếc
lá rắn, Mười hai hoàng tử, và nhiều câu chuyện khác.
Tiếp nối quá trình nghiên cứu các hành vi bạo lực – căn tính nổi bật trong truyện
cổ Grimm, ở chương sau, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ các biểu tượng trong truyện
60
cổ Grimm, từ đó đi đến giải thích những quy tắc luân lí qua các lớp truyện kể.
CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY TẮC LUÂN LÍ THÔNG QUA CÁC
BIỂU TƢỢNG
Việc sử dụng sự sợ hãi và yếu tố bạo lực trong văn học dân gian nói chung và
truyện cổ tích nói riêng là một vấn đề gây tranh cãi giữa những người tin tưởng vào
sự công bằng và những người cho rằng điều đó có thể khiến trẻ sợ văn hóa dân
gian. Hai luồng quan điểm đưa ra hai hệ thống niềm tin khác nhau. Với quan niệm
cho rằng trẻ em cần được bảo vệ từ tất cả các hình ảnh bạo lực, đặc biệt là những
bạo lực được tìm thấy trong các câu chuyện dân gian, quan điểm phản bạo lực cố
gắng chứng minh rằng hình ảnh đó mang lại tác hại cho bản thân đứa trẻ và những
người khác. Ngược lại, quan niệm ủng hộ các yếu tố bạo lực cho rằng sự sợ hãi và
bạo lực trong truyện cổ tích góp một phần không nhỏ đóng góp để xây dựng một
xã hội an toàn hơn, có học thức hơn.
Bắt nguồn từ đặc điểm truyền miệng, văn học dân gian và các câu chuyện cổ tích
đã thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bắt chước các yếu tố xã hội, các câu
chuyện dân gian cung cấp một phương tiện để chia sẻ sự thận trọng, nỗi sợ hãi, và
các giá trị trong trí tưởng tượng của người lớn và trẻ em. Jack Zipes [36]cho rằng,
ban đầu, các câu chuyện cổ tích được viết dành cho người lớn, và mặc dù được dự
định để củng cố các tập tục và giá trị của công dân để giúp họ hiểu với nhiều mức
độ khác nhau, nhưng họ cũng nhận thấy đặc điểm có thể coi là nguy hiểm: các
hành vi xã hội có thể không hoàn toàn được quy định và kiểm soát thông qua các
câu chuyện cổ tích. Đây là một trong những lí do khiến truyện cổ tích không được
dành cho trẻ em.
Với quan điểm của Jung cho rằng các cổ mẫu là công cụ của sự di truyền văn hóa,
61
của tâm thức dân tộc, chúng tôi tin rằng truyện cổ tích, dưới góc nhìn phân tâm về
các biểu tượng, có thể là một trong những con đường truyền thụ giá trị văn hóa dân
tộc, mở rộng ra là của cả nhân loại. Các cổ mẫu này tạo nên một "phòng chứa" các
giá trị đạo đức, văn hóa, giáo dục mà con người "sinh ra đã có sẵn", tức là các cổ
mẫu này nằm trong "vô thức tập thể" của mỗi tộc người, của mỗi dân tộc hay cũng
có thể nói là của cả loài người. Một khi xác định được là có sự tiếp nối giữa đứa trẻ
và người lớn, “người nguyên thủy” và “người văn minh”, cái khác thường và cái
thông thường, cái bệnh lý và cái bình thường, thì ngay lập tức, người ta sẽ thấy
chiếc hố sâu được lấp đầy; chiếc hố ngăn cách các sản phẩm như dấu hiệu tiền
triệu, những chuyện kể huyễn tưởng. Và lưu ý quan trọng nhất là cái vô thức tập
thể nằm ở tầng sâu nhất (của cá nhân) và rộng nhất (của tập thể) mà bản thân cá
nhân hay tập thể đó thừa nhận, tuân theo, tôn vinh nhưng có khi không thể lý giải
được, không thể nhận thức rõ ràng được, nguồn gốc nó từ đâu tới, cơ chế nó vận
hành trong đời sống như thế nào. Làm sao mà con người từ thời cổ đại, khi chưa có
ngôn ngữ, chưa có chữ viết lại có thể trao truyền, lưu giữ văn hóa cho tới tận ngày
hôm nay. Đó chính nhờ con đường "di truyền văn hóa" qua các biểu tượng mà
truyện cổ tích là một trong những con đường như vậy.
2.1. Thế giới biểu tượng trong truyện cổ Grimm
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1998), biểu tượng có hai nghĩa, nghĩa thứ
nhất là: “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là: “hình thức của nhận thức, cao
hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của
sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”; còn “biểu tượng” trong tiếng Anh (symbol)
là một từ bắt nguồn từ những ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã
và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Theo Từ điển Biểu tượng thì “những gì được gọi
là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý
62
nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó”. Quan niệm quen thuộc nhất về khái niệm
“biểu tượng” là nó gắn liền với một nội dung, một tư tưởng nào đó. Biểu tượng có
cái biểu hiện bên ngoài của nội dung, đồng thời cũng có một ý nghĩa thống nhất
đóng kín bên trong nó. Trong biểu tượng, bao giờ cũng có “mẫu gốc”. Và bởi lẽ
đó, để tiếp cận biểu tượng, chúng ta cần hiểu cái bản chất của “mẫu gốc”, ngược
lên từ thời đại chưa có chữ viết, các chuyện kể được gìn giữ bằng truyền miệng,
trong kí ức “vô thức tập thể”.
Nghiên cứu các biểu tượng là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp, nó đòi
hỏi người nghiên cứu phải có cách tiếp cận vừa cụ thể lại vừa bao quát theo cả hai
chiều đồng đại và lịch đại. Nghiên cứu các biểu tượng có thể được coi là một trong
những cách tiếp cận cụ thể nhất đối với văn hóa vì biểu tượng chính là sự kết tinh
các giá trị văn hóa được con người tạo nên. Ở một phương diện khác, văn hoá lại
chính là tập hợp của một hệ thống các biểu tượng do con người tạo ra. Và như vậy,
biểu tượng chính là đối tượng để con người thể hiện bản sắc văn hoá thông qua
nhân sinh quan và thế giới quan của họ. Biểu tượng là một sản phẩm văn hóa được
hình thành một cách tự nhiên trong “hành trình văn hóa” của loài người. Tuy
nhiên, khi nền văn minh của nhân loại càng phát triển thì những thành tố văn hóa
đó càng trở nên phức tạp. Vì vậy, khoa học hiện đại đã phân chia các cách tiếp cận
đối với biểu tượng thành những ngành hoặc nhóm ngành nghiên cứu khác nhau.
Với tốc độ phát triển của khoa học hiện nay thì sẽ ngày càng có thêm nhiều ngành
khoa học mới ra đời để đáp ứng và thích nghi với nhu cầu ngày càng cao của con
người. Việc nghiên cứu các biểu tượng rất cần một cái nhìn tổng thể không chỉ với
các đối tượng nghiên cứu mà còn phải bao quát tới các ngành khoa học liên quan.
Theo TS Đinh Hồng Hải, với câu hỏi “Chúng ta nghiên cứu biểu tượng nhằm mục
đích gì?” - câu trả lời đơn giản là để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa của
63
nó như thế nào, được sử dụng ra sao, lại là những vấn đề không hề đơn giản vì mỗi
biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào thời gian và không gian của nó. Nói
cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hoá sản sinh ra nó,
phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, và tất nhiên, mục đích sử dụng
của nó cũng thay đổi tuỳ thuộc vào các yếu tố trên [13].
Xét đặc trưng đó của biểu tượng, chúng tôi nghiên cứu các biểu tượng xuất hiện
64
trong bộ truyện cổ như bảng sau đây:
Vua Ếch
Nàng Rapun zel
Bà chúa tuyết
Nàng Bạch Tuyết
Bảy con quạ
Con chim vàng
Mười hai anh em
Những nhạc sĩ thành Bremen
Thần chết đỡ đầu
Ba chiế c lá rắn
Jôrin đơ và Jôgig ơn
Hans el và Gret hel
Cô bé Lọ Lem
Anh trai và em gái
Người đẹp ngủ trong rừng
Cô bé quà ng khă n đỏ
Ba sợi tóc vàng của quỷ
Sói và bảy chú dê con
Chú thợ may nhỏ can đảm
Truyện Biểu tƣợng
x
x
x
x
x
x
x
x
(Số) ba (Lễ) Ban phép lành (Số) bảy Bếp lò Bóng tối (Số) bốn Cáo Cắt xẻo, cắt cụt Chảo, vạc Chết, thần chết Chiêm mộng Chó sói Con gái vua Cung điện Cửa Cửa sổ (Màu) Đỏ Động vật Giường Giày Gót Gỗ, rừng Gươm Gương (Cây) Hạt dẻ Hoa
x x x x x x x x x
x x x x x x x x x x
x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x x x x
x x x
x x x x x x x x x x
x x x x x x
x x x x x x x x x x
x x x x x
x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x
x x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x
x x x x x x x x x
x x x
x x x x x x x x
65
Bảy con quạ
Con chim vàng
Ba chiế c lá rắn
Jôrin đơ và Jôgig ơn
Vua Ếch
Nàng Rapun zel
Bà chúa tuyết
Nàng Bạch Tuyết
Mười hai anh em
Hans el và Gret hel
Cô bé Lọ Lem
Những nhạc sĩ thành Bremen
Thần chết đỡ đầu
Truyện Biểu tƣợng
Anh trai và em gái
Người đẹp ngủ trong rừng
Ba sợi tóc vàng của quỷ x x x x x x
Sói và bảy chú dê con x
x x
x x
x x x x x
Chú thợ may nhỏ can đảm x x x
x x x x x x
x x x x x x x x
x x x x
Cô bé quà ng khă n đỏ x x x
x x x x x
x x x x x x x x x x
Hoàng tử Khói Khổng lồ Kiêng kị Lửa Mẹ (Số) mười hai Nguồn, suối Ngựa Nữ hoàng Nước mắt Phù thủy Quạ Quỷ dữ Than khóc Tiếng thét Tình yêu (Màu)Vàng Vua
x x x x x x x x x x
x x x x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x x x x
x x x x x x x x
x x
66
Bảng 2.1 Thống kê biểu tƣợng trong truyện cổ Grimm
Trong 19 truyện thuộc đối tượng khảo sát, có những biểu tượng xuất hiện
nhiều lần hơn cả. Đó là biểu tượng Tình yêu (15/19 truyện), Bóng tối (14/19
truyện), Giường (13/19 truyện), Gỗ, rừng (13/19 truyện), Mẹ (12/19 truyện),
Cung điện (12/19 truyện), Động vật (11/19 truyện), Vua (11/19 truyện), Cửa
(11/19 truyện), Chết, thần chết (10/19 truyện), Con gái vua (9/19 truyện),
Hoàng tử (7/19 truyện), Nước mắt (7/19 truyện), Than khóc (7/19 truyện),
Phù thủy (6/19 truyện).
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào những
biểu tượng bao gồm: những chủ thể/sinh vật thực hiện hành động bạo lực,
những nạn nhân của hành động bạo lực đã khảo sát ở chương 1 để từ đó tìm ra
các quy tắc luân lí qua các lớp truyện kể. Đó là: Vua; Con gái vua; Hoàng tử;
Phù thủy; Động vật. Nhóm các biểu tượng xuất hiện nhiều này có thể phân
loại như sau:
2.1.1. Biểu tượng về con người: Mẹ, Vua, Con gái vua, Hoàng tử
2.1.1.1. Mẹ
Trong tiếng Pháp hai từ mère (mẹ) và mer (biển) phát âm gần như nhau, nên
hình ảnh mẹ có thể được gắn liền với biểu tượng biển, cũng như với biểu
tượng đất vì cả ba đều là nơi chứa đựng và mang trọng trách lưu giữ sự sống.
Biển và đất là những biểu tượng của thân thể người mẹ. Hình ảnh người mẹ
nổi bật lên trong các truyện cổ của anh em nhà Grimm cũng có tính cách hai
chiều đối nghịch nhau như biểu tượng về đất và biển. Người mẹ là sự an toàn
của chỗ trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và dinh dưỡng (như trong Cô
bé choàng khăn đỏ). Ngược lại, đó cũng là nguy cơ bị o ép bởi môi trường
chật hẹp và bị ngạt thở do kéo dài quá mức chức năng và dẫn dắt khiến người
mẹ lấn át người cha trở thành kiểu giam hãm và áp chế người cha (như trong
67
Hansel và Grethel, Cô bé Lọ Lem, Nàng Rapuzel, Mười hai anh em). Trong
phân tâm học hiện đại, biểu tượng người mẹ có giá trị một mẫu gốc. Đó là
dạng thức đầu tiên của anima mà mỗi cá thể con người sở nghiệm (tức là cái
vô thức). Cái vô thức này có hai mặt, một mặt mang ý nghĩa xây dựng, mặt
khác mang ý nghĩa phá hoại. Nó sẽ phá hoại khi nó là nguồn của mọi bản
năng, là toàn bộ mẫu gốc, là tàn dư của tất cả những gì con người trải nghiệm
từ những khởi thủy xa xưa nhất, là nơi tích lũy của những kinh nghiệm siêu-
cá nhân. Nhưng cái vô thức cần đến ý thức để thể hiện mình, vô thức chỉ thực
sự tồn tại khi được đặt trong tương quan của cái vô thức, điều đó phân biệt
con người và bản năng của con vật. Bản chất của vô thức, đó là yếu tố phi cá
nhân và có tính gốc nguồn nên vô thức có ưu thế tương đối, có thể quay lại
đối đầu và tiêu diệt cái ý thức đã phát sinh ra, khi ấy vô thức đóng vai trò như
người mẹ ăn thịt con. Nếu nhìn từ góc độ đứa trẻ, dễ dàng để thấy những hình
ảnh người mẹ bị biến dị trong truyện cổ Grimm. Người mẹ trong những
trường hợp này thực hiện một sự thôi miên không ý thức: bỏ rơi đứa con
(Hansel và Grethel), không làm được gì để ngăn chặn điều nguy hại đến tính
mạng của con (Mười hai anh em) hay đuổi theo đeo bám những đứa trẻ để tìm
cách làm hại chúng (Anh trai và em gái). Con người khi ấy phải đối mặt với
tính cách mâu thuẫn của các bản năng, vì muốn được mẹ nuông chiều, che
chở như trong cả ba câu chuyện, đứa trẻ đã vấp phải đúng điều ngược lại, tức
là những cơn thịnh nộ hoặc sự yếu đuối khó chế ngự được của bản năng
người mẹ.
2.1.1.2. Vua
Sau biểu tượng người mẹ, biểu tượng Vua xuất hiện mang sức mạnh và những
ý định. Quyền lực của vua trong các truyện đều khiến người ta sợ hãi, sức
mạnh là vô hạn, các ý định của vua hiếm khi thất bại (như trong Mười hai
68
hoàng tử, Anh trai và em gái, Cô bé Lọ Lem, Nàng Bạch Tuyết, Vua Ếch, Ba
chiếc lá rắn). Hình ảnh ấy là tập trung những ham muốn, tự chủ, tự cai quản
lấy chính mình, nhận thức được toàn bộ vấn đề. Trong lớp ý nghĩa đó, cùng
với hình ảnh người anh hùng, vị thánh, người cha, người hiền minh, người
cầm cán cân công lí, vua là mẫu gốc của sự hoàn thiện của con người. Và mẫu
gốc ấy huy động tất cả các năng lượng tinh thần để hiện thực hóa, giữ sự công
bằng, đến mức có thể xử chết cả chính con gái mình như trong Ba chiếc lá
rắn, xử cả mẹ đẻ của mình vì đã âm mưu giết vợ mình như trong Anh trai và
em gái, mang lại sự công bằng cho vợ như trong Nàng Bạch Tuyết. Nhưng
hình ảnh ấy cũng có thể bị biến chất thành hình ảnh của một kẻ bạo chúa, biểu
hiện một ý muốn về sức mạnh không được kiềm chế đến mức lo ngại giang
sơn bị chia cắt đến độ ban lệnh giết chết mười hai đứa con trai như trong
Mười hai hoàng tử, nhất quyết đuổi theo giết đứa bé mà tự cho rằng có nguy
hiểm với ngai vàng của mình như trong Ba sợi tóc vàng của quỷ, và sẵn sàng
nuốt lời để giết người anh hùng đã từng định cho cưới con gái mình như trong
Chú thợ may nhỏ can đảm.
2.1.1.3. Con gái vua
Con gái vua – Công chúa là chủ đề hầu như xuất hiện trong tất cả các truyện
cổ tích, và truyện cổ Grimm cũng không phải ngoại lệ. Con gái vua được gả
cho người anh hùng, ban thưởng cho lòng dùng cảm của anh hùng. Dù phải
vượt qua những thử thách, cuộc chiến đấu khó khăn và bao hiểm nguy có thể
hại đến tính mạng nhưng người anh hùng biết cách để chiến thắng.
Các truyền thuyết về nguồn gốc vũ trụ nói Nước là nguyên tố cổ xưa nhất.
Sách Sáng thế kí nói Chúa tách nước thượng đẳng khỏi nước hạ đẳng. Vì vậy,
cũng giống như Lửa, Nước có quyền năng thử tội, phán quyết. Nhưng nước
không chỉ có tính năng thanh tẩy, xóa hết lịch sử và khôi phục con người ở
69
trạng thái mới, đó còn là biểu tượng của sự phục sinh, làm sáng tỏ công lí và
bảo hộ. Về điều này, con gái vua là hình ảnh hiện thân cho sự trong sáng vô
tư đến giải cứu con người đang bị đe dọa: cứu 12 người anh trai trở lại hình
hài làm người như trong Mười hai hoàng tử, hiện về để vạch trần bộ mặt của
mẹ con mẹ kế độc ác lừa gạt người khác như trong Anh trai và em gái. Khi
ấy, con gái vua là mặt thuận của nước, thuộc về nước thượng đẳng mà Chúa
Trời ngay từ đầu đã tách ra.
Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, những trận nước dâng cao luôn báo trước
những thời kì thử thách. Nước ngập tràn khắp nơi là biểu hiện của những tai
họa. Nước có thể tàn phá và nhấn chìm, nuốt chửng những cánh đồng đang ra
hoa. Trong những trường hợp đó, nước là hình ảnh tượng trưng cho một sức
mạnh trừng trị những kẻ có tội, nhưng không thể làm hại những con người
chính trực. Những dòng nước lớn chỉ nhấn chìm những kẻ có tội, vì vậy mà
trong Anh trai và em gái, khi công chúa-người em gái được minh oan trở lại,
hoàng thái hậu – kẻ xúi bẩy vua phải chịu chết, hay như trong Nàng Bạch
Tuyết, mẹ kế độc ác phải đi đôi giày nung đỏ nhảy múa cho đến chết. Mặt
khác, nếu chính công chúa có ý định gây điều tàn ác tới con người chính trực,
thì chính nàng sẽ phải đổi mạng sống của mình, bị nhấn chìm trong biển khơi
như trong Ba chiếc lá rắn.
Hình ảnh về con gái vua còn được kiến giải trong mối quan hệ tương đối phổ
biến với Vua cha. Vua cha là hình ảnh của vô thức tập thể đã thu thập tất cả
mẫu gốc của lịch sử nhân loại. Còn con gái vua biểu thị cái vô thức cá nhân
chưa có kinh nghiệm riêng nên không vươn lên trên được cái vô thức tập thể -
chính là cha nàng (như trong Mười hai anh em, Công chúa ngủ trong rừng,
Vua Ếch, Ba sợi tóc vàng của quỷ, Vua Ếch, Ba chiếc lá rắn, Chú thợ may
70
nhỏ can đảm). Nhưng rồi một hoàng tử (hay bản chất hoạt động của ý thức) sẽ
xuất hiện, đánh thức và giải phóng nàng, trên cơ sở đó có thể tăng sự phối hợp
hành động giữa hoàng tử và con gái vua, tượng trưng cho sự kết hợp giữa vô
thức tập thể (vua), vô thức cá nhân (con gái vua) và ý thức (hoàng tử).
2.1.1.4. Hoàng tử
Là hình ảnh xuất hiện với tần suất ít hơn so với ba hình ảnh trên trong nhóm
các biểu tượng về con người, hoàng tử là hình ảnh tượng trưng cho sự hứa
hẹn nắm quyền tối cao, vị trí hàng đầu. Hoàng tử đánh thức nàng công chúa,
cứu nàng sống lại như trong Công chúa ngủ trong rừng. Biểu tượng này còn
thể hiện những phẩm chất vương giả ở thời kì thiếu niên nhưng vẫn chưa thể
làm chủ được, chưa rèn luyện được. Ý niệm về hoàng tử vì vậy mà gắn liền
với hình ảnh tuổi trẻ, người anh hùng. Chức năng của hoàng tử trong các câu
chuyện vì vậy không phải là làm công việc cầm cán cân công lí như vua mà
phải làm nên những kì tích anh hùng. Cùng với hình ảnh công chúa, hai hình
ảnh là các dạng lí tưởng hóa của người nam giới và người phụ nữ theo nghĩa
về vẻ đẹp, tình yêu, tuổi trẻ và lòng dũng cảm. Trong các câu chuyện của anh
em nhà Grimm, vì vậy mà hoàng tử thường là nạn nhân của các hành động
bạo lực, là nạn nhân của mụ phù thủy như trong Nàng Rapuzel, bị biến thành
con vật như trong Vua Ếch và chỉ được phục hồi nguyên dạng là hoàng tử nhờ
một tình yêu dũng cảm. Cương vị hoàng tử lúc này là phần thưởng cho một
tình yêu trọn vẹn.
2.1.2. Biểu tượng về động vật và sinh vật ma thuật: Động vật, Phù thủy
2.1.2.1. Động vật
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh động vật xuất hiện nhiều trong bộ truyện
cổ Grimm đến vậy. Động vật với tư cách là mẫu gốc, biểu trưng cho những
71
lớp vỉa tầng sâu kín của tiềm thức và bản năng. Ý nghĩa biểu trưng của con
vật như chúng ta bắt gặp trong bộ truyện như con mang, quạ, chim bồ câu,
chó sói, ếch, dê, rắn, cáo, gà, lợn với những đặc tính riêng của mỗi con, được
gọi tên bao hàm toàn bộ lịch sử ngoài người chứ không phải riêng một
khoảnh khắc của nền văn minh.
Những con vật, dù ta xem xét chúng theo nhóm hay như những cá thể đều
tương ứng với tính cách có bản chất biểu trưng. Trước tiên với biểu tượng về
loài chim (trong Cô bé Lọ Lem, Con chim vàng, Bảy con quạ). Với việc chim
bay được khiến con vật này dễ được dùng làm biểu trưng cho các mối liên lạc
giữa trời và đất. Xét một cách khái quát hơn nữa, chim tượng trưng cho tinh
thần, thiên thần, cho trạng thái cao cấp của sinh tồn. Các học thuyết huyền bí
đã phác nên cả một hệ thống tương ứng giữa: chim – màu sắc – xung lực tâm
thần. Bốn màu sắc chủ yếu được thể hiện bởi các loài vật bao gồm: con quạ,
con chim đen là biểu tượng của trí khôn; công, màu lục và xanh là biểu tượng
của khát vọng tình yêu; thiên nga, màu trắng là biểu tượng của dục tính làm
nảy sinh sự sống thân xác; phượng hoàng đỏ là biểu tượng của thần thành và
bất tử. Như trong truyện Cô bé Lọ Lem, tình yêu xuất hiện thành thiện được
biểu thị bằng hình ảnh đôi chim bồ câu thần thánh can thiệp giúp nắm giữ cán
cân công lí để bảo vệ tình yêu. Lúc này, chim bồ câu với chức năng của mình,
sẽ thực hiện những hành động bạo lực để giữ lấy sự công bằng.
Mặt khác như trong Bảy con quạ, Mười hai anh em đó lại là hình ảnh tượng
trưng cho trí khôn, thông suốt suy nghĩ khi cô em gái đến tìm mà không giết
nàng. Nhưng đó đồng thời cũng là biểu tượng của hi vọng bởi trong khắp hai
câu chuyện, những chàng trai bị biến thành quạ sẽ luôn được trở lại làm
người. Đó là hình ảnh hướng tới niềm tin vào công lí, vào lẽ phải, sẽ không
72
bao giờ mất đi.
Một trường hợp biểu tượng khác cũng đem lại ám ảnh chính là biểu tượng chó
sói. Ý nghĩa biểu tượng của sói trong Cô bé quàng khăn đỏ, Sói và bảy chú dê
con đều không mang lớp nghĩa tích cực. Nghĩa biểu tượng nó mang là kẻ dày
vò thông qua hình ảnh mõm – có tính mẫu gốc, gắn liền với hiện tượng luân
phiên ngày-đêm, chết-sống: mõm ngấu nghiến và nhả ra, có có tính khởi
xướng tùy theo hệ động vật từng nơi mà nó mang dáng vẻ của động vật phàm
ăn: ăn thịt bà và cô bé quàng khăn đỏ, tìm đủ cách để ăn thịt đàn dê con, thậm
chí còn ăn nhưng không nhai, nuốt chửng vào bùn. Trong các truyện kể Bắc
Âu có nêu về hình ảnh đặc thù của sói là ngấu nghiến các thiên thể, cũng có
thể liên hệ với hình ảnh sói ngấu nghiến chim cút như được nhắc đến trong
kinh Ring-Veda. Nếu chim cút là biểu tượng của ánh sáng thì mõm sói là đêm
tối, hang, địa ngục, giải thoát khỏi mõm sõi là tìm thấy ánh sáng, thấy bình
minh. Mõm sói gắn liền với nỗi khiếp sợ thời thơ ấu của những đứa trẻ tiếp
sau cái chết của người bà: “Bà ơi, sao mõm bà to thế” G Durand nhận xét,
như vậy mới thấy sự quy tụ rất rõ giữa vết cắn của bọn họ chó với nỗi sợ hãi
hủy hoại thời gian. Con quái vật ngấu nghiến thời gian của con người”.
Jung đã phát biểu trong Con người và những biểu tượng của nó: “Sự có nhiều
đến thừa thãi những biểu tượng động vật trong các tôn giáo và nghệ thuật mọi
thời đại không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của biểu tượng. Nó cũng cho
thấy đối với con người là quan trọng đến nhường nào sự thống hợp vào trong
cuộc sống của mình cái nội dung tâm lí của biểu tượng, tức là cái bản năng.
Con vật, cái linh hồn bản năng trong con người có thể trở nên nguy hiểm, nếu
nó không được thừa nhận và hòa nhập vào cuộc sống của cá nhân. Sự thừa
nhận linh hồn động vật là điều kiện cho sự thống nhất hóa cá thể, cho sự phát
triển toàn vẹn của nó”. Điều ấy giải thích lí do tại sao bên cạnh những hình
73
ảnh của loài động vật, trong truyện cổ Grimm còn có những yếu tố ma thuật
biến con người trở thành động vật như trong Mười hai anh em, Bảy con quạ,
Vua Ếch. Chính sự đa dạng của các loài vật trong các câu chuyện của anh em
nhà Grimm đã tạo thành những dạng đồng nhất hóa một phần với con người,
chúng là những khía cạnh, những hình ảnh của bản chất phức tạp của con
người, là những tấm gương phản chiếu những xung năng sâu kín, những bản
năng được thuần hòa hoặc vẫn còn hoang dã. Mỗi con vật xuất hiện trong câu
chuyện vì vậy mà tương ứng với một phần trong mỗi chúng ta, đã được thống
hợp hoặc sẽ được thống hợp vào trong tính nhất thống hài hòa của con người.
Trong bản chất ấy có tính thiện, tính ác, có những phút bản năng hoang dã
vẫn còn thì những hành động bạo lực là điều có thể lí giải.
2.1.2.2. Phù thủy
Jung cho rằng các nữ phù thủy đều là một dạng phóng chiếu của cái anima
nam tính, nghĩa là của cái phần nữ tính nguyên thủy tồn tại trong vô thức của
người đàn ông: những nữ phù thủy cụ thể hóa cái bóng thần học này mà khó
có thể tự giải thoát được, và đồng thời họ cũng choàng lên bản thân mình một
thứ sức mạnh đáng sợ. Chức năng chủ yếu của phù thủy, như tên gọi đã chỉ
ra, là bỏ bùa phép cho những con người mà nó muốn làm hại, vì một lí do nào
đó. Hoặc đi tìm kiếm những của cải vật chất và những sự trả thù cá nhân
ngược với quy luật tự nhiên.
Xuất hiện trong 6/19 truyện trong phạm vi khảo sát của luận văn, chúng tôi
nhận thấy nữ phù thủy dường như là bản sao giống kẻ chịu tội thay cho những
người phụ nữ, họ chuyển vào hình ảnh nữ phù thủy những yếu tố tăm tối của
những xung năng trong con người họ. Sự phóng chiếu này tạo nên bản chất
hoang tưởng của các nữ phù thủy, luôn cho rằng những điều mình mong
74
muốn có thể trót lọt. Vậy nên bà mẹ kế trong Anh trai và em gái cho rằng có
thể lừa được vua, đem con gái mình thay thế hoàng hậu đã chết, mụ phù thủy
trong Hansel và Grethel mới nghĩ rằng có thể lừa được Grethel để đẩy cô bé
vào lò quay chín, hoàng hậu trong Nàng Bạch Tuyết mới cho rằng đã giết
được Bạch Tuyết để mình trở nên xinh đẹp tuyệt trần. Những sức mạnh tăm
tối này của vô thức chừng nào chưa được đặt dưới ánh sáng của nhận thức, ở
đây là nhận thức của những nhân vật như vua, Grethel, hoàng tử thì nữ phù
thủy sẽ còn sống. Hình ảnh đó là hiện thân của những ham muốn, những nỗi
sợ hãi và những xu hướng khác của tâm thức xung năng với cái tôi của chính
chúng ta. Jung đã lưu ý rằng “anima (tính nữ trong mỗi người đàn ông)
thường được nhân cách hóa bằng một nữ phù thủy hay nữ giáo sĩ” bởi phụ nữ
có nhiều mối gắn bó hơn với những lực lượng tăm tối và các thần linh. Nữ
phù thủy là phản đề hình ảnh lí tưởng hóa về người phụ nữ.
Theo một nghĩa khác, nhân vật nữ phù thủy là sự biểu hiện của những nội
dung phi lí trong tâm trí. Các nhân vật trong truyện cổ Grimm đều không thể
thoát khỏi tay của phù thủy với pháp thuật cao siêu bằng một hành động hay
những tác động hỗ trợ bên ngoài. Điều này có thể thấy rõ nhất trong Công
chúa ngủ trong rừng, khi bà tiên thứ mười ba giận dữ đưa ra lời tiên đoán
công chúa sẽ chết vào năm mười lăm tuổi thì không có một năng lượng nào
khác có thể cứu được công chúa khỏi cái chết ngoài nụ hôn của hoàng tử -
một động thái tích cực đối với cái vô thức, thêm vào đó tích hợp dần dần
những yếu tố phát tiết từ trong vô thức vào nhân cách có ý thức để tạo nên sự
biến đổi. Ở đây là nhờ lời chúc của bà tiên thứ mười hai, hoàng tử (có ý thức)
và chính công chúa (vô thức).
Phù thủy cũng có thể chỉ là một biểu tượng của những năng lượng tạo sinh có
75
tính bản năng vô kỉ luật, không được thuần hóa, và đi ngược lại với lợi ích
của cái tôi, của gia đình, của thị tộc. Phù thủy là người nhận đảm đương
những sức mạnh đen tối của vô thức, biết cách sử dụng sức mạnh đó, do vật
đảm bảo cho mình những quyền năng đối với người khác. Vì vậy mà trong
một số các câu chuyện của Grimm, phù thủy xuất hiện dưới bóng của người
mẹ kế (Anh trai và em gái, nàng Bạch Tuyết). Chỉ có thể tước bỏ “vũ khí” của
phù thủy bằng cách đặt chính những sức mạnh đó trong sự kiềm chế của ý
thức, đồng nhất sức mạnh đó bằng cách trục xuất chúng ra: thiêu chết (Hansel
và Grethel), cho vào vạc dầu sôi (Anh trai và em gái), đi đôi giày nung đỏ
(Nàng Bạch Tuyết).
2.2. Ý nghĩa của biểu tượng
Trên thực tế, nghiên cứu biểu tượng là một công việc đã được các nhà khoa
học trên thế giới đề cập đến từ lâu thông qua các chuyên ngành khoa học đã ra
đời từ trước Công Nguyên như toán học, triết học, sử học, xã hội học, nghệ
thuật học… Mặc dù các chuyên ngành khoa học nêu trên ít nhiều đều đề cập
đến biểu tượng như một đối tượng nghiên cứu của chúng nhưng chưa có một
chuyên ngành nào thực sự là một chuyên ngành khoa học độc lập nghiên cứu
các biểu tượng. Chuyên ngành đầu tiên đề cập đến các biểu tượng như một
chuyên ngành khoa học độc lập là ký hiệu học (semiotics/ semiology) vào đầu
thế kỷ XX. Ký hiệu học là bộ môn nghiên cứu ý nghĩa của các ký hiệu, tín
hiệu, biểu tượng, hiện tượng văn hoá… và hành vi sử dụng chúng. Ký hiệu
học giải nghĩa các thành tố văn hoá do con người tạo ra trong quá trình phát
triển của văn hoá như ngôn ngữ, biểu tượng, hoạt động, hành vi sống… của
con người. Các nhà ký hiệu học hiện đại như Claude Lévi-Strauss, Jacques
Lacan, Michel Foucault, Jacques Derrida, Roland Barthes, Julia Kristeva… đã
áp dụng cấu trúc luận dưới góc nhìn ký hiệu học cho nhiều lĩnh vực như mỹ
76
học, nhân học, tâm lý, truyền thông, ngôn ngữ… [12] Vì vậy, nghiên cứu
ngôn ngữ biểu tượng của một tộc người hay một cộng đồng có tính liên kết
cao trong xã hội (chẳng hạn một tôn giáo) cũng chính là nghiên cứu văn hoá
của tộc người hay cộng đồng người đó.
Trong khi ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cho phép con người giao tiếp với
nhau bằng khả năng tri nhận trực tiếp của các giác quan, thì ngôn ngữ biểu
tượng cho phép con người ở nhiều nền văn minh khác nhau, nhiều vùng văn
hoá khác nhau, thậm chí ở nhiều thời gian và không gian khác nhau hiểu được
nhau nhờ vào đặc tính căn bản của nó là thông tin và giao tiếp thông qua hệ
thống kí hiệu hàm nghĩa của nó. Nhờ có ngôn ngữ biểu tượng mà con người
có khả năng giao tiếp vượt thời gian và không gian để hiểu được con người
sống ở các nền văn minh cổ xưa cách chúng ta hàng nghìn năm thông qua
những di vật văn hoá mà họ để lại. [11]
Từ khảo sát các biểu tượng trong truyện cổ Grimm, chúng tôi nhận thấy, nữ
giới xuất hiện nhiều ở hầu hết các trang truyện cổ. Đó là hoàng hậu, là mẹ kế,
là mẹ ruột, là các chị em gái, là những cô con gái là con riêng của mẹ kế
(không có câu chuyện nào về con trai riêng của mẹ kế), là công chúa, là các
bà tiên, là nữ phù thủy. Các chủ thể này xuất hiện nhiều hơn hẳn so với các
hình ảnh về vua, ông bố, hoàng tử. Thay vì đơn thuần phản ánh những lí
tưởng xã hội, những câu chuyện cổ tích duy trì những quy tắc của người Kito
giáo, vấn đề gia trưởng trở thành một phương tiện để duy trì hệ thống phân
cấp giới.
2.2.1. Tăng sức hấp dẫn
Đó là một trong những đặc điểm quan trọng nhất mà một phụ nữ có thể có, và
77
thường là báo hiệu một tương lai hạnh phúc, cũng là ý nghĩa đầu tiên mà các
biểu tượng trong truyện cổ Grimm mang lại. Trong đó, các nhân vật nữ tốt
thường phục tùng, chấp nhận số phận của mình trong cuộc sống. Họ chờ đợi
hoàng tử xuất hiện và kiểm soát số phận của mình. Theo nhiều cách, như
trong Cô bé Lọ Lem, có thể được hiểu là một cuộc thi sắc đẹp của phụ nữ,
nhấn mạnh một thông điệp rằng một phụ nữ có diện mạo trẻ trung, đặc biệt là
khi kết hợp với thái độ nhu mì sẽ tạo nên một bản sắc quan trọng nhất của
phái nữ. Ngược lại, những phụ nữ không có sắc đẹp luôn là nguồn cơn của
mọi sự nghi ngờ. Các chị em con riêng của mẹ kế là một ví dụ về việc trong
tâm trí của tác giả, những người phụ nữ không hấp dẫn sẽ cố gắng tìm cách để
trở nên hấp dẫn. Ở khía cạnh này, mong muốn có được một vẻ đẹp khiến tính
cách của họ có phần trở nên nguy hiểm. Việc các cô gái cắt gót chân của mình
cũng để lộ quan điểm cho rằng phụ nữ sẽ đi đến việc phá hoại lẫn nhau. Điều
này mang lại một thông điệp chiếm khoảng 17% của câu chuyện rằng các cô
gái không nên tin tưởng nhau.
Nếu các nhân vật nữ chính là xinh đẹp và tốt, thì các nhân vật đóng vai phản
diện phải thể hiện các thuộc tính ngược lại và điều này phần lớn đúng. Các
trường hợp ngoại lệ là các cô gái xinh đẹp hiếm hoi mà không phải phục tùng
như Công chúa ngủ trong rừng bắt buộc phải có những cách thức cư xử tốt để
cuối cùng đạt được hạnh phúc hôn nhân. Đó là ví dụ cho việc nếu đúng vai trò
của giới, những người phụ nữ sẽ được khen thưởng.
Các cô gái lười biếng và những phụ nữ lớn tuổi hơn thường xấu xí, độc ác và
quyết tâm lợi dụng các ưu thế của các nhân vật nữ chính. Họ cũng thể hiện
những đặc điểm mà đe dọa trực tiếp đến lí tưởng của nhân vật nữ chính, nét
tính cách của nhóm nhân vật này thể hiện thường là rất quyết tâm, và thậm chí
78
có phần thể hiện sự tham lam. Thay vì chấp nhận số phận, tình trạng, hoàn
cảnh của bản thân, các nhân vật nữ này thường có kế hoạch để thay đổi tình
trạng ấy, đôi khi còn không cần có sự hiện diện của người đàn ông, họ vẫn tự
mình thực hiện kế hoạch thay đổi cuộc đời. Những người phụ nữ nắm giữ một
mức độ quyền lực tốt nhất định và tương đối vô tính trong các câu chuyện cổ
của anh em nhà Grimm duy chỉ có các nàng tiên. Đây chính là đặc điểm tạo
nên mối tương quan giữa giới tính và cái ác. Tất cả những khuôn mẫu được
xây dựng cho các cô gái chính là sự tin tưởng vào trong một mối quan hệ giữa
khuôn mặt đáng yêu và tính cách đáng yêu. Nếu bạn rất đẹp thì bất kể bạn
đang ở trong tình huống nào vẫn nên chờ đợi một cách kiên nhẫn, chờ hoàng
tử đến và giải cứu bạn.
Qua phần lớn các lớp truyện kể, không thấy bóng dáng hiện hữu của nhân vật
nữ anh hùng. Vai nam chính có thể không dẫn dắt vào bức tranh tổng thể,
khác với nhân vật nữ chính nhưng họ luôn là đối tượng hiện hữu trong những
giấc mơ, trở thành vị cứu tinh ở cuối câu chuyện. Các vị anh hùng, thường
được mô tả là một chàng hoàng tử dũng cảm (như trong Công chúa ngủ trong
rừng, chàng sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy để cứu nàng công chúa trong lâu
đài), chứng tỏ sự nam tính thông qua giết chết người phụ nữ lớn tuổi (có thể
là mẹ kế hoặc phù thủy), hoàn toàn không thấy sự xuất hiện của người đàn
ông lớn tuổi trở thành đối tượng của nhân vật này. Điều này tạo nên sự bất
bình đẳng của phụ nữ so với nam giới trong cùng sự xuất hiện.
2.2.2. Duy trì một xã hội gia trưởng
Trong những năm 1980, phụ nữ đã đạt được nhiều thành công khi đấu tranh
giành quyền lợi và nâng cao nhận thức về các vấn đề bất bình đẳng giới. Phụ
nữ có quyền kiểm soát sức khỏe sinh sản của mình, theo đuổi những ước mơ
79
và có quyền tìm kiếm, lựa chọn công việc. Một xu hướng thú vị xuất hiện
trong những câu chuyện cổ tích ở giai đoạn này là thay vì tập trung phản ánh
những biến đổi trong xã hội, tầm quan trọng của việc phụ nữ nhận thức được
sự hấp dẫn của mình, các câu chuyện cổ tích mới bắt đầu miêu tả phụ nữ
trong vai trò mạnh mẽ hơn, độc lập hơn. Các câu chuyện cổ tích mới này có
sự xuất hiện của hình ảnh vật lí hiếm hoi đại diện cho giới là màu tóc. Hệ
thống niềm tin mới được xây dựng cho phụ nữ là họ có thể đạt được những
điều trên bằng cách riêng của họ với điều kiện họ đủ hấp dẫn để đạt được điều
ấy.
Điều ấy khác hoàn toàn với trong bộ truyện cổ Grimm: vẻ đẹp gắn liền với xã
hội con người sống, do đó tập trung vào vẻ đẹp nữ tính là cách thức hiệu quả
để cắt bỏ những nét đẹp khác của các hình ảnh về phụ nữ trong các câu
chuyện. Đây chính là sự bất bình đẳng trong vai trò giới được xây dựng thông
qua các biểu tượng.
2.2.3. Trọn vẹn thông điệp của Kito giáo và Kinh Thánh
Điều này được minh họa phần nào bởi thực tế, hầu như mọi truyện trong đối
tượng khảo sát của chúng tôi đều dẫn đến đỉnh điểm hôn nhân. Trong các câu
chuyện có sự xuất hiện của các hoàng tử, chưa bao giờ nói về vẻ đẹp của họ,
nhưng sự nam tính là đủ để đảm bảo rằng cuộc sống hôn nhân của họ sẽ được
hạnh phúc mãi mãi về sau. Thông điệp được gửi thông qua biểu tượng này là
lời nhắn nhủ đến các cô gái: việc định cư và kết hôn là quan trọng. Một chủ
đề khác trong Kinh Thánh mà được nuôi dưỡng trong truyện cổ Grimm là
hình ảnh người phụ nữ quyến rũ. Các nhân vật nữ chính sẽ gây nguy hiểm cho
bản thân và cho người khác vì ngoại hình của mình. Điểm yếu của họ cũng sẽ
đặt những người đàn ông vào các tình huống nguy hiểm. Quả táo xuất hiện
80
trong Nàng Bạch Tuyết chính là đại diện cho sự cám dỗ. Không thể vượt qua
sự tò mò của bản thân, cũng giống như Eva, Bạch Tuyết cắn quả táo và ngủ
thiếp đi. Tương tự, trình tự trong Công chúa ngủ trong rừng liên quan đến sự
thức tỉnh sau khi có sự xuất hiện của hoàng tử có sự tương đồng mạnh mẽ
trong Kinh Thánh. Một nụ hôn là điều cần thiết để đánh thức công chúa thức
dậy có thể tượng trưng cho sự thay đổi từ tuổi thơ vô tội thành tội lỗi khi
trưởng thành.
2.2.4. Trường hợp điển hình: Công chúa ngủ trong rừng
Công chúa ngủ trong rừng là một câu chuyện cổ tích minh họa cho cả sự thay
đổi về mặt định kiến của nhà văn cho đến sự tồn tại khuôn mẫu của vai trò
giới tính và sự hiện diện của những lí tưởng gia trưởng mới. Các phiên bản
hoạt hình của Disney tập trung vào nhân vật nữ chính với mái tóc vàng, thân
hình mảnh khảnh còn hoàng tử được nhấn mạnh vào khả năng vũ đạo tuyệt
đẹp. Lời nguyền dành cho nàng được ban bởi một bà tiên độc ác ở nơi xa xa.
Nhân vật nữ ác này có mái tóc đen, lớn tuổi, có thái độ thù địch với công
chúa. Phiên bản này vẫn giữ một nét đặc điểm quan trọng mà anh em nhà
Grimm mất công nhấn mạnh chính là sự khôn ngoan của người phụ nữ. Nếu
người phụ nữ không khôn ngoan, họ sẽ bị sụp đổ. Cũng giống như Bạch
Tuyết, trong trường hợp này, các hình ảnh biểu tượng trong truyện cũng mang
theo lời hứa về sự độc lập kinh tế dẫn đến sự sụp đổ của các nhân vật nữ vô
tội.
Trong phiên bản của Grimm, hoàng tử chưa bao giờ gặp mặt công chúa
nhưng đã nghe những câu chuyện về vẻ đẹp truyệt trần của nàng và tự đặt
mình vào vai trò cứu tinh. Thông điệp đôi lần là bạo lực chính là một đặc
điểm cần thiết của con đực và con cái khi tức giận, khi trở nên ngang bướng,
81
và bạo lực có thể là điều cần thiết để kiểm soát vấn đề.
Ngoài ra, người phụ nữ lớn tuổi xấu xí luôn cố gắng để phá vỡ trật tự xã hội.
Bằng cách thức phá vỡ trật tự xã hội của nhân vật này mà trật tự xã hội được
phục hổi. Điều này một lần nữa nhấn mạnh và kéo dài sự không tin tưởng lẫn
nhau trong mối quan hệ của những người phụ nữ. Đồng thời, cũng phản ánh
giả định rằng Thiên Chúa là một Đấng Tối Cao nam, có trách nhiệm bảo vệ
và xử lí các vấn đề của người dân. Vai nam khi đó sẽ giết chết người phụ nữ
tóc đen, cứu người phụ nữ tóc vàng để khẳng định bản thân.
2.3. Các vỉa tầng tâm thức trong các lớp truyện kể
Truyện cổ tích có những ảnh hưởng rất đáng kể lên tâm lí của trẻ nhỏ. Đã có
một nghiên cứu được thực hiện với gần hai trăm trẻ em trong độ tuổi từ tám
đến mười học tại xã hội Đức cũ, cho thấy một xu hướng đáng ngạc nhiên về
ảnh hưởng về hành vi của các câu chuyện cổ tích với một giới nhất định [34].
Các cậu bé và cô bé đã được giới thiệu một loạt các câu chuyện và sau đó
được hướng dẫn để viết lại các câu chuyện cổ tích theo cách của riêng họ
thông qua bản tóm tắt mở đó. Những gì các nhà nghiên cứu phát hiện ra chính
là nếu câu giới thiệu câu chuyện đề nghị đàn áp các nhân vật chính hoặc chọn
một nạn nhân, thì cả các cậu bé lẫn cô bé sẽ viết về một cô gái. Tương tự như
vậy, nếu câu mở đầu của các câu chuyện đã giới thiệu về nhân vật có nét tính
cách độc lập nổi bật, hoặc rời khỏi nhà từ đầu thì các cậu bé, cô bé sẽ chọn
nhân vật chính là nam. Điều này cho thấy rằng các câu chuyện cổ tích mà các
em được nhận để đọc có những ảnh hưởng lên quan điểm của các em về
những hành vi được mong đợi dựa tên giới tính. Vai trò của nam và nữ trong
các câu chuyện cổ tích được định hình trong cảm giác của những đứa trẻ về
sự sống. Các nhóm căn tính được xây dựng bởi các tương tác với tư tưởng,
82
văn hóa, hiện vật và các hoạt động của xã hội. Điều này khác hoàn toàn với
phim ảnh, truyền hình, thay vì phản ánh xã hội chúng ta, lại phản ánh một cái
nhìn méo mó về sự nổi bật tương động tìm thấy trong các câu chuyện cổ tích.
Niềm tin được xây dựng trong các câu chuyện cổ tích về việc các phụ nữ
không thể tin tưởng lẫn nhau, và rằng vai trò của một người phụ nữ là gắn bó
với một nam giới được đưa ra rõ ràng. Trên truyền hình, hình ảnh nam giới
thường xuất hiện với vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, hình ảnh các nữ diễn viên
gắn bó cùng đối tác nam giới thường chủ yếu trẻ hơn, một lần nữa củng cố
các lí tưởng về vẻ đẹp trẻ trung của nữ giới và ngụ ý về một mức độ thành
công của người phụ nữ thông qua diện mạo mà cô ấy xuất hiện. Những ý
tưởng này cũng phản ánh mạnh mẽ giá trị của vẻ đẹp mà các câu chuyện của
anh em nhà Grimm nhấn mạnh.
Một sự khác biệt quan trọng là những người đàn ông thường được mô tả như
những người thực hiện điều bạo lực gì đó thay vì chấp nhận các hành động.
Người đàn ông được miêu tả với nhiều khả năng quay lại và thực hiện bạo
lực, tiêu diệt tận gốc thủ phạm để cứu các nạn nhân. Xu hướng này cho thấy
quan niệm rằng nam giới kiểm soát số phận của nạn nhân trong khi đó, hình
ảnh về người phụ nữ chờ đợi một nhân vật nam đến kiểm soát cô vẫn đang
tiếp tục tồn tại.
Điều quan trọng là chính chúng ta phải nhận thức được sự sợ hãi, bạo lực và
những quy tắc luân lí thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Marina Warner
cho rằng để hiểu đầy đủ một câu chuyện dân gian, chúng ta phải hiểu được
môi trường mà câu chuyện đó đã được kể và viết. “Tôi bắt đầu điều tra về ý
nghĩa của những câu chuyện, nhưng tôi đã sớm phát hiện ra rằng cần phải
nhìn vào bối cảnh mà các câu chuyện được viết, ở đó những người nào đã nói
83
với họ, nói điều gì và tại sao”. Khi thời gian thay đổi, ý nghĩa của các câu
chuyện dân gian, cổ tích, những gì là đáng sợ về sự trừng phạt của những
người phụ nữ bây giờ là những chuyện buồn cười hoặc ngược lại.
Cả văn học truyền miệng và văn học truyền thống tiếp tục tồn tại cạnh nhau
ngày hôm nay, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng có một sự khác biệt
trong vai trò so với chức năng của các nhóm này so với quá khứ. Sự khác biệt
này có thể được nhìn thấy trong cách thức xây dựng. Kiểm tra tất cả các câu
chuyện dân gian, Bruno Bettelheim [27] đi đến kết luận rằng bất kì yếu tố bạo
lực hay sự sợ hãi nào tìm thấy trong đa số các câu chuyện cổ tích đều nhanh
chóng được đáp trả lại bằng một thế lực tốt. Câu chuyện cổ tích có yếu tố ác
có mặt ở khắp mọi nơi. Trong thực tế, mỗi câu chuyện, cái tốt và cái xấu được
xây dựng dưới hình thức của nhân vật, thông qua những hành động của họ.
Điều ấy thể hiện một khuynh hướng rằng những điều tốt và điều xấu có mặt ở
khắp mọi nơi, trong cuộc sống và đó là khuynh hướng cho cả hai mặt tồn tại
của mỗi con người. Tính hai mặt này đặt ra các vấn đề liên quan đến đạo đức,
và đòi hỏi phải có sự đấu tranh để giải quyết. Bằng cách trình bày những yếu
tố tốt và xấu một cách cân bằng, những đứa trẻ khi tiếp nhận các câu chuyện
cổ tích sẽ có nhiều khả năng phán đoán độc lập. Đối với những người trẻ tuổi
ngày nay, sống trong một thế giới đa nguyên, và phải thích ứng với nhiều bộ
giá trị khác nhau, xây dựng khả năng phán đoán riêng và đánh giá tính
nghiêm trọng trong môi trường của một người là điều quan trọng hơn bao giờ
hết.
Điều thú vị là tâm lí học và thần kinh học đã dành một thời lượng đáng kể để
kiểm tra các câu chuyện cổ tích để tìm ra liệu rằng trẻ em có bị ảnh hưởng (và
sau đó thực hiện hành động) bởi sự tàn ác, sợ hãi và bạo lực được tìm thấy
84
trong các câu chuyện dân gian không? Nghiên cứu của họ cho thấy không
nhất thiết phải là các câu chuyện dân gian ảnh hưởng đến trẻ em, mà đúng
hơn là cách các câu chuyện được đọc và trình bày với trẻ mới là yếu tố gây
ảnh hưởng lớn nhất.
Có thể có chút nghi ngờ về việc kể một câu chuyện cổ tích với một đứa trẻ
mười lăm tháng tuổi có thể gây ra mối đe dọa, như chúng khó có thể tách các
nội dung từ các sự kiện trong thế giới hàng ngày, là không khôn ngoan nếu
tường thuật truyện cổ tích cho trẻ dưới bốn hoặc năm tuổi. Nhưng một phụ
huynh có thể từ chối hoặc không sử dụng những đặc điểm bạo tàn trong văn
hóa dân gian hoặc kiểm soát theo cách của riêng mình các yếu tố đó chắc
chắn cũng sẽ tìm thấy cách thức có hiệu quả nhưng cũng có hại khác.
Hơn nữa, sẽ là không công bằng nếu đổ lỗi hoàn toàn lên những câu chuyện
dân gian là nguyên nhân gốc rễ của xu hướng bạo lực trong hành vi của trẻ.
Chắc chắn trẻ sẽ có ảnh hưởng khi tiếp xúc với nỗi sợ hại và bạo lực thông
qua bạn bè, hoàn cảnh gia đình, những ảnh hưởng xã hội. Câu hỏi thực sự từ
những câu chuyện dân gian với những hình ảnh, biểu tượng, chi tiết đáng sợ
là có lí do cho việc trẻ muốn tìm hiểu các hành vi bạo lực hay không?
Allan Guggenbühl [28] lập luận trong cuốn sách The Incredible Fascination
of Violence rằng những người chủ động tìm ra các hình ảnh bạo lực trong
cuốn sách, trò chơi video, và bộ phim là những người có nhiều khả năng thực
hiện các hành vi bạo lực. Đổ lỗi cho một câu chuyện dân gian khủng khiếp
không phải là giải pháp cho các câu đố về hành vi của trẻ. “Bạo lực trong
phương tiện truyền thông không phải là nguyên nhân của các hành vi của trẻ
nhưng lại mang đến sự hợp thức hóa nhất định cho chúng” Guggenbühl nhấn
85
mạnh, và hơn nữa, "Cấu trúc thượng tầng về đạo đức của trẻ em khỏe mạnh
không bị phá vỡ khi họ đang phải đối mặt với bạo lực trong các phương tiện
truyền thông."
Sợ hãi và bạo lực trong dân gian và câu chuyện cổ tích có một lý do chính
đáng để được phổ biến trong văn hóa ngày càng bạo lực và sợ hãi của chúng
ta. Vạch trần cho trẻ em sự bạo lực trong cuốn sách cho phép cung cấp một
phương tiện thảo luận về những nỗi sợ và bất an trong thế giới thực. Tạo niềm
tin vào nhân vật, xây dựng những tưởng tượng để tạo ra những đóng góp tích
cực trong các cuộc đối thoại theo nhiều cách là điều mà các bộ phim hay
chương trình truyền hình không thể có. Gillian Cross đã viết trong Library
Journal School, "Tôi nghĩ rằng [bạo lực là] rất quan trọng trong sự tưởng
tượng về cái chết. Có hoặc không những nguy hiểm và tổn thương sẽ gây ra
ấn tượng nhất định cho trẻ. Nhưng những yếu tố ấy thay đổi chúng ta. Cuộc
sống thực là như vậy”.
Tiểu kết
Điều định nghĩa thực sự trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm là cách
thức trong đó có một sự phổ biến xảy ra trong thế giới tưởng tượng. Marina
Warner mô tả điều này như là "tạo ra một nhà hát với tất cả khả năng, điều gì
cũng có thể xảy ra." Các yếu tố ma thuật cùng các hình ảnh biểu tượng mà
không pha chút bạo lực và sợ hãi trong cốt truyện sẽ không thể thu hút những
đứa trẻ.
Kí ức tuổi thơ được xây dựng theo cách đáng sợ bởi vô số lí do nhưng cố
gắng để gắn các thuộc tính của sự sợ hãi đến các câu chuyện dân gian là điều
86
không công bằng. Chúng ta lùi lại và nhìn vào bối cảnh xã hội của những câu
chuyện dân gian khi chúng được tạo ra và trở thành mối quan tâm lớn của
những đứa trẻ.
Từ những kinh nghiệm thơ ấu của chính chúng ta có thể thấy rằng nhưng câu
chuyện về bạo lực thực sự tạo nên cảm giác lo sợ cho chúng ta, mặc dù chúng
ta có thể không hiểu lí do tại sao chúng ta lại được nghe những câu chuyện
như vậy và bằng cách thức nào chúng ta có thể vượt qua được. Thực chất, có
thể những câu chuyện dân gian không đáng sợ mà bởi những kì thị, những
quan điểm xung quanh nó. Chúng ta vốn dĩ được sinh ra trong sự sợ hãi.
Chúng ta được dạy về sự sợ hãi trước tiên bởi chính mẹ chúng ta khi họ đối
diện với những nỗi sợ, lo lắng liên tục trong tâm trí từ khi chúng ta còn trong
bụng. Do đó, người ta có thể thừa nhận những câu chuyện cổ tích tồn tại
những nỗi sợ hãi và bạo lực nhưng không nên sợ việc trẻ lớn lên và chia sẻ sự
hồi hộp, sợ hãi với người lớn, bởi đó là một phần của hoạt động học.
Hầu hết các câu chuyện của anh em nhà Grimm đều được xây dựng với một
phần ban đầu, sau đó di chuyển, thay đổi các thông tin và kết thúc bằng “họ
sống hạnh phúc mãi mãi về sau”. Điều này chứng tỏ rằng bộ truyện cổ Grimm
bất chấp những lời chỉ trích từ mọi góc độ vẫn luôn cân bằng và lành mạnh.
Nếu chúng ta có thể dạy cho con cái chúng ta làm thế nào để đối diện với nỗi
sợ hãi và bạo lực một cách lành mạnh bằng cách sử dụng các ví dụ tốt trong
87
truyện cổ, thế giới của chúng ta (hi vọng) sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn.
CHƢƠNG 3: ẨN ỨC TRONG TRUYỆN CỔ GRIMM
Những nhà nghiên cứu về phân tâm học như Sigmund Freud, Otto Rank, Carl
Jung nhìn nhận những câu chuyện cổ tích là một trong những phương tiện để
phân tích tâm lí. Các chân lí sâu sắc được thể hiện trong các câu chuyện cổ
tích, trong đó miêu tả cụ thể, rõ ràng những quy trình phát triển phức tạp, diễn
biến phức tạp và năng động của các nhóm người là đầy đủ cho việc sáng tạo
cách thức chữa trị các nỗi đau tâm lí. Sử dụng các chủ đề của truyện cổ tích,
điều chỉnh trí tưởng tượng của trẻ trong các sự kiện, mốc, diễn biến quan
trọng cho phép chúng ta giải thích, diễn dịch lại và mở rộng một số cách để
giúp các cá nhân hiểu được môi trường sống xung quanh, những khó khăn của
mỗi cá nhân và xây dựng các hướng dẫn, tăng cường kiến thức giúp con
người hành động.
Nếu chúng ta nhìn thật kỹ vào cơ cấu của các nền văn minh đã thi nhau phủ
lên cuộc đua tiến hoá của nhân loại, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cấu
thành các nền văn minh đó, chính là những đường kim mũi chỉ được thêu dệt
bởi chính các câu chuyện dân gian, vô danh. Xét ở góc độ cá nhân, một câu
chuyện có thể trở thành một bài thuốc tinh thần cho một vài cá nhân, bởi
chúng ta có thể nhìn thấy đâu đó hình bóng của mình trong câu chuyện, tự
mình cảm thông với nhân vật, và tự mình cảm thông với mình. Xét ở trên góc
độ cộng đồng, những luồng câu chuyện vừa phản ánh thực trạng, vừa gửi gắm
thông điệp và cũng gieo thêm nhiều niềm hi vọng. Một xã hội cũng giống như
một thân nhân, cũng có sự thai nghén, sinh thành, trưởng thành, kèm theo
nhiều sóng gió. Một xã hội cũng có những căn tính riêng như một nhân thân,
những căn tính đó vừa vô tình lẫn hữu ý đã hiện mình trong các câu chuyện.
Xem xét kĩ lưỡng các nhóm căn tính, các mô hình, các biểu tượng trong
88
truyện cổ Grimm từ đó dẫn dắt đến những quan điểm tâm lí hiện đại như hệ
thống gia đình, quan hệ giữa các đối tượng và khuôn khổ nhận thức có thể
đem lại những hiểu biết mới cho con người. Sự am hiểu về cuộc hành trình
của nhân vật nữ chính trong các câu chuyện hay hình tượng người anh hùng
vượt qua những nỗi đau có thể tạo nên những cách thức vượt lên khó khăn
của con người.
3.1. Trí tưởng tượng và thế giới cổ tích
Các câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm không đặt mốc thời gian trong
thế giới của chúng ta, mà chỉ đặt thời gian sáng tạo. Việc đặt mốc này là để
tạo nên một thế giới và những nét tính cách của con người, những tính năng
ma thuật mà chúng ta không biết đến trong cuộc sống thực. Thế giới tưởng
tượng này được đặt trong thời gian dường như không bao giờ đứng lại. Thời
đại nào cũng sẽ tồn tại những mảnh đời như trong các câu chuyện, những uẩn
khúc như vậy và những hạnh phúc như vậy, chỉ khác nhau ở mức độ và cách
hiện diện. Bởi vậy, giá trị nghệ thuật, học thuật và ứng dụng của các câu
chuyện sẽ còn mãi, nhờ vào khả năng tự phản chiếu các mô thức xã hội mới
qua các ẩn ức xưa cũ. Hầu hết chúng ta đều nhớ thời điểm mà các câu chuyện
cổ tích đều chọn cách để bắt đầu: “Ngày xửa ngày xưa”. Sự bắt đầu này chỉ ra
rằng những câu chuyện được đặt ở thời điểm bên ngoài cuộc sống thực,
những câu chuyện là tưởng tượng và là một phần tinh thần khác. Đọc những
câu chuyện cổ tích khác nhau, chúng ta sẽ thấy không truyện nào có lịch sử
thời gian giống truyện nào. Người đọc sẽ không thể cảm nhận rằng chuyện
Nàng Bạch Tuyết diễn ra trước Cô bé Lọ Lem, Anh trai và em gái. Ở vùng đất
của cổ tích, trong thế giới của bộ truyện cổ Grimm, đó là một thế giới hòa
quện giữa những đặc điểm lấy ra từ thế giới thực của chúng ta với những đặc
điểm ma thuật và tưởng tượng. Giống như kết cấu của những huyền thoại,
89
truyền thuyết, các truyện cổ Grimm cho chúng ta dõi theo các nhân vật chính
khi họ đang phải trải qua thời kỳ tối tăm nhất của bản thân, để tạo ra cả một
sự chuyển hoá lớn, không chỉ với chính họ mà còn cả với cộng đồng xung
quanh họ.
Một đặc điểm quan trọng của các câu chuyện trong bộ truyện cổ Grimm là
tưởng tượng. Tưởng tượng có thể được coi như là nghĩ đến những điều không
có thực. Đây là một khả năng cả trẻ em và người lớn đều có, nhưng người lớn
thường nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa trẻ em và trí tượng tượng, rằng có
một mối quan hệ giữa trẻ em và khả năng tưởng tượng. Rằng đó là vấn đề mà
chỉ trẻ em mới có thể làm được, như thể trí tưởng tượng là một phần của
những đứa trẻ và rằng khi lớn lên chúng sẽ phát triển vượt xa khả năng tưởng
tượng. Nhưng Tolkien [32]đã viết, những hình ảnh đều được liên kết theo
cách thức khái quát và tưởng tượng: “Tâm trí con người ưu tiên việc nhìn thấy
các hình ảnh theo tính khái quát và tưởng tượng. Chúng ta không chỉ nhìn
thấy màu xanh lá của cây cỏ mà phân biệt với những sự vật khác (việc tìm
kiếm các sự vật để nhìn ngắm là công bằng) cũng có màu xanh lá cây như
cỏ”. Bởi vì chúng ta có thể tách biệt giữa màu sắc, hình dạng và số từ ngữ
chúng ta biết nên việc thiết lập và áp dụng những điều ấy vào những thứ khác
tức là chúng ta tưởng tượng. Vì vậy, rất rõ ràng rằng sẽ là không đúng nếu
cho rằng trẻ có nhiều khả năng để tưởng tượng hơn người lớn. Các tình tiết
trong truyện cổ là cả chuỗi những mã hoá. Từng hành động nhỏ của mỗi nhân
vật đều trở nên kinh điển và bao trùm nhiều ý nghĩa. Khi người đọc, người
nghe thưởng thức đến, họ tự giải mã câu chuyện theo một bộ giải mã của
riêng họ. Họ tự mường tượng ra và khôi phục lại quá trình sinh hoạt sống
90
động của các nhân vật trong từng câu chuyện. [5]
Tuy nhiên, khi chúng ta còn nhỏ, chúng ta có nhiều thời gian để tương tác với
những người khác, chúng ta rong chơi, chúng ta chạy nhảy tự do, và bộ giải
mã của chúng ta được bồi dưỡng liên tục. Nhưng khi chúng ta lớn lên, theo
một cách tự nhiên, chúng ta bị bủa vây bởi mối quan hệ với công việc, những
yêu cầu của công việc, của gia đình, của bản thân. Chúng ta có ít thời gian để
rong chơi, để tưởng tượng và tạo nên những điều mới mẻ, mặc dù người lớn
thường có xu hướng chia sẻ công khai những tưởng tượng của mình hơn trẻ.
Tolkien [32] đã xây dựng nên một thế giới với dòng chảy vượt ra bên ngoài
ranh giới của những câu chuyện. Ông coi những câu chuyện như một thế giới
thực tế và khiến người khác dễ dàng nhìn nhận nó. Sự tưởng tượng khi không
trở thành niềm vui thú sẽ đánh mất đi sức mạnh của nó. Các bà tiên trong các
câu chuyện có ý nghĩa khi bản thân mỗi người tin tưởng vào sức mạnh ấy từ
bên trong, không phải theo cách thức mà người đọc hoặc người nghe tin vào
việc câu chuyện được sắp trước. Thế giới truyện cổ tích mà anh em nhà
Grimm xây dựng mở ra một khung cảnh kì diệu với sự chan hòa của thiên
nhiên. Hai yếu tố này tạo nên những vẻ đẹp khác nhau cho các câu chuyện.
Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong đó những sinh vật kì diệu như yêu
tinh, người lùn, quỷ dữ, con rồng và nhiều hơn thế nữa. Đặc điểm của những
sinh vật này là chúng ta rất khó khăn để có thể tìm thấy chúng trong thế giới
thực, và chỉ có thể tưởng tượng. Một vài sinh vật trong số đó chúng ta có thể
rất quen thuộc như: ngựa, chim, chó, mèo. Trong hầu hết các câu chuyện cổ
tích, con người luôn đóng vai trò là nhân vật chủ chốt thường được đặt trong
tình huống giải quyết hoặc vượt qua một vấn đề. Hầu hết các nhân vật đều
thực hiện một cuộc hành trình, thường là việc thực hiện hành trình là do phải
lựa chọn hoặc cũng có thể tự thực hiện nhiệm vụ, các vấn đề của bản thân như
91
trong Cô bé Lọ Lem.
Con đường hành trình của các nhân vật trong truyện cổ Grimm cũng có thể
được sử dụng để tác động đến các vấn đề tâm lí. Thông qua việc kết hợp với
các câu chuyện cổ tích, nguồn sức mạnh mới có thể tăng cường cho con
người: Mặc dù cuộc sống có thể không công bằng và đầy những bất công,
nhưng đau khổ nên được nhận thức là không phải chỉ thuộc về mỗi mình. Các
câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm xây dựng một niềm tin về những
kết thúc có hậu. Mà điều đó có thể một số người trong số chúng ta có thể phải
đi những lối đi tối tăm và quanh co trước khi có thể tìm thấy những dòng sông
bình lặng hoặc những mục đích cao cả. Lẽ sống của mỗi người, nhân cách của
mỗi người từ đâu mà sinh ra, tại sao con người ta lại giống và khác nhau, sao
người ta lại tự ý thức về bản thân mình, và có cái gọi là nhân cách - thứ mà
người ta vừa có khả năng chủ động phần nào, vừa bị thụ động, chi phối bởi vô
số những định nghĩa, lề thói, những ràng buộc và các giá trị mang tính qui
ước, bó buộc. [25]
Những con số biểu tượng và hình ảnh trong câu chuyện của anh em nhà
Grimm như mẹ kế độc ác, bà tiên đỡ đầu, mùa đông tối tăm, hoặc bị lạc
đường trong rừng phản ánh trạng thái cảm xúc bên trong đáng lo ngại. Nhân
vật chính phải vượt qua các thử thách trong các tình huống khác nhau, tâm lí
của một cá nhân được thể hiện trong những cách để đối diện với chính mình
hay những ảnh hưởng đến cô. Ví dụ, Hansel và Grethel để lại dấu vết vụn
bánh mì để đánh dấu, và lừa mụ phù thủy không ăn chúng, là những minh
chứng về các loại hành động chiến lược để đảm bảo rằng một người không bị
tràn ngập bởi rối loạn cảm xúc. Những hình ảnh ẩn dụ bên trong "mẹ đỡ đầu"
của riêng mình hay "động vật hữu ích" là các cách thức để chuyển hóa nỗi
92
đau tinh thần, và những hành trình có nhiều bạo lực. Nếu chúng ta kết nối các
biểu tượng này có thể giúp ích cho trẻ trong việc xây dựng khả năng tự chăm
sóc.
Trong bộ truyện cổ Grimm thường có một lời nguyền dẫn đến một sự chuyển
đổi, như trong Công chúa ngủ trong rừng, Vua Ếch. Các nghiên cứu nhận
thức của các nhà nghiên cứu tâm lý đương đại, như Albert Bandura tại Đại
học Stanford, chứng thực rằng khi các cá nhân tiếp cận hoàn cảnh khó khăn
như những thách thức mà có thể được làm chủ, khả năng phục hồi của họ
được phát triển mạnh mẽ. Chính vì vậy, những câu chuyện kinh điển dạy
người ta không phải né tránh các thách thức khó khăn của cá nhân và rằng đó
là một trong những cách để giúp học phát triển về mặt thể chất và tinh thần.
Một tinh thần của chiến thắng và sự lạc quan trải dài qua những câu chuyện
mang tính tích cực. Các câu chuyện cổ tích, với hình ảnh từ những nhân vật
chính khi vượt qua lực lượng phá hoại với hàng loạt hành động sáng tạo, sống
sót trong các khu rừng tối tăm và nguy hiểm kèm theo, tiêu diệt các phù thủy
hoặc mẹ kế độc ác, khả năng phục hồi được tăng cường với những hành động
mạnh có thể kích thích những đứa trẻ trở nên mạnh mẽ. Chàng hoàng tử út
trong Con chim vàng đã lần này tới lần khác bị vua cha coi nhẹ, không giao
cho trọng trách. Đến khi chàng được tin tưởng, lên đường thực thi nhiệm vụ,
thì lại phạm phải lỗi lầm khi nhiệm vụ gần hoàn thành. Hết lần này tới lần
khác, mỗi khi chàng gặp nguy hiểm hoặc khốn khó, con cáo lại xuất hiện và
giúp chàng, bất kể chàng đã phạm phải lời dặn của cáo. Cuối cùng, chính con
cáo lại tự đưa mình đến với cái chết để được giải thoát khỏi lời nguyền và
hiện nguyên hình là một chàng hoàng tử khác. Đó chính là một sự hồi phục
mãnh liệt của niềm tin, qua một quá trình thử thách đầy sáng tạo. Truyện cổ
Grimm phản ánh đầy đủ bức tranh tự nhiên với tất cả các mặt đối lập được
93
miêu tả sống động: bóng tối và ánh sáng, mùa hè và mùa đông, điểm yếu và
sức mạnh, nghèo đói và giàu có. Bằng cách thức khuyến khích những đứa trẻ
chấp nhận vị trí của những con người lao động bình thường trong xã hội, hay
thân phận nhỏ bẻ của con người trong vũ trụ bao la, các câu chuyện nhắc nhở
con người rằng những thời gian chịu khổ ải, đau đớn thường không kéo dài,
và sự thay đổi theo chiều hướng tốt hơn là hoàn toàn có khả năng, khi con
người nỗ lực bền bỉ và có niềm tin kiên định. Việc sử dụng các câu chuyện cổ
tích bạo lực như một cách định hướng tích cực có thể nhấn mạnh các giai
đoạn cuộc sống khó khăn là điều kiện tiên quyết để dẫn đến sự phát triển sức
mạnh cá nhân và cuối cùng dẫn đến thành công to lớn. Như vậy, chúng ta
hoàn toàn có thể dạy những đứa trẻ thiết lập những kì vọng cho sự thay đổi
tích cực. Trong các câu chuyện, các anh hùng đều thể hiện sức mạnh năng lực
để chữa lành các vết thương. Cuộc sống vốn công bằng, lòng nhân hậu với
những người khác có thể giúp con người giải thoát khỏi sự đau đớn.
Tất cả các câu chuyện của Grimm chúng tôi khảo sát đều cho thấy rằng các
nhân vật nữ chính đại diện cho mẫu người sử dụng quyền lực bên trong để
giải quyết các vấn đề. Theo Carl Jung, chúng ta có một câu chuyện yêu thích
mà đi theo chúng ta suốt cuộc đời. Bằng cách kết nối những đứa trẻ với các
câu chuyện yêu thích nhất của chúng, chúng ta có thể giúp chúng xây dựng,
làm nổi bật các cách thức để đối phó và giải quyết vấn đề hoặc đề xuất các
giải pháp với một đứa trẻ khi chúng đang loay hoay tìm kiếm cách thức vượt
qua các vấn đề thực tế.
3.2. Dòng chảy văn hóa trong các câu chuyện của Grimm
Mặc dù các câu chuyện cổ tích được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa thế
giới thực và thế giới tưởng tượng nhưng các giấc mơ có sự liên quan rất phức
94
tạp đến cuộc sống của chúng ta. Xã hội con người luôn ở trong dòng chảy liên
tục của lịch sử, văn hoá, và chúng ta ý thức được rằng chính mình là sự phản
chiếu của những dòng văn hoá, lịch sử ấy. Những câu chuyện cổ tích là những
biểu hiện cho sự phản chiếu vô thức thông qua hệ thống các hình ảnh mang
tính biểu tượng. Công việc của anh em nhà Grimm chính là xác định lại quá
trình phản ánh đó, tuyển chọn và hệ thống lại chúng thành các tác phẩm văn
học.
Thông qua sự chấp nhận rằng trong vòng tròn khả năng bị mẹ kế trả thù,
những tên lùn đồng lõa, mẹ đỡ đầu yêu thương, với những hạn chế bẩm sinh
của con người, đôi khi những đứa trẻ sẽ cảm thấy bị lo lắng trước những kì
vọng không thực tế của bản thân. Với bối cảnh của truyện cổ Grimm, chúng
ta có thể định hướng những đứa trẻ chấp nhận hai mặt của cuộc sống, rằng có
nhiều yếu tố, khả năng tích cực và tiêu cực trong mỗi cá nhân, tất cả những
điều ấy đều được tích hợp làm nên chính chúng ta. Một yếu tố đặc trưng trong
các câu chuyện cho thấy các nhân vật chính đa phần đều được hạnh phúc cho
đến tận cuối cùng. Cô bé Lọ Lem gặp được giúp đỡ bởi cây thần, chim chóc;
và Bạch Tuyết được gặp những người lùn. Từ góc độ tâm lí, khi một người
được nhận những sự đối xử không tốt từ trong gia đình, đó là cơ hội để
chuyển sang quá trình đón nhận và nuôi dưỡng sự nhân hậu từ nhiều con
người khác, như Joseph Campbell nói, "Các câu chuyện chỉ đơn giản như là
một minh chứng xây dựng niềm tin cho những đứa trẻ. Thế giới của ma thuật
là đặc điểm hiện diện của ham muốn, sợ hãi, những lý tưởng, tiềm năng, mà
đã phát triển trong các dây thần kinh, ngân nga trong máu, và vách ngăn các
giác quan, kể từ lúc bắt đầu. Nguyên mẫu về sự vui tươi và khiêm tốn trong
các câu chuyện cổ khiến chúng ta tự hỏi đâu là những điều đích thực của cuộc
sống”. Khi kể những câu chuyện về tiêu diệt các mụ phù thủy hoặc mẹ kế độc
95
ác như Mười hai hoàng tử, Anh trai và em gái, Hansel và Grethel, người lớn
kích thích sự kiên trì, bền bỉ của những đứa trẻ rất nhiều. Khi các nhân vật
chính rời khỏi ngôi nhà của mình, thực hiện một nhiệm vụ, nhân vật ấy phải
làm chủ nỗi sợ vượt qua các khu rừng tối tăm, đối mặt với các thử thách, hoàn
thành nhiệm vụ khó khăn, vượt qua được các nhân vật khác có thể là người
khổng lồ, thỏ, chim, cá, vua, hoàng hậu, phù thủy. Cuộc đấu tranh dữ dội diễn
ra ngay sau đó. Sức mạnh ma thuật của bà tiên đỡ đầu, cây đũa phép hoặc
chữa bệnh có thể giải cứu nhân vật chính và cuối cùng giúp họ chiến thắng,
hoặc có một chuyến đi đến một đất nước mới. Đôi khi, chính nhân vật ấy có
thể quay lại giết hại hoặc chống đối với chính gia đình mình hoặc xây dựng
những mối quan hệ nhân ái hơn. Như vậy có thể kết luận rằng nhân vật chính
câu chuyện cổ tích thường biến các sự kiện, các hành trình, các mốc vượt qua
của mình trở thành một cơ hội để phát triển năng lực cá nhân.
Trong quá trình trị liệu của Freud, cùng với sự dẫn dắt của quá trình trị liệu,
những bệnh nhân của Freud đã dẫn ông quay về với các sự kiện trong quá
khứ, những thứ bị chôn vùi trong ký ức lúc có ý thức. Freud cứ lần ngược lại
quá trình phát triển của con người từ thời thơ ấu của mỗi cá nhân, và thời sơ
khai của cả loài người. Tiến trình nghiên cứu đó của Freud có vẻ rất cao siêu
và xa vời, nhưng đều có thể được diễn ra bởi bất kì cá nhân nào, khi họ đọc
bất kể câu chuyện cổ nào. Sau này, Lacan đã tiếp nối và phát triển thêm việc
lần ngược lại quá trình của Freud, ông triển khai hệ thống những quan điểm
xoay quanh “Giai đoạn gương” (Mirror stage) để tìm cách diễn giải về khoảnh
khắc đầu tiên một con người bắt đầu xây dựng khả năng tự ý thức về mình, và
bắt đầu tạo nên những đặc tính, xu hướng nhân cách, xu hướng hành động.
Đó cũng là một quá trình kiến tạo chủ động của một cá thể, và đồng thời là
quá trình thụ động chịu sự chi phối rất mạnh của mạng lưới những mối quan
96
hệ với các cá nhân khác, và hơn hết là chịu ảnh hưởng từ mạng lưới quan hệ
và giá trị mang tính biểu trưng trong xã hội. Mượn cách tiếp cận của Lacan,
chúng ta có thể hiểu được vì sao mười hai chàng hoàng tử trong truyện “Mười
hai anh em” lại phải lẩn khuất chốn rừng sâu và đưa ra lời thề độc địa đến thế.
“Bảy con quạ” cũng là một ví dụ điển hình cho việc hình thành nhân cách con
người trong “Giai đoạn gương”. Trong cả hai câu chuyện, những người anh
đều phải lâm vào tình cảnh éo le, phải trốn vào rừng sâu hoặc phải biến thành
quạ bởi ý niệm của người cha. Nguồn gốc của tình cảnh có khác nhau, một
bên là do sự chểnh mảng của bảy người anh, một bên là do sự thèm khát có
con gái của đức vua, nhưng kết cục là những người anh trong cả hai câu
chuyện đều phải chịu đắng cay từ một thời khắc không bình thường của
những người cha.
Trong khuôn khổ lí thuyết của Carl Jung, có một khoảng thời gian gián đoạn
trong cuộc sống của mỗi con người, đó chính là chìa khóa cho sự phát triển
tiềm năng, sức mạnh của mỗi cá nhân trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Mô típ điển hình trong các câu chuyện của anh em nhà Grimm xoay quanh
cuộc sống gia đình, các mối quan hệ liên quan đến người mẹ, người cha, sinh
con, người mẹ kế, hôn nhân,... Sự rời bỏ quê hương thường là cốt lõi của hành
động. Các nhân vật chính (anh hùng, các nàng công chúa) thường được hưởng
một sự nuôi dưỡng khác, từ một người cha, mẹ đỡ đầu hay từ một bà tiên.
Chính sự nuôi dưỡng đó là một gián đoạn với quá trình sinh dưỡng căn bản
trong xã hội. Kế đến, họ trải qua giai đoạn đau khổ, tăm tối trong những khu
rừng, nơi có nhiều quái vật ẩn náu, đó là một gián đoạn với những cảm xúc
tích cực và giao tiếp xã hội; để rồi họ đạt đến hào hoa, chạm đến hôn nhân,
tượng trưng cho phần thưởng của sự thành công và hoàn thành các nhiệm vụ
ở tuổi trưởng thành khi đã trải qua những tuyệt vọng, trầm cảm, giận dữ và lo
97
âu.
Ẩn trong các mô hình lặp đi lặp lại trong gia đình thường được sử dụng trong
các câu chuyện của anh em Grimm, thường thấy những nhóm hành động xuất
hiện. Nếu chúng ta nhìn vào những câu chuyện cổ tích và coi chúng là những
ẩn dụ của các gia đình thì chúng ta có thể giúp chính chúng ta tìm được cách
thức để đối diện với các vấn đề đáng lo ngại từ gia đình.
Các gia đình trong truyện cổ tích giống như các gia đình thường tìm kiếm liệu
pháp tâm lý: Thường thì những người cha vắng mặt hoặc không giải quyết
hiệu quả, triệt để các khúc mắc; những người mẹ kế người độc ác, hoành
hành, thiếu sự đồng cảm, và thậm chí giết người; và những anh chị em đang
ghen tị, hạ thấp phẩm giá và tạo cho nhau những trạng thái tình cảm tiêu cực.
Trong cuộc sống thực, nếu trong một gia đình bị khiếm khuyết một yếu tố nào
đó, gia đình đó sẽ xuất hiện những khoảng trống, là cơ hội cho các mối lo
ngại tấn công từng cá thể. Trong một gia đình, hệ thống các biểu hiện có thể
phát triển như sau: Nếu mối quan hệ của cha mẹ trở nên xáo trộn, và do đó đe
dọa sự an toàn của các nhóm gia đình, một đứa trẻ có thể phát triển trở thành
tâm điểm của sự chú ý của gia đình. Ví dụ, khi lập luận của cha mẹ leo thang,
một đứa trẻ có thể có hành vi không thích, như vậy là để chuyển hướng các
bậc cha mẹ khỏi cãi nhau. Khi cha mẹ chuyển sự chú ý của họ đối với những
đứa trẻ có vấn đề, lập luận lắng xuống và các mối đe dọa leo thang đối lập
giảm dần.
Trong cuộc sống gia đình đời thường, giữa Cái ấy và Cái tôi có sự va chạm,
quan hệ và đấu tranh với nhau thường xuyên. Quá trình va chạm, tranh đấu và
đổi mới đó tạo ra nhiều hệ quả đáng chú ý trong hoạt động tình cảm và sinh lý
của con người. Chúng ta sẽ có các kết quả khác nhau, nếu như trận chiến giữa
98
Ý thức và Vô thức có những kết cục khác nhau.
Nếu Ý thức thắng Vô thức, con người sẽ bình thường, làm chủ và điều tiết
được các hoạt động của mình.
Nếu Vô thức thắng Ý thức, thì khả năng tính dục sẽ trỗi dậy, chi phối các hoạt
động của chủ thể. Chủ thể bị rơi vào một phức cảm quan trọng trong Vô thức:
tam giác Cha - Mẹ - Con của Oedipe và trở nên khó kiểm soát hành động của
mình. Phức cảm này cũng tương tự như lòng ghen tị của mẹ chồng đối với
con dâu, vì quá yêu thương con trai của mình đến nỗi phải ghen tuông với cô
dâu xinh đẹp.
Nếu cuộc chiến giữa Ý thức và Vô thức không sớm có kết quả, mà tạm thời cọ
xát, hoà hoãn, giằng co lẫn nhau thì sẽ dẫn đến tình trạng rối loạn, bất thường
trong cả tâm và sinh lý.
Các câu chuyện Grimm đều cung cấp một cái nhìn để giúp chúng ta xem xét
lại các nhóm tính cách, nhóm chức năng hành động trong mỗi gia đình. Các
câu chuyện đều nhấn mạnh tính hệ thống của các nhóm chức năng như việc
tập trung mô tả một khía cạnh tích cực hoặc tiêu cực. Cho dù các anh hùng có
thể có xuất thân khác biệt, từ những người giàu nhất, quyền lực nhất hay
nghèo khó nhất; ngu ngốc nhất hay khôn ngoan nhất thì họ cũng không bao
giờ trở thành thành viên của những nhóm xã hội thông thường. Trong một
cách so sánh khác, chúng ta có thể thấy, hành động trong câu chuyện cổ tích
xoay quanh những nhân vật nguyên mẫu như kẻ ngu, anh hùng. Trong các gia
đình bị xáo trộn, nếu một thành viên được đối xử tốt hơn, một thành viên khác
trong gia đình thường bị chịu nhiều áp lực hơn hơn. Tương tự như trong
truyện cổ tích, những người bị bỏ rơi ở đầu của câu chuyện, cuối cùng thường
thay đổi vị trí với chính những kẻ áp bức ban đầu để có được sự khen thưởng
99
ở cuối câu chuyện. Cũng giống như lời hứa mà nhiều tôn giáo thường đưa ra,
sự sống an nhàn và hạnh phúc mãi mãi sẽ đến với những ai biết tôn thờ vào lẽ
phải, và trung kiên đương đầu với mọi khó khăn.
Khi chúng ta xem xét các mô hình tái diễn trong các câu chuyện cổ tích từ
một hệ thống quan điểm gia đình, ví dụ, các nhóm tính cách xấu tập trung về
phía những đứa con riêng, là đại diện cho hệ thống cơ bản có liên quan đến
gia đình bị xáo trộn. Sự xáo trộn này có thể làm giảm bớt những phát triển
quan trọng vốn có của những đứa trẻ, so với những đứa trẻ trong các gia đình
bình thường. Trong quá trình những đứa trẻ đó tự thân phản kháng bởi nhận
ra những thiếu sót của cha mẹ, chúng có thể có những hành động chống đối
với cha mẹ như Hansel, và do đó nhận thấy chính mình chứ không phải cha
mẹ xấu. Điều đó có thể dẫn đến nhận thức rằng khi không có người lớn đáp
ứng nhu cầu của mỗi đứa trẻ thì chức năng sống còn của chúng có thể sẽ bị đe
dọa. Khi đó, chúng sẽ không thể vượt lên trên những cảm xúc đớn đau của
bản thân, mà phải tự tìm kiếm những điều tích cực bên ngoài để phân biệt tốt
xấu, do vậy, khó có thể phán đoán được dựa trên những kinh nghiệm mơ hồ
của con người.
Những kinh nghiệm nhận thức tốt xấu về những người khác trong tâm lí được
phản ánh trong những hình ảnh về cái tốt và cái xấu của các câu chuyện cổ
tích. Các nhà trị liệu cũng thường dẫn dắt bệnh nhân tới sự liên tưởng về nhân
vật chính trong các truyện cổ tích để giúp họ tạo ra sự đồng cảm và tự chấp
nhận, tự tha thứ cho chính mình. Trong các câu chuyện cổ tích của Grimm,
đầy rẫy những hình ảnh bạo lực nhưng không có điều gì là vô cùng tốt hay
hoàn toàn xấu. Có phù thủy và bà mẹ đỡ đầu, động vật hữu ích, quái vật và
loài rồng, nhưng không có những câu chuyện bình thường mà tất cả họ đều
100
tham gia, xuất hiện trong các câu chuyện để từ đó chúng ta thấy rõ một vùng
trời tràn đầy niềm vui và hạnh phúc, có cả khuôn mặt rạng rỡ và vinh quang
của các thiên thần. Như trong Cô bé Lọ Lem, gia đình ban đầu đã được xem
như là tập trung “tất cả các xấu", nhưng cô gặp một hoàng tử "hoàn hảo";
trong Hansel và Grethel, chia tách là giữa những hình ảnh ban đầu của mụ
phù thủy tốt cho đứa trẻ ăn bánh kẹo, sau đó sẽ chuyển mình thành phù thủy
độc ác tàn hại người để ăn thịt. Các nhân vật anh hùng và nhân vật nữ gặp
phải những trải nghiệm rừng, hoặc bị cha mẹ bỏ bê đó có thể coi là hình ảnh
nổi bật cho cuộc chia li.
Sigmund Freud chia bản năng của con người ra làm ba phần: Tự ngã (cái ấy),
với trung tâm của nó là vô thức (inconscience); Bản ngã (cái tôi), với trung
tâm của nó là ý thức (conscience); và Siêu ngã (cái siêu tôi), với trung tâm
của nó là tiềm thức (subconscience). Với các nhà phân tâm học, vô thức là
một cõi riêng, một phần riêng trong cấu trúc tâm thức của con người, nơi chứa
đựng những xung lực có tính bản năng và những ước mơ không thể thực hiện
được, thậm chí, nhiều khi là không thể chấp nhận được trong xã hội. Các nhà
phân tâm học xem các giấc mơ như những cửa ngõ chính để dẫn vào thế giới
vô thức. Trong lĩnh vực văn học, nhiều nhà phê bình theo khuynh hướng phân
tâm học cũng thường xem các tác phẩm văn học y như một giấc mơ. Vậy nếu
giấc mơ là một sự hoàn thiện trá hình những ước muốn bị dồn nén của con
người, tác phẩm văn học cũng chính là hình thức thăng hoa, hoặc kết tinh của
các ẩn ức bị dồn nén trong vô thức, từ thời thơ ấu.
Trong mô hình về nhân cách của Sigmund Freud, ban đầu ông chỉ ra hai hệ
thống: cái ấy và cái tôi, và sau này, ông bổ sung thêm cái siêu tôi.
Cái ấy là hàm chứa những ham muốn vô thức, hay những đam mê đã bị chèn
101
ra khỏi ý thức. Cái ấy là hàng vạn đêm trường của Công chúa ngủ trong
rừng; là sự cầu nguyện của mười hai bà mụ hòng cứu vớt công chúa bé nhỏ
khỏi lời nguyền độc địa của bà mụ thứ mười ba; là lời đay nghiến của người
cha trong Bảy con quạ đã vô tình biến những đứa con mình thành quạ, và
cũng chính là sự cặm cụi, lầm lũi chăm chỉ của Lọ Lem khi bị mẹ kế và hai bà
chị chèn ép ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
Cái tôi là tiêu chuẩn chẩn hóa chính xác cho các rối loạn của các nhân vật.
Cái tôi được ý thức đó, chính là sự trung gian giữa Cái ấy và thế giới bên
ngoài, được hình thành trong quá trình xã hội hoá cá thể. Cái tôi phục vụ
những ham muốn của Cái ấy, mưu toan dẫn dắt những kích thích hành động
phi lý của Cái ấy để tương hợp với những đòi hỏi của hiện thực, với những
luận cứ của lý tính, nhằm hạn chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những
cơ chế phòng vệ khác nhau. Sự rối loạn của người cha trong Hansel và
Grethel khi phải tranh đấu giữa tình yêu thương con cái và sự lấn át của người
vợ chính là một rối loạn khi phần ý thức của người cha đã bị tác động bởi
người vợ, và chiến thắng phần vô thức, chiến thắng tình cảm của mình dành
cho hai người con. Sự rối loạn mà Cái tôi mang lại cũng có thể dễ dàng nhận
ra ở nhân vật phù thuỷ trong Nàng Bạch Tuyết, mỗi lần bà ta phát hiện ra rằng
Bạch Tuyết vẫn chưa chết và bà không phải là người xinh đẹp tuyệt trần. Sự
rối loạn đó lên cao bởi nỗi ngờ vực về một “hoàng hậu mới”, khiến bà phân
vân có nên tới dự hôn lễ hay không, để rồi phải đón nhận cái chết sau khi
nhảy múa không ngừng với đôi giày sắt nung đỏ. Quan trọng nhất là cơ chế
để chèn ép những ham muốn không cần thiết ra khỏi giới hạn của ý thức từ
góc độ văn hoá, nhờ lý tính ý thức lý giải những hành động bị động dấy lên
bởi những khao khát không được phép từ quan điểm xã hội, và những động
cơ được xã hội chấp nhận. Với sự trợ giúp của việc thăng hoa và kết tinh các
102
ẩn ức, những năng lượng của sự kích động vốn bị cấm đoán lại được giải toả
bằng những phương thức khác nhau mà cả xã hội và mỗi cá nhân đều có thể
chấp nhận.
Cái siêu tôi là kết quả của việc làm tương ứng những đòi hỏi và những mệnh
lệnh của đời sống xã hội. Quá trình chuyển hoá những đòi hỏi và những mệnh
lệnh bên ngoài thành các nhân tố của thế giới bên trong được thực hiện dưới
ảnh hưởng của các quan hệ gia đình và xã hội. Sự tác động của Cái siêu tôi sẽ
nảy sinh cảm giác của lương tâm. Cái siêu tôi đã giúp bác thợ săn thả cho
Bạch Tuyết đi, và tìm vật thế thân cho nàng, đem về báo cáo với hoàng hậu;
đã khiến mười hai chàng hoàng tử trong Mười hai anh em sống nhiều ngày
trong rừng với lời nguyền thề sẽ giết chết người con gái đầu tiên họ gặp,
nhưng lại trở nên hiền hoà và ôm chầm lấy cô em gái một cách mừng rỡ. Cái
siêu tôi cũng hiện hữu trong Anh trai và em gái, để cho nàng hoàng hậu trẻ
xấu xố vẫn hiện về vỗ về đứa con nhỏ hàng đêm, và rồi tình yêu thương chân
thành vô bờ bến đó cũng được đền đáp. Trong những trường hợp này, quá
trình xung đột giữa Ý thức và Vô thức trong các mạch truyện không dẫn đến
một điều gì bi kịch, mà dẫn đến một lối giải thoát, những khát khao không
được thoả mãn đã được thăng hoa.
Truyện cổ Grimm với hệ thống nhân vật mà thường xuyên thay đổi vai trò và
thay đổi hình dạng: Một con ếch có thể thay đổi thành một hoàng tử, hay một
phù thủy có thể có thể là mẹ kế và con người có thể thành chim chóc, muông
thú. Những hình thức thay đổi không chỉ dừng lại ở ngoại hình, mà cũng được
nhìn thấy trong sự rối loạn nhân cách, và đôi khi sự rối loạn nhân cách chi
phối chính sự thay đổi về ngoại hình. Con người khi ấy cũng có thể nhanh
chóng thay đổi hình dạng như tâm trạng bên trong từ sợ hãi, giằng co, hay để
103
yêu thương.
Cái ấy chứa những khuynh hướng bản năng; Cái tôi là vùng hiện thực nằm
giữa các ham muốn của Cái ấy và Cái siêu tôi; Cái siêu tôi đóng vai trò phê
bình và luân lý, và có thể ngăn cấm Cái ấy thực hiện những điều hằng mong
muốn.
Rối loạn tâm lý nhân vật thường rơi cùng một chiều hướng với mức độ
nghiêm trọng nhất, tăng dần theo hướng khuyếch đại. Những chấn thương
tâm lý của tuổi thơ, có thể bị suy giảm độ phát triển và sau đó bảo vệ chống
lại nỗi đau tinh thần bằng cách trở thành động lực chia tách, tạo ra biên giới
ngăn cách ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Một mô hình lạm dụng điển hình
có thể được tìm thấy trong câu chuyện của Hansel và Grethel: Các bậc phụ
huynh tập trung vào trẻ em và đổ lỗi cho chúng vì các điều kiện nghèo mà gia
đình sinh sống. Lựa chọn cách loại trừ gánh nặng của trẻ em bằng cách từ bỏ
chúng vào rừng, họ hy vọng có thể giải quyết những gánh nặng áp đảo của
cuộc sống và cứu rỗi lấy gia đình mình. Mỗi cá nhân tự tìm cách giải phóng
đau đớn bên trong của tập thể, cũng như tìm cách tự giải phóng mình bằng
cách gia tăng nỗi đau tinh thần của chính họ.
Trong truyện cổ Grimm, những so sánh với mô hình gia đình nổi lên và dễ
dàng để chúng ta quan sát, như cái chết và sự tái sinh, mẹ tốt và mẹ ác, hôn
nhân, và rời khỏi nhà. Các nguyên mẫu và các hệ thống được đặc trưng bởi
tính hai mặt, có sự tác động giữa các mặt đối lập, đặc điểm của hệ thống phân
cấp, vì vậy những người bị lạm dụng ngay từ đầu, trong các câu chuyện cổ
tích và trong các gia đình bị xáo trộn, cuối cùng có thể thay đổi vị trí với
những kẻ áp bức để sắp xếp lại các cân bằng ban đầu của quyền lực nơi các
xáo trộn đã được tạo ra. Ở đây, văn học có một vai trò đáng chú ý trong việc
104
tác động lên căn tính, các căn tính được xây dựng trong một quá trình liên tục
phản ảnh với người khác. Để biết chúng ta là ai, chúng ta cần phải học “người
khác” là ai, và ngược lại. Các đối tượng đã bị ngược đãi, để rồi trải qua cả
một thời kì khó khăn, đạt tới một địa vị mới, trong bối cảnh mới và quyền lực
mới, có khả năng hình thành căn tính của chính đối tượng đã bạo hành mình
khi xưa.
Cả hai nhà phân tâm học Carl Jung và nhân chủng học Gregory Bateson đã
quan tâm đến các mô hình kết nối các sự kiện sinh học và tâm lý. Bateson,
nghe có vẻ như Jung, nói, "Tôi nhặt lên một mơ hồ, cảm giác thần bí mà
chúng ta phải tìm kiếm các loại cùng một quy trình trong tất cả các lĩnh vực
của hiện tượng tự nhiên, ta phải xem xét cho cùng một loại pháp luật tại nơi
làm việc trong cơ cấu một tinh thể như trong cấu trúc của xã hội". Có thể
Bateson và Jung đã quan sát và tập trung vào các quy trình tương tự và dán
nhãn chúng khác nhau không? Có thể nguyên mẫu của Jung được hệ thống
của Bateson?
Có thể phát triển các lý thuyết Masterson của rối loạn nhân cách ranh giới và
bản thân cũng giải thích sự lặp lại tốt nhất cho những đứa trẻ? Những câu
chuyện trong đó các anh chị em lớn tuổi lạm dụng con gái út trong gia đình
như là một phương tiện để bảo vệ chống lại chính họ cảm thấy bất cập?
Nhân vật nữ chính có thể bị ảnh hưởng bởi tai họa, nhưng đều có thể tìm thấy
sự cứu chuộc nếu có lòng can đảm để rời khỏi mối quan hệ không hài hòa mà
tìm thêm những nguồn sống mới, hoặc bắt đầu một không gian sống nhân ái
hơn. Các nhân vật anh hùng được định hình như một mẫu người, thường được
105
mong đợi, thường sử dụng các nguồn nội lực để giải quyết vấn đề.
Sự thay đổi đáng kể nhất thường được thấy qua mô thức: Cuộc hành trình của
các anh hùng hay các nhân vật nữ chính thường mở ra cơ hội, tạo ra các cuộc
gặp gỡ để thông qua đó, những người khác trở thành trung gian cho trải
nghiệm đầu đời có ý nghĩa quyết định với cuộc đời của họ. Nếu khi đó, nhân
vật chính có thể biến đổi năng lượng bên trong vết thương sâu sắc, kết hợp
cùng sự đồng cảm với người khác, họ sẽ tạo ra những tuyệt tác bất ngờ để
đương đầu với số phận. Kết quả đó sau này sẽ khiến cho anh ta/ cô ấy đóng
góp cho một thế giới tốt hơn, trong một vai trò chủ động hơn và trong các
nhóm quan hệ xã hội rộng lớn hơn.
Nhiều câu chuyện cổ được liên hệ mật thiết với tự nhiên, với khả năng chữa
lành của mẹ thiên nhiên, đối với tất cả các chứng bệnh, thể xác lẫn tinh thần.
Các nhân vật dành nhiều thời giờ để nhuốm mình vào thiên nhiên, cô đơn
trong thiên nhiên, lạc lõng trong thiên nhiên chính là để chữa lãnh, bổ khuyết,
làm mới và làm mạnh chính bản thân mình. Thiên nhiên có một tầm quan
trọng sống còn trong cả quá trình chuyển đổi đó.
Các diễn biến quan trọng của phần lớn truyện cổ thường xảy ra trong một khu
rừng tối tăm. Cuộc sống tháng đoạn năm trường của mười hai chàng hoàng tử
trong Mười hai anh em diễn ra trong một khu rừng. Hai anh em Hansel và
Grethel cũng bị bố mẹ nhiều lần đưa vào rừng, tìm đường trở về nhà, để rồi
lại bị đưa vào rừng, lạc đường và trở về nhà sau khi đương đầu với mụ phù
thuỷ trong ngôi nhà bánh kẹo. Khi Bạch Tuyết bị bà mẹ kế ám hại, bác thợ
săn tốt bụng đã thả nàng đi, khu rừng không chỉ là nơi ẩn trú cho nàng, bao
bọc nàng, mà còn đã dành một trái tim nai để một lần đổi lấy mạng sống của
nàng. Cô bé quàng khăn đỏ vô tư nghe theo lời sói, ở trong rừng; cô bé khăn
106
đỏ mải mê hái hoa và lạc đường, cũng ở trong rừng; và vị cứu tinh của hai bà
cháu - bác thợ săn, cũng xuất hiện ở trong khu rừng. Sự huyền bí của những
cánh rừng đã biến chúng trở thành một biểu tượng vô cùng đặc trưng và xuất
sắc. Sự gian khó xuất hiện nơi những cánh rừng, sự giải thoát cũng xuất hiện
nơi những cánh rừng; khi các nhân vật lạc lối và phải xa rời cộng đồng, khi họ
phải thực thi một nhiệm vụ hay chuẩn bị đương đầu với một âm mưu, họ
đến/bị đẩy đến những cánh rừng. Những cánh rừng đồng thời gầm gừ đe doạ,
đồng thời vỗ về an ủi; vừa tối tăm nanh vuốt, nhưng cũng vừa bao bọc chở
che.
Xét trường hợp Công chúa ngủ trong rừng, thì cả triều đình chìm vào giấc
ngủ, và cả lâu đài biến thành một khu rừng. Nàng công chúa tội nghiệp vừa
mới sinh ra đã bị một lời nguyền, để khi nàng tròn mười lăm, thì cả lâu đài
tráng lệ trở nên một khu rừng bí hiểm. Ẩn ức trong tình huống này không chỉ
đến với một mình nàng công chúa, mà còn đến với cả triều đình, và trở thành
một sự huyền bí, huyễn hoặc và đe doạ cả biết bao vùng đất lân cận. Nàng
công chúa không có tội, nhưng cả triều đình đều phải ngủ vùi cả trăm năm.
Cũng giống như cách mà Kitô giáo lý giải về “Tội Tổ tông truyền”, mọi tội
lỗi sẽ được rửa sạch vào ngày sau, nếu như con người có niềm tin, và phần
thưởng lớn lao, hạnh phúc lớn lao sẽ dành cho kẻ nào có niềm tin kiên định.
3.3 Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm
Những năm 1960, đánh dấu sự khởi đầu của phong trào giải phóng phụ nữ ở
các nước phương Tây, tạo nên một làn sóng của nữ quyền. Mục đích chính
của những làn sóng này là nâng cao nhận thức đúng đắn của phụ nữ, mang lại
sự giải thoát cho phụ nữ và khuyến khích những hành động tập thể. Phụ nữ tự
107
hỏi tại sao họ phải hạ mình chấp nhận số phận, và tại sao họ nên sống trong
những quy tắc bị quy định bởi nam giới. Họ không thể là đối tượng về sự nữ
tính vĩnh cửu, càng không phải là đối tượng phục tùng.
Thông qua các câu chuyện cổ tích mà xã hội gia trưởng áp đặt cách luật lệ và
và cách cư xử với nhân vật. Những nhân vật nữ chính, như chúng tôi đã phân
tích ở trên, phải trải qua một loạt các thử thách, sự bất hạnh và đau khổ cho
đến khi được giải cứu, kết thúc sự đau buồn. Trong nhiều câu chuyện của
Grimm, chúng ta thấy sự bạo tàn và nhân vật nữ chính thường là người chịu
đựng. Nếu các nhân vật nữ được xuất hiện trong tất cả các hoạt động từ phần
đầu của câu chuyện, nhân vật nữ sẽ cần đi qua tất cả các trải nghiệm khắc
nghiệt trước khi kết hôn với hoàng tử. Điều đáng để lưu tâm là, những nhân
vật nữ khác hầu hết là người chủ động, như Grethel là người cứu Hansel từ
một mụ phù thủy hoặc Cô bé choàng khăn đỏ - người vượt qua thử thách mạo
hiểm, nhưng lại không chuyển sang trạng thái kết hôn – biểu tượng của sự
trưởng thành. Các nhân vật nữ này vẫn chưa được đặt vào đúng vai trò người
trưởng thành của họ.
Quay trở lại vấn đề mà các câu chuyện cổ trong bộ Grimm đưa ra về phụ nữ,
chúng tôi có thể nói rằng những nhân vật nữ vẫn có khả năng thoát khỏi hệ
thống biểu tượng của chế độ gia trưởng, bởi vì họ không phải đối mặt với việc
không được tránh khỏi sự nữ tính. Tiềm thức phụ nữ trong các câu chuyện
của Grimm có thể chuyển thể vào trong cuộc sống thực chuẩn mực văn hóa
trong đó đề cao sự thụ động, phụ thuộc và tự nguyện hi sinh như là phẩm chất
của phái nữ. Những người đàn ông tốt có khả năng giảm sức ảnh hưởng của
phụ nữ và làm giảm khả năng gây hại của họ đối với con cái. Những người
phụ nữ đẹp phải được sở hữu còn những người phụ nữ xấu thì phải bị trừng trị
108
và phải bị giết. Phụ nữ bị vô hiệu hóa mọi mặt, sẵn sàng trở thành một phần
của thế giới đàn ông. Họ không được mong muốn có những cá tính cá nhân,
và đó là lí do tại sao phụ nữ luôn có những mong muốn khi họ đang ngủ
(Nàng Bạch Tuyết, Công chúa ngủ trong rừng). Họ hoàn toàn vô hại khi họ
đã chết, hay khi họ ngủ. Khi đó, đàn ông hoàn toàn không phải đối phó bất cứ
điều gì với phụ nữ.
Vì vậy, người đàn ông khiến phụ nữ hành xử theo cách mà họ thích, và vô
hiệu hóa sự nữ tính của mình, họ sẽ không xung đột với các nữ tính trong
những người đàn ông mà Jung gọi là “Anima” (nữ tính bên trong một người
đàn ông).
Những phụ nữ trong các câu chuyện của Grimm được hình thành bởi những
người đàn ông như vậy, họ không đại diện cho ý tưởng về một người phụ nữ
nữ tính nhưng vẫn giữ các yếu tố nữ tính đó. Điều quan trọng nhất đối với các
anima không phải là có được phần thưởng bằng sự kết hôn, mà với họ, điều
quan trọng nhất là nhận ra được sự nữ tính của chính mình. Với hình ảnh này,
phụ nữ thực sự bị đánh giá thấp.
Ngoài anima còn có “animus” (sự nam tính bên trong người phụ nữ). Các
animus khiến chúng ta nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ phức tạp. Các
hoạt động, các hành vi nam tính bên trong của người phụ nữ có liên quan đến
trải nghiệm của người phụ nữ với cha mình, và kinh nghiệm này chúng ta
hoàn toàn có thể xác định được thông qua cách cư xử, thái độ của họ với
những người đàn ông khác trong cuộc sống.
Rõ ràng là khi nhân vật nữ hoàng/ người vợ qua đời, trong bất kì trường hợp
109
nào cũng sẽ có một sự nữ tính –người phụ nữ khác liên kết với nhà vua. Nếu
nhân vật nữ hoàng/ người vợ vắng mặt, điều đó có nghĩa là không còn bất kì
vị thần tình yêu (Eros) nào trong hệ thống [7]. Đó là lí do tại sao toàn bộ trọng
tâm của câu chuyện tập trung vào cô con gái. Những đổi mới của vương quốc,
sự cân bằng được cung cấp bởi sự nữ tính đều đi thông qua hình ảnh của các
công chúa.
Gánh nặng đặt trên vai các công chúa là bây giờ cô ấy chịu trách nhiệm với
các vị vua tương lai, với chồng của cô. Nhưng các vị vua/các ông bố có thể
chống lại sự thay đổi, sự đổi mới bằng nhiều cách khác nhau. Điều này có thể
giải thích lí do tại sao cha của Cô bé Lọ Lem hoàn toàn không quan tâm đến
nhu cầu, mong muốn và nguyện vọng của cô bé, bỏ mặc hoàn toàn cô bé
trong những khó khăn, sự hành hạ của mẹ kế hoặc như Bạch Tuyết bị giam
cầm trong một quan tài bằng kính, hoàn toàn cô lập với thế giới, với các cảm
quan xung quanh. Như Marie Louise von Franz nhận định, “...vì đó là con gái,
không phải là người cầu hôn, mà là người rơi vào bẫy. Con trai-trong-pháp
luật đại diện cho tương lai là người được mệnh để trở thành vua...” Ở đây, đàn
ông chỉ là một tác nhân xúc tác. Khi các yếu tố nam tính là rất mơ hồ, và các
công chúa, các cô con gái được mang đặc trưng đầy đủ hơn - Số phận của cô
là trung tâm - chúng ta biết rằng điều này có lẽ là một ý định của câu chuyện.
Để bênh vực phụ nữ, các nhà nữ quyền đã bỏ qua hình ảnh về những người
phụ nữ độc ác xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích. Đối ngược với sự đáng
yêu, dịu dàng, xinh đẹp của những nạn nhân không bao giờ phàn nàn trong
truyện Grimm là những hình ảnh phù thủy, mẹ kế, hoàng hậu độc ác. Nữ
hoàng sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nhìn thấy Bạch Tuyết chết. Bà mẹ kế
độc ác trong cô bé Lọ Lem luôn tìm cách để nhiệm vụ của cô không được
hoàn thành và khiến cho cô đau khổ. Những nhân vật này được miêu tả rất
110
độc ác, xấu xa, thậm chí làm hỏng chuyện. Và ở phần cuối, họ lại chết một
cách dữ dội. Điều này nhấn mạnh sự tiêu cực của phụ nữ. Đó là vấn đề giữa
hai hình ảnh người mẹ tốt và người mẹ xấu, vấn đề giữa con gái và mẹ. Cách
duy nhất để hòa giải với mẹ là tách thành hai thực thể: một bên là hài lòng với
hình ảnh “mẹ tốt” và bực bội với hình ảnh “mẹ xấu”.
Khi đứa trẻ lớn lên, cần có sự kết nối giữa âm thanh, kết hợp với người mẹ -
người chăm sóc chính. Mẹ là nguồn nuôi dưỡng chính, đứa trẻ chỉ tự nhiên
cho rằng, sẽ trông mong vào mẹ, bám vào mẹ để được đáp ứng tất cả các nhu
cầu. Đối với trẻ sơ sinh, mẹ là tất cả sự cho và nhận niềm yêu thương, là
nguồn gốc của mọi điều tốt lành trong thế giới. Khi lớn lên, theo thời gian, trẻ
có thể nhận ra không phải lúc nào mẹ cũng có thể luôn luôn đáp ứng tất cả các
nhu cầu của trẻ. Ban đầu, những đứa trẻ sơ sinh sẽ không thể đưa ra giải thích
hoặc ý nghĩa của thực trạng này. Chính vì vậy, không thể ngăn chặn trẻ bám
vào hình ảnh một người mẹ tốt. Theo thời gian, thực tế cuộc sống buộc những
đứa trẻ phải đối mặt với hiện thực đáng lo ngại rằng những người chịu trách
nhiệm cho cuộc sống của chúng có thể phù hợp hoặc không phù hợp, có cả
hài lòng và bực bội, có cả tốt và xấu. Nhưng vấn đề là những đứa trẻ bị cản
trở bởi các giới hạn về khái niệm, nguồn lực. Và cách thức tốt nhất là “tách”
mẹ thành hai thực thể khác nhau.
Đứa trẻ khi đó có thể có được các câu trả lời cho các hình ảnh như thể đó là
một thực thể riêng biệt và khác biệt để đưa vào sự trật tự, nếu không sẽ rất
khó hình dung về thế giới. Điều này cho phép những đứa trẻ được đáp ứng
bởi “người mẹ tốt” và có thời điểm bị khủng hoảng bởi “người mẹ kinh
khủng”. Kết quả là người mẹ tốt hướng đến những trải nghiệm ít ỏi bên trong,
một phần nữa hướng đến “cái tôi tốt” trong khi người mẹ xấu mang đến
111
những kinh nghiệm về sự tiêu cực hay “cái tôi xấu”. Về cơ bản, trong truyện
cổ Grimm có hình ảnh mẹ đỡ đầu, phụ thủy và các nhân vật nữ khác có chức
năng phân tách khái niệm trong trí tưởng tượng của trẻ.
Theo tâm lí học, có thể giải thích được rằng một đứa trẻ nghĩ rằng mẹ thờ ơ
với nhu cầu của mình, tức giận, trừng phạt, đe dọa khiến trẻ thậm chí muốn
thoạt khỏi mẹ trong một thời gian. Những phụ nữ nhẫn tâm khi này phải là
một “người xâm nhập” khác, người đi ra khỏi những nơi tốt, người biến
những nơi mà đứa trẻ sống thành không còn nhìn thấy cái tốt. Vậy thì đó phải
là mẹ kế, là phù thủy, hoặc sói,… những người sẽ được thay thế khi hình ảnh
của người mẹ tốt sau đó lại xuất hiện.
Một điều khác nữa, có thể nhận thấy là vấn đề đi xa khỏi ngôi nhà của mình
của các nhân vật nữ chính. Đó là một khía cạnh khác có vấn đề trong truyện
cổ Grimm mà có thể suy nghĩ nhiều mặt. Các nhân vật nữ chính trong các câu
chuyện cổ tích bước khỏi ngôi nhà của mình và đi vào rừng hoang, bị giam
trong tòa tháp như Cô bé Lọ Lem, Rapunzel, Bạch Tuyết để đi vào các khu
rừng hoang, bị đối xử tàn tệ. Có thể chúng ta sẽ đổ trách nhiệm dồn về cho mẹ
kế, cho mụ phù thủy độc ác nhưng cũng có thể nhìn thấy một ý nghĩa ẩn trong
việc phá vỡ nguyên tắc và đi ra khỏi nhà. Một mục đích được ẩn sâu trong đó
với nhân vật.
Tiểu kết
Tất cả các nhân vật chính trong bộ truyện cổ Grimm đều đi ra khỏi nhà hoặc
phải đối mặt với những thử nghiệm theo cách của riêng mình để trưởng thành,
để nhận ra được giới tính của mình. Câu chuyện về các cô gái không phải là
112
một quỹ đạo đơn giản từ khi phá bỏ sự trong trắng của con gái để kết hôn, lao
vào một thời kì bóng tối mà đó là họ cần phải để cho cảm xúc bắt kịp với sự
thay đổi của cơ thể.
Công chúa chìm trong giấc ngủ sâu hay sự chờ đợi của cô bé Lọ Lem, Bạch
Tuyết chìm vào giấc ngủ trước khi sẵn sàng mở mắt để thấy một hoàng tử.
Giai đoạn này của bóng tối là giai đoạn mà nhân vật nữ chính phải trải qua, vì
đây là cách duy nhất để bắt kịp với sự nữ tính của cô. Các nhân vật chính nên
bị đày ải qua một người mẹ kế độc ác hay một mụ phù thủy vì điều này không
thể thực hiện bởi người mẹ tốt. Trong hầu hết các chuyện thuộc đối tượng
khảo sát của chúng tôi, các cô gái không bao giờ nghi ngờ sự thật, đó là điều
tạo hóa tạo nên, dưới hình dạng của mẹ kế độc ác, của phù thủy, tác nhân xấu
được tăng lên, đẩy cô gái ra khỏi cảnh độc thân và chuyển tiếp vào giai đoạn
tình dục – đó là điều mà những người mẹ tốt không làm. Những người mẹ tốt
luôn con mình là một đứa trẻ, mãi mãi và không bao giờ có thể làm được điều
ấy.
Chúng ta có thể thấy các bà mẹ kế độc ác, các phù thủy, các nữ hoàng xuất
hiện mang lại nhiều điều tàn độc, bạo tàn nhưng chúng ta không thể phủ nhận
vai trò quan trọng của những nhân vật này trong các câu chuyện cổ. Đó là
những người cung cấp các xung đột Oedipal trong truyện cổ tích. Điều khiến
hạnh phúc của các cô con gái với Cha bị gián đoạn mang một ý nghĩa lớn
hơn, tức là có tồn tại một ý đồ xấu xa (tức là mẹ). Vào cuối của các câu
chuyện, phù thủy, những người mẹ kế độc ác phải bị giết chết hoặc bị trừng
phạt dữ dội vì nhân vật chính muốn diệt trừ người mẹ xấu trong tim mình.
Các trở ngại khiến cô con gái không có kết nối với người cha bị phá hủy vĩnh
viễn. Niềm tin về người mẹ tốt theo đó cũng được củng cố, sẽ không bao giờ
113
cảm thấy ghen tị với con gái mình hoặc ngăn cha/hoàng tử chung sống hạnh
phúc cùng nhau. Vì vậy, đối với các cô gái, niềm tin vào lòng tốt của mẹ và
lòng trung thành với hình ảnh của người mẹ tốt sẽ giúp làm giảm xu hướng
cảm giác tội lỗi về những gì có thể xảy ra với mẹ theo cách suy nghĩ của
114
mình.
KẾT LUẬN
Dưới ánh sáng của phân tâm học, luận văn hướng đến mục đích cho thấy các
câu chuyện cổ tích nói chung và bộ truyện cổ Grimm nói riêng có sự xuất
hiện của vô thức tập thể với thiên nhiên trong nguyên mẫu. Mặc dù các câu
chuyện cổ tích bị thay đổi theo thời gian nhưng vẫn tiếp tục có những ảnh
hưởng mạnh mẽ trong tâm trí của mỗi chúng ta và bắt nguồn từ trí tưởng
tượng của dân gian. Điều này chứng minh rằng truyện cổ tích phục vụ các
mối quan tâm cơ bản của con người. Mặc dù có sự mơ hồ trong những biểu
tượng trong truyện cổ tích, nhưng ngôn ngữ của các biểu tượng vẫn dẫn dắt
chúng ta đi trên con đường tâm lí của con người.
1. Bằng cách nghiên cứu các quá trình cấu trúc trong phạm vi nghiên cứu,
chúng tôi đã tìm ra những nội dung bạo lực cao hiện hữu trong bộ truyện cổ
Grimm. Dựa vào mức độ tham gia. Những thành phần tham gia hành vi bạo
lực một cách chủ động thường được xác định là con người, động vật và các
sinh vật ma thuật, hoặc thụ động (nạn nhân hay kẻ đồng lõa) thường được xác
định thuộc nhóm vợ chồng. Từ đó, kết luận rằng những người đang nắm giữ
quyền lực là một trong những đối tượng gây nên hành vi bạo lực, bất kể điều
kiện. Tất cả các hành vi bạo lực của con người đều được thực hiện bởi những
người nắm giữ một địa vị xã hội cao hơn về mặt cấu trúc chính trị (vua và
hoàng hậu) hoặc cấu trúc gia đình (cha, mẹ, anh chị em đối với con ruột yếu
thế hơn). Mối quan hệ giữa bạo lực và quyền lực là phổ biến trong bộ truyện
cổ, cho phép những người có vị trí xã hội cao hơn gây những hành vi bạo lực
với những người kém may mắn hơn.
2.Từ những kinh nghiệm thơ ấu của chính chúng ta có thể thấy rằng nhưng
câu chuyện về bạo lực thực sự tạo nên cảm giác lo sợ cho chúng ta, mặc dù
115
chúng ta có thể không hiểu lí do tại sao chúng ta lại được nghe những câu
chuyện như vậy và bằng cách thức nào chúng ta có thể vượt qua được. Thực
chất, có thể những câu chuyện dân gian không đáng sợ mà bởi những kì thị,
những quan điểm xung quanh nó. Chúng ta vốn dĩ được sinh ra trong sự sợ
hãi. Chúng ta được dạy về sự sợ hãi trước tiên bởi chính mẹ chúng ta khi họ
đối diện với những nỗi sợ, lo lắng liên tục trong tâm trí từ khi chúng ta còn
trong bụng. Do đó, người ta có thể thừa nhận những câu chuyện cổ tích tồn tại
những nỗi sợ hãi và bạo lực nhưng không nên sợ việc trẻ lớn lên và chia sẻ sự
hồi hộp, sợ hãi với người lớn, bởi đó là một phần của hoạt động học.
Hầu hết các câu chuyện của anh em nhà Grimm đều được xây dựng với một
phần ban đầu, sau đó di chuyển, thay đổi các thông tin và kết thúc bằng “họ
sống hạnh phúc mãi mãi về sau”. Điều này chứng tỏ rằng bộ truyện cổ Grimm
bất chấp những lời chỉ trích từ mọi góc độ vẫn luôn cân bằng và lành mạnh.
Nếu chúng ta có thể dạy cho con cái chúng ta làm thế nào để đối diện với nỗi
sợ hãi và bạo lực một cách lành mạnh bằng cách sử dụng các ví dụ tốt trong
truyện cổ, thế giới của chúng ta (hi vọng) sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn.
3.Các câu chuyện cổ trong bộ của Grimm có những nguyên tắc trong xã hội
và đồng thời có tính chất phổ biến. Từ tiếng cười, đến cái kết có hậu trong
từng câu chuyện, tính phổ quát được chia sẻ trong nhiều trang sách đều hướng
đến quần chúng, đến số đông như quan niệm của Jung về vô thức tập thể, bắt
nguồn từ kinh nghiệm tập thể. Từ các phân tích trong những câu chuyện của
Grimm, với các hình ảnh căn tính bạo tàn, với những nguyên tắc giáo dục các
cô gái có thể trở thành hướng dẫn giảng dạy cho những đứa trẻ khi bước vào
cuộc sống với thế giới quan đa dạng: bạn sẽ bị trừng phạt khi làm sai, khen
thưởng khi cư xử tốt, các nhân vật trong truyện cổ tích đồng thời cũng thử
116
thách các trật tự xã hội bằng cách xây dựng các yếu tố nguy hiểm cho hệ
thống và tiết lộ những lo âu trong tâm lí của con người. Các cô gái hay chàng
trai đóng vai nhân vật chính được kì vọng sự trưởng thành thông qua những
thử thách, trải nghiệm.
4.Nhân dân phải trừng phạt cái ác, sự ham muốn của đàn ông để hạn chế
những người phụ nữ sẽ gặp trong những trang truyện. Hầu hết mọi người cho
rằng trẻ em là đối tượng phù hợp cho những câu chuyện cổ tích giống như
việc cho rằng trẻ em có sự kết nối với chuyện cổ tích. Giả định này là sai,
người lớn có thể hiểu các câu chuyện cổ tích, có nhiều chất liệu trong đó
không chỉ dành cho trẻ em. Thương lượng, an ủi và tưởng tượng là tất cả
những gì cả người lớn và trẻ em đều có thể qua. Những câu chuyện cổ tích
dạy cho người lớn và trẻ em các bài học khác nhau, mà người lớn nào cũng
117
cần phải học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Trần Thị An (2008), Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và
motif - Những khả thủ và bất cập, Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 7,
tr86, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
3. Lê Huy Bắc (2007), Cổ tích hiện đại: Cô bé bán diêm của Andersen,
Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 7, tr 133.
4. Lê Huy Bắc (2013), Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam, Nxb. Tri
Thức, Hà Nội.
5. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb. Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Bataille, Georges. (2012), Văn học và cái ác, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
7. Benac, Henri. (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
8. Chevalier, Jean. and Gheerbrant, Alain. (2002), Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
9. Deleuze, Gilles. and Guattari, Felix. (2013), Kafka vì một nền văn học
thiểu số, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
10. Grimm, J. and Grimm, W. (2014), Truyện cổ Grimm (trọn bộ 4 cuốn),
Nxb Nhi Đồng, Hà Nội.
11. Đinh Hồng Hải (2007), Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân
học biểu tượng ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc
học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng: một số hướng tiếp cận
118
lí thuyết, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
13. Đinh Hồng Hải (2010a), Nghiên cứu văn hoá từ góc nhìn nhân học biểu
tượng, Tạp chí Dân tộc học, số 5, năm 2011, Hà Nội.
14. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
15. Đào Duy Hiệp (2009), Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lí thuyết hiện
đại, Hội thảo Tự sự học dân gian, ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN, Hà Nội.
16. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (1998) - Võ Quang Nhơn - Chu Xuân
Diên, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
17. Lưu Hồng Khanh (2006), Tâm lý học chuyên sâu ý thức và những tầng
sâu vô thức, Nxb. Trẻ, Tp. HCM.
18. Phương Lựu (2012), Lí thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb. ĐH Sư
phạm, Hà Nội.
19. Lyotard, J.F (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
20. Petrescu, Liviu. (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
21. S.Freud – C.G.Jung. (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb.
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
22. Sen, Amartya. (2014), Căn tính và bạo lực: huyễn tưởng về số mệnh,
NXB Tri thức, Hà Nội.
23. Thế giới, Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học, Nxb. Thế giới, Tp.
HCM.
24. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn (phê bình phân tâm học),
Nxb. Tri thức, Hà Nội.
25. Wilson, E. O. (2014), Về bản tính người, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài
26. Bagshaw, D. M.(2003), Language, Power and Mediation. Australasian
119
Dispute Resolution Journal 14 (2), (pg 130–141), Australia.
27. Bettelheim, Bruno (1989) The Uses of Enchantment: The Meaning and
Importance of Fairy Tales, Random House, 1975, Newyork.
28. Guggenbühl, Allan. (1996), The Incredible Fascination of Violence:
Dealing with aggression and brutality among children, trans. Julia
Hillman, Connecticut: Spring Publications, Woodstock.
29. Haase, D. (1996), The reception of Grimms' fairy tales: Responses,
reactions, revisions. (pg 35-50), Wayne State University Press, Wayne.
30. Horno, P. (2005), Love, Power and Violence. A Comparative Analysis
of Physical and Humiliating Punishment Patterns, Save the children,
Madrid.
31. Tatar, Maria. (2003), The Hard Facts of the Grimm’s Fairy Tales (pg
121-127), Princeton University Press, Princeton.
32. Tolkien, John Ronald Reul (1963), The Monsters and the Critics. An
Anthology of Beowulf Criticism. Ed. Lewis E. Nicholson. London.
33. Van Dijk, T.(2001a), Critical Discourse Analysis. In Schiffrin,
Deborah, Tannen, Deborah and Hamilton, Heidi E. (eds.) the
Handbook of DiscourseAnalysis (pg 352-371), Blackwell, Oxford.
34. Zipes, Jack David. (2002), Breaking the Magic Spell: Radical Theories
of Folk and Fairy Tales, The University Press of Kentucky, Kentucky.
35. Zipes, Jack David. (2012), Fairy tales and the art of subversion (pg57).
Routledge.
36. Zipes, Jack David. (2013), Happily ever after: Fairy tales, children,
and the culture industry (pg39-61) Routledge.
Tài liệu mạng
37. Kim Đồng, Ấn bản "Truyện cổ Grimm" đầy đủ nhất được NXB Kim
120
Đồng phát hành, nxbkimdong.com.vn
diem/105385-ra-m%E1%BA%AFt-phi%C3%AAn-b%E1%BA%A3n- vi%E1%BB%87t-%C4%91%E1%BA%A7y-%C4%91%E1%BB%A7- 201-truy%E1%BB%87n-c%E1%BB%95-grimm.html> (22/12/2015). 38. Lương Thị Khuyên (2011), Tìm hiểu motif thách đố trong truyện cổ tích, Tapchivan.com hieu-motif-thach-do-trong-truyen-co-tich-108.html> (28/10/2011). 39. Trần Lê Hoa Tranh (2012), Từ nàng tiên cá của Han Christain Andersen đến nàng tiên cá của Walt Disney, Tapchivan.com cua-hans-christian-andersen-den-nang-tien-ca-cua-walt-disney- 265.html> (5/3/2012). 40. Grimm's Fairy Tales, Grimmstories.com (2015). 41. Grimms Märchen, Grimmstories.com (2015). 42. Grimm, J. and Grimm, W.(1857): Household Tales with the Authors Notes 121 (Accessed 15 November, 2007).